Thanh Tịnh Đạo - Luận sư Bhadantacariya Buddhaghosa (The Path of Purification - Visuddhimagga ) Chuyển dịch từ Pàli sang Anh ngữ: Trưởng lão Nanamoli Chuyển dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ: Ns. Trí HảiMục Lục Lời Giới Thiệu Lời Dẫn Lời Tri Ân TIỂU SỬ NGÀI PHẬT ÂM (BUDDHAGHOSA) TIỂU SỬ NGÀI NANAMOLI THERA (Na-na-ma-lợi Trưởng lão) (1905-1960) TỔNG LUẬN BẢNG TRA CHỮ TẮT (LIST OF ABBREVIATIONS USED) Phần Thứ Nhất: Giới Chương I : Giảng Nghĩa Về Giới I. Dẫn Nhập II. Giới Chương II : Hạnh Ðầu Ðà Khổ Hạnh Phần thứ hai: Ðịnh Chương III : Mô Tả Ðịnh - Nhận Một Ðề Mục Quán Chương IV : Ðịnh - Kasina Ðất Chương V : Ðịnh: Những Kasina Khác Chương VI : Ðịnh Bất Tịnh Quán Chương VII : Ðịnh: Sáu tùy niệm Chương VIII : Ðịnh: Những Ðề Mục Quán Khác Bằng Tùy Niệm Chương IX : Mô Tả Ðịnh - Các Phạm Trú Chương X : Ðịnh - Các Vô Sắc Xứ Chương XI :Mô Tả Ðịnh - Kết Luận Chương XII : Thắng Trí - Các Năng Lực Thần Thông Chương XIII : Thắng Trí - Kết Luận Chương XIV : Mô Tả Về Các Uẩn Chương XV : Mô Tả Về Xứ Và Giới Chương XVI : Mảnh Ðất Cho Tuệ Tăng Trưởng: Căn Ðế Chương XVII : Ðất cho Tuệ Sanh - Kết Luận Chương XVIII : Kiến Thanh Tịnh Chương XIX : Ðoạn Nghi Thanh Tịnh Chương XX : Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Thanh Tịnh Chương XXI : Ðạo Tri KiếnThanh Tịnh Chương XXII : Tri Kiến Thanh Tịnh Chương XXIII : Các Lợi Ích Trong Sự Tu Tuệ Chương Kết : Sau khi trích dẫn đoạn kệ
TIỂU SỬ NGÀI PHẬT ÂM (BUDDHAGHOSA) Còn gọi là Phật Minh, Giác Âm, Phật Ðà Cù Sa, Người ở Phật đà già da, nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), thuộc Trung Ấn Ðộ, vào thế kỷ thứ V. Sư xuất thân trong gia đình Bà la môn, ban đầu học Phệ đà, tinh thông Du già, Số luận v.v..., về sau, Sư quy y Phật giáo, tinh thông các kinh điển. Vì mục đích hoằng truyền Phật pháp, rống tiếng rống của sư tử mà Sư soạn các chú thích bộ luận Phát trí (Nanodaya), luận Thù Thắng Nghĩa (Atthasàlini) và Luận Pháp Tập. Vào năm 432 Tây lịch kỷ nguyên, Sư vượt biển sang Tích Lan, trú tại Ðại tự (Mahàvihàra), theo Trưởng lão Tăng-già-ba-la (Sanghapàla Thera) nghiên cứu thánh điển tàng trữ tại chùa ấy, rồi đem dịch sang tiếng Pàli, và soạn Thanh Tịnh Ðạo luận (Visuddhimagga), Thiện Kiến Luật chú tự (Samantapàsàdikà) chú giải luật tạng (Sách nầy còn có tên là Thiện Kiến Luật Tì bà sa; Thiện Kiến luận.) v.v.... Ðồng thời, Sư đem giáo nghĩa của Thượng Toạ bộ ra soạn thuật thành một hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó, có thể nói Thanh Tịnh Ðạo luận là một tác phẩm toát yếu toàn bộ Tam tạng kinh điển và Luận sớ. Về sau, Sư đem 4 bộ kinh Nikàya dịch sang tiếng Ba lợi (Pàli), và soạn chú sớ tại chùa Kiền Ðà la (Granthakara parivena), xứ A nỗ lạp đạt phổ lạp (Anuràdhapura). Giải thích Trường Bộ kinh thì có Cát Tường Duyệt ý luận (Sumangalavilàsinì); giải thích Trung Bộ kinh thì có Phá trừ nghi chướng luận (Papancasùdanì); giải thích Tương Ưng Bộ kinh thì có Hiển Dương Tâm Nghĩa Luận (Sàratthappakàsinì); giải thích Tăng Chi Bộ kinh thì có Mãn túc hi cầu luận (Manorathapùraịì). Ðến khi ấy Tam Tạng Ba Lợi mới cực kỳ hoàn bị. Những chú thích của Sư, không chỉ hạn cuộc chữ nào nghĩa nấy của bản văn, mà bao quát cả các loại giải thích về lịch sử, địa lý, thiên văn, âm nhạc, động vật, thực vật v.v..., đặc biệt, đối với phong tục tập quán của Ấn độ cổ đại, Sư còn làm thêm ký thuật liên quan đến những văn hiến trọng yếu dùng để nghiên cứu về Ấn độ. Người Tích Lan ca ngợi học vấn uyên bác của Sư và sùng kính Sư như là Bồ tát Di Lặc tái thế. Lúc cuối đời, Sư trở về cố quốc an dưỡng tuổi già. Nhưng trong lịch sử Phật giáo Miến Ðiện bảo Sư là người Miến Ðiện, khoảng năm 400 từ nước Kim Ðịa (Kim địa: ngày nay nằm về hạ lưu Miến Ðiện cho đến bán đảo Mã Lai Á.) vào Tích Lan du học, rồi 3 năm sau, đem kinh điển trở về phục hung Phật giáo Miến Ðiện. (Căn bản Phật Ðiển nghiên cứu; The Life and Work of Buddhaghosa, PQÐTÐ, tr 2643 a-c).