TG Khác Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo (Cao Đài)

Thảo luận trong 'Tủ sách Tôn giáo' bắt đầu bởi hhongxuan, 4/10/13.

Moderators: mopie
  1. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    Tựa


    Từ khi mở Đạo, Chí-Tôn duy giáng cơ truyền cho Phật-Giáo, Minh-Sư, Minh-Đường, Minh-Lý dạy dâng kinh cho Đại-Đao Tam-Kỳ Phổ-Độ, song kinh Tận-Độ vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào tất cả.

    Đức Quyền Giáo-Tông (khi còn tại thế) và Đức Hộ-Pháp, trót mười năm trường, nghĩa là từ ngày mở Đạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Đại Từ-Phụ và các Đấng Thiêng-Liêng đặng xin kinh Tận-Độ, nhưng mà Chí-Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

    Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất-Hợi (DL, 21 đến 31 - 8 - 1935) mới giáng cho Tân-Kinh. Ấy là một giọt nước Cam-Lộ của Đức Từ-Bi rưới chan đặng gội-nhuần cho các đẳng linh-hồn của toàn Thế-Giới.

    Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân-Kinh nầy mà thôi.

    Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân-Kinh chuyển Pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên-Thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ-rỗi là trì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh hầu các đẳng linh-hồn đặng siêu-thăng Tịnh-độ.

    Ấy vậy, bổn kinh nầy nguyên của chư Phật, chư Tiên đã giáng-cơ truyền thế trong kỳ Trung-Ngươn Ất-Hợi.

    Khi tụng phải thành tâm và phải để nơi tinh khiết.


    Hội-Thánh kính cáo



    Tiểu-Dẫn
    * * * * *



    Cách Thờ-Phượng và Cúng-Kiếng


    Lập vị Thượng-Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh-khiết, tốt hơn hết là giữa nhà, lập tran thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng.


    1 - Thánh Tượng Thiên-nhãn
    2 - Đèn Thái-Cực
    3 - Trái cây
    4 - Bông
    5 - Nước trà (để bên hữu ấy là Âm)
    6 - 7 và 8 - Ba ly rượu
    9 - Nước trắng (để bên tả ấy là Dương)
    10 - và 12 - Hai cây đèn
    11 - Lư hương.

    Bông chỉ về Tinh, rượu chỉ về Khí, trà chỉ về Thần.
    Tinh, Khí, Thần, là Tam-bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
    Thời Tý, Ngọ cúng rượu.

    Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm Dương. Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương cắm hàng trong 3 cây gọi là: Án Tam-Tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là: Tượng Ngũ-Khí.




    --------------------------------------------------------------------------------


    Bàn thờ Hộ-Pháp

    1 - Tượng thờ viết chữ ''Khí''
    2 - Trái cây
    3 - Bông
    4 - Nước trà
    5 - 6 và 7 - Ba ly rượu
    8 - Nước trắng
    9 - Lư hương
    10 - và 11 - Hai cây đèn

    Bàn thờ Hộ-Pháp duy thờ nơi Thánh-Thất mà thôi. Mỗi khi cúng Tứ Thời thì đốt ba cây hương.


    --------------------------------------------------------------------------------


    Cách Lạy

    Chấp hai tay lại như dưới đây:

    Tay trái bắt Ấn-Tý (1), rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp ngoài, rồi ngón cái (tay mặt) xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái.

    Để hai tay như vậy mà đưa lên trán, xá sâu ba xá rồi quì xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm ''Nam-mô Phật''; đưa qua bên trái niệm ''Nam-mô Pháp''; đưa qua bên mặt niệm ''Nam-mô Tăng'', rồi để ngay ngực mà niệm:

    ''Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''. (gật đầu)
    ''Mam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''.
    ''Nam-Mô Lý Đại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ''.
    ''nam-mô hiệp-thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân''.
    ''Nam-mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần''.

    Mỗi lần lạy Trời thì lạy: một lạy gật đầu bốn cái, làm như vậy cho đủ ba lạy là 12 gật (nhớ mỗi gật phải niệm ''Nam-Mô Cao-Đài ...'')

    Còn lạy Phật và Tiên thì ba lạy, mỗi lạy gật đầu 3 cái là 9 gật.

    Khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau.

