Đang dịch NC-17 Bewitching - Jill Barnett

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi lan anh vu, 25/4/17.

  1. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Tên tác phẩm: Bewitching
    Tên tác giả: Jill Barnett
    Người dịch: lan anh vu
    Tình trạng: Đang dịch
    Phân loại: NC-17
    Giới thiệu: Alec, Công tước xứ Belmore, luôn làm những gì chàng muốn, và chàng đã quyết định kết hôn với một tiểu thư danh giá phù hợp với địa vị của chàng. Tuy nhiên vào đêm định mệnh đó chàng gặp một bà cụ đã cho chàng biết vận mệnh của chàng: Chàng sẽ không kết hôn với người mà chàng nghĩ sẽ cưới, mà cô gái tiếp theo chàng gặp mới là cô dâu của chàng. Dĩ nhiên chàng chỉ coi đó là một trò cười, cho đến khi chàng nhận được tin vị hôn thê hoàn hảo của chàng đã hủy hôn ước và người con gái tiếp theo mà chàng gặp, Joyous MacQuarrie, hóa ra lại là một phù thủy xinh đẹp đã hoàn toàn mê hoặc chàng...


    Ngày xửa ngày xưa . . .


    Làm tôi còn mê mẩn hơn
    lúc mọi điều đều hoàn mỹ

    “Delight in Disorder” Robert Herrick


    Chương 1

    Có ma thuật trong không khí, nhưng chỉ vài người có thể thấy được.

    Dưới cặp mắt người thường đó không gì khác ngoài một cơn bão phô trương, dọa dẫm của xứ Scotland đang thổi như hơi thở quỷ dữ từ các vùng nước xoáy xám xịt của Vịnh Mull. Ánh chớp xé toạc trời đêm và sấm gầm lên. Mưa trút từ trên trời xuống và biển đâm sầm vào những tảng đá granite khổng lồ bên bờ biển, bắn tung tóe lớp bọt trắng xóa lên vách đá nhọn nơi lâu đài Duart đang đứng đó.

    Suốt năm trăm năm trong lịch sử sáu trăm năm của nó, lâu đài là pháo đài của gia tộc MacLean và là nơi đón tiếp những người anh em họ, gia tộc MacQuarrie. Nhưng trận chiến Culloden Moor đã thay đổi tất cả. Trong sáu mươi bảy năm đen tối và nặng nề đó, nhiều gia tộc đã đánh mất tài sản bởi tính ngoan cố của người Scot. Nhà MacLean đã để mất pháo đài vào tay người Anh, Sassenach, người chẳng hề quan tâm tí nào tới sức mạnh rõ ràng, tuyệt vời của nơi này. Lâu đài giờ đứng đó, trống rỗng, tối tăm và hoang phế.

    Hoặc trông có vẻ như vậy.

    Bầu trời gầm lên và vỡ ra, biển cả thì gào thét. Đối với những người bình thường đó chỉ là một cơn bão khác, nhưng với những người hiểu biết, những người có đức tin cổ xưa, đó còn hơn một trận chiến giữa trời và đất.

    Các phù thủy đã thức tỉnh.

    Đúng rồi, có các phù thủy, và có các phù thủy. Và có cả nhà MacQuarrie.

    Đây là một câu chuyện buồn, về nhà MacQuarrie, một câu chuyện đã bắt đầu hàng trăm năm trước đêm nay. Một tổ tiên xa xưa của nhà MacQuarrie hiện tại được triệu tập đến lễ hội Đầu Xuân ở nơi mà nay là miền nam nước Anh. Ở đó, trên một đồng bằng rộng lớn, đứng sừng sững một ngôi đền bằng đá đồ sộ, nơi các nam, nữ phù thủy tụ họp để thể hiện sức mạnh của họ. Vào mùa xuân đặc biệt ấy, nam phù thủy của nhà MacQuarrie đã được chỉ định là sẽ có vinh dự làm những bông hoa mùa xuân quý giá nhất - hoa hồng - bừng nở. Những nam, nữ phù thủy khác đã đi vào trung tâm của ngôi đền và sử dụng ma thuật để mang sự sống quay lại với mặt đất đang ngủ đông.

    Đó là một ngày tuyệt đẹp, khi chỉ trong vài khoảng khắc, cỏ xanh vươn qua mặt đất ẩm ướt. Những bụi đinh hương, cây mao lương và bồ công anh rải một lớp vàng tươi trên màu xanh mơn mởn đã nảy mầm một cách kỳ diệu. Chẳng bao lâu sau các nhánh cây cằn cỗi của cây bạch dương được che phủ với những chiếc lá mùa xuân màu bạc và một lần nữa những cây gỗ trăn cao và thanh nhã lại xuất hiện. Cây sồi, cây tần bì và cây gỗ du thì cần hơn một xíu một câu thần chú, một cái bật nhẹ của bàn tay hay cái búng tay chớp nhoáng của ma thuật phù thủy để quay lại với sự sống. Mùi hương của hoa nhài, hoa anh thảo, cúc vạn thọ và oải hương lấp đầy khí trời buổi sáng mát mẻ, và đột nhiên đã là mùa xuân. Chim chóc và côn trùng di chuyển thành đàn trên không trung và đậu trên những cành cây; giai điệu du dương của chim chiền chiện, tiếng vo ve của những chú ong và tiếng gọi của chim bồ câu mang âm nhạc đến vùng đất đã lặng im qua quá nhiều tháng lạnh giá và ảm đạm.

    Sau đó là đến lượt của MacQuarrie. Đám đông tách ra khi chàng đi tới trung tâm của ngôi đền đá. Căn phòng im lặng, yên tĩnh tới mức người ta có thể nghe được một cái chớp mắt, khi tất cả nam và nữ phù thủy đều đang chờ đợi thời khắc đặc biệt đó. MacQuarrie đứng đó tập trung im lặng một lúc lâu. Rồi chầm chậm anh nâng hai bàn tay hướng về phía mái vòm đồ sộ và với một cái búng tay, giải phóng ma thuật của mình.

    Hoa hồng không nở vào ngày hôm đó.

    Thay vào đó một tiếng nổ dữ dội, như chưa ai từng được thấy, đã thổi bay các vách tường và mái vòm của ngôi đền lên bầu trời. Khi bụi lắng xuống và không khí trở nên quang đãng, các nữ và nam phù thủy nhấc mình khỏi mặt đất, ngôi đền đã không còn nữa. Không còn gì đứng đó ngoại trừ vài vòng vòm đá.

    Những con người hiện đại nhìn đầy kính sợ vào những tàn tích mà họ gọi là Stonehenge, nhưng đề cập tới cái tên Stonehenge với các phù thủy trên thế giới và cho đến tận ngày hôm nay họ vẫn lắc đầu chán nản và càu nhàu về sự hổ thẹn của MacQuarrie.

    Và bỗng thành ra là vào năm 1813 Dương lịch chỉ còn lại hai phù thủy ở Scotland - một MacLean và, trong tất cả mọi thứ, một MacQuarrie. Vì thế trong cái đêm náo nhiệt khi cơn bão tàn phá bờ biển của đảo Mull, khi mưa trút xuống những tàn tích đổ nát của một lâu đài từng một thời huy hoàng đứng trên mũi đá lởm chởm đó, khi những con người trên hòn đảo nhỏ xíu đó đang co mình bên ngọn lửa và lắng nghe tiếng rền rĩ của bầu trời, MacLean và MacQuarrie đang làm phép.

    ***

    Joyous Fiona MacQuarrie cúi xuống để nhặt những quyển sách nằm rải rác trên sàn phòng tháp. Mười chiếc vòng vàng trượt xuống cổ tay của nàng, kêu leng keng như tiếng chuông xe trượt tuyết và vang vọng trong sự im lặng căng thẳng của căn phòng. Nàng thấy biết ơn tiếng ồn đó, nó giúp nàng có giây phút trì hoãn quý báu khỏi cái nhìn sắc bén và mất kiên nhẫn từ dì của nàng, bà MacLean. Quay đi khỏi dì nàng, Joy túm lấy một cuốn sách khác, nhét nó dưới cánh tay khi nàng lẩm bẩm, “Đó chỉ là một phần nhỏ xíu của một từ.” Nàng nhặt lên một cuốn sách khác, kèm theo là tiếng leng keng của những chiếc vòng, nhưng khi chúng đã yên vị trên cổ tay, nàng có thể nghe một âm thanh mới - tiếng gõ kích độngvà rõ ràng.

    Bước chân của dì nàng.

    Nàng liếc trộm dưới cánh tay duỗi ra của nàng và co rúm lại. Dì của nàng đang khoanh tay lại và lắc mái đầu màu vàng của bà trong sự phẫn nộ. Nhưng tệ hơn cả là Joy có thể thấy sự chuyển động trên môi của bà MacLean: dì của nàng lại đang đếm.

    Trái tim Joy trầm xuống; nàng một lần nữa lại thất bại. Thở dài thất bại, nàng lặng lẽ xếp các cuốn sách lên cái kệ gỗ sồi cũ kỹ của họ và thả mình xuống cái ghế gỗ lung lay sau khi kéo nó lại gần hơn tới cái bàn có khung đỡnằm giữa căn phòng tháp. Nàng tựa cái cằm nhỏ nhắn lên bàn tay và đợi cho dì nàng đếm tới một trăm - ít nhất nàng hy vọng nó chỉ đến một trăm.

    Một con mèo mượt mà với bộ lông trắng như lớp tuyết dày vùng cao nguyên nhảy lên bàn, luồn lách và đi qua ba giá nến bằng đồng thau đã nhuốm màu thời gian đang bao phủ cái bàn gỗ sồi mòn vẹt với thứ ánh sáng vàng lập lòe lung linh. Khi con mèo uốn mình dọc theo cái bàn, đuôi của nó tạo thành những cái bóng kì lạ ngang qua mặt bàn nứt nẻ. Bị mê hoặc bởi những cái bóng ấy, Joy cố gắng hình dung những chữ cái tưởng tượng từ các hình ảnh tạo bởi cái đuôi mèo, tâm trí nàng thơ thẩn trong một chuyến du hành tưởng tượng quen thuộc. Đó là rắc rối của nàng. Nàng là một phù thủy có tâm trí luôn thơ thẩn.

    Con mèo, Gabriel, là hầu cận - một linh hồn hiện thân trong hình dạng động vật mà có bổn phận phục vụ, chăm sóc và cả bảo vệ phù thủy trong một số trường hợp - của dì nàng. Nàng liếc về phía hầu cận của mình, Beelzebub, một chú chồn ecmin với bộ lông trắng như mùa đông hiện tại ngoại trừ những đốm đen nhỏ trên đuôi và các bàn chân của nó. Bộ lông trắng như tuyết che phủ cái bụng phệ to bự làm nó trông giống một con thỏ tròn trĩnh hơn một con chồn khôn khéo, gần như là nham hiểm. Vào lúc đó, cũng như hầu hết mọi lúc khác, nó đang ngủ ngon lành.

    Nàng thở dài. Beezle là con vật duy nhất bằng lòng làm hầu cận của nàng.

    Mèo giống như Gabriel là loài động vật kiêu hãnh và ngạo mạn, chúng tuyệt đối cự tuyệt trở thành đồng minh với một phù thủy chẳng thể điều khiển được ma thuật của nàng ta. Những con cú thì quá khôn ngoan để bắt mình liên minh với một người dớ dẩn như Joy. Và cóc, ồ, chúng ném một cái nhìn lên nàng, kêu ộp ộp rồi nhảy đi.

    Beezle mập mạp và già cả thở khò khè trong giấc ngủ. Joy ngắm những cái móng vuốt đen đang co giật của nó và nhắc nhở bản thân rằng ít nhất nàng còn có một hầu cận, dù nó chỉ là một con chồn. Cứ như cảm nhận được suy nghĩ của nàng, cậu chàng hé mở một con mắt nâu lười biếng ra và nhìn chăm chú nàng như là đang bình tĩnh chờ đợi thảm họa kế tiếp. Nàng vươn tới để gãi lên cái bụng lông của nó và ngay lập tức va phải cái ấm trà tầm xuân lạnh lẽo.

    Gabriel rít lên và nhảy ra khỏi đường đi của nước trà bị đánh đổ. Beezle không di chuyển nhanh như vậy. Thực ra Beezle hiếm khi nào di chuyển. Nước trà gom lại thành dòng xung quanh nó. Nó chớp mắt hai lần, ngắm nước trà đang thấm lên bộ lông trắng của nó, và ném cho cô cái nhìn không khác gì của bà MacLean trước khi lắc mình và phun những giọt nước trà ra khắp mọi hướng. Nó đi lạch bạch tới một chỗ khô ráo và nằm phịch xuống với một tiếng thịch nhẹ, rồi lăn qua, móng giơ lên trời, cái bụng trắng và hồng mũm mĩm ngửa ra và nhìn chằm chằm vào trần nhà. Joy tự hỏi động vật có thể đếm hay không. Beezle mở miệng và phát ra một tiếng khò khè lớn, rồi một tiếng ngáy.

    Đếm trong giấc ngủ của chúng, nàng sửa lại, khi đang gõ nhịp những ngón tay xuống bàn.

    “Ta biết làm gì với cháu đây?” bà MacLean, đã dành đủ thời gian để đếm tới một trăm tận hai lần, cuối cùng cất tiếng nói. Dì nàng có thái độ nghiêm khắc, nhưng giọng nói của bà chứa đựng kiên nhẫn sinh ra từ thứ tình yêu gần như là của một người mẹ.

    Tình yêu đó làm hoàn cảnh của Joy thậm chí còn tệ hơn. Nàng thực sự muốn trau dồi kỹ năng ma thuật của nàng vì người dì kiên nhẫn của nàng cũng như vì lòng kiêu hãnh của chính bản thân nàng, và khổ sở vì nàng không thể làm được. Nàng lơ đãng vạch một ngón tay qua lớp bụi trên bàn, rồi nhìn vào người dì và cũng là người hướng dẫn của nàng. “Một từ có thể thực sự tạo nên sự khác biệt như vậy ư?”

    “Mỗi từ đơn đều vô cùng quan trọng. Một câu thần chú cần phải chính xác. Một phần năng lượng đến từ giọng nói.” Bà MacLean hít một hơi sâu và nắm hai tay sau lưng. “Phần còn lại phải tập luyện. Tập trung!” Bà bước đi quanh căn phòng tròn, giọng nói mạnh mẽ của bà dội lại từ những bức tường đá như tiếng kèn túi ở vùng cao nguyên. Thình lình trong nháy mắt, bà dừng lại và nhìn xuống Joy. “Bây giờ chú ý. Quan sát ta.”

    Đứng bên trái Joy, bà nâng hai bàn tay thanh tú lên cao, cho phép những sợi vàng thanh mảnh trên chiếc áo choàng lụa thêu của bà bắt lấy ánh nến và lóe sáng như bụi tiên lấp lánh. Joy nín thở. Dì nàng đứng đó, cao ráo và cao quí với bầu trời đêm làm phông nền qua cửa sổ tòa tháp, dì nàng trông như một nữ thần. Mái tóc thẳng dài đang đổ xuống trên lớp satin xếp nếp lấp lánh qua hông đến sau đầu gối của bà, có màu vàng đồng. Làn da của bà hoàn hảo như kem tươi và có vẻ trẻ trung trong ánh nến tỏa sáng dìu dịu. Áo choàng của bà MacLean có màu trắng - không phải màu trắng toát của bông hay màu trắng ngà của lông cừu, mà cùng một màu trắng lung linh như ánh sáng của các vì sao, của tia chớp lóe lên, của những viên kim cương lấp lánh và mặt trời rực sáng.

    Một cơn gió Scotland lạnh lẽo thổi qua phòng tháp, làm ánh nến lung linh. Mùi hắc của sáp nóng hòa trộn với mùi của cơn mưa đêm và mùi muối của biển động lướt theo tiếng gió xào xạc đi qua căn phòng. Những cái bóng nhảy điệu jig trên những bức tường đá granite, và âm thanh của sóng đâm sầm vào những tảng đá sắc nhọn bên bờ biển ở phía dưới vang vọng lên trên, trộn lẫn với tiếng gọi thê lương của những con mòng biển đậu trong mái hiên tòa tháp. Rồi, với một ánh chớp lóe lên đột ngột, tất cả trở nên… yên lặng.

    Giọng nói trầm trầm của bà MacLean vang lên, “Đến đây!”

    Ma thuật chấn động xuyên qua không khí – một thứ sống động, mạnh mẽ và đầy kiểm soát di chuyển về phía bức tường nơi những cuốn sách bọc da cũ kỹ nặng trịch đang nằm trên cái kệ gỗ sồi. Một cuốn sách màu nâu đồ sộ và rách nát từ từ trượt khỏi kệ, từng inch một, đi ra giữa không trung, sau đó bay về phía bà MacLean. Nó trôi lơ lửng gần bà, chờ đợi cho tới khi bà chầm chậm hạ một cánh tay xuống. Cuốn sách đi theo di chuyển của bà, nhẹ nhàng nằm lên bàn như thể nó là một cái lông chim thay cho một tác phẩm ba nghìn trang.

    Joy hạ cằm lên bàn tay và thở dài. “Dì làm nó trông thật dễ dàng.”

    “Nó dễ dàng. Chỉ cần phải tập trung.” Dì của nàng đặt lại cuốn sách lên kệ và quay sang Joy. “Bây giờ đến lượt cháu.”

    Với sự bướng bỉnh thuần túy của người Scot trong đôi mắt màu xanh lục đậm của nàng, Joy hít một hơi thật sâu, nhắm mắt lại, và với tất cả cảm xúc mà một phù-thủy-hai-mươi-mốt-tuổi có thể thể tập hợp, nàng vung tay lên không trung. Những cái vòng tay của nàng bay qua căn phòng tháp như những con mòng biển bay liệng. Khi tiếng loảng xoảng đầu tiên của kim loại va vào đá vang lên, nàng co rúm lại, rồi hé một con mắt xanh ra.

    “Quên những cái vòng đi! Tập trung ... tập trung.”

    Nàng cố gắng tập trung, nhưng không có gì xảy ra. Nàng nhắm mắt chặt hơn.

    “Hình dung sự di chuyển của cuốn sách, Joyous. Sử dụng trí tưởng tượng của cháu.”

    Nàng nhớ lại cách dì nàng làm phép chỉ vài phút trước. Nàng so vai lại và nâng cái cằm quả quyết lên, làm mái tóc rối với nhiều sắc thái của màu nâu vàng như một dòng thác dày đổ xuống lắc lư gần đằng sau đùi nàng. Nàng mở mắt ra và vươn cao hơn. Hít một hơi thật sâu để lấy may, nàng ra lệnh “Đến đây!”

    Cuốn sách run rẩy, di chuyển khoảng hai inch, rồi ngừng lại.

    “Tập trung!”

    “Đến đây!” Joy xòe rộng ngón tay, cắn môi và từ từ kéo bàn tay về phía nàng, tưởng tượng trong đầu cuốn sách trôi về phía nàng, sau đó lơ lửng trong không khí.

    Cuốn sách trượt trên kệ, vừa đến tới mép kệ.

    “Đến đây!” Joy hét lên với giọng trầm như hang động Fingal. Nàng mở mắt, quyết tâm di chuyển cuốn sách đó, và búng ngón tay một cách chừng mực.

    May là nàng nhìn thấy nó bay tới và né tránh. “Ôi Chúa ơi!”

    Cuốn sách đó bay vụt qua nàng như được mang đến từ cơn bão, rồi cuốn tiếp theo rồi cuốn tiếp theo nữa, rồi cuốn sách khác và cuốn khác nữa, bị hút ra khỏi kệ sách với lực kéo mạnh như thủy triều. Với một tiếng răng rắc kinh dị cái kệ sách tách ra khỏi bức tường đá. Nó bay qua căn phòng, xoay tròn và tóe lửa, lượn vòng và lượn vòng, nhanh hơn và nhanh hơn nữa. Cái xô bằng thiếc có vết lõm xoay tròn bên trái Joy, rồi đập lên sàn nhà loảng xoảng. Cái chổi bắn mạnh sang bên phải, ba cái ghế đẩu xoay nhanh như nghệ sĩ múa rồi ngã rầm một cái đâm sầm vào một cái bình, làm nó vỡ ra thành hàng nghìn mảnh.

    Đồ đạc đập vào tường, trầy trụa và rạn nứt. Những ngọn nến bay lên… lên… và lên nữa… Gió gào rít qua căn phòng, nạt nộ, huênh hoang và dồn dập. Theo bản năng Joy vòng tay ôm lấy đầu và khom người xuống. Cái ấm trà đánh trượt nàng. Nàng nghe thấy tiếng mèo rít lên, tiếng móng vuốt chạy lộp cộp từ nơi nào đó. Cái thùng đựng than đá ném những miếng than đen bay khắp phòng như những hòn đá trong một cuộc hành quyết. Rồi nàng nghe một tiếng càu nhàu vang lên - bà MacLean.

    “Ôi, chuột!” Joy lấy tay che miệng khi một trăm con chuột xám chạy lon ton vào căn phòng tháp, bò xuống những bức tường, nhảy xuống từ đồ đạc vỡ vụn, chạy loạn xạ.

    Gió từ từ thổi chậm lại, nhẹ dần cho đến khi chỉ còn là một tiếng xào xạc, và sau một lúc lâu không khí trở nên yên lặng. Âm thanh duy nhất còn lại trong căn phòng là tiếng bước chân chạy nhốn nháo của những con chuột.

    Joy nghe thấy một tiếng đằng hắng phía sau nàng. Nàng đứng thẳng dậy và quay lại.

    Phủi đi lớp bụi than, bà MacLean với khuôn-mặt-đen xuất hiện từ bên dưới cái mà đã từng là cái-ngai-vàng-hai-trăm-năm-tuổi. Bà ném một cái nhìn hiểm ác lên những con chuột đang chạy lung tung qua căn phòng vừa trải qua thiên tai và búng những ngón tay tao nhã bị bám bụi đen, làm tỏa ra một đám bụi than nhỏ. Những con chuột biến mất.

    Gabriel-đã-từng-có-màu-trắng, bị áp đảo bởi những con chuột về số lượng, kêu lên một tiếng rít khác và chạy vội như một quả bóng đen qua căn phòng tới dưới cái váy dơ bẩn của bà MacLean, làm gấu váy rung lên một lúc lâu và một ít bụi bồ hóng rắc lên sàn nhà bằng ván gỗ. Âm thanh duy nhất còn lại trong căn phòng là tiếng ngáy của Beezle. Nó nằm ườn ra trên bàn, móng giơ lên, bụng nhẹ nhàng nhô lên với mỗi tiếng thở khò khè.

    Anh chàng đã ngủ suốt thời gian vừa rồi.

    Một cái nhìn căng thẳng và thất vọng từ dì nàng và Joy cảm thấy như đang chịu sức nặng của cả thế gian.

    “Cháu xin lỗi,” Nàng thì thầm, quay đôi mắt xanh hối lỗi về phía dì nàng.

    “Ta không thể để cháu ra ngoài thế giới, Joyous. Ta không thể.” Bà MacLean phủi bụi khỏi bàn tay và xem xét tình trạng bị tàn phá. “Lương tâm ta không cho phép để cháu sống ở nước Anh một mình trong hai năm.”

    Dì nàng trông trầm tư trong giây lát trong khi bà gõ một ngón tay bị bôi đen bởi muội than lên môi bà.

    “Tất nhiên, để cháu sống ở đó có thể là những gì người Anh xứng đáng phải nhận sau trận chiến Culloden Moor…”

    Bà liếc quanh căn phòng lộn xộn với vẻ chán ghét, rồi lắc đầu. “Không, không. Người Anh đã phải chịu đựng một ông vua điên rồ và một hoàng tử nhiếp chính thích chơi đùa hơn cai trị.”

    “Nhưng-”

    “Không.” Bà MacLean nâng tay lên để làm Joy im lặng. “Dì biết cháu có ý tốt, nhưng tất cả những ý định tốt đẹp trên thế giới cũng không thể kiểm soát… cái này.” Bà phẩy tay vào đống lộn xộn trong phòng, lắc đầu và tiếp tục, “Cháu cần sự bảo vệ, cháu yêu. Một ai đó để trông nom cháu.”

    Với những lời đó bà giơ hai bàn tay đầy muội than lên không trung, búng ngón tay, và bất thình lình! căn phòng quay lại với trật tự hoàn hảo - những cái ghế đứng thẳng và ở đúng chỗ, tất cả những cái ghế đẩu và cái bàn và ấm trà đều ở vị trí thích hợp, cái bình còn nguyên vẹn, cái chổi và cái xô đứng tựa vào bức tường phía Bắc và tất cả những cuốn sách xếp thẳng hàng trên kệ như những người lính Anh cứng nhắc. Bà MacLean, đột nhiên trở nên tinh tươm, một lần nữa là hình ảnh về sự hoàn hảo của màu trắng tinh khiết và màu vàng lung linh.

    Joy biết là dì nàng đang nói thật: đó là Joyous Fiona MacQuarrie cần một ai đó ở xung quanh để dọn dẹp phía sau nàng, ai đó để giải cứu cho những phá hoại từ thứ ma thuật ngu ngốc của nàng tạo ra. Nhưng Joy đã sống với dì nàng trong mười lăm năm và giờ đây nàng muốn có cơ hội để sống một mình, để chịu trách nhiệm với chính mình.

    Khi nàng ở một mình, có lẽ nàng có thể học được cách kiểm soát năng lực của nàng. Có lẽ nàng sẽ không cảm thấy quá căng thẳng và lo lắng vì không có ai để thất vọng ngoại trừ chính nàng. Nàng đã bị tổn thương sâu sắc vì thứ năng lực không đáng tin của nàng luôn làm những người người nàng muốn làm hài lòng phải thất vọng. Nàng đứng đó, thất bại, mặc cảm và khốn khổ, cảm thấy sự tuyệt vọng thấm qua người nàng. Nàng thấy đau đớn, nàng đã thất bại và giờ đây chẳng có hy vọng nào sẽ thành hiện thực.

    Cùng việc dì nàng rời đi vì một vị trí trong hội đồng ở Bắc Mỹ, Joy cuối cùng sẽ được ở một mình, một viễn cảnh nàng đã háo hức mong đợi. Lâu đài Duart đã được thuê bởi một nhóm bác sĩ ở Glasgow, những người dự định sử dụng nó để đón tiếp những người lính bị thương và chán chường trở về từ cuộc chiến với nước Pháp của Napoleon.

    Joy sẽ đi tới nhà của bà ngoại nàng ở Surrey và sống cuộc đời mờ nhạt trong hai năm. Nàng chắc chắn là đến lúc đó nàng có thể học hỏi các kỹ năng của nàng. Nàng lạc quan. Nàng chỉ cần thuyết phục bà MacLean. Bên cạnh đó, dì của nàng sẽ rời đi và bà sẽ không biết được nàng có mắc một hay hai lỗi lầm. Và có một lập luận khác ủng hộ nàng “Nếu cái cháu cần là sự bảo vệ, thì sao không phải là một hầu cận?”

    Một tiếng mèo kêu inh ỏi vang lên trong không khí. Gabriel lao ra từ dưới gấu váy của bà MacLean và vụt chạy tới bên dưới cái tủ. Nó nấp trong bóng tối, đôi mắt xanh sắc bén là manh mối duy nhất về nơi nó ẩn mình.

    “Hầu cận của cháu,” Nàng chỉnh lại, ngay lúc Beezle co giật và khịt mũi trong giấc ngủ. “Không phải một hầu cận có nghĩa vụ bảo vệ phù thủy?”

    "Joyous, thứ duy nhất con chồn chậm chạp đó sẽ bảo vệ là thời gian ngủ của nó. Cháu dường như không thể tập trung-”

    “Đợi đã!” Joy dừng lại, đột nhiên thấy hy vọng. “Cháu có ý này!” Nàng vội vã chạy tới cái bàn giấy Larkin nhỏ mòn vẹt, mở nó ra và lục lọi cho tới khi tìm thấy thứ nàng đang tìm kiếm. “Đây!” Nàng đi vòng quanh giữ một mẩu giấy, cây bút với cái hộp nhỏ màu đen đựng ngòi bút và một bình mực Ấn Độ lùn xủn. “Đầu tiên cháu sẽ viết câu thần chú xuống trước. Rồi cháu có thể xem nó, trên tờ giấy trắng mực đen. Dì sẽ thấy, cháu biết sau đó cháu có thể tập trung mà, cháu biết mà. Làm ơn… cho cháu một cơ hội nữa.”

    Dì nàng quan sát nàng trong một lúc lâu cân nhắc.

    “Làm ơn,” Joy thì thầm, hạ mắt và nín thở trong khi cầu nguyện trong đầu: Cho cháu một cơ hội cuối cùng đi, làm ơn… làm ơn…làm ơn…

    Bà MacLean nâng cằm nàng lên. “Một lần nữa.”

    Một nụ cười rạng rỡ đủ để át đi ánh sáng của ngọn nến choán hết khuôn mặt nhợt nhạt của Joy. Đôi mắt xanh lục của nàng lóe lên sự háo hức, nàng hấp tấp đi tới bàn, ngồi xuống cái ghế đẩu, và nhúng ngòi bút vào trong mực. Mỉm cười, nàng ngẩng lên.

    Joyous Fiona MacQuarrie đã sẵn sàng.

    Nhưng nước Anh thì không.
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/9/21
  2. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Xấu, đẹp nào biết chắc đâu
    Màn sương, bụi bẩn mịt mờ khó phân


    —Macbeth, William Shakespeare



    Chương 2

    Luân Đôn, tháng 12 năm 1813

    Một cỗ xe ngựa màu đen thanh nhã chạy lọc cọc trên những con đường rải sỏi ẩm ướt, người xà ích có vẻ hiện rõ ra với màn sương mù dày đặc bao phủ thành phố. Vượt qua một xe ngựa chở đồng nát phía trước Green Park, qua người lính gác đang một nắm chặt một ả điếm say mèm vì rượu gin bằng một bàn tay lực lưỡng, qua những cái ghế kiệu chậm chạp và những người làm công còi cọc đang choán hết đường phố; người xà ích lao nhanh như chẳng để ý tới con đường đông đúc cũng như việc anh ta đang chạy trong thời tiết khắc nghiệt. Chiếc xe vụt qua như một ánh chớp màu đen vòng quanh góc phố nơi người thắp đèn đang nâng ngọn đuốc hình móc câu lên và thắp sáng ngọn đèn đường bằng sắt cuối cùng trên đường St. James. Nhanh hơn cả một tích tắc, chiếc xe ngựa thắng lại và một người hầu chế phục xanh lá mở cánh cửa gắn huy hiệu màu vàng và xanh trước khi bốn con ngựa kéo xe đang sùi bọt mép kịp ngừng lại.

    Alec Castlemaine, Công tước Belmore, đã đến câu lạc bộ của chàng.

    Khi đôi giày bóng loáng màu rượu sâm banh của chàng chạm xuống lề đường, đồng hồ ở cửa hàng gần đó điểm năm tiếng. Hôm nay là thứ Tư, và mỗi khi chàng ở trong thành phố, người ta có thể thấy Công tước Belmore ở White chính xác lúc năm giờ mỗi thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu.

    Đó là một nghi lễ. Một thói quen. Đó là phong cách của Công tước Belmore. Trên thực tế mới chỉ mùa trước Quí ngài Alvaney đã châm biếm rằng ông ta biết đồng hồ của mình bị chết khi nó chỉ ba giờ lúc Belmore bước vào câu lạc bộ. Tiệm bánh mì Haston lật ngược tấm biển và khóa cửa khi chiếc xe ngựa màu đen chạy lọc cọc qua, và nhiều cuộc cá cược đã được ghi lại trong cuốn sổ đánh cược của Boodle về lịch trình trong thành phố của Belmore. Nó cũng dễ đoán như trà của người Anh vậy.

    Và hôm nay Bá tước Downe và Tử tước Seymour đi kèm cùng Belmore. Richard Lennox, Bá tước Downe là một anh chàng bảnh trai, cao ráo có mái tóc vàng hoe và đôi mắt đen cùng trí tuệ sắc bén và cuối cùng là một cách nhìn cay nghiệt về thế giới; Neil Herndon, Tử tước Seymour thấp và gầy hơn với mái tóc sáng bóng như đồng nửa xu mới. Một lần Downe đã nói rằng Seymour quá bồn chồn và lo lắng tới mức chàng ta có thể làm một người chết phải co quắp lại.

    Ba chàng trai đã làm bạn đồng hành gần hai mươi năm trong suốt hai mươi tám năm cuộc đời và cả Downe lẫn Seymour vẫn chưa thực sự hiểu điều gì tạo nên cách cư xử của Alec Castlemaine. Đó là một trong số những điều ít ỏi mà hai người từng đồng ý với nhau.

    Họ biết Alec có thể ném ra một cú móc phải chết người mà trông như là chẳng gắng sức gì hơn đập một con ruồi. Họ biết không có con ngựa nào còn sống mà Alec không thể điều khiển với kỹ năng ma quỷ tự nhiên của chàng. Và họ biết bất cứ khi nào Alec mong muốn thứ gì đó, chàng sẽ theo đuổi và chiếm được nó với vẻ nhàn nhã mà kiên quyết. Công tước Belmore chỉ cần búng ngón tay và cả thế giới phải giật mình.

    Nhiều người phụ nữ đã cố gắng và thất bại trong việc chiếm được trái tim của Alec Castlemaine. Tất cả những gì họ nhận được cho nỗ lực của họ, không cần biết can đảm đến đâu, là một cái liếc nhìn cao quí. Richard và Neil là hai người gần gũi nhất với Belmore, và ngay cả họ cũng không thể khơi gợi ra thứ gì từ chàng ngoài một tình bạn lạnh nhạt.

    Ngay sau khi gặp nhau ở Eton, Bá tước Downe đã gánh vác một thử thách là khơi nên một vài phản ứng cảm xúc từ Belmore, và qua nhiều năm Downe đã cố gắng hết sức để phá vỡ bộ mặt lãnh đạm của ông bạn này.

    Tối nay không phải ngoại lệ.

    Alec dặn dò người xà ích và quay đi, chỉ để thấy đường đi của chàng bị chặn bởi một bà già trông không lớn hơn cả một thằng nhóc mười tuổi nhìn rất đáng chú ý. Cái mũ rơm hung đỏ lôi thôi to gấp đôi mái đầu bạc của bà ta, cái váy nhung xám tả tơi và cái khăn choàng xanh dương khoác hờ trên đôi vai nhỏ hẹp. Bà già mang theo một cái giỏ mây chứa đầy những bông hoa tươi, và một bàn tay xương xẩu giữ một bó hoa nhỏ hoàn hảo gồm hoa thường xuân Anh quốc và hoa violet tươi tắn.

    “Một bó hoa đáng yêu to quí cô của nài chứ, thưa nài.”

    “Đức ông,” chàng sửa lại với tông giọng lạnh lẽo được biết là đã làm đóng băng nhiều người đàn ông bất hạnh ngay trong chiếc giày của hắn ta.

    Bà già, dù vậy, không di chuyển. Bà ta chỉ chăm chú ngó lên chàng với đôi mắt xám nhăn nheo.

    Chàng di chuyển để bước vòng qua mụ, nhưng mùi hương mới mẻ ngọt ngào của những đóa hoa đã làm chàng dừng bước. Chàng ngừng lại một chút làm thing, ngẫm nghĩ, rồi rút lấy bó hoa và ném cho bà già đồng xu, dự định sẽ đưa hoa cho Juliet tại buổi khiêu vũ ở nhà Linleys tối nay. Chàng bắt đầu đi về phía cánh cửa khi cảm thấy một bàn tay xương xẩu nắm lấy cánh tay chàng.

    “To tôi một silinh nữa, Tức ông, tôi sẽ nói to nài vận mệnh của nài.”

    Chẳng quan tâm tới một điều ngu xuẩn như vậy, Alec gạt bà ta ra, nhưng Tử tước Seymour - người nổi tiếng là chàng trai trẻ tuổi mê tín nhất trên đất Anh - đã ngăn chàng lại.

    “Lờ bà ta như vậy là điềm xấu đấy, Belmore.”

    Bá tước Downe tự nhiên tựa lưng lên cánh cửa của câu lạc bộ, chặn lối đi lại một cách hiệu quả và đặt cánh tay khỏe mạnh lên cánh tay bị thương đang quàng băng đeo. Sau khi đánh giá Alec, anh ta đút tay vào túi và ném cho bà phù thủy một đồng nửa curon. “Tốt nhất là lắng nghe bà ta đi,” Downe nói với nụ cười nhạo báng. “Không cần để bất kì điềm xấu nào bám lên cái tên Belmore tôn kính.”

    Alec tặng cho bạn chàng một cái nhìn thờ ơ, khoanh tay lại và đứng đó như thể chàng chẳng quan tâm về tất cả những thứ ngu xuẩn mà bà già nói. Nhưng thậm chí chàng cũng khó mà trông buồn chán khi bà ta bắt đầu nói dớ dẩn về đời sống tình cảm của chàng. Downe, mặc dù vậy, đang thực hiện một nỗ lực kém cỏi trong việc kiềm chế sự vui vẻ của mình, và Neil có vẻ như đang nuốt lấy từng lời của mụ phù thủy.

    “Nài sẽ không cưới cô gái mà nài to là sẽ cưới, tức nài.”

    Người đàn bà ngu xuẩn, Alec nghĩ. Lời tuyên bố sẽ được đăng trên báo sáng mai. Quí cô Juliet Elizabeth Spencer, con gái của Bá tước và Nữ bá tước Worth, sẽ cưới Alec Gerald Castlemaine, Công tước Belmore. Chàng đã cầu hôn. Quí cô Juliet đã chấp thuận, và những chi tiết tiền bạc về hôn nhân của họ đã được thương lượng vào ngay lúc đó. Sau thời điểm đó, thử thách tìm hiểu của Alec đã kết thúc.

    “Ai là người cậu ta sẽ cưới?” Seymour hỏi, liếc qua liếc lại giữa Alec và bà già với vẻ lo lắng.

    “Cô gái kế tiếp nài gặp,” bà nói với một tia lấp lánh lạ lùng trong mắt. Bà giơ một ngón tay lên và thêm vào, “Cô ấy sẽ tó vài bất ngờ dành to nài đấy.”

    “Ta sẽ không nghe thêm bất cứ điều gì nữa.” Alec đẩy qua Richard đang cười toe toét ra và giật tung cánh cửa. Nhưng chàng vẫn nghe được những lời cuối của bà già đằng sau vai.

    “Nài sẽ không bao giờ buồn chán nữa, tức nài! Không bao giờ.”

    Bước qua sàn gỗ tiền sảnh, đôi giày của chàng tạo ra một loạt tiếng vang sắc nhọn, Alec kéo đôi găng tay làm từ da bê của chàng ra với một tiếng soạt rõ ràng và đưa chúng cùng với cái mũ cho Burke, quản gia của câu lạc bộ, người lần lượt trao chúng cho một trong mười người hầu đang đợi để đưa áo khoác của các khách quí tới phòng cất đồ nơi chúng được làm sạch và hong khô.

    “Chào buổi tối, thưa Đức ông,” Burke nói, giúp Alec cởi chiếc áo bành tô của chàng ra và đưa chúng cho một người hầu khác. “Ngài thấy thế nào ạ?”

    “Cậu ta bực mình,” Downe châm chọc, giũ áo khoác ra khỏi cánh tay bị thương và để Burke giúp cởi ra bên kia.

    “Tôi hiểu.” Burke đáp lại với tông giọng thể hiện rằng ông ta chẳng hiểu gì, nhưng vẫn nói điều thích hợp bởi vì đó là công việc của ông. Ông cầm lấy áo của những chàng trai khác, tiếp đón họ với cùng cách đối đãi nghiêm ngặt mà tất cả các thành viên dòng dõi quí tộc của câu lạc bộ được nhận.

    “Chẳng hiểu sao tôi không nghĩ ông hiểu,” Downe lẳng lặng nói, cố gắng đi theo Alec khi chàng sải bước dài như vận động viên lên cầu thang bằng cẩm thạch Florentine đến phòng tiếp khách chính.

    Seymour bắt kịp Downe. Nhìn theo bóng lưng rộng lớn của Alec anh ta nói thầm, “Cậu nghĩ cậu ta sẽ làm gì với tiểu thư Juliet?”

    Downe dừng lại và nhìn vào Seymour như thể anh ta đã để trí não cùng với áo khoác ở lối vào câu lạc bộ. “Cậu đang nói về cái quái gì vậy?”

    “Lời thông cáo. Cậu với tôi thừa biết cậu ta là người tán thành nhiệt liệt với khuôn phép mà. Cậu ta sẽ làm gì khi đám cưới không tiến hành, đặc biệt là sau khi kế hoạch của cậu ta đã đăng đầy trên các tờ báo?”

    “Đừng ngu ngốc hơn những gì cậu đã thể hiện chứ.”

    “Cậu nghe mụ già nói rồi đấy. Mụ ta nói Belmore sẽ không cưới Juliet. Hôm qua tôi đã nói với cậu tôi có cảm giác xấu về cuộc hôn nhân này khi Alec kể cho chúng ta thỏa thuận đã được thực hiện. Điều gì đó không đúng. Tôi có thể cảm thấy thế.” Seymour tạm ngưng và đập tay lên lồng ngực gầy gò. “Ở ngay đây.” Anh tặng cho Downe cái nhìn tin tưởng hoàn toàn.

    “Cậu cần phải ngừng ăn lươn ngâm giấm đi.” (T/N: Chẳng hiểu câu này ý là gì luôn T.T) Vị tử tước càu nhàu, tiếp tục bước lên cầu thang, dừng lại khi họ tới những cây cột cẩm thạch hồng ở đầu cầu thang. Anh quay sang đối mặt với bạn mình. “Cậu có tin tôi hay không cũng được. Cậu cứ đợi mà xem. Bất cứ khi nào tôi có cảm giác này thì điều gì đó kỳ quặc sẽ xảy ra.”

    “Không cô gái nào, huống chi là một người thông minh như Juliet Spencer, sẽ để Công tước Belmore trượt khỏi tay. Tin tôi đi Seymour, những gì mụ già đó nói đều tào lao cả,” Downe nói khi hai chàng trai bước vào phòng tiếp khách lớn, nơi Alec đang ngồi ở cái bàn quen thuộc, một người phục vụ đứng bên cạnh trông ngóng trong khi chàng nếm thử rượu vang.

    Một cái gật đầu nhanh, tinh tế từ Công tước Belmore và người phục vụ kín đáo biến mất.

    Với những người có cơ hội nhìn ngắm chàng, Alec là hình ảnh đại diện của tầng lớp quý tộc Anh. Chàng mặc một cái áo khoác màu xám được cắt may thanh lịch, và bề rộng của vai chàng không liên quan gì với cái đệm lót. Chiếc cà vạt trắng nổi bật được thắt với sự tao nhã tự nhiên mà thể hiện sự khéo léo tỉ mỉ của người hầu phòng tốt nhất trên đất Anh, cái quần ống túm màu da bò bó chặt lấy cặp đùi rắn chắc của một tay nài ngựa lão luyện và đôi chân dài của một người đàn ông có tầm vóc phù hợp với phẩm chất dòng dõi của chàng.

    Như thường lệ, quai hàm vuông vắn của chàng sít lại, ám chỉ bản chất bướng bỉnh của người Anh. Chàng có khuôn mặt điển trai, với xương gò má cao như người Norman và cái mũi chim ưng. Môi của chàng uốn cong kiểu cách thành một đường nét gợi tình mà khắc nghiệt chỉ ra rằng cuộc sống của người đàn ông này không có sự ủy mị, chàng ta có một trái tim lãnh đạm. Mái tóc của chàng, mặc dù đã từng là màu đen, giờ đây được dệt với màu xám bạc một cách hào phóng, một thực tế mà chẳng liên quan gì tới tuổi tác mà do sức mạnh của dòng máu Castlemaine.

    Trong bảy thế hệ gần nhất, các Công tước Belmore đều có mái tóc hoa râm trước ba mươi tuổi. Ngoài ra, tất cả đều kết hôn năm hai mươi tám tuổi, một truyền thống của Belmore, và sinh ra đứa con đầu - luôn luôn là nam và là người thừa kế - hết sức nhanh gọn. Người ta nói rằng số mệnh dường như để phục vụ cho các Công tước Belmore. Và với Alec xem ra cũng không có gì khác biệt.

    Bá tước Downe ngồi sụp xuống ghế của mình. Seymour cũng ngồi xuống, bồn chồn với ly rượu rỗng trong khi giày của anh ta gõ một giai điệu bực mình lên chân bàn. Anh ta lẩm bẩm điều gì đó về định mệnh và số phận và Alec, mà không hẳn là theo thứ tự đó.

    Alec ra dấu cho người hầu rót đầy ly của Seymour. “Đây, uống rượu đi để đừng lẩm bẩm vớ vẩn nữa.”

    “Sao vậy, Belmore?” Downe hỏi, nhìn một cách ngây thơ vào ly của mình. “Lo lắng về tương lai hả?”

    Anh ta nhìn lên Alec, thực sự quan tâm tới bạn mình dù có đượm chút thích thú.

    Alec chầm chậm nhấm nháp rượu vang của chàng.

    “Cậu ấy nên lo lắng,” Seymour nói. “Tôi đang lo này.”

    “Cậu đã lo đủ cho tất cả chúng ta rồi,” Alec thờ ơ đáp lại. “Tôi không lo vì chẳng có gì đáng lo cả. Cố vấn pháp luật của chúng tôi đã họp sáng nay để thống nhất việc dàn xếp cho đám cưới. Thông cáo sẽ được đăng trên báo sáng mai, và trong một tháng tôi sẽ bị trói chân.”

    “Vậy thì các thỏa thuận sẽ rõ ràng, chính xác, được tiến hành trôi chảy. Đúng như cách cậu muốn mọi thứ được thực hiện.” Downe hạ ly xuống và lắc cái đầu tóc vàng. “Tôi không biết cậu đã xoay sở thế nào. Quí cô Juliet Spencer là một Nữ Công tước Belmore tương lai hoàn hảo. Cậu lên thành phố, tham dự một buổi khiêu vũ, và trong hai phút cậu tìm thấy người con gái lý tưởng. Tôi sẽ nói cậu đã gặp may, nhưng lúc nào cậu chẳng may mắn.”

    Alec nhún vai. “Điều này không có gì liên quan tới may mắn.”

    “Vậy là cái gì? Sự can thiệp của Chúa trời?” Downe cười mỉa mai. “Có phải Chúa Trời đã truyền lời cho cậu không Belmore, giống như ngài đã làm với Seymour?”

    Seymour ngay lập tức phản pháo. “Tôi chưa bao giờ bảo Chúa Trời nói chuyện với tôi nhé.”

    “Vậy thì tôi đã đúng. Đó là do mấy con lươn ngâm dấm.”

    “Tôi đã thuê người,” Alec thừa nhận, khéo léo chấm dứt một trong những tranh cãi vớ vẩn của Downe và Seymour.

    Downe nhấp một ngụm rượu vang và đặt nó xuống. “Thuê người để làm gì?”

    “Để tìm một người phụ nữ hoàn hảo.”

    Cả hai chàng trai nhìn chằm chằm vào Alec trong hoài nghi.

    Chàng đặt ly xuống và dựa lưng vào chiếc ghế bọc nệm. “Tôi đã liên lạc với công ty quản lý hầu hết các hoạt động kinh doanh của tôi ở Luân Đôn. Họ đã điều tra và sau đó gửi cho tôi tên của Juliet. Thật vô cùng hợp lý.”

    Có một khoảng lặng dài trước khi một trong hai người đàn ông còn lại nói gì. Rồi Downe lặng lẽ nói, “Tôi đã tò mò làm thế nào cậu tìm ra cô ấy nhanh như thế trong đêm đầu tiên đó. Hàng tháng nay tôi tự nhủ đó chỉ sự may mắn của nhà Belmore. Bây giờ tôi hiểu rồi. Cậu trả cho ai đó để tìm cho cậu một cô vợ.” Vị bá tước nhìn vào ly rượu trong một phút lặng lẽ. “Hiệu quả đấy Belmore, nhưng khá lạnh lùng.”

    “Một người nên suy nghĩ với cái đầu, chứ không phải nhờ bản năng.” Alec bình tĩnh hớp một ngụm rượu. “Lạnh lùng hay không, tôi không quan tâm. Tôi cần một người vợ, và đó có vẻ là cách đơn giản nhất để kiếm được một người. Một vụ buôn bán hời.”

    “Cũng may là cô ấy ưa nhìn,” Seymour bình luận. “Cậu có thể đã bị kẹt với Letitia Hornsby.”

    Cứ như chỉ thốt ra cái tên của nhóc ranh con ấy cũng sẽ làm cô ta xuất hiện, Richard thình lình thấy không khỏe.

    “Tôi sẽ nhường cô ta lại cho Downe,” Alec nói, biết rằng Richard không thoải mái khi thảo luận về Letitia Hornsby, cô nàng quá mê muội Downe đến mức luôn theo đuôi anh ta như cái bóng. Chọc ghẹo bạn chàng về cô Hornsby là một chút trả thù nhẹ nhàng cho chuyện bà già bên ngoài.

    Có Alec dẫn đầu, Seymour cười toe toét và thêm vào, “Đúng đấy. Dường như bất cứ chỗ nào có cậu, cô chuột nhỏ Hornsby đấy cũng lởn vởn gần đấy.”

    “‘Lởn vởn’ không phải từ tôi sẽ sử dụng.” Downe xoa bóp cánh tay bị thương và cau có.

    Seymour bật cười và mắt Alec lấp lánh với sự thích thú vì cả hai người họ đã ở trong buổi khiêu vũ giáng sinh nhà Seftons khi Letitia Hornsby rơi khỏi một cái cây trong vườn và hạ cánh xuống Downe và người tình của anh ta, phu nhân Caroline Wentworth, hai người đang trong quá trình thực hiện những gì mà họ làm rất tốt. Con ranh con ngốc nghếch đó đã làm vai của ngài bá tước bị trật khớp.

    “Trên thực tế Letitia Hornsby không khó nhìn chút nào,” Seymour nói trong tiếng cười. “Cô ta chỉ cứng rắn trên cơ thể cậu thôi, Downe.”

    Sau một lời chòng ghẹo nữa của Seymour, Downe rõ ràng muốn đổi chủ đề quay lại với vẻ ngoài xinh đẹp của tiểu thư Juliet.

    Alec đặt ly rượu xuống. “Vẻ đẹp là một trong những yêu cầu trong danh sách của tôi.”

    “Còn cái gì khác trong cái danh sách đó nữa?” Downe hỏi.

    “Dòng dõi ưu tú, sức khỏe tốt, phong thái hòa nhã nhưng cũng có chút can đảm – những điều thông thường mà một người đàn ông muốn có ở vợ mình.”

    “Nghe như cậu đang mua một con ngựa.” Downe rót cho mình một ly rượu khác.

    “Tôi luôn nghĩ trình tự tìm hiểu của người Anh không khác mấy với việc mua bán ngựa - chỉ là lâu hơn và tẻ nhạt hơn,” Alec trả lời, nhớ lại những chuyến cưỡi ngựa trong công viên, những buổi khiêu vũ và hội hè chàng phải tham dự trong khi tán tỉnh Juliet. Theo chàng đó chỉ là sự phiền toái, một cách để thông báo cho hàng đống người thích thọc mạch chính xác ai đó đã có kế hoạch gì. “Almack hay buổi khiêu vũ ra mắt của mấy đứa con nít ranh có khác gì với đấu giá ở Newmarket? Ở mỗi mùa một lứa con gái mới được diễu hành trước mặt các người mua tiềm năng, và cậu kiểm tra dòng dõi, dáng đi, màu sắc, và trông có đủ tinh thần để giữ cậu khỏi buồn chán - giống như việc cậu sẽ làm trước khi mua một con ngựa. Một khi cậu đã tìm được con thích hợp, cậu mua và cưỡi nó.”

    Seymour sặc rượu và Downe cười lớn rồi hỏi, “Cậu kiểm tra răng của cô ấy chưa?”

    “Rồi, cả vai và cẳng chân nữa,” Alec thêm vào, không hở ra một nụ cười khi chàng nhặt lên cỗ bài. Downe và Seymour vẫn cười khúc khích khi chàng khéo léo chia bài.

    Một giờ sau bức thư đến.

    Một người hầu đứng bên trái Alec, giữ cái khay bạc với một bức thư bằng da thuộc nằm ở giữa. Khi Downe chia bài, Alec tùy tiện mở lá thư, nhận thấy tên viết tắt của Juliet được ấn trên dấu sáp. Chàng trải ra tờ giấy ra và bắt đầu đọc:

    Alec thân mến,

    Em đã nghĩ em có thể làm thế, nhưng em không thể. Em đã nghĩ em có thể sống mà không cần tình yêu, vì cơ bản ngài là một người đàn ông tốt. Em đã nghĩ em có thể trao đổi niềm vui lấy tước hiệu. Em đã nghĩ em có thể sống thực tế và chọn sự giàu có thay cho hạnh phúc.

    Em không thể.

    Em nhận ra em không thể chịu đựng được cuộc sống vô vị như Nữ Công tước Belmore. Mặc dù ngài là một người đàn ông tốt, như em đã nói, với mọi thứ để sẵn sàng đề nghị, không có sự sống trong ngài, Alec.

    Ngài quá dễ đoán. Ngài làm những điều người ta mong đợi ở ngài bởi vì địa vị của ngài khi là Công tước Belmore. Cái tên Belmore quí giá luôn quan trọng nhất và trước hết trong cuộc sống của ngài. Em muốn nhiều hơn, Alec.

    Em muốn tình yêu. Và em đã tìm thấy. Mặc dù anh ấy chỉ là con trai thứ hai và là một quân nhân, anh ấy yêu em. Khi ngài đọc những dòng này em đã cưới người đàn ông trao cho em những điều đó.

    Em rất tiếc,

    Juliet

    Chậm rãi, với sự chính xác trầm lặng, Alec xé bức thư thành mảnh nhỏ và bỏ các mẩu vụn vào khay bạc. Chàng nhìn chằm chằm vào các bạn một lát, lơ đãng chà xát lên túi áo khoác, rồi đột ngột dừng lại, như thể chàng chợt nhận ra chàng đang làm gì và để tay trượt lên trượt xuống chân ly rượu. Chàng nói với tên người hầu, “Không hồi âm.”

    Nâng ly lên, chàng hớp rượu, như thể tin nhắn đó không quan trọng gì, rồi nhặt các lá bài lên và nhìn chằm chằm vào bàn tay, đôi mắt xanh của chàng tối tăm và hơi hẹp hơn bình thường, quai hàm chàng sít chặt lại hơn trước.

    Chàng chơi ván đó và ba ván nữa trong im lặng lạnh lùng. Khi đến lượt Seymour chia bài, Alec yêu cầu giấy và bút. Khi chúng đến, chàng viết nhanh một bức thư ngắn, gắn nó bằng sáp và đóng dấu với nhẫn của chàng. Sau đó chàng lẳng lặng chỉ dẫn cho người hầu đi gửi bức thư cho tờ báo.

    Bạn của chàng quan sát với sự hiếu kỳ.

    Alec tựa lưng vào ghế, tay chàng chắp lại gần đường nét cứng rắn của miệng chàng trong suy ngẫm. Sau một phút tay chàng đi chuyển xuống phía dưới quai hàm. “Dường như con ngựa cái non có tinh thần hơn tôi nghĩ. Cô ta đã bỏ trốn. Tôi không còn hứa hôn nữa.”

    “Tôi đã biết mà!” Seymour đập tay lên bàn. “Tôi đã biết điều này sẽ xảy ra. Mụ già đó đã nói đúng.”

    “Tại sao?” Tất cả dấu hiệu của sự giễu cợt đã biến mất trên khuôn mặt của Downe, thay bằng sự ngạc nhiên.

    “Không có gì quan trọng. Ý nghĩ kì quặc của đàn bà.” Chàng không nói thêm, dù cả hai người bạn đang chờ đợi và quan sát. Công tước Belmore không thể hiện cảm xúc gì. “Chia bài đi.”

    Trong giờ tiếp theo, Alec chơi bài cẩn trọng và tàn nhẫn, giành chiến thắng mọi ván đấu với quyết tâm điềm tĩnh và kiên định của một công tước Belmore.

    “Không chơi nữa.” Downe quăng những lá bài vô dụng của anh lên bàn, và Seymour làm theo, nhìn với đôi mắt ghen tị vào mười lăm đống thẻ chip trước mặt Alec.

    “Bây giờ đi đâu?” Downe hỏi.

    Seymour đứng dậy, chống tay lên bàn và cúi xuống gần Alec hơn như để cảnh cáo.

    “Nhớ những gì mụ già đó nói không? Mụ ta nói cậu sẽ cưới cô gái tiếp theo cậu gặp.”

    “Đúng rồi. Sao không ghé thăm Letitia Hornsby, Belmore? Điều đó sẽ cứu tôi khỏi những thương tổn nghiêm trọng thêm nữa.”

    “Đây không phải trò đùa đâu,” Seymour nói với sự căm phẫn.

    “Dĩ nhiên là không, cậu ta là Công tước Belmore. Cậu ta có đùa giỡn về bất cứ điều gì đâu.”

    Alec bất ngờ đứng dậy. “Tôi đi đây. Các cậu có đi không?”

    “Đến đâu?” Họ đồng thanh hỏi, rồi theo sau chàng xuống lầu nơi họ mặc áo khoác lên.

    “Tới nhà nghỉ đi săn của tôi.” Alec kéo găng tay lên. “Tôi cần bắn thứ gì đó.”

    Đi theo những bước dài của chàng qua tiền sảnh, Downe quay sang tử tước. “Tôi không hiểu sao cậu ta muốn tới Glossop. Không có người phụ nữ nào trong vòng năm mươi dặm xung quanh nhà nghỉ của cậu ta.”

    “Nhớ điều mụ già đã nói với cậu ta không?” Seymour nói, vội vã theo kịp. “Tôi cá là cậu ta đi tới đó bởi không có người phụ nữ nào trong vòng năm mươi dặm. Chẳng lẽ cậu ta không biết là không thể thay đổi định mệnh sao?”

    Và họ theo Belmore bước ra cửa.

    ***

    Joy rối rít dậm mạnh lên tờ giấy đang cháy. “Beezle… Nhìn xem chị đã làm gì nè!”

    Nàng cúi xuống và nhặt mảnh giấy cháy xém lên, rồi đứng thẳng dậy, lúc lắc nó giữa hai ngón tay. Nó vẫn còn bốc khói, và góc dưới bên phải đã bị cháy hết.

    “Ôi lạy Chúa…” Câu nói của nàng nhẹ dần và giọng nàng hơi vỡ ra khi nàng nhìn chòng chọc vào tờ giấy bị cháy.

    Beezle nâng đầu lên từ mấy cái chân đen và nhìn Joy. Cặp mắt của chú ta đảo qua đảo lại giữa tờ giấy và khuôn mặt buồn bã của nàng.

    Nàng thả tờ giấy lên bàn và ngồi xuống cái ghế đẩu lung lay với tiếng thở dài thất bại, lắc đầu tự căm ghét bản thân. “Chị lại làm thế rồi.”

    Với một tiếng thở dài cam chịu, Beezle đứng dậy và núng nính vượt qua bàn, rồi trườn lên vai và quấn quanh cổ nàng. Sau khi đã yên vị, nó bắt đầu cào những lọn tóc xoăn màu nâu lỏng lẻo đã thoát khỏi búi tóc và giờ đang ôm lấy cái cằm thanh nhã của nàng.

    “Chị phải làm gì bây giờ?” Nàng nhìn vào nó như mong đợi một lời khuyên. Nó ngừng chơi đùa với tóc nàng, đặt cằm lên vai nàng và thở khò khè. “Vậy là em cũng không có câu trả lời,” nàng nói, lơ đãng gãi cổ nó trong khi nhìn chăm chú vào tờ giấy. May là dì nàng đã rời đi hai giờ trước – rời đi với tất cả sự tao nhã và mau lẹ của một phù thủy MacLean. Joy không mất thời gian dài để thuyết phục bà MacLean chấp thuận chức vụ ở Mỹ. Bà đã muốn làm như vậy và Joy sẽ không thể nào sống nổi nếu dì nàng bắt buộc bỏ lỡ cơ hội này bởi vì bà phải ở lại và đóng vai trò bảo mẫu cho cô cháu gái. Nàng đã hai mươi mốt - đủ lớn để có thể tự lập. Và nàng đã khám phá ra rằng dì nàng đã đúng: khi nàng tập trung - việc nhìn chằm chằm vào những từ trên tờ giấy đã có ích - nàng có thể thực hiện một số thần chú hiệu quả.

    Trước khi dì nàng rời đi, bà đã đứng kế bên Joy khi nàng sao chép câu thần chú sẽ gửi nàng đến nhà tranh ở Surrey. Bà MacLean cảnh báo nàng rằng những câu thần chú dịch chuyển cần đặc biệt tập trung. Dì nàng liệt kê một đống kỹ xảo để sử dụng trong khi Joy biến ra một bộ trang phục du lịch - cái mới nhất trong bộ đĩa ăn dì nàng mua ở Paris. Joy ngờ rằng quần áo là bài kiểm tra cuối cùng, nhưng nàng đã vượt qua, có khả năng bởi vì nàng đã giữ cái nhìn chằm chằm vào mấy cái đĩa ăn nhuộm màu.

    Chỉ cần một chút xíu hơn hai cái búng tay nàng đã mặc vào bộ trang phục du lịch bằng len màu xanh lá liễu rất đáng yêu, một cái áo choàng lông quạ và đôi giày da bê ống ngắn màu đen. Trong tay nàng là một cái mũ lụa màu xanh rừng với ruy băng nhung xanh lá nhạt và giắt lông đà điểu tím đậm. Bộ quần áo đã thành công. Dì nàng mỉm cười phê chuẩn, hôn tạm biệt Joy và rời đi trong làn khói vàng lấp lánh.

    Rồi rắc rối của Joy bắt đầu. Để nhìn rõ hơn, nàng đã giữ tờ giấy ghi câu thần chú dịch chuyển chỉ hơi quá gần ngọn nến. Rồi bất thình lình nó đã bốc cháy. Giờ nàng ở đây, một thời gian ngắn sau, với một phần câu thần chú dịch chuyển đã biến theo ngọn lửa.

    “Chị nghĩ có thể đọc được một số điều trong đó. Để chị xem nào…” Nàng vuốt phẳng tờ giấy trên bàn và nheo mắt nhìn vào chữ viết. “Tuyết … đi. Tốc độ … chú ý. Cửa … hừm. Chị có thể đọc được mọi thứ ngoại trừ dòng cuối. Chị chỉ nhớ được dường như nó có liên quan với tiếng hòa âm … hay đó là những cái chuông?”

    Nàng phải đoán thôi. Nàng nhấc cái mũ khỏi bàn và đội lên, buộc ruy băng dưới cằm tốt nhất có thể với Beezle vẫn quấn quanh cổ nàng. Nàng cho nó một cái vỗ nhanh, nhặt tờ giấy lên, và nhìn lần cuối cùng vào phòng tháp, mái nhà của nàng trong suốt mười lăm năm qua, nàng bắt đầu đọc thần chú:

    Ôi, đêm tối huy hoàng mà che giấu ban ngày,
    Lắng nghe những gì ta nói.
    Phù thủy không ủ mắt của sa giông,
    Hãy chú ý trang phục du hành này.
    Ta mặc nó không phải vì tuyết rơi
    Mà do ta có nơi nào đó để đến.
    Đến Surrey với tốc độ đôi chân gắn cánh,
    Vì vậy xin lắng nghe lời gọi của ta, xin chú ý.
    Khi đồng hồ điểm giờ,
    Chuông nhà thờ sẽ rung
    Dù thế đây không phải lúc để hát.
    Thay vào đó xin đưa ta ra khỏi cửa,
    Và rồi để đảm bảo đúng, hãy rung chuông nhiều hơn!
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/9/21
    oiseauparadis, hathao, pony and 7 others like this.
  3. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 3

    Alec tuyệt nhiên không biết cái gì đã đập vào chàng. Một phút trước chàng đang bước trở lại cỗ xe ngựa từ cánh rừng rậm rạp bao quanh con đường, và ngay sau đó chàng đã nằm ngửa ra, nhìn chòng chọc vào màn sương mù trắng xóa, một đống gì đó - ai đó - nằm trên người chàng. Chàng cố gắng đẩy nó ra khỏi ngực, dù đó là ai. Ai đó kêu ré lên. Rõ ràng là một giọng thét của phụ nữ. Alec ôm trọn người phụ nữ trong tay… và tha thiết hy vọng cô ta không phải Letitia Hornsby.

