Đang dịch R The Goldfinch - Donna Tartt (Giải Pulitzer 2014)

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi ngantrang0811, 29/9/14.

  1. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    [​IMG]

    The Goldfinch
    (Tạm dịch: Con chim sẻ cánh vàng)

    Tác giả: Donna Tartt - một nữ nhà văn người Mỹ và là tác giả của những tiểu thuyết rất có giá trị như The Secret History (1992), The Little Friend (2002) và The Goldfinch (2013). Bà nhận Giải văn học WH Smith cho cuốn The Little Friend vào năm 2003 và Giải Pulitzer (thể loại viễn tưởng) cho cuốn The Goldfinch vào năm 2014 và bà có mặt trong danh sách 100 người có tầm ảnh hưởng nhất năm 2014 do tạp chí Times bình chọn.
    Người dịch: @ngantrang0811
    Tình trạng: Đang dịch
    Phân loại: R

    Tóm tắt
    Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của cậu bé 13 tuổi, Theo, người may mắn sống sót sau vụ đánh bom khủng bố nhưng mẹ cậu thì đã qua đời. Vì nhiều lí do, cậu đã đánh cắp bức tranh vô giá The Goldfinch của danh họa Hà Lan Carel Fabritius từ Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York. Rồi câu chuyện của cậu bé và số phận của bức tranh cổ đã tết lại với nhau trong suốt 2 thập kỷ đầy sóng gió.

    Mục lục
    I.
    Chương 1: Chàng trai với chiếc đầu lâu
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; 4;
    Chương 2: Bài học giải phẫu
    Chương 3: Đại lộ Park
    Chương 4: Kẹo mút vị morphine
    II.
    Chương 5: Badr al-Dine
    Chương 6: Gió, Cát và Những vì sao
    III.
    Chương 7: Cái cửa-hàng-phía-sau-cửa-hàng
    Chương 8: Cái cửa-hàng-phía-sau-cửa-hàng, tiếp
    IV.
    Chương 9: Không gì là không thể
    Chương 10: Tên ngốc
    V.
    Chương 11: Con kênh đào của quý ông
    Chương 12: Điểm gặp gỡ

    Thông tin ngoài lề:
    Tiểu thuyết này được giới phê bình và độc giả đánh giá cao, được Amazon bình chọn là Cuốn sách của Năm 2013, lọt vào danh sách best-seller của tờ The New York Times suốt 39 tuần.

    Tờ New York Times đã nhận xét về cuốn tiểu thuyết như sau: "Cuốn tiểu thuyết chứa đựng tất cả tài năng kể truyện của Tartt trong một bản giao hưởng mê đắm sẽ khiến độc giả nhớ lại những đêm thức trắng để đọc sách".

    Được biết, Warner Bros đang tiến hành mua quyền sản xuất bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết này và đạo diễn Brett Ratner (phim Giờ cao điểm) sẽ đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất phim cùng với Brad Simpson và Nina Jacobson, nhà sản xuất từng đoạt giải BAFTA với phim The Hunger Games.

    *Cuốn này sách gốc dày 700 trang @@, nhưng mình sẽ cố gắng dịch chính xác và nhiệt tình nhất có thể để mọi người cùng thưởng thức sự cuốn hút của nó.
    Hiện bản pdf tiếng Anh đã có, mọi người có thể xem và góp ý vô tư nhé.
    Mong nhận được sự ủng hộ của cả nhà ạ!


     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 30/10/15
  2. song vang

    song vang Lớp 8

    Mình cũng từng nghía qua truyện này! Ủng hộ bạn! Vẫn chờ đợi bạn từ sau cuốn sách của anh dân chơi Barney! :)
     
  3. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Ôi bạn vẫn nhớ à :x. Cám ơn bạn lắm lắm ấy :))
     
  4. song vang

    song vang Lớp 8

    Làm sao quên được một cẩm nang ấn tượng như thế! Lúc buồn đời mình lại giở bản dịch của bạn ra đọc! Đọc xong lạc quan lên nhiều, giống như xem Friends vậy đó!
     
  5. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    I.


    Sự khác người không giải phóng ta; nó bó buộc ta.

    —ALBERT CAMUS​



    CHƯƠNG I
    CHÀNG TRAI VỚI CÁI ĐẦU LÂU

    i.
    KHI TÔI VẪN CÒN ở Amsterdam, lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi đã mơ thấy mẹ. Lúc đó, tôi đã bị cầm tù trong khách sạn hơn một tuần, quá sợ hãi để có thể gọi cho ai hay ra ngoài; tim tôi thì luôn dò dẫm và loạng choạng mỗi khi nghe thấy tiếng động dù là nhỏ nhất: tiếng chuông thang máy, tiếng lạch cạch của bánh xe đẩy, thậm chí là khi đồng hồ của nhà thờ điểm giờ, nhà thờ de Westertoren, nhà thờ Krijberg, với nét sắc lạnh cùng với thứ âm thanh chói tai, xen lẫn cảm giác bất hạnh trong những câu chuyện cổ tích. Mỗi ngày, tôi đều ngồi tựa vào chân giường, cố gắng tìm lời giải cho mẩu tin tức bằng tiếng Hà Lan trên ti vi (một hành động động vô ích, vì tôi chẳng biết chữ nào tiếng Hà Lan cả) và khi bỏ cuộc, tôi lại tới bên cửa sổ, ngắm nhìn con kênh đào trong khi phải trùm thêm lên mình chiếc áo khoác da lạc đà – vì tôi đã vội vã rời khỏi New York và những thứ tôi mang theo thì lại không đủ ấm, ngay cả khi đang ngồi trong nhà.

    Bên ngoài đang diễn ra đủ mọi hoạt động ăn mừng. Lúc đó đang là Giáng sinh, những ngọn đèn nhỏ đang nhấp nháy về đêm trên cây cầu gần con kênh đào; những cô gái với đôi má ửng hồng, những chiếc khăn len bay trong cơn gió buốt, đang náo nức ùa xuống phía bãi sỏi với những cành thông quẹt nhẹ lên phía sau xe đạp của họ. Vào buổi chiều, một ban nhạc không chuyên lại chơi những bài thánh ca của lễ Giáng sinh mà giai điệu thật mỏng manh và cứ thế bay mãi lên bầu trời.

    Những khay đồ ăn bừa bộn; quá nhiều xì gà; những chai vodka còn ấm từ cửa hàng miễn thuế. Trong suốt những ngày liên miên không nghỉ và cũng không mở miệng nói câu nào, tôi có dịp được khám phá mọi ngóc ngách của căn phòng như một người tù hiểu về cái xà lim của anh ta vậy. Đó là lần đầu tiên tôi tới Amsterdam; tôi hầu như chưa thấy được nét đặc biệt nào của thánh phố này cả nhưng bản thân căn phòng này, trong cái vẻ đẹp ảm đạm, trống trải, ít ánh sáng của nó, vẫn gợi nên một cảm giác sắc nét về vùng Bắc Âu, một mô hình nước Hà Lan thu nhỏ: màu sơn tường và nét tính cách chính trực của những người thuộc Đảng đối lập, hòa cùng những thứ nội thất thẫm màu được mua lại của thương nhân trên những con tàu từ phương Đông. Tôi thường dành một lượng thời gian nhiều đến mức vô lý để quan sát một đôi tranh sơn dầu nhỏ mạ vàng được treo trong phòng làm việc, một người nông dân đang trượt trên mặt hồ đã đóng băng, gần một nhà thờ, bức còn lại vẽ một con thuyền đang lướt nhanh trên đỉnh con sóng biển mùa đông: chỉ là những bản sao chép được tô điểm thêm, không có gì đặc biệt, mặc dù tôi đã được học về chúng như thể chúng nắm giữ chiếc chìa khóa dẫn tới những bí mật của các bậc thầy họa sĩ người Bỉ cổ xưa. Bên ngoài, cơn mưa tuyết vẫn vỗ nhẹ vào khung cửa sổ và phủ trắng con kênh; và mặc dù những tấm vải thêu kim tuyến trông rất lộng lẫy và thảm thì mềm mại, ánh sáng của mùa đông này vẫn mang một âm sắc se lạnh của năm 1943, sự riêng tư kín đáo và thuần khiết, như lúc bạn, mặc dù chỉ uống một tách trà nhẹ và vẫn đói, nhưng cũng phải lên giường đi ngủ.

    Mỗi sáng sớm khi trời còn nhá nhem, trước khi nhân viên bổ sung tới ca làm và hành lang khách sạn dần có người đi, tôi bắt đầu đi xuống nhận báo. Người làm ở khách sạn luôn di chuyển với giọng nói khẩn trương và những bước chân khẽ khàng, những cặp mắt trượt qua tôi đầy lãnh đạm như thể họ chẳng hề nhìn thấy tôi, một người đàn ông Mỹ ở độ tuổi 27 người mà không bao giờ đi xuống vào ban ngày; và tôi luôn cố gắng tự trấn an rằng người quản lý ca đêm (com lê tối màu, đầu húi cua, kính gọng tròn) chắc hẳn sẽ bất chấp tất cả để có thể tránh xa rắc rối hoặc một vụ lộn xộn.

    Tờ Herald Tribute không có tin tức nào về tình hình khó khăn của tôi nhưng câu chuyện đó thì lại có đầy trên mặt báo của Hà Lan, những cột chữ kín đặc tiếng nước ngoài, như muốn trêu ngươi vì tôi chưa bao giờ hiểu được nó. Onopgeloste . Onbekende . Tôi lên tầng và lại trèo lên giường (nằm phủ kín chăn vì căn phòng quá lạnh) và rải những tờ báo lên khắp tấm ga trải giường: hình những chiếc xe cảnh sát, những cảnh hiện trường, ngay cả lời chú thích dưới ảnh cũng rất khó để giải mã, mà mặc dù có vẻ như không có viết tên tôi nhưng cũng không có cách nào để biết liệu họ có đề cập tới tôi hay họ có đang giấu thông tin khỏi dư luận hay không. Căn phòng. Máy sưởi. Een Amerikaan met een strafblad . Dòng nước xanh màu oliu vẫn chảy bên con kênh đào.

    Vì tôi đang thấy lạnh và ốm, và hầu hết thời gian thì không biết làm gì (tôi đã quên bẵng việc phải mang một cuốn sách cũng như quần áo ấm), tôi nằm trên giường cả ngày. Buổi tối dường như đã đến vào khoảng giữa buổi chiều. Khi nằm giữa mớ giấy báo kia, tôi thường nửa tỉnh nửa mê, và hầu hết những giấc mở tôi có thì đều mụ mị, đầy sự lo lắng không có điểm dừng mà khi tôi thức tôi cũng hay cảm nhận thấy: những phiên hầu tòa, đống hành lý bị mở bung trên mặt đường bê tông còn đồ đạc của tôi thì vương vãi khắp nơi, rồi cả những hành lang sân bay dài vô tận nơi mà tôi cứ chạy mãi để bắt một chuyến bay mà mình không thể lên.

    Nhờ có trận cúm mà tôi đã có những giấc mơ sinh động lạ kỳ, ướt đẫm mồ hôi và không biết đâu là ngày đâu là đêm., nhưng vào cái đêm cuối cùng và cũng là đêm tồi tệ nhất, tôi đã mơ thấy mẹ: một giấc mơ chóng vánh và khó hiểu mà có vẻ giống sự ghé thăm của ai đó hơn. Tôi đã ở trong cửa hàng Hobie – hoặc chính xác hơn là ở trong một không gian mơ hồ có những đường nét giống với cái cửa hàng đó – khi mẹ đột ngột tới sau tôi và tôi có thể thấy hình ảnh phản chiếu của bà trong gương. Trước khuôn hình đó tôi như tê dại đi vì quá đỗi hạnh phúc; đó chính là bà, chi tiết tới từng đặc điểm nhỏ nhất, tới từng nốt tàn nhang, bà đang cười với tôi, thật xinh đẹp và chưa từng già đi, mái tóc đen, khuôn miệng cong đầy hài hước, đó không phải giấc mơ mà chính sự thực đang bao trùm cả căn phòng: một sức mạnh của riêng bà, một thế giới hoàn toàn khác biệt. Và mặc dù rất muốn, tôi vẫn biết rằng mình không thể quay lại nhìn, biết rằng nhìn bà bằng chính cặp mắt trần sẽ vi phạm luật lệ trong thế giới của bà cũng như thế giới mà tôi đang sống; mẹ đã tới bên tôi bằng cách duy nhất mẹ có thể làm, và đôi mắt chúng tôi gặp nhau trong gương suốt một khoảnh khắc dài tĩnh lặng; nhưng ngay khi bà định nói điều gì đó – một điều có vẻ như là sự kết hợp của cả niềm vui, tình yêu thương, sự giận dữ - thì một làn khói mỏng đột ngột bùng lên và tôi thức giấc.


    ii.
    MỌI THỨ SẼ TRỞ NÊN tốt hơn nếu mẹ còn sống. Mẹ mất khi tôi còn là một đứa trẻ; và mặc dù mọi việc xảy ra ngay sau đó hoàn toàn là lỗi của tôi, thì khi tôi mất bà khỏi vòng tay, tôi cũng mất luôn một bước ngoặt mà có thể đã dẫn tôi tới một nơi nào đó hạnh phúc hơn, một cuộc đời đủ đầy và êm đềm hơn.

    Sự ra đi của bà chính là dấu mốc phân chia cuộc đời tôi: Trước và Sau. Và mặc dù chẳng còn ích gì khi thừa nhận điều này sau từng ấy năm, nhưng tôi chưa từng gặp ai cho tôi cảm giác được yêu thương như mẹ. Khi tôi ở bên bà, mọi thứ bỗng trở nên sống động. Bà phủ lên bản thân mình thứ ánh đèn sân khấu màu nhiệm để khi nhìn bất cứ thứ gì qua cặp mắt ấy, chúng sẽ mang màu sắc tươi sáng hơn bình thường – tôi vẫn còn nhớ một vài tuần trước cái chết của bà, tôi đi ăn bữa ăn đêm cùng bà trong một nhà hàng Ý ở ngoại ô, và cách mà bà đột nhiên nắm nhẹ lấy tay tôi khi thấy chiếc bánh sinh nhật dễ thương với những ngọn nến lung linh đang được nhà bếp mang ra, quầng sáng yếu ớt cứ lập lòe in lên trần nhà tối đen và sau đó chiếc bánh được đặt xuống để có thể soi sáng cả gia đình, ban phước lành cho người phụ nữ, mọi người đều mỉm cười, người hầu bàn lùi ra sau với cánh tay chắp lại sau lưng – chỉ đơn thuần là một bữa tối sinh nhật mà bạn có thể gặp ở bất cứ nhà hàng trung lưu trong thành phố, và tôi chắc rằng tôi sẽ không nhớ nó rõ đến thế nếu bà không ra đi sớm như vậy, nhưng tôi đã liên tục mường tượng ra nó sau sự ra đi của bà và tôi sẽ còn nghĩ về nó cho tới hết cuộc đời mình: cái quầng sáng ấy, một khung cảnh đầy sống động của niềm hạnh phúc đời thường giản đơn đã không còn tồn tại kể từ khi tôi mất bà mãi mãi.

    Bà cũng rất xinh đẹp nữa. Cái đó chỉ đứng thứ hai; nhưng dù sao thì bà đúng là như vậy. Khi bà còn chân ướt chân ráo đi từ Kansas tới New York, bà đã làm người mẫu bán thời gian mặc dù đứng trước ống kính thì bà khá chật vật và không thể làm tốt; dù bà có sở hữu gì đi chăng nữa thì nó cũng không được đưa lên phim ảnh lần nào.

    Và bà luôn hoàn toàn là chính mình: một sự hiếm có khó tìm. Tôi không nhớ là mình đã từng gặp ai thực sự giống với bà. Bà có mái tóc đen, làn da sáng mềm mại luôn nổi tàn nhang vào mùa hè, đôi mắt xanh xám luôn tràn ngập ánh sáng trong đó; và đường cong của xương gò má thì là nét pha trộn khác người của một dòng dõi bộ lạc xưa với tộc người Celtic đến nỗi đôi khi người ta còn đoán rằng bà là người Iceland. Thực ra, bà có một nửa dòng máu là Ai-len, nửa kia là Cherokee, tới từ một thành phố của bang Kansas gần biên giới với Oklahoma; và bà luôn thích làm tôi cười bằng cách tự gọi mình là Okie mặc dù bà lúc nào trông cũng sáng sủa, mạnh mẽ và có phong cách, giống một chú ngựa đua vậy. Không may là nét cá tính đặc biệt ấy lại xuất hiện trong những bức ảnh một cách mờ nhạt và không thể tha thứ - những nốt tàn nhang đã bị che phủ bởi lớp trang điểm, mái tóc bà được cột thấp đằng sau cổ giống những quý tộc trong cuốn Câu chuyện của Genji – và thứ mà không thể truyền tải được chính là sự ấm áp, niềm phấn khởi, cái tính cách khó đoán, thứ mà tôi yêu nhất ở con người bà. Đã quá rõ ràng, từ nét tĩnh lặng bà thể hiện trong những bức hình, rằng bà không hề tin tưởng ống kính máy quay; bà luôn biểu lộ một cảm giác dè chừng, đề phòng bản thân bị tấn công. Nhưng trong đời thường thì bà không như vậy. Bà luôn đi lại vô cùng nhanh nhẹn, cử chỉ mạnh và dứt khoát, và luôn ngồi ở rìa ghế như những chú chim hồng tước kiêu sa sắp sửa cất cánh bay. Tôi thích mùi nước hoa cây đàn hương mà bà dùng, thật dữ dội và khó đoán, và tôi cũng thích cái tiếng sột soạt từ chiếc áo làm bằng vải cứng của bà mỗi khi bà nhào xuống hôn lên trán tôi. Và tiếng cười của bà thì đủ để khiến bạn muốn đá phăng mọi thứ mình đang làm và đi theo bà xuống phố. Bất cứ nơi nào bà tới, đàn ông đều phải ngắm nhìn đến hết tầm mắt của họ mới thôi, và đôi khi họ nhìn mẹ tôi theo cái cách khiến tôi có đôi chút khó chịu.

    Cái chết của bà là do tôi. Nhiều người khác đã hơi vội khi an ủi tôi rằng đó không phải lỗi của tôi; và đúng thế, chỉ một đưa trẻ mới tin rằng, tai nạn thảm khốc hay vận rủi có thể xảy đến với bất kỳ ai, tất cả đều đúng còn tôi thì chẳng tin một lời nào trong số đó.

    Mọi chuyện xảy ra ở New York, ngày 10 tháng 4, mười bốn năm trước. (Ngay cả tay tôi cũng chùn lại khi viết những con số này; tôi đã phải cố gắng đẩy ngòi bút di chuyển trên giấy để có thể viết được. Nó vốn là một ngày hoàn toàn bình thường nhưng giờ nó dính trên lịch như một cái đinh đã gỉ sét.)

    Nếu ngày đó trôi qua đúng như dự định thì nó sẽ phai nhòa vào bầu trời xanh, biến mất không một dấu vết trong suốt quãng thời gian học lớp tám còn lại của tôi. Liệu giờ tôi sẽ nhớ gì về nó? Hầu như không có gì. Nhưng tất nhiên khung cảnh sáng hôm đó hiện lên rõ ràng hơn hiện tại rất nhiều, mưa như trút nước còn không khí thì ẩm ướt. Trơi mưa từ buổi đêm hôm trước, một cơ bão ác liệt, cửa hàng thì ngập lụt và một vài ga tàu điện ngầm đã đóng cửa; còn hai chúng tôi thì đang đứng trên tấm thảm rúm ró bên ngoài tòa căn hộ trong khi người gác cổng thân thiết với bà, Goldie, người rất yêu mến bà, đang đi bộ ngược lại đường 57 với cánh tay giơ lên vẫy taxi. Những chiếc ô tô lao vút qua, bắn lên những tia nước bẩn thỉu; mây vần vũ trên nóc những tòa nhà chọc trời và thay thế cho những mảng trời xanh cuối cùng, và phía bên dưới, trên những con đường, lẫn trong làn khói xe, gió ẩm và mát như mùa xuân.

    “Ah, ông ta đã có khách rồi, thưa quý cô,” Goldie cố nói át tiếng ồn ào của xe cộ, bước ra khỏi làn đường khi một chiếc taxi rẽ nước đi qua góc phố và tắt đèn báo. Ông ta là người nhỏ nhất trong số những người gác cổng: một người đàn ông xanh xao, gầy gò, nhỏ bé nhưng vui tươi, một người Puerto Rico nhợt nhạt, một cựu vận động viên quyền anh hạng lông. Mặc dù mặt ông ta đã chảy ra vì uống nhiều rượu (đôi khi ông ta đi làm ca đêm mà người toàn mùi rượu J&B), ông ta vẫn rất cứng cáp và săn chắc và nhanh nhẹn – lúc nào cũng đi bông đùa khắp nơi, lúc nào cũng chui vào một góc hút thuốc trong giờ giải lao, chuyển từ chân nọ sang chân kia và thổi hơi ấm vào đôi bàn tay đeo găng trắng của mình mỗi khi trời lạnh, kể chuyện cười bằng tiếng Tây Ban Nha và trêu chọc những người gác cửa khác.

    “Sáng nay cô phải đi vội hay sao?” ông ta hỏi mẹ tôi. Bảng tên của ông ta ghi là BURT D. nhưng mọi người đều gọi ông ta là Goldie vì ông có vài chiếc răng vàng và bởi vì họ của ông ta, de Oro, nghĩa là “vàng” trong tiếng Tây Ban Nha.