    ~~~~~~~~~~~~~~~,
    (1) Bắt ấn tý nghĩa là: bấm đầu ngón tay cái vào gốc ngón tay áp út.
    ~~~~~~~~~~~~~~~~



    --------------------------------------------------------------------------------


    Cúng Đàn



    Nơi Thánh-Thất nhằm kỳ Vía lớn hoặc ngày Sóc Vọng mới cúng Đại-Đàn, còn kỳ dư thì thiết Tiểu-Đàn dầu cho có làm tuần tự cũng vậy.
    Mỗi kỳ Đại-Đàn thì đánh 3 hiệp Lôi-Âm-Cổ và Bạch-Ngọc-Chung, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 dùi, đánh Ngọc Hoàng Sấm, có nhạc lễ.

    Tiểu-Đàn không có đánh trống, duy có kệ chuông mà thôi.

    Khi sửa soạn cúng, đánh chuông nhất, kệ 3 câu, hễ dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn.

    Lúc cúng rồi, kệ 3 câu, dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn, kế xá bãi Đàn.

    Nơi nhà Đạo-Hữu, trước khi sửa soạn cúng Tứ-Thời thì đánh ba tiếng chuông, lúc cúng rồi cũng đánh ba tiếng là đủ, chớ không có kệ.



    --------------------------------------------------------------------------------


    Trai Kỳ

    Nhập môn rồi phải tập trai giới, ban đầu ít nữa phải giữ lục trai, lần lần tập đến thập trai, như trường chai được lại càng tốt.
    Lục trai: là ăn chay ngày 1, 8, 14, 15, 23 và 30. (như tháng thiếu thì ăn ngày 29 thế cho bữa 30).

    Thập trai: là ăn chay ngày mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30. (tháng thiếu ăn thêm ngày 27).

    Vị nào giữ được thập trai đổ lên thì sau khi qui-liễu, được Hội-Thánh đến làm phép xác, y như lời Thầy đã tiên tri: '' Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên, được thọ truyền bửu-pháp.''


    --------------------------------------------------------------------------------


    Cách Thiết-Lễ Mỗi Nghi-Tiết

    ''Cầu-hồn khi hấp-hối và cầu-hồn khi đã chết rồi''

    Dầu nhằm giờ cúng ''Tứ Thời'' hay không cũng phải thiết-lễ cúng Thầy trước. Cúng rồi thì tịnh tâm vái Thầy đặng tụng Kinh Cầu Hồn cho Đạo-hữu trong khi hấp hối hay vừa qui liễu.

    Rồi vị chứng đàn đến đứng phía trước đầu bịnh nhơn, nếu có đồng nhi thì sấp hàng hai bên từ phía trên sắp xuống.

    Vị chứng đàn đứng giữa tịnh thần nghiêm trang và kêu người bịnh hấp hối, dầu dứt hơi rồi cũng vậy mà nói rằng:

    ''Tôi vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến tụng kinh cho linh hồn Đạo-Hữu nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ, vậy Đạo-Hữu (1)phải tịnh thần mà nghe và phải cầu nguyện nơi Đức Chí-Tôn ban ơn lành cho''.

    Kế tụng kinh Cầu-Hồn Khi Hấp-Hối (3 lần) mỗi khi dứt phải cúi đầu và niệm câu chú của Thầy (3 lần).

    Còn như bịnh nhơn vừa tắt hơi thì tụng kinh Khi Đã Chết Rồi (3 lần).

    ~~~~~~~~~~~~~~~~
    (1) Lời dặn: Cầu hồn cho Chức-Sắc thì kêu Thánh-danh hay là Hiền-Huynh
    ~~~~~~~~~~~~~~~~



    --------------------------------------------------------------------------------

    Tẩn-Liệm

    Cách thể nghi tiết làm cũng như cầu hồn vậy, nghĩa là phải cúng Thầy trước, rồi đến chỗ người chết nằm, tụng kinh Tẩn-Liểm (3 lần). Tụng rồi thì tang chủ lạy vong linh nghĩa là lạy xác rồi mới tẩn liệm.

    --------------------------------------------------------------------------------


    Cầu-Siêu


    Đương lúc làm phép xác, phải tụng kinh:
    ''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ A-Di-Đà Phật độ chúng dân'' v.v...
    (rồi tụng tiếp bài: "Kinh Khi Đã Chết Rồi")
    ''Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư ...''

    Tụng như vậy ba lần, mỗi lần dứt phải cúi đầu.

    Sau rốt hết phải niệm câu chú của Thầy (3 lần). Tiếp tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.

