Tuỳ bút - Biên khảo G Ký ức một thời học văn

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi tducchau, 23/2/14.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...

    Để đến với văn học, để gây niềm hứng thú, say mê trong việc học văn, làm văn có trăm đường, ngàn nẻo nhưng chỗ bắt đầu thường là thời thơ ấu. Thời đó người thầy dạy đầu tiên phổ biến không phải là một nhà thơ, nhà văn mà chính là người mẹ, người thầy giáo với những câu ca dao, tục ngữ, những mẩu chuyện lịch sử, thậm chí ngay cả ở những điểm thấp trong môn tập đọc, chính tả và những bài luận đầu tiên lúc còn ngồi trên ghế nhà trường.

    Tập sách Kí ức một thời học văn là món quà đặc biệt mà các nhà văn, nhà thơ, nhà lí luận phê bình văn học, dành cho tuổi học trò, dành cho những ai yêu thích, thậm chí cả những ai đang “sợ” môn văn. Bằng những kỉ niệm học văn thời trẻ, bằng kinh nghiệm của bản thân mình các nhà văn đã nói một điều rằng: đến với môn văn, học văn, và ngay cả việc trở thành nhà văn cũng không có gì “ghê gớm” cả, nó giản dị hồn nhiên như tuổi thơ của mỗi con người, miễn sao người học trò có một niềm hứng thú, một tình yêu: yêu cha mẹ, quê hương, mái trường, thầy cô giáo và bè bạn, yêu câu ca dao tục ngữ, yêu mẩu chuyện cổ tích lịch sử. Và, trước tiên, để có tình yêu đó phải nghe và phải đọc; nghe bài giảng, nghe kể chuyện, nghe từng câu nói bình thường của những người của những người xung quanh và đọc sách, đọc báo, đầu tiên là sách giáo khoa, sách giảng văn.

    Ký ức một thời học văn có thể nói là một trong những hành trang tinh thần của tuổi trẻ trên hành trình học tốt môn văn và đến với văn chương. Tập sách ngoài việc giúp các bạn vững tin trong học tập, còn đem đến nhiều thông tin lí thú mà từ các thông tin này bạn có thể hình dung ra gương mặt những nhà văn mà bấy lâu nay bạn mới chỉ nghe tên chứ chưa “tường mặt”.

    Cuốn sách Kí ức một thời học văn được hình thành từ nhiều nguồn tài liệu: báo Văn nghệ, Hoa học trò, tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Giáo dục và thời đại, đặc biệt là cuốn Hồi nhỏ các nhà văn học văn do Sở giáo dục Nghĩa Bình (cũ) xuất bản năm 1986. Trong sách có nhiều bài được các nhà văn, nhà thơ viết mới hoặc sửa chữa, viết lại theo yêu cầu của người sưu tầm. Nhân dịp này, xin được bày tỏ lòng cảm ơn các nhà văn, nhà thơ, cám ơn Sở giáo dục Nghĩa Bình (cũ), các báo, tạp chí đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuốn sách được ra đời.


    Và xin trân trọng giới thiệu Kí ức một thời học văn cùng bạn đọc.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Ngô Văn Phú
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    ...

    Chịu trách nhiệm xuất bản:
    Giám đốc TRẦN TRÂM PHƯƠNG
    Tổng biên tập NGUYỄN KHẮC PHI
    Sưu tầm, biên soạn LÊ HUY HÒA
    – NGUYỄN ĐỨC QUANG
    Biên tập và sửa bản in PHẠM VĂN TRỌNG
    Nhà xuất bản giáo dục 1995
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/7/15
    Ban Tang Du Tử and haiauLucky like this.
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    BẢO ĐỊNH GIANG


    Tên thật là Nguyễn Thanh Danh, sinh ngày 10.11.1919 tại xã Mĩ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang. Từng giữ các chức vụ phó tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam, vụ phó vụ văn nghệ ban tuyên huấn TW, tổng biên tập báo Văn nghệ, chủ tịch Liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, tổng biên tập báo Văn nghệ TP Hồ chí Minh. Ông có câu ca dao nổi tiếng: Tháp mười đẹp nhất bông sen. Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ, ai cũng thuộc.

    Tác phẩm chính đã in: Gồm 30 tập sách trong đó đáng chú ý có Thơ Bảo Định Giang, Ca dao Bảo Định Giang, Câu đối Bảo Định Giang và nhiều tập nghiên cứu về thơ văn Nam Bộ, về các nhân vật lịch sử, các văn nghệ sĩ như Đồ Chiểu, Phan Văn Tự, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Thông, Hoàng Việt, Huỳnh Văn Nghệ v.v…



    TÔI BẮT ĐẦU YÊU THƠ VĂN
    VÀ TẬP LÀM THƠ VĂN TỪ ẤY​



    Năm tôi lên mười bốn tuổi, gia đình quá sa sút không thể tiếp tục học trường Tây. Nghỉ học về nhà ở một xã ven Đồng Tháp Mười, nơi nổi tiếng là chốn ‘khỉ ho cò gáy’, nông dân ở đây chẳng những thiếu đói quanh năm mà còn mắc nạn mù chữ rất trầm trọng.

    Từ 14 đến 16 tuổi ở làng, ngoài đi giăng câu, đặt lọp kiếm cá, tôi không biết làm gì hơn. Tuy không nói ra, nhưng cả gia đình ai cũng biết tôi rất buồn. Điều an ủi duy nhất đối với tôi trong những năm ấy là đọc truyện thơ Lục Vân Tiên cho cha mẹ và các nhà ở xung quanh nghe. Đọc đi, đọc lại mãi đến thuộc lòng, vẫn không biết chán. Người nghe gặp người đọc ở điều ấy – dù về đêm muỗi mòng đốt sần cả da thịt. Để bớt muỗi, không còn cách nào khác là phải bện rơm hun khói làm cho đôi mắt cay xè không nhìn thấy chữ nữa.

    Do mù mắt, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đều sáng tác bằng mồm do môn sinh hoặc con cái ghi lại. Lục Vân Tiên là truyện thơ đầu tay của Nguyễn Đình Chiểu sáng tác theo cách ấy. Cốt truyện đề cao nhân nghĩa, thủy chung được diễn tả bằng những lời thơ giản dị, mang tính đại chúng, rất dễ đi vào lòng nông dân và nó có sức sống lâu bền trong các tầng lớp nhân dân – nhất là trong nông dân lao động là vì thế.

    Riêng đối với tôi lúc bấy giờ, việc nhân vật Lục Vân Tiên bị mù mắt, thi cử dở dang v.v… sao mà phù hợp với số phận của tôi đến thế. Có thể nói truyện thơ Lục Vân Tiên là tác phẩm chuẩn bị cho tôi vào đời, bài học vỡ lòng của tôi trong cuộc sống và trong công việc sáng tác. Một vài bạn thân của tôi ở Hà Nội, khi đọc thơ của tôi, họ thường có nhận xét: “Cậu viết giản dị như truyện thơ Lục Vân Tiên”.

    Tôi cười không trả lời, nhưng trong bụng nghĩ: “Đúng quá, còn gì phải nói”. Ngoài truyện thơ Lục Vân Tiên, những câu hò cấy, những câu hò đối đáp giữa các chàng trai, cô gái nông thôn trên đồng áng, nhất là những câu hát ru con của mẹ tôi cũng đi vào tôi theo từng tháng năm rất sâu sắc.

    Đi đâu, làm gì tôi vẫn không quên giọng hát ru em của mẹ ngân nga kéo dài hòa trong tiếng võng kẽo kẹt:

    Tưởng giếng sâu em thả sợi dây dài
    Ngờ đâu giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây

    Hoặc:

    Đường dài gió chạy, cát bay
    Nghĩa nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa

    Hay là:

    Đôi ta là nghĩa tao khang
    Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau

    v.v… và v.v…

    Rất ham học, tôi không thể sống kéo dài như thế mãi. Nghe nói ở ngoại ô tỉnh lị Mĩ Tho (Tiền Giang ngày nay) có một ông đồ xứ Nghệ bị thực dân Pháp đưa đi an trí ở đây. Từ làng của tôi đến nơi ông đồ dạy học khoảng 50 cây số. Tôi rủ một người bạn ở xã lân cận cùng đi tìm thầy. Đúng như lời đồn đại. Ông đồ Nghệ mà người ta nói, chính là cụ Phan Văn Viễn, biệt hiệu Tòng Am, người trong thân tộc của ông Phan Đình Phùng, bạn học với cụ Huỳnh Thúc Kháng, là một bậc thâm nho.

    Chúng tôi xin vào học. Bạn tôi nhà có tiền, ở trọ phố hàng ngày đi xe đạp vào học, còn tôi nghèo ngặt quá phải nương ngụ ở một ngôi chùa, ăn chay nhiều năm ròng để đi học. Thiếu thốn quá đến nỗi không có đủ mấy cắc (hào) để về thăm quê và cha mẹ trong mỗi dịp Tết. Ba năm liền như vậy. Năm ấy tuổi mười chín tôi đã bước qua. Mấy câu thơ nôm na sau đây là những câu thơ đầu tiên của tôi, khi bước chân vào đời đầy sóng gió. Ở tỉnh lị Mĩ Tho, có cây cầu sắt bắc ngang sông Bảo Định. Mỗi lần thuyền to đi qua thì người ta quay nhịp giữa cho cầu cất cao lên, nên nhân dân gọi là cầu Quay. Từ nơi tôi ngụ - chùa Vĩnh Tràng – sáng ba mươi Tết, tôi ra tỉnh đứng trên cầu Quay, nhìn nước trôi lững lờ trên sông Tiền mà đem lòng nhớ nơi chôn nhau, cắt rốn, nhớ mẹ, nhớ cha hết sức. Tôi ngầm đọc:

    Cầu Quay nước chảy qua cầu
    Nhớ cha, nhớ mẹ, lòng sầu không ngăn
    Tết này tính đã ba năm
    Không tiền nên chẳng về thăm quê nhà
    Tết này con ở chốn xa
    Thương cha, thương mẹ tuổi già héo hon
    Người vui ta những thấy buồn
    Mẹ cha thế đó, phận con làm gì!

    Ở sát thành thị, nhờ dạy Quốc ngữ cho các em quanh chùa, cuộc sống vật chất của tôi không còn khó khăn như những năm đầu. Tôi tằn tiện dành dụm ít tiền để mua sách. Cuốn sách đầu tiên tôi có là quyển Ca dao Việt Nam của Ôn Như – Nguyễn Văn Ngọc, tiếp đó là cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân và Thơ Đường của Trung Quốc. Tôi đọc những cuốn này không biết chán và giới thiệu cho bầu bạn cùng lứa đọc.

    Học chữ Hán suốt 9 năm như vậy, chịu ảnh hưởng truyện thơ Lục Vân Tiên lúc thiếu thời và thích ca dao Việt Nam, nên khi vào Đồng Tháp Mười tham gia bộ đội chống Pháp, cuối năm 1945, thì theo yêu cầu của bộ đội và nông dân những nơi chúng tôi đóng quân, tôi liên tục làm thơ và ca dao để tuyên truyền kháng chiến.

    Năm 1946, tại nhà một bà cụ nông dân, trên bờ kinh Dương Văn Dương, sáng thức dậy sớm, tôi ra ngồi trên chiếc võng quấn thuốc hút để phóng tầm mắt nhìn ra cánh đồng sau nhà. Đã bình minh, mặt trời vừa hé mọc, trước mắt tôi hiện lên một đồng sen bát ngát. Hàng nghìn, hàng vạn đóa sen hồng đong đưa trong gió sớm sao mà đẹp khác thường, lòng tôi bỗng dấy lên một sự rạo rực khó tả, trước một cảnh vật bất chợt, tình cờ, tôi ngẫu hứng ngâm se sẽ:

    Tháp Mười đẹp nhất bông sen
    Việt Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ
    Bông sen dành để lễ chùa
    Cụ Hồ mãi mãi tôn thờ trong tâm

    Điều thú vị là trong Nam, ngoài Bắc người ta chỉ lấy hai câu đầu, tước hai câu cuối. Cho đến nay nhiều nơi chỉ biết có hai câu đầu, cho như thế là gọn và đầy đủ ý nghĩa. Ca dao xưa nay bao giờ cũng vậy, nó sống được và tốt thêm nhờ đông tay chăm sóc, sửa chữa, thêm bớt cho đến lúc viên mãn mới thôi.

    Trên đây là những nét đại khái về cuộc đời tập tễnh làm thơ văn của tôi. Nó không có gì đáng kể, nhưng dù sao đối với tôi, nó vẫn là những kỉ niệm không thể nào quên.


    Hà Nội, 1.5.1993
    BẢO ĐỊNH GIANG
     
    Chỉnh sửa cuối: 27/2/14
    amylee, Rafa and haiauLucky like this.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    GIANG NAM​



    Tên thật là Nguyễn Sung, sinh ngày 2.2.1929 tại Ninh Bình, Ninh Khánh, Khánh Hòa. Từng là Phó tổng thư kí Hội văn nghệ giải phóng, tổng biên tập báo Văn nghệ giải phóng, ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Khánh, Phó chủ tịch Phú Khánh (cũ).

    Tác phẩm chính đã in: Tháng tám ngày mai (thơ, 1962), Quê hương (thơ, 1965), Người anh hùng Đồng Tháp (thơ, 1969), Người Giòng tre (truyện kí, 1970), Vùng sáng phía chân trời (thơ, 1975), Hạnh phúc từ nay (thơ, 1978), …​


    TÔI ĐÃ HỌC VĂN
    THEO KIỂU CỦA MÌNH​



    Mở đầu bài thơ Quê hương sáng tác năm 1960, tôi viết:

    Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
    Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
    Ai bảo chăn trâu là khổ?
    Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao…


    Bốn câu thơ này, dù không có dụng ý, đã nói lên một sự thật: ngay từ tuổi nhỏ, tôi đã rất yêu sách, thích đọc sách, nhất là sách văn học. Hồi đó, trong sách học văn và tập đọc lớp dự bị (tương đương lớp 2 bây giờ) có một bài văn ngắn nói về thú vui đi chăn trâu. Chưa cần nhận xét vội về nội dung lẫn câu văn của thời xa xưa ấy, cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in sự thích thú của mình khi được học bài này.

    “Ai bảo chăn trâu là khổ! Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên bãi cỏ…” Tôi có thể đọc thuộc lòng cả bài dù gần 50 năm nay tôi chưa được nhìn lại trang sách đó. Bài văn như có sức cuốn hút đặc biệt, luôn kéo tôi về với những kỉ niệm. Vì sao, tôi đã nhiều lần tự hỏi mình như thế. Có lẽ người viết rất sành tâm lí của tuổi trẻ, rất hiểu cái thú vui của các chú bé lần đầu được đi chăn trâu, thấy mình oai ghê lắm, thấy mình như là chủ của chim, của bướm, của đất trời xung quanh.

    Vào cái tuổi lên 8, lên 9 tôi đã được các anh tôi cho đi theo coi trâu của gia đình, đã nhiều lần được ngồi trên lưng trâu khi chúng đang gặm cỏ hoặc lững thững kéo về chuồng. Bài văn như viết cho riêng mình và tôi đã không ‘học’ nó mà là “thưởng thức’ nó.

    Bên cạnh cái việc gian khổ thông thường của mỗi học sinh là cố ê-a từng câu, từng chữ cho thuộc để trả bài khi bị thầy gọi, còn có cái gì đò rất riêng: thả cho trí tưởng tượng của mình mặc sức bay bổng với chú bé chăn trâu trong bài. Dần dà, tôi tự cảm thấy học văn không còn là món nợ mình phải trả mà là một thú vui; trong những trang giấy, những câu chuyện mà mình đọc có biết bao điều gần gũi với nhau; Ở lớp, tôi đã nhiều lần bị thầy phạt vì cái tội “đãng trí” không tập trung tư tưởng vào bài học; không biết có phải đó là điều mà ngày nay ta gọi là sự đồng cảm, sự rung động tâm hồn hay một cái gì tương tự như vậy chăng?

    Chắc những bạn học của tôi thời ấy vẫn còn nhớ những bài văn đầu tiên với câu chuyện người đi du lịch nhiều nơi khi về nhà được bà con làng xóm đến thăm đã trả lời: “Chốn quê hương là đẹp hơn cả”, hay cảnh sum họp trong gia đình buổi tối, có đủ ông, bà, cha, mẹ, anh chị em. Chắc các bạn ấy cũng khó quên đoạn thơ nói về Hai Bà Trưng trích trong “Đại Nam quốc sử diễn ca”:

    Bà Trưng quê ở Châu Phong
    Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
    Chị em nặng một lời nguyền
    Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân…​


    Những câu thơ bình dị, dân giã ấy sao cứ đọng mãi trong lòng tôi, có lẽ vì chúng rất gần gũi với những câu hát ru của mẹ những năm nào.

    Rồi tôi được học Kiều, Chinh Phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Tú Xương… Mỗi tác giả mới lại mang đến những rung động mới làm cho tôi say mê văn học hơn.

    Hồi học ở Quy Nhơn, chúng tôi có một người thầy mà ai cũng quý. Đó là bác Ngô Xuân Thọ, cha của nhà thơ Xuân Diệu của chúng ta. Bác đỗ tú tài Hán học, đồng bào thường gọi là ông Tú Thọ - và chuyên việc giảng dạy Hán văn cho các lớp có chương trình học chữ Hán (mỗi tuần 1 giờ). Bác rất “mê” thơ Đường và mỗi lần lên lớp bác lại truyền thêm cho chúng tôi lòng say mê đó. Bác bình thơ rất hay, thêm giọng ngâm sang sảng đã chinh phục chúng tôi:

    Cô Tô thành ngoại Hàn sơn sự
    Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền​


    Và bác đọc phần dịch luôn:

    Thuyền ơi đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn san​


    Chúng tôi thích thơ Đường nhưng lại rất sợ môn viết chữ Hán vì đây là một loại chữ có nhiều nét rất khó nhớ. Nếu bị thầy gọi lên bảng, chúng tôi có thể đọc thuộc lòng và bình cả bài thơ đã học, nhưng nếu thầy bảo viết thì anh nào cũng không viết nổi một câu thơ bảy chữ cho trọn. Nhiều cậu bị điểm kém là vì vậy.

    Chúng tôi liền nảy ra một mưu kế. Biết thầy mê thơ, mê văn học, mỗi lần thầy đến lớp là một cậu đứng dậy ‘nịnh’ thầy một câu và đề nghị:

    - Hôm nay, xin thầy cho chúng em nghe một bài thơ mới.

    - Hôm nay xin thầy kể chuyện Đỗ Phủ, Lý Bạch cho chúng em nghe.​

    Thầy Thọ đã thừa biết cái “khôn vặt” của chúng tôi nhưng thầy vẫn mỉm cười độ lượng. Thầy cầm viên phấn lên bảng viết bài mới cho chúng tôi chép vào tập vở giấy bản của mình, có khi đó là một bài thơ hay mà thầy đã chuẩn bị sẵn, có khi đó là bài mà thầy chợt nhớ ra do gợi ý của chúng tôi. Đợi chúng tôi chép xong, thầy bắt đầu đọc và bình thơ, nói chuyện văn học và chúng tôi được thoải mái nêu ý kiến. Lớp học trong giờ của thầy bỗng trở thành một câu lạc bộ văn chương, anh nào lười hoặc không thích văn học thì làm việc khác, thầy sẵn sàng lờ đi. Riêng đối với tôi thì giờ dạy của thầy luôn là một trong những giờ hấp dẫn nhất.

    Khi kẻng báo hết giờ, thầy ung dung lấy sổ cho điểm của lớp, ghi điểm trả bài của một số trong chúng tôi. Thầy thường chọn những anh giỏi văn, thích văn học mà thầy đã nắm được để cho điểm. Tôi thường được điểm cao 14, 15 (trên 20). Môn Hán văn thầy có nuông chiều chúng tôi một tí cũng không bị các đồng nghiệp khác phê bình.

    Nhớ lại những ngày ấy, tôi thương thầy vô hạn. Tôi hiểu trong cái “khiếu” văn học của mình có phần đóng góp, vun vén đầy ưu ái của thầy.

    Có lẽ tôi sẽ phạm thiếu sót nếu không nói đến những giờ văn học Pháp của mình. Ai mà không nhớ những “Buổi học cuối cùng”, “Người gieo hạt”, “Những ngôi sao” của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng mà chúng tôi phải học. Nỗi xúc động thiêng liêng của người thầy giáo già người Pháp trong buổi dạy cuối cùng (ngày hôm sau, vùng này sẽ bị sát nhập vào lãnh thổ đế quốc Đức theo hiệp định chính phủ Pháp thua trận phải kí với nước Đức, chương trình học tiếng Pháp sẽ bị bãi bỏ và một ông giáo người Đức sẽ đến thay) và nỗi băn khoăn của em học sinh nhỏ (không biết người ta có bắt những con chim sơn ca phải hót tiếng Đức không?) đã gợi lên trong tâm hồn tôi nỗi rung động xót xa và bao đau khổ nhục nhằn của một người dân mất nước… Tôi đã trào nước mắt khi đọc bài này.

    Nếu có điều gì đó để kể lại với các em học sinh hôm nay về việc học văn của mình hồi nhỏ, tôi xin được tâm sự: có lẽ tôi là một chú bé có nhiều trí tưởng tượng và một trái tim dễ xúc động. Tôi đã không học văn theo kiểu thông thường chúng ta hiểu.


