Văn học nước ngoài PG Quy Luật Của Muôn Đời - Nodar Dumbatze

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi notrinos, 15/5/15.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. notrinos

    notrinos Lớp 5

    1.
    Cơn đau nhói lên ở vai bên phải. Tiếp đó, nó luồn xuống ngực và mắc ở một chỗ nào dưới vú bên trái. Rồi tuồng như có bàn tay chai sạn của ai không rõ thọc vào trong ngực, nắm lấy tim và bắt đầu bóp như vắt nước chùm nho. Bàn tay bóp chậm chạp, nỗ lực: một - hai, hai - ba, ba - bốn...Cuối cùng, khi trái tim bị vắt kiệt không còn lấy một giọt máu, vẫn bàn tay ấy dửng dưng quẳng nó đi. Tim ngừng đập. Không, thoạt tiên nó rớt xuống như con chim sẻ non đâm sầm vào kính cửa sổ, nó rơi xuống, bắt đầu giãy giụa, run lên bần bật, rồi lặng hẳn. Nhưng tim ngừng đập vẫn chưa phải là cái chết đã đến, đấy mới là đôi mắt trợn ngược vì khiếp hãi quá chừng và sự mong chờ khổ sở: trái tim chết tiệt còn đập lại nữa hay không?!
    -- Không được nguyền rủa trái tim, batônô * ạ. Cần nâng niu nó, nhè nhẹ hà hơi vào nó như thổi vào sữa bắt đầu sôi...-- chị y sĩ nói.

    * Hình thức xưng hô lịch sự đối với một người đàn ông.
    -- Bà chị kính mến ơi, tôi chẳng thiết gì văn chương nữa đâu ! Giúp tôi với !
    -- Nadya, cho anangin!.. Sẽ bớt đau ngay thôi mà!
    -- Nhưng ông ấy say rượu, thưa bác sĩ!
    -- Điện tâm đồ!
    Đôi tay ai không rõ ôm lấy người bệnh.
    -- Thế nào? -- bác sĩ hỏi
    -- Rất sâu... Tôi không biết như thế này thì ta có thể làm gì được...
    -- Đau không?
    -- Bác sĩ ơi, làm sao cho hết đau... hoặc là giết tôi đi!
    -- Prômêđôn!
    . . . . . . . . . . . . . .
    Năm phút sau.
    -- Thế nào, đỡ rồi chứ?
    Người bệnh nhìn con người đã hỏi câu ngây ngô đó, nhưng không sao hé mắt ra được: đôi mi như bị đè ép bởi những tấm chì nhỏ nặng trịch, lạnh lẽo.
    -- Morfin! -- bác sĩ ra lệnh, ông đã nản lòng và nhấc ống điện thoại lên.
    -- Tôi đây, Antilava. Bỏ mônitơ và chuẩn bị đifibrilatơ *. Nhanh lên!
    -- Ối, ối, giết tôi đi cho xong! -- người bệnh van vỉ.
    -- Azốt! -- bác sĩ ra lệnh.
    Người bệnh cảm thấy có tấm gạc ướt chạm nhẹ vào mặt. Rồi thân thể ông được nâng lên một cách gượng nhẹ, đặt vào một con thuyền...
    ...Con thuyền hơi chòng chành, lướt trên mặt biển êm ả phẳng lặng. Đột nhiên người chèo thuyền vớ lấy một chiếc đinh gỉ to tướng, kê mũi nhọn vào ngực người bệnh và nắm tay đập một cái thật mạnh, đóng dính người bệnh vào chiếc ghế băng.
    -- Làm cái gì thế, đồ quái vật! -- người bệnh rên lên.

    * Tên các máy dùng chữa bệnh tim (N.D)
     
  2. notrinos

    notrinos Lớp 5

    -- Không thế thì ông lăn tùm xuông nước mất! -- người chèo thuyền trả lời.
    Rồi vẫn bằng những chiếc đinh gỉ như thế, anh ta đóng rịt cả hai tay hai chân người bệnh vào ghế, còn anh ta nhảy xuống nước.
    -- Đừng đi, đừng ruồng bỏ tôi, bạn thân mến, -- người bệnh van vỉ. -- Ai sẽ nhổ đinh ra cho tôi?!
    -- Người ta sẽ nhổ ra cho, khi nào sang đến bờ bên kia! -- tiếng người chèo thuyền từ xa vẳng lại. Người bệnh nghe thấy cả những tiếng nói khác trầm đục từ trên bờ vọng đến, nhưng không thể hiểu đấy là tiếng gì; những lời tiễn biệt, những tiếng la to khuyên ông phải đề phòng, những lời an ủi hay tiếng gào khóc của những người thương xót ông.
    ... Rồi tiếng người im bặt, tan biến. Chỉ còn lại cái đau âm ỉ, sự chờ đợi mệt mỏi, biển bao la không bờ bến và bản thân ông bị đóng đinh vào thuyền, bị mọi người bỏ quên.
    -- Trời ơi, trời ơi, sao anh lại bỏ rơi tôi! -- người bệnh thều thào, nhưng ông hiểu ngay rằng những lời đó không phải do ông thốt lên, vì vậy thượng đế không thể nghe thấy được.
    Còn con thuyền vẫn lắc lư đều đều trên những lượn sóng êm ả của biển xanh...
    Một nghìn năm trôi qua, bỗng nhiên người bệnh cảm thấy một cái va chạm. Lập tức cảm giác đau buốt do cái va chạm đó gây nên xuyên thấu qua ông. Thuyền cập bờ.
    Một đám người rất đông xúm quanh thuyền.
    -- Trời ơi, ông ta bị đóng đinh, khốn khổ chưa! -- một người nào đó vừa kéo thuyền lên bờ vừa tỏ ý thương người bệnh.
    -- Nhổ đinh ra cho tôi, tôi không thể chịu đựng nổi nữa! -- người bệnh van vỉ.
    -- Iasvili đâu? -- một trong những người ra đón hỏi.
    -- Tôi đây!
    -- Nhổ ra!
    -- Cắm sâu quá..
    -- Thế thì ta cùng hiệp lực! Nào... Một, hai, dô hò!..
    Trời ơi chẳng lẽ họ không nhổ được ư? -- người bệnh nghĩ và cố giơ một tay lên.
    -- Không được cử động! -- có người nào ngăn ngừa và liền đó nói với các bạn mình: -- Nào, một lần nữa, dô hò!
    Lại một nghìn năm nữa trôi qua. Người ta dùng răng nhổ đinh ra khỏi người bệnh.
    -- Thế nào? -- người đứng đầu hỏi.
    -- Đang lên! -- những người cấp dưới trả lời.
    -- Bao nhiêu?
    -- Sáu mươi!
    -- Được, khoan lo đến huyết áp, bây giờ hãy lo chăm sóc tim đi!
    -- Mạch năm mươi!
    -- Hình như đã thoát khỏi cơn nguy rồi! -- người đứng ở máy mônitơ nói.
    -- Nó lăn xuống! -- người bệnh thở dài.
    -- Cái gì lăn xuống? -- bác sĩ ngạc nhiên, hỏi.
    -- Bánh xe đã lăn xuống! -- người bệnh nhắc lại.
    -- Bánh xe nào? Ở đâu ra? -- tiếng bác sĩ run run.
    -- Ở chỗ này, từ chỗ này, bantônô ạ! -- người bệnh đặt tay lên tim và mỉm cười.
    Bác sĩ thở dài nhẹ nhõm, lau mồ hôi lạnh trên người bệnh.
    -- Xem chừng đã cứu thoát được rồi! -- ông thốt lên.
    -- Hừm, ở tuổi ông ấy mà đã bị nhồi máu... có hơi sớm quá không? -- có người nào hỏi, mấy ngón tay run run rút điếu thuốc lá trong hộp.
    Một lần nữa người bệnh lại cố mở mắt nhìn cái người đã nêu ra câu hỏi ngây thơ đó, nhưng không thể được: những thanh chì lạnh lẽo càng đè nặng hơn trên mi ông.
    ... Thế rồi bắt đầu một trạng thái ngây ngất như liều thuốc thần diệu, và người bệnh lại khởi hành, nhưng lần này không phải là đi trên mặt biển, mà leo một cái thang dốc bất tận. Duy có điều đáng ngạc nhiên: ông xuống thang, vậy mà dường như mỗi lúc một lên cao, cao mãi...
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/15
    ------, lichan, 4DHN and 8 others like this.
  3. Cải

    Cải Cử nhân

    Đóng góp một bản Scan khác (NXB Văn học 1984 - Phạm Mạnh Hùng dịch). Cũng không nằm ngoài quy luật đọc xong phải đeo kính luôn.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
  4. notrinos

    notrinos Lớp 5

    2
    Áo biu đen bỏ ngoài quần, ngang lưng thắt sợi dây thừng để thòi ra con dao làm bằng gỗ dán, bác thọt Avêtic Babaiantx miệng lầm nhầm một khúc ca ngắn, bước vào sân. Theo sau bác ta là một người đàn bà lưng đeo cỗ đàn thụ cầm. Một con chó Bôlônca * nòi chó Pháp chạy theo sau người đàn bà. Qua túm lông trắng như tuyết xõa xuống trán con chó, thấy long lanh hai con mắt đen ánh xanh, nhỏ như hai chiếc cúc áo.
    Gánh hát rong của Babaiantx thiết lập ngay giữa sân. Bác thọt mỉm cười hể hả nhìn các bà chủ nhà đứng đầy chặt các ban công của ngôi nhà bốn tầng, bác chống tay trái lên con dao một cách rất điệu, tay phải gửi các bà một cái hôn gió và tuyên bố các tiết mục biểu diễn của gánh hát:

    * Loại chó xù nhỏ, lông rất dài (N.D)
    -- Kính thưa công chúng và các quý bà quý ông Tbilixi! Gánh hát lưu động của nghệ sĩ công cộng Gruzya là Avêtic Babaiantx hôm nay sẽ trình diễn hầu quý ngài vở "Ôtenlô" mới cải biên theo lối hiện đại. Các vai gồm có:
    Ôtenlô -- do Avêtic Babaiantx đóng
    Đexđêmôna -- do Marya Pavlôvna đóng
    Iagô -- do con chó Bôlônka đóng
    Khúc nhạc mở màn do Marya diễn tấu bằng thụ cầm
    Giá vé hai mươi côpếc. Trả tiền trước
    -- Bắt đầu đi, đồ ngốc!
    Marya quay tay đàn. Trong tiếng nhạc rè rè, Babaiantx cất tiếng hát:
    Một con ruồi bay đi từ Batđa
    Một con ruồi bay đi từ Batđa
    Ai-đa-đa-đa, ai-đa-đa-đa...
    Trong các vị ai là người đáng mến nhất.
    Xin hãy ném tiêng ra mau mau!
    Ai-đa-đa-đa, ai-đa-đa-đa...
    Một trận mưa tiền loảng xoảng dội xuống lớp đá sỏi trong sân. Trẻ em như bầy chim sẻ đói xô đến nhặt tiền.
    -- Này bọn lỏi con, chớ có thủ tiền vào túi đấy nhé!
    -- Ở đây có cả xu đồng, bác Babaiantx ạ!
    -- Hãy ủ cho những đồng xu ấy nóng lên rồi dán chúng vào một chỗ duy nhất trong người, còn những đồng trắng thì đưa đây.
    -- Thế những đồng nằm sấp thì sao!
    -- Đưa đây, đưa đây, vào trong túi nó sẽ nằm ngửa!
    -- Ô-hô, được bao nhiêu là tiền!
    -- Không nhiều hơn lương bố mày đâu!... Ê, Marya, đồ chó cái, trút tiền ở tạp dề ra đi!
    Việc quyên tiền đã xong, Babaiantx tháo dây lưng, đổ tiền vào chiếc túi khâu ở mặt trong quần, rồi rút ở túi ngoài ra một tờ báo gập nhỏ, mở rộng ra và quẹt diêm đốt. Khi tờ báo đã cháy hết, bác cẩn thận vét tro vào lòng bàn tay, nhổ nước bọt vào và lấy tay kia chà xát lên. Rồi bác xoa cả hai tay lên mặt và xoay mình lại, biến thành anh chàng Morơ trước con mắt thán phục của khán giả.
    -- Xtenla! Râ đi. -- Ôtenlô ra lệnh
    Con chó chạy tới. Ôtenlô cúi xuống, ghé sát tai vào cái mũi đen bóng của con vật. Con chó Iagô sủa ba tiếng và đứng lên bằng hai chân sau.
    -- Ô! -- Ôtenlô kêu lên với khán giả. -- Iagô nói rằng Đexđêmôna vợ tôi gian díu với Kaxxiô!
    Rồi làm vẻ mặt buồn, Ôtenlô cúi xuống gần con chó, và con chó lại sủa lên ba tiếng: lần này thì to hơn và dữ tợn hơn.
    Ôtenlô sững sờ. Anh ta im lặng, lượng định tình thế đã xảy ra. Rồi đột nhiên anh ta cười phá lên:
    -- Ha-ha-ha! không thể thế được! Mày nói láo, con chó kia!
    Xtenla chạy tới gần Marya, ngoạm lấy tấmk hăn hoa Batđa, giật khỏi tay chị và đem đến cho anh chàng Morơ. Ôtenlô nhìn tấm khăn và ngây người ra.
    -- Đúng, đây là chiếc khăn ta tặng nàng năm ngoái! -- Anh thốt lên bằng giọng thảm thiết và đập đầu ba lần vào cây phượng. Những con chim sẻ hoảng sợ bay vút lên -- Marya, ra đây! -- Chàng Morơ gọi Đexđêmôna.
    Vợ Ôtenlô dựa cỗ đàn thụ cầm vào cây phượng và đến trước chồng, đầu cúi gục xuống.
    --- Mình cất chiếc khăn tôi tặng mình vào đâu rồi? --- Ôtenlô hỏi, nhìn vợ bằng con mắt dò xét.
    -- Ông hoạnh họe cái gì vậy? Làm sao tôi biết được chiếc khăn tay của ông ở đâu? Hẳn là chính ông đánh mất hay nhét vào chỗ nào, rồi bây giờ làm tình làm tội tôi! -- Đexđêmôna hậm hực đáp.
    -- Ôi, quân hèn hạ! Thế mà cũng mang danh là một người phụ nữ! Mi đánh đổi ta lấy một thằng như thế nào? Lấy thằng Kaxxiô đê mạt ư? -- Nổi khùng, Ôtenlô bóp cổ Dexđêmôna.
    -- Nhẹ tay chứ, đồ ngốc! -- Đexđêmôna vùng ra khỏi tay Babaiantx và nằm xuống tấm khăn đã trải sẵn trên mặt đất.
    Ôtenlô lại phá lên cười hô hố một lần nữa, rồi quỳ xuống, áp tai vào ngực Đexđêmôna, và khi biết chắc cô ta đã chết, anh chàng hãi hùng ôm đầu, rồi rút con dao bằng gỗ dán ra, cắm vào nách như cắm cái cặp nhiệt độ và nằm dài xuống cạnh xác người vợ vô tội của mình. Con chó Iagô nhân lúc đó, chạy đến chỗ cây phượng, hếch một chân lên, đái vào cỗ đàn thụ cầm dựa vào thân cây.
    Tấn bi kịch đến đây là hết.
    -- Hoan hô, Babaiantx! -- Các ban công reo hò.
    -- Hoan hô, Ôtenlô! -- Các hành lang reo hò.
    -- Hoan hô Đexđêmôna! -- Các bà gào lên.
    -- Hoan hô Xtenla! Hoan hô Iagô! -- Trẻ em reo the thé...

     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/15
    4DHN, laithanhtuan, langtu and 2 others like this.
  5. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Trong nhà ăn, đèn vẫn sáng. Ba người nói chuyện khe khẽ, gần như thì thầm, tuồng như sợ làm cho một người thứ tư nào đó thức giấc. Đồng hồ treo tường điểm hai tiếng.
    -- Nhanh lên một chút, chúng tôi còn phải đến mấy nơi nữa...-- Một người đàn ông lên tiếng.
    -- Ôlya, chị cậy nhờ em... Đưa cháu về Khôni * cho mẹ...

    * Tên của thành phố Txulukitzê
    Người đàn bà hai tay run run xếp áo xống vào vali, vẻ cầu khẩn nhìn người đàn bà kia đang khóc trong góc phòng.
    -- Đừng lo, chị Anikô! -- Chị ta khóc nức lên.
    -- Ngay ngày mai!
    -- Chẳng cần dặn dò như thế, Kanbatônô * ! -- Người đàn ông chen vào -- Thì tôi đã bảo rồi mà: người ta chỉ hỏi bà mấy câu về vụ của chồng bà, rồi sẽ để bà về thôi. Bà sửa soạn càng nhanh thì càng chóng được về...
    -- Chớ nên thế mà phải tội với trời! -- Người đàn bà van vỉ -- Hãy thương lấy đứa trẻ khốn khổ! -- Hai tay người đàn bà run run, chiếc vali không đóng lại được. Người đàn ôn giúp một tay, đóng vali lại và đưa cho người đàn bà.
    -- Nhanh nhanh lên, Kanbatônô, sáng rồi!
    -- Tôi mà anh gọi là kanbatônô à?... Nếu trong anh còn lấy một giọt máu người thì anh đã thương tôi... Anh hãy nói là anh không gặp tôi ở nhà... Tôi sẽ biến mất ngay hôm nay, biệt tăm tích... Giọng nói của người đàn bà rung lên một âm thanh hy vọng yếu ớt, khó nhận thấy.
    -- Không, không thể được!
    -- Thế thì thư thư cho một lát để tôi từ biệt con trai tôi, -- Người đàn bà cầu xin.
    -- Từ biệt nhau lần cuối rồi còn gì!
    Người đàn bà đi về phía phòng ngủ, nhưng người đàn ông vượt lên trước và đứng tựa lưng vào cửa.
    -- Này thôi đi! Cái gì cũng phải có phép tắc chứ!
    -- Một lát thôi mà!
    -- Không!
    -- Chẳng lẽ anh không có vợ con gì ư?
    -- Hiện tại không có và sẽ không có, tôi là con người tự do -- gã mỉm cười.
    -- Anh là kẻ nô lệ, chứ không phải người tự do! Một tên nô lệ khống nạn, thằng ăn mày và đứa đểu cáng, thế đấy! -- Người đàn bà nổi giận.
    -- Ai trong hai ta là kẻ nô lệ và đểu cáng thì rồi sẽ rõ, còn bây giờ thì đi đi, trong lúc tôi còn...-- Mặt người đàn ông tái đi.
    -- Còn làm sao?
    -- Với những kẻ phản bội tổ quốc thì không có cách nào khác!
    -- Anh mà cũng nói đến tổ quốc ư? Thằng lưu manh!
    -- Nhớ lấy những lời ấy nhé!
    -- Nhớ chứ!
    Gã đàn ông nắm lấy khuỷu tay người đàn bà và lôi về phía lối ra.
    -- Ôlya! -- Người đàn bà thét lên.
    -- Anikô! Chị yêu quý của em!
    Một lúc yên lặng. Rồi đột nhiên vang lên tiếng khóc to, nức nở của hai người đàn bà.
    -- Khổ quá, cái số ta là số ăn mày! Tự dưng bị phái đi làm cái việc này! -- Gã đàn ông nghiến răng, -- Thôi đi các bà! Rút cuộc thì tôi cũng vẫn là con người thôi! -- Một cái gì dâng lên tắc nghẹn trong họng, gã cố nuốt xuống cho xuôi.
    Tiếng sập cửa vang ầm làm đứa trẻ thức giấc. Nó nhổm ngay dậy trên giường và nhìn sang giường mẹ. Giường bỏ không.
    -- Mẹ ơi! -- Đứa trẻ gọi. Không ai trả lời nó. -- Mẹ ơi! -- Nó lại gọi khe khẽ. Rồi nó đến gần giường mẹ và vén tấm chăn lên. Chăn đệm vẫn còn ấm.
    Nỗi sợ dâng lên từ hai bàn chân, qua đầu gối, nhập vào khoan bụng, rồi bó chặt lấy phổi và cuối cùng đọng lại trong hai con ngươi. Chân đi đất, mặc chiếc áo ngủ tráng dài đến gót, đứa trẻ chạy ra cửa và đẩy cửa.
    Trong phòng ăn, trên chiếc tăcta * thấp, dì Ôlya ngồi gục đầu vào hai bàn tay. Vai dì run run. Đứa trẻ dừng lại trước dì và hỏi:
    -- Dì Ôlya ! Mẹ cháu đâu?
    Người đàn bà không trả lời.
    -- Dì Ôlya, mẹ cháu đâu? -- Đứa trẻ nhắc lại câu hỏi, đưa bàn tay lạnh giá gầy guộc chạm vào vai người đàn bà.
    -- Batsana ạ, mẹ cháu...-- Người đàn bà nghẹn lời.
    -- Mẹ cháu đi đâu rồi?!
    Người đàn bà ôm lấy đứa trẻ, áp đầu nó vào ngực mình và đưa bàn tay bịt miệng nó để khỏi phải nghe câu hỏi ghê rợn ấy. Đứa trẻ im bặt, nhưng nhìn đôi môi mấp máy của nó, chị đoán được nó vẫn nhắc đi nhắc lại câu hỏi ấy.
    Đứa trẻ run bắn lên, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên người nó. Môi nó tím ngắt đi và không còn mấp máy nữa.
    -- Trời ơi, thượng đế chí công, chẳng lẽ Người không nhìn thấy ư?. Nếu người nhìn thấy thì uy quyền của Người ở đâu?!
    Kiệt lực, người đàn bà quỳ xuống trước đứa trẻ...

    * Đi văng cứng, có gối đầu, trải thảm.
    -- Thằng bé có tật tim và loạn thần kinh chức năng thể cấp...
    -- Duyên do vì đâu? Tại sao, thưa bác sĩ? -- Dì Ôlya ngạc nhiên hỏi.
    -- Tật tim do hoàn cảnh sống tạo ra... Cháu có bị chấn thương nặng lần nào không?
    --Dạ không.
    -- Cháu bao nhiêu tuổi?
    -- Chín tuổi
    -- Ờ..ờ... Lạ thật... Rất kỳ lạ...

    Đoàn xe hỏa như con sau xanh chậm chạp rời khỏi ga Tbixili. Dì Ôlya cởi quần áo cho Batsana, mặc cho nó chiếc áo ngủ dài, cho nó nằm ở tầng ván trên, kê dưới đầu nó chiếc vali lớn bằng da.
    -- Ngủ đi! -- Chị bảo thằng bé và ngồi ở một chỗ phía dưới, cạnh cửa sổ, Batsana quay mặt vào vách toa.
    Trong toa xe chật ních, không khí ngột ngạt.
    -- Này, trước khi ngủ người ta thường nói thế nào? -- Người dì nhắc.
    -- Chúc ngủ ngon! -- Thằng bé mỉm cười với hành khách và lại quay vào vách.
    -- Chà, thằng bé lễ phép quá! -- Một hành khách gầy gò tỏ vẻ ngạc nhiên. -- Các con tôi thì chỉ biết gọi nhau là đồ chó đẻ, mà lại ngay trước mặt tôi kia chứ!... Nó là thế nào với chị? Con trai chị à?
    -- Vâng, con trai.
    -- À, ra thế... Nhưng nó chẳng giống chị chút nào. Chắc là giống bố phải không?
    -- Vâng.
    -- Thế chứ... Người ta nói không sai: quả táo rơi không xa gốc táo...
    -- Này, hạ tấm che xuống. -- Tiếng nói oai vệ của người phụ trách toa xe.
    -- Có chuyện gì vậy? -- Dì Ôlya hỏi.
    -- Zaghex! * -- Có tiếng đáp
    -- Thế thì sao?
    -- Sợ phá hoại ngầm -- Vẫn tiếng nói ấy giải thích.
    -- Phá hoại ngầm... Phá hoại ngầm... -- Batsana nhắc lại, nửa thức nửa ngủ, -- Sáng ra, ta sẽ hỏi dì xem tiếng đó là thế nào...
    Liền đó, cơn buồn ngủ làm chú díp mắt lại...

    Ban đêm mẹ đến. Chị thận trọng rút chiếc vali dưới đầu thằng bé và thay vào đó chiếc gối mềm độn lông tơi. Thằng bé cựa quậy. Thường ngày mẹ vẫn hay đặt lại gối cho nó, bởi vậy thậm chí nó không mở mắt ra, mà chỉ quấn chăn cho kín hơn.
    -- Đặt đầu lên gối đi, con trai bé bỏng của mẹ...-- Batsana nghe thấy tiếng thì thầm và cảm thấy bàn tay chạm vào má... Nhưng tại sao bàn tay ram ráp như thế? Tay mẹ mềm mại hơn nhiều... Có lẽ đấy là bố chăng? Đúng, chắc là bố, cố nhiên bố đặt món quà xuống dưới chiếc gối...
    -- U-u-u...-- Xe lửa gào thét.
    Batsana ngủ ngon lành. Chú ngủ và mơ một giấc chiêm bao tuyệt diệu... Trong phòng gương của Cung thiếu niên, các cô bé và cậu bé đứng xếp hàng...trắng

    * Zaghex -- nhà máy thủy điện Zêmô -- Avtxanxkaia (ở gần Tbilixi)
    như tuyết... Những chiếc khăn quang đỏ thắm... Batsana cũng ở trong số đó. Hôm nay là một ngày phi thường:Hôxê Diax và Đôlôrex Ibarruri phát cho các em thiếu niên những chiếc mũ có quả tua: quà tặng của các em thiếu niên nước Cộng hòa Tây Ban Nha... Đôlôrex Ibarruri là một phụ nữ cao lớn, nước da rám nắng, xinh đẹp, bà thay mặt một nam thiếu niên xứ Baxk trao tặng Batsana chiếc mũ chùm.
    -- Sẵn sàng! -- Ibarruri nói.
    -- Luôn luôn sẵn sàng! -- Batsana chào đáp lại.
    -- Xin chào! -- Ibarruri nói, nắm tay giơ cao trên đầu rồi xoa má Batsana và mỉm cười nồng hậu...

    Xe hỏa lao như cơn lốc ra khỏi đường hầm Txipxki, không dừng lại, gào thét vượt qua ga Marêlixki khiến những người đứng túm tụm trên sân ga hoảng sợ chạy dạt cả ra và nó tiếp tục lao đi.
    -- Cứ thế này thì một giờ nữa ta sẽ đến Xamtrêđya! -- hành khách cổ quấn tấm băng bẩn thỉu thốt lên bằng giọng khàn khàn:
    -- Thế đến Xamtrêđya nó có dừng lại không? -- Dì Ôlya lo lắng, hỏi.
    -- Ở Mơsơkhêta người ta móc thêm vào đoàn xe của chúng ta một toa xe kỳ lạ chở cái gì không rõ, -- Người hành khách gầy gò ban nãy đã khen Batsana lễ phép xem vào câu chuyện. -- Đứng trên các bậc toa là những quân nhân. Vừa đúng lúc tôi xuống lấy nước, chính mắt tôi nhìn thấy...
    Còn đoàn xe vẫn chạy băng băng, vượt qua những ga nhỏ và ga xép.
    -- Nửa giờ nữa đến Xamtrêđya! Dừng ba phút!-- Người phụ trách đi dọc toa xe, gõ chìa khóa vào từng giường.
    -- Hôm nay toa xe của ông chạy nhanh quá -- Người hành khách gầy gò nói với người phụ trách toa, -- Có lẽ sẽ phải trả thêm tiền chăng?
    -- Đến nơi thì hỏi trưởng ga ấy! -- Người phụ trách toa xe cằn nhằn.
    -- Thế trưởng ga sẽ ra đón tôi chứ? -- Người hành khách gầy gò hỏi với vẻ ngây thơ giả tạo.
    -- Nếu chính phủ không quên báo trước cho ông ấy thì cố nhiên ông ấy sẽ ra đón!
    -- À, về trí nhớ của chính phủ ta thì tôi không có gì phải phàn nàn... Cho đến hôm nay, chính phủ vẫn nhớ tôi đã bỏ phiếu cho ai năm chín trăm linh năm trong cuộc mít tinh ở sân nhà thờ Ilorxkaia...
    -- Hừ, cái anh chàng này! Có mồm thì cắp có nắp thì đậy và hãy tạ ơn thượng đế là ta vốn nặng tai! -- Người phụ trách toa xe mắng ông ta.
    Người gầy còm im thít. Xe hỏa tăng tốc độ.
    -- Kanbatanô, hình như bà xuống Xamtrêđya thì phải? -- Người hành khách trẻ tuổi chạm tay vào dì Ôlya đang thiu thiu ngủ. Dì giật mình, mở mắt.
    -- Cái gì?
    -- Tôi bảo là sắp đến Xamtrêđya rồi. Bà xuống chứ?
    -- Vâng.
    Dì đứng phắt dậy, đâm bổ đến chỗ Batsana.
    -- Batsana, dậy đi, bé yêu quý! Ta xuống thôi! Batsana ngồi nhỏm dậy trên giường.
    -- Nhanh lên, bé yêu quý!
    Dì loay hoay với chiếc túi xách.
    Thằng bé vươn tay về phía đầu giường và sững sờ.
    -- Dì Ôlya, mẹ cháu đâu?
    -- Bé hỏi gì kia, Batsana? -- Giọng dì Ôlya run lên.
    Hành khách ngạc nhiên, hết nhìn thằng bé lại đến người đàn bà mặt tái mét.
    Ôlya hiều rằng câu chuyện đêm qua sắp lặp lại. Chị nhanh chóng đặt thằng bé xuống sàn, ôm ghì nó vào ngực và đưa tay bịt miệng nó.
    -- Các ông cá bà ơi, giúp tôi với!
    Xe hỏa dừng lại.

    Người trực ga Xamtrêđya giật chuông ba lần. Khi đoàn xe ở đường tàu số hai chậm chạp chuyển bánh rồi khuất hẳn, người trực ga vẫn đứng sững tại chỗ: trước mặt anh ta, trên sân ga vắng tanh có hai người: một người phụ nữ không có măng tô, tóc buông xõa, mặt nhăn nhó và một thằng bé đi chân đất, mặc chiếc sơ mi trắng dài đến gót. Tay nắm tay, cả hai cùng không nhúc nhích. Người trực ga ngây ra nhìn họ giây lát, rồi như cái máy, giật sợi dây chuông. Trong đêm khuya thanh vắng vang lêna tiếng chuông buồn thảm.
    Din-na-u...Din-na-u... Din-na-u...
    -- ôxxim, -- Trưởng ga nói với người giúp việc của mình, -- làm ơn bắt tên vô lại kia câm họng đi hộ tôi với! Hắn lại rượu vào rồi mới dẫn xác đến trực ban!
    Người đàn bà và đứa trẻ vẫn đứng như thế trên sân ga vắng tanh.
    Chuông vẫn rền rĩ một điệu buồn thảm như thế.
    Din-na-u... Din-na-u... Din-na-u...
     
    4DHN, laithanhtuan, thanhbt and 3 others like this.
  6. notrinos

    notrinos Lớp 5

    3
    Cái buồng bệnh ba giường thấm đượm mùi iôđôfooc lẫn với mùi cồn, mùi long não và mùi hơi ẩm của sàn nhà mới lau chùi. Để khỏi ngạt thở, bằng một cử động thận trọng Batsana kéo chăn che kín mũi, rồi cũng thận trọng như thế, ông tự xem mạch của mình. Tim đập như thời thơ ấu khi Basana nheo mắt, tựa đầu vào tấm vách, bắt đầu đếm: " Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, tám rưỡi, chín, chín rưỡi, mười! ".
    Batsana thôi không bắt mạch nữa và đặt tay lên tim. Tim im lặng. Sợ hãi, ông lại xem mạch. Mạch vẫn đập. Thế là ông chậm rãi thò mũi ra khỏi chăn. Một mùi găn gắt xông lên.
    -- Cửa sổ... -- Batsana khẽ thốt lên.
    -- Cái gì? -- Giường bên lên tiếng.
    -- Ô-hô! Ông ấy còn sống ư? -- Giường kia hỏi.
    -- Chẳng lẽ người ta lại đưa người chết đến đây à?
    Đây là phòng bệnh hay nhà xác? -- Giường thứ nhất đáp bằng giọng bực tức.
    -- Nghe nói là một nhà văn. -- Giường thứ hai đáp.
    -- Chỗ của nhà văn là ở Mơtatxminđa * , chứ không phải là ở đây.
    Batsana nghe thấy cuộc đối thoại giữa hai giường kế cận, nhưng đối với ông, cái chủ yếu bây giờ là không khí, không khí tươi mới, trong lành, ngoài ra không cần gì hơn.
    -- Cửa sổ! -- Ông nhắc lại.

    * Nghĩa đen là " Núi Thần " -- ngọn núi ở Tbilixi, nơi có lăng các nhà hoạt động xã hội xuất sắc (ND)
    -- Ở đây có cái gì không vừa ý ông ta, không rõ là không khí hay cửa sổ.
    -- Không khí. -- Batsana nói.
    -- Thưa ông, ông biết đấy, chúng tôi không được phép trở dậy, thậm chí không được phép cử động nữa kia. -- giường thứ hai cho biết. -- Vì vậy, chừng nào cô hộ lý chưa đến thì ông đành bằng lòng với thứ không khí mà tôi và ông Bulika đáng kính vẫn thở vậy.
    Batsana hiểu rằng Bulika là tên giường thứ nhất. Bây giờ cần biết rõ người nằm giường thứ hai là ai.
    -- Mấy giờ rồi? -- ông hỏi.
    -- Theo tôi, bây giờ là lúc cha làm dấu thập ác và cầu nguyện đức Chúa Trời! -- giường thứ nhất trả lời.
    Batsana nghiêng qua giường thứ hai và nhìn thấy bộ râu đen với những sợi râm bạc. " Chắc là một cha cố " -- ông nghĩ và hỏi lại:
    -- Mấy giờ rồi?
    -- Mười giờ. -- Bộ râu đáp.
    -- Thế ông không quan tâm đến thế kỷ à? -- Bulika tò mò.
    Người ốm thường bông đùa hoặc trước khi chết hoặc sau khi bình phục, Batsana vẫn nhớ bây giờ là thế kỷ thứ mấy, nhưng lúc này ông quan tâm đến vấn đề khác: bộ mặt của người đã bình phục này. Đầu giường Bulika ở phía chân Batsana, vì thế ông chỉ có thể nhìn thấy quãng đầu hói của ông ta.
    Batsana bất giác mỉm cười, và không muốn làm mếch lòng người nằm giường bên, ông hỏi:
    -- Bây giờ là thế kỷ thứ mấy?
    -- Đúng rồ-i, thưa cha, ông ấy từ những vùng rất xa xôi trở về, -- Bulika nói với giường thứ hai. -- Tôi thì chưa đi xa đến như thế.
    -- Ờ thì bác chỉ thiếu máu cục bộ vách sau tim. Còn ông ấy không phải chỉ thương tổn vách sau, mà là cả một đống hoang tàn Bagrachi *.

    * Đền thờ Bagrat (thế kỷ X-XI), gần thành phố Kutaxi (N.D)
    -- Nếu vậy thì ông bạn thân mến ạ, đối với ông bây giờ là thế kỷ đầu của kỷ nguyên mới! -- Bakila nói rõ hơn.
    Batsana không đáp. Ông bắt đầu quan sát buồng bệnh.
    Cửa ra vào. Một giường bệnh. Một giường bệnh nữa. Hai cái tủ con thấp, trên để những lọ matxôni *, những lọ thuốc, những trái cây có đậy tấm khăn ăn. Những bức tường trắng. Một cửa sổ lớn. Một chiếc bàn dùng chung có một bình nước và những bông hồng đã tàn héo. Dưới giường thứ nhất là một chiếc bô màu trắng, dưới gầm giường thứ hai có cái gì thì Batsana không nhìn thấy. Ông nằm giường số ba. Ông nghiên cứu khá kỹ quãng đầu hói của người thứ nhất ở giường kế cận. Ông cảm thấy khuôn mặt trông nghiêng của người thứ hai, người có râu, nom khá dễ ưa: trán cao, mũi thẳng, bộ râu rậm điểm bạc... Hôm nay là ngày thứ mấy? Tháng nào?
    Những câu hỏi liên tiếp nảy ra trong đầu Batsana và ông không thể tìm ra câu trả lời nào cả. Thôi, thây kệ những câu hỏi đó, ít ra cũng cần biết năm nay là năm bao nhiêu!
    -- Năm nay là năm bao nhiêu? -- Ông buột miệng nói.
    -- Ông ấy mê sảng hay lỡm chúng ta! -- Bulika nói.
    -- Không, chẳng qua là ông ấy thiếu ôxy, vì thế lẫn trí. Tôi cũng đã có lần như thế. -- Bộ râu đáp. -- nên cố tìm cách mở cửa sổ ra.
    Trong phòng bỗng nhiên đầy sương mù màu hồng quen thuộc, và Batsana lại ở trên cái thang dốc.
    -- Ông tên là gì, thưa ông? -- Bulika từ xa đưa lại.
    " Tên tôi là Batsana, họ là Ramisvili! " -- Batsana toan trả lời, nhưng lại im lặng. Bulika ở xa, xa lắm.

    * Sữa chua đặc (ND)
    -- Thôi đi, ông ấy đang thiêm thiếp ngủ! -- Bộ râu đáp khe khẽ.
    " Ồ không, tôi không ngủ đâu, tôi đang bị kéo xuống thang! giúp tôi với, cho tôi trở lại phía trên!" -- Batsana muốn kêu lên mà không được. Bắt đầu một trạng thái ngây ngất màu hồng, lưỡi không tuân theo ông nữa. Để khỏi mất hẳn những người đó, những người ở các giường bên, Batsana ngồi xuống bậc thang.
    -- Ông ấy ngủ rồi! -- Nulika nói.
    Batsana không ngủ. Ông nghe thấy hết.
    Từ gậm giường của Bulika, một con chuột cống bò ra, hếch mồm đánh hơi, ngọ nguậy ria.
    -- Nó đã hạ cố đến thăm ta, -- Người bệnh No-1 nói.
    -- Một mình nó hay cả gia đình? -- Bulika hỏi.
    -- Lúc này mới có một mình nó.
    -- Xem xem có phải nhà văn của chúng ta đã chết rồi không? Cha ạ, chuột thường kéo đến khi đánh hơi thấy mùi xác chết. -- Bulika nói và thận trọng ngóc đầu lên nhìn con chuột, nhưng không kịp. Tiếng kẹt giường làm con chuột kinh hoảng, nó chạy vụt về hang. Bulika chỉ kịp trông thấy cái đuôi nó. -- Nó chuồn rồi. -- Bác ta nói bằng giọng tiếc rẻ.
    -- Nó sẽ quay lại. -- Người bệnh giường No-2 an ủi Bulika, lấy trong chiếc tủ con ra một mẩu đường và ném xuống sàn. -- Nó sẽ trở lại cùng với cả gia đình.
    -- Nhưng ông hãy cứ xem xem nhà văn còn sống hay không?
    Người có râu quay đầu về phía giường Batsana. Ông nằm không nhúc nhích, hai bàn tay xanh mét ấp trên ngực.
    -- Chăn động đậy và mi mắt rung rung.
    -- Chăn động đậy tức là ông ấy thở, thở tức là tim hoạt động. Mi mắt rung rung tức là ông ấy không ngủ, không ngủ tức là nghe thấy chúng ta, nghe thấy là phải trả lời, không trả lời tức là bệnh tình nghiêm trọng... Bulika kết luận. -- Đồng chí nhà văn kính mến, đồng chí còn sống chứ?
    " Còn sống, tôi đang ngồi trên thang và chờ đợi các bạn đưa tôi lên trên". -- Batsana muốn trả lời. Hỡi ôi, chỉ là mong muốn thế thôi. Bulika không thể đoán được mong muốn của người khác.
    -- Nó mà bò lên, chui ra thì tôi sẽ tin thượng đế!... -- Bulika nói với người có râu.
    -- Thì nó chui ra kia rồi! -- Người có rấu mừng rỡ, -- Lại dẫn theo cả gia đình nữa chứ!
    Lần này, con chuột cái dẫn theo cả chồng và hai con. Nó đi diễu một vòng quanh cái bô, rồi xộc thẳng tới chỗ miếng đường. Không thèm tốn công tha thức ăn vào hang, nó gọi người nhà, và cả gia đình nó lần lượt gặm miếng đường.
    -- Con vật khốn khiếp, nó cảm biết chúng ta không thể trở dậy được! Nếu không thì ngay cả hổ cũng không dám láo đén như thế, -- Bulika tức giận lắc đầu. Con chuột quay đầu lại, đứng lên bằng hai chân sau và tò mò nhìn người nói.
    -- Thậm chí nó hiểu cả tiếng nói của chúng ta, quân trời chu đất diệt! -- Bulika ngạc nhiên.
    Thế giới vô sinh có tiếng nói bí ẩn kỳ diệu của riêng nó.
    Loài người không hiểu nổi.
    Nào ai biết: con người tinh khôn có khám phá ra không
    Cái sáng suốt đã được thấu hiểu từ lâu trong thế giới nọ?
    -- Thơ gì thế, "Dũng sĩ khoác da hổ" * phải không? -- Bulika hỏi.
    -- Không, "Dũng sĩ" thế này kia:
    Nghe tiếng Avtanđin, thú vật đàn đàn lũ lũ kéo ra khỏi các khu rừng sồi.
    Chúng nghe chàng và ngạc nhiên về tính chân thật của chàng.
    -- Hừm, nó sống sướng hơn người. Chén đường không phải trả tiền, không bị nhồi máu cơ tim, không mắc chứng đau thắt ngực, chứng tim đập nhanh... Chúng ta lại đọc thơ cho nó nghe!... Xem kìa, nó béo tròn béo trục như con lợn vậy!
    -- Chứ sao, điều kiện sống thích hợp...
    -- Vậy là thế nào? Nếu xét vấn đề về mặt lịch sử xã hội và loại trừ sự phản vệ sinh và lập luận một cách loogic và khách quan thì phải thừa nhận rằng chuột cống sinh ra do hoàn cảnh dư thừa thực phẩm. Thành thử tôi không thấy sự việc đó có gì dơ dáy... Nói chúng chuột cũng là một tạo vật của chúa... Chỉ tiếc rằng nó reo rắc bệnh dịch hạch, cái đó thì có...