    Những nhà ở xa Thánh-Thất, không thể đến làm phép xác được, thì sau khi tẩn-liệm, lập một bàn thờ vong trước linh-cữu, rồi vị chứng đàn cầu nguyện Thầy (1) đặng thỉnh vong đến trước Điện tiền (2) và cũng tụng như ở trên đây vậy.

    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    (1) Lên nhang đèn tử tế, không có đọc kinh cúng Tứ-Thời. Vị chứng đàn phải chức-sắc Thiên-phong hay là chức-việc Chánh, Phó Trị-sự hoặc Thông-sự. Phải có 2 vị chức-sắc hay là chức-việc nhỏ hơn vị chứng đàn, cầm hai cây đèn cầy đứng hai bên.
    (2) Nơi Điện tiền, sau chỗ vị đứng đàn phải để trống mt chỗ, nghĩa là cho vong quì cúng Thầy và nghe tụng kinh.

    - Hành lễ nơi Thánh-Thất thượng-sớ kêu Điện-tiền, còn nơi tư-gia thì kêu Thiên-Bàn
    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~



    --------------------------------------------------------------------------------

    Thành-Phục


    Cúng Thầy trước, có thượng sớ, rồi cúng Thành-Phục (làm theo lễ Nho).
    Cúng Triêu, Tịch cũng làm lễ Nho.



    --------------------------------------------------------------------------------


    Đưa Linh-Cữu

    Cúng Thầy trước, rồi làm lễ cáo từ Tổ. Khi làm lễ cáo từ Tổ thì tụng Kinh Cầu Tổ-Phụ (3 lần) và tiếp tụng Kinh Cứu-Khổ (3 lần), hễ dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần). Kế làm lễ Khiển-Điện, làm lễ Nho.
    Xong rồi cho Đạo-Tỳ nhập bái quan (1). Hễ phát hành thì Đồng-nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cữu ra tới huyệt.

    Khi đưa linh-cữu ra ngoài đàng thì sắp đặt như sau nầy:

    1.) Hễ là Tín-Đồ tới Lễ-sanh thì cây phướn của Thượng-Sanh đi trước, còn hàng chức-sắc từ Giáo-hữu đổ lên thì cây phướn Thượng-Phẩm đi trước (hai cây phướn Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm ấy thế cho tấm triệu).
    2.) Bàn thờ vong
    3.) Đồng-nhi đi hai hàng (Nam tả, Nữ hữu).
    4.) Linh cữu
    5.) Tang chủ đi kế sau linh cữu
    6.) Nữ phái
    7.) Nam phái chót hết.

    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    (1) Giảm bớt cách tập đi lộn hàng, móc ruột, chỉ sắp hàng đôi ở ngoài đi vô cho có hàng ngũ. Khi vào bái quan rồi, lạy bốn lạy như thường là đủ.
    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~



    --------------------------------------------------------------------------------


    Hạ-Huyệt


    Khi ra tới huyệt thì vị chứng Đàn và đồng-nhi đứng trước đầu huyệt tụng kinh Hạ-Huyệt (3 hiệp), mỗi hiệp cúi đầu, mãn hiệp thứ ba liền tụng ba biến Vãng-Sanh Thần-Chú. Hễ dứt thì niệm câu chú củaThầy (3 lần).

    --------------------------------------------------------------------------------


    Làm Tuần Cửu


    Từ Nhứt-cửu tới Cửu-cửu, kỳ nào cũng phải cúng Thầy trước (cúng tiểu-đàn) có dâng Tam-Bửu và thượng sớ, song không có lễ nhạc.
    Khi cúng Thầy rồi, thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng bài kinh khai-cửu, rồi tiếp tụng kinh nhứt hoặc nhị-cửu (tụng như vậy cho đủ ba hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần và lạy 12 lạy).

    Mỗi tuần cửu phải quì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh nơi trước Bửu-điện. Hễ dứt hiệp thì niệm danh mỗi vị Phật và lạy một lạy.

    Sau rốt hết niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.

    Tụng nhiều chừng nào tốt chừng nấy, song mỗi hiệp tụng ba người đến 6 người cho ăn rập nhau.



    --------------------------------------------------------------------------------


    Tiểu-Tường
    (200 ngày)

    Đếm đủ 200 ngày kể từ ngày làm tuần cửu-cửu rồi mới làm lễ Tiểu-tường.

