Chính luận Hiện thực Thi Văn Quốc Cấm – Thời Pháp Thuộc <1000QSV1TVB #0087>

Thảo luận trong 'Tủ sách Văn học trong nước' bắt đầu bởi Thu VO, 9/11/17.

Moderators: Bọ Cạp
  1. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    0087.Thi Văn Quốc Cấm.jpg
    Tên sách :THI VĂN QUỐC CẤM – THỜI PHÁP THUỘC
    Tác giả : THÁI BẠCH
    Nhà xuất bản : KHAI TRÍ, SÀI GÒN
    Năm xuất bản : 1968
    ---------------------------------------
    Nguồn sách : Diễn đàn TVE-4U
    Nguồn sách bổ sung : Đức Khải
    Đánh máy : Cloudrua, 0912209288, suongkt, linling, lamanh28, N_imalone, Ha_nhanh, yeuhoatigone, thuythaolien, Thanh Van, nhnhien, Phan Thu Trinh
    Kiểm tra chính tả : Trần Lê Hương, Thư Võ
    Biên tập ebook : Thư Võ
    Ngày hoàn thành ebook : 08/11/2017
    Ngày hoàn thành ebook lần hai : 24/11/2017

    Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận
    « Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link »
    của diễn đàn TVE-4U.ORG


    Cảm ơn tác giả THÁI BẠCH
    đã chia sẻ kiến thức đến người đọc.

    MỤC LỤC


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    PHẦN THI CA

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Khóc Trương-công-Định, Khóc Nguyễn-trung-Trực, Khóc Phan-thanh-Tòng, Hà thành thất thủ ca, Chính Khí Ca, Vè khâm sai, Khóc Phan-đình-Phùng, Á-Tế-Á ca, Tiếng gọi thanh-niên, Gọi lính tập, Đời người cuộc thế, Hải ngoại huyết thư, Thiết Tiền Ca, Khóc cụ Trần-quý-Cáp, Các quan hát xướng, Đinh phu-Nhân, Ngày xuân họp bạn, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Tuyệt mệnh, Ký nội, Khóc bạn Lương-ngọc-Quyến, Thăng-long văn vật !, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Nhắn các bạn tù, Cùng người dân nghèo, Cùng người dân cày, Cùng các thày thông ký, Vợ khuyên chồng, Kỷ niệm trận thế chiến thứ nhất, Sum vầy bõ lúc lưu ly, Hoán tỉnh quốc dân, Chiêu hồn nước, Nhịp kèn thân ái, Khóc Phạm-Hồng-Thái, Phải tự cường, Chiêu hồn dần ruộng, Vợ chồng nhà nông khuyên nhủ nhau, Sà-lim oán, Ngoảnh mặt về Nam, Tống ôn thần, Vĩnh biệt các bạn ở trong tù, Khuyến cáo quốc dân ca, Lá huyết thư cuối cùng, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    PHẦN PHÚ VÀ VĂN TẾ

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Văn tế NGHĨA QUÂN, Cáo-Thị Cần-Vương, Văn tế Trương-công-Định, Văn-tế lục-tỉnh tử-sĩ đàn, Tứ Thành thất thủ phú, Văn-tế tướng Ngạc-Nhi, Hịch Cần-Vương, Văn-tế ông Cao-Thắng, Danh sơn Lương Ngọc Phú, Văn-Tế người chết đuối trong Phong Trào chống Thuế ở miền Trung năm 1908, Biểu mừng Tuần-phủ Nguyễn-Duy-Hàn bị bom, Văn-tế Hoàng-Trọng-Mậu, Văn tế cụ Phan-chu-Trinh, Văn tế cụ Mai-Sơn Nguyễn-Thượng-Hiền, Văn tế đồng bào Cổ-am và các làng bị thực dân tàn sát, Văn tế Cô Giang, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Văn tế sống năm cụ Thượng về vườn
    Văn tế đồng bào Nghệ-Tĩnh chết vì nạn bão lụt, Tỉnh quốc dân phú, Tỉnh Tục Phú, Văn tế cụ Phan-bội-Châu

    PHẦN VĂN XUÔI

    Thư gửi Đô Đốc Reveillère, Thư gửi cho lính đồn Thị-Long, Thư gửi chính phủ Đông-Dương, Vụ kháng thuế ở Trung-Kỳ năm 1908, Văn khóc cụ nghè Trần-quý-Cáp, Bài khóc cụ Tiểu-La Nguyễn-Thành, Chiêu hồn quốc-văn, Giọt lệ biển dâu, Hịch khởi nghĩa Thái-Nguyên, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Khóc cụ Phan-Chu-Trinh, Diễn văn đọc trước viện dân biểu Trung kỳ ngày 1-10-1928, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Giá thóc phải nộp cho nhà nước
    Mấy hàng sau chót

    PHỤ LỤC

    - BẢN KÊ MỘT SỐ SÁCH BÁO QUỐC CẤM THỜI THUỘC PHÁP
    - LOẠI SÁCH : « HỌC LÀM NGƯỜI »
    - NHỮNG SÁCH CẦN PHẢI XEM ĐỂ KHỎI HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI, SỨC KHỎE VÀ HẠNH-PHÚC
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/11/17
  2. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    EBOOK (bổ sung các trang còn thiếu của sách gốc)

    Cám ơn bạn Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đã giúp dự án 1000 bổ sung các trang còn thiếu của sách gốc.

    THAM KHẢO THÊM CÁC TÁC PHẨM CÓ LIÊN QUAN
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 5/12/17
    Storm, phieumien, nhaque and 22 others like this.
  3. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    GIỚI THIỆU

    Từ ngày dân tộc ta thu hồi chủ quyền và lãnh thổ đến nay, riêng tôi, tôi vẫn ước mong có một tập sách ghi lại những thi văn bị cấm trong thời thuộc Pháp qua, vì đó là những di-sản tinh thần vô cùng quý giá của tiền nhân để lại. Những thi văn ấy phải nói là những bài có tác dụng hun đúc rất mạnh ý chí quật khởi của dân tộc, và đó cũng chính là những sử liệu xương máu mà những người dân Việt-Nam sống thác vì Tổ quốc Việt-Nam không thể bỏ qua được.

    Giữa lúc tôi đang băn khoăn vì câu chuyện trên đây thì quyển « THI VĂN QUỐC CẤM – THỜI PHÁP THUỘC » của bạn Thái-Bạch đưa lại cho tôi được cái hân hạnh để xem trước, và xin thêm ý kiến. Như trút được gánh nặng trong lòng, tôi lật từng trang xem, xem đến đâu như thấy thêm bốc dậy tinh thần dân tộc đến đó, và rất lấy làm mừng cho quốc dân trong lúc « chống văn-hóa nô dịch » này có một sử liệu quý ra đời. Tập này tuy chưa đầy đủ, nhưng phải nhận đây là một bước đi trước và là cả một công trình của một người biên soạn và sưu tầm.

    Vì thế, tôi viết mấy hàng này để tán thưởng công việc làm của một văn hữu, và xin trân trọng giới thiệu soạn phẩm « THI VĂN QUỐC CẤM – THỜI PHÁP THUỘC » này với quý vị độc giả.

    Sài-thành Xuân Canh-Tý – 1960​
    NGUYỄN-VĨNH-ĐĂNG
     
    tieungao, QuangHai and Heoconmtv like this.
  4. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    LỜI NÓI ĐẦU

    Lịch-sử dân tộc Việt-Nam ta trong 80 năm qua là lịch sử 80 năm chiến đấu không ngừng để giải phóng dân-tộc.

    Công cuộc chiến đấu này, khi công khai, khi bí mật và phải dùng đủ mọi mặt, mọi hình thức, mọi phương tiện mới đem lại kết quả ngày nay. Trong đó, chúng ta phải nói quân sự và văn nghệ đã đóng những vai trò có tính chất quyết định hơn hết. Vì quân sự là hình thức chiến-đấu cao nhất mà trước khi dùng đến phải nhờ văn-nghệ để nung tinh thần quật khởi, để sôi men chiến đấu trong khắp các từng lớp nhân dân.

    Một nhà cách mạng nói :

    - Có tư tưởng cách mạng rồi mới có phong trào cách mạng. Muốn có tư tưởng này, không thể không cần tới văn nghệ, vì chỉ có hình thức này, mới truyền cảm được tinh thần ấy vào tâm não con người, và mới có thể phát động, lôi cuốn được phong trào.

    Thực tế của các cuộc cách mạng Đông, Tây nói chung và Việt-Nam nói riêng đã chứng minh lời nói ấy là đúng.

    Tuy nhiên nhắc đến công cuộc chiến đấu giành độc lập của dân tộc mình, kiểm điểm lại, chúng ta thấy còn một sơ sót, trong việc ghi chép những trang sử oai hùng vừa qua đã gần như xem nhẹ những thành tích chiến đấu trên địa hạt văn nghệ mà không đề cập đến. Chính đó là những hồi kèn rung trống giục lòng yêu nước của nhân dân đứng dậy ; là những tài liệu giáo dục lịch sử vô cùng quý giá để cho đời đời truyền tụng, học tập và rút tỉa kinh nghiệm…

    Thế nên, trong thời Pháp thuộc những tài liệu ấy đã bị những kẻ đàn áp nhân dân ta xem là những thứ quốc cấm. Trong số các tác giả có người đã bị tù đày, bị giết, bị thủ tiêu, hoặc phải bôn ba nơi hải ngoại. Cả đến gia đình và những người tích trữ cũng phải liên can. Như vậy chúng ta đủ biết tác dụng của những tài liệu văn nghệ ấy thế nào. Có khác chi đâu những phát thần công đại bác bắn vào thành trì tư tưởng của những kẻ chỉ biết có tiền bạc, địa vị… chuyên sống bằng nghề cướp nước và bán nước !

    Ngày nay nước ta đã độc lập. Những tài-liệu ấy không còn ở trong giam cầm nữa.

    Chúng tôi thiết nghĩ hơn lúc nào hết, lúc này tự mình có nhiệm vụ phải sưu tầm lại để thưa với quốc dân và trình cho lịch sử. Không thì, những tài liệu ấy đã bị thất lạc đi rất nhiều trong thời gian qua, rồi đấy sẽ bị thất lạc thêm nữa.

    Vì vậy, chỉ mới có được một số rất ít thôi, chúng tôi cũng xin gom lại trong tập này, lấy tên là « THI VĂN QUỐC CẤM THỜI THUỘC PHÁP» cho đúng với tính chất và giá trị của nó là những bài thơ, bài văn đã bị người Pháp nghiêm cấm không cho lưu hành trong khi họ có mặt trên đài chính trị ở xứ này.

    Chúng tôi cố gắng sưu tầm nữa, và mong các bạn gần xa giúp thêm cho những tài liệu để bổ túc.

    Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
    Ăn cơm nhớ kẻ cấy cày ruộng sâu.


    Trước linh hồn các anh hùng liệt sĩ đã hết mình vì dân vì nước, đã lấy cả lời văn ngọn bút làm gươm làm súng chống kẻ thù chung của dân tộc, hôm nay, chép lại tập tài liệu này, chúng tôi nguyện nuôi tinh thần ấy, ý chí ấy mãi mãi trong lòng để xứng đáng làm người Việt-Nam ở trước thế hệ mới.

    Sài-thành mùa mưa năm Kỷ-Hợi – 1959
    THÁI-BẠCH
     
    tieungao, Heoconmtv and QuangHai like this.
  5. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    TÓM TẮT MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

    Cuộc sống của con người từ đầu thế kỷ 17 đã bước sang một giai đoạn với những phát minh về khoa học làm cho bộ mặt thế giới mỗi ngày một thêm phần đổi mới.

    Trong khi ấy, các nước Tây-phương, về kỹ nghệ đã dùng các thứ máy móc chạy bằng hơi nước và điện lực. Về chánh trị, các nước ấy đã đi từ chế độ quân chủ chuyên chế bất bình đẳng bước sang chế độ dân chủ cộng hòa dựa trên nguyên tắc tự do và bình đẳng. Ảnh hưởng cuộc cách mệnh Pháp năm 1789 đã lan tràn đi khắp các quốc gia Âu Mỹ, đánh thức mọi dân tộc vùng lên để giành lấy quyền sống văn minh, cường thịnh.

    Ảnh hưởng ấy tràn sang Á Đông. Song chỉ có nước Nhật là sớm biết duy tân để làm cho dân tộc khỏi sa vào cạm bẫy thuộc địa của các nước tư bản phương Tây. Còn Việt-Nam mình với Trung-Hoa thì vẫn khư khư ôm giữ cái chế độ quân chủ mục nát với những học thuật cổ hủ từ nghìn xưa để lại. Do đó, nước Trung-Hoa từ năm 1840 trở đi đã thành một bán thuộc địa của các đế quốc Âu, Mỹ, Nhật, 450 triệu dân số con cháu của Phục-Hy, Thần-Nông, Hoàng-Đế phải sống một cảnh sống tha hồ cho tư bản ngoại quốc và tham quan ô lại bóc lột đến tận xương tận tủy, cơ hồ không thể cất đầu lên được nữa. Còn Việt-Nam ta thì trở thành một thuộc địa của Pháp, rồi năm 1940, người Pháp lại đem dâng cho Nhật làm căn cứ quân sự xâm lăng Thái-Bình-Dương. Nhân dân ta từ Bắc chí Nam phải sống vô cùng nhục nhã và đau khổ, trên 80 năm trời không có ngày nào không có đẫm máu và nước mắt.

    Ngược giòng lịch sử, ta thấy Việt-Nam đã tiếp súc với văn minh Tây-phương từ hậu bán thế kỷ 17 là khoảng năm 1789 năm mà Chúa Nguyễn-Ánh nhận cuộc viện trợ bằng người và súng đạn của giám-mục Bá-đa-lộc. Nhưng sau khi đánh thắng được Tây-sơn, thống nhất được lãnh thổ, ông vua này vẫn đặt guồng máy nhà nước trong khuôn khổ phong kiến quá mùa, đời sống của nhân dân vẫn nằm trong trạng thái thủ công và lạc hậu. Học thuật thì trước sau vẫn chủ trương cái gì không phải gốc của Thánh, Hiền Trung-Quốc thì đều là man di.

    Đã thế, từ đời Minh-Mệnh (1829-1840) trở đi, những sự nghiệt ngã của nhà vua đối với các công thần, và những sự nhũng nhiễu làm càn của đám vương giả, quan liêu đã khiến lòng dân bất phục lại bất phục hơn nữa. Thêm vào đó, một số sĩ-phu Bắc-Hà còn nuôi ý khôi phục nhà Lê, nên giặc giã ngày càng nổi lên khắp cả mọi nơi. Từ các cuộc nổi loạn Lê-văn-Khôi ở Gia-Định, đến các cuộc loạn Phan-bá-Vành, Nông-văn-Vân ở Bắc, luôn luôn làm nhân dân phải liên tiếp sống những năm lầm than khổ sở, quan quân phải đi đánh dẹp hết chỗ nọ đến chỗ kia.

    Than ôi ! Trước tình cảnh ấy, quan niệm hưởng lạc ở triều nội lại càng nẩy nở. Nhà vua thì lo củng cố ngai vàng bằng cách đặt bộ máy chánh quyền thu hẹp trong các bầy tôi thân tín, thủ túc, hơn là người nghĩ đến việc sống của nhân-dân. Bầy quan lại thủ cựu thì a dua xu phụ để lo lắng vinh thân phì gia hơn là nghĩ đến các công việc nhà nước.

    Tai hại thay cho cái tư tưởng bảo thủ và vị kỷ, nhất là cái tư tưởng ấy lại đã ăn sâu vào đầu óc những con người nắm vận mệnh dân tộc. Chính đó là những động cơ làm cho đất nước ngày càng đi vào hố suy vong thảm bại.

    Các bản điều trần xin tự lực khai hóa và canh tân nông nghiệp của các ông Nguyễn-Trường-Tộ, Nguyễn-Điền chính cũng do đó mà không được chấp thuận

    Ngoài ra, việc chủ trương cấm đoán khủng bố Gia-tô-giáo với chánh sách bế môn tỏa cảng không giao thiệp với các nước Tây-phương của Triều-đình, càng làm cho việc đối ngoại cũng như việc đối nội, mỗi ngày một thêm phần rối nát.

    Riêng việc khủng bố Giáo-dân đến đời Thiệu-Trị (1841-1847) có giảm đi phần nào. Nhưng việc khủng bố và bắt giam các giáo-sĩ ngoại quốc vẫn tiếp diễn, và lại có lúc tăng hơn nữa.

    Vì đó, tình thế nước nhà đưa dần đến chiến tranh, mặc dầu chỉ là một cái cớ để thực dân lợi dụng mà phần thua thiệt nghiêng về phía mình vì trình độ tổ chức quân sự của ta còn kém, binh sĩ thiếu giáo luyện, vũ khí lạc hậu, phần nhiều là cung tên giáo mác.

    Thế là từ năm 1859, quân đội thực dân Pháp sau khi đánh lấy được Gia-Định, thế lực xâm lăng của chúng lan tràn đi khắp mọi nơi trên lãnh thổ nước ta.

    Năm 1862, chúng bắt triều đình nhà Nguyễn phải ký hòa ước hiến ba tỉnh miền Đông Nam-Việt. Năm 1867, chúng cướp luôn ba tỉnh miền Tây.

    Năm 1873, chúng đem quân ra Bắc. Năm 1883, chúng vào cửa Thuận-An, bắt triều đình phải ký hòa ước nhìn nhận sự bảo hộ của chúng. Sau đó là hòa ước năm 1884, nói rõ Nam-Kỳ là thuộc địa của Pháp, còn Bắc-Kỳ, Trung-Kỳ vẫn do triều đình Huế cai trị. Nhưng từ sau ngày 23 tháng 4 năm 1885 là ngày Tôn-Thất-Thuyết đại bại trong việc tấn công tòa Khâm-sứ Pháp ở Huế, phải đem vua Hàm-Nghi chạy trốn thì dần dần bản hòa ước chỉ còn là một mảnh giấy lộn, triều đình Huế biến thành một cái bù nhìn để cho người Pháp sai khiến và lợi dụng.

    Đất nước Việt-Nam hoàn toàn thuộc về tay người Pháp.

    Trong những ngày nắm quyền cai trị, thực dân Pháp lên tiếng là đem văn minh sang khai hóa nước ta. Nhưng :

    - Về chính trị, chúng vẫn duy trì cái chế độ vua quan mục nát để thẳng tay đàn áp dân ta. Chúng cấm nhân dân ta không được nói đến các quyền tự do, dân chủ. Chúng chia nước ta làm 3 miền Trung, Nam, Bắc khác nhau, mỗi miền đặt ra một chính thể riêng biệt, và cấm nhân dân ta không được phép tự do đi lại, để gây chia rẽ và nghi kỵ.

    - Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn bằng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý làm cho dân ta mỗi ngày một xơ xác điêu tàn. Chúng chiếm đoạt ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu, giữ độc quyền in giấy bạc và xuất cảng nhập cảng. Thậm chí từ năm 1943, chúng lại bắt dân ta phải bán thóc cho chúng với một giá lỗ vốn để gây ta tình trạng bi thảm ; trên hai triệu người chết đói vào đầu năm 1945.

    - Về quân sự, chúng bắt dân ta phải đi lính để canh gác cho chúng, hầu hạ chúng, làm phương tiện cho chúng đàn áp đồng bào, và đi chết thay cho chúng trong các trận giao tranh với Đức, với Nhật, với Thái-Lan v. v…

    - Về văn hóa, và xã hội, chúng dùng rượu cồn, thuốc phiện để làm suy nhược dân ta. Chúng cấm dân ta không được đọc sách cách mạng Pháp, duy-tân Nhật, Trung-Quốc, và những tác phẩm có tư tưởng đấu tranh cho tự do dân chủ. Chúng lập ra các trường Pháp-Việt nhưng chỉ với tính chất nhồi sọ, nhằm đào tạo những tay sai trung thành, nên bắt phải học rất nhiều về môn sử địa Pháp, gọi người Gô-Loa là thủy tổ nước mình, và hạn chế tuổi học khiến cho dân ta có tiếng là chăm học mà trong thời chúng cai trị tính ra đến 90 phần trăm người mù chữ. Chúng cho nhập cảng những thứ văn chương lãng mạn và các đồ xa xí để đẩy thanh niên nước ta vào vòng trụy lạc, vong bản. Chúng bắt dân ta phải đi phu, đi thợ ở các nhà máy, các đồn điền, các hầm mỏ với một giá lương rất hạ mà ốm đau không thuốc, gặp tai nạn không được đòi phụ cấp. Và trước sau với nhiệm vụ đi truyền bá văn minh, thực dân Pháp đã giết hại cả hàng triệu người Việt yêu nước, bằng gươm súng, bom đạn, bằng các nhà tù và các trại tập trung …

    Nói tóm lại, những ngày thực dân Pháp cầm quyền bảo hộ Việt-Nam ta là những chuỗi ngày dài :

    Rắn phun rết độc, đầy trời mưa máu gió tanh ;
    Cọp lũ beo đàn, chật đất gò xương núi xác.
    Nhái lớn nuốt nhái bé, cường quyền chi luận lý công ;
    Bò trắng húc bò vàng, bác ái còn đâu nhân đạo. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Mà những văn minh của thực dân Pháp đem sang khai hóa là những thứ ươn hèn, trụy lạc, phản trắc, đói khổ, lầm than, tham bạo, cờ bạc, trộm cắp, và các thứ vi trùng bệnh hoạn… Thật là một sự vô cùng xỉ nhục cho nước Pháp dân chủ, cho tinh thần cách mạng Pháp 1787, một cuộc cách mệnh cho dân quốc Pháp vẫn thường tự phụ mình có công lớn trong cuộc giải phóng lớp bình dân nô lệ ra ngoài vòng áp chế của bọn vua quan và quý tộc.