    “Ồ không, còn nhiều thời gian, chúng tôi sẽ ổn thôi.” Nhưng trông bà thật mệt mỏi và tay bà thì run lên khi quàng lại khăn, cái mà cứ rung và vẫy lên theo từng đợt gió.

    Goldie chắc hẳn cũng tự mình trông thấy hình ảnh đó, vì ông ta nhìn qua tôi (đang đứng dựa vào lớp bê tông phía trước tòa nhà, không nhìn đâu khác ngoài mẹ mình) với một chút không đồng tình.

    “Cháu không bắt tàu hỏa à?” ông ta nói với tôi.

    “Oh, chúng tôi còn chút việc vặt phải làm,” mẹ tôi đáp, không thể hiện mấy sự tin tưởng, khi bà nhận ra là tôi đang không biết nói gì. Thông thường tôi không để ý nhiều tới trang phục của bà, nhưng những thứ đồ bà mặc hôm đó (áo choàng đi mưa màu trắng, khăn màu hồng phớt, giày đế xuồng hai màu đen trắng) lại in đậm trong tâm trí tôi tới mức giờ đây thật khó để tôi có thể nhớ hình ảnh của bà theo một cách khác.
    Lúc đó tôi mười ba tuổi. Tôi ghét việc phải nhớ lại hai mẹ con tôi đã ngại ngùng nhau như thế nào, nó đủ cứng nhắc để người gác cổng có thể nhận ra; tất cả những lúc khác chúng tôi đều trò chuyện sôi nổi nhưng buổi sáng hôm đó chúng tôi lại không có gì để nói cả vì tôi vừa mới bị đình chỉ học. Hôm trước họ mới gọi mẹ tôi tới văn phòng; bà đã về nhà trong sự im lặng và giận dữ; và điều tồi tệ là tôi lại không biết lí do vì sao mình lại bị đuổi học, mặc dù tôi chắc 75% rằng Thầy Beeman (trên đường từ văn phòng tới nhà ăn) đã chọn sai thời điểm để nhìn qua cửa sổ tầng hai và đã trông thấy tôi đang hút thuốc. (Hoặc khá hơn thì thầy đã thấy tôi đang đứng quanh chỗ Tom Cable trong khi đang hút thuốc, và với trường tôi thì đó cũng là một tội tương tự với hút thuốc.) Mẹ tôi ghét hành động hút thuốc. Cha mẹ của bà – mà tôi rất thích nghe chuyện về họ và họ đã qua đời một cách đáng tiếc trước khi tôi kịp hiểu về họ - là những người huấn luyện ngựa vô cùng niềm nở, những người đã đi du lịch khắp vùng miền tây và nuôi ngựa giống Morgan để kiếm sống: uống rượu cocktail, chơi bài canasta, tới trường đua ngựa Kentucky hàng năm và giữ xì gà trong những chiếc hộp bạc mạ bạc quanh nhà. Rồi một ngày nọ, bà tôi bắt đầu có những cơn co thắt và ho ra máu sau khi từ chuồng ngựa về; và trong suốt những năm tháng còn lại của thời niên thiếu, chỉ toàn là hình ảnh của bình oxy đặt ở hành lang và rèm phòng ngủ thì luôn luôn đóng kín mít.

    Nhưng – đúng như tôi lo sợ, mặc dù chẳng vì lí do gì – điếu xì gà của Tom chỉ là sự khởi đầu. Tôi đã gặp rắc rối ở trường từ trước đó. Mọi chuyện bắt đầu, chính xác hơn là lớn dần lên, khi cha tôi bỏ đi để lại hai mẹ con tôi một vài tháng trước đó; chúng tôi chưa từng thích ông, và mẹ con tôi nhìn chung thì hạnh phúc hơn khi không có ông, nhưng những người khác lại có vẻ khá sốc và buồn bã khi thấy ông ta bỏ rơi chúng tôi quá đột ngột (không tiền, không trợ cấp nuổi con, không địa chỉ), và giáo viên của trường tôi tại vùng Uper West Side thì thấy vô cùng xót xa, rất muốn thể hiện sự cảm thông và hỗ trợ tới nỗi học đã trao cho tôi – một học sinh nhận đã học bổng – mọi loại chiếu cố đặc biệt nhất và hạn nộp bài thì kéo dài hơn và cơ hội thứ hai, thứ ba: họ cứ ròng xuống cho tôi sợi dây thừng, trong suốt vài tháng, cho tới khi tôi có thể tự đưa mình xuống hố sâu.

    Thế nên hai chúng tôi – mẹ và tôi – đã bị gọi tới một cuộc họp hội đồng nhà trường. Buổi họp phải 11 rưỡi mới bắt đầu nhưng vì mẹ tôi đằng nào cũng phải nghỉ làm cả buổi sáng nên chúng tôi tới khu West Side sớm – để ăn sáng (và theo như tôi đoán, còn có cả một cuộc nói chuyện nghiêm túc nữa) và để mẹ tôi có thể mua quà sinh nhật cho một người đồng nghiệp. Bà đã thức tới tận 2 rưỡi đêm hôm trước, gương mặt bà căng thẳng dưới luồng sáng hắt ra từ máy tính, bà đang viết email và cố gắng làm bớt một phần công việc để sáng hôm sau có thể vắng mặt khỏi văn phòng.

    “Tôi không biết cô nghĩ thế nào,” Goldie đang trò chuyện với mẹ tôi, giọng điệu khá lạnh lùng, “nhưng tôi đã nói đủ về cái thời tiết mùa xuân ẩm ướt này rồi. Trời cứ mưa và mưa…” Ông khẽ run, kéo cổ áo gần lại và hướng mắt lên bầu trời.

    “Tôi nghĩ là chiều nay sẽ trời quang mây tạnh thôi.”

    “Yeah, tôi biết, nhưng giờ tôi đã sẵn sàng đón mùa hè rồi.” Ông cọ xát hai bàn tay. “Mọi người đang rời khỏi thành phố này, họ không thích nó, họ phàn nàn về cái nóng, nhưng tôi thì… tôi là một chú chim nhiệt đới. Trời càng nóng tôi càng thấy thoải mái. Hãy chờ xem!” Ông ta nhảy chân sáo trên đường. “Và… để tôi nói về thứ tôi thích nhất, đấy là sự yên tĩnh, khi tháng 7 tới…? Các tòa nhà trống trơn và như say ngủ, mọi người đều đi nghỉ xa, cô biết đấy?” Ông búng ngón tay cái tách, xe taxi thì cứ vụt qua. “Đó là kỳ nghỉ của tôi.”

    “Thế anh không chết cháy ở ngoài này hay sao?” Người cha vô tâm của tôi không thích đặc điểm này ở mẹ tôi – bà luôn có xu hướng tham gia vào cuộc hội thoại với hầu bàn, gác cổng và những ông già ốm yếu ở tiệm giặt khô. “Ý tôi là, vào mùa đông thì ít nhất ta có thể mặc thêm áo…”

    “Nghe này, thế cô có bao giờ gác cổng vào mùa đông không? Để tôi nói cho cô nghe, nó lạnh buốt. Tôi chẳng biết cô có bao nhiều áo và mũ. Cô đang đứng đây, vào tháng 1, tháng 2, và gió thì đang thổi vào từ phía những con sống đấy. Brrrr.”

    Bực bội gặm nhấm ngón tay mình, tôi nhìn chằm chằm vào những chiếc taxi lao vụt qua cánh tay còn đang giơ lên của Goldie. Tôi biết rằng đó sẽ là một cuộc chờ đợi dài dằng dặc cho tới cuộc họp vào 11 rưỡi; và tất cả những gì tôi có thể làm là đứng yên và đừng có đặt những câu hỏi chuốc họa vào thân. Tôi không hề biết là họ sẽ tra hỏi gì mẹ tôi và tôi một khi chúng tôi bước vào văn phòng. Cái cụm từ “hội đồng” gợi ra một sự kết hợp của quyền lực, những lời buộc tội, những cái cúi mặt, và có lẽ sẽ bị đuổi học. Nếu tôi mà mất học bổng này thì sẽ thực là thảm họa; chúng tôi đã rỗng túi kể từ khi cha tôi bỏ đi; chúng tôi gần như không có tiền thuê nhà. Trên hết: tôi lo đến phát ốm rằng, bằng cách nào đó, thầy Beeman đã phát hiện ra rằng Tom Cable và tôi đã từng đột nhập vào những căn nhà nghỉ dưỡng không người ở khi tôi tới Hamptons chơi với cậu ta. Tôi dùng từ “đột nhập” mặc dù chúng tôi chẳng phá cái khóa nào hay gây ra đổ vỡ gì (mẹ của Tom làm môi giới bất động sản; chúng tôi vào bằng chìa khóa dự phòng nẫng được từ giá sách trong văn phòng cô ấy). Chủ yếu là chúng tôi rình mò và lục lọi các ngăn tủ, nhưng chúng tôi cũng lấy đi vài thứ: bia trong tủ lạnh này, vài trò chơi Xbox và một đĩa DVD (Lý Liên Kiệt, phim Tháo xích) và chút tiền, tổng cộng khoảng 92 đô: nhặt nhạnh năm đô và mười đô trong một cái lọ ở nhà bếp, vài đống tiền lẻ trong phòng giặt ủi.

    Bất cứ khi nào tôi nghĩ về chuyện này là lại thấy nôn nao. Đã mấy tháng rồi kể từ khi tôi tới nhà Tom nhưng mặc dù tôi đã tự nói với bản thân là thầy Beeman sẽ không biết về chuyển chúng tôi vào những ngôi nhà đó – làm sao ông ấy biết được) – thì trí tưởng tượng của tôi vẫn đang bay lượn và chạy hoảng loạn theo một hình zích zắc. Tôi quyết định là sẽ không khai ra Tom (mặc dù tôi không chắc rằng nó có khai ra tôi hay không) nhưng việc đó sẽ khiến tôi lâm vào tình thế khó khăn. Mà làm sao tôi có thể ngu ngốc đến mức đó cơ chứ? Đột nhập là phạm tội; bao người đã phải vào tù vì nó. Đêm hôm trước tôi đã thức chong chong vài tiếng đồng hồ, lăn qua lăn lại và ngắm nhìn mưa đập vào cửa sổ theo từng đợt gió dông và tự hỏi mình sẽ nói gì đây nếu bị tra hỏi trực diện. Nhưng làm sao tôi có thể bào chữa cho mình trong khi tôi còn không biết là họ đã có những thông tin gì?

    Goldie để lộ một tiếng thở dài, buông thõng cánh tay xuống và bước trở lại nơi mẹ tôi đang đứng.

    “Thật tuyệt,” ông nói với mẹ tôi, với con mắt chán ngấy nhìn ra ngoài đường. “Chúng ta bị lũ lụt ở SoHo, cô đã nghe tin đó rồi đúng không, và Carlos đang nói rằng vài con phố đã bị chặn lại bởi Liên Hợp Quốc.”

    Cảm giác đầy tuyệt vọng, tôi ngắm nhìn đám đông công nhân đang ùa xuống khỏi một xe buýt đi quanh thành phố, mệt mỏi như một đàn ong bắp cày. Có thể chúng tôi sẽ có chút may mắn nếu đi thêm về hướng tây qua vài tòa nhà nữa nhưng tôi có đủ kinh nghiệm để biết rằng Goldie sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu chúng tôi tự đi một mình. Nhưng ngay sau đó, bất thình lình một chiếc taxi với đèn báo bật sáng đang trượt bánh qua đường, sang phía chúng tôi, hất văng lên đống nước toàn mùi rác thải.

    “Cẩn thận!” Goldie kêu lên, nhảy sang một bên khi chiếc taxi dừng hẳn – và rồi ông để ý mẹ tôi không mang theo ô. “Chờ đã,” ông nói, rồi đi vào trong phía hành lang, tới chỗ những chiếc ô bị quên hay thất lạc được để trong một cái thùng bằng đồng và để sử dụng lại khi nào trời mưa.

    “Đừng,” mẹ tôi gọi với theo, lục lọi trong túi để tìm chiếc ô gấp tí hon có hình viên kẹo và kẻ sọc, “đừng lo, Goldie, tôi đã có đủ…”

    Goldie nhảy phắt trở lại và đóng cánh cửa taxi phía sau mẹ tôi. Rồi ông đứng dựa vào đó và gõ tay lên tấm cửa kính.

    “Cô có một ngày may mắn đấy,” ông nói.


    iii.
    TÔI THÍCH COI MÌNH là một con người nhạy cảm (và tôi nghĩ chúng ta đều muốn thế) và trong việc giả quyết chuyện này, tội thật muốn vẽ một cái bóng đen thật to trên đầu mình. Tôi bỗng trở nên mù và điếc trước tương lai của chính mình; nỗi lo lắng duy nhất và cũng là ghê rợn nhất chính là buổi họp ở trường. Khi tôi gọi Tom để nói cho nó biết rằng tôi đã bị đình chỉ (thì thầm trên điện thoại vì mẹ tôi đã tịch thu di động của tôi) thì nó có vẻ chẳng lấy làm ngạc nhiên. “Nghe này,” nó ngắt lời tôi, “đừng có ngu thế, Theo, chẳng ai biết chuyện gì hết, mày chỉ việc câm cái miệng lại thôi”; và trước khi tôi kịp nói gì thì nó bồi thêm, “Xin lỗi, bây giờ tao phải đi,” rồi cúp máy.

    Ngồi trong xe taxi, tôi cố gắng hé cửa sổ ra để đón lấy ít gió: cũng chẳng ích gì. Cứ như là ai đó đã từng thay tã bẩn ở băng ghế sau hoặc họ đã mang theo một cục phân thật sự lên xe, và sau đó thì cố che đậy nó bằng một chai xịt hương dừa mà có mùi như là lô hội bị cháy nắng. Ghế ngồi thì trơn như dính mỡ, và vá chằng chịt bằng băng dính, còn giảm xóc thì như biến mất rồi. Mỗi khi xe đi vào ổ gà là răng tôi lại va vào nhau, và cái hình thù kì dị treo lủng lẳng ở kính chiếu hậu cũng thế: những tấm huy chương, một thanh kiếm tí hon được uốn cong đều nhảy múa theo cái sợi dây cao su, và tượng một vị thần Ấn Độ đội khăn, râu ria xồm xoàm luôn nhìn về phía ghế sau với cặp mắt hung tợn, cánh tay giơ lên như cầu khấn.

    Dọc theo Đại lộ Park, những hàng dài hoa tulip đang thu hút sự chú ý của mọi người khi chúng tôi lướt qua. Như một điệu nhạc Bollywood – được vặn xuống thành một tiếng kêu chỉ còn trong tiềm thức – cứ xoắn lại và sáng lên một cách đầy thôi miên, ngay ở ngưỡng cảm nhận của tôi. Lá cây cũng đang trổ ra. Những nhân viên chuyển hàng đang đẩy những xe chất đầy hàng hóa; những cô nàng công sở đi giày cao gót đang lao xuống đường, dắt theo đằng sau một đứa nhỏ đầy vẻ miễn cưỡng, một người công nhân mặc đồng phục đang dùng gậy để cạo những miếng bụi bẩn từ máng nước vào xẻng rác; luật sư và những nhà môi giới chứng khóan vừa co mình vừa nhíu mày khi nhìn lên bầu trời. Khi chúng tôi lên tới đại lộ (mẹ tôi trông thật khổ sở khi phải nắm lấy tay vịn để có thể ngồi vững) tôi ngắm nhìn qua cửa sổ những khuôn mặt như thể họ đang mắc chứng khó tiêu vậy (những người có dáng vẻ lo âu bên dưới lớp áo mưa, lê những bưới chân ảm đạm trên đường, những người đang uống cà phê từ những chiếc cốc giấy và nói chuyện điện thoại và ngó sang hai bên đầy lén lút) và cố gắng không nghĩ về những vận rủi sẽ có thể đổ lên đầu mình: một vài cái trong số đó là trại giáo dưỡng tuổi vị thành niên, hoặc đi tù.

    Chiếc taxi đột ngột đổi lái, rẽ vào Đường 86. Mẹ trượt về phía tôi và nắm chặt cánh tay tôi; và tôi có thể thấy bà lạnh và nhợt nhạt như một con cá tuyết.

    “Mẹ say xe hả mẹ?” tôi hỏi, tự quên mất những vấn đề của riêng mình. Bà đã để lộ những biểu hiện khó chịu mà không khó để tôi nhận ra: môi bà mím chặt lại, vầng trán đang lấm tấm mồ hôi và đôi mắt bà thì mở to, đong đầy nước.

    Bà bắt đầu nói chút gì đó – và rồi lấy tay chụp lên miệng khi chiếc xe xóc bật lên lúc dừng đèn đỏ, khiến chúng tôi lao ra phía trước và phía sau, đập lại vào ghế.

    “Mẹ chờ chút.” tôi nói với bà, và rồi rướn ra phía trước để gõ vào tấm kính ngăn trơn tuột, để gọi người lái xe (một người Sikh quấn khăn).

    “Nghe này,” tôi gọi ông ta qua tấm lưới, “thế này được rồi, chúng tôi xuống ở đây, ok?”

    Người đàn ông Sikh – phản chiếu qua kính hậu – nhìn chằm chằm vào tôi một lúc. “Cậu muốn xuống đây.”

    “Vâng, đúng vậy.”

    “Nhưng đây không phải địa chỉ mà cậu đưa tôi.”

    “Tôi biết. Nhưng thế này là được rồi.” tôi nói, quay lại nhìn mẹ tôi – lớp kẻ mắt đã trôi mất, trông bà thật khô héo, bà đang lục trong túi tìm chiếc ví.

    “Cô ấy ổn chứ?” người lái xe hỏi đầy ngờ vực.

    “Vâng vâng, mẹ tôi ổn. Chúng tôi chỉ cần xuống đây thôi, cảm ơn ông.”

    Với bàn tay run run, ,mẹ tôi lôi ra một nhúm những tờ đô ẩm ẩm và nhét chúng qua tấm lưới ngăn. Khi người đàn ông Sikh đưa tay qua và nắm lấy chúng (một cách cam chịu, gương mặt quay đi) tôi bèn trèo ra ngoài trước, mở cửa cho mẹ tôi.

    Mẹ tôi hơi loạng choạng khi cố bước lên vủa hè, và tôi đỡ lấy cánh tay bà. “Mẹ không sao chứ?” tôi rụt rè hỏi bà khi chiếc xe lại lao đi. Chúng tôi đang ở trên Đại lộ 5, gần khu biệt thự quay mặt ra công viên.

    Bà hít một hơi sâu, rồi dùng tay quệt qua hàng lông mày rồi nắm chặt tay tôi. “Phù,” bà thở hắt, khẽ lấy tay quạt. Vầng trán bà vẫn hơi ướt và cặp mắt vẫn có chút chưa tập trung; bà có cái vẻ của một chú hải âu bị gió thôi bay chệch khỏi đường. “Xin lỗi con, mẹ vẫn hơi choáng váng. Ơn Chúa là chúng ta đã thoát khỏi chiếc xe đó. Mẹ sẽ ổn thôi, chỉ cần có chút không khí.”

    Mọi người đang ùa tới phía chúng tôi ở cái góc phố lộng gió này: những nữ sinh trong bộ đồng phục, đang cười lớn và chạy nhảy xung quanh; những bảo mẫu đi cùng những chiếc xe đẩy với hai, ba đứa trẻ trong đó. Một người cha có dáng vẻ luật sư lướt qua trước mặt chúng tôi, kéo tay đứa con trai nhỏ ở phía sau. “Không, Braden,” tôi nghe thấy ông nói với đứa nhỏ, nó đang cố đi khẩn trương để bắt kịp, “con không nên nghĩ thế, điều quan trọng là con được làm công việc mình thích…”

    Chúng tôi bước sang một bên để tránh đống bọt xà phòng mà một người gác cổng đang đổ ra ngay phía trước toàn nhà ông ta làm.

    “Nói mẹ nghe,” mẹ tôi nói – dần lấy lại bình tĩnh – “có phải là do mẹ, hay do cái xe đó cực kỳ là…”

    “Bẩn thỉu? Mùi Hawaii Nhiệt Đới cộng thêm phân trẻ em?”

    “Thực sự thì…” bà lại lấy tay quạt phía trước mặt – “sẽ không sao nếu không có kiểu dừng và đi như thế. Mẹ đã rất khỏe và rồi đột nhiên cảm thấy gì đó.”

    “Thế sao mẹ không hỏi xem liệu mẹ ngồi ghế trước có được không?”

    “Con nói giống bố con thật đấy.”

    Tôi quay đi, cảm thấy thật xấu hổ - vì tôi cũng từng nghe giọng điệu đó, cái giọng gì-tôi-cũng-biết ấy. “Vậy ta hãy đi tới Đại lộ Madison và tìm nơi nào đó để mẹ có thể ngồi xuống,” tôi nói. Tôi đang đói muốn chết và ở đó có một hàng ăn tôi rất thích.

    Nhưng – với một cái rùng mình, một cơn buồn nôn có thể nhìn thấy rõ – bà lắc đầu. “Không khí.” Bà lau đi những vệt mascara bên dưới mắt. “Không khí ở đây rất thoải mái.”

    “Chắc chắn rồi,” tôi đáp, hơi vội vàng, vì tôi đang thấy bồn chồn nên không thể nói năng bình thường. “Thế nào cũng được.”

    Tôi thì đang cố tỏ ra đồng tình nhưng mẹ tôi – đang nôn nao và bất thường – đã chú ý đến giọng điệu của tôi. Bà nhìn thẳng vào mặt tôi và cố tìm xem tôi đang nghĩ cái gì. (Đây cũng lại là một thói quen xấu mà chúng tôi đã hình thành, nhờ những năm tháng sống cùng cha tôi: cố gắng đọc suy nghĩ của người khác.)