    * Tác phẩm của nhà thơ cổ Gruzya, thế kỷ XII, Sôta Ruxtavêli (không rõ ngày sinh, ngày mất) (N.D).
    -- Chỉ xin cha đừng làm ồn và dừng gọi tôi là kẻ vô thần, nhưng cha làm ơn cho biết: Chúa của cha cần tạo ra chuột cống để làm gì, hả cha ? Ít ra cũng nên cho nó một bản chỉ dẫn mới phải chứ ! Ồ, công dụng của nó dưới cõi trần này là gì ? Chơi nhạc ư? Không ! Làm món toonma * ư? Không! Thế thì nó làm gì ? Gặm nhấm đường, gặm sàn, gặm sắt, gieo rắc dịch tả, dịch hạch, mọi thứ bệnh truyền nhiễm! Nó là thế đấy, tạo vật ấy của cha do chúa sinh ra! Hừ, mẹ cha nó!... -- Bulika nhổ bọt và quay mặt vào tường.
    -- Anh thật là đần độn! Chúa tạo ra chuột cống để những kẻ ngu dốt như anh thấy sự toàn năng của Chúa! Và hãy giữ mồm giữ miệng, kẻo sau khi anh chết Chúa lại bắt hồn anh đầu thai vào chính con chuột này đấy! -- Người có râu hăm dọa.
    -- Muốn vậy thì Chúa chỉ cần một con chuột cống thôi là đủ! -- Bulika hạ giọng.
    -- Ném cho con chuột miếng đường, tôi hết ráo cả rồi! -- Người bệnh No-2 nói.
    -- Có lẽ cần dân cho nó "khúc duôi tôm" chăng? Liệu nó có nảy mụn trứng cá ra không nhỉ? -- Bulika hỏi với giọng khinh miệt, lại quay về phía người nói chuyện với mình.
    -- Mọi sinh vật trên đời đều là tạo vật của Chúa. -- Người kia trả lời với giọng dạy đời. -- Và ta nên sống hoàn toàn hòa hợp.
    Ăn xong chỗ đường, mấy con chuột bắt đầu đánh hơi cái tủ con của Batsana, nhưng không tìm thấy ở đấy thứ gì ăn được -- Batsana chưa kịp trữ thực phẩm -- nó chuyển sang khu vực của người bệnh No-2. Nhưng ở đây cũng không có gì thích hợp, thế là chúng bắt đầu gặm chân chiếc tủ con.
    -- Hừ, chúng mày chết tiệt đi cho rảnh! -- Người bệnh No-2 bỗng kêu ré lên và ném chiếc giầy vào con chuột, ném mạnh đến nỗi Bulika hoảng sợ ấp hai tay lên tim.

    * Món ăn làm bằng thịt ở vúng Kavkazơ, tương tự như món thịt băm bọc lá cải bắp.
    -- Chớ phá hủy sự hài hòa, thưa cha! -- Bác ta nói một cách mỉa mai và để phòng ngừa sự bất trắc, bác đặt một viên notrôglyxêrin dưới lưỡi.
    -- Có chuyện gì thế? -- Chị y sĩ hỏi, nghe thấy tiếng ồn ào, chị vào.
    -- Thưa chị Giênya, -- Người bệnh No-2 nói với chị y sĩ bằng giọng lo lắng, -- Hoặc chỉ bảo vệ chúng tôi khỏi những con vật đáng tởm, hoặc xin chị đặt một cái bẫy chuột.
    -- Ông định nói gì thế?
    -- Cố nhiên, không phải là "Bẫy chuột" của Vagiơ Psaven! Hãy giải thoát chúng tôi khỏi những con chuột cống! Không thể tiếp tục chịu đựng sự có mặt của chúng được nữa.
    -- Lạ thật, thưa batônô, đã ba chục năm tôi làm việc ở đây mà không hề thấy một con chuột nhắt nào cả!
    -- Thì tôi có nói đến chuột nhắt đâu. Chuột cống kia chứ!
    -- Thế thì lại càng không có!
    -- Tôi nói quyết với chị rằng ở đây đầy chuột cống! -- Người bệnh No-2 khăng khăng nhắc lại.
    -- Giầy của ai đây? -- Chị y sĩ tránh trả lời.
    -- Của tôi, chị Giênya ạ, giầy của tôi, tôi muốn ném chết con chuột cống!
    -- Thế sao bảo là " Không được sát hại sinh linh", thưa cha?
    -- Điều răn ấy không cần chị giảng giải thêm, mà nói chung, một người phụ nữ ở tuổi chị phải phân biệt được người với chuột cống! -- Người bệnh No-2 bực tức.
    -- Tuổi của tôi không phỉa là chuyện đáng cho cha bận tâm! -- Giênya nổi nóng, -- Tôi không phải là y sĩ về chuột cống ! Cần thuốc thì nói với tôi, còn về bẫy chuột và Xtricnin thì hỏi thủ kho!
    -- Trong phòng chúng tôi hiện giờ có một nhà văn! Chắc là ông ấy sắp hồi tỉnh, ông ấy sẽ chính mắt nhìn thấy hết và sẽ đưa các người lên báo! -- Bulika đe dọa.
    Chị y sĩ tới gần giường Batsana, ngồi ghé xuống bên giường và bắt mạch cánh tay không còn sức sống của ông...
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/15
    ------, 4DHN, sannyas60 and 5 others like this.
  7. notrinos

    notrinos Lớp 5

    -- Ôi chao, ông ấy còn hơi sức đâu mà... -- Chị thở dài.
    -- Làm ơn, mở hộ cửa sổ ra, ông ấy vừa tỉnh lại và đòi không khí. -- Người bệnh No-2 nhớ ra.
    ...Giênya đứng phắt dậy khỏi giường đến gần cửa sổ và mở toang cửa.
    Không khí tươi mát tràn trề sức sống, thấm đượm hương thơm hoa phượng tràn vào phòng. Phòng bệnh ngát hương thơm mùa xuân.

    -- Đứng dậy, leo lên đi! -- Một giọng rất quen gọi Batsana lúc ấy đang ngồi trên thang, ông đi theo tiếng gọi ấy. Cái thang đưa ông tới một bãi trống nhỏ nằm lọt giữa những cây phượng nở hoa, trên bãi rải rác những bông anh túc đỏ như máu. Giữa đám hoa anh túc có một chú ngựa non trắng như tuyết với cỗ bờm lộng lẫy. Nó nóng nảy giậm một chân trước xuống đất như gọi Batsana đến với nó.
    -- Hãy đến cưỡi lên lưng tôi! -- Batsana nghe thấy. Ông cưỡi lên con ngựa, hai tay ôm lấy cổ nó và gục đầu vào cổ nó. Con ngựa phóng đi. Móng nó không bịt sắt nện vang giòn. Nó lao như bay, đưa Batsana đến gần ngôi nhà thờ trắng và cất tiếng hí vang, nghe như hàng nghìn cái chuông lớn nhỏ đổ hồi. Cổng nhà thờ mở rộng và Đức mẹ đồng trinh hiện ra, tay bế Chúa hài đồng. "Lạy chúa tôi", -- Batsana nghĩ, quỳ xuống...
    ... Lúc tỉnh lại, Batsana thấy chị y sĩ mặc áo blu trắng đang đếm mạch ông. Ông cảm thấy máu chảy trong mạch và ở một chỗ nào đó cạnh tim, nhịp co bóp của tim chậm lại, vấp phải một trở ngại vô hình. Nhưng máu vẫn dai dẳng mở đường chảy, ép vào các vách tim. Dòng chảy của máu mỗi lúc một mạnh hơn, nhanh hơn. Bây giờ máu không chảy, mà vỗ đập, phụt tia, sôi lên, đến nỗi Batsana buốt hai bên thái dương. Nhưng đấy là cái đau khác, đặc biệt. Và Batsana hiểu rằng sinh mạng đã rời bỏ ông nay lại trở về với ông, vào trong phòng, đến ngồi xuống giường cạnh ông và chạm vào ngực ông. Tất cả những cái đó, thoạt tiên Batsana cảm thấy, rồi nghe thấy, rồi nhìn thấy hẳn hoi.
    -- Xin chào! -- Ông mỉm cười với sinh mạng đã quay trở lại.
    -- Chào ông! -- Cả chị y sĩ và hai người bệnh giường bên đều buột thốt lên. Tiếng "chào ông" đó chứa đựng tất cả sự bất ngờ, niềm vui sướng, ngạc nhiên.
    -- Chào các bạn! -- Batsana nhắc lại, mỉm cười với mọi người.
    -- Ông ấy đã trở về! -- Bulika nói.
    -- Đã trở về! -- Batsana xác nhận
    -- Trước đây ông ở đâu? -- Bulika tò mò.
    -- Chắc chắn là ở Viflêêm! -- Batsana mỉm cười.
    -- Hình như bây giờ ông ấy vẫn ở đấy! -- Bulika buồn rầu.
    -- Ồ không, tôi thực sự đã trở về rồi! -- Batsana nói cho người kia yên tâm. -- Tôi ở đây bao nhiêu ngày rồi? -- Ông hỏi chị y sĩ.
    -- Một ngày một đêm, -- chị vừa trả lời vừa đặt lại chiếc gối ngay ngắn.
    -- Cảm ơn
    -- Ông thấy trong người thế nào?
    Batsana suy nghĩ. Tim ông đập không đều, nhưng không yếu lắm: ông nghe thấy tiếng tim mình. Ông động đậy chân tay, nhưng không cảm thấy thân thể. Ông cảm thấy lâng lâng, thú vị vì một cảm giác bay bổng tự do. "Chắc hẳn đấy chính là trạng thái không trọng lượng" -- Batsana nghĩ.
    -- Ông cảm thấy trong người thế nào?
    -- Như nhà du hàng vũ trụ! -- Batsana đáp, cả quyết như một nhà du hành vũ trụ dày dạn.
    -- Có khó chịu ở tim không?
    -- Hơi đau, nhưng không đau như ban nãy...
    -- Tôi biết, -- chị y sĩ ngắt lời ông. -- Tôi sẽ tiêm Ghêparin và Pantôpôn cho ông ngay bây giờ. Ngủ đi cho khỏe sức, đừng nói chuyện, không được cử động... Chiều, giáo sư sẽ đến.
    -- Không được cử động tí nào ư?
    -- Tuyệt đối không!
    -- Chỉ động đậy một chút thôi thì sao?
    Chị y sĩ nghĩ ngợi, rồi nói khẽ, nhưng bằng giọng kiên quyết dứt khoát và khốc liệt:
    -- Ông sẽ chết!
    Batsana nuốt nước miếng một cách khó nhọc. Rồi ông ngoan ngoãn chịu hai mũi tiêm (chị y sĩ lập tức đặt túi sưởi nóng vào chỗ tiêm) và ông im thít.
    -- Có gì cứ gọi tôi. -- Chị y sĩ nói với ông. -- Còn các ông, -- Chị quay về phía hai người kia, -- thì uống xêđuxen và ngủ đi. Tôi cũng có nhận thấy một điều gì đó cả trong các phòng bệnh khác, nhưng chớ vì thế mà làm náo loạn cả trần gian lên!
    Chị đi ra.
    -- Tôi sẽ kể hết với giáo sư! -- Bulika hét với theo, nhưng chị y sĩ không nghe thấy.
    -- Ấy là vì trước khi ông trở lại với thế giới chúng ta, giữa chúng tôi đã có một cuộc tranh cãi nhỏ về chuột cống. -- Người bệnh No-2 giải thích với Batsana.
    -- Chuột cống nào ?
    -- Nó sắp đến bây giờ đấy, khi ấy ông sẽ làm quen với nó, Còn bây giờ thì xin phép tự giới thiệu: cha cả của nhà thờ Ba ngôi tại Ortaisala, Iôram Kanđêlaki, còn đây là bác thợ giày ở Vakê *, Aptanđin, cũng còn có tên là Bulika, Gôghilasvili.
    -- Tại sao lại tên là Bulika?
    -- Thuở bé, tôi gọi "Bulka" ** là "bulika". Vì thế có cái tên nhạo báng là Bulika. Ông cứ gọi tên tôi như thế cũng được. -- Bulika trả lời.
    -- Rất hân hạnh...còn tôi là Batsana Ramisvili nhà văn.
    -- Chúng tôi biết rồi, nhưng vì sao ông bị nhổi máu cơ tim?
    -- Thú thực là tôi không thể nói được! -- Batsana thở dài.
    -- Có lẽ ông... Chính cái ấy chứ gì? -- Bulika búng vào cổ họng mình một cách ý vị. -- Nghe nói các nhà văn rất khoái món đó...
    -- Không, không phải thế đâu! -- Batsana mỉm cười.
    -- Tịnh không à? -- Bulika ngạc nhiên.
    -- "Tịnh không" là thế nào? -- Đến lượt Batsana ngạc nhiên.
    -- Chính vậy đấy! -- ... Không thì lạ thật: không uống thì viết làm sao được?! Chẳng hạn như ông thì bao nhiêu?
    -- Ồ...một, hai, ba...
    -- Hai ba ly à?
    -- Hai-ba-chai!
    -- Tôi biết mà! Cừ lắm!... Nhưng bây giờ ông sẽ phải tạm chuyển sang nước quả.

    * Tên cổ của các khu trong thành phố Tbixili.
    ** Có nghĩa là bánh mì trắng (N.D)

    -- Không phải là tạm, mà vĩnh viễn! -- Cha Iôram thốt lên.
    -- Nói thế! Như vậy thà tự sát còn hơn! -- Bulika kêu lên.
    -- Đúng, đổi sang nước quả. Nếu ông uống nước quả thì sẽ không phải nằm bẹp tại đây! -- Cha Iôram nói bằng giọng dạy đời.
    -- Thế còn cha? Cha không uống rượu vang, thế tại sao cha lại nằm cạnh tôi, hả? -- Bulika hỏi, mỉm cười cay độc.
    -- Vâng, đến phải như vậy thôi... Nước quả. -- Batsana nói.
    -- Nói chung thì điều đó đúng... Tôi có quen một nhà văn cũng như ông, tôi chữa giày cho ông ta. Cú mỗi lần tôi say rượu, ông ấy lại gào lên như con quạ.
    Ơi Bulic mến thân, tự nay nên chừa rượu.
    Kẻo rồi khốn vào thân, hãy tin lời tôi khuyên !
    Tôi không tin ông ta, tôi cho rằng ông ta cũng không bình thường như mọi nhà thơ thôi... Thế là tôi đã đến nông nỗi này! Tôi mới chưa đầy â mươi mà đã thành người tàn phế... Quỷ tha ma bắt nó đi, món rượu vang ấy, -- Bulika thở dài, -- Đâu đâu tôi mơ thấy những điếu thuốc lá, như mơ thấy người đẹp!... Nói chung, sau khi bị nhồi máu cơ tim, thật không muốn sống nữa!...
    -- Sau khi bị nhồi máu cơ tim, con người đâm ra sợ, nỗi sợ hãi đáng ghét! Ông có sợ không! -- Cha Iôram hỏi Batsana.
    -- Sợ chứ, rất sợ là đằng khác! -- Batsana thú nhận.
    -- Lầm! -- Bulika xen vào. -- Hiện giờ ông còn bị tác dụng của thuốc mê, nhưng rồi sẽ qua hết... Thế ông không mường tượng thấy gì ư? Không mơ thấy ai ư ?
    -- Có, tôi có thấy một người. -- Batsana đáp, sau một lúc suy nghĩ.
    -- Đấy là chuyện thường xảy ra... Đôi khi ta còn nói trong lúc mơ... Phun ra hết mọi điều bí mật của ta! ... Nếu có người tình thì phải coi chừng, chớ có gọi tên nàng trước mặt vợ!...
    -- Cám ơn, tôi sẽ lưu ý. -- Batsana mỉm cười.
    -- Nói chung, -- Bulika nói tiếp, -- người thông minh thì kiếm người tình có tên trùng với tên vợ mình. Như tôi chẳng hạn, khi tôi lâm vào tình trạng như ông bây giờ, cái trạng thái như nhà du hành vũ trụ phải không, tôi luôn luôn nhớ đến Xvêta người tình của tôi... Té ra Xvêta vợ tôi ngồi bên giường và khóc nức nở "Vaimê, Bulik -- gian *, tôi không ngờ mình yêu tôi đến thế!". Tôi cứ huyên thuyên thỏa thích về người tình của tôi... Nếu phụ dnah của hai người đàn bà đó lại trùng nhau nữa thì ông chồng đúng là sống trên thiên đường! Nhưng có lần tôi vẫn bị hố! Ấy, có cha Iôram đây làm chứng...
    -- Sao vậy? -- Batsana linh hoạt hẳn lên.
    -- Số là trong lúc mê sảng tôi nói lảm nhảm như sau: "Xvêta-gian, em ạ, trái quả đầu tiên con lợn cái được hưởng, -- con lợn cái là ý nói vợ tôi, -- nhưng không sao, nếu nhờ trời anh ra được khỏi đây thì anh sẽ cưới em làm vợ!". Nghe những lời như thế, vợ tôi khóc toáng lên và đâu như còn đập đầu vào chiếc giường bây giờ ông đang nằm, hồi ấy giường bỏ không. "Vaimê, Bulika của tôi lẫn hẳn rồi, thậm chí không nhớ cả lễ cưới của chúng tôi!". Giá mà bà ấy biết lúc ấy tôi hoàn toàn tỉnh thì nguy tai!... Thế đấy!... Bulika đột nhiên dứt lời và nhìn Batsana chằm chằm.

    * Vaimê- đau xót cho tôi (tiếng Gruzya)
    Gian - cách gọi âu yếm

    Batsana nằm nhắm mắt, vẻ khoan khoái hiện rõ trên mặt và thở đều đều, bình tĩnh.
    -- Chà, con người kỳ lạ làm sao, ông ta đi đến nơi ấy và quay trở lại nhanh chóng quá chừng! -- Bulika nói với cha đạo bằng giọng giận dữ.
    -- Hãy để ông ấy yên, đấy là do tác dụng của Pantêpôn... Để ông ấy ngủ.
    Còn Batsana xuyên qua màn sương mù màu hồng, xuống cái thang dốc quen thuộc, nhưng lần này ông cảm thấy rõ rệt mình lên mỗi lúc một cao...
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/15
  8. notrinos

    notrinos Lớp 5

    4.
    -- Đây là giấy gửi con đi khám nghiệm con bé bỏng của ta ạ... Đến Tsôkhatauri chụp điện... Ta không thích đôi mắt sáng ngời và cặp má ửng hồng của con!
    Batsana gập tư tờ giấy và cất vào túi.
    -- Cháu bị làm sao, bác Epghêni? -- Chú bé bình tĩnh hỏi bác sĩ.
    -- Cháu hay bị sốt đã lâu chưa?
    -- Chừng một tháng nay, có lẽ thế !
    -- Có đổ mồ hôi không?
    -- Ban ngày ra mồ hôi tay, ban đêm thì đúng là bơi trong mồ hôi. -- Batsana chùi đôi tay đẫm mồ hôi vào quần.
    -- Có ho không?
    -- Thỉnh thoảng, nhưng ho dữ như con chó, -- Batsana pha trò một cách buồn rầu.
    -- Có thấy máu trong đờm không?

    * Một trung tâm huyện ở phía bắc Tbixili.
    -- Tuần trước có ra ít máu, bằng ngần này này, -- Batsana giơ ra móng ngón tay út.
    -- Sao đến giờ con mới nói, con bé bỏng của ta? -- Giọng bác sĩ run lên.
    -- Cháu bị làm sao, hả bác? -- Batsana lo lắng.
    -- Bác xem phim chụp điện, rồi sẽ cho biết.
    -- Bệnh đó gọi là gì ạ ?
    -- Infintrat * ... Biến chứng phức tạp hơn thì thành brônkhônđênit **.
    -- Tiếng Gruzya là gì ạ? -- Batsana không chịu thôi.
    Bác sĩ không trả lời. Ông ngồi xuống bên bàn và bắt đầu lục lọi giấy tờ, không có chủ định gì hết.
    -- Chữa bệnh đó dùng thuốc gì ạ? -- Batsana lại hỏi.
    -- Pênêxilin và xunfiđin. -- Bác sĩ đáp, không ngẩng đầu lên.
    -- Có thể tìm được không ạ?
    -- Được! Cần mười ngàn rúp, ở Tbilixi! -- Bác sĩ nhìn đôi mắt ngạc nhiên mở to của Batsana.
    -- Lấy đâu ra số tiền như thế được?
    Bác sĩ nhún vai, giang hai tay ra tỏ ý bất lực.
    -- Còn những thứ thuốc gì nữa, bác Epghêni?
    -- Thuốc nữa à? Bơ, sữa, dầu cá, trứng cá, đường, mật ong, độ ẩm và Băcmarô *** ... Thuốc như thế đấy!
    Batsana cảm thấy khô cả cổ... Tất cả những thứ bác sĩ nêu ra đắt gấp đôi những thứ thuốc kể trên. Chú đứng lặng thinh hồi lâu, không động đậy, rồi chú lấy trong túi ra tờ giấy khám nghiệm, cẩn thận trải ra, đặt lên bàn, và cũng lẳng lặng như thế, đi về phía cửa.
    -- Đi đâu thế, chú mày? -- Bác sĩ gọi.

    * Đám thâm nhiễm (thuật ngữ y học) (N.D)
    ** Viêm hạch phế quản (thuật ngữ y học) (N.D)
    *** Một nhà an dưỡng trên núi cao ở Gruzya.

    -- Cháu đi đây, bác Epghêni ạ, cháu sẽ tự tìm ra một cách gì chữa khỏi bệnh của cháu. -- Batsana nhăn nhó nói.
    -- Khoan đã! Đến hiệu thuốc, mua ghêmatôghen *, uống ngày ba lần, mỗi lần một cùi dìa. Cái đó có ích đáy... Bác sĩ lấy trong túi ra một tờ mười rúp, đưa cho Batsana. -- Cháu cầm lấy này...
    Batsana cầm lấy tiền và đặt cạnh tờ giấy xét nghiệm.
    -- Tiền thì ông cháu sẽ cho... Cảm ơn bác lắm lắm, bác Epghêni ạ ! -- Batsana mở cửa.
    -- Bảo ông đến gặp bác nhé.
    -- Ông cháu ốm, bác Epghêni ạ, ông cháu đi lại khó khăn -- Batsana nói dối.
    -- Vậy thì nói lại với ông rằng... -- Lời nói tắc trong cổ họng bác sĩ.
    -- Nói gì kia ạ?
    -- Bảo ông rằng... -- Bác sĩ nghẹn lời. -- Con đừng sợ, con ạ. Chưa muộn đâu! Con là một chàng trai cường tráng, bệnh tật không quật nổi con đâu!
    -- Bảo với ông cháu thế nào, bác Epghêni?
    -- Thế này này! -- Bác sĩ bỗng buột ra. -- Bảo với ông già bất hạnh là lập tức bán hết mọi thứ đi, -- nhà, sân, linh hồn và thể xác mình, -- và mua Pênêxilin cho cháu! Nghe thấy chưa?! Ngay lập tức!
    Bác sĩ đâm bổ tới gần bàn, chộp lấy tờ giấy gửi khám nghiệm xé vụn ra và tung lên trần nhà, rồi quay về phía Batsana, mặt biến dạng hẳn đi, thét lên.
    -- Sau sự việc này mà tôi còn tự xưng là con người được ư?! Tôi còn tự nhận là bác sĩ được ư?!
    Không chịu được cái nhìn của bác sĩ. Batsana ra khỏi phòng.

    * Loại thuốc bổ huyết (N.D)

    -- Cô Agrafêna, cho cháu hai chai Ghêmatôghen. Chủ nhật cháu sẽ đem đào đi bán ở Tsôkhatauri và trả tiền cô. -- Batsana nài nỉ người bào chế khi chỉ còn hai người với nhau trong hiệu thuốc.
    -- Chú bé ơi, cháu cần Ghêmatôghen để làm gì? Đấy là thuốc cho người ho lao.
    Batsana run lên, hai tay chú đẫm mồ hôi, chân bủn rủn. Chưa ai lớn tiếng gọi thẳng tên cái bệnh khủng khiếp ấy, ngay trước mặt chú như vậy.
    -- Để cho ông cháu... Bác Epghêni bảo uống... Bác ấy bảo yếu sức uống có lợi...
    -- Lấy đi, con, lấy đi... Có điều... Cô nghi ngờ về những quả đào của cháu...
    -- Sao kia ạ, thuốc đắt tiền phải không ạ?
    -- Chín rúp sáu mươi một chai...
    -- Thế thì cho cháu một chai, chủ nhật cháu sẽ đem tiền đến trả.
    -- Con làm sao thế, con yêu quý? Tại sao con tái mặt đi thế? -- Agrafêna hỏi, giọng ái ngại.
    -- Dạ không, không sao cả ạ, da cháu vẫn tái như thế, -- Batsana cầm lấy chai thuốc, ra khỏi hiệu thuốc, và để khỏi ngã, chú ngồi xuống bực cầu thang đã mục ải.

    -- Chào bác Glakhuna!
    -- Chào cháu! Ờ, nhưng bác không nhận ra cháu là ai... -- Ông chủ nhiệm trại chăn nuôi nheo mắt.
    -- Cháu là Batsana, cháu ông Lômkatsa Ramisvili
    -- Chết chửa! Cháu lớn quá rồi đấy, cháu ạ! -- Glakhuna ngạc nhiên. -- Ông cháu thế nào?
    -- Cũng bình thường ạ...
    -- Ờ... Mất những người con trai như thế... Vậy mà ông lão vẫn không đến nỗi hồn lìa khỏi xác... Cháu là con người nào?
    -- Con ông cả.
    --Con Akatsi à?
    -- Vâng.
    -- Ôi chao, bố cháu trước kia mới gớm chứ! Hồi bằng tuổi cháu, bố cháu một mình tay không đi săn gấu!... Ờ, thế ông Loomkatsa cần gì? Không có việc cần hẳn cháu đã không đến gặp bác.
    -- Bác Glakhuna, xin bác nhận cháu vào chăn gia súc trong trại...
    -- Con còn nhỏ quá, con ạ, con không đuổi theo dê và bê được đâu.
    -- Bác bảo là hồi bằng tuổi cháu, bố cháu đã đi săn gấu kia mà.
    -- Nhưng bố cháu khỏe như con bò mộng, còn cháu thì thế nào? Thổi một cái là cháu bay vèo đi. Cháu bao nhiêu tuổi?
    -- Mười lăm!
    -- Thế ông cháu ra sao? Liệu ông cháu có cho đi không?
    -- Nếu bác đồng ý thì ông cháu sẽ cho đi!
    -- Làm sao ta có thể đồng ý được! Ông cháu biết rõ hơn cả ta công việc của người chăn gia súc trong núi vất vả như thế nào!
    -- Cháu van bác, bác Glakhuna!
    -- Ta không thể làm thế được con ạ!
    Miệng Batsana méo xệch đi, mắt đẫm lệ.
    -- Đừng từ chối cháu, bác Glakhuna.
    -- Vì sao lại nôn nóng thế?!
    -- Cháu bị ho lao, bác Glakhuna! -- Batsana nuốt nước mắt.
    -- Im đi, đồ ngốc! Có thể đùa bỡn như thế được không?! -- Glakhuna nổi cáu.
    -- Bác Epghêni bảo rằng... Bác ấy bảo cháu cần ăn nhiều bơ, uống nhiều sữa, thở hít không khí trên núi, như vậy cháu có thể thắng được bệnh...
    -- Trời giết tôi đi! -- Glakhuna Kerkatzê rên rỉ, ôm lấy Batsana. -- Thế ngộ nhỡ cháu bị cảm lạnh trong núi vì mưa hay tuyết thì sao? Ngộ nhỡ cháu chết thì sao? Khi ấy ta biết làm thế nào? Ta còn mặt mũi nào nhìn vào mắt người ông xấu số của cháu nữa? Cháu cưng của ta ơi! Cái cần cho cháu không phải là núi rừng, mà là chăn và đệm lông chim kia!
    -- Đừng từ chối cháu, bác Glakhuna! -- Batsana ôm lấy Glakhuna và òa khóc.
    -- Được, được, con yêu quý! Ta sẽ đem con theo, sẽ cho con uống sữa chim, chứ đừng nói gì sữa dê! Ta sẽ giữ gìn con như lòng ngươi con mắt! Trong hai tháng, ta sẽ bồi dưỡng cho con khiến con có thể một tay quật đổ con bò đực ba tuổi! Lặng đi, lặng đi, con yêu quý của ta, đừng khóc! Chúng ta bất chấp bệnh tật! Ta coi khinh bệnh tật! Nín đi, đồ chó đẻ!
    Batsana đã nín khóc từ lâu, nhưng bây giờ Glakhuna Kerkatzê khóc như đứa trẻ và chẳng có ai dỗ ông...

    Hai mươi ba con bò cái, hai bò đực, hai mươi bảy con dê, ba con ngựa và một con lợn đực -- đấy là tất cả số gia súc lấy sữa và thịt mà nông trang Kvêđôban có trong tay vào mùa hè năm 1943. Trại ở bãi chăn trên núi, trên sườn dốc Tsơkhakaura thuộc vùng ngoại vi Bakhơmarô. Mùa hè, cùng với gia súc chung, nông trang viên lùa cả gia súc riêng ra bãi chăn -- phần lớn là bò cái tơ và bê, -- vì người ta không thể không cần đến bò sữa trong ba bốn tháng vào những năm chiến tranh đói kém này, đó là lẽ tất nhiên.
    Việc bảo vệ số tài sản thảm hại đó của hai mươi hộ do hai con chó chăn cừu và ba người đàn ông đảm nhiệm: chủ nhiệm trại chăn nuôi Glakhuna Kerkatzê, Xipitô Guđavatzê và Iôna Ôragơvêlitzê, Batsana là người thứ tư, nhưng chẳng ai thực sự đếm xỉa đến chú.
    Con lợn đực duy nhất trong đàn thuộc phần Glakhuna. Hôm nay, con lợn đó sắp phải chịu chung số phận cay đắng của những con đồng loại bị hoạn. Con lợn giống hai tuổi khỏe mạnh cố nhiên không hề đoán được gì. Nó khoan khoái xục xạo đám rác, cái mõm ngắn và khỏe cày xới đất chẳng khác lưỡi cày máy. Trong lúc con lợn nhởn nhơ làm công việc của mình. Glakhuna đứng dưới mái hiên và liếc lưỡi dao vào sợi dây cương treo trên đỉnh.
    -- Cháu thương con lợn, bác Glakhuna! Không nên hoạn nó! -- Batsana nài xin.
    -- Nó chẳng cần gì phải một mình chạy nhông khắp rừng để kiếm vợ như thế! Ở đây có phi như ngựa suốt bảy ngày cũng không tìm đâu ra con lợn cái! Ta hoạn đi thì nó sẽ không còn nghĩ đến chuyện gì, ngoài cái ăn! Nó sẽ tu tỉnh, sẽ béo mập lên, rồi cháu xem! -- Glakhuna nói cho Batsana yên tâm.
    -- Nhưng bác ạ, Xipitô của chúng ta cũng một mình lang thang trong rừng mà ta có hoạn cậu ấy đâu! -- Iôna Ôragơvê litzê bênh vực con lợn...
    -- Này thằng ăn bám kia, nếu chúng tao kịp thời thiến chính mày đi thì bây giờ trên đời đã không có kẻ thừa tự thiên tài của mày! Thằng ngốc ấy mười bảy tuổi rồi mà không phân biệt nổi lê với táo! -- Xipitô từ dưới mái hiên đi ra, xổ luôn một tràng.
    -- Có mày là đồ ngu thì có! Con tao lúc bé bị ngã từ trên cây xuống, chuyện ấy ai cũng biết! Còn mày? Cả đời mày chưa hề trượt chân lần nào, vậy mà chín năm liền ngồi lì ở một lớp! Quên rồi à?
    -- Bác Glakhuna, -- Xipitô nói với ông chủ nhiệm chăn nuôi -- Ta bắt tay vào việc đi thôi, không thì thằng chó đẻ này làm ta hết sống nổi. Bác ạ, lưỡi hắn vẫn la liếm trong đám phân bò mà.
    -- Glakhuna, nói thật đi, ai trong hai đứa tôi đúng? -- Iôna đòi Glakhuna phân xử.
    -- Đáng dứt lưỡi cả hai, xong việc con lợn, tao sẽ ra tay ngay! -- Glakhuna đe, rồi gạt lưỡi dao cạo vào móng ngón tay cái và nói tiếp: -- Thôi đừng giở trò ngu ngốc ra nữa, bắt con lợn đi!
    -- Chúng tôi đọ với nó sao được! Nó đào xuyên xuống đất bây giờ đây này. -- Iôna nói.
    -- Gãi bụng nó đi. -- Glakhuna bảo Batsana.
    Batsana lấy trong căn nhà kho lụp xụp một nắm ngô vàng chóe và đi về phía con lợn.
    -- Ỉn-ỉn-ỉn...
    Con lợn hếch mõm lên và thấy ngô, nó đâm bổ tới chỗ Batsana, ngọ nguậy đôi tai một cách kỳ cục.
    -- Con vật ngu ngốc, tự mình chạy đến đoạn đầu đài! -- Iôna thương con lợn.
    Xipitô đã chuẩn bị xong nước ấm và tro, Iôna mang đến sợi dây thừng, Glakhuna gập lưỡi dao lại, giắt vào thắt lưng, rút ở tấm dạ lót yên ra chiếc kim khâu giày to tướng xâu sợi chỉ tơ và bắt đầu xắn tay áo.
    -- Gãi đi, gãi đi! -- Ông lớn tiếng bảo Batsana.
    Batsana ngồi xổm trước con lợn và gãi bụng nó. Con lợn nhai ngô rào rạo, không để ý đến Batsana. Ăn hết ngô nó bỗng ngây ra, nhắm mắt và ủn ỉn vì thích thú. Trong giây lát, nó đứng yên, đắm mình trong khoái lạc, rồi nó khuỵu hai chân trước xuống, đổ kềnh sang một bên và đờ ra.
    -- Hừ, con vật đần độn, mày không biết mày mất cái gì để đổi lấy hai hạt ngô! -- Iôna thốt lên, tròng thòng lọng vào chân sau con lợn. Con vật thậm chí không động đậy: nó nhắm mắt nằm yên, ủn ỉn. Batsana gãi bụng nó bằng cả hai tay.
    Con lợn cảm thấy có điều chẳng lành khi Iôna trói nốt chân sau nó. Nó vùng ra, nhưng muộn rồi. Xipitô cưỡi lên nó, Iôna nắm tai nó, Batsana đứng ngay tại đấy và hồi hộp chờ xem mọi việc diễn ra sau đó. Trong lúc Glakhuna dùng nước ấm rửa cái chỗ sắp rạch dao, con lợn rít lên khe khẽ. Nhưng Glakhuna đã mở lưỡi dao... và tiếng kêu xé ruột của con vật vang động khắp vùng.
    -- Lẽ ra bác nên dùng cái gì bịt miệng, không chừng làm nhiễm trùng vết thương cũng nên. -- Xipitô nói với Glakhuna.
    -- Im mồm đi! -- Glakhuna bực tức đối lại.
    Cuộc mổ xẻ tiếp tục. Tiếng kêu ré của con lợn khiến người ta có cảm giác như bầu trời sắp nứt vỡ và núi sắp đổ.
    -- Nó gào mới khiếp chứ, quỷ tha ma bắt nó đi ! -- Xipitô nói.
    -- Nếu đằng ấy bị như nó, tớ muốn xem đằng ấy sẽ kêu gào như thế nào! -- Iôna đáp.
    -- Bắt đầu rồi, hả? -- Xipitô cảnh cáo.
    -- Thôi được. Nhưng nếu tớ là Xtalin thì sau chiến tranh tớ sẽ gọi Glakhuna đến và ra lệnh cho bác ấy hoạn Hitle và cả bè lũ, hệt như hoạn con lợn này! -- Iôna nói.
    -- Tớ không biết những đứa khác thì thế nào, chứ Hitle thì tớ cho rằng chẳng cần gì phải hoạn... Hắn không có vợ con và nghe nói hắn tịnh không muốn có vợ con... -- Xipitô rêu rao điều bí mật của nội các đế quốc Đức.
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/5/15
  9. notrinos

    notrinos Lớp 5

    -- Nói chung ăn thịt người là tính chất của tất cả những kẻ bị hoạn... Có nhớ chuyện Aga-Môhamet--khan không? Cái tên đã đốt cháy Tbixili ấy mà *. Y cũng là một kẻ bị... như thế... Y hy vọng vào việc tắm nước suối lưu huỳnh... khi thấy không ăn thua gì, y nổi cáu và ra lệnh đốt cháy thành phố, -- đến lượt Iôna phơi trần bí mật của triều đình Iran .
    -- Này, bạn thân mến ơi, nếu nước lưu huỳnh kiến hiệu thì Efrôxinya của chúng ta sẽ là người phụ nữ giàu nhất thế gian, trong sân nhà bà ấy có cả một nguồn nước lưu huỳnh! -- Glakhuna khâu mũi cuối cùng, cắt chỉ, lau mồ hôi trán bằng mu bàn tay đẫm máu và khà một tiếng, đứng dậy.
    -- Thả con lợn ra! -- Ông nói.
    Xipitô và Iôna thả con lợn bị trói và tránh sang bên. Con lợn thoạt tiên không tin rằng cảnh địa ngục đã chấm dứt và vẫn kêu inh ỏi. Rồi cảm thấy nhẹ nhõm, nó chồm lên và đột nhiên đâm bổ vào rừng.
    -- Chao ôi, chúng ta là thú vật chứ không phải là người! -- Batsana nói. -- Trước khi hoạn, cho nó uống ít vốtka thì tốn kém gì?
    -- Thôi, rửa tay đi! -- Glakhuna bảo chú bé.
    -- Bác phải tội với giời, bác Glakhuna Kerkatzê ạ ! -- Xipitô trách ông trưởng trại. -- Bây giờ gặp lợn cái trong rừng nó biết làm thế nào, nó sẽ nhục nhã, con vật khốn khổ! -- Xipitô đưa cặp mắt buồn rầu nhìn theo con lợn đang chạy đi.
    -- Thôi, cười đủ rồi! Vắt sữa gia súc đi và lùa chúng lại đây! -- Glakhuna quát bảo mấy người kia. -- Còn cháu nữa? Sao cứ trân mắt ra nhìn con lợn? -- Ông quay về phía Batsana. -- Đi đi, hôm nay, vắt sữa con

    * Vua Iran, năm 1795 đã cướp phá Gruzya, đốt cháy và cướp bóc Tbilixi
    dê Ghênô, còn con của cháu ngày mai thế nào cũng đẻ. Mà coi chừng đấy, phải uống cạn sạch vò sữa, không để sót giọt nào! Bác thấy cháu đã bắt đầu nhiễm thói làm ẩu rôid đấy! Cháu đâm ra bạo dạn quá rồi! Coi chừng! Ta sẽ đập cả vò vào cái đầu đần độn của cháu cho mà xem!
    Batsana lẳng lặng đi vắt sữa dê.
    -- Cầu trời cho bác khỏe mạnh và sống lâu trăm tuổi, bác Glakhuna! -- Iôna nói, khi Batsana đi khuất. -- Bác đã cứu thằng bé! Không nhận ra nó được nữa! Mặt đỏ hồng, bấm ra sữa!
    Glakhuna bỏ ngoài tai lời lẽ của Iôna, cầm cái xô và đi về phía mấy con bò cái.
    Một giờ sau, gia súc của trại chăn nuôi nông trang Cơvêđôban đã la rống và kêu be be chạy tản tác trên sườn núi Tsơkhakôura xanh tươi.