    Tuy nhiên, đối với nhân dân ta, thực dân Pháp chỉ có thể làm khiếp đảm, và lừa dối được một thiểu số thôi. Còn cả toàn thể thì trái lại. Do đó, các cuộc tranh đấu đã liên tiếp diễn ra bằng đủ mọi hình thức khi công khai, lúc bí mật để giành lại chủ quyền.

    Từ các cuộc khởi nghĩa Trương-Công-Định, Nguyễn-Trung-Trực, Thiên-hộ-Dương, Thủ-khoa Huân, Phan Liêm, Phan Tôn, Quản Hớn ở Nam, Nguyễn-thiện-Thuật, Tống-duy-Tân, Phan-đình-Phùng, Hoàng-hoa-Thám ở Trung ở Bắc, đến Đông-Kinh Nghĩa Thục, đến Duy-Tân, đến Thái-Nguyên, Yên-Bái, đến Nam-Ngãi, Bình-Phú, đến các tỉnh Nam-Việt… Kiểm lại, trong những ngày người Pháp còn ngự trị, nhân dân ta không có ngày nào không có cuộc đấu tranh. Quả thật dân tộc ta là một dân tộc sáng suốt, đã tranh đấu với bạo lực, với cường quyền một cách anh dũng và bền bỉ để đi đến thắng lợi cuối cùng.

    Như vậy, tình hình nước ta trong những ngày thuộc Pháp là tình hình của một giai đoạn lịch sử đầy trời nghẹt đất những mây đen tối mịt, mà trong đó đã nẩy ra vô số những tia sáng, những lằn chớp, những luồng gió, những tiếng sét nối nhau để đánh tán đi những đám mây mù ấy cho trời trong sáng lại.

    Những bài của các bậc tiền bối đáng yêu đáng kính của dân ta trong tập « Thi Văn Quốc Cấm» này là những bài xuất phát từ trong hoàn cảnh lịch sử ấy.

    Nói chung, đối với thực dân cùng bè lũ, những bài này là những bản cáo trạng vạch trần những âm mưu sâu độc, những thủ đoạn dã man của chúng. Còn đối với đồng bào là những hồi chuông báo thức, những nhịp kèn gọi dậy, những tiếng trống thúc lên để tự giải phóng ra khỏi chỗ địa ngục trần gian, cho sống một cuộc đời đáng sống ở giữa lúc văn minh khoa học đang trào dâng sóng vỗ khắp nơi mà nhân loại ai ai cũng có quyền hưởng thụ.

    T. B.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkCủa cụ Nguyễn-phan-Lãng.
     
    Heoconmtv and QuangHai like this.
  6. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Trước họa giặc Pháp

    Mùa xuân năm Kỷ-Mùi, niên hiệu Tự-Đức thứ 12 (Dương-lịch 1859) bọn thực dân Pháp lợi dụng danh nghĩa bảo vệ các giáo sĩ đem binh quyền vào cửa biển Vũng-tàu, mở màn cuộc xâm chiếm nước ta.

    Với vũ khí tối tân, bọn chúng lần lượt đánh chiếm được các tỉnh Gia-định, Biên-hòa, Định-tường, tức 3 tỉnh miền Đông Nam-Việt.

    Nhưng nhân dân ta với tinh thần bất khuất và ý chí tự vệ đã đứng lên chống lại quyết liệt dù chỉ bằng vũ khí thô sơ.

    Bài thơ Lục bát này là bài nói lên nội dung ý nghĩa ấy trong khoảng thời gian đó và kể là một bài thơ kháng chiến đầu tiên. Nhưng rất tiếc không rõ tác giả là ai và đầu đề là gì, mà chỉ biết rõ là làm sau lúc 3 tỉnh đã bị giặc chiếm đóng, vì vậy chúng tôi tạm thay bằng mấy chữ tựa trên và chép y nguyên văn dưới đây do cụ Hồ-tôn-Tẫn ở Ba-sao đã thuộc lòng và đọc cho chép lại.

    Trời Nam đương hội mở mang,
    Bỗng nhiên mắc lũ giặc loàn Tây dương.
    Chó săn có lũ thằng Tường,
    Thằng Lộc, thằng Tấn, thằng Phương một đoàn Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Xóm làng đình miễu tan hoang,
    Thành siêu vách đổ muôn vàn đắng cay.
    Máu thây oan nghiệt rẫy đầy.
    Chém cha cái lũ thằng Tây bạo tàn.
    Cửa nhà đang lúc hiển vang,
    Chốc nên ngói lở tro tàn thảm thương.
    Kìa quân tả đạo bất lương,
    Vô quân vô phụ một phường dã man.
    Nọ Lang-sa thứ giặc loàn,
    Cờ tam sắc nó rắc nàn gieo tai.
    Hỡi trang dẹp loạn giờ ai ?
    Sao chưa địch khái Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link trổ tài một phen ?
    Đồng-nai bốn phía mây đen,
    Biên-hòa, Gia-định nỗi niềm siết bao.
    Kia kia những đấng anh hào,
    Gò-công, Cần-giuộc trăng sao tỏ ngời.
    Lòng son rạng vẻ đất trời,
    Thệ cùng nghịch lỗ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ở đời chẳng chung.
    Răn ai giữ chí cho cùng,
    Thói tà của hoạnh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link nhớ đừng có ham.
    Nam nhi kiến nghĩa Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link phải làm,
    Ví dầu da ngựa cũng cam mới là,
    Mấy câu thổ lộ gần xa,
    Giang san ba tỉnh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link vua ta hãy còn.
    Phận thần tử gắng lo toan,
    Phát gai góc đặng tìm đàng cả đi.
    Bằng không tuyết xỉ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link mai kia,
    Suối vàng tổ phụ theo về được chăng Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link !
    Đàng nào cũng thác chi bằng,
    Thác vinh để đặng khói nhang ngàn đời Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkTức Tôn-thọ-Tường, Trần-bá-Lộc, Huỳnh-công-Tấn, Đỗ-hữu-Phương, những tên đại việt gian lúc đó.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkTức đánh giặc.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkTức giặc dữ.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkThói tà là thói gian nịnh hại nhà hại nước. Của hoạnh là thứ của phi nghĩa.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkNam nhi kiến nghĩa là người trai thấy việc nghĩa.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkTức 3 tỉnh miền Tây Nam-Việt.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkTuyết xỉ là rửa nhục, rửa sự xỉ nhục cho nước nhà.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkÝ nói nếu không rữa nhục cho nước nhà thì chết xuống suối vàng hỏi còn mặt nào mà nhìn ông cha nữa.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkÝ nói con người ta ai cũng phải chết, thì thà phải chết cho vinh dự để nghìn đời kính bái.
     
    tieungao thích bài này.
  7. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Ái chủng ca

    Người Việt-Nam ta thường hát rằng :

    Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
    Người trong một nước phải thương nhau cùng.


    Người trong một nước phải thương nhau, không thể ghét nhau xem nhau như cừu địch. Đó là tinh thần ái chủng, và tinh thần ái chủng của dân tộc Việt-Nam đã gói ghém vào câu ca dao trên.

    Nhưng ái chủng không phải chỉ có « cùng thương nhau » thôi còn phải làm gì mới gọi là thiết thực ?

    Và ái chủng phải làm thế nào nữa trong lúc giang sơn đang bị gót giày quân xăm lăng trà đạp, nhân dân, đồng bào đang phải sống một cảnh sống ngựa trâu, khom lưng cúi đầu cho kẻ khác sai khiến ?...

    Vì thế, cụ Sào-Nam Phan-bội-Châu có bài « Ái chủng ca» này để thiết tha kêu gọi tinh thần ái chủng của người Việt-Nam trong những ngày đen tối vừa qua của dân tộc.

    Theo các nhà cách mạng, bài này cụ viết ở Thái-lan vào khoảng năm 1911 là khi cụ qua đó theo lời mời của cụ Đặng-tử-Kính và các đồng chí cách-mạng đang bôn ba hoạt-động ở bên ấy.

    Muốn hiểu rõ thế nào là ái chủng, và ái chủng phải làm gì ? ái chủng theo quan-niệm của các nhà cách mạng tiền bối ra sao, chúng ta hãy đọc bài ca này của cụ.

    Giống ta ta phải yêu nhau !
    Đưa lời ái chủng mấy câu giãi lòng.
    Hai mươi triệu họ đồng tông.
    Da vàng màu đỏ con giòng Hùng-Vương.
    Mấy ngàn năm cõi Viêm-bang
    Đua khôn hoa hoán, mở đường văn minh.
    Tài anh kiệt nối đời sinh,
    Đánh Nguyên mấy lớp ; phá Minh mấy lần.
    Mở mang Chân-Lạp, Chiêm-Thành,
    Miền nam lừng lẫy giống thần mở mang.
    Tiếc thay giống tốt nòi sang,
    Vì sao sa sút cho mang tiếng hèn.
    Xưa sao đứng chủ cầm quyền,
    Giờ sao nhẫn nhục chịu hèn làm tôi.
    Xem Tây như thánh như trời,
    Người Nam ta chịu dưới nơi a-tỳ. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Giang sơn thẹn với tu mi,
    Đá kia cũng xót, sông kia cũng sầu !
    Nào anh em, chị em đâu !
    Kết đoàn ta phải bảo nhau thế nào ?
    Chữ rằng : « đồng chủng đồng bào »
    Yêu nhau ta phải tính sao phục thù ?
    Muốn cho nội ngoại giao phù Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Sáu mươi lăm tỉnh cũng như một nhà.
    Muốn cho Nam Bắc hợp hòa
    Hai mươi lăm triệu cũng là một thôi.
    Đừng cậy thế, đừng khoe tài !
    Bỏ điều riêng nhỏ, tính điều lợi chung.
    Chớ giành khí, chớ khoe công,
    Dứt tình ghen ghét, bỏ lòng xai nghi. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Ai ơi xin sửa mình đi !
    Công tư đức ấy hai bề vẹn hai.
    Những điều hại nước, tan nòi,
    Rước voi cõng rắn thì thôi xin chừa.
    Một mai thời thế chuyển cơ,
    Anh em ta lại như xưa sum vầy.
    Họ hàng đông đủ cánh vây,
    Chen vai ưu thắng, ra tay cạnh tồn !


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkCửa ngục dưới âm phủ.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkTrong ngoài giao kết lại.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkXai nghi là ghen ghét ngờ vực.
     
  8. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Ái quốc ca

    Con người ở đời đã biết ái chủng là thế nào, và cái chủng thì phải tỏ ra làm sao trong những lúc giống nòi bị lưu ly điên bái.

    Nhưng chưa đủ.

    Còn phải ái quốc nữa.

    Quốc là gì ?

    Nếu « chủng » theo các nhà cách mạng tiền bối là người cùng chung một nguồn gốc, một giống nói như trong bài « Ái chủng ca » của cụ Phan-bội-Châu, thì ở đây « quốc » có nghĩa là đất đai sông núi đã định phân từ ngàn xưa, do tổ tiên kế tiếp đời đời truyền lại, mà đó cũng là phần hương hỏa, phần di sản để con cháu cùng nhau giữ gìn và sinh sống. Kẻ nào để lọt vào tay khác hay âm mưu đem bán cho người ngoài để vinh thân phì gia, làm cho anh em giống nòi phải điêu linh khổ sở, kẻ ấy là những tên phản quốc, phản dân tộc. Hay để bị lọt vào tay người khác mà không biết cùng nhau lo toan, cố gắng để giành lại thì cũng không phải là yêu nước. Cho nên chỉ ái chủng thôi mà không có ái quốc thì cũng chưa được hoàn toàn xứng đáng làm người, nhất là người ấy lại là giòng giống đã có hơn ngàn năm văn đức võ công, mà nay phải sống một cuộc đời « không còn là sống nữa » ở dưới bàn tay của bọn Pháp xâm lăng.

    Vậy ái quốc là muôn người phải như một, phải sôi bầu máu nóng dậy mà rửa mối thù chung cho quốc gia, dân tộc.

    Bài « Ái quốc ca » này là một bài đã nói lên với đồng bào toàn quốc, cái ý nghĩa trên đây. Theo các nhà cách mạng cũng là của cụ Phan-bội-Châu, cụ viết tại Thái-Lan cùng một lượt với bài « Ái chủng ca » ở trước.

    Nay ta hát một câu ái quốc,
    Yêu gì hơn yêu nước nhà ta.
    Nghiêm trang bốn mặt sơn hà,
    Ông cha ta để cho ta lọ vàng.
    Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,
    Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa.
    Biết bao công của người xưa,
    Giang sông tấc núi dạ dưa ruột tằm.
    Hào Đại-hải ầm ầm trước mắt,
    Giải Cửu-Long quanh quất miền Tây.
    Một tòa san sát xinh thay.
    Bắc kia Vân, Quảng, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Nam này Côn-Lôn.
    Vẻ gấm vóc nước non thêm đẹp,
    Chắc những mong cơ nghiệp dài lâu.
    Giống khôn há phải đàn trâu,
    Giang sơn nỡ để người đâu vẫy vùng.
    Hăm lăm triệu người cùng của hết,
    Sáu mươi năm nước mất quyền không.
    Thương ôi công nghiệp tổ tông !
    Biển tuôn máu chảy, non chồng thịt cao !
    Non nước ấy biết bao máu mũ !
    Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang ?
    Cờ ba sắc xứ Đông-Dương
    Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau !
    Nhục vì nước mà đau người trước ;
    Nông nỗi này non nước cũng oan.
    Hồn ơi về với giang san !
    Muôn người muôn tiếng hát vang câu này ;
    Hợp muôn sức ra tay quang phục ;
    Quyết phen này rửa nhục báo thù.
    Một câu ái quốc reo hò,
    Xin người trong nước phải cho một lòng.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVân Nam và Quảng đông, Quảng tây.
     
  9. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Mơ tổ mắng

    Đây là bài của cụ Đàm-Xuyên Nguyễn-phan-Lãng viết vào khoảng tháng 6 năm 1925 để kêu gọi tinh thần quật khởi của toàn dân và đồng thời để thức tỉnh những tâm hồn hèn mạt đang cam phận khom lưng cúi đầu ở trước thế lực bọn xăm lăng, không còn biết nghĩ đến nhân phẩm nhân cách là gì mà hễ mở miệng thì khoe là con Rồng cháu Tiên… Than ôi !...

    Đêm khuya giấc mộng đang mơ màng.
    Bỗng chiêm bao thấy cụ Hồng-Bàng.
    Tay cầm bầu nước xách lể mể.
    Vai vác cái cuốc đi vội vàng.
    Người cụ cao lớn, mặt đỏ gấc,
    Mắt sáng như sao râu, quá ngực,
    Miệng rộng như bể, chân như non.
    Hầm hầm dường có ý căm tức.
    Quát lên một tiếng như sấm vang,
    Người đang mơ ngủ đều kinh hoàng.
    Mắt nhắm mắt mở chưa kịp dậy,
    Cụ đã sừng sững trước đầu giường.
    Tay cầm cái cuốc gõ vào sọ.
    Tay cầm bầu nước dội vào cổ.
    Mắng rằng : « Bây giờ đã tỉnh hay chưa ?
    Gà gáy tứ tung bây vẫn ngủ !
    Cái cuốc bỏ đó, nhà đi đâu ?
    Bây không thức dậy để giữ lấy
    Cuốc ơi, Nước ơi ! Đi đàng nào ?
    Người hãy lấy cuốc đi khai mỏ
    Người ta lấy nước nuốt vào cổ,
    Cuốc cùng lấy gì vỡ ruộng nương.
    Nước cạn lấy gì tưới cỏ cây…
    Cuốc còn, cuốc mất, bây không hay ;
    Nước còn, nước mất, bây trối thây ?
    Giang sơn cơ nghiệp ta ở đây…
    Thôi thôi ! Ta chắc cậy gì bây !
    Bây chẳng nghĩ công ta khó nhọc,
    Mở núi khai sông, những săn sóc,
    Nhành Hồng cỗi Lạc mấy ngàn năm,
    Truyền tữ nhược tôn riêng một góc,
    Nửa thời bờ biển, nửa về non.
    Con Rồng cháu Tiên, ngày đông đúc.
    Lúa rừng cá biển mưu sinh tồn.
    Văn minh một ngày một bước tiến,
    Dần dần thành một cõi văn hiến.
    Người chuộng lễ nghĩa, thói thuần lương ;
    Văn hóa ngàn năm không chút biến ;
    Cùng nhau gìn giữ nghiệp tổ tông.
    Suốt cùng Ngủ-hồ, sông Cữu-Long,
    Mở mang cỏi đất ngày ngày rộng,
    Làm cho thêm rạng vẻ non sông.
    Đàn bà dễ mấy tay : Trưng, Triệu,
    Mình cỡi đầu voi, cờ nổi hiệu.
    Quân Ngô quân Hán đã kinh hồn,
    Trông giãi yếm đào tìm nẻo xéo !
    Tài trai giỏi nhứt lớp Trần, Lê,
    Ra sức anh hùng cũng gớm ghê.
    Mấy trận Chi-Lăng cùng Vạn-Kiếp
    Quân Tàu hóng gió cút ngay về !
    Như thế mới thật con cháu cụ.
    Làm trai không thẹn, gái không hổ.
    Bây sao chẳng ngắm các gương xưa.
    Luống chịu cúi đầu, ràng buộc cổ ?
    Vẫy đuôi ngẫng mặt theo sau người,
    Chờ chực nước dãi, trông ngóng hơi,
    Nhà mình mà hóa đi ở đậu,
    Cơm mình mà phải đi nhặt rơi ?
    Giết con cho mắm, nhắm mắt nuốt,
    Chém cha chia canh, chẳng buốt ruột.
    Vỡ nhà nát nước, giả ngẩn ngơ,
    Xẩy nghé, tan đàn, không biết xót !
    Gái đi rước khách, trai đi hầu,
    Cậy thế cậy thần lòe lẫn nhau.
    Nhái lớn chực nuốt những nhái bé !
    Gầy róc xương thịt, béo ép dầu…
    Lại còn lên mặt những tên lệnh,
    Đưa nhau làm cỗ cúng ông Hễnh,
    Săn cầy săn cá lên tâng công
    Kiếm bát canh thừa miếng ăn cặn
    Xưa kia quan lại có thế đâu ?
    Bây giờ quan Phủ lại nên giàu
    Đua nhau bòn máu và hút mủ
    Đua nhau rộng ruộng cùng cao lầu
    Phá sạch hết thảy nền lễ nghĩa
    Quên những tất cả tính liêm sỉ.
    Đứa theo nết sói với lòng beo,
    Học những thói ma cùng chước quỷ.
    Làm cho lây hại lũ thanh niên,
    Dần dà tập nhiễm thành thói quen.
    Mặt Tiên mũi Rồng vẻ tuấn tú,
    Vai trai cổ ngựa, đành ngu hèn.
    Bây tự đào hang cùng phá tổ,
    Trách nào diều tha lại quạ mổ !
    Mưa Âu gió Mỹ nhiễm lâu vào,
    Tam-Đảo, Tản-Viên có ngày đổ !
    Vậy mà bây khoe đời văn minh !
    Văn minh đâu dùng sự chiến tranh.
    Vậy mà bây cậy có nhân đạo,
    Nhân đạo đâu cướp cháo chúng sinh !
    Nếu không kiếm cách để tự lập,
    Yếu hèn quyết có ngày chết dập !
    Bây ơi ! đem con gửi quạ già,
    Chắc đâu quạ già khỏi ăn cắp ?
    Ta chẳng mong bây chắc cậy người,
    Ta chẳng mong bây cầu cứu ai !
    Ta chỉ mong bây thương nước Tổ !
    Ngọt cùng chịu ngọt cay cùng cay,
    Ta rất mong bay trước cảnh tình,
    Lấy cách văn minh để cạnh tranh.
    Tích cực chẳng xong dùng tiêu cực,
    Cốt sao khôi phục quốc quyền mình.
    Ta rất mong bây trọng quốc túy,
    Khuyên nhau gìn giữ lấy luân lý.
    Khiến cho người khỏi hóa ra ma,
    Mất tiếng nghìn năm trước lễ nghĩa.
    Ta rất mong bây thương lẫn nhau,
    Chị ngã em nâng trước bảo sau.
    Nồi da xáo thịt, lòng sao nở ?
    Củi đậu đun đậu dạ càng đau,
    Nước ta bây giờ củi hết kiệt,
    Danh giáo, cương thường lại bại liệt.
    Bây giờ ngơ ngẫn đợi gì ai ?
    Cá chậu chim lồng lo chẳng chết ?
    Bây coi Nhật-Bản cùng Xiêm-La !
    Xưa kia danh tiếng nào bằng ta ?
    Mà nay đứng giữa vùng Đông-Á.
    Dân giàu nước mạnh, bao vinh hoa.
    Nay ta trông thấy lũ con cháu,
    Mặt muối mày tro, càng đớn đau.
    Liệu mà tỉnh ! tỉnh… đứng ngay lên !
    Cuốc đây, Nước đây ! Nhặt lấy mau … !
    Mở bừng mắt dậy, hóa chiêm bao,
    Trông theo nào thấy cụ đâu nào ?
    Vội vàng cầm bút chép lời cụ,
    Đồng bào ! đồng bào ! Ta tính sao ?
     
    tieungao thích bài này.
  10. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Nhật Hoàng khóc Hít-Le

    Bài này không biết tác-giả là ai mà chỉ biết là một bài thơ trào phúng nhái theo bài cụ tam-nguyên Yên-Đổ khóc cụ nghè Vân-đình Dương-Khuê và làm vào khoảng tháng 6 năm 1945, khi nghe tin quân Đức bại trận, trùm quốc xã Hitler tự tử... để mỉa mai cái tham vọng định chia nhau làm bá chủ hoàn cầu của bè lũ gây chiến.