    Người phụ nữ ngồi lên với một cái bật dậy hồ hởi, đuổi đi chút hơi thở còn lại ra khỏi chàng. Chàng cũng ngồi dậy, để có thể thở. Nàng trượt vào lòng chàng, hai tay nắm chặt lấy vai chàng.

    “Ôi Chúa ơi!”

    Alec hít vào mấy hơi không khí đầy sương mù ẩm ướt và quay về phía nàng, thở ra nhẹ nhõm khi chàng thấy đó rốt cuộc không phải Letitia Hornsby, mà là một cô nàng da ngăm nhỏ bé hoạt bát với đôi mắt xanh lục to và lông mày dày sậm màu. Nàng ta có đôi má hồng hào, cái cằm quả quyết và cái miệng đầy đặn với một nốt ruồi nhỏ nhưng hấp dẫn ở ngay trên môi trên. Nàng là người phụ nữ nổi bật nhất mà Alec nhìn thấy trong nhiều năm, nhưng vào thời điểm đó, khuôn mặt hấp dẫn của nàng mang biểu cảm không khác gì một người mới bị quăng xuống từ một con ngựa hoang dã.

    “Tôi đang ở đâu đây?”

    “Phía trên Công tước Belmore.”

    “Belmore? ‘Nhiều chuông1’! Ôi, tôi-” Nàng che cái tay đeo găng trên miệng và nhìn sang trái, rồi bên phải, nghiên cứu xung quanh, trước khi lẩm bẩm, “Nó hẳn phải là ‘tiếng chuông’”.

    “Gì cơ?”

    “Uhm… không có gì.”

    Alec dịch cái sức nặng trên người chàng một chút.

    Tay nàng siết chặt lấy vai chàng và nhìn chăm chú vào chàng, mặt nàng chỉ cách chàng vài inch. Hơi thở của họ bốc khói trong không khí lạnh lẽo. Không ai di chuyển. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi dường như chính thời gian đang rung động xung quanh họ. Chàng phản ứng và cứng người lại, hít một hơi thật sâu.

    Nàng có mùi hương của mùa xuân - trong làng với hương thơm thoang thoảng từ vài loài hoa. Chàng nhận thấy eo nàng nhỏ một cách đáng chú ý. Các đầu ngón tay chàng chạm nhau khi hai tay chàng ôm vòng quanh nó. Chàng nhìn xuống để thấy ngón tay cái của mình chỉ cách vài inch với bộ ngực cong mềm mại của nàng. Chàng liếc lên và bắt gặp cái nhìn chăm chú của nàng. Đôi mắt của nàng màu xanh lục, màu xanh sẫm thực sự. Đôi mắt ấy vương rất ít bụi trần, không cái nhìn lão luyện, không nhận thức về nhục dục, chỉ có sự ngây thơ mà Alec cá rằng mọi người phụ nữ Anh trên mười hai tuổi đều đã đánh mất.

    Cắt đứt cái nhìn chằm chằm của họ, nàng liếc vào đôi tay vẫn đang giữ chặt lấy vai chàng. “Ngài là một công tước?” Khi chàng gật đầu, nàng đỏ mặt và buông chàng ra. “Xin thứ lỗi, thưa Đức ông.”

    “Ta phải nói rằng tư thế của chúng ta chẳng liên quan gì tới sự duyên dáng2”

    “Ôi, lạy-”

    “Chúa,” Alec kết thúc giùm cho nàng. Nàng không nói gì. Thay vào đó, nàng hếch mặt lên một chút và quan sát chàng với vẻ mặt mới.

    Thật kỳ quặc, chàng nghĩ. Chàng chắc chắn rằng đã từng thấy vẻ mặt đặc biệt đó trước đây, nhưng không thể nào nhớ được thấy ở đâu. Điều đó khiến chàng không thoải mái. Hơi ẩm từ đất thấm qua cái quần ống túm của chàng, một lời nhắc nhở ẩm ướt về nơi chàng đang ở. “Mặt đất rất lạnh,” chàng nói cộc lốc, khuôn mặt không thể hiện cảm xúc gì.

    “Ôi, lạy-”

    Chúa, Alec thầm hoàn thành giúp nàng và theo dõi khi nàng trườn ra khỏi lòng chàng và ngồi xuống đất. Chàng đứng lên và duỗi bàn tay đeo găng ra để giúp nàng đứng dậy. Ngay khi chàng kéo nàng đứng lên, nàng kêu lên và cổ chân nàng khuỵu xuống. Chàng tóm lấy eo nàng trước khi nàng ngã xuống. “Nàng bị thương?”

    Nàng cau mày với cái chân, rồi nhìn lên chàng và gật đầu, tiếp tục nhìn chằm chằm. Chàng bỏ qua ý nghĩ rằng cái nhìn của nàng là một sự tôn kính dành cho tước hiệu của chàng. “Xe ngựa của nàng đâu?”

    “Xe ngựa nào?”

    “Nàng không có một cỗ xe ngựa?”

    Nàng lắc đầu, rồi nhìn quanh quất như thể đã làm gì đó không đúng và bồn chồn vuốt ve cái viền lông chồn trắng trên cổ nàng.

    “Nàng có một mình?”

    Nàng gật đầu.

    “Nàng đến đây bằng cách nào?”

    “Tôi không chắc nữa. Tôi đang ở đâu đây?”

    “North Road”

    “Nó có gần Surrey không?”

    “Không. Surrey cách đây hơn một trăm dặm về phía nam.” Vẻ mặt nàng đã nói lên tất cả. “Ta hiểu là nàng đã bị lạc.”

    “Tôi nghĩ vậy.” Nàng không nói gì, chỉ nhìn chăm chú vào chàng với biểu hiện bối rối. Cho rằng cơn đau ở mắt cá chân đã làm mất đi sự sáng suốt của nàng, Alec tự giải quyết vấn đề. “Làm thế nào nàng đến được chỗ này?”

    “Chỗ này?”

    “Phải. Chỗ này.”

    Nàng chớp mắt với chàng.

    “Đừng bận tâm,” chàng thở dài. “Nàng có thể nói với ta sau.” Với một chuyển động nhanh chóng, chàng đã bồng nàng trên tay. Chàng nghe thấy tiếng thở của nàng nghẹn lại trong cổ họng, và khi chàng di chuyển về phía xe ngựa nàng vòng tay quanh cổ chàng và từ từ ngả đầu lên vai chàng. Hơi thở nhồn nhột ấm áp của nàng dập dờn trên da chàng. Chàng liếc nhìn nàng lạnh lẽo, nhưng chỉ thấy hai mắt nàng nhắm lại. Chàng tận dụng lúc đó để đánh giá những đường nét của nàng một lần nữa. Hàng lông mi sậm màu của nàng, dày và có màu nâu như lông chim sẻ, dịu dàng thư giãn trên làn da nàng. Và làn da đó thật tinh khiết, tươi tắn và sạch sẽ. Trong trắng như ngọc trai. Chàng dừng lại giữa chừng, lấy làm lạ cái suy nghĩ quái quỷ đó đến từ đâu. Chàng hít một hơi thật dài và tiến về phía trước, quy cho phản ứng của chàng là do việc thiếu ngủ và uống quá nhiều rượu mạnh.

    Cánh rừng thưa hơn ở con đường nơi xe ngựa của chàng đang đợi. Chàng sải bước qua những cây dương xỉ rừng ẩm ướt vì sương mù và thấy Downe dựa vào cửa xe ngựa, nâng một bình bạc đựng brandy lên môi. Không thấy bóng dáng của Seymour. Một người hầu bước ra khỏi cỗ xe ngựa và vội vã đi về phía Alec, như để đỡ lấy cô gái. Alec lắc đầu và ra hiệu về phía xe ngựa. “Mở cửa ra, Henson. Tiểu thư này bị thương mắt cá chân.”

    “Chết tiệt nếu đó không phải cô ấy!” Giọng của Seymour vang lên từ bên trái chàng. Chàng có thể nghe thấy tiếng tắc nghẹn của Downe khi nuốt rượu.

    Alec cúi xuống xe ngựa và đặt cô gái vào trong, rồi quay sang Seymour đang trợn tròn mắt và ném cho anh ta một cái nhìn với mục đích làm đông lạnh anh ta đến mức im lặng. Nó có hiệu quả, và chàng bước lên xe ngựa ngồi xuống cạnh cô gái. Downe theo sau và ngồi đối diện nàng. Alec liếc về phía anh ta. Ngài bá tước đánh giá cô gái và hình như thích thú với cái anh ta nhìn thấy, bởi vì anh ta trao cho nàng nụ cười tôi-là-kẻ-phóng-đãng tốt nhất của anh ta. Alec liếc về phía tử tước, người đang theo dõi nàng với cái nhìn mà người ta sẽ sử dụng khi đứng trước thiên thần Gabriel. Không phản ứng nào phù hợp với chàng.

    Chàng quay sang người hầu đã xếp những bậc thang lên xe ngựa và nói, “Dừng lại ở quán trọ kế tiếp.” Trong vài giây chiếc xe ngựa đã vội vã lao vào sương mù. Chàng với tay vòng quanh cô gái và bật đèn xe, rồi ngả người lại và quan sát nàng.

    Môi nàng nhúc nhích nhưng không có âm thanh nào thoát ra.

    “Đây là người đó,” Seymour thì thầm. “Hãy tin tôi. Tôi có dự cảm chắc chắn.” Anh ta bồn chồn nhìn từ cô gái đến Alec, rồi quay lại với cô gái. “Cô là cô ấy.”

    Nàng nhìn vào Seymour, rồi Downe, rồi quay lại Alec, và với mỗi cái nhìn sự hoảng loạn dâng lên trong mắt nàng. Ngồi cứng đờ sợ hãi, nàng không trả lời mà nhìn chằm chằm vào hai bàn tay. Trong một chốc chàng tự hỏi có phải nàng đang cầu nguyện, và suy nghĩ đó chạm tới sự quan tâm mơ hồ nào đó mà chàng đã đánh cược một ngàn bảng rằng không hề tồn tại trong chàng.

    Cô gái đang sợ hết hồn. Alec cố gắng trấn tĩnh nàng. “Đừng lo-” nàng nhắm mắt và lẩm bẩm điều gì đó- “cô bé, chúng ta-”

    Nàng búng những ngón tay.

    Có một tiếng hét kinh hoàng. Chiếc xe ngựa thắng gấp để ngừng lại. Alec đẩy chân chống lại ghế đối diện để trụ người lại và chộp lấy nàng để giúp nàng khỏi bay vào Downe. Nàng mở choàng mắt và cắn môi dưới, trông choáng váng và khiếp sợ.

    Chàng thả nàng ra, nghĩ rằng chàng có thể đã ôm nàng quá chặt. “Nàng bị đau à?”

    “Không.” Giọng nói của nàng vỡ ra, và nàng lập tức nhìn vào bàn tay với vẻ mất tinh thần. Nàng lại nhắm mắt và thì thầm gì đó.

    Cô bé tội nghiệp này thực sự đang cầu nguyện. Chàng liếc lên hai người bạn để đánh giá phản ứng của họ và nghe tiếng búng tay của nàng lần hai.

    Một tiếng răng rắc lớn truyền qua không khí, tiếp theo là một tiếng hét khác và một tiếng thịch chấn động. Nghe như trời vừa sập xuống.

    Chàng giật cánh cửa và gọi những người hầu. “Chuyện gì vậy?”

    Henson chạy tới, biểu hiện choáng váng hiện ra trên mặt anh ta. “Cả nửa khu rừng xuất hiện trên đường, thưa Đức ông. Điều kỳ lạ nhất mà tôi từng được thấy… cây đổ như lính bị thương ấy.” Anh ta giơ tay lên và gãi đầu. “Và không hề có gió, thưa Đức ông.”

    “Để ý mấy tên cướp đường.” Alec mở một ngăn nhỏ gần chỗ ngồi của chàng và lấy ra một khẩu súng lục.

    “Không có một bóng người nào cả, thưa Đức ông. Người cưỡi ngựa mở đường đã kiểm tra.” Henson ra hiệu về phía khu rừng với khẩu súng lục của anh ta.

    Alec đưa vũ khí cho Downe và Seymour, bảo họ ở lại với cô gái, rồi mang theo vũ khí rời khỏi xe ngựa. Alec nhìn một lượt khu rừng xung quanh và không thấy gì ngoài đám cây cối đang mắc kẹt với lớp sương mù thần bí. Chàng đứng đó lặng im trong giây lát, lắng nghe sự chuyển động. Không có gì hết. Chàng đi tới chỗ người đánh xe đang xem xét con đường chất đầy cây gỗ và một người hầu khác đã xoa dịu mấy con ngựa bị hoảng sợ.

    Ít nhất mười lăm cây gỗ trăn giống như những cây cột bị đổ vắt ngang con đường, nhưng không có sự di chuyển hoặc âm thanh đáng ngờ nào đến từ những cây gỗ đang xếp đầy đường.

    “Ôi lạy Chúa!”

    Alec nhanh chóng học cách ghét cụm từ đó.

    “Ôi không! Tôi nghĩ tôi đã nói ‘sửa đổi’, không phải ‘gỗ trăn3’!”

    Chậm chạp chàng quay lại để thấy cô gái vươn ra ngoài xe ngựa và nhìn trừng trừng vào những cây gỗ chắn ngang đường với biểu hiện kinh hoàng trên khuôn mặt. Nàng liếc nhanh về phía chàng, dường như nuốt nước bọt và biến mất vào bên trong còn nhanh hơn một nhịp thở. Một lát sau Downe và Seymour bước xuống xe ngựa và đứng cạnh chàng đánh giá vấn đề.

    “Có mười lăm cây tất cả,” ngài tử tước thông báo.

    “Đấy là điều tôi ngưỡng mộ về cậu, Seymour. Cậu có một năng lực lạ lùng là tuyên bố những điều hiển nhiên,” ngài bá tước nói.

    “Có khi nào cậu thấy mười lăm cái cây trên đường chưa? Đó không phải điều ai đó thấy thường xuyên đâu.”

    Tử tước đi tới cái cây bị đổ đầu tiên và nhìn lên. “Không phải do gió quật.”

    Downe kiểm tra gốc cây gần nhất. “Không phải bị chặt. Trông như nó chỉ đổ xuống.”

    “Tôi có cảm giác xấu về điều này,” Seymour nói, cái nhìn của anh bắn qua trái, rồi qua phải, như thể anh ta mong chờ phần còn lại của khu rừng đổ sập xuống.

    “Lại nữa rồi.” Downe nói, tựa một chân đi bốt lên gốc cây bị gãy. “Bài diễn văn về số phận và u ám của Seymour. Cậu sẽ quy tội điều này cho cái gì? Tiên? Quỷ lùn? Bóng ma? Phù thủy?”

    Một tiếng thở hắt kinh hãi vang lên đằng sau họ, và cả ba chàng trai quay lại. Cô gái ngó ra từ chiếc xe ngựa, mặt tái đi.

    “Giờ xem cậu đã làm gì nè, Downe. Cậu dọa vợ tương lai của Belmore sợ hết hồn rồi!”

    Seymour chạy về phía nàng.

    “Có phải cậu ta vừa gọi con nhóc đó là cái điều tôi nghĩ cậu ta đã gọi?” Alec nhìn chằm chằm vào lưng Seymour đang xa dần.

    “Cậu nghe rồi đấy. Cậu ta tin vào tất cả những điều vớ vẩn đó. Đây, uống một ít Little Emperor đi. Giúp đỡ lạnh và chịu đựng Seymour tốt hơn.” Anh ta đưa ra chai brandy. “Nếu cậu uống đủ thứ này, thậm chí cậu ta có thể bắt đầu trông khôn ngoan đấy.”

    “Người nhà Seymour không nổi tiếng với sự khôn ngoan và nhạy cảm.”

    Downe khịt mũi cười nhạo báng và nhét chai brandy vào tay Alec. Alec nhìn vào chai rượu nghiền ngẫm, rồi quay lại nhìn vào chiếc xe ngựa Seymour vừa mở cửa.

    Alec sải bước tới xe ngựa, bước lên phía trước Seymour. “Tôi sẽ chăm sóc cô ấy.” Giọng chàng không cho phép tranh cãi. Seymour nhìn chàng, liếc về phía cô gái, rồi nở mỉm cười hiểu biết giúp anh nhận được một cái nhìn lạnh lẽo với ẩn ý rõ ràng.

    Seymour nhanh chóng bước ra xa xe ngựa.

    Alec ngả vào trong và thấy mặt cô gái tái nhợt, vì thế chàng cho rằng mắt cá chân nàng bị đau nghiêm trọng hoặc nàng dễ bị hoảng sợ như một cô gái ngây ngô. “Nó có đau không?”

    Nàng ngây ra nhìn chàng. “Cái gì cơ?”

    “Mắt cá chân của nàng,” chàng giải thích với sự kiên nhẫn khác xa cảm giác hiện tại của chàng.

    Nàng nhìn xuống chân. “Ồ… vâng, mắt cá chân của tôi.”

    Alec coi đó như lời xác nhận, mặc dầu dường như nàng đang nghĩ về điều gì đó khác hoàn toàn. Chàng vươn tới ngăn để súng và lấy ra một cái ly nhỏ. Chàng rót đầy nó với rượu brandy của Downe và đưa cho cô gái. “Đây, cô…” Alec ngừng lại và cau mày.

    “Hay là bà?”

    “Đó là cô.”

    “Ai?”

    “Tôi?”

    Alec hít một hơi dài. “Tên nàng là gì?”

    “Joyous Fiona MacQuarrie,” nàng nói, không nhìn vào chàng, nhưng lắc nhẹ váy nàng trước khi tựa lưng thư giãn trên ghế.

    Chàng gật đầu. “Người Scot. Điều đó giải thích tại sao.”

    Rồi nàng nhìn vào chàng. Chàng đặt cái ly vào tay nàng. “Cầm lấy. Uống từng hớp. Nó sẽ giữ nàng ấm áp trong khi bọn ta dọn đường. Ta nghi nó sẽ mất một lúc.” Khi nàng do dự, chàng ra lệnh, “Uống đi.”

    Nàng nhanh chóng nâng ly lên môi và uống một hớp, rồi nhăn mặt và chun mũi.

    “Tin ta đi. Nàng sẽ cảm thấy tốt hơn.”

    Nàng hít một hơi thật sâu, hình như để chuẩn bị cho thử thách sắp tới, rồi hớp một ngụm nữa, cau mặt và nuốt chửng như thể nàng đang nuốt những tội lỗi nặng cả tấn. Mất một vài phút trước khi nàng ngừng ho và lần nữa nhìn vào chàng, mắt nàng đẫm nước, nhưng khi mắt họ gặp nhau chúng trở nên mơ màng với cùng biểu hiện kỳ lạ mà quen thuộc đó.

    Chàng vẫn không thể nhớ được cái nhìn ấy, nhưng chàng biết một điều chắc chắn: nó làm chàng hết sức bức bối. Chàng đóng cửa xe ngựa và đi trở lại chỗ những cái cây đổ với Seymour theo sau như một con chó săn lo lắng.

    “Cô ấy phải là người đó.” Seymour nói nhanh. “Đó là định mệnh. Tôi biết mà.”

    Alec dừng lại và quay sang bạn chàng. “Cậu thực sự tin rằng tôi sẽ giữ một người hoàn toàn xa lạ và làm cô ta trở thành Nữ Công tước Belmore?”

    “Dĩ nhiên cậu ta sẽ không,” Downe nói, gia nhập với hai chàng trai vừa kịp lúc để nghe bình luận của Seymour. “Xét cho cùng thì cậu ta vẫn chưa điều tra gia cảnh của cô ta. Phải không, Belmore? Cô ta có thể không phù hợp làm một nữ công tước. Ngoài ra, cậu biết có khi nào Belmore đây làm bất cứ điều gì mà không lập kế hoạch đến từng chi tiết?”

    Lưng Alec trở nên thẳng tắp.

    “Chuyến đi tới nhà nghỉ đi săn của Belmore này không được lập kế hoạch.” Seymour bật lại với vẻ đắc thắng.

    “Hai cậu đã xong chưa? Chúng ta có nhiều việc cấp bách hơn trêu tức lẫn nhau hoặc cố gắng kéo tôi vào một trong những cuộc cãi cọ của các cậu.”

    “Dù sao cũng chưa bao giờ hiệu quả,” Seymour lẩm bẩm.

    Alec cho họ cái nhìn cao quí tốt nhất của chàng – cái nhìn thường làm mọi người im thin thít trong thời gian ngắn và với người hầu thì gấp đôi thời gian. Chàng liếc cái bình vẫn được nắm chặt trong tay chàng và bị cám dỗ uống một ngụm, một phản ứng rất con người khi xem xét các sự kiện trong ngày. Nhưng Công tước Belmore lấy làm kiêu hãnh về bản thân khi không nhượng bộ với phản ứng của con người. Chàng đưa cho Downe cái bình và quay sang những người hầu của chàng – hai người hầu, một người cưỡi ngựa mở đường và người đánh xe – họ đang cố gắng di chuyển cái cây đổ đầu tiên. Những cái cây gỗ tươi và ướt đẫm, đủ nặng để cần xử lý đặc biệt. Chàng cởi áo khoác và ném nó tới gần chân của Downe. Seymour làm theo trong khi Downe, người có cánh tay bị thương nên không thể giúp đỡ, đứng gần đó đưa ra những bình luận láu cá về số phận và định mệnh và về tính dễ đoán của Công tước Belmore.

    Nửa giờ sau, đã chịu đủ miệng lưỡi vặn vẹo của Downe, Seymour đề nghị anh ta và Alec đóng một thân cây vào cái miệng tào lao bực mình của ngài bá tước.

    Alec không trả lời. Trong đầu chàng vẫn ngẫm nghĩ về lá thư của Juliet có cũng chứa cùng một từ không hay ho gì mà Downe vô tình sử dụng: dễ đoán.

    Trong suốt hai mươi tám năm qua, Alec đã nghĩ cách cư xử của chàng không nghi ngờ gì là phù hợp và hợp lý đối với một người đàn ông có tầm quan trọng như chàng. Cuộc sống không hề đơn giản đối với tầng lớp quí tộc Anh, và tước hiệu càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Ít nhất đó là điều Alec được nuôi dạy để tin tưởng. Nó văng vẳng trong đầu chàng lặp đi lặp lại rằng bổn phận của công tước là quan trọng nhất. Truyền thống của Belmore, dòng họ đáng kính, tấm gương chàng tạo ra bởi những hành động của mình – là những điều quan trọng.

    Chàng giữ quyền uy nhưng hiếm khi mất bình tĩnh. Chàng đã học được ở độ tuổi rất trẻ rằng một Công tước Belmore không thể hiện cảm xúc. Một công tước không cần la hét do đó sẽ không la hét. Trong cuộc đời chàng không có chỗ cho hành động dại dột, và điều đó ổn với chàng; cách cư xử của chàng tuân theo tục lệ, logic, địa vị xã hội và những truyền thống tồn tại từ những thế hệ cũ. Tổ tiên của chàng đã sống theo cách đó, và bây giờ chàng cũng vậy, và đó là niềm kiêu hãnh tối cao đối với chàng.

    Nhưng dễ đoán? Vô vị? Đó không phải những điều mà chàng thích thú, không hơn gì sự bẽ mặt khi mất đi Juliet. Chàng liếc vào chiếc áo khoác đang nằm trên một thân cây gần bá tước. Trong túi áo là một giấy phép đặc biệt chàng yêu cầu từ nhân viên với sự chuẩn bị kỹ càng mà xứng đáng với danh tiếng của chàng. Hôn nhân với giấy phép đặc biệt có nhiều thứ hơn sự cám dỗ với giới quí tộc của nó. Đám cưới của chàng phải là một buổi lễ kín đáo với hai nhân chứng. Điều đó hấp dẫn chàng vì những buổi lễ như vậy sẽ riêng tư và tiện lợi. Sự phù phiếm của một đám cưới khổng lồ là điều chàng sẽ không áp dụng.

    Tuy nhiên hiện giờ giấy phép đó chỉ như lời nhắc nhở rằng chàng đã bị bỏ rơi. Một làn sóng nhục nhã lạnh lẽo lướt qua chàng. Tâm trí chàng lóe lên sự tò mò bức bối về điều mà anh lính quèn của Juliet có thể đưa ra so với chàng. Trong lá thư Juliet nói cô ấy muốn tình yêu. Tình yêu. Chàng đã thấy những gì tình yêu có thể làm. Chàng đã thấy những người đàn ông bắn vào nhau nhân danh tình yêu. Chàng đã thấy những người có lý trí, hoàn toàn lành mạnh suy sụp như bánh mì để một tuần dưới danh nghĩa của thứ cảm xúc khó nắm bắt mà chàng chắc chắn là sự tưởng tượng hoặc điên rồ.

    Đã có một thời, rất lâu trước đây, khi chàng cũng có suy nghĩ rằng tình yêu là điều kỳ diệu. Chàng nhớ mình đã đứng trước dáng người cao lớn cứng rắn của cha chàng, hình dáng vững chắc như đá tảng đối với một cậu bé năm tuổi. Chàng đã buộc mình phải ngước mắt lên và nhìn vào đôi mắt của cha chàng. Họ có đôi mắt giống nhau, khuôn mặt giống nhau, chảy cùng một dòng máu Castlemaine. Tay chàng trở nên ẩm ướt và chàng muốn chùi chúng lên đùi, nhưng chàng kìm lại, nhớ rằng một hầu tước và một công tước tương lai không làm những điều như vậy. Chàng phải hít sâu để những từ ngữ thoát ra khỏi cổ họng khô khốc của chàng. Rồi chàng đã làm điều đó, nói với cha rằng chàng yêu ngài, nghĩ với sự ngu dại của trẻ con rằng đó là cụm từ ma thuật có thể nhận được sự tán thành. Thay vào đó nó nhận được cơn giận dữ lạnh lùng.

    Tình yêu. Chàng nhìn nó theo cách một người vô thần nhìn lên một cây thánh giá. Từ đó chỉ có ý nghĩa đối với những tên ngốc theo đuổi nó.

    Chàng cố nhấc một thân cây nặng với sức mạnh từ sự giận dữ và thất vọng mới xuất hiện. Sương mù trong khu rừng tăng thêm trong vài phút qua, trở nên thậm chí còn ẩm ướt hơn. Sương bám lên mái tóc điểm bạc chàng và nhỏ thành dòng chậm chạp xuống thái dương chàng. Chất ẩm tương tự nhỏ xuống như nước mắt của một đứa trẻ từ trên những cái lá trên cây, rải lên mặt đất và lên những người đàn ông đang dọn đường. Chuyển động của ngài công tước trở nên máy móc, theo thói quen, và chàng đứng thẳng hơn, cứng rắn hơn, chìm đắm trong những suy nghĩ tối tăm và lòng kiêu hãnh bị tổn thương. Không bao lâu sau, đôi mắt xanh dương của chàng trở nên lạnh giá với sự khinh miệt sinh ra từ sự thật là Công tước Belmore không biết gì về cái thứ khó nắm bắt mà được gọi là tình yêu.

    ***

    Joy ngồi thụt vào trong xe ngựa, trí tưởng tượng của nàng đang trôi nổi không phải với hình ảnh ngôi nhà tranh ở Surrey mà là khuôn mặt điển trai của chàng công tước tóc bạc.

    Nàng thở dài. Một công tước. Tin được không. Tước hiệu của chàng chỉ đứng dưới một hoàng tử. Họ là những chàng trai trong truyện cổ tích và trong mộng của những cô gái. Chỉ mới nghĩ tới chàng, nàng đã cảm thấy một cơn sốc chạy qua người, cùng cơn sốc mà sự đụng chạm của chàng gây ra. Đó là điều kỳ quặc nhất - như thể nàng thực sự bị bỏ bùa.

    Đây là mộng tưởng thành sự thật. Chàng đã bồng nàng như một hiệp sĩ dũng mãnh thời xưa. Nàng cắn môi để nín lại tiếng cười rúc rích thích thú nhỏ xíu. Dù vậy nó vẫn thoát ra. Lưng nàng vẫn râm ran cảm giác cánh tay chàng đỡ lấy khi chàng mang nàng qua khu rừng. Mùi hương mờ nhạt của thuốc lá vương lại trên quần áo của chàng, và hơi thở chàng ấm áp và thơm mùi rượu khi mặt họ chỉ cách hơn chút xíu so với một nụ hôn. Và mắt của chàng - đôi mắt của một người đàn ông có trái tim khát khao một chút xíu ma thuật.

    Nàng đã không được bồng trên tay của một người đàn ông kể từ khi nàng còn là đứa trẻ bé xíu trong vòng tay của cha nàng. Đó là một trong số vài ký ức mà nàng nhớ về cha mẹ, hai người đã mất từ lâu. Nhưng điều này khác xa với ký ức của nàng. Khi ngài công tước bồng nàng, nàng cảm thấy như những chú ong mùa xuân đang di chuyển thành bầy trong dạ dày, và mùi hương từ chàng làm đầu nàng quay cuồng. Thật kỳ quặc, nhưng trong vòng tay chàng nàng cảm thấy nhẹ bẫng và tự do như những dải ruy băng trong làn gió. Khi nàng nhìn vào mặt chàng, nàng thấy điều gì đó lạ lùng, say đắm, như là thứ gì đó trong nàng đang gọi chàng. Đó là một cảm xúc kỳ lạ thậm chí đối với một phù thủy - một phù thủy trên thực tế cần phải đến Surrey.

    Nàng thở dài hối tiếc và giũ sạch sự mơ mộng. Nàng cần phải tập trung vào ma thuật, không phải vào chàng công tước đẹp trai, cảm giác thế nào khi chàng bế nàng, tự hỏi sẽ thế nào nếu chàng ôm nàng vào ngực và hạ môi chàng lên môi nàng…

    Beezle khịt mũi trong giấc ngủ, làm nàng quay trở lại thực tại. Nó quấn quanh cổ nàng như một một bộ lông thú và, như thường lệ, tuyệt không giúp đỡ tí nào trong việc niệm thần chú. Tập trung, nàng nói với bản thân, tập trung nào. Không mơ màng nữa, Joyous!

    Dĩ nhiên mơ màng cung cấp một cách thoát ly thực tế dễ dàng cho ai đó không biết phải làm gì nữa. Và mơ màng thì an toàn hơn, vì chắc chắn nàng đang rước tới thảm họa. Nàng đã làm mất mảnh giấy chứa câu thần chú dịch chuyển - dẫu không phải là nó rất có ích cho nàng, với phần dưới bị cháy. Không nghi ngờ gì nó đang nằm trên sàn phòng tháp. Nàng đã cố gắng viết lại câu thần chú, dựa vào trí nhớ mù mờ của nàng, dùng “những tiếng chuông” thay cho “cái chuông,” nhưng rõ ràng nàng đã đoán sai. Kết quả là mười lăm cái cây ngã xuống chặn ngang con đường. Một phù thủy tốt được cho là hòa hợp với tự nhiên chứ không phải tàn phá nó. Nàng nhấp nhanh lấy một ngụm rượu mạnh mà chàng công tước đã đưa cho nàng.

    “Và họ nói rằng phù thủy pha chế những thứ xấu xa,” nàng lẩm bẩm, chắc chắn rằng một mẻ ủ cánh dơi đốm và mắt sa giông sẽ có vị giống như độc dược này. Nàng uống một ngụm nhỏ khác, nghĩ rằng nó là thứ gì đó người ta cần làm quen với nó. Nó vẫn có vị kinh khủng và không giúp giảm bớt cảm giác là lần này nàng đã thực sự làm rối tung mọi thứ. Nàng không chắc làm thế nào tự giải cứu bản thân trong tình trạng này, và khi nàng nghĩ về công tước, nàng không chắc nàng muốn được giải cứu.

    “Beezle!” Nàng lấy khuỷu tay thúc con chồn một cái. “Dậy đi nhóc, đồ lười biếng.” Suy nghĩ tích cực lướt qua tâm trí nàng rằng có lẽ con chồn có thể trở thành một hầu cận có ích một cách kỳ diệu. Dĩ nhiên chú ta phải tỉnh giấc để có thể hữu dụng. Nàng lại thúc nó. Nó thở khò khè và co rúm lại, rồi quàng chân xuống qua vai nàng và quay lại giấc ngủ.

    “Vô dụng. Hoàn toàn vô dụng.” Nàng thở dài, lơ đãng gãi cái đầu của nó đang rúc trong viền cổ áo choàng của nàng, và nhìn trừng trừng vào ly brandy trên bàn tay còn lại và cau mày. Nàng di chuyển về cửa xe và mở ra, cẩn trọng không dồn tí trọng lượng nào lên mắt cá chân đang đau nhói của nàng. Những người đàn ông đang bận rộn dọn đường, vì vậy với một cái vẫy nhanh của cổ tay nàng hất brandy vào đất bùn. Nàng bắt đầu kéo cánh cửa đóng lại, nhưng không thể cưỡng lại và lén lút liếc trộm lần nữa vào những người đàn ông, đặc biệt là ngài công tước.

    Cứ như mắt nàng bị hút về phía chàng, và chỉ cần nhìn thấy chàng là một sự ngọt ngào kỳ lạ chảy qua nàng. Chàng đã cởi áo khoác và đứng trên một đầu của cái cây, chỉ đạo những người đàn ông. Vai của chàng rộng như đất vùng cao nguyên, phần hông hẹp và đôi chân dài và mạnh mẽ. Tư thế của chàng đầy quyền uy và quả quyết. Chàng dường như biết chính xác phải làm gì và cách hiệu quả nhất để thực hiện. Những người đàn ông di chuyển dễ dàng, không cần gắng sức. Họ tuân theo chỉ dẫn của chàng và đã di chuyển được một nửa số cây. Chàng có quyền lực và trí tuệ. Chàng bước vào và giữ quyền kiểm soát – một điểm nàng hết sức ghen tị, xét cho cùng nàng chẳng kiểm soát bản thân được bao nhiêu.

    “Cháu không kiểm soát được vì không tập trung, Joyous!” Lời nói của dì nàng ập trở lại với nàng - một dấu hiệu chắc chắn là nàng nên lưu ý tới ma thuật của nàng chứ không phải người anh hùng tưởng tượng của câu chuyện cổ tích trong tâm trí nàng.

    Ném cái nhìn nuối tiếc cuối cùng vào công tước, nàng dựa lưng vào ghế và mặt nhăn nhó với nỗ lực nhớ lại. “Giờ thì câu thần chú đó là gì?” nàng lẩm bẩm. “Tốc độ… lưu ý. Cửa…sàn nhà? Không… buồn chán? Không. Lõi? Cho? Máu? Ho- oái!” Nàng lấy tay bịt miệng. Nàng biết từ đó không có trong câu thần chú. Nàng đã nói gì nhỉ? “Học vấn? Nhiều hơn?” Đúng rồi! “Rung chuông nhiều hơn.” Nàng đã biết điều đó bị sai. Sự lựa chọn từ ngữ đó đã gửi nàng tới North Road với Công tước Belmore thay vì một căn nhà ấm cúng ở Surrey. Lựa chọn tuyệt làm sao… Nàng gõ nhịp ngón tay lên chỗ tựa tay trên ghế.

    Làm thế nào để nàng thoát khỏi tình thế này? Nàng là một phù thủy. Nàng nên hành động như một phù thủy. Nàng sẽ tạo ra thần chú của chính mình. Khuôn mặt nàng nhăn lại vì suy nghĩ. Một phút sau nàng đã nghĩ tới câu thần chú của mình:

    Ôi, hãy lắng nghe tôi,

    Tôi khẩn thiết muốn một sửa chữa.

    Hình như thần chú của tôi không hòa hợp.

    Vì vậy vui lòng giữ chú ý, và với tốc độ đúng,

    Với sự nhanh chóng

    Gửi tôi đến Surrey!

    Nàng hít một hơi dài và niệm to ra.

    Một tiếng răng rắc lớn vang lên rõ ràng, theo sau bởi tiếng la hét của vài người đàn ông. Một tiếng thịch nữa, rồi một tiếng nữa, và một tiếng nữa. Chậm chạp, với linh cảm khiếp sợ và hai bàn tay che mắt, nàng sợ sệt di chuyển về cửa xe và liếc trộm qua các ngón tay. Ba cái cây nữa nằm trên đường và những người đàn ông, bao gồm cả ngài công tước đang ăn vận hoàn hảo, đều bị bắn tung tóe với bùn và đất bẩn. Họ trông không hài lòng tí nào. Thậm chí chàng trai tóc vàng cao ráo với cánh tay bị thương đã bị bùn bắn vào và cái người trông bồn chồn, lo lắng thì đang nhìn lên trời như thể anh ta dự kiến trời sẽ sập xuống bất cứ lúc nào.

    Cái nhìn của nàng trôi dạt về phía công tước. Chàng ra lệnh ngay lập tức và để những người đàn ông kiểm tra tất cả những cái cây gần đó. Kiểm soát tình huống trong tay chàng. Giọng nói của chàng có thể nghe rõ hơn những người khác. Nó trầm và mạnh mẽ, một giọng nói đầy sức mạnh. Tâm trí nàng lóe lên với ý tưởng kỳ diệu là với giọng nói hay và khỏe, Công tước Belmore sẽ là một pháp sư tuyệt vời.

    Nàng mơ màng ngắm một lúc lâu hơn, rồi thở dài và kéo cánh cửa đóng lại trước khi trượt lại về cái góc ấm áp của nàng và nâng chân bị thương lên ghế đối diện. Tựa lại lên những cái nệm xa hoa, nàng nhìn xung quanh phía bên trong xe ngựa. Ghế ngồi rộng và sâu, lò xo ghế được bao phủ với lớp nhung màu ngọc lục bảo sang trọng. Nàng lướt tay qua lớp nhung, ngắm lớp lông mịn màng phản chiếu và lấp lánh dưới ánh đèn. Dải viền vàng và những núm tua rua dày dặn giữ lấy tấm màn nhung che khuất cửa sổ xe. Những cánh cửa bên trong chiếc xe được làm bằng mắt gỗ bóng loáng quí phái, và đèn xe bằng đồng, với nút vặn bằng pha lê và chụp đèn bằng thủy tinh cắt vát, lấp lánh và nhấp nháy như những vì sao bị nhốt. Nhìn cái chụp đèn gần hơn, nàng chú ý thấy một huy hiệu được khắc tinh vi trên thủy tinh – những con ưng. Nàng lại mở cửa ra và nhìn lên huy hiệu bên ngoài xe ngựa. Nó có thiết kế giống nhau. Một chiếc xe ngựa thiết kế. Thật thanh lịch!

    Thậm chí còn thấy ấn tượng hơn, nàng đóng cửa và di chuyển về góc của mình, tưởng tượng sẽ thế nào nếu được ngồi trên chiếc xe sang trọng như vậy đi đến bất cứ nơi nào cần đi. Không cần nhớ mấy câu thần chú, không cần phải tập trung. Người ta có thể ngồi tựa vào lớp vải nhung và để thế giới trôi qua…

    “Bà có thoải mái không, thưa Đức bà?” người hầu sẽ hỏi nàng.

    Nàng sẽ nâng bàn tay được điểm trang với những chiếc nhẫn ngọc lục bảo người chồng tận tụy đã tặng cho nàng vì chúng hợp với mắt nàng. Rồi nàng sẽ nói, “Tất nhiên, Henson. Giờ ta sẽ nghỉ ngơi. Hãy cho ta hay khi nào chúng ta đến Brighton. Ta chắc hoàng tử đang đợi chúng ta. Anh biết hoàng tử luôn nói gì rồi đấy, ‘Không có buổi khiêu vũ nào thành công khi vắng mặt Công tước và Nữ công tước Belmore.’”

    Rồi người hầu sẽ đóng cửa xe ngựa, và người chồng đẹp trai, vương giả, quyền uy của nàng sẽ nghiêng về phía trước, tay chàng trượt quanh để vuốt ve cổ nàng, trước khi chàng kéo nàng lại gần hơn… và gần hơn… cho tới khi nàng có thể ngửi thấy mùi hương thuốc lá, nếm được mùi rượu ngọt ngào. Rồi đôi môi lạnh và cứng rắn của chàng sẽ áp lên môi nàng…

    Lạc trong mơ màng, Joy không hề biết nàng đã áp môi lên cửa sổ xe ngựa, cho tới khi nàng mở mắt ra - miệng nàng vẫn áp lên thủy tinh lạnh và cứng - và nhìn chằm chằm vào những khuôn mặt sửng sốt của Công tước Belmore và bạn bè chàng.



    Chú thích:

    (1) Thần chú Joy sử dụng có câu “And then for good measure, ring the bell more!”

    (2) Joy nói “Beg pardon, Your Grace”. “Your Grace” là cách xưng hô tôn trọng với một công tước. Ngoài ra còn có nghĩa là vẻ duyên dáng, yêu kiều…

    (3) Alter: Sửa đổi, thay đổi. Alder: gỗ trăn
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/9/21
  4. GIGI lady

    GIGI lady Mầm non

    Cảm ơn bạn mình rất thích truyện này
     
    hathao, meocontb and lan anh vu like this.
  5. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 4

    “Cậu nghĩ cô ấy đang làm gì?”

    “Tôi không đoán ra.” Alec đứng cạnh bá tước Downe, áo khoác vắt một bên vai. Chàng liếc nhìn từ Downe đang cau mày suy nghĩ lẫn Seymour đang im lặng một cách đáng ngờ và trở lại phía cô gái.

    Nàng đang nhắm mắt và môi nàng dán lên mặt kính như những con đỉa hồng hào. Với một tia sáng xanh lóe lên nhanh chóng, mắt nàng mở ra và nhìn thẳng vào chàng. Rồi nàng quay ngoắt lại chỗ ngồi, giấu khuôn mặt bằng bức màn bên cạnh.

    “Cô ấy là người Scot,” Alec nói.

    Ngài bá tước gật đầu hiểu biết trong khi Henson giúp Alec mặc áo khoác. Rồi với một cái búng tay nhẹ chàng cho người đầy tớ lui và đi vòng qua phía đối diện của xe ngựa. Chàng mở cánh cửa và nghiêng người vào bên trong.

    Nàng nhìn chàng như thể chờ đợi chàng nuốt chửng nàng với một miếng cắn khổng lồ, và khi xem xét gần hơn chàng thấy màu sắc đã quay lại với nàng nhiều hơn gấp mười lần. Nàng nhanh chóng quay đi.

    “Nàng có thấy khó chịu không?”

    Sau một khoảng thời gian dài căng thẳng, nàng lẩm bẩm với bức màn, “Không, tôi nghĩ tôi sẽ co rúm lại và chết.”

    “Tôi nghi ngờ việc nàng sẽ chết vì một cái mắt cá bong gân,” chàng đưa ra ý kiến, không thể giữ vẻ mỉa mai ra khỏi giọng nói. Chàng đã trải qua việc tham gia các mùa lễ hội ở Luân Đôn và đã chứng kiến đủ những sự việc kịch tính mà các bà các cô có thể tạo ra.

    Kỳ lạ thay chàng thấy buồn bực khi nghĩ rằng cô gái có vẻ mặt lạ lùng với cách cư xử còn kỳ quặc hơn nữa này có thể nhạt nhẽo như nhiều người phụ nữ chàng biết ở Luân Đôn. Vì lẽ nào đó chàng muốn nàng phải khác biệt với họ như khuôn mặt của nàng. Chàng tự gọi mình là thằng ngốc và chờ đợi một câu trả lời.

    Không cái nào xuất hiện. Nàng ngồi đó, một bàn tay đeo găng nhỏ nhắn vắt trên trán, che đi đôi mắt. Đó là điệu bộ của một người đang bị đau.

    “Có phải mắt cá chân nàng bị đau?”

    “Từ ‘đau’ không thể mô tả được cảm giác của tôi,” nàng nói bên dưới bàn tay.

    “Tệ đến vậy à?”

    “Tệ hơn những gì ngài có thể tưởng tượng.”

    Mệt mỏi với việc đặt câu hỏi với phía sau đầu nàng, chàng vươn tới và nhẹ nhàng đẩy bàn tay nàng ra để có thể quay mặt nàng về phía chàng. Nét mặt nàng sẽ cho chàng biết nếu nàng đang đau đớn. Đôi má hướng về phía chàng ửng lên màu đỏ bừng. “Có phải nàng có những vết thương khác?”

    Sự hoảng hốt lóe lên trong mắt nàng, và nàng nâng một tay lên má. “Tôi nghĩ… tôi muốn nói tới một cơn sốt. Phải rồi!” nàng nói vội. “Tôi nghĩ tôi bị sốt.”

    Chàng xem xét mặt nàng. “Mặt nàng có vẻ đỏ.”

    “Phải không?” Nàng vỗ nhẹ lên mặt như có thể cảm nhận hơi nóng từ nó qua đôi găng tay da dê của nàng.

    “Cửa sổ thì lạnh, ngài biết đấy… và… uh, nó làm mát mặt tôi.” Nàng thuyết phục chàng với một nụ cười – một nụ cười rạng rỡ, không phải nụ cười của một người đang bị sốt.

    “Ta hiểu. Nàng thật là khôn khéo.”

    “Vâng, tôi phải suy nghĩ rất nhanh.”

    Vì lẽ nào đó Alec có cảm giác kỳ lạ rằng họ đang hiểu nhầm ý nhau. Chàng cố gắng dùng logic để chống lại sự rối rắm. “Nàng có nghĩ tới tới việc mở cửa ra không? Bên ngoài khá mát mẻ.”

    Nàng nhìn chàng qua màn sương mù mà chàng biết đang lơ lửng chỉ vài bước chân phía trên họ. “Không. Nhưng điều đó hợp lý hơn. Đó là lý do tại sao ngài là một công tước và tôi là một ph-” Nàng vỗ một bàn tay lên miệng để Alec chỉ nhìn được đôi mắt mở to của nàng. Bàn tay từ từ trượt khỏi môi nàng. “Phụ nữ.”

    “Sương mù đang chìm xuống, thưa Đức ông.”

    Alec quay sang Henson. “Ngươi đã kiểm tra những cái cây khác lần nữa chưa?”

    “Không thể tìm thấy một cái cây yếu ớt nào trong mảnh rừng. Cái nào cũng vững chắc như tháp Luân Đôn. Con đường đã an toàn, thưa Đức ông.”

    “Tốt. Nói cho những người khác chúng ta sẵn sàng để rời đi.” Alec quay lại và một lần nữa có một tầm nhìn hoàn hảo với những cái lông đà điểu ở mặt sau cái mũ của nàng. Chàng lắc đầu và liếc xuống đôi bàn tay nàng, chúng đang siết lại hoảng sợ. Ngắm nàng giống như ngắm một chú thỏ nhỏ nhắn mềm mại đang mắc kẹt trong những cái kẹp sắt của cái bẫy cáo. Có điều gì đó về sự ngây thơ của nàng quyến rũ chàng, giống như cảm giác bơ vơ chàng thấy ở nàng. Vì lý do nào đó chàng cảm thấy thôi thúc muốn nàng được thoải mái, mặc dù chàng không thể nhớ có từng cảm thấy sự mềm lòng trước đây. “Tiểu thư MacQuarrie.”

    Nàng nhảy lên như bị véo.

    “Chúng tôi sẽ đưa nàng tới một quán trọ và mời một bác sĩ tới kiểm tra chân nàng.” Và đầu của nàng nữa, chàng nghĩ, hoặc của tôi, khi chàng nhận ra đang nhìn chằm chằm vào đôi môi nhìn nghiêng của nàng. Chàng cắt đứt cái nhìn và bước vào trong xe ngựa, ngồi cạnh nàng ngay trước khi Seymour và Downe gia nhập với họ. Trong vài phút chiếc xe ngựa an toàn đi qua cánh rừng và chạy trên con đường rộng rãi. Sương mù dày lên và bây giờ đang lơ lửng trên mặt đất khoảng hai inch.

    Alec nghiên cứu cô gái, tự hỏi mình điều gì về nàng đã làm chàng khinh suất. Có những khoảng khắc ngắn ngủi khi nàng nhìn vào chàng như thể nàng thấy điều gì đó kỳ diệu trong chàng. Đàn bà luôn nhìn chằm chằm vào chàng, bản thân điều đó không có gì bất thường. Sự giàu có và tước hiệu của chàng hấp dẫn họ như đàn kiến. Nhưng cô gái Scot này thì khác, với vẻ mặt kỳ quặc và khả năng lạ lùng có thể chạm vào điều gì đó bên trong chàng chỉ với một cái nhìn đơn thuần. Nàng là một người lạ thường. Chàng cố chống lại thôi thúc nghiên cứu nàng lâu hơn bằng việc nhìn ra cánh cửa sổ phủ đầy sương mà chẳng thấy gì.

    Họ nặng nề chạy đi trong vài phút im lặng, trong lúc đó Downe lại lấy ra cái chai ra một lần nữa. Bá tước là bạn của Alec, nhưng gần đây anh ta đã là một kẻ phóng đãng đểu giả và hoàn toàn đáng ghét khi anh ta say xỉn – một sự việc dường như xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Chàng vừa chuẩn bị nói với Downe cất cái chai đi khi Seymour thở dốc. Alec nhìn vào anh ta và thấy anh chàng đang dán mắt vào cô gái với cái miệng há hốc. Downe cũng nhìn chòng chọc, cái chai bị lãng quên trong một chốc.

    Alec nhìn vào nàng, nhưng không thấy gì lạ, và quay lại về phía bạn chàng.

    “Cậu có thấy cái tôi vừa thấy không?” Seymour hỏi Downe.

    Bá tước trả lời bằng cách nốc một ngụm, sau đó quan sát cô gái với đôi mắt hẹp lại.

    Alec lại nhìn vào nàng nhưng vẫn không thấy gì kỳ quặc.

    “Tôi sẽ lấy nó,” Seymour nói, chộp lấy cái chai của Downe.

    “Không ích gì đâu,” bá tước nói. “Tôi lại vừa nhìn thấy. Xem đi.”

    Một lần nữa cả hai chàng trai nhìn vào nàng.

    “Cả hai người cần phải điều độ với mấy thứ này hơn. Đưa tôi cái chai.”

    “Cổ áo của cô ấy đang chuyển động,” Seymour thì thầm.

    Cả ba người đều nhìn chằm chằm vào cổ nàng. Từ biểu hiện Alec có thể xác định tâm trí của nàng đang cách xa hàng dặm. Có khả năng đang ở Scotland, chàng nghĩ. Một lúc sau trong khi cái cổ lông trên áo khoác nàng co giật và run rẩy, chắc hẳn nàng cảm thấy cái nhìn của họ vì nàng liếc nhìn mấy người đàn ông. Nàng nhìn vào từng người họ và nói, “Có gì không ổn sao?”

    “Cổ áo của nàng đang chuyển động,” Seymour trả lời nàng.

    Nàng nâng tay lên để vuốt ve đám lông. “Ồ,” nàng cười. “Đây là Beelzebub. Tôi gọi nó là Beezle,” nàng nói như thể điều đó giải thích mọi thứ.

    Một cái chân đốm đen nhỏ nhắn trượt trên vai nàng và một tiếng kêu kỳ cục phát ra từ viền cổ của nàng. Nó không khác gì với tiếng động tạo bởi những khinh khí cầu khí nóng bay lên từ Hyde Park vào mùa hè.

    Nàng ngó họ và nói, “Nó ngủ rất nhiều.”

    Alec nhìn trừng trừng vào cục lông chàng đã nghĩ là một cái cổ áo. “Nó còn sống?”

    Nàng gật đầu.

    Nó khụt khịt, rồi thở khò khè.

    “Tôi có thể hỏi cái gì là một… một Beezle?”

    “Một chú chồn.”

    “Giống Downe, nhưng cậu ta không tạo ra tiếng ồn kinh khủng đó,” Seymour nói, tự cười với trò đùa của chính mình, vì ai cũng biết anh ta không thường chèn ép được bá tước.

    Downe nhướng một bên chân mày lên.

    “Nàng có một con chồn quấn quanh cổ,” Alec phát biểu.

    “Thực ra nó là một con chồn ecmine, và nó thích ngủ ở đó.”

    “Tôi cũng vậy.” Mắt của Downe dừng lại trên viền cổ áo nàng.

    “Tôi đã nói với cậu chúng ta nên làm gì với cái cây đó mà,” Seymour nói và lườm Downe, nhưng chỉ làm anh ta mỉm cười.

    Alec tựa lưng vào ghế và cho Downe cái nhìn nghiêm khắc để bắt anh ta im miệng. “Hai quí ông này thực tế khá vô hại. Như tôi đã nói trước đó, tôi là Công tước Belmore. Người có cặp mắt gian xảo và cái lưỡi phóng túng này là Bá tước Downe.”

    “Làm hại nàng là điều cuối cùng trong tâm trí tôi.” Downe trao cho nàng nụ cười ẩn ý.

    “Và đây,” Alec tiếp tục, ra hiệu về phía Seymour, “là Tử tước Seymour.”

    “Seymour vô hại,” Downe thêm vào, “và đần độn.”

    Câu nói đó bắt đầu lại cuộc cãi vã. Có ý định kết thúc phần giới thiệu mặc kệ những người bạn, Alec quay sang cô gái. Nàng bối rối nhìn từ người này sang người khác, rồi quay sang chàng và đưa tay kéo con chồn vào sát nàng hơn. Chàng có thể thấy sự e ngại trên khuôn mặt biểu cảm của nàng. Vài mẩu cảm xúc nhỏ bé khuấy động sâu bên trong chàng, từ nơi nào đó chưa từng được động tới. Chàng bắt đầu với tới nàng.

    Nàng hít một hơi thật sâu và bắt đầu lại lẩm bẩm. Một tiếng hét kêu lên. Đột nhiên chiếc xe lao về phía trước với tốc độ điên cuồng. Các hành khách chộp lấy bất cứ thứ gì có thể để không bay vào nhau. Nhiều tiếng la hét và nguyền rủa hơn phát ra từ người xà ích. Một tiếng rầm lớn vang lên và một tiếng ồn gấp gáp bất thình lình dội xuống từ chỗ ngồi.

    Alec tóm lấy và ôm chặt nàng vào ngực, cố gắng chịu đựng cú nảy và choáng váng khi chiếc xe ngựa chạy rầm rầm qua con đường lởm chởm. Họ tông mạnh vào thứ gì đó và cơ thể chàng ghìm chặt nàng vào ghế.

    Xung lực buộc chàng xê dịch tỳ vào nàng. Từng inch mềm mại của người con gái ép chặt vào chàng. Hai bàn tay nàng siết lấy áo khoác của chàng, làm vòng ôm của họ chặt hơn và áp vào bụng chàng. Những nhịp thở hổn hển do hoảng hốt của nàng lướt qua nóng hổi trên tai chàng.

    Thình lình, không kiểm soát được, nhận thức nàng là một người phụ nữ đến với chàng. Mắt nàng bắt gặp mắt chàng, ngạc nhiên, rồi tò mò, rồi tìm kiếm. Thế giới của họ thinh lặng. Chàng đấu tranh để kiểm soát sự thôi thúc tự nhiên xảy ra giữa họ. Một lần nữa nàng tìm kiếm khuôn mặt chàng. Chàng che đậy phản ứng của mình với vẻ lạnh lẽo bản năng. Đừng nhìn quá lâu, người Scot, không có gì dành cho nàng ở đây đâu.

    Nàng đỏ mặt. Một nỗi buồn bâng khuâng hiện hữu rõ ràng giữa họ như thể họ đã nói to lên suy nghĩ của mình. Nàng nhắm mắt lại và quay đi. Chiếc xe ngựa vấp phải một cú va đập khác, và chàng siết chặt nắm tay trên cái tay cầm bằng vải.

    Downe lẩm bẩm, rồi chửi thề. Chiếc xe cuối cùng cũng đi chậm dần rồi dừng lại. Alec vòng tay quanh Joy và ngồi dậy. Giọng nói giận dữ của bá tước vang lên trong buồng xe. “Lấy cái quỷ này ra khỏi tôi, Seymour! Cái đầu gối xương xẩu trời đánh của cậu đang ở trên lưng tôi.”

    Alec và Joy nhìn vào họ. Cái đầu vàng hoe của bá tước bị nhét vào trong một góc sàn xe, đôi chân đi bốt của anh ta chống lên cửa, và tử tước thì ở trên anh ta, đang dính sát vào đầu hàng ghế đối diện để tránh gót giày của bá tước. Con chồn thì bám lấy cổ áo khoác của Seymour.

    “Tôi không cố ý, Downe. Không còn chỗ nào khác để đặt đầu gối.”

    Có một cuộc chen lấn, rồi một tiếng rên lớn. “ Để ý cái vai tôi. Cái thứ chết tiệt

    này đau như quỷ ấy.”

    “Xin lỗi. Đợi chút xíu để tôi lấy con vật này ra khỏi cổ.”

    “Tới đây, Beezle.” Joy mở rộng cánh tay và con chồn nặng nề lết sang họ. Alec nhận thấy tay chàng vẫn vòng quanh nàng và nhanh chóng rụt lại. Seymour xoay xở để ngồi thẳng trên ghế và bắt đầu phủi bụi trên người.

    Alec giúp Downe một tay, và cửa xe mở ra. Henson mặt trắng bệch nhìn chăm chú vào họ. “Xin thứ lỗi, thưa Đức ông. Dây cương bị đứt.”

    “Có thể sửa không?”

    “Họ đang sửa nó.”

    “Tốt,” Alec nói, chuyển sự chú ý sang cô gái đang ôm chặt con chồn của nàng vào ngực.

    Chàng thấy má nàng bị lấm bẩn và cái mũ xộc xệch, những cọng lông vũ màu tím đứt ra và treo lơ lửng trên vai nàng. Nàng trông như một con chim sẻ rơi xuống từ cái tổ của nó. Chàng cảm thấy thôi thúc muốn đặt nàng lại bên trong đó. Chẳng hiểu sao chàng biết rằng người phụ nữ này, trong tất cả mọi người thuộc phái nữ, không nên bị cô độc trong thế giới này.

    Chàng quay lưng lại với nàng. Cái nhìn bất lực trên khuôn mặt nàng làm chàng không thể suy nghĩ. Chàng trèo xuống xe ngựa và tiến về phía đội ngũ người xà ích và những người hầu khác đang sửa lại dây cương bị đứt.

    “Ai thắng dây cương?” Alec hỏi với giọng nói không báo trước điềm tốt cho thủ phạm.

    “Tôi, thưa Tức ông,” Jem người xà ích trả lời, nhưng nhanh chóng nói thêm, “Tó là một cái mới tinh. Chắc như một cây du. Chưa thấy thế này bao giờ. Dày cả inch, tốt như vậy mà bị đứt cứ như làm bằng giấy. Đây, ngài nhìn xem.” Anh ta giơ lên cái đai bằng da, một đoạn của bộ dây cương. Alec kiểm tra nó. Không có vêt đứt hay vết cắt rõ ràng nào. Phần đầu bị xơ ra cho thấy nó dường như đã bị xé ra làm hai. “Bao lâu nữa các ngươi sửa xong?”

    “Gần xong rồi, thưa Tức ông. Đã lấy cái đai ra khỏi càng xe.”

    “Tốt.” Alec đi trở lại và trèo vào trong xe ngựa. “Chúng ta sẽ rời đi trong một phút nữa.”

    “Đây là một dấu hiệu,” Seymour thì thầm, mở to mắt và nhìn như thể anh ta trông chờ cái xe ngựa tỏa ra ánh sáng siêu nhiên. Downe khịt mũi, trượt cái chai vào trong áo khoác và chỉnh lại băng đeo tay của anh ta.

    Khi Alec ngồi lại vào ghế chàng nhìn xuống áo khoác và thấy bề mặt vải bị nhăn nhúm nơi Joy bíu chặt lấy. Rồi rõ ràng như thể nàng đã vươn tới và chạm vào chàng, chàng cảm thấy cái nhìn chăm chú của cô gái – cái nhìn quen thuộc nhưng khó nắm bắt. Dường như nàng đang ghi nhớ khuôn mặt chàng. Nó khiến chàng rất khó chịu.

    Vào lúc này, tất cả những gì chàng muốn là nhanh chóng đến quán trọ. Chàng nhìn nàng với ánh mắt lạnh lùng, nhưng nó tắt ngấm khi cái nhìn chằm chằm của họ bắt gặp nhau. Vì một vài lý do kỳ quặc, chàng nhìn vào cánh tay bị thương của Downe rồi quay lại phía cô gái. Có một kết nối giữa cái nhìn của cô gái và cánh tay của Downe. Henson đóng cửa xe ngựa, và một lần nữa họ chạy lộc cộc trên con đường gập ghềnh, Công tước Belmore chìm sâu trong suy nghĩ.

    Vài phút sau, với nỗi kinh hoàng thuần túy, chàng đã nhớ ra nơi chàng thấy chính xác cái nhìn đó - Letitia Hornsby. Chàng thầm rên rỉ. Cô gái Scot kỳ quặc này nhìn chàng với cùng ánh mắt ngưỡng mộ mà Letitia Hornsby dùng khi cô ta nhìn vào Downe – cái nhìn mà giữ trái tim ngay trong mắt nàng. Nhưng thậm chí trước khi chàng có thể tiêu hóa suy nghĩ đó, có một tiếng hét khác.

    ***

    Khi cái bánh xe bong ra khỏi xe ngựa, Joy bỏ cuộc. Ai đó sẽ bị thương nếu nàng không dừng nỗ lực niệm câu thần chú di chuyển. Nàng tựa cằm lên một bàn tay và cố gắng chấp nhận số phận. Kinh nghiệm đã dạy nàng rằng khi các bùa chú bị rối tung thế này, điều tốt nhất nàng có thể làm là để phép thuật của nàng nghỉ ngơi. Đôi khi nàng có thể làm tốt hơn, tập trung hơn nếu nàng chờ đợi. Dù sao đi nữa, nàng không muốn làm bị thương những người đàn ông, đặc biệt là ngài công tước.

    Có gì đó nhiều hơn những cái nhìn mãnh liệt và nhịp tim hỗn loạn giữa họ. Có một sự thúc giục, một lực kéo cho nàng biết chàng cần điều gì đó từ nàng. Có một vài dấu vết của sự tuyệt vọng bị chàng ẩn giấu dưới cái nhìn lạnh giá. Nàng ý thức được nó rõ ràng như nàng có thể cảm giác về một cơn mưa mùa xuân.

    Người hay bồn chồn, Tử tước Seymour, nghiêng về phía nàng, xem xét nàng như nàng là một hồn ma. “Nàng là người đó, phải không?”

    Dạ dày nàng thắt lại với suy nghĩ anh ta có thể thực sự biết nàng là một phù thủy. Nàng nín thở, không biết làm thế nào để trả lời.

    “Để cô ấy yên, Seymour,” bá tước nói, sự chán ghét hiển hiện trong giọng nói của anh ta, rồi quay sang Alec. “Thậm chí nếu cô ấy là người đó, Belmore sẽ phải gọi cho cố vấn của cậu ta trước khi làm gì đó. Dòng dõi, cậu biết đấy, và tất cả những… thứ khác.”

    Một cuộc tranh luận khác nổ ra, vì vậy nàng nhìn công tước đang lơ đãng đưa tay lên túi áo khoác. Nàng bắt gặp một vết hằn nhẹ của giấy tờ và tò mò. Chàng bảo hai người bạn im lặng, áp chế ngài bá tước với cái nhìn lạnh giá như buổi đêm khuya. Bá tước lườm lại, khiến họ trông như hai chú chó đang gườm nhau. Tử tước thì đột ngột lặng thinh và không thoải mái.