    Buổi tối, chủ tịch nông trang Gervaxi Patsatxya lên trại chăn nuôi, cùng đi với ông có hai chiến sĩ dân quân vũ trang bằng tiểu liên.
    Tiết trời mát mẻ. Chủ khách ngồi bên đống lửa. Củi thông nổ lép bép vui vẻ, tỏa ra mùi thơm thơm. Trong nồi đang luộc một con dê con. Mấy con chó vừa sủa vừa chạy quanh đống lửa. Trong lúc chờ đợi những khúc xương ngon lành thưởng công phục vụ trung thành.
    -- Có gì mới không, ông ? -- Glakhuna hỏi chủ tịch nông trang, đồng thời đưa trả tờ báo gập tư.
    -- Đồng chí còn muốn biết tin gì nữa? -- Gervaxi ngẩng đầu lên và vuốt ve cái bao khẩu Maode trên đùi.
    -- Về tài sản còn bỏ lại ở làng thì chúng tôi không hỏi, -- Iôna xen vào, -- Chắc đồng chí không thêm được gì vào đấy... Tình hình mặt trận thế nào?
    -- Tình hình mặt trận ư? ... Nguy thay nước Đức! -- Gervaxi lại vuốt ve khẩu Maode của mình.
    -- Xin cất nó đi cho, chạm cò thì khốn! -- Xipitô càu nhàu, dịch ra xa. -- Thế nào, nước Đức ra sao?
    -- Sao nữa! Ê mặt ở gần Xmôlenxka, nhục nhã ở gần Matxcơva và còn bị những vố ê chề ở đâu nữa? -- Ông tự hỏi, và không nhớ ra, ông khoát tay, -- Nói chung nước Đức vãi cả ra quần, có thế thôi. Đang chày chật lo giữ Rumani, Tiệp và Italya...
    -- Bao giờ chiến tranh chấm dứt? Xtalin nói gì?
    -- Xtalin nói rằng chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng không nêu rõ thời hạn. -- Gervaxi dang hai tay ra.
    -- Lẽ ra nên nói rõ, điều đó đối với đồng chí ấy có khó gì? -- Iôna ngạc nhiên.
    -- Nói lạ? Chiến tranh với Đức có phải như việc hoạn lợn của các cậu ấy à! -- Gervaxi bào chữa cho Xtalin.
    -- Hoạn lợn cũng không phải chuyện dễ, đồng chí Gervaxi của tôi ạ! -- Glakhuna bênh vực uy tín nghề nghiệp của mình.
    Xipitô lấy cái nồi trên đống lửa, cầm một chân con dê, lấy nó ra khỏi khối nước sôi sục. Không khí ngào ngạt mùi thơm ngon của thịt luộc, hành và lá nguyệt quế.
    -- Nào, các cậu, lôi cái đó đến đây! -- Gervaxi ra lệnh.
    Các chiến sĩ của tiểu đoàn lôi cái bao da đựng rượu đến gần đống lửa. Glakhuna phân phát những chén đất nung. Mọi người lần lượt cầm chén đến chỗ Gervaxi, và nhận xong phần rượu của mình, ai về chỗ nấy. Cả Batsana cũng đến lấy phần rượu. Gervaxi đưa mắt nhìn Glakhuna dò hỏi. Glakhuna gật đầu ưng thuận.
    Gervaxi uống trước tiên.
    -- Loại dây leo tuyệt diệu! Cầu trời ban phước cho rễ cây của người. -- Ông thốt lên bằng giọng khoái trá. Câu cảm thán đó được coi là lời chúc chén đầu tiên.
    -- Cầu trời ban phước! -- Tất cả cùng nhắc lại và uống cạn một hơi.
    Gervaxi rót mỗi người chén nữa. Và một lần nữa, trước khi rót rượu cho Batsana, ông đưa mắt hỏi ý Glakhuna --. Glakhuna ưng thuận.
    -- Có nhiều quá không? -- Gervaxi hỏi.
    -- Thêm ba chén nữa! -- Glakhuna nói.
    -- Tùy anh ! -- Ông chủ tịch đồng ý.
    Gervaxi lên tiếng.
    -- Chén này chúng ta chúc sức khỏe Đảng ta và bộ chính trị của Đảng đứng đầu là đồng chí Xtalin! -- Ông uống cạn sạch chén rượu.
    -- Chúc mừng Đảng, chúc mừng Xtalin! -- Mọi người nói theo và dùng thức nhắm.
    -- Chén thứ hai chúc mừng chính phủ ta, đứng đầu là Xtalin vĩ đại!
    Mọi người nhất loạt cạn chén.
    Lát sau, Gervaxi nâng chén chúc mừng lần thứ ba.
    -- Mừng sức khỏe của Hồng quân đứng đầu là Xtalin vĩ đại!
    Lời chúc rượu này cũng được mọi người nhất trí ủng hộ, nhưng mỗi người theo cách riêng của mình.
    -- Chúc sức khỏe Hồng quan!
    -- Mừng thắng lợi của Hồng quan!
    -- Cầu trời phù hộ các chiến sĩ Hồng quân!
    -- Cầu cho mỗi viên đạn của chiến sĩ Hồng quân chúng ta đều hạ sát quân thù!
    -- Vì hòa bình trên trái đất!
    Gervaxi nâng chén:
    -- Còn bây giờ, có Xtalin vĩ đại đứng đầu...
    -- Bác Gervaxi! -- Iôna ngắt lời ông. -- Tôi gần như sắp đổ, nhưng hiện thời vẫn còn đứng vững, ta hãy uống chúc mừng chú bé! Nâng cốc chúc tụng Xtalin như thế đủ rồi... Ơn trời, chẳng cần đến bác, đồng chí ấy cũng đảm đương được công việc của mình...!
    -- Cậu nói không đúng, Iôna Ôragơvêlitzê! -- Ông chủ tịch bực tức. -- Nếu không có sự ủng hộ của chúng ta...
    -- Đồng chí thân mến ơi, sự ủng hộ của chúng ta là ở chỗ nuôi dạy cho Nhà nước những gã trai cường tráng!
    -- Cậu nói đúng, đúng đấy! -- Ông chủ tịch nhượng bộ. -- Ta sẽ uống mừng Batsana Ramisvili! Hãy nghe ta, Batsana!... Hãy nhớ lấy ngày này và con người này. -- Gervaxi đặt tay lên vai Glakhuna Kerkatzê ngồi cạnh ông. -- Cháu phải hôn những vết chân bác ấy, cháu của bác ạ ! Cháu phải thay thế con trai bác ấy đã hy sinh ở mặt trận... Sẽ không ai dựng tượng kỷ niệm Glakhuna của chúng ta và bác ấy sẽ không được tặng thưởng huân chương!... Cháu phải trở thành cả huân chương, cả tượng đài của bác ấy!... Hãy nhìn xung quanh, hãy suy nghĩ và nên hiểu, cháu yêu quý của ta ạ: mọi cái cháu thấy trên đời là của cháu! Lúc này, hàng triệu người chết với viên đạn trong ngực, và sẽ không ai mang theo cái gì. Tất cả đều để lại cho cháu, cho các bạn cùng lứa... Nước mắt tưới tắt các bếp lửa. Những người mẹ góa con côi nức nở. Các cánh đồng bỏ hoang đang rên xiết. Đất không chủ khóc than... Chúng ta đang giành lại cho mình tất cả những gì đã bị bọn ăn thịt người cướp đi... Nhưng liêu cánh già chúng ta có đủ sức khôig phục đất nước bị tàn phá hay không? Ta không biết... Cháu và các bạn cháu phải làm việc đó... Các cháu phải gây dựng lại đất nước!... Lớp già chúng ta có một điều lớn lao cầu xin các cháu: hãy quên những tiếng "ngôi làng trước kia", "thành phố trước kia" đi... Sao cho thế hệ tiếp sau các cháu chỉ biết về chiến tranh qua những câu chuyện các cháu kể lại!... -- Gervaxi giơ hai tay lên trời, đưa mắt nhìn những ngọn núi láng ánh trăng bạc. -- Hãy yêu mến và giữ gìn vẻ đẹp của Tổ quốc... Đó phải là một tình yêu cao cả, trong trẻo, tươi sáng. Tổ quốc, đó là ngôi nhà thờ thiêng liêng mà ta phải quỳ gối cầu nguyện trước bàn thờ. Không chỉ cầu nguyện, mà còn cấm súng bảo vệ nơi ấy, không để cho ma quỷ làm ô uế thánh đường của chúng ta. Còn điều này nữa: hãy luôn luôn là người đầu tiên trong số những người đáng lẽ lên bàn thờ Tổ quốc!... Bác không còn điều thỉnh cầu và mong muốn nào khác nữa! Ta cạn chén! -- Gervaxi đưa chén lên môi một cách sùng kính.
    -- Bác Gervaxi Batsatsya! -- Iôna hân hoan thốt lên -- Nếu tất cả những điều bác nói không phải do bác đọc được ở đâu đó, mà là những điều sôi sục trong tim bác thì thề rằng tay tôi sẽ liệt đi nếu tôi không bầu bác làm chủ tịch lần nữa!
    -- Tôi đến đây không phải là để ứng cử, -- Gervaxi đáp. -- Hai người này có mặt ở đây không phải là không có việc gì!
    -- Chuyện gì vậy, bác Gervaxi? Định bắt chúng tôi chắc? -- Xipitô phá lên cười.
    -- Số là... tên khống khiếp rốt cuộc đã đâm ra càn rỡ!
    -- Bác nói ai vậy, bác Gervaxi? -- Glakhuna hỏi.
    -- Manutsor Kicvatzê chứ còn ai!
    -- Thằng lưu manh ấy mà khó tóm đến thế ư? Nó đào ngũ đã ba năm rồi, vậy mà cho đến giờ các anh vẫn không tóm được nó à? -- Iôna nói với các chiến sĩ.
    -- Lùng bắt một người trong rừng không phải chuyện dễ! -- Một chiến sĩ thanh minh.
    -- Thêm nữa, hiện giờ nó thận trọng như quỷ xa tăng. -- Người thứ hai nói thêm. -- Hầu như ngày nào nó cũng đổi chỗ... Trước kia nó còn có cách này cách khác tìm được chỗ trú thân: người thì do sự quen biết cũ, người thì vì sợ... Bây giờ mọi người đều từ bỏ nó. Và nó cũng không còn đường về Xupêbi: ở đấy nó đã cưỡng hiếp hai am gái nỏ tuổi và còn làm các em lây thứ bệnh ghê tởm gì đó... Mẹ một em bé gái đã phát điên, khổ thân bà ta.
    -- Thế ông bố không có mắt à! -- Xipitô buột ra một tràng.
    -- Bố ở mặt trận... -- Người chiến sĩ giang hai tay ra.
    -- Đấy là câu trả lời của các anh phải không?
    -- Lần nọ ở Kvêmô -- Tsala, nó chầy chật lắm mới thoát khỏi tay chúng tôi, vậy mà một tuần sau nó đã cắt lưỡi Bônđô Skipurisvili chẳng có tội tình gì, vì nghi ngờ anh tố giác nó... Bà góa Kaptsivatzê ở Amaglep từ chối không cho nó vào nhà, thế là ngay đêm hôm ấy nó đốt cháy nhà bà ta... Phải, bây giờ nó nguy hiểm như con chó sói điên...
    -- Nó phải chết, tôi nói điều đó trước thượng đế! Nếu các anh không đủ sức làm việc đó thì đưa vũ khí cho chúng tôi, chúng tôi sẽ làm! -- Glakhuna Kerkatzê bỗng nói và không hiểu sao lại nhìn Batsana. Trong mắt Glakhuna, Batsana thấy lấp lóe ánh lửa phản chiếu làm chú lạnh người.
    -- Mới đây Kicvatzê đến trại Habêglap, lấy mất một bao tải phô mát. Rất có thể nó sẽ đến cả đây, bởi vậy nếu các bạn có cái gì nộp cho nhà nước thì ngày mai đưa về làng... -- Gervaxi vừa nói vừa đứng dậy.
    -- Đáng đời các ông! Tại sao lại tước mất vũ khí của chúng tôi? -- Xipitô thốt lên.
    -- Lúc này không phải là lúc bàn cãi! Đưa cho chúng tôi hai mươi khúc pho mát và hai con dê con, nhiều hơn nữa thì chúng tôi không tải được đâu! -- Gervaxi nói, rồi quay về phía các chiến sĩ: -- Sửa soạn đi, đến sáng chúng ta phải có mặt ở làng! -- Và ông đi về phía chuồng ngựa.
    -- Này, các ông chiếm hết cho mình thì còn lại gì Manutsa Kicvatzê? -- Iôna châm chọc.
    -- Cậu thật là đứa độc mồm độc miệng! -- Ông chủ tịch bực tức. -- Tôi có bao giờ lấy tài sản của nông trang? Tôi đưa về cho vườn trẻ, cho cháu của cậu đấy! Hay cậu còn nghi ngờ?
    -- Tôi nói đùa đấy mà, nói đùa thôi! -- Iôna bối rối. -- Vả chăng... Ông chủ tịch trước cũng nói như thế, nhưng sau đó, những con dê con ấy nhảy nhót trong sân nhà ông ta. Thế đấy!
    -- Hừm, có lẽ tôi cũng phải đi làm cướp và dứt phăng cái lưỡi đáng nguyền rủa của cậu đi chăng? Đồ nỡm!... -- Gervaxi phảy tay và thắt lại cái đai bụng ngựa .
    -- Xong cả rồi, -- Glakhuna tới gần, -- Hôm nay chúng tôi sẽ lừa ngựa về, mai sẽ chuyển về làng mọi cái còn lại.
    -- Tốt lắm! Này, cẩn thận nhé! Thôi, tạm biệt! -- Gervaxi nhảy lên ngựa.
    -- Gervaxi! -- Glakhuna gọi.
    -- Gì vậy?
    -- Để lại cho chúng tôi khẩu Maode của đồng chí.
    -- Không có vũ khí thì tôi làm ăn thế nào?
    -- Hai tiểu liên là đủ rồi. Còn khẩu Maode thì chủ nhật tôi sẽ đem trả.
    Gervaxi lưỡng lự:
    -- Có gì mà phải ngần ngừ, quyết định đi!
    Gervaxi miễn cưỡng tháo dây đeo khỏi vai và đưa cho Glakhuna khẩu Maode.
    -- Nên nhớ là tôi không cho khẩu súng đâu nhé! Phải trả lại đấy!
    -- Nhưng đồng chí phải nghe thấy nó nổ đã! -- Glakhuna cầm lấy khẩu Maode từ tay Gervaxi và đưa cho Batsana. -- Này, cất vào khurgin!
    Batsana bỏ khẩu Maode vào túi khurgin rỗng đến một nửa treo trên cột, còn Gervaxi cùng với các chiến sĩ quay ngựa và phi nước kiệu xuống núi.
    Lát sau sương mù đã nuốt chửng ba người cưỡi ngựa. Còn nghe thấy tiếng vó ngựa lộn xộn một lúc, rồi tất cả im ắng. Mọi băn khoăn lo nghĩ của những người ờ lại trên sườn núi Tsơkhakôura cũng theo những người cưỡi ngựa bay về thung lũng.
    -- Bây giờ đi lùa ngựa của chúng ta về đây. -- Glakhuna nói với người của mình. -- Buổi sáng tôi thấy chúng ăn cỏ ở đằng kia, phía Đôchi. -- Glakhuna trỏ tay. -- Sau hai giờ có thể về đến nơi. Cho thằng bé theo...Đem theo đóm nhựa thắp sáng.
    Xipitô vắt dây thừng qua vai, giắt rìu vào thắt lưng và thắp đóm nhựa. Glakhuna đi về phía mái hiên.
    -- Thư thư một chút cũng được, can gì vội vã thế? -- Xipitô lớn tiếng nói với theo. -- Để rạng sáng hãy đi... Lần mò đi đâu lúc tối mịt thế này?
    -- Bảo thế nào cứ làm thế, không đòi hỏi gì hết! -- Glakhuna trả lời.
    -- Phải thương đứa trẻ mới chứ! -- Xipitô thử làm cho Glakhuna động lòng thương.
    -- Sẽ không có chuyện gì xảy ra cho nó cả! Cần tập cho nó quen đi!
    Xipitô và Iôna đi theo con đường mòn ngược lên núi, Batsana lon ton chạy theo họ như con sói con!
    Trong trại vang lên tiếng be be thảm thiết. Con dê của Batsana trở dạ đẻ...

    Lúc rạng sáng trở về, những người chăn gia súc khiếp sợ. Cả hai con chó chăn cừu nằm lăn bên đống lửa, đầu bị đạn xuyên thủng, bò và cừu không được vắt sữa, đói ăn kêu rống ầm ĩ trong chuồng. Không thấy Glakhuna đâu. Những người chăn gia súc đâm bổ đi tìm ông, nhưng không hề thấy vết tích gì của ông. Đột nhiên Batsana lại đổ mồ hôi tay như trước kia. Xipitô Guđavatzê muốn nói điều gì, nhưng chỉ ú ớ như bị câm, phát ra những tiếng rời rạc và ngồi phệt xuống đất.
    -- Đây là do bàn tay Manutsar Kicvatzê! -- Iôna vừa kêu lên vừa nhảy lên lưng con ngựa không thắng yên/
    -- Đi đâu? -- Xipitô thốt lên một cách khó nhọc.
    -- Cần đi trước hắn! -- Iôna đáp và giục ngựa phi nước đại.
    Batsana đâm bổ tới chỗ khurgin, sờ nắn. Khẩu Maode vẫn ở đó. Thế là chú đến ngồi bên Xipitô, đặt bàn tay lạnh giá lên đùi anh.
    -- Đừng đi, chú em! -- Xipitô vừa nói vừa lau vầng trán ướt.
    Batsana cảm thấy đầu gối Xipitô run và chú hiểu rằng Xipitô sợ hãi hơn cả chú.
    -- Bác... đừng sợ, bác Xipitô. -- Batsana nói.
    Xipitô mỉm cười khổ sở và duỗi cái chân run rẩy.
    -- Ta không sợ thế nào được, hả con? -- Anh nói và bỗng òa khóc.
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/5/15
  10. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Lưng cõng cái giỏ đầy pho mát, Glakhuna lảo đảo đi ở phía trước, Manutsar đi sau, hai tay lăm lăm khẩu súng đã lên cò.
    -- Nhanh lên, nhanh lên, Glakhuna! Đùa bỡn với ta thì khốn đấy! -- Manutsa thúc giục Glakhuna.
    Glakhuna cắn môi.
    Nỗi căm tức khiến ông trưởng trại nghẹt thở. Thằng khốn nạn này đã làm cách nào lên tới được? Làm thế nào nó đã bắn chết được hai con chó mà Glakhuna quí vô cùng? Làm sao nó lại ép được Glakhuna đi với nó, lại còn bắt ông cõng trên lưng giỏ pho mát?
    Máu làm Glakhuna rối trí, máu chó! Trong đời ông đã từng nhìn thấy máu không ít, nhưng thứ máu này, máu do đạn làm đổ ra, hẳn là thứ máu đặc biệt!... Xấu hổ và nhục nhã cho mi, Glakhuna! Thế thì mi cần đến khẩu Maode để làm gì? Để giấu nó trong khurgin à? Điếm nhục, điếm nhục! Tại sao lại không nhảy bổ tới lấy vũ khí? Nhưng tên gian phi ấy đứng lù lù trên đầu! Mà ai có thể nhanh tay hơn nó, nó là kẻ cướp kia mà?! Nhục nhã cho mi, Glakhuna!
    Nỗi căm tức và nước mắt khiến Glakhuna nghẹn thở! "Tim ta ơi, hãy vỡ tung ra đi", -- ông van vỉ. Nhwnga tim không vỡ tung... Tệ hơn nữa Glakhuna lại rảo bước. Ô nhục, thật là ô nhục!...
    Phía trước là một vũng nước. Vầng trăng tròn đầy soi bóng trong vũng nước, tưởng chừng trăng rọi sáng từ phía bên kia, qua cái lỗ xuyên suốt lòng đất. Lúc này Glakhuna sắp bước vào cái lỗ và sa xuống đấy, biến mất tích. Nhưng vũng nước không phải là cái lỗ, và Glakhuna ngồi xuống vũng nước.
    -- Đứng dậy, thằng biếng nhác! -- Manutsar quát mắng ông.
    Glakhuna đứng lên và nhìn Manutsar.
    -- Thế nào, Glakhuna Kerkatzê, đuối sức rồi hả! -- Manutsar cười hềnh hệch. -- Đúng quá rồi! Này, thế ngài chủ tịch ăn mày và các chiến sĩ anh hùng của các người cần gì? Định bắt ta hả? Thì ta có mặt ở đây! Ta đã có mặt tại đây và đưa cả ba đứa lên đầu ruồi mũi súng như nhắm bắn những con sao! Thế tại sao không sục vào rừng? Sao? không dám phải không? Đích thị là thế. Các vị anh hùng ấy biết rằng ta sẽ dùng tiểu liên bịt miệng các vị ấy lại! -- Manutsar cười, tiếng cười khàn khàn , điên loạn.
    -- Mày cứ cười đi, Manutsar Kicvatzê, nhưng dù sao mày cũng đến ngày tận số rồi! -- Glakhuna lên tiếng.
    -- Chuyện ấy sau chiến tranh ta sẽ bàn! Còn bây giờ thì vác cái sọt lên và cất bước! Muốn nằm lẫn trong bùn thì sau này vẫn còn kịp, bọn bônsêvich sẽ cấp giấy phép cho nhà ngươi đi Tsơkhantubô * không mất tiền. Vì có công với chính quyền Xô viêt!... Đi!...
    -- Mày là thằng đê tiện, nếu sau chiến tranh người ta không kết liễu đời mày thì chính tao sẽ treo cổ mày lên cây tiêu huyền cao nhất vùng Tsơkhaturi. Tao sẽ treo cổ mày lên, sẽ vằm nát cái xác thối rữa của mày và rắc muối vào! Toẹt! -- Glakhuna nhổ bọt vào mặt Manutsar.
    Kicvatzê sững người. Rồi hắn bỗng vung tay đánh một đòn cực mạnh khiến Glakhuna lộn nhào.
    Glakhuna ngã vào vũng nước. Ông đứng lên, đưa tay lau máu trên mặt và nói bằng giọng khàn khàn:
    -- Giết thì giết đi, thằng khốn khiếp, tao không đi đâu với mày nữa! -- Ông lại ngồi xuống.
    -- Nói dóc, Glakhuna! Mày chưa mang pho mát đến nơi đến chốn thì đừng có xin được chết!
    -- Mày chiến đấu chống lại ai, thằng nhãi ranh kia? Nói rõ đi!
    -- Với các người, thưa ông Glakhuna, với bọn bônsêvich các người! Hai mươi hai năm các người giày xéo đất của cha ta... Đủ rồi! Bây giờ đã đến thời của chúng tao!

    * Cơ sở an dưỡng thủy lý pháp ở Gruzya.
    -- Chúng tao là ai ?
    -- Của tao và của nước Đức.
    -- Thế nước Đức ở đâu?
    -- Nước Đức sẽ tới, Glakhuna ạ, sẽ tới! Khi ấy trên cây tiêu huyền mà người dọa treo cổ ta, ta sẽ treo cổ tất cả các ngươi! Đi đầu sẽ là tên bí thư huyện ủy của các người, tay cầm lá cờ đỏ! ... Bây giờ đứng lên đi.
    -- Ta còn sống thì ta sẽ không rời khỏi chốn này, ta chết rồi thì mi muốn đem ta đi đâu tùy ý! Nhục thay cho ta đã đi theo mi cho đến lúc này, đủ rồi!
    Kicvatzê hiểu rằng tay hắn sắp phải nhuốm máu một nạn nhân nữa.
    -- Thế thì quay mặt đi và hãy cầu nguyện thượng đế, nếu mi biết cầu nguyện... Dù sao thượng đế cũng nhào nặn ta và mi bằng cùng một thứ đất...
    Glakhuna quì xuống và giơ hai tay lên trời:
    -- Thượng đế chí tôn! Hôm nay con đã hứa với Người sẽ tự tay kết liễu đời tênb súc sinh này... Thế mà hóa ra con phải chết vì tay hắn... Xin đừng để xảy ra như thế, hỡi Thượng đế! Tính mạng con là của Người, xin hãy nhận lấy nó! Nếu Người có thật và nghe thấy tiếng nói của con, xin hãy giết con đi! ... Còn nếu con và con vật này được tạo ra bằng cùng một thứ đất thì con chẳng đáng sống làm gì!
    Tiêng vang dội đi dội lại ầm ầm ba lần trong rừng Tsơkhakôuri. Glakhuna nằm úp mặt, vẫn trong vũng nước mà mới rồi ông đã nhìn thấy mặt trăng ngời sáng từ bên kia trái đất. Glakhuna cảm thấy sáng rõ lạ thường, lồng ngực đất mở rộng ra, đất tiếp nhận ông vào lòng, rồi cái lỗ hổng khép kín lại, đất đưa bàn tay khổng lồ vuốt mi mắt ông và bầu trời phủ tấm chăn đen...
    Trời đã sắp rạng khi Xipitô Guđavatzê, Iôna Ôragơvêlitzê, Gervaxi Papatsya và hai chiến sĩ dân quân đưa thi hài Glakhuna về đến trại. Không một lời, không một giọt nước mắt, năm người đàn ông đứng chờ mặt trời mọc.
    Mãi đến lúc sáng rõ, Iôna mới nhận thấy Batsana đã biến khỏi trại.
    -- Còn thiếu cái nước này nữa thôi! -- Xipitô thất vọng kêu lên, đập hai tay xuống đùi. -- Batsana! -- Anh gào lên.
    -- Batsana! -- Iôna lặp lại.
    -- Batsana-a-a-a!... Batsana-a-a-a -- Tiếng gào lo lắng vang khắp xung quanh.
    Tiếng vang nhảy bổ từ sườn núi này đến sườn núi khác, lao vào hẻm núi, vòng qua các vách đá và khe ngòi, len lỏi vào rừng, và không tìm thấy thằng bé, nó quay trở lại trại, trở lại với mấy người đàn ông thẫn thờ như xác không hồn vì đau xót và tuyệt vọng.
    Khi những tia sáng mặt trời đầu tiên ló ra, thằng bé rời khỏi rừng, lên con đường mòn, khurgin đeo vai. Nó ngồi bên nguồn nước, tháo đôi tsuviaki * thủng lỗ chỗ, xoay đôi dép trong tay, quẳng đi và thõng đôi chân xưng phồng vào nước nguồn giá buốt. Rồi nó rửa ráy, nằm lên cỏ đẫm sương, dung khurgin làm gối đầu và thở dài não nuột. Một con diều hâu lượn nhịp nhàng trên khoảng trời xanh.
    -- Chao ôi, ước gì ta có cánh! -- Thằng bé nghĩ. -- Từ trên ấy hẳn là thấy rõ hết như trong lòng bàn tay...

    * Loại dép mềm, không có gót.
    Thằng bé nhắm nghiền mắt và nằm một lúc lâu, không động đậy, chẳng nghĩ ngợi gì.
    Bỗng từ trên sườn dốc, đá lăn rào rào xuống đường. Thằng bé nhỏm phắt dậy, nhìn quanh. Đứng ở rìa nền đất đắp là một người đàn ông râu ria không cạo, gầy nhom, cằm dưới nhô ra, tay cầm súng. Tim thằng bé giật nảy lên.
    -- Mày là ai? -- Người đàn ông hỏi.
    Thằng bé im lặng.
    --Mày câm à?
    -- Cháu ở Tsơkhakôra! -- Khó nhọc lắm thằng bé mới thốt được lên lời.
    -- Mày đi đâu?
    -- Về Dôchi.
    -- Đến ai?
    -- Đến nhà bà con
    Gã đan ông nghĩ ngợi. Rồi nhìn xoáy vào thằng bé bằng con mắt dò xét, gã hỏi:
    -- Đối diện với làng mày là trại Cơvêđôban. Mày có qua đấy không?
    -- Không, trại cách xa làng cháu. Cháu đi qua rừng, vòng qua trại, như thế gần hơn... -- Thằng bé liếm cặp môi kho và hỏi: -- Nhưng chú là ai vậy chú?
    -- Ta là người coi rừng, có việc đến gặp những người chăn gia súc. Mày có cái gì trong khurgin thế?
    Thằng bé ngẩn người ra, nó không biết có những gì trong khurgin. Nó vươn tay ra, thọc tay vào nửa thứ nhất của khurgin, lấy ra cái chai nút bằng lõi bắp cải và đặt trên cỏ.
    -- Cái gì thế này? -- Người đàn ông hỏi
    -- Vôtka.
    -- Sao, mày uống vốtka à, thằng nhóc?
    -- Ít ít thôi! -- Thằng bé mỉm cười. Rồi nó lấy trong khurgin ra miếng pho mát bọc lá dương xỉ, một nửa cái bánh tráng bột ngô, và cuối cùng là thịt dê luộc.
    -- Ô-hô, ta sẽ nhấm nháp chơi! -- Người đàn ông nói và bắt đầu xuống sườn dốc.
    -- Mời chú! -- Thằng bé nói và ngồi lên khurgin
    -- Vậy là chú mày không vào trại ư? -- Gã ngồi lại gần thằng bé, đặt khẩu súng lên đùi. Thằng bé lắc đầu, và để che giấu cơn run, nó lót hai tay xuống dưới người. Gã đàn ông lẳng lặng bắt đầu ăn. Đã đỡ đói, hắn nói với thằng bé:
    -- Mày còn chờ đợi gì nữa? Ta sẽ ăn một mình chăng?
    Người đàn ông cầm lấy cái chai, lắc:
    -- Hẳn là rượu ác liệt lắm đây! -- Hắn nói.
    -- Đúng thế, rất ác! -- Thằng bé trả lời.
    Người đàn ông xoa tay vào cổ chai, dốc ngược cái chai vào miệng, ho mấy tiếng.
    -- Quỷ quái! Lửa, chứ không phải rượu nữa! -- Hắn kêu lên và úp mặt vào khuỷu tay trái.
    " Lạy trời cho con sức mạnh, rồi sau giết con đi cũng được!" -- thằng bé nghĩ và vươn tay về phía khurgin. Rồi nó đứng phắt dậy.
    Sau khi đã thở lấy hơi, gã đàn ông nhìn thằng bé và ngây ra. Thằng bé cầm khẩu Maode trong tay và chĩa vào hắn.
    -- Đứng lên, Manutsar Kicvatzê! -- Thằng bé nói, mắt không rời gã kia.
    Kicvatzê muốn đứng lên nhưng không được.
    -- Đứng lên thằng khốn khiếp! -- Thằng bé nhắc lại.
    -- Mày là ai, chú em, mày cần gì ở tao! -- Manutsar đã tỉnh hẳn lại:
    -- Ta là Glakhuna Kerkatzê! Manutsar sững sờ.
    -- Ta là Glakhuna Kerkatzê, và ngươi sẽ chết bởi tay ta!
    Khẩu Maode nặng nhảy nhót trong bàn tay thằng bé, nó liền cầm súng bằng cả hai tay.
    Manutsar quỳ xuống và lắc cái đầu đẫm mồ hôi, như một người tắm sông vừa lên khỏi nước.
    -- Đừng nghịch dại, chú mày!... Ở tuổi chú mày không được quyền giết người... -- Tiếng Manutsar run lên. -- Đưng bắn!... Làm sao chú mày có thể sống trên đời, đi lại trên mặt đất với cái vết nhơ của kẻ giết người?
    -- Thế mày thì sao? Làm sao mày vẫn sống và thở hít khí trời?!
    -- Ta mà vẫn sống và thở hít khí trời ư?!
    -- Mày phải chết, Manutsar!
    -- Ít ra mày cũng nói rõ tên mày là gì và tại sao mày muốn tự tay giết tao chứ? -- Manutsar van vỉ và cắn môi đến rớm máu.
    -- Tao nói rồi, tao là Glakhuna Kerkatzê!
    Manutsar còn mấp máy môi, nhưng thằng bé không nghe gã. Tai nó choáng ù, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, hai bên thái dương như vang lên tiếng quai búa tạ. Thằng bé cảm thấy chẳng những nó mất thính giác, mà mất cả thị giác, vì khuôn mặt của Mnutsar đang trườn tới gần nó lúc thì thành hình chập đôi, lúc thì thành hình chập ba, rồi hoàn toàn tan biến. Thằng bé bấm cò.
    Nó không nghe thấy tiêng đạn nổ, không đếm số viên đạn đã bắn ra. Nó chỉ cảm thấy khẩu Maode rung bần bật trong những ngón tay nắm chặt lấy chuôi súng bạc, và cổ tay nó giật nảy lên. Rồi khẩu Maode thôi giật, thằng bé bỗng hết hơi sức, hai tay nó mở ra, khẩu Maode rơi "kịch" một tiếng bên cạnh cái đầu nát nhừ của Manutsar Kicvatzê.
    Thằng bé quay lưng về phía xác chết, ngồi thụp xuống đất, rúc đầu vào đùi gối và rống lên như con chó sói con lạc trong rừng.

     
    Chỉnh sửa cuối: 19/5/15
    laithanhtuan, superlazy and 4DHN like this.
  11. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Nửa đêm, cụ Lômkatsa Ramisvili thức giấc vì tiếng đập cửa dữ dội. Cụ rời khỏi giường, thắp ngọn đèn dầu, tới bên gần cửa và hỏi to.
    -- Ai đấy?!
    -- Cháu đây, Batsana! -- Người ngoài cửa trả lời.
    -- Không phải Batsana! -- Lômkatsa không nhận ra tiếng cháu. Tim cụ đập thình thịch vì lo sợ.
    -- Cháu đây, ông ơi, mở cửa cho cháu!
    Lômkatsa kéo then cài, mở toang cửa. Trước mặt cụ là Batsana, đầu cúi gằm, áo quần rách bươm, hai chân đẫm máu.
    -- Vào đi!
    Batsana không động đậy. Cụ Lômkatsa liền nắm lấy vai cháu và đưa cháu vào nhà. Cụ đặt cây đèn lên bàn, rồi ngồi xuống ghế.
    -- Có chuyện gì vậy? -- Ông già hỏi, giọng run lên.
    -- Cháu đã giết người! -- Batsana đáp và cằm chú run ên. Mặt ông cụ Lômkatsa méo xệch đi, cụ đưa hai tay lên ôm ngực chỗ tim đập. Im lặng một lúc lâu. Cuối cùng cụ Lômkatsa trấn tĩnh lại và khó nhọc thốt lên lời, hỏi:
    -- Thế suốt năm năm ông đọc Phúc âm cho cháu để làm gì?
    Batsana không trả lời. Chú cúi đầu đứng yên, chùi hai tay đẫm mồ hôi vào quần.
    -- Cháu giết ai? -- Cụ Lômkatsa phá vỡ sự im lặng và chờ câu trả lời, tâm trí căng thẳng.
    -- Cháu giết đứa đã giết Glakhuna Kerkatzê, ông ạ!
    Lômkatsa trợn tròn mắt ngạc nhiên. Cụ muốn đứng lên, nhưng đôi chân không theo ý cụ.
    -- Cháu giết... Manutsar Kicvatzê ư? -- Cụ hỏi lại, giọng thì thầm.
    -- Cháu giết Manutsar!
    Cụ Lômkatsa thở phào, gắng gượng đứng dậy, đến gần cửa ra vào, khép cửa lại, rồi trở lại cạnh cháu và ôm ghì đầu chú vào ngực.
    -- Có ai biết việc ấy không? -- Cụ thì thầm.
    Cháu lắc đầu
    -- Ông có hai vị thần, -- cụ khẽ nói. -- Cháu và Glakhuna. Một người chết về tay Manutsar... -- Batsana chạm bàn tay nóng rực của chú vào bàn tay chai sạn của ông. Tay ông lạnh như băng. -- Cháu ơi, nghĩ cho kỹ đi... Đừng nhận vào mình máu do những người khác làm đổ ra... Đó là một việc nghiêm trọng... -- Cụ Lômkatsa nói với vẻ trầm ngâm và bỗng cảm thấy máu sôi sục từ bàn tay nóng bỏng của cháu chảy vào những đường mạch già lão của cụ, làn sóng máu nóng hổi ấy thoạt tiên chảy vào lồng ngực cụ, rồi tràn lên thái dương. Lômkatsa nhìn chằm chằm hồi lâu vào mắt cháu, và ông hiểu rằng không còn thằng bé Batsana mười lăm tuổi ốm yếu nữa. Lômkatsa không chiụu nổi cái nhìn cháy bỏng của cháu và đưa mắt đi nơi khác. Cụ đoán ra câu hỏi không lời ẳn trong cặp mắt rực lửa của con người đã biến đổi này và hiểu rằng việc cụ trả lời câu hỏi ấy thế nào sẽ quyết định cả cuộc đời sau này của cháu, -- Làm thế là đúng, cháu ạ! Địa vị ông, ông cũng sẽ làm như thế! -- Cụ nói và ôm ghì lấy cháu. Batsana bỗng kiệt sức, nhủn người ra, tuột khỏi vòng tay ông và ngồi phịch xuống sàn. -- Đức chúa trời toàn năng, sao sự trả thù của Chúa lại hiện hình trong đứa trẻ này! -- Lômkatsa rên rỉ, buông mình xuống cạnh cháu.
    Rạng sáng, khi Xipitô Gudavatzê lo lắng, hớt hơ hớt hải xộc vào nhà Lômkatsa thì hai ông cháu vẫn ngồi trên sàn và khóc: Batsana khóc to, nức nở, Lômkatsa khóc không thành tiếng...
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/5/15
    superlazy and baothoa like this.
  12. notrinos

    notrinos Lớp 5

    5.
    Giáo sư Antêlava vào phòng bệnh, cùng đi có bác sĩ điều trị và chị y sĩ. Batsana nằm nhắm mắt, lắng nghe tiếng tim đập. Ông hài lòng: tim đập mạnh, bây giờ nó không ngừng đẩy máu đi khắp cơ thể. Batsana cảm thấy mỗi ngày trái tim suy kiệt của ông càng thêm sức lực, trí óc càng sáng rõ. Ông nghe thấy giáo sư đã đến, nhưng ngây ngất bởi cảm giác khoan khoái vì được hồi sinh, ông vờ ngủ:
    -- Chào các ông! -- Giáo sư chào hỏi.
    -- Kính chào giáo sư! -- Bulika nhỏm dậy.
    -- Chúc sức khỏe giáo sư! -- Cha Iôram đáp.
    -- Này, các ông thế nào? -- Giáo sư hỏi một câu chung chung, đồng thời chăm chú xem bệnh án. -- Chúng tôi sắp chuyển các ông sang phân khoa hồi phục! -- Giáo sư nói bằng giọng hể hả.
    -- Tôi thích được ân xá hơn! Tôi cảm thấy khỏe khoắn, hôm nay là ngày thứ ba tôi tự đi ra nhà vệ sinh, thành thử nếu giáo sư không phản đối, tôi có thể về nhà ngay hôm nay! -- Bulika nói, và dường như để chứng tỏ mình đã bình phục, ông thò đôi chân trần ra khỏi chăn.
    -- Tôi đã báo trước rồi kia mà! -- Giáo sư nói với bác sĩ.
    -- Tôi không thể trói ông ta vào giường được! -- Bác sĩ giang hai tay ra.
    -- Phải trói mới đúng! Ông không được trở dậy, hiểu chưa. Hay cái bô không vừa ý ông? -- Giáo sư nói đùa và đẩy nhẹ một cái, bắt Bulika nằm xuống.
    -- Ồ không, thưa giáo sư! Chẳng qua là quấy quả những con người đáng kính thì thật không tiện... -- Bulika cười toác miệng.
    -- Không sao! -- Giáo sư nói cho ông ta yên tâm.
    -- Thêm nữa, lương tâm giày vò tôi: vì tôi mà một nửa thành phố Vakê chắc là phải đi chân không!
    -- Thế ông rất muốn cả Vakê đi chân không à?
    -- E hèm... Xin lỗi giáo sư kính mến, tôi xin im miệng! -- Bulika hiểu ý câu nói của giáo sư và nằm xuống một cách thận trọng, như thể thực sự dân chúng cả Vakê chỉ chờ ông bình phục.
    -- Hôm nay giáo chủ gọi điện, hỏi thăm cha. Nói lại với giáo chủ thế nào, thưa cha Iôram? -- Giáo sư hỏi cha cả nhà thờ Ba Ngôi Ortatsala.
    Cảm động vì sự quan tâm của giáo chủ, mắt cha đạo đẫm lệ.
    -- Đấng tối cao chưa tiếp nhận linh hồn tội lỗi của tôi là nhờ lời cầu nguyện của giáo chủ, xin nhờ giáo sư nói lại với đấng bề trên như vậy! -- Ông ta trả lời.
    -- Vậy ra chúng tôi không can dự phần nào trong việc đó à? -- Giáo sư vờ làm ra vẻ giận.
    -- Các bác sĩ được giao giữ cổng địa ngục, giáo chủ giữ cổng thiên đường; -- Iôram biện bạch và làm dấu chữ thập.
    -- Không, cha ạ, đường sang thế giới bên kia dẫn đến một cổng chung, các bác sĩ chúng tôi được cắt đặt gác cái cổng đó. Thiên đường và địa ngục chỉ là những phần của thế giới bên kia, và Chúa quyết định con người đến phần nào là việc của Chúa. Chúng tôi được lệnh không mở cổng cho người ta sang thế giới bên kia trước kì hạn. Thế đấy.
    Iôram ho một cách ngượng ngập và im lặng.
    -- Ông ấy vẫn ngủ à? -- Giáo sư vừa hỏi vừa xem mạch Batsana.
    -- Ngủ suốt hai mươi tư tiếng! -- Bác sĩ trả lời.
    -- Càng tốt! -- Giáo sư lấy bệnh án treo ở đầu giường Batsana. -- Phản ứng lắng hông cầu chậm đi, côlextêrin ít hơn. Tốt! -- Ông nói, vẻ hài lòng. -- Ồ, vẫn còn ngoại tâm thu à? Điều trị thế nào?
    -- Êrranđin. Như vậy có hiệu quả nhất.
    -- Các cơn đau thế nào?
    -- Nhẹ thôi.
    -- Chu kỳ?
    -- Nửa giờ một lần, lúc không ngủ.
    -- Tiếp tục dùng pantôpôn.
    Giáo sư thận trọng lật tấm chăn lên, chăm chú xem ngực Batsana hồi lâu, rồi thở dài nhẹ nhõm:
    -- May là đã tránh được chứng phình mạch!
    Batsana mở mắt.
    -- Kính chào giáo sư!
    -- Ông không ngủ à? -- Giáo sư ngạc nhiên.
    -- Nói chung tôi không ngủ được.
    -- Thế là thế nào?
    -- Thật đấy. Tôi thức mà vẫn nằmmowrr.
    -- Mơ như thế nào?
    -- Lúc thì mơ thấy những điều thú vị, lúc thì mơ thấy điều gở.
    -- Trước khi ngủ, hãy cố nghĩ tới những chuyện thú vị, như vậy thì sẽ mơ thấy những điều dễ chịu.
    -- Theo đồng chí thì thế nào, thưa giáo sư, tôi có qua khỏi được không? -- Batsana hỏi.
    -- Đấy chính là điều tôi muốn hỏi đồng chí!
    Batsana bối rối:
    -- Tôi cho rằng.. Hình như... Tôi thấy có phần khá hơn...
    -- Thế thì rất tốt! -- Giáo sư áp ống nghe vào chỗ tim Batsana.
    -- Thế nào ạ? -- Batsana hỏi, giọng run lên.
    -- Nghe rõ. Hôm qua kém hơn.
    Giáo sư định đi.
    -- Nếu tôi sống qua đợt này, tôi sẽ đặt làm hai bức tượng bán thân của giáo sư bằng vàng! -- Batsana mỉm cười.
    -- Tại sao lại hai?
    -- Một để biếu giáo sư, bức tượng kia tôi sẽ đặt trên bài viết của tôi để tôn thờ.
    -- Gôghilasvili thực tế hơn đồng chí, ông ấy chỉ hứa làm một bức tượng thôi!
    -- Và đôi khuyên kim cương biếu vợ giáo sư. Ngoài ra, suốt đời chữa giầy không lấy tiền. -- Bulika nói thêm.
    -- Cầu Chúa ban sức khỏe cho ông! Bây giờ tôi sẽ đi báo cho vợ tôi dùi lỗ tai sẵn đi! Còn cha hứa cho cái gì, cha Iôram?
    -- Một cây nến to bằng người giáo sư và tôi sẽ suốt đời cầu phúc cho giáo sư!
    -- Các ông ạ, sau khi bị nhồi máu cơ tim, người ta thường mắc tính hay quên, thành thử...-- giáo sư phá lên cười. -- Nào, thế còn điều gì đáng phàn nàn nữa không?
    -- Dạ có, chúng tôi muốn nói về những con chuột cống. Nhưng giáo sư đến làm chúng tôi vui mừng đến nỗi quên bẵng đi mất... -- Bulika liếc nhìn chị y sĩ.
    -- Chuột cống nào? -- Giáo sư sửng sốt.
    -- Do chứng nghiện rượu kinh niên nên bác ta tưởng tượng thế thôi, thưa giáo sư! -- Chị y sĩ ấp úng.
    -- Ừ được, tôi mắc chứng mê sảng rượu, thế còn đức cha? Cha cũng tưởng tượng nốt à? -- Bị xúc phạm, Bulika giơ tay chỉ Iôram.
    -- Nói chúng thì chúng vô hại... -- Cha thốt lên, có ý dàn hòa. -- Chúng chui ra, dạo chơi tý chút, thưởng thức chút đường ngọt...
    -- Gọi trưởng phòng quản trị! -- Giáo sư ra lệnh.
    -- Đồng chí ấy đi lấy đường cho chuột, -- Bác sĩ trả lời.
    -- Lại còn chuyện quái gở gì thế nữa: đường cho chuột?!
    ở bệnh viện của nước cộng hòa đã sinh sôi nhiều chuột đến nỗi chúng có khẩu phần riêng kia à?! -- Giáo sư nổi giận.
    -- Đấy là thuốc độc, thưa giáo sư! -- Bác sĩ giải thích.
    -- Thạch tín! -- Chị y sĩ nói rõ.
    -- Quái gở! -- Giáo sư kêu lên và không từ biệt, rời khỏi phòng bệnh.
    -- Có lẽ không nên nói chuyện ấy chăng? -- Bulika lo ngại.
    -- Nói hay không thì sự thực vẫn rành rành! Giá ông ấy chờ một phút thì sẽ thấy tận mắt. -- Cha Iôram đáp. -- Đấy kìa! -- Và ông ném miếng đường cho con chuột bò ra từ gầm giường Bulika.
    Lát sau, mấy người vào phòng bệnh, bác sĩ trưởng của bệnh viện, trưởng phòng quản trị, nhân viên khử trùng, hai hộ lý, bác sĩ điều trị và chị y sĩ Giênya.
    -- Chuột đâu nào? -- Anh nhân viên khử trùng hỏi một cách nghiêm khắc.
    -- Đây! -- Bulika trả lời, xoay ngón tay quanh mi mắt bên phải.
    -- Ông giở trò khiêu khích phải không?
    -- Thế miếng đường này thì ai gặm, tôi chắc?! -- Bulika trỏ miếng đường vứt trên sàn, bị gặm nham nhở.
    Mấy hộ lý chui xuống gàm giường, rồi đi quanh phòng bệnh, dùng thạch tín bịt kín các khe hở.
    -- Thạch tín hơi cũ rồi, nhưng không sao. Ta đợi đến sáng mai, nếu không ăn thua gì thì chúng tôi sẽ đem đến một con mèo. -- Người nhân viên khử trùng vỗ về các bệnh nhân, rồi quay về phía mấy người hộ lý. -- Rắc cả bả trong phòng làm việc của tôi, tất cả các chân tủ đều bị chúng gặm, trời chu đất diệt chúng đi!... Còn điều gì đáng phàn nàn nữa không? -- Anh ta lại hỏi các bệnh nhân.
    -- Tại sao Mỹ không rút quân khỏi Nam Triều Tiên?! -- Bulika nói.
    -- Kẻ âm mưu! Kẻ vu cáo nặc danh khốn khiếp! -- Tay nhân viên khử trùng nói và đi ra, tức giận sập cửa lại.
    -- Thằng bố mày là kẻ âm mưu vu cáo nặc danh, còn bản thân mày là con chuột cống! -- Bulika quát với theo.