    “Sao vậy?” mẹ tôi hỏi. “Còn có nơi nào con muốn đi sao?”

    “Um, không, không hẳn vậy,” tôi đáp, lùi lại một bước và nhìn quanh đầy lo lắng; mặc dù đói nhưng tôi đang ở trong tình thế không được đòi hỏi bất cứ điều gì.

    “Mẹ sẽ ổn mà. Chờ mẹ một lúc nữa thôi.”

    “Hay là…” mẹ tôi đang chớp mắt khó hiểu, bà thích gì nhỉ, thứ gì sẽ làm bà hài lòng nhỉ - “ hay chúng ta tới công viên đi mẹ?”

    Cái gật đầu của bà làm tôi thở phào. “Vậy thì được rồi,” bà nói, theo cái cách mà bà hay nhại giọng Mary Poppins, “nhưng chỉ đến khi mẹ thấy khỏe lại thôi nhé,” và chúng tôi bắt đầu bước về hướng Đường 79: đi qua những hiệu cây cảnh nghệ thuật, những cánh cửa sắt nặng trịch. Ánh sáng đã chuyển sang màu xám xịt và khí lạnh thì mù mịt như là hơi nước từ ấm đun vậy. Bên kia con đường, những người nghệ sĩ đã bắt đầu dựng đồ nghề của họ, tháo những chiếc túi vải, bắt đầu vẽ nên những phiên bản màu nước của nhà thờ Thánh Patrick và cầu Brooklyn.

    Chúng tôi đi bên nhau mà không nói gì. Tâm trí tôi đang bận xoay mòng mòng quanh vấn đề của riêng tôi (liệu bố mẹ Tom đã nhận được cú điện thoại nào chưa? Tại sao tôi lại không hỏi nó nhỉ?) cũng như việc tôi sẽ gọi món ăn sáng gì ngay khi tôi tới cửa hàng yêu thích của mình (trứng ốp lết kiểu phía Tây với khoai chiên, bên cạnh miếng thịt xông khói; mẹ tôi thì sẽ luôn ăn thứ mà bà vẫn ăn, bánh mỳ lúa mạch đen với trứng luộc và một tách cà phê đen) và tôi gần như không để ý xem chúng tôi đang đi đâu cho tới khi tôi nhận ra là bà vừa nói gì đó. Bà không nhìn tôi mà đang hướng tầm mắt ra phía công viên; và biểu hiện của bà làm tôi nhớ tới một bộ phim nổi tiếng của Pháp. Tôi không biết tên phim, nhưng trong đó có những con người đang bị phân tâm sang chuyện khác trong khi họ đang bước trên một con đường lộng gió và nói rất nhiều nhưng có vẻ như không phải đang nói với nhau vậy.

    “Mẹ vừa nói gì cơ?” tôi hỏi, sau vài khoảnh khắc lúng túng, tôi đã chạy nhanh hơn để bắt kịp bà. “Cố gắng nhiều hơn để…”

    Bà có vẻ ngjac nhiên, như thể bà đã quên mất là có tôi ở đó. Chiếc áo khoác trắng – bay phấp phới trong gió – đã thêm vào cặp chân dài của mẹ tôi một nét mảnh mai kiêu sa, như thể bà sẽ giang rộng đôi cánh và bay về phía công viên kia.

    “Cố gắng gì cơ?”

    “Oh.” Khuôn mặt bà chợt vô hồn và ngay sau đó bà lắc đầu và cười theo cái cách sắc sảo và tươi trẻ của riêng mình. “Không. Cái mẹ nói là xuyên thời gian cơ.”

    Mặc dù đó là một điều lạ lùng để nói ra nhưng tôi biết mình hiểu mẹ có ý gì, hay nghĩ gì – cái rùng mình của sự chia cách, những giây phút đi trên con đường hiện ra như một cái nấc nhẹ của khoảng thời gian đã mất đi, hay những khung hình đã từng trông thấy từ một bộ phim.

    “Không, không, cún con, chỉ là khu xung quanh đây có vẻ như vậy thôi.” Bà xoa đầu tôi, làm tôi cười theo cái cách không cân bằng cho lắm, một nửa là xấu hổ: cún con là tên hồi nhỏ của tôi, giờ tôi không thích cả nó lẫn cái kiểu xoa đầu, nhưng dù cho tôi thấy thật ngốc, tôi vẫn vui vì mẹ tôi đã có tâm trạng tốt hơn. “Nó luôn luôn hiện lên ở chỗ này. Bất cứ khi nào mẹ lên tới đây là mẹ lại thấy như trở lại tuổi mười tám và vừa xuống khỏi xe buýt thôi.”

    “Ở đây sao?” tôi hỏi đầy ngờ vực, để bà nắm tay tôi, một việc mà bình thường tôi vốn không làm. “Thật kì cục.” Tôi biết về những ngày tháng khi xưa lúc bà mới ở Manhattan, cách cả một con đường dài tới Đại lộ 5 – bà sống trên Đại lộ B, trong một phòng trọ bên trên một quán bar, nơi mà ăn mày thì ngủ trên bậc thềm và những trận ẩu đả trong quá thì đổ hết ra đường và một bà già điên tên Mo thì giữ trái phép mười hai con mèo trong một căn phòng ở tầng trên cùng.

    Mẹ tôi nhún vai. “Đúng vậy đấy, nhưng phải ở đây thì mẹ mới thấy mọi thứ vẫn như ngày đầu tiên mẹ thấy chúng. Như một đường ống thời gian ấy. Ở khu Lower East - ừm, con biết quang cảnh ở đó rồi đấy, luôn luôn có thứ gì đó mới mẻ xuất hiện, nhưng với mẹ thì nó giống cảm giác kiểu Rip van Winkle hơn, luôn là cái gì đó rất xa xôi, xa mãi. Một ngày khi mẹ tỉnh dậy thì họ đã tới và sắp xếp lại tất cả các cửa hiệu trong đêm rồi. Những nhà hàng cũ kĩ đã sập tiệm, một vài quán bar thời thượng thì lại ở chỗ mà những tiệm giặt ủi khi xưa từng ở…”

    Tôi vẫn giữ sự im lặng đầy trân trọng. Những câu chuyện về thời gian dạo gần đây đã soán hết tâm trí của mẹ tôi, có lẽ là vì sinh nhật bà đang tới gần. Mẹ đã quá già cho cái thói quen này rồi, bà nói câu này một vài ngày trước khi hai chúng tôi xô đẩy nhau trong lúc lục lọi dưới đệm ghế sofa và trong tất cả các túi để tìm đủ tiền trả cho người chuyển phát nhanh.

    Bà đút tay sâu vào túi áo. “Ở đây, mọi thứ ổn định hơn,” bà nói. Cho dù giọng bà vẫn rất nhẹ nhàng nhưng tôi có thể thấy được làn sương mù trong đôi mắt ấy; rõ ràng là bà thiếu ngủ, nhờ có tôi. “Công viên này là một trong số ít những nơi mà con vẫn có thể thấy được hình ảnh của thành phố những năm 1890. Công viên Gramercy cũng vậy, và công viên The Village nữa. Lần đầu mẹ tôi New York, mẹ đã từng nghĩ khu này chính là hình cảnh của Edith Wharton và cuốn Franny and Zooey và phim Breakfast at Tiffany’s hòa vào làm một.”

    Franny and Zooey là về khu phía Tây mà mẹ.”

    “Đúng, nhưng lúc đó mẹ còn quá ngốc để biết điều đó. Tất cả những gì mẹ có thể nói, là, ở đây khá khác với khu Low East, những kẻ vô gia cư đốt lửa lên trong các thùng rác. Ở đây vào mỗi cuối tuần thật là kỳ diệu – đi thăm thú các bảo tàng – một mình thơ thẩn quanh công viên Trung Tâm…”

    “Thơ thẩn?” Hầu hết những lời mẹ nói nghe thật lạ tai, và thơ thẩn nghe cứ như một cụm từ để nói về ngựa khi mẹ tôi còn bé: có thể giống một kiểu phi nước đại lười biếng, một dáng đi của ngựa giữa đi chậm và đi nước kiệu.

    “Oh, con biết đấy, như kiểu hay chạy nhảy lung tung mà mẹ vẫn làm thôi. Không có tiền, tất thì thủng lỗ chỗ, sống nhờ vào bột lúa mạch. Tin hay không tùy con nhưng mẹ đã từng hay đi bộ tới đây vào cuối tuần. Mẹ phải tiết kiệm tiền tàu cho chuyến đi về. Đó là khi mà người ta vẫn dùng vé thay vì thẻ. Và mặc dù bạn phải trả tiền mới được vào thăm bảo tàng ư? Cái gọi là “đề nghĩ được ủng hộ” ư? Mẹ đoán là khi ấy mẹ phải có nhiều động lực hơn bây giờ nhiều, hoặc có lẽ họ thương hại mẹ vì… Ôi không,” bà nói, đột ngột đổi giọng, khiến tôi phải bước lại về phía bà.

    “Chuyện gì vậy mẹ?” Tôi quay lại.

    “Mẹ cảm thấy thứ có thứ gì đó.” Bà buông thõng tay và nhìn lên trời. “Con có thấy gì không?”

    Và ngay khi bà nói điều đó thì ánh sáng như đồng loạt bị dập tắt. Trời tối lại rất nhanh, cứ từng giây một lại xầm xì hơn; gió đã lùa vào tán cây xào xạc và những chiếc lá non trở nên thật mỏng manh và vàng úa trước những luồng gió xám đen.

    “Jeez, con biết không,” mẹ tôi nói. “Trời sắp mưa to đấy.” Tôi đứng trên phố mà nhìn về hướng bắc: không có cái taxi nào.

    Tôi lại nắm lấy tay bà. “Đi thôi mẹ,” tôi gọi, “chúng ta sẽ may mắn hơn nếu sang bên kia đường.”

    Chúng tôi bồn chồn chờ cho đèn Cấm Sang Đường hết nhấp nháy. Vài tờ giấy đang xoáy tròn trong không khí và lao xuống đường. “Kìa mẹ, có một chiếc taxi,” tôi kêu lên, nhìn về phía Đường 5; và ngay sau đó thì một người doanh nhân đang chạy trên vỉa hè với cánh tay giơ lên, và đèn báo taxi vụt tắt.

    Bên kia đường, những người nghệ sĩ đang vội lấy nilon che lại những bức tranh của họ. Người bán cà phê dạo cũng đang kéo bạt phủ lên chiếc xe đẩy. Chúng tôi chạy nhanh qua đường và ngay khi tới nơi thì một hạt mưa lớn đã rơi vào cằm tôi. Những chấm tròn nâu – thưa thớt, to bằng đồng xu – bắn đầu xuất hiện trên vỉa hè.

    “Ôi, khốn thật!” mẹ tôi đã rơm rớm nước mắt. Bà lục lọi trong túi để tìm chiếc ô – cái ô khó mà đủ cho một người, nói gì hai.

    Và rồi mưa trút xuống. làn mưa bị gió thổi đi trên đường, những cơn giông liên tục xoáy vào ngọn cây và thổi phần phật vào các mái hiên bên kia đường. Mẹ tôi đang cố làm cho cái ô khó chịu kia bật lên, nhưng không thành công. Mọi người trên phố và trong công viên đang dùng báo và cặp để che đầu, leo nhanh lên những bậc thang dẫn tới thềm bảo tàng, nơi duy nhất trên phố để có thể trú mưa. Và có một điều gì đó vui vẻ và hứng khởi về chúng tôi đối với cả thế giới, khi chúng tôi vội vã chạy qua các bậc thang, bên dưới chiếc ô kẻ sọc hình in hình kẹo, nhanh nhanh nhanh, như thể đang cố trốn khỏi thứ gì đó tồi tệ thay vì chạy thẳng vào nó.
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/10/14
  6. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    iv.

    BA SỰ KIỆN QUAN TRỌNG ĐÃ xảy đến với mẹ tôi sau khi bà tới New York trên chuyến xe buýt từ Kansas, không bạn bè và rõ ràng là không xu dính túi. Sự kiện đầu tiên là khi một công ty tổ chức sự kiện có tên là Davy Jo Pickering trông thấy mẹ tôi đang phục vụ bàn trong một quán cà phê ở khu The Village: một cô thiếu niên gầy ốm mặc đồ của Doc Marten và của những cửa hàng giảm giá, với bím tóc sau lưng dài đến nỗi cô ấy có thể ngồi lên nó được. Khi mẹ tôi mang cà phê tới, ông ta đã đưa mẹ tôi bảy trăm đô rồi sau đó là một nghìn đô để thế chỗ một cô gái không xuất hiện trong buổi chụp hình catalo đang diễn ra bên kia phố. Ông ta chỉ vào chiếc xe tải chở đồ, máy móc đang được xếp đặt ở công viên Quảng Trường Sheridan; ông ta đã thanh toán hóa đơn và đặt nó trên quầy. “Chờ tôi mười phút,” mẹ tôi nói; bà đi phục vụ nốt các suất ăn sáng đã gọi, rồi treo tạp dề lên và bước ra ngoài.

    “Tôi chỉ là một người mẫu theo kiểu đưa thư mà thôi,” mẹ luôn gặp khó khăn trong việc giải thích cho mọi người – ý bà muốn nói rằng bà chưa từng lên tạp chí hay show diễn thời trang, chỉ là những số báo nhỏ của các chuỗi cửa hàng, hay là sự thế chỗ rẻ tiền cho những người mẫu thiếu niên ở Missouri và Montana. Thi thoảng thì nó cũng vui, bà nói, nhưng hầu hết thời gian là không phải vậy: mặc đồ bơi vào tháng một, run lên vì cảm lạnh; mặc vải tuýt và len giữa cái nóng mùa hè, ngột ngạt trong bối cảnh giả lá mùa thu trong khi một cái quạt lớn liên tục thổi khí nóng tới và một anh chàng làm trang điểm luôn phải chen vào giữa để thấm mồ hôi trên mặt mình.

    Nhưng trong suốt những năm tháng phải đi loanh quanh giả vờ như đang học đại học – xuất hiện theo nhóm hai, ba người ở những khu ký túc xá với vài cuốn sách ôm trước ngực – thì cuối cùng mẹ tôi đã có thể tự kiếm đủ tiền để đưa mình đi học đại học thực sự: ngành lịch sử nghệ thuật tại trường đại học New York. Mẹ tôi chưa từng được thấy tận mắt một bức tranh có giá trị cho tới khi bà mười tám tuổi và đặt chân tới New York, và bà rất háo hức được bù đắp những khoảng thời gian phí phạm trước kia – “hạnh phúc thuần khiết, thiên đường hoàn hảo,” mẹ tôi nói trong khi đang bê một chồng sách cao đến tận cổ và mải miết xem lại những bài giảng cũ rích (về Manet, Vuillard) cho tới khi mắt không còn nhìn rõ cái gì nữa. (“Thật là điên rồ,” bà nói, “nhưng mẹ sẽ vô cùng mãn nguyện nếu suốt quãng đời còn lại được ngồi ngắm đi ngắm lại những bức tranh này. Mẹ cũng không nghĩ được cách nào tốt hơn thế để có thể hóa điên.”)

    Trường đại học chính là điều quan trọng thứ hai đã đến với mẹ khi ở New York – đối với bà thì có lẽ là điều tuyệt vời nhất. Và nếu không vì điều thứ ba (gặp và lấy cha tôi – không may mắn như hai điều trước) thì chắc chắn là bà đã hoàn thành bằng Thạc sĩ và chuẩn bị tiến tới học Tiến sĩ. Bất cứ khi nào mẹ tôi có vài giờ đồng hồ rảnh là bà luôn tới bảo tàng Frick, bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, hoặc bảo tàng Metropolitan – đó là lí do tại sao, khi chúng tôi đứng dưới mái che đang nhỏ giọt của bảo tàng, ngắm nhìn Đại lộ Năm mờ ảo và làn mưa trắng xóa trên phố, tôi không ngạc nhiên lắm khi mẹ tôi giũ chiếc ô và nói:”Có lẽ chúng ta nên vào trong và ngắm nghía một chút cho đến khi tạnh mưa.”

    “Ừm…” Cái tôi muốn là bữa sáng cơ. “Chắc chắn là được rồi mẹ.”

    Mẹ tôi nhìn đồng hồ. “Đằng nào thì chúng ta cũng không thể bắt được taxi trong hoàn cảnh này.”

    Bà nói đúng. Nhưng dù gì thì tôi vẫn đang đói. Khi nào thì chúng ta đi ăn vậy mẹ? Tôi nghĩ mà khó chịu, đành đi theo mẹ lên cầu thang. Theo những gì tôi biết thì mẹ tôi sau khi họp xong sẽ rất giận và sẽ không đưa tôi đi ăn trưa nữa, tôi sẽ phải về nhà ăn một bát ngũ cốc hoặc thứ gì đó.

    Thế những bảo tàng thì luôn mang không khí của kỳ nghỉ lễ; và một khi chúng tôi bước vào nơi tràn ngập những âm thanh huyên náo của khách du lịch, tôi bỗng thấy thật xa lạ với bất cứ thứ gì có bên trong. Đại sảnh thì ồn ào và đầy mùi áo khoác ẩm. Một đám đông chen chúc những người châu Á trung tuổi đi qua theo sự chỉ dẫn cụ thể của người nữ hướng dẫn viên; đám Nữ Hướng Đạo Sinh thì lộn xộn kéo nhau qua quầy kiểm tra áo; gần bàn thông tin là một hàng dài những thiếu sinh quân trong bộ đồng phục màu xám, buông mũ và chắp hai tay sau lưng.

    Đối với tôi – một đứa trẻ thành thị luôn bị bó buộc bởi bốn bức tường – thì bảo tàng hấp dẫn chủ yếu là vì không gian rộng lớn của nó, một cung điện có các căn phòng kéo dài vô tận và bạn đi càng sâu thì càng vắng người. Một vài phòng ngủ và phòng vẽ tranh theo phong cách Trang Trí Châu Âu bị bỏ quên lại mang một sự mê hoặc sâu xa, như thể hàng trăm năm rồi chưa có ai đặt chân tới vậy. Kể từ khi tôi có thể tự bắt tàu, tôi vẫn thích tới đó một mình và loanh quanh cho tới khi lạc đường, càng ngày càng đi sâu vào mê cung của những phòng trưng bày cho tới khi tôi thấy mình đang ở giữa một căn phòng đầy áo giáp và đồ làm bằng sứ mà tôi chưa thấy bao giờ (và thường thì tôi cũng không bao giờ gặp lại chúng lần nữa).

    Khi đang đứng sau lưng mẹ ở nơi đăng ký, tôi ngửa đầu ra sau và nhìn chằm chằm vào trần nhà hình vòm sâu hoắm cách mặt đất hai tầng nhà: nếu tôi nhìn đủ lâu, đôi khi tôi sẽ có cảm giác như mình đang bay lên đó như một sợi lông vũ, một trò vui từ thời thơ ấu mà đã phai nhạt đi khi tôi dần lớn lên.

    Trong khi đó mẹ tôi – mũi đỏ ửng và khó thở sau khi chạy dưới mưa – đang cố túm lấy cái ví. “Có thể khi chúng ta xong việc, mẹ sẽ ghé qua chỗ bán đồ lưu niệm,” bà đang nói với tôi. “Mẹ chắc rằng Mathilde sẽ thích một cuốn sách về nghệ thuật nhưng cô ấy khó có thể nhận xét về nó mà không nói gì đó ngốc nghếch,”

    “Trời,” tôi thốt lên. “Quà cho cô Mathilde hả mẹ?” Cô Mathilde là giám đốc nghệ thuật của công ty quảng cáo mà mẹ tôi đang làm; cô ấy là con gái của một thương gia nhập khẩu vải vóc người Pháp, cô ấy trẻ hơn mẹ tôi và nổi tiếng là rắc rối, cô thường hay nổi điên nếu dịch vụ sửa chữa ô tô không được đúng ý mình.

    “Đúng vậy.” Không nói thêm gì, mẹ đưa tôi một thỏi kẹo cao su, tôi cầm lấy, rồi để phần còn lại vào túi của mẹ. “Ý mẹ là, đó là thứ mà Mathilde rất để ý. Một món quà được chọn kĩ lưỡng nhưng không quá đắt, chủ yếu là lớp giấy gói quà rẻ mà hoàn hảo được mua từ chợ trời. Sẽ thật tuyệt vời nếu chúng ta đều có thời gian xuống phố và dạo quanh chợ trời. Năm ngoái lúc Pru tới đó…? Cô ấy đã hoảng loạn và phi vào hiệu Saks giữa giờ ăn trưa chỉ để tiêu năm mươi đô vào cái thứ mà họ đưa cô ấy, kính râm, hiệu Tom Ford thì phải, và Mathilde vẫn cứ buông lời chê bai về người Mỹ và thói quen tiêu dùng của họ. Pru đâu phải người Mỹ, cô ấy là người Úc mà.”

    “Mẹ đã bàn với Sergio chưa?” tôi hỏi. Sergio – hiếm khi ở văn phòng mà thường xuất hiện trên các trang mạng xã hội với những người như Donatella Versace – là một triệu phú sở hữu công ty mẹ tôi đang làm; “bàn chuyện với Sergio” cũng tương đương với việc hỏi: “Trong trường hợp này thì Chúa sẽ làm gì?”