    Nội dung tuy không sâu sắc lắm, nhưng đọc lên, chúng ta vẫn thấy vẫn còn giá trị để rót vào tai cho những kẻ đang bước vào vết xe đổ của bọn Trục : Đức, Ý, Nhật trong thế chiến vừa qua.

    Hít-Le thôi bác toi rồi !
    Bom bay đạn nổ tơi bời lòng ta...
    Nhớ từ thuở xông pha ngày trước,
    Trục Tam cường tôi bác cùng nhau.
    Tưởng rằng nuốt chửng năm châu,
    Ai hay lụn bại biết đâu cơ trời.
    Cũng có lúc hẹn lời liên kết,
    Cũng có khi gầm thét cùng nhau.
    Gớm ghê từ trước đến sau,
    Liệt oanh chẳng biết trên đầu có ai.
    Vốn đã biết bỏ đời là phải,
    Vội vàng chi bác phải ra ma.
    Chợt nghe tôi những xót xa,
    Đương thân bách thắng hóa ra thua dồn.
    Cờ chữ « Vạn » không còn phấp phới,
    Ai người đem thế giới nhuộm đen ?
    Máu tanh không có bạn hiền,
    Say sưa không khỏi không phiền không lo
    Thơ phát-xít đắn đo muốn viết,
    Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?
    Trời Âu vừa tạnh gió mưa,
    Sóng dồn biển Thái, khổ chưa hỡi trời !
    Quân đổ bộ khắp nơi tua tủa,
    Thành Đông-Kinh khói lửa mịt mùng.
    Nào Nga nào Mỹ tấn công,
    Nào Trung-Hoa cũng quyết không chịu lùi.
    Bác biết trọn cái đời của bác,
    Trục, mình tôi gánh vác sao đang.
    Sóng dâng ngập cả ngai vàng,
    Khóc tôi khóc bác hai hàng chứa chan...
     
  11. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Gia-định thất thủ phú

    Mùa xuân năm Kỷ Mùi niên hiệu Tự Đức thứ 12, dương lịch 1859, đồng bào sáu tỉnh miền Nam đang sống trong cảnh thanh bình của đất nước, tình thế bỗng trở nên nghiêm trọng kịch liệt.

    Lợi dụng danh nghĩa bảo vệ các giáo sĩ, binh quyền thực dân Pháp do tướng R. de Genouilly từ ngoài Đà Nẵng tiến vào cửa Vũng Tàu, mở màn cuộc xâm chiếm nước ta. Đoàn chiến thuyền lớn nhỏ cả thẩy 14 chiếc chở hơn 3.000 lính của hai nước Pháp và Y-pha-Nho tiến lên nhả đạn như mưa vào các công sự phòng thủ và các chiến thuyền của ta. Rồi qua cửa Cần-giờ, tiến sâu vào nội-địa.

    Được tin cáo cấp, quan Tổng đốc Gia định là Võ-duy-Ninh hỏa tốc tự đi các tỉnh đem binh về tiếp viện. Nhưng quân lính vì đã thiếu luyện tập từ lâu, lại kém hẳn về tinh thần chiến-đấu, nên chỉ trong hai ngày, thành Gia-định, căn cứ trọng yếu nhất của miền Nam đã bị hạ và bị san thành bình địa. Võ-duy-Ninh tử trận. Liên quân Pháp Y-pha-Nho cướp được 200 khẩu đại bác, 8 chiến thuyền, 20.000 súng tay và gươm giáo, 85.000 kí lô thuốc đạn, 180.000 phật-lăng kể cả tiền lẫn bạc. Chúng phóng hỏa đốt các đồn trại nhà cửa và một kho lúa gạo, có thể nuôi được hàng vạn quân sĩ ăn suốt trong một năm…

    Từ đó trở đi, chiến cuộc mỗi ngày một lan rộng, kết quả lãnh thổ và chủ quyền nước ta phải lọt vào tay thực dân Pháp. Nhân dân ta trong 80 năm trời đen tối của lịch sử vừa qua phải sống một cảnh sống làm nô lệ cho ngoại bang sai khiến. Về điểm này hẳn không mấy ai không biết, cũng như việc thành Gia-định bị thất thủ trên kia đã được ghi lại ít nhiều trong sử sách. Song những cái « ghi » ấy chỉ là những cái tóm tắt về chiến-sự mà thôi. Còn về tình cảnh của nhân dân lúc đó ra sao ? mới là việc quan trọng, nhất là tâm trạng của sĩ phu, giới người mà trước đây được coi như là những đàn anh trong nhân dân về phương diện học thuật và tư tưởng.

    Nay để trả lời một phần nào về điểm thắc mắc ấy, chúng ta hãy đọc bài « Gia định thất thủ phú » này của một người tai mắt ở đương thời làm ra – một bài mà nội dung ý nghĩa có tính chất đối lại lập trường của thực dân, nên suốt trong thời gian chúng có mặt trên vũ đài chính trị ở đây, chỉ được khẩu truyền trong nhân dân – Người ấy là cụ Phan-văn-Trị, thường gọi là Cử Trị, một nhà thi văn yêu nước nổi tiếng ở Đồng-Nai, Bến Nghé mà tên tuổi đến nay vẫn còn được nhân dân nhắc nhớ, và mỗi khi nói đến không ai là không phải kính phục. Cụ người làng Hạnh-Thông tỉnh Gia-Định sinh năm 1830, thi đỗ cử-nhân năm 1849, và mất tại làng Phong-Điền tỉnh Cần-Thơ năm 1910.

    Thương thay đất Gia định !
    Tiếc thay đất Gia Định !


    Vực hóa nên cồn ;
    Đất bằng nổi sóng.
    Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu ;
    Dây thép giăng nhấp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng.
    Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mờ ;
    Non sông dời đổi họa mi, tưởng tới dường mê dường mộng.
    Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất gò bằng ;
    Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà trời dậy sấm.
    Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt âu ca ;
    Tò le kèn thổi tối trời Nam, man mác năm canh không tiếng trống.
    Hào kiệu tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinhVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ;
    Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
    Từ Bến Thành trải qua Chợ Đũi loài tinh chiênVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link loạn xạ biết bao nhiêu ;
    Nơi Chợ Lớn sấp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.
    Cầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quân tham tàn đắc ý vênh râu ;
    Chùa Cẩm thảo trải tới Cây-mai, Phật Bồ-Tát chịu nghèo ôm bụng.
    Nơi nơi nổi xóm mới nhà tây,
    Chốn chốn lập đồn canh ụ súng.
    Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò-vấp, cây cỏ khô, thân thế đếu khô ;
    Bát ngát nhỉ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng, người đời cũng rụng.
    Mấy dặm Gò-đen, Rạch-kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp tan tành ;
    Đòi nơi Rạch-lá, Gò-công, trận gió quét cửa nhà trống lỗng ;
    Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu ;
    Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.
    Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng yên phần ;
    Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ còn khôn nỗi sống.
    Sau trước vầy đoàn bạch quỷ, dân ta đòi bữa đòi suy ;
    Đêm ngày ỏi tiếng Lang sa, thế nó càng ngày càng lộng.
    Cờ Thành-Thang sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chông gai ;
    Áo Võ-Vương sao chẳng thấy gầy, nỡ để dân đen bùn lấm.
    Đầu trung-nguyên tóc hỡi còn dài, ơn này nhờ có Bá, học Xuân-thu xin chớ Kiếm Hoàn-công ;
    Tay tả nhẫmVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, đọc Luận-ngữ cớ sao chê Quản-trọng.
    Bóng xế dậm ngàn mây man mác, nước non này ai cũng thấy buồn ;
    Trời chiều chim choc nhẩy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động.
    Ta nay nhân cảm với cuộc đời,
    Vậy nên tả một bài ngẫu vận…

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tức là nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu mà phập phồng lo sợ tưởng như giặc tràn đến nơi, như Bồ Kiên vua nhà Tần trước khi bị quân nhà Tần đuổi đánh, quân sĩ tới đâu nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu cũng giựt mình như quân nhà Tấn đã sát đến bên mình.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tinh chiên là hôi tanh. Loài tinh chiên là chỉ vào bọn quân cướp nước.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tả nhẫm là khép vạt áo sang bên tả, tục mọi rợ. Câu này lấy tích trong câu nói của Khổng tử : « Không có Quản-Trọng thì chúng ta sẽ khép vạt áo bên tả hết », có nghĩa là không có Quản-Trọng thì phong hóa suy đồi, văn minh sẽ thành mọi rợ hết.
     
    tieungao thích bài này.
  12. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Văn tế các anh hùng liệt sĩ bỏ mình trong các cuộc khởi nghĩa YÊN-BÁI và NGHỆ-TĨNH

    Bài này của một nhà cách mạng Việt-Nam ở Thái-Lan làm cho kiều bào truy điệu các anh hùng liệt sĩ đã bỏ mình trong các cuộc khởi nghĩa Yên-Bái, Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngãi Bình-Phú.

    Cuộc lễ truy điệu tổ chức tại Sa-Khôn vào khoảng năm 1931, một tỉnh thuộc miền Tây bắc nước Xiêm. Kiều bào ở dây và các nơi kéo đến tham dự rất đông. Và bài văn tế này sau đó đăng lên tờ báo « Tiếng Chuông », một tờ báo của đoàn-thể cách mạng Việt Kiều bên ấy, dưới sự điều khiển biên tập của cụ tú tài Đặng-thúc-Hứa, một nhà cách mạng cùng thời với các cụ Phan-bội-Châu, Phan-chu-Trinh, quê ở miền Nghệ-Tĩnh, trước đó có xuất dương sang Nhật, sang Tàu rồi sau mới qua Xiêm hoạt động.

    THAN ÔI !

    Vùng Quê-hải gió tanh mưa máu, áng ba đào vì tình thế xui nên,
    Cõi Viêm-bang núi thịt cồn xương, nỗi bi thảmxưa nay chưa mấy có.
    Ngoài ngàn dặm trông về cố quốc, non sầu bể thảm, quặn ruột gan chín khúc tơ vò.
    Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm, cỏ úa hoa dàu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ.

    ANH CHỊ EM TA !

    Gặp lúc vận nước suy vi !
    Giống nòi cực khổ.
    Quân quỷ trắng, già tay bóc lột, rày sưu mai thuế, bóc tận xương da.
    Lũ lằn xanh, bu miếng đỉnh chung, bán nước buôn dân, kể chi máu mủ.
    Tuy cách mạng đã từng phen bồng bột, tiếc nỗi tâm chí có thừa mà phương châm chưa đủ, sức ve mình chấu đành chịu khoanh tay.
    Thôi thì giày bừa hết cách, đàn áp đủ đường, dầm ngựa ách trâu, hãy còn chịu cổ.
    Tụi tân học đua nhau Âu hóa, bình đẳng tự do thoa cửa miệng, thực lòng vì nước, trăm người chưa có một, ngắm tiền đồ thêm ngán bọn Tây duVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link,
    Bọn cựu nho toan kế duy tân, anh hùng lãnh tụ chất đầy lòng, thực dạ vì nòi, xóc sổ được bao nhiêu, thôi đại sự chắc chi người Đông-độVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Nay gặp lúc phong trào sôi nổi, khắp năm châu trống giục kèn kêu ;
    Nay gặp người chỉ lối đưa đường, cùng bốn bề triều dâng sóng vỗ.
    Rừng thế giới ta góp cây !
    Bão cách mạng ta góp gió !
    Màn phấn đấu khởi tháng hai năm ngoái, cõi Yên Báy dậy một phen oanh liệt, máu quốc dân phun nhuộm đẵm xa trường.
    Cuộc biểu tình liền tháng chín vừa đây, đất Hồng-Lam gầy mấy trậntung hoành, hồn tổ quốc kêu vang kèn dụng võ.
    Nhân dân quyết chí tiêm cừu ;
    Đế quốc già tay khủng bố.
    Thương những kẻ gan vàng da sắt,lăn lóc tuyên truyền vận động bỗng rủi cơ mưu bại lộ, nhẹ lông hồng khi lên máy đoạn đầu.
    Xót những người rách áo đói cơm, ước ao hạnh phúc dân quyền, mà đem tính mạng hy sinh, phá hang cọp để tìm đường sinh lộ.
    Thương những kẻ trong trường thương mại, phá gia nghiệp ngàn vàng tư trợ, án tình nghi chẳng quản thúc kềm tra.
    Xót những người giữa áng binh nhung, rắp ranh thân Hán tâm HànVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link chước đảo quaVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link gầy mấy trận tung hoành, hồn nghĩa liệt nhoáng theo hòn đạn nổ.
    Bạn má phấn phất cờ nương tử, chí tang bồng, duyên hồ thỉ, phận liễu bồ vùi giữa đám binh đao.
    Bọn đầu xanh kết đội thiếu niên, đi diễn-thuyết, phát truyền đơn, đem sinh tử để ra ngoài mệnh số.
    Thương những kẻ Hỏa lò, Khám lớn, mài mật chống cùng oai võ, tiếc nỗi gan vàng mà mệnh bạc, hồn lìa theo ngọn búa đầu rơi.
    Xót những người Lao-Bảo, Côn-Lôn, bấm gan chịu với phong trần, gặp nơi nước biếc non xanh, xác đành gởi ngàn cây nội cỏ.
    ... ... ...

    ÔI THƯƠNG ÔI !

    Tấc dạ trung trinh,
    Tấm lòng kiên cố.
    Những cái chết đáng thương, đáng tiếc, đáng dạ nhớ lòng ghi !
    Những cái chết đáng quý, đáng yêu, đáng bia đồng tượng gỗ.
    Người ấy ví còn sống lại, còn hysinh cho quốc gia xã hội còn nhiều ;
    Thân kia dầu có chết đi, cũng ảnh hưởng cho cách mạng hoàn cầuchẳng nhỏ…

    ANH EM CHỊ EM TÔI !...

    Tủi phận quê người,
    Chạnh niềm nước cũ.
    Nghĩ đến chữ « Tinh thần bất tử » dạ đinh ninh kẻ khuất với người còn.
    Gẫm đến câu « Khí phách trường tồn » lễ truy điệu biểu tấm lòng ái mộ…

    HỠI ÔI ! THƯƠNG THAY ! ! !

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Những người sang Pháp.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Những người đi qua Tàu, qua Nhật.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Thân ở Hán, tâm ở Hàn. Ý nói thân ở phe này nhưng lòng ở phe nọ.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Đảo qua là quay giáo đánh lại.
     
  13. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Thư kể tội Khải-Định
    (TỨC « THẤT ĐIỀU TRẦN » CỦA CỤ PHAN-CHU-TRINH)

    Nước Pháp là một nước dân chủ, nhưng người Pháp sang cai trị Việt-Nam lại cố duy trì cái ngai vàng mục nát để hủ hóa tinh thần dân Việt, và để làm bù nhìn sai khiến lũ sĩ phu rởm chỉ biết có cân đai bố tử, thẻ ngà, hốt bạc, mũ cánh chuồn là vinh, ngoài ra không biết chi là liêm sỉ ở đời, là cái nhục của người dân mất nước.

    Vì thế, người Pháp trong những ngày có mặt trên đài chính trị ở đây, họ đã đem đày các vua Thanh-Thái, Duy-Tân đi chỉ vì tội các vua này là những người yêu nước, không muốn làm tay sai cho chúng đàn áp dân tộc mình. Và chúng đã đưa ông Bửu-Đảo, con vua Đồng-Khánh lên ngôi lấy hiệu là Khải-Định. Vốn là một tên ăn chơi đàng điếm quen thân từ hồi còn niên thiếu, nên Khải-Định từ khi nên ngai vàng cho đến lúc xuống đất đen, lúc nào cũng là một con cừu « của nhà nước Bảo-hộ ». Vì ngoan ngoãn, nên năm 1922, Khải-Định được chánh-phủ Pháp cho đội mũ áo sang Ba-lê làm « hề » mà mệnh danh là dự cuộc đấu xảo, và cũng vì thế nên Khải-Định đã không ngần ngại làm những điều xỉ nhục cho nhân phẩm và quốc thể Việt-Nam.

    Nấp dưới bóng mát của cha con họ Thực, và cứ đinh ninh cho mình là vua thật, nên Khải-Định tưởng ai cũng sẽ tung hô vạn tuế như các quan lại ở nước nhà. Nhưng không dè, cụ Phan-chu-Trinh lúc ấy lại « tung hô » cho bằng cách gửi đến một bức thư, lên án cho là một hôn quân vô đạo phạm 7 tội đáng giết. Bức thư này cụ Phan viết ở Marseille đề ngày 15 tháng 7 năm 1922, nguyên bản bằng Hán-văn để gửi cho Khải-Định, đồng thời cụ đưa dịch ra Pháp văn để đăng báo và phát truyền đơn đi khắp trên đất Pháp gây thành một dư luận sôi nổi vang dội về cả bên nước nhà, khiến cho thày trò Khải-Định thâm gan tím ruột mà không làm sao được. Bản sau đây là bản dịch ra Việt-ngữ năm 1926 của ông Nguyễn-kim-Đính chủ bút tờ Đông Pháp thời báo, một nhân viên trong Hội-đồng trị sự lo đám tang cụ Phan ở Sàigòn. Chúng tôi xin sao lục, để hiến quý bạn đọc.

    Bệ Hạ,

    Trinh này sống gặp lúc nước nhà điên nguy, mắt trông thấy cõi đời cái gì cũng đổi mới cả, ham mến cái văn minh dân chủ, giận cái chuyên chế quân quyền, quan lại thì tham tàn, nhân dân thì thảm khổ, thấy như thế tôi đau lòng quá, không còn tiếc gì đến thân mình, muốn kéo cái nguy cuộc lại. Năm 1907, tôi đã đưa thơ cho Chánh phủ Bảo hộ, đòi phải sửa sang một cái chánh sách mới, những điều tôi yêu cầu như lập trường học, mở hội làm ruộng, đi buôn, thay cách ăn bận theo lối Âu Mỹ, những việc tôi đề xướng đó đều ở trước tai mắt mọi người, tưởng cũng chẳng tội gì. Vậy mà Chánh phủ Nam triều lâu nay quen cái thói chuyên chế, chỉ mong sao cho vinh thân phì gia lấy một mình, thấy ai nói đến cải cách thì ghét như cừu thù, coi nhân dân như cỏ rác, ấy chính là những cái mầm cách mạng nổi lên.

    Năm 1908 xẩy ra việc dân biến, những người bị giết, bị tù chết có đến hàng mấy ngàn, Trinh này cũng bị buộc tội chết đày đi hoang đảo. Ôi ! nước Nam đứng ở dưới quyền bảo hộ của nước Pháp cũng đã lâu, vậy mà những chánh sách hủ bại ấy không thấy cải cách, cái nọc độc chuyên chế đến thế, tưởng nói ra thế giới ai cũng lấy làm lạ lùng ! Trong khi ấy nếu không có những bực chí sĩ nhân nhân nước Pháp, thể cái nghĩa bác ái bình đẳng ghé vai gánh vác cho Trinh, thì cái thân già này đâu còn có đến ngày nay. Trinh sở dĩ còn được chút sống thừa đều là nhờ ở cái văn minh của dân tộc Pháp cả. Năm 1910 Trinh được ra khỏi ngục, năm 1911 Trinh qua ngụ bên Pháp quốc, khảo cứu học thuật, 12 năm trời ở ăn các nước dân chủ, hít thở cái không khí tự do, vì vậy mà biết đặng cái công lý ở cõi đời, hiểu đặng cái nghĩa vụ làm dân, liệu coi thời thế nước nhà ngày nay nếu không mau mau kêu gọi quốc dân đây, cùng nhau hiệp lực đồng tâm cùng với bọn bạo quan ô lại kia quyết liệt một phen, đem cái ma lực chuyên chế của quân chủ đã mấy ngàn năm nay, nhổ đến tận gốc, lấp cho đầy nguồn, ra tay quét sạch sành sanh, thì quốc dân ta quyết không có ngày nào còn được trông thấy bóng sáng mặt trời nữa, tới khi nghe tin bệ hạ lên ngôi đã được 7 năm nay, mà tuyệt nhiên chưa được nghe có cái chánh sách gì hay, kiêu dâm càng ngày càng lộng, phạm danh giáo, loạn kỷ cương, biết bao những cái thủ đoạn ngang trái, nắm chặt cái quyền chuyên chế nhà vua, coi thường những luật lệ thưởng phạt nước nhà, đem máu mủ dân để cung vào sự vui sướng của mình, trái cả cái cách văn minh của nhân đạo, ngăn cả con đường tiến bộ của quốc dân, cái đức thúi tha dơ dáy lan khắp mọi nơi, không có ngòi bút nào tả ra cho xiết, xét coi cái chánh thể văn minh lập hiến ở các nước bên Âu Á, mỗi khi nhà vua có phạm điều gì, quốc dân được phép hỏi tội, dẫu nước ta bây giờ dân quyền chưa có, hiến pháp chưa lập, nhà vua còn nắm cái quyền độc đoán, nhân dân chưa được nghị luận tự do, nếu theo lấy cái đại nghĩa ấy mà làm, thời bệ hạ tất phải chịu những búa rìu của quốc dân gia vào, không thể tha thứ được. Nói ra khôn xiết, xong bây giờ hãy đem 7 tội mà bệ hạ đã phạm với quốc dân, kể cho rõ ràng, khi bệ hạ nhận được bức thư này, hãy nên tỉnh ngộ lại mà tự xử lấy mình.