    GIANG NAM
     
    haiauLucky thích bài này.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    NGUYỄN MINH CHÂU


    Sinh ngày 20.10.1930 tại làng Thơi, Quỳnh Hải, Quỳnh Lưu, Nhệ An, mất ngày 23.1.1989 tại Hà Nội. Là nhà văn quân đội, làm đến đại tá, công tác nhiều năm ở tạp chí Văn nghệ quân đội. Giải thưởng hội Nhà văn (1988-1989), với tập truyện ngắn Cò lau, giải thưởng đặc biệt của Bộ quốc phòng (1989)

    Tác phẩm đã in: Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1984), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Chiếc thuyền ngoài xa (1988), Bến quê (truyện ngắn, 1983), Cỏ lau (truyện ngắn, 1988), Từ giã tuổi thơ (truyện, 3 tập), Tuyển tập Nguyễn Minh Châu (1984),…


    THƯ GỬI THẾ GIỚI
    CẢM XÚC HỒN NHIÊN


    Ngày xưa đi học, vào lớp 6, lớp 7 bây giờ, những bài luận của tôi ở nhà trường thường được thầy phê bài “nhiều ý tưởng nhưng rất lỗi văn phạm và chẳng bao giờ dùng từ chính xác cả!”. Là bởi vì vốn tiếng Pháp của tôi mới được một dúm mà nghĩ gì là tôi viết ra.

    Hình như bây giờ ở nhà trường các em ít phải học thuộc lòng hơn chúng tôi ngày xưa. Với tôi ngày nhỏ, môn học thuộc lòng là cả một cái tội nợ, nhưng bây giờ nghĩ lại, nó cũng để lại lâu dài trong người mình một cái gì. Có thể một câu văn hay, tả cảnh hoặc nói về một cảnh ngộ đời người đã in sâu vào óc, muốn quên đi cũng không quên được; cũng có thể nó chẳng để lại về lâu dài một điều gì cả nhưng ngay lúc bấy giờ, khi vừa đọc xong nó gợi tôi nhớ đến mẹ, hoặc chợt nghĩ đến một cái giếng nhà ai đó, hoặc một cảm giác thương người đầy mơ hồ.

    Có một lần, thật quái quỷ, không phải một bài học thuộc lòng mà đọc xong một cuốn sách, tự nhiên tôi nảy ra cái quyết tâm… trở thành nhà văn… Các em cứ tin đi, tôi không bịa đâu. Hình như lần ấy tôi đang học lớp ba (ngày bấy giờ gọi là lớp nhì, năm thứ hai) tôi đọc xong một cái truyện người ta viết cho trẻ con của nhà xuất bản phổ thông bán nguyệt san, tôi thấy thú quá: “A, tưởng gì, loại truyện như thế này mình có thể viết hàng pho!” Tôi ngồi viết liền một mạch 50 trang vở học trò, đặt cho nó một cái tên rồi cuộn tròn lại, để hở hai đầu, đề địa chỉ nhà xuất bản phổ thông bán nguyệt san ở Hà Nội. Tôi đi bộ 7 cây số từ nhà lên nhà dây thép của phố huyện. Khe cái hộp thư bằng sắt hẹp quá. Cố gắng mãi tôi không sao dúi cuộn giấy vào lọt. Ông lão nhân viên nhà dây thép tưởng “thằng nhóc” đang giở trò nghịch chạy ra. Giá chui xuống đất được thì tôi cũng lủi quách nhưng rồi cũng xong. Tôi cũng gửi cái “tác phẩm văn học đầu tay” của mình đi được nhưng phải mua thêm tem dán vào. Thằng bé ôm cái bụng rỗng lại đi bộ 7 cây số về nhà ngồi đợi một tuần, một tháng, rồi một năm chẳng thấy gì hết, chắc hẳn ông lão nhà dây thép phố huyện – người duy nhất biết cái chuyện điên rồ của tôi hồi nhỏ - đã chết từ lâu.

    Ấy vậy mà sau cái chuyến ấy tôi vẫn không… “chừa’ cái quyết tâm trở thành nhà văn. Nói như vậy với các em cho vui thôi, chứ thuở bé tôi cũng không phải hạng có chí lớn gì đâu; thật tình tôi chỉ muốn diễn ta những cái gì ở chung quanh mình – mà tôi mang đầy ắp trong lòng những cảm xúc về chúng. Trước khi kể sang “tác phẩm” thứ hai (vẫn như số phận cái trước) tôi muốn nói với các em điều này: trong mỗi con người các em đang lưu trữ một kho báu mà chính các nhà văn lớn của nền văn học hiện đại trên thế giới đang đi tìm. Đó là cái khả năng cảm xúc hồn nhiên, nguyên sơ của tâm hồn loài người. Và bất cứ một người nào trong các nhà văn lớn tuổi chúng tôi nếu đánh mất hết cái khả năng ấy thì những trang viết cũng trở nên cằn bỗi, cứ trơ ra như một tấm chăn dạ hết tuyết, chỉ còn cách bỏ bút, bỏ nghề.

    Ngày nhỏ, tôi là một đứa trẻ dút dát. Trong gia đình tôi là con út, cho nên cũng được gia đình thương nhất. Nhất là mẹ tôi. Mỗi buổi sáng tôi đi học, mẹ tôi dậy từ tờ mờ đất, thổi cơm cho tôi ăn, gói vào một cái mo cau một gói cơm nắm để tôi ăn trưa ở trường. Rồi để tránh lũ trẻ chăn bò lớn tuổi hơn tôi dọc đường ăn hiếp, mẹ tôi đưa tôi đi một quãng. Lên lớp nhất, cuối năm phải thi tốt nghiệp tiểu học, mẹ tôi tìm một nhà ở gần trường gửi gạo cho tôi ăn trọ. Từ nhà tôi tới trường tiểu học huyện 5 cây số. Từ đó tôi ở trọ, mỗi chiều thứ bảy mới về nhà.

    Lần đó tôi nghe tin mẹ tôi ở nhà ốm, do người đi chợ huyện bán cá biển báo cho tôi biết. Lập tức tan buổi học chiều xong, chả kịp về nhà trọ ăn uống gì cả, tôi chạy thẳng một mạch 5 cây số về nhà. Vừa thoạt về đến cổng ngõ suýt nữa tôi khóc òa lên – vì tự nhiên tôi nghĩ mẹ tôi chết. Tự nhiên tôi nghĩ thế thôi, chả hiểu vì duyên cớ sao – và tôi tin là mẹ tôi chết thật rồi! Lòng chợt nặng trĩu bởi một nỗi thống khổ ghê gớm, tôi chạy qua cổng ngõ, lao vào sân tự nhiên thấy trời đất chung quanh mình sao mà cứ trống hoắc mãi ra. Có lẽ tôi cũng chẳng thể sống nổi, nếu không còn mẹ!

    Nhưng mẹ tôi cũng chẳng việc gì cả. Mẹ tôi chỉ ốm xoàng, nắm mất mấy ngày, bây giờ đã dậy làm lụng được. Mẹ tôi đang đứng choãi chân dong hai tay rút rơm ở bên cây rơm sau nhà bếp… Mẹ tôi ngoảnh lại, thấy tôi tự nhiên trở về nhà giữa tuần, mắt lại đỏ hoe, lấy làm lo lắng, sợ hãi vô cùng: “Sao lại về hả con? Có việc gì vậy? Sao lại khóc? Chúng nó đánh con ở đâu. Có chỗ nào sưng tím không?”

    Mẹ tôi vội vã chạy đi kiếm cái bát để giã gừng bóp vết thương cho tôi. Tôi bảo không ai đánh tôi cả. Cuối cùng tôi phải gắt lên. Đến khổ, mẹ tôi vẫn bắt tôi cởi áo ra.

    Ăn cơm xong, trời đã tối. may quá, thế là mẹ tôi vẫn còn sống, không có việc gì xảy ra cả, nhưng mà sao tôi thấy chunh quanh mình trời đất vẫn cứ trống huyếch trống hoác thế nào ấy. Tôi vẫn cứ thấy áy náy như vừa đánh mất một vật gì mà chưa tìm thấy trên vòm trời đen mượt, sau mái nhà bếp mà tôi đã nhìn thấy từ khi còn ẵm ngửa, những ngôi sao cũng như đang ngơ ngác. Thế rồi bất ngờ tôi vùng chạy ra sau bếp: đến lúc bấy giờ tôi mới biết cái cây sung cổ thụ mọc bên đất nhà hàng xóm nhưng nằm ngay bên chân cây rơm nhà tôi, người ta đã hạ xuống để xẻ ván.

    Thì ra vậy, vòm trời sau mái bếp nhà tôi chợt trở nên trống trái vì không còn cái khoảng cành lá xanh um tùm của cây sung bên nhà hàng xóm che phủ. Sáng hôm sau, mẹ tôi lại dậy từ mờ đất để thổi cơm bằng một thứ lửa rơm cháy bùng bùng trong gian bếp. Cái hình dáng mẹ tôi ngồi hiện ra như một cái hình cắt giữa đám cháy. Những ngày sau, ở nhà trọ, tôi cứ nghĩ mông lung về mẹ tôi, về trận ốm của Người, về cây sung sau nhà mà tôi thường trèo hái quả và cái khoảng trống mà nó đã để lại sau cái bếp của nhà tôi. Đấy là tất cả đầu đuôi thiên truyện thứ hai tôi viết ở nhà ông chủ trọ, lúc tôi 12 tuổi. Thật ra tôi cũng không thể nhớ tôi đã viết những điều tôi vừa kể với các em ra sao? Tôi cứ ước ao giá bây giờ tôi được đọc lại? Cái truyện viết xong, tôi không gửi đi, mà đánh mất.

    Nhưng các em ạ, cũng như thế giới vật chất chỉ biến hóa mà chẳng có cái gì mất đi cả. Trong một truyện ngắn hay một cuốn tiểu thuyết nào đó của tôi – in ra được nhiều năm rồi tự nhiên tôi mới chợt nhận thấy dấu tích của câu truyện trên. Nó “đầu thai” cho những trang viết trong đời viết văn của tôi bây giờ theo một lối ngõ nào đó mà hai cánh cửa luôn luôn kêu kẽo kẹt, hết đóng lại mở cửa tiềm thức. Và trong đời viết văn xuôi của tôi, chắc hẳn có không ít truyện chỉ là sự thức dậy của thế giới cảm xúc thời thơ ấu.

    Tôi viết mấy trang này cho các em như viết một bức thư cho thế giới cảm xúc hồn nhiên, cho cái miếng đất sét vẫn còn dính ướt mà chỉ cần một ngón tay đặt hờ lên đã hằn xuống từng đường vân tay rõ rệt. Trước khi bắt tay thân thiết từng em, tôi xin nhắc lại: các em đang cất giữ ngay trong tâm hồn mình một kho báu vô tận mà các nhà văn đang cứ nơm nớp sợ đánh mất.


    1.8.1985
    NGUYỄN MINH CHÂU
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/2/14
    haiauLucky thích bài này.
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TRẦN LÊ VĂN

    Tên thật Trần Văn Lê, sinh ngày 20.10.1920 tại thành phố Nam Định, Nam Hà. Từng công tác tại chi hội văn nghệ liên khu VI, báo Văn nghệ và nhà xuất bản Tác phẩm mới.

    Tác phẩm chính đã in: Thung mơ Hương Tích (bút kí, 1976), Sông núi Điện Biên (bút kí, 1979), Gương mặt Tây Hồ (bút kí, 1984), Giàn mướp hương (thơ, 1979), Tiếng vọng (thơ, 1987), Thơ Trần Lê Văn (1994), …


    HỌC VĂN TỪ THUỞ CÒN THƠ


    Người thầy đầu tiên dạy văn cho tôi chính là mẹ tôi. Cũng như các bà mẹ khác thời xưa, mẹ tôi, bằng lới hát ru trầm bổng, đã trao gửi vào tiềm thức con thơ – khi con nhỏ sơ sinh còn u ơ chưa biết nói – hình ảnh trong trắng của cánh cò và hương thơm cao khiết của bông sen. Cái triết lí: "Có xáo thì xáo nước trong. Đừng xáo nước đục …” của cò con và “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” của hoa sen cứ thế thấm dần vào đầu óc non trẻ và ảnh hưởng đến suốt cả đời người. “Dạy con từ thuở còn thơ” là thế.

    Tôi thiết nghĩ ở nhiều bạn cũng như ở bản thân tôi, cảm quan văn học nghệ thuật thường bắt nguồn từ lời hát ru của mẹ, từ câu chuyện cổ tích của bà. Đến tuổi đi học – tuổi lên sáu – buổi đầu tiên vào lớp đồng ấu (tương đương lớp một ngày nay) tôi, cũng như các bạn cùng lớp, được thầy giáo phát cho một cuốn Sử kí giáo khoa thư mới toanh mà đến tận bây giờ tôi vẫn còn lưu giữ mùi thơm giấy mới. Giở trang đầu cuốn sách, vừa nghe thầy giảng, vừa theo dõi bài Thánh Gióng đánh giặc Ân có tranh vẽ Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, ngựa tung vó phun lửa thiêu cháy quân giặc. Bài sử cũng là bài văn kể chuyện, ngắn gọn mà sinh động, khơi gợi trí tưởng tượng của học trò lứa tuổi nhi đồng.

    Sau lớp đồng ấu là lớp dự bị rồi lớp sơ đẳng, chúng tôi được đọc và học những cuốn Quốc văn giáo khoa thưLuân lí giáo khoa thư mà người biên soạn là những nhà giáo vừa sành khoa sư phạm vừa nắm vững nghệ thuật viết sách dạy trẻ, làm sao cho bài học vừa hấp dẫn, vừa bổ ích.

    Bây giờ đầu đã bạc gần hết, tôi vẫn còn thuộc lòng nhiều bài được học từ lúc sún răng. Có những bài thơ, bài văn vần, tưởng chỉ người lớn mới hiểu, mới thích, nào ngờ trẻ con cũng hiểu cũng thích. Thí dụ trong sách Quốc văn, bài Vì nhớ mà buồn:

    Đêm qua ra đứng bờ ao
    Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
    Buồn trông con nhện dăng tơ
    Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
    Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà
    Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
    Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
    Tào Khê nước chảy, vẫn còn trơ trơ

    Trong sách Luân lí, bài Lẽ công bằng:

    Xem trong Luân lí giáo khoa
    Công bằng là đạo người ta ở đời
    Suy bụng ta ra bụng người
    Hễ ta không muốn thì người chẳng ứ
    Những điều làm thiếu, lấy thừa
    Hại người ích kỉ nên chừa bỏ đi
    Công bằng bất cứ điều gì
    Ấy là tính tốt nên ghi vào lòng

    Những bài như trên, nói là hiểu thì tuổi thơ chúng tôi không hiểu cặn kẽ như người lớn, mà hiểu qua một thứ trực giác nảy nở rất sớm ở mỗi con người, nhất là ở những người sớm được thừa hưởng ít nhiều truyền thống văn hóa. Bài Vì nhớ mà buồn gợi một mĩ cảm sâu lắng. Bài Lẽ công bằng truyền thụ bằng lời lẽ bình dị một vấn đề đạo lí trong cuộc sống. Cái đẹp không cần lí giải của câu thơ trong sách giáo khoa cú “thẩm thấu” vào tâm trí trẻ thơ mà gây ảnh hưởng tốt.

    Riêng với tôi, việc “học văn từ thuở còn thơ” như vậy có giúp tôi cảm hứng sáng tác văn học tuổi trưởng thàng và cũng giúp tôi suy nghĩ về cách cư xử hợp lí hợp tình.

    Lớn lên, có chút ý thức về hướng nghiệp, tôi đã mơ ước trở thành người làm thơ, viết văn. Đến giao đoạn này, học văn ở nhà trường không được bao nhiêu vì thời Pháp thuộc, ở trường trung học, môn Việt văn bị xem nhẹ. Hồi ấy, tôi đã nghĩ rằng muốn có kiến thức cơ bản để sau này có thể đi vào “nghề” văn thì phải tự học. Tôi học lời ăn tiếng nói của người lớn, người già trong đời thường. Những thành ngữ, tục ngữ, ca dao cứ nhập vào trí nhớ tôi như một thứ vốn tích lũy. Tôi học tác phẩm của các nhà thơ cự phách thời xưa như Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú XƯơng… Tôi đọc và học cách viết của những nhà thơ, nhà văn Việt Nam có danh tiếng thời ấy.

    Không chỉ học văn bằng tiếng mẹ đẻ, tôi còn tìm đọc những tác phẩm thơ văn từ dễ đến khó bằng tiếng Pháp. Biết rằng giữa tiếng Việt của chúng ta và ngôn ngữ chữ Hán có quan hệ lâu đời tôi mầy mò tự học chữ Hán ngoài chút vốn Hán văn ít ỏi được cha tôi truyền dạy từ khi còn nhỏ. Học chữ Hán rồi học chữ Nôm để đọc những truyện thơ in bằng mộc bản còn tàng trữ trong tủ sách gia đình.

    Đó, tôi xin kể lại tóm tắt những bước học văn của tôi trong thời thơ trẻ, gọi là câu chuyện tâm sự gửi bạn đọc thân mến.


    TRẦN LÊ VĂN
     
    haiauLucky thích bài này.
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    LƯU TRỌNG LƯ

    Sinh ngày 16.9.1911 tại Bắc Trạch, Quảng trạch, Quảng Bình, mất ngày 10.8.1991 tại Hà Nội. Từng là ủy viên BCH Hội nhà văn Việt Nam, tổng thư kí Hội văn nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, nổi tiếng từ trước cách mạng với bài thơ Tiếng thu.

    Tác phẩm chính đã in: Tiếng thu (thơ, 1939), Người sơn nhân (truyện, 0933), Khói lam chiều (truyện, 1941), Chiếc cáng xanh (truyện, 1941), Tỏa sáng đôi bờ (thơ, 1959), Người con gái sông Gianh (thơ, 1966), Từ đất này (thơ, 1971), Mùa thu lớn (hồi kí, 1978), cùng rất nhiều tác phẩm sân khấu cải lương, kịch nói, ca kịch khác.


    CON NAI NHỎ CỦA TÔI


    Trước đây tôi có bài thơ đề: Tiếng thu. Có lẽ bạn đã làm quen với nó từ trên ghế nhà trường. Bài thơ kết thúc với hai câu:

    Con nai vàng ngơ ngác
    Đạp trên lá vàng khô

    Bạn là người đang sống giữa một thế giới có những biến cố khổng lồ và những âm vang lớn, lại có thể tưởng tượng được rằng: trước đây có thể có một thế giới tưởng chừng như vô sự đến thế, im lìm đến thế, và từ trong thế giới đó, lại xuất hiện một con vật hồn nhiên vô tội đến thế, một con nai ngơ ngác trước cuộc đời! Một hình tượng nghệ thuật hiền lành như thế, hình như đối với bạn, không thể chấp nhận được. Vì thế trên ghế nhà trường một bạn trẻ, trong một bức thư cho mẹ mình, đã vẽ lại một con nai khác:

    Mẹ ơi! Con muốn làm con nai con
    Tung tăng trên những bờ cỏ sắc
    Chân xới, chân vun từng đống chất
    Lá khô vàng sưởi ấm một mùa đông

    Rõ ràng con nai của người bạn trẻ đã có một cách nhìn khác con nai của tôi nhiều. Chắc là người bạn trẻ đó, một học sinh vì bom đạn Mĩ phải tạm thời sơ tán khỏi thủ đô Hà Nội, thiếu củi đun ngày ngày phải đi vun xới những đống lá khô để thổi nấu và sưởi ấm gia đình giữa một mùa đông lạnh.

    Con nai nhỏ của người bạn nhỏ là như vậy đó. Còn con nai của tôi chỉ biết nhìn ngơ ngác, không có hành động gì ngoài cái động tác vô tình đạp trên lá vàng khô, làm nậy lên một tiếng kêu xào xạc.

    Có một lần khác, qua một bản nhạc, tôi cũng thấy xuất hiện một con nai khác giữa Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, cũng có cái ngơ ngác giữa tiếng xe rít, bom gầm nhưng không phải là cái ngơ ngác của con nai tôi.

    Thật ra thế giới tôi sống lúc bấy giờ, không phải im lìm vô sự như có người đã tưởng. Không phải chỉ có tiếng lá vàng khô, tiếng mùa thu thổn thức, tiếng “kêu’ rạo rực của hình ảnh người chinh phu trong cõi lòng cô đơn của người chinh phụ!

    Tôi lớn lên trong một gia đình nhà nho. Đỗ xong ra làm quan được một thời, không chịu nối cái thời “tây tầu” nhố nhăng, thầy tôi cáo quan về làng dạy học. Thầy tôi đã dành cho anh em chúng tôi một chái nhà phía tây, có bụi chuối và hàng rào bông bụt. Trên vách, cạnh chỗ tôi hàng ngày ngồi học, có ghi bằng chữ Hán to, bài kí của thầy tôi, và dưới bài kí là hình con nai, có lẽ là một con lộc thì đúng hơn! Tuổi nhỏ tôi sống bên con nai đó. Khi chán học tôi ngẩng lên nhìn nó. Khi mỏi mắt, muốn thiếp đi một chút, bỗng giật mình tỉnh dậy, tôi lại mở mắt to, nhìn nó. Thầy tôi là một nhà nho thanh bạch nhưng đồng thời cũng là một “quan hưu” giữa làng, giữa tổng. Mỗi khi trong làng có một vụ bò húc vào một cái bụng chửa, hay ở chợ có một vụ trả thù đổ nước lã vào rượu rồi đi báo tây đoan, hay ở làng bên một vụ tế trâu ở đình ba ngày để thối rục, chỉ vì các quan chức tranh nhau cái thủ, cái noọng, mỗi khi có những vụ như thế xẩy ra, thì người ta lại đến trình báo với thầy tôi.