    Cách thể nghi tiết thì cũng làm y như làm tuần cửu-cửu vậy, nghĩa là cúng Tiểu-Đàn, có dâng Tam-Bửu và thượng sớ, rồi thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng Kinh Khai Tiểu-Tường kế tiếp tụng Kinh Tiểu-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.

    Tụng Di-Lặc Chơn-Kinh.

    Còn sự cúng vong thì nên cúng nơi nhà thờ tiền vãng, làm lớn hay nhỏ tùy sức tang chủ và phải thương lượng trước với Lễ-viện.



    --------------------------------------------------------------------------------


    Đại-Tường
    (300 ngày)


    Đếm đủ 300 ngày kể từ ngày làm Tiểu-Tường rồi mới làm Đại-Tường.

    Nghi lễ cách làm cũng y như Tiểu-Tường vậy, nhưng trước hết phải tụng Kinh Khai Đại-Tường rồi tiếp tụng Kinh Đại-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp) đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.

    Tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.

    Đại-tường mãn tang, lễ Trừ- phục, cúng vong làm lễ Nho.



    --------------------------------------------------------------------------------


    Cầu-Hồn và Cầu-Siêu

    cho người chưa nhập môn cầu Đạo
    Những người chưa nhập môn cầu Đạo, chẳng luận giàu sang hay nghèo-hèn, già cả hay trẻ bé, cùng đã có nhập môn rồi bị sa ngã bỏ Đạo, mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin tưởng Đức Chí-Tôn, hay là người chết rồi mà thân tộc người tin tưởng Đức Chí-Tôn, đến rước chúng ta cầu hồn cùng là cầu siêu thì chúng ta cũng nên thi ân giúp đỡ linh hồn ấy siêu thoát. Ấy là một điều phước đức độ linh hồn con cái của Đức Chí-Tôn y theo chơn truyền tận độ.

    Song cách thể hành Đạo, chức-sắc và chức việc phải làm y như vầy:


    1.) Về việc cầu siêu, nếu gần Thánh-Thất thì cầu-siêu nơi Thánh-Thất.
    2.) Nếu ở xa Thánh-Thất thì thiết-lễ cầu-siêu nơi nhà Chức-sắc hoặc Chức-việc gần đó.
    3.) Nếu người trong thân chịu nhập môn thì dễ hơn. Chức việc cứ đến thượng tượng cho nhập môn rồi thiết lễ tang sự luôn.
    4.) Về việc cầu hồn làm tại nhà tang chủ.
    Cầu hồn thì duy tụng bài: Kinh Cầu-Siêu

    ''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ, A-Di-Đà Phật độ chúng dân'' v.v... Tối lại cả Đạo-hữu và gia quyến của người lâm chung phải thành tâm tụng Di-Lặc Chơn-Kinh cho tới ngày di linh cữu.

    Điều trọng yếu hơn hết là trọn tang-môn phải giữ trai giới trong mấy ngày Linh-cữu còn tại tiền thì mới làm bạt-tiến cho linh hồn giải thoát đặng.



    --------------------------------------------------------------------------------


    Cách Nhập-Đàn Hành-Lễ Cúng Phật-Mẫu
    Khi nhập-Dàn cúng Phật-Mẫu, thì cũng chấp tay bắt ƒn-Tý xá 3 xá, quì xuống để tay lên trán niệm:

    - Nam-mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn (cúi đầu).
    - Nam-mô Cửu-Vị Tiên-Nương (cúi đầu).
    - Nam-mô Bạch-Vân-Động Chư-Thánh (cúi đầu).

    (chớ không có lấy dấu Phật, Pháp, Tăng ....)
    Lúc lạy thì niệm "Nam-mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn" (3 lạy, mỗi lạy 3 gật / 9 lạy/)


    --------------------------------------------------------------------------------




    Kinh Thiên Đạo



    --------------------------------------------------------------------------------




    Kinh Cúng Tứ Thời
    * * * * *

    Nguồn TVE :lamdathoa
     
  2. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    Niệm Hương

    (Giọng Nam-Ai)

    Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp,
    Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.
    Mùi hương lư ngọc bay xa,
    Kính thành cầu nguyện Tiên-gia chứng lòng.
    Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc
    Xuống phàm trần vội gác xe Tiên
    Ngày nay Đệ-tử khẩn nguyền,
    Chín tầng Trời, Đất thông truyền chứng tri.
    Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo,
    Nhờ ơn trên bổ báo phước lành.