    I. - Tôn bậy Quân Quyền

    Bệ hạ từ khi lên ngôi tới giờ, thường hay phát ra những tờ chiếu ép nhân dân lại để tôn quân quyền lên, đó là nghĩa gì thế ? Nước ta vốn nước sùng thượng Nho học, câu đó chính tự miệng bệ hạ nói ra, vậy thì coi trong đám nhà Nho tôn nhứt là ông Khổng, ông Mạnh ; ông Khổng đáp cái câu « một lời nói làm cho nước thịnh » có nói rằng : « Làm vua khó, làm tôi không dễ », đáp cái câu « một lời nói làm cho nước mất » có nói rằng : « Ta không thích gì làm vua, chỉ sao cho lời ta nói mà không trái thôi » – Ông Mạnh-Tử có nói rằng : « Dân quí nhứt, rồi đến xã tắc, còn vua là khinh », còn muôn vàn những câu nói khác nữa đều cùng một ý ấy. Bệ hạ thử giở các sách Ngũ kinh, Tứ Thơ ra coi có câu nói nào làm cái chứng tôn quân được không ? Vì cái địa vị của mình ở trên muôn người, thì cái tấm lòng của mình phải ở dưới muôn người, ấy là cái tinh thần của Nho giáo đó. Nếu không hiểu như thế mà cứ lên mặt hô hào với người trong nước rằng : phải tôn ta ! Phải tôn ta ! Ấy là cái đạo sắp phải tiêu mất đó. Xưa vua Kiệt nhà Hạ có câu rằng : Ta có thiên hạ cũng như trời có mặt trời, khi nào mặt trời mất thì ta mới mất. Vì thế dân cũng đáp lại rằng : Mặt trời kia bao giờ mất, ta cùng ngươi đều mất. Vua Trụ nhà Thương có nói rằng : Ta sanh có lẽ nào không có mạng tự trời ? Vì vậy dân cũng đáp rằng : Trời trông tự dân ta trông, trời nghe tự dân ta nghe. Ấy là cái chứng quân quyền tự tôn đó. Kết cuộc lại, một anh thì phải phóng ra nội Nam-Sào, một anh thì đầu treo dưới cờ Thái-Bạch. Ông Khổng-Tử có phê bình một câu rằng : Ông Thang đuổi vua Kiệt, ông Võ Vương đánh vua Trụ, đều là ứng mạng trời mà thuận lòng người cả. Ông Mạnh cũng phán đoán một câu rằng : Nghe giết đứa cô độc là Trụ, chớ chưa từng nghe nói giết vua bao giờ ! Đó chẳng phải những lời thốt ra đích đáng của những bậc chân chánh Nho học đấy ư ! Kinh truyện còn đó, đều do tay hai ông Khổng Mạnh chép ra, sao được tự dối mình để dối người ư ! Ngày nay bệ hạ phát ra những lời châu dụ ấy, có phải tự mình phản đối với Nho giáo không ? Có ông vua nào tự mình trái với quốc giáo mà lại ngồi trên người ta được lâu dài bao giờ ! Ấy nói về học thuyết Á-Đông thì như thế, còn nói về học thuyết Âu Tây, thì nước là nước của dân, đặt ra triều đình để chịu phần ủy thác của quốc dân, còn ông vua hay quan Tổng Thống thì tức là người đại biểu trong một nước, cũng như trong một công ty nào có người xếp (chef) vậy. Đã chịu phần ủy thác, đã được hưởng những quyền lợi, thì phải làm sao cho đầy đủ cái bổn phận của mình. Nếu không thế thì người trong nước ai cũng được chiếu luật mà giết đi cũng như xử một tên phạm tội kia vậy. Ấy cái thuyết bình đẳng tự do là như vậy, mà cái trách nhiệm của mấy người làm đầu quốc dân là như thế. Nếu ai coi nước nhà như một món của riêng mình, thì ví như bọn trộm cướp ; còn ai cậy cường quyền mà áp chế nhơn dân, thì ví như quân phản nghịch, sẽ đem quốc pháp mà xử trị ngay. Đến ngày nay cái nghĩa ấy đã như mặt trời chói lọi giữa trời, phàm các dân tộc văn minh ở thế giới đều cần dùng như nước lửa, lúa gạo ; tin cẩn như kim khoa ngọc luật, thuận thì được thịnh, mà nghịch thì mất ngay, các nước lập hiến đều noi theo như thế. Xưa vua Lô-dịch (Louis) thứ XIV có câu nói : « Trẫm tức là nước nhà », thì dân Pháp ai cũng cho là đại-nghịch bất đạo, đến nay nhà làm sử chép hãy còn giận chưa nguôi. Cái ý ấy cũng chẳng khác gì bên Nho giáo, ông Khổng-Tử có nói rằng : « Mình ghét những sự của dân muốn : mình muốn những sự của dân ghét, thì tức khắc có tai vạ đến thân ngay ». Ông Mạnh-Tử có câu nói rằng : « Thiên hạ là thiên hạ của thiên hạ », quả thiệt có thế. Ngày nay bệ hạ sanh ở cái nước Nho giáo, làm ông vua trong cái thế kỷ thứ hai mươi dưới quyền bảo hộ của quân Pháp là nước dân chủ, vậy mà tự tôn mình như thần thánh ngồi trên đầu trên cổ dân mà không biết ngượng ngùng gì, rõ ràng là bội nghịch với cái giáo nghĩa của ông Khổng ông Mạnh ; trái với cái văn minh của thế giới, thì không những rằng dân nước Nam này không dung, mà chắc rằng nước Pháp cũng đem lòng giận. Gần đây coi cái thời thế của các nước bên Âu Á, như nước Nhật-Bản kia vốn là nước đồng văn với ta, bốn mươi năm trước đã đặt ra thứ dân nghị viện, các việc đều do dư luận của quốc dân, nhà vua không được tự chuyên lấy một mình, đến nay thế nước cường thịnh, đứng đầu các nước phương Đông, vậy mà nhân dân còn hiềm rằng quyền vua lớn quá, mấy năm vua Minh Trị về sau, đã một lần thiếu chút nữa bị ám sát, năm trước đây quan Tể Tướng là Kính Nguyên bị đâm chết, vì cớ ấy nên ngay đến nước Tàu là nước tổ văn minh của ta, hơn mười năm trước cũng đuổi vua đi mà lập thành dân quốc. Các nước bên Châu Âu quân quyền cường thịnh nhứt không đâu bằng vua nước Nga, thứ đến vua nước Đức, vua nước Áo, tới sau thua một trận lớn rồi, vua Ni-cô-la thứ hai bị quốc dân giết, cả nhà đều bị chết một cách thảm thê, vua Uy-Liêm thứ hai thì phải trốn qua nước Hà-Lan, còn vua Sa-Lư thứ nhứt thì hai lần lén về toan mưu khôi phục đều bị quốc dân đuổi như đuổi heo, rốt lại cũng bị đày chết ở ngoài hoang đảo. Cứ như trên kia đã nói, các ông vua các nước ấy, đều là những người thấy xa nghe rộng cả, vậy mà dân trong nước còn ghét như sâu mọt, ghê như rắn rít, mỗi khi cử động một cái gì không cẩn thận, thì tự khắc có những lời bao biếm theo ngay, mưu một việc gì không lành, thì tấm thân khó lòng giữ đặng, coi đó đủ biết cái dân trí ngày nay không phải u mê sợ sệt như trước nữa. Nước ta vốn là một nước quân quyền chuyên chế, bao nhiêu chính trị ở triều đình không cho nhân dân được phép hỏi tới nhất là 80 năm trở về sau đây, vua thì dốt nát ở trên ; bầy tôi thì nịnh hót ở dưới : hình pháp dữ dội, luật lệ rối loạn, làm cho dân không còn biết sống theo cách nào. Trào vua Gia-Long dùng theo luật lệ trào Càn-Long nhà Thanh, là một cái luật chuyên chế thứ nhứt ở Á-Đông này, coi như luật ấy ban ra, quan Đại tổng-tài Nguyễn-văn-Thành là một người khai quốc công thần đệ nhứt mà chỉ vì mấy câu thơ văn nhỏ mọn đến nỗi bị giết cả ba họ, liệt tổ trào Nguyễn hơn hai trăm năm trước dựng nên cơ nghiệp này, công đức cũng đã là lớn lao, vậy mà con cháu hơn sáu mươi năm sau đây tác tệ ra như thế, đến nỗi diệt vong đều là tự mình gây nên cả. Hình pháp thì như thế, còn về giáo dục thì quá ư đồi bại, trong nước những người đeo lốt sĩ phu mà không biết một chút gì, đến nay thế nước càng ngày càng suy yếu, đến nỗi sụt xuống bậc cuối cùng nếu không núp ở dưới cờ bảo hộ của nước Pháp, thì ngày nay không biết đã trụy lạc xuống vực sâu hang thẳm nào. Cứ lấy lẽ công mà luận tội, thì mấy anh ngồi cao đứng đầu là mấy anh vua đó, phải phục tội thượng hình, dẫu chối cãi cách nào cũng không thoát khỏi, không những rằng quyền vua không tôn được, mà ngay chính cái địa vị vua cũng khó lòng giữ được. Vậy mà cha truyền con nối được đến ngày nay, thì đủ biết rằng cái dân trí bế tắc, thiệt đáng thương lắm. Từ khi bệ hạ lên ngôi, chưa nghe thấy một điều hay nào, mà những điều ác đã inh ỏi bên tai, chạy đầu này mưu đầu nọ để bước lên cái địa vị chí tôn, rồi thì tự coi mình như thần thánh, nết làm như uỷ mị ; ở ngôi vua mới được 7 năm mà những sự oán vọng của dân ta đã chất chứa đầy bụng, huống chi lại còn chực mượn thói cường quyền để tự tôn lấy mình ! Cứ những tội ác ấy, chiếu theo cái luật đối đãi quân chủ ở bên Âu Châu xưa nay thì một là đáng giết, hai là đuổi đi cũng chẳng oan gì ! Đó là một tội.

    2. – Lạm hành thưởng phạt

    Thưởng phạt là một việc lớn trong nước, tánh mạng của dân, giềng mối quan hệ vào đó. Ông Khổng-Tử có nói rằng : Hình phạt không trúng, thì dân không còn biết để chân tay chỗ nào. Ông Mạnh-Tử cũng có nói rằng : Trên không đạo theo, dưới không phép giữ, vậy mà không mất là không có. Chánh thể ngày xưa, mỗi khi trao quyền tước cho ai, thì có cả mọi người trong triều đều bằng lòng, làm tội người ở ngoài chợ, thì có cả mọi người đều vừa ý, hai điều ấy nếu không công bằng, thì quốc dân cần dùng cái chánh phủ này làm gì ! Tôi nghe đích thiệt rằng hiện nay trong triều có mấy thằng « chó chết » kia đều là những bọn cố giao của bệ hạ, ngày trước đã từng phen cùng bệ hạ vui chơi với xóm liễu vườn hoa ; dong ruổi các đầu đường xó chợ ; tới khi bệ hạ được lên ngôi thì trao ngay cho quyền tước, để ngay vào bên tả, bên hữu mình, bao nhiêu những người quen thuộc khi xưa đều cất nhắc cho làm quan cả. Lại nghe nói có quan Thị lang kia, vợ y ngày trước đối với bệ hạ có chút oán nhỏ, bệ hạ vẫn lấy thế làm hiềm, nay được lên làm vua, thì lập tức báo thù mà cách chức một cách vô cớ, lại có quan Thượng thư kia, thường hay đem việc riêng của bệ hạ nói với người ngoài, vì cớ ấy bệ hạ buộc vào trọng tội, xử 8 năm tội đồ, án đã thành rồi, sau nghe tin viên quan ấy vốn là một người giàu có, bèn chẹt lấy mấy muôn đồng bạc, rồi tha tội đày mà giáng chức đổi đi chỗ khác. Ấy những việc thưởng phạt đều là do ý riêng của bệ hạ chớ chẳng thèm ngó đến quốc pháp là gì. Lại nghe tin ở quanh mình bệ hạ, đều có đặt ra những kẻ trinh thám, có hơn 40 người, sớm tối đi rảo quanh khắp thành thị hương thôn, nghe coi có ai dị nghị mình, thì buộc vào tội, nếu không cũng tìm cách ám hại riêng, vì thế mà những bọn vô lại, mượn thế hoành hành, khách đi đường bảo nhau bằng con mắt, khổ sở biết chừng nào. Xưa kia vua Lệ-Vương nhà Châu vô đạo, sợ người ta nghị luận đến mình cũng lập cách như vậy để bịt miệng dân, rồi rốt cuộc cũng bị quốc dân phân thây ra, bệ hạ há chẳng lấy đó làm gương ư. Đó là hai tội.

    3. – Thích chuộng những sự quì lạy

    Cái phép lạy quì chẳng qua là cái biểu hiệu tôn kính đó thôi chớ một người ngồi chót vót ở trên, một lũ người áo mũ râu ria phủ phục ở dưới, không những con mắt người ngoài trông vào có vẻ ngượng ngùng, mà lại hèn cả cái tư cách của loài người đi nữa, như thế chẳng qua làm cho kẻ trên càng kiêu căng, kẻ dưới quên cả tủi hổ, thiệt là một cái lễ phép tối dã man. Đến bây giờ đây trong thế giới các nước văn minh, không đâu còn có cái thói như thế nữa chỉ còn có một đôi chỗ mọi rợ ở miền rừng núi hay miền sa mạc nào còn thế mà thôi. Vậy mà phong tục nước ta vẫn chưa bỏ, thiệt là một cái xấu hổ chung cho dân tộc ta. Năm 1906, quan toàn quyền Beau đã hạ lịnh cấm thói (lạy) ấy, song những bọn quan lại nước ta hãy còn lấy cái đó làm vinh diệu, không chịu bỏ đi, thành ra cái lệnh ấy chưa thi hành được, người trí thức ai cũng lấy làm xấu hổ. Tới khi quan toàn quyền Sarraut đáo nhậm lại sức giấy nghiêm cấm một lần nữa, quốc dân ai cũng lấy làm mừng, duy có bệ hạ còn giữ mãi cái thói mọi rợ ấy, không những không chịu bỏ đi mà lại ham như ăn uống, phô trương như lễ nghi ; mỗi khi trong triều có làm lễ mừng gì, bệ hạ vênh mày ở trên, các bầy tôi rút đầu ở dưới ; rồi lại cho người chụp hình, để truyền bá đi khắp trong nước, đến nay những bức hình ấy không những còn lưu hành ở trong nước Nam mà, đến cả các nước bên Âu Mỹ chỗ nào cũng thấy có. Khi bệ hạ qua Pháp quốc, các quan đại thần tiễn chân đến bến Tourane, còn làm một cuộc đại lễ nữa. Khi tới bến Marseille cũng vậy. Ôi quì lạy chẳng phải là cái lễ văn minh, ông vua chẳng phải tôn như ông trời, thần dân chẳng phải là một loài nô lệ, bến xe chẳng phải là chỗ miếu đường, bến tàu chẳng phải là chỗ chào mừng, vậy mà đặt mũ áo xuống bùn than, coi loài người như trâu ngựa, chỉ bày trò cho người nước ngoài khi, và làm cho mất cả danh dự chung của quốc dân, ai cũng lấy chỗ làm tủi nhục, duy có bệ hạ lại lấy thế làm hãnh diện mà vui lòng làm, nếu không phải là « chí ngu » thì đâu có đến nỗi thế ; cự dĩ chi sai người lấy sáp nắn tượng hình những khi triều hạ bày ở trường đấu xảo Marseille, để khoe khoang với các nước, bệ hạ thì tay cầm hốt ngọc, mình dựa ngai vàng, ngất ngưởng ngồi trên, các quan lớn nhỏ thì mặc đồ triều phục, cúi đầu nhắm mắt, phủ phục ở dưới, trông chẳng khác gì bầy rái tề cá, lũ khỉ làm trò, thiệt không biết sự xấu hổ của loài người là gì ; các người thức giả Âu Tây trông thấy đều bụm miệng cười thầm. Về phần bệ hạ đã mặt dày mày dạn không biết xấu hổ là gì thì đã đành rồi, nhưng còn nhơ nhuốc cho quốc thể thì sao ? Ông Mạnh-Tử có nói rằng : Vua coi bầy tôi như chó ngựa, thì bầy tôi coi vua như khách qua đường ; vua coi bầy tôi như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như cừu thù. Bầy tôi còn như thế huống chi về phần dân thì chẳng nói cũng biết rồi. Vậy bệ hạ đối với quốc dân là người thế nào ? Là khách qua đường chăng, là cừu thù chăng ? quốc dân nên xử trị bằng các nào mới đáng ? Đó là ba tội.

    4. - Xa xỉ quá độ

    Tại xã An-Cựu, bệ hạ lập nên cung điện lâu đài, rất là tráng lệ, lại mua các đồ sứ cổ ở bên Tàu mỗi thứ có tới ba, bốn ngàn đồng bạc đem về đập bể để chắp hình long lân, lại phí không biết bao nhiêu là vàng, mướn người Tây đúc tượng mình ba bốn cái cả đến áo mũ giày dép, đều là trang sức bằng vàng ngọc bửu thạch đem qua bày ở trường đấu xảo Marseille ; sự xa phí ấy đến cả châu Âu châu Á xưa nay đều chưa từng đến thế. Bệ hạ trước khi lên ngôi làm vua, túng kiết nợ nần thế nào, phần nhiều người trong nước đều biết cả, ngày nay may gặp giàu, sang, đã không biết nghĩ đến tấm thân của mình ngày trước thì chớ lại tiêu càn phí bậy, món tiền không phải lấy ở trong túi của bệ hạ thì chẳng phải là món tiền mồ hôi nước mắt của dân đấy ư ? Lại nghe nói bệ hạ đi Tây, trong khi ở dưới tàu hàng ngày đem rượu xâm-banh ra đãi các hành khách, nguyên một món tiền bồi cho tàu có đến hai mươi lăm ngàn quan tiền Tây ấy là chưa kể đến kim tiền kim khánh muốn cho ai thì cho nữa. Ôi cái xứ Trung-Kỳ nhân dân theo nghề làm ruộng, nghèo khổ đến cực điểm lại còn nay hạn may lụt, thiên tai xẩy đến luôn luôn, còn thêm quan tham lại nhũng, đất xấu dân nghèo, gia dĩ trong khi có cuộc Âu châu chiến tranh, đồ ăn thức dùng cái gì cũng tăng giá, cái thảm trạng lưu ly đói rét, đến nay còn chưa hết ; lại thêm sưu thuế nặng nề, gánh chịu không nổi so với hai xứ Nam, Bắc thì xứ Trung-Kỳ lại khổ bội phần hơn. Không nói đâu xa, cứ nói ngay từ năm 1916 tới năm 1918 là những năm bệ hạ lên làm vua, nội miệt tỉnh Thanh-hoá, Nghệ-an, Hà-tĩnh, Thừa-thiên, Quảng-nam, Quảng-nghĩa nhân dân bị bão, bị lụt, bị hạn, bị bệnh dịch hàng ngày trên báo chương kêu la không dứt, cái cảnh tượng thương tâm thảm mục đến thế là cùng ! Bệ hạ ngồi trên muôn dân, mà chưa từng nghe làm một việc gì hay để cứu lấy kiếp sống thừa của con người, quyên một chút đỉnh gì để đỡ cơn đói khát của dân, vậy thì cái thân bệ hạ đối với quốc dân tuyệt vô quan hệ đã lâu lắm rồi ! Đã vậy mà ngày nay còn dám ăn cắp tiền của nước làm của riêng mình mà tiêu xài xa phí, đem những của mồ hôi nước mắt mà liệng vào chỗ không đâu, cứ những cái cử chỉ như thế, thì bệ hạ còn có tư cách gì mà đứng trên đầu nhân dân nước ta nữa ! Ví thử bệ hạ lấy cái món tiều dựng cung thất ấy, mà dựng ngay một trường học lớn tại kinh thành ; lấy cái món tiền mua đồ trang sức và đúc tượng đồng, mà mua những đồ bày biện trong nhà trường, và dùng làm lương bổng của các giáo sư và học sinh ; lấy những món tiền phung phí ở dưới tàu để trợ cấp cho các lưu học sinh Việt-Nam ở bên Pháp, thì món tiền có lợi ích biết là dường nào ! Ôi cái tình cảnh của dân nước ta ngày nay, cần cù suốt một năm trời đổ mồ hôi, xót con mắt, vợ la đói con la rét không kể, ngoài mình không có một manh áo, trong bụng không có một hột cơm không kể, chỉ ngày đêm cặm cụi làm sao có đủ món tiền mà nộp sưu thuế cho nhà nước, vậy mà ngày nay lại phải chịu đau đớn, hiến tiền của để cung cấp cho thằng hôn quân kia nó huy hoắc thì có khổ hay không ? Trong cái lúc bệ hạ tiêu xài huy hoắc thế, có nghe biết cái việc làm của quan Đại Tổng Thống nước Tàu là Lê-nguyên-Hồng không ? Y vì thấy chính-phủ Tàu nghèo, bèn tự nguyện đem cái món tiền lương của mình hàng năm là ba triệu rưỡi quan tiền Tây dâng lại quốc dân để làm việc hữu ích, báo Tây khen mãi không thôi ! Ôi ! nước Tàu là một nước đất rộng tiền nhiều, bạc lắm, khắp cả thế giới không đâu bằng, lại là một nước độc lập, vậy mà cái ông Tổng Thống lo dân thương nước kia, còn không muốn lãnh cái món tiền lương của mình, sợ để thiệt thòi cho quốc dân, huống chi bệ hạ là một cái ông vua ở nước bị bảo hộ, cứ cái địa vị thì còn ở dưới quan Tổng Thống toàn quyền đại thần kia ; danh hiệu chẳng qua đối với bọn nô lệ, công nghiệp không hơn gì một người tầm thường ; vậy mà dám để mình như ông trời, làm việc như trộm cướp, mỗi một năm ngoài những món tiền lương bổng ra, lại còn thêm tu tạo cửa nhà, chơi bời lãng phí, tính lại không biết bao nhiêu kể ! Khi bệ hạ gửi bức thư cho quan thuộc địa đại thần, trong đó có câu xưng mình là cha mẹ của dân, nước Nam vốn là một nước trọng cái gia đình luân lý, có khi nào lại sinh ra cái thứ cha mẹ bất lương thế bao giờ ! Tưởng nên đổi là một tên giặc chung của dân thì phải. Đó là bốn tội.