    Mỗi lần từ bên chái tây yên tĩnh của tôi, tai được nghe những chuyện như vậy, thì tôi lại tặc lưỡi một cái, rồi nhìn lên con nai vàng ngơ ngác của tôi. Những lúc như thế, tôi lại thấy con nai của tôi quả là một con vật đáng yêu nhất giữa cõi đời. Nhà tôi tuy ở một nơi hẻo lánh ở nông thôn nhưng nơi đây vẫn dội về những chuyện trong triều ngoài quận. Những chuyện thuyên chuyển ở trong quan lại, những chuyện rắc rối ở một bộ đường, hay những chuyện bẩn thỉu ở một hậu thất. Hôm nay, một ông quan hưu ghé vào nhà tôi báo cho thầy tôi biết một cảnh triệt hạ tàn ác nào đó, đối với một vùng bất an nào đó, đưới sự điều khiển của Nguyễn Thân; mai, một ông quan hưu khác lại cho hay chuyện vụ Ngáo – tên đao phủ của triều đình – vừa chém đầu một vài người dư đảng Văn Thân ở của An Hòa gần kinh đô Huế, thầy tôi vốn là người hay nói đạo lí, thường hay giảng Khổng Mạnh, mở miệng ra là: “Đức Thánh ngài dạy rằng…” thế mà khi nghe những chuyện bất bình như thế, chỉ im lặng ngồi nghe, không cất nổi một lời phê phán.

    Từ chái tây, con nai của tôi tưởng như rớm nước mắt cúi đều xuống nhưng rồi nó lại ngẩng lên nhìn tôi. Và kì diệu! Vẫn hồn nhiên, vô tội, ngơ ngác trước mọi sự biểu hiện hiền lành hay tàn bạo của cuộc sống. Từ nhỏ, tôi vẫn là một đứa trẻ nhiều tình cảm, nhiều nước mắt. Nhưng có một lẽ chính vì thế mà tôi muốn ngoảnh mặt lại với mọi sự đau khổ, không muốn, không dám có một động nặng, một cựa mạnh, chỉ muốn nghếch cái đầu khờ dại vào một cửa song yên lặng, hướng cái nhìn vào một thế giới mơ màng…

    Xuất phát từ một quan niệm như thế, nên từ trên ngưỡng cửa cuộc đời, buổi đầu tôi gây dựng cà một chùm hình tượng nghệ thuật rất đỗi hiền lành dễ thương. Tình yêu – hạnh phúc của con người đối với tôi lúc đầu chỉ là một chùm nguyện, một chùm mơ. Cả một chùm thơ, vốn là một chùm nguyện, một chùm mơ, mang nhiều tên khác nhau, nhiều dạng khác nhau, nhưng đều thể hiện một cái nhìn trong sáng, ngây thơ đối với cuộc đời. Tôi gặp ảo, gặp mơ trước khi đụng sự thật. Đúng ra là lúc trẻ tôi đã gặp cái bóng của sự thật hơn là sự thật. Quá nửa những bài thơ về tình yêu mà tôi đã viết, và một số tôi nhắc lại đây, thật ra đã lấy dáng khắc nét, bắt nguồn từ tuổi tiền – thiếu – niên, chúng bắt đầu được xây dựng, từ trên những buổi chiều của tuổi 17-18 đu đưa trên một chiếc võng. Hạnh phúc chỉ có trong tưởng tượng và cả đau buồn cũng thế. Tất cả có thể nói: xuất phát từ một quan niệm rất “nai” như thế đó. Một quan niệm quay lưng với cuộc đời, rút vào cõi mộng, sợ những động nặng, những cựa mạnh, sợ những nhát dao chĩa thẳng vào cuộc sống. Từ thuở nhỏ, tôi đã rất sợ “lí trí” và cũng như mẹ tôi, tôi chỉ có một vũ khí: nước mắt.


    LƯU TRỌNG LƯ
    (Rút từ tập Mùa thu lớn – NXB Tác phẩm mới, 1978)
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/2/14
    haiauLucky thích bài này.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    CHẾ LAN VIÊN
    Tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920. Quê chính ở Cam Lộ, Quảng Trị nhưng lớn lên và đi học ở Bình Định. Nhiều năm công tác ở Hội nhà văn Việt Nam, tham gia Ban chấp hành Hội nhiều khóa. Nổi tiếng từ năm 16 tuổi với tập thơ Điêu tàn, từng được Giải thưởng Hội nhà văn với tập thơ Hoa trên đá (1985). Mất ngày 19.6.1989 tại thành phố Hồ Chí Minh.

    Tác phẩm chính đã in: Điêu tàn (thơ, 1937), Gửi các anh (thơ, 1954), Ánh sáng và phù sa (thơ, 1960), Hoa thường ngày, chim báo bão (thơ, 1967), Những bài thơ đánh giặc (thơ, 1972), Đối thoại mới (thơ, 1973), Hoa trước lăng người (thơ, 1976), Hoa trên đá (thơ, 1985), thơ di cảo (1993)… và các tập tùy bút, bút kí, phê bình tiểu luận nổi tiếng như: Những ngày nổi giận, Giờ của số thành, Phê bình văn học, Suy nghĩ và bình luận, Nghĩ cạnh dòng thơ, Từ Khuê Văn các đến quán Trung tân, Nghĩ về nghề


    BƯỚC ĐẦU CỦA TÔI


    Anh đã học viết văn như thế nào?

    Tôi sẽ trả lời gãy gọn, nếu như một tỉnh nào khác hỏi tôi. Nhưng đây lại là của Nghĩa Bình. Tôi bối rối quá! Quê mẹ, quê gốc tôi ở Quảng Trị. Nhưng chính tại Bình Định này mà tôi đã viết bài văn đầu tiên, ra tập thơ đầu tiên, chao ôi! Nhớ biết bao người, bao cảnh, bao sự việc đã giúp mình nên người, nên văn ở đấy! Khéo mà tôi lại làm hồi kí mất, rồi lẩm cẩm dây cà ra dây muống kể lể linh tinh lắm thứ, quên mất cả những kinh nghiệm viết văn mà các bạn chờ.

    Khó cho tôi còn ở một điểm khác: chuyện lâu quá rồi, nửa thế kỉ rồi, nhớ sao cho hết? Tập thơ đầu tay Điêu tàn của tôi ra năm 1937, khi tôi còn là học trò thầy Ấm (cụ thân sinh của nhà văn Phan Tứ - Lê khâm); thầy Hảo, Thầy Chí, thầy Vĩ… năm thứ ba trường trung học Quy Nhơn. Nhưng 1936, 1935 trước đó, tôi đã có thơ đăng ở báo Tiếng trẻ, truyện ngắn ở báo Khuyến học và truyện vui nghìn chữ Xe và xe ở báo Phong hóa ngoài Hà Nội. Như thế thì 1933-1934, tất tôi đã quanh quất mon men đâu đấy ở bên rìa ngoại vi vườn hoa văn học ấy. Cái gì đã đưa tôi đến địa hạt đó? Bài văn hay nào đã thức tỉnh cho tôi biết cái hay của văn, rồi sau đó bắt chước làm theo, theo quan điểm của Aristote? Ông nói: “Hai nguồn gốc của thơ thì một là bắt chước”. Vậy thì tôi đã bắt chước bài văn hay nào?

    Răng sạch không bao giờ sâu
    Răng sâu trông thực là xấu
    Đánh răng thì phải đánh
    Cả trên lẫn dưới
    Cả trong lẫn ngoài
    Chả lẽ là bài văn ấy, mà giờ tôi viết dưới dạng thơ, cho các bạn may ra có thể xúc động như tôi. Ngoài sáu mươi tuổi, ngoái cổ lại sau, nhớ lại cảm giác thơ đầu tiên, mối tình đầu của mình với thơ là ở phút nào, thì vẫn nhớ cái khoản sâu răng ấy. Khi đó tôi khoảng lên bảy, lên tám tuổi, đang học ở Điện Bàn (Quảng Nam). Thầy giáo bệnh, nghỉ. Em vợ thầy giáo dạy thay một buổi. Chả biết làm gì, anh ấy lấy quyển giáo khoa vệ sinh ra đọc chính tả cho chúng tôi viết. Em vợ của thầy là điều mới lạ rồi. Tiếng Huế với chúng tôi ở một huyện Quảng cũng lạ. Và cách đọc chọi chữ sạch (trắc) với chữ sâu (bằng), chọi chữ sâu (bằng) với chữ xấu (trắc)… cách anh ấy cắt đoạn cả trên lẫn dưới sao cho nhịp nhàng với cả trong lẫn ngoài… càng lạ hơn. Tổng số những cái lạ ấy gây cho tôi một sự phấn chấn lạ thường, thơ là gắn liền với lạ mà. Giờ đây nhớ lại vẫn còn nghe vang vang cái giọng Huế đọc bài Răng sâu ấy. Nhớ cả dáng anh ấy đi lại nhẹ nhàng giữa lớp học im phăng phắc, tiếng gió ngoài sân và ánh nắng trên cửa kính nhà trường. Aristote lại nói đúng. Trong hai nguyên nhân làm ra thơ, theo ông, một là sự bắt chước, còn hai thì là cái này đây: lòng yêu thích nhịp điệu, yêu thích hài hòa.

    Theo tôi nghĩ thì những cái ngoài văn, xa văn, không phải văn có khi mở đầu cho việc yêu văn. Ở đây là một âm điệu. Biết đâu với em khác lại là một sắc núi, một mùi hương, một kỉ niệm nào đó rất vui hay đau xót. Miễn là nó đánh trúng vào tâm hồn nhạy cảm của em, mở cho em thấy một cái gì mới lạ. Và bồi dưỡng viết văn là như vậy, là bồi dưỡng từ xa và phải làm từ rất sớm, từ chỗ chưa phải văn mà mới chỉ là tâm trí, tấm lòng.

    Hình như tất cả các em đều trải qua một phút được chấn động, được thức tỉnh như vậy, chứ không phải chỉ có những người làm thơ. Có điều em này được đánh thức dậy liền, em kia ngủ tiếp; em kia nữa nửa thức nửa dậy, không làm thơ thì làm thứ khác, v.v… Bồi dưỡng các em tức là sau khi các em được chấn động bởi tiếng vang ban đầu, ta phải tiếp tục nuôi cho các em sự rung động thường xuyên. Nuôi bằng gì? Bằng những bài văn, cố nhiên, phải là văn hay kia, chứ không phải loại “răng sạch, răng sâu” đâu nhé! Vì chỉ có văn hay mới đẻ ra văn hay được.

    Năm 1935, Yến Lan học trên tôi hai lớp, bày cho tôi một bài của Tản Đà, nay còn lưởng vưởng trong óc tôi:
    Gió mùa thu. Là vàng rung bay. Các cậu đi học. Áo rách thì mẹ vá. Không có áo lành thì mẹ may…. Công mẹ không đến nỗi như mùa thu lá vàng rung bay v.v…

    Nhờ những bài thơ hay của Leconte do Lisle viết về chiến trường, tôi viết bài Chiến tướng. Nhờ Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, nhờ Ác hoa (Fleurs du mal) của Baudelaire, tôi viết về cái chết trong Điêu tàn vốn đã gặp nó ở bãi tha ma và ở sọ dừa trong phòng thí nghiệm nhà trường.

    Nhưng chuyện lấy văn nuôi văn, ta bàn đến sau. Một nhà thơ nước ngoài viết: “Cái chỉ là thơ thôi, giết chết thơ”. Một mình thơ làm sao đẻ ra thơ được? Nó phải kết hợp với gì chứ? Với mảnh đất này. Cánh nhà báo, nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm, khi tìm hiểu một tác giả, thường cứ day đi day lại câu hỏi: “Ngày nhỏ anh sống ở đâu?” Cho tôi biết ơn cái tháp Chàm và thành Bình Định cũ, biết ơn cái huyện lị An Nhơn hẻo lánh và những chuyến tàu đêm Bình Định – Diêu Trì, biết ơn bờ biển Quy Nhơn vỗ sóng ru tôi và ơn những rừng dừ rợp bóng lên tôi.

    Cánh dừa cao say sưa ôm bóng ngủ

    Chính là dừa ấy chứ còn đâu? Tôi không theo thuyết ba chữ M – moment (thời gian), mode (phong trào), milieu (địa điểm) – thế kỉ XIX của Pháp, nhưng tôi phải biết ơn là đã được sống ở Nghĩa Bình thời gian ấy, qua những địa danh kia. Sau này thơ tôi có day dứt về sử.

    Đất nước làm thơ mà thiếu người viết sử

    Chính là tôi đã lớn lên trên mảnh đất từng lẫy lừng Chàng Lía, Mai Xuân Thưởng, Quang Trung… Trong Điêu tàn có nói đến nỗi đau mất nước vì 1937, cùng với Nguyễn Viết Lãm, Phú Sơn, chúng tôi đã là bạn thân, là em của những người cộng sản, đặc biệt là anh Nguyễn Minh Vĩ lúc ấy là linh hồn của nhóm.

    Chả lẽ lại nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt của nhà là mái, của bàn khao Bình Định, hay cái vòng quanh kiên trì triền miên của các xe nước ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ? Nhưng quả là những đêm hát bội ở An Thái, các cuộc đổ giàn ở An Vinh làm cho tôi yêu chất hùng tráng – sau này ta gọi là sử thi hay gì nhỉ? Rồi đây các bạn cũng nên tổ chức lại trò đổ giàn, đó chả làm Olympic của ta đấy sao? Một cái giàn cao hàng chục mét, có con heo quay trên ấy, và dưới đất là hàng chục đoàn võ sĩ từ Quy Nhơn, Đập Đá lên, Bình Khê xuống, Hoài Ân, Hoài Nhân vào, cùng với các võ sĩ An Thái, An Vinh tại chỗ đang chờ đợi. Khi con heo ném xuống là một cuộc “tỉ thí lôi đài” dữ dội để giành cho được con heo kia, dấu hiệu đoàn nào sẽ vô địch năm nay. Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu, cái dây đồng trong thơ làm sao không dính líu với các cuộc đổ giàn thượng võ này? Blake nói khá đúng là “văn hóa đi bằng lối thẳng, còn nghệ thuật thi đi các lối ngoằn ngoèo”. Trong Điêu tàn có yếu tố thần bí vì tuổi trẻ tôi tìm trong tiếng tụng kinh trước bàn thờ Phật của cha tôi, và trường tôi nằm trong tầm ngân vang của chuông nhà thờ đạo Kim Châu gần đấy.

    Những yếu tố thần bí gặp trong đêm tuổi thơ Bình Định khi tôi lớn lên gâp Đảng, nó không biến mất đi mà lại hóa ra thứ khác giữa ánh sáng ban ngày. Đấy là các câu thơ đánh Mĩ:
    … Kinh địa tạng xé theo súng 12 li 7

    … Những năm chiến tranh mặt Chúa cũng sầu thương

    … Mặt Phật không cười cùng hoa sen nữa…

    Giữa quá khứ và hiện tại vừa có đứt, vừa có nối. Nên nối cái gì, để đứt cái gì là nhiệm vụ người viết phải lo. Nhưng quả là để tạo nên một người viết văn, cần nhiều yếu tố, nhiều chất, nhiều cảnh, nhiều tình cụ thể của cuộc đời cụ thể này, chứ chỉ văn đâu có đủ, dù cho đấy là văn hay đến tuyệt vời.

    Cần, đúng rồi, nhưng sao lại phải nhiều? Có nhiều mới đa dạng, phong phú. Có nhiều mới không đơn giản và đơn điệu. Có nhiều thì mới tổng hợp được, chứ ít thì tổng hợp nỗi gì?

    Marinetti nói: “Thơ là say và tổng hợp!” Aristote nói: “Thơ tổng hợp hơn sử, vì sử đi vào cụ thể”. Do đó, thầy giáo vừa phải tạo cho các em sống được nhiều, biết được nhiều điều cụ thể, vừa phải giúp cho các em biết tổng hợp, liên hệ, khái quát, biến hóa cái cụ thể ấy. Vừa phát triển các giác quan, vừa tập luyện sự thao tác của tư duy.

    Cao Bá Quát viết:
    Mặt trời đẻ trứng gà trên vách

    Nguyễn Du viết:
    Vầng trăng ai xẻ làm đôi

    Tường An viết:
    Bốn dây ứ máu tì bà

    Hàn Mặc tử viết:
    Tiếng gà gáy rung trăng đầu hạ…

    tức là không phải chỉ cảm xúc mà còn làm hóa chất giữa các cảm xúc.

    Ở trên, tôi có nói tôi là học trò thầy Hảo, thầy Ấm, Thầy Vĩ, thầy Chí. Chỉ có mình thầy Hảo dạy văn. Tôi yêu văn chính nhờ không phải chỉ sự uyên bác của thầy mà cả ánh mắt ngầm cổ vũ của thầy. Nhưng không có toán của thầy Ấm, khoa học của thầy Chí, địa của thầy Vĩ thì làm sao tôi biết cộng sự vật này với sự vật kia, nghĩ rằng sự vật này có thể biến thành sự vật kia, thậm chí con tằm là bướm đấy thôi, sự vật này chính là sự vật kia đấy. Có được óc phân tích là nhờ các thầy, mà có được óc tổng hợp Marinetti, Aristote ca tụng trên kia cũng là nhờ ở các thầy, đúng hơn, nhờ ở vốn văn hóa mà các thầy truyền đạt cho tôi.

    Một thuyết lớn ảnh hưởng đến tất cả nền thơ châu Âu hiện nay là thuyết Correspondances (tương giao), thuyết này có cách đây hơn 200 năm trước. Ở tiểu học Bình Định, tôi đã gặp các mùi hương, các màu sắc, các âm thanh. Nhưng về đến Quy Nhơn, khi anh Nguyễn Minh Vĩ giảng cho tôi Bôđờle thì tôi mới biết thuyết ấy, biết rằng:

    Les parfums, les couleurs et les sons se répondent
    (Mùi hương, màu sắc và những âm thanh tương giao cùng nhau)
    Ừ, cơn rét có thể ngọt lắm chứ, màu đỏ có thể kêu vang và tôi nghe thấy lạnh khi chiều xuống, khi gió thu về… Các cảm giác tương giao, tương hỗ, Và giữa lúc ấy thì các thầy giáo khoa học dạy cho tôi về chuyển hóa bảo toàn năng lượng, cơ năng biến thành nhiệt năng, nhiệt năng thành điện năng và điện năng thành ánh sáng… Những điều khô khan ấy giúp cho tôi sau này hiểu được câu của nhà triết học Nga “Đá và lá cùng một chất”; yêu câu thơ Pháp “Đá và hoa là hai chặng của một tư duy” và đặt tên tập thơ là Hoa trên đá vừa rồi, biết đâu không nằm trong mạch ấy? Rút ra kinh nghiệm gì, hỡi các nhà thơ và các nhà giáo, các nhà giáo có thể già, và các nhà thơ thường rất trẻ? Cái kinh nghiệm này đây, là làm thơ chỉ biết có thơ thôi, không được. Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hóa nữa. Quang năng không làm hại gì đến các trang thơ, và dùng trang thơ viết về bóng đêm cũng nên viết nó dưới nguồn điện sáng.


    16.3.1986
    CHẾ LAN VIÊN
     
    Last edited by a moderator: 29/4/15
    haiauLucky thích bài này.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    NGUYÊN HỒNG
    Họ Nguyễn, sinh 5.11.1918 tại thành phố Nam Định. Ông tham gia cách mạng và viết văn từ khi còn rất trẻ. Làm nhiều công tác ở Hội nhà văn như biên tập viên báo Văn nghệ, phụ trách trường viết văn, tham gia BCH Hội. Là chủ tịch Hội văn nghệ TP Hải Phòng. Ông mất ngày 2.5.1982 tại Nhà riêng ở Hà Bắc.

    Tác phẩm chính đã in: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1940), Bảy Hựu (truyện ngắn, 1940), Nghững ngày thơ ấu (tự truyện, 1940), Quán Nải (truyện ngắn, 1942), Hơi thở tàn (truyện ngắn, 1944) Sóng gầm (tiểu thuyết, hai tập, 1961). Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1967), Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973), Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976), Thù nhà nợ nước (tiểu thuyết, 1981), Trời xanh (thơ, 1960), Sông núi quê hương (thơ, 1973) Sức sống của ngòi bút (tiểu luận, 1964), Bước đường viết văn (tự truyện, 1971), Một tuổi thơ văn (hồi ức, 1973), Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi tưởng, 1978), Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, 1983),…



    TỪ KỈ NIỆM BAN ĐẦU ẤY


    Tôi đã mười lăm tuổi! Tôi sắp đến một bước quyết định cả đời: hoặc tốt nghiệp ra trường, hoặc thi vào trường thành chung. Hi vọng được học nữa và học cao này, quá là mờ mịt đối với tôi. Nhưng thôi, cứ biết tôi phải đỗ cuối khóa này. Nhất là phải học giỏi! Tuổi xanh ơi! Tôi đã mười lăm tuổi! Thời kì này, tôi cũng đọc các sách báo ta và hết sức say mê. Một số truyện ngắn của mấy nhà văn đang nổi tiếng, tôi coi cũng như những bài học. Tôi không những chỉ thuộc những đoạn hay, đoạn lạ, mà còn nghiền ngẫm rất kĩ, rất lâu những tình tiết và nghệ thuật để so sánh những nhà văn đó với nhau, so sánh truyện này với truyện khác, và đánh giá cả từng đoạn, từng câu, từng ý, từng cảnh trong truyện của họ. Tôi cũng nghiên cứu những bài xã luận, những bài bút chiến, những thiên phóng sự điều tra, những tạp mục như tìm hiểu, điểm văn, điểm thơ, nhặt hạt sạn, hạt đậu nhọn, vui cười, thách đố v.v… về các thể loại, về cách viết, cách lập luận, về đặc sắc hay sắc thái của từng nhà báo, nhà văn, nhà thơ.