    “Sergio thì gợi ý về cuốn sách về nghệ thuật của Helmut Newton hoặc một cuốn sách ảnh mà Madonna đã xuất bản hồi trước.”

    Tôi định hỏi xem Helmut Newton là ai, nhưng rồi có một ý hay hơn. “Sao mẹ không cho cô ấy một cái thẻ tàu điện ngầm?”

    Mẹ tôi đảo mắt. “Tin mẹ đi, mẹ nên làm vậy thật đấy.” Dạo này cả chỗ làm cứ nhộn nhạo hết cả lên vì ô tô của Mathilde bị kẹt tắc đường, khiến cô ấy bị đưa đến tận Williamsburg.

    “Như là… giấu tên ấy mẹ ạ. Để một chiếc lên bàn cô ấy, một cái thẻ cũ mà không còn tiền. Để xem cô ấy sẽ làm gì.”

    “Mẹ có thể nói cho con biết cô ấy sẽ làm gì đấy,” mẹ tôi đáp, trong khi đưa thẻ qua cửa sổ quầy vé. “Sa thải trợ lý của cô ấy và có lẽ thêm phân nửa số người bên bộ phận Sản Xuất nữa.”

    Công ty quảng cáo của mẹ tôi chuyên làm về phụ kiện thời trang nữ. Suốt cả ngày, dưới cái nhìn soi xét khắt khe và đôi chút xấu xa của Mathilde, mẹ tôi phải giám sát những buổi chụp hình với những đôi hoa tai tỏa sáng lấp lánh giữa lớp tuyết giả, những cái túi da cá sấu – để không ở ghế sau những chiếc limousine bỏ quên – trở nên rực rỡ dưới quầng sáng đèn trùm. Bà làm rất tốt công việc được giao; bà thích làm việc phía hậu trường hơn là trước ống kính; và tôi biết bà cảm thấy rất phấn khởi khi thấy thành quả của mình trên những tấm áp phích dưới ga tàu điện ngầm hoặc trên những bảng điện tử ở Quảng trường Thời Đại. Nhưng mặc dù có được vẻ hào nhoáng lấp lánh từ công việc này (những bữa sáng với sâm banh, những chiếc túi xách hiệu Bergdolf) thì những giờ làm việc vẫn dài lê thê và có một lỗ hổng sâu bên trong đó – mà tôi biết – làm bà thấy không vui. Điều mà mẹ tôi thực sự muốn là được quay trở lại trường, mặc dù chúng tôi đều biết hiển nhiên việc đó là không thể khi cha tôi đã bỏ đi.

    “Được rồi,” bà nói, quay lại từ phía quầy vé và đưa tôi tấm thẻ tên, “giúp mẹ xem thời gian nhé? Đây là một buổi trưng bày rất lớn” – bà chỉ tôi xem tấm áp phích, TRANH CHÂN DUNG VÀ PHONG CẢNH TĨNH: NHỮNG KIỆT TÁC PHÍA BẮC THỜI KÌ HOÀNG KIM – “chúng ta không thể xem hết trong lần này, nhưng có một vài thứ…”

    Giọng bà nhỏ dần khi tôi cố theo sau bà trên lối cầu thang lớn – tôi đang lưỡng lự giữa việc cần phải theo sát mẹ và ước muốn được tụt lại vài bước phía sau và vờ như không đi cùng bà.

    “Mẹ không thích phải vội vàng thế này,” bà nói khi tôi đang bắt kịp từng bước cuối cùng, “nhưng vì đằng nào đây cũng là một show trưng bày mà chúng ta phải tới hai, ba lần. Có bức Bài học giải phẫu, và chúng ta phải xem nó, nhưng cái mẹ thực sự muốn ngắm nhìn là một kiệt tác nhỏ và hiếm được vẽ bởi thầy giáo của Vermeer. Người thầy giáo vĩ đại nhất mà con chưa từng nghe tới. Những bức tranh của Frans Hals cũng là một phần đáng chú ý. Con biết Hals chứ, đúng không? Bức Người say tượu vui vẻ? Các bức chân dung những nghị sĩ ở Almshouse ấy?”

    “À đúng rồi,” tôi đáp lại một cách đầy tập trung. Trong số các bức tranh mà bà đề cập thì tôi chỉ biết mỗi Bài học giải phẫu. Một vài nét trong đó được dùng trên tấm áp phích của buổi trưng bày: da thịt bầm tím, những vệt đánh bóng đen ngòm, các bác sĩ phẫu thuật thì có vẻ đang say rượu với cặp mắt đỏ ngầu và chiếc mũi cũng ửng đỏ lên.

    “Nghệ thuật cơ bản,” mẹ tôi nói. “Rẽ trái ở đây.”

    Càng đi lên trên tôi càng thấy lạnh, tóc tôi thì vẫn ướt nước mưa. “Không, không, đường này,” mẹ tôi chữa lại, kéo tay tôi đi. Buổi trưng bày rất khó tìm, và trong khi chúng tôi đi qua bao cuộc triển lãmbận rộn (đi vào rồi lại đi ra khỏi đám đông, rẽ phải, rẽ trái, quay đầu lại đi qua một mê cung các biển báo và sơ đồ) thì những bản chép tranh xám xịt của bức Bài học giải phẫu đột nhiên hiện ra, và thật tình cờ, lại là hình ảnh của cái xác người và cái bàn tay trần trụi đó, với mũi tên đỏ bên dưới: nhà hát trưng bày, theo lối này.

    Tôi không thích thú lắm khi mường tượng buổi triển lãm sẽ có một số người Hà Lan đứng xung quanh chúng tôi trong bộ đồ tối màu, và khi chúng tôi đẩy cửa kính bước vào – từ khu đại sảnh vang vọng vào trong căn phòng lát thảm nhung yên tĩnh – lúc đầu tôi đã nghĩ là chúng tôi vào nhầm chỗ.Các bức tường tỏa ra thứ ánh sáng ấm áp mờ ảo của sự sang trọng, cái dịu êm từ thời xa xưa; nhưng thoắt cái chúng lại vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ là màu sắc, là ánh sáng trong trẻo từ phương Bắc, những bức chân dung, đồ nội thất, những bức tranh cảnh vật tĩnh, một vài bức nhỏ, nhiều bức khác thì vĩ đại: những quý bà bên chồng, quý bà với chú chó nhỏ trên đùi, những cô gái đẹp lẻ loi dưới lớp màn che mặt lộng lẫy, những thương nhân ngồi một mình giữa đống châu báu và áo lông thú. Những bàn tiệc đến hồi kết thúc đầy những trái táo đã gọt và vỏ hạt đậu phộng; những tấm thảm phủ bạc; những thân cây với côn trùng đang bò trên đó cùng các loại hoa có sọc vằn. Và chúng tôi càng vào sâu thì những tác phẩm càng trở nên ấn tượng hơn. Những trái chanh đã được gọt, còn lớp vỏ trên rìa con dao thì đã hơi cứng lại, lớp đánh bóng xanh thẫm để ám chỉ một chút mốc trên vỏ chanh. Hoặc bức vẽ ánh sáng xuyên qua rìa một ly rượu chỉ còn phân nửa.

    “Mẹ cũng thích bức này nữa,” bà thì thầm, bước lên trên để đứng bên cạnh tôi trước một bức tĩnh vật nhỏ nhắn nhưng đầy ám ảnh: một chú bướm trắng nổi bật trên nền đen, đang bay phía trên vài thứ quả màu đỏ. Nền tranh – một màu socola đậm đà – mang vẻ ấm áp gợi về những phòng tranh đông đúc và về cả lịch sử, về khoảng thời gian đã trôi qua.

    “Họ thực sự biết cách làm việc với những đường viền này, những họa sĩ người Hà Lan ấy – sự chín muồi đã chuyển thành thối rữa. Trái cây được vẽ rất hoàn hảo nhưng chúng sẽ không tồn tại lâu, chúng sắp sửa ra đi. Và đặc biệt là chỗ này,” mẹ tôi nói, với tay qua vai tôi để vẽ một đường trong không khí, “chỗ này… con bướm ấy.” Phần dưới cánh bướm quả thực như được phớt một lớp bụi mỏng như thể màu sẽ nhạt mất nếu mẹ tôi chạm vào đó. “Cách ông ấy phô diễn thật không tưởng. Tĩnh mà vẫn có cái rung của chuyển động.”

    “Ông ấy mất bao lâu để hoàn thành nó hả mẹ?”

    Mẹ tôi, người mà nãy giờ đứng hơi gần, thì đã lùi lại để thể hiện sự tôn trọng với bức tranh – không hề biết tới người bảo vệ đang nhai kẹo cao su mà bà đã gây sự chú ý, người mà đang nhìn chằm chằm vào sau lưng bà.

    “Ừm, người Hà Lan đã phát mình ra kính hiển vi,” bà giải thích. “Họ là thợ kim hoàn, thợ mài kính. Họ muốn chúng phải tinh xảo nhất có thể vì ngay cả thứ nhỏ nhất cũng mang một ý nghĩa gì đó. Bất cứ khi nào mà con thấy có những chú ruồi hay những con côn trùng trong tranh tĩnh vật – một cánh hoa khô héo, một chấm đen trên trái táo – là lúc người họa sĩ đang gửi tới con một thông điệp bí mật. Ông ấy muốn nói rằng những vật thể sống thì không lâu dài – tất cả chỉ là tạm thời. Cái chết luôn tồn tại bên trong sự sống. Đó là lí do vì sao tranh tĩnh vật còn được gọi là cảnh chết. Có thể lúc đầu, giữa tất cả những cái đẹp đẽ và tràn đầy sức sống, con chưa thể nhìn thấy cái chết chóc ngay lập tức. Nhưng nếu con quan sát gần hơn thì nó vẫn luôn ở đó.”

    Tôi cúi xuống đọc dòng ghi chú được in cẩn thận trên tường, nó nói cho tôi về tác giả bức tranh – Adriaen Coorten, ngày sinh của ông và ngày mất chưa xác định – người mà không được biết tới nhiều lắm và tác phẩm cũng không được ghi nhận cho tới những năm 1950. “Mẹ này,” tôi gọi, “Mẹ đã xem cái này chưa?”

    Nhưng bà đã bước đi tiếp. Các căn phòng khá lạnh và yên tĩnh, trần nhà thấp và không có chút nào những âm thanh vang vọng của sảnh lớn. Mặc dù buổi triển lãm này cũng khá đông nhưng nó vẫn mang cái vẻ nghiêm trang và quanh co nhịp nhàng của một con sông, một sự yên lặng như được hút chân không: chỉ còn những hơi thở dài và những cái hít vào trầm trồ giống như một căn phòng đầy những học sinh đang làm bài thi vậy. Tôi từng bước theo sau mẹ khi bà đi theo hướng zích zắc từ bức tranh này sang bức tranh khác, nhanh hơn những khi bình thường bà hay tham dự triển lãm, từ tranh vẽ hoa tới vẽ những cuộc chơi bài tới vẽ quả, bỏ qua khá nhiều bức (hoặc bức tranh sẽ như một cái bình bằng bạc hoặc sẽ chỉ như một con gà chết) và đi tiếp mà không chút lưỡng lự (“Giờ là Hals. Đôi khi ông ta khá là không hợp thời với những cơn say mèm và gái điếm nhưng một khi ông quyết làm là ông sẽ làm được. Bỏ qua hết mọi kiểu tỉ mỉ và chính xác, ông vẽ bằng cách đổ các lớp màu lên nhau, slash slash, mọi thứ phải thật nhanh. Khuôn mặt và bàn tay – được thực hiện rất hoàn hảo, ông biết mọi con mắt sẽ chú ý vào đó nhưng hãy nhìn vào trang phục – thật lỏng lẻo – gần như chỉ được phác họa. Hãy nhìn xem, cái cách dùng bút lông này thật cởi mở và hiện đại!”). Chúng tôi bỏ ra một khoảng thời gian đứng trước một bức chân dung của Hals vẽ một chàng trai đang cầm một chiếc đầu lâu (“Đừng giận nhé Theo, nhưng con nghĩ là chàng trai này giống ai? Một ai đó nhỉ” – rồi bà nắm lấy phần tóc sau gáy của tôi – “người mà cần phải đi cắt tóc ấy?”) – và hai bức chân dung lớn vẽ cảnh các quý tộc đang ăn tiệc, những bức vẽ mà theo mẹ tôi nói là có ảnh hưởng rất lớn đến RembrandtVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. (“Van Gogh cũng rất yêu quý Hals. Ở đâu đó ông đã viết về Hals và ông nói: Frans Hals có không ít hơn hai mươi chín sắc thái của chỉ một màu đen! Hay hai mươi bảy nhỉ?) Tôi bước theo mẹ với cảm giác mơ hồ về quá khứ, cảm thấy dần thích thú với sự giảng giải của bà, và quả thực bà không để ý gì đến thời gian hiện tại. Có vẻ như nửa tiếng của chúng tôi đã sắp hết; nhưng tôi vẫn muốn làm mẹ tôi xao nhãng đi, với cái hi vọng trẻ con rằng thời gian sẽ vụt trôi và chúng tôi sẽ cùng lỡ buổi họp.

    “Giờ tới Rembrandt,” mẹ tôi nói. “Mọi người thường nói bức tranh này nói về lý trí và sự khai sáng, bước đầu tiên của sự tìm tòi khoa học, tất cả những thứ đó, nhưng mẹ thì thấy thật ghê rợn cái cách mà họ tỏ ra lịch sự và trịnh trọng, vây quanh cái tấm ván bệnh nhân nằm như vây quanh bàn ăn buffet trong một bữa tiệc cocktail. Mặc dù…” bà chỉ - “con nhìn thấy hai anh chàng khó hiểu ở phía sau không? Họ không nhìn vào cái cơ thể người – họ đang nhìn chính chúng ta. Nhìn con và mẹ. Như thể họ có thể thấy chúng ta đang đứng đây, ngay trước mặt họ - hai kẻ tới từ tương lai. Đang sửng sốt. ‘Các người đang làm gì ở đấy?’ Rất tự nhiên. Nhưng rồi” – bà dùng ngón tay chỉ theo nét vẽ cái xác người và dừng lại ở giữa không trung – “cái cơ thể này lại không được vẽ theo bất cứ một sự tự nhiên nào, nếu con nhìn vào nó. Có một thứ quầng sáng lạ lùng tỏa ra từ nó, con thấy không? Gần giống như đang khám nghiệm tử thi một người ngoài hành tinh vậy. Con có thấy cách mà nó thắp sáng cả khuôn mặt của người đàn ông đang nhìn xuống nó không? Như thể nó đang sáng lên bằng chính nguồn sáng của nó? Ông ấy vẽ theo kiểu tia phóng xạ là vì ông muốn chúng ta chú ý vào đó – khiến nó nhảy bổ vào chúng ta. Và ở đây” – bà chỉ vào cánh tay bị lột da – “con thấy cái cách mà ông gây sự chú ý tới nó bằng việc vẽ nó thật to không, vượt khỏi tỉ lệ với toàn bộ cơ thể? Ông ấy thậm chí còn quay bàn tay lại để ngón cái ở nhầm bên, con thấy không? Vậy đấy, ông ta không tình cờ vẽ nó. Tay đã bị lột da – chúng ta có thể thấy nó ngay lập tức, có thứ gì không ổn – nhưng bằng việc lật ngược ngón cái như vậy, ông ta khiến mọi chuyện còn không ổn hơn nữa, nó tự động đi vào tiềm thức mà không cần chúng ta phải chạm tay vào, có thứ gì đó ở sai vị trí, có thứ gì đó không đúng. Thật là một thủ thuật thông minh.” Chúng tôi đang đứng sau một đám đông các du khách châu Á, quá nhiều cái đầu nhô lên để tôi có thể nhìn thấy bức tranh, nhưng rồi tôi đã lại không quan tâm tới việc đó vì tôi đã trông thấy cô gái này.

    Cô bé cũng đã nhìn thấy tôi. Chúng tôi đã nhìn nhau từ lúc còn đang lướt qua một số cuộc triển lãm khác. Tôi không chắc là có gì thú vị ở cô bé này, vì cô bé ít tuổi hơn tôi và trông có chút lạ lùng – không giống chút nào với kiểu bạn gái mà tôi thích, những cô nàng xinh xắn lạnh lùng có cái nhìn khinh người và hay cặp với các cậu chàng cao lớn. Cô bé này có mái tóc đỏ; cử động của cô rất nhanh, khuôn mặt sắc cạnh, nghịch ngợm và khác biệt, và đôi mắt cô mang một màu hiếm có, màu nâu mật ánh vàng. Và mặc dù cô bé quá gầy, chỉ toàn thấy xương, và hầu như là giản dị, thì vẫn có thứ gì đó khiến bụng tôi cồn cào. Cô bé đeo lủng lẳng chiếc cặp đựng cây sáo bên mình – một đứa trẻ thành phố chăng? Đang trên đường đến lớp học nhạc? Cũng có thể không, tôi nghĩ, khẽ đi phía sau cô khi tôi theo mẹ sang một phòng trưng bày khác; trang phục của cô quá ư phẳng phiu và thị thành; có lẽ là một khách du lịch. Nhưng cô bé đi lại rất tự tin, hơn hầu hết những đứa con gái mà tôi biết; và cái liếc kín đáo, điềm tĩnh mà cô bé trao cho tôi khi cô bước qua đã khiến tôi phát điên.

    Tôi đang đi theo sau mẹ, chỉ dành một nửa sự chú ý tới những điều bà nói, khi bà dừng bước trước một bức tranh đột ngột đến mức tôi suýt đâm sầm vào bà.

    “Oh, tôi xin lỗi…!” bà nói mà không nhìn vào tôi, khẽ lùi lại để nhường chỗ. Gương mặt bà giờ như thể có ai đã soi tới đó một nguồn sáng.

    “Đây chính là bức tranh mà mẹ đã đề cập tới,” bà nói. “Nó đáng kinh ngạc đấy chứ?”

    Tôi quay đầu qua hướng mẹ nhìn, với một thái độ lắng nghe đầy quan tâm, trong khi mắt tôi vẫn liếc về phía cô bé kia. Cô bé đi cùng một nhân vật đã già, mái tóc đã bạc và trông vẻ ngoài khá vui nhộn mà tôi đoán từ nét sắc cạnh của khuôn mặt khá gióng với cô bé rằng đó là người ông của cô: chiếc áo dạ ca rô kiểu houndstooth, đôi giày buộc dây lên cao và nó bóng loáng như thủy tinh. Hai mắt ông khá gần nhau và mũi ông thì nhọn giống mỏ một chú chim; ông có bước đi khập khễnh – thực ra, cả cơ thể ông nghiêng về một bên vì một bên vai cao hơn bên còn lại; và nếu cái lưng của ông được gọi tên đúng cách thì bạn có thể nói ông bị gù. Nhưng xét cho cùng thì vẫn có nét gì đó rất tao nhã ở ông. Và rõ ràng là ông rất yêu quý cô cháu gái từ sự vui vẻ hòa nhã trong mỗi bước ông khập khiễng đi bên cô bé, đặt chân thật cẩn thận, đầu luôn hướng về nơi cô bé nhìn.

    “Đây đơn giản chính là bức tranh đầu tiên mà mẹ thực sự say mê,” mẹ tôi đang kể. “Con không tin nổi đâu, nó đã xuất hiện trong cuốn sách mà mẹ thường mượn từ thư viện khi còn nhỏ. Mẹ thường ngồi trên sàn nhà, tựa vào giường và ngắm nhìn nó hàng giờ liền, vô cùng thích thú – anh chàng nhỏ bé đó! Và, ý mẹ là, thật tuyệt khi chúng ta có thể học được rất nhiều về một bức tranh sau khi dành nhiều thời gian với một bản vẽ lại của nó, thậm chí là một bản không hoàn hảo cho lắm. Mẹ bắt đầu thấy thân thiết với chú chim này, như là cách mọi người yêu thú cưng của mình hay một vật gì đó vậy, rồi cuối cùng là thích luôn cả cách mà người họa sĩ vẽ nên nó.” Mẹ tôi mỉm cười. “Bức Bài học giải phẫu thực ra cũng ở trong cùng cuốn sách đó, nhưng nó làm mẹ dựng tóc gáy. Mẹ thường gập ngay cuốn sách lại nếu tình cờ mở đúng trang đó đấy.”

    Cô gái và ông già đã đi tới bên chúng tôi. Một cách lúng túng, tôi quay ra đằng trước và ngắm nhìn bức tranh. Nó là một bức vẽ nhỏ, nhỏ nhất trong cả buổi triển lãm, và cũng là bức đơn giản nhất: một chú chim sẻ cánh vàng, nổi lên trên phông nền màu xám, cổ chân đã bị xích vào cái cành cây nhỏ.

    “Ông là học trò của Rembrandt, thầy của Vermeer,” mẹ chú thích. “Và bức tranh nhỏ nhắn này thực sự là phần kết nối còn thiếu giữa hai người họ - cái chất ánh sáng trong vắt ấy, con có thể thấy Vermeer học từ ai rồi đấy. Tất nhiên, lúc còn nhỏ thì mẹ không biết và cũng không quan tâm tới điều ấy, cái ý nghĩa lịch sử của tác phẩm. Nhưng nó đã ở đó.”

    Tôi khẽ lùi lại để ngắm nhìn kĩ hơn. Nó chỉ là một sinh vật đời thường trần trụi mà không có lấy một nét ủy mị; và có thứ gì đó về sự gọn gàng, chặt chẽ mà chú chim này đã dồn lại bên trong bản thân nó – ánh sáng và sự biểu lộ đầy cảnh giác – khiến tôi nhớ lại những bức ảnh thời thơ ấu của mẹ mà tôi từng xem: một chú chim sẻ tối màu với cặp mắt kiên định.