    Cuộc chiến trong câm lặng tiếp tục diễn ra. Không mất nhiều thời gian để Joy nhận ra rằng công tước sẽ là người thắng cuộc. Nàng đã nhìn thấy sự lạnh lẽo trong mắt chàng. Sau vài phút căng thẳng dường như sẽ không bao giờ kết thúc, bá tước chấm dứt màn trao đổi bằng mắt và một lần nữa nâng cái chai lên môi. Ngài công tước quay đi. Rồi, như thể nàng đã gọi chàng, chàng nhìn nàng.

    Chàng làm nàng nghẹt thở. Đôi mắt chàng chứa những bí mật đã khêu gợi trí tò mò bẩm sinh của nàng, giống như những kho báu được chôn giấu và chờ đợi ai đó chú ý để khám phá. Chàng dường như đang tìm kiếm điều gì đó khi chàng dõi theo và nghiên cứu nàng.

    Chàng đang tìm kiếm điều gì? Chàng cần gì? Nàng muốn đặt những câu hỏi đó, nhưng chúng không xảy ra. Sự tìm kiếm trong mắt chàng biến mất nhanh như bồ công anh trong cơn gió mùa hè. Và thay thế nó là cái nhìn khép kín đó.

    Họ im lặng rất lâu, chìm đắm trong suy nghĩ của mình. Quá nhiều thời gian đã trôi qua trong im lặng, Joy nghĩ khi đang cắn môi và trầm tư. Các câu hỏi chắc chắn sẽ sớm bắt đầu lại. Nàng cần nghĩ tới một câu chuyện nàng có thể kể cho họ. Có một thứ mà mọi phù thủy được dạy từ đầu là không bao giờ nói cho người thường biết cô ấy là phù thủy. Những người thường không hiểu rằng ma thuật không phải điều gì đó đen tối và tà ác. Một phù thủy phải biết rất rõ về một người thường, trước khi anh ta hoặc cô ta có thể hiểu điều đó, và đó quả là một người thường hiếm có, khi lịch sử đã chứng minh nhiều người sẽ không bao giờ hiểu vì những quan niệm sai lầm của họ về phù thủy. Bà MacLean không tin tưởng nhiều người. Bà nói rằng hầu hết người thường nghĩ phù thủy bay lượn trên cái chổi sể, có mụn cóc trên mặt, trông hốc hác, và có mái tóc xám bù xù.

    Ông nội của Joy, một nam phù thủy, đã cưới một người bình thường – con gái của một quí tộc Anh – và người MacQuarrie và MacLean đã chào đón bà nàng, một khi bà đã chứng minh mình là một người đặc biệt. Dĩ nhiên dì nàng cũng thề rằng cuộc hôn nhân của ông bà nàng là nguồn gốc vấn đề của Joy. Dòng máu bị ô uế, bà tuyên bố. Joy luôn nghĩ rằng nó có thể đã tồi tệ hơn. Nàng có thể đã không có phép thuật nào cả. Nàng có thể đã được sinh ra như một người hoàn toàn bình thường thay vì một phù thủy trắng yếu ớt.

    Nàng có thể kể cho các quí ông này điều gì đó gần với sự thật mà không đề cập tới phù thủy. Có lẽ nàng sẽ thêm vào chút cường điệu và, để thêm phần hấp dẫn, một tí kịch tính để làm ra câu chuyện thú vị. Nếu nàng có thể làm họ mê mẩn họ sẽ không chú ý tới những điều nàng đã bỏ qua tính logic, sự đáng tin, sự đúng đắn.

    Công tước hướng đôi mắt sắc sảo về phía nàng. Đôi mắt đó đã nói chuyện với nàng, hiểu biết nàng và chúng không bỏ lỡ nhiều điều. Tới rồi đây, nàng nghĩ.

    “Gia đình của nàng ở đâu?”

    “Đã mất rồi,” nàng trả lời, muốn nhìn xuống vạt áo, nhưng không thể quay đi.

    Cái nhìn của chàng giữ chặt lấy nàng.

    “Nàng đã nhắc tới Surrey. Đó có phải nơi nàng đang tới?”

    Nàng gật đầu.

    “Tại sao?”

    “Nhà của bà tôi ở đó.”

    “Ta tưởng nàng nói gia đình nàng đã mất.”

    “Họ đã, ngoại trừ dì tôi, và bà ấy đã đi tới-” Nàng dừng lại. “Bà ấy đã rời khỏi đất nước trong hai năm.”

    “Bà ấy rời đi mà không để nàng với người đi kèm thích hợp?”

    “Tôi đủ tuổi rồi,” nàng thông báo, hơi nâng cằm lên. “Tôi đã hai mươi mốt.”

    “Ta hiểu.” Giọng chàng không khác gì khi dỗ dành một đứa trẻ.

    Có một sự im lặng kéo dài.

    “Nàng đi lại bằng cách nào?”

    “Đi bộ,” nàng trả lời với giọng lanh lảnh. Ngay cả nàng cũng không thể tin nổi tuyên bố đấy. Ngu xuẩn, vớ vẩn, ngớ ngẩn.

    Công tước ném cái nhìn thoáng qua đầy ý nghĩa lên đôi giày ống ngắn mới toanh của nàng. Không có vết xước hay vết cắt nào làm tổn hại đến chúng. Gót giày không bị trầy, và các cạnh của bàn chân hầu như không bị mòn. Vạt của cái áo viền lông và áo khoác du lịch hoàn toàn sạch sẽ, không có dấu hiệu gì về những con đường đầy bùn ở bất cứ nơi nào trên người nàng. Chàng đưa cái nhìn tăm tối quay lại nàng và tặng nàng vẻ mặt gần như làm nàng phun ra sự thật. “Nàng đi bộ từ Scotland?”

    “Ôi, lạy chúa, không!” Nàng nâng một tay lên ngực với hy vọng đó là một điệu bộ ngây thơ và kinh ngạc. “Người ta khó có thể đi bộ suốt từ Scotland.” Nàng mỉm cười.

    Một lần nữa sự im lặng bao trùm, công tước cho nàng cái nhìn ta-đang-đợi-đấy trong khi Joy tạo ra một ngàn câu chuyện trong trí não lén lút của nàng.

    “Không nghi ngờ gì nữa, nàng tiên số phận của Seymour đã thả cô ấy ở đây.” Bá tước uể oải tựa vào cửa sổ xe ngựa với nụ cười tự mãn trên đôi môi ẩm ướt brandy.

    “Ôi, vớ vẩn!” Tử tước đỏ mặt vì giận dữ.

    “Có chuyện gì vậy, Seymour? Cảm giác của cậu, ở chỗ này” – bá tước đập lên ngực anh – “đã đi rồi sao? Không mụ phù thủy già cả, không thiên thần, không quỷ lùn?” Anh ta nhìn vào Joy. “Ồ, quên mất, cô ấy là người Scot. Lẽ ra tôi nên nói là phúc thần và ma quỷ.”

    “Cậu say rồi, Downe,” công tước nói, cho bạn mình cái nhìn gay gắt. “Tôi đề nghị cậu ngừng lại – đó là, trừ phi cậu muốn đi bộ.”

    “Sẽ không có một trong những người bạn của Belmore loạng choạng trên đường bây giờ, phải không? Mọi người sẽ nghĩ gì?”

    “Cậu là một con lừa khi cậu uống rượu,” tử tước nói, rồi nhìn Joy. “Xin thứ lỗi, tiểu thư, uống rượu làm cậu ta đủ miệng lưỡi cho hai bộ răng.”

    Joy nhìn vào bá tước – một người đàn ông điển trai khi anh ta không giễu cợt – và hỏi, “Vậy tại sao ngài lại uống rượu?”

    Chiếc xe ngựa hoàn toàn lặng thinh. Cái gì đó lấp lánh trong đôi mắt của bá tước, thứ gì đó dễ tổn thương, và rồi chúng giữ cái nhìn cay độc, kín đáo. “Bởi vì tôi thích nó. Tôi đã rèn dũa việc nốc rượu và kêu be be thành một nghệ thuật. Tôi đã mất nhiều năm để hoàn thiện nó cũng nhiều như thời gian cần để Belmore phát triển sự hài lòng với bản thân cậu ta. Cậu ta vốn được biết tới với khả năng phán đoán kết quả phi thường trong khi tôi nổi tiếng vì thiếu sót điều tương tự. Nàng biết đấy, tôi thích vài điều bất ngờ trong cuộc sống.” Anh ta nhìn công tước một cách lạ lùng, rồi thêm vào, “Nàng biết mọi người nói gì rồi đấy: brandy đập tan sự buồn chán.” Anh ta để những lời đó lơ lửng trong không gian đóng kín của chiếc xe ngựa. Rồi nhận thấy lời nói của mình không ảnh hưởng xíu nào tới công tước, anh ta quay đi và nhìn ra ngoài cửa sổ.

    Nàng có thể cảm thấy mắt của tử tước Seymour đang chiếu vào mình, và nàng nhìn lên anh ta. Anh ta mỉm cười trấn an và hỏi, “Nàng có biết nhà của bà nàng ở đâu không?”

    “Bên ngoài East Clandon. Nó gọi là Nhà tranh Locksley.”

    “Locksley, như trong Henry Locksley, Bá tước Craven?” Tử tước hỏi, nhìn vào công tước rồi quay lại với nàng.

    “Bà tôi là một Locksley.”

    “Tôi nhớ dường như mẹ tôi đã nhắc tới họ, những người họ hàng xa kiểu gì đó. Ngài bá tước quá cố đã từ bỏ cô con gái sau khi cô ta bỏ trốn và kết hôn với một người Scot lập dị nào đó, và…” Tử tước ngừng lại và há hốc miệng nhìn nàng. “Nàng là người Scot.”

    Nàng gật đầu và quan sát biểu hiện của anh ta. “Người phụ nữ đó là bà tôi.”

    Tất cả màu sắc đã rút đi từ khuôn mặt của tử tước và ngón tay anh ta, cái mà đang bất lịch sự chỉ vào nàng, bắt đầu run rẩy. “Thấy chưa? Thấy chưa?” Anh nhìn vào công tước. “Tôi đã nói cậu rồi. Đó là số phận. Định mệnh. Cậu không thể chống lại nó.”

    “Phải đó, Belmore, cậu không cần gọi cố vấn của cậu đâu. Tất cả đã hoàn thành cho cậu, trừ khi cậu muốn kiểm tra răng của cô ấy.” Bá tước Downe cười ranh mãnh, rồi bắt đầu cười phá lên, như thể điều vui nhộn nhất trên thế giới này là chuyện nàng là chắt gái của một bá tước.

    Nàng đã nghĩ rằng bà nàng làm nàng có chút gì đó giống họ. Cảm giác muốn bệnh nằm yên trong bụng nàng. Nhưng nàng không giống như họ, vì nàng sẽ không bao giờ cười cợt người khác ác nghiệt như thế. Có thể nàng là một phù thủy, nhưng nàng cũng có cảm xúc của con người. Thật đau đớn khi phải là đối tượng trong trò cười của người khác. Bá tước vẫn đang cười nham nhở với nàng. Cổ họng nàng thít lại và nàng hướng mắt xuống đùi, cố nuốt lấy sự xấu hổ đang mắc nghẹn.

    Beezle, đang ngủ ngon lành trên đùi nàng từ lúc chiếc xe ngựa điên cuồng chạy đi, mở mắt ra và quan sát mặt nàng. Nó quay đầu hướng về phía bá tước đang cười và từ từ đứng dậy. Một phút sau nó trườn lên ngực bá tước, người đã đột ngột trở nên im lặng.

    “Nó đang làm gì vậy?” Downe nhìn trừng trừng chú chồn.

    Beezle đã bò lên mặt bá tước và giơ một cái chân điểm đen lên hướng về cái miệng đang mím lại của bá tước.

    “Có lẽ nó định kiểm tra răng của cậu đấy,” công tước nói với vẻ hoàn toàn lãnh đạm.

    Chú chồn đặt chân lên môi dưới của bá tước và kéo nó xuống, rồi nhìn chăm chú vào miệng anh ta. “Bỏ…nó…ra…khỏiumm…tôi.”

    Joy bắt đầu với lấy Beezle, nhưng công tước đặt tay lên cánh tay nàng và chậm rãi lắc đầu. Chàng có đôi mắt của người đàn ông không muốn bị trái ý, nên nàng ngồi lại và quan sát với sự kinh sợ. Trong vài phút tiếp theo Beezle xem xét kỹ lưỡng miệng bá tước, nhấc môi anh ta lên phía này và phía kia, kéo miệng anh ta thành những kiểu kỳ cục nhất.

    Beezle ngửi hơi thở bá tước, quay cái đầu lông nhỏ bé đi và thở khò khè. Rồi nó thả môi bá tước ra và quấn quanh cổ anh ta. Với vẻ uyển chuyển của một con bò què, nó cuộn quanh ở cùng vị trí như khi nó quấn trên người Joy, ngoại trừ việc nó gục mặt xuống bờ vai rộng và dán mũi lên áo khoác của bá tước.

    “Đừng cười nữa, Seymour. Bỏ nó ra khỏi tôi.” Bá tước cố gắng nhún vai, nhưng chắc hẳn vết thương đã ngăn cản anh ta bởi vì anh ta nhăn mày.

    “Và phá hỏng sự bất ngờ này?” Công tước gần như mỉm cười. “Chắc chắn là không.”

    “Tôi nói này, Alec. Cậu nói đúng. Nó làm tôi rất dễ chịu.” Tử tước cười khùng khục.

    Công tước lặng lẽ quan sát người bạn đang bị dồn vào thế bí. Joy chưa bao giờ thấy hai người đàn ông trao đổi trong im lặng, nhưng hai người này vừa làm điều đó. Và sự căng thẳng thì dày đặc, như có thực thể, như giữa hai chiến binh đang gầm gè.

    Vào lúc đó Beezle đã trèo xuống và đứng trên đùi bá tước. Nó sục sạo qua áo khoác người đàn ông cho đến khi anh ta kéo cái chai ra khỏi túi. Joy nhìn kẻ hầu cận của nàng ngồi trên hai chân sau và ấn những cái chân nhỏ sắc nhọn xuống đùi bá tước. Bá tước hít một hơi, rồi cố túm lấy con vật, nhưng Beezle rít lên, nhe những cái răng sắc như dao cạo ra. Bá tước buông tay ra, rõ ràng đã bị giật mình. Con chồn nhìn anh ta qua cặp mắt trông tỉnh táo và hăm dọa hơn nhiều so với bình thường trong nhiều năm qua.

    Ngài bá tước say xỉn đã bị ngăn cản, con chồn giữ cái chai bằng bạc giữa hai chân như hai bàn tay và kiểm tra kỹ, ngửi cái nắp và chớp mắt với hình phản chiếu của nó trên cái chai bạc. Rồi nó giữ cái chai giữa hai hàm răng và đi lạch bạch khỏi đôi chân dài của bá tước và bước lên chân công tước.

    Joy nhìn vào mặt công tước, chờ đợi phản ứng của chàng. Không cảm xúc nào xuất hiện. Khuôn mặt nhìn nghiêng của chàng khoác vẻ tao nhã như trước. Nhưng điều đó chẳng quan trọng vì Beezle không thể vô tư hơn. Với nó ngài công tước không là gì ngoài một cái thang người. Thậm chí không có lấy một cái liếc nhìn vào người có địa vị quan trọng mà nó đã bước lang thang qua, kẻ hầu cận của nàng thả cái chai lên ghế ngồi, nằm phịch lên trên nó, và chìm vào giấc ngủ.
     
  6. LanNP

    LanNP Lớp 7

    Cổ vũ cho dịch giả tiếp tục dịch truyện nha...
     
  7. le luoi

    le luoi Mầm non

    Bạn dịch tiếp đi, hay mờ. Cám ơn nhé
     
  8. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 5

    Joy cuối cùng đã cố gắng giải thích làm thế nào nàng đến được khu rừng, nhưng nàng đảm bảo không nhìn vào công tước. Nàng giữ mắt hướng vào đôi bàn tay đang nắm lại trên đùi, hoặc nhìn vào tử tước. Anh ta dường như là người dễ chấp thuận nhất, đang gật đầu khích lệ và trông thông cảm khi nàng đi đến những phần bi thảm hơn trong câu chuyện của nàng. Nàng kể với họ cỗ xe của nàng đâm vào một cái mương, và sau khi nàng quay lại từ chuyến tham quan ngắn trong cánh rừng thì phát hiện nó đã rời đi – một sự cố nàng cho là do động cơ bất chính nào đó của người xà ích lôi thôi mà nàng đã mắc sai lầm lớn khi thuê. Nàng kết thúc câu chuyện bịa đặt và chú ý quan sát phản ứng của những người bầu bạn của nàng.

    Tử tước là người đầu tiên phát biểu. “Nó không quan trọng, Tiểu thư MacQuarrie. Tất cả những điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của nàng. Định mệnh, nàng biết đấy. Không thể cưỡng lại số phận.” Anh ta khoanh tay lại, rồi thêm vào, “Định mệnh đã xếp đặt mọi thứ, bao gồm cả thực tế nàng là người Scot, tôi là một tử tước, và ngài Downe đây – hình như thậm chí cả định mệnh cũng có thể mắc sai lầm – là một bá tước. Một người bình thường không thể kiểm soát được điều gì sẽ xảy đến với họ”

    “Sai lầm duy nhất tôi nhận thấy là sự việc không may tôi và cậu đã gặp nhau, Seymour,” bá tước bắn trả, “Và cho dù người bình thường không thể kiểm soát được, tôi tin Belmore là ngoại lệ. Cậu là người bình thường, phải không, Alec?”

    Joy liếc về phía công tước. Mắt chàng lạnh lẽo tới mức chỉ nhìn chàng cũng làm nàng thấy ớn lạnh. Chàng có thể bị tổn thương, nàng nghĩ, và chàng đang che giấu nó. Nàng tò mò chàng muốn che giấu điều gì khỏi thế giới.

    Sau đó chàng nhìn vào nàng. Nàng có thể cảm thấy chàng đang đánh giá nàng, cân nhắc điều gì đó trong đầu. Nàng thắc mắc chàng có tin câu chuyện bịa đặt của nàng không, và nếu không chàng sẽ làm gì. Vì nguyên nhân nào đó, ý kiến của người đàn ông này về nàng rất quan trọng.

    Chàng là một anh chàng nghiêm nghị, và với tất cả vẻ điển trai khắc nghiệt, có điều gì đó cô độc ở chàng, hoặc có lẽ đó không phải cô đơn mà thay vào đó là sự tách biệt. Điều gì đó nói với nàng rằng chàng đang cố gắng để thể hiện chàng không quan tâm. Không ai có thể lạnh lùng như thế. Chàng phải có một trái tim bên trong chàng, vì nó đang kêu gọi nàng. Chắc chắn như biết mặt trời mọc ở phía Đông, nàng hiểu người đàn ông này hơn những gì chàng cho phép thế giới thấy. Mắt nàng hạ xuống đường nét cứng rắn của môi chàng, và nàng trao cho chàng một nụ cười nhỏ thăm dò.

    Công tước Belmore trông như thể chàng cần một nụ cười.

    Khuôn mặt chàng thay đổi, thể hiện cái nhìn tò mò chú ý, nhưng chàng không cười lại với nàng. Nàng tò mò không biết chàng có biết cách để cười. Nàng quan sát chàng một lát, cố gắng mường tượng khuôn mặt chàng trông thế nào nếu chàng hạ cố mà mỉm cười. Dù cố gắng thế nào nàng cũng không thể tưởng tượng ra. Cuối cùng nàng bỏ cuộc và nhìn ra màn sương mù ngoài cửa sổ. Nó đã chìm xuống thấp hơn, và con đường giờ đây khó mà quan sát được.

    Như thể được kêu gọi làm như vậy, nàng quay lại phía chàng. Cái nhìn của chàng thậm chí trở nên dữ dội hơn, nhưng nàng không cho rằng là do sự giận dữ. Có điều gì đó khác, điều gì đó riêng tư. Nàng có thể cảm thấy mặt nàng đỏ bừng lên dưới sự xem xét của chàng, và nàng ngoảnh đi. Hai bàn tay nàng ẩm ướt dưới lớp da mềm mại của đôi găng, miệng nàng khô khốc như cái bánh yến mạch để lâu cả tuần, và nàng có cảm giác mình đang tan chảy.

    Tìm kiếm điều gì đó để làm bên cạnh việc đỏ mặt, nàng vươn tới cái bấc trong ngọn đèn xe ngựa. Nếu nàng làm ánh sáng mờ đi, có lẽ chàng sẽ không thể nhìn sâu vào linh hồn nàng, đó là điều nàng cảm thấy khi chàng hướng cái nhìn sắc sảo đó về phía nàng.

    Trong lúc bối rối nàng kéo cái chốt bấc đèn sai hướng và nó rơi vào tay nàng. Nàng nhìn chằm chằm vào nó, xấu hổ, và cố gắng lóng ngóng gắn nó lại. Một bàn tay đàn ông cứng cáp nắm chặt lấy cổ tay nàng.

    “Để ta.” Chàng vươn tới cái đèn, và bóng của chàng đổ lên trên nàng. Tối tăm và lạnh lẽo, giống như bản thân công tước, dù vậy nàng có thể cảm thấy hơi ấm của chàng, ngửi thấy mùi hương tự nhiên phát ra từ chàng và chỉ có mình chàng. Giống như hơi thở mằn mặn của biển cả, nó kéo nàng theo con sóng triều xuống. Nó giống như sự hiện diện thực thể bao quanh nàng. Chàng đặt cái chốt bấc đèn lại, vặn cái đèn lên và bắt đầu lùi lại, nhưng ngừng lại và nhìn xuống nàng, khuôn mặt dữ dội của chàng chỉ cách mặt nàng vài inch.

    Nàng nâng mắt lên nhìn vào chàng và hầu như có thể nếm được hơi thở của chàng. Nếu nàng di chuyển chỉ một chút xíu, môi họ sẽ chạm nhau. Cái nhìn của chàng làm nàng cứng đờ, bị khóa trong một khoảng khắc nơi những trái tim đang gào thét. Nàng không thể cử động, nhưng nàng cũng không muốn và không hối tiếc về ý chí thiếu thốn của nàng. Điều này giống như bị tóm lấy trong ánh trăng – thứ ánh sáng duy nhất trong khoảng không bao la của bóng tối. Bóng tối ở nơi đó, khuôn mặt siết chặt của chàng đe dọa nàng rời đi. Nhưng tia sáng lấp lánh trong mắt chàng nói đừng đi.

    Tay chàng nắm chặt lấy cổ tay nàng, cứng rắn, cầm tù nàng. Mạch của nàng đập thình thịch dưới ngón tay cái chàng. Trái tim nàng cảm thấy như nó ở đâu đó gần tai nàng, dội như sấm trong đầu nàng. Nàng có thể cảm nhận được tay nàng trở nên tê liệt và ngứa râm ran – máu nàng trở thành hàng trăm điểm sao. Mắt chàng xuyên thấu qua nàng với nhiệt độ của chúng. Nàng đã nghĩ mắt chàng thật lạnh lùng – một màu xanh biển tối tăm băng giá – dù kỳ lạ thay nàng toát mồ hôi vì cái nhìn của chàng. Mồ hôi lấm tấm và chảy thành dòng giữa hai bầu ngực, trên cánh tay và đằng sau bắp đùi nàng.

    Vẫn nắm lấy cổ tay nàng, chàng lùi lại, phá vỡ thứ phép thuật mê hoặc mà mạnh mẽ hơn cả lời nguyền của một pháp sư. Nàng nhớ ra việc hít thở. Chàng nhìn chăm chú vào cổ tay nàng với vẻ mặt kỳ lạ, như thể chàng chỉ mới nhận ra chàng đang giữ nó. Ngón tay nàng lướt qua tay chàng như nói rằng điều đó ổn thôi. Nắm tay chàng lỏng ra, và nàng cảm thấy máu dồn trở lại các ngón tay. Nó hợp với cảm giác trong ngực nàng.

    Trong một giây ngắn ngủi nàng đã nghĩ nàng cảm thấy ngón tay cái chàng nhẹ nhàng cọ lên cổ tay nàng, nhưng nó xảy ra quá nhanh nên nàng không chắc nó có thực sự xảy ra. Một chớp mắt sau chàng đã ngồi xuống bên cạnh nàng, nhìn vô định ra ngoài cửa sổ vào màn sương mù trắng xóa.

    Nàng lại hít lấy luồng không khí lạnh lẽo, và với nhịp thở đó nàng nhận thấy điều gì khác ngoài người đàn ông này. Sự im lặng. Âm thanh duy nhất trong chiếc xe là tiếng gõ nhịp nhàng của móng ngựa, tiếng ồn ào của bộ yên cương và dây nịt, và tiếng cọt kẹt thi thoảng của lò xo khi chiếc xe ngựa di chuyển trên con đường. Như thể các giác quan đã quay trở lại với nàng. Mùi hương nam tính lấn át bên trong buồng xe – mùi da thuộc ẩm ướt, thuốc lá và brandy. Không khí có vị cũ kỹ, nặng nề và đàn ông trong khoang miệng khô khốc của nàng. Theo bản năng nàng vươn tới Beezle và lơ đãng gãi bộ lông của nó, nhận thấy thật tốt khi nó mềm và mượt như nhung. Sau trao đổi đó nàng cần chạm vào thứ gì mềm mại và quen thuộc.

    Một âm thanh ồn ào thoát ra từ cổ họng một người đàn ông xuyên ngang qua không khí. Nàng nao núng, giật mình. Đó là ngài bá tước hoài nghi, và nàng nhìn vào anh ta, chờ đợi một sự nhạo báng. Đó không phải điều nàng thấy. Chắc chắn như hoa thạch thảo nở trên cánh đồng hoang, anh ta đã quan sát nàng, nhưng cái nhìn của anh ta đầy suy đoán làm nàng cảm thấy không thoải mái – một kiểu khác với sự bồn chồn nàng cảm thấy từ ngài công tước. Bá tước là một người đàn ông kỳ lạ, và nàng không thích anh ta cho lắm. Có sự giận dữ bên trong anh ta, đau buốt và đang mưng mủ, một vết thương chưa được xử lý. Anh ta thô lỗ, thích thú với sự xấc láo của anh ta, dường như đang đắm chìm trong nó, và nụ cười của anh ta thì quá lão luyện.

    Người ta có thể nói nhiều điều về một người chỉ với một nụ cười. Ngài tử tước lo lắng nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ và lẩm bẩm khẽ khàng. Nhưng anh ta đã cười với nàng và đó là nụ cười chân thành. Ngẩng đầu lên, nàng nhìn vào công tước và cố gắng mường tượng khuôn mặt của chàng với một nụ cười, nhưng nàng không thành công. Thậm chí đôi mắt của tâm trí nàng cũng không thể thấy chàng như bất kỳ thứ gì khác ngoài sự tập trung và dữ dội.

    Nàng bỏ cuộc và ngồi ngay ngắn, nhìn ra ngoài cửa sổ như những người khác, cho tới khi người lái xe cuối cùng cũng rẽ vào một quán trọ bằng gỗ. Ánh sàng vàng ấm áp bừng sáng từ các cửa sổ có ô hình kim cương soi sáng sự tiếp cận của họ với ánh sáng thần bí kỳ lạ. Một biển hiệu cho thấy người sáng lập là Shovel và Boot được treo xiêu vẹo với cái giá bằng gang gỉ sét trên cánh cửa gỗ sồi nặng nề.

    Sương mù lơ lửng quanh cái hàng rào bằng đá tảng xám xít phủ đầy rêu cũ kỹ bao quanh sân trong để xe ngựa, nơi người cỡi ngựa đi mở đường của ngài công tước đã xuống ngựa và đang đứng nói chuyện với cậu bé giữ ngựa. Cánh cửa dẫn tới quán trọ mở ra và ánh sáng chảy lớp vàng rực xuống lối đi lát đá, chỉ để bị che khuất bởi cái bóng của ông chủ quán trọ.

    Cùng lúc đó, cánh cửa xe ngựa mở ra và người hầu kéo cầu thang xuống. Công tước bước xuống đầu tiên. Chàng vẫy người hầu đi và quay lại, đưa tay cho Joy. Nàng xốc Beezle lên, để nó quấn quanh cổ và bắt đầu nhổm dậy, nhưng nàng liếc xuống chân, không chắc nàng có thể đứng dậy mà không cần giúp đỡ. Nàng không cần lo lắng, vì điều tiếp theo nàng biết là ngài công tước đã nâng nàng ra khỏi xe ngựa và đi về phía cánh cửa quán trọ, ôm nàng sát vào chàng và đưa ra những mệnh lệnh mà làm những người trong phạm vi 20 bước phải chạy nhốn nháo như những những chú chuột trong phòng tháp để thực hiện những yêu cầu của chàng.

    Với Joy không khí ẩm ướt của nước Anh không hề lạnh lẽo; cái lạnh không làm nàng bận tâm. Thực tế, khi nằm trong vòng tay chàng, nàng có thể hình dung ra người đàn ông bên trong lớp vỏ lạnh lùng đó, và những ảo tưởng của nàng làm nàng ấm lên, cùng với lồng ngực rắn rỏi của chàng. Chàng có một bờ vai tuyệt vời, mà nàng đang tựa đầu lên nó sau một tiếng thở dài khoan khoái. Thật hoàn hảo.

    Ngay cả qua lớp cashmere và len, nàng có thể cảm nhận được sức mạnh của cánh tay bên dưới đầu gối nàng.

    Cảm giác ngứa râm ran ngày càng mạnh hơn, di chuyển nhanh chóng từ đầu đến ngón chân nàng và rồi đi đến tim nàng. Nàng tự hỏi sự rộn ràng này có tương tự như cảm giác của một vài phù thủy đã trải qua khi họ bay lượn. Nàng nghe nói bay là một trong những phần thưởng sâu sắc và vui sướng nhất khi là một phù thủy.

    Joy chưa biết tới cảm giác đó. Dù cố gắng hết sức, nàng vẫn không thể nhớ được lần duy nhất nàng bay. Dĩ nhiên, nàng đã bị cấm bay sau khi nàng thực hiện một lần và đã có kinh nghiệm không may là tự mình phá vỡ cánh cửa sổ kính màu hai-trăm-năm-tuổi trong nhà thờ Công giáo tại Craignure. Dì nàng đã giải cứu nàng và đưa ra một lời xin lỗi duyên dáng cho vị giám mục, ngay khi ngài đến. Thực sự không may khi người mục sư đáng thương lại đang cầu nguyện bên dưới cánh cửa sổ ấy vào thời điểm đó.

    Joy vẫn còn một vết sẹo trắng dài 3 inch trên tay trái và một vết sẹo dài hơn ở phía sau cổ. Dì nàng nói với nàng rằng cả hai vết sẹo sẽ nhắc nhở nàng việc bay lượn không phải dành cho nàng. Nhưng những vết sẹo nhỏ xíu đó không có gì so với vết sẹo sâu bên trong nàng – vết sẹo nhắc nhở rằng nàng chỉ có một nửa là phù thuỷ, và nửa còn lại của nàng không có năng khiếu lắm trong việc làm phép thuật.

    Nhưng niềm hy vọng không tắt đã giúp nàng vượt qua những thời điểm khó khăn, những lúc dường như mọi thứ nàng làm đều thất bại. Hy vọng là điểm tựa của nàng. Hy vọng là sự cứu rỗi của nàng. Nó làm nàng mơ về những giấc mơ và cầu nguyện những lời cầu nguyện. Một ngày nào đó có lẽ mọi thứ sẽ khác đi.

    Nàng ngẩng lên và bắt gặp công tước lại đang quan sát nàng với vẻ tò mò rõ ràng đó, như thể nàng là một điều gì đó lạ lùng. Đúng là vậy, nàng nghĩ, nhận ra nàng có khả năng là phù thủy đầu tiên mà người đàn ông này từng gặp. Nàng mỉm cười một lần nữa, hy vọng nhận được sự đáp lại. Nàng đã không nhận được nó. Một bức tường tuyết lại phủ băng giá lên ánh nhìn của chàng. Sự cảnh giác của chàng tăng lên.

    Đừng chạm vào tôi, nó nói. Hãy giữ khoảng cách.

    Chàng thật kỳ lạ. Trong chàng không có lấy một nụ cười. Thật đáng buồn. Chàng cần một người có thể đào sâu đủ để tìm được kho báu mà chàng đã chôn giấu. Chàng cần ai đó với hy vọng, bởi vì chàng không có. Joyous Fiona MacQuarrie có rất nhiều hy vọng. Nàng cần hy vọng để có thể đi xa tới đây. Và nàng cần một mục tiêu. Có phải là điều đó? Đó có phải là điều đã ràng buộc họ một cách lạ lùng? Nàng cảm nhận được nó, bởi vì người đàn ông này cần đến tuyệt vọng một phép thuật nhỏ nhoi trong cuộc đời mình.

    ***

    Alec ngồi trên cái ghế dài cứng tại cái bàn phục vụ dài và xem xét mảnh giấy trên bàn trước mặt chàng.

    Đây là giấy phép đặc biệt, được ban cho bởi tổng giám mục của Canterbury, cho phép Alec Gerald David John James Mark Castlemaine, Công tước của Belmore, Hầu tước của Marquess, Bá tước của Fife, quyền được kết hôn không cần thông báo tại nhà thờ ở bất kỳ nơi nào và lúc nào thích hợp với ngài.

    Một tiếng hoan hô khàn khàn phá vỡ sự tập trung của chàng, và chàng nhìn vào những người bạn đang bị thu hút với trò ném phi tiêu đánh cược. Quán trọ nhỏ bé này không có phòng khách riêng, chỉ có căn phòng sinh hoạt chung với những bức tường trát hoàn toàn bằng lớp vữa trắng lốm đốm cỏ khô và các xà nhà đen đúa vắt qua, một căn phòng nhồi đầy với khói thuốc, mùi cay xè của rượu bia và mùi nồng của thịt cừu béo ngậy và bánh mì nướng được chất đống từ nhà bếp đằng sau.

    Chủ quán trọ là một người đàn ông béo tròn, mặc bộ vest màu hồng bạc màu và lấm lem, cho thấy màu đỏ ở nơi những đường may dường như đã lộ ra ít nhất ba lần. Ông ta đứng trong đám những người tá điền địa phương vui vẻ, những người mang theo bùn đất từ các công việc chân tay và những người đang reo hò và dậm chân và ậm ừ khi một trong số họ thắng điểm trước những anh chàng Luân Đôn.

    Cái đầu tóc vàng của Downe nhô lên phía trên đám đông, và Alec quan sát khi anh ta nốc cạn phần bia mạnh mẽ và sủi bọt thứ năm từ một cái sừng cừu già. Alec không nghi ngờ chút nào rằng bạn chàng sẽ sớm trở thành một tên say xỉn để chứng minh với cả thế giới rằng anh ta là một kẻ đáng ghét, người khiến mọi thứ và mọi người đều khinh bỉ. Khi tỉnh táo, Bá tước Downe là một trong những người đàn ông tốt nhất mà Alec từng biết, nhưng khi say xỉn, một trạng thái gần đây dường như là lẽ thường thay vì trường hợp ngoại lệ, anh chàng kiên quyết khiến mọi người xung quanh cũng khốn khổ như anh ta.

    Alec liếc nhìn cánh cửa gỗ sồi của căn phòng nghỉ, nơi người bác sĩ địa phương, người đã được triệu hồi để khám cho cô gái, đã theo vào cùng bà vợ ông chủ quán. Công tước liếc vào cốc bia của chàng, nhưng rượu bia không phải thứ chàng cần. Chàng ngờ rằng nó sẽ làm giảm cơn đau nhói trong đầu chàng, cũng như không ích gì cho đôi mắt cay xè do kiệt sức và không khí gay mùi. Sự thực là chàng mệt mỏi. Chàng dựa lưng vào tường và nhắm mắt lại, cưỡng lại một cái ngáp.

    Một tiếng ồn vang lên từ bên trái chàng. Sau một lúc cố gắng lờ đi tiếng ồn, chàng từ bỏ và bằng lòng hé đôi mắt mệt mỏi ra - chỉ để kịp bắt gặp Quí bà Agnes Voorhees – người giỏi đưa chuyện bậc nhất của London - xông vào quán trọ cùng đoàn hộ tống của bà. Sự mệt mỏi của chàng biến mất, thay vào đó là nhu cầu khẩn thiết cần ra khỏi đó trước khi người phụ nữ nhanh nhảu này nhin thấy chàng. Chàng vội vã đứng dậy, không đánh mất sự tao nhã nhưng cũng không gây chú ý, và bước lùi về phía bức tường, dự tính lẻn về phía nhà bếp.

    “Đức ngài!”

    Alec rên rỉ.

    “Tưởng tượng được không, Eugenia! Đó là Đức ngài, Công tước Belmore! Thế giới này nhỏ bé làm sao!”

    Người phụ nữ di chuyển về phía chàng còn nhanh hơn một cái phi tiêu phóng về phía tấm bảng, những người đồng hành của bà khoan thai theo sau.

    Chàng đã bị kẹt lại, chắc chắn như sàn nhà quán trọ này bị ngập trong bùn cả thước.

    “Sao chứ, chúng tôi đang nói chuyện về anh,” bà nói, đứng đối diện ngay với chàng. “Henry yêu quí” - Quý bà Agnes quay sang ông chồng ốm yếu – “làm ơn đi và thuê một phòng khách riêng.” Bà cau có với căn phòng, vẫy chiếc khăn tay đăng ten phía trước cái mũi khoằm của bà. “Không khí thật tệ.” Bà quay lại và nói liến thoắng. “Tôi không thể tin được vận may tuyệt vời đã tìm thấy anh ở đây. Anh biết đấy, Eugenia- dĩ nhiên là anh biết Tiểu thư Eugenia Wentworth và bà Timmons…”

    Alec gật đầu với những người phụ nữ còn lại – những người nhiều chuyện thứ hai và thứ ba ở Luân Đôn. Một đàn chim sắc sảo.

    “Như tôi mới nói, Eugenia kể cô ấy nghe được từ bà Dunning-Whyte, người nghe được từ Sally Jersey, rằng Tiểu thư Juliet Spencer - Tiểu thư Juliet của ngài - đã bỏ trốn!!! Nhảm nhí! Tôi đã nói vậy. Rằng điều đó không thể xảy ra! Mọi người đều biết Đức ngài sẽ làm điều đúng đắn. Một Công tước Belmore sẽ không để bất cứ thứ gì liều lĩnh như vậy! Hơn nữa, theo tôi biết anh chưa tuyên bố gì. Dĩ nhiên chúng tôi chắc hẳn anh sẽ làm thế bất cứ lúc nào. Chỉ là vẫn đề thời gian. Nhưng anh có thể tưởng tượng tôi bị sốc thế nào khi Eugenia nói rằng chú rể không phải là anh. Ây chà, tôi chỉ biết cười phá lên. Hah-hah-hah!”

    Những người đi cùng bà cười khúc khích.

    “Ý tôi là, sau rốt thì không quí cô tỉnh táo nào sẽ bỏ Công tước của Belmore vì một đại úy nhỏ nhoi, bất kể gia đình anh ta có những mối quan hệ nào”

    Bà Timmons and Tiểu thư Eugenia gật đầu nhất trí.

    “Và cả đống người biết rằng anh đã bị hút hồn từ giây phút đầu anh nhìn thấy cô ấy. Sao tôi lại nhớ về đêm ấy như mới ngày hôm qua thôi…”

    Tư thế của Công tước Belmore không đổi, nhưng nếu ai đó nhìn thật kỹ có thể thấy được cái giật rất nhẹ ở gò má chàng, do sự siết chặt của quai hàm. Như thường lệ không có chút ấm áp nào trong mắt chàng, và chàng đứng vươn cao hơn một chút, thẳng hơn và cứng rắn hơn một chút so với trước đó. Người phụ nữ càng nói nhiều, hơi thở của chàng càng trở nên sâu hơn và kiểm soát hơn.

    Rồi người chồng quay lại. “Quán trọ này không có phòng khách riêng, em yêu.” Ông ta nhìn lên Alec. “Tôi nói mà, đó là lý do Đức ngài ở đây, trong phòng sinh hoạt chung. Phải không, Belmore?”

    Trước khi Alec có thể trả lời, Quí bà Agnes thở dốc và nhìn xung quanh căn phòng. “Không phòng riêng? Ôi, tôi muốn ngất mất.” Người phụ nữ thả người xuống băng ghế như một quả bóng bay – một khinh khí cầu- bị xì hơi, rồi uể oải dựa vào bàn, đặt một mu bàn tay đeo găng lên trán.

    “Rồi, rồi, em yêu.” Ngài Henry kéo chiếc khăn tay từ bàn tay của vợ ra và bắt đầu quạt vào mặt bà. “Có một phòng nghỉ cho các quí bà.”

    Lady Agnes tìm lại sức sống và ngồi dậy.

    "Alas, em yêu, căn phòng hiện đã có người, và ông chủ xin em đợi ở đây vài phút nữa.”

    Bà xìu lại. “Nhưng tại sao chúng ta phải đợi?”

    “Hình như có một quí cô tội nghiệp bị thương, và bác sĩ đang kiểm tra cho cô ấy.”

    Bà lại được bơm hơi, hiện tại trông có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh khi có gì đó để hóng chuyện. Bà bắt đầu bắn các hỏi về phía ông chồng nhanh hơn cả cây gậy và cò súng. “Cô ta là ai? Anh có hỏi không? Cô ta tên là gì? Cô ta đi với ai? Chúng ta có biết cô ta không? Sao anh không hỏi?”

    Ngài Henry lúng búng với mấy câu trả lời, không cái nào làm vừa lòng vợ ông.

    Một phút sau bà đã rớt nước mắt. “Ôi Henry, anh biết em nóng lòng được chăm sóc người khác thế nào rồi đấy. Cô bé đáng thương, dù cô ấy là ai, có thể đang cần em, và anh biết cảm giác thấy mình hữu ích quan trọng với em thế nào, giúp đỡ mọi người là một trong những niềm vui thú lớn nhất của đời em.” Bà ta rên rỉ, một âm thanh tương tự với tiếng phát ra từ ống bễ lò sửa bị tắc – và nhắm mắt lại rồi thả một bàn tay rất kịch lên bàn, ngay phía trên tờ giấy phép đặc biệt.

    Alec căng thẳng.

    Nghe tiếng lạo xạo của tờ giấy, một con mắt tò mò của người phụ nữ mở ra, rồi con mắt thứ hai. Bà ta nhìn xuống, và biểu hiện đau khổ trên mặt bà biến mất tăm. Bàn tay bà nắm lấy tờ giấy như thế đó là thư mời từ thiên đường gửi cho bà. Chỉ một cái nhìn lướt qua và bà ta đã giữ cái nhìn hoang dại giống y như những con chó săn của Alec khi chúng đang đánh hơi một chú thỏ rừng. Bà ta chộp lấy tờ giấy nhanh như chớp, đọc nó, rồi nhìn chàng qua mép tờ giấy. Chậm rãi quạt phe phẩy với tờ giấy phép, bà ta tặng chàng nụ cười bợ đỡ và nịnh nọt nhất của bà.

    Bà ta vẫy tờ giấy phép dưới mũi chàng. “Thật sao, Đức ngài, thật ranh mãnh làm sao!”

    Ngay lúc đó bà vợ chủ quán trọ bước ra từ căn phòng và thỉnh cầu sự hiện diện của Alec. Lặng im, chàng lấy tờ giấy phép từ Quí bà Agnes và ngay lập tức bước qua về phía căn phòng. Nhưng khi vừa mở cửa căn phòng nghỉ, chàng nghe tiếng bà ta thì thầm – ngay cả đức vua điên rồ và ngớ ngẩn đang nhốt mình trong phòng của ngài ở Westminster cũng có thể nghe tiếng thì thầm của Quí bà Agnes – “Đó là Tiểu thư Juliet, Eugenia. Ngài ấy và Tiểu thư Juliet sẽ kết hôn. Tôi đã nói là tin đồn đáng ngờ về anh chàng người lính đó không thể là sự thật.”

    Alec hít hai hơi thở sâu và nhìn vào khớp tay trắng bệch của chàng trên nắm cửa. Thêm hai hơi thở nữa và chàng bước vào phòng, đóng cánh cửa lại phía sau chàng.

    ***

    Joy ngồi trên một chiếc ghế tiếp đón cho quí bà, không nghe được một lời bác sĩ đã nói vì ngài công tước chỉ ở cách đó khoảng 5 bước chân. Cảm thấy sự hiện diện của chàng trong phòng, nàng vươn lên để có thể nhìn qua bờ vai của vị bác sĩ. Ông ta đóng cái cặp của mình lại và đứng dậy, chặn tầm nhìn của nàng.

    “Chỉ bong gân nhẹ thôi, thưa Đức ngài,” ông ta nói với công tước. “Tôi đã quấn chặt nó, và quí cô đây có thể đứng lên và đi lại không khó khăn gì.” Ông quay lại phía Joy. “Phải không, cô bé? Nào, thử cho Đức ngài xem.” Ông giúp nàng đứng dậy và nàng bước một khoảng ngắn tới cái lò sưởi lớn, nơi Beezle đang ngủ, cuộn tròn kế ngọn lửa đang nổ tanh tách và cháy bỏng, cung cấp hơi ấm và khô ráo cho không khí nước Anh ẩm ướt. Nàng nhìn vào công tước và phát hiện ra chàng đang nhìn vào mặt chứ không phải chân nàng. Joy khựng lại.

    “Chỉ cho Đức ngài thấy cháu có thể di chuyển tốt mắt cá chân nào, cô bé.” Người bác sĩ dường như hoàn toàn không ý thức được thứ ma lực kỳ lạ mà Joy cảm thấy mỗi khi nàng ở gần công tước. Có những lúc nàng cảm thấy ánh mắt của người đàn ông này trở nên riêng tư đến mãnh liệt, như thể chàng đã ở bên trong nàng một khoảng khắc ngắn ngủi.

    Nàng nâng cái váy lên cho vừa lộ cổ chân và lần nữa liếc nhìn lên công tước. Sau một thoáng do dự, chàng chuyển tầm mắt vào cổ chân nàng và nàng lắc cái chân để cho chàng thấy mắt cá chân nàng đã ổn.

    “Không đau nữa?” công tước hỏi.

    “Không” nàng trả lời. “Không chút nào. Khỏe như vâm.” Và nàng tặng chàng một nụ cười khác. “Cảm ơn ngài.”

    “Cô ấy không nên làm việc quá sức quá sức trong một ngày hoặc hơn, nhưng sau đó cái mắt cá chân đó sẽ đủ khỏe để cô ấy có thể đi bộ tới Scotland nếu cô ấy muốn.” Ông bác sĩ cười và Joy đỏ mặt, nhớ tới cuộc đối thoại trong xe ngựa. Biểu cảm của công tước không đổi. Nó vẫn cứng rắn, trầm ngâm như trước.

    Chàng trả tiền cho người đàn ông và đóng cánh cửa lại phía sau ông ta khi ông rời khỏi phòng. Joy giơ tay về phía ngọn lửa. Bà vợ chủ quán trọ, bà Hobson đã giúp nàng cởi chiếc áo choàng lông ra và trải nó và găng tay của nàng lên một chiếc ghế bành nhỏ bọc gấm màu nâu thuốc lá gần ngọn lửa cho khô. Nàng nắm lấy gấu cái áo choàng và lắc cho vài giọt nước văng ra. Nó cho nàng việc gì đó để làm thay vì nhìn vào Đức ngài.

    “Cô có liên lạc với ngài Bá tước Craven mới không?” công tước hỏi.

    Câu hỏi làm Joy ngạc nhiên và nàng quay sang đối diện với chàng. “Không. Tại sao?”

    “Ta nghĩ là, vì gia đình nàng đã mất, anh ta phải có trách nhiệm với nàng. “

    “Nếu tôi liên hệ với nhà bên đó, bà tôi sẽ đội mồ sống dậy. Tin tôi đi, Đức ngài, không có tình yêu thương nào đã mất ở đó.” Nàng nâng cằm, nhớ lại những câu chuyện cha nàng đã kể nàng nghe về sự đối xử khắc nghiệt của người nhà Locksley và người mẹ Anh quốc của ông. Nàng khó lòng tin tưởng rằng một gia đình như vậy có thể thay đổi gốc rễ chỉ vì cái chết của ông cố. Tất cả họ đều nhẫn tâm. Niềm tự hào và bướng bỉnh của người Scot ánh lên trong mắt nàng. “Tôi có thể đói khát, trần trụi và gần chết, nhưng tôi sẽ không cầu xin thứ gì từ nhà Locksley.”

    “Tôi hiểu.” Chàng không nói gì nữa, nhưng dường như đang nghiền ngẫm mọi lời nói của nàng. Nàng tò mò chàng đang nghĩ gì, tâm trí chàng hoạt động như thế nào, tất cả những suy nghĩ của chàng đều nghiêm túc hay chàng có bao giờ để tâm trí lang thang tới vùng đất huyền ảo mà nàng thường xuyên ghé thăm.

    Âm thanh nhẹ nhàng từ đôi bốt của chàng đánh gãy suy nghĩ của nàng. Nàng xem chàng đi về phía mình, và không biết rằng nàng muốn đứng đó hay chạy về phía khác nhanh hết mức mắt cá chân nàng cho phép. Nàng nín thở. Chàng dựa một cánh tay lên bệ lò sưởi bằng gỗ cây óc chó và gác một chân đi bốt lên một cái giá đỡ lò sưởi bằng đồng trong khi nhìn trầm ngâm vào ngọn lửa đang rực cháy.

    Ánh lửa thắp sáng mái tóc bạch kim của chàng và bao lấy khuôn mặt nhìn nghiêng của chàng như vầng hào quang của một tổng lãnh thiên thần. Chàng có cái mũi dài, quí phái, gò má cao và quai hàm mạnh mẽ được phủ một bóng mờ của người đàn ông chưa cạo râu hoặc cần làm điều đó nhiều hơn một lần mỗi ngày. Nàng thấy điều đó thật lôi cuốn và tưởng tượng ra kết cấu của phần gốc râu làm tối quai hàm của chàng. Nàng quyết định nó hẳn là thô và nam tính, và các ngón tay nàng náo nức với nhu cầu cảm nhận nó. Một cách vô thức nàng cọ lên quai hàm mình.

    Không khí đột ngột trở nên ấm áp, và căn phòng dường như co hẹp lại. Mồ hôi túa ra trên thái dương, cổ và ngực nàng. Cái váy dài của nàng ngứa ngáy. Nàng lao qua phía bên kia của cái ghế bành để tạo chút khoảng cách giữa nàng và ngọn lửa.

    “Nàng sinh ra khi nào?” Chàng bắn ra câu hỏi.

    Nàng nảy lên, giật bắn, rồi trả lời. “Năm 1792.”

    “Ngày nào?”

    “Ngày 27 tháng 6.”

    Chàng im lặng.

    “Sao vậy?”

    Chàng không phản ứng.

    “Đức ngài?”

    “Ta đang suy nghĩ.”

    “Về tuổi của tôi?”

    “Không hẳn.”

    “Vậy về cái gì?”

    Chàng chuyển cặp mắt lên nàng, đôi mắt nhuốm chút hối tiếc, và chàng từ từ di chuyển về phía nàng.

    “Về những hậu quả của việc ta sắp làm.”

    “Ồ.” Joy lùi lại. “Việc đó là gì?”

    Alec bước lên phía trước, lặng im.

    Bị hăm dọa một chút, nàng lần nữa bước lùi lại và gần như ngã lên tay vịn của cái ghế.

    Chàng nắm lấy hai cánh tay nàng và kéo nàng về phía trước.

    “Ôi…”

    Bàn tay chàng trượt quanh cổ nàng.

    “…Lạy Chúa!”

    Và chàng đưa môi nàng tới gần môi chàng. Nàng ngắm nhìn, bị mê hoặc bởi đôi mắt đang ghim lấy mắt nàng, nhìn đường nét cứng rắn của môi chàng lại gần và gần hơn cho tới khi chàng ở quá gần khiến đôi mắt nàng buông xuôi đóng lại. Nàng có thể nếm được hơi thở của chàng, cảm nhận nó phà lên đôi môi khô khốc của nàng. Nàng muốn điều này. Dường như mất cả cuộc đời trước khi môi chàng chạm lên môi nàng thật nhẹ nhàng, ngập ngừng như thể đang tìm kiếm điều gì đó.

    Làm ơn đừng để điều này chỉ là giấc mơ, nàng cầu nguyện. Môi chàng chạm lên môi nàng lần nữa và lần nữa, chân thật, rành rành, với sự ân cần nàng chưa bao giờ mong đợi từ một người đàn ông không cười. Nàng lo ngại nụ hôn có thể kết thúc, và nàng chỉ muốn thêm chút xíu nữa thôi. Khi chàng lướt môi qua góc miệng nàng, di chuyển nhẹ nhàng, nàng quay đầu vừa đủ để có tiếp xúc gần gũi hơn. Bàn tay chàng ấn vào đằng sau đầu nàng nên môi nàng gắn chặt vào môi chàng. Nàng tan chảy trong ngực chàng.

    Vẫn xòe tay vòng qua phía sau đầu nàng, bàn tay chàng giữ nàng đúng vị trí, nhưng nàng sẽ không bứt khỏi chàng vì bất cứ điều gì. Nàng không hề biết rằng nụ hôn thật quá tuyệt vời, ấm áp và mềm mại. Hiện thực còn tốt hơn rất nhiều so với mơ mộng của nàng. Không có tấm gương lạnh lẽo, cứng rắn nào ở đây.

    Cánh tay còn lại của chàng trượt qua tấm lưng nhỏ nhắn của nàng và rất chậm rãi ấn bụng nàng tì vào chàng, và bàn tay di chuyển từ phía sau đầu nàng xuống cổ, xoa bóp những đường gân và múi cơ mềm mại bên dưới da thịt nàng. Môi chàng nhấn vào mạnh hơn, tay chàng giữ nàng chặt hơn. Chàng liếm môi trên của nàng, rồi đưa lưỡi nàng theo đường môi nàng. Nàng phản ứng với một cái thở dốc, và chàng trượt vào miệng nàng, tìm kiếm và rút lui. Nàng rùng mình nổi da gà và run rẩy, một lần, hai lần và lần nữa khi lưỡi chàng quấn lấy nàng.

    Nàng nghĩ điều này phải giống như đang bay, có thể là tuyệt hơn – giống như đang bay lượn và tiệc tùng cùng một lúc. Chàng có vị của mọi thứ nàng luôn yêu thích – của bánh gừng cay và mật ong chanh ngọt ngào, của bánh bơ nướng và dâu tây chua, của rượu vang lâu năm và bánh mì ấm mới ra lò. Đầu nàng lâng lâng, người nàng không trọng lượng và máu nàng dường như chạy hăng hái trong các mạch máu. Trái tim căng đầy của nàng đập thình thịch trong ngực, tai và cổ tay nàng. Nàng ớn lạnh trong một phút rồi ấm áp và xúc động phút kế tiếp.

    Điều này mới mẻ với nàng, cái cảm giác lưỡi chàng lấp đầy miệng nàng, sự ẩm ướt ấm áp của nụ hôn, sự mật thiết thực sự của nó – một biểu hiện thực thể của trò chơi đôi mắt họ đã tham gia. Nàng tự hỏi tim chàng có đập như trống dồn giống nàng hay không, và nàng cố gắng lại gần hơn để cảm nhận nó. Nàng trượt lòng bàn tay qua áo khoác và đến giữa ngực chàng và nâng bàn tay còn lại lên cổ chàng. Hai đầu gối nàng còn yếu hơn cổ chân nàng và nàng bám vào chàng để khỏi bị ngã. Cánh tay chàng di chuyển bên dưới mông nàng và nâng nàng lên khỏi sàn, giữ nàng an toàn và chắc chắn. Nàng đung đưa chân và giữ chặt hơn, nắm lấy áo khoác của chàng trong tay nàng.

    Với những cái chạm vừa đủ, tay chàng di chuyển từ đầu đến cổ nàng. Ngón tay chàng chơi đùa với những sợi tóc phủ trên mặt nàng, rồi sượt qua tai nàng, và di chuyển xuống cổ họng, qua vai nàng, và qua cánh tay tới xương sườn nàng, nơi chàng xoa những vòng tròn chậm rãi phù hợp với nhịp điệu của chiếc lưỡi tìm tòi của chàng.

    Nàng không muốn nụ hôn kết thúc và bật ra một tiếng kêu buồn bã khi chàng dứt miệng mình ra. Đôi mắt nàng từ từ mở ra, và nàng nhìn thấy trong đôi mắt xanh dương đậm của công tước — một nhu cầu, một thoáng đòi hỏi khẩn thiết — con đường dẫn đến kho báu. Sau đó, nó biến mất, được che giấu bởi chiếc mặt nạ ngăn cách nàng và cả phần còn lại của thế giới ra bên ngoài. Vị công tước khó tính đã trở lại.

    “Nàng sẽ làm thế,” chàng nói.

    “Hử?” Nàng ngước nhìn chàng, tìm kiếm trong đôi mắt nàng một dấu hiệu khác của nhu cầu khẩn thiết ấy, vẫn nhấp nháp nụ hôn đầu tiên của nàng và cảm nhận của vòng tay chàng. “Tôi sẽ làm gì cơ?”

    Nàng không hề biết rằng đôi mắt nàng đã phô bày trái tim nàng. “Đừng bận tâm,” chàng nói, trầm ngâm nhìn ra chỗ khác một lúc, trước khi nhìn chằm chằm vào cánh cửa.

    Joy kinh hoàng nghĩ rằng có thể có ai khác ở đó. Nàng sợ hãi bám chặt lấy vai chàng, đôi mắt lo lắng dõi theo chàng, chờ đợi thấy ai đó đang nhìn họ, nhưng cánh cửa vẫn đóng chặt, và không có ai trong phòng ngoài hai người họ.

    Chàng đặt nàng xuống, nhưng bàn tay vẫn đặt trên vai nàng. Ánh mắt chàng mềm lại, và chàng tìm kiếm trên mặt nàng, dành một khoảng thời gian dài im lặng nhìn chằm chằm vào miệng nàng. Tay chàng xoa bóp phía trên cánh tay của nàng và rồi nâng cằm nàng với một ngón tay và nhìn thẳng vào mắt nàng.

    “Kết hôn với ta.”
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/8/21
  9. B-Mon

    B-Mon Mầm non

    Cảm ơn sự trở lại tuyệt vời của bạn nhé!
     
    Breeze, hathao and lan anh vu like this.
  10. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 6

    Nàng nhìn chằm chằm vào chàng trong một phút dài như vô tận, không thể suy nghĩ, không thể cử động hay nói chuyện. Nàng tự nhủ sự sáng suốt của mình đang đi lang thang. Chàng không thể nào nói điều đó.

    “Kết hôn với ta,” chàng lặp lại.

    “Ôi--” Nàng đưa tay che miệng và lùi lại. Chàng đã nói thế. Chàng ấy.

    Nàng đã chết và đi đến chốn thiên đường của phù thủy.

    Chỉ dùng hơn một ngón cái và ngón trỏ, chàng kéo cằm nàng về phía trước và hôn nàng hết lần này đến lần khác, vô cùng dịu dàng. “Cưới ta đi,” chàng thì thầm lên miệng nàng. “Kết hôn với ta.”

    “Tôi không thể.” Nhưng cái miệng phản bội của nàng đã tìm đến chàng.

    “Tất nhiên nàng có thể. Nàng đã đủ tuổi rồi.” Chàng lại lướt môi chàng trên môi nàng, vừa đủ để chạm nhẹ lên miệng nàng.

    “Không, ý tôi là tôi có thể, nhưng tôi không thể.”

    Lời nàng chỉ vừa thốt ra trước khi chàng hôn nàng, dài và sâu, ướt át và biếng nhác, vuốt ve cho đến khi nàng quên mất cách để suy nghĩ. Chàng chuyển môi đến tai nàng. “Nàng sẽ là một nữ công tước.”

    “Tôi không-”

    Chàng khiến nàng im lặng bằng một nụ hôn khác, kéo nàng dựa vào chiều dài cơ thể chàng. Rồi miệng chàng rời khỏi môi - “Tôi không thể” - và chuyển sang tai nàng. “Cưới ta đi, Joyous MacQuarrie.”

    “Uhmmmmmm.”

    Lưỡi chàng chạm vào tai nàng, và nàng rùng mình.

    “Tôi không biết về ngài.” Nàng muốn nhìn thấy mặt chàng và cố gắng lùi lại.

    Những nụ hôn trượt xuống cổ nàng. “Hôn nhân sẽ giải quyết điều đó. Tin ta đi.”

    “Nhưng còn tình yêu thì sao?”

    Chàng dừng lại ở gần vai nàng. “Nàng đang yêu ai đó à?”

    “Không.”

    “Vậy thì không gì ngăn cản được chúng ta.”

    “Nhưng chúng ta mới vừa gặp, và chỉ vì tình cờ thôi.”

    “Các cuộc hôn nhân vẫn luôn được sắp xếp giữa những đối tượng chưa từng gặp mặt.”

    “Nhưng ngài là Công tước Belmore.”

    “Ta biết,” chàng thì thầm vào cái tai ẩm ướt của nàng. “Và nàng là người Scotland.”

    “Nhưng… nhưng…”

    “Nàng có muốn trở thành một nữ công tước?” Giọng nói trầm thấp của chàng thật nhẹ nhàng, thật êm tai.

    Nàng chìm trong những suy nghĩ mơ màng những lời chàng gợi ý.

    “Nữ công tước của ta.”

    Nàng không nói một từ. Môi chàng chuyển động trong những nụ hôn bay bướm.

    “Hửm?” Miệng chàng lướt qua thái dương nàng. “Phải không?”

    “Tôi không chắc.... À, ý tôi là, có... uh, không.”

    “Nàng không có lý lẽ nào.” Miệng chàng lại phủ lên miệng nàng.

    Nàng thở dài.

    “Lấy ta đi, cô gái Scotland.”

    “Tôi là một phù thủy.”

    “Hầu hết phụ nữ đều là một phù thủy ở một thời điểm, lúc này hay lúc khác.”

    “Không. Ngài không hiểu. Tôi là một phù thủy. Một phù thủy thực thụ.”

    “Và ta có thể là một tên khốn thực thụ. Chúng ta sẽ làm quen nhau. Ta không quan tâm nàng nghĩ nàng là người như thế nào. Ta muốn nàng lấy ta.”

    “Chúng ta không thể kết hôn.”

    “Chúng ta có thể. Bây giờ. Hôm nay.”

    “Bây giờ?”

    “Phải, bây giờ.”

    “Ngài không thể chỉ ... kết hôn.”

    “Ta là Công tước Belmore. Ta sẽ làm khi ta thấy phù hợp." Chàng nói với sự thuyết phục đến nỗi làm Joy kinh ngạc. Chàng nhìn xuống nàng, vẻ mặt giãn ra, ánh mắt trống rỗng. “Sẽ không ai đặt câu hỏi về cuộc hôn nhân, bởi vì ta là Công tước Belmore.”

    Nàng không thể phản bác lại lý lẽ đó. Một công tước làm theo ý anh ta muốn.

    “Nàng sẽ sống ở Belmore Park.” Ngón tay cái của chàng vuốt ve quai hàm nàng.

    “Nhưng-”

    “Nàng sẽ có bất cứ điều gì nàng muốn.”

    “Nhưng-”

    “Nàng sẽ thích như vậy, phải không?”

    “Vâng, vâng, nhưng điều này quá nhanh.”

    Ngón tay chàng chạy dọc theo quai hàm nàng thật nhẹ nhàng. Đôi môi chàng phe phẩy trên môi nàng và chàng thì thầm,

    “Lấy ta đi, cô gái Scotland.”

    Đôi mắt nàng nhắm nghiền. Nàng sẽ làm gần như bất cứ điều gì để nghe chàng gọi nàng như vậy lần nữa. Chàng lại hôn nàng. Sau một vài khoảnh khắc dài và dịu dàng, chàng lùi lại. “Như ta đã nói, nàng không có lý lẽ nào.”