    Niệm: Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (12 lạy)


    * * * * *

    Khai Kinh

    (Giọng Nam-Ai)

    Biển trần khổ vơi vơi trời nước.
    Ánh Thái-Dương giọi trước phương đông.
    Tổ-Sư Thái-Thượng Đức Ông,
    Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.
    Trong Tam-Giáo có lời khuyến dạy.
    Gốc bởi lòng làm phải làm lành.
    Trung-Dung Khổng-Thánh chỉ rành.
    Từ bi Phật dặn: lòng thành lòng nhơn.
    Phép Tiên-Đạo: tu chơn dưỡng tánh.
    Một cội sanh ba nhánh in nhau.
    Làm người rõ thấu lý sâu.
    Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh-Kinh (gật đầu)

    Nguồn TVE :lamdathoa
     
  3. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    Kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế

    Kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế

    (Giọng Nam-Xuân)


    Đại-La Thiên-Đế
    Thái-Cực Thánh-Hoàng
    Hóa dục quần sanh
    Thống ngự vạn vật.
    Diệu diệu ''Huỳnh-Kim-Khuyết''.
    Nguy nguy ''Bạch-Ngọc-Kinh''.
    Nhược thiệt, nhược hư.
    Bất ngôn nhi mạc tuyên đại hóa.
    Thị không, thị sắc,
    Vô vi nhi dịch sử quần-linh.
    Thời thừa lục long,
    Du hành bất tuất.
    Khí phân tứ tượng
    Hoát truyền vô biên
    Càn kiện cao minh
    Vạn loại thiện ác tất kiến,
    Huyền phạm quảng đại
    Nhứt toán họa phước lập phân.
    Thượng chưởng tam thập lục Thiên
    Tam thiên Thế-Giái
    Hạ ốc thất thập nhị Địa,
    Tứ đại Bộ-châu.
    Tiên Thiên, hậu Thiên.
    Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
    Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
    Phổ tế, Tổng-Pháp-Tông
    Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân.
    Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ.
    Trạm tịch chơn Đạo,
    Khôi mịch tôn nghiêm
    Biến hóa vô vùng,
    Lũ truyền Bửu-Kinh dĩ giác thế,
    Linh oai mạc trắc,
    Thường thi thần giáo dĩ lợi sanh.
    Hồng oai, Hồng từ,
    Vô cực, vô thượng.
    Đại-Thánh, Đại-Nguyện, Đại-Tạo, Đại-Bi.
    Huyền-Khung Cao Thượng-Đế.
    Ngọc-Hoàng tích phước hựu tội.
    Đại Thiên-Tôn.

    Niệm: Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (12 lạy)

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  4. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    THÍCH-GIÁO
    Nhiên-Đăng Cổ-Phật chí tâm qui mạng lễ

    (Giọng Nam-Xuân)

    Hỗn-Độn Tôn-Sư,
    Càn-Khôn Chủ-Tể.
    Qui Thế-Giái ư nhứt khí chi trung,
    Ốc trần-huờn ư song thủ chi nội.
    Huệ đăng bất diệt,
    Chiếu Tam-thập-lục Thiên, chi quang-minh.
    Đạo pháp trường lưu,
    Khai cửu-thập-nhị Tào chi mê-muội.
    Đạo cao vô-cực,
    Giáo xiển hư-linh.
    Thổ khí thành hồng,
    Nhi nhứt trụ xang thiên.
    Hóa kiếm thành xích,
    Nhi tam phân thác địa,
    Công tham Thái-cực,
    Phá nhứt khiếu chi huyền quang,
    Tánh hiệp vô-vi.
    Thống tam-tài chi bí chỉ,
    Đa thi huệ trạch,
    Vô lượng độ nhơn
    Đại Bi Đại Nguyện,
    Đại-Thánh Đại Từ,
    Tiên-Thiên Chánh Đạo
    Nhiên-Đăng Cổ-Phật
    Vô-vi Xiển-giáo Thiên-Tôn.