    Lát sau Giênya trở lại phòng bệnh, tay cầm ống tiêm. Chị tới giường Batsana, lật chăn lên và nói một mình:
    -- Có kẻ đáng được tiêm pantôpôn ngay vào lưỡi để hắn bớt lắm điều đi!
    -- Nếu đấy là nói về tôi thì ở tôi sẽ có chỗ khác để tiêm pantôpôn! - Bulika lên tiếng.
    Giênya không buồn đáp lại. Chị tiêm cho Batsana, xoa chỗ tiêm và lẳng lặng đi ra.
    Lát sau chị quay lại.
    -- Có người đàn ông nào hỏi ông. -- Chị nói với Batsana.
    -- Ai vậy?
    -- Ông ta bảo là chỗ bà con họ gần với ông.
    -- Nếu chị cho phép thì xin để ông ta vào.
    Giênya ra và trở lại, dẫn theo một người tóc vàng hoe, mặt lấm chấm tàn nhang, tay ngắn ngủn.
    -- Năm phút thôi đấy nhé! -- Giênya báo trước.
    -- Một loáng thôi! -- Người mới vào trả lời và không đợi mời, ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường Batsana.
    -- Kính chào đồng chí Batsana! -- Ông ta vỗ nhẹ vào đùi Batsana.
    -- Chào đồng hí! -- Batsana ngạc nhiên, đáp
    -- Không nhận ra tôi ư?
    Batsana vận dụng hết trí nhớ, nhưng không nhận ra người tóc vàng.
    -- Thế bây giờ nhận ra chưa? -- Người tóc vàng quay người ngôi ở vị trí nhìn nghiêng. Batsana mỉm cười ngượng ngập.
    -- Hãy nhớ lại đi: Xukhumi, Tserniapka, cầu Vênêxian, trường số mười ba, các dì của đồng chí -- Marô, Nina, Tamara, các cô em họ của đồng chí Nenli, Dulâyka, Đôđô, cậu em họ Kôka... -- Người tóc vàng gập từng ngón tay để đếm.
    -- Xin cho biết những điều về bản thân đồng chí, họ hàng nhà tôi thì tôi vẫn nhớ rõ. -- Batsana gợi ý.
    -- Tôi là Nugơza Đarăclêvitzê ! Nhớ chứ, dì Nina đã đỡ đầu em gái tôi, đặt tên cho em tôi là Luiza...
    -- Đến chịu chết thôi... -- Batsana bối rối.
    -- Từ bấy đến giờ, em gái tôi vẫn mang tên Luiza.
    -- Rất hân hạnh
    -- Thế đấy, tôi là anh của Luiza, Nugơza Đarăclêvitzê -- người tóc vàng nói rõ hẳn ra.
    -- Bác cần gì? -- Batsana hỏi.
    -- Bác thấy trong người thế nào, Batsana kính mến?
    Nhân dân lo lắng...
    -- Cũng bình thường...
    -- Nom bác khỏe khoắn lắm, cầu Chúa ban sức khỏe cho bác! Sắc mặt bác rất tươi. Hơi gầy đi, đúng thế... Mới đây chúng tôi có thấy bác phát biểu trên tivi... Này, bác ạ, tất cả các cán bộ tích cực chúng tôi đều phá lên cười!... Bác nói tài thật!...Ha-ha!... Đặc biệt khi bác nói về những cái trái ngược... Phải, lúc ấy nom bác đẫy đà hơn... Nhưng ngay cả bây giờ, -- phỉ phui, nói gở mồm gở miệng. -- nom bác cũng rất tráng kiện, thật vui cho bạn bè, khêu gan chọc tức kẻ thù! -- Người tóc vàng lại vỗ đùi Batsana.
    -- Thế còn bác, cô em Luiza của bác ra sao? -- Batsana hỏi một cách lịch sự.
    -- Ôi chao, nói làm gì! Tồi tệ, Batsana kính mến ạ, tồi tệ hết chỗ nói! -- Đarăclêvitzê lau mồ hôi trán.
    -- Chuyện gì vậy? -- Batsana tỏ ra lo ngại.
    -- Số là thế này... Có người ngoài nói ra e không tiện.
    -- Các ông ấy không được trở dậy và không được rời khỏi giường, cả tôi cũng thế... Vì vậy nếu bác có điều gì muốn nói cứ nói luôn đi...
    -- Lạy Chúa ! Chúng tôi lánh đi ngay đây! -- Bulika kéo chăn trùm đầu và quay vào tường. Cha Iôram cũng làm như thế.
    Đarăclêvitzê ngần ngừ một lúc, rồi đánh bạo:
    -- Chẳng có gì đặc biệt đâu , bác Batsana kính mến ạ, chỉ một chữ ký đẹp đẽ của bác...
    -- Này ông ạ, người ta mới tiêm pantôpôn cho tôi, vậy ông nói luôn đi, kẻo tôi ngủ mất.
    Đarăcvêlitzê một lần nữa nhìn những người nằm giường bên đã trùm chăn kín đầu, rồi bắt đầu nói.
    -- Ồ, tất nhiên bác thừa biết rằng... tình hình trong nước cộng hòa có hơi... gay go... Bác ạ, chỗ này một nhà hát ôpêra đã bị đốt cháy, chỗ kia một cửa hàng bách hóa bị phóng hỏa... Nghe đâu có người dùng súng tự sát, có người tự cắt mạch máu mình... Tóm lại, tình hình căng thẳng là do... do vấn đề lựa chọn cán bộ... thêm nữa, thịt ở chợ... cũng không lấy gì làm... ờ...
    -- Còn pho mát thì thế nào? -- Batsana mỉm cười,
    -- Bác bông đùa à, bác Batsana kính mến, tôi hiểu, cố nhiên đấy là do nghề nghiệp của bác... Còn thịt và pho mát thì bác thừa hiểu là do bò cung cấp cho ta...
    -- Ông gây được giống bò mới à? -- Batsana hỏi một cách nghiêm chỉnh.
    Đarăclêvitz ê chăm chú nhìn Batsana, chờ một đòn xỏ ngầm, nhưng Batsana vẫn không tỏ ý gì. Người tóc vàng yên tâm.
    -- Không, tôi đến về chuyện khác, -- Ông ta nói tiếp.
    -- Có lẽ ông có dự án thiết kế rạp ôpêra không cháy chăng?
    Đarăclêvitzê toát mồ hôi. Ông ta nghi ngờ nhìn về phía Bulika và Iôram vẫn nằm không nhúc nhích, ngập ngừng một lát, rồi cả quyết lấy trong túi ra hai chiếc phong bì.
    -- Bác Batsana kính mến, tôi nhờ bác nói với các ông lãnh đạo hay viết thư cho bí thư đảng ủy quận ta...
    -- Chuyện ấy can gì đến tôi nhỉ? -- Batsana ngạc nhiên thành thực.
    -- Có chứ! Bác là một nhà văn có lòng nhân đạo, đại biểu Xô viêt, ủy viên trung ương đảng! Tôi còn nhờ cậy ai, nếu không nhờ đến bác! -- Đarăclêvitzê ngạc nhiên, cũng thành thật như thế.
    -- Thế ông làm việc ở đâu?
    -- Ở Apkhazya, ngành thu mua thuốc lá.
    -- Tôi phải viết gì cho lãnh đạo?
    -- Ai nấy đều biết bác và đồng chí bí thư quận ủy là chỗ bạn bè gắn bó, trước cùng học phổ thông với bác...
    -- Ai xui ông đến gặp tôi?
    -- Người muốn điều tốt cho đồng chí bí thư quân ta... Một phong bì là của bác, phong bì kia bác chuyển cho ai tùy bác... -- Đarăclêvitzê khéo léo nhét cả hai phong bì xuống dưới chiếc gối.
    -- Sao, ông bị đưa ra khỏi cương vị công tác ư?
    -- Cách cổ tôi không dễ đâu, Batsana kính mến ạ. Nhưng sự nâng đỡ ít nhiều không bao giờ thừa. Ngay cả cái kẻ hiện nay đang muốn hất cẳng tôi cũng muốn tìm chỗ dựa! ...
    Pantôpôn bắt đầu có tác dụng, mi mắt Batsana nặng trĩu, ông không muốn nói chuyện, nhất là không muốn hỏi han người họ hàng từ trên trời rơi xuống.
    -- Xin nói cho rõ: có chuyện gì xảy ra? -- Ông nắm mắt lại, hỏi người tóc vàng. Người kia hiểu rằng cần phải gấp lên và ông ta vội nói:
    -- Hắn phái một bạn kiểm tra đến chỗ tôi!..
    Giênya ló đầu vào cửa.
    -- Xin nhắc, đã hai mươi phút rồi đấy!
    -- Không sao, không sao, chị Giênya quý mến, để ông ấy ở lại đây thêm chút nữa, ông ấy cho biết những chuyện thú vị lắm! -- Batsana nài xin.
    -- Đúng thế... -- Đarăclêvitzê tiếp tục. -- Hắn đã phái tới một ban kiểm tra!... Hai mươi năm trời, tôi làm công tác thu mua và chưa bao giờ có ai dám cử người đến kiểm tra công việc của tôi!... Thoạt đầu tôi tưởng hắn đùa!...
    -- Thế kiểm tra thì sao? -- Batsana hỏi chen vào.
    -- Còn sao nữa! Lũ khốn nạn, chúng tính chi li: ở Apkhazya và Gruzya người ta hút hết bao nhiêu điếu thuốc đầu lạoc và thuốc lá thường... Rồi chúng tuyên bố rằng năm nay tuồng như tôi đã trộn một trăm tấn cỏ khô vào ba trăm tấn thuốc lá!... Và những kẻ nói như vậy là người thế nào?! Những kẻ không hề thò mũi ra khỏi phòng làm việc! Mà chúng có biết thuốc lá mọc ở đâu không? Thuốc lá mọc trên cánh đồng, vậy nếu có ít cỏ lẫn vào thì có gì là lạ? Thêm nữa, cỏ là thuốc độc hay sao? Bác đã thấy người nào chết vì cỏ chưa? Ở đây có gì là phá hoại? Bò suốt đời ăn cỏ, dễ nó chết vì cỏ chắc? Thế thì phải cho bò ăn gì, ăn thuốc lá ư? Ép những người như bác dùng ni cô tin đầu độc sức khỏe mới là phá hoại... Như thế còn chưa sao! Họ lại còn tuyên bố rằng chúng tôi bán thứ cỏ đó theo giá thuốc lá và nhờ cỏ kiếm được hàng triệu đồng, bác ạ!... Hừm, một tấn đó giá mười rúp, không hơn, đâu ra hàng triệu?! Chúng nó lại còn dám nói rằng, chúng tôi phun nước vào thuốc lá, thành thử số cân thuốc tăng gấp đôi!... Khôn ngoan gớm!...
    -- Bao nhiêu triệu cả thảy?
    -- Tiến bán sản phẩm hay khoản trội thêm?
    -- Tính tổng cộng.
    -- Nhiều.
    -- Nhưng bao nhiêu?
    -- Nói bác không tin đâu...-- Đarăcvêlitzê bắt đầu thoái thác.
    -- Ban kiểm tra còn nói gì nữa?
    -- Lắm chuyện lắm!... Bác ạ, chúng còn đến cả nhà tôi nữa chứ... Tại sao nhà đồng chí hai tầng, chúng hạch!... Chúng xộc vào các buồng! Nhưng hai tầng cái quái gì? Định mức chiều cao của một tầng là hai mét rưỡi, mà tâng một của tôi chỉ có hai mét bốn tám...
    -- Hai centimet có nghĩa lý gì? -- Batsana phá lên cười.
    -- Sao lại thế, bác Batsana kính mến! Viên đạn chỉ có hai centimet mà giết chết tươi con trâu! Và viên đạn giết chết một người năm ngoái, tôi sẽ không nói họ người đó, cũng không quá hai centimet... Không cần nói chuyện đó với bạn của bác, thuận miệng thì tôi kể với bác thế thôi... Rồi chúng còn tính là tám buồng ở tầng trên nữa chứ! Hừ, tôi đã nhổ vào mặt các thằng coi một phòng lớn là buông ở!... May là chúng còn chưa gộp cả lôtgia * và phong bi-a vào số căn buồng đấy! Vậy cũng là tử tế rồi!... Bác Batsana kính mến, tôi trong sạch như pha lê! Mong rằng ông bí thư bạn bác sẽ để tôi yên... Lời của bác là lệnh đối với ông ta!... Bôi nhọ tôi là xúc phạm cả đến bác nữa...
    -- Tại sao lại xúc phạm tôi? -- Batsana mở mắt!
    -- Chứ còn sao nữa! Bác là chỗ bà con thân thiết với tôi, giả dụ có ai nói điều gì xấu về bác thì chả nhẽ tôi không cảm thấy bị xúc phạm sao?! -- Đarăclêvitzê kêu lên.
    Batsana bắt đầu đếm lại trong trí nhớ tất cả những người thân thiết của mình và không tìm ra người nào giống Đarăclêvitzê, ông yên tâm.
    -- Đồ chó đẻ! -- Người tóc vàng nổi nóng. -- Chỉ vì số tiền mười rúp mà nó bắt giam người ta, còn cái ghế của tôi thì nó muốn bán lấy một triệu đồng!
    -- Bao nhiêu? -- Batsana hỏi lại.
    -- Nửa triệu! -- Đarăclêvitzê rút bớt.
    -- Thế bác thu nhập cao như thế thức à?
    -- Đâu có! Chuyện chi mà lạ đời!... Vốn liếng của chúng tôi có ra cái quái gì.
    Batsana sờ nắn chiếc phong bì dưới gối đầu. Đarăclêvitzê đưa mắt nhìn ra chỗ khác.
    -- Khi nào tôi bình phục, ta sẽ nói chuyện! -- Batsana nói.
    -- Thế thì có mà hết hơi! -- Đarăclêvitzê buột miệng nói, nhưng chữa lời ngay. -- Là tôi muốn nói bác chưa thể khỏi ngay được, mà vấn đề của tôi ngày kia sẽ đưa ra thường vụ... Rất có thể tôi sẽ bị bắt ngay tại đấy... Vài chữ tự tay bác viết... Chỉ vài chữ...

    * Hành lang lộ thiên, có cột, chạy dọc tường nhà (N.D)
    Batsana lấy dưới gối ra cả hai phong bì và đặt trên ngực.
    -- Đây là bao nhiêu?
    Đa răc lê vit zê hớn hở.
    -- Một limôn * rưỡi !
    Batsana ngẫm nghĩ, Đarăclêvitzê nóng này ngọ nguậy trên ghế.
    -- Bác Nu gơ za kính mến, -- Batsana nói, sau một lúc im lặng; -- dưới gầm giường tôi có chiếc bô. Bác làm ơn lấy hộ.. Tôi mỏi quá, xin lỗi... -- Đarăclêvitzê ngần ngừ. -- Bác đừng ngại, bô sạch ấy mà...
    Đarăclêvitzê nhẫn nhục cúi xuống lấy cái bô, đưa cho Batsana. Ông đưa cánh tay yếu ớt cầm lấy.
    -- Xin lùi ra một chút cho tôi nhờ! -- Ông nói với Đa răc lê vit zê. Gã kéo dịch ghế ra một quãng, Batsana đưa mắt ước lượng khoảng cách giữa mình và khách, rồi rán hết sức ném cái bô vào đầu Đa răc lê vit zê.
    Một tiêng xoảng, cái bô vỡ tan. Đarăclêvitzê chậm chạp trượt khỏi ghế và ngã ngửa xuống sàn...
    -- Bô không à? -- Bulika hỏi.
    -- Bô không. -- Batsana đáp
    -- Tiếc quá! -- Cha Iôram nói với giọng tiếc rẻ và gọi to: -- Giênya!...Giênya!...

    * limôn là một triệu thời kỳ tiền mất giá năm 1920-1923 (N.D)
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/15
    ------, deathshine and superlazy like this.
  13. demongod

    demongod Lớp 2

    6.

    Bảy ngày bảy đêm Batsana len lỏi trên hoang mạc cháy nắng trơ trụi. Hai ngày đầu, ông đi bộ, rồi lê bằng đầu gối, hai ngày sau ông bò. Khi đã suy kiệt, môi nứt nẻ, ông ngã sấp mặt xuống cát vàng nóng bỏng và cảm thấy cái chết gần kề, ông nằm ngửa lên, giương cặp mắt mờ đục nhìn mặt trời và lần đầu tiên trong đời, ông buột miệng oán trách vầng sáng kia.

    - Tai sao ngươi đày ta đến chỗ chết, hỡi mặt trời ?

    Bỗng nhiên, hình ảnh một con người xuất hiện trên vầng mặt trời tròn như cái đĩa. Bóng người đó trùm lên Batsana.

    - Anh là ai ? Batsana hỏi.

    Chàng thanh niên gầy còm, chân đất, mắt xanh nhìn ông và Batsana không thể hiểu được sau lưng anh ta là mặt trời hay trên đầu anh ta tỏa ra vầng hào quang chói lọi.

    - Ta là Chúa tể và Thượng đế của ngươi! Chàng trai đáp.

    - Anh lấy gì chứng minh điều đó!

    - Sự hiển hiện của ta trước mặt ngươi không phải là bằng chứng ư ?

    - Không! Anh là ảo giác của một người đang khát trong sa mạc!

    Batsana chờ đợi một lúc lâu cho hình ảnh kỳ lạ đó biến đi. Nhưng chàng thanh niên đứng trước mặt ông, điềm tĩnh, mỉm cười, nhân từ và thân thuộc lạ thường. Thế là Batsana bò đến gần anh ta và rụt rè chạm tay vào vết thương đã lên da màu hồng nhạt ở cái chân trần của anh ta.

    - Vứt bỏ những nghi ngờ đi. Chàng thanh niên mỉm cười.

    - Tôi hồ nghi và tôi không tín ngưỡng. Tôi không tin cái mà mắt tôi nhìn thấy. Tôi cảm thấy tất cả những cái đó diễn ra ở một nơi nào cách xa tôi. Hãy đến gần tôi và giải thích cho tôi rõ trước đây có anh trên trần gian này không. Nếu có thì tai sao anh rơi bỏ loài người? Batsana hỏi.

    - Loài người từ bỏ anh ta. nhưng ta không bỏ loài người... Chàng thanh niên khẽ trả lời.

    - Hãy chứng minh với tôi điều đó!

    - Sự có mặt của ta ở đây là bằng chứng!

    Một lần nữa, Batsana đưa tay vuốt cái chân đi đất của chàng thanh niên.

    - Ngài là gì, thưa Chúa?

    - Ta là niềm tin, hy vọng, sức mạnh, điều thiện, tài năng của tình yêu và tự do!

    - Làm thế nào mà Giuda lại bán Ngài lấy ba mươi đồng bạc trắng?

    - Không phải Ginda phản chúa của y, mà y bị bán mình cho bọn phanrixay lấy ba mươi đồng bạc, chúng mua y với giá ấy. Số tiền dưới giường người hôm nay không phải là cái giá của ngươi, vì thế ngươi tự bán mình. Vì không bán mình hôm nay, ngày mai giá trị ngươi sẽ cao hơn.

    - Thế nếu ngày mai, ngày kia tôi cũng không bán mình thì sao?

    - Thế thì ngươi sẽ càng cao quý hơn và cái điều mà vì nó ta bị đóng đinh câu rút sẽ thành sự thật...

    - Vậy ngài có biết là Giuda sẽ bán ngài không?

    - Xa tăng biết. Chúa không cám dỗ con người. Chúa thử thách con người. Giuda bị quỷ xa tăng cám dỗ, quỷ mua được hắn bằng ba mươi đồng bạc. Còn ta thử thách Giuda bằng cách trao vào tay hắn sợi dây thừng.

    - Thế ngài không nguyền rủa Giuda chứ?

    - Không.

    - Tại sao?

    - Giuda đã tránh cho mười một người sa vào tội lỗi.

    - Vậy tại sao ngài không xóa bỏ cho Giuda cái vết ô nhục suốt đời?

    - Vì Giuda là hiền thê của quỷ xa tăng, chứ không phải của chúa.

    - Như vậy là quỷ xa tăng đã thắng ngài à?

    - Có lẽ là như thế, nếu Giuda không tự sát.

    - Khi lên Gongota, ngài có tin rằng người ta đưa ngài đi đóng đinh câu rút không?

    - Không.

    - Vậy ngài hy vọng vào cái gì?

    - Hy vọng ở nhân dân.

    - Chẳng phải nhân dân đã đánh đổi ngài lấy tên kẻ cắp sao?

    - Chính nhân dân.

    - Vậy là cả ở đây nữa, xa tăng cũng vẫn thắng ngài ư?

    - Không, bởi vì đó không phải là sự cám dỗ, mà là sự thử thách.

    - Và nhân dân không chịu nổi sự thử thách ư?

    - Không

    - Tại sao?

    - Dân chúng chờ mong ta làm phép lạ, vì thế họ đổi ta lấy tên ăn cắp mà họ không trông mong gì ở hắn...Đấy là lần thứ hai ta thử thách con cháu của Adam, cuộc thử thách quá sớm, và đấy là sai lầm thứ hai của ta.

    - Sai lầm thứ nhất của ngài là gì?

    - Là ta đã cho con người ngụ trên thiên đàng. Đáng ra không phải do ý chí của người khác, mà nhờ vào mồ hôi, máu và lòng tin của mình mà con người được lên thiên đàng!

    - Đến lúc nào thì ngài tin rằng việc ngài bị đóng đanh câu rút là không thể tránh khỏi?

    - Khi ta nhìn thấy mẹ ta và người môn đệ yêu quý của ta đứng trước mặt ta. Ta bảo mẹ ta: “ Hỡi người đàn bà, đây là con trai người!”Ta phán bảo môn đệ ta: “Hỡi người kia, này la mẹ ngươi!”. Và y thay ta ở lại cùng mẹ ta, còn mẹ ta trở thành thánh linh ở cung y...

    - Xin ngài cho biết ý muốn của ngài?

    - Đứng đậy!

    Batsana đứng dậy.

    - Hãy nói to lên rằng ngươi không bị ánh nắng thiêu đốt!

    - Tôi không bị ánh nắng thiêu đốt! Batsana nhắc lại và cái nắng làm ông kiệt lực biến mất.

    - Hãy nói to lên rằng ngươi tin vào cuộc sống và vào chúa của mình!

    - Tôi tin vào cuộc sống...Batsana nói theo, nhưng không nói mấy tiếng “chúa của tôi” vì ông vẫn có cảm tưởng mọi việc xảy ra xung quanh là ảo giác.

    Khi ấy chàng thanh niên nói:

    - Hãy thổ lộ mơ ước thầm kín của ngươi!

    - “Tại sao tôi sinh ra làm người? Cớ sao tôi không tan biến thành mưa?”Batsana đọc mấy câu thơ của Vagia Posaven và bỗng nhiên...

    Batsana biến thành cơn mưa, cỏ đâm lên qua đất hoang mạc cháy trụi: cỏ xanh tươi mọng sữa...

    Batsana biến thành cơn mưa. và hoa đâm lên qua đất hoang mạc cháy trụi: những bông hoa đẹp, tươi vui. ngát hương thơm...

    Batsana biến thành cơn mưa. và và nước mạch vọt lên qua đất hoang mạc cháy trụi: nước trong mát, tràn đầy sức sống.

    Batsana biến thành cơn mưa. và đất hoang mạc cháy trụi hồi sinh, hoang mạc biến thành ốc đảo nở hoa.

    Batsana biến thành cơn mưa, rồi đột nhiên chính ông biến thành cây sồi hùng vĩ giữa ốc đảo nở hoa: một cây sồi khổng lồ, cành lá xum xuê, rễ bao quanh khắp trái đất, ngọn cao vút chống đỡ bầu trời... Và những bầy chim có tiếng hót du dương, đông hằng hà sa số từ khắp các nước bay tới đậu trên cành nhánh của cây sồi đó, làm tổ. sinh sôi nảy nở và bải ca vĩ đại ngợi ca cuộc sống vang khắp thế gian...

    Thế là Batsana quỳ xuống. rạp đầu trước chàng thanh niên và nói:

    - Tôi đã nhìn thấy ngài và tôi tin.

    Chúa Kito phán truyền:

    - Ngươi tin vì ngươi chính mắt nhìn thấy ta. Phúc cho những kẻ không nhìn thấy ta mà vẫn tin.

    7.

    Batsana tỉnh lại. Bulika ngồi co gập chân chân trên giường, tựa lưng vào chiếc gối, nghe cha Ioram đọc báo bằng giọng đều dều như đọc thánh thi.

    - Chào các ông bạn!Batsana chào những người giương bên.

    - A, chào ông bạn mới đến ở cùng nhà với chúng tôi! Bulika mứng rỡ.

    - Ông cảm thấy trong người thế nào, thưa ông Batsana. Cha Ioram đặt tở báo xuống, hỏi một cách nhã nhặn.

    - Như Adam lúc trẻ tuổi ở trên thiên đàng khi chưa có Eeva!

    - Vậy ra sống một mình ông không buồn ư?

    - Trái lại. tôi có cảm giác cả thiên đường là của tôi!

    - Ông thật là cừ, cừ lắm, ông Batsana ạ! Bulika nói bằng giọng hoan hỉ. Tôi chưa từng thấy đòn nốc ao nào như thế: đếm đến ba trăm mà hắn chưa mở được mắt!

    - Hắn là ai?

    - Thế mới thú vị chứ! Suýt nữa đưa một người sang thế giới bên kia khiến hắn không kịp xưng tội, mà lại còn hỏi hắn là ai. Cha Ioram thốt lên.

    - Nhưng cha có mặt ở đây kia mà, thưa cha! Batsana bông đùa. nhưng cảm thấy hơi ngượng ngập. Ông gần như đã quên việc xảy ra ban nãy, đó là do tác dụng của pantopon, vì thế nghe nhắc lại chuyện đã xảy ra, ông cũng thấy bực bội. Thực tình tôi không nhớ rõ đã xảy ra chuyện gì. Ông vừa nói vừa lau mồ hôi trán.

    - Xin đừng lo, ông Batsana kính mến, tôi cũng không nhớ gì hết: tôi ngủ cha Ioram cầu nguyện. Phải thế không thưa cha? Bulika nói với Ioram.

    - Đúng thế. Ioram xác nhận.

    - Vì thế chúng tôi sẽ không phải là người chứng kiến. Bulika nói thêm.

    - Vâng, nhưng đã có chuyện gi xảy ra kia chứ? Batsana thành thật muốn biết.

    - Thế này này : khi ông ném cái bô vào đầu hắn, bô vỡ tan và hắn ngã xuống thì Gienya chạy vào. Chị ấy tiêm long não, bôi iot cho hắn. Sau dó bỗng nhiên hắn bật dậy và chửi um lên.

    - Thế nào kia?

    - Hắn la ầm lên rằng chắc ông chê số tiền đó ít, nếu không thì tại sao ông không từ chối ngay?

    - Còn gì nữa?

    - Hắn còn nhắc đến một người nào tên là Batsalasvili đã được ông cất nhắc lên làm của hàng trưởng tiệm ăn mà chẳng phải tốn phí bao nhiêu...

    - Cái gì? Batsana không hiểu.

    - Cái gì là thế nào? Ông đã thu xếp cho một người làm cửa hàng trưởng tiệm ăn, còn người đó trả cho ông nửa triệu rúp...

    Batsana phá lên cười.

    - Sao vậy? Đúng là hắn đã la ầm lên như thế đấy.

    - Ồ không , tôi không nói về chuyện ấy... Quả thật là tôi có giúp cho một người thân thích của một cán bộ cơ quan tôi được bổ dụng: chính cái ông Batsalasvili ấy...

    - À ra thế...

    - Thưa ông Batsana, như vậy là quả thật cũng có kẻ ăn hối lộ ư? Cha Ioram hỏi chen vào.

    - Chuyện ấy cũng có. Batsana đồng ý.

    - Tôi cũng gặp phải một thằng xỏ lá như thế, mà lại là bạn tôi kia chứ. Bulika nhớ lại. Hắn thu xếp cho thằng cháu mồ côi của tôi vào trường chuyên nghiệp trung cấp. Hắn đòi tôi đưa ba nghìn: một nghìn rưởi cho ông hiệu trưởng, hắn bảo thế, một nghìn cho một tay nọ, ba trăm cho một tay khác, còn hai trăm là phần công sức hắn chạy chọt, hắn bảo thế... Tôi còn có cách nào khác. Thằng cháu tôi thì tôi biết quá rõ đi rồi... Mới đây tôi hỏi thằng thộn ấy: năm mươi trừ đi năm còn bao nhiêu? Nó trả lời: năm.

    - Thế là đúng rồi. Batsana cười vang.

    - Chính bởi “đúng” như thế tôi mới mất ba nghìn rúp. Thằng xỏ lá ấy nó lấy tiền rồi biệt tăm...

    - Nó lừa à? Ioram tò mò.

    - Không... Nó có thu xếp cho thằng bé vào trường, nhưng còn tiền thì... Tiền của tôi mất toi...

    - Thế thì bác trách nó cái nỗi gì?

    - Sao lại không. Tháng chạp, hiệu trưởng của chính trường chuyên nghiệp ấy gọi tôi lên và hỏi: ông Goghilasvili, ông bà đưa ba nghìn rúp cho ông Govalatze phải không? Cơ nhiên tôi nhận: vâng, quả có thế. Cái đồ đểu cáng, ông hiệu trưởng gầm lên và đập tay xuống bàn:

    - Ông ta nói bác thế à? Cha Ioram buồn rầu.

    - Sao lại nói tôi. Nói cái thằng Govalatze xỏ lá ấy.

    - Vậy ra ông ấy vu khống người ta. Ioram phẫn nộ.

    - Ơ kìa, thì ra cha không hiểu ư? Chẳng là Govalatze không đưa tiền cho ông ấy mà. Thế là ông ta dồn tôi: anh coi tôi là người thế nào? Trường trung cấp thương nghiệp không phải như trường... gọi là trường gì nhỉ, cái trường... ở cạnh lò bánh mì ở Vakê ấy mà... Ở đấy học sinh cứ ngày đêm nhìn vào những ống ngắm...

    - Trường trắc đạc. Batsana nhắc.

    - À văng, trường trắc đạc. Đây không phải như trường trắc đạc đâu nhé. ông ta nói thế. Bây giờ là thánh chạp. Tháng giêng anh đưa tôi ba nghìn rúp, không thì thắng cháu đần độn của anh không còn là học sinh trường này nữa.

    - Ai nói như thế? Ioram ngạc nhiên.

    - Ai là thế nào? Ông hiệu trưởng chứ còn ai.

    - Rồi sau thế nào?

    - Sau thế nào ấy à? Tôi với Xvêta của tôi bàn nhau, bà ấy bảo tôi: chẳng thà thêm một khoản bằng ngần ấy nữa là ta có thể thu xếp được cho nó làm bộ trưởng bộ nội thương...

    - Thế ra hiệu trưởng cũng là một thằng kẻ cướp ư? Batsana bứt rứt trở mình trên giường.

    - Đúng thế, bạn quý ạ. Có lẽ ông cần cái bô chăng? Trong lúc họ chưa đem cái mới đến, có thể dùng tạm cái của tôi... Bulika đề nghị.

    - Không, cảm ơn... Tôi vừa nảy ra ý nghĩ là có lẽ nên nhận số tiền ấy chăng?

    - Tôi không biết... nói chung tiền là thứ khá bẩn thỉu... Bulika nói bằng giọng trầm ngâm.

    - Ba mươi đồng bạc trắng hủy diệt nhân loại. Cha Ioram kêu lên. Ba mươi đồng bạc trắng.

    - Ông Batsana kính mến ạ, tôi đoán nhận người chẳng kém gì các ông xem tướng... tướng mạo... Bulika ngắc ngứ.

    - Những người xem tướng mặt.

    - Đúng thế. Có điều họ xem mặt đoán người, còn tôi xem giày mà đoán được... Nhìn giày tôi đoán dứt khoát không sai kẻ đó là thứ người gì... Như cái thằng cha ngu ngốc đã đến gặp ông chẳng hạn... Vừa nhìn đôi giày hắn đi, tôi hiểu ngay hắn là thằng đê tiện khốn khiếp...

    - Bằng cách nào?

    - Thứ nhất, giày của hắn đánh bóng lộn...

    - Còn tôi thì trái lại, tôi tưởng hắn là giáo sư. Cha Ioram ngắt lời Bulika.

    - Vào đến nơi, hắn chùi giày vào quần... Bulika liếc nhìn Ioram. Giáo sư không bao giờ làm như thế...

    Thứ hai, đế giày hắn vẹt đằng trước, còn gót giày hoàn toàn mới. Như vậy đôi giày ấy của hắn là giày dùng trong những dịp long trọng, hắn chỉ dùng trong những lần đến cấp trên. Trước mặt đương nhiên là hắn đi nhón gót, vì thế đế giày chỉ mòn phía trước... Hắn có phải là thằng đê tiện không? Tất nhiên là thằng đê tiện... Thứ ba, vừa ngôi xuống hắn lập tức rút ngón chân khỏi giày. Tại sao? Giày bó chân quá, nguyên do là vì vậy. Nhưng hắn đi giày chật để làm gì? Để vẻ mặt nom đau khổ. Ý muốn nói lên rằng: xin hãy nhìn xem tôi là người suy kiệt khổ sở thế này đây. Vậy hắn không phải là kẻ đê tiện thì là gì? Thứ tư, gót giày của hắn cao hơn gót giày thường đến ba , bốn centimet. Tại sao? Vì hắn muốn cao hơn bản thân hắn trong thực tế? Hắn có phải là kẻ đê tiện không? Tất nhiên. Còn gì nữa? Phải, điều quan trọng nhất, nhưng điều này không dính dáng gì đến giày nữa, điều quan trọng nhất là khi bị người ta ụp cả cái bô bệnh viện lên đầu mà hắn lại không cắn đứt cổ họng kẻ làm nhục mình thì hắn là kẻ hèn hạ đê mạt hết mức rồi đó. Bulika kể xong những đặc điểm về tư cách của Đracveditze.

    - Vậy theo bác, giày của một người tốt nom nó thế nào? Cha Ioram hỏi, không tin những lời luận bàn của Bulika là có thể chấp nhận được.

    - Giày của người đứng đắn mòn đều: bên phải, bên trái, bên mép... Và người đó đi giày rộng hơn cỡ chân. Tại sao? Để cho thoải mái, dễ dàng, không cọ sát nhiều thành chai chân... Rõ rồi chứ? Còn điều này nữa: nếu như phần sau giày của một người nào bị nhăn nhúm và hõm vào thì hoặc là người đó đi giày của người khác, hoặc đấy là một kẻ bừa bãi cẩu thả nhơ nhuốc...

    - Thế còn trẻ em thì sao? Batsana thích thú.

    - Trẻ em lại là chuyện khác. Trẻ em vận động nhiều xương cốt chưa vững chắc... Xem giày đoán tính nết trẻ con thì khó đấy...

    - Thế còn bản thân bác thì sao? Bác làm mòn giày như thế nào? Cha Ioram đưa ra câu hỏi bất ngờ.

    Bulika bối rối.

    - Phải, chính bác.

    Balika cúi xuống, lấy dưới gầm giường ra chiếc giày dúm dó, phía sau lõm vào và ngạc nhiên xoay chiếc giày trong tay.

    - Hừm, té ra bản thân tôi là một thằng khá đê mạt. Ông ta làu bàu, giọng bực bội và lẳng chiếc giày vào gầm giường.

    Batsana và cha Ioram phì cười. Cả Bulika cũng cười xòa.

    - Thưa đức cha kính mến. Batsana bỗng lái sang chuyện khác. Cha đã từng chiêm bao thấy chúa Kitô bao giờ chưa?

    Hàm dưới cha Ioram trễ xuống và mắt của cha trợn ngược lên. Cuối cùng cha nói ngắc ngứ:

    - Ông Batsana kính mến... Chuyện như thế không mấy khi có: chiêm bao thấy chúa của chúng ta... Chuyện hiển hiện của chúa thì có... Nhưng cho đến giờ, chúa chưa ban cho tôi cái hạnh phúc như thế...

    - Thế cha đã nghe thấy tiếng nói của chúa chưa?

    - Đấy cũng là sự hiển hiện của chúa.

    - Vậy thì cha phụng thờ cái gì?

    - Phụng thờ chính là để được đến gần chúa, được nghe tiếng nói của chúa, được nhìn thấy dung mạo của chúa.

    - Nếu thế thì chúng ta phải đổi nghề thôi.

    - Sao vậy?

    - Cách đây một giờ, tôi đã nhìn thấy chúa.

    - Nhìn thấy ai?

    - Chúa Kito của các ông.

    Giọng cha Ioram run lên:

    - Con ơi hãy nhớ đến điều răn: “Chớ nói dối”.

    - Ông ấy nói ông ấy đã nhìn thấy. Còn tin hay không là tùy cha thôi. Bulika chen vào và nháy mắt với Ioram, ý muốn nói: dừng phá ngang, cứ để ông ấy kể.

    Batsana im lặng.

    - Rồi thế nào nữa? Bulika hỏi, vẻ sốt ruột.

    - Chúa làm tôi sống lại, biến tôi thành cơn mưa tưới cho một sa mạc chết trở nên tươi tốt. Rồi tôi biến thành một cây sồi hùng vĩ, nở hoa, xanh tươi trong một ốc đảo, và chim chóc hót lên bài ca vĩ đại ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống...

    - Lạy chúa tôi. Vị chúa tể ngự trên thượng giới.

    - Tôi cũng suýt thốt lên những lời như thế khi chính mắt tôi đã nhìn thấy tất cả những cái đó.

    - Ông đã thấy rồi mà còn hồ nghi ư? Một Fôma đa nghi. Cha Ioram nhỏm dậy trong giường.

    - Trong chiêm bao tôi đã sụp xuống dưới chân chúa... Nhưng khi tỉnh dậy, tôi nhìn thấy cha và Bulika thì thú thực là tôi đâm ra hoài nghi...

    - Chẳng lẽ ông không cảm thấy là ông đã được hưởng một vinh hạnh cao cả ư? Cha Ioram thậm chí tái mặt đi vì xúc động.

    - Cha ạ, tôn giáo của các ngài thần bí quá, tách rời cuộc sống, không thực tế... Giá như sau giấc chiêm bao của tôi mà còn lại một cái gì thực, sờ mó được...

    - Một kẻ có tội. Chúa đã cho ông sống lại, còn gì thực hơn nữa ư?

    - Tôi không thấy mục đích sự sống lại của tôi. Chẳng lẽ tôi trở lại cuộc sống chỉ để ngày mai mọi sự lại lặp lại từ đầu ư? Để rồi mai này lại phải chết ư? Thì cái chết là không tránh khỏi kia mà?

    - Nhưng thời gian. Cha Ioram kêu lên.

    - Thời gian gì kia? Batsana không hiểu.

    - Thời gian sống, tuổi thọ. Chúa đã kéo dài thời gian sống của ông.

    - Đằng nào cũng thế thôi, tôi chết hôm nay hay ngày mai thì có nghĩa lý gì?

    - Đối với ông thì đằng nào cũng thế thôi, nhưng đối với người khác thì không phải thế.

    - Đối với ai kia?

    - Đối với những người mà cuộc sống phụ thuộc vào ông.

    - Điều đó chẳng có ý nghĩa gì... Nhiều người chết từ lúc còn non trẻ, nhưng cuộc sống trên trái đất vẫn tiếp tục...

    - Ông nói mới lạ chứ. Điều đó mà lại không có ý nghĩa gì. Cha Ioram phẫn nộ. Thế nếu như Ruxtaveli chết từ lúc còn trong nôi thì sao?

    - Sẽ có một người khác ra đời.

    - Khi nào?

    - Vào một lúc nào đó.

    - Ấy thế. Vào một lúc nào đó. Nhưng phải bao lâu cho đến lúc ấy? Ông có tưởng tượng được xã hội từ thời Ruxtaveli cho đến ngày nay sẽ như thế nào nếu không có thiên tài của con người ấy không?

    - Có sao đâu, đã có thời không có Ruxtaveli, vậy mà vẫn cứ được, người ta vẫn sống...

    - Người ta sống không có chúa trong lòng... Cha Ioram uống sữa trong cái bình nhỏ, nhấp cho dịu lại cái cổ họng đã khan lại. “Thời gian là thượng đế”. Ông nên hiểu điều đó. Người cộng sản các ông không tin chúa vì không biết giá trị của thời gian. Các ông phí phạm thời gian. Hãy sùng kính thời gian, quý trọng thời gian. Nếu các ông quyết tạo nên một tín ngưỡng mới, một tôn giáo mới thì hãy bắt đầu từ thời gian. Không thì các ông sẽ không có được thành công nào cả, bởi vì, tôi nhắc lại: chúa trời, đó là thời gian.

    - Nhưng người ta vẫn nói chúa tức là lời.

    - Lời nói, việc làm và thời gian là ba ngôi gắn với nhau thành một thể thống nhất không thể phân chia được. Cha Ioram nói với vẻ thành kính.

    - Nếu thế thì chúng tôi tán thành, cha ạ. Chúng tôi quý trọng cả thời gian, cả việc làm, cả lời nói. Thêm nữa, sự quý trọng của chúng tôi đối với những cái đó tuyệt nhiên không thua kém gì sự quý trọng của nhà thờ.

    - Trên đời chưa từng bao giờ có lắm công việc bị hoãn lại và lắm người thích trì hoãn công việc như ở phía các ông. Cha Ioram cười phá lên.

    - Ồ không, thưa cha, xin cho phép được bày tỏ sự bất đồng với cha. Batsana bác lại. Trì hoãn công việc không phải là đường hướng của chúng tôi. Chính chúa trời hứa hẹn cho con người được lên thiên đường vào lúc nào? Sau khi chết. Cha quên rồi sao?

    - Thiên đường ở thế giới bên kia, con người phải giành lấy bằng cuộc đời công chính của mình. Còn cách nào khác được nữa?

    - Tất nhiên, cái mà con người giành được bằng lao động và mồ hôi của mình thì các ngài gọi là ân huệ của chúa... Như thế không công bằng, thưa cha. Tôn giáo của cha đòi hỏi ở con người sự hi sinh quá lớn.

