1B2W Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi.

Thảo luận trong 'Hai tuần một tác phẩm' bắt đầu bởi tducchau, 27/10/15.

  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    (NGUYỄN TRÃI)​


    Bình Ngô đại cáo là áng "thiên cổ hùng văn" bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta, là bản anh hùng ca bằng thể văn biền ngẫu, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, kể tội quân xâm lược, ngợi ca anh hùng, hào kiệt và võ công trừ bạo của dân tộc ta. Bài Đại cáo còn là khúc trữ tình thiết tha trước nỗi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng.

    Cáo là một thể văn cổ có tự đời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là "cáo mệnh","cáo phong", "cáo giới"... Đại cáo vốn là tên một thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương, phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể loại văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. Đặt tên bài văn này là Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi vừa muốn dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, thảo phạt, hành động của người có chính nghĩa, lập lại trật tự. Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Có người hiểu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô quốc công, do vậy quân nhà Minh được gọi là quân Ngô. Nhưng không đúng. Ngô là tên gọi truyền thống của dân ta đối với quân xâm lược phương Bắc từ thời Tam quốc: quân Đông Ngô, giặc Ngô. Nay Nguyễn Trãi dùng tên gọi đó để chỉ quân Minh.

    Là một thể văn thư có tính quan phương, không nhất thiết bài cáo nào cũng có giá trị văn học. Nhưng vì tầm tư tưởng lớn lao, sự kiện trọng đại và lời văn hùng hồn, khảng khái, bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi làm thay lời Lê Lợi đã trở thành một thiên anh hùng ca bằng văn tứ lục.

    Mở đầu bài cáo, tác giả tuyên bố ngay lập trường chính nghĩa của mình:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.


    Hai câu này có nghĩa là: việc nhân nghĩa cốt làm cho nhân dân được yên, mà muốn cho dân yên thì trước hết phải lo tiêu diệt quân tàn bạo. Tư tưởng đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Cho nên, tiếp theo, bài Cáo nhắc lại truyền thống "yên dân trừ bạo" của các triều đại: "Từ Triệu [1], Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập" đời nào cũng có hào kiệt đứng lên trừ bạo để yên dân. Kết quả là Lưu Cung đời Hán thất bại, Triệu Tiết đời Tống tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã đời Nguyên kẻ bị giết, người bị bắt [2]. Đáng chú ý ở đoạn này là ngay từ đầu Nguyễn Trãi khẳng định đó là truyền thống văn hóa Đại Việt. "Đại Việt" là quốc hiệu nước ta có từ thời Lý, thời Trần. Đời nhà Đinh đặt quốc hiệu là "Đại Cồ Việt" cũng theo tinh thần đó. Đồng thời ông cũng khẳng định mỗi đằng "làm đế một phương", đối chọi với Bắc đế, nối tiếp truyền thống của Lý Nam Đế, Lý Thường Kiệt đời trước. Như vậy, bài Đại cáo mở đầu không chỉ với tư tưởng nhân nghĩa, mà còn với tư thế của một quốc gia có chủ quyền. Phần mở đầu nhằm khẳng định sự nghiệp Lê Lợi là sự kế tục vẻ vang của các truyền thống đó.

    Phần hai của bài nói đến tội ác của giặctình cảnh khốn khổ của nhân dân, đất nước dưới ách nô dịch của giặc Minh. Cuộc đánh dẹp nào cũng phải có lý do, mà lý do chính đáng nhất là tội ác của quân thù và nỗi khốn khổ của nhân dân. Tác giả đã dùng mười hai cặp đối để tố cáo kẻ thù và phơi bày nỗi khổ nhục của nhân dân. Đáng chú ý nhất là tính chất hủy diệt tàn bạo tột cùng của hành động quân xâm lược:

    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.


    "Dân đen", "con đỏ" là hình ảnh ước lệ chỉ người dân trăm họ, vô tội. Quân giặc đã xem dân ta như dê, như cừu, mặc sức tàn hại. Chúng dối trời, lừa dân, gây binh, tích ác trong hai mươi năm làm cho nhân nghĩa bại hoại, đất trời tan nát. Không có gì không bị hủy diệt tàn bạo:

    - Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.


    - Vét sản vật, bắt dò chim sẻ, chốn chốn lưới chăng;
    Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.


    - Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.

    - Tan tác cả nghề canh cửi...

    Số phận thê thảm của nhân dân được nhắc tới với một tình cảm xót thương sâu nặng:

    - Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc,
    ngán thay cá mập thuồng luồng;
    Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng,
    khốn nỗi rừng sâu nước độc.

    - Nặng nề những nỗi phu phen

    - Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

    Tác giả đã khắc họa một bức tranh khái quát về tội ác chồng chất của kẻ thù, mà "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", "nước Đông Hải không rửa hết mùi".