    Niệm: "Nam-mô Nhiên-Đăng Cổ-Phật Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát " (9 lạy)

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  5. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    TIÊN-GIÁO
    Thái-Thượng chí tâm qui mạng lễ
    (Giọng Nam-Xuân)

    Tiên-thiên khí hóa.
    Thái-Thượng Đạo-Quân,T
    hánh bất khả tri,
    Công bất khả nghị.
    Vô-vi cư Thái-cực chi tiền.
    Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng
    Đạo cao nhứt khí
    Diệu hóa Tam Thanh
    Đức hoán hư linh,
    Pháp siêu quần thánh
    Nhị ngoạt thập ngũ
    Phân tánh giáng sanh;
    Nhứt thân ức vạn,
    Diệu huyền thần biến
    Tử khí đông lai,
    Quảng truyền đạo đức.
    Lưu sa tây độ,
    Pháp hóa tướng tông;
    Sản Tất-Viên, Phương-Sóc chi bối.
    Đơn tích duy mang.
    Khai Thiên Địa nhơn-vật chi tiên,
    Đạo kinh hạo kiếp,
    Càn-khôn hoát vận.
    Nhựt nguyệt chi quang.
    Đạo pháp bao la,
    Cửu hoàng tỉ tổ.
    Đại-Thiên Thế-Giái,
    Dương tụng từ ân.
    Vĩnh kiếp quần sanh,
    Ngưỡng kỳ huệ đức.
    Đại-Thần Đại-Thánh
    Chí cực chí tôn
    Tiên-Thiên chánh nhứt.
    Thái-Thượng Đạo-Quân.
    Chưởng-Giáo Thiên-Tôn.
    Niệm: "Nam-mô Thái-Thượng Đạo-Tổ Tam-Thanh Ứng-Hóa Thiên-Tôn" (9 lạy)

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  6. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    NHO-GIÁO
    Khổng-Thánh chí tâm qui mạng lễ
    (Giọng Nam-Xuân)

    Quế hương nội điện.
    Văn-Thỉ thượng cung.
    Cửu thập ngũ hồi
    Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.
    Bá thiên vạn hóa,
    Bồi quế thọ ư âm-chất chi điền.
    Tự lôi trữ bính linh ư phụng lãnh,
    Chí như ý từ, tường ư ngao trụ.
    Khai nhơn-tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.
    Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.
    Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ,
    Đại Nhơn, Đại Hiếu, Đại Thánh, Đại Từ.
    Thần văn, Thánh võ, Hiếu đức trung nhơn.
    Vương-Tân sách phụ,
    Nho-Tông khai hóa,
    Văn-Tuyên Tư -Lộc,
    Hoằng nhơn Đế-quân.
    Trừng chơn chánh quang.
    Bửu-Quang từ tế Thiên-Tôn.

    Niệm: "Nam-mô Khổng-Thánh Tiên-Sư Hưng-Nho Thạnh-Thế Thiên-Tôn" (9 lạy)

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  7. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo

    BÀI DÂNG HOA

    (Thài theo giọng Đảo Ngũ Cung)


    Từ-Bi giá ngự rạng môn thiền,
    Đệ-tử mừng nay hữu huệ duyên.
    Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,
    Cúi mong Thượng-Đế rưới ân Thiên. (1)

    (1 lạy 4 gật)
    _________________________________________
    (1) Khi cúng Phật-Mẫu thì đọc:
    "Cúi mong Phật-Mẫu rưới ân Thiên." (3 lạy 9 gật)



    BÀI DÂNG RƯỢU


    Thiên-ân huệ chiếu giáng thiền minh,
    Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh.
    Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
    Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh.

    (1 lạy 4 gật)


    BÀI DÂNG TRÀ


    Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,
    Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.
    Ngưỡng-vọng Từ-Bi gia-tế phước,
    Khai minh Đại-Đạo hộ thanh-bường.


    (1 lạy 4 gật)


    NGŨ NGUYỆN
    (Giọng Nam-Xuân)

    Khi đọc kinh cúng tứ thời rồi, phải nhớ đọc năm câu nguyện sau nầy:

    Nam-Mô Nhứt-nguyện: Đại-Đạo hoằng-khai.
    Nhì-nguyện: Phổ-Độ chúng sanh.
    Tam-nguyện: Xá tội đệ tử.
    Tứ-nguyện: Thiên-hạ thái-bình.
    Ngũ-nguyện: Thánh-Thất an-ninh.