    “Đó là một thảm họa nổi tiếng trong lịch sử Hà Lan,” mẹ nói. “Phần lớn thành phố đã bị phá hủy.”

    “Gì cơ hả mẹ?”

    “Thảm họa ở Delft. Nó đã giết chết Fabritius. Con có nghe thấy người thầy giáo ở đó đang nói về nó cho lũ trẻ nghe không?”

    Tôi có nghe thấy. Đã có một bộ ba bức tranh vẽ những khung cảnh hết sức rùng rợn, bởi người họa sĩ có tên là Egbert van der Poel, để thể hiện những góc nhìn khác nhau về cùng một vùng đất hoang tàn giữa ngọn lửa âm ỉ: những ngôi nhà bị thiêu trụi, một cối xay gió với cánh quạt đã nát bươm, quạ từng đàn quay tròn trên bầu trời. Một phụ nữ ăn mặc chỉnh tề đang giải thích rành rọt cho một nhóm trẻ trung học rằng một nhà máy thuốc súng đã phát nổ ở Delft vào những năm 1600, rằng người họa sĩ này đã bị ám ảnh sâu sắc bởi sự sụp đổ của thành phố đến nỗi ông chỉ biết vẽ đi vẽ lại nó.

    “Ừm, Egbert là hàng xóm của Fabritius, và ông ta gần như mất trí sau vụ nổ đó, ít nhất là mẹ thấy vậy, nhưng Fabritius đã chết và căn phòng ông sống cũng bị phá hủy. Cùng với hầu hết các tác phẩm của ông, ngoại trừ bức này.” Mẹ tôi có vẻ như đang chờ tôi nói điều gì đó, nhưng khi tôi vẫn im lặng thì bà lại tiếp tục: “Ông là một trong những họa sĩ tài năng nhất trong thời đại của mình, một trong những thời đại hoàng kim nhất của hội họa. Thực sự rất nổi tiếng khi đương thời. Dù vậy thì cũng thật đáng buồn, vì chỉ khoảng năm hoặc sáu bức tranh là còn tồn tại, trong số tất cả các tác phẩm. Phần còn lại đều đã ra đi – mọi thứ mà ông đã sáng tạo nên.”

    Cô bé gái cùng người ông của mình đã nhẹ nhàng tới bên cạnh chúng tôi, lắng nghe từng lời mẹ tôi nói, và tôi thấy hơi xấu hổ một chút. Tôi liếc qua hướng khác và rồi – không cưỡng được – lại quay qua nhìn. Họ đang đứng rất gần, gần đến nỗi tôi có thể với tay và chạm vào họ. Cô bé đang vỗ vỗ và kéo nhẹ tay áo của ông, ôm lấy cánh tay ông để thì thầm điều gì đó.

    “Dù sao thì, nếu ai đó hỏi mẹ,” mẹ tôi vẫn đang nói, “thì đây chính là tác phẩm đặc biệt nhất trong cả buổi trưng bày hôm nay. Fabritius đã thể hiện được một cách rõ ràng thứ mà ông đã tự mình tìm tòi ra, thứ mà không có họa sĩ nào trên thế giới biết trước đó – kể cả Rembrandt.”

    Rất khẽ - khẽ đến nỗi mà tôi gần như không nghe thấy – tôi nhận ra cô bé đang thì thầm: “Vậy nó phải sống cả cuộc đời như thế ư?”

    Tôi cũng tự hỏi mình điều tương tư; cái cẳng chân nó đã bị xích, sợi dây xích thật tồi tệ; ông cô bé có khẽ đáp lại nhưng mẹ tôi (người mà dường như hoàn toàn không biết về sự có mặt của họ, mặc dù họ đứng ngay cạnh) đã lùi lại và nói: “Thật là một bức tranh bí ẩn, quá đỗi đơn giản. Thật mỏng manh – như muốn mời gọi con tới gần hơn, con biết đấy? Tất cả những thể loại tranh như gà chết ở đằng kia còn ở đây lại là thứ sinh vật đầy sống động này.”

    Tôi cho phép mình được nhìn lén lút theo hướng của cô bé. Cô đang đứng trên một chân, hông vẹo sang một bên. Thế rồi – bất chợt – cô bé quay lại và nhìn thẳng vào mắt tôi; một khoảnh khắc bối rối tưởng như ngừng thở, tôi vội quay đi thật nhanh.

    Tên cô bé là gì nhỉ? Sao cô bé không đi học? Tôi căng mắt ra để nhìn dòng tên nguệch ngoạc trên chiếc cặp đựng cây sáo nhưng ngay cả khi tôi đã rướn người hết cỡ, tôi vẫn không đọc được những nét bút dạ vừa đậm vừa nhọn, chúng giống như được vẽ lên chứ không phải viết, như những hình được phun sơn lên các toa tàu điện ngầm vậy. Họ của cô bé rất ngắn, chỉ bốn hoặc năm chữ cái; chữ đầu tiên có vẻ giống chữ R, hay nó là chữ P nhỉ?

    “Ai thì cũng phải chết đi, chắc chắn là như vậy,” mẹ tôi nói. “Nhưng cái cách chúng ta đánh mất mọi thứ thật đau lòng và vô ích. Chỉ vì sự vô tâm. Hỏa hoạn, chiến tranh. Đền Patheon giờ chỉ còn là kho chứa vũ khí. Tôi đoán rằng mọi thứ chúng ta cứu vớt được từ lịch sử thì đều đã là một phép màu.”

    Ông cụ già thì đã đi dần ra chỗ những bức tranh gần đó, nhưng cô ấy thì vẫn tha thẩn phía sau, cô bé đó, và cứ liên tục dành những cái nhìn về phía tôi. Làn da thật đẹp: màu trắng sữa, cánh tay cô bé thì như đá cẩm thạch tạc nên. Rõ ràng là cô bé có dáng vẻ rất thể thao, mặc dù cũng hơi nhợt nhạt để có thể chơi tennis; có lẽ cô bé học múa ba lê hoặc là vận động viên thể dục dụng cụ hoặc thậm chí là học viên môn lặn, luôn tập luyện trong những hồ bơi trong nhà ít ánh sáng, một tiếng ùm trong yên lặng, bộ đồ bơi màu đen lấp lánh, bọt nước tuôn trào từ cái cơ thể bé nhỏ, rắn chắc của cô bé.

    Tại sao tôi lại cứ bị ám ảnh vởi mọi người như thế này? Có phải là điều bình thường không khi tôi cứ suy nghĩ mãi về những người lạ theo một cách thật sinh động và kích thích? Tôi không nghĩ thế. Thật khó để tưởng tượng rằng một người đi trên đường bất kỳ lại có thể khơi gợi nhiều sự thích thú trong tôi đến thế. Và đó chính là lí do thực sự khi tôi bước vào những căn nhà đó với Tom: tôi thấy hứng thú với những người lạ, tôi muốn biết họ ăn loại thực phẩm nào và những món gì được làm từ chúng, tôi muốn biết họ xem phim gì và nghe loại nhạc nào, muốn ngó dưới gầm giường và trong những ngăn tủ bí mật của họ cũng như dưới bàn ăn và trong túi áo khoác. Tôi thường thấy những người có dáng vẻ bắt mắt trên phố và nghĩ về họ không ngừng trong mấy ngày sau đó, tưởng tượng về cuộc sống của họ, bịa nên các câu chuyện về họ khi tôi đang trên tàu điện hoặc chuyến xe buýt xuyên thành phố. Vài năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể ngừng nghĩ về những đứa trẻ tóc đen trong bộ đồng phục trường theo đạo thiên chúa – anh trai và em gái – mà tôi đã trông thấy ở nhà ga Trung tâm, gần như đang cố kéo cha chúng ra khỏi một quán rượu. Và tôi cũng không thể quên được một cô gái Ấn Độ yếu đuối trên chiếc xe lăn ngay trước cửa khách sạn Carlyle, đang nói tiếng Tây Ban Nha không ngừng với chú chó lông xù trong lòng, trong khi một người đeo kính đen sắc lạnh (là cha? vệ sĩ?) đứng phía sau cô, rõ ràng là đang bàn chuyện kinh doanh gì đó trên điện thoại. Vài năm rồi, tôi vẫn giữ trong tâm trí những con người không hề quen biết, tự hỏi họ là ai và cuộc sống của họ như thế nào, và tôi biết rằng mình sẽ đi về nhà và lại tự hỏi bản thân những câu tương tự về cô bé này cùng người ông của cô. Ông cụ già là người có tiền; bạn có thể thấy qua cách ông ăn mặc. Tại sao lại chỉ có hai người họ? Họ tới từ đâu? Có thể họ là người trong một đại gia đình phức tạp ở New York – những con người đi theo nghệ thuật hàn lâm, một trong những gia đình sống ở khu Tây mà bạn có thể thấy ở những buổi diễn ở Columbia hoặc ở Trung tâm nghệ thuật Lincoln. Hoặc, có thể - từ hình ảnh giản dị ấm áp ông thể hiện – ông không phải là ông của cô bé đó. Có thể ông là một giáo viên dạy nhạc, và cô bé chính là một thiên tài chơi sáo mà ông đã phát hiện được ở một thị trấn nhỏ và đưa đi trình diễn ở Carnegie Hall…

    “Theo?” mẹ tôi gọi giật. “Con có nghe thấy mẹ nói gì không?”

    Giọng bà đưa tôi trở lại với bản thân mình. Chúng tôi đã ở phòng cuối cùng của buổi trưng bày. Xung quanh là những quầy hàng bán đồ lưu niệm – bưu thiếp, thẻ đăng kí, những bọc lấp lánh các cuốn sách về nghệ thuật – và mẹ tôi, thật không may, đã không mất kiểm soát về thời gian.

    “Chúng ta nên xem xem trời có còn mưa không,” mẹ tôi nhắc. “Chúng ta vẫn còn một chút thời gian” – (bà nhìn đồng hồ rồi liếc về phía biển báo lối ra) – “nhưng mẹ nghĩ mẹ nên xuống tầng dưới nếu mẹ muốn mua thứ gì đó cho Mathilde.”

    Tôi để ý thấy cô bé kia rất chú ý quan sát mẹ tôi khi bà nói chuyện – cặp mắt trượt qua lại một cách tò mò lên phần tóc đuôi ngựa mượt mà của mẹ tôi, lên chiếc áo khoác trắng được thắt lại ở phía eo của bà – và nó khiến tôi khẽ xúc động khi nhìn bà theo cái cách mà cô bé nhìn, với tâm thế của một người hoàn toàn xa lạ. Liệu cô bé có thấy cái gờ nhỏ trên đỉnh mũi của bà không, khi mà bà làm gãy mũi lúc trèo cây khi bé? hay cách mà cái quầng đen bao quanh con ngươi xanh thẫm mang tới cho bà một nét hoang dại, như một loài thú săn mồi có cặp mắt vững vàng đang đứng một mình trên đồng cỏ?

    “Con biết đấy…” mẹ tôi ngoái đầu nhìn qua vai – “nếu con thấy ổn thì mẹ sẽ chỉ quay lại một chút và ngắm nhanh lần nữa bức Bài học giải phẫu trước khi chúng ta ra về. Mẹ chưa có cơ hội ngắm nó thật gần và mẹ sợ là sẽ không thể làm vậy một khi nó bị gỡ xuống.” Bà bắt đầu bước đi, chiếc giày gõ xuống nền nhà thật bận rộn – và rồi bà quay lại nhìn tôi như muốn nói: con có đi không?

    Việc này bất ngờ đến nỗi trong một phần của giây tôi không biết nói gì. “Um,” tôi đáp, cố che đậy. “Con sẽ gặp mẹ ở quầy bán hàng.”

    “Được rồi,” bà nói. “Mua cho mẹ một cặp bưu thiếp nhé? mẹ sẽ quay lại ngay.”

    Và thế là bà vội vã cất bước, trước khi tôi kịp nói thêm điều gì. Trái tim đập rộn, không tin vào vận may của mình, tôi nhìn mẹ bước đi thật nhanh trong chiếc áo khoác trắng bằng vải sa tanh. Chính là bây giờ, cơ hội để tôi nói chuyện với cô bé đó; nhưng tôi có thể nói gì với cô ấy đây, tôi nghĩ rất hăng, tôi có thể nói gì? Tôi đút tay vào túi áo, thở một hai lần để giữ bình tĩnh, và – với sự hồi hộp đang sủi bọt trong dạ dày – tôi quay qua đối mặt với cô bé.

    Nhưng, trước sự sửng sốt của tôi, cô bé đã biến mất. Nói đúng ra là cô bé đã không biến mất; mái tóc đỏ của cô vẫn di chuyển một cách miễn cưỡng (hoặc có vẻ miễn cưỡng) xung quanh căn phòng. Ông của cô đã nắm lấy tay cô và – trong khi nói thầm cho cô với thái độ nhiệt tình – thì dắt cô sang với những bức tranh ở phía tường đối diện.

    Tôi đã có thể giết ông ấy. Tôi lo lắng nhìn ra phía cửa trống trơn. Rồi tôi lại thọc tay vào sâu trong túi áo và – với khuôn mặt đỏ bừng – tôi bước những bước dễ gây chú ý qua khắp căn phòng. Đồng hồ đang kêu tích tắc; mẹ tôi có thể quay lại đây bất cứ khi nào; và mặc dù tôi biết mình không đủ can đảm để xen vào giữa và thực sự nói lên điều gì đó, thì ít nhất tôi vẫn có thể nhìn cô bé một lần trọn vẹn cuối cùng. Không lâu trước kia, tôi có từng thức muộn cùng mẹ và xem bộ phim Công dân Kane, và tôi rất bị thu hút bởi cái ý tưởng rằng một người có thể để ý tới một người lạ có sức mê hoặc và sẽ nhớ về cô ấy trong suốt quãng đời con lại của anh ta. Một ngày nào đó tôi cũng có thể sẽ giống như người đàn ông già trong bộ phim, ngồi tựa vào ghế với một cái nhìn xa xăm trong mắt, và khẽ nói: “Bạn biết đấy, đã sáu mươi năm trước rồi, và tôi cũng không bao giờ gặp lại cô gái với mái tóc đỏ ấy nữa, nhưng bạn biết không? Chưa từng có tháng ngày nào trôi qua mà tôi không nghĩ về cô ấy cả.”

    Tôi đang đi được đến nửa phòng trưng bày thì một thứ gì đó lạ lùng đã xảy ra. Một người bảo vệ của bảo tàng chạy qua lối vào của một cửa hàng lưu niệm bên kia. Anh ta đang cầm thứ gì đó trong tay.

    Cô bé cũng trông thấy điều đó. Đối mắt nâu ánh vàng của cô bé chạm mắt tôi: một cái nhìn thảng thốt và khó hiểu.

    Đột nhiên một người bảo vệ khác phóng ra từ một quầy hàng. Hai cánh tay anh ta giơ lên trời và anh ta đang hét lớn.

    Mọi cái đầu đều ngẩng lên. Ai đó phía sau tôi kêu lên bằng thứ giọng trầm kỳ quặc: ôi! Ngay khoảnh khắc tiếp theo, một tiếng nổ nhức óc kinh hoàng làm rung chuyển cả căn phòng.

    Người đàn ông già – với cái nhìn trống rỗng – đã ngã sang một bên. Cánh tay vươn ra của ông – với những ngón tay tỏa rộng – là thứ cuối cùng mà tôi trông thấy. Cũng vào chính lúc đó, một tia sáng đen lóe lên, với những mảnh vỡ quét qua và cuộn tròn lấy tôi, tiếng gầm rú của đợt gió nóng cứ đâm sầm vào tôi và ném tôi sang bên kia căn phòng. Và đó là điều duy nhất tôi nhận thức được cho tới lúc ấy.
     
  7. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    v.

    TÔI KHÔNG BIẾT MÌNH đã lả đi bao lâu. Khi tôi tỉnh dậy, có vẻ như như tôi đang nằm úp bụng xuống một khuôn cát, trên nền sân chơi sẫm màu – một nơi mà tôi không hề quen biết, một khu vực đã bị bỏ hoang. Một toán những thằng bé dáng người rắn chắc, lùn tịt tới vây quanh tôi, đá vào sườn và sau gáy tôi. Cổ tôi vặn sang một bên và cơ bụng thì co thắt như hết hơi, nhưng đó chưa phải điều tệ nhất; mồm tôi đầy cát, tôi đang thở ra cát.

    Bọn chúng lẩm bẩm thành tiếng. Đứng dậy đi, thằng khốn.

    Nhìn nó kìa, nhìn nó kìa.

    Nó chẳng hiểu chuyện quái gì cả.

    Tôi lăn qua lăn lại, dùng hai tay che đầu và rồi – như bị đấm một cú đấm vô hình đầy choáng váng – tôi nhận ra là chẳng có ai ở đó cả.

    Trong một thoáng, tôi quá bàng hoàng để có thể di chuyển. Chuông báo động vang lên từ một khoảng cách xa như bị bóp nghẹt lại. Thật lạ lùng, tôi có cảm giác rằng mình đang nằm trên một khoảnh sân có tường bao quanh của những ngôi nhà thuộc dự án từ thiện.

    Ai đó đã làm rất tốt việc tẩn cho tôi một trận: tôi đau khắp mình mẩy, xương sườn thì nhói lên và đầu tôi thì có cảm giác như vừa bị đánh bằng một cái gậy chì. Tôi nắn lại hàm ra phía trước và phía sau rồi tìm trong túi xem liệu tôi còn đủ tiền tàu về nhà không nếu đột nhiên tôi không nhớ nổi mình đang ở đâu. Tôi nằm đó, cứng đờ, dần dần nhận thức được rằng một thứ gì đó bên trong người mình đã nằm lệch chỗ. Ánh sáng thật xa lạ và không khí xung quanh cũng vậy: khô và sắc lạnh, như một làn khói hóa chất đang đốt cháy cổ họng tôi. Miếng kẹo cao su trong miệng tôi đã đầy sạn, và khi – đầu đau như búa bổ - tôi lăn qua để nhổ nó ra, tôi cảm nhận thấy mình đang cố nheo mắt lại để nhìn một thứ gì xa lạ qua làn khói mờ.

    Tôi đang ở trong một cái hang động màu trắng tả tơi. Vải rách cùng các mảnh vụn đang treo lơ lửng trên trần nhà. Mặt đất thì nghiêng ngả và chất đầy những đống vật chất xám ngoét như loại đá được lấy từ mặt trăng trộn lẫn với kính vỡ, sỏi và một trận cuồng phong của rác rưởi, gạch vụn và sắt gỉ và giấy vụn được phủ một lớp tro bụi khiến chúng trông như một đợt tuyết đầu mùa. Cao phía trên đầu, một cặp đèn soi rọi qua lớp bụi giống như ánh sáng chao đảo của đèn ô tô trong sương mù, trông thật kì dị, một cái quay lên trên và cái kia thì lủng lẳng một bên và tạo nên thứ bóng đen xiên xẹo.

    Tai tôi rung lên thành tiếng, và cả cơ thể tôi cũng vậy, một cảm giác khó chịu vô cùng: xương, não, tim đều gõ lên như chuông. Mờ nhạt từ nơi nào đó xa xa, tiếng chuông báo động chói tai vang lên đều đều và bâng quơ. Tôi không thể phân biệt được âm thanh đó tới từ phía trong tôi hay từ bên ngoài. Một cảm giác cô đơn hiện lên rõ mồn một, giữa khung cảnh chết chóc ảm đạm này. Chẳng còn điều gì có ý nghĩa nữa.

    Giữa những lớp gạch vụn, tay tôi chống lên một bề mặt không-phẳng-lắm, tôi đứng dậy, nhăn nhó vì cơn đau đầu như búa bổ. Sự tĩnh lặng của không gian xung quanh nơi tôi đứng ẩn chứa một cái gì không bình thường từ sâu bên trong. Một bên là khói và bụi mù mịt giăng thành tấm màn phủ tĩnh mịch. Bên kia là một đống hỗn độn những mảnh vụn của đồ vật đổ dồn sang phía mà mái nhà, hoặc trần nhà, đã từng ở đó.

    Quai hàm tôi đau điếng; mặt và đầu gối tôi đã xước xát cả; miệng tôi thì có cảm giác như đang nhai giấy nhám. Chầm chậm chớp mắt nhìn vào cái hỗn loạn xung quanh, tôi thấy một chiếc giầy tennis; từng đống nát vụn trôi nổi, một màu đen loang lổ; một cái gậy kim loại xoắn vòng. Tôi vẫn đang chao đảo ở đó, khó thở và choáng váng, không biết nên đi hướng nào hay làm gì, khi đột nhiên tôi nghĩ là tôi có nghe thầy tiếng điện thoại reo.

    Trong khoảnh khắc, tôi lại không chắc chắn về điều đó; tôi lắng nghe, thật chú ý; và rồi tiếng động đó lại tuôn ra: yếu ớt và trì trệ, có chút kì quặc. Tôi vụng về quờ quạng trong đống đổ vỡ - bỏ qua những chiếc ví của trẻ con và những túi đồ ăn, rụt tay lại khi động vào những đồ vật nóng và những mảnh thủy tinh, càng ngày càng thấy khó khăn bởi đống gạch vụn bên dưới bàn chân, và bởi một đống gì đó mềm mềm và chậm chạp đang xuất hiện trong tầm nhìn.