    Bên cạnh những truyện ngắn và tiểu thuyết thì thơ mới làm mê đắm tôi hơn hết,

    Tôi không có sổ tay hay sổ đặc biệt gì cả. Tôi vận dụng toàn trí nhớ. Đầu óc tưởng tượng của tôi đã làm công việc của một màn ảnh và máy chiếu phim mà nhiều lúc tôi đã không ngờ được sự giàu có lạ lùng của nó. Những nhân vật, những cảnh vật, những sự việc, những câu chuyện, những cuộc đời trong các tác phẩm đều bị lột da, bóc xương, tróc vỏ, lật ngược, đào sâu, soi chiếu và nhân lên trên nhiều diện. Lúc đó, tôi chưa có ý định sáng tác hay làm nhà văn truyện ngắn, truyện dài gì cả. Những công việc trên đây phần lớn là do sự tò mò, do khiếu thưởng thức và thích cả phê bình nữa. Một cách vô ý thức, tôi đã viết. Tôi viết thêm. Tôi viết kĩ. Tôi viết mới, tôi viết khác với những tác phẩm kia, qua những tác phẩm kia, từ những tác phẩm kia, tất nhiên là ngây ngô, đại nghếch và còn lố bịch là đằng khác! Cũng may, chỉ có tôi biết với tôi, nó chỉ ở trong trí não của tôi. Nó sống rất nhanh, rất huyền ảo. Tuy thế cũng có lúc nó diễn lại, và trở thành một cái cớ hay trở thành những chất liệu sử dụng sau này khi tôi viết văn thật sự… Thí dụ như trong một phần cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ hay truyện ngắn Bảy Hựu đầu tay của tôi.

    Mây chiều ngừng lại sau đèo
    Mình cây nắng nhuộm bóng chiều không đi
    Trời cao xanh ngắt, ô kìa
    Hai con hạc trắng bay về Bồng lai…

    (Thế lữ)​

    Càng vào những giờ Pháp văn, tôi càng bâng khuâng với các câu thơ mới của ta. Một tai thì vang vang những câu thơ của Vich-to Huy-gô hay những doạn văn của Pát-scan, Rút-xô, An-phông-Xơ Đô-đê và của cả mấy tây đoan, quan hai khố xanh kiêm viết về thuộc địa thời đó; một tai tôi nghe gió, nghe đàn, nghe mây, nghe chim, nghe rừng, nghe thác, nghe sóng, nghe thơ của Việt Nam, với những tên tuổi đối với tôi sao mà đẹp, mà quý, mà trọng và thiêng liêng:

    Với cây đàn ngàn phiếm tôi ca
    Cái đẹp u trầm đằm thắm hay ngây thơ
    Cũng như cái đẹp cao siêu và hùng tráng
    Cửa non nước, thi văn, tư tưởng…

    (Thế Lữ)​

    Rồi một thế giới. Không! Những thế giới khác, mở ra ở ngoài kia. Phải! Ở ngoài ba khung cửa số và cửa ra vào phía tay trái tôi mà khoảng sân và vòm trời lúc nắng cũng như mưa, cứ trong giờ học im ắng thì lại có một sức quyến rũ rất lạ.

    Thấm thoắt sắp hết chín năm, sáu lớp học; thì tám năm, năm lớp tôi học trường đây, chơi ở sân đây. Nhiều buổi các thằng bạn đã nằm, ngồi quây kín lấy tôi ở dưới những gốc cây sấu, cây cơm nguội để nghe tôi kể những chuyện năm xưa về nhà trường và mấy thời kì đặc biệt từ những ngày xa lắc như ngày đầu kỉ nguyên theo tuổi chúa Giê-su ấy. Trường lớp, sân chơi, nhà loong-toong, cổng và đường đi lối lại quanh trường, với các thứ kỉ niệm, các thứ chuyện, nếu không phóng đại thì cũng một tấc đến giời, hoang tưởng, kì ảo hơn cổ tích!

    Cảnh vật làm đầu đề các chuyện, các kỉ niệm vẫn là cái sân cùng mấy cây to còn lại, mấy cây to mới lớn và cái cổng trường liền với dãy nhà của hai người loong-toong gác trường và bán quà bánh cho học trò. Không còn những lớp bét, lớp tư nữa, không còn những lũ bé lóc nhóc nữa, cái sân dần dần thành của riêng mấy lớp lớn. Một dạo có những hai bàn đánh quần vợt chiếm gần hết sân trường. Sau đó thì thành bãi bóng. Hai cây ổi và hai cây bàng ở hai đầu làm cột gôn. Cây ổi và cây bàng to ở giữa sân làm mốc giao bóng mở trận đấu. Mấy khoảng rìa sân và góc sân là các bàn bi, bàn đáo.

    Từ năm lớp nhì, có thời kì tôi đã mê đá bóng hơn cả mê sách, nhất là tới năm bao nhiêu truyện của cửa hàng cho thuê tôi đã đọc hết, còn những truyện mới, sách mới thì vừa đắt vừa không hay. Phải đến dạo có mấy tờ báo có những bài lạ, như Phụ nữ tân văn, Đông tây, Ngọ báo, Phong hóa, tôi mới giảm được phần thời giờ ở ngoài đường, ở sân trường và ở bãi cỏ thành phố đến quên cả ăn, với quả bóng quần và mấy bạn bóng học cùng trường, ở gần nhà.

    Sau những buổi ra chơi, tôi lại vào lớp học, bụng căng nước máy, mồ hôi cứ long tong ở trán, ở cổ, ở cánh tay, gạt không kịp, chảy cả xuống bàn, xuống sách. Nhưng chỉ lúc sau, nhìn ra ngoài sân im lặng và vùng trời nắng tôi lại mát dịu hẳn trong người.

    Tiếng hát trong như nước Ngọc tuyền
    Êm như hơi gió thoảng cung tiên
    Cao như thông vút, buồn như liễu
    Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.

    (Thế Lữ)​

    Những câu thơ mới lại ru vỗ tâm trí tôi cùng với những câu thơ và những đoạn văn ngân vang của bài tập đọc, bài học thuộc lòng và bài ám tả thầy giáo bình giảng.

    Bài học thuộc lòng lấy một đoạn trong bài thơ Đại dương đêm tối (Océano-nox) của Vích-to Huy-gô và bài ám tả cũng lấy một đoạn trong truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê, là hai bài cuối cùng tôi nhớ mãi trong đời học sinh.

    Sau khi thôi học, tôi ra Hải Phòng rồi đi Hòn Gai xin việc. Tôi đã thật được nghe biển sóng cả ban ngày, cả đêm trăng và cả tối khuya mà tưởng tượng thêm về đời sống gian lao, dũng cảm của những người thủy thủ trong trích đoạn thơ của Vích-to Huy-gô.

    Và bắt đầu được nghe thật sóng gió của cuộc đời nữa! Cuộc đời phải đổ mồ hôi mình mà sống, để giữ nhân phẩm, tiến đến tương lai, có một lí tưởng cao quý và một sự nghiệp chân chính trọn tình yêu dấu…


    NGUYÊN HỒNG
    (Rút từ tập Một tuổi thơ văn – NXB Kim Đồng, 1978)
     
    Last edited by a moderator: 29/4/15
    haiauLucky thích bài này.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    TÔ HOÀI

    Tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 15.8.1920 tại Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. Nổi tiếng từ khi còn rất trẻ, đã qua các công tác: chủ nhiệm báo Cứu quốc, thư kí tòa soạn tạp chí Văn nghệ, tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam, chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội, tổng biên tập báo Người Hà Nội.

    Tác phẩm chính đã in: Trong số gần 200 tác phẩm của ông nổi bật là Quê người, Giăng thề (1943), Xóm giếng, O chuột, Nhà nghèo (1944), Tuổi trẽ Hoàng Văn Thụ, Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ, Miền tây, Mười năm, Tào Lường, Người ven đô, Vỡ tình (tiểu thuyết) Dế mèn phiêu lưu kí, Kim Đồng, Con mèo lười, Đảo hoang, Vừ A Dính, Truyện nỏ thần… (viết cho các em) và rất nhiều tập hồi ức, hồi kí, tạp văn, tiểu luận, phê bình, chân dung văn học khác.



    TÔI ĐẾN VỚI
    VĂN CHƯƠNG NHƯ THẾ


    Dù sao, tôi cũng đã thành chú học trò. Tôi biết chữ lúc nào và làm thế nào biết chữ, tôi không nhớ.

    Các dì hay hỏi tôi đã học được bao nhiêu chữ. Một mẹt nhé? Tôi vâng. Rồi tôi nhân dần mẹt chữ của tôi lên. Tôi khoe tôi đã học được ba mẹt, bốn mẹt. Bao giờ tôi học được đầy thúng chữ thì tôi thành thầy giáo Đức. Ngày nắng, cả nhà giục tôi đem chữ ra phơi kẻo chữ mốc. Tôi thích được nghe nói đùa như thế.

    … Một hôm, quét nhà, tôi nhặt được ở gầm bàn học chú Luyến một quyển sách đã nát và bợt mủn mấy tờ lót cuối. Cuốn Không gia đình, Nguyễn Đỗ Mục dịch. Tôi đặt quyển truyện vào khe phản, chỗ ngồi đánh giầy.

    Mỗi buổi trưa, cơm xong, tôi ngồi xem lén mấy trang truyện.

    Cuộc đời phiêu bạt của thằng bé trong truyện. Tôi mê man theo nó bỏ đi với ông già làm xiếc. Cái lúc thằng bé đứng trên ngọn đồi, nhìn lại túp nhà mình dưới làng, trước còn rõ, sau mờ dần. Mắt tôi cũng mờ. Rồi nó quay mặt quả quyết bước theo ông già. Tôi cũng bước theo nó. Cũng buồn, cũng giận, cũng tủi chung nỗi cảm thương với người bạn xa xôi rất thân thiết đó.

    … Tôi ngao ngán quá. Một buổi chiều kia, tôi quyết bỏ cái kho giầy phố Hàng Khay hắc xì mùi cao su và mùi giầy hộp. Không bao giờ tôi trở lại đấy nữa. Tôi bỏ việc…

    Cái tôi lo nhất là mất việc rồi mà không dám nói với ai, vẫn phải đóng vai đi làm. Mất việc rồi mà ngày hai buổi vẫn phải đi đều.

    Ngày ngày, đúng giờ, tôi cuốc bộ vào thành phố, đi ngồi các vườn hoa. Tôi ngồi xem kiến bò đến tận lúc tôi có thể phân biệt rạch ròi ra từng loại kiến xây tổ khác nhau. Hồm này qua hôm khác, tôi ngắm quả sấu từ hôm rụng mắt cho tới khi nó vàng óng, nó chín.

    Tôi lại muốn viết nhưng lòng bối rối không yên, không viết được. Có hôm ngồi cả buổi tít trên cái đỉnh núi đất trong vườn bách thảo mà không viết được một chữ. Thì giờ trống rỗng không nghĩ ra điều gì, cũng không đọc được, dần dần chỉ chồng chất, đọng lại những lo sợ, những hốt hoảng không đâu. Nhưng lo thế nào thì cũng chẳng này ra được tiền và chằng đổi khác nổi những ngày thất nghiệp đằng đằng này đi được.

    … Những năm đi học ngày còn nhỏ của tôi chỉ rặt những chuyện tình cờ và tức cười. Bây giờ, khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân, tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi cũng không có mục đích gì trước để thành nghề văn và tôi cũng chỉ có cái lo lắng của một công việc mới tìm được thôi.

    Tôi ham viết từ khi ít tuổi. Tôi có cảm tưởng tôi học đến đâu thì viết đến đấy – bắt chước viết đến đấy.

    Những năm chín, mười tuổi, nhà tôi có quyển Kiều, các dì tôi hay bói Kiều. Bác thợ cửi nhà tôi có quyển Học Kiều lẩy. Thế là tôi làm thơ lẩy Kiều. Đến khi tôi tha đâu về được một tập Tứ dân văn uyển, trong đó có nhiều bài dịch thơ Đường của Nguyễn Can Mộng và quyển Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, tôi bèn loay hoay làm thơ tứ tuyệt, bát cú, làm văn tế và tôi dịch lại những bài thơ Đường người ta đã dịch – mặc dầu tôi không biết chữ Hán. Bố tôi ở Sài Gòn đem về những pho truyện dịch của Nguyễn Chánh Sắt Chinh đông, Chinh tây, Tam hạ Nam đường… thế là tôi vừa đọc vừa xoay sang học viết kiếm hiệp. Rồi tôi say mê lung tung: Bông hoa rừng, Bạo bay, Thủy hử, Gươm cứu khổ, Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên, Sống mà yêu… Và tôi cũng viết lung tung những truyện võ hiệp kì tinh phiêu lưu.

    Truyện Dế mèn phiêu lưu kí của tôi phảng phất những nét lẫn lộn Guylivơ du kí, Đông kisốt, Têlêmác phiêu lưu kí mà tôi đã đọc những bản dịch trong loại sách Âu Tây tư tưởng. Tôi đã tự học tiếng Pháp bằng cách tập dịch.

    Tôi mê và dịch nhiều của Môpatxăng, Maáclinh, Đôđê. Từ khi ấy tôi hay viết truyện ngắn và làm thơ.

    Lúc này, tôi đã thôi học hẳn và phải chật vật kiếm miếng hàng ngày. Đời sống trong xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả trong những sáng tác của tôi, ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết những sự xảy ra trong nhà, trong làng quanh mình.

    Tôi viết đủ thứ, viết được cái gì, tôi đều gửi báo. Tôi luôn luôn gửi báo để thử sức và “xem thế nào”. Báo ở Hà Nội hay Sài Gòn, báo nào biết, tôi gửi tất: Nước non, Cậu ấm, Đông Pháp, Việt báo, Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy… Tôi vẫn kí tên như tên tôi bây giờ. Mãi chẳng được một bài đăng. Tôi cũng không nản, vì khi nào đọc lại bài tôi cũng tự thấy còn xoàng. Tôi cũng cho là chưa được, cho nên người ta không đăng. Tôi vẫn viết. Dần dần, đôi khi, cũng có báo đăng bài thơ, cái truyện ngắn, truyện vui cười, tranh khôi hài tôi vẽ.

    … Một nhà xuất bản, nhà Tân Dân ra loại sách thiếu nhi. Báo hà Nội tân văn của anh Vũ Ngọc Phan làm sắp phải đóng cửa. Anh ấy tìm việc mới cho tôi. Anh Phan và anh Nguyễn Công Hoan mách tôi với ông chủ nhà xuất bản Tân Dân. Ông Tân Dân mời tôi viết thử cho nhà ông quyển Con Dế mèn, rồi được khách, ông Tân Dân đặt tôi viết tiếp Dế mèn phiêu lưu kí dài gấp đôi quyển Con Dế mèn.

    Ít lâu sau, ông Tân Dân hợp đồng với tôi là: Tôi trao bản thảo thì ông trả tiền ngay. Mỗi quyển mỗi loại, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài; bản thảo bán theo giá định sẵn. Mỗi tháng tôi viết một truyện vừa cho trẻ em chừng năm mươi trang viết tay (nếu viết quá thì phải san làm hai quyển. Dế mèn của tôi hồi ấy chia làm ba quyển chỉ vì giá quy định như vậy chứ không phải vì yêu cầu của cảm hứng). Ngoài ra, một tháng tôi đưa hai truyện ngắn và cứ ba tháng tôi viết một truyện dài lĩnh tiền thêm.

    Tôi vào nghề viết văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 mà tôi viết như chạy thi, được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn… thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, tôi không nhớ hết, viết để kiếm miếng sống lúc ấy thì phải cuốc khỏe, như thế vậy.


    TÔ HOÀI
    (Theo Tự truyện – NXB Văn học, 1978)
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/3/14
    haiauLucky thích bài này.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    VŨ CAO

    Tên thật là Vũ Hữu Chỉnh, sinh ngày 12.8.1922 tại Liên Minh, Vụ Bản, Nam Hà. Từng tham gia quân đội và nhiều năm làm báo Quân đội nhân dân, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội, Giám đốc nNhà xuất bản Hà Nội.

    Tác phẩm chính đã in: Truyện một người bị bắt (1958), Sớm nay (thơ, 1963), Đèo trúc (thơ, 1973), Núi đôi (thơ, 1990), Thơ Vũ Cao (1994)…



    TÔI HỌC MÔN VĂN
    HỒI ẤY


    Tối vốn là học trò của một trường trung học thời Pháp thuộc. Hồi ấy, cũng như nhiều bạn bè khác, tôi phải học đầy đủ các môn: toán, lí, hóa, sử, địa. Toán, lí, hóa mới chỉ là những kiến thức sơ đẳng, còn sử chủ yếu là địa nước Pháp. Tôi học như cái máy. Nhưng riêng với môn văn, tôi đặc biệt chú ý vì ngoài việc học để thuộc bài, làm bài, tôi thấy môn này có sự hấp dẫn riêng. Có nhiều nguyên nhân. Trước hết, có thể là do ảnh hưởng gia đình. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, tôi đã được nghe các cụ đọc thơ Nguyễn Du, Yên Đổ, Tú Xương, cả thơ đời Đường, đời Tống nữa. Những bài thơ ấy gây trong tôi một niềm say mê mặc dù không phải bài nào tôi cũng hiểu hoặc có bài hiểu thì cũng chỉ hiểu chừng nào. Tôi không lí giải được điều ấy, chỉ thấy rằng tôi không rút ra khỏi âm hưởng của nhiều câu thơ, những âm hưởng cứ tích tụ thành một cái gì tổng hợp như những niềm vui, những ấn tượng phải nhờ thơ ca mới có. Cho nên khi học môn văn tôi thấy thích thú hơn các môn khác không phải vì tôi coi trọng hơn mà chính vì nó phù hợp với một sự thích thú đã có sẵn. Tất nhiên nền giáo dục thực daa6n có mục đích của nó. Nó nhằm ca ngợi mẫu quốc, truyền bá văn hóa Pháp, duy trì lễ giáo phong kiến nhằm nô dịch lâu dài nhân dân ta. Nhưng trong những bài văn thơ tôi được học, được nghe ở nhà trường, có nhiều bài mà nội dung chi1nhn là lên án cái xấu, đề cao cái đẹp, lên án cái ác, đề cao cái thiện trong cuộc sống. Ngoài chương trình chính thức tôi cũng được nghe giới thiệu một số tác phẩm (như cuốn Nhà thờ Đức Bà Pari của Vichto Huygô chẳng hạn). Sự hấp dẫn của cốt truyện, của tình tiết khiến tôi phải đi tìm tác phẩm để đọc. Và như vậy, tôi không chỉ tìm đọc những cuốn sách nổi tiếng của văn học Pháp mà còn đọc được một số của các nước khác. Khách quan mà nói, những hiểu biết ban đầu này dù là rất ít ỏi cũng đã đóng góp phần nào cho công việc của tôi là viết báo, viết văn sau này.


    Các bạn học sinh của chế độ ta bây giờ có cái may mắn hơn hẳn chúng tôi hồi xưa là được học kĩ lưỡng về văn học Việt Nam. Trong chế độ cũ, văn học Việt Nam không được coi là môn chính, giờ giảng rất ít. Tuy nhiên, những giờ giảng ấy lại ghi vào kí ức tôi những ý nghĩa rất sâu đậm trong suốt cả đời tôi. Phải nói rằng cái xu hướng coi thường văn học dân tộc hồi ấy không phải là hiếm. Những lòng tự tôn dân tộc ở nhiều thầy cũng khơi động lòng tự tôn dân tộc ở trò. Quả thật tôi đâu có hiểu văn học dân tộc là gì. Và cả những điều như ngôn ngữ dân gian, ngôn ngữ văn học, hình tượng và nhạc trong thơ, cái giàu, cái đẹp của tiếng Việt, những điều rất bổ ích ấy tôi chẳng được nghe bao giờ.


    Xin lấy Truyện Kiều là ví dụ. Cả lớp phải học vài đoạn trong tác phẩm ấy. Như Kim Trọng “ở đất Liêu Dương lại nhà” hoặc đoạn Kiều bị Tú Bà đánh đập. Học thì phải thuộc từng câu, từng chữ, còn nội dung thì hiểu qua loa thôi. Trong lịch sử, không ít kẻ vì quyền lợi giai cấp đã xuyên tạc Nguyễn Du. Chương trình giáo dục của chế độ thực dân phong kiến cũng chẳng đề cao Nguyễn Du làm gì. Mãi mấy chục năm về sau này, tôi mới hiểu được rằng Nguyễn Du là thiên tài đầu tiên, là bậc thầy đầu tiên đã nâng ngôn ngữ dân gian lên thành một ngôn ngữ văn học vừa uyên bác vừa rất gần quần chúng, ngôn ngữ của Kim Vân Kiều mà nội dung là tiếng kêu xé lòng của người đàn bà, hay nói rộng hơn, của quần chúng bị áp bức. Nhưng cũng phải nói cái điều kì diệu này! Ngay khi học Kiều trong môn văn ở lớp, dù hiểu rất ít tôi đã cảm nhận được chừng nào cái hồn bên trong tác phẩm, cảm thông được chừng nào cái gì Nguyễn Du bênh vực, cái gì Nguyễn Du nguyền rủa và lên án. Làm sao tôi có thể hoàn toàn dửng dưng được khi đọc những câu như: “Đau đớn thay phận đàn bà” hoặc “Thịt da ai cũng là người…”? Làm sao tôi có thể quên được những câu hết sức giản dị mà ý nghĩa lại mênh mông sâu thẳm như: “Mai sau dù có bao giờ...”. Đã có lần tôi tâm sự với một bạn trẻ như sau: tôi đã đọc khá nhiều từ “hiu hiu’ trong truyện thơ của ta từ trước tới nay, nhưng tôi chưa thấy ai dùng từ “hiu hiu” giỏi bằng Nguyễn Du cả - “Trông ra ngọn cỏ lá cây. Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Với tâm huyết và tài năng nhà thơ, từ “hiu hiu” đã biến thành linh hồn của ngọn gió.