    “Các cuộc hôn nhân luôn được lên kế hoạch cẩn thận.”

    Chàng đột nhiên cứng người lại, như thể điều gì đó nàng vừa nói làm chàng tức giận. Quai hàm chàng siết chặt. “Không phải cuộc hôn nhân này,” chàng nói. Ngay sau đó, miệng chàng ép vào miệng nạng, mạnh mẽ, đòi hỏi, nóng bỏng, như thể chàng có thể xoa dịu cơn giận dữ sâu sắc nào đó bằng cách hôn lên tâm trí đang run lẩy bẩy của nàng, điều mà chàng đã làm. Môi chàng cắn vào môi nàng. Hai tay chàng giữ chặt lấy đầu nàng. Chàng là chủ nhân của miệng và các giác quan của nàng và cho nàng nếm thử mùi vị của đam mê là gì.

    Đó là một nụ hôn rất khác biệt so với trước đó. Cái đầu tiên là êm dịu. Cái này thì cứng rắn. Nụ hôn kia thật quyến rũ, kéo dài và đầy sức thuyết phục. Nụ hôn này có sức mạnh, đó là nụ hôn của một công tước - một công tước đang cần chứng minh điều gì đó. Và anh ấy đã. Chàng đã chứng minh chàng có thể khiến Joyous Fiona MacQuarrie quên đi cách nói không.

    ***

    Joy ngồi trước gương trong phòng tiếp đón cho các quí bà và xoắn một lọn tóc lỏng lẻo phía sau vào nút thắt của nó. Nàng nhặt lên một chiếc kẹp tóc và luồn nó lại vào tóc nàng, rồi nghiên cứu hình ảnh phản chiếu của nàng. Nàng cảm thấy như nàng đang mơ mộng. Nhưng đây không phải là một trong những chuyến du ngoạn trong tâm trí tưởng tưởng của nàng. Điều này là sự thực.

    Nàng nâng những ngón tay lên miệng và lướt qua đôi môi sưng tấy. Chàng đã hôn nàng. Thật sự đã hôn nàng. Nàng lần theo những dấu vết màu hồng nhạt trên cằm và má nàng nơi bộ râu mờ mờ của chàng đã cọ vào làn da trắng ngần của nàng. Bộ râu lởm chởm thật thô ráp và gợi cảm. Nàng lại chạm vào môi như thể mong đợi những ý nghĩ của nàng sẽ phai dần đi như hương vị ngọt ngào thoáng qua của đường.

    Nàng chọc vào môi. Phải, chàng đã hôn nàng. Nàng mỉm cười, rồi phá lên một tràng cười khúc khích vừa mới bật ra. Ngài công tước đã hôn nàng. Nàng hít một hơi thật sâu và nhắm mắt, nhớ lại từng cơn ngứa ran, từng cái đụng chạm, từng cảm giác mới lạ của những nụ hôn đó.

    Sau một khoảng khắc vừa dài vừa như chớp mắt, nàng thở dài và đứng dậy, rồi bước đến chiếc ghế bành nơi cái áo choàng lông của nàng vẫn nằm đó. Công tước đã rời đi ngay khi nhận được câu trả lời chàng muốn. Chàng đã nói chàng phải thực hiện một số sắp xếp và họ sẽ kết hôn trong vòng một giờ.

    Kết hôn. Joyous Fiona MacQuarrie kết hôn với một công tước. Nàng tự hỏi một nữ công tước làm những gì và tự hỏi liệu nàng có thể làm tốt việc là một nữ công tước hơn chút nào so với việc làm phép hay không. Nàng có lo lắng một chút, nhưng chẳng biết tại sao đó không phải là điều nàng nghĩ ngợi về nhất.

    Ngài công tước mới là.

    Thật kỳ lạ làm sao một người đàn ông không bao giờ cười lại có thể khiến nàng cảm nhận được những điều nàng không biết có tồn tại. Chàng đã ôm trái tim nàng trong tay chàng. Từ thời điểm nàng nhìn thấy chàng, sợi dây nào đó đã kết nối họ với nhau. Người đàn ông này cần nàng. Chàng cần hy vọng và phép màu của nàng.

    Chàng cần những nụ cười và những nụ hôn. Ai cũng cần những nụ hôn. Và những điều khác dường như không quan trọng, ngay cả cái hiện thực là họ vừa mới gặp, sự khác biệt giữa họ - thực tế rằng chàng là một người bình thường và nàng là một phù thủy – cũng không phải là những bùa chú của nàng hay sự lo nghĩ về tương lai. Điều này có vẻ rất đúng đắn. Một thứ gì đó, một trực giác nào đó, khiến nàng cảm thấy chắc chắn rằng đây là nơi nàng đã định sẵn thuộc về và nàng vô cùng muốn ở đó. Nàng đã nhận được món quà là một cái kết cổ tích. Nó đã được đặt sẵn trong tay nàng, được thắt với những dải ruy băng tươi sáng của tình yêu, sự cần thiết và những ước mơ sẽ thành hiện thực.

    Cánh cửa mở ra chàng anh bước vào. Nàng nhìn một cái vào khuôn mặt cau có của chàng, và một cảm giác nôn nao kinh hãi xuất hiện trong nàng. Với sự buồn bã đến từ cuộc đời ngắn ngủi cùng những nỗi thất vọng, nàng chuẩn bị tinh thần cho điều tồi tệ nhất. Nàng đã biết điều đó quá tốt đẹp để thành sự thật. Không điều tuyệt vời nào đã từng đến với Joy và nó cũng sẽ không xảy ra bây giờ.

    “Chúng ta có một vấn đề.”

    Trái tim nặng trĩu của nàng đang nằm đâu đó gần chân nàng. Nàng đứng dậy, nắm chặt lấy lưng ghế, cố gắng bỏ đi những giọt nước mắt nàng cảm thấy đang bỏng rát đằng sau đôi mắt. “Tôi hiểu,” nàng nói nhỏ hơn một chút so với lời thì thầm.

    “Ba người trong số hàng tấn những kẻ buôn chuyện thèm khát nhất đang đợi bên ngoài cánh cửa đó. Đừng để họ đe dọa nàng. Đừng tự cung cấp bất kỳ thông tin nào. Hãy để ta nói chuyện. Nàng chỉ cần gật đầu và đồng ý với bất cứ điều gì ta nói.” Chàng không chờ đợi câu trả lời, nhưng nàng cho rằng người ta không cần câu trả lời cho một mệnh lệnh của một ngài công tước.

    Chàng nhặt cái áo choàng lông của nàng lên và giữ nó trong khi nàng mặc vào. Rồi chàng đưa cho nàng mũ và găng tay. “Nếu tình hình trở nên quá bất tiện, ta muốn chúng ta có thể nhanh chóng rời đi. Nếu chúng ta phải đợi mục sư, chúng ta sẽ làm như vậy tại nhà thờ.” Joy thở ra nhẹ nhõm. Đám cưới không bị hủy bỏ.

    Rồi nàng mỉm cười, một nụ cười rạng rỡ tuyệt vời mà nàng không thể che giấu được dù đã cố gắng. Chàng ngẩng đầu và tìm tòi khuôn mặt nàng, như thể chàng nhìn thấy điều gì đó ở đó mà chàng không thể hiểu được. Sau một khoảng lặng khó chịu, nụ cười của nàng tắt dần và nàng nhìn sang chỗ khác, phát hiện ra Beezle vẫn đang ngủ say bên đống lửa. Nàng thu hẹp khoảng cách và bế nó lên.

    Tiếng ngáy của anh chàng dừng lại, và nó từ từ tò mò mở ra một con mắt buồn chán, rồi để đầu nó ngã ra sau trên cánh tay nàng để có thể nhìn chằm chằm vào công tước, nhìn chàng bằng cách một tên trộm ranh mãnh nhìn vào một chiếc ví dày cộp. Công tước quắc mắt và đáp trả cái nhìn hung dữ của con vật. Joy nâng Beezle lên vai và nó bò dậy, ổn định ở vị trí yêu thích của nó, nhưng thay vì chìm vào giấc ngủ, nó kéo những chiếc kẹp tóc ra khỏi búi tóc của nàng.

    “Beezle! Không!” Nàng cố gắng nắm lấy những chiếc kẹp tóc, nhưng nàng không đủ nhanh. Tóc nàng xõa xuống lưng, vượt qua eo và thả xuống phía sau đùi nàng. Nàng nghe thấy công tước thở gấp. Có lẽ là vì bực bội, nàng nghĩ. Nàng kéo con chồn ra khỏi vai và đặt nó vào ghế.

    Nàng tìm lại những chiếc kẹp tóc và đứng thẳng dậy, giữ lấy một nắm tóc và xoắn thành cuộn quanh bàn tay. “Thỉnh thoảng nó làm vậy. Nó thích nghịch tóc, xoắn nó, tết tóc và nhai nó. Điều này sẽ khiến tôi mất vài phút.”

    Nàng bước tới cái bàn trang điểm nhỏ và ngồi trên ghế dài, nhìn trong gương khi nàng chia một nắm tóc và xoắn vòng quanh tay trước khi kẹp nó ở cổ. Nàng đang cúi xuống, cố gắng quấn lấy phần tóc xa nhất phía sau lưng khi nàng cảm thấy công tước đang đứng phía sau quan sát nàng. Chàng dường như bị thu hút bởi những gì nàng đang làm.

    “Tóc tôi dài kinh khủng và tốn rất nhiều thời gian. Tôi...”

    “Nó thật đáng yêu.” Chàng đưa tay ra và nâng một sợi tóc lên, cọ qua các ngón tay tay như thể trước đây chàng chưa từng sờ lên mái tóc.

    “Ngài vui lòng đưa cho tôi nắm tóc cuối cùng được không, phần tóc ở phía sau ấy?” Nàng giơ tay ra, nhưng chàng không nhúc nhích. Cứ như chàng hoàn toàn không nghe thấy nàng nói gì. Nàng chờ đợi, quan sát chàng và cố gắng đọc biểu cảm của chàng. Chàng tiếp tục vuốt tóc nàng. Âm thanh duy nhất trong căn phòng là tiếng nổ lốp bốp và lách tách của củi khô trong lò sưởi. Mùi gỗ sồi cháy và mùi nước hoa cũ của những người phụ nữ đã ngồi ở đây trước nàng được trộn lẫn với mùi hương của người đàn ông này, người mà nàng đã rất hòa hợp. Sau một phút, chàng nhìn lên và bắt gặp ánh mắt của nàng trong tấm gương. Chàng có vẻ không thoải mái, rất không thoải mái.

    “Đây.” Chàng đưa nắm tóc cho nàng rồi quay đi, bước đến đứng bên cánh cửa và chờ đợi.

    Joy cài lên cái kẹp cuối cùng, đứng dậy và quay trở lại cái ghế. Nàng đội mũ lên, buộc những dải ruy băng dưới cằm khi nghiêng người sang bên phải để có thể bắt gặp hình ảnh phản chiếu của chàng trong gương. Chàng vừa khuất bóng.

    Nàng giật mạnh những dải ruy băng để tạo thành một chiếc nơ bướm lệch và vỗ nhanh lên đỉnh của cái mũ, ngắm chiếc lông vũ rủ xuống như một cành cây gãy. Cái mũ thật lộn xộn, nhưng nó sẽ ngăn Beezle không gỡ tung tóc nàng ra nữa. Nàng bế con chồn đang ngáy của mình lên, quàng nó quanh cổ nàng và đi theo ngài công tước.

    Chàng quay lưng về phía nàng, hai tay chắp sau lưng trong khi đung đưa gót chân và nhìn chằm chằm vào hư không.

    “Tôi sẵn sàng rồi.”

    Chàng quay lại nhưng không nhìn vào mắt nàng, chỉ đưa tay ra và sau một chút do dự, siết chặt khuỷu tay nàng và mở cửa.

    Một người phụ nữ tóc đỏ ăn vận sang trọng suýt ngã qua ngưỡng cửa. Hai người phụ nữ phía sau nắm lấy chiếc váy màu xanh hồ trăn của bà ta bằng cả hai tay để giữ bà đứng vững. Một giây xô đẩy, tiếng váy lụa sột soạt, rồi cả ba người tràn vào căn phòng như một bầy ngỗng sặc sỡ.

    “Ôi! Đức ông!” Người phụ nữ thực hiện một nỗ lực to lớn là chải chuốt lại chiếc váy gấm thêu của mình thay vì nhìn công tước. “Căn phòng kinh khủng ngoài kia quá ngột ngạt. Tôi quá kiệt sức với sự ốm yếu nên tựa vào cửa để chống đỡ. Đức ông đã làm tôi giật mình.”

    “Đức ông đã bắt gặp bà đang cố quở mắng,” chàng nói lẩm bẩm.

    Joy ngước lên nhìn chàng, nén lại một nụ cười. Đức ngài đã nói đùa. Nàng mong đợi nhìn thấy một chút thích thú trên khuôn mặt chàng. Nàng đã sai. Chàng trao cho người phụ nữ cái nhìn chằm chằm của ngài công tước, nhưng bà dường như hoàn toàn không để ý về nó và lời bình luận của chàng. Bà ta đang nhìn chằm chằm vào Joy và trông rất bàng hoàng.

    Người phụ nữ nhanh chóng vượt qua cú sốc và quả quyết bước sang ngang để dò xét Joy từ đỉnh đầu đến chân. Joy ngay lập tức biết rằng người phụ nữ tóc đỏ này, chỉ với một cái nhìn ngắn, có thể đo cân nặng, chiều cao và cỡ giày của nàng, và nó tốn ít thời gian hơn là một cái ấm nước cần để reo.

    “À, Đức ông, tôi không tin là tôi đã gặp người...”

    “Hôn thê,” chàng cắt ngang, phớt lờ hơi thở gấp gáp của người phụ nữ. "Quý bà Agnes Voorhees, Quý bà Eugenia Wentworth, và Bà Claire Timmons, tôi xin được giới thiệu Tiểu thư Joyous MacQuarrie."

    “Một Scot!” Quý bà Agnes thở hổn hển, ôm chặt cổ họng như thể bà chờ đợi Joy sẽ mọc ra cái đầu thứ hai. Nếu đó không phải vì ngài công tước, Joy có lẽ đã cố gắng hình dung đây là một người phụ nữ thô lỗ.

    Quý bà Agnes lùi lại, và hai người bạn đồng hành của bà cũng lùi lại, khuôn mặt họ lộ rõ vẻ khiếp sợ đáng khinh.

    Joy quan sát họ, tự hỏi họ sẽ phản ứng thế nào nếu biết nàng là một phù thủy Scotland. Cô nhìn vào cái mũi của người phụ nữ tóc đỏ đang hếch lên để có thể nhìn xuống nàng.

    Một mụn cơm, Joy nghĩ. Có lẽ nàng có thể cho bà ta một cái mụn cơm nhỏ.

    Trước khi nàng có thể hình dung ra hình ảnh ấy trong óc tưởng tượng, công tước đã vòng tay nàng qua cánh tay chàng và đặt một bàn tay mát lạnh lên trên tay nàng. “Nếu bà thứ lỗi cho chúng tôi, thưa bà, chúng tôi có một đám cưới để tham dự.”

    Và chàng đưa Joy bước qua ngưỡng cửa, ngừng lại giữa hai người bạn đồng hành của người phụ nữ, họ vội dạt sang bên cạnh như thể đụng phải bệnh dịch. Chàng đứng cao hơn hai cái đầu so với bất kỳ người nào trong số ba người phụ nữ này, và chàng ưỡn vai lên và nhìn xuống Joy. “Chẳng phải đáng tiếc sao, em yêu, khi ông bà của em, ngài bá tước và nữ bá tước đã không thể có mặt ở đây.”

    Joy nghe thấy Lady Agnes thở gấp sau lưng nàng. Nàng kìm nén mong muốn mỉm cười và trước khi cô có thể mạo hiểm nhìn trộm người phụ nữ, ngài công tước đã dẫn nàng đi, vẻ hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt của chàng. Nàng ngước nhìn chàng khi họ băng ngang quán trọ. Chàng đang nhìn thẳng về phía trước, quai hàm cứng rắn với sự kiêu hãnh của một công tước, tay chàng vẫn ở trên tay nàng, như thể để cung cấp một chút tự tin và bảo vệ. Ngay tại lúc đó, Joy cảm thấy vị công tước đẹp trai của nàng cao lớn thêm một bước chân.
     
  11. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 7

    Nhà nguyện nhỏ bằng đá nâu với đỉnh chóp màu trắng nhọn và cao nằm ở rìa phía Bắc của làng Cropsey, nơi có một con suối nhỏ uốn lượn ngang qua một rừng cây nhỏ màu xám đậm bao gồm những cây liễu và cây sồi xương xẩu. Bao quanh con đường rộng rãi dẫn đến cánh cửa nhà thờ hình vòm là một bức tường bằng đá nâu cùng màu dày đặc cây thường xuân phủ đầy sương giá, nơi mà chỉ vài phút trước đó một nhóm nhỏ những người tới tham gia lễ cưới vừa đi qua, không hề chú ý tới không khí lạnh buốt khi họ đang vội vã bắt đầu một đám cưới ngẫu hứng.

    Cũng làn sương giá ấy vẫn vây lấy bãi cỏ xung quanh, cây cối và mái nhà thờ. Nhưng ở bên trong, qua những ô cửa sổ kính màu và những cái ghế dài bằng gỗ cây óc chó, qua những cái chân đèn treo tường mạ vàng, tấm đá cẩm thạch trắng và bình nước thánh dùng để rửa tội làm bằng đồng thau đặt gần bục giảng bằng gỗ gụ, màn sương giá duy nhất trong căn phòng lại nằm trong đôi mắt xanh lạnh lùng của chú rể khi chàng quay lại và nhìn thấy những vị khách không mời trong đám cưới.

    Họ bước vào nhà thờ ngay khi mục sư bắt đầu buổi lễ, cứ luyên thuyên như những chú chim ác là. Họ yên vị ở hàng ghế trước, và vị mục sư phải cất cao giọng để có thể át được tiếng lải nhải của Quý bà Agnes. Đến thời điểm những kẻ đột nhập đã im lặng, cô dâu và chú rể đang lặp lại lời thề của họ.

    Công tước trượt chiếc nhẫn khắc dấu của chàng vào ngón tay Joy, rồi nắm chặt tay nàng để chiếc nhẫn không bị rơi ra. Nàng quan sát khuôn mặt chàng, nhưng vẻ mặt chàng không để lộ chút cảm xúc nào. Khuôn mặt đầy suy đoán và đỏ ửng vì rượu của ngài bá tước nhìn đăm đăm vào nàng từ phía tay phải của công tước. Nàng đã bắt gặp Downe quan sát nàng hơn một lần từ khi công tước gọi bạn bè của chàng vào phòng nghỉ để thông báo rằng nàng sẽ trở thành nữ công tước của chàng, rằng hôn lễ sẽ diễn ra sau một giờ và họ sẽ làm nhân chứng.

    “Những gì Chúa đã kết hợp với nhau, không ai có thể phá vỡ.”

    Tiếng nức nở sánh ngang với nhân vật Quí bà Macbeth của Sarah Siddons vang lên từ phía sau họ. Bờ vai của công tước cứng lại và quai hàm của chàng siết chặt. Joy không thể ngăn mình lại. Nàng tò mò liếc trộm qua vai mình vào đám khách tham dự ở hàng ghế đầu.

    Quý bà Agnes đang thút thít trong chiếc khăn tay ren khi chồng bà – người trông có vẻ đang gặp nhiều khó khăn - cố gắng vỗ về bờ vai đang phập phồng của bà để an ủi nhưng chẳng thành công. Phía bên kia là hai người bạn của bà ta - Bà Timmons, người có đặc điểm đáng nhớ nhất là làn da hồng hào như bột yến mạch, và Quí bà Eugenia, một người phụ nữ tóc đen nhỏ bé đến mức thoạt nhìn người ta sẽ nghĩ rằng bà là một đứa trẻ.

    Cả hai người phụ nữ đều nhìn chòng chọc vào Joy như để ghi nhớ từng đặc điểm của nàng. Nàng đột nhiên cảm thấy mình như một tiêu bản bướm bị ghim vào tấm ván, nhưng nàng không có thời gian lo nghĩ vì công tước đã siết chặt tay nàng đủ để thu hút sự chú ý của nàng. Nàng quay lại ngay khi mục sư đã chúc mừng công tước và sau đó quay sang nàng.

    “Chúc người những điều tốt đẹp nhất, thưa Đức ngài.”

    Joy đợi chồng nàng trả lời. Sau một hồi im lặng, nàng ngước lên nhìn chàng. Chàng gật đầu về phía mục sư, người đang nhìn nàng mong đợi. Công tước choàng tay qua người nàng và cúi xuống. “Scottish?”

    Âm thanh thân mật của cái tên đó thầm thì với nàng khiến máu nàng biến thành mật ong ấm áp. Nàng ngước lên chàng.

    “Ông ấy đang nói chuyện với nàng. Bây giờ nàng đã là một nữ công tước.”

    Cảm thấy mặt mình đỏ bừng, nàng dời mắt đi và lầm bầm, “Cảm ơn.”

    “Ôi! Thật là một ngày đáng yêu!” Quý bà Agnes chen qua ngài tử tước để đứng cách Joy với khoảng cách chỉ dài bằng một cái mũi. “Thật đáng tiếc gia đình cô không thể ở đây.” Bà ta vẫy chiếc khăn tay của mình trước mặt Joy rồi ngả người gần hơn nữa, khuôn mặt của bà ta ngay lập tức trở nên dữ dội. “Họ là ai vậy, cô gái thân mến?”

    “Đức bà,” công tước chỉnh lại lời bà ta, giọng chàng lạnh lẽo và cứng rắn, cánh tay chàng ôm lấy Joy một cách bảo vệ.

    Đến lượt Quí bà Agnes phải lùi lại. Joy chắc hẳn bất cứ ai khác sẽ bỏ chạy khỏi nhà thờ trong sự sợ hãi quỷ dữ khi nghe giọng điệu lạnh lùng đó. Quý bà Agnes lớn mật hơn thế.

    “Sao chứ - sao chứ, tất nhiên rồi. Thứ lỗi cho tôi, thưa Đức bà. Tôi biết một đám cưới có thể rối trí như thế nào, phải không, Henry thân mến? Tôi đã gả đi ba cô con gái.”

    “Đã mua chồng cho họ,” Bá tước Downe nói với Tử tước Seymour bằng một tiếng thì thầm ồn ào.

    Quý bà Agnes không nghe thấy anh ta vì bà ta vẫn còn đang lải nhải. “Và chính tôi cũng đã kết hôn cách đây không lâu.”

    “Ít nhất là bốn mươi năm,” Downe lẩm bẩm.

    “Tất nhiên gia đình tôi đã tham dự buổi lễ, và mẹ tôi...”

    “Con rồng,” bá tước nói dưới hơi rượu nồng nặc.

    “Bà ấy đã tìm cách xoa dịu sự lo lắng của tôi, mặt khác, mẹ của cô không ở đây, phải không, cô – Đức bà?”

    Ngài Henry hẳn đã nhìn thấy ánh mắt của công tước chuyển sang chết chóc như một tên lính đột kích, bởi vì ông ta giật mạnh cánh tay của vợ mình và hai người bạn của bà ta bắt đầu bước lùi xuống lối đi.

    “Đám cưới này là sự kiện riêng tư. Mọi người có thể rời đi bằng những cánh cửa đó.” Công tước gật đầu ra hiệu về phía lối vào nhà thờ.

    “Chà, tôi khô...”

    “Đã đến lúc rời đi rồi, em yêu.” Henry giữ một tay lên miệng bà vợ và kéo bà xuống lối đi, tiếng lẩm bẩm phẫn nộ của bà bị bóp nghẹt bởi bàn tay ông.

    Chỉ khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng họ, công tước mới quay lại với Joy. Cái nhìn của chàng dịu đi một chút. “Chúng ta cần phải ký vào sổ đăng ký. Sau đó, ta hứa chúng ta sẽ rời đi càng nhanh càng tốt.”

    “Đức ông?”

    “Alec”

    “Alec,” nàng lặp lại, âm thanh của tên chàng đang làm những điều kỳ quặc trong lòng nàng. “Đây này.” Nàng trả lại cho chàng chiếc nhẫn. “Em sợ em sẽ làm mất cái này.”

    Chàng nhìn chằm chằm vào bàn tay đang xòe ra của nàng; chiếc nhẫn của chàng lớn đến nỗi nó chiếm một phần lớn lòng bàn tay nàng.

    Chàng cầm lấy nó và trượt vào ngón tay chàng. “Ta sẽ lo liệu một chiếc nhẫn khác sớm nhất có thể.”

    “Em không cần một cái nhẫn nếu—”

    “Nàng là Nữ công tước Belmore. Nàng sẽ đeo một chiếc nhẫn phù hợp với địa vị của mình.” chàng nắm lấy khuỷu tay nàng và dẫn nàng về phía bệ thờ. Nàng đã hy vọng chàng sẽ trao cho nàng một chiếc nhẫn; nó sẽ là một lời nhắc nhở rằng đây không phải là một giấc mơ. Một chiếc nhẫn là điều có thật, một thứ nàng có thể chạm lấy và cầm nắm, một thứ sẽ thể hiện cho thế giới thấy họ đã kết hôn.

    Họ bước lên các bậc thang đi đến bệ thờ và hướng về phía bên phải, gần bục giảng, nơi một giáo sĩ đang cầm bút và mực đứng đó. Ông ta viết gì đó, sau đó quay cuốn sách da bê về phía họ. Joy nhìn chằm chằm vào đoạn văn được ghi:


    Đức ngài, Alec Gerald David John James Mark Castlemaine, Công tước Belmore, của Giáo xứ Belmore, và Joyous Fiona MacQuarrie của Dervaig, Scotland, một người theo đạo Tin lành, đã kết hôn tại Nhà nguyện Cropsey bằng giấy phép vào hôm nay, ngày 30 tháng 12 trong năm

    1813

    Bởi tôi, mục sư Jonathan Potsworth.

    Cuộc hôn nhân này đã được cử hành giữa chúng tôi:


    Vị mục sư đưa cây bút cho công tước. Chàng ký tên vào sổ đăng ký, sau đó nhúng bút vào mực và đưa cho Joy. Tay nàng đang run rẩy như cành bạch dương trước gió. Nàng gần như bị xúi giục nắm lấy cổ tay bằng tay còn lại để nàng có thể ký tên một cách dễ dàng. Nàng hít một hơi thật sâu và ký tên của mình. Sau đó chồng nàng đưa bút cho những người bạn để ký tên chứng nhận. Ngài tử tước đã ký tên và quay sang chúc mừng công tước và lịch sự chúc Joy những điều tốt đẹp nhất. Nàng thích người đàn ông này. Dù hay lo lắng và bồn chồn, anh ta có đôi mắt nhân hậu và nụ cười chân thành.

    “Đức bà, xin hãy gọi tôi là Neil. Tôi chắc chắn chúng ta sẽ nhanh chóng trở thành bạn.”

    “Cảm ơn ngài, thưa ngài. Neil thì ổn thôi, nhưng ngài phải gọi tôi là Joy.”

    “Đó chắc hẳn là một cái tên do các vị thần lựa chọn, và rất thích hợp.” Anh hôn tay nàng và mỉm cười.

    Trong khi đó, bá tước đang lắc lư bên trên cuốn sách. “Giữ cái thứ chết tiệt này lại, Seymour.”

    Cả ba quay lại và nhìn vào bá tước. Nàng đã nghĩ đó là điều không thể, nhưng bây giờ anh ta thậm chí còn say hơn cả lúc trước. Neil nắm lấy vai ông bạn và giữ anh ta cố định, cẩn thận không tạo áp lực lên cánh tay đeo băng. Ngài bá tước đặt cái địu tay trên bục đăng ký và quẹt lên chữ viết nguệch ngoạc do say xỉn qua nửa trang giấy, nghiêng sang một bên.

    Anh ta duỗi thẳng lưng, lảo đảo một chút, rồi trao cho nàng một cái liếc mắt đểu cáng dâm dục trong khi hơi lắc lư.

    “Tôi là Richard, và tôi muốn hôn nhiều hơn tay của cô.”

    Cánh tay của Alec cứng lại và nàng nhìn xuống tay chàng. Nó nắm lại trắng bệch. Nàng nhìn lên. Mặt chàng không thay đổi, không có vẻ là quan tâm nhỏ nhất nào. Cái nắm tay của chàng nói với nàng rằng khuôn mặt chàng đã nói dối.

    Một giây sau, đôi mắt của Richard trợn ngược và anh ta ngã vào một cái cột. Thứ duy nhất giữ anh ta đứng thẳng là ngài tử tước.

    “Tốt nhất hãy đưa anh ta vào phòng trước khi anh ta ngất đi. Không ổn lắm, ngất đi trong một nhà thờ.” Anh kéo mạnh cánh tay lành lặn của bá tước.

    “Cần một ly.” Richard lục tung cái áo khoác với bàn tay lành lặn của mình. “Brandy của tôi đâu?”

    “Hết rồi.” Neil dìu anh ta đi vài bước đến cửa hông.

    “Đợi đã.” Richard chôn gót chân xuống thảm. “Belmore không thể bỏ rơi chúng ta ở đây.” Anh ta kéo cánh tay của mình ra khỏi nắm tay của Neil và quay lại, nở một nụ cười xấc xược với họ. “Mọi người sẽ nghĩ gì?”

    “Cậu ấy đã sắp xếp để thuê ngựa của Hobson,” Neil nói với anh ta. “Chúng ta sẽ cưỡi ngựa trở lại London vào buổi sáng.” Anh quay sang Joy. “Chúc cô có một chuyến du lịch trăng mật vui vẻ, Đức bà. Đây là định mệnh, cô biết đấy. Số phận đã chọn cô và bây giờ mọi thứ đều ổn.” Anh nhìn vào công tước. “Ngay cả khi cậu Belmore đây từ chối tin vào điều đó.”

    “Tôi cần một ly rượu!”

    “Kiềm chế lại đi, Downe. Vì Chúa, cậu đang ở trong một nhà thờ đấy.”

    “Tôi không tin vào Chúa. Điều tốt duy nhất mà ông ta từng tạo ra là brandy!” Anh ta hất cánh tay ra khỏi tử tước.

    Neil nắm lấy anh ta một lần nữa và giúp anh bước ra khỏi nhà thờ.

    “Anh ta vẫn luôn như vậy sao?” Joy hỏi.

    Alec nhìn nàng, rồi lại nhìn ra cửa. “Gần đây thôi. Cậu ta vốn không như vậy. Con người sẽ thay đổi.” Chàng nắm lấy cánh tay nàng. “Xe ngựa đang đợi.”

    “Chờ đã, làm ơn. Beezle đâu rồi?” Joy nhìn xung quanh, luống cuống.

    “Henson giữ nó.”

    “Người hầu của ngài?”

    “Người hầu của chúng ta.”

    Họ bước qua các cánh cửa và đến thẳng chiếc xe ngựa, nơi Henson ngay lập tức mở cửa và kéo xuống bậc thềm xe ngựa. Beezle bám vào lưng anh ta và đang vui vẻ nhai cái đuôi sam của anh người hầu.

    “Đức bà,” anh ta nói, cúi chào như thể bị một con chồn ecmin bám lấy như một con đỉa là chuyện hoàn toàn bình thường đối với anh ta.

    Joy kéo Beezle ra khỏi lưng anh. “Cảm ơn anh, Henson, vì đã chăm sóc nó.”

    “Tất nhiên rồi, thưa Đức bà.”

    Joy liếc nhìn anh người hầu. Tóc anh ta xõa tung bên ngoài dải ruy băng đã buộc chặt đuôi sam của anh lúc trước. Nàng nhìn hầu cận của mình. Cậu chàng đang ngủ trong vòng tay nàng, ngủ một cách vô tội. Joy xua ý nghĩ đó đi, biết rằng hầu cận của nàng bị quyến rũ bởi tóc như thế nào, và để người hầu giúp nàng bước vào trong. Chồng nàng quát lên vài mệnh lệnh trong khi nàng đặt Beezle và mình vào chỗ ngồi. Công tước gia nhập với họ, và vài phút sau họ rời đi.

    ***

    Sau bốn giờ đồng hồ dài và tương đối im lặng, cỗ xe chậm lại và đổi hướng, rồi đi nước kiệu qua một cánh cổng được canh gác và băng xuống một con đường dài bao bọc bởi những cây du cổ thụ đồ sộ và những cây được cắt tỉa hai bên. Joy quan sát với sự tò mò im lặng khi họ vượt qua hết cái cây to lớn này đến cái cây khổng lồ khác.

    Nàng đã nghiên cứu chồng nàng trong một giờ lặng yên vừa rồi, không dám hỏi lại xem họ đã gần đến nơi hay chưa - chàng có vẻ cáu kỉnh sau lần thứ sáu - và tự hỏi họ đã ở gần Belmore Park đến mức nào. Trước sự vui mừng của nàng, chàng đã tình nguyện cung cấp thông tin khi họ đi qua ngôi làng nhỏ cổ kính cuối cùng. Belmore Park nằm ngay bên ngoài ngôi làng này, chàng đã nói vậy.

    Nàng tỳ mũi vào cửa sổ lạnh lẽo để ngắm nhìn những ngôi nhà gỗ và những ngôi nhà tranh mái cao mộc mạc lướt qua. Nàng thoáng thấy một dòng suối nhỏ được viền quanh với những cây phỉ. Họ đã chạy nước kiệu qua một nhà thờ màu trắng cao lớn nằm trên một ngọn đồi với một cây táo gai xòe rộng mọc gần đó. Khói đen bốc lên bầu trời mùa đông từ một lò rèn đang mở cửa, nơi một cỗ xe cổ xưa cồng kềnh trông hư nát đang đứng sau bức tường cũ kỹ và nhuốm màu mưa nắng. Những con chó trong làng đã sủa một bài diễn thuyết ồn ào và không dứt khi họ băng qua bãi cỏ xanh của ngôi làng, nơi một đám trẻ con đã ngừng chơi đùa để chỉ trỏ và nhìn chằm chằm vào chiếc xe ngựa với vẻ kinh ngạc.

    Đã gần một giờ đồng hồ kể từ lúc họ bỏ lại đám trẻ trong làng để chúng quay lại trò chơi bịt mắt bắt dê ở bãi đất chung và mỗi phút kể từ đó dường như là dài vô tận, nhất là khi nàng vô cùng háo hức muốn nhìn thấy ngôi nhà mới của mình.

    Vẫn nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, nàng phát hiện một thứ có vẻ là hồ nước trong vắt ở phía sau đường viền cao lớn của những cây cắt tỉa. Nàng quay đầu lại, muốn được nhìn rõ hơn, nhưng chiếc xe ngựa đã đi qua một bức tường thấp, rồi rẽ qua một cổng sắt nhỏ hơn được trang trí bằng gia huy công tước. Sau một nhịp tim đập, một ngôi nhà to lớn hiện ra trước đôi mắt đang trố ra của nàng.

    Họ dừng lại trước một lối vào có cột cao với các bậc thang xây bằng đá vôi màu kem và những hàng lan can bằng đá chạm khắc dày dặn tỏa ra bên ngoài các bậc thang như những cánh tay chào đón. Có một cái bóng dao động nhanh chóng của ai đó trong những cửa nhỏ4 bằng kính vát đóng khung lấy những cánh cửa bằng gỗ óc chó bóng loáng khổng lồ. Chúng mở ra và một loạt người hầu mặc chế phục vàng và xanh lá chạy xuống các bậc thang.

    Tương xứng với những nghi thức và vẻ phô trương được trao cho một ông vua chinh phục, nàng nghĩ, khi ngắm nhìn người hầu xếp hàng như những người lính canh ở hai bên bậc thềm. Joy chờ đợi họ phát ra tiếng kèn bất cứ lúc nào. Thay vào đó, cánh cửa xe ngựa mở ra và chồng nàng, chủ nhân của trang viên, bước xuống, rồi quay lại giúp nàng đi xuống. Nàng đặt tay vào tay chàng và khựng lại. Chỉ cần một cái chạm của tay chàng cũng có thể khiến trái tim nàng rung động.

    “Đây là nhà của chúng ta, Belmore Park.” Có sự tự hào trong giọng nói của chàng, thứ cảm xúc đầu tiên nàng cảm nhận được mà chàng không cố gắng che giấu.

    Nàng ngước lên nhìn và miệng nàng há ra. Hết sức khiếp sợ, nàng ngả đầu ra sau để thu lấy hết vẻ lộng lẫy nguy nga của ngôi nhà mới của nàng.

    Nó cao ba tầng và hoàn toàn được làm bằng đá màu trắng xám nhạt cùng với có lẽ là gần một trăm cửa sổ kính màu được gắn với trụ bổ tường5. Lâu đài Duart cũng có kính, nhưng không có gì giống thế này và các cửa sổ của lâu đài thì nhỏ, chỉ lớn hơn một chút so với những lỗ châu mai cũ kỹ trong phòng tháp nơi nàng đã sống. Tấm kính ở đó dày, sần sùi, được che phủ bởi bằng muối từ biển, cũng mộc mạc và cổ kính như chính tòa lâu đài. Nhưng nơi đây có nhiều tấm kính màu trong như pha lê đến mức thoạt nhìn các cửa sổ trông giống như những viên kim cương được đính trên nền đá trắng xám nhạt. Nàng tự hỏi rằng ngôi nhà này sẽ trông như thế nào vào mùa xuân, với ánh mặt trời chiếu rọi trên tất cả những tấm kính đó. Đó sẽ gần như là một phép màu - hàng ngàn ngôi sao lấp lánh dưới ánh sáng ban ngày.

    “Điều này thật... kỳ diệu.” Đôi mắt háo hức của cô quét qua mặt tiền và bốn góc tòa nhà ba tầng rất nổi bật, tạo ấn tượng về chiều sâu.

    “Nó được xây dựng bởi Sir John Thynne, sau khi ngôi nhà ban đầu bị thiêu rụi. Nàng có thấy hàng lan can dọc mái nhà không?”

    Joy nhìn theo hướng tay chàng lên đường bao mái của ngôi nhà, nơi có hàng lan can trang trí bao lấy phần mái bằng.

    “Và những kiến trúc hình vòm và ống khói?”

    Đôi mắt nàng bị thu hút bởi những mái vòm hình lọ tiêu, những con thú trên huy hiệu, những ống khói và đường trang trí kỳ lạ tạo nên hình ảnh kỳ lạ của một quả cầu bằng sắt nhảy múa ngang qua đường chân trời. Nàng đếm được mười bốn ống khói được thiết kế công phu với các tháp trang trí cùng những con thú chạm khắc đang nghênh ngang phía trên chúng. Mười bốn cái có thể nhìn thấy chỉ từ phía trước!

    “Những kiến trúc với mái vòm đó là những phòng tiệc nhỏ có thể sử dụng cho các bữa tiệc tối.”

    “Tiệc tối sao? Trên mái nhà?”

    “Quang cảnh trông khá thú vị.”

    Chết lặng, nàng chỉ biết nhìn chàng chằm chằm. Một giây sau, nàng nhìn lên mái nhà. Khá thú vị? Nàng sẽ đánh cuộc rằng nàng có thể nhìn rõ Scotland từ mái nhà đó.

    Chàng dẫn nàng lên các bậc thang, vượt qua những người hầu cứng đơ đang xếp hàng, và bước vào lối đi. Dạ dày của nàng thắt lại trước quang cảnh chào đón ngàng. Ánh nhìn kinh ngạc của nàng dõi theo sàn nhà lát đá cẩm thạch hình bàn cờ đến cầu thang, rồi đi lên và đến một hành lang với lan can bằng đồng được gia công tinh xảo. Những cây cột trát thạch cao trang trí vươn cao… cao nữa và lên đến lên đến trần nhà có tranh vẽ được bao quanh bởi nhiều tác phẩm thạch cao nữa và các cửa sổ kính cao.

    “Nó đã được vẽ.”

    “Hửm?”

    “Mái vòm trên trần. Nó trông giống như một bức tranh sơn dầu.”

    Công tước nhìn theo tầm mắt nàng. “Ồ, cái đó à? Đó là một bức tranh tường. Louis Laguerre đã vẽ chúng. Chúng là những cảnh tượng trong cuộc đời của Julius Caesar.”

    “Ồ, cái đó à?” Chàng đã nói vậy. Như trong “Ồ, cái thứ đồ cũ đó à?”

    “Gia nhân đang đợi.”

    Nàng quay lại và nhìn về sau lưng, hướng về phía trung tâm của đại sảnh, nơi một lượng lớn người hầu - gần một trăm người, nàng phỏng đoán – đã chờ đợi để tỏ lòng tôn kính với chủ nhân, người chồng mới toanh của nàng. Hốt hoảng, nàng nhìn sang chàng. Chàng dường như hoàn toàn không để ý tới việc chàng đang đưa nàng đến gặp một trăm con người.

    Nàng, người thậm chí không thể nhớ một câu thần chú, được mong đợi sẽ nhớ tên của họ? Lần này nàng đã đẩy mình vào sự điên rồ đến vậy - mà thậm chí không cần sử dụng phép thuật của nàng. “Ôi, Chúa ơi,” nàng thì thào.

    Chàng dừng lại và nhìn nàng, vẻ mặt khó hiểu. “Có chuyện gì sao?”

    “Làm thế nào em nhớ hết được tên của họ?”

    “Tên của họ?” Chàng nhìn lướt qua dòng người vô tận. “Họ là những người hầu. Họ được thuê bởi ta. Nàng không cần biết tên của họ.”

    “Tất nhiên em cần.”

    “Tại sao?”

    “Họ là con người.”

    “Tất nhiên họ là con người, nhưng trước hết họ là người hầu.”

    “Ồ, em hiểu,” nàng nói, mặc dù nàng hoàn toàn không hiểu chút nào. Có vẻ thật vô tâm khi nghĩ họ là người hầu thay vì con người. Nàng thay đổi chiến thuật, hy vọng chàng sẽ thấy được quan điểm của nàng. “Họ đã là người hầu ở đây từ lúc mới sinh?”

    “Trên thực tế, một số người trong số đó là vây. Được làm việc cho Công tước Belmore là một vinh dự. Họ nhận lương cao và được coi trọng khi nói rằng họ làm việc tại Belmore.”

    “Em phải nói gì nếu em cần nói chuyện với một trong số họ? Hallo, anh? Người hầu?” Rồi nàng không thể không lẩm bẩm, “Nô lệ?”

    “Đừng có lố bịch,” chàng cáu kỉnh. “Chỉ cần hỏi tên của họ và nói họ phải làm gì.”

    Nàng hít một hơi thật sâu và cắn môi. Bây giờ nàng đã đi hơi xa và chọc giận chàng. Nàng thở dài và đi theo người chồng cứng rắn của nàng về phía đầu tiên của hàng người. Khi vẫn ở khoảng cách không bị nghe thấy, nàng nắm lấy cánh tay chàng. “Alec?”

    “Chuyện gì?”

    “Có phải một phần nhiệm vụ của em như một nữ công tước... ý em là, em có phải quản lý toàn bộ ngôi nhà này không?”

    “Có một nữ quản gia, bà Watley. Bà ấy và quản gia Townsend, quản lý người hầu trong nhà.”

    Tiếng thở phào nhẹ nhõm của Joy lớn đến nỗi nó có thể vang vọng trên những bức bích họa về Julius Caesar.

    “Đi nào, nàng sẽ gặp Watley và Townsend trước. Họ đang ở vị trí danh dự ở đầu hàng.”

    Sự nhẹ nhõm của nàng thật ngắn ngủi. Có một tiêu chuẩn cứng nhắc dành cho cuộc gặp mặt này và Joy chắc chắn rằng đó là một nghi thức được thực hiện từ thế hệ này sang thế hệ khác.

    “Ta vinh dự được giới thiệu vợ của ta, Nữ công tước xứ Belmore. Đây là bà Watley.” Bà Watley trông như thể cần một ít mận khô. Vai của bà thẳng tắp. Môi cô bà trở nên mỏng hơn, một kỳ tích mà Joy đã đánh cược là không thể, và bà nhìn xuống vị nữ công tước mới toanh - bà ấy cao ít nhất sáu feet - như thể bà thấy nàng thiếu sót nghiêm trọng.

    “Và Townsend.”

    Người quản gia trông giống như một quí tộc - có lẽ là một bá tước hoặc một hầu tước. Ông ta có mái tóc bạc nổi bật và những đường nét quí tộc, mặc quần áo sẫm màu và áo sơ mi trắng tinh, trông bảnh bao như thể ông đã mặc quần áo với sự giúp đỡ của một người hầu phòng lão luyện. Ông gật đầu một cái, đôi mắt nâu của ông chỉ bắt gặp nàng trong chốc lát trước khi ông quay cái nhìn chằm chằm vào nơi nào đó qua vai phải của nàng.

    Chậm rãi, họ đi dọc theo hàng, với người quản gia hoặc nữ quản gia giới thiệu từng người hầu với vị nữ công tước mới của Belmore. Joy cố gắng tìm ra một số điểm đặc trưng ở mỗi người để giúp nàng nhớ người đó là ai. Người duy nhất nàng biết mình sẽ nhớ là một cô gái trẻ, thấp, tóc đen tên là Polly, người có nụ cười vui vẻ và thân thiện nhất trong số đó. Cô ấy và người đầu bếp là những người duy nhất đã mạo hiểm với thứ gì đó giống như một nụ cười.

    “Bà Watley sẽ đưa nàng về phòng của nàng, nơi nàng có thể nghỉ ngơi cho đến bữa tối.” Sau khi đưa ra mệnh lệnh của mình, Alec quay đi và bắt đầu bước đi xa.

    “Alec?”

    Chàng dừng bước và quay lại.

    “Chàng đi đâu vậy?”

    Nhìn vào mặt chàng, ai đó sẽ nghĩ rằng nàng muốn rút máu của chàng, tới từng giọt cuối cùng. Sau một phút nghĩ ngợi, chàng quyết định giải thích. “Ta cần gặp người quản lý. Ta đã ở London hai tháng, công việc kinh doanh của ta ở đây đã bị bỏ bê quá lâu.”

    “Ồ.” Cảm thấy mất tự tin và lạc lõng, nàng nhìn người chồng mới quay lưng và rời đi, bỏ rơi nàng vào nanh vuốt của bà Watley nghiêm khắc.

    “Nếu Đức bà đi theo tôi, tôi sẽ dẫn người tới phòng của người.” Mệnh lệnh của người phụ nữ đưa ra với cùng một sự kỳ vọng vâng lời cụt ngủn mà đã được Alec sử dụng, một giọng điệu chỉ ra rằng người ta không nên làm gì khác ngoài việc tuân lênh.

    Với một cái nhún vai rất nhỏ, nàng đi theo người phụ nữ lên cầu thang, quan sát cách phần thân trên của bà Watley vẫn thẳng tưng như một cây lao. Bà ấy diện trang phục vải đen sắc nét, thắt chặt lưng, với một chiếc khăn tay ren trắng lấp ló từ phía hông của chiếc thắt lưng to bản màu đen. Huy hiệu của một người quản gia – những móc khóa bằng bạc đeo ở thắt lưng bà – kêu leng keng theo từng bước chân chính xác trên những bậc thang linh thiêng trong ngôi nhà mới sang trọng của Joy.

    Gợi nhớ đến tiếng chuông xe trượt tuyết, tiếng chuông hòa âm và những giai điệu cổ tích, Joy nâng váy, bước nhanh hơn và lắc lư đầu theo những điệu nhạc đó, chơi thầm trong đầu một bản ballad vui vẻ trong khi đôi mắt háo hức của nàng ngắm nhìn mọi chi tiết sang trọng xung quanh nàng. Phía bên trái là một chiếc hộp gỗ hình vòm được dùng như cái đế đặc biệt cho một chiếc bình cổ phương Đông. Đứng bên phải là một chiếc bình sứ màu xanh lá cây và vàng to bằng Quý bà Eugenia bé nhỏ.

    Họ băng qua một phòng trưng bày dường như dài vô tận, treo đầy những bức tranh sơn dầu vô giá về chân dung của có vẻ như là mọi Castlemaine đã từng hiện diện trên thế giới này. Thêm ba chỗ rẽ, hai hành lang nữa và khoảng năm khúc quanh, cuối cùng họ cũng đến được một hành lang dài, rộng gấp đôi với vài cánh cửa mạ vàng xa hoa. Tiếp tục đi xuống hành lang, nàng nhìn lên trần nhà thạch cao cao vút và hơi mong đợi sẽ thấy một bức bích họa khác.

    Không có tấm bích họa nào. Tuy vậy thiết kế trong tác phẩm thạch cao rất phù hợp với thiết kế của tấm thảm. Nàng thường xuyên bắt gặp thoáng qua huy hiệu công tước được chế tác thành hoa văn – một trần nhà Belmore và một tấm thảm Belmore.

    Bà Watley đột ngột dừng lại, cái váy vải đen của bà kêu sột soạt như lá cây trong gió hè. Bà gỡ một trong năm cái móc khóa lớn ra, tìm đúng chiếc chìa khóa mà không cần suy nghĩ nhiều và mở cánh cửa.

    “Phòng của người, Đức bà.”

    Joy bước vào trong một căn phòng đồ sộ được phủ với những tấm trang trí được khảm và chạm khắc bao ở cạnh bởi các lá vàng. Cố gắng không há hốc miệng, nàng gỡ cái mũ của nàng ra và để nó lủng lẳng trên các ngón tay. Nàng chỉ có thể làm thế để không yêu cầu bà Watley véo một cái cho nàng tỉnh táo lại. Đây không thể là sự thật.

    Một chiếc bàn làm việc bằng gỗ hồng mộc xinh xắn với chiếc ghế cùng màu đứng phía sau những chiếc ghế bành cạnh lò sưởi. Cái lò sưởi chiếm lấy nửa bức tường và được trang trí với các vị thần La Mã chạm khắc trên đá cẩm thạch hồng. Tất cả mọi thứ trong phòng có màu hồng và vàng, thậm chí cả chiếc giường với tấm màn dài được trang trí bằng bằng gấm lụa hồng và vàng cùng tông màu và được buộc lại bằng những tua rua lụa nặng nề. Ánh mắt ấm áp của nàng dõi theo những đường nét của chiếc giường cao, hướng lên, qua tấm màn để đến trần nhà.

    Nó đã được vẽ lên.

    “Đây là phòng thay đồ.” Bà Watley ấn vào một tấm bảng trên tường, và cánh cửa bật mở để lộ ra một căn phòng đầy những tấm gương vát cạnh. “Ngoài đó là bồn tắm.”

    Joy ném cái mũ của nàng lên một chiếc ghế phủ thảm nhỏ và đi theo bà ấy, tháo găng tay ra khi nàng đi ngang qua sàn lát đá cẩm thạch của phòng thay đồ và nhìn quanh một góc có gắn gương. Găng tay của nàng rơi xuống sàn và bị ngó ngơ. Toàn bộ căn phòng được xây bằng đá cẩm thạch màu hồng nhạt - sàn nhà, tường, bồn rửa và cái bồn tắm mà đã được làm trũng xuống như một hồ bơi La Mã trên sàn, một bức tường gắn gương được che bằng những tấm lụa hồng bằng với đóa hoa hồng vàng vẽ tay.

    Gót giày của bà Watley đi lách cách trên nền đá cẩm thạch và, với một cử chỉ giống như đang ôm một con chuột chết, bà mở ra một cánh cửa khác. Khuôn mặt gầy gò của bà ấy cứng như đá cẩm thạch. “Đây là tủ đựng nước. Đó là Bramah.” Cánh cửa đóng sầm lại trước khi Joy có thể nhìn thoáng qua căn phòng một cái.

    Bà hành quân về lại phòng ngủ. Joy cho rằng nàng phải làm theo. Bà quản gia quay lại và nhìn xuống nàng. “Tôi sẽ cử người mang đồ đạc của người lên, thưa Đức bà, và một cô hầu gái sẽ đến đây ngay để giúp người tắm rửa.” Bà gõ nhẹ cái đồng hồ kẹp trên ngực. “Bữa tối luôn được phục vụ lúc chín giờ. Người còn vài giờ nữa cho đến lúc đó. Có lẽ Đức bà muốn được nghỉ ngơi.”

    Joy chớp mắt một lần trong kinh ngạc, rồi nhận ra nàng đã hai mươi mốt tuổi, một nữ công tước được gọi là Đức bà cho đến khi chết, và nàng vừa được yêu cầu đi ngủ trưa.

    “Đức bà còn cần gì nữa không?”

    Joy lắc đầu.

    “Rất tốt.” Bà quản gia mở cửa và dừng lại. “Đức ngài thích ăn tối đúng giờ. Chính xác là lúc chín giờ. Một truyền thống của Belmore.” Và với mệnh lệnh đó - hoặc lời cảnh báo, Joy không chắc chắn là cái nào - bà ấy đóng cửa lại.

    Joy thở hắt ra và vòng đi vòng lại ở giữa phòng, đôi mắt háo hức chăm chú nhìn từng chi tiết ấn tượng. Choáng váng vì kích động, nàng thả mình cái phịch lên giường và vuốt nhẹ lên tấm khăn trải giường bằng gấm thêu xinh xắn, cảm nhận từng mũi thêu óng mượt. Nàng rất cẩn trọng ngồi lên mép giường, để đôi chân đung đưa gần cái ghế đôn bằng nhung, rồi nàng nhún lên nhún xuống vài lần để thử độ mềm mại hết sức của cái giường.

    “Ôi, Chúa ơi,” nàng thì thầm, sau đó là một tiếng cười khúc khích.

    Nàng giơ một tay lên đầu giường mạ vàng và chạm vào lớp đệm nhung màu hồng của nó, vùi tay còn lại vào một chiếc gối lông vũ quá mềm mại và đầy đặn đến mức giống như nàng đang chạm vào một đám mây.

    Một tiếng gõ cửa vang lên và nàng bắn ra khỏi giường như thể bị chọc bởi một chiếc ghim cài áo. Nàng phủi cái váy trước khi kịp đứng vững, so vai lại, cái cằm được nâng lên và hơi hếch lên - đó là tư thế nữ công tước của nàng - và nói bằng một giọng trầm, “Mời vào.” Thật không may, giọng nói của nàng bị vỡ ra, phá hỏng hoàn toàn nỗ lực tạo ra âm thanh vương giả của nàng.

    Henson bước đến, với Beezle một lần nữa gắn sau lưng. “Thú cưng của người, thưa Đức bà.”

    Nàng lao đến ngưỡng cửa và kéo hầu cận của nàng ra khỏi anh chàng tội nghiệp. Cái đuôi sam của Henson lại trở nên lộn xộn, chỉ có điều lần này cái ruy băng vàng đã được nhai cho đến khi nó hoàn toàn xơ xác. Nàng liếc xuống Beezle, đang nằm trong vòng tay nàng và hạnh phúc nhai rào rạo, một túm sợi vàng treo trên miệng nó như những sợi râu ướt đẫm.

    “Cảm ơn anh, Henson.” Nàng nắm lấy những sợi chỉ và cố gắng kéo chúng ra khỏi miệng Beezle. Chúng cứ lộ ra và ra tiếp, và nàng quấn chúng quanh tay mình nhiều lần cho đến khi nàng kéo mạnh đến nỗi nó phải nhe răng ra, để lộ sợi dây ruy băng trong miệng. Sau một hồi giằng co ngắn ngủi, nàng bỏ cuộc và đặt nó xuống tấm thảm dày. Cậu ta lạch bạch đến chiếc ghế dài bằng nhung màu hồng, trèo lên, nhai đi nhai lại trước khi nuốt một nùi ruy băng xuống. Nó thả cái mõm nhọn của mình lên hai móng chân có đốm đen của mình. Đôi tai nhỏ của giật giật và nó ngẩng đầu lên và ợ hai lần. Sau đó đôi mắt nâu của nó trở nên mơ màng và khép lại. Rồi Joy bỗng nhiên nhận ra, nó đang ngáy khò khè.

    “Hầu gái của Đức bà.” Henson bước sang một bên, và một Polly lo âu, trong lúc gấp gáp, cố gắng nhún gối cúi chào với hai cánh tay chất đầy quần áo đồng thời cố nén lại nụ cười rạng rỡ của mình. Cô ấy không thực hiện được cả hai điều đó và đánh rơi quần áo xuống sàn, một nụ cười rạng rỡ nở ra trên đôi má hồng hào Anh quốc của cô. Với một tiếng chậc chậc, Henson đóng cửa phía sau anh ta.

    “Bà Watley nói rằng em sẽ là người hầu gái của Đức bà cho đến khi Đức bà có thể thuê một người nhiều kinh nghiệm và phù hợp hơn với Đức bà.” Polly cúi xuống nhặt lên một chiếc váy dài và vài áo quần mỏng manh khác, cô đặt chúng lên một chiếc ghế dài và quay lại với Joy. Đôi tay của người hầu gái, lúc này đang nắm chặt ở phía trước, run rẩy vì bồn chồn.

    Joy nhìn đăm đăm vào đỉnh đầu đang cúi của Polly. “Trước đây em có từng làm hầu gái cho một quí bà không?”

    Cô gái đứng thẳng người, không mỉm cười nữa. Cô ấy có vẻ đang rất cố gắng để trông nghiêm túc và u sầu như bà Watley. “Em đã giúp đỡ khi có các vị khách ở Belmore, và dì của em là hầu gái của mẹ công tước, thưa Đức bà.”

    “Tôi muốn em giúp tôi một việc, Polly.”

    “Vâng, thưa Đức bà?” Polly cắn môi dưới.

    “Làm ơn ngưng thưa Đức bà với tôi được không? Ít nhất là khi chúng ta ở một mình?”

    Nụ cười tươi sáng ấy đã trở lại, cháy bừng rạng rỡ. “Vâng, phu nhân.”

    Joy cười toe toét đáp lại. “Cảm ơn em. Và tôi sẽ không cần một người nhiều kinh nghiệm hơn. Em giàu kinh nghiệm hơn tôi đó - tôi chưa bao giờ có hầu gái trước đây.”

    “Chưa bao giờ?” Đôi mắt xanh của Polly trừng to như bánh bơ nướng. “Nhưng người là một nữ công tước!”

    “Tôi không biết làm thế nào để trở thành một nữ công tước, Polly. Tôi thậm chí chưa từng gặp một nữ công tước trước đây.”

    “Chà, tôi có thể dạy cho người một vài thứ, phu nhân.” Polly đột nhiên đứng cao hơn một chút. “Một nữ công tước luôn đứng thẳng” - cô ấy vỗ cằm - “với đầu ngẩng rất cao, và sau đó nhìn xuống chiều dài chiếc mũi quý phái của bà ấy.” Hai tròng mắt của người hầu gái bị lé lại về phía mũi khi cô ấy cố gắng trình diễn.

    Joy bật cười.

    Polly ngừng lé mắt và cười toe toét với Joy. Thật bất ngờ như nó xuất hiện, cô cố gắng ngừng nó lại.

    “Xin đừng,” Joy nói.

    “Sao cơ, phu nhân?”

    “Che giấu nụ cười của em.”

    Polly thở phào nhẹ nhõm. “Ôi, phu nhân, cảm ơn bà. Bà Watley cứ mãi ghim em về vụ cười hoài. Bà ấy nói em chông giống như một thằng ngốc trong làng, cứ toe toétvà cười đùa giống như chí khôn của em đã đi nghỉ ở Bath rồi6.”

    Joy lại cười.

    "Bà ấy nói rằng hàng trăm năm nay, gia nhân của nhà Belmore” - Polly nâng cằm lên một cách kiêu kỳ, giống như bà Watley, và giọng cô ấy trở nên ngắn gọn và quyết đoán – “vẫn luôn có phẩm cách. Bà ấy bảo em nên giống như dì em.”

    “Dì của em có nghiêm trang không?”

    “Không.”

    “Vậy ra là dì em không cười.”

    “Không, thưa phu nhân, bà ấy không cười, nhưng không phải vì bà ấy đúng mực hay gì đó. Bà ấy bị mất cái răng cửa từ năm 12 tuổi và đã không cười kể từ đó.” Polly cười nhăn nhở với nàng.

    “Ta không trách bà ấy được, phải không nào?”

    “Không, thưa phu nhân,” Polly cười khúc khích, rồi đột nhiên nhận ra mình đang cười với ai, cô trở nên nghiêm trang. “Người có muốn tắm không? Em có thể mang quần áo của người đi giặt sạch. Đức ông nói với bà Watley rằng hành lý của người đã bị lấy chộm. Thật kinh khủng, thưa bà. Có phải là mấy tên cướp đường không?”

    Joy có thể cảm thấy má nàng hồng lên. “Không.”

    “Ôi, em thấy rất nhẹ nhõm, thưa bà. Bà có thể hình dung ra việc bị chặn bởi những tên cướp đường không? Em đã đọc một cuốn sách kể về một vài tên cướp đường đã bắt giữ một quí cô đáng thương và lấy hết đồ của cô ấy rồi bắt cóc cô ấy để đòi tiền chuộc. Và những điều họ đã cố gắng làm với cô ấy, ôi, thưa bà, nó thật kinh khủng! Đó là chước khi thủ lĩnh của những tên cướp cưỡi trên con chiến mã màu đen to lớn của mình và đưa cô ấy đi dưới sự bảo vệ của mình. Sau đó, họ yêu nhau và kết hôn vì anh ta thực ra lại là một bá tước, người đã bị kết tội sai là giết cha mình. Phần đó thì thật lãng mạn.”

    “Cuốn sách đó tên gì?”

    “Cái gì đó Cook đang đọc.”

    “Nghe có vẻ thú vị.”

    “Thật vậy.” Polly trông có vẻ bứt rứt một lúc, mắt cô ấy liếc sang trái, rồi sang phải, và cô ấy dựa rất gần vào Joy và thì thầm. “Đó là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn.”

    “Ồ. Ra vậy.” Joy khựng lại, rồi hỏi, “Nó tệ lắm à?”

    “Ôi, không! Vài người nói rằng chúng ngớ ngẩn, nhưng em nghĩ họ chưa bao giờ đọc cuốn nào và chả biết họ đang nói về cái gì, thưa bà. Những câu chuyện còn hay hơn...” - người hầu gái trông có vẻ ngẫm nghĩ, và rồi mắt cô ấy sáng lên - “hơn cả kem tươi và dâu tây mới hái.”

    “Tôi rất muốn đọc cuốn sách đó. Người đầu bếp vẫn giữ nó chứ?”

    “Em cho là vậy, thưa bà. Em sẽ cố lấy nó cho bà. Nhưng nếu không được, thì em còn ba cuốn nữa. Và Cook hiện đang đọc một cuốn về một công tước.”

    “Tôi nghĩ tôi sẽ thích cuốn đó.” Joy cười toe toét, và Polly cũng vậy; rồi cả hai bắt đầu cười to.

    Một phút sau, Polly nhặt quần áo cô ấy đã mang tới và giơ ra. “Ngày mai người thợ may sẽ tới đây, nhưng bà Watley đã nhờ em mang những thứ này lên cho phu nhân.” Cô ấy đưa ra một chiếc váy dài và một váy ngủ. “Bà ấy đang tìm thứ gì đó để người mặc trong bữa tối.”

    Joy biết nàng đủ khả năng để có thể làm phép ra thứ gì đó – biến hóa trang phục là một trong những điểm mạnh của nàng. Nhưng làm thế nào nàng giải thích được sự xuất hiện kỳ lạ của nó? Nàng liếc qua cái váy nàng đang mặc. “Nếu em có thể làm sạch cái váy này, tôi có thể mặc nó đi ăn tối.”

    “Ồ, không, thưa bà. Bữa tối lúc nào cũng trang trọng. Có đủ thứ trong các phòng chứa đồ cho toàn bộ người ở Wiltshire mặc. Hơn nữa, đây là đêm tân hôn của bà cơ mà...” Polly đỏ mặt và nhìn nàng ngại ngùng, rồi biến mất vào trong phòng thay đồ.