    - Ông thật là tội lỗi, thật là tội lỗi, ông Batsana kính mến. Cha Ioram phật ý. Quy pháp nền tảng của đạo chúng tôi là hiến dâng chứ không phải là thu nhận, là phụng sự chứ không phải là cai trị.

    - Những lời hay ho, thưa cha, và chỉ thế thôi... Xin cha nhớ lại: sự ngu dốt, thói cuồng tín tôn giáo, bệnh giáo điều, những cuộc viễn chinh thập tự, tòa án tôn giáo... Và tất cả những cái đó đều nhân danh chúa, để làm sáng danh chúa...

    - Tôi không chứng minh rằng đạo của chúng tôi đã đạt đến mức hoàn hảo... Cha Ioram ngập ngừng.

    - Hoan hô đức cha. Batsana cả cười. Lần đầu tiên tôi được nghe những lời như thế từ miệng một người tu hành. Trong giới chức của cha, cái nhận định như thế gọi là gì? Thiên tả hay thiên hữu?

    - Trong đạo thiên chúa không có những khuynh hướng thiên về bên nào, cũng không có trung tâm. Chỉ có thiên đình. Cha Ioram nói bằng giọng răn dạy và ngước mắt nhìn lên trần nhà.

    - Nó ở đâu, cái thiên đình ấy? Batsana hỏi và bất giác cũng nhìn lên trên.

    - Thiên đình, đó là ánh sáng. Khi con người đi vào vương quốc của ánh sáng, người đó khắc phục được mọi sự hạn chế và có được tự do. Nhưng điều đó sẽ đến cùng với sự hoàn thiện tâm hồn con người, vì thế cái chết làm cho con người đến gần chúa- Cha Ioram chắp hai tay trước ngực như lúc cầu nguyện.

    - Thế khi người ta khiêng cha đến đây, toàn thân tím ngắt, dở sống dở chết, cha có nhớ lúc ấy cha cầu xin ai cứu giúp không? Cầu khấn các bác sĩ, chứ không phải chúa trời. Bulika xen vào.

    - Sợ chết tức là sợ đến gần chúa. Cha Ioram thốt lên, không nhìn Bulika.

    - Cha ngụy biện rồi, thưa cha. Cõ lẽ cả cái bệnh nhồi máu của cha cũng do nỗi sợ ấy sinh ra chăng? Bulika nháy mắt với Batsana.

    Ông thầy tu ném lên Bulika một cái nhìn hằn học:

    - Con người bất hạnh kia ơi, đạo của bác mở đầu trong dạ dày và kết thúc ở nhà tiêu. Kẻ tội lỗi như bác thì ngay đến địa ngục nó cũng không chịu chứa chấp đâu.

    - Tất nhiên là như thế, nếu như tôi đến đây với sự giới thiệu của cha. Nhưng tôi xin nhường cha tất cả: cả địa ngục, cả thiên đường. Tôi muốn thấy chủ nghĩa cộng sạn. Đấy là thiên đường của các ông, phải không, ông Batsana? Thực ra tôi là người ngoài đảng, nhưng tôi hy vọng vào sự che chở của các ông...

    - Xin mời bác Bulika. Batsana mời người thợ giày vào xã hội cộng sản. Chúng tôi là những người tốt bụng, chúng tôi sẽ chấp nhận không chỉ riêng bác, mà cả cha Ioram nữa.

    - Xin mời hai ông cứ bước vào cái thế giới mô phỏng thiên đường ấy. Cha đạo khước từ lời mời. Còn tôi sẽ chờ theo ý chúa... Cái thiên đỉnh của các ông trần tục quá... Tôi muốn biết các ông sẽ làm gì sau khi đến được chính cái xã hội cộng sản đó.

    - Hãy đến đó đã, rồi sau sẽ rõ.

    - Ngộ nhớ sẽ thấy chẳng có gì cả thì sao? Cha Ioram hỏi, không phải không có phần cay độc.

    - Thưa cha Ioram kính mến, đạo của cha được bao nhiêu tuổi rồi. Batsana trả lời bằng một câu hỏi lại.

    - Hai nghìn tuổi? Tiếng ông cha đạo nghe đầy tự hào.

    Batsana phá lên cười một cách thành thật.

    - Còn đạo của chúng tôi chưa đầy một trăm tuổi... Vậy mà số tín đồ của nó thì đạo các ông không sao mơ tưởng được. Các ông, những người hai nghìn tuổi, hiện đang ganh đua với chúng tôi, những thanh niên một trăm tuổi ư? Phải biết xấu hổ chứ? Xin hãy kiên nhẫn, khi nào chúng tôi được hai nghìn tuổi thì các ông hãy từ trên thượng đỉnh của các ông mà nhìn xuống chúng tôi. Khi ấy chúng ta sẽ phân xử xem trong chúng ta ai vượt lên cao hơn.

    - Khó lòng tranh cãi được với những người không tin cái gì trên đời. Cha Ioram quay mặt vào tường.

    - Đạo của cha đem lại cho nhân dân cái gì? Batsana không chịu thôi.

    - Món ăn tinh thần. Cha Ioram đáp, không quay lại. Thế còn đạo của các ông?

    - Đạo của chúng tôi đem lại cả món ăn tinh thần và món ăn vật chất. Con người đang đi đến thiên đỉnh cần cả bánh mì, pho mát, bơ, khoai, cà chua và thịt. Phải không nào?

    - Thế thịt đâu nào? Cha Ioram lập tức quay mặt về phía Batsana.

    - Như thế không phải là tranh luận, cha ạ... Hôm nay chưa có thì ngày mai sẽ có.

    - Xin nói thêm là đạo chúng tôi không cấm người ta ăn thịt, cũng không cấm sản xuất thịt. Nói ra thì hơi phiền, nhưng... trước kia có nhiều thịt hơn bây giờ...

    - Trước kia trên trái đất có nửa tỉ người, còn bây giờ ngót ngét bốn tỉ.

    - Ờ đúng... chúng ta bỏ thói ăn thịt người sớm quá. Balika từ nãy vẫn im lặng lại lên tiếng. Giá như bây giờ bớt người đi mà thịt ăn thừa thãi thì hay.

    - Đó, đạo của các ông làm cho con người trở nên trâng tráo như thế đấy. Cha Ioram giơ tay trỏ vào Bulika. Ông thợ giày toan trả lời, thậm chí đã hé miệng ra, nhưng tiếng nói tắc trong họng: từ dưới gầm giường ông ta, một con chuột cống bò ra, dẫn theo cả gia đình nó và ngồi chổm hổm ở giưa phòng bệnh.

    - Nhân ngôn diệt chuột tốt thế đấy. Bulika phá tan sự yên lặng.

    Nhìn thấy con chuột, Batsana không có cảm giác ghê tởm, mà lại đâm ra tò mò. Con chuột lần lượt đi vòng qua cả ba chiếc tủ con, như tìm kiếm cái gì, rồi chẳng tìm thấy gì, nó quan sát từng người trong ba bệnh nhân. Nhưng khi Bulika ném cho nó miếng đường, nó thậm chí không buồn ngó ngàng gì đến.

    - Tôi không hiểu thế là thế nào. Cha Ioram hỏi. Hoặc là nó đã ăn sáng no căng, hoặc là nó quyết tuyệt thực.

    - Phải gọi Gienya thôi. Bảo chị ta lôi cái tay nhân viên khử trùng ngu thộn ấy đến đây cho hắn thấy rõ là có những con lợn con như thế nào vẫn hoành hành ở đây. Bulika đề nghị.

    Con chuột lại đi vòng qua mấy chiếc tủ con, rồi trở lại với chồng con, ngọ nguậy hai chân trước và rỉa một cách kỳ cục, thông báo cái gì cho gia đình. Con chồng và hai con con chăm chú nghe, rồi chuột mẹ dẫn hai con chui vào gầm giường Bulika, rõ ràng là nó đua con qua khe hở về nhà và trở lại với chồng. Giữa hai vợ chồng diễn ra cuộc trò chuyện sôi nổi.

    - Cảnh sinh hoạt gia đình. Không nên để trẻ con có mặt. Bulika xác nhận.

    Bỗng nhiên con chuột cái hoảng hốt nhảy vội sang một bên, cắm đầu chạy vòng quanh như điên trong phòng bệnh. Rồi nó trở lại chỗ con đực, thở hồng hộc, dừng lại và ngây ra như hóa đá trước con đực. Bây giờ đến lượt con đực bắt đầu nhảy điệu vũ man rợ. Lát sau, nó chạy tới gần con cái và đờ ra, nhìn chằm chằm vào vợ. Thế là cả hai con chuột không nhúc nhích, dừng lại trước mặt nhau hồi lâu.

    Một linh cảm rùng rợn tràn ngập tâm hồn Batsana, tim ông đập loạn nhịp... Từ dưới gầm giường, hai con chuột con bò ra. Chúng chạy tới gần bố mẹ, nhưng bố mẹ dường như không nhận thấy chúng. Thế là hai chuột con rúc mõm vào bố mẹ. Bố mẹ chúng không nhúc nhích. Hai chuột con dùng chân khi thì lay bố, khi thì lay mẹ. Bỗng nhiên, tất cả mấy con chuột đều rời khỏi chỗ, bắt đầu chạy vòng quanh khắp phòng, xô vào tủ, vào tường, xô vào nhau, ngã xuống, rồi lại chồm lên.

    - Chúng làm sao vậy? Hóa dại chắc? Cha Ioram làm dấu chữ thập. Bulika, xin vì chúa, gọi Gienya đi.

    Nhưng Bulika tái xanh tái xám, ngồi trên giường và sững sờ nhìn điệu vũ man rợ của mấy con chuột.

    - Đấy là do nhân ngôn... Chúng ăn phải nhân ngôn và bây giờ tìm nước uống. Nhưng nước chỉ làm chúng mau chết. Batsana nói.

    - Thế sữa có được không? Cha Ioram hỏi, giọng run lên.

    - Cho nó sữa đi, thưa cha. Batsana yêu cầu.

    Hai tay run run, cha Ioram rót sữa vào cái đĩa sâu lòng và đặt xuống sàn. Nhưng muộn rồi. Mấy con chuột đã hóa dại không còn nhận thấy gì nữa.

    - Lạ thật, chuột con trụ vững hơn. Batsana nói, và liền đó, như để bác bỏ lời ông, một chuột con nằm vật ngửa ra, bốn chân chổng ngược. Lát sau, con thứ hai cũng gục nốt.

    - Tôi không lòng nào nhìn chúng được. Bulika rên rỉ và đặt một viên nitoroglyxerin vào dưới lưỡi, hai tay bưng mặt.

    - Lạy chúa rủ lòng thương. Cha Ioram buột miệng thốt lên.

    Cảm thấy có điều chẳng lành, hai con chuột lớn mở mắt, loạng choạng tới gần xác lũ con và khuỵu gối xuống.

    - Gienya. Batsana gào lên và bất giác nhỏm dậy trên giường. Hai con chuột lớn ngước đầu lên và Batsana thấy trong những cặp mắt hạt cườm đen láy của chúng bao nhiêu là đau đớn, ngạc nhiên và thất vọng đến nỗi tim ông nhức nhối và lạnh giá.

    - Gienya. Ông lại gào lên và ngã lưng xuống chiếc gối.

    - Batsana kính mến. Batsana. Con tôi ơi. Cha Ioram nhấp nhổm trên giường. Bulika. Xem kìa, ông ấy làm sao rồi.

    Nhưng Bulika nằm vùi đầu vào chiếc gối và không nghe thấy gì.

    - Này, ai đấy. Giúp chúng tôi với. Cha Ioram gào rú và cố đứng lên, nhưng một cơn đau ghê gớm xuyên thấu qua tim khiến ông già đổ vật xuống...

    Phòng bệnh trở nên im lặng như tờ. Những con chuột đã tắt thở nằm lăn trên sàn, thần chết náu hình bên giường những con người còn thoi thóp thở và giương mắt hau háu rình linh hồn họ.

    Không ai nghe thấy tiếng cửa bật mở và chị y sĩ Gienya cùng với bác sĩ hoảng hốt chạy xộc vào.

    - Thế nào, bây giờ các ông yên tâm rồi chứ? Thấy những con chuột chết, Gienya nói. Liền đó vang lên tiếng kêu lo lắng của bác sĩ:

    - Pantopon. Nhanh lên. Cho cả ba người.
     
  14. notrinos

    notrinos Lớp 5

    8.
    Laxa Baxilya bắt gặp Tamara ở ga Ôzurgêti *. Cô gái ngủ trên chiếc ghế băng, đầu gối lên cái túi xách tay nhỏ. Cảm thấy luồng mắt chăm chú nhìn mình, cô thức giấc. Cô gái có cặp mắt xanh to của người đói ăn, mặt trắng như vải, đôi môi, đỏ mọng xinh tươi, tóc vàng như rơm xõa xuống bộ ngực tròn căng. Cô bật dậy. Laxa đưa mắt nhìn cái dáng cân đối con nhà nòi của cô và ngây ra...
    ... Từ khi ở nhà ăn của Laxa Baxilya xuất hiện cô nhân viên phục vụ mới, số khách ăn tăng gấp ba. Tất cả đàn ông trong làng bắt đầu tụ họp ở đây. Họ ngồi, bông phèng, uống không biết cơ man nào là "idaben" chua **. Các bà vợ và các bậc cha mẹ phải khó khăn lắm mới lôi được các gã đàn ông đã trở nên mê muội rời khỏi ghế.
    -- Tamara tiên nữ ơi, cho thêm mười chai nữa!
    -- Tamara, ai đã ban cho em cái nhan sắc dường ấy, quỷ tha ma bắt cô em đi!
    -- Trả tiền thừa làm quái gì, chỉ riêng một cái nhìn của em cũng đáng giá một triệu đồng rồi.
    -- Tamara, mỉm cười đi cái nào, rồi em có dùng con dao của Laxalia *** cắt cổ tôi, tôi cũng vui lòng.
    -- Laxaiia, hôn chân cô gái đi, không có cô ấy thì anh sẽ sạt nghiệp với cái nhà ăn hôi hám của anh!

    * Tên cổ cho đến nay vẫn quen dùng của thành phố Maharatz.
    ** Loại rượu vang làm bằng nho idaben.
    *** Tên gọi bông đùa của Laxa.

    -- Anh thật may mắn, Laxaiia ạ! Bây giờ anh có bán thịt chó cũng vẫn cứ chạy.
    -- Hôn tôi đi, Tamara, rồi em có ném tôi, xuống sông Xupxa cũng được!
    -- Xem, đùi thế mới là đùi chứ!
    -- Sao mãi đến giờ vẫn chưa ai bắt cóc cô ta nhỉ?!
    -- Ngay tắp lự!
    -- Tôi không biết, anh ạ!
    -- Một triệu nhiều quá đấy! Làm gì đến ngần ấy tiền?
    -- Vợ anh xinh hơn tôi, anh bạn ạ!
    -- Khi nào anh tỉnh rượu thì tôi sẽ hôn!
    -- Tôi yêu người khác, anh bạn thân mến ạ!
    -- Tay! Bỏ tay ra! Laxa, bắt anh chàng say rượu này thôi đi chứ!
    -- Laxa, đến giờ rồi, đóng cửa hàng thôi!
    Và ngày nào cũng thế...
    Batsana vào nhà ăn, ngồi bên chiếc bàn con trong góc nhà. Bên ngoài, hơi nước bốc ngùn ngụt trên mặt đất bị hun nóng, trong nhà ăn, sàn nhà mới rửa tỏa hơi mát dễ chịu, Laxaiia ở dưới bếp, làm phép phù thủy bên cái nồi đang sôi, Tamara đứng bên quầy bán món ăn, quay lưng về phía Batsana, lau lại những chiếc cốc.
    Còn sớm lắm, lúc này nhà ăn vắng tanh. Khách thường đến đông vào quá trưa. Batsana biết thế, nên đến đây vào quãng thời gian trái khoáy như thế này. Chờ một lát, Batsana rụt rè hắng giọng, Tamara quay nhìn lại. Tim Batsana giật nảy lên. Anh cúi xuống và ho mấy tiếng: bây giờ là vì hồi hộp. Tamara lấy trên quầy một cái đĩa, con dao, dĩa và tới gần Batsana. Batsana chỉ nìn thấy những ngón tay cô: ngón tay dài, dẹp, hơi đỏ và tấy lên vì hơi nước sôi. Cô đặt cái đĩa xuống bàn, ngạc nhiên ngắm nhìn khách. Lần đầu tiên cô thấy anh ta.
    -- Anh gọi món gì? -- Cô hỏi.
    Batsana ngẩng đầu lên.
    -- Bánh mì! -- Anh khẽ nói, khó nhọc nuốt nước miếng.
    -- Chỉ thế thôi ư?
    -- Pho mát nữa.
    -- Thế còn thịt?
    -- Không.
    -- Rượu vang?
    -- Không, mai tôi thi.
    -- Thi gì?
    -- Vật lý.
    -- Cậu học lớp mấy?
    -- Sắp tốt nghiệp
    -- À... Không muốn dùng các món ăn ư?
    -- Không đủ tiền! -- Batsana đỏ mặt.
    Tamara bỏ đi. Lát sau cô trở lại, bưng cái khay. Cô đặt trước mặt Batsana bánh mì, phó mát, một đĩa thức ăn và một cốc rượu vang.
    -- Một cốc thôi thì được! -- Cô mỉm cười và ngồi xuống trước mặt Batsana. -- Tên cậu là gì?
    -- Batsana
    -- Họ?
    -- Ramisvili.
    -- Còn tên tôi là Tamara.
    -- Tối biết! -- Batsana cầm cốc lên.
    -- Tại sao cho đến giờ tôi chưa thấy cậu lần nào?
    Batsana bối rối. Anh nhấp một ngụm rượu vang, như muốn dồn trái tim đã mắc nghẽn ở cổ họng trôi về chỗ cụ.
    -- Ở tuổi tôi không ai đến nhà ăn.
    -- Tại sao hôm nay cậu đến?
    -- Tôi đói ngấu, vì thế tôi đến. -- Batsana nhấp thêm ngùm nữa.
    -- Chua không? -- Tamara nheo mũi một cách ngộ nghĩnh.
    -- Chúc sức khỏe cô! Batsana uống cạn cốc. -- Xin tính tiền cho.
    -- Thi xong môn vật lý đã, rồi tôi sẽ tính tiền!
    -- Tamara! -- Tiếng gọi từ dưới bếp.
    -- Em xuống đây, Laxa! -- Tamara nói to. Tôi trở lại ngay đấy. -- Cô nói với Batsana và chạy đi.
    Lúc trở lại, Tamara châng hẩng, Batsana không còn ở nhà ăn nữa. Mọi thứ trên bàn còn nguyên.

    -- Chào cậu! -- Tamara nói, ngồi xuống bên bàn.
    -- Chào cô! -- Batsana đáp.
    -- Thi xong rồi chứ?
    -- Xong rồi.
    -- Thế nào?
    -- Điểm ba, -- Batsana mỉm cười gượng gạo. -- Ấy là vì kính nể ông tôi là Lômkatsê thì mới được như thế đấy. -- Cậu lấy trong túi ra tờ năm rúp và đặt lên bàn. -- Xin gửi tiền bữa ăn hôm qua.
    Tamara thậm chí không buồn nhìn đến tiền.
    -- Còn mấy môn thi nữa?
    -- Tamara! Hơi đâu mà mất thời giờ với thằng bé miệng còn hơi sữa ấy! -- Lại đây. -- Đutu Tsentêratzê gọi to. Gã cùng với bốn tay rượu ngồi bên chiếc bàn ở một góc xa và đã ngà ngà say.
    Tamara không để ý đến gã.
    -- Còn mấy môn thi nữa?
    -- Một.
    -- Bao giờ?
    -- Ngày kia.
    -- Ngày kia đến đây.
    -- Cả ngày mai tôi cũng đến.
    -- Cứ đế đi. Đem gì ra cho cậu bây giờ?
    -- Tamara-a ! Thằng bé mới rời vú mẹ thôi, vậy mà cô không thể dứt khỏi thứ nhãi ranh ấy ư? -- Đutu lại quát to.
    Tamara đến chỗ gã.
    -- Ông muốn gì?
    -- Còn muốn gì hơn sắc đẹp của em nữa? Ở đây với chúng tôi!
    -- Tôi không có thời giờ! Cần gì cứ nói đi.
    -- Cho thêm mười chai nữa và đến ngồi cạnh tôi! Tôi muốn uống mừng sức khỏe em! -- Đutu chộp lấy tay Tamara. Cô giật giật ra và đến quầy hàng.
    -- Laxa, cho mười chai rượu vang.
    Laxa lấy mấy chai rượu, Đutu đến gần quầy. Mắt gã long lên, mọi người cảm thấy gã say lắm rồi.
    Đutu Tsentêratzê là công an. Người thấp lùn, vai rộng, tay dài, súng lục để trong hộp mở nắp, gã vênh váo dương dương tự đắc. Tới quầy, gã ôm lấy Tamara.
    -- Buông cô ấy ra và trở lại bàn của anh đi, Đituia! -- Laxa cau có.
    -- Cô ấy không phản đối, can gì anh tức mướn hơn vay? -- Đutu cự lại và vơ lấy sáu chai rượu như vơ những món đồ chơi, rồi trở về chỗ. -- Đưa rượu cho khách mới chính là nhiệm vụ của anh! -- Gã quát lên với Laxa. -- Ta mà thấy kẻ nào bám cô ấy thì đừng có trách ta! Ta sẽ tự tay đặt quan tài kẻ đó ở sân nhà thờ thiên sứ Gavrila! Noid cho mà biết! -- Đutu nói thật to cho mọi người nghe thấy.
    Tamara mang đến bốn chai nữa. Đutu dung sức mạnh kéo cô ngồi cạnh mình.
    -- Ngồi đây, cô em, tôi muốn uống mừng sức khỏe em! -- Đutu cầm cốc đứng lên và quay về phía Laxa. -- Laxaia Baxilya! Bắt mỹ nhân này rửa bát đĩa mà anh không biết xấu hổ sao? Hãy nhường Tamara cho tôi, tôi sẽ đưa nàng lên ngự ngai vàng, nàng sẽ giống như vương hậu Tamara!
    -- Ngai vàng nào vậy? Falikô vợ anh đang ngự trên một ngai vàng đấy thôi?... Nên nghĩ đến công việc thì hơn, anh chàng trai lơ ạ! Sân không có lấy một cái cọc rào, một cái cây! * đêm đến gà không có chỗ nào đậu! Thế mà cũng đòi làm hiệp sĩ.
    Trong nhà ăn rộ lên tiếng cười.
    -- Laxaia, thu ngắn lưỡi lại, kẻo ta sơ ý giẫm lên thì rầy! -- Đutu răn đe, đặt tay lên khẩu súng lục.
    Batsana đứng lên đi ra cửa.
    -- Đứng lại, ê, gã trai! -- Đutu gọi. -- Chú mày cứ lởn vởn ở đây làm gì vậy? Thử nhìn quanh đây xem có ai cùng lứa tuổi với chú mày không?
    -- Tôi đến ăn chứ sao, -- Batsana điềm tĩnh trả lời.
    -- Ta biết chú mày đến đây vì mục đích gì! Này, cầm lấy đi, rồi cuốn gót về nhà! -- Đutu đưa cho Batsana cốc rượu vang và cái đùi gà luộc. Batsana đến gần bàn, cầm lấy cốc rượu vang và thịt từ tay Đutu và đặt xuống bàn!

    * Thành ngữ, tương đương với "không mảnh đất cắm dùi" (N.D)
    -- Tôi không uống.
    -- Thế thì đi đi!
    -- Tôi đi hay không, không phải là việc của anh! -- Má Batsana đỏ bừng lên. Đutu đưa tay véo tai Batsana, nhưng Batsana nhanh nhẹn né tránh và tay Đutu lơ lửng trong khoảng không. -- Anh say rồi, Tsentêratzê! -- Batsana nói đốp vào mặt gã công an và đi ra cửa.
    -- Con chó nhà nào vậy nhỉ? -- Đutu chưng hửng, hỏi.
    -- Cháu Lômkatsa Ramisvili đấy ! -- Usaghi Kalanđatzê ngồi cạnh gã trả lời. Đutu bậm môi. Manutsar Kicvatzê đâu như bị hạ thủ bởi chính tay hắn đấy, mà chính vì diệt trừ được tên đó mà thủ trưởng của anh được tặng huân chương... Vì vậy hãy để hắn yên... -- Kalanđatzê thì thầm vào tai Đutu.
    -- Láo toét, -- Đutu khẽ rít lên. -- Chính ta tham gia cuộc tác chiến đó! -- Mặt Tsentêratzê đỏ tía lên. -- Nó là con rắn con và con trai một tên Trôtkit!
    -- Nhưng thằng bé có lỗi gì với anh mới được chứ? Thì nó đến nhà ăn, thậm chí không ăn gì hết, nó đi con đường của nó... không thêt thế được, Đutu... Mất trí vì một ả đàn bà... -- Afanaxi Lôrya nói bằng giọng bất bình.
    -- Ai là một ả? Thằng chó đẻ kia?! Không phải là một cô ả, mà là nữ thần! Hãy quỳ trước nữ thần và cầu nguyện đi! -- Đutu vung cánh tay gấu đập vào vai Afanaxi.
    Afanaxi lặng người đi. Trong nhà ăn chợt trở nên yên lặng, căng thẳng.
    -- Đituia , anh trúng số công trái được Tamara đấy chắc? Hãy để cho cô ấy được tùy ý, phải cho chúng tôi ngắm cô ấy với chứ! -- Mamuka Iasvili cố làm dịu tình thế.
    -- Hôm nay ta tha thứ cho thói ba hoa của mi, từ mai mi đừng có đặt chân đến nhà ăn này nữa nhé! -- Tsentêratzê hăm dọa anh ta.
    -- Anh yêng hùng như thế thì nên vào quân đội đi!
    -- Mamuka vừa cười vừa đáp lại. -- Có thể anh sẽ làm cho Hitle kiêng chúng ta đấy!
    -- Vậy thì ai sẽ là người suy trì trật tự ở đây? Ai sẽ theo dõi những kẻ đào ngũ như ngươi?
    -- Ta là kẻ đào ngũ ấy à?! Cho đến giờ trong ngực ta vẫn còn mảnh đạn nặng một ký đây này! -- Mamuka phanh áo sơ mi. Mi mà dám gọi ta là kẻ đào ngũ ư?! Cái mặt mi mà lại định duy trì trật tự ở đây ư? Cái thằng ăn bơ làm biếng và tên đào ngũ số một kia?! -- Mamuka vơ lấy cái chai trên bàn và xông vào Tsentêratzê. Gã rút súng ra.
    Batsana rời khỏi nhà ăn.

    Đã ba tháng qua kêt từ ngày Tamara xuất hiện ở nhà ăn, trong làng dậy lên lời ong tiếng ve. Như những con cú mùa xuân, chúng bay tới từng mảnh sân và từng nhà. Ở khắp nơi, tại các đông điền chè, trên cánh đồng, các khu vườn, vườn rau, ngoài chợ, trong văn phòng, ở nhà tắm, hiệu cắt tóc, thư viện, đâu đâu cũng toàn những chuyện cợt nhả và chuyện ngồi lê đôi mách về cô nhân viên phục vụ trẻ tuổi ở nhà ăn.
    -- Này, cách đây hai ngày, vì con bé yêu quái đó mà Manuka Iasvili và Đutuia Tsentêratzê suýt cắt cổ nhau ở nhà ăn đấy...
    -- Nghe nói gã Đutuia vô công rồi nghề đánh vợ và đuổi vợ về Mêlêkêduri ở với bố.
    -- Laxaia đã tìm được một ả phù thủy, trời đánh thánh vật hắn! Nghe nói ả mang bầu với hắn... Hãy xem ả xồ người ra như thế nào...
    -- Không phải là với hắn, mà với gã công an Đutuia...
    -- Ả lại còn liếc mắt đưa tình cả với Mamuka Iasvili nữa chứ, bời vậy Đaretgian vợ gã đã cho ả cái tát!...
    -- Con quái này chẳng khác gì Hitle! Làm rối loạn cả xã...
    -- Chẳng lẽ trên đời chỉ có con đấy thôi ư?
    -- Có lẽ vậy thật đấy! Nghe đồn Tornikê Kintsurasvili cầm dao xông vào đâm An đa li ôn Gơvalatzê...
    -- Thế còn tay công an Đutuia, mắt gã để đâu?
    -- Chính Đutuia cũng nhân tình nhân ngãi với ả.
    -- Nói gì đến Đutuia, cả gã trai ấy cũng bị ả làm cho mê mẩn...
    -- Lại còn gã trai nào nữa?
    -- Cháu Lômkatsa Ramisvili, Batsana... Chỉ riêng chuyện ấy cũng đáng tống ả vào tù: tội mưu toan rủ rê con trai vị thành niên vào con đường trụy lạc. Ba ngày nay tôi thấy thằng bé ở nhà ăn: mắt nó như mắt người điên...

    Tamara ở trọ nhà Dôxim Khintibitzê. Cô ở căn buồng nhỏ xíu đầu trái, có một cửa sổ trong ra đường làng.
    Cả làng đã ngủ yên. Batsana khẽ gõ ngón tay vào cửa sổ. Lát sau, ở cửa sổ hiện ra khuôn mặt sợ hãi của Tamara. Thấy Batsana, mặt cô thoáng lộ vẻ trách móc. Cô cắn môi, vung hai tay lên rồi thận trọng hé mở cửa sổ và thì thầm hỏi Batsana đang bối rối:
    -- Cả anh cũng thế ư, anh bạn?
    -- Cho tôi vào một lát! -- Batsana van vỉ.
    -- Cả anh mà cũng làm khổ tôi ư? -- Giọng Tamara run lên.
    -- Cho tôi vào! -- Batsana nhắc lại.
    -- Đừng giây vào những việc nhơ bẩn, Batsana! Về nhà đi! Anh cần gì ở tôi? Anh gây tai tiếng nục nhã cho tôi để làm gì? Tôi có lỗi gì với anh? Đủ rồi... Để tôi yên... -- Tamara òa khóc.
    -- Batsana trèo qua cửa sổ vào buồng, đi vòng qua Tamara và đến ngồi bên bàn. Cô gái thắp ngọn đèn dầu và cũng đến ngồi đối diện với Batsana.
    -- Anh cần gì? Cô hỏi bằng giọng thảm thiết.
    Batsana lặng thinh.
    -- Anh đến làm gì?
    -- Những điều trong làng xã người ta nói về cô có thật hay không? -- Batsana hỏi, tay run run bứt cái hoa đèn.
    -- Họ nói gì. -- Tamara thở dài.
    -- Nói linh tinh... những chuyện không hay...
    -- Cả anh cũng tin ư?
    Batsana nhún vai
    -- Tôi đến để...
    -- Để làm gì?...
    -- Để...
    -- Thôi đừng nói nữa!... Trong cả xã chỉ có anh là người tôi coi là trong trắng! Đừng nói gì hết!
    Batsana nuốt nước mắt và bỗng nói luôn:
    -- Mặc áo vào!
    -- Cái gì?
    -- Mặc chỉnh tề vào và đi với tôi!
    -- Đi đâu?
    -- Tôi không biết...
    -- Tôi sẽ đi đâu bây giờ?
    -- Cô phải bỏ làng này ra đi!
    -- Để mang theo tai tiếng nhục nhã ư?
    -- Cô phải ra đi! Tất cả bọn họ chỉ thấy cô là một người đàn bà, còn tôi...
    -- Còn anh?
    -- Tôi bảo cô ăn vận chỉnh tề vào! Thu nhặt xống áo, cong gì thu cho hết và chúng ta đi! -- Tiếng Batsana sang sảng như tiếng chuông và thiết tha đến nỗi anh không nhận ra tiếng mình nữa.
    Tamara đứng phắt dậy, nhanh nhẹn lấy chiếc vali dưới giường ra và nhét bừa tất cả đồ dùng của mình vào đó. Cong Batsana ra ban công và gõ liên hồi vào cửa buồng Dôxim.
    -- Ai đấy? -- Giọng nói ngái ngủ của Dôxim.
    -- Batsana, cháu của Lômkatsa Ramisvili!
    -- Nhầm cửa rồi, anh bạn trẻ ạ!
    -- Không, bác Dôxim ạ, cháu không nhầm. Xin các bác ra đây, bác và bác gái Marô !
    -- Nếu chú mày say thì về nhà đi! -- Dôxim cáu.
    -- Không, cháu không say! Xin các bác ra đây một lát! -- Batsana nài.
    Cửa mở ra, Dôxim xuất hiện, chỉ mặc đồ lót, Marô đứng sau lưng chồng, vẻ sợ hãi.
    -- Cháu sẽ đưa Tamara đi khỏi đây, bác Dôxim ạ, và cháu muốn bác và bác Marô biết cho điều đó...
    -- Cứ việc đưa đi... Vì việc ấy mà cháu đánh thức ta dậy ư? Cô ấy không nợ gì ta, tiền thuê buồng đã trả trước, thành thử...
    -- Bác Dôxim, bác có lần nào thấy Mamuka Iasvili, hay Đutuia Tsentêratzê hay Laxaia Baxili hay Tornikê Kuntsurasvili từ buồng cô ấy đi ra không?
    -- Sao cháu lại tra hỏi ta, anh bạn? Ta là người canh giữ cô ta chắc?
    -- Không phải vậy, bác Dôxim ạ, bác là người đứng đắn! Bác nói thật với cháu đi!
    Dôxim ngập ngừng, gãi gáy.
    -- Ta sẽ không nói đâu, con ạ... Ta không hề thấy ai từ buồng cô ấy đi ra!... Ba lần Đutuia Tsentêratzê mò đến, say khướt, xông vào cửa buồng cô ấy, nhưng cô ấy không cho hắn vào... Hai lần Tornikê Kuntsurasvili tới, cũng ngà ngà say, và đều công cốc ra về... Cháu là người đầu tiên ta thấy ở trong buồng cô ấy ban đêm... -- Dôxim nhìn vào mặt Tamara, cô đứng đấy, tay xách chiếc vali.
    -- Vì có gì thiên hạ bêu diếu cô ấy? -- Batsana hỏi.
    -- Chưa từng có ai nghe thấy vợ chồng bác nói điều gì không hay về cô ấy, con ạ! -- Marô tiến ra phía trước. -- Chúng ta luôn nói tốt là đằng khác, nhưng có ai tin đâu?
    -- Ta đi thôi! -- Batsana cầm chiếc vali ở tay Tamara.
    -- Đêm hôm con đưa cô ấy đi đâu? Nên chờ đến sáng, ta sẽ sửa soạn chu đáo cho hai con lên đường -- Marô săn đón.
    -- Ngoài những điêu các bác đã nói, cô ấy không cần gì nữa! ...-- Batsana đáp. -- Chào các bác, cám ơn hai bác ! -- Anh nói thêm.
    -- Ông cháu có biết việc cháu làm lúc này không? -- Dôxim hỏi, lúc anh đã ở sân.
    -- Biết ạ! -- Batsana trả lời ngắn gọn và cầm tay Tamara -- Ta đi đi!
    Hai người lặng lẽ đi. Ra đến dường, Batsana đặt vali xuống, ngồi bên lề đường và vấn một điếu thuốc lá, Tamara ngồi xuống cạnh anh. Nghỉ một lúc, họ lạitiêop tục đi. Làn nghỉ sau, họ dừng chân trước khi lên dốc Naxakiran.
    -- Anh nói điều gì đi chứ! -- Tamara nài.
    Batsana lấy tông ngực áo ra một bọc nhỏ và lẳng lặng đặt lên đùi Tamara.
    -- Cái gì đấy! -- Tamara hỏi.
    -- Tiền tôi ứng trước cho những ngày công của cô... Sáu trăm rúp... Thời gian đầu như thế là đủ... Mua bột mì đi... -- Tiếng Batsana đứt quãng.
    Tamara giở cái bọc, nhìn tiền, rồi gói lại cẩn thận, nhét cái bọc vào ngực áo Batsana, úp mặt vào đùi gối và khóc một cách chua xót. Batsana không an ủi và dỗ dành cô. Anh chờ cô gái khóc cho nguôi đi. Chờ mãi cô không nín khóc, anh lên tiếng.
    -- Khóc là điều có ích... Khi tôi bị đau chỗ nào hay buồn phiền và tim hóa đá trong lồng ngực, tôi vào rừng, nằm dưới gốc cây và khóc... Khóc như đứa trẻ, thật to...Tôi khóc suốt ngày, khóc đến cạn nước mắt, đến khi trái tim băng giá... Sau đó tôi thoải mái hơn... Cứ khóc đi một chút!... Cho nỗi lòng dịu đi. Không thì con người chết mất... Cô đừng oán giận... Người ta không có tội tình gì... Lỗi là ở nhan sắc của cô, cô xinh đẹp quá... Còn cánh đàn ông chúng tôi... Thế đấy, họ cắn xé nhau vì ghen tuông... Ba tháng ròng tôi không ngủ được, luôn luô nghĩ đến cô... Ai đã tạo ra cô nhan sắc thế, có đôi mắt tình tứ thế?... Người nào cũng tưởng cô chỉ cười với mình, mắt cô chỉ âu yếm với mình... Cả tôi cũng tưởng như thế! Tôi biết như thế là dớ dẩn!... Tôi biết, nhưng... tôi yêu cô quá, yêu vô cùng... Tôi không thể sống thiếu cô... Tôi chết mất... -- Tamara thôi khóc. Cô ngạc nhiên chăm chú nghe Batsana nói. Anh nói tiếp. -- Tôi sắp mười bảy tuổi... Chưa phải là nhiều, nhưng cũng không phải là ít... Tôi biết, cô xem tôi như đứa con nít... Cô đừng ngạc nhiên... Tôi yêu cô tha thiết, tha thiết đến mức... Tôi biết làm thế nào được?... Còn tiền thì cô cầm lấy... Không phải tôi ăn cắp đâu... Ông tôi cho tôi... để đưa cô... Ông tôi là một người sáng suốt... Chính ông cho đến với cô, bảo tôi phải đưa cô ra khỏi nơi đây... Giá như cô có thể yêu tôi... Nhưng cô xinh đẹp quá, tôi không biết rôi fhcuyeenj gì sẽ xảy đến với cô... Tôi còn ít tuổi, chưa thể bảo vệ cô, chăm sóc cô... Nhưng tôi yêu cô tha thiết, mãnh liệt... Ba tháng ròng tôi không ngủ, đêm nào cũng nghĩ về cô...
    Nước mắt dâng lên làm Batsana nghẹn thở. Anh vùi đầu vào đùi gối Tamara và khóc rống lên như con sói con lạc trong rừng, hệt như hồi ấy, trong rừng Tsơkhakôuri.
    Tamara ôm ghì đầu Batsana vào ngực và anh cảm thấy trái tim kết băng của anh bắt đầu tan giá, ấm lên, nóng rực, bốc lửa, anh ôm lấy Tamara, tới tấp chùm lên ngực, lên cổ, lên má cô những cái hôn nóng hổi. Anh cảm thấy hơi ấm mằn mặn từ mắt cô, nghe thấy tiếng thì thầm thổn thức:
    -- Anh là mặt trời của em, là niềm vui sướng của em... anh trai của em và cha đẻ của em... Nỗi đau buồn của em... Con trai của em và sự côi cút của em... Cuộc sống của em và cái chết của em... Chú bé của em, tình yêu của em... Anh ở đâu ra vậy, anh từ nơi đâu vụt đến trong đời em?...
    Rồi môi họ tìm được nhau, họ cùng im bặt, trái tim họ lên tiếng.
    Trong lồng ngực họ vang lên những tiếng chuông bạc, tiếng chuông âm vang nhịp nhàng, uy nghiêm đến nỗi họ muốn cầu nguyện, -- cầu nguyện, và chỉ thế thôi.
    -- Chúa cao cả! Xin hãy hợp nhất tâm hồn và thể xác chúng con, làm cho chúng con thành một cuộc sống duy nhất, lớn lao, bất tận!... Chúa trời chí công, xin hãy cho con máu cô ấy và truyền cho cô ấy máu của con! Xin cứu chúng con khỏi tội lỗi và tiếp nhận cuộc đời chúng con hiến dâng chúa!...
    -- Batsana, mặt trời của em, duyên cớ vì sao mà từ đâu anh đã bước vào đời em... Hạnh phúc của em, nỗi đau xót của em... Không nên, niềm vui sướng của em, không nên... Em còn con giá...
    -- Lạy Chúa toàn năng! Xin cho con sức mạnh và ý chí!... Xin giữ cho đầu óc con sáng sủa!... Xin cứu vớt con, trời ơi!

