Mình đọc quyển "Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam", thấy có nhắc đến câu: "Phan, Lâm mãi quốc, Triều đình khi dân" tức là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bị xem là phản quốc và "Triều đình" bị xem là "khinh dân" Nhưng khi tra về cụ Phan Thanh Giảng trên Google, mình lại thấy có 2 biến thể khác của câu nói trên, đó là "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân”. Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link "Phan Lâm mãi quốc, triều đình thí dân". Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Không biết 3 chữ "khi", "khí" và "thí" có giống nhau về nghĩa không? Mong các anh chị trên diễn đàn giải đáp hộ với.
Khi 欺: lừa dối, xem thường, ví dụ: khi quân phạm thượng. Khí 棄: bỏ đi, quăng đi. Thí 施: đem cho, bỏ. Như từ bố thí.
Theo tôi, người dân các miền thường có cách nói trại chữ. Như miền Tây nói trại các từ như: Cầu Bông (vì Hoa là tên mẹ vua Tự Đức), Sông Hàm Luông (gốc là Hàm Long, sợ kỵ húy vua = long = rồng). Hoặc ai về miền Tây sẽ nghe từ "Thền" = "thường" = bắt đền.