    Joy đi theo vào phòng thay đồ, cởi quần áo ra khi nàng bước đi, tâm trí nàng nghĩ lời nói của cô hầu gái. Nàng đã không nghĩ gì đến đêm nay. Nàng đã quá lo nghĩ về việc trở thành một nữ công tước và quá hào hứng khi thấy ngôi nhà mới của mình.

    Đêm nay là đêm tân hôn của nàng với Alec. Suy nghĩ đó khiến nàng nổi da gà, và nàng đột nhiên rùng mình. Tròng cái váy dài lên người, nàng nghĩ một đêm tân hôn nghĩa là gì. Chỉ mất khoảng một phút trước khi nàng nhận ra rất có thể Alec sẽ lại hôn nàng. Nàng cười toe toét, rồi cười khúc khích, rồi tự ôm choàng lấy mình và nhắm lại đôi mắt mơ màng.

    Nếu có điều gì mà tâm trí nàng có thể hình dung ra rõ ràng như những ô cửa sổ kính màu của Belmore thì đó là hình ảnh một lần nữa hôn môi chồng nàng, được chàng ôm trong tay, thưởng thức mùi vị của chàng và cảm nhận môi chàng lướt trên da thịt nàng, giọng chàng sát bên tai nàng và nói, “Hãy lấy ta, cô gái Scot... Kết hôn với ta...”

    Và giờ họ đã cưới. Chồng và vợ. Công tước và Nữ công tước. Lãnh chúa và Phu nhân. Đôi mắt mơ màng của nàng mở bừng ra. Hôn không phải điều duy nhất các cặp vợ chồng sẽ làm, nếu những điều dì nàng đã kể nàng nghe khi nàng mười hai tuổi là sự thật. Hai má Joy nóng lên. Chàng sẽ làm tình với nàng.

    Làm tình. Một từ thật xa lạ. Hành động đó có nghĩa là cảm xúc cũng ở trong đó, phải không? Nàng hy vọng thế, hy vọng rằng tình cảm sẽ tăng lên nếu nàng yêu thương chăm sóc nó. Nàng muốn được yêu thương, để Alec cũng cảm nhận về nàng như cách nàng cảm thấy mỗi khi ở gần chàng. Nàng muốn chàng cũng khẩn thiết muốn hôn nàng như nàng muốn chàng. Nàng muốn có ý nghĩa gì đó với chàng, muốn bao bọc chàng với phép màu, tình yêu và những nụ cười để chàng không cần phải che giấu.

    Polly bước lại vào phòng. “Em đã chuẩn bị bồn tắm rồi, phu nhân.”

    “Ồ, được rồi.”

    “Em sẽ đi làm sạch mấy thứ này và lấy cái váy dài cho bữa tối.” Polly nhặt lên quần áo của Joy. “Người có cần thứ gì nữa không, thưa bà?”

    “Không. Cảm ơn em.”

    Người hầu gái đóng cửa lại, và Joy bắt đầu để áo choàng nàng rơi xuống, nhưng mắt nàng bắt gặp hình ảnh phản chiếu của cánh cửa kia trong gương.

    Bramah là gì? Nàng cột chặt thắt lưng trên áo choàng và bước về cánh cửa. Cái tay nắm cửa, giống như tất cả những cái nắm cửa khác mà cô đã để ý cho đến giờ, được khắc gia huy công tước. Nàng mở cánh cửa và nhìn chăm chú vào căn phòng nhỏ.

    Có một chiếc ghế thấp, với mục đích rất rõ ràng, nhưng nó lại nằm trên một chiếc chậu sứ vẽ hoa diên vĩ tím và hoa hồng màu hồng và một bầy chim. Joy nhìn chăm chú xuống nó, nghĩ rằng sẽ thấy cái một lỗ tối om quen thuộc như cái trong phòng ngủ ở lâu đài Duart. Nhưng cái chậu này có chứa một lượng nước nhỏ.

    Tin được không! Hơi bối rối, nàng nhìn lên trên, đi theo một đường ống bằng đồng đến một bình đựng được vẽ tranh khác trên đầu nàng. Nó có một cái tay cầm bằng đồng, cái duy nhất nàng từng thấy mà không có huy hiệu, thả dài xuống, chỉ chờ được kéo xuống.

    Vì vậy, nàng đã làm thế.

    Nàng nhìn chằm chằm.

    Nước tràn vào bồn cùng với tiếng rì rào của sóng vỗ. Nó quay cuồng và lao đi rồi biến mất xuống cái lỗ với tiếng rên rỉ của nữ thần báo tử. Một lúc sau căn phòng lại im lặng.

    Joy nhìn chằm chằm vào thứ đó, sau đó che miệng bằng tay và cười khúc khích. Nàng lại kéo cái tay cầm, quan sát trong sự hết sức kinh ngạc về cách Bramah hoạt động.

    Sau mười phút và mười hai lần xả nước ùng ục, nàng để cái áo choàng rơi xuống nền đá cẩm thạch của nhà tắm và bước vào cái bồn sâu. Làn nước ấm áp và dễ chịu và giống như đang ngồi trên thiên đường. Hai nắm bằng đồng lớn hình cá heo và một vòi đồng bộ được gắn trên tường phía trên bồn tắm. Nàng xoay một cái và nước lạnh chảy ra từ miệng con cá heo. Nàng xoay cái thứ hai, nước nóng phun ra. Điều chỉnh cả hai cái nắm sao cho nước ở mức ấm phù hợp, nàng gỡ mấy cái kẹp tóc ra khỏi tóc và để nước đổ lên đầu.

    Ngay cả trong những giấc mơ hoang đường và kỳ lạ nhất, nàng chưa bao giờ tưởng tượng ra điều gì tuyệt diệu như thế này này. Sau vài phút để nước phun phung phí, nàng thấy thư thái, hoàn toàn thư giãn và nhắm mắt lại, để làn nước ấm phủ trên thái dương, quai hàm và cằm nàng, tưởng tượng đó là môi của Alec. Hai phút thư giãn, yên bình và lãng mạn, rồi đôi mắt xanh lục của nàng mở bừng và nàng ngồi dậy trong bồn tắm, chợt nhớ ra một chuyện khác về đêm nay. Một điều nàng phải làm.

    Đêm nay là Trận-chiến-cuối-cùng7 của nàng và nó chẳng liên quan gì tới những nụ hôn, yêu thương hay những điều thân mật. Nàng phải cho chàng biết nàng là một phù thủy. Cái viễn cảnh còn đáng sợ hơn là một lời nguyền rủa. Đây là đêm tân hôn của nàng - khoảng thời gian kích động và tuyệt vời nhất trong cuộc đời của bất kỳ cô gái nào - nhưng với Joy, đó cũng là thời điểm để tiết lộ. Dù nàng có khiếp đảm thế nào, nàng biết nàng phải nói cho Alec biết chính xác mình là người như thế nào, trước khi họ thân mật. Nàng phải cho chàng cơ hội đổi ý và với tất cả sự lạc quan trong tim, nàng hy vọng chàng sẽ không chọn con đường đó.

    Nàng kết hôn với chàng vì nàng muốn trở thành vợ chàng, được chàng yêu thương và để lấp đầy những khoảng trống mà nàng đã thấy trong chàng. Chàng cần nàng quá nhiều dù chàng không thể nhận ra. Nhưng bây giờ nàng phải thành thật với chàng. Nàng không thể bắt đầu cuộc hôn nhân này với một lời nói dối.

    Bàn tay nàng chìm vào làn nước bốc khói và nắm lấy một miếng xà phòng thơm có đóng dấu huy hiệu Belmore. Nàng mạnh bạo xát xà phòng lên cánh tay và cổ, kỳ cọ và tẩy rửa như thể có thể rửa sạch đi quá khứ của nàng, để không phải đối mặt với nhiệm vụ trước mắt và cơ hội bị thất bại một lần nữa.

    Chú thích:

    (4) Sidelight: là những cánh cửa sổ nhỏ, thường có hình dọc và hẹp, nằm bên cạnh những cánh cửa hoặc những cửa sổ lớn hơn.

    (5) Nguyên tác ghi là pillastered, mà mình nghĩ là đây là pilastered, theo mình hiểu là kiến trúc nhô lên khỏi tường, bao quanh cửa sổ để trang trí cho cửa sổ.

    (6) Polly nói theo kiểu phương ngữ với các từ như smillin’, pinnin’, laughin’, grinnin’ nên mình tạm chuyển sang các từ bắt đầu với tr thành ch cho giống kiểu giọng địa phương của Tiếng Việt.

    (7) Armageddon: Trận chiến cuối cùng giữa thiện và ác trước Ngày phán quyết.
     
    hathao, Thuyhuynh19, Levananh and 4 others like this.
  12. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Ngươi đã kết hôn với rắc rối.
    —Romeo and Juliet, William Shakespeare

    Chương 8

    Joy bị trễ. Nàng chạy qua một cái hành lang dài vô tận khác và nghe thấy tiếng chuông đồng hổ điểm qua mười lăm phút. Mọi nơi đã đi qua, nàng đều thấy cửa đằng sau cánh cửa mạ vàng và hành lang phía sau hành lang dài và thanh lịch. Polly cho hay phòng ăn nằm dưới tầng trệt, nên Joy rời khỏi phòng lúc nàng nghĩ còn nhiều thời gian. Polly đã nói rẽ phải ba lần, rồi rẽ trái rồi rẽ phải và nàng sẽ thấy cái cầu thang. Nhưng Joy hẳn đã rẽ sai hướng bởi vì nàng đã đi lang thang và loanh quanh qua các hành lang và phòng trưng bày, và dù đã cố ghi nhớ đường đi của mình, hiện tại nàng đã hoàn toàn bị mất phương hướng.

    “Có ít nhất một trăm gia nhân trong ngôi nhà này và tôi không đụng phải một người nào,” nàng nói với bức chân dung lớn của một Castlemaine cau có nào đó. “Mọi người đâu hết rồi?” Bức chân dung cũng nhiều chuyện như ông chồng của nàng vậy. Nàng vòng qua chỗ ngoặt và nhìn đăm đăm vào một hành lang dài và trống rỗng khác.

    Một tiếng chuông đồng hồ tàn nhẫn khác vang lên. Giờ thì nàng trễ nửa giờ rồi. Bắt đầu hoang mang, nàng nâng cái vạt áo lụa nặng nề trên cái váy lụa dài màu hồng và vàng đã lỗi thời nhưng tinh tế mà Polly đã mang tới cho nàng và chạy như một đứa trẻ tinh nghịch về phía hành lang phía trước. Nàng nhìn về cả hai hướng. Nàng có thể rẽ trái hoặc phải, và cả hai đều là những hành lang dài giống nhau.

    “Đức ông thích ăn tối đúng giờ,” bà Watley đã nói thế. “Chính xác vào lúc 9 giờ. Một truyền thống của Belmore.”

    Joy siết chặt cái váy dài và nhìn xung quanh nàng… thất bại. “Tại sao ai đó lại muốn sống trong một ngôi nhà lớn như thế này?” Nàng có thể tưởng tượng ra khuôn mặt của Alec, sau đó hình ảnh đó chuyển sang bà Watley, mặc bộ váy vải đen như quạ, hai tay khoanh trước ngực, nhịp chân thiếu kiên nhẫn và đôi mắt nhìn chằm chằm vào Joy. Nàng đã bị trễ, rất rất trễ và Joy dám chắc là điều đó tương đương với việc lấy trộm đồ bạc của nhà Belmore.

    Nhưng quan trọng hơn, đến trễ không phải một cách hay để bắt đầu cuộc hôn nhân của nàng, đặc biệt khi nàng cần chuẩn bị tư tưởng cho chồng nàng trước sự thú nhận của nàng. Nói cách khác, nịnh nọt chàng. Nàng nhìn chăm chú vào cái đồng hồ. Những cái kim của nó không dối trá. Thời gian để nịnh nọt đã qua, qua rất lâu rồi. Nàng bặm môi dưới.

    Kim đồng hồ? Một ý tưởng bắt đầu lóe ra trong mắt Joy. Nàng nhắm mắt lại trong một phút tập trung, hít một hơi sâu, chỉ vào cái đồng hồ và ngâm nga, “Ôi, hãy lắng nghe giai điệu của ta. Quay ngược thời gian trong mọi cái đồng hồ trong ngôi nhà này của ta!”

    Nàng chầm chậm di chuyển ngón tay đang chỉ ra và những cái kim của đồng hồ theo sau cho đến khi nó chỉ chín giờ kém hai phút. Nàng mỉm cười. Nó đã thành công! Cảm thấy cực kỳ tự hào về bản thân, nàng nhìn xuống cả hai hành lang và quyết định giờ là lúc cần một ít phép màu. Nâng cằm lên và hai tay chỉ lên không khí, nàng nhắm mắt lại, cố gắng hình dung ra căn phòng ăn. Không thể tưởng tượng ra phòng ăn của Belmore sẽ trông thế nào, nàng tập trung vào thức ăn – gà và vịt nướng, thịt bò nướng béo ngậy và bánh mì tươi, trái cây và thạch, những cái đĩa đựng thức ăn tinh tế thật hấp dẫn làm dạ dày nàng sôi lên vì đói. “Ôi, phép màu hãy đến và mang ta đi,” nàng ngâm nga, “đến căn phòng nơi để thức ăn của nhà Belmore!”

    Ngay sau đó nàng mở mắt ra. Những cái đùi thịt và gia cầm đã nhổ lông quấn trong vải tẩm muối bảo quản được treo trên móc phía trên đầu nàng.

    Đây không phải phòng ăn.

    Một luồng khí lạnh buốt như đá đập vào người nàng. Run rẩy, nàng tựa một tay lên thứ nàng đã nghĩ là một bức tường và giật bắn lại.

    Nàng đang ở trong một nhà băng. Nàng chớp mắt vài lần bối rối. Các bức tường là những khối băng ở dưới bao tải.

    Chầm chậm nàng tìm đường đến một cánh cửa rộng bằng ván gỗ cách đó vài bước chân. Có gì đó vướng vào tóc nàng. Nàng nhìn lên, và rồi với một cái hất tay chán ghét nàng đẩy một cái đầu gà lủng lẳng ra khỏi đường đi trước khi mở cánh cửa.

    Nàng bước vào một căn phòng tối tăm và ẩm ướt khác, ngay lập tức vấp phải một bao hành tây lổn nhổn, hạ cánh xuống một đống khoai tây cũng gồ ghề không kém. Cố gắng bò dậy, nàng chộp lấy vài cọng măng tây đã bị bó lại, chúng gãy ra với một một tiếng bụp tươi giòn. Nàng thả mấy thân cây xuống và xoay xở để quì bằng đầu gối, chỉ để nhận ra mình đang nhìn chằm chằm vào một đụn củ cải vàng lởm chởm. Đằng sau chúng là một cái kệ chất đầy những lọ kim quất màu cam, đào, mứt cam, thạch quả mọng đỏ và các loại mứt màu sẫm. Những chiếc lọ và hộp đựng thức ăn cứ thế tiếp tục xếp chồng lên nhau trên những cái kệ được dán nhãn mà có vẻ như chứa đủ để cung cấp thức ăn cho cả thế giới. Căn phòng có mùi của biển cả, của cá sống và các loại rau vẫn còn phủ đất mới.

    Bây giờ nàng đang ở trong phòng để thức ăn.

    Nhưng ít nhất tôi đang ở đúng tầng, nàng nghĩ.

    Cánh cửa hơi hé mở và nàng có thể nghe thấy sự rộn ràng của căn bếp bận rộn nằm bên ngoài - tiếng xèo xèo của nấu ăn, tiếng bát kêu lách cách, tiếng leng keng của đồ sứ và tiếng của một đội quân người hầu đang chăm chỉ làm việc. Hèn chi tôi không tìm được bất cứ ai, nàng nghĩ. Có vẻ như tất cả họ đều ở ngoài đó.

    Joy cố gắng đứng dậy, phủi hai bàn tay vào nhau để loại bỏ các ngọn măng tây và bụi bẩn. Ít nhất tôi có thể hỏi đường ai đó, nàng nghĩ, nhảy qua một cái bao tải cồng kềnh khác và bước sang một bên thùng cá muối để có thể mở cánh cửa cho quãng đường còn lại. Nàng bước vào căn phòng và đứng lại.

    Mùi hương này thật tuyệt vời. Mùi thơm đậm đà của thịt bò đang nướng trên xiên trộn lẫn với mùi tỏi, thịt cừu non và bạc hà làm nước bọt tứa ra. Mùi hương nồng của quế và nhục đậu khấu tấn công các giác quan của nàng, và dạ dày nàng kêu ầm lên biểu tình chống lại tình trạng trống rỗng của nó. Joy quan sát, hoàn toàn bị ngó lơ, trong khi một bữa tối mà nàng chưa bao giờ thấy được làm ra từ cùng một thứ đã treo rất kém hấp dẫn trong phòng đựng thức ăn.

    Một người phụ nữ đứng cách đó khoảng năm bước, đang nhào một ít bột trên một chiếc bàn làm việc lớn.

    “Xin lỗi,” Joy nói.

    Người phụ nữ liếc qua vai, rồi sững người, ngoại trừ đôi mắt của bà đang gần như lồi ra khỏi đầu. Bà ấy xoay sang, cầm bột trong tay, và cúi thấp cho một cái nhún gối chào. “Đức bà!”

    Trong vòng ba giây, cả căn phòng im lặng ngoại trừ tiếng nổ và tiếng xèo xèo ngẫu nhiên của thịt đang nấu.

    Mọi con mắt trong phòng đều kinh ngạc và đổ dồn vào Joy.

    “Có vẻ như tôi bị lạc một chút, và tôi –”

    Một cái cửa có hai cánh quá khổ bật mở, đập vào tường bếp một tiếng rầm. Một Henson thường rất dè dặt lao vào phòng. “Một chuyện khủng khiếp đã xảy ra ngoài kia!” anh ta thông báo. “Họ đã làm lạc mất nữ công tước mới!” Anh nhìn lướt qua nhà bếp, nơi mọi người hầu đang nhìn vào một chỗ vắng vẻ trong phòng. Đôi mắt anh theo sau họ.

    Joy giơ mấy ngón tay lên và cho anh một cái vẫy tay nhẹ ngập ngừng và lúng túng.

    “Đức bà!”

    Joy thấy mình đang nhìn chằm chằm vào cái đầu đang cúi xuống của anh. “Tôi e rằng tôi đã bị lạc. Anh có thể dẫn đường cho tôi tới phòng ăn không?”

    Anh ta đứng thẳng người lên, một lần nữa trở thành hình ảnh đại diện của người hầu Anh cứng nhắc, vai so lại, cằm nâng lên, giọng nói kiểm soát. “Tất nhiên rồi. Nếu Đức bà đi theo tôi...”

    Joy đi theo anh qua căn bếp im ắng, cảm nhận mọi ánh mắt đang gắn vào nàng khi nàng làm vậy. Sau cỡ một phút, ở cuối một hành lang dài, Henson mở một cái cửa hai cánh khác và thông báo,

    “Đức bà, Nữ công tước Belmore.”

    Nàng hít một hơi thật sâu, căng phồng, nâng cằm lên cao như bà Watley và bước vào phòng, nơi một nhóm người hầu mặc chế phục, Townsend, và chính bà Watley đang nói chuyện với công tước. Họ rơi vào im lặng và quay về phía nàng, khoác trên cùng một vẻ không tán thành trên khuôn mặt.

    Họ tách ra như Biển Đỏ. Alec đứng đó, điển trai, bờ vai rộng và diện toàn màu đen trừ cái cà vạt màu trắng nổi bật. Bộ dạng của chàng thật oai vệ. Chàng là nước mát lành cho đôi mắt đói khát của nàng. Rồi nàng mắc phải sai lầm là nhìn vào mặt chàng – và gần như bị chết đuối. Biểu tình của chàng khắc nghiệt và không đồng tình.

    Trái tim của Joy rơi tõm xuống như thể nó rơi xuống lần thứ ba.

    Cái đồng hồ chọn đúng lúc ấy để gõ lên chuông báo qua mười lăm phút – phép phù thủy của nàng thật vô dụng – và Alec cau mày, liếc về cái đồng hồ thiếp vàng trên mặt lò sưởi. Chàng cho nó một cái nhìn khó chịu ngắn ngủi.

    “Cái đồng hồ đó hỏng rồi. Sửa nó đi.”

    “Vâng, thưa Đức ngài.” Bà Watley nhấc cái đồng hồ khỏi mặt lò sưởi, nhét nó dưới một cánh tay khẳng khiu và đi về phía cửa.

    Công tước quay lại phía Joy. “Nàng đến trễ.”

    “Em bị lạc đường.”

    Bà Watley bước qua, vẫn lắc đầu khiển trách và Joy nghĩ nàng nghe được bà lẩm bẩm gì đó về việc xúc phạm truyền thống của Belmore.

    Alec bước về phía nàng. Chàng chìa cánh tay cứng nhắc ra cho nàng, nhưng nàng sẽ đổi cả thế giới lấy một nụ cười nhẹ làm yên lòng nàng.

    “Trong tương lai, ta sẽ gửi Henson tới để dẫn đường cho nàng.”

    Nàng không thể nhìn vào mắt chàng. Nàng sợ làm thế, nên thay vào đó nàng cắn môi.

    Sau một phút căng thẳng mà nàng có thể cảm thấy chàng đang nhìn chằm chằm xuống nàng, chàng thêm vào nhẹ nhàng, “Ta cho rằng, Scottish, đây là một ngôi nhà cũ lớn như hang động.”

    Chàng đã bào chữa cho nàng. Nàng thả ra hơi thở đã nén lại trong cổ họng thít chặt và mỉm cười với chàng. Nàng đã được tha thứ.

    Một lần nữa nét mặt của chàng chuyển sang cái vẻ hơi bối rối đấy. Như thể không có người nào trước đây từng mỉm cười với chàng nên chàng không biết cách phản ứng lại. Chàng quay đi, gương mặt chàng một lần nữa lạnh lùng và mắt chàng ở bất kỳ mọi nơi trừ nàng. Nhìn lại đây, nàng nghĩ, nhìn lại đây để em có thể đập vỡ bức tường băng đó. Nhưng chàng không nhìn lại.

    “Rồi nàng sẽ biết được đường đi xung quanh thôi.” Chàng dẫn nàng hướng về cái bàn. “Trong một thời gian rất ngắn, ta hy vọng thế.”

    Một mệnh lệnh khác, mà nàng chỉ có thể gật đầu buồn bã, cảm thấy có lẽ nàng đã bỏ lỡ một cơ hội. Chàng kéo ra một cái ghế cho nàng ở cuối cái bàn ăn gỗ hồng khổng lồ mà trông có vẻ đủ cho mọi gia nhân của Belmore ngồi thoải mái. Nàng ngồi xuống và thẳng người, chờ đợi chàng sẽ ngồi ở ghế kế nàng. Nàng không thể giấu đi sự ngạc nhiên khi chàng bước qua hết chiều dài cái bàn và ngồi ở phía đối diện.

    Nó là cái mà người Scotland goi là cách xa ở “khoảng cách phải hét lên”.

    Với một cái vẫy tay của chàng - ít nhất nàng nghĩ nó là cái vẫy tay, dù khó mà nói được từ khoảng cách xa mà không có một cái kính thiên văn nhỏ - một đội quân người hầu di chuyển với một bàn thức ăn dài và bắt đầu phục vụ món ăn đầu tiên. Được phục vụ với những cái đĩa bạc hình dáng trang nhã và nặng nề nhất mà nàng từng thấy, bữa tối cứ tiếp diễn, mỗi bộ đồ ăn lại càng phức tạp hơn cái trước - vịt nướng trên một cái đĩa bạc với tay cầm có hình vịt trời đang bay, một cái chân cừu trên đĩa có hình như đầu cừu với tay cầm là cái sừng uốn cong bằng bạc, măng tây trong sốt chanh với hạt dẻ thái lát trên một đĩa bạc với gờ cao có hình rau mùa xuân. Mỗi cái đĩa đựng thức ăn tinh tế đều đồng bộ với đồ ăn đựng trên nó.

    Trong bảy cái nĩa, ba cái dao và bốn cái thìa được đặt ở chỗ nàng, chỉ một cái duy nhất, cái thìa nhỏ đặt phía trước cái đĩa sứ xương8 màu kem có trang trí huy hiệu Belmore màu vàng, là không có dấu gia huy công tước trên tay cầm. Nó không được khắc dấu bởi gì thiết kế của huy hiệu - một cặp chim ưng – chính là cái tay cầm.

    Joy nhìn đăm đăm vào mấy cái đồ bạc, rồi nhìn vào cái đĩa của nàng. Giờ thì nàng cần dùng cái nào? Sau một vài phút dài do dự, bàn tay đeo găng của Henson lén lút đưa nàng cái nĩa đầu tiên bên trái.

    “Cảm ơn,” nàng thì thầm, và bắt đầu dùng bữa. Mỗi khi món ăn xuất hiện, nàng xoay xở được với chỉ một chút chỉ dẫn từ Henson để chuyển sang các dụng cụ từ trái sang phải.

    Sau khi bữa tối diễn ra một giờ, Joy nuốt xuống một miếng thịt bò nướng ngon tuyệt phủ nước sốt vang đỏ. Căn phòng quá sức im lặng căng thẳng, nàng dám chắc tiếng nuốt thức ăn của nàng vang dội trên trần nhà như tiếng nuốt chửng của Gargantua9. Nàng nhìn xung quanh khi im lặng nhai một miếng gì đó mà sự bồn chồn không cho phép nàng thưởng thức. Nàng không thoải mái và đột nhiên cảm thấy thật quá cô độc.

    Mười lăm người hầu đứng dọc bên những bức tường khi họ không phục vụ ăn uống cho nàng hoặc Alec. Townsend, Henson và công tước cũng ở đó và nàng vẫn cảm thấy bị cô lập trong ngôi nhà mới xa lạ này. Không có gì quen thuộc. Mọi thứ thật đẹp nhưng dường như lạnh lẽo và khắc nghiệt, bởi vì không có niềm vui thích nào trong đó, không tiếng cười, âm nhạc, không có gì ngoại trừ tiếng leng keng thỉnh thoảng phát ra từ cái thìa ăn chạm vào một món đồ bạc vô giá hoặc tiếng lách cách của một cái dao hay cái nĩa đụng vào món đồ sứ mỏng manh.

    Nhưng nàng có thể tận hưởng sự mới mẻ, vẻ đẹp và sự kích động của đêm nay. Tâm trí mơ màng của nàng lại chiếm lĩnh và niềm vui thích ấm áp xuyên qua nàng. Mắt nàng bắt lấy tia sáng rực rỡ trên một cái ly pha lê đáng yêu mà được chiếu sáng lung linh dưới ánh sáng của một ngàn ngọn nến. Giống như thể đang uống nước từ những vì sao. Một cái giá nến bằng bạc khổng lồ với hai tá dây nến bằng vàng nằm ở trung tâm cái bàn và ánh sáng từ những ngọn lửa rõ ràng đang nhảy múa trên bộ đồ ăn bằng bạc và pha lê. Những cây nến khác tỏa sáng khắp căn phòng trên chân đèn treo tường, đèn treo, nhiều giá nến hơn, và hai bức tường gương chạy dọc theo chiều dài căn phòng, nhân ánh sáng thêm một trăm lần và tạo chiều sâu cũng như ánh sáng rực rỡ làm người ta quên mất đang là ban đêm và căn phòng này không có cánh cửa sổ nào.

    Joy nhìn chăm chú vào cái giá nến trên bàn. Nếu nàng dịch nó qua phải một chút thôi, nàng sẽ có thể nhìn thấy Alec. Ném cái liếc ngắn ngủi vào những người hầu đang đứng thành hàng gần bàn thức ăn, mắt nhìn thẳng phía trước như những pho tượng, nàng nghĩ nàng có cơ hội. Nàng nâng khăn ăn lên, giả vờ chặm môi, nhưng thay vì thế nàng dùng nó để che đi bàn tay của nàng. Với một cái bật ngón tay và một chỉ tay của nàng, cái giá nến trượt về cạnh bàn.

    Nàng ẩn nụ cười bên dưới cái khăn ăn vải lanh cầu kỳ. Giờ thì nàng có thể ngắm Alec thay vì những ngọn nến. Chàng đưa một nĩa thức ăn gì đó lên miệng, nhưng trước khi đến được đó, chàng nhìn lên và mắt chàng khóa chặt vào nàng. Có thứ gì đó giống như phép thuật mỗi khi mắt họ gặp nhau. Thậm chí đang cách nhau một khoảng, nàng vẫn có thể cảm nhận được tia lửa sâu trong nàng, gần như thể nàng đã nuốt một ngôi sao.

    Cảm giác rùng mình và đe dọa dường như đang nóng rực trong nàng. Nó trở nên mạnh hơn và mạnh hơn, và không hiểu sao thật quyến rũ làm nàng không thể cũng như không muốn sử dụng phép thuật để phá vỡ bùa mê này. Nó còn mạnh mẽ hơn cả ma thuật, dễ cuốn theo hơn sóng biển và giữ nhiều hơi ấm hơn hơi nóng của mặt trời mùa hè.

    Môi chàng ngậm lấy cái nĩa và trượt nó ra khỏi miệng, chậm rãi nhai. Mắt chàng vẫn gắn vào nàng, và nàng có cảm giác rõ ràng rằng xúc cảm mãnh liệt phát ra từ chàng không liên quan gì tới chất lượng thức ăn hay sự thích thú của chàng với nó. Điều này không chỉ là cung cấp dinh dưỡng. Cái nhìn chăm chú của chàng chuyển tới miệng nàng.

    Nàng chầm chậm nâng lên cái ly nhỏ đựng nước, cần cảm nhận sự mát mẻ ẩm ướt của nó. Nàng hớp một ngụm, không hề phá vỡ sự giao tiếp qua mắt của họ. Nước làm dịu cổ họng của nàng. Môi nàng hé mở, mắt nàng nhìn vào miệng chàng, đôi môi đã hôn nàng quá nồng nàn, làm nàng quên đi mọi thứ trừ cảm giác và mùi vị của chàng.

    Hơi thở và nhịp tim tăng tốc cứ như nàng đã chạy hàng giờ trên bãi biển ở Mull. Chàng đặt cái nĩa xuống và nâng ly rượu vang lên rồi hớp một ngụm như chàng đang nhấm nháp miệng và cổ nàng. Thời gian dường như ngừng lại và trở thành không có gì ngoại trừ những ký ức - nụ hôn, mùi vị và sự xao động của hơi thở chàng trên tóc nàng.

    Ngay sau đó, người quản gia Townsend che đi tầm nhìn của nàng bằng cách vươn qua bàn để chuyển cái giá nến về đúng chỗ của nó. Chán nản với hiện tại, nàng cau mày nhìn vào lưng ông ta và đợi đến khi ông phục vụ món mới cho nàng. Rồi, trong khi ông đang phục vụ Alec, nàng một lần nữa xoay những ngón tay và cười toe toét với vẻ hài lòng khi những ngọn nến lại trượt về cạnh bàn. Tối nay ma thuật của nàng diễn ra rất thuận lợi.

    Townsend quay lại, so vai và mắt nhìn thẳng về phía trước. Ông ta bước vài bước và ngừng lại, sự chú ý đột nhiên quay lại cái giá nến. Cau mày và với một cái lắc đầu hầu như không nhận ra, ông đặt đĩa thức ăn xuống và di chuyển cái giá nến lại đường nhìn của nàng.

    Nàng lại bắt đầu xoay tay, nhưng nhìn thấy bốn người hầu đang dọn đĩa trên bàn. Nhận ra kiên nhẫn là đức tính tốt, nàng đợi rồi đợi và cuối cùng cố gắng nhìn lén chồng nàng một cái bằng cách cúi xuống một chút và nghiêng sang tay vịn ghế bên trái của nàng. Chỉ cần duỗi cổ ra, nàng có thể nhìn thấy bàn tay sẫm màu của chàng trên ly rượu pha lê tinh tế…

    “Thạch sữa?”

    Nàng suýt nhảy ra khỏi ghế vì giọng nói của Henson. Xấu hổ, nàng nhìn chằm chằm vào đĩa của nàng, đợi Henson chỉ ra phải dùng dụng cụ nào.

    “Thạch sữa?”

    “Chúa phù hộ cho anh,” nàng thì thầm.

    Anh ta hắng giọng rõ to.

    “Món thạch sữa chứ, Đức bà?” Anh ta đưa cho nàng xem một đĩa thủy tinh gồm những cái bánh pudding riêng lẻ phủ bên trên bằng trái cây và kem, được xếp lại thành tầng.

    “Ồ, vâng.”

    Anh ta đặt cái cốc pudding có chân lên cái đĩa nhỏ trước mặt nàng, rồi đưa nàng cái thìa có tay cầm là huy hiệu.

    “Cảm ơn,” nàng thì thầm và ăn hai miếng trước khi nhận ra cơ hội tới. Nàng cố để trông như là đang cầm chân cái cốc pudding bằng tay phải, nhưng thay vì thế nàng xoay những ngón tay.

    Những ngọn nến trượt nhẹ nhàng đến cạnh bàn và nàng có tầm nhìn hoàn hảo một lần nữa. Nhưng Townsend chỉ mất khoảng một phút để chuyển nó trở lại.

    Nàng xoay tiếp trước khi ông ta cất bước đi. Ông quay lại, lắc cái đầu bạc và đặt cái giá nến về chỗ cũ. Nàng đợi cho đến khi ông quay lưng lại rồi di chuyển nó lần nữa. Ông ta xoay quanh và chuyển nó lại, kéo một chút cái khăn trải bàn vải lanh như thể ông nghĩ nó đang bị trượt.

    Đã đến lúc phải khôn ngoan hơn ông ấy, nàng quyết định và chờ đợi, tính toán liệu trước, cho đến khi Townsend ở bên cạnh bàn thức ăn, chỉ huy việc thu dọn các món ăn. Thỉnh thoảng ông ta lại nhìn qua vai. Cuối cùng, ngờ vực của ông tan đi và ông bận rộn với chức trách của mình.

    Nuốt lấy nụ cười hân hoan, nàng xoay mấy ngón tay, hào hứng chờ đợi tầm nhìn của nàng.

    Cái giá nến di chuyển với tốc độ tia chớp – ngay lập tức về phía cạnh bàn.

    Hai bàn tay nàng đưa lên miệng để bắt lấy cái thở hắt của nàng. Thật sự đáng kinh ngạc tấm thảm Aubusson dễ cháy biết bao. Cũng thật đáng kinh ngạc khi khói có thể lấp đầy một căn phòng khổng lồ có trần cao ba mươi feet nhanh đến thế, mười lăm người hầu có thể mau chóng dập lửa thế nào và Alec có thể di chuyển nhanh ra sao. Chàng đã ở bên cạnh nàng trước khi nàng có thể đứng dậy khỏi ghế, và chàng kéo nàng ra cửa trong khi những người hầu đổ các xô nước lên tấm thảm đang cháy âm ỉ.

    Bất chấp tất cả đám khói đó, ngọn lửa bị dập tắt chỉ trong vài phút, và cả hai người họ đứng lặng im trên hành lang. Nàng nhìn khói lượn quanh cái bàn như sương mù nước Anh. Hiện giờ, khi nhìn đăm đăm vào những cái lỗ đen thui trên tấm thảm đỏ dày, nàng cảm thấy tội lỗi kinh khủng. Nàng băn khoăn Alac đang cảm thấy thế nào. Đầu tiên nàng đã vi phạm truyền thống của Belmore với việc đến trễ và giờ nàng đã phá hỏng một cái thảm Belmore. Một cái nhìn thoáng qua lên khuôn mặt góc cạnh của chàng và rõ ràng là chàng chẳng cảm thấy gì nhiều.

    Em xin lỗi, nàng nói với chàng trong im lặng. Em không muốn phá hoại bất cứ thứ gì hay làm chàng giận dữ.

    Chàng quay khuôn mặt vô cảm ấy sang nhìn xuống nàng. “Tốt nhất nàng nên quay lên phòng nàng. Henson sẽ chỉ đường cho nàng. Ta sẽ lên đó sớm.”

    Cái nhìn của nàng nấn ná trên đôi mắt đen tối của chàng, tìm kiếm điều gì đó để mong đợi. Nàng bắt gặp một nhu cầu, một sự cấp thiết lóe lên.

    Đó là gì?

    Chàng giơ một tay và lần theo miệng nàng. Điều này và hơn thế nữa.

    Miệng nàng trở nên khô khốc và nàng nhanh chóng quay người rời đi, hai bàn tay nàng dấp dính và vùng da dưới bầu ngực đột nhiên ẩm ướt. Cái nhìn của chàng đã cho nàng biết chính xác những gì chàng muốn. Joy lặng lẽ đi theo Henson lên cầu thang, tự hỏi Alec sẽ nói gì khi tìm ra chàng thực sự đã nhận được gì.

    ***

    Cái Alec nhận được là một lần cạo râu.

    Chàng ngồi trên cái ghế cạo râu trong phòng tắm của chàng trong khi Roberts, người hầu phòng, lau đi xà phòng trên mặt chàng. Cái đồng hồ trong phòng ngủ báo hiệu một giờ đã qua. Vài phút sau cái đồng hồ trong phòng khách điểm nửa giờ. Sau đó cái đồng hồ trong phòng thay quần áo báo mười lăm phút. Alec nhặt lên cái đồng hồ bỏ túi của chàng và thấy nó đang ở phút bốn mươi lăm.

    “Rốt cuộc là mấy giờ rồi?”

    Roberts kiểm tra đồng hồ của anh ta. “Mười một giờ bốn mươi, thưa Đức ngài.”

    “Kêu ai đó chỉnh lại hết đồng hồ đi.”

    Người hầu phòng gật đầu và giữ lấy một cái áo choàng nhung xanh lục dài chấm sàn có viền màu vàng với huy hiệu công tước thêu chỉ vàng trên túi áo ngực. Alec trượt vào trong cái áo choàng, thắt đai và rời phòng thay đồ, hướng về cái khay đựng tẩu thuốc và hộp đựng thuốc lá bằng gỗ hồng nằm trên mặt lò sưởi có vân cẩm thạch màu xanh lục đậm trong phòng khách. Alec nhồi thuốc vào tẩu, châm thuốc và đứng gần ngọn lửa, nhìn nó thiêu cháy khi chàng hút thuốc.

    Chàng đang căng thẳng. Những múi cơ trên vai và lưng chàng căng lại. Chàng bước tới một cái tủ rượu bằng gỗ óc chó và rót một ly brandy, rồi chàng ngồi xuống với cái tẩu thuốc và ly rượu phía trước ngọn lửa. Chàng có thể nghe tiếng của Bramah trong phòng cô dâu của chàng, hết lần này tới lần khác.

    Sau lần thứ mười lăm, chàng quay sang và cau mày, nhìn chăm chú vào bức tường chung của họ. Rồi chàng nhớ ra mỗi lần chàng nhìn vào nàng trong bữa tối, nàng lại đưa cái ly nước lên miệng, khuôn miệng hiện ra trong suy nghĩ chàng nhiều hơn chàng muốn, và khuôn mặt đã phá hoại khả năng tiêu hóa của chàng và không rời tâm trí của chàng hơn vài phút suốt cả ngày. Chàng chẳng nhớ được có người phụ nữ nào từng lưu lại trong tâm trí chàng một khi chàng đã rời khỏi sự hiện diện của cô ta, nhưng nàng làm được điều đó.

    Chàng đã có một thời gian khó khăn cố tập trung suốt buổi chiều và dám chắc người quản lý tài sản của chàng đã nghĩ chàng mất trí rồi. Thực tế, chàng tự hỏi có khi chàng mất trí thật. Chàng chưa bao giờ cư xử thiếu thận trọng. Chàng chưa bao giờ làm bất cứ điều gì mà không tính toán và có mục đích trước, cho đến hôm nay. Chàng hớp một ngụm lớn brandy.

    Chàng đã không tin một từ do gã ngớ ngẩn ngốc nghếch Seymour phun ra về định mệnh, nhưng chàng vẫn thấy những việc xảy ra hôm nay thật bất an. Chàng đã hợp lý hóa việc cưới cô gái đó là cách dễ dàng, ít phiền toái nhất để kiếm được một cô vợ. Sau tất cả, chàng đã trải qua cách thức kéo dài hàng tháng dài theo ý thích của tầng lớp thượng lưu và tán tỉnh Juliet, để cô ta có thể đùa giỡn với chàng rồi bỏ trốn với một tên lính. Nhưng cô gái Scot đã không có thời gian để xem xét. Bàn tay chàng siết chặt lấy cái ly brandy.

    Dù có cố gắng hết mức, chàng cũng khó mà gợi ra Juliet trong tâm trí. Chàng cứ mãi nhớ tới cô gái Scot ở quán trọ với mái tóc nâu dài gợn sóng. Nó gần như quét lên sàn khi nàng đứng trước tấm gương đó. Trong tất cả những người phụ nữ chàng biết - và chàng đã có quá đủ lượng tình nhân, như môt phần quen thuộc trong cuộc sống một quí ông - chưa bao giờ có một người phụ nữ nào với mái tóc có thể quấn quanh cô ấy theo đúng nghĩa đen. Trên giường.

    Chàng uống một ngụm nữa và nhìn chằm chằm vào trong ngọn lửa, nó đột nhiên hiện lên hình ảnh của một khuôn mặt nhỏ bé hoạt bát, với đôi mắt xanh như ngọc lục bảo, làn da trắng nõn và đôi môi đầy đặn…

    “Đức ngài có cần gì nữa không?”

    “Một nốt ruồi.”

    “Gì cơ?”

    “Hửm?”

    “Đức ngài?”

    Alec nhìn vào Roberts, rồi lắc cho vài khả năng phán đoán đi vào trong cái đầu vốn thường rất lý trí của chàng. “Không. Thế đủ rồi.”

    Cửa phòng ngủ đóng lại với một tiếng cạch và ngay lúc đó Bramah của vợ chàng lại vọng lên qua những bức tường. Vợ chàng. Chàng nhìn vào bức tường, rồi gạt bỏ đi những hành động của nàng đối với đêm tân hôn và sự thật nàng có một nửa là người Scotland. Nhưng một nửa khác của nàng cũng là người Anh - người Anh ưu tú. Nhà Locksley là một trong những gia tộc lâu đời và cao quí nhất nước Anh, ngang ngửa với nhà Spencer. Trên thực tế, tước hiệu của họ, giống như của nhà Belmore, đã có từ thế kỷ mười hai.

    Chàng đặt cái tẩu thuốc xuống, nghĩ về họ của nàng. Chàng tự nói với chính mình là chàng đã làm điều phù hợp. Chàng cạn sạch brandy và nhớ về mái tóc của nàng. Chàng nhủ thầm chàng đã làm rất tuyệt. Chàng đứng dậy và nghĩ về miệng nàng. Và chàng chẳng tự nhủ bất kỳ điều gì. Chàng hướng đến cánh cửa chung.

    ***

    “Em là môt phù thủy.”

    Không, như vậy không được. Joy nắm lấy tay sau lưng và đi từng bước trên cái vòng tròn của tấm thảm nhỏ nằm gần lò sửa. Thỉnh thoảng dừng lại để bước qua Beezle đang nằm ngủ bên ngọn lửa.

    Sau một lúc trầm ngâm nàng ngừng lại, vẫy một bàn tay trên không khí như thể nàng đang phát ra một câu thơ của Robert Burns. “Em có một bí mật nhỏ.”

    Cau mày, nàng lắc đầu. Như thế cũng không ổn.

    Có khả năng chồng nàng sẽ nghĩ là một phù thủy có chút lớn hơn một bí mật nhỏ. Gõ những ngón tay lên mặt lò sưởi, nàng nhìn đăm đăm vào tấm gương cao phía trên nó cứ như nó có thể cho nàng câu trả lời. Sau môt hoặc hai giây, nàng siết chặt cái đai trên cái váy dài bằng lụa hồng với một cái kéo mạnh kiên quyết và bước lùi lại, đặt hai bàn tay lên hông. Nàng hất đầu lên và nói với tấm gương, “Alec, có một điều chàng cần biết về em.”

    Nàng nhăn mũi với hình ảnh phản chiếu của nàng. Quá nhiều điềm gở.

    Nàng quay xung quanh và bước thêm vài bước, trầm tư và kết thúc mỗi bước dài với một cái xoay kịch tính. Cuối cùng, nàng đứng phía trước một cái ghế bành. Có lẽ nàng nên trực tiếp: “Alec, chàng có biết là trong một ngày tốt lành em có thể biến chàng thành một con cóc?”

    Nàng thả người xuống cái ghế bành với một tiếng thở dài thất bại, lẩm bẩm, “Như vậy chỉ hiệu quả nếu chàng là người hài hước.”

    Chống cằm lên bàn tay, nàng choàng qua tay vịn của cái ghế và nhìn chăm chú vào Beezle. Nó ngáy ngay lúc cái đồng hồ điểm hai giờ. Nàng nhìn lên, nghĩ rằng lẽ ra chỉ mới nửa đêm. Những cái kim đồng hồ bằng đồng tinh tế bắt đầu quay như chong chóng trong cơn bão.

    “Ôi, ngừng lại!” nàng nói, giọng nói trầm xuống với chán ghét. Cái dây cót chính bắn xuyên qua mặt đồng hồ với tiếng rít chói tai.

    Ngọn lửa bắt đầu bùng lên, những ánh lửa nhảy múa như thể đang gầm lên. Một cánh cửa cạch đóng lại. Nàng quay lại.

    Alec đứng phía bên kia căn phòng.

    Nàng đứng dậy khỏi ghế, nhưng không ai nói một từ. Ngọn lửa bùng cháy và kêu tanh tách phía sau.

    Beezle thở khò khè.

    Trái tim Joy đập thình thịch.

    Quai hàm Alec siết chặt lại.

    Cái đồng hồ kêu kin kít.

    Ánh mắt chàng rời khỏi nàng, đột nhiên cau mày. “Điều quái quỉ gì đang diễn ra với tất cả đồng hồ trong ngôi nhà này?” Chàng băng qua căn phòng với ba bước dài và đứng trước lò sưởi, nhìn chăm chăm vào cái đồng hồ đã hỏng.

    Joy lùi về sau để cái ghế bành ở giữa họ. Nàng nắm chặt lấy hai tay vịn và nói.

    “Đó là điều em muốn nói với chàng.”

    Chàng quay lại. “Những cái đồng hồ? Ta không đến đây để nói về đồng hồ.” Chàng bước về phía nàng.

    “Vì chàng nhắc tới nó, em nghĩ –”

    “Quên mấy cái đồng hồ đi. Đây là đêm tân hôn của chúng ta.”

    “Em biết, nhưng có điều này chàng cần phải biết.”

    “Thả tóc của nàng xuống đi,” chàng thì thầm, chỉ đứng cách khoảng hai bước.

    “Em-”

    “Ta nói, thả tóc nàng xuống.”

    “Uhm, nếu chàng thật sự muốn em…”

    “Scottish…”

    Với âm thanh hầu như là tiếng thì thầm của cái tên đó bằng giọng nói trầm mê hoặc của chàng, nàng kéo những cái kẹp ra khỏi mái tóc. Chàng ngắm nàng, có điều gì đó giống như vui thích trong đôi mắt đen của chàng. Một suy nghĩ bất chợt xuất hiện trong đầu nàng là nếu nàng làm theo mong muốn của chàng, có lẽ chàng sẽ dễ tiếp thu lời thú nhận của nàng, khi nàng đã lấy đủ can đảm để thốt ra.

    Mái tóc đổ xuống lưng nàng. Nó quá nặng nên nàng thường luồn những ngón tay qua nó và lắc đầu đề làm dịu đi cơn đau nhói trên da đầu. Nàng giơ tay lên, nhưng Alec đã ở đó, đằng sau nàng và hai bàn tay chàng giữ nàng lại.

    “Để ta.” Giọng của chàng ở ngay trên đầu nàng và quá gần nên nàng có thể cảm nhận được hơi thở của chàng trên tóc nàng.

    Rồi nàng cảm thấy hai bàn tay chàng lướt trên tóc nàng như những cái lược dịu dàng. Chàng kéo đầu nàng ra sau tựa vào vai chàng và nhìn chăm chú vào khuôn mặt nàng. Miêng chàng chỉ cách nàng một hơi thở, một hơi thở nhỏ.

    Chàng hôn nàng. Một tay giữ lấy tóc nàng trong khi tay còn lại vươn tới để vẽ lên đường nét của cổ và cằm nàng với những cái chạm nhẹ nhàng và dịu dàng như những bông tuyết. Lưỡi chàng chạm vào môi nàng và nàng mở ra, chấp nhận nụ hôn của chàng với cùng sự cấp thiết và niềm vui quá mạnh mẽ mà trái tim nàng đã chấp nhận chàng như người yêu của nàng với chúng.

    Một chút lý trí nhỏ nhoi lặp lại, nói cho chàng, nói cho chàng…

    Nhưng chàng xoay nàng lại trong tay, môi chàng không hề rời khỏi nàng, và cánh tay nàng trượt vòng qua cổ chàng. Miệng chàng di chuyển chậm rãi để hôn lên má, quai hàm rồi tai nàng.

    “Chúa ơi, Scottish, ta muốn nàng biết bao.” Hai bàn tay chàng nắm lại phía sau nàng và chàng nâng nàng lên áp vào chàng khi lưỡi chàng tìm tòi vào trong tai nàng.

    “Em cần nói với chàng một điều,” nàng thì thầm giữa những nụ hôn nóng bỏng, tuyệt vời.

    “Nói với ta bất kỳ điều gì. Chỉ cần để ta chạm vào nàng.” Bàn tay chàng ôm lấy ngực nàng.

    “Em là một phù thủy.”


    (8) bone china: Một loại đồ sứ được chế tác chủ yếu bằng tro xương động vật trộn với khoáng chất Fensfat và đất sét trắng.

    (9) Gargantua: Có lẽ là bắt nguồn từ câu chuyện The life of Gargantua and of Pantagruel nói về những chuyến phiêu lưu của hai người khổng lồGargantua và con trai ông ta, Pantagruel.
     
  13. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 9

    “Nàng có thể là bất kỳ cái gì nàng thích miễn là vẫn ở trên giường.” Môi chàng lấp kín miệng nàng và chàng dẫn nàng đến bên giường, quì một gối lên đó và đặt nàng lên trên tấm khăn trải giường, cánh tay vẫn vòng quanh thắt lưng nàng làm nàng uốn cong người về phía chàng. Đôi môi chàng rời khỏi nàng.

    Nàng đẩy hai vai chàng. “Alec, làm ơn… nghe em nói.”

    Miệng chàng phủ lấy bầu ngực của nàng, kéo căng nó qua lớp lụa mỏng của cái váy dài.

    Nàng rên rỉ và siết lấy đầu chàng để đẩy chàng ra, nhưng một lúc lâu mà vẫn không làm được. Cánh tay rảnh rang của chàng di chuyển tới thắt lưng rồi trượt xuống chân nàng để kéo cái váy dài lên. Nàng cảm thấy lòng bàn tay ấm áp của chàng lướt nhẹ trên lớp da mịn màng phía trong đùi nàng. Nàng thở hổn hển và đẩy bàn tay chàng ra.

    Chàng ngẩng đầu lên, cau mày.

    Nàng bò ra khỏi bên dưới chàng và quì trên mấy cái gối, thở gấp hổn hển. “Em là một phù thủy. Một phù thủy thực thụ.”

    Hai mắt chàng nhíu lại. Vẫn cúi người xuống giường, hai bàn tay chống thẳng xuống tấm đệm mềm mại, chàng không rời mắt khỏi mắt nàng. Đôi msắt chàng tối sầm và nóng bỏng, hơi thở nặng nề vì ham muốn và giận dữ. “Đây không phải lúc để trêu đùa đâu, vợ của ta.”

    “Đây không phải một trò đùa,” nàng thì thầm, giọng có chút chán nản. “Em thực sự là một phù thủy Scotland biết làm phép.”

    “Không nghi ngờ gì một nửa dòng máu Scot trong nàng tin nàng là phù thủy.”

    “Em không mất trí đâu, Alec! Đó là sự thật!” Nàng có thể thấy sự ngờ vực trong mắt chàng. Nàng nhìn xung quanh căn phòng để tìm cách để thuyết phục chàng. Cặp mắt nàng bắt gặp cái đồng hồ hỏng.

    Nâng một tay lên, nàng nói, “Xem này”, và chỉ vào cái đồng hồ: “Dây cót đang nhảy múa, quay trở lại nơi bắt đầu.”

    Cái đồng hồ vang lên tiếng va chạm, nhưng không có gì xảy ra. Alec lắc đầu và nhổm dậy khỏi giường để đứng cạnh nó. Chàng lấy tay bóp trán, rồi nhìn lại nàng, biểu cảm của chàng ân cần và kiên nhẫn hơn. “Có lẽ chúng ta nên chậm lại. Nàng còn trẻ và ngây thơ. Ta hiểu. Chàng bắt đầu đi vòng qua cái giường. “Nàng đã hoảng sợ, nhưng-”

    “Em không hoảng sợ! Em là một phù thủy!” Nàng trượt khỏi giường và ra khỏi tầm tay của chàng, tư thế bướng bỉnh và cằm giơ lên. Quyết tâm và có một chút tuyệt vọng, lần này nàng dùng cả hai tay: “Làm ơn lắng nghe bùa chú của ta. Hãy phục hồi hoàn toàn cái đồng hồ!”

    Trong một giây ngắn ngủi mắt nàng lóe sáng với hy vọng, rồi ngạc nhiên, rồi kiêu hãnh. Nàng mỉm cười và chỉ về mặt lò sưởi “Kìa. Thấy chưa?”

    Cái đầu kiêu ngạo của chàng lắc một cái và chàng cho nàng cái nhìn biểu thị lần này chàng sẽ chiều lòng nàng. Chàng liếc mặt lò sưởi một cái, rồi quay đi… và quay phắt đầu lại thật nhanh khiến nàng chỉ nhìn chàng thôi cũng đã chóng mặt. Chàng lắc đầu rồi lại quan sát cái đồng hồ.

    Sau một lúc im lặng căng thẳng, chàng chầm chậm bước về phía lò sưởi, không rời đôi mắt thận trọng khỏi cái đồng hồ. Chàng vươn tay về phía nó, rồi do dự cứ như sợ nó có thể cắn chàng. Bàn tay chàng ngập ngừng chạm lên mặt kính đồng hồ.

    “Trước đó nó đã bị hỏng.” Lòng bàn tay chàng ấn lên mặt đồng hồ. Chàng quay sang nàng, khuôn mặt sửng sốt và bối rối.

    “Giờ chàng tin em chưa?” Nàng khoanh tay trước ngực như bản mô phỏng hoàn hảo của bà Watley.

    “Làm sao em làm được?”

    “Ma thuật.”

    Mắt chàng hẹp đi và đôi môi mím lại. “Điều đó không có thật.”

    “Dì MacLean đã nói người Anh rất cứng đầu,” nàng lẩm bẩm, nhìn quanh căn phòng để tìm cách khác chứng minh điều nàng nói là sự thật. Ánh mắt của nàng gắn vào lò sưởi. “Hãy đứng lui lại và tránh xa ngọn lửa.”

    Chàng di chuyển để nắm chặt lấy lưng một cái ghế bành, trông có vẻ bối rối.

    Nàng nâng hai tay và cong những ngón tay lại trong khi cố gắng tập trung. Nó mất một lúc.

    “Người ta nói tất cả người Scotland đều gàn dở.” chàng thì thào.

    “Em nghe thấy rồi,” nàng nói, không rời mắt khỏi ngọn lửa. Rồi nàng ngâm nga “Ôi ngọn lửa đang cháy, hãy làm những gì người dám. Tóe lửa, thổi phì phì, kêu tanh tách, và bùng cháy!”

    Ngọn lửa, vốn chỉ là một ngọn lửa nhỏ, bắn thẳng lên ống khói, sức nóng phả ra hơi nóng mãnh liệt vào trong căn phòng, lên cả khuôn mặt sửng sốt của chồng nàng. Tóc chàng xù lên vì luồng hơi nóng. Chàng lùi lại, khuôn mặt cứng rắn xúc động và nhìn trừng trừng vào ngọn lửa.

    Chàng muốn bằng chứng? Nàng hỏi thầm. Em sẽ cho chàng thấy. “Ôi ngọn lửa mới bốc cháy, hãy biến mất!” Nàng búng ngón tay và ngọn lửa đã tắt.

    Một lúc lâu sau Alec vẫn đứng đó, không di chuyển hay nói chuyện, thở thều thào.

    “Em là một phù thủy.”

    Vào lúc này, chàng hoang mang nhìn vào nàng. “Đây không phải truyện cổ tích nào đó. Phù thủy không tồn tại.” Chàng nghe có vẻ như đang cố gắng thuyết phục chính mình.

    “Em có tồn tại.”

    “Lạy Chúa, ta là một công tước.” Chàng hạ xuống một tông giọng đáng sợ. “Điều duy nhất ta không chịu được là bị lừa phỉnh. Đây là một trò bịp bơm - một kiểu trêu đùa nào đó. Ta không thấy nó hài hước đâu. Nàng là Nữ công tước xứ Belmore.” Chàng đi sang phía cánh cửa qua phòng kế bên và giật mạnh cánh cửa mở ra, liếc vào nàng. “Ta sẽ trở lại sau vài phút, và ta mong đợi nàng sẽ giải thích cách cư xử của nàng.” Cùng mệnh lệnh đó chàng biến mất qua lối đi.

    Joy ngồi phịch xuống mép giường trong thất bại, hành động đó làm cho mái tóc dài nặng nề đổ xuống như thác quanh nàng. Nàng cầm lên một nắm tóc đầy và ném nó qua vai.

    Đây là lý do vì sao các phù thủy không tiết lộ thân phận với người bình thường, nàng nghĩ, đôi mắt tối tăm giận dữ là hình ảnh duy nhất của chàng mà nàng có thể mường tượng ra. Chẳng hiểu sao nàng đã không nghĩ rằng nó sẽ như thế này. Nàng thở dài, cam chịu rằng nàng còn vài điều để thuyết phục chàng.

    Chàng làm rầm rầm loanh quanh trong căn phòng kia. Nàng tái mặt. Tiếng thủy tinh chạm vào thủy tinh, chàng đang rót đồ uống. Sau đó là im lặng. Nằm lên trên mấy cái gối, nàng xoa đôi mắt rát bỏng rồi nhắm mắt lại và chờ đợi.

    Khi tiếng cửa đóng lại vang lên, nàng ngồi dậy, chớp mắt. Chàng giữ một ly rượu hổ phách lớn trong tay. Nàng nở một nụ cười nhẹ. Những gì nàng nhận được cho nỗ lực đó là một cái nhìn lạnh lẽo. Chàng đi thẳng đến chỗ mấy cái ghế bành và tựa lên một cái ghế, vắt chéo một chân lên cái kia khi đứng đó chờ đợi. Chàng hớp một ngụm rượu và gõ một ngón tay sốt ruột lên cái ly. “Rồi, vợ yêu, hãy giải thích cái trò bịp bợm về ma thuật của nàng đi.”

    “Đó không phải là trò bịp bợm.”

    Mắt chàng lần nữa hẹp lại. “Nàng đang nói dối.”

    Với một tiếng thở dài cam chịu, nàng trượt khỏi giường, đôi chân trần bước nhẹ trên sàn khi nàng vòng qua giường và lại gần chàng. Ánh mắt nàng chuyển từ khuôn mặt giận dữ của chàng đến cái ghế bành kia.

    Nàng nâng bàn tay lên và nhắm mắt lại, cố gắng tưởng tượng cái ghế bay lơ lửng trên cao trong căn phòng.

    Sau một giây tập trung nàng búng những ngón tay. “Lên!”

    “Quái quỉ!”

    Nàng mở mắt ra và nhìn lên trên.

    Cả Alec và cái ghế đang ở cách sàn 5 feet.

    “Ôi! Lạy Chúa!”

    Chàng nhìn xuống sàn nhà. “Điều này không xảy ra được.”

    “Nó có thể.”

    “Nó không thể, chết tiệt!” Chàng nhìn nàng trừng trừng.

    “Nó có thể.”

    “Ta đang nằm mơ,” chàng ngoan cố nói. “Đánh thức ta dậy.”

    “Alec, em là một phù thủy, và chàng không thể ra lệnh cho em không là thế.”

    Màu sắc giận dữ trên khuôn mặt chàng phai dần cho đến khi chàng nhợt nhạt với nhận thức. “Nàng là một phù thủy.”

    Nàng gật đầu.

    “Ta đã kết hôn với một phù thủy,” chàng tuyên bố dứt khoát, rồi nhìn chung quanh chàng như mong đợi chính Quỉ dữ sẽ bay lượn bên cạnh chàng. “Một phù thủy?” Chàng cau mày và xoa nắn thái dương bên trái với hai ngón tay. Chàng liếc xuống sàn nhà, năm feet khá xa bên dưới chàng, và nhìn lại vào nàng. “Một phù thủy.”

    Nàng gật đầu một lần nữa.

    “Nàng là một phù thủy,” chàng thông báo cho căn phòng. Lơ lửng phía trên mặt sàn, chàng nhìn vào cái ly và mau chóng nuốt hết rượu trong ly với một ngụm lớn.

    “Vâng.”

    Chàng nhìn chằm chằm vào cái ly rỗng một chốc, rồi nhìn xuống sàn. Chàng di chuyển hai chân, quan sát nó lủng lẳng trong không khí. Cái nhìn ngờ vực của chàng lao qua trái rồi phải. Chàng nhìn lại vào khoảng cách giữa chân và cái thảm. Chàng quay lại để nhìn chòng chọc vào nàng, quay lại cái sàn, rồi trực tiếp hướng về nàng.

    “Chàng tin em?”

    “Đưa ta xuống khỏi chỗ chết tiệt này! Ngay!”

    Joy từ từ hạ hai cánh tay xuống và cả cái ghế và chồng nàng rơi mạnh xuống sàn. Cái ly rơi khỏi tay chàng và lăn lông lốc trên tấm thảm.

    “Ôi, Alec!” nàng kêu lên, chạy về phía nơi chàng đang nằm dài trên sàn, có vẻ rất không giống một công tước. “Em rất xin lỗi!”

    Nàng vươn về phía chàng.

    Chàng do dự và tránh khỏi nàng.

    “Alec…

    Chàng nhanh chóng đứng dậy, không rời đôi mắt cảnh giác khỏi nàng.

    Nàng bước về phía chàng và lại gần.

    “Xin chàng.”

    “Tránh ra!”

    “Em biết điều này là… một bất ngờ, nhưng-”

    Vẻ mặt chàng biến từ sửng sốt sang giận dữ. “Bất ngờ?” Chàng nói qua hàm răng nghiến chặt.

    Nàng cắn môi.

    Nàng nhìn đăm đăm xuống hai bàn tay đang siết chặt của mình. Chàng đang nhìn nàng với sự chán ghét đột ngột đến mức nàng không thể nhìn nó lâu hơn chút nào nữa. Biết rằng chàng xem nàng như một quái vật làm nàng quá đau đớn. Cổ họng nàng bắt đầu nhức nhối.

    “Một bất ngờ là khi ai đó tìm thấy một đồng curon trong túi, phu nhân. Không” – chàng di chuyển tới lò sưởi và vẫy bàn tay giận dữ vào cái đồng hồ - “không phải khi người ta thấy cô dâu của họ là một… một…” Chàng vẫy thêm vài cái vòng quanh khi cố gắng phun cái từ đấy ra.

    Nàng nhắm chặt mắt và kìm xuống, nhưng nước mắt nàng vẫn tràn ra. “Một phù thủy,” nàng thầm thì.

    Một phút giày vò tràn ngập sự lặng im giận dữ.

    “Lạy Đấng toàn năng… Chúa ơi!”

    Nàng mở mắt ra chỉ để thấy tất cả sự giận dữ đã rút khỏi khuôn mặt chàng.

    “Không thể tin được.” Chàng nhìn xuyên qua nàng. “Không thể tin được ta đã cưới nàng, trước những người làm chứng trong một nhà thờ.” Chàng bắt đầu đi về cánh cửa, giống như đang mất hồn.