    Tay nắm tay, họ đi trên đường lớn. Rừng thức tỉnh. Chim chóc sửa soạn hát bài ca ngợi mặt trời và buổi sớm mai. Ở các lang xung quanh, chó cất tiếng sủa. Đâu đó bên kia sông, một người nông dân trở dậy từ canh gà đầu tiên đang quát tháo chửi lũ gia súc chui vào vườn rau. Trời bắt đầu sáng. Trên các đỉnh núi, mây đã nhuốm màu như hồng. Ở Naxakixari, buổi sáng đã đến.
    Batsana dừng lại, đặt chiếc vali xuống bên chân Tamara.
    -- Bây giờ cô đi đi! -- Anh khẽ nói.
    Tamara nhìn anh hồi lâu. Rồi cô bình tĩnh hỏi:
    -- Chúng ta sống thế nào đây?
    Batsana im lặng.
    -- Anh sẽ nói thế nào với hàng xóm láng giềng?
    Batsana nhún vai.
    -- Cô đi đi... -- Anh thốt lên một cách khó nhọc.
    -- Đừng quên em...
    Batsana lắc đầu.
    -- Trên đời này không có người nào yêu em tha thiết hơn anh!
    -- Đừng lấy chồng... Chẳng bao lâu nữa anh sẽ trưởng thành...-- Batsana nức lên.
    Tamara quỳ xuống trước mặt anh và áp môi vào hai tay anh.
    -- Anh còn phải trưởng thành đến thế nào nữa? -- Cô ôm lấy hai đầu gối Batsana.
    Batsana thận trọng thoát ra khỏi vòng tay cô gái, lùi lại mấy bước, quay lưng lại và... bỏ đi.
    Đi được nửa vecxtơ, anh ngoái nhìn lại, Tamara vẫn đứng trên đường như trước và nhìn anh.
    Bỗng nhiên Batsana giật nảy người vì ngạc nhiên. Anh nhìn thấy rõ một cách kỳ lạ cặp mắt xanh đẫm lệ của Tamara. Chỉ có đôi mắt thôi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/6/15
    ------, superlazy and hanhdb like this.
  15. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Buổi trưa, Batsana bước vào nhà ăn. Nhà ăn đông nghịt, khói thuốc lá mờ mịt, ồn ào. Laxa đứng bên quầy, bằng động tác khéo léo quen thuôc cắt dưa chuột và cà chua. Thấy Batsana vào, anh ngây người, tay vẫn cầm con dao. Trong nhà ăn vụt trở nên yên lặng. Những khuôn mặt sung sướng, ngạc nhiên, sợ hãi nhìn Batsana, tất cả đều biểu lộ một câu hỏi chung duy nhất. Trong giây lát, không ai dám phá tan sự yên lặng. Laxa sực tình trước tiên.
    -- À, anh chàng đây rồi! -- Anh reo lên và thở dài nhẹ nhõm, như cất được gánh nặng một trăm put. Nhà ăn náo động. Mọi người cùng lên tiếng một lúc. Giữa lúc ồn ào ấy chợt vang lên tiếng nói giễu cợt của Đutu Tsentêratzê:
    -- Chào chú rể khố rách áo ôm!
    Không để ý đến gã công an, Batsana đến gần cái bàn nơi Tornikê Kintsurasvili ngồi và dừng lại trước mặt bác ta.
    -- Chú mày giấu cô bé vào đâu rồi? Có lẽ đưa về nhà ông nội chăng?-- Tornikê ngà ngà say.
    -- Tornikê Kintsurasvilli. Hãy nói cho dân làng nghe, người phụ nữ ấy có phải là tuông đĩ thõa không? -- Batsana lớn tiếng hỏi.
    -- Cái đó thì hỏi Laxaia ấy. Cô ả vừa là đệm vừa là gối đầu của anh ta, -- Tornikê cười phá lên.
    -- Chú Laxa, người này nói đúng sự thật không? -- Batsana nói với Laxa.
    -- Ta sẽ không được nhìn thấy rạng đông ngày mai và con dao này sẽ xuyên suốt trái tim ta, nếu có lúc nào, bằng lời nói, hành động, hay thậm chí trong ý nghĩ, ta đã làm nhục cô gái! -- Laxa cắm con dao ngập đến một nửa xuống bàn bán hàng.
    -- Batsana lại quay về phía Tornikê:
    -- Nếu anh là người đàn ông thì hãy đứng lên, Tornikê Kintsurasvili và nói đi, bao nhiêu lần anh đã ở trong buồng cô ấy? Nói đi, đừng ngại, đằng nào cô ấy cũng không nghe thấy kia mà!
    -- Mày là cái thá gì, thằng nhãi nhép kia! Tao lại phải trình báo với mày à! -- Tornikê nổi khùng.
    -- Này, thế thì thú nhận đi, bao nhiêu lần cô ấy tống cổ anh ra khỏi nhà?
    -- Chẳng ai tống cổ tao hết! Tỉnh rượu là tự tao ra về... Dôxim ngồi kia kìa, hỏi bác ta xem! -- Kintsurasvili đấu dịu.
    -- Mamuka Iasvili, tôi tin bác hơn ai hết! Bác nói đi, tại sao bác gái Đarêtgin sinh sự với Tamara? -- Batsana nói với Mamuka, suốt thời gian ấy bác ta vẫn ngồi bên bàn, cắn môi lặng thinh.
    -- Có gì đâu, do ngu ngốc thôi... Vợ Đutuia Tsentêratzê đơm đặt, làm bà ấy điên tiết lên... -- Mamuka nói, không ngẩng đầu lên.
    -- Đừng nói động đến vợ tao, thằng khốn kiếp! -- Tsentêratzê quát.
    Mamuka đứng lên, nhưng Batsana nhanh hơn.
    -- Bây giờ thú thật đi, ai trong các người đã ngủ với cô ấy dù chỉ là một lần? Anh nói trước đi, Đutu!
    Tsentêratzê đứng lên. Gã đứng lên với ý định tống ra khỏi cửa cái thằng láo xược dám toan lập lại kỉ cương ở đây, nhưng Batsana coi cử chỉ của gã công an là câu trả lời cho câu hỏi của mình, và anh chộp lấy con dao cắm trên quầy bán món ăn, xấn tới trước mặt hắn.
    -- Mày nói láo, thằng đê hèn, nói láo! Ba lần mày xông vào buồng cô ấy và ba lần mày bị tống cổ ra một cách nhục nhã!... Mày là thằng mặt dày và kiêu căng, Đutuia Tsentêratzê ạ, mày vu oan cho cô gái ngay thẳng chỉ vì muốn khoe khoang với mọi người thôi!... Cháu nói đúng không, bác Đôxim?
    -- Con nói đúng, con ạ, thề có cây thánh giá! -- Mặt tái đi, Dôxim trả lời.
    -- Làm sao mày biết được, thằng ngu ngốc kia?! -- Tsentêratzê xông vào Batsana. -- Mày đã tháo ủng cho tao hẳn thôi?!
    -- Cậu bé nói đúngm thưa bà con, tôi xin thề trước Đức Chúa trời! -- Dôxim nhắc lại.
    -- Mày là thằng đê hèn, Đutuia Tsentêratzê ! -- Batsana nói đôốp ào mặt gã công an, gói ghém trong mấy lời đó tất cả sức mạnh chưa từng được thử thách.
    -- Tao sẽ giết mày, thằng oắt con! Coi chừng, nó làm mit-tinh gì ở đây! Nó bêu xấu mọi người! Ta là cái gì, là người đại diện cho pháp luật hay là thằng nhỏ để sai vặt? -- Tsentêratzê thộp lấy khẩu súng ngắn, hầm hè xấn về phía Batsana.
    -- Mi là con khỉ, Đutuia Tsentêratzê ạ, mi là cái hạng như thế đấy! Ta coi khinh khẩu súng của mi! -- Chính Batsana tiến lên đương đầu với Tsentêratzê. Laxa từ sau quầy hàng chạy ra, đứng chắn giữa hai người.
    -- Đã vậy thì tôi xin thưa với dân làng! -- Batsana gào lên. -- Đêm qua tôi đã ở chỗ Tamara! Đến với chúng ta, cô ấy còn con gái, và rời bỏ chúng ta ra đi cô ấy vẫn là con gái! Đấy là sự thật, tôi xin thề trước vong linh mẹ tôi!...
    Bỗng nhiên trong nhà ăn vang lên một cú đánh chát chúa, và thật không ai ngờ, Đutu Tsentêratzê ngã lộn ngửa xuống sàn. Mamuka Iasvili xoa bàn tay xưng lên vì cú đánh, đến gần Batsana và đưa bàn tay ấy xoa má anh.
    -- Con thật là tốt, con ta ạ! Về nhà đi, mọi chuyện mặc ta khu xử với nó...
    Mamuka thong thả đi ra cửa...
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/5/15
    ------ and superlazy like this.
  16. notrinos

    notrinos Lớp 5

    9.
    Sang ngày thứ hai mươi hai, giáo sư cho phép Batsana trở mình trên giường. Bấy giò ông có thể nằm nghiêng, tay chống đầu và quan sát cả hai người nằm cùng phòng, trong tất cả vẻ rạng rỡ của họ. Rồi theo chỉ định của bác sĩ, ông phải tập thể dục chữa bệnh như thế này: trong hai tuần lễ, ông phải nắm chặt hai bàn tay vào, rồi lại xòe tay ra. Khi Batsana được phép ngồi lên, -- đấy là vào ngày hai mươi sau lần "ân xá" đầu tiên -- một cô gái vào phòng bệnh, cô đẹp lạ lùng, đến nỗi Bulika bỗng buông rơi lọ matsôni. Khi đấng thiên thần tóc đen nhánh, mắt xanh biếc ấy ngồi ghé xuống giường Batsana, cha Iôram làm dấu chữ thập và kêu lên:
    -- Bây giờ ông còn không tin Chúa nữa thôi, Batsana kính mến?!
    -- Tôi sẽ tin, miễn đây không phải là giấc mơ!-- Batsana đáp, sửng sốt vì nhan sắc và sự mạnh dạn của cô gái.
    -- Dù là giấc mơ cũng được, miễn là cô ấy đến ngồi cạnh tôi.-- Bulika thốt lên, và đến đây mới nhận thấy mình vẫn ngậm cái thìa trong mồm.
    -- Tôi sẽ đến cả chỗ các bác nữa! -- Cô gái đáp.
    -- Tôi chờ cô, chờ cô đây, thưa cô! -- Bulika mời.
    -- Chào các bác! Tên tôi là Kêtêvan, họ là Anđrônikasvili. Tôi sẽ phụ trách hướng dẫn thể dục chữa bệnh ở bệnh viện này của các bác! -- Cô gái tự giới thiệu.
    -- Thật ư? Các bác sĩ của chúng tôi nghĩ thế nào vậy nhỉ? Cớ gì họ vẫn làm khổ chúng tôi bằng các loại pantôpôn, perxantin và intenxain nhỉ?! Chỉ riêng việc xuất hiện trong phòng bệnh một phụ nữ như cô đã có tác dụng bằng năm mũi tiêm là ít nhất, nếu không phải là mười! -- Bulika kêu lên.
    Cô gái mỉm cười hài lòng.
    -- Thưa ông Batsana! Ông thấy đấy, cô ấy mỉm cười nhé! Hãy chạm vào cô ấy đi! Nếu cô ấy không biến mất thì tất cả đều là thực! -- Bulika nài.
    -- Cô cho phép! -- Batsana chạm vào những ngón tay đẹp của cô gái. -- Hãy vui mừng đi, Bulika, cô ấy là con người thực đấy! -- Ông trả lời Bulika, nhưng vẫn không buông tay ra. Cô giá thận trọng rút những ngón tay khỏi bàn tay Batsana và bắt mạch ông. -- Ôi, mạch của tôi bây giờ sẽ không nói với cô điều gì tốt lành đâu! Hãy để cho nó hồi tĩnh lại. -- Batsana áp tay cô gái vào ngực mình. -- Cô nghe thấy nó đập thế nào chứ?!
    Cô hướng dẫ viên trưởng rụt tay lại và áp cái tai hồng hồng nhỏ nhắn, đẹp như mảnh vỏ sò vào ngực ông.
    Batsana nghẹn thở.
    -- Bác sĩ ơi, sao lại thế, các người định giết tôi chắc? -- Ông thì thầm, ném luồng mắt van vỉ về phía cha Iôram. Cha đạo giang hai tay lên một cách bất lực và nhắm mắt, ý nói: tôi không thể giúp gì được...
    Lát sau, cô gái vươn thẳng người và hỏi bằng giọng nghiêm trang:
    -- Ông có thấy đau ở vùng tim không?
    -- Cơn đau đã qua rồi, còn mạch, trước khi cô đến thì bình thường, bây giờ tất cả lại bắt đầu lại, -- Batsana thờ dài.
    -- Trời ơi! Chẳng lẽ tất cả các bệnh nhân đều được phân phát cùng một văn bản như thế ư?
    -- Sao, những người khác cũng nói như thế à? -- Batsana hỏi, thất vọng.
    -- Chính thế ! Còn ông là nhà văn, ông phải đặc sắc hơn mới đúng! -- Cô gái đáp bằng giọng hể hả.
    -- Đặc sắc hơn làm sao được! -- Batsana rên rỉ thảm thiết. -- Cô ạ, tôi là người đã chết, vậy mà lại đang nói chuyện với cô...
    Cô gái lớn tiếng cười:
    -- Đấy, thế mới thật là đặc sắc!... Nào, ta bắt đầu đi thôi! -- Cô thận trọng nâng Batsana dậy -- Ông có nghe nói về ha-tha-yôga rồi chứ?
    Batsana ngớ ra.
    -- Thời thanh niên tôi có đọc đôi chút... Đó là... một học thuyết tôn giáo -- Triết lý Ấn Độ thì phải? làm cho tâm hồn và thể xác đạt tới mức hoàn hảo bằng những bài tập thể dục... phải thế không?
    -- Đúng! -- Cô hướng dẫn viên trưởng đồng ý.-- Hiện thời ta sẽ tập những tư thế ha-tha-yôga đơn giản nhất, còn về việc tu dưỡng tâm hồn thì tự ông sẽ lo liệu lấy, khi nào ông ra viện...
    -- Xin vâng! -- Batsana ngoan ngoãn cúi đầu.
    -- Ông có biết tư thế " hoa sen " không? Ít ra ông cũng có nghe nói đến chứ? Chắc ông đã thấy tượng phật ngồi rồi chứ? Chính kiểu ngồi đó gọi là tư thế "hoa sen" đấy.
    -- Tôi hiểu rồi...
    -- Nào, ta thử xem!... -- Cô gái xắn tay áo và lật tấm chăn của Batsana, Batsana ngượng ngập, lúng túng dùng hai tay che tấm thân gần như trần trụi. Không để ý đến Batsana, cô nói tiếp: Vậy thì thế này nhé: cầm lấy bàn chân phải và đưa nó về đùi bên trái... -- Batsana ngoan ngoãn thực hiện chỉ dẫn của bác sĩ và chợt hiểu mình đã gầy đi bao nhiêu trong thời gian ốm: trước kia, ông không tài nào làm nổi động tác đó, dù có dọa giết chết ông đi nữa. Ông mừng rỡ vì cái cảm giác dễ dàng thoải mái trước nay chưa từng có.
    -- Giỏi lắm! -- Cô giá khen. -- Bây giờ cầm lấy bàn chân trái, luồn nó xuống dưới chân phải, đưa nó về bên phải, gác lên... cái gì nhỉ?
    -- Lên đùi...-- Batsana nối lời bằng giọng của chú học trò chuyên cần và cố làm động tác cô gái bảo làm. Nhưng uổng công! Bàn chân phải mắc ở chỗ nào giữa chừng, ông cảm thấy đau nhói ở buồng gan và toàn thân đẫm mồ hôi.
    -- Đừng gắng quá! -- Cô gái bào trước. -- Nếu không làm được thì trở lại tư thế ban đầu!
    Batsana nhanh nhẹn duỗi hai chân ra và thở phào nhẹ nhõm.
    -- Sao, đau à?
    -- Đau!
    -- Không sao, sẽ quen thôi, -- Cô gái nói cho ông yên tâm. -- Bây giờ nằm xuống và thư giãn cơ thể!
    Batsana ngả người lên chiếc gối! Không một chút căng thẳng! Tư thế của người chết ấy!
    -- Cô nói kỳ quá, cô gái thân mến ơi! Người ta mất bao nhiêu công sức mới làm ông ấy sống lại được, vậy mà cô muốn đưa ông ấy trở lại tình trạng người chết ư?! -- Bulika kêu lên.
    -- Ấn Độ và..., hatha-yôga tất nhiên là hay ho, con gái ta ạ, nhưng không còn cách luyện tập khác theo kiểu Cơ Đốc hay sao? -- Cha Iôram xen vào.
    -- Cách luyện tập theo đạo Cơ đốc là cầu nguyện, mà chữa bệnh cho người chỉ bằng cầu nguyện thôi thì không được! -- Cô hướng dẫn viên giận dỗi.
    -- Nhưng cầu nguyện mà không phải là thể dục à? Cô nhìn xem! -- Và Bulika làm dấu chữ thập mấy lần, khoa rộng cả hai tay. -- Thể dục buổi sáng!
    -- Tôi muốn nguyền rủa bác, kẻ chống Chúa Kitô, nhưng cũng chẳng cần đến những lời nguyền rủa của tôi thì bác cũng vẫn đang theo con đường xuống địa ngục đấy!-- Cha Iôram thốt lên bằng giọng cáu kỉnh và quay mặt vào tường.
    Cô gái đến giường Bulika.
    -- Mời cô!... Bulika dịch vào, dành một chỗ trên giường.
    -- Không cần, tôi đứng...-- Cô gái bắt mạch Bulika. -- Mạch của bác khá hơn.. Thử tập nhé?
    -- Bác sĩ ạ, tôi đã làm thử trong lúc cô bắt Batsana kính mến trở về tình trạng người chết... Không ăn thua... Vậy là tôi không thể ngồi theo tư thế "hoa sen" được đâu. Còn nếu cô không áp cái tai nhỏ nhắn xinh đẹp của cô vào tim tôi thì tôi sẽ giết chồng cô, rồi tôi vào tù! Như vậy còn dễ dàng hơn là làm "hoa sen" !
    -- Lần đầu tiên tôi gặp một phòng bệnh như thế này! Không phải là bệnh nhân nữa, mà là những người pha trò!... Ngày mai tôi sẽ điều một chị y sĩ tới, chị ấy sẽ làm việc với các ông!
    -- Miễn là cô đừng rời bỏ chúng tôi thì đừng nói tư thế "hoa sen", ngay đến ngồi vào chảo nóng tôi cũng ngồi được! -- Bulika hứa, nhưng cô hướng dẫn viên đã rời phòng bệnh, sập cửa lại.
    -- Thế mà bảo là người thực... -- Bulika thở dài.
    -- Tất cả là một giấc chiêm bao...-- Batsana nói thêm.
    -- Trong mắt người phụ nữ ấy, tôi nhìn thấy quỉ Xa-tăng! -- Cha Iôram từ trước vẫn làm thinh, bỗng quay mặt về phía Batsana và Bulika. -- Tôi nói thực với các ông: quỉ Xa-tăng cười trong mắt cô ta! -- Nói đoạn, cha lại quay mặt vào tường.

    Cô phụ trách hướng dẫn thể dục chữa bệnh vừa ra khỏi được năm phút thì chị y sĩ Giênya vào phòng bệnh, tay mang chiếc khay. Trên cái khay lót bông nõn trắng muốt có ba ống tiêm sáng loáng.
    -- Xin gửi lời chào của khoa tim! -- Giênya đặt cái khay xuống bàn.
    -- Chào tâm đồ của trái tim Gruzya! -- Bulika đáp lại.
    -- Có tin tức tốt lành chăng. Gieneska? Mắt chị ngời sáng thế kia kìa! -- Batsana nói.
    -- Một tin chấn động! -- GIieenya vỗ tay vào tờ báo thòi ra ở túi áo choàng.
    -- Nào, thiế thì hãy làm đã cơn khát cho những người bộ hành khốn khổ trong sa mạc đi! -- Cha Iôram giơ hai tay về phía chị ta.
    -- Tiêm đã, rồi tin lạ sau! -- Giênya nói bằng giọng dứt khoát. -- Nào, chuẩn bị đi!
    Cả ba cùng nhất loạt nằm úp sấp xuống và hất chăn ra. Giênya bắt đầu từ Batsana...
    -- Mi đừng bay lượn trên mình ta, con quạ đen kia ơi, ta đâu phải của mi! -- Batsana vừa ngâm nga vừa xoa chỗ tiêm.
    -- Chị Giênya thân mến, cứ nhất thiết phải cắm ngập kim tiêm ư? -- Cha Iôram hỏi, dùng một góc áo gối gạt nước mắt.
    -- Xin lỗi, tôi không lượng trước. -- Giênya bối rối.
    -- Ôi, hỡi linh hồn Kitô giáo, tại sao sự lầm lẫn của chị lại xảy ra với chính tôi, chứ không phải với ai khác? Trong phòng bệnh thiếu chi người vô thần và chối Chúa?!
    -- Bằng sự nhẫn nại của cha... -- Chị y sĩ khuyên giải cha đạo và đến chỗ Bulika.
    -- Cho xem kim đã! -- Bulika rên rĩ.
    -- Đây, xem đi!
    -- Ối bà con ơi! -- Bulika tru tréo lên. -- Nếu đây là kim thì như thế nào mới gọi là dùi được kia chứ!
    -- Này thôi, ngày nào cũng phải mặc cả với ông, tôi mệt lắm rồi! Nằm xuống! -- Giênya mắng.
    -- Ồ thì quýt làm cam chịu, nhẽ nào mà chả vậy!... Chính cô nằm xuống đi! Để tôi xem cô sẽ cất tiếng hát ra sao! Nào, nằm xuống đi?
    -- Khéo kẻo nghẹn thở đấy!
    -- Tôi sẽ không thốt lên một lời nào trái ý chị đâu! -- Bulika tuyên bố và cắn chặt chiếc gối. Giênya cắm ống tiêm như phóng chiếc giáo.
    -- Xong rồi chứ? -- Bulika hỏi, khi Giênya bắt đầu xoa chỗ tiêm.
    -- Xong!...
    -- Tôi thật là thằng đần! Tôi nên học nghề y mới phải! Tôi kém gì những kẻ khác? -- Bulika rên rỉ. Giênya đi ra cửa.
    -- Thế còn tin chấn động dư luận? -- Cha Iôram gào to.
    Giênya ném tờ báo lên giường cha đạo. Ông vồ lấy tờ báo, tìm kính. Sốt ruột, Batsana ném cho ông kính của mình.
    -- Kính của tôi cũng dương ba. Đọc lên, cha!
    -- Cám ơn! -- Iôram bắt đầu từ trang cuối -- Hừm, đội "Dinamô" của chúng ta thua " Ararat"!
    -- Tin chấn động chỉ là thế thôi à? -- Bulika xua tay -- Tôi cũng thừa biết đội ta sẽ thua!
    -- Tỷ số? -- Batsana hỏi.
    -- Hai - không. Cha Iôram vừa đáp vừa bỏ kính.
    -- Bọn "Ararat" đến làm tôi phát điên lên mất! -- Bulika vỗ tay lên trán. -- Suốt năm nó chỉ chuẩn bị để thắng chúng ta! Thua kẻ khác nó cóc cần!
    Mà chơi với đội "Ararat" thì đôi ta bao giờ cũng giữ thế mandragiơ -- Cha Iôram buột miệng nói.
    -- Hoan hô, cha! Cha học được ở đâu cái tiếng ấy đấy? -- Bulika ngạc nhiên.
    --"Nhưng tất cả chúng ta đều là người, đều do thế giới này sinh ra..." -- Cha Iôram viện dẫn Nikôlôdơ Baratasvili * để bênh vực cho mình.
    -- Tôi mà được tùy quyền quyết định thì tôi sẽ thành lập đội bóng của chúng ta chỉ gồm toàn các cầu thủ người Acmêni ở Tbilixi... Các ông biết đấy, họ thật là cừ khôi! Họ sẽ cho đội "Ararat" nếm mùi cay đắng... -- Bulika mơ ước.
    -- Cha ạ, giở các trang khác xem, chứ tin tức bóng đá thì có gì là lạ? -- Batsana nói. Iôram mở tờ báo, tìm đến trang nhất và sững sờ.
    -- Tôi không tin! -- Ông kêu lên và ném cho Batsana tờ báo cùng với kính.
    -- Chuyện gì mà cha không tin? -- Batsana vừa đeo kính vừa hỏi lại. -- Không có lẽ! -- Ông cũng buột miệng kêu lên.
    -- Cái gì mà "không có lẽ"? Chiến tranh ư?! -- Bulika sợ hãi hỏi.

    * Nhà thơ lãng mạn xuất sắc của Gruzya (1817-1845)
    -- Nêbiêritzê bị cách chức! -- Batsana nói, chúi mũi vào tờ báo.
    -- Nêbiêritzê á? Chính cái gã... -- Mắt Bulika trợn ngược lên vì ngạc nhiên.
    -- Chính hắn..
    -- Chà -- à... -- Bulika băn khoăn lắc đầu. -- Bây giờ người của hắn sẽ trượt như vũ ba lê trên băng...
    -- Thú thật là tôi không ngờ... -- Đọc xong tờ báo, Batsana trầm ngâm thốt lên và đặt tờ báo sang bên.
    -- Lạ thật!... Mới hôm qua hắn còn... Thế mà bỗng nhiên... Đến là khó hiểu! Tôi không thể tin được! -- Cha Iôram nói.
    -- Bị cách chức hay được giải phóng? * -- Bulika hỏi.
    -- Gôghilasvili, bị cách chức hay được giải phóng thì có khác gì nhau? Cái chính là trước đây có nhân vật ấy, bây giờ không còn nhân vật ấy nữa? -- Iôram nhún vai.
    -- Sao lại không khác gì là thế nào? -- Bulika quay về phía cha đạo. -- Thế nào là giải phóng? Như vậy nghĩa là người đó sống gay go, bị chèn ép... Có người nào đó ra tay cứu giúp, giải phóng cho... Ví dụ như châu Phi chẳng hạn... Nhân dân ở đây gặp tai nạn, cần giải phóng cho họ!... Còn thế nào là cách chức? Ây là khi một kẻ ngồi lỳ trong chiếc ghế bành, bỗng nhiên bị tháo đi như tháo chiếc bu lông, hay bị bắt đi như nhổ chiếc đinh... Rõ chưa?
    -- Ở đây viết là "được giải phóng" -- Batsana nói.
    -- Như vậy nghĩa là anh ta lâm vào cảnh ngộ gay go và đã được người ta giải thoát cho.

    * Tiếng Nga "được giải phóng khỏi cương vị"... nghĩa là thôi giữ chức vụ nào đó. Ở đây phải dịch sát từng chữ, vì còn liên quan đến câu dưới. (N.D)
    -- Và việc này đã được chuyển sang viện kiểm sát...--Batsana bổ sung.
    -- Tại sao vậy chứ? -- Bulika ngạc nhiên.
    -- Vì không thi hành những biện pháp chống hối lộ và tham nhũng, vì thói bao che, không quan tâm đến sự khiếu tố của những người lao động.
    -- Khoan, khoan, trong tất cả những cái đó, chỉ mình Nêbiêritzê có lỗi thôi ư?
    -- Tạm thời là như thế?
    -- Nêbiêritzê giỏi lắm! Té ra y làm việc rất cừ! Thế còn tất cả những người khác. Không có mắt hay sao, báo không viết gì về điều đó à?
    -- Thế bản thân bác thì mắt để đi đâu? -- Cha Iôram hỏi Bulika.
    -- Cha hỏi tôi đấy à? -- Bulika ngạc nhiên.
    -- Chính thế, hỏi bác đấy! Bác là giai cấp công nhân. Bác ở đâu, nghĩ đến chuyện gì khi kẻ khác làm những việc xấu như vậy?
    -- Cha thật dốt nát về chính trị, cha ạ. Thứ nhất, tôi không phải là giai cấp công nhân, mà là thợ tiểu thủ công, thứ hai việc của tôi là chữa những đôi giầy của cha đã bị mòn vẹt trong phòng khách của Nêbiêritzê...
    -- Này, chuyện đó chẳng dính líu gì đến tôi cả. -- Cha Iôram rũ trách nhiệm.-- Nêbiêritzê là giáo chủ của các ông chú, ơn nhờ Chúa, tôi có chúa tể của tôi!
    -- Thế cha vẫn làm lễ rửa tội cho con cái các ngài tai mắt, kiếm tiền bằng cách đó thì sao, vậy là không can gì à?
    -- Bác ngu ngốc quá, Gôghilasvili ạ ! Đấy là để làm vừa lòng Chúa mà thôi! Nếu tôi rửa tội được cho tất cả những người cộng sản thì sang thế giới bên kia tôi sẽ ngự ngay bên cạnh thượng đế thiên thần!
    -- Thôi được, cứ cho là việc trần thế không dính líu gì đến các cha đạo đi... Nhưng còn các ông, thưa ông Batsana? Các ông ở đâu, mắt các ông nhìn đi đâu? -- Bulika chuyển sang tấn công nhà văn.
    -- Các ông là ai? -- Batsana giả ngây giả ngô.
    -- Các ông, nhà văn các ông chứ còn ai.
    -- Chúng tôi ấy à?... Chúng tôi... Chúng tôi ở đâu ư? -- Batsana tuồng như mất trí nhớ. "Chẳng lẽ chúng ta lâu nay vẫn khoanh tay ngồi yên ư?" -- ông tự hỏi, và không nhớ được điều gì đáng yên lòng, ông nói bằng giọng hối tiếc: -- Bulika thân mến, chúng tôi ngồi bên cạnh bác, chữa chính loại giầy cũ nát ấy...
    -- Đúng thế đấy! -- Bulika mừng rỡ. -- Bây giờ xin ông cho biết, hắn ta sẽ ra sao?
    -- Sẽ bị trừng phạt, hẳn là thế...
    -- Vì lẽ gì?
    -- Vì lẽ gì thì tôi nói rồi...
    -- Như vậy thì suy ra là hắn chẳng hiểu biết gì, chẳng biết gì mà vẫn cứ lãnh đạo công việc ư?
    -- Phải
    -- Suy ra như thế hay đúng là thế?-- Bulika chưa chiuh thôi.
    -- Đúng thế !
    -- Vậy thì bây giờ xin hãy nghe tôi nói. Nếu tất cả những điều đó đúng như vậy thì còn nên khen thưởng hắn, trả lương hưu cao cho hắn, hôn vào cả hai má hắn và để hắn yên ổn ra về, bắt tay hắn thật thắm thiết lúc từ biệt là đằng khác!
    -- Hắn có công lao gì?
    -- Công lao gì là thế nào? -- Bulika ngồi dậy trong giường. -- Chẳng hạn, ông là nhà văn, tổng biên tập, Batsana Ramisvili đáng kính. Ông thậm chí không biết rõ đâu là hướng bắc, đâu là hướng nam, trong đời ông chưa hề thấy biển, thấy tàu thủy... Đột nhiên người ta gọi ông đến và bảo: "Đồng chí Ramisvili, chúng tôi trao cho đồng chí chiếc tàu thủy cùng với đội chạy tàu, hành khách, tài sản và mọi thứ khác. Chúng tôi cử đồng chí làm thuyền trưởng! Hãy nhận lấy con tầu và đưa tầu từ Ôđexxa về Arkhanghenxk...". Thế rồi ông khởi hành... Tàu đi một ngày, rồi ngày thứ hai, ngày thứ ba... Con tàu chòng chành, quăng vật người đi tàu từ thành bên này sang thành bên kia, có những người đã nôn thốc nôn tháo... Rút cuộc, bằng cách này hay cách khác, trên con tàu đã gần vỡ nát, ông vẫn đến được Arkhanghenxk... Bây giờ tôi hỏi ông: ông là một người dốt đặc về nghề hàng hải, vậy mà ông không đánh chìm tàu, vẫn đưa được tàu đến nơi quy định, như thế ông lại không đáng khen thưởng sao? Đáng quá đi chứ! -- Bulika trả lời câu hỏi do chính mình đặt ra.
    Batsana phì cười.
    -- Thưa cha, cha hãy hỏi xem ông ấy cười gì? -- Bulika nói với Iôram.
    -- Bác nói có lý, có lý lắm, Bulika ạ! Nhưng cái tên ngu dốt ấy của bác, khi được cử làm thuyền trưởng, đáng ra hắn phỉa từ chối, phải nói rằng hắn chẳng hiểu mô tê gì về công việc này chứ!
    -- Có thể hắn cũng có nói, nhưng người ta không nghe thì sao? Người ta bảo hắn: cứ nhận đi, rồi chúng tôi sẽ giúp đỡ... Thế là hắn bắt tay vào việc. Vả chăng, ông biết đấy, không dễ gì từ chối khi người ta mời anh làm thuyền trưởng. Nhất là người thuyền trưởng trước anh cũng chẳng lấy gì làm giỏi như Nenxơn... Thế trong bọn nhà văn các ông chẳng lẽ không có tình trạng như vậy sao? -- Bulika đặt câu hỏi với Batsana.
    -- Rủi thay, chuyện ấy vẫn có, mà không phải là hiếm, -- Batsana đồng ý.
    -- Vậy thì kết luận ra sao?
    -- Kết luận là mỗi người phải làm đúng việc của mình. Chẳng thế mà Ruxtavêli đại phước đã nói:
    "Những gì số phận ban cho ta đều là nguồn an ủi. Người lao động hãy cứ làm lụng, người chiến binh cứ chém giết nơi chiến địa".
    Cha Iôram đọc với vẻ sùng kính.
    -- Thưa cha Iôram kính mến, xin cha cắt tóc đi và cải theo đạo của chúng tôi, hẳn cha sẽ thành người cộng sản tốt! -- Batsana khuyên bằng giọng bông đùa.
    -- Theo đạo nào? Theo chủ nghĩa cộng sản ấy à? -- Linh mục khiếp sợ. -- Theo đuổi những khoái lạc trần tục, chối bỏ chúa trời ư?! Ồ không, xin miễn!...
    -- À... thì ra cha chẳng hiểu tý gì về chủ nghĩa cộng sản cả, cha ạ: Chủ nghĩa cộng sản chính là những điều cha vừa hạ cố nói lên bằng lời Ruxtavêli! Chủ nghĩa cộng sản là đỉnh cao phồn vinh chót vót của nhân loại, là thời kỳ mà mỗi người có thể làm công việc mình có khả năng nhất, thích hợp nhất với khả năng và năng lực thể chất và trí tuệ của mình, đem lại cho mình niềm thích thú thực sự về tinh thần, hay có thể nói là về phần hồn!... Những người cộng sản chúng tôi đọc Phúc âm của chúng tôi ít nhất lấy một lần, điều đó không có hại cho các vị đâu, tôi xin thề trước Đức Chúa của các vị!... Còn việc chăm lo đến những phúc lợi vật chất, đến cái dạ dày, theo như cách nói của cha... Ồ vâng... Cha nói đúng! Chúng tôi sẽ vẫn chăm lo đến điều đó! Con người trước hết phải được bảo đảm về mặt vật chất! Cần phải như thế để cho những dự định, lực lượng tinh thần, tài năng và nguyện vọng của con người không phải dồn vào việc kiếm miếng ăn hàng ngày, mà nhằm đạt tới những mục đích cao cả hơn, quan trọng và đáng quý hơn! Chúng tôi khẳng định lao động tự do và hòa bình trên trái đất, chứ không phải là sự cạnh tranh, ghen ghét lẫn nhau giữa người với người và sự đổ máu! Muốn vậy cần làm cho con người được no đủ, cha ạ!... Học thuyết của chúng tôi, tôn giáo của chúng tôi là thế đấy! Chúa của chúng tôi là Chúa nơi cõi trần, có thực, chứ không phải là bay lượn trên các tầng trời, -- Batsana dứt lời, và đè nén sự xúc động tràn ngập trong lòng, ông quay mặt vào tường.
    Cha Iôram lặng thinh, không dám tiếp tục cuộc tranh cãi.
    -- Thôi được, Chúa sẽ nghe thấy lời ông, ông Batsana kính mến ạ! -- Cha nói khẽ và cũng quay mặt vào tường. Rồi không nén được, cha nói thêm: -- Mà này, ông có thể trở thành một linh mục khá đấy!
    Buổi chiều, Xvêta, vợ Bulika đến thăm chồng, khệ nệ mang theo vô số thực phẩm. Chị niềm nở chào hỏi mọi người, chia quà cho từng người, rồi vén tấm chăn, nhũn nhặn ngồi ghé vào một chỗ đằng chân Bulika.
    -- Mình thấy trong người thế nào, azix? * -- Chị hỏi, vui mừng hớn hở và tự hào về chồng.
    -- Như sư tử! -- Bulika trả lời, và để chứng thực điều vừa nói, bác bẻ một đùi của con gà luộc, cắm ngập răng vào cái đùi gà và trong nháy mắt, đưa cho vợ cái xương đã gặm sạch trơn.
    -- Chết nghẹn mất, quỷ ạ! -- Chị sợ hãi.
    -- Yên trí! -- Bulika bẻ nốt cái đùi kia và nói tiếp, mồm đầy thức ăn! -- Này, ông thấy tôi có người vợ như thế nào chứ, thưa ông Batsana?
    -- Tuyệt vời!

    * Lối gọi âu yếm.
    -- Ông có thấy trong số phụ nữ Acmêni có người nòa đẹp như thế chưa?
    -- Chưa tưng thấy...
    -- Bởi vì vợ tôi là người đẹp duy nhất!
    -- Tất nhiên! ... Thì ông bạn của chúng tôi cũng là một người đàn ông đẹp trai mà... -- Cha Iôảm mỉm cười mỉa mai.
    -- Giá mà các ông được thấy người tình của tôi!... Nàng mới thực là trang tuyệt sắc! -- Bulika nháy mắt với vợ.
    -- Rõ bẻm mép, khốn khổ thân ông... -- bà vợ nhăn mặt.
    -- Các con đâu? Sao chúng nó không vào thăm bố?! -- Bulika hỏi, vờ làm ra vẻ nghiêm khắc.
    -- Chúng nó còn ở đâu nữa, Aptanđin -- gian ? Hôm nay là thứ bảy mà,Nêxxtan đi học tiếng Anh, Tarien đi học piano.
    Bulika làm bộ quan trọng.
    -- Con bé nhà tôi lớn lên có thể làm bộ trưởng ngoại giao, ông Batsana kính mến ạ! Nó có nói được tiếng Acmêni không? Có! -- Bulia bắt đầu gập từng ngón tay lại -- Nó có biết nói tiếng Gruzya không? Đương nhiên! Nó đang học tiếng Anh chứ gì? Đang học! Ở trường có dạy tiếng Pháp không? Có! Nó còn đang học ít nhiều tiếng Kurdơ, do Gơvantxa, con gái người quét sân khu nhà chúng tôi dạy cho... bây giờ xin cho biết, có bộ trưởng nào của chúng ta biết năm thứ tiếng không? Trả lời đi, cha!.
    -- Con gái bác thật giỏi giang, cầu Chúa ban sức khỏe cho cô bé!
    -- Thế còn thằng bé? Paganini!
    -- Paganini chơi viôlong, azix ạ, cong thằng bé nhà ta chơi pianô. -- Xvêta chữa lại, hổ thẹn vì sự dốt nát của chồng.
    -- Đừng có dạy khôn! Tôi thừa biết ai chơi nhạc cụ gì! Paganini là lý tưởng của tôi! Hiểu chưa? Rồi tôi sẽ chuyển thằng bé sang học viôlông! Đằng nào cũng phải trả tiền, học môn gì mà chả thế? Mình nghĩ sao?
    -- Tùy mình thôi, azix ạ, mình muốn làm thế nào thì làm, nhưng đừng nổi nóng, vì Chúa!... Giáo sư bảo rằng một tuần nữa sẽ chữa cho mình khỏi hẳn, tuần sau nữa sẽ cho mình về nhà. Miễn là ông ấy phải nghe lời chúng tôi, giáo sư nói như vậy.
    -- Tôi mà không nghe lời ư? Tôi uống tất cả các thứ thuốc cho uống, tiêm đủ các mũi... Này xem, hộ biến mông tôi thành cái gì... -- Bulika lật phắt chăn ra...
    -- Đắp vào, thật không biết xấu hổ! -- Xvêta cuống quít. -- Ở nhà ông ấy cũng thô lỗ như vậy đấy, các ông thứ lỗi, vì Chúa...
    -- Cớ gì mà phải xin lỗi, tất cả chúng tôi đều cùng chung một cảnh như thế cả thôi! -- Batsana nói cho chị ta yên tâm.
    -- Hơn nữa, mình yêu quý của tôi ạ, giáo sư chưa biết đấy, chứ tôi đã đi lại được từ lâu rồi. Đây này! -- Bulika buông đôi chân trần xuống sàn và vênh vang đi trong phòng mấy lần. -- Nào, tôi còn phải làm gì nữa? -- Ông ta nhìn quanh. Xvêta đứng lên!
    Người đàn bà ngạc nhiên, đứng lên. Bulika ôm ngang lưng vợ.
    -- Ấy chớ! Chớ có liều! Buông ngay chị ấy ra! -- Cha Iôram kêu lên, nhưng muộn rồi. Bulika bế xốc vợ lên, hôn vào cổ vợ một cách thèm thuồng. Xvêta kêu lên vì bất ngờ, chị ngượng đỏ mặt, Bulika còn tung vợ lên mấy lần, rồi đặt về chỗ cũ.
    -- Thấy chưa? -- Bác ta kêu lên vui vẻ. -- Xvêta, mang quần áo đến cho tôi, ngày mai tôi sẽ rời khỏi đây! Tôi nằm khườn mãi trên giường đủ rồi!
    Bulika ngồi xuống mép giường. Bác thở hồng hộc, nhưng mặt rạng rỡ vui sướng.
    -- Bác làm cái trò dại dột gì thế, đồ ngốc! -- Cha Iôram giận dỗi thốt lên, Bulika xem mạch mình. Bác đăm chiêu im lặng một lúc, rồi mỉm cười hể hả:
    -- Ổn rồi! Thế là chấm dứt cái bệnh nhồi máu cơ tim ! Cuộc sống muôn năm! -- Và bác ôm lấy vợ.
    -- Này thôi đi! Phải nể người khác chứ! -- Xvêta vung ra khỏi vòng tay của chồng và bắt đầu sửa lại tóc.
    Cha Iôram và Batsana giữ ý ngoảnh mặt đi.
    -- Hình như mình nặng hơn bình thường! Hay hớm cái nỗi gì , hả? Coi chừng đấy! -- Bulika cau mày và giơ tay dọa Xvêta, nhưng lập tức nháy mắt với vợ.
    -- Lạy Chúa tôi! Xin hãy làm cho tai con và lưỡi ông ấy héo rụng đi. -- Cuối cùng, người phụ nữ ngượng ngùng, vung hai tay lên, Bulika phá lên cười và lớn tiếng gọi.
    -- Quay mặt lại đi, các vị, tấn hài kịch đã chấm dứt.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/5/15
    ------, hanhdb and superlazy like this.
  17. notrinos

    notrinos Lớp 5

    10.
    Mặt trời ngự trên chiếc giường màu trắng bạc. Đầu của vì tinh tú quấn cầu vồng bảy sắc. Gối trên sườn núi Kadơbêc tuyết phủ đời đời. Hai tay của mặt trời buông rũ xuống.
    Mặt trời thở hổn hển
    Mặt trời vĩnh biệt cuộc sống.
    Batsana. cha Iôram và Bulika quỳ gối, giơ hai tay về phía tinh cầu đang hấp hối, cầu van:
    -- Xin đừng bỏ chúng tôi, hỡi Mặt trời! Đừng chết, ơi Mặt trời vĩ đại!
    Nước mắt họ tuôn chảy như những dòng sông sủi bọt trên sườn Kavkaxiôni, réo ầm vang như sấm, băng băng lao xuống phía dưới, nơi đất bằng chìm ngập trong sương mù màu trắng sữa.
    Còn mặt trời nằm trên chiếc giường khổng lồ màu trắng bạc, và lắng nghe lời cầu khẩn của những người khóc nức nở ở đầu giường mình. Buổi sáng, mặt trời trỗi dậy ở phía trên Kavkaxiôni, lấy bộ dạng chững chạc và toan bay lên khoảng trời xanh thẳm thì bỗng cảm thấy đau nhói ở ngực... Nó quỳ một gối xuống, rồi quỳ một gối bên kia, tựa lưng vào sường núi Kadơbêc và cứ thế đờ ra.
    Cả loài người khiếp sơn ngước nhìn thiên thể đang hấp hối. Người đổ ra đầy chật các đường phố và các cây cầu, các cánh đồng và các con đường, các ban công và mái nhà. Cành cây trĩu xuống và trẻ con trèo lên.
    -- Xin đừng rời bỏ chúng tôi, hỡi Thái Dương! --- Loài người rên rỉ.
    Nhưng tiếng người không đến được vì tinh tú hấp hối. Vì tinh tú chỉ thấy những cánh tay vươn về phía mình và những cặp mắt mở to vì sợ hãi.
    -- Họ lo lắng gì vậy? -- Mặt trời thều thào.
    -- Họ van vỉ ngài đừng rời bỏ họ! -- Batsana đáp qua tiếng nức nở.
    -- Muộn rồi... -- Mặt trời thốt lên. Một mắt mặt trời đã tắt.
    -- Đừng đẩy chúng tôi vào chỗ chết, hỡi đấng ban sự sống! -- Cha Iôram phủ phục xuống.
    -- Ngài khó ở thế nào, Ngài đau ở đâu? Xin cho chúng tôi biết, thưa vì Tinh tú! -- Bulika khóc nức lên.
    -- Sự đau đớn của trái đất làm ta không yên, -- Mặt trời nói. -- Sự đau đớn của trái đất.
    -- Nhưng tất cả đều do quyền lực của Ngài: sự đau đớn và sự sống của trái đất! -- Cha Iôram kêu lên.
    -- Trái đất là tim ta, nó và chỉ có nó sống và thở trong ta. Tất cả các cái khác là tế bào của ta, mọi bộ phận khác của ta đã bất lực, đã chết từ lâu... Chẳng lẽ các ngươi, những kẻ tôn sùng ta, các người không biết điều đó sao?
    -- Bản thân Ngài là ai, thưa đấng thiên thể? -- Ngạc nhiên, Batsana hỏi.
    -- Ta là linh hồn rực cháy của những người đã an nghỉ trong tình yêu. Sự sống của ta được nuôi dường bằng linh hồn những người đã chết trong tình yêu... Hãy trả cho ta cuộc sống trong tình yêu, ta sẽ hồi sinh từ những người chết... Ta van các người, hỡi những con người, hãy cho ta sự sống được vun đắp bằng tình yêu của con người!... -- Mặt trời thở gấp hơn, giãy giụa.
    -- Ôi, thiên thể! Đừng lìa bỏ chúng tôi, hãy thương chúng tôi! Chúng tôi sẽ yêu mến nhau và từ nay chúng tôi sẽ làm cho cái chết của mình thành tình yêu!... Chúng tôi sẽ đi -- Aptanđin, cha Iôram và tôi sẽ nhân danh Ngài cầu xin mọi người trên trái đất trả lại tình yêu cho Ngài! Tôi tin nhân loại sẽ nghe tiếng gọi của Ngài, sẽ quên hận thù, sẽ gây trồng lại tình yêu trên trái đất!... Chỉ xin Ngài cho chúng tôi hạt giống và ban phước cho chúng tôi! -- Batsana cầu khẩn.
    Thế là mặt trời chạm bàn tay nóng rực của mình vào đầu Batsana, Batsana cảm thấy tình yêu thương muôn loài nhập vào cơ thể mình cùng một lúc với hơi ấm của mặt trời. Mặt trời giật nảy lên, duỗi dài ra lần cuối cùng và...tắt ngấm.
    Bỗng nhiên Bulika gục vào ngực vầng thiên thể chưa nguội lạnh hẳn và khóc nức lên:
    -- Hãy đem tôi theo với, hỡi Mặt trời! Tôi không thể sống thiếu mặt trời!... Hãy đón nhận tôi vào lòng như đón nhận tình yêu! ... Tôi van Ngài, Mặt trời!...
    Batsanan và cha Iôram khiếp hãi thấy Bulika tan ra trên ngực thiên thể đã chết, bác chảy tràn ra thành những tia sáng và hòa nhập với Mặt trời chói lọi hào quan bảy sắc cầu vồng.