    5. – ĂN BẬN KHÔNG PHẢI LỐI

    Bệ hạ tự mình chế ra những thứ lễ phục lối mới, mỗi khi lâm triều đều có mặc, cái mốt (mode) áo chiến bào của bệ hạ mặc, xung quanh rẻo áo và hai cổ tay đính bằng vàng ngọc, đeo một chuỗi bửu thạch vàng bạc sáng ngời, trông không ra Âu mà cũng chẳng ra Á, lại thêm trên cái nón của bệ hạ có vẽ hình rồng phụng năm sắc, nghe nói khi quan Thống Chế Joffre qua nước Nam, bệ hạ bận cái áo ấy ra nghinh tiếp, lần này qua Pháp, đến viếng mồ chiến sĩ vô danh, bệ hạ cũng mặc áo đó, may sao người Pháp không để ý gì đến những việc lễ chế nước ta, nên cũng không ai biết, ví phỏng có người Pháp nào biết đến hội điển Việt-Nam, mà hỏi gạn rằng : chẳng hay cái áo của bệ hạ mặc đó có phải là áo quân phục của nước Việt-Nam không ? Thì không biết bệ hạ sẽ đáp lại thế nào ? Ôi, lễ phục các nước trong thế giới này đều có định chế cả, những khi tiếp khách cùng triều hội, nhứt cử nhứt động đều có quan hệ đến quốc thể, nếu sơ xuất một chút thì đối với người nước ngoài mang tội trái phép, nước ta ngày xưa, đối với việc này, lấy làm cẩn thận lắm, trên từ Thiên-tử, dưới đến thứ dân, đều có thể lệ, khuôn phép riêng, chép vào hội điển, truyền làm lệnh chung, nếu có sai trái điều gì, thì sẽ có hình phạt theo ngay, nếu ngày nay bệ hạ cho rằng lề lối xưa không hợp với nay nữa, phải nên cải cách lần lần cho hợp thời thế, thì sao bệ hạ không bắt chước ngay công phục nước Nhựt, nước Tàu, hay bắt chước ngay các nước bên Tây, dựng nên thể lệ, rồi công bố cho quốc dân biết mà noi theo ? Lẽ đâu bệ hạ tự chế ra rồi tự mặc lấy, đối với bề trong thì người trong nước quan chiêm vào đã không chánh đáng gì ; đối với bề ngoài thì con mắt người ngoại quốc trông vào, chỉ thêm làm nhục cho quốc thể, so vào quốc pháp, nên đem ra trừng trị, không còn tha thứ được. Đó là năm tội.

    6. – Tội chơi bời

    Bệ hạ từ khi lên ngôi tới giờ, cái nghi vệ đế chế, càng ngày càng thấy lộng lẫy thêm, mỗi khi ra đi chơi, lúc thì cỡi voi, lúc thì đi xe ngựa, những bộ hạ theo hầu, nhiều tới hơn trăm, ít cũng tới ba, bốn mươi người, chiều sớm chiều hôm dong ruổi ở các nơi đường sá chợ búa, những đồ trang sức loè loẹt, những cái nghi trang hách dịch, cùng những kẻ bộ hạ kiêu hãnh, thiệt là nước Nam tự năm sáu mươi năm tới giờ chưa từng thấy ông vua nào như thế, các người đi đường khốn nỗi trốn tránh, các dân cư chán chường về nỗi huyên náo, vậy mà bệ hạ vẫn dương dương tự đắc, có ý khoe khoang cho người ta biết mình đây là vua là sang đến như thế nào !... Xét luật pháp các nước văn minh, không có cái quyền lợi nào ra ngoài được giới hạn, ngày nay bệ hạ tự tôn cái quyền làm vua quá, bao nhiêu oai phước đều do tự nơi mình, còn như chính trị bê trễ, không lưu tâm đến, nhân dân đói rét, không để ý đến, chỉ đi chơi hoang suốt ngày, không tiếc gì đến thì giờ và tiền bạc, như bệ hạ thì thiệt là tôn vinh đấy, nhưng còn quốc dân tật khổ thì sao ? Có phải bệ hạ chỉ là người biết hưởng lợi quyền mà không biết làm bổn phận không ? Nếu chiếu vào luật thì nên ghép vào tội phóng khí trách nhệm, lầm nước hại dân, nên đem ra làm chánh pháp. Đó là 6 tội.

    7. - Chuyến này đi Tây có một sự ám muội

    Bệ hạ chuyến này qua nước Pháp, phàm người trong nước ta có quan tâm đến quốc sự đều đem lòng suy nghĩ, trước còn la, sau thì giận rồi kế ùm lùm, chỉ trông nhau mà cười. Bệ hạ mượn tiếng rằng đưa Hoàng-tử đi du học, và viếng đài Việt-Nam quân sĩ trận vong cùng là coi xem các nơi bị tàn phá ở phía Bắc nước Pháp. Nhưng đó đều chẳng qua là cái việc riêng của bệ hạ, một người thôi, chớ chẳng phải là việc chung của quốc dân. Và những việc ấy cũng chẳng phải cần kíp gì ! Hay bệ hạ mượn tiếng rằng qua du lịch nước Pháp để khảo sát các văn minh đem về mà sửa sang quốc chính lại, thì bệ hạ không phải là cái người như thế, vì nước Pháp là một nước dân chủ, mà bệ hạ là ông vua tôn quân quyền, chẳng khác gì đem cái hình vuông mà đút vào ống tròn, không ăn nhập gì với nhau cả. Huống chi bệ hạ là người không hiểu tiếng Pháp, còn các quan đại thần đi theo như mấy tên kia đều là một bọn hạ lưu ở nước ta, so bề trí thức còn thua kém đứa con trẻ mười tuổi ở nước Pháp. Và trong khi bệ hạ ở Paris, chỉ được nghe chuyện mỗi khi coi đua ngựa, trả đến 200 quan tiền Tây, sau thấy tờ Thần báo bên Pháp đăng : « Vua An-Nam mỗi khi bước chân ra đến ngoài, dấu chân đều đầm đìa những nước bông, và vô các tiệm bán đồ kim ngọc nữ trang thì tỏ ra bộ rành biết các giá cả lắm». Ấy cái con mắt quan sát của bệ hạ chỉ có thế mà thôi, ngoài ra các nơi như viện bác vật, nhà bác cổ, trường học lớn, xưởng to, và các chỗ biểu hiện cái văn minh của người Pháp thì chưa hề thấy bệ hạ để bước tới, mượn cớ rằng đi coi trường đấu xảo thuộc địa Marseille, thì hỏi rằng trường đấu xảo ấy có những gì, chẳng qua lại mấy món đồ của người trong nước, như Bắc-kỳ, Nam-kỳ, thì cũng ở dưới quyền quản trị của người Pháp, ngoài ra còn có gì khéo lạ nữa, còn như núp dưới quyền chuyên chế của bệ hạ là 12 tỉnh Trung-kỳ, sĩ phu thì lòng đen như mực, nông dân thì nghèo đói chí tử còn có gì gọi là khéo nữa. Hay muốn nói cái khéo thì duy có bệ hạ và một bọn quan lại kia lạy quì khéo, nịnh nọt khéo, ăn của hối lộ khéo mà thôi. Tiếc rằng cái bọn quỉ mị ấy, nếu ở vào thời kỳ nước Pháp sáu bảy mươi năm trước thì đã liệng vô nước lửa hay đã hiến cho sài lang rồi, bệ hạ ngày nay dẫn dắt tụi ấy đi chắc cũng biết rằng ngoài mình với tụi ấy ra thì không còn ai đâu xứng đáng được nữa. Lại nghe bệ hạ đi qua Pháp có mang một cái sự ám muội ai dòm vô cũng dễ trông thấy, số là vài năm trước bệ hạ có một tay quyền thế kia nâng đỡ lên làm vua, khi đã được làm vua rồi, mượn cái oai chuyên chế vét cho hết những của cải của nhân dân để mua sắm các đồ quí của các nước và thâu hết của báu của lịch triều để lại nơi miếu đường cộng cả thảy có đến hơn trăm rương ngày nay mang hết qua bên Pháp, rồi nhờ mấy người Pháp kia vận động ton hót với đảng quân chủ để bảo hộ cho được vững vàng cái địa vị làm vua của cha con mình, và nhờ làm hậu viện cho đạt cái giấc mộng tôn quyền của mình để hống hách, để khóa miệng người trong nước lại rồi sau sẽ ký ngầm mấy cái điều ước gì đó để báo đáp lại. Ấy cái việc của bệ hạ định như thế, dầu thuộc sự bí mật, song quốc dân ngày nay ai cũng nghe biết cả rồi, ngạn ngữ Tây có câu « Không có lửa sao có khói ». Nếu bệ hạ không thế sao lại có lời đồn đãi kia ? nhưng tưởng là cái kế gì chớ cái kế ấy thiệt là vụng tính lắm. Bệ hạ muốn cho bền chặt cái địa vị quân chủ của mình mà lại đi cầu khẩn với một nước dân chủ, Trinh này biết chắc việc cầu này chẳng xong nào ! Chỉ có bệ hạ ngu dốt chưa từng đọc đến những lịch sử dân chủ cách mạng của nước Pháp đó thôi. Nếu biết rõ, thì chỉ có cúi đầu, đoản hơi, tự lấy làm hổ thẹn, chớ nói gì được nữa. Này hãy coi lúc thế kỷ 18 bên Âu-châu, cái quyền quân chủ nước Pháp lên tới cực điểm, thưởng phạt tự theo ý mình tự nhận mình là Nhà Nước, coi nhân dân như tôi, mọi, phung phí tiền của như đất bùn, nào sửa sang cung điện, nào chơi bời xa xí, phục sức hoa mỹ, lạy quì tôn nghiêm, có phần lại hơn bệ hạ bây giờ.

    Song trò đời nếu cùng quá thì phải trở lại, là lẽ tự nhiên, vậy cho nên trong lúc bấy giờ đã có những bậc danh nhân nước Pháp như ông Lư Thoa, ông Mạnh-đức-tư-Cưu, ông Phúc-lộc-đặc-Nhĩ, v.v..cùng nổi lên mà đề xướng cái chủ nghĩa dân quyền, không đầy mười năm mà thế lực ảnh hưởng khắp cả toàn Âu, dân tộc nước Pháp là một dân tộc đi đầu trước nhứt, một người vung cánh tay hô lên, bao nhiêu người hưởng ứng, dầu đến rơi đầu đứt tay, cũng càng té càng dậy, lại tiếp theo, lại phấn chấn hơn nữa. Vì thế nên mới tấu được khúc khải ca, mà cái đầu vua Louis thứ XVI mới treo cao ở đoạn đầu đài. Bệ hạ cũng nên lấy đó làm gương. Ngày nay bệ hạ chơi thành Paris, hẳn cũng ngó thấy bên đường có đúc những tượng đồng cao lớn, đó đều là những bậc anh hùng hào kiệt đã hy sinh với cái chủ nghĩa dân quyền ấy ! Một cái tượng đúc hình một vị nữ thần tay cầm bó buốc tự do, ánh sáng chói lọi, chiếu khắp ba ngàn thế giới, tức là vị thần dân chủ đó. Phàm trong cõi đời này, ông vua nào vô đạo thì sẽ bị vị thần ấy không dung tha ! Bệ hạ đã qua đấy cũng nên bớt chút thì giờ chơi bời, đến viếng những nơi cung điện ở Versaille, thăm cái di tích của ông vua vô đạo ngày trước mà tự xét lấy mình. Từ ngày vua Louis chết rồi, nước Pháp đổi ra chính thể dân chủ, nghị viện do dân cử lên, bao nhiêu những quyền lập pháp, hành chánh cùng cất đặt các quan đều do viện ấy cả. Tới nay cái chính thể quân chủ chuyên chế đã hầu tuyệt tích ở trên thế giới này, mà nhân loại còn được hưởng cái hạnh phúc tự do là đều do ở cái công lưu huyết của dân tộc Pháp cả đấy ! Bệ hạ sao không thương thuyết với quan Thuộc địa đại thần mà đi chơi chỗ cung điện Bao-bông, cho được cho được thấy cái khí tượng bình đẳng tự do của một quốc dân cộng hòa so sánh với cái chính thể chuyên chế hắc ám của nước ta hơn ngàn năm nay, rồi mới biết cái dân quyền chủ nghĩa khác nào thần thánh không thể xâm phạm được, sau này nó sẽ bồng bồng bột bột như mặt trời lên cao soi khắp thế gian, mà cái chính thể quân chủ kia sẽ bị như chuột lủi, chó chạy, không còn biết ẩn núp vào đâu được nữa, đến ngày nay thế giới đã tặng cho dân tộc Pháp một cái huy hiệu là « mẹ dân quyền ». Ấy cái danh dự của nước Pháp, dân Pháp như thế, vậy mà ngày nay bệ hạ toan đem mấy trăm rương châu báu kia giá đáng bao nhiêu mà dám mong thi hành cái kế hoạch đem tiền tài ám nhãn cả một dân tộc văn minh, nghịch cái phong trào của thế giới, trái cả công lý của nhân đạo, nhơ nhuốc cả cái vinh quang của quốc dân, để mong nắm chặt cái vận mạng quân chủ chuyên chế của mình, thì còn mặt mũi nào đối với thế giới, vạn quốc nữa ! Đó có phải là bệ hạ tự mình khi lấy mình không ? Cái công cuộc của bệ hạ mưu định trong chuyến đi này hẳn là thất bại đã đành rồi, nhưng chỉ tiếc cho sáu, bảy triệu bạc mồ hôi nước mắt của quốc dân và cái kho bửu tàng vô giá của nước nhà mấy trăm năm, ngày nay bệ hạ liệng theo dòng nước biển Tây mà trôi đi cả. Đó là 7 tội.

    Trở lên trên 7 tội đó, đều là kể những điều có quan hệ với quốc kế dân sanh. Còn những tội lặt vặt khác thì không thể kể xiết, hoặc là những việc không quan hệ gì đến quốc sự, hay việc riêng của một người, nên chẳng sá bàn chi. Ôi ! thế giới ngày nay, dân trí tiến bộ, một ngày cách xa hàng ngàn dặm, các ông vua ở các nước lập hiến bên Âu bên Á vài mươi năm trước đây đều đã đem cả các chính sự lớn nhỏ của nhà nước, hai tay dâng lại cho quốc dân, không dám hé răng một tiếng nào, chỉ mong sao cái địa vị mình không phải trụt xuống vực sâu hang thẳm đã cho là hạnh phúc lắm rồi. Vậy mà đối với quốc dân vẫn chưa được yên nào, họ vẫn chực đuổi cút đi để tới mãi cái bình dân chủ nghĩa mới là khoái ! Vậy nên tự nay trở về sau, trong thế giới này còn ông vua nào đứng lại được nữa cũng chẳng qua như lúc nước xuống, không bao lâu sẽ bị cuốn hết ra ngoài biển. Chẳng lựa là người trí giả, cũng đã thấy rõ rồi. Không nói đâu xa, nói ngay trong cái thời kỳ Âu chiến đây, bị quốc dân giết cùng đuổi đi cũng có đến 18 vị vương và 3 vị hoàng-đế. Bệ hạ là kẻ dốt nát, tự cao tự đại trong xó nhà, nên không nghe biết đấy. Nước ta xưa nay chính thể do tay một ông vua cầm, quan lại hiền hay ngu, chính trị phải hay quấy, quốc dân không được phép hỏi đến, như trên kia tôi đã nói kỹ rồi, tới nay thế nước ngày càng hèn yếu thêm mãi, đến nỗi không còn được kể vào là một nước ở trên thế giới này được nữa. Nay hãy ngó quanh các nước trong vùng Đông-Á như nước Tàu nước Nhật không kể đến rồi. Ngay đến nước Xiêm, trước kia vẫn là nước thần phục mình, mà ngày nay đã nghiễm nhiên đứng vào hàng bình đẳng với các nước. Còn nước ta thì sao ? Vì sớm biết tỉnh ngộ, vài mươi năm trước đây, nhân nương náu ở dưới tay người Pháp, mau mau thoát ly cái dây trói chuyên chế, bài trừ cái nọc hại quan lại trộm cướp. Công thương làm sao cho phát đạt, nông lợi làm sao cho chấn hưng, thì dân ta có đâu đến nỗi như ngày nay ! Đến nỗi như ngày nay đó là tội ở ai ? Không những cái ông vua hiện tại bây giờ phải mang lấy trách cứ, mà cả đến những ông vua trở về trước cũng không trốn khỏi cái công luận búa rìu của quốc dân gia vào nữa. Ôi, cái phong trào ở ngoài thế giới như thế, mà cái tình thế ở trong quốc dân như kia, cái ngai vàng của bệ hạ chẳng khác gì trứng để đầu đẳng, thiệt có như câu vua Hiến-đế nhà Hán nói rằng : cái mạng của trẫm không biết ở ngày nào ! Cái mạng của bệ hạ ngày nay cũng như vậy. Mà bệ hạ còn ngu muội không biết gì nên tự coi mình như thần thánh. Dân oán không biết, ai nói không nghe, thiệt là nghịch thời thế, trái nhân tâm, toan đem cái tro tàn chuyên chế, đốt tiêu cái dân trí tích tụ đã lâu ngày, vét hết báu nước, thâu sạch của dân, quên cái khổ muôn người, toan sự vui sướng riêng một mình. Ôi ! đất nước Việt Nam này có phải đầy tớ riêng của bệ hạ đâu ! Bọn quan lại rút của dân đã chán rồi, bệ hạ lại đào khoét thêm vào : máu mủ dân Việt-Nam chưa hết, nên bệ hạ còn hút cho đã nữa phải không ? Cái danh hiệu nước Việt-Nam này còn chưa được nhơ nhớp, nên bệ hạ phải làm cho xấu thêm, để người ngoại quốc trông vào chê cười khi thị nữa phải không ? Ôi ! Nước ta có tội gì mà phải chịu cái nghịch báo ấy ? Dân ta có tội gì mà gặp cái thứ vua quỷ ấy ? Nếu không tìm cách mà trừ bỏ đi thì cũng đến chết theo với loài yêu quái ấy mà thôi. Trinh này viết đến đây, thì bút đã cùn rồi, tay đã mỏi rồi, giấy đã hết rồi, mực đã cạn rồi, mà còn muốn nói chưa dứt lời. Những điều của Trinh bày tỏ ra đó, chẳng phải công kích riêng một mình bệ hạ đâu, chính là công kích đứa hôn quân đó. Ông Mạnh-tử có nói rằng : « tôi có muốn nói nhiều đâu, cực chẳng đã nên phải nói thôi » ! Ấy cái tâm sự của Trinh này cũng như thế đó. Bệ hạ nếu còn một chút thiên lương mà biết hối ngộ ra, biết tin rằng quân quyền không có thể cậy được, dân quyền không có thể đoạt được thì hãy mau mau quay đầu lại mà thoái vị ngay đi, đem chánh quyền giao trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực tiếp ngay với chính phủ Pháp mà làm công việc, để mưu sự ích lợi sau này. Vậy, may ra quốc dân còn thương cái lòng mà tha cái tội đi, ấy là cái kế sách của bệ hạ ngày nay không còn gì hơn nữa. Chớ ví bằng thói cũ không chừa, choán cái ngôi chí tôn, ra cái oai chuyên chế, hãm chìm quốc dân xuống cái vực sâu hang thẳm kiếp kiếp đời đời, thì Trinh này sẽ bố cáo với quốc dân và thương thuyết với chính phủ Pháp, lãnh mạng hai mươi lăm triệu đồng bào Việt-Nam, cùng với bệ hạ tuyên chiến một trận kịch liệt, hễ cái ngày nào đầu Trinh này rớt xuống đất tức là cái ngày quân quyền của bệ hạ chìm xuống đáy sâu, kẻo lại trách rằng Trinh không bảo trước.

    Bức thơ này một bản viết bằng Hán văn gởi cho bệ hạ, ngoài còn dịch ra chữ Pháp để đăng lên các báo, và phát đơn ra để cầu người Pháp công đoán.

    Một là vì Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thơ này không phải « dâng lên » cho bệ hạ, mà chính là « gởi cho ». Hai chữ « bệ hạ » mà tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó thôi.

    Một là Trinh vì vốn người theo Khổng giáo, nên không theo cái lễ phép chuyên chế đặt ra từ đời Tần-thuỷ-Hoàng trở về sau, cái tên huý của vua không dám nói động đến, nước Tàu nước Nhật bỏ đã lâu rồi, chỉ còn có nước Nam đó thôi, ngày nay Trinh này đề thư cứ gởi ngay cho « Bửu Đảo » là cái tên huý của bệ hạ, để tỏ ý phản đối.

    Marseille, le 15 Juillet 1922
    Phan-chu-Trinh​
     
    tieungao thích bài này.
  14. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa

    Nước Việt-Nam ta là nước tôn sùng Nho giáo và trước đây là một nước theo chánh thể quân chủ.