    Niệm: "Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát" (12 lạy)

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  8. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    PHẬT MẪU CHƠN KINH
    (Giọng Nam-Xuân)

    Tạo-Hóa Thiên Huyền-Vi Thiên-Hậu,
    Chưởng Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì.
    Sanh quang dưỡng-dục quần-nhi,
    Chơn-linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
    Thiên-Cung xuất Vạn-linh tùng pháp,
    Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
    Càn Khôn sản-xuất hữu hình,
    Bát hồn vận-chuyển hóa thành chúng-sinh.
    Cộng vật-loại huyền-linh đồ nghiệp,
    Lập tam-tài định kiếp hòa căn.
    Chuyển-luân định phẩm cao thăng,
    Hư-vô bát-quái trị thần qui nguyên.
    Diệt tục kiếp trần-duyên oan trái,
    Chưởng đào tiên thủ giải trường-tồn.
    Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
    Chí-công định vị vĩnh-tồn Thiên-Cung.
    Chủ Âm-quang thường tùng Thiên-mạng,
    Độ chơn-thần nhứt vãng nhứt lai.
    Siêu thăng phụng liễn qui khai,
    Tiên-Cung Phật xứ Cao-Đài xướng danh.
    Hội nguơn hữu Chí-Linh huấn chúng,
    Đại Long-Hoa nhơn chủng hòa Ki. (là cơ)
    Tam-kỳ khai-hiệp Thiên-thi,
    Khoa-môn Tiên-vị ngộ kỳ Phật duyên.
    Trung khổ-hải độ thuyền bát-nhã,
    Phước từ-bi giải quả trừ căn.
    Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
    Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm.
    Thập Thiên-Can bao hàm vạn tượng,
    Tùng Địa-Chi hóa trưởng càn-khôn.
    Trùng huờn phục vị thiên-môn,
    Nguơn-linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.
    Vô siêu đọa quả căn hữu pháp,
    Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
    Vô địa-ngục, vô quỉ-quan,
    Chí-Tôn đại xá nhứt trường qui-nguyên.
    Chiếu nhũ-lịnh Từ-Huyên thọ sắc,
    Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
    Kỳ khai tạo nhứt Linh-Đài,
    Diệt hình tà-pháp cường khai Đại-Đồng.
    Hiệp vạn-chủng nhứt môn đồng mạch,
    Qui thiên-lương quyết sách vận-trù.
    Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Vu,
    Hiệp qui Tam-Giáo hữu cầu Chí-Chơn.
    Phục nguyên-nhơn huờn tồn Phật tánh,
    Giáo-hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
    Trụ căn quỉ khí cửu-tuyền,
    Quảng khai thiên thượng tạo quyền chí công.
    Lịnh Mẫu-Hậu khai Tông định Đạo,
    Ân dưỡng sanh đảm-bảo hồn-hài.
    Càn Khôn Tạo-Hóa sánh tài,
    Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.

    "Nam-mô Diêu-Trì Kim Mẫu Tạo-Hóa Huyền Thiên Cảm Bái"
    "Nam-Mô Đại-Từ-Bi Năng Hỉ-Xả Thiên-Hậu, Chí-Tôn, Đại-Bi Đại-Ái".

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  9. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    TÁN-TỤNG CÔNG-ĐỨC DIÊU-TRÌ KIM-MẪU
    (Giọng Nam-Ai)

    Kể từ hỗn-độn sơ khai,
    Chí-Tôn hạ chỉ trước đài Linh-Tiêu.
    Lưỡng-nghi phân khí hư-vô,
    Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò hóa sanh.
    Âm-Dương biến tạo chơn-thần,
    Lo cho nhơn vật về phần hữu-vi.
    Mớm cơm vú sữa cũng tay,
    Dưỡng-sanh đùm bọc với tài chí công.
    Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
    Chắt-chiu hằng để trọn lòng chung thương.
    Chí mong hòa-hảo âm dương,
    Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
    Mẫu-Nghi hằng giữ lòng đơn,
    Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
    Riêng thương Kim-Mẫu khóc thầm,
    Biển trần thấy trẻ lạc-lầm bấy lâu.
    Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
    Cũng vì tà-mị dẫn đường con thương.
    Đỉnh chung là miếng treo gương,
    Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
    Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
    Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn-trường.
    Ngồi trông con đặng phi thường,
    Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.
    Xưa con không thấu cội nhành,
    Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.
    Từ con cách Mẹ phương Trời,
    Trầm-luân khổ-hải chơi-vơi sóng trần.
    Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
    Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
    Ngọc-Hư định phép cũng nhiều,
    Phái Vàng Mẹ lãnh dắt-dìu trẻ thơ.
    Trước kia trẻ vẫn mịt-mờ,
    Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu-Nghi.
    Đắc truyền khai mối Tam-Kỳ,
    Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu Nương.
    Chín cô đã sẵn lòng thương,
    Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
    Lục-Nương phất phướn truy hồn,
    Tang-thương nay lúc bảo tồn chúng-sanh.
    Bát-Nương thật đấng chí-linh,
    Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
    Thất-Nương khêu đuốc Đạo đầu,
    Nhờ Người gợi ánh nhiệm-mầu huyền-vi.
    Môn sanh thiện niệm hằng ngày,
    Cúi xin Kim-Mẫu muôn loài cứu ương.
    Đê đầu khấu bái Nương-Nương,
    Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