    Tôi nhắc đến Kim Vân Kiều là chỉ nói một thí dụ, còn Chinh phụ ngâm, còn Bình Ngô đại cáo, còn hàng trăm hàng ngàn câu ca dao. Tôi còn nhớ trước Cách mạng tháng Tám, một thầy giáo dạy văn đã nói với lớp học chúng tôi như sau: Văn là tinh thần con người, các em học học văn là để hiểu mà ngẩng cao đầu lên, là để không chịu quỳ gối mãi trước những kẻ chà đạp lên nhân phẩm con người. Học văn là để hiểu lẽ sống, hiểu cái đẹp của cuộc sống, đề phấn đấu cho cái đẹp ấy.

    Một câu biết cho đúng, một từ dùng cho chính xác cũng là nhằm mục đích ấy của môn học văn.


    Đã bao nhiêu năm qua rồi mà tôi vẫn nhớ câu nói ấy cũng như mãi mãi sau này tôi vẫn sẽ nhớ cái câu thơ tôi đã học còn học trò ít tuổi: “Mai sau dù có bao giờ…


    Tháng 7 năm 1985
    VŨ CAO
     
    haiauLucky thích bài này.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...



    MAI NGỮ


    Tên thật là Mai Trung Rạng, sinh ngày 2.5.1928 tại Tân Tiến, An Hải, Hải Phòng. Hiện công tác tại tạp chí Văn nghệ quân đội, một thời gian là biên tập viên báo Quân đội nhân dân, tạp chí Văn nghệ và nhà xuất bản Văn học.

    Tác phẩm chính đã in: Lời ca không tắt (truyện, 1957), Lá cờ quyết tử (truyện ngắn, 1956), Một người lính (truyện, 1961), Đất nước (truyện ngắn, 1963), Bầu trời và dòng sông (truyện ngắn, 1967), Xốc tới (truyện ngắn, 1971), Dòng sông phía trước (tiểu thuyết, 1972), Điểm cao (truyện ngắn, 1972), Người lính mặc thường phục (tiểu thuyết, 1981), Gió nóng (tiểu thuyết, 1989), Chuyện như đùa (truyện ngắn, 1989), Con ma gàn (truyện ngắn, 1990), Lửa xuân (tiểu thuyết, 1992), Truyện ngắn Mai Ngữ (1994) …



    KÍ ỨC THỜI THƠ DẠI


    Bài nội tôi bị hỏng mắt không biết từ bao giờ, chỉ nhớ khi tôi lớn lên một chút đã thấy lúc nào bà tôi cũng ngồi trên tấm phản thấp kê sát chiếc giường tre cũ kĩ. Bà tôi cứ ngồi như thế cả ngày, áo ai đến lại hơi ngẩng lên, đôi mắt lòa được che khuất dưới mái tóc bạc xõa xuống. Chiếc gậy tre đặt sẵn bên cạnh. Bữa cơm, mẹ tôi hoặc chị tôi bưng đấn bên bà cái khay nhỏ trong đặt bát cơm, gắp sẵn thức ăn và đôi đũa mun. Bà tôi ăn ngay trên cái phản đó, tiếp khách cũng ở đó, khi đi nằm lại lần lên chiếc giường tre đã buông sẵn tấm màn the nâu.

    Thường vào buổi tối, sau khi ăn cơm, chị tôi khêu to ngọn đèn hoa kì, đặt bên cạnh bà tôi. Chị tôi giở cuốn sách ra đọc cho bà nghe, thường là truyện Tây du kí, tả bốn thầy trò Đường Tăng vượt qua ba nghìn dặm sang Tây Trúc thỉnh kinh; truyện Trê Cóc, Lục súc tranh công, Phan Trần, Tống Trân Cúc Hoa, hay Kim Vân Kiều… những cuốn sách mua được ở chợ. Giọng chị tôi thanh nhẹ đều đều, bà tôi im lặng lắng nghe, đôi khi sửa lại những câu chữ mà chị tôi đọc sai bởi tất cả những truyện ấy, bà tôi hầu như đã thuộc lòng nhưng vẫn muốn nghe lại, nghe mãi không chán. Buổi tối trong nhà thật yên ả, giọng đọc truyện của chị tôi có lẽ còn hay hơn cả tiết mục “Đọc truyện đêm khuya” của đài phát thanh bây giờ. Lúc đó chính tôi cũng rất mê, bao giờ tôi cũng ngồi bên bà tôi ôm lấy vai bà hoặc ủ hai tay vào lòng bà, ngồi nghe rồi thiu thiu ngủ, ngủ thật say khiến bà tôi nhẹ nhàng đỡ tôi nằm xuống. Bà chửi yêu: cha bố mày, nghe đọc rồi ngủ thin thít như con chó cún thế này…

    Sau này, khi lớn lên, đi học, biết chữ, tôi thấy chị tôi đọc truyện đêm khuya cho bà tôi nghe, đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn chỉ từng ấy cuốn, tôi đâm thuộc. Nhiều tối, chẳng cần nhìn vào trang sách, tôi cũng có thể đọc vanh vách… Bà tôi gật đầu khen “Bé mà giỏi!...”

    Hồi ấy tôi đang học lớp đồng ấu tức là lớp bét nhưng trước khi đến trường, tôi được cha tôi dạy đã đọc thông viết thạo. Một hôm, ở lớp, thầy giáo đọc cho học trò chép một bài nói về truyện Thánh Gióng, cậu bé lên ba tuổi không biết nói, biết ngồi phút chốc lớn trở thành người khổng lồ, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt đi đánh giặc Ân. Tôi thích quá, bởi chưa bao giờ được nghe câu chuyện li kì hấp dẫn đến như vậy. Buổi tối, tôi chong đèn giữa nhà, nằm bò lên phản mở vở ra. Tôi đọc to bài học vừa rồi ra ý khoe với cả nhà rằng tôi có một câu chuyện thật lí thú chưa ai từng biết. Tôi đọc như gào lên mà quái lạ, chẳng ai chú ý đến những điều tôi vừa đọc. Cả nhà cứ dửng dưng như không, tôi lại càng gào to, chị tôi đang ngồi khâu, ngừng tay hỏi: “Mày làm gì mà như thằng hóa dại ấy?” Tôi đáp: “Hứ, chị thì biết cái cóc khô gì?” Chị tôi lại nói: “Tao còn lạ, truyện Phù Đổng Thiên Vương chứ gì?...”

    “Chị cũng biết à?” – Tôi ngạc nhiên. Bà tôi nằm trong giường nói ra, không phải nói mà giọng bà tôi ngân nga như hát: “Làng Phù Đổng có một người. Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ… Thế đấy cháu ạ!” Cả bà cũng biết rồi, tôi cụt hứng. Thì ra những điều mình cứ tưởng chỉ mình mình biết thì mọc người đã biết tỏng từ lâu rồi, chán quá!


    *​


    Tôi lớn lên đi học và giống như đám học trò lúc đó chúng tôi ham xem phim và đọc sách, các loại tiểu thuyết, trước hết là tiếu thuyết của Tự lực văn đoàn, những chuyện tình mơ mộng. Một trong số sách tôi ham đọc đến thuộc lòng là cuốn Tiêu sơn tráng sĩ. Tôi thuộc cốt truyện, và thuộc cả từng đoạn văn chương trong đó. Học hết sơ học, đỗ Certificat tôi thi vào trường Bưởi tức Lypro (gọi tắt của từ Lycée du protectorat) nay là trường Chu Văn An. Buổi thi đầu người ta ra đề cho thí sinh làm một bài văn tả cảnh thiên nhiên, buổi sáng hoặc buổi chiều, lúc mà anh thích nhất. Thiên nhiên thì lúc nào, mùa nào tôi cũng thích nhưng để đáp ứng với bài thi tôi buộc phải làm một bài văn, không phải bằng tiếng Việt mà tiếng Pháp. Đây là bài thi viết, tôi đã nhớ lại một đoạn văn trong trong cuốn Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng tả cảnh rất hay về buổi chiều tà, tiếng mõ trâu và những chú mục đồng dong trâu về xóm. Đoạn văn sau này ta thường gọi là văn “biền ngẫu” tức là câu cú, chữ nghĩa phải đối nhau nhưng đọc lên rất gơi cảm. Tôi lục lại trí nhớ của mình, tôi nghĩ đến đoạn văn ấy và chuyển nó sang tiếng Pháp. Hồi ấy người ta chỉ có thi bằng tiếng Pháp chứ không bằng tiếng bản xứ.

    Kết quả bài văn tả cảnh của tôi được điểm cao nhưng khi vào thi vấn đáp thì tôi lại bị trượt vì cái ông thầy hỏi thi ấy, bài không hỏi cừ hỏi lục vấn (bằng tiếng Pháp) những điều vớ vẩn, nào là gia đình anh ra sao, bố anh làm gì, anh mơ tưởng điều gì v.v… mãi mãi ông ta mới hỏi tôi một câu cắt nghĩa danh từ này, danh từ nọ của tiếng Pháp. Tôi đâu phải là anh giỏi tiếng Pháp thế thì làm sao cắt nghĩa được những từ mà tôi hiểu rất lơ mơ, tôi cũng không phải là cuốn từ điển… Vậy nên tôi trượt…

    Sau tôi vào học trường tư thục Thăng Long lúc đó do ông Hoàng Minh Giám là hiệu trưởng. Thầy cô nhưng tôi chỉ nhớ ba người: ông giáo dạy Pháp văn tên Tôn Thất Bình, người to béo, đấn lớp toàn nói tiếng tây, hai là thầy Hoàng Gia Lịnh, giáo sư tiếng Anh, người đẹp trai vào lớp thường hay quan tâm đến các nữ sinh ngồi đầu bàn và thầy Nguyễn Trác, dạy tiếng Việt, xưa gọi là Annamit, nay gọi là dạy văn.

    Ở lớp tôi ngày ấy, số trò mê văn thơ đầu rất yêu quý thầy Trác, bởi khi lên lớp bao giờ thầy cũng đọc cho chúng tôi nghe những bài thơ của Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu hoặc Chế Lan Viên, thầy đọc rất say sưa, nghe còn hay hơn kiểu ngâm thơ bây giờ. Bọn học trò chúng tôi cứ ngẩn ngơ nghe thầy, vì thế nên nhiều khi chúng tôi trốn học đi bát phố nhưng đến giờ Annamit của thầy Trác bao giờ chúng tôi cũng đến học rất nghiêm chỉnh. Thầy say mê văn mà học trò cũng say mê…

    Năm ấy, năm bốn hai hay bốn ba gì đó, máy bay Mĩ thường bay đến ném bom xuống các căn cứ quân Nhật ở Đông Dương. Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi nữa trúng bom Mĩ, không phải căn cứ quân sự của Nhật mà toàn là nhà dân. Cho nên có phải đâu mãi sau 1965, Mĩ mới ném bom vào Việt Nam. Ngày ấy, Hà Nội luôn luôn kéo còi báo động, các chụp đèn phòng không treo ngoài đường phố. Những chiếc máy bay Đakôta của Mĩ ì ì bay vào và những chiếc máy bay Nhật nhỏ bé cứ xúm vào chiếc máy bay khổng lồ Mĩ, chao đi chao lại như những con chim chèo bẻo tấn công chú quạ mà không làm gì được nó, chán rồi đám chèo bảo bay tản đi, mặc cho đối phương tự do hoành hành trên vùng trời của mình.

    Đang ngồi học, nếu có báo động là chúng tôi rời trường về nhà bởi có ở lại cũng mất giờ học. Cái trường Thăng Long của tôi ngày đó vẫn nằm ngay đầu phố Phùng Hưng bây giờ, bên kia he, sắt với đường xe lửa là những dãy hầm tránh bom xây nổi trên mặt đất, bọn học trò chúng tôi chẳng mấy khi chạy ra ngồi núp ở đó. Sáng hôm ấy sắp sửa vào giờ Annamit thì báo động, vì tiếc giờ thầy Trác nên chúng tôi ở lại chui vào hầm ngồi chờ.

    Nhà tôi ở trong cái ngõ đầu phố Gambetta (phố Trần Hưng Đạo bây giờ), gần ngôi nhà số 104 nổi tiếng. Đầu ngõ có một gánh phở, người bán che lên cái liếp để bán hàng. Sáng hôm ấy, máy bay Mĩ bay vào trút bom xuống nhà đấu xảo, xuống dọc phố và ngay đầu ngõ của tôi cũng trúng bom. Gánh phở bay mất, còn ông bán phở nghe đâu bị chết.

    Hôm ấy nếu không ở lại trường mà lững thững về nhà thì vừa vặn tôi có thể bị dính bom ngay đầu ngõ và biết đâu chẳng đi theo ông hàng phở. Như thế là cái giờ Annamit nó đã cứu tôi, hay nói cách khác, nếu như không mê giờ dạy của thầy Trác, có lẽ tôi không còn đến ngày nay, cái tật đam mê văn thơ đã cứu tôi thoát chết…

    Máy bay Mĩ ngày nào cũng bay vào đánh phá. Đốc lí Hà Nội lệnh cho các trường học phải sơ tán đi nơi khác. Trường Bưởi, trường Đỗ Hữu Vị chuyển về thị xã Hưng Yên. Trường Tây Anbe Sarô và trường đầm Fêlich Phô vào thị xã Hà Đông. Trường tư thục Văn Lang và Hoài Đức thì đến dựng trường ở Thanh Xuân, còn trường Thăng Long của tôi dọn vào tận Ba La Bông Đỏ, quá cái xóm cô đầu cuối thị xã Hà Đông. Hồi ấy vào mùa đông, trời lại rét, tôi vào trọ ở nhà bác tôi trong làng Mọc Chính Kinh để đi học cho gần. Tôi được sống riêng trong một ngôi nhà ba gian vắng vẻ, ngoài sân có một cây hoàng lan. Đêm đêm ngồi học bên ngọn đèn dầu, lắng nghe tiếng gió thổi trên cây hoàng lan và mùi hoa lan thơm phảng phất đâu đây. Ngày ấy tôi mê đọc Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, cảm thấy mình y như là những nhân vật nhỏ xinh trong truyện. Tôi lại võ vẽ làm thơ và viết hẳn một vở kịch thơ huyền ảo theo cái cốt truyện hồ li của Liêu Trai. Đến bây giờ sau năm mươi năm, tôi còn nhớ vài câu thơ tôi viết ngày ấy, diễn tả nỗi bàng hoàng buồn bã của chàng học trò tỉnh giấc thì người đẹp đã ra đi từ lúc nào:

    … Tỉnh mơ, em đã đi rồi
    Bâng khuâng chưa nói được lời chia li
    Bình yên theo bước em đi
    Nhớ thương ở lại, đôi mi lệ tràn…

    Nghe cũng lâm li ai oán lắm. Đây là những câu thơ đầu tiên của cuộc đời viết văn của tôi, những vần thơ của một thời trai dại…

    *​


    Vào năm 1948, tôi là lính của trung đoàn 42. Trung đoàn trưởng là ông Dương Hữu Miên, ông vừa chỉ huy trung đoàn vừa chỉ huy mặt trận 5, có nghĩa là mặt trận của 5 tỉnh tả ngạn sông Hồng: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hải Dương và Hưng Yên. Các tỉnh đội đều dưới quyền ông. Cho nên mọi công tác chính trị của trung đoàn không chỉ riêng mấy tiểu đoàn chủ lực mà bao gồm cả các tỉnh đội, huyện đội.

    Chúng tôi thường thức dậy vào năm giờ sáng. Tất cả tập họp chào cờ ngoài sân của nhà dân. Nhiều sáng mùa đông chúng tôi nhìn không rõ lá cờ Tổ quốc gương cao trước hàng quân. Chào cờ xong, người trực ban đọc một đoạn trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch, đến đoạn “… từ Quảng Trị trở ra, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói…” thì người đọc dừng lại và hỏi to: “Các đồng chí còn nhớ không?” Tất cả đáp: “Nhớ!”. Sau đó lại đọc Mười lời thề rồi Mười hai điều kỉ luật. Sáng nào cũng như sáng nào. Một buổi trưa, bà cụ chủ nhà nơi tiểu đội tôi đóng quân, bê lên cho chúng tôi nồi nước chè tươi. Khi chúng tôi uống nước, bà cụ khẽ khàng hỏi: “Vậy chứ, giường phản nhà tôi có rệp à? Hay có con bọ mạt ở chiếu?” Chúng tôi ngơ ngác không hiểu. Bà cụ lại bảo: “Vậy mà tôi cứ thấy sáng nào các anh cũng ra sân kêu ngứa ầm lên…”. Chúng tôi lại càng không hiểu. Lát sau vỡ lẽ, tất cả cười ầm lên và giải thích cho bà cụ rằng không phải chúng tôi kêu ngứa mà là hô “Xin hứa!” Đọc lời thề, sau một câu thì nhất loạt hô “Xin hứa!”… Đâu phải chúng tôi bị rệp hay bọ mạt đốt mà kêu ngứa… Bà cụ nghe xong cũng cười ngặt nghẽo…

    Trung đoàn của tôi cứ hàng năm vào những dịp kỉ niệm như mười chín tháng năm, Quốc khánh, rồi chiến thắng Việt Bắc, ban chính trị lại ra một tờ báo in litô lấy tên là Trung dũng. Báo in phát xuống đến đại đội, trung đội và các tiểu đội. Tháng 8 năm ấy, tôi có viết đăng trên báo một bài bây giờ có lẽ gọi là tùy bút. Tên là Mùa thu Cách mạng. Bài viết mở đầu bằng hình ảnh người đại đội trưởng mở cửa bước ra sân, nhìn quanh và kêu lên: “Mùa thu rồi!” Đúng là anh đại đội trưởng thật của tôi đã nói thế. Sáng hôm ấy, khi bước ra sân để chuẩn bị chào cờ, anh cảm thấy gió se se lạnh, nhìn lên bầu trời không thấy những con nhặng bay như đậu giữa không trung, một cảm giác mới mẻ xôn xao và anh kêu toáng lên: “Chúng mày ơi, thu rồi…” Những ngày chiến đấu chống Pháp, mùa thu bao giờ cũng xôn xao vì chúng tôi là đám thanh niên đã trải qua Cách mạng tháng Tám, đã được hưởng cái không khí say mê tưng bừng của những ngày Tổng khởi nghĩa rồi sau đó cứ mùa thu là nhắc nhở đến nhiệm vụ thu đông, các trận đánh lớn, các chiến dịch lớn đều diễn ra vào thu đông, địch cũng thế mà ta cũng vậy…

    Cái bài tùy bút Mùa thu Cách mạng của tôi năm đó có lẽ là bài văn xuôi đầu tiên của tôi được đăng trên báo và được chuyển đi nhiều nơi, trong đó có đơn vị tỉnh đội của nhà văn Nguyễn Khải. Năm ngoái anh Khải có nhắc lại khiến tôi vừa cảm động lại vừa bật cười. Ôi, cái thời thơ dại của tôi, cái thời mà người ta không biết sợ hãi cái gì, cái thời mà lòng háo hức và say mê, nhất là thói say mê văn chương, đã thôi thúc con người. Tuy nhiên, qua mấy chục năm làm nghề văn này tôi thấy chỉ có đam mê thôi, hoàn toàn không đủ. Phải còn gì nữa mà không phải một lúc ta mới nhận ra được… Có người đến già viết cũng chỉ đến mức ấy, có người lúc trẻ viết hay hơn lúc già, có người trước Cách mạng viết hay hơn sau khi được học tập lập trường quan điểm; và cũng có người lúc về già mới nhận ra được cái cốt lõi của nghề nghiệp, dám từ bỏ cái cũ đi theo cái mà mình nhận thức được…


    Tháng 4 năm 1993
    MAI NGỮ

     
    haiauLucky thích bài này.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...



    VŨ TÚ NAM

    Tên thật Vũ Tiến Nam, em trai nhà thơ Vũ Cao, sinh ngày 5.10.1929 tại Lương Kiệt, Liên Minh, Vụ Bản, Nam Hà. Nhiều năm làm báo Quân đội nhân dân, từng là phó tổng biên tập báo Văn nghệ, giám đốc nhà xuất bản Tác phẩm mới. Hiện là tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam (khóa IV).

    Tác phẩm chính đã in: Bên đường 12 (truyện, 1950), Nhân dân tiến lên (kí sự, 1951), Quê hương (truyện ngắn, 1960), Thử thách thầm lặng (truyện ngắn, 1972), Sống với thời gian hai chiều (truyện ngắn, 1983), Mùa xuân tiếng chim (truyện ngắn, 1985), Đêm khó ngủ (truyện, 1990), Gửi em (thơ, 1991), Cuộc phiêu lưu của Văn ngan tướng công (truyện thiếu nhi, 1963), và nhiều truyện dành cho thiếu nhi, nhiều tập thơ dịch khác.



    MỘT CÁCH HỌC LÀM NGƯỜI


    Thuở nhỏ tôi đã học văn như thế nào? Bây giờ nhìn lại, tôi thấy sự gợi mở cho mình về năng khiếu văn bắt đầu từ mấy nguồn sau đây:


    1) Những bài văn hay trong sách giáo khoa và cách giảng dạy của các thầy cô quả thật là những viên gạch xây nền. Cho đến nay, mấy chục năm trôi qua, tôi vẫn thuộc lòng một số bài, một số đoạn thơ, văn học từ ngày bé. Sự truyền cảm về nội dung, cấu trúc, nhạc điệu của các bài đó vẫn như tươi rói trong tôi. Ngoài ra, tôi đã được một số các thầy rèn dạy rất nghiêm khắc, chặt chẽ về ngữ pháp. Phải tập viết sao cho chính xác, ngắn gọn, súc tích, trong sáng – điều mà đến nay tôi vẫn noi theo.