    Ngập ngừng nàng vươn tới - một lời cầu xin - khi chàng bước qua, nhưng chàng tránh xa nàng và vượt qua mà còn không nhìn vào nàng. Nàng nuốt xuống khó khăn rồi nghe chàng lẩm bẩm, “Nữ công tước mới của Belmore - Belmore - là một mụ phù thủy khát máu.”

    Cổ họng nàng thít chặt, nàng lại nuốt xuống, tay nàng che lấy miệng cứ như nó sẽ giúp nàng khỏi khóc òa lên. Cánh cửa lách cánh mở ra. Một giây sau, nó đóng sầm lại.

    Một hơi thở sâu run rẩy và nàng quay qua nhìn đăm đăm vào cánh cửa đóng kín với đôi mắt nhòe nước. Khi hình ảnh của chàng cuối cùng đã biến mất, chỉ lâu hơn một chút so với một trí nhớ tạm thời, nàng chầm chậm quay đi, trái tim nằm trên cổ họng và ngực nàng thít chặt đến mức một hơi thở sâu cũng là điều không tưởng.

    Một cách yếu ớt nàng bước tới và trườn vào giữa giường, nàng đã bị tổn thương. Hình ảnh khuôn mặt chàng lóe lên trong tâm trí nàng, sửng sốt, cự tuyệt, giận dữ. Nàng chưa bao giờ cho ai biết nàng là phù thủy. Nàng đã không ngờ tới sự chán ghét. Nước mắt bóp nghẹt cổ họng nàng. Nàng làm chàng kinh tởm. Chồng của nàng. Làm sao ai đó có thể yêu một con quái vật?

    Dạ dày nàng cuộn trào cho đến khi nàng nghĩ nàng hẳn đã phát ốm vì tủi nhục. Nàng kéo đầu gối lên ngực và siết chặt lấy lớp khăn lụa trải giường trong tay, như thể nó là thứ duy nhất trên đời này nàng cần bấu víu lấy.

    Ngực nàng đau đớn vì tổn thương. Nàng thở nặng nhọc và chẳng thể kiềm nén được nó cũng như nước mắt đang tuôn ra từ mắt nàng. Cơn đau thoát khỏi cổ họng nàng bằng tiếng khóc khàn khàn, như tiếng kêu của một con chim bị bắn khi đang bay lượn, nhấn chìm tiếng lộp độp bất ngờ của những giọt mưa đập vào cửa sổ. Nàng xoắn khăn trải giường trong tay, chặt hơn và chặt hơn, cho đến khi nàng cuối cùng chôn đầu trong những cái gối mềm như mây và giấu đi những giọt nước mắt của nàng. Ngoài kia, mưa đang trút xuống, giống như bầu trời cũng đang rơi lệ.

    ***

    “Dậy đi. Chúng ta cần nói chuyện.”

    Joy ngồi thẳng dậy ngay khi giọng nói cáu kỉnh của chồng nàng vang lên. Một giây sau nàng chộp lấy cái ga giường đang rơi và gạt mái tóc lộn xộn khỏi khuôn mặt, rồi nhìn vào chàng, người đang đứng ở chân giường.

    Chàng trông thật tệ. Tóc chàng rối bời, như thể chàng đã vò tay qua nó một ngàn lần. Một dấu mờ mờ tối màu của bộ râu trên quai hàm cứng rắn của chàng và quầng đen do một đêm không ngủ làm mắt chàng hõm xuống. Chàng vẫn mặc cái áo choàng dài màu xanh lục đó, nhưng lớp vải nhung nhăn nhúm và cái đai bị chùng xuống, cái nút buộc bị xoắn về một bên, làm một ve áo cao hơn cái bên kia. Chàng có mùi của brandy.

    Nàng ngoảnh đi, nhìn về phía cánh cửa sổ dài bên cạnh lò sưởi. Bình minh tỏa ánh sáng hồng qua những ô cửa sổ phòng ngủ và căn phòng lạnh lẽo, ngọn lửa đã tắt ngúm cũng như niềm hy vọng của Joy. Chàng sẽ hủy bỏ cuộc hôn nhân này. Đó là lối thoát duy nhất. Nàng đã hiểu ra điều đó vào khoảng ba giờ sáng.

    Chàng bắt đầu bước đi chậm rãi, trầm ngâm, không nhìn vào nàng. “Đầu tiên ta phải xin lỗi vì đã la hét. Ta chưa bao giờ mất kiểm soát. Dù vậy, xét tới tình huống này, ta hy vọng nàng sẽ hiểu cho sai sót của ta.”

    Joy gật đầu. Chàng chẳng có vẻ hạnh phúc hơn chút nào lúc bay lượn so với nàng khi nàng bay qua ô cửa sổ nhà thờ đó. Nhưng một lời xin lỗi không phải điều nàng đã chờ đợi. Nàng biết rằng giờ đã là năm 1813, nàng không cần lo bị dìm xuống sông, ném đá hay thiêu cháy trên cọc. Nhưng nàng đã không mong đợi một lời xin lỗi, đặc biệt khi điều gì đó làm nàng biết rằng Alec chưa bao giờ xin lỗi bất kỳ ai.

    “Ta muốn một vài giải đáp.”

    Nàng lại gật đầu, cắn môi.

    “Có phải nàng…” Chàng vẫy tay, như mỗi khi chàng không thể thốt ra những gì chàng muốn nói.

    “Phù thủy… cái chết… Nàng có chết không?”

    “Chàng muốn biết liệu phù thủy có sống lâu hơn người bình thường không?”

    “Phải.”

    “Không. Phù thủy và pháp sư vẫn bị ốm và cuối cùng sẽ chết như mọi người.”

    “Cuối cùng?”

    “Giống như người bình thường.”

    “Ta hiểu.” Chàng dường như đang tiêu hóa điều đó.

    “Nhưng em chỉ là một phù thủy lai thôi.” Giọng của nàng đầy hy vọng. “Bà nội của em là người bình thường.”

    “Như vậy phần đó trong câu chuyện của nàng là sự thật?”

    Nàng gật đầu. “Em đang đi đến Surrey và nhà Locksley là họ hàng của em, nhưng họ đã đối xử rất tàn nhẫn với bà em.” Nàng dừng lại và lặng lẽ thú nhận, “Nhưng không có cỗ xe nào cả.”

    “Ta hiểu.” Chàng ngừng lại, rồi nói, “Ta không chắc mình muốn nghe điều này, nhưng làm thế nào nàng xuất hiện ở con đường đó?”

    “Em đã mắc một sai sót nhỏ.”

    “Một sai sót nhỏ? Nếu sai sót nhỏ của nàng là điều gì giống như bất ngờ của nàng, ta nghĩ tốt nhất nên ngồi xuống.” Chàng bước tới một cái ghế bành, xoay nó lại và ngồi xuống, đối diện nàng với cái nhìn chờ đợi.

    “Có lẽ tùy vào mỗi người sẽ thấy nó như thế nào.”

    “Cứ giả bộ nàng là ta.”

    Nàng hít một hơi sâu. “Bùa chú di chuyển rất khó, nhưng nếu chàng làm đúng, một câu thần chú sẽ dịch chuyển chàng từ nơi này tới nơi khác.”

    “Dịch chuyển?”

    Nàng gật đầu. “Em tin rằng em có thể chỉ cho chàng thấy một lần dịch chuyển ngắn nếu chàng muốn.”

    Chàng giơ một bàn tay lên, lắc đầu. “Không! Ta đã thấy đủ những bất ngờ nhỏ rồi.”

    Joy thấy có vẻ chàng đang tiếp nhận chuyện này khá tốt, khi xem xét đến phản ứng của chàng tối qua. Chàng không la hét. Nàng có thể chịu đựng lời châm chọc của chàng.

    Hai cánh tay chàng chống lên ghế và chàng nâng cái chắp tay lên miệng và im lặng trong một phút ngẫm nghĩ. “Nàng nói bà nàng là một người bình thường. Chuyện gì đã xảy ra với cha mẹ nàng.”

    “Họ đã mất trong một dịch tả khi em lên sáu. Dì của em đã nuôi nấng em.”

    “Bà ấy là… một người như em?”

    Khuôn mặt Joy tỏa sáng như thể cái giá nến trong phòng ăn. “Ồ, vâng! Bà ấy là một phù thủy MacLean, người mạnh nhất trong tất cả phù thủy và pháp sư. Chàng nên xem bà làm phép. Phép thuật đó thật hoàn mỹ. Mọi thứ bà làm đều hoàn hảo và bà tuyệt đẹp và uy nghiêm.” Joy không thể ngăn mình nâng cằm lên một chút.

    “Bà ấy là một phù thủy rất quan trọng.”

    “Bà phù thủy mẫu mực này đang ở đâu?” Chàng gõ một ngón tay lên môi.

    “Bà đã đi tới Mỹ trong hai năm. Bà cần làm môt số công việc trong hội đồng ở đó.”

    “Công việc trong hội đồng?”

    Nàng gật đầu và hé miệng ra để nói.

    Bàn tay chàng lại giơ lên, lần này vẫy một ngón tay. “Bỏ đi. Người Anh đang chiến tranh với Mỹ. Ta cũng không nghĩ mình muốn biết điều đó.” Chàng nhìn vào lò sưởi, rồi đứng dậy và bước về phía mặt lò sưởi nơi chàng lại yên lặng quan sát cái đồng hồ.

    Âm thanh duy nhất mà Joy nghe được là tiếng nhịp tim đập của nàng.

    Chàng đan hai bàn tay sau lưng và liếc lên trần nhà được tô vẽ, rồi để ánh mắt đặt lên nàng, cho nàng một cái nhìn bình tĩnh. “Ta đã đi đến một kết luận.”

    Nàng chợ đợi, nín thở, hai tay nắm lại, trái tim nằm ở cổ họng.

    “Chúng ta sẽ giữ cuộc hôn nhân này.”

    “Chúng ta sẽ?” Nàng gần như ngất xỉu trước cơn sốc của sự khuây khỏa.

    “Phải. Chưa từng có một vết đen trên cái tên Belmore - không có sự hủy bỏ và đương nhiên là cuộc ly hôn10 nào - và ta không có ý định khởi đầu cho bất kỳ sự hổ thẹn nào. Ta cần một người vợ. Cần những người thừa kế,” chàng dừng lại.

    “Ta cho rằng điều đó có thể xảy ra khi xét tới tình trạng nàng là máu lai của phù thủy với người bình thường.”

    “À, vâng…”

    “Vậy thì ta không thấy có vấn đề gì. Nàng sẽ vẫn là vợ ta. Cuộc hôn nhân này sẽ không bị hủy bỏ. Hôn nhân này đã được đăng ký và chứng kiến. Nó hợp pháp và chỉ cần hoàn thành. Và nếu đêm qua là bất kỳ dấu hiệu nào, ta không tin chúng ta sẽ có vấn đề trong việc đó. Nàng là vợ ta. Nàng vẫn sẽ là vợ ta và Nữ Công tước xứ Belmore, nhưng” - chàng giơ một ngón tay lên - sẽ không có thêm những trò phù phép này nữa.” Chàng lại vẫy tay vòng vòng.

    “Ý chàng là em không được dùng ma thuật?”

    “Không, nàng không thể.” Những đường nét của chàng cũng cứng rắn như giọng chàng. “Ta cấm tiệt chuyện đó. Ta sẽ không để mái nhà của Belmore bị ô nhục bởi bất kỳ tai tiếng nào. Và ma thuật sẽ là chuyện tai tiếng nhất trong tất cả những tai tiếng. Nàng hiểu chưa?”

    Nàng gật đầu, cảm thấy tội lỗi vì đã không nói cho chàng biết trước đám cưới. Nhưng nàng đã quá mong muốn trở thành vợ chàng. Và nàng phải thừa nhận là một phần trong tim nàng đang vui mừng. Nàng đã có một cơ hội để làm chàng yêu nàng. Có lẽ phần người bình thường trong nàng có thể biến nàng thành một nữ công tước hết sức tuyệt vời. Có lẽ ma thuật của nàng có thể, vào đúng lúc, có ích cho chàng. Chàng chỉ cần điều chỉnh lại. Nếu nàng thực sự cố gắng, có lẽ chàng sẽ yêu nàng môt chút xíu. Rồi có thể ma thuật của nàng sẽ không làm chàng lo ngại nữa.

    Nhưng còn một điều nàng vẫn cần nói với chàng, vì chàng đã nhắc tới nó và vì nàng đã thú nhận hết, gần như thế. “Chàng nên biết nếu chúng ta có con-”

    “Khi.”

    “Khi cái gì?”

    “Khi chúng ta có con.”

    “Chàng không biết chắc được chuyện đó. Trẻ em là món quà từ thiên đường.”

    “Nàng tin tưởng vào thiên đường?”

    “Tất nhiên. Em là phù thủy, không phải kẻ ngoại đạo.” Nàng cho chàng cái nhìn căm phẫn.

    “Vậy những chuyện tôn sùng Quỷ dữ đó là gì?”

    “Lời đồn đãi. Một phù thủy tốt sẽ không dùng ma thuật để tổn thương bất cứ ai hoặc cái gì.” Ít nhất là không cố tình, nàng nghĩ, rồi liếc lại chàng. “Chàng vừa nói gì đó?”

    “Không có gì quan trọng.”

    “Thế à, như em sắp nói với chàng, em được nuôi dạy tin tưởng vào Chúa trời ở trong mọi thứ - cây cối, biển cả, bông hoa, chim chóc và động vật, thậm chí trong trái tim chúng ta. Chàng tin vào Chúa chứ?

    “Ta cũng không được nuôi dạy thành một kẻ ngoại đạo.”

    “Uhm… chà, về những đứa trẻ…” Nàng xoắn một mớ tóc trong một ngón tay.

    Chàng giơ một bàn tay công tước lên để làm nàng im lặng. “Vô sinh chưa bao giờ là vấn đề của nhà Belmore.”

    Chàng ngắm nàng xoắn tóc. Cái nhìn nóng bỏng. Chàng đứng dậy và bước một bước về phía nàng.

    “Yên tâm đi, Scottish, nàng sẽ có những đứa con của ta.”

    Một lát sau chàng đã đứng bên giường và Joy nhìn lên chàng. Chàng vươn tới để chạm vào má, rồi vuốt ve đường tóc của nàng, những ngón tay chàng chải vuốt qua đám tóc của nàng. Chàng có thể chạm vào nàng. Đã có hy vọng.

    “Ta sẽ đảm bảo chuyện đó,” chàng thêm vào, hơi thở làm da đầu nàng nhồn nhột.

    Một cái đầu gối nam tính chìm vào tấm đệm và bàn tay chàng miễn cưỡng rời khỏi tóc nàng. Rồi cánh tay chàng giữ lấy hông nàng. Chàng di chuyển tới gần nàng, mắt chàng nóng bỏng và đòi hỏi.

    Nàng nuốt nước bọt và thốt ra, “Những đứa trẻ có thể… giống em.”

    Chàng đông cứng trên đường đến môi nàng. Chàng nhắm mắt trong giây lát.

    “Phù thủy hoặc pháp sư.”

    Cái đồng hồ điểm một phần tư giờ và chàng nhìn vào nó, cái nhìn cảnh giác, giọng chàng lạnh lẽo. “Ta hiểu.” Chàng quay lại và khuôn mặt chàng nói rằng chàng có thể “hiểu” nhưng chắc chắn chàng chẳng thích thú gì. Chàng hít một hơi thở sâu và dài, rồi một cái nữa, và sau một lúc im lặng ngắn ngủi, chàng đứng dậy khỏi giường.

    “Ta nghĩ…” Chàng quay đi khỏi nàng, không thấy được sương mù đã quay lại với đôi mắt buồn của nàng. “Ta lại cần gặp người quản lý sáng nay.” Chàng bước tới cánh cửa giữa hai phòng và mở nó ra.

    “Tối nay chúng ta sẽ nói chuyện” Và chàng rời đi.


    (10) annulment (hủy bỏ) và divorce (ly hôn) là hai hành động khác nhau: annulment được sử dụng khi xóa bỏ cuộc hôn nhân và coi như nó chưa từng tồn tại, không hợp pháp, khi một bên chứng minh là mình bị lừa dối, hoặc bị ép buộc,..; divorce là hành động kết thúc một cuộc hôn nhân hợp pháp.
     
    hathao, Breeze, oiseauparadis and 4 others like this.
  14. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 10

    Đêm đó họ đã không nói chuyện. Alec bị gọi đi công tác và đã rời đi vào ngay chiều hôm đó. Chàng không có vẻ bực mình về việc phải rời đi, điều mà chẳng giúp cải thiện tâm trạng của Joy. Chàng đã đi được năm ngày rồi.

    Trong ngày đầu tiên chàng vắng mặt, người thợ may địa phương đã tới lúc mười một giờ và dùng thời gian còn lại trong ngày để chọc, kẹp, kéo và ném hàng đống vải vóc lên người Joy. Nàng cảm thấy mình như một con búp bê bị yểm bùa lúc người phụ nữ và người giúp việc của bà đã rời đi.

    Kể từ đó nàng chẳng làm gì nhiều ngoài việc đi thơ thẩn xung quanh điền sản rộng lớn này, giống như nàng đang làm bây giờ, đi bộ dọc theo con đường đá vòng quanh những khu vườn trang trọng của Belmore Park. Đó là một buổi chiều mùa đông xám xịt, ngọn gió quấn vạt váy lên hai chân nàng, những chiếc lá đốm nâu, rơi xuống từ hàng rào cây và những bụi táo gai, nhảy nhót vòng quanh chân nàng. Những quả mọng chín đỏ của một bụi nhựa ruồi gai nằm rải rác như những viên thạch anh máu trên đường đi khi nàng hướng về phía cái cây thủy tùng đang giúp lối vào của những khu vườn thêm phần duyên dáng.

    Suốt bốn ngày qua nàng đã đi tới chỗ này nhiều lần, cố gắng cảm thấy thoải mái ở một nơi, ngoại trừ Polly và Henson, cho nàng cảm giác không được chào đón. Nàng cúi đầu trong trầm tư khi bước vào khu vườn và chầm chậm đi tới cái ghế đá mà nàng đã dành quá nhiều thời gian ở đó dạo gần đây.

    Đó là một nơi yên bình. Hai cái vòi phun bắn nước lên trời và chúng lao xuống, hợp thành hồ nước bên dưới, âm thanh đó cũng êm dịu như tiếng sóng vỗ ở Vịnh Mull. Ít nhất trong một thời gian ngắn ngủi nó giúp xoa dịu cảm giác bứt rứt xuất hiện do ở trong một môi trường lạ lẫm, do suy nghĩ rằng nàng chẳng phù hợp với nơi đây, và quan trọng nhất là do sự nghi ngờ về cuộc hôn nhân giữa nàng và Alec.

    Trong một chốc hình ảnh khuôn mặt chàng sẽ lướt qua trí nhớ của nàng - kinh sợ - cách mà ban đầu chàng nhìn vào nàng, cứ như nàng chính là Quỉ dữ. Hình ảnh kế tiếp là một người đàn ông muốn nàng và có đôi mắt sẫm màu từng ánh lên nỗi khát khao, của một vài nhu cầu mà bản năng cho nàng hay rằng đã kết nối họ với nhau.

    Hay đó chỉ là sự thèm muốn? Không, nàng nghĩ, có điều gì đó khác ở đó. Điều gì đó đã nói cho nàng biết trong ngày họ gặp nhau rằng chàng cần nàng cũng khẩn thiết như nàng cần chàng yêu nàng. Nàng vẫn cảm giác đó là sự thật. Nàng sẽ không - không thể - ở lại nếu điều đó không đúng. Nhưng nàng cũng muốn chàng yêu nàng dù chỉ một chút thôi. Nàng không cần cả trái tim chàng, không hẳn vậy, chỉ cần một góc nhỏ của nó - một góc nhỏ của thiên đường.

    Hiện tại, trong một khoảng khắc ngắn ngủi, nàng có thể ao ước, mơ mộng và hy vọng trong khi đang ngồi trong vườn nơi thiên nhiên là người bạn duy nhất của nàng. Nàng cảm thấy thoải mái nhất ở đây, ngồi đây hòa làm một với thực vật, cây cối và bầu trời, thu lấy năng lượng từ tự nhiên để làm nàng trở nên trọn vẹn. Nàng yêu những thứ ngoài trời - những bông hoa, chim chóc, động vật và phép màu tuyệt diệu làm một chiếc lá cỏ nhú lên, một bông hoa bừng nở và một cái cây cổ thụ vươn lên cao lớn như sắp chạm tới thiên đường.

    Những khu vườn này là nơi mà vài ngày trước đó nàng lần đầu tiên được thấy nghệ thuật tạo hình khôi hài, với cây cối và hàng rào có hình dạng như tất cả các loài động vật nàng rất muốn được trông thấy. Nên đây là nơi nàng đến để suy ngẫm khi sự hoan nghênh nàng có vẻ đã cạn kiệt - hoặc có lẽ nó chưa bao giờ tồn tại.

    Vẫn cô đơn và một chút buồn bã, nàng liếc qua các tạo hình xung quanh nàng, hy vọng có cảm giác được an ủi bởi sự hài hước của nó. Cái nàng thích nhất là con hươu cao cổ, được tạo bởi những nhánh cây mập mạp của cây vân sam đã được cắt tỉa, cái cổ dài của nó vươn cao hơn những khu vườn thấp, gần như cao đủ để chạm tới bầu trời. Nếu nàng thiết kết những khu vườn này, nàng sẽ đặt nó bên dưới một trong những cây sung dâu cao, như vây con hươu cao cổ sẽ trông như là đang vươn lên để gặm lá trên cây. Nó sẽ có vẻ ít giống như một hình ảnh tưởng tượng hơn.

    Ngoại trừ các tạo hình, không tìm được sự tươi vui nào trong khu vườn ở thời điểm này trong năm, không màu sắc. Không có các bông hoa nở bừng bảy sắc cầu vồng trong thời gian này, do đó khu vườn trông ảm đạm với sự đơn điệu của màu xanh mùa đông. Thực vật thì xám xịt vì lạnh giá, nhiều cái cây bị trụi lá, và chẳng có nhiều màu sắc trừ những quả mọng đỏ tươi của cây nhựa ruồi, nhưng chúng ít ỏi và chỉ có thể gặp trên con đường bên ngoài những khu vườn.

    Nàng xếp hai bàn tay trên vạt của cái váy dài cashmere tơ tằm và nhìn xa hơn những khu vườn. Không có băng trong cái hồ lớn hay cái bể nhỏ bên kia. Trời không đủ lạnh, nên trượt băng là không phù hợp, nhưng lại quá lạnh, xám xịt và tối tăm để chơi bất kỳ trò dưới nước nào hay chèo thuyền. Những bể cá thì trống rỗng, chỉ khá hơn những cái bát đá khô cạn trên bề mặt khu vườn môt chút. Nàng đã đi vào trong một trong năm cái mê cung, nhưng thấy nó không có chút thách thức nào nếu thiếu ai đó chạy đua để vào trung tâm. Giống như chơi trốn tìm một mình vậy.

    Nàng lướt qua những khu vườn tới một cây sồi cổ thụ. Một cái cây tán thật rộng, nó có những nhánh cây hình móng vuốt xòe rộng to như người nàng. Vỏ cây thì lốm đốm và sần sùi vì thời gian, gió và thời tiết. Cái cây này có cá tính riêng. Các phù thủy tin rằng điều kỳ diệu của sự sống chảy qua thân hình to lớn của cái cây như một dòng sông ma thuật. Cái cây càng già, năng lượng càng mạnh.

    Lần duy nhất khác mà Joy có thể nhớ được nàng đã cảm thấy rất buồn và tuyệt vọng là sau cái chết của cha mẹ nàng. Nàng đứng dậy và đi về phía cái cây, đứng lại phía trước nó và ngửa đầu ra để thấy được ngọn cây. Nàng vòng hai cánh tay ôm lấy cái thân cây to lớn và tựa ngực lên vỏ cây. Đôi mắt mệt mỏi và buồn bã của nàng từ từ nhắm lại. Nàng nghĩ có gì đó thật dễ chịu khi ôm một cái cây. Gần giống như cái chạm dịu dàng của bàn tay an ủi của người mẹ, như được bao bọc trong một nụ cười hoặc như được ai đó yêu thương, trân trọng.

    Vài phút sau nàng thở dài và tách khỏi thân cây. Nàng quay đi, mỉm cười tiếc nuối. Có lẽ mọi việc rốt cuộc không quá thảm thương. Bước theo con đường trong vườn, nàng đá một viên đá nhỏ phía trước nàng cho đến khi nó nảy lên đập vào cái bệ của chiếc ghế đá.

    Nàng một lần nữa ngồi xuống, nhìn xung quanh. Cái nhìn của nàng lang thang lên trên tới những nhân vật kỳ ảo đang đứng dọc theo đường mái nhà. Hôm qua nàng đã chú ý rằng chúng được dựng vòng quanh cả căn nhà. Từ bất kỳ góc độ nào người ta cũng có thể nhìn lên và thấy chúng. Lần đầu tiên nhìn thấy nàng đã tưởng tưởng ra chúng có vẻ đang nhảy múa ngang qua bầu trời - một vũ hội của các nhân vật kỳ ảo. Nàng mỉm cười với hình ảnh được gợi nhớ lại.

    Từ đây trong khu vườn nàng có thể nhìn thấy một con yêu tinh khom người xuống trên góc nhà gần nàng nhất, nhưng nó không thể làm gì ngoài việc đổ bóng xuống hình dáng và cái đỉnh tròn trĩnh của mái vòm hình lọ tiêu gần nhất. Alec đã nói những mái vòm đó ở phía trên các phòng ăn. Rằng nàng sẽ thích ngắm nó, nàng nghĩ với một tiếng cười.

    Sự buồn bã đăm chiêu đã siết chặt lấy ngực nàng một lúc trước đã biến mất. Những cái cây thật sự là sinh vật kỳ diệu.

    Trái tim nàng cảm thấy một chút háo hức khi một ý tưởng MacQuarrie lên men như rượu whisky Scotch trong đầu nàng. Có lẽ nàng nên xem cái mái nhà đó một lần. Alec đã tuyên bố khung cảnh ở đó “thú vị”. Hiện giờ nàng cần một chút thú vị và cái mái nhà là nơi nàng chưa khám phá. Chắc chắn Henson có thể dẫn đường cho nàng. Nàng đứng dậy khỏi băng ghế và nắm vạt váy trong tay, nhanh chóng đi về ngôi nhà.

    Một lúc sau nàng đã đi theo Henson lên một trong mười hai cái cầu thang. Mười hai cái! Không ngạc nhiên mấy nàng đã bị lạc. Một lần nữa Beezle bám trên lưng anh người hầu đáng thương. Henson thực sự rất giỏi về việc đó, chỉ tiếp tục đi và thực hiện chức trách của mình như thể việc có một con chồn đeo trên lưng là chuyện thường xảy ra nhất trên thế giới.

    Gần đây hầu cận của nàng có vẻ có khung hướng bám lấy anh chàng người hầu đứng đầu hơn là cuộn tròn lại ngủ say ở đâu đó. Ít nhất nàng hy vọng cậu chàng thích người đàn ông chứ không chỉ cái ruy băng vàng đang cột lấy đuôi sam của anh ta. Nàng nhìn gần hơn và một lần nữa thấy con chồn có vẻ như đang nhai nó. Nàng gõ một ngón tay lên phần thân sau của Beezle và cậu ta quay đôi mắt nâu nhỏ sáng long lanh lên nàng và cười nhăn nhở, những mảnh vụn của cái ruy băng vàng Belmore lộ ra từ hàm răng hoang dã đang nghiến chặt.

    “Mái nhà, thưa Đức bà.” Henson mở một cánh cửa ở trên đầu cầu thang. Joy vươn tới, kéo Beezle ra khỏi lưng anh người hầu và nhét hầu cận của nàng vững vàng dưới một cánh tay. Beezle rít lên bất mãn nhưng nàng không bị đe dọa, chỉ tóm lấy những phần của cái ruy băng vàng mà nàng có thể lấy được và đưa nó cho Henson. Đó là cái thứ tám tả tơi trong bốn ngày. “Tôi hết sức xin lỗi.”

    “Không hề gì, Đức bà.” Henson chấp nhận cái ruy băng rách bươm với một cúi chào hợp cách, khuôn mặt anh ta hoàn toàn điềm tĩnh, một điển hình của người hầu Anh ưu tú, trong bộ chế phục không một vết nhơ, ngoại trừ những sợi lông chồn màu trắng đã rải đầy trên vai và lưng của anh ta, mái tóc nâu đã thả xõa xuống và hỗn độn, cũng tơi tả như cái ruy băng.

    Cau mày, nàng nhìn xuống Beezle, tự hỏi bao nhiêu tóc của người đàn ông này đã nằm trong cái miệng nhỏ nhắn hoang dã của nó. Nàng treo nó trên vai và từ từ quay đi, cố gắng nuốt lấy sự tò mò về điều nàng đã thấy.

    “Đức bà có muốn tôi chờ không?”

    “Hửm?” Nàng quay lại phía Henson. “Ồ, không. Chỉ một chốc thôi, tôi sẽ ổn thôi.” Nàng quay lại để ngắm khung cảnh đó. Người ta có thể nhìn ra xa hàng dặm - những sườn đồi màu xanh trập trùng điểm xuyết những lùm cây xanh xám, một con sông như dải ruy băng xám xịt cắt qua một thung lũng và cung cấp cho cái hồ của ngôi làng và Belmore.

    Beezle rít lên và bắt đầu vặn vẹo trên vai nàng, kéo sự chú ý của nàng khỏi cảnh miền quê.

    “Được rồi, Đức bà. Thỉnh thoảng tôi sẽ kiểm tra để xem khi nào người muốn rời khỏi.” Anh ta bắt đầu quay đi, rồi ngừng lại. “Có lẽ tốt nhất là người không tự tìm đường quay lại, Đức bà.”

    Nàng cho anh ta một nụ cười xấu hổ. “Lo ngại tôi có thể xuất hiện ở phòng để đồ bạc?”

    “Rất có thể, hoặc có lẽ trong phòng bà Watley, nơi Đức bà có thể bị đông lạnh tới chết.”

    Joy bật cười. “Bà ấy có chút lạnh lùng, phải không?”

    “Khá lạnh lùng.” Không cười nhưng có ánh sáng lấp lánh rõ ràng trong mắt, anh ta đóng cánh cửa trên mái lại và nàng quay trở lại.

    Mái nhà, khung cảnh, tượng điêu khắc - đây thực sự là điều phi thường nhất nàng đã từng thấy.

    “Ôi, Beezle, nhìn này!”

    Nó tạo ra một tiếng kỳ quặc, nửa rít lên, nửa khụt khịt, và nàng quay lại để nhìn chằm chằm vào cái mặt chồn. Nàng nâng nó lên cho đến khi mặt nàng chỉ cách một inch khỏi cái mõm nhọn của nó. “Em muốn đi xuống để có thể quay lại với Henson phải không?”

    Nó lại vừa rít vừa khụt khịt.

    “Chị sẽ đặt em xuống, nhưng em phải ngừng ăn tóc của người đàn ông tội nghiệp đó. Em hiểu chưa?”

    Nó cho nàng một cái nhìn ngơ ngác, hoàn toàn vô tội, rồi nhấp nháy mắt để tăng hiệu quả.

    Một cái nhìn quở trách nữa và nàng cho nó xuống. Nó di chuyển nhanh hơn những gì nàng từng thấy trước đây, nửa tung tăng nửa lạch bạch, về phía lối đi tới cầu thang, nơi nó đứng trên hai cái đùi mập mạp và cào vào cánh cửa. Thở dài kiên nhẫn, nàng mở cửa ra. Nó biến mất trong cầu thang còn lẹ hơn một cú nhảy của con ếch.

    Nàng lắc đầu, làm một lời cầu nguyện nhanh chóng cho sự an toàn của mái tóc Henson, và quay lại. Ném môt cái nhìn ngắn hăm hở lên cái đường mái, nàng chạy về góc gần nhất. Con yêu tinh đứng đó, làm bằng đồng và với kích thước thực, bên trái nó là Pan, cùng với cái sáo ống. Hai thiên thần với kèn trompet và đàn hạc đứng đĩnh đạc kế bên một con sư tử đầu chim treo lơ lửng ở tư thế rình mò. Một nàng tiên được hoàn thiện với đồ sắt có vẻ đang nhảy múa về phía một hiệp sĩ Trung cổ mặc cả bộ giáp cỡi ngựa đấu thương đang cưỡi trên một con ngựa chiến lộng lẫy.

    Cao lớn, mạnh mẽ và hống hách là tên cướp biển đang đứng với mỗi tay đặt trên một con chó sói của thần Odin, và sau ông ta là hai con kỳ lân nghịch ngợm, một nhân mã, và Nữ thần hồ với tất cả những vẻ đẹp đầy xúc cảm của bà. Đứng xa hơn là một hiệp sĩ khác và quí cô của anh. Ba nữ thần tóc rắn và một nàng tiên cá bé nhỏ cô độc đứng bên sườn của cái ống khói gần nhất, theo sau bởi Pegasus và một vài quỉ lùn, người lùn và những thứ tương tự.

    Không để ý tới cơn gió lạnh lẽo đang thổi qua mái nhà với từng đợt gió giật ngẫu nhiên, nàng bước lại gần từng bức tượng đồng, gót đôi dép lê của nàng gõ nhẹ nhàng trên mái nhà bằng sắt cứng. Nàng chạm vào từng cái một, hình dung trong tâm trí một khung cảnh lấp đầy với những điệu vũ, trí tưởng tượng vui nhộn, cứ như mọi chuyện cổ tích và truyện dân gian ngắn, mọi truyện anh hùng hiệp sĩ hoang đường và hoành tráng, tất cả những câu chuyện tưởng tượng do ông bà kể lại đã sống dậy một cách kỳ diệu.

    Âm nhạc ngọt ngào và quí báu hơn mật ong mùa hè rót đầy tai nàng, và Joy xoay nhanh và xoay nhanh, nhảy múa theo giai điệu nàng tưởng tượng, hai mắt nhắm lại, tâm trí nàng trôi theo hình ảnh đó. Nàng xoay tròn trên một ngón chân, cái vạt của cái váy lụa cashmere mới của nàng phồng lên, và nàng mở mắt để thấy mình đang ở giữa một buổi khiêu vũ của các nhân vật kỳ ảo.

    Các thiên thần là có thật, sống động, với những đôi cánh màu vàng và kèn trompet đang ca hát và đàn hạc đang chơi. Pan chạy vòng tròn quanh nàng, thổi sáo vui vẻ, những nốt nhạc trong trẻo của một giai điệu sôi nổi như điệu jig của người Scot. Người hiệp sĩ xoay tròn bên cạnh nàng trong cái áo chén màu đỏ sậm, xoay quí cô mặc đồ màu xanh của anh ta trong hai cánh tay mạnh mẽ, con yêu tinh và những con quỉ lùn và những nữ thần tóc rắn - cũng có màu xanh xám như khu vườn mùa đông bên dưới - tất cả cùng di chuyển trong bữa tiệc trên mái nhà khổng lồ.

    Âm nhạc lớn lên. Những nhân vật kỳ ảo xoay tròn. Họ hạ xuống và xoay - một con kỳ lân, một sư tử đầu chim, một nàng tiên đang vỗ cánh mà đang bỏ qua các bước giống như những nốt trong âm nhạc - và Joy theo sau, chìm đắm trong lễ hội, không hơn gì mấy một cô gái trẻ bị mê hoặc trong buổi vũ hội đầu tiên. Nàng ngừng lại ở một cái mái vòm để dòm vào những cửa sổ tối đen khi nàng quay đi và trôi theo âm nhạc. Nhảy múa cho tới những cái cửa hai cánh, nàng giữ thăng bằng trên một ngón chân và nắm lấy tay cầm, nhưng chúng đã bị khóa, nên nàng xoay nhanh, cánh tay dang ra, đầu ngửa ra và một nụ cười trên môi.

    Nàng xoay nữa và nữa, mở mắt ra để thấy người hiệp sĩ kia đã xuống ngựa, cái giáo trên tay và cúi chào nàng. Mỉm cười, nàng giơ một bàn tay ra và sau một cái chạm môi lịch thiệp, anh ta dẫn nàng theo một điệu vũ sôi nổi Trung cổ và vòng quanh phòng mái vòm tiếp theo, rồi di chuyển để tán tỉnh và nhận được sự đồng thuận từ người cá. Âm nhạc vang to, cuốn theo cơn gió và kẻ cướp biển đi ngang qua, hai cánh tay đeo vòng vàng ôm trọn Nữ thần hồ mặc đồ trắng có vẻ đăm chiêu.

    Những nhân vật kỳ áo nhảy múa xung quanh nàng. Mê muội trong ma thuật của nó, nàng nhắm mắt và xoay nhanh giữa những nhân vật tưởng tượng, những người đang nhảy múa theo cách của họ trên mái của ngôi nhà uy nghi nhất Wiltshire. Điều đó giống như một chuyện thần tiên, hoang đường và dễ mê hoặc hơn bùa chú ma thuật mạnh nhất, và Joy là một phần trong đó, nhảy múa ở đó, bị mê mẩn bởi nó, lần đầu tiên cảm thấy đầy sức sống kể từ khi Alec hôn nàng.

    “Quái quỉ!”

    Joy vấp chân dừng lại. Đôi mắt tội lỗi bừng mở.

    Alec đứng ở cửa ra vào, cái nắm cửa bằng đồng thau bị siết chặt trong những khớp tay trắng bệch. Buổi khiêu vũ vẫn tiếp tục, ma thuật chưa biến mất, câu thần chú chưa bị phá vỡ. Khuôn mặt của chồng nàng trộn lẫn giữa cơn sốc và giận dữ. Chàng nhìn các nhân vật kỳ ảo, màu sắc rút đi khỏi khuôn mặt, đôi mắt chàng cảnh giác. Rồi chàng nhìn thẳng vào nàng. Chàng có vẻ đang hít những hơi thở sâu.

    Chàng bước ra khỏi ngưỡng cửa, chỉ để Pan nhảy múa vòng quanh chàng trong một vòng tròn trêu chọc của tiếng sáo dồn dập. Alec nhìn vào nàng. Nàng chưa bao giờ nhìn thấy một người đàn ông có mũi khạc ra lửa trước đây.

    Nàng co rúm lại và nhìn chàng bước dài về phía nàng. Chàng càng đến gần, cái giật trên má, cái cổ đỏ ứng và hơi thở nặng nề của chàng lại càng rõ ràng. Nàng chợt nghĩ rằng đối với một người đàn ông tự nhận là không bao giờ la hét và chửi thề hoặc cáu giận, chàng đã làm cả hai thứ khá nhiều gần nàng.

    Chàng đứng lại cách nàng khoảng ba bước và nhìn quắc mắt xuống nàng, quai hàm siết chặt tới mức nàng lấy làm kinh ngạc chàng có thể nói chuyện. “Chuyện gì đang diễn ra ở đây?”

    “Uhm… chà… em cho rằng chàng có thể… ý em là… đó là một vũ hội.”

    “Ta nhớ rõ đã bảo nàng không được có mấy trò làm phép nữa!” Chàng lại vẫy bàn tay.

    “Đây là một sự tình cờ.”

    “Nhân danh Chúa, làm thế nào điều này có thể” - chàng giơ lên bàn tay đang lắc, vẫn hét lên - “là một tình cờ?”

    Một cái giáo cắt xuống khoảng không giữa họ. “Ông già! Ngươi muốn cái đầu bị cắt xuống?”

    Cả hai người quay sang để nhìn là người hiệp sĩ bảnh bao, anh ta đang nhìn chòng chọc vào Alec.

    Đôi mắt Alec hẹp lại trong thách thức. “Ông già?”

    “Ngươi bị bạc đầu,” người hiệp sĩ nói, không bị đe dọa bởi cái nhìn chết chóc trên khuôn mặt Alec. Anh ta bỏ lơ chàng và quay sang Joy, cho nàng một cái gật đầu nhỏ. “Quí cô, nàng có muốn đầu của lão già này trên cái đĩa bạc không?”

    “Ôi, lạy Chúa!”

    Người hiệp sĩ rút ra thanh gươm và chỉ vào cổ của Alec mà đã tối sầm lại chuyển từ đỏ sang tím.

    “Không! Làm ơn!” Hai tay Joy che lấy miệng nàng.

    Người hiệp sĩ ghim Alec với một cái nhìn cứng rắn. “Tất nhiên! Ngươi nghĩ ngươi là ai mà nói thế với một quí cô? Ngươi là cha của nàng à?”

    “Ta… là… chồng… của nàng,” Alec nói qua hàm răng siết chặt.

    Người hiệp sĩ giảm bớt tư thế đe dọa.

    “Và ta,” Alec nói với giọng to hơn, “muốn nàng kết thúc chuyện vớ vẩn này.” Chàng vẫy một bàn tay ra xung quanh, rồi kẹp đầu thanh gươm với hai ngón tay dài và kéo nó ra khỏi cái cổ họng đang tím lại của chàng. Chàng di chuyển khuôn mặt lại gần nàng thêm vài inch. “Ngay!”

    Hít một hơi dài lấy sức mạnh, Joy nhắm mắt lại. Làm ơn để nó có hiệu quả. Nàng giơ hai bàn tay lên cao và kêu lên, “Những thứ không như chúng thể hiện. Chấm dứt giấc mơ này!”

    Nàng búng những ngón tay và chậm rãi, rất chậm rãi mở ra một con mắt xanh lục ngờ vực. Một tiếng thở dài nhẹ nhõm thoát khỏi môi nàng. Người hiệp sĩ đã biến mất. Vũ hội đã kết thúc. Và tất cả những bức tượng một lần nữa lại làm từ đồng và quay trở lại vị trí dọc theo đường mái.

    Alec đứng sững một lúc, rồi hấp háy mắt hai lần và nhìn xung quanh mái nhà, cái nhìn của chàng dừng lại ở người hiệp sĩ đang cưỡi trên con ngựa của anh ta. Joy thực sự kinh ngạc vì bức tượng không bị chảy ra dưới cái nhìn trừng trừng của chồng nàng.

    Chàng quay lại với nàng, vẻ cau có giận dữ chưa dịu lại.

    “Chàng không già,” nàng nói, hy vọng sẽ xoa dịu được chàng. Một cái nhìn lướt lên mặt chàng cho nàng hay mánh khóe của nàng không hiệu quả.

    Chàng hít hai hơi thở sâu. “Lạ thay. Ta tin rằng mình đã già đi cả thập kỷ trong vài ngày vừa qua.”

    “Đó thực sự chỉ là tình cờ,” nàng thầm thì. Hai mắt nàng mở to khi, xuyên qua bờ vai thẳng, cứng rắn của Alec, nàng bắt gặp bóng dáng của Pan - hai tai màu nâu nhọn, hai cái sừng dê và tất cả - khi cậu ta ngó ra từ đằng sau một cái mái vòm và di chuyển nhẹ nhàng tới cái sáo ống của cậu ta, hiện đang nằm bơ vơ ở giữa mái nhà.

    “Giải thích đi.” Alec khoanh tay trước ngực và gõ những ngón tay trên một cánh tay, chờ đợi.

    Pan lén lút lại gần và gần hơn với cái sáo ông, và nàng biết tên tiểu quỷ này sẽ chơi nó nếu nó vào trong tay cậu ta. Nàng nâng một bàn tay lên trên không, như để che đi một cái ngáp và vẫy một ngón tay qua không khí, hình dung trong đầu cái sáo ống trượt trên mái nhà và khuất khỏi tầm nhìn của chồng nàng.

    Thay vì vậy cái sáo ống bay lên, lơ lửng trên không khí như những nốt nhạc từ những cái ống sáo của nó.

    Pan cau mày với nàng, đôi lông mày màu nâu dày rậm của cậu ra nhăn lại như những con sâu đo màu nâu. Rồi cậu ta cố gắng nhảy lên để tóm lấy cái sáo ống. Joy giả vờ ho một cái ngay đúng lúc móng guốc của cậu ta đập lên mái nhà bằng sắt.

    Cậu ta tiếp tục nhảy; Joy tiếp tục ho.

    “Ta vẫn đang đợi một lời giải thích, và ho sẽ không cứu được nàng.” Alec đứng đó, vẫn khoanh tay, quai hàm siết lại, đôi mắt chờ đợi và không cái nào vui vẻ, hoàn toàn không nhận ra điều gì đang diễn ra sau lưng chàng.

    “Đợi em một chút,” nàng ho khan một cách rất kịch, đập bàn tay vốn không thực sự xòe ra trong không khí lên ngực.

    Pan có vẻ đã từ bỏ và ngừng nhảy lên nhảy xuống, nhưng sự nhẹ nhõm của nàng rất ngắn ngủi. Cậu ta quay khuôn mặt tinh quái về phía nàng và từ từ nở nụ cười - nụ cười tự mãn tinh nghịch - và nàng quan sát trong sợ hãi khi cậu ta nhẹ nhàng đi về phía cánh cửa lên mái. Trước khi nàng có thể búng ngón tay, cậu ta đã mở cửa. Với một cái nháy mắt quỉ quái và cái vẫy tay hân hoan, cậu ta bước vào trong và đóng cánh cửa lại sau lưng, đi sâu vào trong căn nhà khổng lồ mà nàng sẽ không bao giờ tìm ra cậu ta.

    Tiếng lóc cóc của móng ngựa vang lên từ con đường rải sỏi bên dưới. Alec quay về phía nó, nàng cũng vậy. Một tiếng kèn trompet vang lên, và trong một tích tắc Joy nghĩ một thiên thần cũng còn tự do. Cái kèn lại vang lên và một nhóm người cưỡi ngựa, được dẫn đầu bởi đội kèn trompet mặc chế phục vàng và tím, lại gần ngôi nhà.

    “Chết tiệt…” Alec nhìn trừng trừng vào đội diễu hành với vẻ của người bị quấy nhiễu. “Họ mặc chế phục của hoàng gia.” Chàng xoa cái sống mũi. “Tạ ơn Chúa họ không đến đúng lúc để xem được cái ta đã thấy.” Sau một tiếng thở dài chịu đựng, chàng nắm lấy bàn tay nàng. “Tới đây. Chúng ta tốt nhất nên đi xuống lầu để xem chuyện này là thế nào.” Chàng gần như lôi nàng tới cánh cửa và kéo nó ra, dừng lại để lướt nhìn qua mái nhà. Rồi nhìn xuống nàng. “Nàng có thể giải thích hành động của mình cho ta sau, vợ à.”

    Nàng thấy mình hầu như phải chạy để theo kịp sải chân dài của chàng sau khi họ đã xuống cầu thang. Joy lén lút nhìn qua mọi ngõ ngách và khe hở với hy vọng nhìn thấy đôi tai nhọn màu nâu, hai cái sừng hay móng dê.

    Alec kéo nàng xuống hành lang dài ở tầng trệt và thả tay nàng ra chỉ đủ để mở cái cửa hai cánh cửa có ô bằng gỗ óc chó. Rồi chàng lại nắm tay nàng và kéo nàng vào trong căn phòng và tới cái trường kỷ bằng da thuộc được khâu thành các hoa văn hình thoi.

    “Ngồi xuống!”

    Joy sụt xuống cái trường kỷ. Căn phòng có mùi giống chồng nàng, một hỗn hợp của thuốc lá và da thuộc và mùi gì đó nam tính và có chút kỳ lạ, giống như đàn hương. Nàng quan sát chàng bước về cái bàn giấy có hai hộc tủ làm bằng gỗ cây dái ngựa đang nằm phía trước hai cánh cửa Pháp cao mười hai feet. Qua những cửa sổ có ô hình thoi dài bên cạnh hai cánh cửa, nàng có thể thấy màu xanh của khu vườn và một chút màu xanh dương bạc của hồ nước ở xa hơn.

    Lo lắng và có chút bồn chồn, nàng xếp hai bàn tay trên đùi và cắn môi. Buồn chán với việc đó, nàng nhìn vào cái ô gỗ óc chó, rồi vào những cái ô kính vát trên những cánh cửa mà che đi một vài tủ sách ở sâu hơn. Trừ những cái cửa sổ dài, các tủ sách có vẻ bao quanh hết căn phòng. Nàng vặn vẹo một chút, rồi đứng dậy để có thể chỉnh lại vạt váy đã bị xếp lại khi nàng ngồi xuống.

    “Ngồi lại!”

    Nàng ngồi xuống lại với một cái giật mình. “Nhưng-”

    “Im lặng!”

    Nàng cau mày, tự hỏi liệu giờ đây chàng có ra lệnh cho nàng để mua vui. Quá tệ là chàng không có chút hài hước nào, nếu không nàng có thể đã phải sủa rồi. Nàng cắn lại một nụ cười, có cảm giác là phá ra một tiếng cười bồn chồn sẽ làm nàng gặp rắc rối hơn.

    Một tiếng gõ cửa cụt ngủn vang lên ở cánh cửa.

    Một lát sau cái đồng hồ cao ráo điểm bảy lần.

    “Chết tiệt!”

    Mắt Joy mở to. Nàng nhìn vào Alec, người đang nhìn đăm đăm vào cái đồng hồ.

    Hiện đang là ba giờ.

    Alec quay sang nàng. Nàng rụt lại và nhún vai.

    Có một tiếng gõ khác, to hơn.

    “Vào đi,” Alec nạt, đứng ở cái bàn giấy với những cánh cửa kính phía sau chàng và ánh sáng rực rỡ buổi chiều tà xuyên qua lớp kính và làm nổi bật chàng trong ánh sáng mặt trời. Chàng có vẻ còn đáng sợ hơn, cao hơn và giận dữ hơn.

    Townsend mở cánh cửa và bước vào, hắng giọng và thông báo, “Tin nhắn từ Hoàng thân, Hoàng tử George.”

    Alec gật đầu và người quản gia mở cánh cửa rộng ra. Một người hầu với nguyên bộ chế phục hoàng gia chính thức đi vào và bước về phía bàn giấy, nơi anh ta cúi chào và đưa cho công tước một phong bì màu kem.

    “Dành cho Đức ngài, Công tước xứ Belmore.”

    Alec cầm lấy bức thư, liếc lên người quản giá sau khi nhìn vào dấu niêm phong chính thức. “Townsend, ta chắc các gia nhân hoàng gia của hoàng tử nhiếp chính của chúng ta sẽ muốn nghỉ ngơi một chút. Chăm lo việc đó đi.”

    “Cảm ơn, thưa Đức ngài.” Anh người hầu cúi chào lần nữa. “Tôi được yêu cầu chờ đợi hồi âm.”

    “Tốt thôi.” Alec đáp lại với tông giọng cụt ngủn. “Ngươi có thể chờ đợi hồi âm của ta trong phòng bếp cùng những người khác.”

    “Tất nhiên rồi, thưa Đức ngài.” Cánh cửa cạch đóng lại.

    Alec nhìn vào các cánh cửa, rồi từ từ ngồi xuống bàn giấy, rọc mở bức thư bằng dao mở thư mà chàng đang cầm như một con dao găm, thứ mà không làm vững dạ khi chàng có một cái nhìn đáng sợ trên khuôn mặt góc cạnh. Chàng nhìn lướt qua lá thư và chửi thề, tựa lưng lên ghế và nhắm mắt lại cứ như lá thư mang tới lời tuyên án tử hình của chàng.

    “Chúng ta bị triệu tập tới Dinh thự Carlton.”

    Joy nhìn vào chàng với đôi mắt mở to. “Chúng ta phải làm gì?”

    “Hoàng tử mong muốn được gặp Nữ công tước xứ Belmore mới.”

    “Em?” Joy chỉ vào mình.

    “Phải, nàng. Dường như ta có đặc ân được giới thiệu Hoàng thân, Hoàng tử nhiếp chính với vợ ta, một phù thủy.” Chàng xoa bàn tay trên trán và lẩm bẩm, “Người biến những bức tượng thành sinh vật sống và nhảy múa với chúng trên mái nhà của ta.”

    “Ông ấy là người thế nào?”

    “Hư hỏng, đòi hỏi khắt khe, béo mập, độc đoán và đủ mê tín để làm nhiều điều hơn là cắt cổ hai chúng ta nếu ông ta chứng kiến điều gì giống như ta thấy ngày hôm nay.” Chàng châm chọc nàng với một cái nhìn quở trách khác.

    Joy quá kinh ngạc để chú ý tới. Nàng sẽ gặp mặt hoàng tử nhiếp chính, chính bản thân Prinny già cả. “Ôi, lạy Chúa.” Nàng liếc về phía chồng nàng và có thể thề rằng nàng nghe hàm răng của chồng nàng nghiến ken két. “Làm thế nào ông ấy biết được đám cưới của chúng ta quá sớm?”

    “Ta không nghi ngờ gì. Đó phải là do bà phù thủy nhiều chuyện-”

    Joy thở hắt ra.

    Chàng nhìn vào nàng và vẫy bàn tay trong khi chàng tìm một từ khác. “người phụ nữ khó chịu ấy, Quí bà Agnes, và hai người bạn gàn dở của bà ta.”

    “Bao giờ chúng ta phải rời đi?”

    Vẫn nhìn chăm chú vào nàng, chàng gõ những ngón tay trên bàn. “Sáng mai.”

    “Sớm như vậy?”

    Chàng đứng đấy, nhưng không trả lời. Thay vì vậy, chàng bước về phía nàng.

    Nàng nhìn lên khuôn mặt nghiêm nghị của chàng.

    “Nàng phải hứa với ta - không có bùa phép nữa.”

    Nàng chỉ nhìn chăm chú lên chàng, thấy đôi mắt chàng khóa chặt với sự lạnh lẽo. Ôi, Alec, nàng nghĩ, chàng cần ma thuật của em.

    Chàng đánh vỡ câu thần chú bằng cách nắm vai nàng và kéo nàng lên đối mặt với chàng. “Nàng có thể hứa với ta điều đó không?”

    Nàng nhìn vào mặt chàng, quá nghiêm túc, quá lo lắng, quá gần gũi. Nàng muốn chạm vào chàng và đặt một bàn tay lên ngực chàng, gần trái tim mà nàng muốn một mảnh nhỏ của nó. Nàng sẽ hứa hẹn với chàng bất cứ điều gì.

    “Vâng.”

    “Không có thêm vấn đề với những cái đồng hồ đó.”

    “Không đồng hồ nữa.”

    “Không có” - chàng vẫy bàn tay đó vòng quanh - “chuyện dịch chuyển.”

    “Không dịch chuyển nữa.”

    “Không có thứ gì hay con người lơ lửng trên không trung.”

    “Không lơ lửng nữa.”

    “Không có những bức tượng nhảy múa nữa?”

    Đầu nàng lóe lên hình ảnh khuôn mặt tinh quái của Pan. Chà, họ sẽ rời đi và điều Alec không hay biết sẽ không gây hại cho chàng. “Không có những bức tượng nhảy múa nữa.” Rồi nàng thêm vào, “Từ lúc này trở đi.”

    Hai bàn tay chàng xoa bóp bờ vai nàng rất nhẹ nhàng và chàng có vẻ đang nhìn chăm chú hơn vào miệng nàng. Đôi mắt chàng rực sáng với nhu cầu, đúng như lúc chàng hôn nàng trước đó. Chàng đã không hôn nàng kể từ khi nàng nói cho chàng biết nàng là phù thủy. Nàng muốn chàng hôn nàng, ở đây, bây giờ, để nàng biết chàng không nghĩ nàng là quái vật, để kết thúc sự xa cách đau đớn này.

    Nàng nâng bàn tay lên khỏi ngực nàng và vươn lên để chạm vào miệng chàng. Cùng lúc đó bàn tay chàng hướng về mặt nàng. Chàng ngừng lại. Bàn tay nàng áp lên má chàng. Chàng có vẻ đang cân nhắc điều gì đó trong đầu, đấu tranh với chính mình. Hơi thở của chàng trở nên trầm hơn. Bàn tay chàng ôm lấy cằm nàng, ngón tay cái vuốt ve đường viền hàm của nàng. Chàng vẫn đang nhìn miệng nàng.

    Hôn em… hôn em đi…

    Chàng đã ở quá gần. Nếu nàng vươn lên trước chỉ một chút…

    Nàng đã làm thế. Chàng thì không.

    Một tiếng hét kinh hoàng vang lên từ phía xa.

    Họ nảy lên, phép màu đã biến mất, và nhìn về phía cửa.

    Bàn tay đã vuốt ve quai hàm nàng chỉ một khắc trước đã thả xuống bên hông chàng. “Nhân danh Chúa, chuyện gì ở đó?” Alec tiến về cửa ra và nàng theo sau. Họ bước vào hành lang và nghe sự rối loạn ở gần cầu thang chính. Nàng phải chạy để theo kịp chàng rồi gần như trượt trên mặt cẩm thạch của tiền sảnh lớn.

    Thân hình cao sáu feet của bà Watley nằm ngất xỉu ở giữa sàn. Những người hầu lăng xăng đi qua đi lại, và Townsend quì kế bên bà. Henson sải bước vào từ một hành lang khác, một ly nước trong tay và Beezle bám đằng sau lưng. Polly bám sát theo anh ta, tay cầm cái sừng hươu.

    “Xảy ra chuyện gì?” Những người hầu tách ra để Alec đến gần.

    “Không rõ nữa, Đức ông. Có một tiếng thét sợ hãi và khi tôi tới đây, bà ấy đã như thế.” Townsend nâng đầu và vai bà quản gia lên, và Polly giữ một lọ muối ngửi dưới mũi bà.

    Người phụ nữ mở mắt ra. Bà chớp mắt và đẩy bàn tay ra khỏi mũi khi lẩm bẩm gì đó.

    “Chuyện gì thế?” Alec hỏi.

    Khuôn mặt của bà nhợt nhạt. Bà ấy chỉ một ngón tay run rẩy về phía bức tượng cẩm thạch trên một góc phòng gần cửa trước. “Ở đó. Những cái sừng. Ôi…” Mắt bà trợn ngược lên và bà lại ngất xỉu.

    Mọi con mắt trong căn phòng quay về phía góc phòng. Không có gì ở đó ngoài một bức tượng David. Joy cắn môi dưới.

    Nàng cảm thấy cái nhìn của Alec và làm một sai lầm là nhìn lên. Mắt của chàng nhíu lại trong nghi ngờ, và chàng nhìn thẳng vào nàng.

    Một hơi thở sâu và nàng nhún vai, hy vọng cảm giác tội lỗi không hiện ra trong mắt và nàng cầu nguyện Pan sẽ không thò ra từ một góc ngay lúc này.

    Sau khi nhìn chăm chú khá lâu, Alec quay lại với những người hầu. “Gửi ai đó tới ngôi làng để gọi bác sĩ. Nói ông ta đến ngay lập tức và đưa bà Watley lên phòng.” Anh quay sang hai người hầu gái. “Đừng để bà ấy một mình.”

    Một đội người hầu nâng người phụ nữ cao ráo lên và đưa bà về phía sau ngôi nhà. Alec quay sang Henson. “Chúng ta sẽ đi London vào buổi sáng. Chuẩn bị sẵn sàng đi.” Chàng quay sang Polly. “Xếp đồ của Đức bà và của ngươi. Ngươi sẽ đi cùng Henson và Roberts trong cỗ xe chở hàng. Ta muốn rời đi lúc tám giờ. Hiểu chưa?”

    “Vâng, thưa Đức ông.” Polly nhún gối chào và biến đi trong chớp mắt.

    Chỉ còn lại họ trong tiền sảnh, Alec quay sang Joy. “Bà ấy đã thấy cái gì?”

    Nàng rụt lại và nâng những ngón tay lên môi và cắn một cái móng tay.

    “Trả lời ta!” chàng nói với tông giọng thấp khàn khàn.

    “Pan.”

    “Pan?” chàng nghiến răng.

    Nàng chỉ lên trần và gật đầu.

    “Còn sống?”

    “Phải,” nàng nói nhỏ, thấy sắc mặt chàng sậm hơn khi màu đỏ giận dữ chuyển sang màu đỏ tím.

    “Tìm nó! Trước khi chúng ta rời đi. Nàng hiểu chưa?”

    Nàng gật đầu.

    Chàng quay đi với sự sắc bén của quân đội

    “Alec?”

    Chàng quay lại với cái nhìn đang nói “Gì nữa đây?”

    “Chúng ta phải rời đi sớm như vậy?”

    “Chúng ta cần đến London càng sớm càng tốt. Hoàng tử không thích chờ đợi và chúng ta chỉ có vài ngày để chuẩn bị cho nàng. Nếu rời đi sớm, chúng ta có thể ở Reading đêm mai, và đến London trong hai ngày, thay vì ba.” Alec xua nàng đi với một cái nhìn lạnh lẽo, nhưng Joy dừng chàng lại.

    “Chàng đang đi đâu vậy?”

    “Ta sẽ thức cả đêm xem xét sổ sách với người quản lý. Đã hai lần ta phải về nhà chỉ để phải rời đi lần nữa.” Chàng ngừng lại, quai hàm siết chặt, rồi thêm vào, “Đi tìm cái… cái thứ đó!”

    Nàng gật đầu.

    Chàng bắt đầu quay đi, nhưng dừng lại như bị buộc làm vậy. “Nàng có tìm được đường về phòng không?”

    “Được,” nàng nói với cái lưng cứng ngắc của chàng. “Em đã biết được đường vào ngày thứ hai.”

    “Tốt.” Chàng quay đi và bước xuống hành lang, hoàn toàn là ngài công tước lạnh lùng, cứng rắn.

    Nàng nhìn theo bóng lưng chàng cho tới khi chàng quay đi và khuất bóng. Rồi nàng lắng nghe tiếng gót giày gõ trên sàn cẩm thạch cho tới khi âm thanh đó nhỏ dần và biến mất. Cuối cùng nàng thở dài và chậm chạp quay đi để đi lên tầng, tâm trạng đột nhiên chán nản.

    Nàng bước trên sàn nhà cẩm thạch, ngừng lại và nhìn lên bích họa trên trần. Tất cả những thứ sang trọng xung quanh nàng - những cây cột và cầu thang cẩm thạch, hàng lang can mạ vàng được rèn đúc phức tạp, những cái bình cổ xưa như trái đất, đồ nội thất thì bóng loáng tới mức người ta có thể soi gương trên đó - dù vậy nơi này vẫn có vẻ lạnh lẽo và hiu quạnh như hang động Fingal.

    Và hiện tại nơi này là nhà nàng, ngôi nhà mà nàng không thích hợp. Nàng nhắm mắt và nuốt xuống, rồi quay sang nhìn lại cái hành lang nơi Alec đã biến mất.

    Bám lấy hy vọng, nàng nâng cằm lên và vươn thẳng vai. Sự quyết tâm làm mắt nàng sáng hơn. Nàng sẽ chiến đấu. Nàng sẽ là vị nữ công tước Belmore tuyệt nhất từ trước tới nay. Nàng không bằng lòng chấp nhận thất bại. Sau cùng, nàng cũng có dòng máu Anh, dòng máu quí tộc. Nếu nàng trở thành một nữ công tước hợp cách, Alec sẽ tự hào, có thể thậm chí còn kiêu hãnh về nàng như cái tên của chàng. Đó sẽ là một nửa của cuộc chiến, nàng dám chắc như vậy. Nếu nàng có thể làm chàng tự hào vì là nữ công tước của chàng, chắc chắn tình yêu sẽ theo sau.

    Một nụ cười tươi tắn tỏa sáng khuôn mặt khi nàng để tâm trí mơ mộng của mình tưởng tượng về ngày mà Alec sẽ nhìn xuống nàng với niềm kiêu hãnh. Chìm trong suy nghĩ, nàng trèo lên bậc thang, ngâm nga một bài hát tình yêu và lắc lư theo điệu nhạc cho đến khi nàng tới đầu cầu thang tầng hai và ngẫu nhiên bâng khuâng liếc lên trên, tưởng tượng ra khuôn mặt tự hào của chồng nàng, môi chàng hạ thấp xuống để tặng nàng một nụ hôn trước mắt cả thế giới.