    Ngay cả khi đã bị thuyết phục rằng tôi chưa từng nghe thấy tiếng điện thoại mà chỉ là tiếng chuông vang lên trong tai đã đánh lừa mình, tôi vẫn tiếp tục tìm kiếm, như bị cài đặt vào một chế độ tìm cứng nhắc với sự chặt chẽ, vô hồn của một con robot. Giữa những chiếc bút máy, túi xách, ví, kính râm nứt vỡ, thẻ khách sạn, giấy tờm nước hoa và đơn thuốc (Roitman, Andrea, thuốc alprazolam o.25mg). Tôi khai quật được một cái móc chìa khóa có gắn đèn pin và một cái điện thoại không hoạt động nữa (sạc một nửa, không vỏ lưng), thứ mà tôi ném cùng vào trong một chiếc túi ni lông tự phân hủy mà tôi tìm thấy trong ví một người phụ nữ nào đó.

    Tôi thở khò khè, suýt nghẹn vì bụi thạch cao, và đầu tôi thì đau đến mức tôi không còn nhìn được gì nữa. Tôi chỉ muốn ngồi xuống, ngoại trừ việc không có nơi nào để ngồi cả.

    Rồi tôi chợt trông thấy một chai nước. Mắt tôi sống lại, thật nhanh chóng, bắt đầu dò lại qua mớ hỗn độn cho tới khi tôi thấy nó lần nữa, cách tôi khoảng mười lăm feet, nửa chai bị chôn trong đống rác rưởi: chỉ còn thấy rõ nhãn chai, một sắc xanh da trời mát lạnh quen thuộc.

    Với cảm giác nặng nề đông cứng như đang đi qua lớp tuyết dày, tôi bắt đầu ì ạch len lỏi qua lớp gạch vụn, những thứ đồ bỏ đi bị nghiền dưới chân tôi nghe như tiếng băng vỡ nứt. Nhưng tôi chưa đi được xa thì, ở phía ngoài tầm mắt, tôi nhận thấy có sự cử động trên mặt đất, nó càng dễ gây sự chú ý trong một khung cảnh phẳng lặng, một sắc trắng trên nền cảnh màu trắng.

    Tôi dừng bước. Rồi lại tiếp tục lội thêm mấy bước nữa. Đó là một người đàn ông, nằm bẹp trên sàn và phủ trắng từ đầu đến chân. Ông bị ngụy trang quá khéo dưới lớp tro bụi từ sự phá hủy đến mức phải một lúc sau hình dáng ông mới hiện ra đầy đủ: trắng như phấn, đang cố gắng ngồi
    lên như thể một bức tượng vừa bị xô ngã khỏi bệ đứng của mình. Khi tới gần hơn chút nữa, tôi có thể thấy ông đã già và thật yếu, với cái lưng gù hiếm gặp; tóc ông – hay thứ gì đó mà ông có – thì bị thổi dựng đứng trên đỉnh đầu; một bên mặt ông bị khắc lên một vết bỏng xấu xí, và đầu của ông, phía trên một tai, là một khoảng đen ghê rợn và nhầy nhụa.

    Tôi đã tới bên nơi ông nằm khi mà – nhanh một cách khó tin – ông phóng ra cánh tay phủ đầy bụi trắng xóa và nắm lấy cánh tay tôi. Trong sự hoảng loạn tôi định lùi lại, nhưng ông chỉ càng giữ chặt hơn, trong khi ông liên tục ho với một sự tiều tụy ốm yếu.

    Đâu rồi…? có vẻ như ông đang nói gì đó. Đâu rồi…? Ông đang cố nhìn lên gương mặt tôi, nhưng đầu ông chỉ đung đưa nặng nề trên cổ và cằm ông thì đặt dính lên ngực khiến ông phải liếc nhìn tôi từ phía dưới lông mày giống như một chú chim kền kền. Nhưng đôi mắt ông, trên gương mặt đã bị hủy hoại, thì vẫn ánh lên sự thông minh và tuyệt vọng.

    …Ôi Chúa ơi, tôi nói, cúi xuống để giúp ông, xin hãy chờ, chờ đã – và sau đó tôi dừng lại, không biết nên làm gì. Phần chân của ông đã nằm cuộn lại trên mặt đất như một đống quần áo bẩn.

    Ông tự ôm lấy mình bằng hai cánh tay, một cách làm đầy mạo hiểm, môi khẽ mấp máy và vẫn nỗ lực tự nâng mình lên. Từ ông bốc lên mùi tóc cháy, len cháy. Nhưng phần thân dưới có vẻ như không có kết nối gì với phần trên, và ông tiếp tục ho rồi lại ngã xuống thành một mớ dưới đất.

    Tôi nhìn quanh, cố gắng tìm lại đống đồ, bỗng quên mất về vết thương trên đầu mình, không có ý niệm gì về thời gian hay thậm chí không biết được đang là ngày hay đêm nữa. Sự rộng lớn và hoang tàn của cảnh vật đã làm tôi lạc hướng – những tầng nhà cao và lạ lẫm bị phủ kín bằng từng lớp khói nhạt, và cuộn lên thứ không khí hỗn độn như trong một căn lều ở cái nơi mà trần nhà (hay bầu trời) từng xuất hiện. Nhưng mặc dù tôi không biết mình đang ở đâu, hay tại sao tôi lại ở đây, nhưng trong tôi vẫn tồn tại một nửa những ký ức về vụ tàn phá kinh hoàng đó, một thước phim được gợi lại từ ánh sáng của đèn báo động. Trên mạng, tôi đã từng nhìn thấy cảnh tượng một khách sạn bị thổi bay trên sa mạc, nơi mà những dãy phòng kiểu tổ ong, trong giây phút sụp đổ, dường như đã đông cứng lại chỉ trong khoảnh khắc lóe lên của tia sáng.

    Rồi tôi nhớ ra chai nước. Tôi quay bước trở lại, nhìn ngó khắp xung quanh, cho tới khi tim tôi bỗng nhói lên khi nhìn thấy cái sắc xanh phủ bụi đó.

    … Ông nghe này, tôi nói, dần dần đi ra xa. Cháu chỉ…

    Người đàn ông già đang nhìn tôi với ánh mắt hi vọng và cùng lúc là tuyệt vọng, như một chú chó đang đói và quá yếu để có thể bước đi.

    …Không…chờ đã. Tôi quay bước trở lại.

    Như một kẻ say rượu, tôi chao đảo vượt qua đống rác rưởi – len lỏi và cày xới, nhấc chân cao để tránh qua các đồ vật lớn, luẩn quẩn qua những tảng gạch, bê tông và giày dép và túi xách và một tập hợp vô số những mảnh vụn mà tôi không muốn nhìn gần.

    Chai nước còn lại ba phần tư và hơi nóng khi tôi cầm. Nhưng sau hớp nước đầu tiên, cổ họng tôi dần bắt nhịp và tôi uống một ngụm hết nửa chai – có mùi vị của nhựa và ấm như nước rửa bát – trước khi tôi kịp nhận ra mình đang làm gì và bắt bản thân phải đậy nắp lại và cho nó vào túi để mang tới cho ông.

    Quỳ gối bên ông. Những hòn đá sỏi đang cào vào đầu gối tôi. Ông đang run rẩy, hơi thở khò khè và không ổn định: ông không nhìn thẳng vào mắt tôi nhưng cũng đã lướt qua nó, rồi cố định một cách lo âu lên thứ gì đó mà tôi không nhìn thấy.

    Tôi dò dẫm tìm chai nước khi ông đưa tay lên chạm mặt tôi. Thật cẩn thận, với những ngón tay mỏng xương xẩu, ông vén tóc khỏi mắt tôi rồi rút từ lông mày tôi một mẩu thủy tinh và rồi vỗ nhè nhẹ lên đầu tôi.

    “Đó, đó.” Giọng ông rất yếu, rất khàn, nhưng rất chân thành, cùng với tiếng hít thở khủng khiếp của phổi. Chúng tôi nhìn nhau, trong một lúc lâu đến lạ lùng và tôi đã nhận ra con người thực sự bên trong ông – và ông, tôi tin, cũng nhìn nhận thấy tôi như vậy. Trong khoảnh khắc chúng tôi như được kết nối lại và đang rên rỉ, như hai cái máy đang chạy trên cùng một mạch điện.

    Rồi ông lại ngả đầu ra sau, yếu ớt tới mức tôi tưởng ông đã chết. – “Đây,” tôi nói, rồi vụng về đỡ tay dưới vai ông. “Tốt rồi.” Tôi cố hết sức mình giữ cho đầu ông thẳng lên, và giúp ông uống nước từ chai. Ông chỉ có thể uống một ngụm nước nhỏ và hầu hết đều chảy dọc xuống cằm.

    Rồi ông lại lả đi. Ông đã cố gắng quá sức rồi.

    “Pippa,” giọng ông đầy mệt nhọc.

    Tôi nhìn xuống vết bỏng của ông, gương mặt đã nhuốm màu đỏ, được khuấy động lên bởi điều gì đó quen thuộc trong ánh mắt ông, một thứ gì đó vừa mờ đục lại vừa trong trẻo. Tôi đã từng nhìn thấy ông trước đó. Và tôi cũng nhìn thấy cả cô bé đó nữa, một cái nhìn chớp nhoáng, một sự ngời sáng như lá mùa thu: hàng lông mày cổ điển, đôi mắt màu nâu mật. Gương mặt cô bé như phản chiếu qua gương mặt ông. Cô bé ấy đang ở đâu?

    Ông đang cố nói điều gì đó. Đôi môi nứt nẻ đang mấp máy. Ông muốn biết Pippa đang ở đâu.

    Từng hơi thở khò khè và hổn hển. “Đây, ông đừng lo,” tôi trấn an, dựa vào ông gần hơn. Tôi không cảm thấy lo lắng. Ai đó sẽ tới và đưa chúng tôi ra nhanh thôi, tôi chắc chắn về điều đó. “Cháu sẽ chờ tới khi họ đến.”

    “Cháu thật tốt bụng.” Bàn tay ông (lạnh và khô như bột) đang siết lấy tay tôi. “Ông chưa gặp cháu kể từ khi cháu còn là một cậu bé. Các cháu đều đã lớn sau lần cuối cùng chúng ta nói chuyện.”

    “Nhưng cháu là Theo,” tôi nói, sau sự ngập ngừng pha chút bối rối.

    “Tất nhiên là vậy rồi.” Cái nhìn trực diện của ông, cũng giống như cái nắm tay, thật kiên định và ân cần. “Và cháu đã có lựa chọn đúng đắn nhất, ông chắc chắn là vậy. Mozart thì vẫn thú vị hơn Gluck, cháu có nghĩ thế không?”

    Tôi không biết nên nói gì.

    “Sẽ dễ dàng hơn cho cả hai cháu. Họ luôn quá khắt khe với những đứa trẻ trong vòng thử giọng…” Cơn ho. Môi dính đầy máu, một màu đỏ đặc. “Không thể có cơ hội thứ hai.”

    “Ông nghe này…” Thật không nên khi để ông nhầm tôi với người khác.

    “Oh, nhưng cháu chơi hay vô cùng, cháu yêu, chỉ húng hắng một vài nốt nhạc không tròn trĩnh. Một bài hát. Nó là cả một bài hát.”

    “…và chắc là ông đã nói với cháu rồi, về những lúc ông đi học đàn piano, ở nhà cô giáo người Armeni ấy? Có một chú thằn lằn xanh sống ở trên thân cây cọ, xanh như một viên kẹo bạc hà vậy, ông rất thích ngắm nhìn chú ta… lướt qua khung cửa sổ… thứ ánh sáng thần tiên trong khu
    vườn… du pays saintVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link…chỉ hai mươi phút đi bộ nhưng nó như xa hàng dặm vậy…”

    Ông lả đi vài phút; tôi có thể cảm nhận được sự minh mẫn của ông đang trôi xa dần khỏi tôi, cứ xoay vòng cho tới khi khuất khỏi tầm mắt như một chiếc lá trôi trên dòng suối. Rồi nó lại trôi giạt vào bờ và ông xuất hiện trở lại.

    “Thế còn cháu! Cháu mấy tuổi rồi?”

    “Mười ba ạ.”

    “Ở trường Lycée FrancaisVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link?”

    “Không, trường cháu ở khu phía Tây.”

    “Và cũng không khác gì mấy, ông nghĩ vậy. Tất cả những lớp tiếng Pháp này! Quá nhiều từ mới cho một đứa trẻ. Danh từ và đại từ, các loài và các ngành sinh vật. Nó chỉ là một dạng sưu tập côn trùng thôi mà.”

    “Gì cơ ạ?”

    “Họ luôn nói tiếng Pháp ở tiệm Groppi’s. Cháu nhớ cửa hàng Groppi’s không? Với chiếc ô
    kẻ sọc và những viên đá lạnh có vị quả hồ trăn?”

    Chiếc ô kẻ sọc. Thật khó để suy nghĩ được gì trong cơn đau đầu này. Ánh mắt tôi bắt gặp vết cắt dài trên da đầu của ông, đã khô và tối đen lại, như một vết thương do lưỡi rìu. Càng về sau, tôi dần nhận thức được về những hình khối cơ thể đáng sợ đang dồn lại thành đống giữa khung cảnh
    đổ nát, tất cả đang chen chúc trong im lặng xung quanh chúng tôi, bóng tối ở khắp mọi nơi cùng những hình người rách nát và nó còn là thứ bóng tối có thể khiến bạn dần mê man đi, thứ gì đó ở nó có thể khiến bạn thấy buồn ngủ, sự tỉnh táo chỉ như bọt biển sủi tăm rồi lại biến mất giữa đại dương lạnh lẽo và đen kịt.

    Đột nhiên có gì đó khác thường. Ông đã tỉnh và đang lay tôi. Bàn tay khẽ vỗ lên người tôi. Ông muốn thứ gì đó. Ông cố gượng dậy qua hơi thở đã phát ra như tiếng huýt sáo.

    “Gì vậy ông?” tôi hỏi, tự đánh thức bản thân. Ông đang cố lấy hơi, thật hối hả, và đang kéo cánh tay tôi. Tôi hoảng hốt ngồi dậy và nhìn quanh, chờ đợi nhìn thấy thứ nguy hiểm nào đó đang lao tới: dây điện hở, một ngọn lửa, trần nhà sắp sập.

    Nắm lấy bàn tay tôi. Siết chặt nó. “Không phải ở đó,” ông cố giãi bày.

    “Gì cơ ạ?”

    “Đừng để nó lại. Không.” Ông đang nhìn lướt qua tôi, cố gắng chỉ tay vào thứ gì đó. “Hãy đưa nó đi khỏi đó.”

    Xin ông hãy nằm xuống đã…

    “Không! Họ không được nhìn thấy nó.” Ông đang rất hoảng loạn và ghìm chặt lấy cánh tay tôi, cố kéo bản thân mình dậy. “Chúng đã ăn trộm những tấm thảm. Chúng sẽ đưa nó tới kho lưu trữ…”

    Tôi thấy ông đang chỉ ra phía một tấm bảng hình chữ nhật đã phủ đầy bụi, gần như vô hình dưới thứ ánh sáng nhạt nhòa cùng bao thứ rác rưởi xung quanh, nó còn nhỏ hơn chiếc laptop của tôi ở nhà.

    “Cái đó ư?” tôi hỏi, lại nhìn gần hơn. Nó lấm chấm vài giọt sáp, và dính một mẩu vải khác thường có ghi nhãn nhưng đã rách rưới cả. “Đó là thứ mà ông muốn sao?”

    “Ông xin cháu.” Đôi mắt ông nheo lại đầy căng thẳng. Ông gần như tuyệt vọng, liên tục ho đến mức gần như không thể nói thành tiếng.

    Tôi vươn tay ra và tóm lấy tấm bảng gần mép tường. Nó nặng một cách khó tin, nhất là với một thứ nhỏ như vậy. Một mảnh khung dài đã vỡ và đang níu lấy một góc tranh.

    Tôi dùng ống tay áo lau qua bề mặt phủ bụi. Chú chim nhỏ màu vàng, thật yếu đuối bên dưới lớp bụi trắng. Bức Bài học giải phẫu cũng ở trong cùng một cuốn sách nhưng nó làm mẹ dựng tóc gáy.

    Đúng vậy mẹ ạ, tôi trả lời một cách uể oải. Tôi quay lại, với bức tranh trong tay, để chỉ cho mẹ xem, và rồi nhận ra bà không ở đó.

    Hoặc là – bà ở đó và cũng không ở đó. Một phần nào trong bà ở đó, nhưng nó vô hình. Phần không nhìn thấy được chính là phần quan trọng. Đây là điều mà trước kia tôi chưa từng hiểu được. Nhưng khi tôi cố gắng nói điều này lên thành tiếng thì câu chữ lại trở nên hỗn độn và, như bị tát một cái thật mạnh, tôi nhận ra mình đã sai. Cả hai phần phải đi với nhau. Bạn không thể chỉ sở hữu một phần mà thiếu phần còn lại được.

    Tôi lấy cánh tay quẹt trán và cố chớp mắt cho hết bụi và, với một nỗ lực khổng lồ, như là nâng một quả tạ nặng quá sức, tôi cố gắng đưa tâm trí mình về nơi mà nó cần ở. Mẹ tôi đang ở đâu? Trong một khoảnh khắc đã từng có cả ba chúng tôi và một trong số đó – tôi khá chắc – là mẹ tôi. Nhưng giờ chỉ còn lại hai.

    Phía sau tôi, người đàn ông già bắt đầu ho và lại run lên với một sự nguy cấp không thể kiểm soát, ông đang cố cất tiếng nói. Quay trở lại, tôi cố gắng đưa cho ông bức tranh. “Đây thưa ông,” tôi nói với ông, và rồi, sau đó, nói với mẹ tôi - ở nơi mà đối với tôi bà luôn đứng đó – “cháu
    sẽ quay lại ngay,”

    Nhưng bức tranh này không phải thứ ông muốn. Một cách bực bội, ông đẩy nó lại về phía tôi, trong khi lắp bắp điều gì đó. Phía bên phải đầu của ông là một vũng máu nhớp nháp đến mức tôi không còn nhìn thấy tai ông đâu nữa.

    “Gì cơ ạ?” tôi hỏi, tâm trí vẫn đang nghĩ về mẹ - bà đang ở đâu? “Ông nói gì cơ?”

    “Hãy cầm lấy nó.”

    “Ông nghe này, cháu sẽ quay lại đây. Cháu phải…” Tôi không thể nói điều đó ra, cũng không hoàn toàn là như vậy, nhưng mẹ muốn tôi về nhà, ngay lập tức, tôi phải gặp bà ở đó, đó cũng là điều duy nhất mà bà đã khẳng định rõ ràng với tôi.

    “Hãy cầm nó theo!” Ông ấn nó về phía tôi. “Đi đi!” Ông đang cố ngồi dậy. Đôi mắt ông sáng trong và hoang dã; sự lo lắng của ông làm tôi sợ. “Chúng đã lấy đi tất cả những ngọn đèn rồi, chúng cũng đã thổi sập một nửa số ngôi nhà trên con phố này…”

    Một giọt máu chảy dọc xuống cằm ông.

    “Xin ông,” tôi nói, bàn tay quờ quạng, e sợ không dám chạm vào ông. “Xin ông hãy nằm xuống đi…”

    Ông lắc đầu, và cố nói lên điều gì đó, nhưng nỗ lực ấy lại khiến ông gục xuống trong thứ âm thanh lỏng đầy khốn khổ. Khi ông chùi miệng, tôi đã thấy một vệt máu đỏ tươi trên mu bàn tay ông.

    “Ai đó rồi sẽ tới.” Tôi không chắc là mình còn tin vào điều đó nữa, và cũng không biết nên nói điều gì khác.

    Ông nhìn thẳng vào mặt tôi, tìm kiếm một tia nhìn thấu hiểu, và khi ông không thể tìm thấy nó, ông lại trườn dậy.

    “Ngọn lửa,” ông nói với thứ giọng nghèn nghẹt. “Căn biệt thự ở Ma’adi. On a tout perduVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.”

    Ông lại sụp xuống vì ho khan. Những bong bóng màu đỏ nhạt đã sủi lên từ mũi ông. Ở giữa tất cả những cái vô thực, những bia mộ và những tảng đá vỡ, tôi có cảm giác mơ hồ rằng mình không thể hiểu được ông, như thể tôi đã làm hỏng những công trình thần tiên bằng sự vụng về và ngu dốt của mình. Mặc dù chẳng có ngọn lửa nào có thể nhìn thấy giữa đống gạch đá rơi vỡ này, tôi vẫn bò qua và cho bức tranh vào trong chiếc túi ni lông mua sắm, chỉ để nó khuất khỏi tầm mắt của ông, điều này khiến ông khá thất vọng.

    “Ông đừng lo,” tôi nói. “Cháu sẽ…”

    Ông đã bình tĩnh lại. Ông đặt nhẹ hai tay lên cổ tay tôi, cặp mắt vẫn vững vàng và sáng rực, và một cơn gió lạnh của sự mất hết lý trí đã thổi qua tôi. Tôi đã làm việc mà mình phải làm. Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.

    Khi tôi đang thư giãn trong cái ý nghĩ êm ái đó, ông đã siết tay tôi đầy trấn an, như thể tôi đã nói suy nghĩ đó thành lời. Chúng ta sẽ ra khói đây, ông nói.

    “Cháu biết.”

    “Hãy bọc nó trong giấy báo và đặt nó ở dưới đáy thấp nhất của túi đồ, cháu yêu của ta. Cùng với những thứ lặt vặt khác.”