    ... Hai mươi thế kỷ trước khi Kitô ra đời và hai mươi thế kỷ nữa sau khi Chúa xuất hiện, Batsana và cha Iôram mang Mặt trời đã tắt đi khắp thế giới. Mắt đầy lệ nóng sôi, họ cầu xin loài người tình yêu va flongf nhân từ để trả lại thái dương cho bầu trời côi cút và trả lại ánh sáng cho trái đất bị bóng tối bao phủ. Nhân loại lặng ngắt, đầu để trần, tiễn đưa sự sống của mình -- tức là Mặt trời -- lên đoạn đường chót tới nghĩa trang của các thiên thể, bởi vì không tìm đâu ra trên trái đất một chỗ xứng đáng với Mặt trời... Rút cuộc, khi Batsana và cha Iôram đã đạt được mục đích và đặt Mặt trời vào cái hầm mộ bằng mây trắng như tuyết thì trên nền trời tối thẫm xuất hiện hai cái đĩa đen, một cái to khổng lồ, cái kia nhỏ xíu, để ý kĩ mới nhận thấy nó ẩn trong bóng của cái thứ nhất. Batsana nhận ra cái đĩa thứ nhất là Mặt trời đã tạ thế, còn cái kia là Bulika tan ra trên ngực mặt trời, tan ra vì tình yêu. Nhận ra Mặt trời và Bulika. Batsana khóc nức lên một cách chua xót.
    -- Người ơi, hãy yêu thương nhau! -- Ông lớn tiếng gào và phủ phục xuống mặt đất đóng băng...
    ... Batsana không nhớ ông nằm như thế có lâu không. Khi ông cảm thấy làn hơi ấm khó nhận thấy, nhưng quen thuộc đến đau lòng chạm vào tay mình, ông nằm ngửa lên và nhìn lên trời bằng cặp mắt mờ lệ. Ông thấy vẫn cái đĩa tròn khổng lồ ấy, bây giờ đỏ như đồng. Cái đĩa tròn dần dần nóng sáng lên. Cả cái đĩa nhỏ xíu cũng đổi sang màu đỏ. Khi cái đĩa lớn chói rực đến cực độ, lại biến thành mặt trời và ngời sáng như trước trên nền trời, cái đĩa nhỏ tách khỏi bầu trời, như một thiên thạch sa xuống đất.
    Trên trái đất, ngày đã đến. Mặt trời tỏa sáng trên Kapkaxiôni -- hơi nhợt nhạt hơn, yếu hơn mọi khi, nhưng vẫn sung sướng và tười vui như trước. Mặt trời thở. Mặt trời sống.
    -- Cảm ơn thiên thể của tình yêu! Quang vinh thay cuộc sống!-- Batsana thốt lên lời ca ngợi mặt trời... -- Ông khóc và cười.


    -- Batsana!... Ông Batsana kính mến!... Tỉnh lại đi! -- Sợ hãi, cha Iôram lắc Batsana.
    Batsana bừng tỉnh. Trong giây lát, ông nằm mở to mắt, không hiểu mình đang ở đâu và có chuyện gì xảy ra với mình. Rồi khi đã định thần, ông ngồi dậy trên giường. Tim ông đập gấp. Mặt trời đã lên, nhưng trong phòng bệnh vẫn còn nhá nhem.
    -- Ông làm sao thế, Batsana kính mến? Suốt đêm ông vùng vẫy như điên, lúc khóc lúc cười... Hay ông mơ thấy điều gì chẳng lành?
    Batsana dụi mắt và mỉm cười ngây ngô. Iôram trở về giường, nằm xuống.
    -- Tôi nằm mơ, thưa cha Iôram, và mơ thấy một việc mà ngay chính Kôpernic có lẽ cũng phải ghen với tôi...
    -- Ông mơ thấy gì!
    -- Sự diệt vong của Mặt trời!
    -- Cái gì?! -- Iôram tưởng đâu mình nghe nhầm.
    -- Tôi mơ thấy Mặt trời của chúng ta băng... và cha có biết những ai khóc Mặt trời không?
    -- Ai?
    -- Tôi, cha và Bulika... Ngoài ra không còn ai nữa...
    Suốt một giờ, cha Iôram nghe Batsana, không ngắt lời. mãi đến khi Batsana nhắc lại lời Mặt trời nói, cha Iôram mới làm dấu một cách cuồng nhiệt. Rồi ông lót hai tay dưới đầu và đăm đăm nhìn lên trần, vẻ trầm ngâm.
    -- Ông mơ thấy một giấc mơ tiên tri, Batsana kính mến ạ !-- Linh mục thốt lên sau một lúc im lặng dài.
    -- Lần thứ hai! -- Batsana đồng ý.
    Im lặng. Bỗng nhiên cha Iôram bật dậy khỏi giường và rón rén tới gần giường Bulika. Bulika nằm mở mắt, tái nhợt và bình thản.
    -- Aptanđin! -- Cha Iôram khẽ gọi.
    Batsana ngạc nhiên: từ khi Bulika yêu cầu đừng gọi bác ta là Aptađin, không một lần nào họ gọi bác ta bằng cái tên ấy nữa. Tại sao lúc này cha đạo lại cần đến cái tên ấy.
    -- Aptanđin! -- Cha Iôram gọi lần nữa to hơn.
    -- Đưng đánh thức bác ấy, cứ để bác ấy ngủ... Tôi sẽ thuật lại cho bác ấy sau -- Batsana nói.
    -- Aptanđin! -- Iôram lay Bulika.
    -- Bác ta ngủ say lì! -- Batsana nói.
    -- Vâng, say lì... Cả ông cũng ngủ đi! Quay mặt vào tường và ngủ đi.
    -- Bây giờ còn ngủ gì nữa!
    -- Tôi bảo ông lập tức quay mặt vào tường và ngủ đi! -- Linh mục ra lệnh, rồi tay run run, thận trọng vuốt khuôn mặt lạnh ngắt của Bulika từ trên xuống dưới.
    -- Có chuyện gì thế, cha Iôram? -- Batsana hỏi, giọng lạc hẳn đi, và một nỗi ngờ vực khủng khiếp khiến hai thái dương ông bốc nóng bừng bừng.
    -- Giấc chiêm bao của ông đã thành sự thực... Mặt trời đã thăng hà!...
    Cha Iôram mở cửa phòng bệnh...
    Batsana chùm chăn kín đầu, úp mặt vào gối và cắn chặt lấy chiếc gối, cố nén tiếng khóc rống cuộn lên trong cổ họng.
    ..........................................................................
    -- Lạ thật, người chết mở mắt sao mà giống căn nhà bị rời bỏ mà chủ nhân quên đóng các cửa sổ... Cha Iôram nói, khi thi hài Bulika đã được đưa ra ngoài.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/5/15
    superlazy and ------ like this.
  18. notrinos

    notrinos Lớp 5

    11.
    Gần hiệu thuốc ở phố Mêlikisvili, một nhóm thanh niên Vêre * đã chuếnh choáng say đang tranh cãi náo nhiệt.
    Cuộc tranh cãi bắt đầu từ khasi **. Taiska chứng minh rằng khasi là thành tựu vĩ đại của nhân loại trong việc tìm kiếm
    * Tên cũ của một quận ở Tbilixi

    ** Một món ăn rất phổ biến ở Kapkadơ
    những thứ làm giã rượu. Kôka và Kôpic ủng hộ anh ta. Kôpaka thiên về trà không có đường, Batsana chỉ thừa nhận chỉ có "borgiômi" *, Borđơzêna thích "Nabêglavi" hơn **. Còn Đatikô thì thích cô-nhắc và axpirin hơn. Sau khi kiểm phiếu chính thức, đương nhiên Tsiska giành được thắng lợi, tuy mỗi người tham gia bỏ phiếu vẫn giứ ý kiến của mình. Tuy nhiên, còn một nhóm nữa cả quyết rằng phương tiện duy nhất triệt để làm giã rượu là tắm nước lưu huỳnh. Nhóm này không tham gia bỏ phiếu, vì họ chiếm đa số tuyệt đối và ở ngoài vòng đua tranh, vả chăng họ không thể tham gia bỏ phiếu được vì trung thành đến cùng niềm tin của mình, lúc này họ đang ở nơi họ cần có mặt: các nhà tắm nước lưu huỳnh.
    Cuộc tranh cãi chuyển sang rượu vang, nhưng không lâu: địa vị đứng đầu được nhất trí tặng cho con số tám hồng phúc ***. Tiếp đó, cố nhiên họ đề cập tới các vấn đề chính trị. Không đạt được sự nhất trí hoàn toàn, nhưng cuối cùng vẫn sắp xếp được ổn thỏa vị trí của các nhà chính trị và các tướng lĩnh hiện đang còn sống.
    Sau chính trị đến bóng đá. Đến đây thì xuôi thuận cả. Trên toàn thế giới, chỉ có một người duy nhất đáp ứng được những đòi hỏi về thể thao và đạo đức của thanh niên Vêre: đó là Bôrin Paitsatzê ****. Họ cũng bàn cả về nghệ thuật: vẫn như mọi khi, ở đây uy tín của Berdơzêna thắng thế: vòng hoa nguyệt quế của người chiến thắng dành cho Sôta Ruxtavêli và Mikenlănggiêlô mà Berdơzêna gọi một cách trìu mến là Mikêla.

    *,** Tên các thứ nước khoáng
    *** Ý nói rượu vang No8 của Kakhêlin
    **** Cầu thủ bóng đá nổi tiếng một thời gian dài lãnh đạo "Đinamô" Tbilixi.

    ... Khi con gái cảu người bán dầu hỏa ở Vêre, cô Apônlôna Kapgiaxatzê Guranđa, một cô gái có cái cổ thiên nga và cặp đùi cao mĩ miều, đi qua trước mặt những người tham gia tranh cái, làm cho linh hồn tội lỗi của họ bàng hoàng thì cuộc tranh cãi có chiều hướng di truyền học.
    -- Đấy kìa, thế này thì cứ phủ nhận vai trò của gien đi xem nào -- Tsiska reo lên bằng giọng thán phục, -- Nhìn xem, có kém gì con giâyran * không?! Con cô ta sau này sẽ xinh đẹp biết nhường nào!
    -- Gien với giếc quái gì! Cứ cho tớ quần, giày dép và ăn uống như cô ta thì chính tớ cũng thành một anh chàng xinh trai! -- Bằng một cái búng khéo léo, Kôpic bắn mẫu dưa chuột vào thúng rác.
    -- Ờ,đu-úng, cô gái quả là khớ! Con nhà nòi! -- Berđơzêna trở lại đề tài chính -- Chỉ tiếc là người cô ta có mùi dầu hỏa...
    -- Chẳng hiểu ai đã nhận các cậu vào đại học nhỉ?! Các cậu đần độn thật! Chẳng lẽ cho đến giờ các cậu vẫn không hiểu là chẳng có gien, nòi giống và chủng tộc gì hết ư? Mọi người đều bình đẳng, còn sự đào luyện con người tùy thuộc vào hoàn cảnh sống và sự giáo dục! Lý thuyết chúng tộc đã đưa Hitle vào con đường diệt vong, vậy mà cô giá đẹp Guranđa kia, cậu lại muốn trở lai thuyết ấy ư? -- Kôka nói bằng giọng dạy đời.
    -- Ai cũng từng nói như thế nhỉ? Công tước Amirêgibi **. Thật đáng xấu hổ, Kôka ạ. -- Tsiska buồn rầu lắc đầu.
    -- Tớ cóc cần Amirêgibi! Tớ là người duy vật!

    * Một loại sơn dương
    ** Dòng họ công tước lâu đời ở Gruzya

    -- Cậu không phải là người duy vật, cậu là kẻ hám rượu! Thế đấy! -- Tsiska nói và giật điếu thuốc lá của Kôka.
    -- Các cậu nói những chuyện dớ dẩn làm gì thế! -- Batsana bỗng bật lò xo. -- Tớ giống bố tớ, bố tớ giống bố của bố tớ, ông tớ giống ông của ông tớ, đấy không phải là gen ư? Điều đó không phải là nói về nòi giống của tớ ư?!
    -- Có, nhưng còn tùy theo nòi giống thế nào chứ! -- Kôpaka cười khúc khích.
    Ai thì chẳng rõ, chứ Kôpaka * thì không thể bảo là cậu ta không phải con dòng cháu giống. K ôpaka giống như đúc chân dung Ghêorghi Xaakatzê ** in trên sách giáo khoa lịch sử Gruzya. Thân hình lực sĩ, cai rộng hiên ngang, hai mũi nở phồng như mũi con ngựa đua Ả-rập, mắt rất to, Kôpaka chưa hề thấy có ai địch nổi mình về khoản đấm đá, tính từ Vêra cho tới tận Naptơguli.
    -- Phủ nhận gen là hợp ý những kẻ vô tông tộc à? Ý các cậu là như thế phải không? -- Kôka mếch lòng.
    -- Sao, cậu hóa điên rồi chắc? Chính cậu chứng minh rằng không có chủng tộc, gen và dòng giống gì hết, thế mà bây giờ cậu lại hằm hè với chúng tớ à ?! -- Kôpaka xạc anh chàng.
    -- Thôi đừng nhao nhao lên nữa! Giáo sư Imêdasvili đang đi kia kìa, ta sẽ hỏi giáo sư! -- Berđơzêna vỗ về những người đang tranh cãi.
    -- Nhưng ai sẽ hỏi? -- Kôplic thắc mắc.

    * Tiếng Gruzya nghĩa là chó chăn cừu.
    ** Chính khách và tướng lĩnh xuất sắc của Gruzya (khoảng 1580 - 1629)

    -- Kôpaka. Cậu ấy là người dòng dõi nhất trong chúng ta! -- Batsana châm chọc.
    -- Sao lại tớ? Để Berđơzêna hỏi ! -- Kôpaka từ chối dứt khoát.
    -- Không! Tớ nhường cái vinh dự ấy cho Tsiska. Xin thêm là cậu ấy nom rất giống một sinh viên chuyên cần! -- Berđơzêna thoái thác.
    -- Được, tớ đồng ý! -- Tsiska tách khỏi nhóm và chuẩn bị tới gặp giáo sư, ông đi thong thả, chiếc cặp màu đen cắp dưới nách.
    Giáo sư đi qua chỗ mấy chàng thanh niên, thậm chí không để ý gì đén họ. Tsiska chạy tắt ngang tới gặp ông và kính cẩn chào:
    -- Kính chào giáo sư !
    -- Chào anh! --Giáo sư đáp.
    -- Xin giáo sư thứ lỗi... Chúng em tranh cãi về một vấn đề và chúng em muốn biết ý kiến giáo sư...
    -- Sao lại thế... Ngay ở đây, giữa đường phố thế này ư? -- Giáo sư bối rối nhìn quanh và sửa lại kính.
    -- Xin mời giáo sư lại đây! -- Tsiska khoác tay giáo sư và dẫn tới gần các bạn. Các bạn anh lễ phép dãn ra, nhường cho giáo sư một chỗ bên bức tường đã tróc hết lớp trát.
    -- Tôi nghe các anh đây! -- Giáo sư chuyển cái cặp từ tay nọ sang tay kia.
    -- Dạ, thưa giáo sư Ectime Nikôlaiêvits, -- Kôplic mở đầu. -- Ở đây chúng em vừa tranh cãi về việc có gen, có dòng giống không, có thể nói là như vậy. Tsiska bảo rằng...
    -- Ai? -- Giáo sư hỏi lại.
    -- Tsiska!
    -- Là cái gì vậy?
    -- Tsiska là anh này đây ạ! -- Kôplic đặt tay lên vai bạn. -- Tên cậu ấy là Đavit, chúng em gọi cậu ấy là Tsiska.
    -- Hiểu rồi. Thế Tsiska nói sao?
    -- Cậu ấy và Kôpaka bảo rằng...
    -- Kôpaka là ai vậy?
    -- Anh này ạ!
    -- Trong giấy chứng minh cũng ghi là Kôpaka à?
    -- Dạ không, trong giấy chứng minh cậu ấy tên là Tenghix! -- Berđơzêna đáp.
    -- Còn đây là ai?
    -- Đây là Berđơzêna.
    -- Người Hi lạp à?*
    -- Không ạ, người Gruzya!**
    -- Sao?
    -- Người Gruzya.
    -- Tên anh là gì?
    -- Mêráp.
    -- Còn anh?
    -- Kôplic
    -- Ơn trời, cuối cùng tôi đã nghe thấy những tên bình thường!... Vậy anh cần gì, Kôplic?
    -- Em bảo rằng... Họ bảo rằng trong thiên nhiên có gen và nòi giống, còn em và Kôka...
    -- A -- ha, lại còn cả Kôka nữa ư? Có nước hay khan? *** -- Giáo sư hỏi và phá lên cười vì câu nói đùa của mình. Cả các chàng trai cũng cười phá lên, họ thích thú vì đã làm cho giáo sư vui.

    * Tiếng Gruzya nghĩa là người Hi Lạp.
    ** Một tỉnh của Gruzya
    *** Chơi chữ: "kôka" tiếng Gruzya nghĩa là "cái bình"

    -- Vậy là anh và Kôka cho rằng có chủng tộc và có gen. Đúng không?
    -- Đúng thế ạ! -- Kôplic gật đầu.
    -- Các anh nói đúng!... Lý thuyết chủng tộc là phản khoa học, phản động. Đấy là lý thuyết phát xít. Còn về di truyền học nghiên cứu tính di truyền và biến dị của các cơ thể thì ở đây vấn đề có hơi khác...
    -- Xin lỗi giáo sư, -- Berđơzêna ngắt lời ông. -- Thế còn những động vật giống thì sao? Người ta vẫn gây những giống ngựa tốt nhất kia mà? Ở vườn hoa Alêcxanđrơ của chúng ta đấy, người ta tổ chức những cuộc triển lãm đặc biệt những con chó nòi, tặng huy chương cho chúng nữa kia!
    -- Anh tên là gì?
    -- Mêrap!
    -- Này, anh bạn Berđơzêna thân mến ạ, suốt nhiều thế kỷ, bằng con đường chọn lọc tự nhiên, trong giới động vật...
    -- Thế con người không phải là một động vật xã hội à? -- Tsiska không để cho giáo sư nói nốt. -- Trong nông nghiệp chẳng phải là chúng ta vẫn chọn giống, lai giống, gây giống mới đấy ư.
    -- Các bạn trẻ ơi, sao các bạn cứ như cái radio, chỉ biết nói, không biết nghe vậy?! -- Giáo sư giơ hai tay lên và buông rơi chiếc cặp.
    Batsana từ nãy vẫn im lặng, liền nhanh nhẹn nhặt cái cặp lên, luồn nó vào nách ông và nói một cách nhũn nhặn:
    -- Kính thưa giáo sư, xin cho nghe ý kiến của thày...
    -- À--à... tên anh là gì nhỉ?
    -- Batsana.
    -- Thế này nhé, hỡi tất cả các chàng Batsana, Kôka, Kôplic, Berđơzêna, Tsiska và Kôpaka thân mến của tôi, những vấn đề như thế người ta không giải quyết ở đường phố... Xin mời đến giảng đường của tôi, từ năm đến sáu giờ, hoặc đến nhà, từ mười giờ tối đến sáng, chúng ta sẽ thảo luận, lâu bao nhiêu tùy ý các bạn. Bằng lòng chứ? -- Giáo sư hỏi những chàng trai đang ngơ ngác.
    -- Nếu có thể được, chúng em sẽ đến nhà giáo sư, -- Batsana đáp.
    -- Thế thì nhất!
    -- Người ta có cho chúng em vào không ạ? -- Kôplic hỏi, liếc nhìn đôi giày cao cổ của mình.
    -- Tất nhiên! Chỉ cần các anh xưng tên: chúng tôi lòa các thanh niên Vêre đến gặp giáo sư.
    -- Tạm biệt, thưa giáo sư kính mến! -- Tsiska chia tay.
    -- Chúc các bạn khỏe mạnh! -- Giáo sư nhích chiếc mũ phớt lên một chút và tiếp tục đi đường mình. Đám thanh niên cúi đầu tỏ ý kính trọng.
    -- Ông ấy là người tốt, đáng tiếc lại là giáo sư! -- Tsiska tổng kết cuộc nói chuyện.
    -- Các cậu ơi, Margô ngây dại đang đi kìa! -- Berđơzêna bỗng kêu lên.
    Margô -- cô gái mà cả vùng đều biết -- đi từ phía chợ Vêre, phía bên trái phố Mêlikisvili, vừa đi vừa vung vẩy hai tay và khe khẽ hát một bài vui vẻ:
    Tàu lướt sóng biển khơi
    Tới bến bờ hải ngoại.
    Đem về tặng phẩm quý.
    Ơi con tàu mến thương!
    -- Khabarđa*! Margô của Vêre đấy! -- Đôi luc nàng ngừng hát, rồi lại tiếp tục:

    * "Tránh ra!". "Nhường đường!" -- Tiếng lóng thành phố.
    Tôi sẽ khiêu vũ cùng các bạn
    Cả điệu Iêzghinka, cả điệu tănggô.
    Hãy đến đây ngắm nhìn
    Nàng Macgô kiều diễm...
    Margô say. Những người qua đường biết Margô đều mỉm cười chào cô, rồi quay đi, lắc đầu thương hại và tiếp tục đi. Những người không biết nàng thì lảng tránh người phụ nữ say rượu rõ ràng là không bình thường, vội vã rời khỏi hè xuống đường.
    Đến chỗ các chàng trai, Margô đặt hai tay lên môi, rồi dang tay ra như đôi cánh, gửi cho họ những cái hôn gió.
    -- Margô say rạp đầu chào các chàng trai Vêre!
    -- Chào Margô! -- Các chàng trai giơ tay lên chào nàng.
    -- Thế nào, các bạn thân mến, lại uống rượu cho rã con say hôm trước và trong túi lại chỉ có phân chuột thay cho tiền phải không? Đến chỗ tôi, các bạn quý hóa của tôi, chúng ta sẽ xuống Tantxơ-Ghêurôc, tôi thết các bạn chầu bia! -- Margô lấy trong cooc-xê ra mấy tờ ba mươi rúp, khua lên trong không khí. -- Đi đi, đừng ngại! Rồi ngày mai các bạn sẽ lại thết đãi tôi mà!
    -- Margô thân mến, đi đi, về nhà nghỉ ngơi đi. Chúng tôi uống đủ rồi,-- Kôpaka nài nỉ nàng.
    -- Chà--ng ơi, cưng ơi, tôi biết đi đâu được, mái đầu khốn khổ của tôi phải kính cẩn cúi xuống ở nơi đâu?! Cho tôi theo về với! Margô dở người cần một ông chủ chính như thế! Ai là người có thể chăm sóc Margô chu đáo hơn anh? Hãy lấy tôi làm vợ! Hãy thương tôi! Suốt đời tôi sẽ mơ ước về anh, ngôi sao của tôi! Cho tôi ôm bộ ngực tráng sĩ của anh dù chỉ một lần thôi! Hay tôi không xứng đáng với anh? Anh xem, vóc dáng tôi như thế nào và đồ lót của tôi có tuyệt không! -- Margô một tay chạm vào đùi, tay kia vén áo váy, phô ra bộ đồ lót trắng như tuyết viền đang ten. -- Mai tôi sẽ mặc hàng Crép!. -- Nàng nhanh nhẹn vượt ngang qua đường và tới chỗ các chàng trai.
    -- Đi đi, Margô, về nghỉ đi! -- Kôpaka ôm lấy vai người phụ nữ.
    -- Tôi chẳng cần gì hết, các anh ạ! Tôi sẽ lấy một người trong các anh. Tôi yêu tất cả các anh như nhau, sao lại nhăn răng ra thế, Berđơzêna? Chỉ có anh là tôi không muốn lấy! Tính anh quá đồng bóng, anh sẽ đầu độc tôi suốt đời! Tsiska thì lại là chuyện khác! Anh ấy là tri thức...
    -- Chị vừa bảo là chị yêu tất cả chúng tôi như nhau kia mà, -- Batsana xen vào.
    -- Cả anh cũng ở đây ư, cậu bé côi cút đáng thương của tôi? Tôi sẽ đến thăm cậu, nhất định tôi sẽ đến! Tôi sẽ tắm rửa, chải tóc cho cậu, sẽ giặt áo, là quần cho cậu, rồi tôi sẽ ra về... Cậu giống ai vậy? Hãy soi gương xem.
    -- THồi được, đủ rồi, Margô... Chị thấy đấy, mọi người đang xúm lại... Đi đi, bạn thân mến, tôi tiễn chị...-- Kôpaka năn nỉ, khoác tay người phụ nữ.
    -- Tôi bất chấp thiên hạ!... Các chàng trai Vêre muôn năm! -- Margô ôm lấy Kôpaka, kéo đầu anh vào ngực mình và cất tiêng hát:
    Ta sẽ đi, anh yêu, ta sẽ đi,
    Đôi ta cùng nhau đi khắp thế gian...
    Đến góc phố, Kôpaka chia tay với Margô và để nàng đi. Anh đứng chờ một lát, khi biết chắc người phụ nữ về nhà, anh trở lại với các bạn.
    -- Này, này, Kôpaka, đừng có làm bộ mặt đưa đám! -- Tsiska nạt nộ khi thấy bộ mặt rầu rĩ của bạn.

    Margô ở cuối phố Pêtriasvili, trong căn buồng nhỏ nửa nổi nửa chìm ẩm ướt có hai cửa sổ. Từ sân, bốn bậc thang gỗ dẫn vào buồng. Một chiếc bàn trải khăn, một chiếc giường sắt với những vòng mạ kền đã han rỉ, một cái tủ, hai cái ghế, một chiếc bàn là, tấm ván là -- đấy là tất cả tài sản của chị. Trên cửa chính vào buồng có hàng chữ viết bằng phấn: "Margô điên" -- tác phẩm của bọn trẻ ở sân. Chị không xóa và không giận chúng.
    -- Thứ nhất, đó là bàn tay thiên thần viết, thứ hai -- đó là sự thực.
    Mát bố sớm, Margô là con gái một của mẹ. Có nhan sắc, vóc dáng tuyệt đẹp, chị lớn lên trong tình yêu thương của cả khu phố, mỗi năm một kiều diễm hơn. Người Vêre tự hào về mỹ nhân của mình. Cứ như thế cho đến cái ngày bất hạnh năm 1936, khi trận lụt chưa từng thấy ào vào thành phố, quét sạch một nửa Nakhalôpka cuốn băng mất cái nhà xay ở Pêxki*, dìm chết người trong các hầm của các nhà tắm nước lưu huỳnh. Hôm ấy mặt trời của Margô đã tắt, bánh xe hạnh vận của chị lăn xuống dốc.
    Năm ấy, các bà già Vêre làm mối Vargô cho Vanô, con trai nuôi bác thợ làm đồ vàng Gôghia. Theo tập tục ở thành phố này thời ấy, phải làm lễ xem cô dâu: cô gái phải đến nhà tắm, ra mắt mẹ chồng và em gái chồng sau này trong trạng thái như lúc mẹ sinh ra cô, để không có sự lừa dối, không có chuyện người ta tráo đưa cho chú rể một cô gái khuyết tật. Cả bà mẹ chồng, cô em chồng và bà mẹ bất hạnh của Margô đều có tội với trời! Lại còn bày ra chuyện kiểm tra cái hay cái đẹp của một cô gái như thế kia chứ! Thỉnh thoảng, khi Margô chạy trên phố Pêtriasvili như một con đama, rồi tiếp tục đi trên phố Mêlikisvili, những người bán và người mua túm tụm ở cửa các tiệm buôn há hốc mồm nhìn theo cô bằng con mắt thán phục.

    * Nakhalôpka, Pêxki, tên cũ của các quận ở Tbilixi
    Sáng chủ nhật hôm ấy, người ta dẫn Margô vào nhà tắm công cộng của phụ nữ. Khi cô gái cởi hết áo váy, đứng trước bầy quạ vậy quanh cô, đầu cất cao kiêu hãnh, những búp tóc đen như mun xõa xuống bộ ngực tròn căng, toàn thân trắng muốt và cân đối như bức tượng điêu khắc bằng cẩm thạch, khi các bà già sửng sốt vì vẻ đẹp của cô dâu, xì xào khen ngợi và chép chép những cái miệng móm thì những luồng nước ùa vào nhà tắm. Các bà các cô khiếp sợ, gào rú đâm bổ ra cửa, và đáng lẽ giật cửa về phía mình thì trong lúc kinh hoảng và nhốn nháo, họ dồn đống cả lại ở cửa và tự bịt mất lối ra. Trong nháy mắt, nước phù sa đục ngầu tràn ngập hầm. Tiếng la gào và tiếng khóc bặt hẳn... Lát sau, những người chạy đến cứu hiểu rằng chẳng còn ai mà cứu nữa... Liền đó, có người nào nhận thấy một cô gái với đôi mắt điên dại vì sợ hãi, dán người vào mạng song sắt trên trần một hầm nhà. Người ta bẻ gãy mạng song sắt, nhưng không gỡ ngay nổi hai bàn tay đã cứng đơ của nàng.
    Margô nằm bệnh viện một tháng. Nàng chẳng nhớ gì hết: cả cái chết của mẹ và của những người họ hàng tường lai, nói chúng cũng không nhớ đến trận lụt khủng khiếp, dường như ngày hôm ấy không hề có chuyện gì xảy ra... Mọi cố gắng của các bác sĩ nhằm làm cho cô gái tỉnh lại đều vấp phải sự im lặng ngây độn, dai dẳng của nàng... Sau đó người ta chuyển nàng sang bệnh viện chuyên khoa tâm thần. Margô ở đấy nửa năm. Cuối cùng, nàng tỉnh lại, bắt đầu nói, nhưng mọi người đều hiểu rằng cô gái đã loạn trí không cách gì vãn hồi được. Suốt trong thời gian ấy, tên xỏ lá Vanô không đến thăm vợ chưa cưới lần nào, không bận tâm đến số phận nàng, không gửi tiền cho nàng...
    Trở về nhà, Margô ngồi trong buồng mình suốt tuần, không cho ai vào. Một buổi sáng, hàng xóm nghe thấy tiếng hát từ buồng nàng vẳng đến. Họ dùng sức mạnh xộc vào buồng nàng. Margô ngồi bên bàn, trước mặt nàng là hai chai "Xaravi", một chai cạn sạch, chai kia đầy. Thấy hàng xóm vào, nàng mỉm cười cất tiếng hát:
    Tôi sẽ khiêu vũ cùng các bạn
    Cả điệu lêzghinka, cả điệu tăngô,
    Hãy đến đây ngắm nhìn
    Nàng Macgô kiều diễm...
    Hàng xóm và những người quen bận bịu ngập đầu ngập cổ về những lo âu riêng, dần dần lãng quên tai họa của Margô. Chính nàng cũng quen với sự cô đơn của mình. Nhưng cô gái bị mọi người bỏ rơi không ra phố ngửa tay xin bố thí.
    Nàng bắt đầu nhận quần áo lót của những gia đình phong lưu đem về giặt là. Tiền kiếm được hoàn toàn đủ nuôi sống nàng. Rồi tự hồi nào không hay, cô gái nghiện rượu vang. Nàng ăn vận bao giờ cũng sạch sẽ, tề chỉnh, ngày nào cũng thay đồ lót. Cứ sau mỗi lần lĩnh tiền thường kỳ, uống rượu say, nàng lại đi rong chơi trên phố, khe khẽ hát những bài ca ưu thích và vén áo lên trước mặt khách qua đường: xem này, tôi mặc đồ lót đẹp chưa! Liền đó, nàng nói tên người khách có bộ đồ lót ấy...
    Dần dà, rượu bắt đầu có ảnh hưởng tai hại. Mặt Margô mất vẻ tươi tắn và màu hồng trước kia, hằn những nếp nhăn nhỏ. Bây giờ, khi thấy người phụ nữ tàn tạ quá sớm, say rượu, vừa hát vừa đi trên đường phố, chỉ có những người sống lâu năm ở khu phố lắc đầu buồn rầu nhớ lại thời thanh xuân và nhan sắc của nàng, cùng với phong thái kiêu hãnh và ánh long lanh của đôi mắt màu mã não.
    Trong thời gian dân phố còn chưa quen hẳn với những thói quen của người phụ nữ điên, trong số họ có những người dám chế nhạo người phụ nữ xấu số, chính hồi đó Margô đã học được những câu chửi tục tĩu đến nỗi người qua đường phải bịt tai lánh xa. Nhưng hễ thấy trên phố một đứa trẻ là nàng lập tức thôi chửi và bình tĩnh đi về nhà.
    -- Không ai có quyền làm bẩn tai thiên thần, ngay cả chính Thượng đế đi nữa! --Nàng nói.
    Thêm nữa, suốt thời gian sống trong cảnh ngộ thảm thương. Margô không hề đánh mất danh dự và phẩm giá trinh nữ của mình. Bất cứ người dân nào của Vêre cũng có thể viện Phúc âm ra mà thề rằng nàng trong trắng như thiên thần...
    Buổi chiều Margô đến nhà Batsana.
    -- Anh bạn côi cút của tôi, anh có nhà đấy ư? -- Nàng lớn tiếng gọi, và vào buồng. Không đợi trả lời. Batsana ngồi bên bàn, chuẩn bị môn kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, đến thứ tư anh sẽ thi.
    -- Gì đây, Margô? -- Anh hỏi, đặt bản ghi tóm tắt sang bên.
    -- Có gì giặt thì đưa đây! -- Margô đáp và bắt đầu giở những trang ghi tóm tắt.
    -- Còn giặt giũ cái quái gì kia chứ! Có bao nhiêu tôi mặc ráo cả trên người đây này!
    -- Sẽ tìm được một cái gì đó! -- Margô không chịu thôi.
    Batsana mở tủ, ném xuống sang hai chiếc sơmi cũ và chiếc quần cũ sờn.
    -- Xin làm ơn giặt cẩn thận cho, không giặt nó cũng đã bục rồi đấy. -- Anh đề nghị, rồi lại chúi mũi vào bản ghi tóm tắt.
    -- Chẳng lẽ bài ghi của anh thú vị đến nỗi anh không thể rời lấy một phút ư? -- Margô vừa hỏi vừa mở chiếc tủ con ăn vào tường.
    -- Rất thú vị, thêm nữa tôi sắp thi đến nơi rồi!
    -- Ngốc ơi là ngốc! Nếu thú vị thì người ta đã chẳng trả tiền cho anh để anh học, ngược lại người ta sẽ bắt anh phải trả tiền thì có! -- Margô nói và bất bình sập cửa tủ lại. -- Giữ trong phòng cái hòm rỗng tuếch này làm qué gì? Vứt quách nó ra sân cho xong!...Ở đây có cái gì uống không
    -- Những giọt valêrian*
    -- Hãy đem những giọt đó cho giáo sư của anh trước khi thi!
    Margô cúi xuống, bắt đầu nhặt chiếc quần và những chiếc sơ mi. Lúc đứng thẳng lên, nàng ôm bụng, nhăn mặt:
    -- Đồ quỷ, không để cho người ta yên! -- Rồi nàng trải rộng một chiếc sơmi ra và lắc đầu: -- Cái gì thế này: áo sơ mi hay khăn trải bàn? Tất cả thực đơn của Tants -- Ghêurốc đều có ở đây! Anh không biết xấu hổ sao?
    -- Rất xấu hổ là đằng khác, Margô thân mến của tôi ạ, nhưng tôi biết làm thế nào được?
    -- Lấy vợ đi, ngốc ạ, lấy vợ đi!
    -- Vậy ư? Nhưng tôi lấy gì nuôi nàng, vợ tôi ấy mà?
    -- Ăn lẫn nhau!
    -- Được, tôi sẽ làm như vậy! -- Batsana hứa.