    2) Tôi say mê đọc sách báo văn học, ngoài chương trình của nhà trường (thậm chí đọc cả dưới ánh trăng, khiến mắt tôi bị cận thị!). Nhiều cuốn sách, nhiều tác giả đã làm giàu sự hiểu biết, tình cảm và sự suy nghĩ của tôi. Sau này, tôi có thói quen ghi thu hoạch trong sổ tay về từng cuốn sách đã đọc, có khen, có chê.


    3) Cha tôi, chú tôi, mẹ tôi và bà vú nuôi tôi hồi bé có thể gọi là những “thầy phụ đạo” của tôi. Cha tôi, chú tôi thường ngâm thơ, giảng thơ cho tôi nghe và dắt tôi đi xem những vở chèo truyền thống nổi tiếng. Mẹ tôi và vú nuôi không biết đọc biết viết, nhưng các bà đã truyền lại cho tôi những lời ru, những câu chuyện cổ tích, những cách nói dân gian. Về sau, tôi thường ghi những lời nói hay của bà con nông dân để học, làm giàu thêm cho mình vốn từ và cách diễn đạt.


    4) Thiên nhiên cũng là một trường học lớn. Thuở bé, tôi nuôi chó, nuôi mèo. Tôi chơi cá vàng, chơi dế chọi, câu cá, bắn chim và nuôi chim (tôi có hẳn một cuốn “sổ chim” ghi về từng con chim khuyên, chim sẻ… Tôi rất yêu loài vật, thích thú quan sát chúng và thuộc tính nết của chúng, từ con bọ ngựa đến con bọ dừa, cánh cam, con ve sầu, con nhái, con cóc, con sâu đo v.v…). Tôi trồng cây ớt, cây đậu trong chậu để theo dõi sự phát triển. Thế giới sinh vật đã dạy tôi không ít.


    Điều may mắn là từ 5 tuổi đến 12 tuổi, tôi được sống ở thị xã Hòa Bình, có sông có suối, có rừng có núi, những vẻ đẹp êm ả và dữ dội của thiên nhiên đã để lại nhiều dấu ấn trong tôi.


    Như vậy là tôi đã học trong nhà trường, qua sách vở, học ngoài đời và học ở thế giới tự nhiên. Hóa ra văn học không chỉ bó gọn trong lời văn, câu chữ. “Văn học là nhân học”, như ai thường nói. Và học văn chính là một cách học làm người.


    Chúng ta cần giỏi văn để biết nhận thức cuộc sống, cảm thụ nó, phân biệt được cái thực, cái giả, cái tốt, cái xấu, cái đẹp, cái không đẹp, và để ta có khả năng truyền đạt tới người khác một cách chính xác, sinh động những điều ta thu lượm được qua sự chiêm nghiệm bản thân. Học văn cần thiết và có ích cho mọi nghề nghiệp xã hội là như thế.


    Học văn không phải để lấy tiếng, để khoe chữ hoặc để tạo nên một số ít “gà nòi”. Văn học chân chính tối kị sự giả dối, thói phô trương hình thức, sự sáo mòn và lạnh nhạt thờ ơ.


    Việc học văn, dạy văn trong nhà trường chúng ta – nếu làm thật tốt – sẽ đem lại cho mỗi học sinh một hành trang tinh thần quý giá, để tiếp bước trên con đường lớn mà các bậc cha anh đã khai phá trong bốn chục năm qua.


    Tháng 5. 1995
    VŨ TÚ NAM
     
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    HỒ PHƯƠNG


    Tên thật là Nguyễn Thế Xương, sinh ngày 15.4.1930 tại thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây. Tòng quân từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, từng làm báo Quân tiên pgong, phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội. Hiện là thiếu tướng, chủ tịch Chi hội nhà văn Quân đội.

    Tác phẩm chính đã in: Thư nhà (1948), Vệ út (truyện, 1955), Cỏ non (truyện ngắn, 1960), Xóm mới (truyện ngắn, 1963), Trên biển lớn (truyện ngắn, 1964), Chúng tôi ở Cồn cỏ (kí sự, 1966), Kan Lịch (truyện, 1967), Những tầm cao (tiểu thuyết, hai tập, 1975), Những tiếng súng đầu tiên (tiểu thuyết, 1980), Biển gọi (tiểu thuyết, 1980), Cầm Sa (truyện ngắn, 1980), Bình minh (tiểu thuyết, 1981), Mặt trời ấm sáng (tiểu thuyết, 1985), Anh là ai? (tiểu thuyết, 1992), Ông trùm (truyện ngắn (1992), Cánh đồng phía tây (tiểu thuyết, 1994), …



    CON ĐƯỜNG LAO ĐỘNG
    VÀ HẠNH PHÚC



    Có lẽ khó có thể nói được thật rành rẽ con đường nào đã đưa tôi đến với văn học, hoặc vì sao tôi có thể viết văn được như ngày nay.


    Chỉ biết rằng tôi may mắn là trong gia đình có một người anh mê xem truyện, hơn nữa rất thích kể lại những gì mà mình thú nhất cho đứa em của anh, tức là tôi, nghe vào những buổi tối, sau khi mấy anh em đã học thuộc và làm các bài tập xong xuôi. Ấy là những năm đã khá xa, khi tôi mới học lớp ba. Còn nhớ anh đã thường kể lại cho tôi nghe Không gia đình (của Pháp), câu chuyện làm cho tôi vô cùng xúc động, nhiều lần ngồi nghe mà chảy cả nước mắt. Anh còn kể rất nhiều truyện của Pêrôn (cũng của Pháp) và cả những truyện cổ tích thần thoại của anh em Gơrim (Đức)… Tôi say mê và thích thú đến nỗi sau đó tôi đã viết lại một số chuyện đã được nghe vào một cuốn sổ và tự mình vẽ trình bày. Anh tôi tình cờ đã xem được cuốn sổ tay đó, và thật không ngờ trong lúc tôi bối rối, xấu hổ, thì anh lại khen làm như thế rất tốt, và khuyến khích nên viết tiếp. Cũng từ đó anh càng chăm kể chuyện cho tôi hơn. Anh rất hài lòng và bảo “Anh tin đây cũng là một cách tập viết văn, rất có ích cho em”, quả nhiên dần dần, không biết việc đã xảy ra tự lúc nào, tôi bỗng trở nên chú bé học sinh được thầy giáo khen là môn văn khá hơn trước. Lẽ cố nhiên là ham nghe kể chuyện, tôi cũng rất ham đọc. Tôi đọc đã có lúc quên ăn, quên ngủ. Một bất ngờ khác, lúc đó anh tôi lại bảo: ham học là tốt, nhưng đọc nghiến ngấu, đọc nhồi nhét, lại là không tốt. Phải biết cách viết, cũng phải biết cách đọc, đọc thong thả, đọc chăm chú và có suy nghĩ, để mình còn kịp thưởng thức hết cái hay không phải chỉ ở cốt truyện mà còn ở câu văn, ý văn nữa… Từ đó, tôi đọc văn nhiều, nhưng đã biết đọc thong thả hơn, có giờ giấc hơn, nhất là biết chăm chú thưởng thức cả ý văn, lời văn, chứ không phải chỉ để biết cốt truyện.


    Tới khi học lên lớp nhất (có lẽ tương đương lớp 4, lớp 5 bây giờ) tôi đã gặp thêm một may mắn nữa: thầy giáo Diễn cũng là một người rất yêu văn. Chiều thứ bảy nào, giờ cuối, thầy cũng dành để kể chuyện cho học sinh nghe. Thầy thường kể Những người khốn khổ (của Víchto Huy gô) và Ba người ngự lâm pháo thủ (Alếchxăng Đuyma)… Lúc này đã lớn hơn một chút, tôi càng say mê tiểu thuyết và truyện ngắn hơn, không những đọc, tôi đã chịu khó ghi chép từng câu văn hay, từng đoạn văn hay để thưởng thức. Ngoài truyện ngắn, tiểu thuyết hồi này tôi còn thích cả thơ. Kiều đã làm tôi ngây ngất và nhiều lần phải bàng hoàng thầm thốt lên: “Ôi sao mà ý hay, cũng như hình ảnh đẹp và mới lạ vậy”. Tuyệt nhiên không có một ý, một hình ảnh cũ mòn sáo rỗng. Thơ Huy Cận, thơ Chế Lan Viên hồi đó cũng làm tôi ham thích. Tôi như được bước vào thế giới mới, kì diệu. Tôi càng ghi chép, càng đọc khỏe. Và tôi cũng luôn luôn nhận được những điểm tốt về văn hơn. Thời kì này cũng là thời kì tôi bắt đầu đọc được một ít truyện ngắn của Anatôn Phơrăngxơ, Anphôngxơ Đôđê, Prôtxpê Mêrimê và Ghi Đơ Môpatxăng v.v Tôi tập dịch và tôi cũng viết lại, theo trí nhớ như hồi lớp ba đã viết lại theo trí nhớ những Ba chiếc tóc vàng của quỷ, Yêu râu xanh. Cũng mùa hè năm ấy, (1943) tình cờ đi chơi chủ nhật cùng một số bạn, vào một gia đình, tôi đã gặp được nhà văn Nguyễn Công Hoan. Tôi đã được đọc “Đào kép mới” của ông. Với tôi, đó là một buổi sáng tuyệt vời, lịch sử. Lần đầu tiên trong đời, tôi được gặp, được đứng trước một nhà văn, mà là nhà văn tôi cũng rất hâm mộ, mặc dầu thật ra, hồi đó tôi không mê say truyện trào phúng, châm biếm, bằng những truyện tình cảm lắng sâu, đằm thắm, dịu dàng. Khi được biết tôi là một học sinh yêu văn, ông mỉm cười và nói cới tôi. Không phần thưởng nào quý hơn thế, không có vinh dự nào cao hơn thế nữa. Tôi vừa nói với ông vừa như run lên. Còn nhớ ông hỏi tôi nhiều điều. Tuy nhiên có một câu mà tôi cảm thấy như lạ nhất và cũng hay nhất của ông: “Văn hay không phải cầu kì, càng giản dị, càng trong sáng bao nhiêu thì càng văn bấy nhiêu”. Tôi muốn toát mồ hôi. Thì ra tôi ít nhiều vẫn lầm tưởng văn hay là phải thế này thế nọ. Cho tới bây giờ tôi vẫn thấy ông nói hoàn toàn đúng. Tất nhiên cái giản dị, cái trong sáng ấy không phải là cái sơ lược, cái dễ dãi. Để có được cái giản dị, cái trong sáng người viết văn, kể cả học sinh tập làm văn cũng vậy, phải có sự suy nghĩ, cân nhắc rất nhiều, nhằm tước bỏ đi những gì rườm ra, những gì ngẫu nhiên, bất ngờ vô ích, những gì không tiêu biểu… Và tập trung vào làm nổi bật hoặc làm sâu hơn những gì gợi cảm nhất, bản chất nhất… Trong việc bình luận những câu văn hay, những lời hay, ý đẹp cũng vậy, không riêng trong việc miêu tả, phảnh ảnh. Còn nhớ, khi lên tới trung học, làm một bài văn bình luận, tôi đã được thầy phê: “Rối rậm như rừng. Khô khan và già nua đến phát mệt”. Mãi sau mới hiểu được, thì ra trong thể loại này cũng vậy, văn vẫn cần giản dị, trong sáng. Cũng hiểu được thêm nữa: chỉ riêng sự sắc sảo và thông minh chưa đủ, cần tươi trẻ, cần phải tràn ngập niềm rung cảm của chính mình ngay cả trong những vấn đề tưởng như chỉ cần có nhiều lí trí và luận lí.


    Con đường viết văn là con đường vạn dặm, đầy khó khăn. Nhưng nếu bước lên được một bước, dù chỉ là một bước, cũng đã thấy có thêm hoa thơm và quả ngọt. Và ở phía trước còn biết bao nhiêu hoa thơm và quả ngọc nữa. Chúng luôn luôn quyến rũ và vẫy gôi. Con đường tiến lên của nhà văn là như vậy, là con đường luôn luôn phải có khám phá mới, sáng tạo mới. Đó là con đường lao động và hạnh phúc.

    HỒ PHƯƠNG
     
  14. langkhachcnkt

    langkhachcnkt Mầm non

    Hồi sinh viên đi hiệu sách cũ có mua được cuốn "Hồi nhỏ các nhà văn học văn" hay phết, trong đó có bài của cụ Nguyễn Hiến Lê rất hay. Mình đã học được rất nhiều ở bài này của cụ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/3/14
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    NGUYỄN BÙI VỢI


    Sinh ngày 5.11.1934 tại xã Cát Văn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nhiều năm dạy học ở Vĩnh Phú, hiện là biên tập viên văn học Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, diễn giả thơ quen thuộc từ nhiều năm nay, đặc biệt là trên sóng phát thanh và màn ảnh nhỏ.

    Tác phẩm chính đã in: Quê xanh (thơ, 1974), Thơ giữa đời thường (thơ, 1990), Con gái cô Út Tịch (thơ, 1968), Anh là chiến sĩ (truyện vừa, 1978), Trống trận đêm xuân (trường ca, 1980),…



    NHỜ CÓ CÁC THẦY



    Học tiểu học ở trường Thổ Sơn (Cát Văn, Thanh Chương, Nghệ An) thời Pháp thuộc những năm 1940, tôi đã được tiếp xúc với văn học. Thầy Mai Xuân Châu, hiệu trưởng nhà trường đã tổ chức một thư viện nhỏ để ngày thứ năm hàng tuần, học sinh đến mượn sách đọc tại chỗ. Sáng thứ năm nào tôi cũng đến từ đầu giờ, trong cặp có một nắm cơm với gói muối vừng hoặc mấy quả cà, thầy vừa mở cửa là vào ghi thẻ mượn sách. Tôi đọc ngấu nghiến từng dòng, từng trang của các nhà văn, có lúc nước mắt nhòa đi vì cảm động. Tôi mồ côi mẹ từ sáu tuổi. Những thiếu hụt trong tình cảm, các trang sách bù đắp cho tôi một phần. Thầy Châu thường dặn chúng tôi: “Các em hãy đọc sách như con ong đi tìm nhụy!”. Thầy hướng dẫn cho chúng tôi ghi sổ tay văn học. Cuốn sổ nhỏ xíu ấy chứa bao câu văn hay, hình ảnh đẹp, rỗi lúc nào là đọc lúc ấy, cả lúc ngồi đun bếp hay lúc chễm chệ trên lưng trâu, thuộc làu lúc nào không biết.


    Lên trung học, tôi được học thầy Nguyễn Sĩ Cẩn. Thầy dạy văn rất hay và rất chú ý đến những học sinh có chút năng khiếu. Tôi nhớ bài tập làm văn lớp đệ nhật trung học 1946 (tương đương lớp 6 bây giờ) thầy ra đề: Em hãy tả một buổi tập của dân quân làng em trên bãi cỏ.

    Tôi lia bút trên trang giấy. Nắng vàng, mây trắng, cỏ xanh… câu văn trào ra đầu bút. Nửa tháng thấy trả bài. Hầu như đêm nào tôi cũng năm mơ thấy giây phút ấy. Ngày dài như tháng. Rồi ngày ấy cũng đến. Hồi hộp đến ngạt thở. Kia rồi, thầy đã cầm cuốn vở bìa hồng của tôi. Bài văn được 6 điểm (trên mười), điểm cao nhất lớp. Trong bài văn ấy, tôi đã viết một câu văn rất ngốc ngếch: “Họ trườn trên bãi cỏ xanh, mắt chăm chăm nhìn về phía trước như những con thú rình mồi!”. Thầy phê bên cạnh: “Em có ý thức viết câu văn có hình ảnh, song sự so sánh khập khiễng, không đúng với bản chất sự vật. Tuy vậy, rất đáng khen”.


    Thế là bàn tay nhân hậu của thầy đã nâng đỡ một cái mầm non dại là tôi. Sau này, lớn lên đi dạy học, mẩu chuyện nhỏ ấy cứ theo tôi mãi. Nếu lời phê của thầy là một lời mỉa mai, chắc chắn sau bài văn ấy, tôi sẽ cạch văn đến già. Nhờ sự bảo ban và khuyến khích nâng đỡ của thầy, tôi càng say mê văn học và sau này trở thành nhà văn.


    Một lần tôi gửi tặng thầy Nguyễn Sĩ Cẩn (cán bộ giảng dạy trường đại học Sư phạm Vin) một tập thơ của tôi mới in với dòng đề tặng trân trọng: “Kính dâng thầy Nguyễn Sĩ Cẩn, người thầy đầu tiên đã gieo vào tâm hồn em mầm xanh văn học”.


    Gặp tôi ở kỉ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, thầy Cẩn nói là tôi đã viết quá lời, thầy thấy mình không xứng đáng nhận lời đề tặng đó. Tôi lễ phép kể lại cho thầy nghe về bài văn đầu tiên thầy chấm cho tôi. Làm sao thầy nhớ được, nhưng tôi thì ghi nhớ suốt đời.

    NGUYỄN BÙI VỢI
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/3/14
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    PHẠM NGỌC CẢNH


    Sinh ngày 20.7.1934 tại thị xã Hà Tĩnh. Từng làm diễn viên sân khấu, điện ảnh. Nhiều năm công tác tại tạp chí Văn nghệ quân đội, đi chiến trường lấy bút danh Vũ Ngàn Chi.

    Tác phẩm chính đã in: Gió vào trận bão (thơ, 1967), Đêm Quảng Trị (thơ, 1972), Lối vào phía bắc (thơ, 1982), Trăng sau rằm (thơ, 1986), Đất hai vùng (thơ, 1989), Miền hương lặng (thơ, 1992), Nhật kí thơ (1994), …



    TÔI ĐÃ HỌC MÔN VĂN
    NHƯ THẾ ĐẤY


    Thầy giáo dạy môn văn đầu tiên của tôi là một ông dượng. Ông dượng làm nghề gõ đầu trẻ ở xóm nghèo trong một thị xã miền Trung. Dượng thương cháu là vì o, nhưng thấy giáo nghiêm khắc với học trò là vì gì thì ở tuổi ấy làm sao tôi biết được. Dượng tôi rèn quá kĩ cho tôi những bài tập viết. DƯợng tôi bảo: cái gì lớn lao mai sau cũng phải viết ra từ những con chữ này. Tôi vâng lời và chăm chỉ. Lúc đầu như một hình phạt và sau dần dà nên một tình yêu.


    Bài tập viết là những câu ca, những vần thơ ngắn. Chẳng bao giờ học trò chúng tôi phải tập chép văn xuôi. Văn xuôi là những chuyện. Chuyện có khi ngắn tình hơn một câu ca nhưng bao giờ tổng số thành chữ viết cũng dài. Vì thế chuyện chỉ chép vào tai để mà nhớ. Những câu ca, những vần thơ ngắn dễ nhớ hơn thì lại được chép hẳn hoi lên mặt giấy. Tôi vui sướng vì mình đã vẽ được những câu ru của bà, của mẹ. những câu ca hát của các o, các dì, các mợ trong gia đình, những câu đối đáp của những bậc tài hoa trong vùng. Từng câu, từng dòng ấy như kẹo bánh ăn được rồi, như trái chín hái được rồi, như đồ chơi có hình có khối để lăn, đẩy được rồi. Tôi chép được lên giấy và chúng bỗng thành của riêng tôi.


    Khi chép được thành câu, thành bài thì tôi tròn mười ba tuổi. Kháng chiến toàn quốc lần thứ nhất bùng nổ cuối năm 1946 thì đầu năm 1947 tôi vào bộ đội. Tôi làm liên lạc chuyển thư từ, công văn đến, đi cho các đơn vị. Rồi làm diễn viên diễn kịch trong một đội tuyên truyền vũ trang cấp trung đoàn. Chẳng bao giờ phải cắm cúi trên bàn viết nữa. Nhưng điều gì dượng tôi đã chỉ bảo cho mà nắn nót thì tôi thuộc lòng. Thuộc lòng đến say mê. Say mê đến phải đọc ra thành tiếng. Một câu:

    Yêu nhau cởi áo cho nhau
    Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay


    Dượng tôi đọc tròn vành, rõ chữ cho tôi chép đúng. Tôi đọc và cố tìm lấy một giai điệu của riêng mình cho dễ thuộc. và trong những lần chuyển dịch đó đây, bộ đội đóng quân trong dân, tôi nghe người ta hát ru. Không phải bà mẹ nào cũng ru con bằng câu này nhưng thỉnh thoảng có ai ru đến câu lục bát ấy thì tôi thấy gai người lên vì khát khao muốn tìm cho ra cái nghĩa, cái tình nó nấp đằng sau các con chữ, các tiếng. Cuộc truy tìm ấy ở cái tuổi tôi lúc bấy giờ thật cực kì gian nan. Tôi không là học trò để được học tiếp ở nhà trường. Để trở thành một người lính thật sự, tôi hỏi các bác, các chú, các anh chị trong đơn vị biết bao điều song chưa bao giờ dám hỏi cho ra lẹ cái bi kịch “cởi áo cho nhau’ và “dối mẹ qua cầu” mà câu ca thổ lộ.