    Người xưa chép sách vào thẻ tre. Tội ác của giặc Minh cho dù chặt hết trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội. "Khánh trúc nan thư" là thành ngữ có từ Lã thị Xuân thu, người Trung Quốc thường dùng để kể tội ác quân giặc trong các bài thơ, hịch, ở đây dùng để vạch tội ác giặc Minh, thật là đắc dụng. Đoạn kể tội kẻ thù được kết thúc bằng vế đối vang dội, đầy tính kích động như một lời hịch:

    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?


    "Thần nhân” đây là thần và người dân.

    Phần thứ ba của bài Cáo là công bố quá trình dấy binh và kháng chiến thắng lợi. Đây là phần trữ tình và sảng khoái nhất của bài văn.

    Đoạn một của phần này gồm 15 cặp đối nói về ý thức sứ mệnh và buổi đầu dựng nghiệp khó khăn của Lê Lợi. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh người anh hùng dân tộc, một hình tượng trữ tình cao cả, thống thiết.

    Bằng phương thức tự giới thiệu, bài Đại cáo khắc họa tấm lòng, chí khí, tài trí, mục đích dấy nghĩa của Lê Lợi. Bằng một loạt vị ngữ, đoạn văn thể hiện thế giới nội tâm phong phú. Một lời tự giới thiệu thật dõng dạc:

    Ta đây:

    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.


    Một ý thức sứ mệnh tự giác: xem mối thù của nước, nỗi đau của trăm họ như của chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt hai mươi năm:

    Ngẫm thù lớn há dội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.


    Đau lòng, nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời,
    Nếm mật, nằm gai, há phải một hai sớm tối.


    Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc lấy lại nước nhà:

    Những trằn trọc trong cơn mộng mỵ,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.


    Những hình ảnh "nếm mật nằm gai", "quên ăn vì giận", "trằn trọc trong cơn mộng mỵ làm nhớ tới các gương chịu đựng gian khổ, nung nấu ý chí chiến đấu vì đại nghĩa.

    Những nỗi gian nan, khó nhọc buổi đầu như thiếu người, thiếu quân, thiếu lương thảo đã thử thách tinh thần nhẫn nại, đức quý trọng hiền tài và khả năng tập hợp của Lê Lợi. Người tài như sao buổi sớm, như lá mùa thu, vốn rất hiếm, còn tấm lòng cầu mong của Lê Lợi cũng rất mực chân thành:

    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả

    Bên trái là chỗ ngồi tôn quý mà Ngụy công tử Tín Lăng Quân dành để mời người gác cửa thành là Hầu Doanh cộng tác với mình. Nay Lê Lợi cũng chờ người tài như vậy. Nhưng càng chờ đợi, "người càng vắng bóng", và vai trò chủ động của minh chủ Lê Lợi càng nổi bật:

    Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối

    Cuối cùng, người anh hùng đã tập hợp được nhân dân dưới cờ đại nghĩa của mình, tạo thành một khối đoàn kết tuyệt đẹp:

    Nhân dân bốn cõi một nhà,
    dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

    Tướng sĩ một lòng phụ tử,
    hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

    Hình ảnh "dựng cần trúc làm cờ" nói lên tính chất cuộc khởi nghĩa của nhân dân, từ nhân dân mà ra. Hình ảnh "hòa nước sông chén rượu ngọt ngào" thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi giữa những người khởi nghĩa.

    Đồng thời Lê Lợi đã có một chiến lược, chiến thuật hết sức đúng đắn:

    Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.


    Đoạn hai của phần ba kể về cuộc phản công thắng lợi. Đây là đoạn hào hứng, sảng khoái nhất của bài Cáo: những thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể ra với một giọng hả hê, tự hào. Ở đây tiếp tục xuất hiện hình tượng người lãnh tụ thao lược, hình tượng uy lực của nghĩa quân, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh thất bại nhục nhã của quân giặc.

    Tác giả không giản đơn kể lại bản tin chiến sự hay bản tổng kết chiến thắng mà còn đem lại niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa:

    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.


    Lê Lợi "thay trời hành đạo", tự cảm nhận được uy lực của nghĩa quân mạnh như uy trời, không một sức mạnh nào chống đỡ được:

    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.


    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.


    Nổi gió to quét sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.


    Các hình ảnh "đá núi mòn", "nước sông cạn", "sạch không kình ngạc", "tan tác chim muông", "quét sạch lá khô", "phá toang đê vỡ” gợi lên một sức công phá mạnh mẽ, phi thường của nghĩa quân và sự sụp đổ không cách gì chống đỡ được của quân giặc. Đó là những ẩn dụ thể hiện quy mô vũ trụ, khổng lồ của sức mạnh chính nghĩa.

    Cùng với các hình tượng khổng lồ, hùng vĩ là hình tượng về nhịp độ chiến thắng mau lẹ như trúc chẻ ngói tan khiến địch trở tay không kịp - cách vài ngày một chiến thắng, cách vài ngày giết một tướng giặc

    Hình ảnh thất bại của quân giặc thể hiện rõ rệt nhất cho sức mạnh của quân ta. Những kẻ sống thì kinh hồn bạt vía, lộ rõ chân tướng tham sống sợ chết:

    - Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía;
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.


    - Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội;
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.


    Kẻ chết thì sông máu núi thây:

    - Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm...


    - Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thanh Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen...


    Ở đây sự thất bại của giặc cũng mang tầm cỡ vũ trụ: "vạn dặm", ngàn năm", "núi", "sông", "cổ nội".

    Hình ảnh của Lê Lợi điều binh khiển tướng khẩn trương, sáng suốt, chủ động, mau lẹ, túc trí đa mưu.

    Trái với kẻ thù đã "trí cùng lực kiệt", Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt, tâm công”. Mấy chữ này sách giáo khoa trước nay giải thích là “đánh bằng mưu trí và đánh vào lòng người, tức địch vận". Cách giải thích như vậy có chỗ chưa chuẩn. Theo từ điển Từ hải của Trung Quốc thì phạt mưu (trong bài văn viết là "mưu phạt" chỉ là cách đảo ngữ để thỏa mãn yêu cầu của đối, đúng ra là phạt mưu), nghĩa là phá tan mưu kế giặc; còn tâm công (nguyên là "công tâm", bài văn đảo lại thành tâm công cho phù hợp với yêu cầu của đối), nghĩa là đánh tan ý chí chiến đấu của địch. Đó là những biện pháp không dùng gươm giáo mà khiến cho quân địch chịu thua, hàng ngũ tan rã. Cho nên Nguyễn Trãi mới nói: "Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta nay mưu phạt tâm công". Cả câu này không chỉ nói chiến thuật mà còn nói về chiến lược: Lê Lợi không muốn dùng vũ lực để đánh, mà muôn phạt mưu, công tâm trước. Nhưng quân giặc thất bại cũng không biết hối cải, còn bày thêm mưu kế, chuốc tội gây oan, cho nên Lê Lợi mới đánh đuổi đến cùng. Đến đây, Lê Lợi bộc lộ một thiên tài quân sự lỗi lạc:

    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.


    (...)

    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.


    Ta đánh thắng nhưng không hiếu sát, không hiếu chiến, mà rộng lòng hiếu sinh, yêu hòa bình, lập kế lâu dài:

    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.


    (...)

    Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.


    "Toàn quân" đây có nghĩa là giữ gìn sự toàn vẹn lực lượng quân đội của mình.

    Quân giặc được tha về vẫn còn kinh hồn, bạt vía, tạo thành âm vang lâu dài của chiến thắng vĩ đại:

    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
    ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc;

    Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
    Về đến nước mà vẫn tim đập chân run!

    Tóm lại, tác giả không chỉ thuật lại chiến thắng, mà chủ yếu khắc họa uy vũ của chiến thắng, tầm vóc của chiến thắng, ảnh hưởng lâu dài của chiến thắng, và nhất là vẻ đẹp nhân nghĩa, trí dũng của người chiến thắng. Những đặc điểm này đem lại màu sắc anh hùng ca cho bài Cáo.

    Phần cuối cùng bày tỏ niềm tin vào nền hòa bình lâu dài của đất nước, cảm ơn trời đất, tổ tiên phù hộ.

    Bài Bình Ngô đại cáo không chỉ hay vì phản ánh chiến thắng oanh liệt, thể hiện tầm vóc lớn lao của tư tưởng nhân nghĩa, mà còn hay vì ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu. Trong bài văn này, các cặp đối tề chỉnh, nhịp văn tứ lục đã phát huy tác dụng thẩm mỹ cao độ trong việc xây dựng những hình tượng kỳ vĩ mang tính chất sử thi, thấm nhuần những tình cảm lớn của dân tộc.

    Bình Ngô đại cáo quả là một thiên anh hùng ca bằng văn biền ngẫu.


    ______

    (1) Triệu đây là Triệu Đà, một số sử gia xưa nhầm Triệu Đà là triều đại nước ta.

    (2) Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bản Chính Hòa: năm 1285, Toa Đô bị chém đầu, năm 1288, Ô Mã Nhi bị bắt.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/5/19
    mangden, thichankem and Rafa like this.
  2. mangden

    mangden Lớp 2

    Bác Châu bình hay quá. Đọc Bình Ngô Đại cáo, nhắc người dân Việt Nam hai điều:
    1. Trung Quốc chỉ dám xâm lược Việt Nam khi Việt Nam có rối ren. Họ như con hổ ngồi nhìn và đợi khi nào Việt Nam có biến là chúng đem quân xâm lược, gây tội ác với người Việt Nam. Trong lịch sử chưa bao giờ họ là bạn của người Việt Nam.
    2. Chiến tranh dù chính nghĩa hay phi nghĩa bao giờ cũng gây nên những khổ đau vô bờ cho người dân. Phải làm sao để chúng thấy biển đảo của người Việt, thấy đất nước của người Việt; chúng cũng không dám lấy. Đấy là khi Việt Nam mang tầm vóc của một cường quốc, chứ không phải là một quốc gia đi sau họ.
     
    tducchau thích bài này.

Chia sẻ trang này