    Khi tôi thở phào vì ông đã tĩnh tâm, khi đã kiệt sức vì cơn đau đầu và khi tất cả những kí ức về mẹ đã phai nhạt dần thành một cảm giác mềm mại như một chú sâu bướm, tôi bèn đặt mình nằm xuống bên cạnh ông và nhắm mắt lại, chợt cảm thấy dễ chịu và an toàn đến lạ lùng. Trống rỗng, mơ hồ. Ông đang lẩm bẩm vài thứ, gần như thì thầm: những cái tên nước ngoài, những con số, một vài từ tiếng Pháp nhưng phần lớn là tiếng Anh. Một người đàn ông sẽ đến xem xét phần nội thất. Abdou đã gặp rắc rối vì ném những hòn đá. Rồi bằng cách nào đó mọi chuyện đều có ý nghĩa và tôi nhìn thấy một khu vườn toàn cây cọ và cây đàn piano và chú thằn lằn xanh trên thân cây như thể chúng đều là những trang album ảnh.

    Cháu sẽ ổn nếu về nhà một mình chứ, cháu yêu? Tôi vẫn nhớ có một lúc ông đã hỏi tôi.

    “Tất nhiên rồi.” Tôi đang nằm trên sàn nhà bên cạnh ông, đầu tôi đặt ngang tầm với khuôn ngực lép kẹp của ông, để tôi có thể nghe thấy từng đợt hít vào thở ra. “Cháu vẫn tự đi tàu hàng ngày mà.”

    “Và cháu nói là cháu đang sống ở đâu nhỉ?” Bàn tay ông đặt lên đầu tôi, thật dịu dàng, như cái cách mà bạn đặt tay lên đầu chú chó mà bạn rất đỗi yêu quý.

    “Phía đông đường số Năm Mươi Bảy.”

    “Oh, đúng rồi! Ở gần Le Veau D’Or?”

    “Ừm, cách một vài tòa nhà ạ.” Le Veau D’Or là một nhà hàng mà mẹ tôi rất thích tới, khi chúng tôi còn có nhiều tiền. Tôi đã ăn miếng ốc sên đầu tiên của mình ở đó, và uống ngụm Marc de Bourgogne đầu tiên từ ly của mẹ.

    “Ý cháu là về phía công viên?”

    “Không, gần phía con sông hơn.”

    “Vậy là cũng đủ gần, cháu yêu. Những cái bánh trứng và món trứng cá muối. Ông thật yêu thành phố này dường nào vào cái lần đầu tiên ông thấy nó! Dù vậy, nó cũng không còn như cũ nữa, phải không? Ông nhớ mọi thứ đến cồn cào, cháu có cảm thấy vậy không? Cái ban công, cùng với…”

    “Khu vườn.” Tôi quay qua nhìn ông. Hương nước hoa cùng những giai điệu . Khi đang ở trong vũng lầy của sự bối rối, tôi đã từng có ý nghĩ rằng ông chính là một người bạn thân thiết hoặcmột thành viên trong gia đình mà tôi đã quên mất, một người họ hàng xa của mẹ tôi…

    “Oh, người mẹ của cháu! Cô gái đáng mến! Ông sẽ không bao giờ quên được khoảnh khắc mà mẹ cháu xuất hiện và chơi đàn. Quả là cô gái bé nhỏ xinh đẹp nhất mà ta từng gặp.”

    Làm sao ông có thể biết là tôi đang nghĩ về mẹ mình? Tôi muốn hỏi nhưng ông đã thiu thiu ngủ. Đôi mắt ông nhắm nghiền nhưng hơi thở thì nhanh và khàn đục như ông đang chạy trốn khỏi thứ gì đó.

    Bản thân tôi cũng thấy mọi thứ đang mờ dần – tai thì đang rung lên, tiếng ong ong phát ra từ bên trong và vị kim loại trong miệng giống như khi tôi tới phòng khám nha khoa – và tôi có lẽ đã trôi trở về trạng thái vô thức và nằm đó mãi nếu một lúc nào đó ông không lay người tôi, thật mạnh, để tôi thức dậy trong sự hoảng loạn. Ông đang lẩm bẩm gì đó và giật mạnh ngón tay trỏ của mình. Ông đã tháo chiếc nhẫn ra, một chiếc nhẫn vàng khảm đá khá nặng; ông đang cố đưa nó cho tôi.

    “Cái này, cháu đâu có muốn nó,” tôi nói, quay mặt ra chỗ khác. “Ông làm thế để làm gì?”

    Nhưng ông ấn nó vào lòng bàn tay tôi. Hơi thở ông chỉ còn sủi bọt và thều thào. “Hobart và Blackwell,” ông nói với cái giọng như thể bị ngạt nước từ trong ra ngoài. “Hãy rung cái chuông màu xanh.”

    “Chuông xanh,” tôi lặp lại đầy lo lắng.

    Ông gật đầu rồi lại ngửa ra sau, choáng váng, môi thì run rẩy. Mắt ông đang không còn tập trung nữa. Khi đôi mắt ấy trượt qua tôi mà như không nhìn thấy tôi, chúng khiến tôi rùng mình.

    “Hãy bảo Hobie ra khỏi cửa tiệm,” ông gằn giọng.

    Không tin nổi vào mắt mình, tôi thấy thứ máu đỏ tươi đang rỉ ra từ khóe miệng ông. Ông đã nới lỏng cà vạt bằng cách kéo lấy nó; “cháu đây,” tôi nói, trờ tới để giúp nhưng ông đã gạt tay tôi đi.

    “Anh ta phải đóng hết sổ sách và đi ra khỏi đó!” ông nói thì thào. “Cha anh ta sẽ cử vài tên đến để cho anh ta một trận…”

    Mắt ông trợn lên; mí mắt giật giật. Rồi ông chìm sâu vào lòng mình, phẳng phiu và có vẻ như không khí đã thoát hết ra ngoài, ba mươi giây, bốn mươi, như một đống quần áo cũ nhưng rồi – khi tôi còn đang do dự - ngực ông căng lên để hít vào một hơi khàn đục như tiếng gầm, và ông ho thành tiếng cả một cục máu lớn mà bắn hết lên người tôi. Cố gắng nhất có thể, ông đẩy mình lên bằng cùi chỏ - và trong ba mươi giây hoặc tầm đó ông hổn hển như một chú chó, ngực nhảy loạn, lên và xuống, lên và xuống, mắt ông giờ đã cố định vào thứ gì đó mà tôi không thể nhìn thấy được và ông cứ nắm tay tôi suốt như thể nếu ông nắm đủ chặt thì ông sẽ khỏe lại ngay.

    “Ông có sao không?” tôi hỏi – cảm thấy hỗn loạn, như sắp khóc. “Ông có nghe thấy cháu nói không?”

    Trong khi ông đang cố níu kéo và quẫy đạp – như một chú cá rơi ra khỏi nước – tôi nâng đầu ông dậy, hoặc cố gắnglàm vậy vì không biết cách sao, sợ rằng sẽ làm ông đau, vì trong suốt lúc đó ông vẫn nắm tay tôi như thể ông đang lủng lẳng ở rìa tòa nhà và sắp rơi xuống. Mỗi nhịp thở là một bước chân nặng nề và cô độc, như một tảng đá lớn được nâng lên bằng nỗ lực khủng khiếp và lại rơi xuống đất hết lần này đến lần khác. Có một khoảnh khắc ông nhìn trực diện vào tôi, máu đã tràn ra từ miệng, và có vẻ như ông đang nói điều gì đó, nhưng câu chữ chỉ còn là những bọt bong bóng đang chảy dọc xuống phía cằm.

    Thế rồi tôi cũng dần thở phào khi ông trở nên bình tĩnh hơn, phẳng lặng hơn, cái siết tay của ông đã lỏng dần, như tan chảy, một cảm giác chìm dần và xoay vòng giống như ông đang trôi ra xa dần tôi, trôi trên dòng nước…Ông thấy khá hơn chưa? tôi hỏi, rồi sau đó…

    Thật cẩn thận, tôi rót từng chút nước vào miệng ông – môi ông dần hoạt động, tôi thấy chúng cử động; và rồi, quỳ trên đầu gối, như một cậu bé người hầu trong một câu chuyện, tôi chùi đi những vết máu trên khuôn mặt ông bằng mảnh vải hoa văn trong túi áo ông. Khi mà – thật nhẫn tâm – ông trôi vào sự tĩnh lặng từng chút một, tôi ngồi lại trên gót chân và ngắm nhìn gương mặt đầy vết thương ấy.

    Xin chào? tôi nói

    Một mí mắt mỏng như giấy, khép hờ, khẽ co giật, một đường gân xanh nổi lên.

    “Nếu ông nghe thấy cháu thì hãy siết tay cháu đi.”

    Nhưng bàn tay ông đặt trong lòng tay tôi thì mềm rũ. Tôi ngồi đó và nhìn ông, không biết nên làm gì. Đã đến lúc phải đi, thực ra là đã quá giờ rồi – mặc dù tôi vẫn chưa thấy đường nào để ra khỏi nơi này và, theo một cách nào đó, thật khó để tưởng tượng mình đang ở nơi nào khác – nhưng mẹ tôi đã dặn đi dặn lại rằng vẫn có một thế giới khác, bên ngoài cái thế giới chúng tôi đang sống. Như thể tôi chưa từng sống một cuộc đời khác nên không thể biết.

    “Ông có nghe thấy cháu không?” tôi hỏi lại ông, một lần cuối cùng, cúi người xuống và kề tai vào gần khuôn miệng loang lổ máu. Nhưng không có âm thanh nào phát ra.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Pháp: Vùng đất thánh

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Pháp: Trường tiểu học nói tiếng Pháp

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Pháp: Chúng ta đã mất tất cả.
     
  8. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    vi.

    KHÔNG MUỐN QUẤY RẦY ông, phòng trường hợp ông chỉ đang nghỉ ngơi, tôi đứng dậy một cách nhẹ nhàng nhất có thể. Khắp mình mẩy tôi đều bị thương. Trong một lúc tôi cứ đứng đó nhìn xuống phía ông, chùi tay vào chiếc áo khoác đồng phục – máu của ông đã bắn lên người tôi, tay tôi cũng dính đầy – và rồi tôi nhìn quanh khung cảnh hoang tàn đổ nát, cố gắng định hướng cho bản thân và tìm ra đường tốt nhất để đi.

    Khi tôi chật vật để đi được ra giữa không gian này, hoặc một nơi có vẻ như ở giữa không gian, tôi thấy một cách cửa đã bị che lấp bởi những vật dụng tả tơi rách nát, và tôi quay qua thử xem xét cánh cửa bên đối diện. Ở đấy, những thanh xà ngang đã rơi xuống, tạo thành một núi gạch vỡ mà cao gần bằng tôi và để lại một lớp khói bụi phía bên trên, đủ rộng để một xe ô tô có thể lái qua. Vô cùng vất vả, tôi bắt đầu trèo lên và trườn – bên trên hoặc xung quanh những thanh bê tông – nhưng tôi chưa đi được xa thì đã nhận thấy rằng mình nên đi theo hướng ngược lại. Những khối lửa còn sót lại vẫn đang liếm lên bờ tường của nơi mà trước đó là một cửa hàng lưu niệm, lửa vẫn tóe lên và sáng rực trong bóng tối, một vài ngọn lửa còn bốc lên từ bên dưới sàn nhà.

    Tôi thì không thích thú với hình ảnh của cánh cửa kia (phần xốp đã nhuốm máu; mũi giày của một người đàn ông đang nhô ra khỏi mớ gạch vụn) nhưng ít nhất thì những thứ đang chặn cửa cũng không quá rắn. Mò mẫm trở lại hướng đó, cúi người né những sợi dây điện đang thòng xuống từ trần nhà, tôi vắt túi qua vai, hít một hơi thật sâu và hấp tấp lao vào đống đổ nát.

    Ngay lập tức tôi đã bị mắc nghẹn bởi khói bụi và một thứ mùi hóa chất sặc sụa. Ho tới tấp và cầu nguyện đừng có thêm sợi dây điện nào lủng lẳng nữa, tôi vỗ lên mặt đất và lần mò trong bóng tối ngay khi đủ các loại mảnh vỡ bắt đầu rơi lả tả và đổ như mưa trước mắt tôi: sỏi đá, những tảng thạch cao, gạch vụn và những khối đồ-vật-có-Chúa-mới-biết.

    Một vài vật liệu thì nhẹ, một số cái khác thì không. Tôi càng đi được xa thì xung quanh càng tối, và càng nóng. Có đôi lúc đường đi bỗng trở nên chật hẹp và dồn khít lại, tai tôi thì vang lên thứ âm thanh ồn ào của đám đông mà tôi không biết nó đến từ đâu nữa. Tôi phải bám chắc vào các đồ vật xung quanh; có lúc tôi đi bộ, có lúc lại bò, những cơ thể người trong đám hỗn độn được tôi cảm nhận thấy hơn là được tôi nhìn thấy, sự phản lực thật mềm dưới sức nặng của tôi nhưng có điều còn tệ hơn, thứ mùi đó: mùi của vải cháy, tóc cháy, mùi thịt và mùi tanh của máu tươi, mùi của đồng, thiếc và muối.

    Tay tôi đã có vài vết cắt và đầu gối cũng thế. Tôi cúi gập người để tránh đồ vật và đi xung quanh vài thứ, phải tự cảm nhận đường mình đang đi, áp người dọc theo thứ gì đó giống như một cái máy tiện dài, hoặc một thanh xà nhà, cho tới khi tôi thấy mình đang bị chặn lại bởi một khối gì cứng như một bức tường vậy. Thật gian nan – vì nơi này quá chật – tôi lùng sục để có thể cho tay vào chiếc túi xách và tìm nguồn sáng.

    Tôi muốn lấy cái đèn pin móc khóa - ở đáy, dưới bức tranh – nhưng ngón tay tôi chỉ chạm được đến cái điện thoại. Tôi bật nó lên – và gần như ngay lập tức làm rơi nó, vì trong ánh sáng vừa lóe lên ấy, đập vào mắt tôi là bàn tay của một người đàn ông đang thò ra giữa hai khối bê tông. Ngay cả trong nỗi khiếp sợ, tôi vẫn nhớ cảm giác thật biết ơn vì đó chỉ là một bàn tay, mặc dù những ngón tay đều mang cái vẻ thâm xì và sưng vù lên mà tôi không bao giờ có thể quên được; cho tới sau này, tôi vẫn luôn hoảng hồn khi một người ăn mày nào đó trên phố đưa ra một bàn tay như thế, sưng húp và đầy cáu bẩn dưới móng tay.

    Vẫn còn cái đèn pin – nhưng tôi muốn tìm cái điện thoại. Nó hắt một tia sáng yếu ớt lên phía khe hẹp mà tôi đang đứng, nhưng ngay khi tôi đã cúi gần thấp để chạm tới thì màn hình phụt tắt. Một màu xanh như axít còn đọng lại đang trôi nổi giữa một màu đen kịt trước mắt tôi. Tôi quỳ xuống và bò xung quanh trong bóng tối, dùng cả hai tay để mò mẫm những hòn đá và mảnh thủy tinh, quyết tâm phải tìm được nó.

    Tôi nghĩ là mình biết nó ở đâu, hoặc biết nó ở trong khoảng nào, và có lẽ tôi đã tìm nó trong khoảng thời gian lâu hơn tôi nên làm, ngay khi tôi sắp hết hi vọng và chuẩn bị đứng dậy thì tôi chợt nhận ra là tôi đã bò vào một vùng trũng sâu mà giờ không thể đứng dậy được, với một lớp bê tông cứng cách đầu tôi khoảng 3 inch. Quay đầu lại không ổn; bò trở lại cũng không ổn; thế nên tôi quyết định sẽ bò tiếp, thầm hi vọng sẽ có lối đi được mở ra, và dần dần tôi nhận ra bản thân đang lết từng bước với cái cảm giác tan nát, vô vọng và đầu tôi thì chỉ có thể quay ngoặt sang một bên.

    Hồi tôi bốn tuổi, có lần tôi đã bị mắc kẹt trong cái giường kiểu Murphy ở căn hộ của chúng tôi trên đại lộ số 7, cái mà nghe như một tình huống rất hài hước nhưng không hẳn là vậy; tôi nghĩ có lẽ mình sẽ bị ngạt thở nếu Alameda, người giúp việc trong nhà tôi hồi đó, không nghe thấy tiếng khóc bị nghẹt lại và kéo tôi ra. Cố gắng xoay sở trong cái nơi cạn không khí này cũng tương tự như thế, chỉ là tệ hơn mà thôi: với thủy tinh, kim loại nóng, thứ mùi nồng nặc của quần áo cháy, và thường trực ấn lên người tôi là thứ gì đó mềm mềm mà tôi không muốn nghĩ đến. Đống đổ nát hỗn độn phía trên đang đổ dồn xuống người tôi; cổ họng tôi thì đầy bụi và tôi đang ho không ngớt và bắt đầu thấy hoảng loạn khi chợt nhận ra mình có thể nhìn thấy, chỉ một chút, sự gồ ghề của những tảng gạch vỡ. Ánh sáng – một tia sáng yếu ớt nhất từng tồn tại – đã soi rọi một cách mơ hồ từ phía bên trái, cách mặt đất khoảng 6 inch.

    Tôi cúi người xuống thấp hơn, và thấy mình đang nhìn được vào cái sàn nhà bằng gạch của một phòng triển lãm khác. Một đống hỗn độn những thứ mà trông giống như thiết bị cứu hộ (dây thừng, rìu, xà beng, một bình dưỡng khí ghi chữ FDNYVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) đang nằm la liệt trên sàn.

    “Có ai ở đó không?” tôi gọi – không thèm chờ đợi một câu trả lời, tôi liền luồn qua cái lỗ đó nhanh nhất có thể.

    Cái lỗ thì rất hẹp; nếu tôi lớn thêm vài tuổi hay nặng hơn vài pound là có thể sẽ không qua được. Túi của tôi bị mắc kẹt ở chỗ nào đó, và có lúc tôi đã nghĩ mình phải bỏ lại nó thôi, có thể có bức tranh hoặc không, như một con thằn lằn quyết định bỏ lại đuôi của nó, nhưng khi tôi kéo nó ra một lần cuối cùng thì nó cững đã thoát ra được cùng vô số mảnh gạch vữa. Phía trên tôi là một cái thanh rầm, thứ mà có vẻ như đang phải đỡ một lượng lớn các vật liệu xây dựng, và khi tôi xoay người trườn bên dưới nó, tôi đã quay cuồng với nỗi sợ rằng nó sẽ rơi và cắt tôi làm hai cho tới khi tôi nhận ra là có ai đó đã cố định nó bằng một cái giá đỡ.

    Khi đã tỉnh táo, tôi đứng thẳng dậy, mồ hôi ướt đẫm và thở phào nhẹ nhõm. “Xin chào?” tôi gọi lần nữa, tự hỏi tại sao lại có rất nhiều thứ thiết bị ở đây nhưng không có lấy một bóng dáng người lính cứu hỏa nào. Phỏng triển lãm này chỉ lờ mờ sáng nhưng hầu như không bị phá hủy, chỉ có vài lớp khói mỏng đang dần quyện đặc lại khi chúng bay lên cao, nhưng bạn có thể nhận ra đã có một lực quét dữ dội kéo qua căn phòng này, thông qua bóng đèn và camera an ninh, những thứ đã bị vặn lệch đi và quay mặt lên trần nhà. Tôi đã quá vui vì được trở lại với không gian thoáng đãng đến mức phải một lúc sau tôi mới nhận ra sự lạ lùng của việc là người duy nhất đang đứng trong một căn phòng có nhiều người. Tất cả mọi người đều đang nằm trên sàn ngoại trừ tôi.

    Phải có ít nhất cả tá người trên sàn – không phải ai cũng còn nguyên vẹn. Họ có cái vẻ của người bị rơi từ trên cao xuống. Ba hoặc bốn người đã được che phủ một phần bằng áo khoác của lính cứu hỏa, chân vẫn thò ra ngoài. Những người khác thì nằm sõng soài giữa những vùng loang lổ của sự tàn phá. Những cú nổ và sự bắn tung mọi thứ đã đem theo một sự dữ dội đột ngột, như một cú hắt hơi ra máu, một sự chuyển động điên cuồng giữa bầu không khí yên tĩnh. Tôi đặc biệt vẫn còn nhớ một người phụ nữ trung niên trong chiếc áo khoác bị máu bắn lên tung tóe, chiếc áo khoác có hình những quả trứng phục sinh, thực ra giống như một chiếc áo mà bà ấy có thể mua được từ cửa hàng đồ lưu niệm vậy. Đôi mắt của bà ấy – vẫn còn đường kẻ mắt đen – đang trống rỗng nhìn lên trần nhà; làn da rám nắng của bà rõ ràng là được phun lên bởi nó mang một màu nâu quả mơ rất khỏe khoắn mặc dù phần đỉnh đầu của bà đã không còn nguyên vẹn.

    Những lớp sơn dầu đã mờ, màu mạ vàng cũng xỉn đi. Bước từng bước nhỏ, tôi đi ra giữa căn phòng, quay nhìn xung quanh, cảm giác hơi mất chếnh choáng. Tôi có thể nghe thấy chính tiếng hít vào thở ra khó nhọc của mình và có một âm thanh được gợn lên rất nhẹ nhàng, sự êm ái của một cơn ác mộng. Tôi không muốn nhìn nhưng tôi vẫn phải làm. Một người đàn ông châu Á thấp bé, thật đáng thương trong chiếc áo gió đã cháy sém, đang cuộn mình giữa vũng máu chảy ra từ bụng. Một người bảo vệ (đồng phục chính là thứ dễ nhận thấy nhất ở anh ta, còn gương mặt anh ta thì đã bị bỏng nặng) với một cánh tay ngoặt ra sau và một đống gì tóe ra ở vị trí của đôi chân.