    Tôi phải tự hỏi mình. Tình thế bức bách ấy buộc tôi phải tìm đến những bài học văn mà tôi đã chịu thiệt thòi không được tiếp xúc vì ra đi quá sớm. Tôi lân la đến các bạn cùng tuổi trong vùng đóng quân và nhờ manh mối ấy mà tôi men đến các thầy giáo, cô giáo dạy văn ở các trường. Tôi hỏi. Tôi nghe. Tôi chép. Chẳng phải câu ca nào cũng hay. Chẳng phải bài nào cũng cho tôi điều mới lạ, song những gì đã thấm vào gan ruột thì ngẫm lại thấy nó đã ở với tôi gần trọn đời người. Câu ca:

    Yêu nhau cởi áo cho nhau
    Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay


    Dần dần hé mở vẻ đẹp thầm kín bên trong, tính kịch đáng yêu và những gì nữa tự thân nó có. Tôi ở lính gần bốn mươi năm, được đi qua biết bao vùng quê từ Lũng Cú, Hà Giang đến Rạch Tàu, Minh Hải. Trong cái học là tuổi học trò quá ngắn lại có cái phúc là tôi được học với rất nhiều thầy, cô giáo. Giáo trình văn học của các cấp học là sách in chung trong một cơ chế giáo dục của đất nước nhưng thầy giáo dạy văn thì mỗi người một vẻ. Học được với nhiều thầy tức là tiếp xúc được với tính đa dạng của các bài giảng mà trong một trường không sao có được. Tôi được nhìn một bài văn ở tuổi thơ từ nhiều góc độ rất khác nhau, từ nhiều sự tích lũy sư phạm khác nhau, từ nhiều bản lĩnh, tâm trạng khác nhau. Học thế là học ít mà sâu. Ít mà sâu, tôi xin được thành thật trình bày tình yêu và sự tích lũy văn học của tôi trong ba từ ấy.


    Chẳng phải lúc nào cũng dễ tìm thầy học đạo. Tôi chỉ là chú học trò ngoại ngạch, là người ăn xin chữ nghĩa. Và dẫu với tấm lòng đại lượng bao dung rộng lớn đến chừng nào, các thầy giáo tôi được gặp trong cuộc đời thơ ấu cũng chẳng dễ dành hết cho tôi mọi ưu ái. Nhiều bài giảng, nhiều lời chỉ bảo bị ngắt lưng chừng vì một cuộc chuyển quân bất ngờ. Nhiều bài tập tôi còn mắc nợ các thầy cô giáo vì dường như chẳng bao giờ gặp lại. Dẫu là trọn vẹn hay dở dang thì lòng tôi vẫn mang ơn. Chắc rằng khi tôi có được bài thơ in ở tuổi lớn lên, các thầy cô sẽ mỉm cười. Tôi cũng thầm coi mình đã gắng công đền đáp.


    Tôi dấn thêm một bước nữa trong môn học văn vì một chuyện tình cờ. Năm ấy tôi đã vào tuổi mười sáu. Tôi phải khai tuổi một cách chính xác trong chuyện sắp kể vỉ điều gì đó không thể xảy ra với tôi sớm hơn và nếu phải vài năm sau thì lại quá muộn màng. Chuyện như sau: đơn vị rục rịch chuyển vùng đóng quân. Lần này dân biết được và các cô học trò trong làng không giấu được vẻ bịn rịn với anh em trong đội tuyên truyền văn hóa của trung đoàn. Có ai đó đã nghĩ ra được một cách để làm vơi đi nỗi buồn rất học trò là mỗi người đều được viết cho nhau vài dòng lưu niệm vào sổ tay. Thơ là thể loại văn học được dùng triệt để và mạnh tay trong công việc này. Tôi không còn giữ được cuốn sổ tay ấy nhưng nét chữ và nội dung của từng người thì đã dễ mà quên. CHúng tôi chép rặt những câu thơ về cái mảng tình người đi kẻ ơ, vay mượn một cách hồn nhiên trong cái vốn thơ ca trữ tình trước cách mạng của các nhà thơ nổi tiếng. Tôi cũng chẳng có cách nào hơn. Song với một người (xin được giấu tên), với một cô gái kém tuổi tôi, với một người giúp tôi có nhiều thuận lợi để tự học và chỗ nào đó lại tỏ ra có nét trội hơn tôi về hiểu biết, tôi không thể chép vào sổ tay của cô gái một vài câu thơ có sẵn. Cô gái chép cho tôi bài thơ buồn của nhà thơ Thanh Tịnh với lời tâm sự của chính mình. Còn tôi, tôi phải viết lên trang giấy cái gì đích thực là cái nghĩ, cái cảm của chính tôi. Công việc thật muôn vàn lần khó hơn mấy năm trời tự học. Nhưng lòng đã quyết. Tôi liều.


    Sáu câu thơ vụng dại đầu tiên ấy là điều lớn lao tôi đã chép bằng những con chữ mà dượng tôi rèn dạy cho phải nắn nót tự buổi học đầu tiên. Sáu câu thơ ấy là cửa mở vào chiến trận – nói theo cách con nhà lính – tôi tự khai phá để đảm nhận một mũi chiến đấu trong cuộc hiệp đồng văn học lớn lao mà tôi tự nguyện đứng vào đội ngũ.


    Hà Nội, mùa hè năm 1985.

    VŨ NGÀN CHI
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/3/14
  17. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...

    NGUYỄN KIÊN


    Tên thật là Nguyễn Quang Hưởng, sinh ngày 2.4.1935 tại làng Vạn Phúc, thị xã Hà Đông, tỉnh hà Tây. Nhiều năm là công tác biên tập ở các nhà xuất bản Kim Đồng, Văn học và tạp chí Tác phẩm mới. Hiện là Giám đốc Nhà xuất bản Hội nhà văn.

    Tác phẩm chính đã in: Trong làng (truyện ngắn, 1960), Lá rụng (truyện ngắn, 1962), Đồng tháng năm (truyện ngắn, 1963), Vụ mùa chưa gặt (truyện, 1965), Vùng quê yên tĩnh (tiểu thuyết, 1975), Nhìn dưới mặt trời (truyện ngắn, 1981), Đáy nước (truyện ngắn, 1986), Một cảnh đời (truyện, 1991), Những ngày lưu động (truyện thiếu nhi, 1956), Chú đất nung (truyện thiếu nhi, 1960), Năm tôi mười ba tuổi (truyện thiếu nhi, 1973), Cuộc phiêu lưu của những hòn sỏi (truyện thiếu nhi, 1985), ...


    TUỔI THƠ – HỌC VÀ ĐỌC VĂN


    Trước Cách mạng tháng Tám tôi học dở dang bậc tiểu học ở trường làng. Thời ấy, sự học hành ở thôn quê vắng vẻ và hiu quạnh, chứ không như bây giờ. Vài chục trò bé lau nhau, lạc vào dăm anh lớn kềnh càng, cùng học lớp Nhì năm thứ hai (tương đương lớp bốn phổ thông cơ sở ngày nay) đã ra dáng lớp trên, oai lắm! Thầy giáo cũng rất oai và thầy ra oai bằng cách, hễ bước chân vào lớp là thầy rút cái thước kẻ lim to tướng ra, đập lên mặt bàn “cạch! cạch!” từng thôi dài, như nổ súng liên thanh. Thầy cũng sẵn sàng dùng cái thước kẻ đáng sợ ấy, nện cháy lòng bàn tay những trò nào lơ đãng, nghịch ngợm hoặc không thuộc bài.


    Tuổi thơ tôi có những kỉ niệm buồn. Nhưng ngôi trường làng vẫn là hình ảnh thân thiết suốt đời tôi. Các thầy giáo làng, phần đông sống cuộc đời khốn khó vẫn luôn luôn gần gũi đối với tôi. Nhiều bài văn thầy dạy chúng tôi hồi ấy, tôi đã quên. Nhưng cũng có những bài tôi nhớ, chỉ tiếc là hiện tôi không có trong tay cuốn sách giáo khoa cũ nên không thể dẫn ra đây chính xác tên bài và tên nhân vật. Tôi nhớ bài quả cam, kể chuyện một gia đình hòa thuận, con có quả cam nhường cho cha, cha nhường cho mẹ rồi mẹ lại nhường cho con; bài kể chuyện chú bé nhà nghèo ham học, đêm đêm bắt đom đóm bỏ vào vỏ quả trứng gà thay đèn, soi lên trang sách; bài Biệt li, tả cảnh đưa tiễn người thân, kết thúc bằng câu cảm thán: “Ôi cảnh biệt li sao mà buồn vậy!”. Bài văn, từ những con chữ ngủ trên trang giấy, trở thành một cái gì đó cứ cựa quậy trong đầu óc chúng tôi, trước hết là nhờ công thầy giáo đánh thức những con chữ ấy dậy và khơi lên trong chúng tôi niềm say mê tìm đến chúng. Thuở nhỏ, tôi đã ham thích tưởng tượng. Và thế là đến lượt tôi, tôi bị lôi cuốn vào bài văn, có lúc nào rỗi rãi là tôi lại tưởng tượng như đang sống trong câu chuyện, trong những cảnh, những tình chứa đựng trong bài văn đó. Chúng có vẻ như xảy ra ở đâu đó rất xa mà cũng rất gần, hiển hiện ngay trước mắt. Tôi nhớ là, một hôm tôi xin được ai đó tờ giấy than. (đối với bọn trẻ nhà quê chúng tôi thời xa xưa ấy, tờ giấy than là cái gì kì lạ nhất đời!). Với tờ giấy kì lạ nhất đời ấy, tôi đã loay hoay mất không biết bao nhiêu thì giờ để “can-ke” lại những tranh minh họa in trong sách giáo khoa mà tôi thích. Tôi vẽ rất kém và vì thế, khi có được trong tay bức tranh giống hệt bức tranh in trong sách, lập tức tôi phải khoe ngay với bạn bè; bức tranh đó lại đã trở thành tác phẩm của tôi và đứa bạn nào cũng tỏ ra dè bỉu nó là tôi phớt lờ nó ra mặt dấu bức tranh đi ngay.


    Dạo ấy, bên hàng xóm nhà tôi có một anh lớn tuổi, từ vùng quê xa lên ở trọ. Anh theo học trường tỉnh, sắp thi lấy bằng Thành chung (tương đương bằng tốt nghiệp phổ thông cơ sở ngày nay). Một hôm tôi lân la sanng chơi, thấy anh ngồi bóp trán làm bài luận quốc văn, đầu đề đại khái là: bình giảng câu “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Cái đề bài bình giảng ấy, đối với tôi cực kì khó hiểu. Bầu và ống thì rõ rồi nhưng tại sao lại ở, mà ở làm sao được? Tôi phải cái tính hay tò mò tìm hiểu và đã không thể nào hiểu được thì đành phải hỏi. Nhà thông thái của tôi (tức người anh lớn tuổi trô học bên hàng xóm) giảng: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” cũng na ná như “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Tôi có hơi vỡ lẽ ra một ti` nhưng chắc là lúc đó vẻ mặt tôi vẫn còn ngơ ngác thế nào, nhà thông thái đâm ra cũng bị lúng túng lây. Mãi một lúc sau, như chợt nhớ ra điều gì anh khẽ “a” lên một tiếng: “Thế này nhé, trong sách Quốc văn em học, có bài kể chuyện hai mẹ con nhà kia, người mẹ nghèo nhưng quyết chí nuôi con ăn học. Thoạt tiên họ ở cạnh nhà anh hàng thịt lơn. Đứa con bắt chước cứ suốt ngày chơi trò cầm dao chọc tiết và pha thịt, không chịu học hành. Người mẹ liền chuyển chỗ ở đến gần nhà thầy đồ, đứa con dần dần ham mê đèn sách, học giỏi hẳn lên. Đấy, bầu hay ống đại khái nó là như thế!” Bây giờ nhớ lại, tôi nhận thấy cái bài học chứa đựng trong những câu tục ngữ và truyện ngụ ngôn trên đây, tuy đúng nhưng không đủ: con người bị phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nhưng đấy là chuyện khác…


    Qua những kỉ niệm nho nhỏ trên đây tôi chỉ muốn nói rằng, việc học không chỉ gói gọn trong trang sách giáo khoa. Từ trang sách giáo khoa, nó luôn luôn gợi mở và nếu như ta có lòng say mê, nó sẽ dẫn ta vào cuộc thám hiểm đầy bất ngờ thú vị. Học văn và đọc văn (ngoài chương trình giảng dạy) là hai việc gắn liền với nhau, chúng hỗ trợ và kích thích lẫn nhau. Thuở tôi còn là chú học trò nhỏ trường làng, bọn chúng tôi đã truyền tay nhau mê mẩm truyện “Dế mèn phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài, in lần đầu, trong loại sách “truyền bá” thời đó. Chả là. Chiều nào chúng tôi cũng kéo nhau ra bờ đê, đi tìm tổ dế, bắt dế, thì chú dế (ở vùng tôi, người ta gọi loại dế này là dế “cờ-roong” – nhại theo tiếng gáy của chúng – chứ không gọi dế mèn. Nhưng điều đó không quan trọng…) cái anh Dế Mèn, vốn quen thuộc thế, nay lại được biết ngóc ngách chuyện đời anh ta lang bạt khắp đó đây, từng vướng mắc sai lầm ngu dại, cũng từng lập chiến công, làm được bao nhiêu việc tốt – cái anh Dế Mèn ấy lập tức hấp dẫn tôi. Tôi yêu mến anh và cứ bất chợt lại mơ màng đến bước phiêu lưu, vượt ra ngoài lũy tre làng, y như anh bạn Dế Mèn của tôi vượt ra khỏi cái tổ dế con con, khuất trong lùm cỏ dại…


    Cách mạng tháng Tám thành công. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Vùng quê tôi gần thủ đô Hà Nội nên mặt trận lan đến rất nhanh. Tôi theo đoàn tuyên truyền xung phong. Thoát li gia đình đi kháng chiến. Năm ấy tôi mười hai tuổi, sự hiểu biết của tôi còn rất ngây thơ, chưa có gì đáng kể. Nhưng tôi đã hăng hái ra đi, một phần khá lớn là do anh Dế Mèn. Những năm sau, trên đường công tác, tôi được đọc bài “Lượm” của nhà thơ Tố Hữu. Tôi nhận ra hình ảnh “chú bé loắt choắt, cái xắc xinh xinh…” ấy có hình ảnh tôi và bao nhiêu bè bạn cùng lứa tuổi tôi đang rong ruổi trên khắp các nẻo đường kháng chiến. Và cứ dần dà như thế, tôi trưởng thành lên cùng các bạn bè.


    Theo ý nghĩ của riêng tôi thì tác dụng của môn văn hay nói đúng hơn là của việc học văn và đọc văn cần được hiểu một cách vừa chặt chẽ vừa rộng rãi. Học và đọc văn để biết cảnh biết người, để nắm vững cách điều khiển các câu chữ v.v… Tất nhiên là phải thế. Nhưng bao trùm lên tất cả lại phải làm sao nhuyễn được những cái hay, cái đẹp của văn vào trong tâm hồn, biến nó thành ao ước, thành động lực sống tốt hơn, trở thành người có ích hơn.

    Tháng 6.1985
    NGUYỄN KIÊN
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/3/14
  18. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...

    VÕ VĂN TRỰC


    Sinh ngày 28.1.1936 tại làng Hậu Luật, xã Diễn Bình, DIễn Châu, Nghệ An. Từng là cán bộ Bộ ngoại giao, biên tập viên nhà xuất bản Thanh niên, hiện là Phó tổng biên tập báo Văn nghệ. Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (1982-1983) với tập thơ Trăng phù sa.

    Tác phẩm chính đã in: Cây xuân (thơ, 1962), Chú liên lạc đội xích vệ (thơ, 1071), Trận địa quê hương (thơ, 1972), Người anh hùng đất Hoan Châu (trường ca, 1976), Ngày hội của rạng đông (thơ, 1978), Hành khúc mùa xuân (thơ, 1980), Gió thơm đồng cỏ (thơ, 1981), Trăng phù sa (thơ 1983), Tiếng ru đồng nội (thơ, 1990), Nắng sáng ngoại ô (bút kí, 1990), Câu chuyện những dòng sông (kí, 1983), Đèn lửa, đèo trăng (bút kí, 1987), Truyền thuyết núi Hai Vai (truyện, 1990), Chuyện làng ngày ấy (truyện, 1993), …



    NHỚ MỘT THỜI THƠ ẤU


    Làng tôi cũng như hầu hết các làng khác ở Nghệ Tĩnh, sinh hoạt văn hóa dân gian khá phong phú, như hát phường vải, phường cò, phường củi, hò kéo gỗ… Có hội tuồng, hội chèo. Đặc biệt, thế hệ nào cũng có người đặt vè.


    Thuở nhỏ, hầu như quanh năm đêm nào tôi cũng đi xem những cuốc sinh hoạt ấy. Tháng giêng, tháng hai, đi xem tuồng. Tháng sáu, tháng bảy, đi xem hát phường vải. Tháng một, tháng chạp đi củi, đi cỏ. Thỉnh thoảng, làng làm đình làm chùa, hoặc gia đình nào làm nhà, người ta mua gỗ và kéo gỗ về. Chúng tôi lại đi xem kéo gỗ và nghe hò kéo gỗ rất vui.


    Đêm trăng sáng, các bác nông dân ngồi giữa sân uống nước chè, trò chuyện rôm rả. Tôi ngồi nghe lỏm được nhiều chuyện hay. Chuyện thần thoại Cố Bợ. Chuyện sự tích vị thần núi Động Thờ. Chuyện các vị thần ở núi Hai Vai. Chuyện những vị tướng đánh Pháp thời Cần Vương đã nhuốm màu sắc thần thoại. Thỉnh thoảng tôi được nghe đọc những bài vè do người trong làng đặt để nói kháy một ông lí, ông hương hoặc chê bai một cô gái lẳng lơ nào đó…


    Tôi thường theo bọn trẻ trong làng đến chơi ở một cây đa cổ thụ, một cái miếu âm u đá lạnh, một ngôi đền được bao bọc bởi cánh rừng rậm, một cồn đất mọc sần sùi gốc ruối già… Mỗi vật ấy đều gắn liền với một sự tích, một chuyện kể xa xưa. Tôi nghe mỗi người kể một mẩu. Người lớn kể. Bạn chăn trâu kể. Ông nội kể.


    Suốt thời gian tuổi thơ, tôi tắm mình trong không khí sinh hoạt văn hóa dân gian. Đi đến đâu tôi cũng nghe hát, một đám người hát theo phường, theo bạn hoặc một vài người hát giữa đồng đang gặt hái. Đi đến đâu tôi cũng thấy máu thịt thiêng liêng của tổ tiên, của làng xóm. Một bến đò Oan chập chờn hồn oan những người chết đuối. Một khóm ruối cằn cỗi từng buộc ngựa vua Lê. Một cồn đất còn in dấu chân đức tổ Triệu Cơ thuở xa xưa khai thiên lập ấp… Làn điệu những câu hát ấy, âm vang những chuyện kể ấy thấm dần vào tâm hồn tôi như mưa bụi thấm vào đất đai làm nảy nở những mầm cây tươi non – mầm cây đó chính là niềm say mê yêu văn học của tôi.


    Cách mạng tháng Tám thành công, tôi lên chín tuổi. Làng thành lập một thư viện nhỏ tại đình. Nhiều người góp sách cho thư viện. Thầy giáo Đạt góp rất nhiều sách. Cha tôi là một ông đồ nho biết ít nhiều quốc ngữ, làm chủ tịch thông đồng thời phụ trách thư viện. Tôi sung sướng sà vào kho sách đó như chuột sa chĩnh gạo. Trước Cách mạng, tôi theo học quốc ngữ ở trường Thái Xá vài năm. Nhưng chẳng có sách gì để đọc. Đến lúc này, có kho sách của thư viện làng, tôi đọc ngấu nghiến hổ lốn nhiều loại sách với nhiều tác giả trong nước: Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Phạm Cao Củng, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Huy Cận…


    Bỏ học hơn một năm, ở nhà chăn trâu, nay tôi lại cắp sách đến trường. Tất cả những kiến thức về văn học dân gian, về sách vở đã đọc được, dần dần bộc lộ trong những bài tập làm văn của tôi. Hồi đó, bài tập làm văn gọi là bài luận. Nhiều bài luận của tôi được thầy giáo đọc trước cả lớp trong giờ trả bài. Tôi hồi hộp nghe thầy đọc từng chữ, từng câu. Bạn bè trong lớp tỏ ra nể tôi, phục tôi về khả năng văn chương. Hồi đó, học sinh rất mê văn. Cho nên, bài luận nào được thầy giáo chọn để đọc cho lớp nghe thì được bạn bè cả lớp coi trọng.


    Năm ấy, tôi học lớp ba. Tỉnh tổ chức kì thi học sinh giỏi văn toàn tỉnh. Tôi được chọn đi thi. Thầy Hoàng Tán dạy lớp tôi, ra cho tôi một số đề luận, trong đó có đề “tả một buổi sớm mùa thu đi câu cá”. Từ hôm đó, ngoài giờ học ở lớp, về nhà tôi hì hục viết những bài văn theo đề thầy ra sẵn. Thúc đến quá nửa đêm để viết một cách say mê. Đến hôm nộp tất cả các bài cho thầy thì thầy khen hết lời bài “Tả một buổi sớm mùa thu đi câu cá”. Thầy đọc trước toàn lớp. Bạn nào cũng chặc lưỡi khen hay. Tôi về nhà học thuộc lòng bài đó, may ra trùng với một đề tương tự như thế… Nhưng thật là không may, chính thức vào cuộc thi, đầu đề của tỉnh ra hoàn toàn khác: “Em hãy bình luận câu châm ngôn phương Tây: Đồng tiền là tên đầy tớ tốt nhưng cũng có thể trở thành ông chủ xấu”. Tôi hoàn toàn bị hẫng. Đầu đề này vượt quá xa trình độ của một học sinh năm thứ ba trường tiểu học. Dĩ nhiên, trong kì thi này, tôi chẳng được giải gì cả. Nhưng nhờ kì thi này mà tôi mới nhận thức ra rằng: văn chương không chỉ là thơ ca, là chuyện kể dân gian; mà còn bao hàm nhiều vấn đề khác của xã hội.