    Nhưng trong mấy nghìn năm, người dân Việt-Nam có theo đúng tinh thần Nho giáo không ? – hay Nho giáo đã bị các triều đại phong kiến xuyên tạc và lợi dụng để dần đưa dân tộc đi đến chỗ yếu hèn. Nhất là dưới chính thể quân chủ thời Nguyễn triều. Triều đại này về mạt vận đã trở thành một thứ triều đại bù nhìn cho thực dân sai khiến. Nước đã yếu, dân đã hèn, ngai vàng mũ miện đối với thế kỷ văn minh Âu Á đã trở thành những đồ chơi, những con múa rối cho thiên hạ mua cười và kinh bỉ. Thế mà cái quân chủ vẫn còn một số người sùng bái, cái học từ chương (vốn không phải của Nho giáo) vẫn được duy trì, mạo nhận là cái học của ông Khổng ông Mạnh để ngu dân và che mắt mọi người.

    Cho nên theo nhà cách mạng Phan-chu-Trinh, thì muốn tự chủ, độc lập, người Việt-Nam ta phải bỏ cái chính thể và cái học hủ bại ấy đi. Không thì chẳng có bao giờ bước chân lên đường khai hoá được.

    Vậy cái học ấy và cái chính thể ấy đã gây hại cho dân nước thế nào ?

    Chúng ta hãy xem lại bài « Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa » này của cụ diễn thuyết trước hàng vạn thân sĩ và đồng bào tại nhà Hội Việt-nam ở Sài-gòn tháng 11 năm 1925.

    Thưa các anh em, chị em đồng bào.

    Từ khi tôi biết cái học mới đến bây giờ, thì trong trí tôi bực tức, ngẫm nghĩ lấy làm lạ quá. Lạ vì trong xứ Á đông này có bốn nước đồng văn, mà đều sùng cái chính thể quân chủ, đều sùng thượng Nho giáo. Vậy làm sao mà từ hồi cái văn minh bên Âu Châu tràn sang cõi Á-Đông đến nay thì chỉ có người Nhật Bản bỏ ngay cái học cũ mà theo lối mới, thì sự giàu mạnh trông thấy liền trước mắt, chừng trong bốn năm mươi năm mà đã sánh với vai liệt cường ? Còn nước Xiêm ở gần bên ta, thì nó lại chẳng có đạo Nho gì hết, nó chỉ có đạo Phật mà thôi, mà nay nó cũng đứng vào hạng vạn quốc bình đẳng, tại làm sao mà được như thế ?

    - Chẳng có sự lạ, hễ người Anh lại nó cũng cho vào, người Pháp lại nó cũng cho vào, người Mỹ người Đức lại nó cũng đãi tử tế, để nó học lấy cái hay của mấy nước đó.

    Chỉ chừa ra có ba nước là nước Tàu, nước Cao-Ly và nước ta dân thì nghèo nước thì yếu, cái phần người dốt nát chiếm 80 phần trăm. Còn gọi là thượng lưu, trung lưu chẳng qua là trong bọn « bát cổ » Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đã chiếm hai phần ba trong nước, thật chẳng biết cái Nho học là gì, mà cũng nhắm mắt lại chê càn cái văn minh mới là mọi rợ ! (Đây là tôi nói Cao-Ly và Tàu, còn Việt-Nam ta để tôi nói lại sau).

    Nhưng mà nay cái phong trào trong thế giới nó mãnh liệt lắm, ai thuận theo nó mà đi thì thuận buồm xuôi gió, ai không thuận theo nó thì cũng bị xô đẩy mà đổ lướt đi như cỏ rác.

    Vậy cho nên bọn thiếu-niên Cao-Ly họ đã tỉnh dậy, mới có cái hồi vận động năm 1919, làm cho Nhật-Bản phải bỏ lòng hổ lang đi, mà trả cái tự do lại cho họ ; nước Tàu thì có sự vận động bọn thanh niên năm 1925, làm cho liệt-cường thể nào cũng phải lấy sự công bình mà đối đãi lại với họ.

    Khốn nạn thay cho cái dân tộc nước Việt-Nam ta, đến bây giờ trong dân tộc mà gọi là các ông Nho học tức là các ông có học được ít chữ Tàu ; mà nhất là các ông đã đậu được cử nhân, tiến sĩ ; các ông đó tôi dám chắc rằng không hiểu Nho giáo là gì hết ; vậy mà hễ mở miệng thì cứ đem Nho giáo ra để làm chỗ dựa, để bài bác cái văn minh kim thời, tức cái văn minh mà các ông tuyệt nhiên không hiểu được một chút nào cả.

    Còn nói về các anh thiếu niên tân học, trừ ra có đôi anh tự cái sức thông minh của mình mà tìm kiếm ra thấy được nhiều ít kỳ dư thì chỉ theo cách học cũ : mong kiếm lấy cái chức phẩm gì, hay là coi cho rộng để viết lách khoe khoang mà thôi. Không có ông nào chịu đem cái sự học của Âu Tây để so sánh lại với cái học cũ của ta, xem điều gì hay, điều gì dở cho người ta xét đoán mà tìm lấy đường tiến tới về sau.

    *

    Tôi xin lỗi các anh chị em đồng bào, cái đề mà tôi lựa để diễn thuyết bữa nay, quân trị chủ nghĩa (tức là nhân trị chủ nghĩa), dân trị chủ nghĩa (tức là pháp trị chủ nghĩa), cái đề mục đó thật là lớn lao quá, không phải là sức tôi có giải quyết ra cho minh bạch được. Muốn giải quyết ra cho minh bạch thì phải tìm về Âu Á lịch sử chính trị học và chính trị triết học, mới có thể nói ra cho tinh tường được.

    Các anh em, chị em có lạ gì tôi : cái học về đường lịch sử chính trị Tàu thì tôi cũng hiểu được ít nhiều, còn về đường tây học thì thật là kém lắm. Nhưng mà tôi cũng rán hết sức, đem cái việc mà tôi đã biết xin nói ra để anh em nghe, còn các việc gì cao xa không thấu, thì để phần ông nào hiểu hơn tôi diễn giải ra cho anh am chị em rõ.

    NÓI VỀ CÁI LỊCH SỬ QUÂN TRỊ CHỦ NGHĨA

    Cuộc quân chủ đến ngày nay thì cũng như một cái hoa tàn lá héo phất phơ trong đời bây giờ.

    Xem như trong một cái cõi Á-Đông này – không kể những ông vua đã mất nước rồi mà những nước mạnh họ chỉ để làm con nộm, con bù nhìn để đè dân bổn xứ - thì chỉ có vua Xiêm và vua Nhật đủ quyền phép đáng xưng là ông vua mà thôi. Âu Châu bây giờ dân chủ đã đến 14 nước mà quân chủ chỉ sót lại có 12 nước. Còn bênMỹ Châu thì chẳng có một nước nào quân chủ. Vậy thì ta có thể nói quyết rằng : trong trái đất này chỉ có 8000 triệu người, mà số dân có vua thì không được một phần trong số mười.

    Vẻ vang thay cái oai quyền quân chủ ! Gớm ghê thay cái dục vọng của quân chủ ! Đang hồi thượng cổ, trung cổ, dân chúng còn hèn yếu ngu dốt, cho nên bất câu loài dân nào cũng phải có cái quyền quân chủ để bao bọc cho dân ; đang cái thời đó thì quân chủ thật là một vị thuốc rất hay cho loài người hồi đó.

    Khốn nạn thay cái tính loài người : thấy người ta tôn trọng mình bao nhiêu thì mình lại thêm kiêu hãnh bấy nhiêu ; thấy người ta kính nể mình bao nhiêu thì mình lại càng tự thần tứ thánh bấy nhiêu ; thấy người ta chiều chuộng mình thì mình lại muốn ngồi lên đầu người ta ! Không những thế, lại muốn truyền cho con cháu đời này qua đời khác, như cái gia tài riêng của mình. Đất muốn cho ai thì cho như là bán ruộng, còn dân thì làm như bọn mọi vậy.

    Ta thử xem từ xưa đến nay, bất cứ vua nào, hễ cướp được nước lên làm vua thì tìm đủ cách để truyền cho con cháu cho lâu dài, mà rốt cuộc lại họ nào lâu lắm thì trăm năm, còn mấy họ vắn thì năm mười năm thôi. Cái cuộc đó thì ở Á ở Âu gì cũng như thế cả. Nhưng mà ở Á Châu thì đến thế kỷ mười bảy, mười tám, các bậc hiền triết ra xướng lên cái chủ nghĩa dân quyền. Mấy ông vua nào hung dữ chuyên chế, phản đối lại cái phong trào dân chủ thì bị nhào cả : còn anh nào điều hòa với dân thì còn ngoắc ngoải đến bây giờ.

    Về cái vấn đề này thì tôi cốt chỉ rõ cái quân trị chủ nghĩa bên Á-Đông này thật không phải là gốc tự Nho giáo. Tôi xin chỉ vẽ rõ ràng cái tư tưởng sai lầm từ xưa đến nay cho anh chị em đều hiểu.

    Cứ theo cái ông triết học Âu Châu bàn về lịch sử nhân loại : kể từ loài người mới sinh, rồi làm sao mà có gia trưởng, làm sao mà có tù trưởng, làm sao rồi thành vua thành chúa ; cứ nói như thế thì mất hết thì giờ, mà các ngài ngồi nghe cũng vô ích. Vậy cho nên tôi cứ sử Tàu mà cắt nghĩa để các ngài dễ hiểu hơn.

    Tàu thì tôi cứ nói từ vua Hoàng-Đế, Vua Hoàng-Đế là một ông vua mạnh nhất ở Tàu. Từ ở núi Côn-Lôn (phía Tây nước Tàu) tràn xuống phía bắc Tàu, rồi đánh với dân bản xứ Tàu là dân Hữu-miêu ở miền Dương-tử giang, giết được tướng nó là Xuy-Vưu. Ông ta thật là một ông vua lớn của nước Tàu. Nhưng vậy mà đến khi ông Khổng Tử làm sách, ngài không muốn để tên ông Hoàng-Đế đầu, vì ông ấy thượng binh thượng võ lắm. Ngài chỉ chép từ vua Nghiêu vua Thuấn mà thôi. Vì hai ông vua ấy không có lòng gì muốn làm vua hết, chỉ bị các nước chư hầu bắt buộc, họ bầu cử lên mà thôi, cũng nối nghiệp ông Hoàng-Đế đi đánh Hữu-Miêu, nhưng trong một tháng không được thì rút binh về để lo sửa việc học hành, dạy dỗ dân mà thôi.

    Đời đó thì bày ra những là dạy dân có ngũ luân, làm ra lịch có ngày tháng, thì giờ, cho tiện người làm ruộng, đặt ra cân, ra thước, ra lường để tiện cho dân buôn bán, bày ra có áo xiêm, có lễ phục v.v… còn nhiều nữa tôi không thể kể ra đây cho hết được. Đây các ngài nghe cho rõ : cái dân tộc Á-Đông mà có Nho giáo ra là từ hai ông ấy. Nên ông Khổng xưng là « tổ thuật Nghiêu Thuấn ». Thầy Mạnh nói cũng chỉ khen Nghiêu Thuấn. Mà bây giờ ở nước ta những ông có học được một hai chữ Tàu, hễ mở miệng ra là nói đạo Nho cũng vì cái lịch sử lờ mờ đó.

    Đây tôi xin nhắc lại cái đời Nghiêu Thuấn lúc đó thế nào ? – Cái đời đó vua Nghiêu Thuấn, chẳng qua là một anh thủ lãnh của đám tù trưởng ở trong dân tộc Trung-Hoa hồi đó mà thôi.

    Cứ theo cái dấu tích lịch sử mà suy, thì lúc đó chư hầu nước Tàu có ít cũng là đến 15 ngàn nước ; về sau trong hai trăm năm rồi vua Võ hội chư hầu ở Đồ-Sơn còn lại một vạn nước, tính theo số đó thời đó, thì không sai sút mấy. Vậy thì cái nghi vệ và cái quyền lợi của thiên tử hồi đó ra thế nào ? Thiên tử cũng ở trong một nước nhỏ như các nước chư hầu vậy thôi, chỉ có lập ra triều nghi để cho các chư hầu triều cống. Cái quyền to nhất là cái quyền được tế trời đất, còn chư hầu chỉ được tế những núi, những sông ở xứ mình mà thôi. Thiên tử có đi xem xét ở các nước chư hầu phải đón rước. Thiên tử được cử người lên làm quan, có tội thì phạt, có công thì cũng được phong làm chư hầu.

    Vậy thì nói lược lược qua đó, anh em chị em đủ biết ông Thiên-tử cũng như ông Tổng-lý hội Vạn-quốc đời nay. Chỉ được có lễ triều cống, được cầm quyền chinh phạt, là theo cái số nhiều chư hầu mà phạt nước này thưởng nước kia.

    Thương hại thay các ông học chữ Tàu, nghe nói cái tên Nghiêu Thuấn thì các ông tưởng là nhà Ngũ-phụng-lâu, cỡi xe lục long xa, tưởng là cũng ra vào hò hét như các nhà vua ta bây giờ. Nhưng mà ai có đọc địa dư hay có đi du lịch đến chốn Bình-dương Bồ-bản, thì mới biết rằng cái kinh đô của hai Ngài bằng hai cái thành con bây giờ, nghĩa là không đầy hai ba dặm vuông.

    Từ đời Võ nối vua Thuấn, truyền ngôi cho con trị những nước chư hầu lớn mà cứng đầu nhất, nghĩa là nó muốn giành ngôi Thiên tử : như là đời ông Võ thì giết Phòng-Phong, đời Khải thì giết Hữu-Hộ, đời ông Thiếu Khang thì giết Hậu Nghệ ở nước Hữu-cùng. Ấy tôi tạm đặt đó là cái thời kỳ thứ hai của Thiên tử.

    Từ đó về sau đến 4000 năm, đến đời ông Kiệt. Ông Kiệt thì tôi không cần nói những cái lỗi của ông ấy ra, các ngài cũng đã hiểu rồi. Đến khi đó thì các nước chư hầu không phục ông Kiệt, mới tôn ông Thang là vua một nước chư hầu nhỏ nhất làm đầu, mà đánh đuổi ông Kiệt đi, rồi thay vào ngôi Thiên tử. Cái việc đã mấy nghìn năm rồi, có thật hay không, không biết, nhưng mà tôi cứ thuật lại mà nghe : Khi ông Thang đã được chư hầu cử lên làm Thiên Tử, thì ông cáo với dân và các chư hầu rằng : « Ông lấy cái sự đuổi vua Kiệt đó làm thẹn, nhưng vì ông muốn cứu dân nên phải làm ». Tuy ông nói thế nhưng chư hầu cũng cứ tôn ông lên ngôi thiên tử. Ấy là cái oai quyền Thiên tử tấn tới về bước thứ ba.

    Từ sau con cháu ông đến sáu bảy vua dõi nối nhau làm vua truyền đến 600 năm. Đến đời ông Trụ, dân không phục nữa mới mất nước. Hồi ấy dân ông Trụ, ba phần thì đã hai phần phục theo ông Văn-Vương rồi, thế mà ông Văn-Vương cũng không chịu đuổi Trụ, đến đời con ông Văn-Vương là Võ Vương mới giết ông Trụ mà lên làm vua. Đến hồi đó thì trong sự đánh dẹp, thấy tập luyện cũng đã gớm ghê lắm rồi, thấy quân lệnh cũng nghiêm trang, binh giáp, cũng dữ dội, cũng lấy giết người chảy máu nhiều làm danh giá, bắt được tướng giặc thì cũng chặt đầu bêu lên, cũng đã làm cách dã man như lối bây giờ vậy. Cho nên ông Khổng Tử khen ông Văn Vương là chí đức, chê ông Võ-Vương là vị tận thiện là thế.

    Từ ông Võ đến đây là hơn một nghìn năm, ông tức là vua nhà Hạ. Khi ông lên làm vua thì dưới quyền ông còn hơn một vạn nước ; đến hồi vua Thang nhà Thương đuổi vua Kiệt, thì còn mấy nước chư hầu mà không thấy sử nói đến. Đến đời ông Võ Vương nhà Chu đánh ông Trụ thì thấy chư hầu không hẹn mà tới hội được 800 nước. Vậy thì trong độ một nghìn năm mà tuyệt hơn tới 900 nước. Đời ông Võ Vương nhà Chu thì oai quyền to lắm, nên có thể nói rằng đến đời này oai quyền Thiên tử lấn tới bước thứ tư.

    Bây giờ tôi xin nói tóm lại : Khổng, Mạnh và Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ, tức là những ông đã làm ra cái gương để cho các vua đời sau gọi là Nho giáo đó. Ta phải xem xét cái thời thế phong tục của các vua đời sau so lại với Nho giáo thì có giống chút nào không ?

    Từ sau Võ-Vương giết vua Trụ, dân đã không phục, duy chỉ có đời vua Văn, Vua Võ, vua Thành, vua Khanh, thì dân phục mà chư hầu cũng phục. Đến đời vua U, vua Lệ thì dân nó nổi lên giết các vua ấy, rồi ngôi Thiên tử của nhà Chu từ đó mà mất theo. Một đoạn lịch sử tốt đẹp như Tàu từ Nghiêu Thuấn cho đến Văn Võ, thật như là cái khí mùa xuân, như là cái ánh sáng mặt trời êm ái, ai thấy mà không khen ngợi. Ai thấy mà không ước ao. Vậy cho nên đức Khổng, thầy Mạnh nhân đó mà lập ra cái đạo để bình trị thiên hạ thì cũng phải lắm.

    Lạ thay, qua đến đời Xuân Thu là nửa đời Chu thì năm nước Bá ra, chẳng cần gì đạo đức nhân nghĩa như trước cả, chỉ lấy cái giả dối thay nhau, còn Thiên tử chỉ để cái hư hiệu mà thôi. Từ lúc đó thì còn được 300 nước ; hơn một trăm năm nữa rồi chỉ còn bảy nước ; không đầy một trăm năm nữa thì rút cuộc lại thống nhất về nhà Tần.

    VỀ CÁI THỜI NÀY TÔI MỚI CẮT NGHĨA CÁI QUÂN TRỊ CHỦ NGHĨA TỨC LÀ NHÂN TRỊ CHỦ NGHĨA

    Ông Tần-Thỉ-Hoàng khi mới lên làm vua thì ông làm cái gì ? Ông đặt ông là vua đầu, ông truyền cho đến muôn nghìn đời về sau, ông sợ dân khôn nên ông đốt sách, ông sợ học trò chống cãi lại nên ông chôn sống học trò ; sợ để gươm giáo trong dân gian nhiều thì dân nó nổi giặc, nên ông phá ra đúc làm tượng để chơi ; phá mấy cái thành cao ; lấp mấy cái ao sâu, không cho dân dựa đó mà chống lại nhà nước. Lại tin cái câu sấm « Vong Tần dã Hồ » mà bắt cả dân già trẻ đi đắp cái vạn-lý trường-thành, khổ não biết bao nhiêu. Cái mối loạn phát ra từ đó.

    Ông làm như thế thì ông tưởng có cái gì mà sợ nữa. Ông làm ra cái cung điện A-phòng, bỏ vài ba nghìn con gái đẹp vào để chơi. Ông làm ra cái lăng Li-sơn, dài ba bốn dặm, có đàng cách đạo, trùng thành ; còn nhiều cái sang đẹp nữa. Ông lấy chữ « Trẫm » để cho một mình ông Hoàng đế được xưng mà thôi.

    Đời xưa hễ xưng « hoàng » là « hoàng », xưng « đế » là « đế » khi trước đạo nho lấy « vương » là quý, ông chỉ để phong cho đầy tớ mình mà thôi,

    Sung sướng đặng bao nhiêu, chưa đầy 13 năm đã bị thằng Triệu Cao nó giết, rồi thiên hạ lại vào tay nhà Hán, quân chủ lại vào tay chuyên chế khác nữa.

    Đó ! xin các ngài nghe rõ một khúc này nữa. Nay những ông nho học ở nước ta, các ông yêu mến đạo Nho mà các ông ghét nhà Tần biết bao nhiêu ; vì các ông thấy nhà Tần bội đạo Nho. Nhưng mà vua của các ông có xấu thế nào các ông cũng cứ ví với Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, chứ không khi nào các ông ví với vua Tần. Nhưng mà các anh em thử nghĩ xem – vua mà xưng « Trẫm » là theo đạo Nho hay là theo Tần ? Vua mà xưng là « Hoàng đế » thì theo đâu ? Vua mà có luật giết ba họ người thì có phải theo Tần không ? Vua mà dâm dục ở trong cung với hàng trăm hàng nghìn cung nữ, có phải là bắt chước theo Tần không ? Vậy mà ông vua nói mình theo đạo Nho, tự ông nói vậy là phải ; các quan nịnh theo vua thì họ nói theo cũng là phải đi, bọn đó không kể, còn ông đồ già cũng ran gân cổ lên mà cãi rằng :

    Vua mình theo đạo Nho !
    Triều đình mình sùng đạo Nho !
    Nước nhà mình theo đạo Nho !
    Dân mình theo đạo nho !

    Vậy thì đạo Nho ở đâu ?

    Do nhà Hán đến nhà Đường, do nhà Đường đến nhà Tống, do nhà Tống đến nhà Nguyên, do nhà Nguyên đến nhà Minh, do nhà Minh đến nhà Thanh, nghĩa là trong độ 2200 năm đó, cách chính trị của nhà Hán cũng không có gì rộng rãi công bình ; nhưng Hán cũng còn hơn Đường, Đường cũng còn hơn Tống, Tống cũng còn hơn Nguyên, Nguyên cũng còn hơn Minh, Minh cũng còn hơn Thanh. Xét cái lịch sử quân chủ ở Á-Đông này thì chúng ta biết rằng từ Tần-Thỉ-Hoàng về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ còn sót lại một hai điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén dân.

    CÁCH CHUYÊN CHẾ Ở Á ĐÔNG KHÉO HƠN ÂU CHÂU THẾ NÀO ?