    Đôi mắt mơ màng của nàng tập trung lên phía trên. Thứ nàng thấy không phải hình ảnh của chồng nàng.

    Một khuôn mặt tinh ranh, láu lỉnh cùng hai cái sừng dê đang cười nhăn nhở với nàng từ trên lan can tầng ba.

    “Đứa con Quỉ dữ bé nhỏ nhà ngươi!” nàng rít lên và nâng bàn tay để dịch chuyển cậu ta chỉ tích tắc sau khi cái đầu của cậu biến mất.

    Nắm vạt váy trong tay, Nữ công tước xứ Belmore lao lên cầu thang cứ như âm thanh của địa ngục đang đuổi theo nàng thay vì ở đâu đó phía trên - và phía trước nàng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/9/21
    hathao, LanNP, B-Mon and 5 others like this.
  15. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chapter 11

    “Quái quỉ. Giờ thì tuyết rơi rồi.” Alec nhìn trừng trừng vào Joy khi cỗ xe ngựa lê bước trên con đường đóng băng.

    Nàng giơ cằm lên thách thức và kéo chặt hơn một chút tấm choàng trong xe ngựa đang quấn quanh nàng trong một nỗ lực để được ấm áp. “Cái này không phải em làm. Em đã nói thế với chàng rồi khi cái xe chở hàng bị hỏng. Em không làm gì hết. Những cái đó thực sự là tai nạn. Em không liên quan gì tới cái trục xe bị gãy.”

    Mắt chàng tràn ngập hoài nghi.

    “Và,” nàng nói, “phù thủy không thể điều khiển thời tiết.”

    “Nhắc ta nhớ ngày nào đó trong tương lai rất gần phải kiếm một cái danh sách những gì phù thủy có thể và không thể làm.” Chàng quay cái nhìn giận dữ vào mưa tuyết bên ngoài cửa sổ xe ngựa. “Chết tiệt, lạnh quá.”

    “Đây là cái tấm choàng duy nhất?”

    Chàng nhìn vào nàng và gật đầu.

    Nàng cắn môi. “Em có thể giúp.”

    “Không.”

    “Nhưng tại sao chàng phải chịu lạnh khi em có thể gọi ra một cái chăn khác, hoặc thậm chí một tấm trải giường bằng lông vũ.”

    “Ta đã bảo không. Không phù phép.”

    “Nhưng không phải đây là một ngoại lệ?”

    “Không.”

    “Những hoàn cảnh khắc nghiệt?”

    “Không.”

    “Nếu đó là, ví dụ như, điều gì đó đe dọa tính mạng, em có thể dùng năng lực của mình không?”

    “Đây không phải - ta lặp lại, không phải - một tình huống đe dọa tính mạng.” Chàng quay lại với cái cửa sổ. “Nó là một cơn bão tuyết nhỏ, chỉ có thế.”

    “Nhưng trời lạnh khủng khiếp.”

    “Ta sẽ không bàn tới nó.”

    “Chàng nhắc tới trước.”

    Hơi thở của chàng trở nên rất kiểm soát và nặng nề.

    “Chỉ cần một cái búng nhỏ của…” Nàng bắt gặp cái nhìn của chàng và lẩm bẩm, “Bỏ đi.”

    Sau một lúc lâu trong sự im lặng sưng sỉa của chàng, nàng quay đi và nhìn lại ra ngoài cửa sổ. Nó có vẻ là một màu thuần trắng. Nàng chỉ có thể nhìn thấy một chút, vì lớp kính bắt đầu mờ đi. Trong cố gắng để nhìn rõ hơn, nàng lau cửa kính với hai bàn tay đeo găng, nhưng kéo chúng lại sau một phút. Cái cửa kính quá lạnh, nàng có thể cảm nhận được qua đôi găng tay da của nàng.

    Cỗ xe ngựa đi chậm chạp, tròng trành rồi thình lình giật mạnh sau tiếng quất đột ngột của người đánh xe. Sau ba lần tròng trành choáng váng nữa, biểu hiện của Alec chuyển từ phiền muộn sang lo lắng và chàng đứng dậy và gõ lên nóc cỗ xe, rồi vươn lên để mở cánh cửa sổ của người lái xe nhô ra phía trên nàng. “Ngoài đó tệ đến mức nào?”

    Jem già cả hét lên đáp, “Lạnh hơn cả núm vú của phù thủy11, thưa Tức ngài.”

    Joy không thể ngăn được một tiếng thở hắt tổn thương.

    Có một khoảng lặng dài. Alec không di chuyển, không nói chuyện, mặc dù Joy có ấn tượng rõ ràng là chồng nàng muốn nói gì đó. Nàng liếc lên nhưng bắt gặp bản thân nhìn chằm chằm vào cái áo ghi lê thêu kim tuyến màu vàng của chàng.

    Giọng nói khàn khàn của Jem vang xuống từ bên trên. “Xin Tức bà tha lỗi. Có một nữ công tước là chuyện mới mẻ, tôi đã quên mất pà ấy.”

    Alec hắng giọng rồi hỏi. “Con đường xấu thế nào?”

    “Lần cuối tôi có thể thấy thì tuyết dày tối thiếu khoảng nửa feet. Không thể thấy những chỗ nguy hiểm tong thời tiết này.” Cỗ xe ngựa lại chậm xuống và tiếng hí của những con ngựa truyền vào bên trong. “Đội ngựa đang có một chút khó khăn, thưa Tức ngài.”

    “Quán trọ gần nhất cách bao xa?”

    “Có lẽ một dặm, cũng có thể mười dặm. Không thế thấy một thứ quái nào-”

    Cỗ xe ngựa lại lảo đảo và Alec chống đầu gối trên ghế của Joy để giữ vững. Một chuỗi chửi rủa khàn khàn vang xuống từ chỗ ngồi của người đánh xe. “Xin Tức ngài tha lỗi, nhưng con ngựa dẫn đường chết tiệt này không thể ở yên trên đường.”

    “Có dấu hiệu nào của Willie không?”

    “Không thấy bóng dáng nào, thưa Tức ngài.”

    “Gõ lên nóc nếu anh ta xuất hiện.”

    Jem lầm bầm đồng ý và Alec đóng lại cái cửa lật phía trước và quay lại với cái cửa lật đằng sau mà mở về phía người hầu đang ngồi trong mái che xe ngựa. “Đằng sau vẫn ổn chứ?”

    “Lạnh, ướt, nhưng vẫn chịu được, Đức ngài.”

    “Tốt.” Alec đóng cái cửa lật và ngồi lại vào chỗ ngồi đối diện nàng. Nhiệt độ bên trong đã giảm xuống nhanh chóng và thậm chí với trang phục bằng len, cái áo choàng lông và tấm choàng len dùng trên xe ngựa, Joy vẫn cảm thấy da gà nổi lên.

    “Không phải họ đang đông cứng ngoài đó?”

    “Họ là gia nhân của Belmore và chỉ mặc những đồ mùa đông tốt nhất - áo khoác dày bằng da nhồi lông cừu có gắn thêm áo choàng. Không ngờ gì họ còn ấm áp hơn chúng ta nhiều.”

    “Ồ.” Nàng kéo tấm choàng chặt hơn bao quanh nàng và vẫn rùng mình.

    “Nàng có đủ ấm không?”

    Nàng gật đầu, hết sức cố gắng để giữ răng khỏi va lập cập.

    “Chắc chứ?”

    “Chắn chắn.” Nàng ôm cứng lấy mình để khỏi run rẩy.

    Họ im lặng một lúc. Rồi nàng có thể cảm thấy cái nhìn của chồng nàng.

    “Scottish?”

    Nàng liếc lên, âm thanh của cái tên đó đang làm những điều là lạ với dạ dày nàng.

    “Đến ngồi vào đây.” Chàng đập một bàn tay lên chỗ ngồi kế bên chàng và giơ ra cái còn lại cho nàng.

    Nàng khựng lại, cắn mội, đôi mắt cảnh giác.

    “Để giữ ấm.”

    Nàng hít một hơi dài và đặt bàn tay lên tay chàng, để chàng kéo nàng ngồi rất gần kế bên chàng, người họ chạm vào nhau từ vai đến đầu gối. Tay chàng trượt lên vai nàng.

    Sau một phút im lặng, nàng nhìn lên chàng. “Willie là ai?”

    “Người cưỡi ngựa mở đường. Ta để anh ta đi trước sau khi cái xe chở hàng bị hỏng, nhưng đó là trước khi cơn bão tới.” Chàng lại nhìn ra ngoài cửa sổ nhưng không thể thấy gì qua cái cửa sổ mờ căm ngoại trừ tuyết rơi mù mịt.

    “Em thực sự không liên quan gì với cái trục xe bị gãy,” nàng thì thầm.

    Chàng im lặng, vẫn nhìn tuyết rơi, khuôn mặt không thể hiện gì.

    “Chàng tin em không?”

    Sau một lúc chàng thừa nhận. “Ta biết nàng sẽ không muốn những người hầu bị nguy hiểm.”

    Nàng lắc đầu trong tán thành và gia nhập với chàng để nhìn tuyết rơi. Cỗ xe ngựa lảo đảo và trượt đi, âm thanh chửi rủa của người đánh xe và tiếng hí của đội ngựa là tất cả những gì họ có thể nghe thấy. “Chàng có nghĩ họ được an toàn không?”

    “Ai?”

    “Polly, Roberts và Henson.” Nàng dừng lại. “Và Beezle.” Nàng hít sâu và quan sát màn tuyết, hy vọng những người hầu sẽ không bị vướng trong cùng cơn bão, trong một cái xe ngựa bị hỏng.”

    “Chúng ta đã đi qua đường rẽ vào Swindon chỉ vài phút trước khi cái trụ bị gãy. Có một quán trọ chỉ cách hơn một dặm từ ngã rẽ đó. Vào lúc này hẳn họ đã ở bên trong cái quán trọ ấm áp đó, chờ sửa chữa cỗ xe. Ta đã để lại chỉ dẫn cho họ để gặp chúng ta trong quán trọ ở Reading. Đó là nơi ta đã nghĩ chúng ta sẽ nghỉ lại tối nay.”

    “Từ đó tới đây cách bao xa?”

    “Ta không chắc. Chúng ta ở đâu đó bên rìa Cotswolds. Khó mà nói chúng ta đã di chuyển bao xa trong thời tiết này. Không có ngôi làng nào trong hàng dặm trên quãng đường này.”

    Ngay sau đó cái cỗ xe lắc lư. Người đánh xe la hét. Cái roi da của ông ta vụt lên. Những con ngựa hí vang ngay khi cỗ xe loạng choạng tiến lên rồi nghiêng sang một bên.

    “Chết tiệt.” Alec siết lấy cánh tay Joy và chân chàng ép nàng vào chỗ ngồi. Họ trượt sang một bên và một tiếng rắc to vang sau họ.

    Cỗ xe ngựa yên vị ở tư thế nghiêng sang một bên và tất cả đã im lặng. Alec nhỏm dậy và giữ Joy ổn định trên ghế. “Nàng ổn chứ?”

    “Em ổn.”

    “Ở lại đây.” Chàng trèo qua nàng và di chuyển tới cánh cửa. “Ta phải kiểm tra những người khác.” Chàng mở nó ra và tuyết cuốn vào bên trong. Một giây sau cánh cửa đóng sầm lại.

    Nàng có thể nghe thấy chàng đang nói chuyện với người hầu, rồi nàng nghe Jem chửi rủa. Từ các giọng nói nàng có thể biết họ đều bình an. Nàng nhìn về phía cửa sổ nhưng tất cả nàng có thể thấy là màu trắng. Giọng nói của họ trôi đi và nàng rúc sâu hơn vào cái tấm choàng xe ngựa.

    Trời thực sự rất lạnh nên khi Alec mở cửa, nó còn trở nên lạnh hơn. Nàng rùng mình và nhắm mắt lại, cuối cùng cảm nhận được sự thiếu ngủ từ đêm trước khi nàng lang thang khắp căn nhà để tìm kiếm tên nhãi ranh Pan đó. Nàng đã mất hàng giờ lùng sục hết hành lang này đến hành lang khác và thậm chí một lúc ngắn ngủi trong Bramah khi nàng cố gắng triệu tập cậu ta. Nhưng tất cả đều vô dụng. Nàng không thể bắt được cả cái bóng của cậu ta.

    Trong liều lĩnh tuyệt vọng nàng lại đi lên mái nhà, sau khi nhận được chỉ dẫn từ một người hầu đang vội vã mang một rương đồ của nàng xuống lầu. Trên mái nhà nàng nhặt được cái sáo ống, nghĩ rằng nàng có thể dùng nó để nhử Pan ra từ bất kỳ chỗ nào cậu ta đang trốn. Rồi nàng tốn thêm mười phút quí giá nữa đề lang thang xuống sảnh bên dưới cầu thang chính, thổi sáo lạc tông và giấu nó sau lưng khi ngẫu nhiên gặp bất kỳ người hầu nào. Dẫu vậy nàng không thể tìm thấy Pan, và không có bùa chú nào làm cậu ta xuất hiện.

    Cuối cùng nàng thấy cậu ta trong phòng để thức ăn, nhồi đầy khuôn mặt mập mạp nhỏ bé của cậu ta với thạch quả quất vàng và một chảo đầy bánh sữa mật ong mới nướng. Cần đến hai câu thần chú để trả lại nhóc quỉ này lên đúng vị trí của cậu ta trên mái nhà. Lần đầu tiên, cả hai người họ xuất hiện trong chuồng ngựa. Nàng lỡ nói “móng” thay vì “mái”12”.

    Nhưng cuối cùng nàng cũng trườn vào những tấm ga giường lạnh lẽo và xoay xở ngủ được một giờ trước khi Polly đánh thức nàng với bữa sáng, không có bánh sữa mật ong, thứ mà Polly nói đã biến mất trong đêm…

    Suy nghĩ đó nhắc nàng nhớ về sự an toàn của người hầu gái của nàng, Beezle và những người khác. Nàng hy vọng họ đang trú trong quán trọ ấm áp nào đó.

    Cỗ xe rung lên, rồi có gì đó đập vào nó. Nàng có thể nghe thấy những con ngựa và tiếng chuông lắc của bộ yên cương. Rồi có vài tiếng nói chuyện nữa, nhưng nàng không nghe được từ nào. Một lúc sau cánh cửa mở ra, tuyết trượt vào bên trong như bột mì từ một cái thùng bị đổ. Alec bước vào và đóng cánh cửa sau lưng. Khuôn mặt chàng nói lên mọi thứ. Có điều gì không đúng.

    Chàng vứt gì đó lên ghế và ngồi xuống. “Những con ngựa bị kích động, và con dẫn đầu bị sụt trong một vết lún. Bánh xe bị gãy và tuyết thì rơi xuống một inch mỗi phút. Có một trận bão tuyết ngoài kia.” Chàng trượt cánh tay quanh nàng. “Người đánh xe và người hầu đã lấy ngựa và đi tìm sự giúp đỡ. Họ có vẻ nghĩ rằng có một quán trọ không quá xa từ đây.”

    “Chúng ta sẽ ở lại đây trong cỗ xe?”

    Chàng gật đầu. “Không cách nào nàng có thể chịu được ngoài kia trong trang phục mỏng manh đó.’

    “Em có thể làm-”

    “Không.”

    Nàng chùi cửa kính cho sạch và cố gắng nhòm ra ngoài. “Em không thể thấy bất cứ cái gì.”

    “Tuyết rơi rất dày.” Chàng rùng mình, rồi vặn vẹo một chút trong chỗ ngồi cứ như đang cố gắng che đậy nó.

    “Làm ơn, Alec…”

    “Không.” Chàng nắm lấy những thứ chàng đã đặt lên ghế và xũ nó ra. “Đây, mặc cái này vào.” Chàng giơ lên một cái áo khoác da thuộc dày dặc và một cái áo choàng rộng.

    Nàng trượt hai cánh tay vào cái áo khoác rộng thùng thình và chàng trùm cái áo choàng vòng quanh cả hai người và kéo nàng dựa vào người chàng.

    “Chúng ta sẽ đợi ở đây cho tới khi có sự giúp đỡ.” Chàng ngồi đó cứng đờ, ôm nàng nhưng hành động như thể chàng không muốn thế.

    Rất từ tốn nàng hạ mái đầu lên vai chàng và nắm lấy cơ hội để xích gần vào chàng. Chàng thật ấm áp.

    Chàng hắng giọng ồn ào và thay đổi vị trí vài lần, cuối cùng điều chỉnh đôi chân dài của chàng để chúng tựa trên cái cửa xe ngựa.

    Nàng lại rùng mình.

    “Nằm xuống đây bên cạnh ta.”

    Nàng duỗi ra nên gần như đang nằm bên trên chàng. “Chàng nghĩ mất bao lâu trước khi họ giải cứu chúng ta?”

    “Không lâu,” chàng trả lời chắc chắn. Không có chút giận dữ nào trong giọng chàng, chỉ có bình tĩnh và kiểm soát. Nàng chịu thua trước sự ấm áp khi có được chàng ôm lấy, mặc dù nàng biết chàng không muốn làm vậy. Nàng cảm thấy an tâm trong vòng tay chàng, như thể đã tìm thấy một nửa còn thiếu của nàng. Họ đã kết hôn và chàng là của nàng - phần nào như vậy. Ít nhất chàng sẽ là của nàng ngày nào đó, và điều đó có nghĩa sẽ luôn luôn có ai đó bên nàng. Suy nghĩ ấy ủ ấm nàng còn nhiều hơn cơ thể chàng. Nàng nhắm đôi mắt mơ màng lại và nói tạm biệt với cơn giá lạnh và sự cô đơn.

    ***

    “Scottish.”

    Joy quấn chặt hai cánh tay quanh Alec và dúi sâu hơn vào ngực chàng và ngọ ngoậy hai chân giữa chân chàng. “Hmmm, chân chàng thật ấm.”

    Chàng rên rỉ rồi nói, “Dậy đi, Scottish.”

    “Không. Lạnh lắm,” nàng lẩm bẩm.

    Cánh tay chàng ôm chặt lấy nàng. “Ta biết. Đó là lý do nàng phải tỉnh lại.” Chàng lắc nàng, nhưng nàng không quan tâm. Trời quá lạnh để mắt nàng mở ra.

    “Joy! Dậy đi! Ngay!”

    Mắt nàng mở bừng ra khi âm thanh của giọng chàng nâng lên.

    “Thế tốt hơn,” chàng nói. “Chúng ta cần nói chuyện.”

    “Em thích ngủ hơn.” Nàng dụi vào chàng và để những mí mắt nặng nề khép lại gần.

    “Nàng không thể.” Khớp xương ngón tay của chàng nâng cằm nàng lên khỏi ngực chàng. Ngón tay chàng lướt trên môi nàng. Với động tác đó nàng phải nhìn vào chàng. “Trời quá lạnh để ngủ. Chúng ta phải giữ tỉnh táo.” Hai cánh tay chàng ôm sát lấy nàng và chàng nâng nàng lên khi chàng ngồi dậy, rồi kéo nàng lên đùi và chỉnh cái áo khoác bao lấy cả hai người họ.

    “Ta chắc sẽ có giúp đỡ sớm thôi, nhưng trong lúc ấy chúng ta phải giữ tỉnh táo.”

    “Tại sao? Có điều gì đó không ổn?”

    Chàng nhìn nàng một lúc lâu, như thể đang cân nhắc gì đó, rồi lắc đầu. Chàng im lặng, khuôn mặt cứng rắn, đôi mắt không chắc chắn như trước đó.

    Nàng nhìn vào cửa sổ trắng xóa, rùng mình và cảm thấy chàng cũng đang làm vậy. “Chàng cũng lạnh như em.”

    “Ta ổn.”

    Bà MacLean đã đúng. Người Anh đều cứng đầu.

    “Người giúp đỡ đang tới,” chàng lại nói.

    “Vậy sao em không thể ngủ tiếp?”

    “Ta không nghĩ đó là ý hay.”

    “Tại sao?”

    “Bởi vì người giúp đỡ sẽ tới đây sớm thôi.”

    “Bao lâu nữa?”

    “Một lúc.”

    “Em có thể giúp… bây giờ.”

    Chàng không trả lời.

    “Chàng đánh thức em dậy để nói chuyện. Giờ chàng lại không nói. Sao vậy?”

    Chàng xoa bàn tay dọc theo sống mũi.

    “Chúng ta đang trong tình thế nghiêm trọng?”

    Tất cả những gì chàng làm là thở nặng nhọc.

    “Đây là một tình huống đe dọa tính mạng?”

    Chàng ngồi cứng nhắc hơn trên ghế, nhưng không nói gì.

    “Chà, nếu chàng sẽ không trả lời em, em sẽ ngủ tiếp.” Nàng tựa lên chàng và bắt đầu nhắm mắt lại.

    Chàng nắm lấy vai nàng, cứng rắn, và lắc nàng một lần “Nàng không thể ngủ. Nếu nàng làm vậy, nàng có thể sẽ không tỉnh dậy nữa.” Biểu hiệu của chàng rất mãnh liệt, gần như giận dữ.

    Nàng nhìn chăm chú mặt chàng, thấy được sự lo lắng trong đôi mắt tối tăm của chàng. “Làm ơn, Alec, hãy để em giúp.”

    “Không phù phép.”

    “Chàng thà chết ở đây?”

    Chàng tiếp tục ghim chặt lấy nàng với cái nhìn chòng chọc khắc nghiệt.

    “Chàng sẽ vậy ư?” nàng chống lại. “Không có ai ở đây. Không ai sẽ biết về phép thuật trừ chàng và em.”

    Chàng nhìn vào nàng trong một phút, rồi liếc về cái cửa sổ trắng xóa. Cỗ xe ngựa đã bị chôn trong tuyết.

    Nàng rùng mình một cái. “Làm ơn.”

    Cau mày, chàng nhìn sang cái cửa sổ trắng xóa khác.

    “Em có thể dịch chuyển hai chúng ta đến quán trọ gần nhất, với một câu thần chú nhỏ.” Nàng quan sát khuôn măt nghi ngại của chàng. “Làm ơn.”

    Chàng nhìn vào nàng, khuôn mặt hiện lên sự cam chịu miễn cưỡng và nói. “Ta tin rằng chúng ta không có lựa chọn khác.”

    Thẳng dậy một chút, chàng nhìn xuống nàng, khuôn mặt hoàn toàn là một công tước ngạo mạn. “Nhưng chỉ lần này thôi.”

    Nàng gật đầu, tâm trí đã chuẩn bị những từ mà nàng sẽ dùng. “Chàng có biết quán trọ nào là gần nhất không?”

    “Không.”

    Nàng ngừng lại trong một phút ngẫm nghĩ. “Vậy em sẽ thử cái gì đó chung chung. Đây, nắm lấy tay em.”

    Chàng kéo hai bàn tay từ dưới áo choàng ra và vươn thẳng vai, mọi múi cơ trên người chàng căng ra và quai hàm sít lại. Nàng siết lấy hai bàn tay chàng. Một cái liếc về khuôn mặt cứng đờ và nhợt nhạt của chàng cho nàng hay chàng đã sẵn sàng cho chuyện này cũng như ngài hoàng tử nhiếp chính, một mình và không vũ khí, sẵn sàng để gặp Napoleon và quân đội của ông ta ở Paris.

    “Vui lòng nhắm mắt lại.”

    Chàng cho nàng cái nhìn nghi ngờ cuối cùng, rồi làm như nàng yêu cầu.

    Quyết tâm thực hiện ma thuật chính xác và gây ấn tượng với chồng nàng, nàng nâng cằm lên và tưởng tượng ra một quán trọ vùng quê giống như nơi họ đã từng ở lại trước đó. Tâm trí nàng tràn đầy những tòa nhà bằng gỗ và những cánh cửa sổ rộng rãi đang rải thứ ánh sáng chào đón với màu vàng ấm áp rực rỡ lên lớp tuyết tích tụ. Nàng nhìn thấy một hàng rào đá ngăn cách quán trọ với một hàng cây du già và một con đường sạch sẽ đóng băng mà cắt ngang qua đồng cỏ phía bên kia.

    Nàng ngừng lại, đột nhiên mất tập trung khi nàng nhận ra rằng nàng cần búng tay, một điều không thể nếu Alec đang nắm tay nàng. Nàng mở mắt và thấy mình nhìn vào khuôn mặt căng thẳng của chồng nàng. Hai mắt chàng nhắm chặt, có biểu hiệu giống như một người đang có một cơn sốt rét dạ dày nghiêm trọng.

    “Chàng cần nắm vào cổ tay em để em có thể búng tay.”

    Mắt vẫn nhắm lại, chàng di chuyển hai bàn tay tới hai cổ tay nàng và siết chặt lấy chúng.

    Một lần nữa sẵn sàng, nàng nhắm mắt lại. Giờ mình đang ở đâu đây? Nàng hỏi bản thân. Đúng rồi… những cây du và con đường đóng băng lượn quanh. “Tất cả xung quanh chúng ta là tuyết,” nàng ngâm nga. “Chúng ta phải tìm một nơi khác để đi. Mang chúng ta đi nhanh như một con bọ chét tới nơi ta đang nhìn thấy!” Nàng búng những ngón tay.

    “Chết tiệt!”

    Và nàng cảm thấy hai bàn tay của Alec thả ra.

    ***

    “Alec!” Joy điên cuồng tìm kiếm chàng trong một khung cảnh đầy tuyết.

    “Ở đây!” một tiếng hét khàn giọng bay tới.

    Vẫn lùng bùng trong cái áo khoác da, nàng xoay một cách lúng túng về phía giọng chàng. Một nhóm cây du già có bọ cánh cứng được che phủ bởi tuyết đứng giữa một đụn tuyết lớn khổng lồ; chúng trông như những con ma đang xé ra đường đi về phía những đám mây. Những nhánh cây du chất đầy tuyết kêu xào xạc và một đám mưa tuyết đổ sụt xuống mặt đất. Cái đầu bạc đóng băng của Alec xuất hiện khi chàng tìm đường để vòng qua những cái cây khổng lồ, cái áo choàng da của chàng vướng trên những nhánh cây thấp.

    Joy có thể nghe thấy chàng lầm bầm. Đôi bốt của chàng đột nhiên trượt trên nền tuyết và băng ẩm ướt, và chàng nắm lấy một cái nhánh cây thấp.

    Tiếng gỗ gãy vang trong sự tĩnh lặng của mùa đông, theo sau bởi tiếng chửi rủa.

    “Ôi, lạy Chúa!” Joy che miệng với một bàn tay run rẩy và nhìn chàng trượt trên hết phần còn lại của cái đường dốc bằng cái mông công tước, cái nhánh cây vẫn bị nắm trong tay và cái áo choàng đu đưa trên những những nhánh cây phía trên chàng.

    Chàng ngồi đó một chốc, có vẻ bị sửng sốt. Rồi đôi mắt chàng quét qua khu vực, cuối cùng dừng lại để nhìn giận dữ vào nàng. “Cái… quán… trọ…ở…đâu?”

    Joy nhìn xung quanh, chỉ thấy những ngọn đồi trắng xóa với lớp tuyết tích tụ, những cái cây bị đóng băng, và con đường phủ băng nơi nàng đang đứng. Nàng cắn môi và nhòm lên trên, qua những bụi cây trong hy vọng nhìn thấy một mái nhà, một ống khói hoặc làn khói. Không có gì ngoài một bầu trời xám xịt đầy mây tuyết. “Em không chắc.”

    “Ý nàng là cái quái gì, nàng không chắc? Ta nghĩ nàng sẽ dịch chuyển chúng ta tới quán trọ gần nhất?”

    “Em đã,” nàng nói, hàm răng bắt đầu va lập cập.

    “Vậy thì cái quán trọ chết tiệt đó ở đâu?”

    “Chà, chàng biết đấy, Alec, thỉnh thoảng các thần chú của em có một chút lẫn lộn.”

    “Cái gì?” chàng hét lên, làm rơi xuống một đám tuyết ướt trên đỉnh đầu chàng.

    Nàng rụt lại và nhìn chàng vẫy tuyết khỏi đầu với sự mãnh liệt của một con chó săn ướt đẫm.

    “Một lẫn lộn nhỏ?”

    Nàng gật đầu.

    Hơi thở của chàng trở nên rất kiểm soát, rất trầm và rất nặng nề. Sau một lúc căng thẳng chàng liếc xuống cái nhánh cây đang nắm trong tay và vứt nó sang một bên với một cái nhìn chán ghét. Cái nhìn đó vẫn ở đó khi chàng quay lại với nàng. “Giải thích điều này đi, vợ.”

    “Đôi khi em có những sai sót.”

    “Những sai sót?” Chàng cố gắng đứng dậy.

    Nàng gật đầu.

    “Nó có vụt qua đầu nàng rằng đây là một thời điểm quái quỉ để nói cho ta điều này?” Chàng có vẻ rùng mình và nhìn quanh vào màn tuyết trắng vô tận.

    “Em đã muốn làm chàng vui lòng.”

    Chàng xoa một bàn tay đeo găng lên trán. “Ta hiểu.” Nhìn có vẻ như chàng đang đếm, cũng như bà MacLean. Chàng ngừng đếm và Joy nghĩ nàng thấy chàng rùng mình. “Nàng nghĩ nàng muốn làm ta vui lòng bằng cách dịch chuyển chúng ta đến giữa một nơi nào đó?”

    “Em x-xin lỗi,” nàng thì thầm, cơn lạnh lẽo cũng thấm qua da nàng. “Em chắc chắn cái quán trọ ở gần đây. Em đã t-tưởng tượng nó rất hoàn hảo trước đó.”

    “Tưởng tượng nó?”

    “Chà, chàng b-biết đấy… uh…” Nàng xoa xoa hai cánh tay và nhìn vào tất cả đám tuyết ướt lạnh lẽo với cảm giác khiếp sợ.

    “Nói đi! Ngay bây giờ!”

    Nhìn một cái lên mặt chàng và những từ ngữ của nàng phun ra gấp gáp. “Em phải tưởng tượng ra nơi em sẽ đến trong tâm trí trước và-”

    “Chết tiệt!” chàng kêu lên, quét tuyết khỏi người với những cái phủi giận dữ. Chàng nhìn vào nàng, rồi vào màn tuyết xung quanh họ và lẩm bẩm, “Không ngạc nhiên gì chúng ta ở trong tình thế khó khăn này. Một tâm trí của người Scot.”

    “Em không bằng lòng với điều đó.”

    “Và ta không bằng lòng trở thành một đối tượng cho cái… cái này…” Chàng vẫy tay xung quanh trên không và đập vào viền của cái áo choàng. Chàng liếc lên, cau mày và kéo cái áo choàng ra khỏi cây với một cú giật hung tợn. “Ta là Công tước xứ Belmore. Công tước xứ Belmore!”

    “Đó chỉ là một sai sót. Em đã cố gắng để cứu tính mạng chúng ta!”

    Chàng hất cái áo choàng qua vai, lại rùng mình. “Giờ thì, tại sao ta không có cảm giác được cứu?” Chàng bước một bước đe dọa về phía nàng. “Có phải chúng ta đang ở trong một quán trọ ấm áp, thoải mái, dễ chịu? Không… chúng ta đang ở giữa một…”

    Một tiếng rắc to xuyên qua không trung im lặng. Lần này không phải là gỗ. Đó là băng.

    Alec bị ngập tới đùi trong nước lạnh băng và chửi thề.

    Một tiếng rắc khác và đầu chàng ngẩng lên, cái nhìn chằm chằm đi theo vết băng nứt mà đang làm một đường về phía nơi Joy đứng.

    “Đừng cử động, Scottish!” Chàng nâng một tay lên. “Bất kể cái gì, chết tiệt, đừng cử động!”

    Joy hoảng sợ nhìn con đường băng nơi nàng đang đứng bắt đầu vỡ ra, từng mảnh vỡ tiết lộ dòng nước chết người bên dưới.

    Trong tuyệt vòng nàng nhắm mắt lại, kéo cái áo choàng da lại gần hơn và hết sức cố gắng để tưởng tượng ra cái bờ và Alec.

    “Đừng!” chàng hét lên. “Đừng cố dùng ma thuật!”

    Đã quá trễ. Nàng búng những ngón tay.

    Băng dưới chân nàng nứt ra, ầm ĩ và sắc nhọn.

    Nàng mở to mắt. Lớp băng sụp đổ.

    Bàn tay chàng vươn về phía nàng. Tay còn lại giữ lấy nhánh cây, chỉ cách một chút.

    Nàng chìm xuống làn nước lạnh băng, áo khoác vướng trên băng, hai găng tay trơn trượt khi nàng cố gắng nắm lấy thứ gì đó - bất kỳ cái gì.

    Dòng nước lạnh buốt xông qua quần áo nàng để đốt cháy da thịt với sự bỏng lạnh. Nàng không thể cảm nhận được chân, cánh tay và cơ thể nàng.

    “Alec!”

    Làn nước băng giá liếm lấy cằm nàng.

    Nàng vươn tới…

    Ôi, Chúa ơi!

    Thứ cuối cùng nàng thấy là khuôn mặt hoảng sợ của chồng nàng.


    (11) Colder than a witch's tit: Một cách nói để thể hiện là “rất lạnh”.

    (12) “hoof” và “roof”
     
    hathao, loveQWE, dakedo and 4 others like this.
  16. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 12


    Như được triệu hồi bởi chính Quỷ Dữ, cơn gió nổi lên, lạnh lẽo và lốm đốm những hạt tuyết li ti mà đang phủ lên trên cái bóng cao ráo mặc áo choàng đang nặng nhọc lê bước qua một biển tuyết ẩm ướt trắng xóa dày đến đầu gối. Công tước xứ Belmore khom người xuống để bảo vệ bản thân nhưng chủ yếu là để che chở cho nữ công tước - cái bọc ẩm ướt đang run rẩy trong hai cánh tay tê cóng của chàng.

    “Nói chuyện với ta đi. Đừng ngủ.” Chàng xoay nàng và đôi bốt bị trơn trượt. Chàng vấp chân và lại bị trượt, bản năng làm chàng thậm chí còn ghìm chặt hơn hình dáng run rẩy và và ẩm ướt của nàng vào người mình. Chàng xoay xở được để đứng vững.

    “Scottish!” chàng hét lên. Có vẻ như chàng phải liên tục hét lên không biết đã bao lâu kể từ khi chàng kéo nàng ra khỏi con sông lạnh giá. Chàng cảm thấy nàng cử động, tạ ơn Chúa, và chậm lại những bước chân im lặng trên tuyết, cuối cùng dừng lại để có thể nhìn xuống khuôn mặt nàng. Chàng kéo qua một bên cái áo choàng được chàng dùng để quấn lấy nàng.

    Hai mắt nàng đang nhắm nghiền và bất chấp nỗ lưc của chàng trong việc che chắn khuôn mặt cho nàng, hai hàng lông mi của nàng đã đóng băng vì bông tuyết. Đôi môi cũng như cơ thể nhỏ nhắn ẩm ướt của nàng run rẩy. Chàng nâng nàng lên để có thể chạm lên mặt nàng. Nàng không cử động. Những bông tuyết nằm trên da nàng không tan đi, nàng đã bị lạnh tới mức đó.

    “Dậy đi!” chàng hét vào nàng, âm thanh ấy gần như bị nuốt chửng bởi gió mùa đông khô khốc. Chàng lắc nàng, một lần, hai lần.

    “L-l-lạnh q-quá,” nàng nói trong cơn rùng mình không ngừng.

    Cơn gió gào thét và rên rỉ quanh họ như tiếng khóc than của những người đưa ma.

    Khốn khiếp, chúng ta chưa chết đâu. Alec đi tiếp, len lỏi qua đám tuyết, thúc đẩy bởi cơn giận dữ, hoàn toàn dựa trên ý chí. Cũng là cơn gió chết tiệt đó cắt qua quần áo ướt của họ như cái rìu băng. Những bông tuyết xoay tròn trong một cơn lốc xoáy đột ngột và những cành cây lắc lư và gãy rạp dưới sức nặng của tuyết ướt. Chàng cảm nhận được cơn rùng mình của nàng.

    “Nàng tên là gì?” chàng hét lên. Chàng biết mình phải giữ nàng nói chuyện, giữ cho nàng tỉnh táo.

    “Hửm?” nàng lẩm bẩm.

    “Tên nàng!”

    “Scottish.” Giọng nàng chẳng khác gì một lời thì thầm rời rạc, nghe như bị gió cuốn đi.

    “Nàng là ai?”

    “Scottish.” nàng lập lại. Rồi nàng thở chậm hơn, trở nên cạn hơn và đều đều, như một người đang ngủ.

    “Dậy đi! Ngay lập tức!” Chàng lắc nàng. Nàng không phản ứng. Chàng lắc nàng mạnh hơn. Nàng vẫn không cử động.

    “Chết tiệt,” chàng lầm lầm và quanh sát xung quanh. Mọi thứ đều trắng tinh - màu trắng lạnh lùng và buốt giá. Chàng đã xoay sở để tìm ra con đường - ít nhất chàng hy vọng đó là con đường. Người ta không thể nhìn thấy thứ khốn khiếp nào trong cơn bão này. Chàng đã bị trượt chân trong một vết lún và ngã xuống một đống tuyết dày gần như đã chôn vùi hai người họ. Lúc đó nàng còn tỉnh táo và tranh cãi với chàng để nàng tự đi. Chàng đã phớt lờ nàng, đặt nàng một bên trong khi đào xung quanh trong tuyết cho đến khi chàng cảm thấy dấu hằn của những vết lún của bánh xe.

    Vài phút sau chàng đứng dậy và quay sang nơi chàng đã đặt nàng ngồi lên áo choàng của chàng trên tuyết chỉ vài bước sau lưng chàng. Nàng không ở đó. Một lúc sau chàng thấy nàng đang trượt chân trên con đường, cái áo khoác ẩm ướt đã cởi ra, vắt trên một bên vai và đang bay phần phật trong gió buốt. Chàng biết nàng đã lạnh tới tận tủy xương. Chàng chạy sau nàng, không tin nổi ai đó có thể đang bị đông cứng và không làm gì hết.

    Kể từ đó - vài phút trước hay vài giờ trước, chàng không biết cái nào đúng - chàng đã tiếp tục đem cơ thể lạnh lẽo và run lẩy bẩy của nàng tì vào ngực chàng với hy vọng nàng sẽ thu được chút hơi ấm từ chàng.

    Có một lùm cây nhỏ đứng ở phía bên phải và chàng di chuyển về phía chúng. Chàng cần đánh thức nàng. Trong sự che chắn của mấy cái cây, chàng tìm chỗ nghỉ tạm khỏi cơn gió buốt và hạ chân nàng lên mặt đất, cánh tay gần như tê cóng kia của chàng thì giữ nàng đứng thẳng, cái áo choàng vẫn quấn quanh nàng.

    Nàng ngã về phía chàng. Chàng nắm lấy hai vai và lắc mạnh nàng. Đầu nàng ngả về phía trước như một bông hoa có cuống bị gãy. Nhưng sau đó nàng rên rỉ. Chàng lại lắc nàng. “Joy! Dậy đi!”

    “Không phải Joy,” nàng kêu ca. “Scottish. Scottish của Alec.”

    “Đúng rồi. Alec là ai?” chàng hỏi.

    “Alec?” Mắt nàng mở ra, trong trẻo, xanh ngắt và đột nhiên tỉnh táo làm trong chốc lát chàng nghĩ mình đã tưởng tượng ra điều đó.

    “Thật ngốc quá,” nàng nói, nhìn thẳng vào chàng. “Chàng là Alec.” Nàng mỉm cười với chàng và đặt một bàn tay cứng đờ lạnh buốt lên tim chàng. “Alec của em.”

    Chàng có thể cảm thấy sương giá trên găng tay của nàng. Nó như nước đá trên ngực chàng. Chàng quan sát nàng trong một khắc trầm ngâm, bất ngờ khi nàng có thể trở nên sáng suốt quá nhanh. “Đúng vậy.” Rồi chàng thử nàng:

    “Nàng là ai?”

    Nàng nâng cằm cao lên. Có vẻ như nàng đang cố gắng để nhìn xuống chàng. “Em là Nữ công tước xứ Belmore.” Nàng đấu tranh để tự đứng thẳng và làm được với một sức mạnh đột ngột. Nàng cho chàng một cái gật đầu quyền quí mà có thể làm Công nương xứ Wales tự hào.

    Chàng ngả người lên một cái cây phủ sương trắng xám và chùi tuyết khỏi mắt. Tạ ơn Chúa. Chàng liếc xuống con đường, chẳng khác mấy một màu trắng thuần nhất, có vẻ như dài vô tận. Chàng hít vào một hơi thở sâu, thanh lọc mà chàng hy vọng sẽ giúp làm ấm và cho chàng sức mạnh để tiếp tục. Chàng không biết họ đang ở đâu, có ai hay sự giúp đỡ nào ở gần không.

    Cái gì đó đập vào chân chàng - một cái giày! - và chàng nhìn xung quanh.

    Vợ của chàng đứng cách mười feet, bao quanh bởi tuyết trắng lạnh giá. Nàng đã rút ra cái giày còn lại và vứt nó qua không khí đầy tuyết. Nó đập vào cánh tay chàng.

    “Nàng đang làm cái quái gì thế?” Chàng vấp chân và ngã về phía trước khi đôi bốt đạp lên lớp da ướt trơn trượt của cái áo khoác đã cởi ra của nàng. Một cái tất rơi trên tuyết phía trước tay chàng. Chàng quì trên đầu gối. Cái tất còn lại rơi tõm trước mặt chàng.

    “Dừng lại!” chàng kêu lên và nhìn trong khiếp sợ khi nàng đẩy cái váy len sũng nước xuống và bước ra khỏi nó. Chàng bò về phía nàng, hét lên, “Sự sáng suốt của nàng đang ở chỗ chết tiệt nào rồi, cô nàng?”

    Nàng nắm lấy cái váy lót và đi ra xa khỏi chàng. Chàng trượt trên tuyết và nghe âm thanh của lụa bị xé. Nàng len qua cái váy rách. Chàng cố vươn tới nàng, nhưng lại bị trượt và chửi thề. Tuyết trở nên ẩm ướt hơn, nặng nề hơn, dày hơn và chàng len lỏi và trượt qua nó.

    Liệu người nào có lý trí mà sẽ tự cởi trần truồng ra khi sắp bị đông lạnh tới chết? Lạy Chúa toàn năng, nàng không phải một người có lý trí. Nàng là một phù thủy. Phải chăng đây là thứ lễ nghi nào đó? Chàng lắc tuyết ra khỏi đầu. Đồ khốn khiếp nhà nàng!

    Chàng lao tới xuyên qua lớp tuyết dày đặc. “Đứng yên!”

    Nàng quay sang và mỉm cười ngọt ngào với chàng, cứ như đây là mánh khóe làm duyên làm dáng nào đó, và bước ra xa, hoàn toàn trần trụi, cái váy lót bị xé nằm lủng lẳng trên một bàn tay trần.

    “Scottish! Ta ra lệnh cho nàng ngừng lại!” Chàng lại bị trượt và ngã, nhưng nhẹ nhõm khi nghe thấy giọng nàng. Chàng biết rằng nàng đã mê sảng.

    “Đức bà sẽ đến gặp Prinny. Prinny hư hỏng và đòi hỏi khắt khe. Chồng của ta Alec cũng đòi hỏi khắt khe.”

    Nàng gật nhẹ một cái, có vẻ như đồng cảm với điều nàng nói.

    Alec cố gắng và thất bại trong việc tóm lấy nàng trên nền tuyết trơn trượt.

    “Chàng còn nói gì về Prinny nữa? Ồ, phải rồi! Ông ta béo.” Nàng lắc đầu. “Alec không béo. Chàng độc đoán.” Nàng giữ một ngón tay trên môi rồi thầm thì, “Alec độc đoán, rất độc đoán. Nhưng… quay lại với Prinny già cả, mê tín! Ông ta đã đến Paris một mình, ngươi biết đấy, Prinny đã làm vậy. Nhưng ta sẽ cứu ông ta từ tay Napoleon. Rồi ông ta sẽ không chém đầu chúng ta. Alec cần cái đầu bạc già cả của chàng.”

    Alec đứng lên được và chầm chậm đi về phía nàng.

    Nàng vứt cái váy lót vào chàng. “Nè, bắt lấy!”

    Chàng hụp xuống và lao về nàng, ngã sâu vào tuyết và nắm lấy hai chân nàng. Nàng té xuống cùng chàng, kháng cự lại.

    “Không! Không! Ta là một phù thủy tốt!” Mắt nàng nhìn xuyên qua chàng, không nhìn thấy chàng. Hơi thở của nàng nặng nề, phờ phạc và ồn ào, trở nên to hơn vì nàng đang giằng co với chàng, quằn quại trong tuyết. Cái chân trần của nàng đập vào một bên đầu chàng.

    “Chết tiệt!” Chàng nắm chặt lấy cái chân trần đang vụt. “Ngừng lại!”

    “Nó thiêu cháy da tôi! Đừng thiêu tôi! Ngọn lửa! Da thịt tôi đang ở trong lửa! Họ đang thiêu sống em, Alec! Cứu em!”

    Bất chấp cơn mê sảng, nàng vặn vẹo để thoát ra, đá chàng với cái chân còn lại. “Cứu em, hãy cứu em. Đứng để họ thiêu cháy em!” Hơi thở của nàng chuyển sang tiếng thổn thức.

    “Đứa nhóc ngu ngốc! Nàng sẽ bị đông lạnh tới chết!”

    “Không thể đông lạnh được. Đang cháy, đang bị đốt cháy…”

    “Đừng cử động!” Chàng dùng cả cơ thể để giữ chặt nàng. “Nàng không bị đốt cháy!” Nàng vẫn vặn vẹo bên dưới chàng, rồi cũng đột ngột như khi nàng bắt đầu than khóc, nàng trở nên im lặng, yên lặng chết chóc.

    Chàng lắc nàng. “Đậy đi!”

    Nàng rơi phịch xuống tuyết, lả đi, da lạnh buốt.

    “Scottish! Dậy đi!” Chàng kéo nàng tựa vào chàng, vòng hai cánh tay ướt quanh nàng và lắc nàng.

    “Là ta, Alec đây.”

    Nàng không động đậy.

    “Alec của nàng.” Chàng nói một cách dịu dàng, nhưng lại lắc nàng.

    Vẫn không có phản ứng gì. Chàng đặt má lên ngực trần của nàng. Nó lạnh như đá vậy. Chàng nín thở, cố gắng lắng nghe một tiếng tim tập. Tất cả những gì chàng có thể nghe là nhịp tim dồn dập của chàng. Chàng cố gắng lần nữa. Không có gì. Chàng nhắm mắt, hết sức tập trung và lắng nghe cho một dấu hiệu của sự sống.

    Có một tiếng đập chậm và cạn vang lên và một dấu hiệu mà chàng cầu nguyện là một hơi thở.

    Chàng vật lộn di chuyển về phía quần áo của nàng, vụng về và bằng đầu gối, Công tước xứ Belmore với Nữ công tước trần truồng, đang lả đi của chàng được chàng ôm chặt vào ngực bằng một cánh tay lạnh lẽo và đang tê dại đi. Tuyết dày hơn và yên lặng hơn - cũng kỳ lạ và đe dọa như sự im lặng của người vợ đang đông cứng của chàng.

    Chàng tự hỏi nàng sẽ chết phải không, và cả chàng nữa.

    Chàng đuổi suy nghĩ đó ra khỏi đầu. Một công tước sẽ không chết khi bị lạc trong cơn mưa tuyết khốn khiếp này. Ít nhất không phải Công tước xứ Belmore. Hay Nữ công tước của chàng. Chàng nắm lấy cái váy lót bị rách, phủ đầy tuyết và vẫy nó mạnh tới mức nó vụt qua không khí như một phát súng. Chàng trượt một cánh tay nàng vào cái váy và vật lộn để nhét bên còn lại vào. Nắm lấy những cái vạt áo tả tơi, chàng kéo chúng lại với nhau.

    Tiếp theo là cái váy len sũng nước. Chàng trượt nó qua đầu nàng và cố gắng nhét cánh tay nàng vào nó. Mái tóc nàng ướt đẫm và không khác gì một tảng băng dày màu nâu. Da nàng có màu xanh nhạt.

    Phải nhanh chóng che chắn cho nàng, chàng nghĩ. Chàng giật mạnh cái áo choàng da khỏi tuyết và quấn nó quanh cơ thể nhỏ bé của nàng. Hiện giờ chàng run rẩy quá nhiều, chàng hầu như không thể ôm nàng mà vẫn đứng bằng đầu gối được. Đó là khi chàng nhận ra một lúc trước đó nàng đã ngừng run rẩy.

    Bản năng cho chàng biết điều đó không ổn.

    Chàng bò đi với nàng tới nơi những cái tất của nàng đang nằm - những miếng giẻ đông cứng ủ rũ trong tuyết. Chàng giũ chúng ra và cố gắng đeo vào cho nàng và kéo chúng lên hai chân cứng đơ của nàng. Hai bàn tay của chàng run rẩy.

    Chàng tìm kiếm đôi giày của nàng. Tuyết rơi nặng hơn, nhanh hơn, dày hơn. Chàng không thể nhìn thấy đôi giày đó. Nàng cần đôi giày… chàng biết điều đó. Chàng bò lại gần cái cây, ngồi trên gót chân và đặt nàng nằm trên đùi chàng. Rồi chàng cúi qua người nàng, giữ nàng nằm giữa ngực và đùi trong khi chàng đào lớp bụi tuyết.

    Cái hố to lên, sâu ba feet, rộng bốn feet, trước khi chàng tìm thấy một cái giày da nhỏ, làm rỗng nó, rồi cố gắng nhét bàn chân cứng đơ của nàng vào trong nó. Chàng nguyền rủa hai bàn tay run rẩy, chắc chắn rằng nó là nguyên nhân chàng không thể làm được điều đơn giản nhưng rất quan trọng này.

    Đó là lúc chàng chú ý tới bàn chân và cẳng chân nàng. Dù cơ thể nàng rũ ra, mềm nhũn như một bông hóa héo tàn vì gió và thời tiết, những múi cơ trên cẳng chân và bàn chân nàng lại căng cứng một cách khó hiểu. Chàng xoa bóp chúng lập đi lập lại, cố gắng khiến chúng thư giãn rồi lại cố gắng và xoay xở được để đeo cái giày vào.

    Một lần nữa chàng lại đào vào trong tuyết trong một cuộc tìm kiếm tuyệt vọng, điên cuồng, cứ như cái giày mất tích đại diện cho sự sống còn của họ. Chàng phải tìm ra nó… phải làm thế… phải thế…

    Cơn gió đập tuyết rơi khỏi những cái cây, Nó sụp xuống, đổ vào cái hố. Chàng nguyền rủa, ầm ĩ, một tiếng hét trong không khí buốt giá, tới Chúa hay Quỉ dữ, chàng cũng không rõ. Tất cả những gì chàng biết là chàng cần cái giày đó.

    Bàn tay đang cào của chàng sờ tới nó, và chàng gần như kêu lên trong nhẹ nhõm. Chàng đổ tuyết trong đó ra và lại xoa bóp bàn chân nhỏ nhắn của nàng rồi nhét nó vào trong thứ da thuộc đông lạnh, cứng ngắc đó. Chàng kéo lại cái áo choàng và nhìn xuống khuôn mặt vẫn bất động của nàng.

    “Đừng chết. Nàng không thể chết. Nàng là Nữ công tước xứ Belmore. Nàng có nghe thấy ta không? Nàng sẽ không chết. Chàng vật lộn để đứng lên, dịch chuyển nàng trong tay chàng, và trong sau một khoảng khắc lạnh buốt, chàng đã trượt xuống con đường, len qua đám tuyết đủ để chôn vùi cả London.

    Những cơn mưa tuyết đã ngừng lại. Alec trèo lên một ngọn đồi, tuyết giờ đã cao đến thắt lưng. Hàm răng lập cập, chàng rùng mình, nhưng nỗ lực lê bước qua đống tuyết dày trong tình trạng gần như đông lạnh làm chàng đổ mồ hôi. Chàng có thể cảm nhận mồ hôi đang rỉ xuống đầu, cánh tay và lưng chàng. Nó đông cứng trên da chàng và làm chàng còn thấy lạnh hơn.

    Chàng muốn kêu lên, nhưng chàng là một công tước. Một công tước không làm, không thể, không cần thể hiện cảm xúc.

    Cơn gió vẫn đánh những cú quật chết người với luồng không khí lạnh lẽo. Nó còn lạnh hơn tất cả những gì chàng từng cảm nhận, còn lạnh hơn cả điều lạnh lùng nhất chàng từng gặp - giọng nói lạnh như đá của cha chàng.

    “Ngươi là người thừa kế, Alec. Chính ngươi!” cha chàng đã nói. “Ngày nào đó ngươi sẽ là một công tước. Một công tước Belmore không khóc. Dừng lại, Alec! Ngươi không cần ai hết. Hiểu chưa? Không một ai. Một công tước Belmore không cười. Cười là dành cho những đứa ngốc. Một công tước không cần ai hoặc bất cứ điều gì. Ngươi có hiểu không? Hiểu không? Cảm xúc là cho những tên ngốc yếu đuối. Ngươi là một Belmore. Không Belmore nào là một tên ngốc. Ngươi không cần ai cả. Ngươi là một Belmore… một Belmore-”

    Alec cứng người lại, giọng nói lạnh lùng đó vang vọng trong đầu chàng cứ như người cha khắc nghiệt của chàng vẫn đứng trước mặt chàng. Chàng hít lấy một hơi thở sâu luồng không khí lộng gió. Chàng mở mắt ra, mong đợi sẽ thấy khuôn mặt của cha chàng. Chàng nhìn thấy một màu trắng mờ ảo. Trời lại đổ tuyết.

    Phổi chàng đột nhiên thít chặt. Đầu đau nhức. Chàng đã mệt, mệt mỏi hơn bất kỳ lúc nào chàng từng nhớ.

    Chàng không thể, sẽ không, ngủ thiếp đi hay ngừng lại.

    Chàng lên được đến đỉnh đồi và sụp xuống, ngã ngửa ra tuyết và trượt xuống dốc bên kia, vợ chàng nằm bất động trên ngực chàng. Chàng vẫn siết chặt lấy nàng cho tới khi ngừng trượt xuống ở đáy của sườn đồi đối diện. Chàng hít căng lồng ngực tơi tả và nhắm mắt lại, đầu chàng sụp xuống một bên và buông xuôi trước sự kiệt sức và sức mạnh thiên nhiên.

    Một tiếng chuông bất ngờ vang lên xa xa xuyên qua chút ý thức còn sót lại của chàng. “Ở đây,” chàng muốn hét vào trong tuyết nhưng thành ra lại thì thầm. “Belmore… chúng ta ở đây.” Có lẽ đó là sự giúp đỡ. Chàng cần mở mắt ra, nhưng chúng nặng nề và lạnh giá. Chàng muốn nuốt xuống nhưng không còn sức. Thậm chí bên trong cổ họng chàng cũng khô và lạnh.

    Chàng lại nghe thấy tiếng chuông. Tiếng bò rống. Các giọng nói ở xa xa. Một bài hát, một tiếng cười nhỏ, quá mờ nhạt đến mức chàng tự hỏi đó có phải do chàng tự tưởng tượng ra. Chàng cố nâng cái đầu nặng nề lên. Chàng không thể cảm nhận được các cơ ở cổ. Chàng không thể cử động.

    Họ sẽ chết.

    Cánh tay chàng vắt ngang qua người vợ chàng - đang chẳng khác gì một vật nặng cứng đờ, ẩm ướt nằm trên cơ thể kiệt sức của chàng.

    Công tước và Nữ công tước xứ Belmore, đông lạnh tới chết ở một nơi nào đó.

    Nơi nào đó sâu trong tâm trí chàng vẫn chiến đấu với điều không tránh được, một phần trong chàng từ chối bỏ cuộc. Nếu chàng buông xuôi, chàng không hơn gì một đứa trẻ yếu đuối, người sẽ không bao giờ trở thành một Công tước Belmore trong đôi mắt lạnh lùng và chẳng hề khoan dung của cha chàng.

    Chàng xoay xở để bằng cách nào đó quay mặt thêm một inch và cắn lấy thứ tuyết ướt át. Nó tan ra trong miệng chàng, chảy xuống cổ họng khô khốc, nhắc nhở chàng rằng họ vẫn còn sống. Với nỗ lực và cố gắng cuối cùng để sống sót, chàng nâng cái đầu nặng chịch khỏi mặt đất đóng tuyết và buộc mắt mình mở ra.

    Chàng chỉ thấy màu trắng mờ ảo.

    Lần nữa chàng nghĩ chàng nghe thấy một tiếng chuông đeo ở cổ bò. Chàng hít một hơi và lắc nhẹ đầu. Tuyết rơi thành một cục ướt đẫm từ hốc mắt chàng.

    Rồi chàng nhìn thấy nó - ánh sáng vàng kim phát ra từ những cánh cửa sổ hẹp của một quán trọ cổ xưa làm bằng phên trát đất sét, cái mái tranh tròn trĩnh của nó phủ đầy tuyết.

    “Lạy Chúa toàn năng, Scottish, cái quán trọ…” Chàng kéo vợ chặt hơn vào mình và lắc lư đi về phía trước, chỉ để lại ngã ngửa ra. Chàng xoay lại, vẫn giữ chặt nàng và bò vài feet về phía quán trọ. Sức nặng của chàng hằn lên tuyết đủ để chàng thúc bằng đôi bốt, để có một chỗ đứng. Chàng trượt trên đầu gối và ngã lên trên nàng.

    Nàng rên rỉ, một tiếng rên rỉ nhỏ bé, yếu ớt nhưng vẫn là một tiếng rên.

    “Chúng ta đã tìm thấy cái quán trọ. Dậy đi! Chết tiệt, vợ, dậy đi!”

    Chàng đứng trên một đầu gối, ôm chặt nàng hơn bất kỳ những gì trong đời chàng - và xoay xở để đứng dậy.

    Khập khiễng. Vấp váp. Nhưng chàng di chuyển tới trước, kéo gần khoảng cách với cánh cửa quán trọ, trong một trăm feet cuối cùng hơi thở của chàng trở nên hổn hển nặng nhọc phủ mờ trước mặt chàng, cơ thể chàng thì tê cóng, lạnh lẽo và chỉ hoạt động được nhờ vào cái gì thì chỉ Chúa mới biết.

    Vai chàng đập vào cánh cửa rắn chắc. Nó không mở ra. Chàng có thể nghe thấy những giọng nói, tiếng cười và âm nhạc mờ nhạt. Chàng nâng lên một chân và tập trung được sức lực để đá nó mở ra, rồi ngã vào căn phòng bán rượu đang đột nhiên im lặng trong một cơn gió gồm băng và tuyết.

    “Hãy giúp chúng ta,” chàng nói, không thể chú ý tới điều gì ngoài cái lò sưởi đá khổng lồ và ngọn lửa hừng hực bên trong nó. “Lạnh… lửa… vợ của ta…”

    Alec di chuyển về phía ngọn lửa, Scottish nằm trong cánh tay lạnh lẽo. Cảm nhận được hơi nóng, chàng gục xuống trên đầu gối, hai cánh tay vẫn ôm chặt nàng. Ngay trước khi sụp đổ, chàng khò khè, “Nàng là Nữ công tước xứ Belmore. Nàng sẽ không chết.”

    Một đôi bàn tay mạnh mẽ giữ lấy vai chàng. “Hãy bình tĩnh, tôi giữ được anh rồi.” một giọng trầm thấp khàn khàn phát ra.

    Ai đó cố gắng lấy Scottish ra khỏi tay chàng, nhưng chàng từ chối thả nàng ra. “Không! Ta phải làm nàng ấm áp. Ngọn lửa…”

    “Khỏi đi. Tôi sẽ giữ cả hai người họ,” giọng trầm nói. Những bàn tay ngừng kéo vợ chàng ra.

    Giọng trầm nói, “Tìm thêm vài cái trăn và đốt lửa chên lầu đi.”

    Alec nghe tiếng chân gấp gáp, tiếng cầu thang cót két, một cánh cửa đập mạnh, tiếng lốp bốp của lửa, rồi cũng bước chân gấp gáp đó trên căn phòng nào đó phía trên chàng. Rồi chàng cảm thấy bản thân đươc nâng lên bởi một cơ thể khổng lồ nào đó, và sức nóng mãnh liệt của ngọn lửa đập lên mặt chàng. Nó thiêu nóng da chàng và hút đi hơi thở khỏi môi chàng, nhưng chàng biết đó là điều nàng cần. Chàng ôm nàng chặt hơn.

    “Đây. Ngồi xuống. Ngài sẽ phải để tôi giữ cô ấy”

    “Không!”

    “Bình tĩnh lào, Đức ngài.”

    Cái áo choàng đông cứng nặng nề được nâng lên khỏi vai chàng và thay bằng một cái chăn dày ấm áp.

    “Đừng để ý tới ta. Nàng ấy cần được giữ ấm.”

    “Ngài phải thả cô ấy ra. Tốt nhất lên tháo mấy thứ ẩm ướt ra khỏi cô ấy.”

    Alec nhìn lên về phía giọng nói và tầm nhìn mờ mịt của chàng rõ hơn. Chàng thấy một người đàn ông rắn rỏi, to lớn với một cái mũi như củ khoai tây to và và mái tóc vàng sáng đang phủ trên vai. Người đàn ông đang xem xét chàng với đôi mắt màu xám sắc sảo.

    Hàm răng Alec bắt đầu lập cập. Chàng cố gắng ngừng lại nhưng không thể và rùng mình. “Ta- ta sẽ làm.”

    Người đàn ông nhìn chàng nghi ngại. “Ngài có nên bậc thang được không?”

    Alec gật đầu và cố gắng đứng dậy, nhưng chân chàng rất lạnh và bủn rủn.

    Người đàn ông vòng tay giữ chặt vai chàng. “Hãy để tôi giúp ngài.” Người đàn ông dẫn chàng trèo lên những bậc thang nhỏ hẹp, ọp ẹp và kêu kẽo kẹt. “Cẩn thận kẻo đầu đập nên cái xà nhà trết tiệt,” ông ta cảnh báo, cúi xuống dưới cái phần nhô ra của xà nhà và dẫn Alec tới một cánh cửa hẹp. “Đây.” Ông ta mở ra cánh cửa cọt kẹt.

    Căn phòng nhỏ nhưng thật ấm áp nhờ cái lò sưởi đang cháy rực đối diện giường. Alec nhanh chóng tỉnh táo lại, cũng như cảm giác đã quay lại với hai bàn chân và bàn tay tê cóng của chàng.

    Chàng quì gối phía trước lò sưởi, để cái chăn rơi xuống khỏi vai. Chàng đặt người vợ mềm oặt lên trên nó rồi lúng túng gỡ đôi găng tay đóng băng ra khỏi tay mình. “Kêu một hầu gái tới đây và đi tìm một bác sĩ.”

    “Ở đây không có phụ lữ, hay thầy nang.”

    “Chết tiệt.” Alec giật cái áo khoác đông cứng bởi tuyết ra khỏi người vợ chàng. Hai bàn tay chàng vẫn tê cứng tới mức chàng không cảm nhận được sự lạnh lẽo của cái áo khoác. “Nàng ấy cần sự giúp đỡ.” Chàng có thể nghe được sự thất vọng trong giọng nói khô khan của mình.

    “Phải cởi mớ quần áo rách ướt mem lày ra. Lào, để tôi giúp.”

    “Không! Ta sẽ làm. Một mình.” Chàng nhìn xuống nàng, một cái chăn mỏng đang bao lấy nàng. “Có thêm cái chăn nào không?” Chàng lấy cái chăn của mình đắp cho nàng.

    Cách cửa cọt kẹt mở ra và một người lùn xủn nhỏ bé có bột râu trắng bước vào phòng, hai cánh tay ngắn mập mạp của ông ta ôm đầy một đống chăn len cũ mỏng. Ông ta đi lạch bạch tới chỗ Joy nằm và đặt những cái chăn bên cạnh nàng, đôi mắt ông ta có vẻ kỳ lạ và cảnh giác. Rồi ông ta lại đi ra ngoài.