    Từ đó, ngoài những cuốn sách về thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tôi tìm đọc những tập luận văn như “Một nền văn hóa mới” của Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Đình Thi; "Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam” của Trường Chinh; “Quyền sống con người trong truyện Kiều” của Hoài Thanh, những bài tiểu luận trong tạp chí Văn nghệ in ở Việt Bắc… Tôi chỉ hiểu lõm bõm, nhưng vẫn cứ đọc. Không những đọc, mà tôi còn đóng một cuốn vở dày chép các đoạn văn nghị luận, bút kí, truyện ngắn, trích tiểu thuyết, thơ, ca dao mà tôi thích. Cuốn vở này được viết cẩn thận, trình bày đẹp, đầu đề đều bằng bút chì màu. Sáng nào ngủ dậy tôi cũng học thuộc lòng – thuộc lòng cả bài “Nhận đường” của Nguyễn Đình Thi, cả truyện ngắn “Thư nhà” của Hồ Phương, cà bút kí “Voi đi” của Siêu Hải… Về thơ, không những tôi thuộc lòng thơ Tố Hữu, mà cả thơ trước cách mạng của Vũ Hoàng Chương, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư… Học thuộc lòng đã trở thành thói quen của tôi. Cho mãi đến lúc lớn lên, sau khi tốt nghiệp trường đại học Tổng hợp, ra công tác, tôi vẫn thuộc lòng những bài, những câu được chọn lọc trong ca vè, thơ Pháp, thơ Đường, thơ Việt Nam. Đặc biệt là dân ca, ca dao, tôi luôn luôn tìm những câu hay để học thuộc lòng. Tôi có hai cuốn băng dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca quan họ Bắc Ninh, thỉnh thoảng lại mở nghe.


    Tôi không hiểu tại sao lại có ý thức cần cù học văn học từ nhỏ. Có lẽ được tắm mình trong không khí văn hóa dân gian làng xóm mà ý thức tôi được đẩy tới lòng say mê văn học. Càng say mê văn học, tôi càng thấy yêu quê hương, yêu bà con xóm làng. Hàng năm, không về quê được một lần là tôi cảm thấy bồn chồn. Mỗi lần về, trò chuyện với bà con, tôi lại thu nhặt được một ít tư liệu văn học dân gian. Cuốn sách thần thoại Cố Bợ của tôi được hình thành trên cơ sở tình cảm và ý thức đó. Tôi cũng đã sưu tầm, biên soạn hoàn chỉnh tập Vè làng Hậu Luật, nếu in ra sẽ dày khoảng 600 trang khổ 13 x 19. Công việc này tác động trở lại tôi rất nhiều và làm nẩy nở trong tôi một nhận thức: Hãy trau dồi cho mình đức tính chân thực như những câu ca, câu vè; hãy sống chân thực như những người nông dân đã sáng tạo ra những câu ca, câu ve. Sống chân thực mới viết được văn chương chân thực. Sự chân thực đã bù lại cho tôi rất nhiều sự non yếu về tài năng và sự mong manh về năng khiếu.


    Lòng say mê thì như vậy. Nhưng nếu không có một cái công tắc bật sáng ý thức về văn nghiệp thì cũng chỉ dừng lại ở lòng say mê. Trần Hữu Thung, đối với tôi, là cái công tắc ấy. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, tên tuổi Trần Hữu Thung đã được bà con Nghệ Tĩnh quen thuộc và yêu mến với nhiều bài vè, bài ca dao và nhiều bài thơ mang hơi thở của điệu ví dặm. Tổ thông tin của các thôn xã dùng loa đọc thơ Trần Hữu Thung, viết ca dao của Trần hữu Thung lên nong, lên cót dựng ở các ngả đường… Tôi nhìn anh với cặp mắt đầy kính phục. Làng anh và làng tôi ở hai phía chân lèn Hai Vai. Suốt mấy tháng hè, tôi rủ mấy đứa bạn, đi qua lèn sang học tư với anh. Trong lớp học hè ấy, có ba thầy giáo dạy văn: Trần Hữu Thung, Trung Anh, Nguyễn Trọng Oánh. Hè năm sau, nghe tin ở Yên thành có thi sĩ Phùng Khắc Khoan mở lớp dạy tư. Tôi cũng tìm kì được để xin vào học. Bản thân các thầy giáo dạy văn là nhà văn, nhà thơ, tôi càng say mê môn văn. Các thầy đã nhen nhóm trong tôi ý thức cầm bút viết những dòng thơ đầu tiên.

    Tháng 5.1993
    VÕ VĂN TRỰC
     
  19. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...


    NGÔ VĂN PHÚ


    Sinh năm 1937 tại Hà Nội. Quê quán: Khả Do, Nam Viên, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tốt nghiệp đại học Tổng hợp, khoa Ngữ văn (1961), biên tập viên báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ, hiện là tổng biên tập nhà xuất bản Hội nhà văn. Được nhiều giải văn học.

    Tác phẩm chính đã in: Thơ: Ngọn giáo búp đa (1978), Tháng năm mùa gặt (1978), Đi ngang đồi cọ (1986), Cỏ bùa mê (1989), Một mình (1990), Đừng khóc (1991); Văn: Vườn mai (1972), Rừng thông non (1983), Tình yêu đến tử nơi ấy (1989), Cô gái tìm ra đảo (1980), Sau hồi chuông cầu nguyện (1986), Ngõ trúc (1986), Bụi và lốc (1988), Chiến trận đời thường (1989), Ngôi vua và những chuyện tình (1989), Tể tường thời tao loạn (1991), Gươm thần Vạn Kiếp (1992), Thần hoàng làng (1992), Quán trọ giữa đời (1993), Dạo chơi núi Dục Thúy (1993), …



    THUỞ NHỎ HỌC VĂN


    Nhà tôi ở một phố nhỏ ở Hà Nội, khu chung cư của tôi là một trong những xóm người trung lưu ở lẫn với bình dân, còn cả khu phố, đều là những công chức hoặc nghệ sĩ cả. Khu phố dy nhất có một ngôi nhà ba tầng của ông đốc tờ, còn phần lớn là nhà hai tầng xây kiên cố, khá đẹp. Tôi học trường Thân Trọng Huề, bây giờ là trường Quang Trung. Đó là trường tiểu học thờ Pháp thuộc, có từ lớp đồng ấu (Cours Enfantin) cho đến lớp Nhất (Cours Supérieur).


    Năm ấy, anh trai tôi, anh Ngô Linh Ngọc đang học tú tài, vừa học, anh vừa làm báo. Tôi thi sơ học yếu lược vào năm 1944. Anh tôi lúc đó đang cùng với anh Trần Trung Phương chủ trì các trang văn nghệ thiếu nhi ở báo Tin mới. Anh tôi cũng có nhiều bạn bè văn chương, báo chí đến chơi nhà: nhóm anh Lê Văn Trương, anh Trần Trung Phương. Anh tôi cũng quen anh Vũ Hoàng Chương và một số người khác. Hồi đó, còn nhỏ, tôi mải chơi ít chú ý, mà họ đến nhà thì ít, tụ tập ở chỗ khác thì nhiều.


    Gia đình tôi vốn hiếu học. Thầy tôi khuyến khích các con học hành bằng người. Tôi học cũng khá, mặc dù phải khai lậu tuổi để đi học sớm hơn. Anh tôi thì nổi tiếng thông minh. Ngoài chữ Pháp, chữ Hán anh học rất tài tử, mà các thầy giáo Hán học thuở ấy các trường trung học rất khen… Nhà khá nhiều sách, sách Tầu cũng nhiều. Vì thầy tôi thích các loại truyệnTầu như Tam Quốc diễn nghĩa, Tiền Hán diễn nghĩa, Thuyết Đường, Phong Thần, Chinh đông chinh tây, Ngủ hổ bình Nam, Ngũ hổ bình Liêu; thơ Đường thì có Tam bách thủ của Trần Trọng Kim, tôi muốn đọc gì thì đọc. Những quyển có thể đọc được thì thấy bào tôi nên đọc như Sách hồng, Truyển bá quốc ngữ, Tiểu thuyết thứ bảy, tôi xem lại của anh tôi. Các chị tôi thì thích thuê các sách của Tự lục văn đoàn, dấu thầy tôi mà đọc. Nhưng có lúc tôi cuỗm được, cũng lấy trộm đem đi nhà bạn cùng đọc với nhau.


    Lúc chín, mười tuổi tôi mê các loại sách kiếm hiệp ba xu, cho thuê đầy ở hiệu sách. Tôi thường nhịn quà, hoặc xin tiền mẹ, tiền chị để thuê sách đọc. Tôi đọc tạp nham đủ thứ, cái nhớ, cái quên, cái thích, cái không thích nhưng chỉ toàn là do tính hiếu kì trẻ con, ấn tượng văn chương chưa hề có…


    Quê tôi, ở vùng giáp ranh giữa vùng Pháp tạm chiếm và vùng tự do. Tôi học trung học khá vất vả, mặc dù năm 1947 đã thi đỗ tiểu học ở vùng tự do. Thầy giáo dạy tôi những bài thơ kháng chiến, thơ Hoàng Cầm, thơ Vân Đài, cả thơ của anh trai tôi nữa. Nhà tôi các văn nghệ sĩ kháng chiến ghé qua, đều có tới thăm. Anh tôi làm Trưởng ban tuyên huấn tỉnh đội Vĩnh Phúc, chủ trì tờ báo Du kích, rất được hoan nghên trong tỉnh. Tôi thường phải đun nước cho bạn bè anh tôi bình văn, bình thơ. Lúc này, tôi làm văn thường được nhất trường và được đi thi học sinh giỏi ở huyện và liên hoan văn nghệ với đại đội biệt động. Tôi lại tham gia đoàn kịch do Ti văn hóa thôgn tin kết hợp với xã nơi sơ tán; đóng Thánh Gióng trong vở kịch thơ dài, không biết là của ai. Những đoàn kịch, các văn nghệ sĩ ở Ti văn hóa thông tin rất yêu tôi, muốn rủ đi theo họ. Nhưng thầy tôi, nhất là mẹ tôi, thấy tôi còn quá nhỏ, lại gầy yếu, nên nhất định giữ không cho tôi thoát li, mặc dù tôi rất thích. Có lẽ mầm văn chương nghệ thuật đã hình thành trong tôi từ những phút này…


    Rồi làng tôi bị giặc chiếm, tôi học trung học trên tỉnh. Trường mở được vài năm rồi tan. Thầy học tôi về Hà Nội mở trường, nhà tôi nghèo, không ra Hà Nội học được. thầy học tôi mến tôi học giỏi liền mang theo, bắt tôi chỉ phải nộp mỗi tháng nửa tạ gạo, và ở nhà thầy, giúp việc vặt, kèm con thầy, nấu cơm một buổi. Tôi học trường tư thục ở Hà Nội những năm 1953-1954, ở đây ông Nghiêm Toàn, các nhà thơ Lan Sơn, Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân đều có đến giảng. Họ dạy văn mực thước và truyền cảm, nhất là thầy Lan Sơn. Tôi không được rỗi rãi, như một số con nhà giàu, chỉ lên lớp là chính, song học văn với cácx nhà thơ từng nối tiếng như thế, rất có ảnh hưởng. Tôi học cũng khá, là một trong những người đỗ đầu một hội đồng thi năm ấy (bằng thành chung) và lại quay ra học trường ngoài vùng tự do, vì lúc đó, đang thời kì đánh Điện Biên Phú, vùng quê của tôi, vùng du kích hoạt động rất nhộn nhịp, gia đình tôi đã bắt liên lạc được với các anh, các chị tôi ở vùng tự do và gửi tôi đi học…


    Những năm ấy, liên tiếp có các cuộc vận động sáng tác văn thơ. Tôi bắt đầu làm thơ. Những gì tôi đọc được tích lũy được từ trước đều được hội tụ lại. Kì tôi học ở Hà Nội, thấy học của tôi trao cho cả một tủ sách rất quý, trong đó có Thi nhân Việt nam, có Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, Nam hoa kinh, Tây sương kí, Thơ Đỗ Phủ do Nhượng Tống dịch. Những bộ sách của Tản Đà, của Trần Tuấn Khải (thầy học tôi là bạn của cụ), những tập thơ bằng tiếng Pháp của Victor Hugo, Baudelaire, Lamartin. Các tập kịch của Racine và Corneille, văn học sử Pháp, tôi thường đọc và có lúc thầy giáo tôi cũng cho phép tôi bình về những nhân vật Le Cid – Chimène mà ông rất thích, hoặc bắt tôi đọc thuộc lòng những bài Đêm biển cả của Victor Hugo, Trên bến cảng của A.d Musset, hoặc bài Xanh của Verkaine… anh tôi gặp tôi, lại cho tôi nhiều sách văn nghệ của vùng tự do, như Thép đã tôi thế đấy (lúc đó, có tên là Luyện thành gang thép) hoặc tập Quan du kích, Thương Cam Lĩnh v.v…


    Tôi được xem các phim Việt Nam trên đường thắng lợi, Bạch mao nữ tôi rất thích… Tôi bắt đầu làm ca dao, làm thơ gửi cho Ti thông tin và được đăng liền. Sau đó tôi học một chương trình cấp ba trung học. Tôi gửi bài đến đài phát thanh và một số tờ báo ở trung ương. Bài đều được đăng. Anh tôi làm báo Quân du kích, Quân Việt Bắc, và sau này về làm báo Tổ quốc ở Hà Nội cũng khuyến khích tôi. Nhưng người tự hào nhất về tôi là cha tôi. Cụ đọc bài thơ trên báo Nhân dân của tôi trước khi chết và nắm tay tôi, ứa hai hàng nước mắt. Tôi không bao giờ quên giây phút ấy, và có lẽ một phần giục giã tôi quyết tâm theo con đường văn chương, là những dỏng nước mắt vừa sung sướng vừa đầy thương cảm ấy…


    Ở trường đại học tôi được các thầy Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Lương Ngọc giảng về lí luận văn học, văn học phương tây, về Kiều… về văn học Nga thì có chuyên gia Nubarốp, văn học Trung Quốc có chuyên gia Trương Trọng Thuần, là những chương trình có ảnh hưởng đến tôi. Sau này, ra công tác tôi gần gũi nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như: Chế Lan Viên, Tế Hanh, Nguyễn Bính, Vĩnh Mai, Hoàng Trung Thông v.v… Họ đã giúp tôi rất nhiều về ý thức của người cầm bút. Nhưng do cái không khí văn học của gia đình, của thầy học đã nuôi tôi, của những trường lớp rất say mê văn chương, và do sự chịu khó học hành, lúc ở vùng tạm chiếm, lúc ở vùng tự do, vốn Hán học và những tích lũy văn chương dần dần, mà tôi theo đuổi được nghề văn cho đến tận bây giờ…

    NGÔ VĂN PHÚ
     
  20. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    ...




    PHẠM TIẾN DUẬT


    Sinh ngày 24.1.1941 tại thị xã Phú Thọ, tỉnh Vĩnh Phú, từng là bộ đội, hoạt động nhiều năm trên đường Trường Sơn. Nổi tiếng với nhiều bài thơ được tặng giải báo Văn nghệ những năm chống Mỹ cứu nước. Có chân trong BCH Hội nhà văn Việt Nam. Hiện là biên tập viên báo Văn nghệ.

    Tác phẩm chính đã in: Vầng trăng-quầng lửa (thơ, 1970), Thơ một chặng đường (thơ, 1971), Chuyện quanh nồi cao voi (truyện, 1972), Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983), …



    KHOẢNG VẮNG
    KHÔNG NHÌN THẤY



    Tất cả những cái gì tôi có được vào thuở niên thiếu đều để lại dấu vết, hoặc hay, hoặc dở, cho đến bây giờ và có lẽ mãi mãi sau này. Trong một số thành nào đó của người lớn, người ta thường quên tính đến một số hạng cực kì quan trọng, ấy là hệ thống những mặc cảm khi anh ta còn là trẻ con. Ấy là tất cả những gì tôi có thể rút ra khi nghĩ lại về thuở nhỏ của chính mình.


    Tôi có một người bạn thuở thơ tên là Thịnh Cóc. Tôi cũng không còn nhớ tại sao bạn học sinh lớp 5C của tôi lại gọi cậu ấy bằng cái tên ấy, mặc dù da dẻ, hình dong của cậu ta cũng chẳng xù xì cho lắm. Nhưng câu chuyện này thì làm tôi nhớ mãi – câu chuyện về một bài tập làm văn. Bài luận thầy giáo ra như sau: Em hãy tả lại khung cảnh làng em vào ban đêm trăng sáng và nói lên tình cảm của mình đối với quê hương. Hôm trả bài, thầy giáo đọc một câu của Thịnh Cóc làm cả lớp cười lăn cười bò: “Đi khỏi cây đa Còng một đoạn em đã thấy làng em. Ven làng, tiếng chó cắn như ếch kêu”. Trước hết, ta phải hiểu cắn đây nghĩa là sủa: một tiếng địa phương vùng trung du Phú Thọ chúng tôi. Câu văn kì dị thật. Làm gì có loài chó nào sủa “ộp ộp”. Lúc ấy, chính tôi cũng cười và trêu chọc bạn cả tuần. Nhưng mấy tháng sau, tôi có dịp đi xem phim ở xã bên về, tôi và Thịnh Cóc đứng sững bên này cánh đồng, nhìn về làng mình, nghe chó sủa. Thì ra, nghe xa, tiếng chó sủa rất giống tiếng ếch kêu. Cái lỗi của bạn tôi là không biết viết, sao cho, trong một trường hợp đặc biệt nào đó, tiếng động mà mình tiếp nhận phải truyền được đến tai người mình kể lại.


    Trong trường hợp ấy, thầy giáo tôi chỉ có một cái lỗi nhỏ là đã không thực sự cầu thị để xem thử trong mọi trường hợp có phải hễ là chó sủa thì cứ phải là “gâu gâu” hay không. Từ đó trong tôi sinh ra một sự ấm ức là hình như người lớn hay áp đặt những điều có sẵn lên bọn trẻ con chúng tôi. Hình như đôi bên không hiểu được nhau. Cái ý nghĩ con trẻ lúc ấy không hoàn toàn đúng đâu, nhưng nó cũng đem lại một sự có ích: từ đó tôi thực sự có ý thức, thoạt đầu là trong các bài tập làm văn, viết ra, nói ra cố gắng cho thật đúng các cảm giác của mình.


    Một năm sau cái năm có bài văn tả làng kia, tôi được chuyển từ một trường huyện đến học ở một trường thị xã. Cho đến sau này, khi vào học khoa văn của trường đại học sư phạm, hay khi đã trở thành người cầm bút chuyên nghiệp, tôi vẫn không thể nào vượt được một kỉ lục mà tôi đạt được vào năm lớp 6: số sách mà tôi đã ngốn ngấu. Tôi đã đọc vào hồi ấy tất cả những quyển sách nào mà tôi được phép cầm lên. Trong số sách loại ấy có cả quyển Chống Đuyrinh của F. Ăngghen (!) Cố nhiên là tôi làm sao hiểu được một cuốn sách uyên thâm đến mức người lớn cũng không thể coi là dể đọc. Hồi ấy, tôi chỉ nhớ được một câu trong quyển sách ấy, câu mở đầu: “Tôi viết quyển sách này không phải là do sự thôi thúc nội tâm, mà ngược lại”. Câu văn hơi hơi lạ tai ấy đánh mạnh vào tâm trí trẻ thơ của tôi. Tôi khi ấy đã không hiểu được nội dung của câu văn đó nhưng nó nằm lại mãi trong đầu, để đến một lúc nào đó câu văn ấy lại cựa quậy trở lại: cái xảy ra ở bên ngoài của một con người đôi khi còn quan trọng hơn nhiều so với cái xảy ra bên trong con người đó. Ấy là một cặp lụy do ngoại duy mà có. Có lẽ, với ai cũng có những kỉ niệm na ná như vậy. Tôi chỉ nhắc lại để nói rằng sách vở quan trọng như thế nào đối với mỗi con người.


    Tôi không thể không kể lại như một sự ghi ơn cả đời rằng, lòng yêu thơ, yêu văn học của tôi bắt nguồn từ sự yêu thơ, yêu văn của các thầy giáo của tôi. Sau này khi tôi trở thành nhà văn rồi thì các thầy giáo ấy vẫn cặm cụi dạy học ở cái cấp ấy, mà hình như, lương cũng không thêm được bao nhiêu. Họ lại trở thành bạn đọc của tôi và khi gặp lại các vị ấy tỏ thái độ tôn trọng tôi đến mức phải xe lòng. Chính các thầy giáo già của tôi đã quá khiêm tốn đến mức không đánh giá đúng công lao đã truyền luồng điện của tình yêu đến cho lớp người chúng tôi quan trọng đấn như thế nào. Có một dạo, một số nhà phê bình có biểu dương tôi là độc đáo, là phá vỡ những khuôn sáo vốn có của thơ ca… Nhưng thật ra, tôi đã chập chững bước đi trên những thang âm của thơ cổ điển. Chẳng hạn, bài thơ sau này trở thành bài hát Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây đã dùng lại các thủ thuật biến ngẫu như thế. Ấy là do các thầy đã mách bảo tôi từ thuở bé sau này tôi chỉ thêm cái công tiếp tục đi tìm. Ở đây tôi không dám bàn gì về nghệ thuật, tôi chỉ nói rằng, ngay cái nghề sáng tác, nghĩa là làm công việc sáng tạo, cũng không thể nào khác được, phải bắt đầu tử những gì sẵn có. Muốn biết cái gì là mới thì phải biết cái gì đã có. Đấy là ý nghĩa cơ bản của cả chữ học và chữ dạy, theo tôi.


    Tôi có nghe được câu định nghĩa rất hay về ngành giáo dục mà các bạn Liên xô (*) đã nói: giáo dục, chính là Tổ quốc về mặt thời gian. Có lẽ không có câu nói nào ca tụng người thầy giáo và đặt trách nhiệm lên vai người Thầy giáo cao hơn câu nói ấy. Không có ai là không trưởng thành từ một Tổ quốc cụ thể.


    Hà Nội, 6.1985
    PHẠM TIẾN DUẬT
     
    haiauLucky thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này