    Vua Âu Châu ở xứ Thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng mà ngay thực, cho đến sự độc ác cũng vậy.

    Lúc trước muốn đè nén dân thì phải thông đồng với Giáo hội, bày đặt ra nói ông vua là ông Thần Trời, thay mặt cho Thần Trời, hay là Thần Trời hóa thành ra ; nghĩa là ông vua không phải một loài với dân thì dân phải tôn kính ông vua. Nhưng mà những cái lẽ đó là can cùng giả dối, chỉ có phỉnh dân ngu được một lúc mà thôi, cho nên sau rồi ở Âu Châu cái dân quyền càng mạnh chừng nào thì quân quyền càng xếp lại chừng nấy. Vua Á-Đông thì họ không làm như thế. Họ lựa ở trong cái lời nói của ông Khổng ông Mạnh, hoặc ở trong sách cổ những câu nói có nhiều nghĩa để họ dựa vào đó, lập ra pháp luật để bó buộc cai trị dân ; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra ngoài cái hàng bà con của dân mà họ lại đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói « quân, sư, phụ », lại thường nói « vua, cha, chồng ». Dù ở chỗ hương thôn dốt nát không biết ông vua là thế nào nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng, thì họ cũng cho vào đám thân thiết. Dân ngu thì họ cứ kính, cứ yêu, chứ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người ta. Mà còn ông cha, ông thầy, ông chồng, thì có làm ích cho ta, chứ có khi nào làm hại làm ác như thế. Còn khi cha mẹ ta đẻ ta ra thì đói, no, sống, chết, thế nào cũng ở trong tay cha mẹ ta, nào ông vua có biết đến đâu. Thế mà đến hồi tuổi ta lồng lộng lớn lên thì đánh một tiếng là « tôi trời con vua ». Ông vua muốn cho ta sống thì được sống, ông vua muốn cho chết thì phải chết, ta không có thể chối cãi lại được là nghĩa lý gì ?

    Dân bên Âu Châu thượng võ, cho nên dòng quý tộc chư hầu phải có võ công mới lên được, mà đã lên được thì khó mất lắm. Còn bên Á-Đông này, cái cách quý tộc lại chuộng thi văn, mà trong thi văn đó ai đậu mới được làm quan, ai không đậu thì thôi, bên quan võ thì chỉ có hồi có giặc hay là hồi khai quốc mới có người tài thật, kỳ dư thì võ chức chỉ là để thưởng cho những người dốt nát. Thí dụ như một người đi lính, dù đốt nát mấy nhưng mà đi lính từ 20 tuổi đến 50 tuổi, thì thế nào cũng lên được chức lãnh binh, đề đốc, hưởng được cái mùi phú quý ít năm, nghĩa là mình ăn ở miễn sao cho người ta đừng ghét là được. Ấy là cái mưu quân chủ rèn tập cái trí dân ở Á-Đông làm cho khờ khỉnh. Ta thí dụ nước ta đã mất mấy mươi năm rồi, mà đến kỳ thi ai cũng khí khủm lo cho đậu được một chút mới thôi. Hễ đậu được thì cho là mồ mả ông cha có phúc. Còn người có thế hay là có tiền thì cũng vác đi lo làm quan, cũng kiếm một cái hư hàm. Chứ chúng ta đi ra Hà-nội, ra Huế, ta thấy những là bọn mang thẻ bài ngà nó đi đụng đầu với nhau, còn một bọn thì đang vác tiền đi lo, thì ta cho là một bọn điên cuồng ngu dại, ta không biết cái óc chúng nó ra thế nào, nhưng mà ta biết rằng cái giống đó là giống đã gieo mầm từ các đời vua trước đã mấy nghìn năm rồi.

    Nói tóm lại, cái cách chuyên chế ở Á-Đông này là tôn lên mấy lời tà thuyết, như là câu « lọt lòng mẹ ra phải chịu cái nghĩa vua tôi ». Nhưng mà ta có biết rằng « quân thần dĩ nghĩa hiệp » là nghĩa làm sao ? Vậy cho nên có người họ chán, họ bỏ đi ở ẩn, thì bọn chuyên chế nó lại lập ra cái luật « hữu tài bất di quân dụng » nghĩa là có tài mà không cho vua dùng, nó lập ra cái luật « yêu quân », nghĩa là nũng vua, để mà phạt bọn người ấy. Nó sợ rằng dân biết chính trị nhiều thì dân nổi lên cách mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được nói đến chính trị. Hết thảy những cách chuyên chế đó, nghĩa là họ bảo dân rằng : « Mày muốn làm gì làm, nhưng đừng động đến cái ngôi vua của con cháu tao ».

    Có hay đâu giữ khéo thì dân trong nước không động đến ngôi vua của con cháu họ thật, nhưng mà ngoại quốc đến lấy thì dễ nhưc hơi, bởi vì dân nó ngu ! Nó không biết nước là cái gì cả. Ta thử xem gương nhà Tống trước mất với nhà Liêu rồi sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông-Cổ ? Còn nhà Minh thì mất với Mãn Châu, Cao-Ly thì mất với Nhật, Việt-Nam thì mất với Tây.

    Thương hại thay trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó cho đến cái lợi của dân tộc, chỉ lo tính toán mà đè nén cái trí của dân, để mà giữ chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên tử cho con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu nước phải yếu, vua quan lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. nếu dân ngu quá, yếu quá, không đủ giấy loạn được, thì các nước khác nó tràn vào ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái ngôi vua thay đổi luôn, cũng như cái ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.

    CÁI QUÂN CHỦ LỢI HẠI THẾ NÀO ?

    Vậy bây giờ ta tóm lại để coi cái lợi hại về quân chủ ra thế nào, thì ta thấy bất câu là Á, là Âu, là xứ nào, dân tộc nào mà lập thành nước để đến bây giờ, là đều nhờ những anh hùng hào kiệt đời xưa, họ ra cầm đầu cho dân, ngoài thì đối phó với các dân tộc khác, trong thì sửa sang lại việc hòa bình ở trong nước. Những cái công đức của các ông đó ta cũng nên khen ngợi, đáng ghi nhớ, chứ không phải không. Còn cũng có dòng dân, trước còn đứng được, sau lại không có anh hùng hào kiệt đứng ra chống chỏi, thì lại bị nước khác nuốt mất. Xem vậy thì cái lợi của quân chủ ở đời thượng cổ, quý không gì bằng. Tuy các ông cũng có mưu về lợi riêng, nhưng chúng ta cũng có thể tha thứ cho được. Còn cũng có một cái dịp dùng cái quyền quân chủ rất tốt, như nước Nhật, nước Xiêm, khi người Âu-Châu mới qua thì dân còn ngơ ngáo không biết gì, thế mà nhờ trên có ông vua anh hùng, dưới có các quan tài trí, đem đường chỉ lối cho dân tấn tới lại càng mau. Vậy thì cũng là một sự hay. Còn từ đó sắp sau, chỗ nào dân không thể nhờ được dịp đó thì cái quân chủ chỉ là một đồ vô dụng.

    Ta xem bên Tàu 30 năm trước, vua Quang-Tự đã hạ chiếu duy tân, vì có một người thiếp của cha, mê trai tham của, không chịu thay đổi chính trị, chẳng những làm cho dòng vua Mãn-Châu mất, mà còn làm cho Tàu đến nay hãy còn khốn đốn. Vua Cao-Ly, bên vợ thì duy tân, bên cha thì thủ cựu, đánh nhau mãi, giết nhau mãi, rốt cuộc lại, cha mẹ thì bị ở tù, vợ thì bị giết, mình thì hai tay bưng nước đưa cho Nhật, rồi bị cách chức.

    Nhắc qua đến ông vua nước ta là ông Tự-Đức mà đến bây giờ mấy anh quan già và mấy anh đồ già còn ca tụng là « thánh nhân », khi người Tây mới qua, quan binh thì cũng có như ông Nguyễn-tri-Phương, ông Võ-trọng-Bình xin đánh, mà nói có muốn đánh thì phải xuất tiền đi ngoại quốc mua súng ống về mới có thể đánh được. Nhưng mà ông vua ấy có tính thương tiền tiếc bạc, cứ muốn chôn dưới đất, chẳng muốn đem mua cái gì cả, ông trả lời với các quan binh rằng : « Các anh muốn đánh thì đánh, nhưng mà nếu các anh không hơn thì các anh mới để mẹ con trẫm vào đâu ? ». Làm ép cho mấy ông quan võ như là ông Võ-trọng-Bình bỏ về, còn ông Nguyễn-tri-Phương để cho Tây bắt, rồi không ăn mà chết. Cũng có người học thức như ông Nguyễn-trường-Tộ, khuyên vua dạo qua bên Tây, xem xét cái văn minh của họ rồi cho người qua học ; các quan văn cũng có nhiều người xin thế, mà ông vua trả lời rằng : « Nhật nó là dòng mọi, Xiêm nó là dòng mọi ; mọi thì nó học với dòng mọi được, chứ còn ta là con thần cháu thánh, lẽ nào ta lại đi học với mọi hay sao ? ».

    Thôi ! Tôi không đoán cái hay cái dở của ông vua đó để các ngài nghe rồi các ngài sẽ đoán xét các ông vua đó là ông vua gì. Mẹ con ông ấy chết thì có chỗ chôn còn mẹ con hai mươi triệu bơ vơ đến bây giờ đó thì làm sao ? Bọn mà ông cho là mọi rợ thì bây giờ nó đã tấn tới hết cả. Hai mươi triệu khi xưa không đến mọi rợ mà bây giờ chẳng những hóa ra mọi ; mà lại hoá ra tôi đòi hèn hạ nữa !

    QUÂN TRỊ TỨC LÀ NHÂN TRỊ (người trị người)

    Đây hãy nói tóm lại quân trị tức là nhân trị, Quân trị chủ nghĩa tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng mà pháp luật cứ tự tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì không biết gì hết. vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông minh anh hùng, hiểu được cái sự quan hệ giữa dân với nước là thế nào, mà trừng trị lũ quan tham, lại những, để cho dân được yên lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh, mà cái thì giờ của vua sống được bao nhiêu thì nước còn được thái bình bấy nhiêu.

    Còn đến mấy ông vua hôn ám thì ông sống với đàn bà con gái, với bọn hoạn quan, còn biết gì đến nước, trao chính quyền vào trong tay mấy đứa nịnh thần, người đã hư thì nước cũng đổ thôi. Cho nên ông Khổng Tử có nói rằng : « Văn Võ chi chính bố tại phương sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chính tức » nghĩa là cái chính trị vua Văn vua Võ còn chép trong sách có người chính trị giỏi thì cái chính trị trong sách đó mới hành ra, nếu không có người giỏi thì cái chính trị ấy mất. Tuân Tử thì nói rằng : « Hữu trị nhân, vô trị pháp » nghĩa là có người ra làm hay, chứ không có cái pháp luật nào hay được. Ông mạnh thì kiêm cả hai ông mà nói rằng : « Đồ thiện bất túc dĩ vi chính, đồ pháp bất năng dĩ tự hành » nghĩa là có người giỏi mà không có pháp luật thì cũng không làm được chính trị ; có pháp luật mà không có người giỏi thì pháp luật cũng không tự làm lấy được.

    Mấy nghìn năm nay, mấy ông vua giỏi, tướng giỏi hết sức mà tránh cho khỏi cái chữ quân trị là nhân trị, nhưng mà không được, vì là lập phép này phép kia cũng tự tay vua, đến khi đạp đổ đi cũng tự vua.

    Ấy tôi nói những ông vua biết lo mà chữa cho khỏi chữ nhân trị là từ đời Tống, đời Đường sắp lên, những ông vua hiền, minh thì thế. Còn từ đó sắp xuống thì chuyên chế quá lắm. xem như ông Minh Thái-Tổ đặt ra cái luật « hữu tài vi quân dụng » nghĩa là đặt ra cái luật lệ hễ ai có tài mà không ra cho vua dùng là có tội. Ấy là để bắt người ta phải ra cho mình áp chế hết cả, chứ không cho ai ở ẩn nữa. Về đời Càn Long lại đặt ra luật « yêu quân » nghĩa là có tài mà buộc vua phải cầu cạnh mình thì có tội. Những cái luật đó thì còn có ích gì cho dân tộc, cho nhà nước đâu, chỉ là sướng cho óc kiêu ngạo, làm cho sướng cái xác thịt của ông « hoàng đế » đó thôi.

    Vua đời xưa thì còn cầu hiền hạ sĩ, chứ vua đời sau thì cứ nằm ngửa đó, thằng nào có tài mà không ra cho tao dùng thì tao bỏ tù, thì còn gì sang trọng hơn nữa !

    Từ nãy đến giờ tôi nói về cái lịch sử và triết học quân trị là nhân trị. Đây tôi xin chỉ thêm vài cái chứng thật cho anh em dễ hiểu. Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tùy theo lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.

    Thí dụ như ông Gia Long lấy cái luật của đời Gia-Long nước Tàu để trị dân Việt Nam ; trong cái luật đó nói rằng : « phi quân công bất hầu », nghĩa là không có công đánh được giặc thì không phong tước hầu. Vậy thì ông Nguyễn-văn-Thành phong tước hầu, và làm đến trung quân, chẳng qua là ông Gia-Long có cái lòng công bình mà xét cho cái công trạng của ông ấy theo đánh giặc từ nhỏ đến lớn. Sao tôi dám nói vậy ? Bởi vì sau đó con ông Thành có làm một bài thơ chơi, nghĩ cũng chẳng tội lỗi gì, mà ông Gia-Long ông giết tới ba họ. Như vậy chẳng qua là khi cơn giận của ông lên thi ông giết, chứ có pháp luật gì đâu !

    Tôi nhắc qua một cái tích của ông Tự-Đức mà tôi đã nói trên kia. Năm Tự-Đức thứ 25, dân Trung-Phần chết đói, nhà nước đã lo phát chẩn được một tí rồi, các quan lại xin trích tiền thuế trong các tỉnh, các phủ huyện, để trữ lại trong xã thương các làng, phòng năm khác dân có đói chăng ; thì ông ta cho phép dân được đem tiền đem lúa ra nạp quyên mà lấy chức bá hộ, bát phẩm, cửu phẩm, Nhưng mà dân nói đói quá có lúa có tiền đâu mà quyên. Ông xuống dụ các quan cho dân quyên chịu đã, nghĩa là số quyên một lần một nghìn quan tiền cứ đóng trước đi 300 quan rồi phát bằng cho đã, chừng nào đóng đủ số tiền đó thì sẽ phong sắc cho. Còn tiền đóng thì cứ để lại cho làng ấy. Cái dụ xuống nói rõ ràng như thế. Cách một năm thì thấy cái dụ khác kể hết tiền chưa đóng và đã đóng rồi, bắt phải đem hết ra tỉnh để cấp cho lính đánh giặc. Tỉnh sức xuống phủ huyện, phủ huyện sức xuống các làng. Dân trả lời rằng vua cho phép quyên chịu, chứ không bắt đóng ngay, năm nay mất mùa dân không chịu đóng, làm gì nó cũng không có mà đóng. Quan tỉnh tư bộ, bộ tâu vua, vua buộc phải làm tội hết những dân ấy. Nhưng mà trong luật Việt-Nam, những cái luật tiền bạc thuộc về dân qua lại với nhà nước thì ít thấy lắm, các quan không biết theo mặt luật gì mà làm án, phải tâu lên vua hỏi phải làm án gì, thì vua bắt làm theo luật « thượng thư bất dĩ thật », nghĩa là chiếu theo cái luật các quan dâng thư cho vua nói về chính trị mà không thật. Quan bộ cứ đó mà làm tội. Đến khi tư về các tỉnh, người thì 6 năm, người thì 8 năm, người thì 12 năm tù. Gia dĩ đang khi đói khát cha xa con, vợ bỏ chồng, tưởng quyên cái bát cửu phẩm để lấy làm vui hay đâu không được vui mà lại phải ở tù. Thế nên cả nhà, cả họ ai cũng lấy làm đau lòng xót ruột. May đâu cái án đó đi đến Quảng Ngãi, gặp một ông án sát, ông ấy thì giỏi luật lệ, mà có lòng thương dân, lo việc nước (ông ấy là người Bến-Tre về tỉnh Vĩnh-Long, tên là Nguyễn-Thông, hiệu là Kỳ-Xuyên, sau lục tỉnh mất thì ông chạy ra Phan-thiết). Ông ấy cứ từ câu bẻ hết cả cái án, rồi ông gửi lại cho bộ, ông nói rằng : « Cái vụ này là chỉ có vua với quan dối dân, chứ dân không nói dối ai chút nào cả. Còn chiếu theo luật « thượng thư bất dĩ thật » thì không đúng vào đâu cả ». Ông Tự-Đức biết mình lỗi, nhưng mà mắc cỡ, xui cho người khác kiện ông Nguyễn Thông, rồi cách chức ông đi, muốn trị tội nặng. Nhưng dân Quảng Ngãi và dân các tỉnh hết sức bênh vực cho ông ta, cho nên cũng chẳng làm hại ông được, chỉ đuổi ông ta đi mà thôi.

    Đây nói lược qua một hai điều cho các ngài nghe chứ tôi kể hết cái sử Tàu và Việt-Nam thì mấy ngày cũng không hết.

    NÓI QUA DÂN TRỊ CHỦ NGHĨA

    Nay khắp cả thế giới những nước nào đã theo kịp được một ít văn minh Âu Châu, hay là hiểu được một ít tư tưởng tự do, ngôn luận tự do, thì ai cũng hiểu được cái tiếng dân chủ là thế nào, hay là dân trị là thế nào.

    Bên Âu Châu có mấy nước quân chủ mặc lòng, nhưng nước nào cũng có đảng dân chủ ở trong thượng hạ nghị viện cả. Duy có nước ta thì như trong lục tỉnh này thuộc với Tây đã hơn 60 năm, cái chữ « République » thì nói luôn trên miệng, nhưng mà chẳng tìm kiếm nghĩa lý ra thế nào, so sánh với quân trị chính thể của nước ta ra thế nào ! Ấy là nói những người có ăn có học, ý tôi xem hình như các ngài đoán trước rằng có quân chủ là hơn. Còn nhất là dân nhà quê, chẳng những là không biết dân chủ là gì, mà đối với vua thì thờ trên đầu như thờ Thần thờ Thánh ; chẳng những không dám nghĩ đến sự « phải có hay là không » mà như hình có ai nghĩ đến việc đó thì phải bị sét đánh, đá dằn, voi chà, ngựa xé.

    Khi nào nghe nói bất luận là ông vua nào, nghe qua thì trong lòng đã vui mừng hớn hở, nghĩa là ông ấy chắc là mình trông cậy được ; rất dở là mới đây việc thăng Phan-xích-Long còn xẩy ra trong xứ này. Vậy mới biết rằng cái độc quân chủ vào trong óc dân ta sâu quá, mà cái trình độ của dân ta cũng thấp quá, chỉ một người mà nói : « Mày phải trung thành với người này, phải kính người này », thì nó mới hiểu. Mà nếu cứ nói ra cái tên nước Việt Nam mà rằng : « Ấy là nước ông cha mày, mày phải thương », thì tay nó không rờ được ; mắt nó không trông thấy được, thì nó không thể làm thế nào mà nó thương được. Vậy thì cứ trừ ra một cái nhà, một cái vườn, vài mẫu đất nội chỗ con mắt nó thấy đó thì nó thương mà thôi. Đã mấy năm nay tôi thường thấy nhà báo hay nhà diễn thuyết, hễ mở miệng ra thì nói nước có hai mươi triệu quốc dân, trong cái giọng nói thì hình như có danh giá, có sự khoe khoang, có sự tin cậy.

    Nhưng mà có hai mươi triệu ai cũng biết có nhà mà không biết có nước, như thấy trong cái nhà nào trong lúc rủi ro có 5, 3 thằng con trai bị chết tuyệt tự, hay nhà nào nhiều ruộng đất mà bị kiện thưa, hay là bị con ham cờ bạc, thì xúm lại nói ồn ào khắp dân gian, cho là việc quan hệ nhất ở trong xứ này. Còn nói đến việc « mất nước » thì chẳng ai mơ màng vào đâu. Một dân tộc mà nó đối với nước lơ láo lạt lẽo như thế cũng khốn nạn thật ! Dân như vậy mà muốn bỏ vua đi mà lập ra dân quốc, chắc trong các ngài có ông cũng lấy làm lạ. Nhưng mà tôi nghĩ rằng vì cái độc quân chủ nói giết hẵn cái lòng ái quốc của dân tộc Việt-Nam ta, bây giờ muốn cho dân Việt-Nam ta biết nước là của chúng nó, thì phải đem cái tụi bù nhìn đó ất hết cả đi, thì nó mới có thể tìm kiếm cái nước đó là nước của ai. Mà nòi giống ta thông minh có lẽ một ngày kia sẽ gặp thấy rằng ở trong cái miếng đất mấy nghìn năm lưu truyền lại đây, cái quyền lợi của nó hãy còn nhiều, cái quyền phép của nó cũng có nhiều ; rồi nó sẽ hiểu rằng xưa nay người ta mà gọi rằng vua quan đó, chẳng qua là người thay mặt làm việc cho nó, nếu làm không xong thì nó đuổi đi cũng không có lỗi gì.

    Khi nào dân đã hiểu như thế thì nó mới biết thương nước. Mà nó có biết thương nước thì một ngày kia mới mong tự do độc lập được, chứ không thế thì cứ đời đời làm tôi mọi mãi.

    SAO GỌI LÀ DÂN CHỦ ?

    Câu này ở Âu-Châu thì không cần phải cắt nghĩa cho nhiều, nhưng mà ở trong xứ mình thì tôi cắt nghĩa mau mau để cho người ta hiểu cái đại lược.