    * Thuốc an thần (N.D)
    -- Mai tôi sẽ mang trả quần áo của anh. Chuẩn bị năm rúp! -- Margô đi ra cửa. Bỗng nàng dừng lại, vén áo dài lên, cho xem chiếc quần đùi bằng vải crêp. -- Này đoán xem, tôi mặc đồ lót của ai vậy?
    Batsana nhún vai.
    -- Của Bộ trưởng văn hóa giao thông ngoại giao! Margô thốt lên bằng giọng tự hào và rời khỏi buồng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 27/5/15
    superlazy and Ly Thy like this.
  19. notrinos

    notrinos Lớp 5

    Chiều hôm sau, nàng không đến."Hẳn là chị ta đã đánh chén say và đang ngủ bù ở đâu đó" -- Batsana đoán chắc và thân hàn đến tìm nàng.
    Cửa buồng mở, đèn sáng. Margô mặc chiếc áo ngủ màu hồng có hình thêu, nằm trong giường. Mặt nàng đỏ bừng mắt sáng quắc.
    -- A... a, anh bạn côi cút của tôi, tôi biết anh sẽ tới mà. -- Nàng mỉm cười với Batsana, rồi lấy chiếc cặp nhiệt độ ở nách ra. -- Này, xem hộ xem bao nhiêu? Tôi chẳng thấy gì cả, mắt chỉ toàn nhìn thấy những vòng tròn màu vàng...
    Batsana nhìn cái cặp nhiệt độ và bàng hoàng: ba mươi chín độ chín.
    -- Chị sao thế, Margô?
    -- Tôi không biết, bạn thân mến ạ, tên đểu cáng nào cứ đâm, cứ khoan bụng tôi bằng cái xiên nóng bỏng... Rượu vang cũng như vôt ka đều không làm đỡ chút nào... Tôi gắng chịu đựng đến chiều... Bây giờ thì quỵ... Bao nhiêu đấy?
    -- Cao... -- Batsana đặt cái cặp nhiệt độ xuống bàn.
    -- Nhưng bao nhiêu mới được chứ?
    -- Ba mươi tám...
    -- Áo sơ mi và quần của anh ở trên bàn... Ơn trời, tôi đã kịp là... Mở tủ ra, lấy ít giấm, pha thêm nước thấm vào khăn mặt và đắp lên trán tôi... Đầu nóng rừng rực... Bộ óc khốn khổ của tôi lại đến thế này nữa thì thật là hết nước...
    Batsana đáp ứng lời yêu cầu.
    -- Tôi sẽ đi lôi một người nào đến đây. -- Anh nói.
    -- Ai?
    -- Một bác sĩ!
    -- Ai cần đến tôi, một kẻ dở người?... Ở chỗ họ người bình thường còn chết không được chăm nom nữa là... -- Margô mỉm cười...
    Batsana lẳng lặng ra khỏi phòng và cắm đầu chạy trên phố Pêtriasvili.
    Mấy chàng trai đứng gần hiệu thuốc, oang oang tranh cãi gì không rõ.
    -- Margô sắp chết! -- Batsana thở hổn hển, buột ra.
    -- Sao lại sắp chết là thế nào?! Hôm qua chị ta ở đây kia mà?! -- Tenghix ngạc nhiên.
    -- Đúng thế, nhưng bây giờ sắp chết! -- Batsana nhắc lại.
    -- Vô lý! Nói cho rõ đi! -- Kôplic lắc anh.
    -- Tớ nói với các cậu là chị ta sắp chết rồi!
    -- Chị ta làm sao? -- Tsiska hỏi.
    -- Đau bụng, nhiệt độ bốn mươi!
    -- Vì sao thế, Đatikô? -- Kôpaka hỏi.
    -- Tớ không biết, Tenghix ạ. Cần một bác sĩ giải phẫu.
    -- Ta chạy đến tìm Satirisvili! -- Kôka quát...
    -- Satirisvili là thằng khốn khiếp! Không có tiền, một bước hắn cũng chẳng chịu đi đâu, vả lại chắc bây giờ hắn ngủ rồi! -- Berđơzêna nói và khinh miệt nhổ bọt sang bên cạnh.
    -- Cóc cần hắn! Mình đến bố của Văctangơ, bác Igơnati, bác ấy là người đứng đắn! -- Tsiska thét to và lao đi.
    Năm phút sau, mấy gã trai rón rén vào buồng Margô và lẳng lặng đứng xếp hàng bên giường. Người phụ nữ vật vã. Thấy các chàng trai, nàng ngạc nhiên chống khuỷu tay nhỏm lên, rồi lại vật mình xuống chiếc gối và bật khóc nức nở. Rồi nàng bật cười, tiếng cười hạnh phúc, nóng nảy:
    -- Các bạn thân mến của tôi... Tôi chờ các bạn và tôi đã không lầm... Các bạn quý hóa của tôi. Giãn ra đi, sao các bạn lại đứng như làm lễ cầu hồn vậy... Mong sao tất cả bệnh tật của các bạn trút cả sang cho Margô điên dại...
    -- Đưng sợ, Margô, Tsiska đưa bác sĩ đến bây giờ đấy. -- Tenghix gắng lắm mới buột ra lời.
    -- Tôi cần bác sĩ làm gì? Bây giờ tôi không chết được đâu... Cơn đau đã hết, nhiệt độ cũng đã hạ... -- Margô giật chiếc khăn ướt khỏi đầu, quẳng xuống sàn và vỗ tay. Batsana nhúng ướt khăn và lại đắp lên trán người ốm.
    -- Anh bạn côi cút ơi, anh làm náo động anh em đấy phải không? Hãy xin lỗi anh em đi! Ngay bây giờ!... Ô-hô-hô! Có ai trong số người ốm nhất là lại điên, đã từng mơ thấy những người như thế đến thăm mình chưa?! Hoan hô Margô! Margô cừ lắm! -- Nàng òa khóc. Các chàng trai đứng cúi đầu, không biết cất tay và mắt vào đâu. Đã hơi yên tâm, Margô gọi Batsana, -- Kia, trên tủ có cái tráp gỗ. Đưa nó cho tôi... Thế...-- Nàng đặt cái tráp lên ngực mình, nghĩ ngợi điều gì, rồi đưa cái tráp lên gần tai, lắc và mỉm cười sung sướng, mở nắp ra. Trong tráp có những chiếc nhẫn, vòng đeo tay, hoa tai và những vật linh tinh khác sáng lấp lánh.
    -- Mặt đá vô giá này đem từ Kabun, thủ đô Apganixtan về dành riêng cho nữ hoàng Tamar... -- Margô lấy trong tráp ra một chiếc nhẫn nhỏ bằng đồng nạm thủy tinh xanh, trị giá hai rúp -- Tôi tặng anh, Kôpala... Khi nòa lấy vợ, anh đeo cho vợ anh chiếc nhẫn này vào ngón giữa của bàn tay phải. Nói với nàng rằng nếu tôi trẻ hơn chút nữa thì nàng đừng hòng lấy được anh... Tôi cầu phúc cho anh!... Cầm lấy!...
    Tenghix cầm lấy chiếc nhẫn, và Batsana thấy những cục u của anh ta chuyển động.
    -- Còn cái này tặng vợ anh, công tước Kôka Amirêgibi, những chiếc khuyên bằng san hô Ấn Độ... Nó hợp với người phụ nữ mặt trắng, tóc đen, mắt xanh... Cầm lấy, đừng ngại... -- Margô bỏ vào bàn tay chìa ra của Kôka đôi khuyên đồ chơi đáng giá một xu.
    -- Còn cái vòng đeo tay bằng vàng này là của anh, Berđơzêna!... Công trình của những tay thợ lành nghề Đaghextan... Chiếc vòng tay như thế thích hợp với người vợ cao lớn, ngực tròn căng, mắt đen... Tôi tặng anh! -- Berđơzêna kính cẩn nhận từ tay Margô cái vòng hình bầu dục dẹt phẳng làm bằng sắt tây đồ hộp và không thốt lên lời nào, chạy khỏi phòng.
    -- Còn cái này phần tôi! -- Margô áp vào ngực mình một chuỗi hào bạc. -- Suốt cả thời thanh xuân, tôi chưa hề xa rời chuỗi ngọc này, vì thế tôi không thể nhường nó cho ai... Đừng giận!... Batsana, lại gần tôi!
    Batsana đến.
    -- Tôi dành cho anh viên ngọc bich Ba Tư này... Còn anh thì nên lấy một cô gái mồ côi nghèo, cô gái khác sẽ không hiểu nổi anh... Cầm lấy, và cầu trời cho anh hạnh phúc trong cuộc sống! -- Batsana cầm lấy từ tay Margô chiếc cúc màu xanh da trời xâu bằng sợi dây thép. -- Những thứ còn lại thì anh phân phát đi...
    Batsana bê cái tráp đi khắp lượt trước các bạn, và mỗi người, không nhìn vào tráp, lấy ra một vật.
    -- Tôi mệt rồi... Vậy mà nó vẫn thọc và đâm bằng những cái xiên... -- Margô rên rỉ và kiệt lực, ngật đầu ra phía sau.
    -- Gắng chịu một chút, Margô, bác sĩ sắp đến rồi! Đừng sợ! -- Kôplic dỗ dành, tay đỡ cho cằm khỏi run.
    -- Ai bảo anh là tôi sợ? Tôi vẫn chờ mãi cái ngày này, như chờ mong mặt trời mọc... Đến đi, đến với ta, thần chết, đừng làm tình làm tội ta nữa!... -- Margô nhắm mắt. Nước mắt chảy ròng ròng trên má nàng.
    -- Đến rồi! -- Có người nào reo lên.
    Giáo sư và Tsiska vào phòng. Giáo sư gật đầu chào mọi người, rồi đến giường Margô. Ông ngồi xuống chiếc ghế người ta đưa ra cho ông ngồi, bắt mạch người bệnh, rồi đặt tay lên vầng trán bốc lửa của nàng.
    Margô mở mắt.
    -- Chào cô nàng thân mến! -- Giáo sư mỉm cười.
    Margô đưa tay dụi mắt và nhìn chằm chằm vào người mới đến.
    -- Cầu trời ban sức khỏe cho bác Igơnati kính mến! -- Nàng đáp và cũng mỉm cười.
    -- Chị biết tên tôi à?
    -- Ai mà không biết? Một nửa Gruzya nhờ giáo sư mà được trở về từ thế giới bên kia!
    -- Mới non nửa thôi!-- Giáo sư nói đùa. -- Bây giờ xin cho biết, chị khó ở thế nào?
    -- Tôi phiền lòng vì mấy tay tướng cướp này dám quấy quả giáo sư giữa đêm khuya!
    -- Về chuyện ấy thì không ngại. -- Giáo sư nói cho Margô yên tâm, -- nghề nghiệp của tôi là phải như thế, ban ngày tôi sẽ ngủ bù... Xin cho biết, chị đau ở đâu, chỗ nào?
    -- Tôi cháy, bác sĩ ạ, cháy như đốt trên lửa...
    -- Cái đó bắt đầu từ bao giờ?
    -- Từ sáng... Không, hôm qua, hôm kia... Trước đây tôi làm giảm đau bằng Vôtka... Hôm nay thì tôi quỵ...
    -- Nào, bỏ chăn ra! -- Giáo sư yêu cầu.
    -- Bác sĩ ơi, tuy tôi điên nhưng vẫn biết xấu hổ...
    -- Trong chừng mực nào đó, tất cả chúng ta đều điên bởi vậy chúng ta không xấu hổ gì hết. -- Giáo sư lầm bầm và lập tức tự tay lật tấm chăn. Các chàng trai quay đi. Giáo sư bắt đầu thận trọng sờ nắn bụng người bệnh bằng bốn ngón tay, hỏi: -- Đau ở đây à? ... Còn ở đây?... Ở đây?...
    Margô bặm môi, im lặng. Chỉ sau khi giáo sư đã thăm bệnh xong, nàng mới rên rỉ:
    -- Đau khắp nơi, bác sĩ ạ, đau đến nỗi thà chết còn hơn...
    Giáo sư gạt tấm chăn sang một bên, uốn gập chân phải Margô và chậm chạp kéo nó lên phía trên, tới gần bụng. Margô kêu thét lên.
    Giáo sư đứng nhanh dậy.
    -- Có máy điện thoại ở đây không?
    Tsiska nhìn Margô, và dò hỏi.
    -- Ở nhà Đuglatzê, -- Nàng rên rỉ.
    -- Gọi ngay về chỗ "cấp cứu". nói rằng Igơnatijiki bảo gọi, yêu cầu cho xe đến đây ngay!
    Tsiska chạy đi.
    -- Bệnh tôi nguy kịch ư, thưa bác sĩ? -- Margô ngồi dậy trên giường.
    -- Đừng cử động, cô em thân mến ạ. Cô không được động đậy! -- Giáo sư đặt Margô nằm xuống, khẽ vỗ vào má nàng. -- Trước nay cô đã chữa ở đâu?
    -- Không sao, thưa bác sĩ, chết đối với tôi là một ngày hội. Xin đừng mất công...
    Giáo sư đến ngồi bên bàn, hai tay đỡ lấy đầu và im lặng.
    Kôka lén bỏ tiền vào túi ngoài áo vét của giáo sư. Không nhìn thấy Kôka, giáo sư lấy tiền ra, đặt lên bàn. Rồi ông lấy ở trong túi trong ra một tập giấy bạc mười rúp, đặt cạnh số tiền kia. Đoạn ông đứng dậy và ra khỏi buồng. Các chàng trai ra theo ông.
    -- Có hy vọng gì không, thưa giáo sư? -- Berđơzêna hỏi.
    Giáo sư lắc đầu.
    -- Không có hy vọng gì ạ? -- Tenghix hỏi lại.
    -- Một phần trăm...
    -- Cô ấy àm sao, thưa giáo sư?
    -- Viêm màng bụng.. thủng ruột thừa... Bị như thế thì hôm nay là ngày thứ ba... Lạ thật.
    Mười lăm phút sau, xe "cấp cứu" đến. Người ta đặt Margô lên cáng và khiêng ra xe. Khi rời khỏi căn buồng nhỏ của mình, nàng quay về phía các chàng trai:
    -- Vĩnh biệt các chàng trai Vêre! Vĩnh biệt các bạn trẻ yêu quý của tôi! -- Nàng bỗng nhỏm dậy trên cáng và cầu khẩn thốt lên: -- Đừng đến nhà tắm nước lưu huỳnh!.. Tôi van các bạn! Đừng bao giờ đến đấy! Đấy là lời trăng trối của tôi cho các bạn!

    Xác được đưa ra vào thứ ba, từ phòng giải phẫu của chính cái bệnh viện mà Margô đã vào nằm trong ngày xảy ra trận lụt năm 1936.
    Cả Vêre, các phố Pêtriasvili và Mêlikisvili đông nghịt người, người tò mò nhiều hơn người quen.
    Chiếc quan tài ngập trong hoa, đặt trên cáng gỗ, được khiêng lên dốc Vêre bởi tám chàng trai, đi bên cạnh có tám chàng trai khác để thay thế. Đi trước quan tài là một chiếc oto kết hoa. Hoa nhiều đến nỗi tưởng chừng như một bó hoa khổng lồ sống động đang tự đi đến nghĩa trang.
    Trên phố Mêlikisvili, dòng chuyển động dừng lại. Ô tô buýt, ô tô, xe điện đứng chết gí tại chỗ. Ở góc phố Peetriasvili, một số thanh niên làm cho đám tang ngừng lại năm phút. Một chiếc ô tô nổi còi, rồi chiếc thứ hai, chiếc thứ ba, bỗng nhiên cả khu phố tràn ngập tiếng còi ô tô inh ỏi, liên hồi.
    -- Chuyện gì quái lạ thế! -- Người lái của một chiếc ô tô ngẫu nhiên lọt vào đám tang thò đầu ra khỏi ca-bin. Định không cho chúng ta đi qua chắc?!
    -- Bấm còi đi! -- Một chàng trai người khu phố nói với anh ta.
    -- Tại sao? -- Người lái xe ngạc nhiên.
    -- Cần như thế!
    -- Cần là thế nào? -- Người lái xe cãi bướng.
    -- Là thế này này! -- Gã trai bấm còi.
    -- Bỏ tay ra! Ắc quy hết điện mất!
    -- Không sao! Chúng tôi sẽ đẩy xe -- Gã trai đáp, tay không rời nút bấm còi.
    --Đám tang nhân vật cỡ bự nào mà phỉa bấm còi? -- Gã lái xe nổi cáu, lại thò đầu ra khỏi ca-bin.
    -- Đám tang Margô ở Vêre...
    -- Ai?!
    -- Nghe đây, bảo gì làm nấy, chừng nào tay còn lành lặn! -- Gã trai ấn đầu người lái xe vào ca-bin. -- Hiểu chưa?
    Tay lái xe hiểu rằng gã trai không đùa, và ra sức bấm còi. Chàng trai đến chiếc xe khác. Năm phút sau, cả chiếc xe đó cũng nổi còi. Chờ gã trai đi khỏi, người lái xe cả cười:
    -- Đám tang Gian Đa chắc?!
    -- Không, đám tang Margô điên! -- Một người tham dự đám tang, đi qua đấy, đáp.
    -- Người điên à?! Đám tang người điên mà như thế ư?!
    -- Chúng tôi làm lễ tang như thế đấy! -- Một người Vêre đồng nghiệp với anh lái xe trả lời anh ta.
    -- Hoan hô anh em! Sống trong một khu phố như thế này có chết cũng không ân hận! -- Người lái xe hoan hỉ kêu lên.
    Buổi chiều, quán rượu Tantx -- Ghêurka đông nghịt các chàng trai Vêre. Các bàn bầy biện sơ sài: bánh mì, pho mat, rượu vang, củ cải. Không có người chủ trì. Khi ai nấy đã ngồi yên vị và trong hầm nhà bắt đầu lặng phắc như tờ, Tsiska đứng lên, rót rượu vang đầy cốc, rỏ mấy giọt xuống mẩu bánh mì và lên tiếng:
    -- Vì nỗi đau xót của khu phố ta, vì những giọt nước mắt và niềm vui sướng của khu phố ta, vì trang nhan sắc đã mất của khu phố ta!
    Tất cả đứng lên và lẳng lặng cạn cốc.
    Hôm ấy, trong nhà hầm Tanxt Ghêurka, không ai nói thêm một lời nào nữa, không ai uống thêm một cốc rượu nào nữa.

    -- Kém, kém, Ramisvili ạ... -- Giáo sư miễn cưỡng giở quyển sổ ghi điểm của Batsana--Sao thế?
    Batsana im lặng.
    -- Có chuyện gì thế, Ramisvili? -- Không thấy anh trả lời, giáo sư hỏi.
    -- Em ốm, thưa giáo sư, em không kịp chuẩn bị...
    -- Không phải là ốm, mà là bận bịu với cô gái điên ấy! ... Em tưởng tôi không thấy hôm qua em đi sau quan tài cô ta như người ruột thịt của cô ấy sao?
    -- Chị ấy không điên, thưa giáo sư! -- Batsana bác lại.
    -- Thế chị ta là người thế nào? Vua Irakli ư? Quái lạ, cả khu phố như hóa rồ! Hai tiếng đồng hồ tắc nghẽn giao thông!
    -- Chị ấy ốm, thưa giáo sư, bệnh tâm thần! -- Cảm thấy vị mặn mặn trong miệng, Batsana đứng dậy:
    -- Em đi đâu? -- Giáo sư ngạc nhiên.
    -- Em sẽ đến lần khác,-- Batsana khẽ đáp.
    -- Chị ta là chỗ thân quyến gì với em sao?
    Batsana im lặng một lúc lâu, rồi nhìn giáo sư và nói:
    -- Đấy là chị ruột em...
    Giáo sư chăm chú nhìn vào mắt Batsana. Không chịu nổi cái nhìn, Batsana cúi đầu xuống. Bắt đầu im lặng. Rồi giáo sư đóng quyển sổ ghi điểm lại, đưa cho Batsana và nói:
    -- Về đi, Ramisvili -- Chính ông đứng lên và tới gần cửa sổ.
    Batsana bỏ quyển sổ ghi điểm vào túi và đi ra.
    -- Thế nào? Điểm mấy? -- Các sinh viên vây lấy anh. Batsana không trả lời. Anh đi ngang qua hành lang, xuống thang, ra vườn trường đại học và ngồi xuống chiếc ghế dài lúc này không có ai ngồi. Batsana ngồi một mình hồi lâu, chẳng để ý đến ai và bất cứ cái gì. Rồi anh lấy quyển sổ ghi điểm của mình ra và buồn tay, anh mở quyển sổ.
    ... Đấy là điểm năm đầu tiên Batsana nhận được trong suốt cả đời anh.
    Anh đóng sập quyển sổ lại, và lại mở ra, nhưng không nhìn thấy gì.
    Mắt Batsana đẫm lệ.
    Batsana khóc.
     
    Chỉnh sửa cuối: 28/5/15
    superlazy thích bài này.
  20. notrinos

    notrinos Lớp 5

    12.
    Sau khi Bulika chết, giáo sư ra lệnh không xếp bệnh nhân nào vào phòng Batsana và cha đạo, còn chiếc giường trống thì đem đi, để nó khỏi gợi cho hai người bệnh những ý nghĩ buồn phiền. Nhưng cái chỗ bỏ trống lại gây nên cảm giác nặng nề hơn nhiều so với chiếc giường không.
    Mỗi sáng, khi thức giấc, Batsana và cha Iôram bất giác đưa mắt nhìn về cái chỗ mới đây đặt giường của Bulika và tim họ thắt lại vì nhớ đến những gì đã trải qua. Rồi cả ngày, trong lúc chuyện trò, hầu như cứ chốc chốc, đang nói nửa chừng họ lại ngừng lời, chờ một câu pha trò và một câu đối đáp bông đùa của Bulika.
    Cứ như thế ngót hai tuần lễ. Rồi thời gian phát huy hiệu lực, Batsana và cha đạo dần dần đã quen với sự thiếu vắng Bulika...
    Một buổi sáng, cha Iôram hỏi Batsana một câu bất ngờ:
    -- Ông Batsana kính mến, hẳn ông sẽ được mai táng trong điện Pantêông Duđubixki chứ?
    Thoạt tiên Batsana bật cười, rồi lo ngại:
    -- Thế nào, cha mơ thấy chuyện gì chẳng lành ư?
    -- Tôi có nằm mơ, nhưng giấc mộng không can gì đến ông, mà đến tôi kia. -- Cha Iôram đáp một cách buồn rầu.
    -- Nếu vậy thì cha nên hỏi người ta mai táng cha ở đâu, chứ không phải là mai táng tôi... Cha đang bầy ra một mưu mẹo gì đấy thôi! -- Batsana nghi ngờ.
    -- Chính thế... Nếu ông sẽ được mai táng trong điện Pantêông thì có lẽ cũng sẽ có một chỗ cho tôi ở đấy, trong sân nhà thờ...
    -- Ồ, theo cái nguyên tắc như thế thì tôi phỉa được mai táng trong sân Hội nhà văn... Nhưng nếu cha làm thế nào để được cất nhắc làm cha bề trên của nhà thờ Đuđubixki thì rất có thể là mộ của chúng ta sẽ ở sát cạnh nhau!
    -- Vậy là chỗ của ông trong điện Pantêông đã được đảm bảo, không thì ông đã không đùa như thế! -- Cha Iôram kết luận.
    -- Cha lầm rồi, thưa cha!
    -- Tại sao?
    -- Là bởi vì điện Pantêông Đuđubixki đã đầy chật từ lâu. Không nhét nổi tôi vào nữa đâu... Trừ phi đặt đứng... Dù sao, có một điều tôi tin chắc: cả cha lẫn tôi đều sẽ không đến nỗi không được chôn cất.
    Cha Iôram thở dài.
    -- Nhưng cha mơ thấy chuyện gì mới được chứ, thưa cha? -- Batsana muốn biết.
    -- Vâng, tôi sẽ kể ông nghe... Tất cả những người quá cố mà trước kia tôi đã hát kinh đưa tiễn họ sang thế giới bên kia đều tụ tập trong sân nhà thờ Ortatsala và chờ tôi ra!
    -- Rồi thế nào? Cha ra chứ?
    -- Như một tên ăn mày mạt hạng, một thằng hèn nhát, một con thỏ đế, tôi nấp sau điện thờ... Tôi nhớ là lúc ấy tôi xấu hổ đến muốn gào lên hay tự sát quách đi cho rồi!...
    -- Thưa cha, tự sát là hình thức cao nhất biểu thị quyền tự trị của con người. Nhưng tiếc rằng đạo của cha cấm làm việc đó, bởi vì việc đó bị coi là một tội lớn nhất, là sự hủy diệt linh hồn! -- Batsana nói bằng giọng thống thiết.
    -- Theo tôi biết, các ông cũng không hoan nghênh việc tự sát. -- Cha Iôram đáp.
    -- Phải, cũng có một số điều cách nhìn nhận của chúng ta trùng với nhau. Vì thế tôi đã từng nói với cha rằng cha có thể trở thành một người cộng sản tốt.-- Batsana nhắc lại.
    -- Còn tôi vẫn nhớ hồi ấy tôi đã trả lời ông rằng cũng có thể xảy ra điều ngược lại. -- Cha Iôram chống đỡ.
    -- Xin đừng mưu cầu chuyện đó, cha ạ, không thì tôi sẽ làm cho cả xứ đạo của cha thành cộng sản hết cho mà xem.
    -- Còn phải nói! Một người cộng sản, lại là nhà văn thì còn lợi hại hơn một trăm linh mục! Tôi chỉ còn một hy vọng: sự hóa kiếp của linh hồn. Khi nào ông đầu thai kiếp khác xuống cõi thế này thì ông sẽ tin chúa trời là có thực. -- Cha Iôram làm dấu thánh.
    -- Cha ạ, nhà văn là con chó trung thành của nhân dân... Tôi không tin chuyện linh hồn đầu thai kiếp khác, nhưng nếu có chuyện như thế thì chắc chắn hồn tôi sẽ đầu thai kiếp chó. Thành thử sau khi tôi chết, xin cha hãy yêu thương những con chó lạc loài, đừng ném đá vào nó, vì có thể một trong những con chó ấy là tôi.
    -- Nghe ông nói vui tai lắm, ông Batsana kính mến ạ! Nhưng nếu hồn mỗi nhà văn qua đời đều đầu thai thành kiếp chó lang thang thì sống trên đời không có gì đáng them ước. -- Cha Iôram mỉm cười mỉa mai.
    -- Chẳng có gì đặc biệt, nhất là nếu linh hồn của cha sẽ đầu thai thành kiếp chó sói.
    -- Sao lại thành chó sói?
    -- Đấng chăn chiên lại lẩn trốn dàn chiên của mình thì hẳn không thể hòng mong kiếp sau được làm sư tử! -- Batsana nói, cố giấu nụ cười. Cha Iôram ngọ nguậy trên giường, và không tin được câu trả lời, cha bực bội quay mặt đi.
    -- Nhưng cha đừng lo, -- Batsana nói tiếp. -- Giấc mơ của cha là điềm lành. Cha sẽ sống lâu trăm tuổi.
    Cha Iôram nguôi giận, lại bắt chuyện:
    -- Này, ông ạ, nếu phỏng theo cấp bậc hành chính của các ông thì chức sắc của tôi tương đương với chức vụ gì chẳng hạn?
    -- Nhưng trong xứ đạo của cha có bao nhiêu người?
    -- Chúng tôi không đăng ký giáo dân.
    -- Thôi được. Thế nhà thờ thu nhập được bao nhiêu do quyên góp.
    -- Biết nói thế nào đây... Dù sao cũng không đủ để sửa sang nhà thờ...
    -- Vậy thì nếu phong theo cấp bậc hành chính của chúng tôi, chức sắc của cha sẽ tương đương với chức vụ chủ nhiệm câu lạc bộ xã. -- Batsana định rõ địa vị xã hội của cha Iôram.
    -- Ông giễu cợt đấy ư?
    -- Sao lại thế?
    -- Tôi đã tốt nghiệp trường dòng kia mà?
    -- Đa số các chủ nhiệm câu lạc bộ của chúng tôi có trình độ đại học, chí ít cũng có trình độ chuyên nghiệp trung cấp, xoàng nhất là như thế! Và họ được tặng những danh hiệu như thế nào! Nhà hoạt động nghệ thuật công huân, cán bộ văn hóa công huân!... Trong số các linh mục có lấy một người nào là linh mục công huân của nước cộng hòa không? Tôi chưa từng nghe nói có người nào như thế! -- Batsana khoái chí ra mặt.
    Cha Iôram buồn rầu.
    -- Xin cha đừng buồn! Hãy chuyển sang phía chúng tôi, tôi cam đoan với cha: chúng tôi sẽ bổ nhiệm cha làm cấn bộ của huyện ủy!
    -- Ông Batsana kính mến! -- Linh mục bực tức thực sự. -- Ông hạ cố đến đây để làm gì? Để làm tan rã giới tu hành chính giáo chúng tôi hay để chữa bệnh nhồi máu của ông?! Hãy theo chúng tôi, tôi sẽ phong ông làm trợ tế, nếu ông muốn.
    -- Can gì phải tức giận, thưa cha? Nếu như đạo của cha đúng thì sau khi chết, tôi sẽ hoàn toàn ở dưới quyền sai khiến của cha kia mà. Lúc ấy cha muốn làm gì tôi tùy ý -- Batsana vừa nói vừa cười.
    -- Không đâu, anh bạn ạ! Ở thế giới bên kia hai ta không thể nào gặp nhau được! -- Cha Iôram xẵng giọng đáp.
    -- Tại sao vậy? -- Batsana tỏ ra buồn rầu.
    -- Tại sao nữa! Nói theo ngôn ngữ cộng sản thì lý lịch của ông không cho phép giới thiệu ông lên thiên đường! Con đường của ông dẫ thẳng xuống địa ngục! Hiểu chưa?
    -- Thế còn tình bạn của chúng ta? Lẽ nào cha lại không che chở cho tôi? -- Batsana quyết định gợi lòng trắc ẩn của linh mục.
    -- Ông là miếng mồi quá ngon cho quỉ xa-tăng! Sự che chở của tôi chưa chắc đã giúp được ông...
    -- Cho dù tôi có chịu lí lễ ban thánh thể đi nữa?
    -- Ông sẽ xưng tội chứ?
    -- Nhưng nếu không có tội thì sao?
    -- Đương nhiên ông thì làm gì có tội được kia chứ! Thế giới của các ông và những việc các ông làm, các ông coi là chân chính!... -- Cha Iôram tỏ ý, không buồn nói chuyện nữa.
    -- Những người tín ngưỡng thật là sung sướng, cha Iôram ạ... Chúng tôi tin vào sự nghiệp của chúng tôi... -- Batsana đáp một cách nghiêm chỉnh.
    ... Chị y sĩ Giênya vào phòng bệnh. Batsana và cha Iôram lập tức lật chăn ra, nằm úp xuống và phơi trần ra cái chỗ để tiêm. GIieenya cười vang.
    -- Đắp chăn vào, đắp chăn vào, các đồng chí! Lần này tôi đến với hai bàn tay không... Có khách đến thăm đồng chí, đồng chí Batsana kính mến ạ, đồng chí không thể tiếp khách với bộ dạng như thế được!
    -- Khách à? Người đó cần gì? -- Batsana cảnh giác.
    -- Người đó quan tâm đến sức khỏe của đồng chí... Để cái bô lại hay đem đi? -- Giênya vẫn cười.
    -- Đàn ông hay đàn bà?
    -- Đàn bà. Bà ta bảo là chỗ thân thiết với đồng chí...
    -- Thế thì cứ để cái bô ở đây -- Batsana nói, chuẩn bị đón gặp bà khách mời.
    -- Hiểu rồi!
    Giênya đi ra. Liền đó trong phòng bệnh xuất hiện một người đàn bà nom cương nghị, tóc bạc, tuổi trung niên, tay mang cái cặp bìa giấy to phồng. Bà ta đứng lại ở giữa phòng, nhìn quanh, hơi ngần ngừ, rồi đi tới giường cha Iôram.
    -- Chào đồng chí! Tôi là bạn của gia đình đồng chí. Nina Xanêblitzê! -- Bà ta nói và không đợi mời, ngồi ngay xuống trước mặt linh mục.
    -- Bạn của gia đình ư? -- Ông linh mục hỏi lại.
    -- Vâng. Bố của đồng chí là Akaki và bố tôi là Lada cùng học với nhau ở trường trung cấp kĩ thuật công nghiệp từ năm một nghìn chín trăm mười sáu.
    -- Nói thực tình, bà cần nói chuyện với ai kia chứ? -- Linh mục ngạc nhiên, ném một cái nhìn về phía Batsana, vẻ dò hỏi. Batsana nhăn mặt thảm thiết, tỏ ý cầu xin Iôram cứ tiếp tục câu chuyện.
    -- Với ai là thế nào? -- Người đàn bà đáp, không kém phần ngạc nhiên. -- Với đồng chí chứ còn với ai?
    -- Bà quen tôi ư? Chúng ta đã từng gặp nhau rồi ư? -- Iôram bắt đầu nhập vai.
    -- Trời ơi, chuyện ấy mà lại khó khăn đến thế chăng? Khắp xung quanh, trên đài truyền thanh, trên ti vi, lúc nào cũng nghe thấy và trông thấy: Batsana Ramisvili, Batsana Ramisvili... Nhưng của đáng tội, đồng chí nom đã đổi khác... Đã để râu...
    -- Vâng, trong phòng hơi lạnh... -- Cha Iôram đưa tay vuốt râu và đắp chăn kín hơn.
    -- Tất nhiên! Không đùa với bệnh được! -- Người đàn bà đồng ý.
    -- Hừ-ừm... Bà gặp tôi có việc phải không, thưa bà? -- Cha Iôram đã mất kiên nhẫn.
    -- Vâng. Đồng chí cảm thấy trong người thế nào?
    -- Cảm ơn bà. Hiện giờ khá hơn rồi... Còn bà thế nào, thưa bà?
    -- Tôi ấy à?! Tôi chết mất, tôi nguy ngập, tôi chìm nghỉm, tôi đau xót, tôi hấp hối! -- Người đàn bà tuôn ra một tràng.
    -- Vậy tôi có thể giúp được gì cho bà không? -- Cha Iôram ngỏ ý sẵn sàng giúp đỡ.
    -- Giúp à? Không phải là giúp, mà là cứu vớt! -- Người đàn bà đòi hỏi.
    -- Liệu tôi có thể làm nổi không? -- Cha Iôram hồ nghi.
    -- Sao?! Đồng chí ấy à? Batsana Ramisvili mà không làm được à? -- Người đàn bà phá lên cười một cách giả tạo. -- Chỉ một lời của đồng chí, một lá thư của đồng chí, một tiếng điện thoại...
    -- Vậy bà yêu cầu điều gì? Xin nói rõ đi! -- Cha Iôram cho rằng cuộc nói chuyện của ông với người đàn bà lắm mồm này đã có chiều hướng giống như cuộc đối thoại mới đây gữa Batsana với tên đểu cáng thu mua thuốc lá
    -- Ngày 2 tháng 8, giữa thanh thiên bạch nhật, người ta đã công nhiên cắt cổ con trai tôi!
    Cha Iôram sững sờ.
    -- Ai? Ở đâu? -- Khó khăn lắm ông mới thốt được lên lời.
    -- Cái thằng ăn hối lộ vô liêm sỉ, quân mặt thớt... Ở giảng đường số một trăm linh bảy trường đại học tổng hợp... -- Người đàn bà nói bằng giọng bi thảm và bỗng liến thoắng nói thêm: -- Đồng chí tưởng rằng sau khi hắn ta ra đi đã có cái gì thay đổi à?
    -- Ai ra đi?
    -- Hắn ta! -- Người đàn bà trợn ngược mắt nhìn lên trần nhà. -- Hắn đã cắt cổ cả tôi, cả con trai tôi, thằng xỏ lá!... Thằng bé bị khiêng ra khỏi giảng đường... Ba năm trời! Ba năm tôi cho thằng bé chuẩn bị về ba môn: tiếng Gruzya, tiếng Anh, môn lịch sử! Bảy trăm rúp mỗi môn! Thế mà không ngờ...
    Hiểu rằng Xanêblitzê -- con vẫn sống và lành mạnh, cha Iôram thở dài nhẹ nhõm.
    -- Thế còn ở trường phổ thông? Nó không học ở trường phổ thông ư?
    -- Thế đồng chí, đồng chí có học ở trường phổ thông không? Ở đấy người ta đã dạy đồng chí được gì?
    Cha Iôram không biết trả lời ra sao, đành lẳng lặng cúi đầu xuống.
    -- Hắn đòi thằng bé đọc thuộc lòng "Di huấn của Aptanđin" *! Thằng khốn kiếp! Lẽ ra hắn phải hỏi bọn học trò của hắn, những đứa đã bị hắn lột mỗi tên bảy trăm rúp về công dạy riêng! Mà cái chương ấy thì chính Ruxtavêli cũng không thuộc, nếu không thì ông ấy viết ra làm gì?!

    * Một chương trong "Dũng sĩ khoác da hổ" của Sôta Ruxtavêli
    -- Ô, chớ nói thế! -- Cha Iôram phản đối.
    -- Thế thì thế nào? Đồng chí tưởng chính hắn đã đọc cái di huấn đáng nguyền rủa ấy ư? Cái thằng ăn của đút khốn nạn ấy!
    -- Tại sao bà nghĩ như thế?
    -- Chẳng việc gì mà phải nghĩ! Nhìn mặt cái thằng đều ấy là đồng chí thấy rõ ngay!
    -- Tôi không thể tin được! -- Cha Iôram không chịu nhượng bộ.
    -- Ta cuộc nào! -- Người đàn bà đề nghị, chìa tay ra.
    -- Cuộc gì? -- Linh mục bằng lòng, ông đã bắt đầu hăng lên.
    -- Muốn cuộc gì cũng được! Nói chung những đứa trẻ đã thuộc lòng Ruxtavêli, lịch sử thế giới và tiếng Anh thì không còn có việc gì làm ở trường đại học nữa! Có dốt mới cần đi học! Đúng thế!
    -- Thôi được. Vậy thì ta cần làm gì bây giờ? -- Cha Iôram cắt đứt việc tuyên truyền những luận điểm mới về giáo dục phổ thông và đại học.
    -- Đồng chí phải giúp tôi -- Người đàn bà tuyên bố.
    Cha Iôram nhìn Batsana, tìm sự ủng hộ. Nhưng Batsana dùng khăn tay che miệng, chỉ lắc đầu.
    -- Bằng cách nào? -- Thất vọng, linh mục hỏi.
    -- Đồng chí hãy đến gặp Bộ trưởng bộ đại học.
    -- Nhưng tôi đang nằm bệnh viện kia mà?...
    -- Gọi điện hay viết thư cho đồng chí ấy...
    -- Viết cái gì?
    -- Viết rằng thằng bé là chỗ họ hàng với đồng chí, là học sinh ưu tú, được đào tạo chu đáo, là vận động viên thể thao, còn gì nữa nhỉ?
    -- Tôi không biết. -- Cha Iôram rên rỉ.
    -- Đây là chứng chỉ của nhà trường. Trong đại hội thể thao của học sinh, nó chiếm giải ba, nhảy xa ba mét, nhảy cao một mét mười bảy...
    -- Nếu vậy thì cho nó vào trường đại học thể dục thể thao là tốt hơn hết! Ông bạn tôi kia là vận động viên thể thao, ông ấy giúp được đấy! -- Cha Iôram trỏ sang Batsana. Batsana bỏ tấm khăn trên mặt, gật đầu.
    -- Đồng chí nói gì vậy?! Trường đại học thể dục là thế nào? Tôi giáo dục một đứa con trai, chứ không phải là một con dê con!
    -- Sao lại thế, thưa bà? -- Batsana tỏ ra phật ý, -- Đumbatzê, Gôkiêli, Khơnưkina, Giughêli đều đã tốt nghiệp trường đại học thể dục thể thao...*
    -- Ông là vận động viên thể thao à? -- Người đàn bà ngắt lời Batsana.
    -- Vâng
    -- Ông cũng bị nhồi máu ư?
    -- Vâng.
    -- Đáng đời cho ông!
    Batsana nhếch mép cười:
    -- Cám ơn!
    Người đàn bà cố chữa lại thái độ bất nhã của mình:
    -- Cầu Chúa ban sức khỏe cho ông!
    -- Bà tin Chúa à? -- Cha Iôram mừng rỡ.
    -- Thế Chúa đã giúp được gì nhiều cho những người tin Chúa? Đồng chí hãy giúp tôi đi, như vậy đồng chí sẽ là Chúa của tôi và cứu tinh của tôi.
    -- Tôi không thể giúp được, có giết tôi đi cũng thế thôi. -- Cha Iôram thở dài.

    * Những nhà thể thao nổi tiếng trong quá khứ
    -- Đồng chí là đại biểu Xô Viêt, là ủy viên trung ương, là tổng biên tập tờ báo mà lại không giúp được ư? -- Người đàn bà ngạc nhiên thành thực.
    -- Thưa bà, thế bà không đọc nghị quyết của Trung ương đảng về tệ bao che à? -- Linh mục hỏi, ông đã mất bình tĩnh.
    -- Ở đây có gì là bao che?! Tôi xin cho con trai tôi, chứ có phải cho người khác đâu? -- Người đàn bà cố nài một lần chót
    -- Không! Nhất là nó đã bị điểm hai rồi! THôi, ta không nói chuyện ấy nữa!... Cha Iôram tuyên bố dứt khoát và quay mặt vào tường.
    -- Thôi được... -- Người đàn bà chịu thua. -- Thế thì đồng chí giúp tôi một việc khác vậy...
    -- Còn chuyện gì nữa?! -- Cha Iôram giật mình.
    -- Thì ra đồng chí là cha đỡ đầu của ông chủ tịch Ủy ban quân Mồng một tháng năm... Thế này nhé, chúng tôi có một vấn đề nhỏ về chuyện nhà ở. Người hàng xóm của chúng tôi được cấp một căn hộ bốn phòng ở Xôlôlaki*. Vì lẽ gì, do công lao gì thì không biết... Chúng tôi muốn lấy thêm căn phòng của người đó. Con trai tôi ở trại cải tạo viết thư về cho biết nó định lấy vợ. Nó sắp mãn hạn rồi. Có cần lo đến việc ấy không? Cần chứ!... Thực ra cũng có một người ngấp nghé căn phòng đó, nhưng nó thuộc về chúng tôi là hợp lý. Nếu đục một cái cửa và xây thêm một cầu thang bên thì có thể qua căn buồng đó nối liền bếp và hành lang của chúng tôi với căn hộ hai phòng của gia đình bên cạnh. Chúng tôi đã tìm được cho người này một căn hộ ở đại lộ Txêrêtêli. Kể thì có hơi xa, diện tích nhỏ hơn bốn mét mười bốn xentimet, nhưng chúng tôi đang cho sửa sang thêm và chồng tôi sẽ đặt điện thoại không mất tiền cho họ.

    * Tên cũ của một quận ở Tbilixi
    Còn bên cạnh căn hộ đó, có một bà ốm yếu sống một mình trong một căn buồng. Cầu trời ban sức khỏe cho bà ta, bà ta sắp chết rồi. Năm ngoái bà ta nhận chồng tôi là con nuôi, chúng tôi nuôi người đàn bà khốn khổ ấy và chăm sóc bà ta. Nếu bây giờ không đăng ký được cho con trai thứ của tôi vào đó thì sẽ mất đứt căn buồng, đồng chí hiểu chứ? Bao nhiêu công sức của chúng tôi sẽ đi tong hết!... Chỉ một tiếng điện thoại của đồng chí là xong, đồng chí Batsana kính mến ạ! Chúng tôi sẽ ngày đêm cầu phúc cho đồng chí...
    -- Thực tình tôi rất khó khước từ việc bà nhờ cậy, nhưng... tôi không quen biết ông chủ tịch đó... -- Cha Iôram lau mồ hôi trán.
    -- Nhưng ông ấy biết đồng chí! -- Người đàn bà kêu lên.
    -- Tôi lấy làm ngờ về điều đó... -- Cha Iôram thốt lên, cầu cứu Batsana bằng cái nhìn nhiều ngụ ý. Thương hại vị linh mục tội nghiệp, Batsana tích cực can thiệp vào cuộc nói chuyện đã kéo dài:
    -- Tôi biết hoàn toàn đích xác là hai người không quen nhau!
    -- Tôi không thể tin được!
    -- Xin thề có mẫu thân tôi! -- Batsana đặt tay lên tim.
    -- Có lẽ ông giúp được tôi chăng?-- Người đàn bà quay lưng về phía cha Iôram và nhìn Batsana với niềm hy vọng.
    -- Tôi chỉ có mối quen biết ở trường đại học thể dục thể thao thôi...
    -- Thôi được, sang năm con trai thứ tôi tốt nghiệp phổ thông. Nó bơi rất giỏi, ở Kôiubêti nó bơi xa bờ hàng trăm mét, lấy đá ở dưới đáy sông lên! Xin ông cho biết họ của ông, sang năm tôi sẽ quấy quả ông. -- Người đàn bà lấy trong xắc ra cuốn sổ tay và cây bút chì.
    -- Nếu đến lúc ấy tôi còn sống...
    -- Quả có thế... Tôi có cái hạnh phúc đáng ghét là... Dù sao xin ông cứ cho biết họ của ông để khi nào cần đến...
    Đến đây Batsana làm hỏng cả tấn kịch. Quên phắt mất chuyện đóng trò, ông đáp với niềm tự hào ra mặt:
    -- Tôi là Batsana Ramisvili!
    Ngạc nhiên quá, hàm người đàn bà trễ xuống và cây bút chì đờ ra trong tay bà ta.
    Batsana toát mồ hôi lạnh.
    -- Ông nói gì vậy?!
    -- Vâng, tôi là Ramisvili! -- Batsana nhắc lại.
    -- Thế còn ông kia là ai? -- Bà ta trỏ Ioorram.
    -- Cha bề trên của nhà thờ Ba ngôi Ortatsala, cha Iôram Kanđêlaki.
    Hai tay người đàn bà thõng xuống và mặt bà ta xám đi.
    -- Vậy mà con người ấy lại hỏi tôi có tin Chúa hay không ư?!
    -- Thưa bà, đành là tôi có lỗi một phần, nhưng... -- Cha Iôram biện bạch.
    Người đàn bà đứng dậy. Bầu không khí im lặng ngượng ngập bao trùm trong phòng.
    -- Lòng nhân đạo của ông để đâu? -- Bà ta ném lên Batsana một cái nhìn căm giận.
    Batsana lặng thinh nhún vai và đặt vào dưới lưỡi một viên valiđôn.
    -- Những tên hề! -- Người đàn bà đốp một câu và rời khỏi phòng bệnh...
    -- Ồ... thật là không hay! -- Cha Iôram nói.
    -- Rất không hay nữa là khác. Tất cả chỉ là tại tôi. Xin cha rộng lòng thứ lỗi...
    -- Tôi tha thứ cho ông, bởi chính tôi cũng có lỗi không kém, nhưng cái chính là tôi thương ông! Chẳng lẽ trên đời không có người nào chăm lo đến sức khỏe của ông và chỉ thế thôi ư? -- Giọng cha Iôram chứa chan niềm thông cảm thực sự đến nỗi chính Batsana cảm thấy tủi thân. -- Rõ ràng là nhiều người đến quấy quả ông, và có nhiều người ông đã phải giúp đỡ họ, phải không?
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/5/15
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này