    "Nam-Mô Tạo-Hóa Huyền-Thiên Diêu-Trì Kim Mẫu"
    "Nam-Mô Tạo-Hóa Huyền-Thiên Cửu Vị Nữ-Phật".

    Nguồn TVE :lamdathoa
     
  10. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    KINH GIẢI-OAN

    (Giọng Nam-Xuân)


    Vòng xây chuyển vong hồn tấn-hóa,
    Nương xác thân hiệp ngã Càn-khôn.
    Bước đường sanh tử đã chồn,
    Oan-oan nghiệt-nghiệt dập-dồn trái căn.
    Luật nhơn quả để răn Thánh-đức,
    Cửa luân-hồi nhắc bực cao-siêu.
    Dầu chăng phải mực Thiên-điều,
    Cũng quyền tự chủ dắt-dìu thiên-lương.
    Dòng khổ-hải hễ thường chìm đắm,
    Mùi đau thương đã thấm chơn-linh.
    Dây oan xe chặt buộc mình,
    Nhớp-nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
    Chịu ô-trược chơn-thần nặng trịu,
    Mảnh hình hài biếng hiểu lương-tâm.
    Phong-trần quen thú cung âm,
    Cảnh thăng ngơ-ngẩn lạc-lầm phong-đô.
    Khối trái chủ nhẫng lo vay trả,
    Mới gây nên nhân quả nợ đời.
    Rảnh mình đâu đặng thảnh-thơi,
    Thiên cung lỡ lối chơi-vơi cõi trần.
    May đặng gặp hồng-ân chan rưới,
    Giải trái-oan sạch tội tiền khiên.
    Đóng địa-ngục, mở tầng Thiên,
    Khai đường Cực-Lạc, dẫn miền Tây-Phương.
    Nhập Thánh-thể dò đường cựu vị,
    Noi Chơn-Truyền khử quỉ trừ ma.
    Huệ-quang chiếu thấu chánh tà,
    Chèo thuyền Bát-Nhã Ngân-hà độ sanh.
    Cứ noi bóng CHÍ-LINH soi bước,
    Gội mê-đồ tắm nước MA-HA.
    Liên-đài may nở thêm hoa,
    LÃO-ĐAM cũng biết, THÍCH-GIÀ cũng quen.

    Nam-Mô Cao-Đài . . . (Niệm 3 lần)
    PHẠM HỘ-PHÁP

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
  11. hhongxuan

    hhongxuan Lớp 7

    KINH TẮM-THÁNH

    (Giọng Nam-Xuân)

    Những vạn-vật Âm Dương Tạo-Hóa,
    Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
    Con người đứng phẩm tối linh,
    Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.
    Đại Từ-Phụ Từ-Bi tạo-hóa,
    Tượng mảnh thân giống cả Càn-Khôn.
    Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,
    Xây cơ chuyển thế bảo-tồn vạn-linh.
    Xin gìn-giữ Thánh hình thanh-bạch,
    Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.
    Căn xưa ví dữ cũng hiền,
    Dầu ra cửa tội đủ quyền cao-siêu.
    Công nuôi dưỡng nâng-niu khổ nhọc,
    Phép thương yêu cũng học nơi Thầy.
    Sanh nơi đây, ở nơi đây,
    Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.
    Chốn hồng-trần quen lằn gió bụi,
    Cảnh phù-ba may rủi cũng duyên.
    Đã gan dốc kiếm diệu-huyền,
    Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.
    Đừng thối chí ngã lòng trở gót,
    Để cho đời chua xót tình thương.
    Trăm năm thọ khảo vĩnh-trường,
    Thuận căn thuận mạng đôi đường cao thăng.


    Nam-Mô Cao-Đài . . . (Niệm 3 lần)

    NGUYỆT-TÂM CHƠN-NHƠN

    Nguồn TVE : lamdathoa
     
Moderators: mopie

Chia sẻ trang này