    Lịch sử - Bất cứ là dân nước nào, số người học thức cũng là phần ít cả, thường thường nhờ cái đảng thượng lưu, trung lưu dìu dắt nó đi, ấy là lẽ thường. Nhưng mà duy có dân Âu Châu khác với dân ta có một việc : là từ khi bắt đầu mới khởi ra thì họ cũng sùng trọng quân chủ. Nhưng không biết thế nào đến hồi nước Hy-Lạp họ lại có cái hội gọi là hội Trưởng giả hội nghị, thì do ông vua nhóm họp lại những bọn quý tộc mà lập pháp luật ban cho dân ; lại có một cái hội tên Quốc dân Hội nghị, phàm những luật lệ mà ông vua cùng những người quý tộc đặt ra thì phải giao cho hội ấy xem có bằng lòng thì mới được làm. Sau đến nước La-Mã thì có hội nghị « Một trăm người » thì lấy trong quân lính mà sắp đặt ra hội ấy, phàm xứ ấy có việc gì lôi thôi thì hội ấy bàn. Còn sau đến hồi dòng vua La-Mã mất rồi, thì có một cái hội « La-Mã nguyên lão viện », lại một hội « La-Mã bình dân viện ». Cho nên sau khi La-Mã đổi làm đế quốc chuyên chế mà cái phép La-Mã cũng phát đạt luôn luôn. Bây giờ các nước đâu đâu cũng bắt chước La-Mã cả.

    Trong một lối từ khi mọi Nhật-nhĩ-man tràn xuống phá La-Mã đế quốc, các nước Âu Châu được độc lập hết cả, thì cái chính thể hội nghị ấy đã mất đi đến mấy trăm năm.

    Lạ lùng thay người nước Anh còn giữ lại được những cái hội gọi rằng « Nhân dân hội nghị », « Hiền giả hội nghị », hai hội ấy đều là vua nhóm những kẻ tài trí trong dân gian để giao cho cái quyền « lập pháp ». Đến nay thành ra cái hạ-nghị-viện của Anh bây giờ, mà đến thế kỷ thứ mười tám, lại truyền bá ra cả lục địa Âu-Châu. Ấy là nói lược qua cái lịch sử dân quyền Âu-Châu.

    ĐÂY TÔI XIN NÓI QUA CHÍNH THỂ DÂN CHỦ LÀ THẾ NÀO

    Bây giờ bên Âu Châu, trừ nước nào dân còn ngu dại, còn thì đều theo chính thể dân chủ.

    Đây tôi nói về cái chính thể bên Pháp. Ở trong nước có một Hạ nghị viện là viện quan hệ nhất. Số nghị viện thì trên dưới sáu trăm. Dân đúng 21 tuổi trở lên thì ra bầu cử. Dân 25 tuổi trở lên thì được ra ứng cử. Được cử rồi thì gọi là Hạ-nghị-viện. Cái số phận của nước Pháp cầm ở trong tay cái hội ấy ; hội ấy thì chủ quyền để lập pháp luật. Thứ nữa có một Nguyên lão nghị viện. Cái viện ấy lại không phải dân cử. Các hội đồng ở các tỉnh, các hội nào mà nhà nước đã nhận cái nhân cách, và những người làm việc như nhà nước thì được ra ứng cử. Hội ấy để coi về việc tiền bạc.

    Khi nào bắt đầu đặt Tổng Thống, nay là thiếu mà đặt lại, thì hợp số người trong hai viện ấy lại mà bỏ thăm. Người ra ứng cử cũng là ở trong hai viện ấy. Ai được nhiều thăm thì làm Tổng thống. Khi Tổng Thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước mặt hai viện ấy rằng : « Cứ giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy thì dân cứ trục xuất ngay ». Trước thì có Mac Mahon, sau thì có Millerand bị cách chức, cũng vì phạm hiến pháp.

    Còn chính phủ thì cũng bởi trong hai viện ấy mà ra. Nhưng mà giao quyền cho đảng nào chiếm số nhiều ở trong hai viện ấy thì được tổ chức Quốc vụ viện (tức là chính phủ, tòa Nội-các). Theo quốc vụ viện bây giờ, chừng đâu cũng đến vài chục bộ, nhưng mà không phải ăn rồi ngồi không, vênh vênh râu lên đó như mấy ông Thượng thư ta đâu. Ông nào cũng có trách nhiệm ông ấy cả. Nếu cái gì mà làm không bằng lòng dân, thế nào cũng có người chỉ trích. Bởi vì ở trong hạ-nghị-viện thế nào cũng có hai đảng, một đảng tả, một đảng hữu ; nếu cái đảng tả chiếm số nhiều mà cầm quyền trong nước, thì đảng hữu xem xét chỉ trích, cho nên có muốn làm bậy cũng khó lắm.

    Trong nước đã có hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng hiến pháp. Cái quyền Chính phủ cũng bởi hiến pháp qui định cho, lười biếng không được, mà dầu muốn áp chế cũng không chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có điều gì phạm đến pháp-luật, thì người nào cũng như người nào, từ ông Tổng Thống cho đến một người nhà quê cũng đều chịu theo một pháp luật như nhau.

    Các quan chức về việc cai trị chỉ có quyền hành chính mà thôi, còn quyền xử đoán thì giao cho các quan án là những người đã học giỏi luật lệ, có bằng cấp. Các quan án thì chỉ coi về việc xử đoán. Có quyền độc lập, cứ theo lương tâm công bình, chiếu theo luật pháp mà xử, xử Chính phủ cũng như xử một người dân. Các quan án ở về một viện riêng, gọi là viện tư pháp.

    Quyền tư pháp cũng như quyền hành chính của Chính phủ, và quyền lập pháp của nghị viện, đều đứng riêng ra, không hiệp lại trong tay một người nào.

    Đây là nói sơ lược mà thôi, muốn hiểu kỹ cái chính thể dân trị thì phải chuyên môn mới được.

    Xem vậy thì biết dân trị tức là pháp trị (lấy phép mà trị người). Vì rằng quyền lợi và bổn phận của mọi người trong nước đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi tự do, muốn bước tới bao nhiêu cũng không ai ngăn trở, chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền lợi của người khác thì không được. Vì đối với pháp luật thì mọi người đều bình đẳng, không có ai là quan ai là dân cả.

    So sánh hai cái chủ nghĩa quân trị và dân trị, thì ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay là của một triều đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không khác gì một đàn dê được no ấm vui vẻ hay là phải đói rét khổ sở chỉ tùy theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân, lập ra hiến pháp luật lệ, đặt ra các quan để lo việc chung cả nước ; lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người tài giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nỗi phải đè đầu khốn nạn làm tôi mọi một nhà, một họ nào.

    Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình, thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Con dân ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả những quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay là một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường.

    Anh chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước, mới mong có ngày cất đầu lên nổi.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Bài kinh nghĩa có tám vế, thường gọi là vần bát cổ, bọn bát cổ tức là những người học đi thi cử ngày xưa.
     
    tieungao thích bài này.
  15. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    Hai bức thư cuối cùng của Nguyễn-thái-Học

    Ông Nguyễn-thái-Học là chủ tịch và là sáng lập viên của Việt-Nam Quốc-dân Đảng. Theo giấy khai sinh, ông sinh ngày 1 tháng 12 năm 1904. Là con một gia đình tiểu nông tại làng Thổ-Tang, tổng Lương-Điền, phủ Vĩnh-tường, tỉnh Vĩnh-yên, ở cạnh bên làng ông Đội Cấn.

    Bởi thiếu thời lòng yêu nước của ông đã được kích thích bởi cuộc khởi nghĩa Thái-nguyên năm 1917, đến khi theo học trường Cao-đẳng Thương mại Hà-nội, lại do phong trào ân xá cụ Phan-sào-Nam, truy điệu cụ Phan-tây-Hồ, và cụ Lương-văn-Can, nên sau đó, ông quyết định vạch một con đường theo phương pháp « chánh đảng bí mật ».

    Ông đi tuyên truyền, hoạt động các nơi để bí mật tổ chức chánh đảng. Năm 1927, Việt-Nam Quốc dân Đảng chính thức thành lập, ông được các đồng chí cử làm đảng trưởng. Chánh đảng này từ đó một ngày một bành trướng. Nhưng sau vụ ám sát Bazin ở Hà-nội tháng 3 năm 1929 thì các cấp bộ đảng bị bại lộ. Đa số đảng viên bị Pháp bắt cầm tù.

    Thực dân Pháp bủa lưới mật thám truy tầm các đảng viên rất gắt và rao thưởng 5.000 đồng cho ai bắt được ông.

    Trước nguy cơ mất còn ấy của đảng, ông và các đồng chí thấy cần phải chủ trương bạo động « không thành công thì thành danh ».

    Do đó, cuộc khởi nghĩa Yên-bái phát sinh vào 1 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1930. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị thất bại, cơ sở bị tan vỡ, một số lớn các cấp bộ đảng bị bắt, các anh em hoạt động cách mạng ở Tàu cho người về khuyên ông xuất dương. Nhưng ông không chịu vì không thể bỏ các đồng chí ở trong vòng gian nan.

    Sau bị truy nã rất ngặt, ông cùng các đồng chí là Sư Trạch, Lê-hữu-Cảnh định dò đường qua Tàu. Nhưng đến làng Cổ-vịt (Hải-dương) thì bị bọn tuần phiên bắt được. Rồi đến ngày 17 tháng 6 năm 1930 thì ông bị thực dân Pháp đưa lên đoạn đầu đài Yên-bái với 12 đồng chí.

    Khi ra pháp trường, nét mặt vẫn thản nhiên, ông ngước mắt nhìn đồng bào định nói ít lời, nhưng bị thực dân sai lính bịt miệng lại. Ông chỉ kịp hô to « Việt-Nam độc lập vạn tuế » rồi đầu rơi khỏi cổ.

    Hai bức thư này là những bức ông viết ở trong nhà giam Hỏa Lò gởi cho Toàn quyền Đông-Dương và Hạ-nghị-viện Pháp. Nhưng không phải để trần tình xin ân xá mà để cho người pháp sau cái chết của ông phải sửa chính sách đàn áp dã man lại.

    Ngày ….tháng 3 năm 1930
    Gởi ông Toàn-quyền Đông-dương ở Hà-Nội,


    ông Toàn-quyền,

    Tôi Nguyễn-thái-Học ký tên dưới đây, chủ tịch đảng Cách-Mệnh Việt-Nam Quốc-dân Đảng, hiện bị giam ở ngục Yên-Báy, trân trọng nói ông rõ rằng :

    Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, tôi thực có trách nhiệm về mọi việc chánh biến phát sinh ở trong nước, do Đảng tôi chỉ huy từ năm 1927 tới nay, vì tôi là chủ tịch của Đảng và là người sáng lập nữa. Vậy xin ông giết một mình tôi, chứ đừng giết các người đảng viên hay gọi là đảng viên hiện bị giam ở các ngục, bởi vì người ta vô tội ! Người ta vô tội vì trong số đó thì một phần là các đảng viên, nhưng họ vào đảng là vì tôi khuyến khích họ, cho họ biết thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với quốc gia, thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên dân mất nước ; còn ngoài ra là những người bị vu cáo bởi bọn thù hằn, bởi lũ mật thám, bởi những bạn bè bán mình cho chính-phủ Đông-dương ! Tôi nhắc lại một lần nữa để ông biết cho rằng chỉ cần giết một mình tôi, vì tôi mới chính là thủ phạm. Mà nếu còn chưa đủ hả, thì xin tru di cả nhà tôi, nhưng tôi đem nước mắt mà xin ông tha cho những người khác ! Sau nữa tôi mong ông nghĩ đến danh dự nước Pháp, đến công lý, đến nhân đạo mà thôi, đừng ra lệnh ném bom hay đốt phá những làng vô tội như ông vừa mới làm ! Đó là một lệnh giết người. Những đồng bào của tôi sẽ vì thế mà chết đói, chết rét mấy vạn mà kể !

    Sau cùng kết luận bức thư, tôi nói cho ông biết rằng nếu người Pháp muốn ở yên ở Đông-Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mệnh thì :

    1) Phải thay đổi cái chương-trình chính-trị hung-tàn và vô đạo hiện nay ở Đông-Dương.

    2) Phải cư xử cho ra vẻ người bạn dân Việt-Nam, chứ đừng có lên bộ ông chủ bạo ngược và áp chế.

    3) Phải để lòng giúp đỡ những nỗi đau khổ về tinh thần, về vật chất của người Việt-Nam, bằng cách trả lại các nhân quyền như tự do ngôn luận ; đừng có dong túng bọn tham quan, ô lại, và những phong tục hủ bại ở các hương thôn ; mở mang nền công, thương bản xứ, cho nhân dân được học tập những môn cần thiết.

    Ông Toàn-quyền, hãy nhận lấy tấm lòng tôn kính và cảm kích, với sự nhiệt liệt tạ ơn.

    Kẻ thù của ông :
    NGUYỄN-THÁI-HỌC


    BỨC GỬI CHO HẠ NGHỊ VIỆN PHÁP

    Các ông Nghị viện,

    Tôi ký tên dưới đây là Nguyễn-Thái-Học, người Việt-Nam, 26 tuổi, chủ tịch và sáng lập viên của Việt-Nam Quốc-dân Đảng, hiện bị bắt và giam ở ngục Yên-báy, Bắc-Kỳ, Đông-dương, trân trọng bày tỏ như sau :

    Theo công lý, ai cũng có quyền bênh vực tổ quốc mình khi bị các nước xâm lược, và theo nhân đạo, ai cũng có nghĩa vụ phải cứu vãn đồng bào ở trong vòng nguy hiểm, khó khăn. Như tôi thấy rằng Tổ Quốc tôi bị người Pháp các ông chiếm lĩnh hơn sáu mươi năm nay ; tôi thấy rằng, dưới ách chuyên chế của các ông, đồng bào tôi khốn khổ vô cùng, và dân tộc tôi dần dần sẽ tiêu diệt hoàn toàn, theo luật tự nhiên đào thải. Bởi vậy, quyền lợi và nghĩa vụ đã thúc giục tôi phải tìm hết cách để bênh vực tổ quốc tôi đương bị người chiếm lĩnh, và dân tộc tôi đương ở cảnh gian nguy. Trước hết, tôi định cùng với các người Pháp ở Đông-Dương mà làm việc cho đồng bào, Tổ-quốc và dân tộc tôi, nhất là việc mở mang trí thức và kinh tế. Về phương diện kinh tế, năm 1925 tôi đã gửi cho viên Toàn quyền Varenne một bức thư, gồm có những nguyện vọng xin bênh vực che chở cho nền công, thương bản xứ, và nhất là lập một trường Cao-đẳng Công-nghệ ở Bắc-kỳ. Năm 1926, tôi lại gửi một bức thư nữa cho viên Toàn-quyền Đông-Dương, trong có một dự án giúp cho dân nghèo có thể dễ sống. Năm 1927, tôi lại gửi cho Thống-sứ Bắc-Kỳ một bức thư, xin ra một tập Tuần báo, mục đích là bênh vực và khuyến khích cho nền công thương bản xứ. Về phương diện trí thức, năm 1925, tôi gửi thư cho Toàn-quyền Đông-Dương, yêu cầu :

    1) Quyền tự do mở các trường dạy không lấy tiền cho dân hạ cấp đến học, nhất là cho thợ thuyền và nông dân.

    2) Quyền tự do mở các bình dân thư xã ở các làng cùng ở các tỉnh công nghệ.

    Khốn nỗi cái gì họ cũng cự tuyệt ! Thư tôi chẳng thấy trả lời ; dự án của tôi chẳng thấy thực hiện ; các lời yêu cầu của tôi chẳng thấy ưng chuẩn, mà đến các bài tôi viết lên báo cũng bị kiểm duyệt xóa bỏ nốt ! Cứ những chuyện cự tuyệt đó, tôi thấy rõ ràng : người Pháp không hề có thực lòng với người VIệt, và tôi chẳng giúp ích gì được cho Tổ quốc tôi, đồng bào, dân tộc tôi cả, trừ khi là đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi. Bởi vậy, năm 1927, tôi bắt đầu tổ chức một đảng cách mạng, lấy tên là Việt-Nam Quốc-dân Đảng, mục đích là đánh đổ chế độ cường quyền áp bức ra khỏi nước tôi, và lập nên Chính-phủ Cộng-hòa Việt-Nam, gồm những người thực lòng tha thiết đến hạnh phúc của quần chúng.

    Đảng tôi tổ chức bí mật, và đến tháng 2 năm 1929 thì bọn mật thám khám phá. Trong các đảng viên đảng tôi bị bắt một số khá lớn, và bị cấm cố từ 2 năm đến 20 năm, 52 người. Bị bắt nhiều, bị xử ức mặc dầu, Đảng tôi đâu có chịu hoàn toàn tiêu diệt ! Dười quyền tôi chỉ huy, Đảng vẫn hoạt động và đi tới mục đích. Ở Bắc-kỳ nổi lên một phong trào cách mạng, nhất là ở Yên-Báy, đã giết chết được mấy sĩ quan. Tổ chức và cầm đầu cho phong trào đó, người ta buộc cho Đảng tôi, lấy cớ chính rằng tôi là chủ tịch Đảng đã hạ lệnh đánh. Kỳ thực thì tôi chưa hề hạ lệnh ấy, và đã đem những chứng cớ chính xác, để chứng rõ ràng không, với Hội đồng Đề hình Yên-báy. Vậy mà, một số đông đảng viên hoàn toàn không biết đến phong trào ấy cũng bị bắt và bị buộc là có tham dự vào công việc ! Chính-phủ Đông-pháp đã đốt nhà họ ! Chính-phủ Đông-pháp đã cho lính đến đóng, rồi tịch thu gạo thóc của chọ mà chia phần với nhau ! Chẳng những đảng viên đảng viên đảng tôi, phải cam chịu nỗi bất bình, mà gọi là tàn bạo, tưởng đúng đơn ! – mà còn phần đông đồng bào, hiền lành làm lụng ở nhà quê, để sống cái đời ngựa, trâu, cũng chịu hại lây nữa ! Hiện nay trong các miền Kiến-an, Hải-phòng, Bắc-ninh, Sơn-tây, Phú-thọ, Yên-báy, có hàng vạn người đàn ông, đàn bà, ông già, con trẻ vô tội mà bị giết ! Hoặc bởi chết đói, chết rét, vì Chính-phủ Đông-pháp đã đốt mất nhà ! Vậy tôi trân trọng lấy nước mắt, nhờ các ông làm cho tỏ rõ nỗi bất bình ấy, là cái nó làm cho dân tộc tôi sẽ hoàn toàn tiêu diệt, là cái nó làm cho mất hết danh dự nước Pháp, là cái nó làm cho giảm cả giá trị của loài người !

    Sau nữa, tôi trân trọng bảo cho các ông biết : Tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc chính biến phát sinh trong nước tôi và chỉ huy bởi Đảng tôi, từ năm 1927 đến giờ ; vậy chỉ cần giết một mình tôi là đủ, mà đừng làm tội những người khác hiện nay đương bị giam ở các cửa ngục. Vì chỉ có một mình tôi là thủ phạm thôi, còn những người khác đều vô tội cả ! Họ vô tội cả vì trong số đó một phần là những đảng viên, nhưng sở dĩ vào đảng là vị họ nghe lời tôi khuyến khích cho họ biết : thế nào là nghĩa vụ của người dân đối với nước ; thế nào là những nỗi khổ, nhục của tên vong quốc nô ! Còn ngoài ra thì là những người không phải đảng viên, nhưng bị kẻ thù hay bọn mật thám đặt điều vu cáo, hay vu cáo bởi những bạn hữu không chịu nổi những cách tra tấn tàn nhẫn của công an cục (sở mật thám) và khai bừa ra cho đỡ phải đòn ! Tôi nhắc lại một lần nữa để các ông biết rằng chỉ cần giết một mình tôi hay còn chưa đủ hả thì tru di cả nhà tôi, nhưng xin các ông tha cho những người vô tội như trên đã nói. Sau cùng, tôi kết luận bức thư này nói cho các ông biết rằng : Nếu người Pháp muốn ở yên Đông-dương, mà không khốn đốn vì phong trào cách mệnh thì phải thay đổi cái chương trình chính trị hung tàn và vô nhân đạo hiện hành ở Đông-dương : phải cư xử cho ra vẻ những người bạn của giống Việt-Nam chứ đừng có lên bộ là những ông chủ bạo ngược và áp chế ; phải để lòng giúp đỡ cho những nỗi đau khổ về tinh thần về vật chất của người Việt-Nam, chứ đừng có khắt khe, thâm độc nữa !

    Các ông Nghị !
    Hãy nhận lấy tấm lòng tôi trân trọng cám ơn.
     
    tieungao thích bài này.
  16. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    EBOOK hoàn thành được đăng lại ở Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Cám ơn bạn Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đã giúp dự án 1000 bổ sung các trang còn thiếu của sách gốc.
     
    tieungao thích bài này.
  17. hnahnaht

    hnahnaht Mầm non

    Xin lỗi ad cũng như mọi người trong diễn đàn, mình cũng từng góp sức một công đoạn trong việc hoàn thành một số ebook trong dự án này nhưng khi hoàn thành ebook thì thấy như mình chẳng liên quan gì trong ebook này.
    BỞI VẬY NÊN NẢN TOÀN TẬP VỚI KIỂU LÀM NÀY.
     
  18. vqsvietnam

    vqsvietnam Leader 1000QSV1TVB Thành viên BQT

    @hnahnaht: bạn tham gia ở công đoạn nào vậy ạ, xin cho biết để chúng tôi sửa sai. Cám ơn bạn.
     
    tieungao thích bài này.
Moderators: Bọ Cạp

Chia sẻ trang này