    Alec đặt Joy lên trên những tấm chăn mỏng ấy, rồi bước về phía cái giường và lột tấm trải giường ra.

    Người đàn ông to lớn nhìn chàng suy đoán rồi nói, “Ngài cần cởi mớ quần áo lày ra.”

    “Vợ ta trước.” Alec nắm lấy góc của cái nệm rơm bự và cố gắng kéo nó ra khỏi giường. Cái lạnh đã gây tổn hại. Chàng chỉ còn môt chút sức lực trong hai bàn tay đang ngứa ran như bị một ngàn cây kim châm chích.

    Người đàn ông to lớn đã đến phụ chàng nắm lấy một bên, lẩm bẩm về đàn ông nước Anh ngoan cố trong khi giúp chuyển cái nệm lại gần ngọn lửa. Alec đặt Joy nằm trên nó, rồi nhìn vào khuôn mặt trắng bệch của nàng. Chàng khụy gối bên cạnh nàng và cảm thấy một cái chăn khác phủ lấy chàng. Chàng chẳng nói gì, chỉ cố gắng để lôi mớ quần áo sũng nước khỏi người nàng.

    Người đàn ông to con vẫn đứng phía trên chàng, quan sát. Alec vật lộn với cái váy ướt đẫm. Chàng đột nhiên ngừng lại và nhìn lên, đôi mắt chàng cứng rắn, tâm trí sắc bén - hết thảy đều là Công tước xứ Belmore. “Ta sẽ lo cho nàng ấy. Nàng là vợ ta.”

    Người đàn ông đánh giá chàng trong một giây, rồi quay về phía cánh cửa. Khó chịu với bàn tay lúng túng của mình, Alec nhìn chằm chằm vào cái váy đẫm nước, rồi nắm một mớ vải trong hai bàn tay và xé nó thành hai mảnh.

    “Tôi đoán ngài sẽ nàm thế,” người đàn ông lẩm bẩm và mở cửa. Ông ta dừng bước và quay lại. “Tôi sẽ mang nên cho ngài một ấm lước để nàm ấm trên ngọn nửa. Ngài sẽ cần lước ấm.”

    Biết rằng chàng cần nó, nhưng không thích phải thừa nhận, Alec nhìn lên và gật đầu. Người đàn ông đóng cửa và Alec xé xuống số áo xống còn lại trên người Joy. Đôi giày của nàng đã bị đông cứng và dán vào đôi chân đáng thương lạnh lẽo của nàng. Nếu không nhờ cái vớ, chàng đã phải cắt đôi giày ra khỏi chân nàng. Chàng thoáng thấy da nàng có màu trắng xanh khi đang vội vã bọc nàng trong những tấm chăn mỏng. Một cảm giác hoàn toàn vớ vẩn quét qua chàng khi chàng đứng đó. Kể từ lúc cô nàng phù thủy này nhảy vào đời chàng, chàng có cảm giác mọi thứ đã vượt kiểm soát. Không điều gì đúng đắn cả.

    Nhìn nàng đang nằm đó, bọc trong chăn, nửa đóng băng, nửa còn sống, và có lẽ là sắp chết, có điều gì đó xoắn lại bên trong chàng, điều gì đó sâu sắc và đáng lo ngại. Và trong sự bối rối chàng mơ hồ linh cảm rằng không điều gì sẽ trở lại như cũ. Suy nghĩ ấy chẳng làm tâm trí chàng thanh thản, cũng chẳng giúp dịu bớt cảm giác dễ tổn thương mới mẻ này của chàng.

    Chàng cúi xuống và giật mạnh đôi bốt đông cứng của mình. Người đàn ông tóc vàng quay lại với một ấm nước đang tỏa hơi nóng trong tay. Alec liếc lên và bắt gặp cái nhìn chăm chú của ông ta. Người đàn ông kéo một cái dao ra khỏi dây lưng. Không ai cử động trong một phút căng thẳng. Alec nhận ra tình trạng của họ rất dễ gặp nguy hiểm - một quán trọ độc lập, ngập trong tuyết. Chẳng phải thật mỉa mai nếu sống sót khỏi cơn giá lạnh chỉ để bị mưu sát bởi một vài tên khổng lồ trong sự ấm áp của một quán trọ ấm cúng?

    Một cặp mắt xám sắc sảo nhìn chăm chú lại vào chàng, đánh giá chàng và gần như đọc những suy nghĩ của chàng. Rồi người đàn ông ngoảnh đi, quì xuống cạnh chân Alec và rạch một bên của một chiếc giày của chàng. Alec thả lỏng.

    Cái người lùn tịt bước vào với một khay nặng trĩu với các bát súp nóng hổi và vài cái bánh mì. Anh ta đặt cái khay lên sàn gần lò sưởi, rời đi nhanh chóng và thầm lặng như lúc anh ta tới. Tiếng cọt kẹt của cái bản lề cũ vang lên trong căn phòng im lặng. “Ở đây có gỗ.” Người đàn ông tóc vàng chỉ vào cái hòm cao bằng gỗ thông. “Giờ chúng tôi sẽ để lai người một mình,” ông ta nói, đôi bốt gõ trên sàn gỗ như móng của con ngựa kéo xe khi ông đi tới cánh cửa.

    “Cảm ơn,” Alec nói nhỏ - những từ hiếm khi phát ra bởi Công tước xứ Belmore.

    “Không có chi, Đức ngài.” Và ông ta bỏ họ lại một mình.

    Alec kiểm tra Joy, hạ tai chàng xuống môi nàng và lắng nghe nhịp thở của nàng. Nó vẫn rất cạn. Chàng cởi quần áo ướt ra, quấn một cái chăn quanh người và cử động cái chân cứng ngắc và đang đau nhói để quì kế bên vợ chàng - bà phù thủy.

    Nữ công tước xứ Belmore là một phù thủy. Chàng thấy cái ý niệm này thật khó hiểu. Chàng cứ nghĩ những ngày tránh xa nàng sẽ làm dịu đi cảm giác đang có một cơn ác mộng của chàng.

    Quanh cảnh trên mái nhà đã làm chàng nhận ra điều ngược lại. Chàng đang sống trong một cơn ác mộng.

    Từ giây phút nàng thuyết phục chàng sự thật, tâm trí chàng đã xem nàng như thứ gì đó không thực, không giống con người. Rồi chàng đã làm điều chàng luôn làm - gạt cảm xúc sang một bên và suy nghĩ lý trí về toàn bộ tình huống. Chàng nhận ra chẳng thể làm gì. Chàng đã cưới nàng dưới sự chứng kiến của các nhân chứng, và ly hôn hay hủy bỏ hôn nhân là không thể xảy ra. Chàng là một Belmore. Chàng cần những người thừa kế. Cần một người vợ. Chàng sẽ đối đãi với nàng cùng một cách như chàng luôn cư xử với mọi thứ. Chàng sẽ giữ trách nhiệm và ra lệnh cho nàng phải trở nên bình thường. Rồi có lẽ chàng có thể coi nàng như một người phụ nữ bình thường.

    Chàng nhìn xuống làn da tái nhợt của nàng. Chàng chạm vào má nàng. Nó lạnh lẽo, mềm mại và bất động. Nàng không phải một ác mộng, nàng có thật. Và phù thủy hay không, nàng là vợ chàng. Chàng không thể thay đổi điều đó và Chúa giúp chàng, một vài phần nhỏ bé lạ lẫm của chàng không muốn thay đổi nó.

    Mặc dù không thích phải thừa nhận, chàng đã bị nàng thu hút với những khát khao mạnh mẽ và khó nắm bắt mà chàng chưa bao giờ bắt gặp trước đó, và chàng không thể ra lệnh cho nó mất đi. Chàng đã tránh xa khỏi nàng, nghĩ rằng chàng bị nàng hấp dẫn bởi bùa chú, bởi phép phù thủy.

    Cho đến lúc này. Chỉ còn một chút sự sống sót lại trong nàng, nữa là bất kỳ năng lực ma thuật nào. Chàng vẫn cảm thấy nhu cầu rõ ràng cần phải ở gần nàng, một thôi thúc mạnh mẽ phải chạm vào nàng.

    Chàng xoa bóp mái tóc ẩm ướt của nàng trong những ngón tay, nhớ lại nó dày và có màu nâu như lông chồn và uốn lượn xuống đằng sau đùi nàng. Chàng chạm lên má và môi nàng. Phải, nàng là thật.

    Đây không phải một ác mộng. Chàng đã cưới một phù thủy có khuôn mặt thiên thần. Chàng nhìn vào khuôn mặt ấy, chạm lên cái má lạnh lẽo mềm mại của nàng.

    Nàng không có phản ứng với sự động chạm của chàng.

    Chàng nhét một cái chăn khác vòng quanh nàng và ngồi đó, nhìn vào đôi môi tái nhợt, mái tóc ẩm ướt và hơi thở yếu ớt của nàng. Chàng không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Chàng chỉ ngồi đó ngắm nhìn hơi thở nông cạn của nàng cứ như nghĩ nó sẽ biến mất nếu chàng quay đi.

    Thật ngu ngốc cho một Công tước Anh.

    Chàng bắt mình phải cử động. Chàng kiểm tra nước trong cái ấm. Nó còn ấm. Chàng nhúng một miếng giẻ vào trong đó, vắt nó và nhẹ nhàng chùi mặt và cổ cho nàng - một việc chàng chưa làm cho bất cứ ai.

    Màu sắc quay lại với má nàng sau vài cái xoa nhẹ nhàng của vải ấm. Chàng quấn một cái quanh mái tóc ướt của nàng và rồi di chuyển nó tới bàn tay nàng, biết rằng những đầu ngón tay là chỗ dễ bị tổn thương do lạnh nhất. Chàng lau từng bàn tay nhỏ bé, nhìn vào những cái đường độc đáo trong lòng bàn tay và đầu ngón tay nàng, vào những móng tay trắng bệch và những ngón tay nhỏ nữ tính, rất khác biệt với bàn tay to lớn của chàng. Trước đây chàng chưa bao giờ chú ý tới bàn tay của phụ nữ, nhưng chàng chú ý tới bàn tay của nàng, và chàng có một phản ứng kỳ lạ khác. Chàng cảm thấy lúng túng, khác biệt và đột nhiên nhận thức được kích cỡ và giới tính của mình.

    Chàng chuyển tới chân nàng, lau nó, ôm nó, thực sự nhìn vào nó, và nhận ra vợ chàng thực sự nhỏ bé, thực sự là một con người như thế nào. Và chưa bao giờ trong hai mươi tám năm cuộc đời, Alec Castlemaine, Công tước xứ Belmore, cảm thấy hoàn toàn lạc lõng như vậy.
     
    hathao, Levananh, B-Mon and 3 others like this.
  17. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 13

    Theo yêu cầu của Neil, Tử tước Seymour, chương mười ba bị bỏ qua.
    Điềm gở, bạn biết đấy…
     
    hathao, Levananh, B-Mon and 3 others like this.
  18. lan anh vu

    lan anh vu Lớp 2

    Chương 14

    Joy trôi dạt giữa hai thế giới - một bên là nơi nàng có ý thức, lạnh lẽo và tràn ngập đau đớn, bên kia là nơi nàng không cảm thấy gì, không nỗi đau, không buốt giá, nhưng cũng không có sự sống, ánh nắng ấm áp, những cây thông có mùi tươi mát hay những bông hoa rực rỡ. Không có Alec.

    “Scottish.”

    Nàng cố gắng nói gì đó với chàng, bất kỳ điều gì, nhưng giọng nàng không phát ra. Nàng cảm thấy chàng đang ở gần bên, hơi thở ấm áp của chàng phả trên mặt nàng. Nàng cố hết sức bình sinh để cử động đôi môi. Chúng quá khô và nứt nẻ.

    “Gì vậy?” chàng nói. “Ta không nghe thấy được.”

    “Alec…” Từ ấy cào xước trong cổ họng nàng.

    “Ta ở đây.”

    Nàng cố gắng liếm môi nhưng không thể.

    “Đợi chút,” chàng nói, rồi nàng cảm thấy một cái khăn ướt và ấm phủ lên miệng nàng.

    “Lạnh quá, thật lạnh,” nàng thì thầm.

    “Ta biết.” Cái khăn chạm nhẹ nhàng lên nàng khi chàng nói với nàng bằng giọng cộc cằn.

    “Ôm em đi.”

    Nàng cảm thấy chàng do dự, rồi nghe thấy tiếng sột soạt của một cái chăn và chàng đã ở bên nàng. Chàng nâng nàng lên và ôm nàng tựa vào cơ thể của chàng. Nàng có thể cảm nhận được sức mạnh của cơ, gân và xương, chúng thật khác biệt với sự mềm mại của nàng và cũng rất ấm áp. Chàng không mặc áo và nàng luồn những ngón tay qua lớp lông trên ngực chàng. Chàng bao bọc họ với tấm chăn của chàng, rồi quấn cánh tay quanh nàng, bảo vệ nàng trong cái kén bằng da thịt đàn ông mạnh mẽ.

    Alec, lần này thì em cần ma thuật của chàng, nàng nghĩ. Một giây sau nàng cảm thấy ấm áp và sống lại và tràn đầy sinh lực, cứ như sự sống đã được rót từ chàng sang nàng.

    Chàng - ánh nắng của nàng - thật ấm áp. Nàng hít thở trong mùi hương trong lành và rõ rệt, mùi của chàng, cây thông của nàng. Nàng nỗ lực mở mắt ra và nhìn vào màu xanh đêm đậm của những bông hoa chuông đầu tiên của mùa. Những quả chuông, nàng nghĩ và trái tim nàng mỉm cười khi môi nàng không thể. Những quả chuông, Belmore, Alec… Đột nhiên Joy không thấy quá lạnh nữa.

    “Tốt hơn rồi?” Bàn tay chàng vuốt ve mặt nàng.

    Nàng cố gắng trả lời nhưng không từ nào thốt ra.

    “Gì cơ?” chàng hỏi. Hơi thở chàng lại ở trên tóc nàng.

    Nàng đặt bàn tay lạnh băng lên tim chàng và khào khào một lời thì thầm nhỏ, “Hôn em đi.”

    Chàng nhìn chăm chú xuống nàng. Nàng có thể cảm thấy sự ngập ngừng và cái nhìn của chàng. Rồi khớp ngón tay của chàng chạm vào cằm nàng, môi chàng chạm vào môi nàng thật nhẹ nhàng, không hơn gì một cái chạm mong manh.

    Nàng rên rỉ kháng nghị.

    Chàng ngẩng lên, mắt lộ vẻ nghi hoặc.

    “Giống như trước đó,” nàng thì thầm, vỗ lên tim chàng. “Làm em ấm lên bên trong.”

    Chàng hôn nàng thật sâu. Và nàng thưởng thức điều nàng yêu thích - Alec của nàng.

    ***

    Một thời gian sau Joy cựa quậy, không muốn rời khỏi những giấc mơ của nàng về những chuyện cổ tích lộng lẫy nơi công chúa và chàng hoàng tử tóc xám của nàng khiêu vũ trên mái lâu đài của chàng, với âm nhạc phát ra từ đàn hạc của một thiên thần và sáo ống của Pan.

    Nàng cảm thấy ấm áp, thực sự ấm, nóng hổi bên trong, nhưng nàng không chắc cảm giác nóng hổi này bắt nguồn từ ngọn lửa hay từ ký ức về nụ hôn của Alec. Đó là điều cuối cùng nàng có thể nhớ rõ, chàng hôn nàng, nàng đã nhấm nháp tất cả những gì nàng thích trước khi ngủ thiếp đi trong sự bảo vệ chắc chắn của vòng tay ấm áp của chàng và ngủ say sưa, lạc trong những giấc mộng.

    Thêm vài khoảng khắc nữa về những ký ức thầm lặng mà đã làm tâm trí nàng trôi dạt tới một thế giới trong mơ- tràn đầy sự ngọt ngào của những giấc mộng, niềm hy vọng và điều ước. Nửa mơ nửa tỉnh, cảm nhận được Alec đang ở gần bên, nàng mở mắt ra. Tầm mắt nàng không thấy gì ngoài mờ mịt. Nàng nháy mắt vài cái rồi quay đầu.

    Đắm mình trong ánh trăng trong trẻo, chàng đứng bên một khung cửa sổ nhỏ hẹp bên kia căn phòng tối. Nhìn ra bên ngoài. Đuôi áo sơ mi màu trắng thò ra bên ngoài cái quần ống túm màu da bò mà đã bị lấm bẩn và có một vết rách lởm chởm ở phía sau một đầu gối. Đôi bốt bóng loáng tinh tế của chàng đã bị rạch phía bên trong bắp chân và tòe ra. Các núm tua màu vàng trang trí cho chúng giờ đã thành những sợi dây tả tơi và xơ xác, cứ như đã bị Beezle nhai.

    Một cánh tay dài vươn lên và bàn tay chàng nắm lấy đỉnh của khung cửa sổ. Bàn tay kia thì giữ một cái cốc hay cái chén mà chàng thỉnh thoảng trầm tư uống từng hớp thứ gì đó trong nó. Nàng nhìn vào dáng đứng của chàng, nhớ lại những bàn tay nam tính ấm áp đã vuốt ve khuôn mặt nàng, áp những cái khăn ướt và ấm áp lên làn da lạnh lẽo của nàng, một cái má lởm chởm râu tì lên ngực nàng khi chàng tìm kiếm một nhịp tim, giọng nói trầm thấp nói với nàng rằng nàng là một nữ công tước và do vậy nàng không thể làm điều gì đó ngu xuẩn, như là chết đi.

    Nàng nhớ rằng đã cố gắng nói với chàng rằng nàng chỉ mệt mỏi, chứ không chết, nhưng sau vài tiếng lầm bầm mà không chịu thoát khỏi môi nàng, không gì đáng quan tâm ngoài mùi vị của loại súp đậm đà mà chàng đút vào miệng nàng. Nàng nhớ được mùi vị của bánh mì ngâm trong súp và giọng nói của chồng nàng ra lệnh cho nàng phải ăn.

    Thật khó để tưởng tượng ra Công tước xứ Belmore đóng vai bảo mẫu. Cái nhìn chăm chú của nàng lại trượt về phía chàng và nàng tận dụng cơ hội để ngắm chàng. Chàng có vẻ đang chìm trong suy nghĩ, và nàng tò mò chàng đang nghĩ gì. Dĩ nhiên nàng luôn tò mò chàng đang nghĩ gì. Khi mà khuôn mặt chàng hiếm khi lộ ra cảm xúc nào trừ giận dữ - nàng đã thấy nó quá thường xuyên - nàng chẳng bao giờ có thể đoán được suy nghĩ của chàng.

    Một công tước sẽ nghĩ gì? Tâm trí nàng lóe lên hình ảnh chàng đứng trong làn nước đóng băng cao tới tận đùi và hỏi nàng cái quán trọ ở chỗ chết tiệt nào. Rồi nàng nhớ lại cái nhìn kinh hoàng trên mặt chàng khi nhận ra nàng thực sự là một phù thủy. Hình ảnh đó cho nàng câu trả lời: có lẽ chàng đang nghĩ rằng nàng là một vấn đề - một vấn đề lớn.

    Một chút thất bại và một chút tội lỗi, nàng nhìn xuống tấm đệm nơi nàng đang nằm, nhìn thấy những nhánh cỏ và rơm nhỏ đã chọc ra qua vỏ bọc bị rách. Nàng đặt ngón tay lên một mảnh vụn của cọng rơm vàng nhỏ bé bị gãy nằm cô đơn trên lớp vỏ bọc.

    Joy cảm thấy mình như cọng rơm ấy. Ngu ngốc chui khỏi thế giới nhỏ bé chặt chẽ và an toàn của nó, chỉ để bị gãy vụn và ở trên một lãnh địa xa lạ rộng lớn. Với một tiếng thở dài nàng ném cọng rơm sang bên cạnh. Nó rơi vào lò sưởi và biến mất ngay lập tức trong ngọn lửa xanh nóng bỏng. Nàng cau mày, không thích sự tương đồng xẹt qua trong tâm trí - ngọn lửa thiêu cháy cọng rơm.

    Tất cả những gì nàng thực sự muốn là làm chàng ấn tượng với một bùa chú mà sẽ dịch chuyển họ tới một quán trọ ấm cúng. Điều đó có vẻ không đòi hỏi quá đáng lắm. Thỉnh thoảng các lời thần chú của nàng quá sai lầm tới mức nàng tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống. Rồi nàng nhìn lên chàng. Phải chăng chàng là lý do nàng tồn tại trong thế giới trộn lẫn giữa hạnh phúc và buồn đau này?

    Với một tiếng thở dài buồn bã, nàng kéo những cái chăn ấm áp và nặng nề lên cằm. Những múi cơ bầm dập và đau đớn của nàng thậm chí cũng kháng nghị với những cử động nhỏ ấy và nàng co rúm lại. Cơ thể nàng cứ như đã bị đánh đập - giống như cái lần nàng ngã xuống cầu thang tòa tháp trong khi đang đuổi theo một cái chổi lúc đó đang bỏ chạy. Nàng đã rót sự sống vào nó trong một cố gắng sai lầm để dọn dẹp sàn tòa tháp một cách kỳ diệu - một việc vặt đã thành sự trừng phạt cho nàng vì một sai lầm không chính đáng nào đó khác.

    Đã có quá nhiều tai nạn trong thời kỳ khó khăn đó trong đời nàng đến nỗi nàng chỉ có thể nhớ lại việc đau đớn và khắc sâu nhất. Và vụ đó thật khốn khổ. Nàng phải mang những vết bầm xanh hàng tuần sau khi nàng ngã nhào nặng nề xuống năm mươi bậc thang đá.

    Không dễ dàng gì khi là một phù thủy trẻ, thậm chí nếu ai đó có kỹ năng một cách tự nhiên. Đối với Joy, tuổi trẻ tươi đẹp của nàng thật chán nản - khốn khổ và buồn thảm. Và thành ra đó cũng là sự tươi đẹp cho thời kỳ trưởng thành của nàng.

    Nàng nhìn lại vào Alec và tất cả những năm tháng của những bùa chú sai lầm và tai nạn đáng xấu hổ biến mất như sương mù trong ánh nắng. Việc hai người họ ở bên nhau là một điều thật đúng đắn. Nàng biết chắc về điều đó như ai đó đã đặt chàng trên những chiếc bạc Belmore và trao cho nàng và nói, “Đây, chàng trai này là của nàng, là mục đích và lý do nàng sống. Chàng ấy cần nàng.”

    Với suy nghĩ cuối cùng ấy hai mắt nàng díp lại và một nụ cười trêu chọc trên môi. Một lần nữa nàng bỏ trốn tới thế giới kỳ ảo của nàng, nơi không có nỗi đau trên cơ thể và trái tim, một thế giới uể oải quyến rũ, nơi thần chú của một phù thủy được thực hiện hoàn hảo, nơi một công tước tóc xám đẹp trai mỉm cười làm thế giới nàng bừng sáng, và nơi những giấc mơ có thể thực sự thành sự thật.

    ***

    Alec thực sự đang sống trong một cơn ác mộng.

    Chàng chắc chắn về điều đó. Tên khổng lồ và tên người lùn đã chết tiệt nó biến mất. Chàng đã tìm kiếm, kêu họ, chờ đợi, nhưng không có ai ở đây và nhìn vào đồ đạc thì không có ai từng ở đây.

    Không có quần áo trong tủ, không có dấu hiệu nào ai đó đang sống hoặc đã từng sống ở nơi đó. Đồ đạc cơ bản cho một quán trọ thì có ở đó cùng với nồi và ấm đun nước trong bếp, nhưng chẳng có người nào hay đồ đạc cá nhân nào. Chàng biết mình đã gặp hai người đàn ông - chết tiệt thật, chàng đã chạm vào họ. Ai đó đã cố gắng lôi Joy khỏi tay chàng. Chàng đã nói chuyện với cái người to lớn. Cái nhìn bối rối của chàng chuyển tới cái cửa sổ nhỏ hẹp. Chàng chẳng thấy gì ngoài tuyết trắng tinh và những ô cửa mờ sương. Không một ai sẽ rời đi trong thời tiết này. Nhưng hai người đàn ông đã biến mất.

    Chàng bước tới phía trước lò sưởi và nhìn xung quanh cái phòng ăn quán rượu. Có những cái bàn và ghế ọp ẹp nhưng không thấy bất kỳ đồ uống nào. Không có thùng rượu hay bia, không cốc hay vại uống bia, không gì ngoài một căn phòng trống trải với bàn và ghế, một cái lò sưởi và một đống củi đã chẻ cạnh lò sưởi.

    Alec có thể thề rằng chàng đã nghe những tiếng chuông, tiếng cười, giọng nói và con bò. Những âm thanh đó kéo chàng tới quán trọ. Chàng băng qua căn phòng và chùi cái cửa sổ mờ sương rồi cúi xuống và cố gắng nhìn ra ngoài. Chàng biết rằng đã nghe thấy tiếng con bò đó, do đó phải có một cái kho hoặc chuồng, đây là một quán trọ.

    Chàng thoáng bắt gặp một hình ảnh mờ mịt ở khá xa. Rất khó để nhìn xuyên qua làn tuyết rơi, nhưng chàng không dám mạo hiểm ra ngoài cho đến khi Joy tỉnh dậy. Và nói thật thì chàng không hăm hở lại dạo chơi trong tuyết trong tương lai gần. Chàng rời khỏi cửa sổ và đi vào nhà bếp mở đằng sau cái cầu thang lung lay.

    Một nồi súp treo bơ vơ và lạnh lẽo trong lòng lò sưởi nhà bếp. Chỉ còn một ít sót lại, thậm chỉ không đủ một bát, nhưng Alec tìm được một khoanh bánh mì nhỏ còn lại. Gần nền lò sưởi bếp có một cái bình đựng nước lớn và một chạn nhỏ đựng vài củ cải, cà rốt, củ cải vàng, khoai tây lấm đất, một bao không thấm nước đựng bột mì thô và nửa bình mỡ lợn. Đấy là tất cả thức ăn tìm được và là một công tước, chàng chẳng có tí ý tưởng nào phải làm gì với chúng. Chàng chưa bao giờ nấu thứ gì trong đời. Thật ra chàng chỉ từng ở trong căn bếp của Belmore một hoặc hai lần, khi chàng còn là một đứa trẻ.

    Chàng bước tới cái kệ và nhìn bối rối vào đám rau củ trông có vẻ xù xì. Chàng là một người đàn ông thông mình, chàng lý luận. Chàng quản lý sự sản, tranh luận về vấn đề pháp lý trong Viện quí tộc, và là một thượng nghị sĩ xuất sắc của vương quốc.

    Nhưng nông dân nấu nướng. Phụ nữ nấu nướng. Các thượng nghị sĩ thì không.

    Chàng cân nhắc suy nghĩ đó trong một phút, rồi đạt tới một kết luận hết sức đàn ông và hoàn toàn logic. Chàng là một công tước và là một người đàn ông. Chắc chắc chàng có thể làm được, không ngờ gì là còn làm tốt hơn…

    ***

    “Nàng cần phải ăn, Scottish. Dậy đi.”

    Joy rên rỉ, rồi cảm nhận được Alec nâng nàng lên để nàng lại tựa vào ngực chàng và đó cũng thật là một lồng ngực ấm áp. Nàng đặt bàn tay lên trên ngực chàng và lại trôi vào giấc ngủ.

    “Đừng ngủ lại, ta không cho phép.”

    “Quá mệt…” nàng xoay sở để càu nhàu.

    Chàng lắc nhẹ nàng. “Nàng phải ăn.”

    Nàng thở dài và mở miệng ra, rồi tận dụng cơ hội để trượt hai cánh tay quay chàng và rúc vào gần hơn.

    “Tốt.”

    Đúng vậy, nàng nghĩ, thật tốt. Nàng đặt tay lên tim chàng và thở dài chỉ một chút.

    “Nào, đây là một ít súp.”

    Nàng cảm thấy thìa ấm áp bằng kim loại chạm vào môi nàng, rồi dòng súp ấm tràn đầy miệng nàng.

    Nàng nôn khan, quay đi khỏi lồng ngực ấm áp của chàng. Rồi nàng ho và nuốt xuống và lại ho nữa. Nàng hít một hơi sâu và nhăn mặt vì mùi vị kinh tởm ấy, nhìn vào chàng, không tin nổi chàng có thể tàn nhẫn như vậy.

    Chàng ngồi hoàn toàn cứng ngắc và nhìn vào súp một lúc. “Nàng cần phải ăn.”

    “Em không muốn ăn nó.” Nàng trượt xuống tấm đệm và kéo mấy cái chăn bao chặt lấy người.

    “Nàng phải ăn.”

    Nàng lắc đầu. “Không.”

    “Nàng là vợ ta và ta ra lệnh nàng phải ăn.”

    “Nó có vị như đất ấy.”

    Chàng cứng người, nhưng nàng đã quá mệt và quá yếu để tranh luận. Chàng có thể ngạo mạn như chàng muốn nhưng nàng sẽ không ăn cái hỗn hợp tồi tệ ấy. Nàng lại nói vậy với chàng và nhắm mắt lại, bỏ qua cái nhìn bị xúc phạm lướt qua mặt chàng khi chàng nhìn xuống bát súp. Sau một vài giây hết sức lặng lẽ chàng đặt một khúc bánh mì cạnh bên nàng và rời khỏi căn phòng, cầm cái bát trên tay.

    ***

    Joy thức giấc vì mùi khói của gỗ. Nàng mở mắt ra và nhìn ngọn lửa trong lò sưởi ở bên cạnh đang liếm cái lưỡi vàng xanh lên ống khói bằng đá. Đó là một ngọn lửa lớn và nó phủ những làn sóng nhiệt nhấp nhô trên người nàng. Nàng quay về hướng cửa sổ, hy vọng nhìn thấy Alec. Chàng không ở đó. Thay vào đó cái nhìn tràn đầy hy vọng của nàng bắt gặp ánh sáng ban ngày màu trắng đã chảy qua các ô cửa đóng băng xung quanh.

    Nàng ngồi dậy, rúm người lại khi các múi cơ kháng nghị đau đớn và nhìn xung quanh căn phòng. Chàng không ở đây. Nàng kéo cái chăn chặt hơn bao lấy nàng, đột nhiên cảm thấy rất cô đơn, yếu đuối và thật trần trụi bên dưới những tấm chăn. Nàng kiểm tra căn phòng lần nữa và phát hiện ra quần áo của nàng đang chất đống bên trên một cái hòm gỗ gần cửa sổ. Nàng cố gắng đứng lên, một hành động dại dột làm cơn đau trong những múi cơ cứng đờ chạy qua hai chân và bàn chân như thể chúng bị những đàn ong bao vây.

    Nàng rơi tõm xuống bọc chăn, cảm thấy còn vô dụng hơn. Nàng xoa hai bàn chân trần cho đến khi chúng có cảm giác hơi bình thường và lại cố gắng đứng dậy, lần này thì thành công. Với dáng đi vụng về của một con vịt say xỉn, vẫn quấn trong một bọc gồm những tấm chăn nặng nề, nàng bước tới đống quần áo.

    Nàng lục lọi qua quần áo nhanh hết mức, chỉ để thấy cái váy lót là một miếng giẻ thủng, rách rưới. Nàng đứng lùi lại một chút, một tay nắm cái chăn và cái còn lại chỉ vào cái váy lót. “Ôi, váy lụa với những cái nơ xanh,” nàng ngâm nga, “quay trở lại mới như ban đầu!”

    Cái váy lót biến mất trong một tiếng bốp! Joy sững sờ nhìn vào nơi nó từng nằm. Nàng bước lại gần hơn và nhìn thấy một cái kén màu trắng có kích thước quả trứng của chim cổ đỏ. Cúi xuống cái kén, nàng nhìn thấy con tằm nhỏ bé đang di chuyển bên trong.

    “Không phải hình dạng ban đầu đó,” nàng lẩm bẩm.

    Cố gắng lần nữa… Nàng nhắm mắt, tưởng tượng ra một cái váy lót mới: “Ta cần một váy lót mới chỉ dành cho ta, chính xác như cái ta đã thấy!”

    Nàng búng những ngón tay để đảm bảo chắc chắn và mở mắt ra. Cái váy lót rách rưới nằm đó như trước đó. Nàng thở dài, lý giải rằng nàng vẫn có chút yếu và ma thuật của nàng, vốn chẳng mạnh mẽ đến vậy, hẳn là đã bị ảnh hưởng.

    Nàng nhặt lên cái váy lót, nhìn vào nó một lúc, rồi, là một Scot tiết kiệm chính cống, nàng mặc ngược nó ra đằng trước, nghĩ rằng làm thế còn tốt hơn là không mặc nó. Vài phút sau và nhiều lần vấp váp và vùng vẫy nữa, nàng đã mặc xong cái váy len màu xanh rách rưới và nhăn nheo gắn lung tung với nhau bằng hai cái kẹp tóc, đôi bít tất cứng nhắc từng có màu trắng và đôi hài cứng rắn. Nàng gỡ tóc khỏi búi tóc rối và luồn tay vào nó, co rúm người lại. Cuối cùng thì bỏ cuộc, nàng quấn đống tóc lộn xộn quanh một bàn tay và đâm vào vài cái kẹp tóc.

    Nàng lặng lẽ mở cửa phòng, dự đoán sẽ thấy cái hành lang hẹp của một quán trọ nước Anh điển hình. Thay vào đó nàng đối diện với một đầu cầu thang nhỏ và một cầu thang. Nàng bước ra bên ngoài, lặng lẽ đóng cửa khi nàng nghe thấy tiếng vang nhỏ của giọng Alec từ bên dưới cầu thang. Nàng nắm lấy cái tay vịn gồ ghề và chậm rãi và cẩn trọng bằng hai chân có chút run run đi xuống những bậc thang hẹp. Chỉ cần tới nửa đường nàng có thể nghe được lời của Alec. Nàng ngừng lại và lắng nghe.

    “Ngài Công tước xứ Belmore bị mắc kẹt ở một chỗ chỉ Chúa mới biết là ở đâu. Không tìm thấy một tên người hầu chết tiệt nào. Đây là loại quán trọ khốn khiếp nào?”

    Joy chờ đợi một câu trả lời. Không có tiếng nào xuất hiện. Chàng đang nói chuyện với ai? Chỉ có tiếng va mạnh ồn ào của thứ gì đó bằng kim loại. Nàng rón rén đi xuống thêm vài bậc, cúi người xuống dưới cái xà nhà thấp và nhìn thấy cái lưng rộng của Alec khom xuống phía trước lò sưởi nhà bếp. Trừ chàng ra, căn phòng trống rỗng.

    “Mới phút trước ở đây, phút sau đã biến mất.” Chàng lắc đầu và lẩm bẩm điều gì đó kỳ lạ về người khổng lồ và người lùn biến mất.

    Công tước xứ Belmore đang nói chuyện với chính mình - bản thân chàng. Nàng nghe thấy tiếng cạo của kim loại lên kim loại, rồi tiếng cạo sào sạo cao vút của một cái đá lửa… một tiếng sột soạt lớn!

    “Khốn khiếp!”

    Những ngọn lửa màu xanh nóng bỏng bắn lên ống khói bằng gạch như lửa mừng lễ Phục sinh. Chàng đứng lùi lại khỏi lò sưởi đang bùng cháy, nhìn chòng chọc vào ngọn lửa - chắc chắn là đang cho nó cái nhìn giận dữ của một công tước. Cánh cửa lò nướng bật mở vì luồng hơi nóng và đập vào tường gạch. Ngọn lửa bắn lên tận lò nướng bánh mì.

    Nó trông như thể một câu thần chú của nàng trong một ngày thực sự tệ. Nhưng đó không là gì so với vẻ ngoài của chàng.

    Đôi tai, cổ, hai tay áo đã cuốn lên, cẳng tay, áo sơ mi phía trước, lồng ngực, cái tạp dề da màu nâu che ngực, và khá nhiều tóc của chàng bị phủ bởi bột trắng. Hai bàn tay chôn trong đống bột nhão lổn nhổn. Đức ông, Đức ngài tôn kính - và quá mức đúng đắn - Công tước xứ Belmore là một đống lộn xộn.

    Nàng không thể ngăn được mình. Nàng cười khúc khích.

    Chàng nhìn lên nàng. Giây phút mắt họ gặp nhau khuôn mặt chàng lóe lên sự ngạc nhiên chớp nhoáng, rồi một thoáng của điều gì đó mà làm hơi thở nàng nghẹn lại. Chàng thực sự trông hài lòng, rất hài lòng, nhưng vẻ mừng vui biến mất quá nhanh chóng làm nàng không chắc có thực sự trông thấy nó. Chàng hầu như có vẻ hạnh phúc được thấy nàng.

    Joyous hy vọng trong tim, nàng nghiên cứu đôi mắt sẫm màu, nhưng chỉ nhìn thấy biểu hiện lạnh lùng thường thấy của chàng.

    “Nàng đã khỏe.” Chàng tiến một bước về phía nàng, khuôn mặt không thay đổi.

    Nàng gật đầu rồi bước xuống hai bậc cuối và nhìn lại chàng. Sau một lúc nhìn nghiêm túc giữa hai người, nàng mỉm cười. Mặt chàng bị lem nhem bột ở nơi rõ ràng chàng đã chùi lông mày với bột nhão quá nhiều lần. Chàng chưa cạo râu, cằm và quai hàm đen đi vì hàm râu mọc lởm chởm và bị phủ bởi bột mì. Dù vậy, cái cau mày ấy vẫn rất quen thuộc.

    “Chàng đang làm gì vậy?” nàng hỏi và nhìn xung quanh chàng.

    Chàng ưỡn ngực - tư thế ta-là-một-công-tước của chàng - trước khi kiên quyết tuyên bố, “Ta đang nấu ăn.”

    Nàng lại gần thêm vài bước và nhìn thấy một bàn làm việc bằng gỗ ở một góc. Chính giữa bàn là một tảng lớn màu trắng của thức gì đó mà với trí tưởng tượng phong phú mới có thể đoán được là bột nhào bánh mì. Nó có kích cỡ của một cái kèn túi và nằm trong trạng thái - một trạng thái buồn bã - ở giữa một đống bột mì nghiền thô.

    “Em hiểu.”

    Chàng đứng ngay đơ và yên lặng như một hòn đá Celtic.

    “Bánh mì?”

    Chàng quay lại và nhìn vào tảng bột nhão. Đó là lần đầu tiên nàng thấy sự tự tin của chàng bị sụp đổ. Chàng trông có vẻ mất tự nhiên và không có tí xíu tự tin nào. Ông chồng kiêu hãnh của nàng không biết tí gì về chuyện chàng đang làm nên nàng đề nghị giúp đỡ, nàng nghĩ rằng mình sẽ có thể thuyết phục chàng để nàng biến ra thứ gì đó.

    “À, nàng có thể nấu ăn.” Giọng chàng nhuốm chút nhẹ nhõm, dẫu cho nàng chẳng thể nhìn thấy bất cứ thay đổi nào trong biểu hiện của chàng.

    Giờ đây, Joyous Fiona MacQuarrie Castlemaine, Nữ công tước xứ Belmore, nửa Scot, nửa người Anh, nửa phù thủy không có chút khờ khạo nào. Nàng sẽ không bỏ qua cơ hội tuyệt vời như thế này để làm chàng ấn tượng. Rốt cuộc thì cho đến giờ các cơ hội của nàng không thường xuất hiện.

    Nàng chỉ hy vọng vẻ mặt mình không để lộ lời nói dối nhỏ nhặt nàng sắp thốt ra. Nàng không biết nấu ăn, nhưng nàng thường có thể biến ra được một bữa ăn ngon. Hít một hơi sâu, mắt mở to và nàng nói. “Vâng.”

    “Tốt.”

    Có vẻ như chàng không thể thoát khỏi cái tạp dề đó đủ nhanh. Joy nuốt lại một nụ cười toe toét. Chàng đã không di chuyển nhanh đến thế kể từ lúc nàng đốt cháy cái thảm phòng ăn của chàng. Chàng liếc vào nàng và nàng cố gắng để trông nghiêm túc đúng mực. Từ biểu hiện của chàng, nàng có thể chắc chắn là mình đã thất bại. Chàng đứng thẳng hơn một chút - hết sức giống một công tước - rồi vứt cái tạp dề lên bàn, nơi nó đáp trên một đám bột.

    “Ta sẽ xem xét cái lò sưởi,” chàng nói.

    Nàng nhìn vào ngọn lửa bùng cháy trong lò sưởi nhà bếp. Mắt chàng theo sau nàng.

    “Lò sưởi trong phòng lớn.” Chàng quay đi như một chiến binh và rời nhà bếp. Một lúc sau nàng nghe thấy tiếng thịch của củi trong vỉ lò.

    Nàng quay lại với căn phòng và nhìn vào đống hỗn độn và đồ dự trữ nghèo nàn. Nàng băng qua căn phòng và kiểm tra đám củ. Có vẻ súp rau củ chắc chắn sẽ ở trong thực đơn của họ. Giá mà nàng có thể sử dụng phép thuật. Nhưng chồng nàng sẽ không bị lừa dối.

    Nàng tiến tới cái bàn, giũ cái tạp giề và mặc nó vào rồi đặt một ít củ lên bàn. Nơi nào cũng có bột. Nàng nhìn chung quanh căn phòng và phát hiện ra một cái chổi bằng cây liễu đang dựa vào một thùng làm bơ trong một góc tối.

    Nàng có nên không? Nàng đã cảm thấy khỏe hơn và vào năm ngoái cuối cùng thì nàng cũng xoay xở để thành thạo được việc điều khiển chổi. Nàng duỗi cổ ra để nhìn xem Alec đang làm gì. Chàng đang quay lưng lại với nàng và làm trò vớ vẩn với cái lò sưởi.

    Nang nhanh nhẹn nhìn vào cái chổi, nhíu mắt lại và nói, “Lại đây.” Cái chổi nhảy loạng choạng hai bước về phía nàng rồi khựng lại, tự đứng yên. Lại gần hơn, nàng nghĩ. Nàng lại lén lút liếc về phía Alec và trầm giọng, “Lại đây!”

    Cái chổi bắn về phía nàng và va loảng xoảng vào cái bàn.

    “Nàng ổn chứ?”

    Nàng rụt lại vì âm thanh giọng nói của Alec. Nàng lại dướn cổ lên để nhìn chàng. Chàng vẫn quì gối bên lò sưởi nhưng đang nhìn về phía nàng.

    “Em đánh rơi một thứ.”

    Chàng gật đầu và quay lại công việc.

    Nàng nhìn vào cái chổi và cười toe toét, rồi cúi xuống và thì thầm, “Thấy bột mì và cái sàn đá không? Quét nó thành một đống. Làm việc một cách yên lặng và ngừng lại ngay khi Alec quay sang.”

    Cái chổi quét bột trên bàn thành vài đám màu trắng rồi thực hiện một điệu nhảy dọn dẹp nhỏ quanh cái bàn, quét bột thành môt đống. Joy mỉm cười rồi đặt đám củ lên bàn kế bên bột nhào của Alec. Nàng nhìn cái tảng ấy rồi quay sang lò nướng bánh mì phía trên lò sưởi. Nàng quay lại và cố gắng nhặt lên đám bột nhào. Nàng chỉ có thể cầm lên một nửa, nửa còn lại rơi phịch trên tay nàng. Nàng đặt nó xuống lại, rồi chỉ vào nó và xoay những ngón tay.

    Đám bột trườn tới cạnh bàn như một con sâu đo. Có lẽ nó quá nặng cho việc xoay ngón tay, nàng nghĩ.

    Nàng nâng một tay lên và nói, “Lên!”

    “Chết tiệt!”

    Ôi không… đừng vậy nữa chứ! Nàng nhăn nhó nhìn vào căn phòng lớn, dự kiến nhìn thấy chồng nàng lơ lửng trên không.

    Alec đứng trên mặt sàn rắn chắc, cúi xuống đống gỗ nhỏ gần lò sưởi. “Thứ củi chết dẫm này không cháy được. Có lẽ nó quá tươi.”

    Joy thở phào nhẹ nhõm rồi nhìn thấy bột nhào vẫn lơ lửng trên bàn. Nàng chỉ vào cái lò nướng và thì thào, “Đi nào! Tự nướng đi!”

    Bánh mì bay vào lò nướng bằng gạch và cái cửa sắt sập đóng lại với tiếng lách cách ồn ào. Nàng nghe tiếng đôi bốt của Alec trên ván sàn. Cái chổi ngừng quét và đứng giữa căn phòng. Nàng nắm lấy nó ngay khi chàng bước qua, hướng tới cầu thang. “Mọi việc ổn chứ?” chàng hỏi.

    Nàng gật đầu và tặng chàng một thứ mà nàng hy vọng là nụ cười vô tội.

    “Ta phải lấy một ít củi khô trên lầu,” chàng nói, rồi dừng lại ở bên dưới cầu thang, cho nàng cái nhìn kỳ quặc. “Có gì không ổn à?”

    Nàng cố gắng cười rạng rỡ hơn. “Không.” Nàng lắc đầu, “Chỉ dọn dẹp môt chút.” Nàng nâng cái chổi lên.

    Chàng gật đầu và đi lên cầu thang. Nàng nhìn đôi bốt bị rạch của chàng khuất bóng và chùng xuống tựa vào bàn. Từ trần nhà phía trên, nàng có thể nghe thấy chàng bước vào căn phòng trên lầu. Làm việc nhanh lên, nàng nghĩ, rồi cau mày với đống bột và bật ngón tay. “Biến mất!”

    Đống bột biến mất trong chớp mắt. Mìm cười tự hào, nàng xoay hai bàn tay với nhau và quyết định bắt tay vào đám củ. Nàng đang nghĩ về một thần chú để gọt vỏ đám củ khi Alec bước lại xuống cầu thang.

    Chàng cúi xuống từ chỗ nhô ra trên gác, tay nắm chặt lan can cầu thang và nhìn vào nàng lạ lùng. “Củi đã biến mất.”

    Nàng nhìn lên chàng, một cảm giác bứt rứt nằm trong dạ dày nàng như một tảng bột nhào. Nàng nhìn chằm chằm vào trần nhà phía trên nàng.

    Một chút nghi ngờ thoáng hiện lên trong mắt chàng. Chàng đợi một chút rồi hỏi, “Khi tỉnh dậy nàng có thấy đống củi ở đó không?”

    “Em không nhớ,” nàng nói, tâm trí ngập tràn hình ảnh một đống củi xinh đẹp đã từng nằm bên lò sưởi. “Chàng có thấy cái dao ở đâu không?” Nàng quay lưng về phía chàng và bắt đầu lục lọi trong bếp, đóng mở các ngăn tủ với vẻ năng nổ khoa trương.

    Một khoảng lặng dài. Rồi chàng trả lời, “Không. Nàng cần dao làm gì?”

    “Để gọt vỏ rau củ,” nàng nói, lục lọi trong một ngăn kéo nhưng vẫn không nhìn vào đôi mắt nghi ngờ của chàng.

    “Gọt vỏ?” chàng thì thào. “Ai mà nghĩ được phải gọt vỏ chúng?”

    Joy liếc lên và thấy chàng cau mày với đống củ trên bàn làm việc. Ánh mắt chàng bắt gặp nàng và vai chàng thẳng đứng lên như cây thông nòng súng trước khi quay đi. “Ta phải kiếm thêm củi,” chàng nói và rời khỏi căn phòng.

    Nàng ngừng lại và nhìn lên cái trần nhà có dầm, thở ra một hơi thở phào biết ơn khi toàn bộ tầng trên không biến mất.

    Sau khi lục lọi trong một cái tủ khác, cuối cùng nàng đã tìm được hai cái dao. Nàng cầm lên cái dao nhỏ hơn và đi về phía bàn. Nàng nhìn vào đám củ và biết nàng phải làm việc này mà không nhờ cậy thêm vào bất cứ phép thuật nào. Nàng có cảm giác mình đang bị nghi ngờ. Nàng rửa đám củ trong một chậu nước từ trong thùng rồi để ráo chúng trên một cái khăn nhỏ bằng vải lanh nàng đã tìm được khi lục lọi.

    Nàng gọt lớp vỏ sần sùi khỏi cây củ cải, ngâm nga một bài hát từ thời niên thiếu và nghĩ về bữa tối tuyệt diệu họ có thể ăn nếu mà nàng có thể sử dụng được phép thuật. Nàng có thể biến ra một con vịt nướng với nước sốt mật ong và cam, cà rốt hầm với hành tây ngọt nhỏ, khoai tây nghiền và bánh nướng bơ béo ngậy.

    Hmm.

    Đột nhiên Joy thấy đói lả. Bơ, nàng nghĩ. Giờ thì đó là thứ bánh mì của họ cần. Một cái cau mày làm nàng nhăn mặt. Không ngờ gì chàng sẽ chú ý nếu nàng cố tạo ra vài thứ. Nàng quay về phía cái thùng làm bơ cũ kỹ trong góc. Nàng gõ một ngón tay lên cằm suy ngẫm rồi bước tới và kéo cái thùng đến giữa căn phòng.

    Chùi tay vào váy, nàng rời khỏi phòng và tìm Alec. “Đến xem em thấy thứ gì này.”

    Chàng đặt một bó củi xuống và nhìn chăm chăm nàng với vẻ mặt biểu lộ, “Gì nữa?” Nàng mỉm cười.

    Cuối cùng chàng lắc đầu và im lặng theo chân nàng vào phòng bếp.

    “Nhìn này. Một cái thùng làm bơ.” Nàng chờ đợi phản ứng của chàng.

    “Phải rồi, ta tin vậy,” chàng đồng ý, rõ ràng chẳng hề ấn tượng.

    “Chúng ta có thể làm bơ!” Nàng xoa hai bàn tay với nhau trong hy vọng.

    “Ta không nhớ đã thấy chút kem nào.”

    “Không phải đây là một quán trọ à? Hẳn là phải có một nhà kho, hoặc mấy con bò trong chuồng. Không phải tất cả các quán trọ đều có chuồng trại sao?”

    “Ta chắc chắn nơi này không giống như hầu hết các quán trọ.”

    “Chàng đã tìm bên ngoài chưa?”

    “Ta tin rằng nàng là người nên nhìn ra bên ngoài.”

    Joy bước tới cửa sổ và chùi mặt kính. Tất cả những gì nàng thấy là tuyết, hàng núi tuyết trắng, và nó gần như chất lên đến gờ cửa sổ. Vai nàng sụp xuống thất bại và nàng quay lại. “Em chỉ nghĩ rằng bánh mì của chàng sẽ tuyệt hơn với bơ.” Nàng lặng lẽ đứng đó. Nàng có thể cảm thấy chàng đang dõi theo nàng và liếc lên để quan sát khuôn mặt góc cạnh cứng rắn của chàng.

    Chàng hít sâu và luồn một tay lên tóc, lẩm bẩm điều gì đó về lại bị đông lạnh tới chết. Một giây sau chàng bước dài sang bên kia căn phòng, nơi chàng nhặt lên cái áo choàng họ đã sử dụng trong xe ngựa. Chàng trượt vào trong nó và băng tới một cánh cửa hông.

    “Chàng đi đâu vậy?”

    “Có một căn nhà phía bên kia sân để xe ngựa. Ta đoán đó là một nhà kho hoặc một chuồng trại hoặc kết hợp của cả hai. Ta đã nghe thấy tiếng chuông đeo ở cổ bò khi ta tìm thấy nơi này, có lẽ con bò của nàng đang ở ngoài đó.”

    “Ôi, tuyệt!” Nàng theo ngay phía sau chàng. “Áo khoác của em đâu rồi?”

    Chàng đột ngột dừng lại và chậm rãi quay lại, nhìn khinh khỉnh xuống nàng như một quí ngài. “Nàng sẽ ở lại đây.”

    “Tại sao?”

    Khuôn mặt chàng cho biết chàng đang cố gắng kiên nhẫn. “Bởi vì tuyết rất dày và nàng mới tỉnh dậy được vài phút.”

    “Nhưng em muốn có bơ, do dó em nên đi với chàng.”

    “Không.”

    “Đó chỉ là vài thước thôi.”

    “Không.”

    “Nhưng-”

    “Ta không quen với việc mệnh lệnh của ta bị tranh cãi.” Người đàn ông nhìn vào cái bánh mì đầy nghi hoặc đã biến mất, ngài công tước kiêu căng đã trở lại. Chàng vươn tới cái nắm cửa.

    Nhớ lại giây phút yếu ớt đó trong phòng bếp, nàng đổi chiến thuật. “Chàng có vắt sữa bò được không?”

    Chàng ngừng lại cử động giữa chừng, tay siết chặt lấy cái nắm cửa. Mất cả đời trước khi chàng nói. “Áo khoác của nàng bên kia căn phòng.”

    Mỉm cười chiến thắng, nàng lấy bánh mì ra khỏi lò nướng rồi bước nhanh qua căn phòng và mặc vào cái áo khoác, hy vọng bắt đầu đi trước khi chàng nghĩ đến việc hỏi nàng có biết vắt sữa không.

    Họ bước ra bên ngoài. Tuyết quá cao đến mức vượt qua eo nàng. Chẳng để một chút tuyết ngăn cản, nàng bước vào trong nó.

    Chàng nắm lấy cánh tay nàng và nàng bắt đầu kháng cự cho đến khi chàng nâng nàng lên trong hai cánh tay chàng - vị trí yêu thích của nàng. Tim nàng đập rộn lên kỳ lạ và nàng ôm cánh tay vòng quanh cổ chàng và đặt đầu lên vai chàng, mỉm cười và chống lại thôi thúc muốn ngâm nga.

    Chàng đã quá sai rồi. Nàng sẽ không bao giờ bị đóng băng tới chết miễn là nàng vẫn còn trong vòng tay chàng.

    Sau vài phút mộng mơ họ đã ở bên trong nhà kho tối tăm. Chàng đặt nàng xuống và lắc mình cho tuyết rơi xuống trong khi nàng nhìn xung quanh. Nó có mùi mốc, ẩm ướt và trộn lẫn với mùi phân bò hắc và mùi hôi của lũ gà. Nàng nhăn mũi trong khi mắt điều tiết với sự thiếu sáng. Nàng có thể nghe tiếng lục cục của vài con gà. “Nhìn này! Chúng ta có thể có trứng.”

    Mắt chàng theo sau ngón tay nàng đang chỉ vào cái xe bò hỏng được chất cỏ khô đã tạo thành cái ổ hoàn hảo cho vài con gà lông nâu gầy gò. Một con bò tròn trĩnh màu trắng đi lững thững từ một góc tối với âm điệu đều đều của tiếng chuông lanh lảnh treo ở cổ.

    “Ôi, trông kìa. Nó có một cái chuông. Em yêu những cái chuông, chàng thì sao?” Nàng thở dài với một nụ cười mơ màng và nghĩ về tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông đám cưới, hoa chuông và tuyệt hơn cả là vòng tay ấm áp của Công tước Belmore.

    Con bò đứng đó nhìn vào họ, mắt hấp háy. Nó rống lên. Joy thở dài và đẩy những mơ mộng ra khỏi đầu. Nàng quay sang Alec. Chàng nhìn ngây ra vào nàng. Con bò chớp mắt. Không có ai di chuyển để vắt sữa.

    Cuối cùng thì chàng thoát ra khỏi cái áo khoác và treo nó lên một cái móc gần cửa, rồi giúp nàng cởi áo khoác của nàng ra.

    “Nói ta nghe nàng cần gì,” chàng nói, “và ta sẽ xem coi có tìm được nó không.”

    Điều nàng cần là biết làm thế nào để vắt sữa một con bò. Nàng bồn chồn rồi vươn tới để vuốt ve con bò, đoán rằng họ nên làm quen. Sau vài cái vuốt ve, nàng đã tập hợp được vài sự quả quyết của người Scot. “Em cần một cái xô.”

    “Tốt.” Alec bắt đầu tìm kiếm trong nhà kho.

    Joy nghiêng người trên con bò. “Mình có thể sử dụng vài sự giúp đỡ ở đây,” nàng thì thầm.

    Con bò hếch đầu lên và nhìn chăm chú vào nàng qua đôi mắt bò to màu xám. “Chị muốn làm chồng ấn tượng, nên sẽ rất tuyệt nếu em hợp tác với chị,” nàng nói và vỗ về lên cái lưng rộng lớn của con bò. Con bò giật giật đôi tai.

    Có một tiếng kim loại va loảng xoảng ồn ào và tiếng leng keng khó chịu của thiếc. “Ta đã tìm thấy cái xô cho nàng. Và một cái ghế đẩu?”

    Ghế đẩu? “Ồ, tuyệt,” nàng nói rồi thầm thì với con bò. “Làm ơn.” Nàng vỗ nó lần cuối trước khi Alec trở lại, đặt cái ghế và cái xô kế bên nàng.

    Joy cố gắng để trông tự tin khi nàng ngồi trên cái ghế, rồi uốn cong những ngón tay như trước khi nàng niệm một lời chú đặc biệt phức tạp, cái mà nàng có thể phải dùng đến nếu điều này không có hiệu quả. Nàng dòm kỹ phía dưới cái bụng đầy đặn của con bò rồi đặt cái xô dưới bầu vú con vật.

    “Không ngại để ta nhìn chứ?”

    Nàng giật bắn lên vì âm thanh của Alec phía trên vai nàng. “Không.” Nàng vươn xuống dưới con bò và nắm lấy hai bầu vú đang lủng lẳng đó. Cánh tay nàng quá ngắn nên má nàng áp vào làn da trắng mượt mà của con bò.

    Con bò kêu lên và nàng giật mình. Nàng kéo. Không có gì xảy ra.

    Nàng bóp. Con bò quất cái đuôi.

    “Chẳng chảy ra cái gì,” Alec nói.

    “Lâu rồi em không vắt sữa bò.” Nàng lại bóp và không có gì xuất hiện.

    “Bao lâu rồi?” Giọng của chàng êm ả một cách đáng nghi.

    Joy quay đầu đi và lầm bẩm vao trong làn da con bò. “Hai mươi mốt năm.”

    Sau một lúc chàng nói, “Nó vẫn không có hiệu quả.” Chàng cúi xuống để nhìn dưới con bò. “Nàng có nhiều bò ở Scotland không?”

    “Không.”

    “Nàng có bao nhiêu?”

    Nàng không trả lời nhưng có thể cảm thấy hiện giờ chàng đã nhận ra mánh khóe của nàng.

    “Nàng nói có thể vắt sữa bò.”

    “Không hẳn.” Nàng kéo hai bàn tay lại vào lòng, chắp chúng lại như đang cầu nguyện và nhìn vào chúng.

    “Thực ra em đã hỏi là chàng có biết vắt sữa bò không.”

    “Ta giả định rằng điều đó có nghĩa là nàng biết cách.”

    Nàng nhún vai. “Em đã nghĩ nó sẽ dễ dàng,” nàng thừa nhận. “Em có thể thử dùng ma thuật nếu chàng-”

    “Không!”

    “Nhưng-”

    “Ta đã nói là không!” Chàng bước đi thiếu kiên nhẫn một đoạn ngắn đằng sau nàng, lầm bầm điều gì đó về đóng cục sữa.

    Chàng dừng lại và ngồi xổm xuống bên cạnh nàng. “Nó không thể khó đến vậy.” Chàng xoa một ngón tay trên môi trong khi suy nghĩ về nó. “Nàng có đang bóp chúng không?”

    “Có,” nàng trả lời. “Nhìn này.” Nàng nắm lấy những cái núm trong tay và bóp. “Thấy chưa? Không có gì xuất hiện.”

    “Thử lại đi.”

    Một lần nữa không có gì xảy ra.

    “Có lẽ chúng đã bị tắc,” nàng cho ý kiến và cúi đầu xuống sát bên đầu chàng. Nàng quay một bầu vú lên trên để có thể nhìn vào phần đầu vú. “Chàng có nhìn thấy gì không?”

    “Không.” Chàng cúi lại gần hơn.

    “Em cũng vậy.”

    Joy xoay một cái khác lên. “Giờ thì sao?” Nàng giật nhẹ nó một cái.

    Một dòng sữa trắng bắn thẳng qua nàng.

    “Ôi, nhìn này!” nàng nói, giọng nàng tràn đầy hân hoan. “Em làm được rồi! Làm được rồi!” Nàng quay qua Alec.

    Khuôn mặt cao quí của Công tước xứ Belmore nhỏ đầy sữa.

    “Ôi, lạy Chúa.” Nàng che miệng với một bàn tay và nhìn kinh hãi khi sữa nhỏ xuống từ cái mũi quí phái, cái cằm kiêu căng và cái quai hàm - đang siết chặt tới mức má chàng co giật một cái rất nhẹ - và những giọt sữa đang nhỏ giọt xuống cổ chàng.

    Nàng không nhịn được. Nàng cười khúc khích.

    Chàng chùi sữa khỏi mắt.

    “Em xin lỗi.” Nàng lại cười khúc khích. “Em thật lòng xin lỗi. Em không… ý em là, chàng trông quá…”

    Chàng quắc mắt với nàng, toàn thân cứng lại với niềm kiêu hãnh bị tổn thương. “Quá cái gì?”

    Ngay cả sự kiêu căng của chàng cũng không ngăn nàng khỏi cười phá lên. “Quá ngờ nghệch. Ôi, Alec!” Nàng không thể ngăn lại mình. “Nó bắn ngay qua em và tóe ra! Và trông chàng quá nghiêm túc, nhưng ngay cả một công tước không thể nhìn nghiêm túc với sữa chảy xuống từ trên mặt, và em chỉ… em chỉ…” Nàng ngừng cười và nhìn thẳng vào trong đôi mắt kiêu hãnh của chàng. Nàng đặt một bàn tay lên tay chàng và vỗ về. “Em chỉ thích chàng, ngay cả khi có sữa trên mặt chàng.”

    Một biểu hiện kỳ lạ của ngạc nhiên và hiếu kỳ phát ra trên mặt chàng. Chàng chỉ ngắm nàng, má chàng từ từ hết co giật, cơn giận dữ mất dần. Niềm kiêu hãnh vẫn ở đó nhưng cái nhìn của chàng chuyển sang nắm giữ khoảng khắc nín thở của sự ham muốn trần trụi.

    Nàng thật sự hạnh phúc khi thấy điều đó đến nỗi nàng mỉm cười. Chàng cần nàng, và sự thực ấy mới chỉ đập vào chàng.

    Chàng vươn tới để trượt những ngón tay lên má nàng. Mắt chàng khóa vào miệng nàng và trở nên nghiêm túc. Chàng cọ xát môi nàng, chạm vào cái nốt ruồi phía trên môi trên của nàng.

    Nàng biết cái nhìn ấy và nhịp tim nàng tăng tốc. Hôn em… hôn em… hôn em…

    Nàng biết rằng chàng muốn thế. Không khí hầu như rung động với điều đó. Môi nàng hé ra mong chờ, và nàng nghiêng về phía trước ngay lúc chàng trượt bàn tay ra sau cổ nàng, kéo môi nàng hướng lên môi chàng.

    Trượt một cánh tay quanh cổ chàng, nàng đặt bàn tay còn lại lên tim chàng, nơi nó thuộc về, cảm nhận nhịp đập tim chàng đồng điệu với tim nàng. Cùng khoảng khắc ấy môi họ chạm vào nhau. Môi họ mở ra cùng lúc và cánh tay chàng trượt vòng quanh nàng và kéo nàng tựa thẳng vào chàng.

    Bàn tay còn lại của chàng di chuyển để khum lại phía sau đầu nàng và giữ môi nàng gắn vào môi chàng. Chàng nghiêng đầu và lưỡi chàng chìm vào bên trong, lấp đầy miệng nàng.

    Chàng đã hôn nàng. Con quái vật đã biến mất.

    Con bò di chuyển và nàng nghe thấy tiếng chuông ngân, nhưng chẳng quan trọng mấy trong giây phút này bởi vì nàng biết đây chính là nơi nàng thuộc về.
     
    B-Mon, hathao, Thuyhuynh19 and 2 others like this.

Chia sẻ trang này