    Nhưng cái chính và quan trọng là: không ai trong số những người đang nằm đó là mẹ tôi. Tôi bắt bản thân mình phải nhìn vào tất cả bọn họ, riêng biệt, từng người một – ngay cả khi tôi không thể bắt bản thân nhìn vào gương mặt họ, tôi vẫn biết rõ về bàn chân của mẹ tôi, quần áo cùng đôi giày hai tông màu trắng đen của bà – và lâu sau khi tôi đã chắc chắn về điều đó tôi bắt mình phải đứng dậy, sâu bên trong tôi thì đang quặn thắt lại như một chú chim bồ câu ốm yếu với đôi mắt nhắm nghiền.

    Ở phòng triển lãm bên cạnh: nhiều sự chết chóc hơn. Ba người đã thiệt mạng. Một người đàn ông to lớn mặc vest của vùng Argyll; một cụ già với vết thương đã loét miệng; một cô bé con da trắng như sữa, chỉ bị trầy ở vùng thái dương, ngoài ra không còn dấu vết nào khác. Nhưng sau đó thì không còn ai như vậy nữa. Tôi đi qua vài phòng triển lãm đầy những thiết bị nhưng mặc dù trên sàn còn vết máu, không có ai chết cả. Và khi tôi bước vào căn phòng dường như xa xôi nhất nơi mà mẹ tôi đã đứng, nơi bà đã đi tới, căn phòng với bức vẽ Bài học giải phẫu – mắt tôi nhắm chặt, cầu nguyện rất nhiều lần – thì vẫn chỉ có những cái cáng bệnh nhân và vài thứ máy móc và ở đó, khi tôi đi qua, với tiếng gào thét trong im lặng, hai con người duy nhất đang quan sát tôi chính lại là hai người Hà Lan khó hiểu trong bức tranh ấy, những con người đã nhìn vào mẹ tôi và tôi từ phía bức tường: các người đang làm gì ở đây?

    Thế rồi thứ gì đó đột nhiên kêu tách một cái. Tôi không nhớ nổi là nó diễn ra như thế nào; chỉ là tôi đang đứng ở một nơi hoàn toàn khác và đang chạy, chạy mãi qua bao nhiêu căn phòng không có gì ngoại trừ những làn khói khiến cho sự đồ sộ trở nên mơ hồ và không hề có thật. Trước đó, những căn phòng có dạng khá giản đơn, hơi uốn khúc nhưng rất có trình tự logic nơi mà tất cả các nhánh phòng đều đổ về phía gian hàng lưu niệm. Nhưng lúc này, khi lướt thật nhanh qua chúng, và theo đường đi ngược lại, tôi nhận ra lối đi không thẳng chút nào; và tôi hết lần này đến lần khác luôn gặp phải những bức tường trắng trơn và lạc vào ngõ cụt. Cửa và lối vào thì ở những nơi tôi không ngờ tới; những bệ đứng thì mọc ra từ hư không. Quay cuồng xung quanh góc phòng khiến tôi suýt va đầu vào đám vệ sĩ trong tranh của họa sĩ Frans Hals: cao lớn, rắn chắc, những người đàn ông má hồng hào, không còn tỉnh táo do uống quá nhiều bia, như những cảnh sát New York tại một bữa tiệc hóa trang vậy. Họ nhìn xuống tôi một cách lạnh lùng, với đôi mắt hài hước và chăm chú, khi tôi dần tỉnh táo, lùi lại vài bước, và bắt đầu lại chạy đi.

    Ngay cả vào những ngày vui vẻ, đôi khi tôi vẫn bị đi lạc quanh bảo tàng này (đi lang thang không mục đích trong những phòng trưng bày về Nghệ Thuật Dưới Đại Dương, các loại linh vật, thuyền làm từ thân cây) và đôi khi tôi phải tới hỏi người bảo vệ đường ra. Những phòng triển lãm tranh thì đặc biệt rắc rối vì chúng được sắp đặt lại rất thường xuyên; khi tôi chạy qua những khu sảnh trống trơn, dưới thứ ánh sáng mập mờ ma quỷ, tôi càng lúc càng trở nên sợ hãi. Tôi cứ nghĩ là mình biết lối đi tới cầu thang chính, nhưng ngay sau khi tôi ra khỏi khu Triển Lãm Đặc Biệt thì mọi thứ bắt đầu trở nên xa lạ và sau vài phút cứ vô định chạy qua những ngã rẽ mà tôi chẳng hề chắc chắn, tôi nhận ra là mình đã lạc rất sâu rồi. Có lúc tôi bắt gặp những kiệt tác của nước Ý (Chúa bị đóng đinh lên cây thánh giá và sự hoảng hốt của các vị thánh; con rắn khổng lồ và những thiên thần đầy vững chãi) được đem tới nước Anh, vào thế kỉ mười tám, một khu vực của bảo tàng mà lúc trước hiếm khi tôi đến và tôi cũng không biết gì về nó. Những hàng dài sang trọng của cảnh vật trải ra trước mắt tôi, những đại sảnh như mê cung đem lại cảm giác như một căn biệt thự bị ma ám: những vị lãnh chúa đội tóc giả, những cô gái đẹp của vùng Gainsborough, đang ngạo mạn ngắm nhìn nỗi tuyệt vọng của tôi. Những bức vẽ bá tước thật làm tôi phát điên, vì chúng không có vẻ gì là dẫn tới cầu thang ra hành lang chính mà chỉ đưa tới một triển lãm tranh nữa về những ngài bá tước mà giống y hệt chúng; và tôi gần như sắp òa khóc khi đột nhiên thấy một cánh cửa kín đáo bên cạnh tường phòng.

    Bạn phải nhìn lại lần nữa mới có thể thấy nó, cái cánh cửa đó; nó được sơn cùng màu với tường, ; loại cửa mà, trong trường hợp thông thường, luôn đem cái vẻ là sẽ bị khóa chặt mãi mãi. Nó chỉ gây sự chú ý với tôi vì nó không đóng hẳn – phần bên trái không khít với tường, có thể do nó không được lắp đúng hoặc vì khóa cửa không còn hoạt động nữa khi điện bị mất, tôi cũng không rõ. Tuy nhiên, nó cũng không dễ dàng mở ra – nó làm bằng thép rất nặng, và tôi phải dùng hết sức bình sinh để kéo nó. Đột nhiên – sau một hơi thở khó nhọc của tôi – nó trượt ra bất ngờ làm tôi bổ nhào.

    Len lỏi qua, tôi thấy mình đang đứng trong một hành lang giữa hai dãy văn phòng, trần nhà thì đã bị hạ thấp. Đèn báo động trong này cũng yếu hơn ở phía khu triển lãm chính, và nó khiến mắt tôi phải một lúc sau mới thích nghi được.

    Hành lang này dường như kéo dài đến vài dặm. Thận trọng, tôi lần mò dọc theo đường đi, nhìn vào những văn phòng nơi có cửa tình cờ được mở hờ hững. Cameron Geisler, Quản lý sổ sách. Miyako Fujita, Trợ lý. Ngăn tủ thì mở toang còn ghế thì đã được kéo ra khỏi bàn. Trên lối vào của một căn phòng là một chiếc giày cao gót nằm lăn lóc.

    Cái không khí hoang tàn này mang vẻ kỳ quái toát ra ngay từ bên trong. Dường như ở đâu đó xa xa tôi vẫn nghe được tiếng còi xe cảnh sát, thậm chí cả tiếng xì xào nói chuyện và tiếng chó sủa, nhưng tai tôi đã bị chấn động sau vụ nổ tới mức tôi không chắc là mình thực sự nghe được những thứ đó. Mọi thứ bắt đầu khiến tôi yếu ớt dần khi tôi không thấy người lính cứu hỏa, cảnh sát hay bảo vệ nào cả - thực ra là không thấy bất cứ một linh hồn sống nào.

    Khu vực Dành Cho nhân Viên không quá tối đối với cái đèn pin móc khóa của tôi, nhưng nó cũng chẳng đủ sáng để tôi có thể nhìn rõ hết. Có vẻ như tôi đang ở nơi chuyên nơi lưu trữ các loại tài liệu, bản ghi. Trong các văn phòng là hàng dài những tủ hồ sơ cao đến trần nhà, những giá kim loại, hộp nhựa đựng thư từ cùng với các loại hộp bìa. Cái hành lang chật chội này khiến tôi thấy khó chịu và bị bó hẹp, và những bước chân của tôi thì vang vọng một cách rối loạn đến mức đôi lúc tôi lại dừng bước và quay đầu ra sau xem có ai đang đi theo tôi xuống hành lang này không.

    “Xin chào?” tôi vừa thử cất tiếng gọi, vừa ngó qua vài căn phòng. Một số thì có vẻ hiện đại và rộng rãi; số khác thì chật kín đồ và hơi bẩn thỉu, với những chồng bừa bộn giấy và báo.

    Florens Klauner, Khoa Nhạc cụ. Maurice Orabi-Roussel, Nghệ thuật đạo Hồi. Vittoria Gabetti, Dệt may. Tôi có lướt qua một căn phòng tối om với những chiếc bàn trưng bày dài nơi mà vô số mảnh vải khác nhau được bày ra như những mảnh ghép của bộ xếp hình. Cuối căn phòng là một mớ những giá treo quần áo với rất nhiều túi nhựa đựng vải đã rơi lả tả, giống như những giá treo quần áo gần chỗ thang máy dịch vụ tại cửa hàng Bendel’s hoặc Bergdorf’s.

    Tại ngã ba tôi nhìn theo cả hai hướng, không biết nên quẹo sang bên nào. Tôi ngửi đâu đó có mùi sáp đánh bóng sàn nhà, nhựa thông và mùi hóa chất, cả mùi khói nữa. Văn phòng và xưởng thì kéo dài vô tận theo mọi hướng: một mạng lưới hình học được bao trọn, cố định và chẳng có gì đặc biệt.

    Bên trái tôi có chút ánh sáng nhấp nháy từ một vật cố định trên trần nhà. Nó le lói và bị chặn lại, trong giây phút tĩnh lặng, và trong thứ ánh sáng run rẩy ấy, tôi trông thấy một bệ phun nước uống đặt ở lối hành lang phía xa.

    Tôi chạy tới nó – nhanh đến mức chân tôi có thể trượt xuống phía dưới – và hớp từng ngụm khi ấn miệng vào vòi nước, thật nhiều nước mát, thật nhanh, đến nỗi từng đợt đau nhói cứ thế xoáy vào hai bên thái dương. Nấc lên từng tiếng, tôi rửa sạch máu khỏi bàn tay và té nước lên đôi mắt đau rát của mình. Những hạt thủy tinh li ti – gần như không nhìn thấy được – cứ rơi xuống khay kim loại của vòi nước như những cái kim làm bằng đá lạnh.

    Tôi dựa người vào tường. Ánh đèn huỳnh quang trên đầu – cứ rung rung, bật tắt liên hồi – khiến tôi thấy choáng váng. Tôi chật vật kéo mình đứng dậy; lại đi tiếp, hơi lung lay bởi thứ ánh sáng nhảy múa kia. Mọi vật rõ ràng là trông có vẻ chuyên nghiệp hơn ở hướng đi này: những bệ gỗ, một chiếc xe đẩy phẳng, cảm giác về những đồ vật liên tục được sản xuất, di chuyển và cất giữ. Tôi qua một ngã ba nữa, nơi có một đường đi sấp bóng lùi dần vào bóng tối, và khi đang chuẩn bị bước qua nó và đi tiếp thì tôi bắt gặp một ánh sáng đỏ lóe lên phía cuối đường có ghi chữ LỐI RA.

    Tôi hụt chân; tôi vấp ngã; tôi lại đứng dậy, vẫn nấc nghẹn, và cất bước chạy trên lối hành lang vô tận. Phía cuối là một cánh cửa có thanh nắm bằng kim loại, giống như cửa an ninh ở trường tôi.

    Tôi đẩy nó với một tiếng gằn trong cổ họng. Tôi lao xuống một cầu thang tối, mười hai bước chân, một lối rẽ ở bậc thang cuối, lại mười hai bước cho tới mặt đất, những ngón tay tôi lần mò trên mặt sỏi, tiếng giày lộp cộp vang vọng ầm ĩ đến mức như thể có cả tá người đang chạy về phía tôi. Ở chân cầu thang là một hành lang xám xịt cùng một cánh cửa khép chặt. Tôi tông mình vào cửa, đẩy nó bằng cả hai tay – và ngay lập tức bị táp mạnh vào mặt bởi những hạt mưa cũng như bởi tiếng còi hụ đinh tai nhức óc.

    Tôi nghĩ có lẽ lúc đó mình đã thét lên rất lớn, tôi quá hạnh phúc khi thoát được ra ngoài, mặc dù không ai có thể nghe thấy tôi giữa vô vàn những âm thanh khác: tôi cũng đã cố hét át tiếng động cơ phản lực trên đường băng từ phía sân bay LaGuardia trong khi cơn bão đang hoành hành. Tiếng ồn đó nghe như mọi xe cứu hỏa, mọi xe cảnh sát, mọi xe cứu thương và cấp cứu từ năm khu cộng thêm New Jersey đang hú còi và làm om sòm khắp Đại lộ số Năm, một âm thanh hạnh phúc vô bờ: như những màn pháo hoa của Năm mới, Giáng sinh và Quốc khánh được gộp lại và trình diễn một lần duy nhất.

    Lối thoát ra đã đẩy tôi ra phía Công viên Trung tâm, qua một cánh cửa phụ bỏ không giữa bến dỡ hàng và chỗ đậu xe. Lối đi hiện lên vắng vẻ giữa không gian nhuốm màu chàm; ngọn cây thì phủ một màu trắng xóa, đang lay động dữ dội và sủi bọt lên không trung sau mỗi đợt gió. Xa hơn, trên con phố mà mưa đang quét qua, Đại lộ số Năm đã bị phong tỏa. Nhìn xuyên qua màn mưa, từ nơi tôi đang đứng, tôi chỉ có thể trông thấy toàn cảnh sự oanh tạc khủng khiếp: cần cẩu và các thiết bị khổng lồ, cảnh sát đang dồn đám đông lại phía sau, đèn đỏ, vàng và xanh, ánh đèn lóe sáng theo nhịp và xoay vòng và chớp tắt trong sự hỗn loạn không ngờ.

    Tôi giơ cùi chỏ lên để che cho mặt khỏi ướt và bắt đầu chạy qua khu công viên vắng vẻ. Mưa bắn vào mắt tôi và chảy dọc xuống từ trán, khiến những ngọn đèn trên Đại lộ như tan chảy thành những chấm tròn mờ ảo đang nhấp nháy phía xa.

    Sở cảnh sát New York, Sở cứu hỏa New York, những chiếc xe tải đang đỗ lại với kính chắn gió có ghi: K-9, Tiểu đoàn hoạt động cứu hộ, Cục nghiên cứu vật liệu nguy hiểm thành phố New York. Những chiếc áo mưa đen đang đập phần phật trong gió. Một dải băng vàng bảo vệ hiện trường đã được căng lên quanh lối ra vào công viên, phía cổng Miner’s. Không hề do dự, tôi nhấc nó lên và luồn qua rồi chạy nhanh về phía đám đông.

    Giữa thời khắc hỗn độn ấy, chẳng ai để ý tới tôi. Trong một lúc, tôi cứ chạy tới chạy lui trên phố, mưa vẫn cứ bắn vào mặt. Nơi nào tôi nhìn vào cũng thấy hình ảnh hoảng loạn của chính mình đang lướt theo. Mọi người thì đang chạy vội vã và túa ra xung quanh tôi: cảnh sát, lính cứu hỏa đội mũ bảo hộ, một người đàn ông lớn tuổi đang ôm lấy cánh tay bị gãy và một người phụ nữ bị chảy máu mũi bị xua tới Phố 79 bởi một người cảnh sát đang tập trung vào công việc khác.

    Chưa bao giờ tôi lại thấy nhiều xe cứu hỏa tụ vào một nơi như thế: Squad 18, Fighting 14, New York Ladder 7, Rescue One, 4 Truck Pride of Midtown. Len lỏi qua một biển xe ô tô và những bóng đồng phục áo mưa đen, tôi bắt gặp một chiếc xe cứu thương của bên Hatzolah: những chữ cái Do thái viết sau xe, một phòng bệnh viện thu nhỏ có thể nhìn thấy được qua cánh cửa mở. Những người giúp đỡ đang tập trung vào một phụ nữ, cố gắng ấn cô ta xuống khi cô ta định ngồi dậy. Một bàn tay nhăn nheo với móng tay sơn đỏ đang quẫy mạnh trong không khí.

    Tôi dộng nắm đấm lên cửa. “Các người phải vào trong,” tôi hét. “Mọi người vẫn ở trong đó…”

    “Vẫn còn một quả bom nữa,” người y tá hét trở lại mà không nhìn vào tôi. “Chúng ta phải sơ tán trước.”

    Trước khi tôi kịp có thời gian để hiểu hết câu nói đó, một người cảnh sát khổng lồ đã vồ lấy tôi nhanh như chớp: một người đàn ông vạm vỡ, gan lì, với cánh tay nổi bắp cuồn cuộn như một vận động viên cử tạ. Ông ghì tôi bằng chính bắp tay đó và bắt đầu xô mạnh tôi về phía bên kia đường.

    “Cậu đang làm cái cái quái gì ở đây vậy?” ông gầm lên, át tiếng chống cự của tôi, trong khi tôi đang cố vặn mình thoát ra.

    “Thưa ông…” Một người phụ nữ với khuôn mặt đầm đìa máu đột nhiên xuất hiện, cố gắng lấy sự chú ý của ông ta – “Thưa ngài, tôi nghĩ là tay tôi đã gãy mất rồi…”

    “Hãy tránh xa tòa nhà đó!” ông hét lên với người phụ nữ, hất tay cô ta đi và rồi, quay lại nói với tôi – “Ngay bây giờ!”

    “Nhưng…”

    Dùng cả hai tay, ông đẩy tôi đi mạnh đến nỗi tôi loạng choạng suýt ngã. “TRÁNH XA KHỎI TÒA NHÀ ĐÓ!” ông thét lớn, đẩy mạnh hai tay ra phía trước cùng với tiếng sột soạt của áo mưa. “NGAY BÂY GIỜ!” Ông thậm chí còn không đang nhìn vào tôi; đôi mắt nhỏ và bực bội của ông đang dán vào thứ gì đó đang xảy ra phía trên cao cách xa khỏi đầu tôi, về phía các con phố, và biểu cảm mặt đó khiến tôi hoảng loạn.

    Thật vội vàng, tôi lội qua đám đông những nhân viên cứu hộ để sang bên kia đường, ngay gần Phố 79 – vẫn tiếp tục tìm mẹ tôi, mặc dù tôi không thấy bà ở đâu cả. Xe cứu thương và các phương tiện y tế tập trung lại rất đông: Cứu hộ Beth Israel, Đồi Lenox, Giáo hội New York, Trung tâm trợ giúp y tế Cabrini EMS. Một người đàn ông trong bộ đồ công sở nhuốm máu đang nằm bẹp phía sau hàng rào cây thủy tùng trong một khoảnh sân nhỏ có hàng rào bao quanh của một trang viên trên Đại lộ Năm. Một dải băng bảo vệ hiện trường đã được căng lên, đang đập và giật mạnh vì gió – nhưng những người cảnh sát đang đội mưa cùng lính cứu hỏa và những người đội mũ bảo hộ thì vẫn nhấc nó lên và chui qua hết lần này đến lần khác như thể nó không có ở đó.

    Mọi cặp mắt đều hướng lên trên phố, và sau này tôi mới biết tại sao; trên phố 84 (quá xa để tôi có thể nhìn) đội cảnh sát phòng chống vật liệu nguy hiểm đang trong quá trình “tiêu hủy” một quả bom chưa phát nổ bằng một khẩu pháo nước. Vốn dĩ định nói chuyện với ai đó để biết được chuyện gì đang xảy ra, tôi cố chen lên phía một chiếc xe cứu hỏa nhưng cảnh sát đã vây kín quanh đám đông, khua tay, vỗ tay, đẩy mọi người lùi lại phía sau.

    Tôi nắm được áo của một người lính cứu hỏa – một anh chàng trẻ tuổi, đang nhai kẹo cao su, có vẻ ngoài khá thân thiện. “Vẫn còn người ở trong đó mà!” tôi hét lên.

    “Đúng, đúng, chúng tôi biết,” anh ta cũng hét lại mà không nhìn thẳng vào tôi. “Họ bắt chúng tôi phải ra ngoài. Họ nói sau năm phút sẽ để chúng tôi vào.”

    Một cú đẩy đột ngột từ đằng sau. “Mọi người di chuyển, di chuyển đi!” Tôi nghe ai đó kêu lớn.

    Một giọng khàn và nặng trịch cất lên: “Bỏ tay ra khỏi người tôi!”

    “NGAY BÂY GIỜ! Mọi người di chuyển nhanh lên!”

    Ai đó lại đẩy tôi từ sau lưng. Lính cứu hỏa đang dỡ thang từ xe tải, cùng lúc hướng mắt lên phía Đền Dendur; cảnh sát đứng vai kề vai khin khít, thật bình thản dưới trời mưa như trút. Loạng choạng đi qua họ, lại bị đám đông cuốn đi, tôi có thể thấy những cặp mắt đờ đẫn, những cái đầu gật nhẹ, bàn chân trong vô thức lại đang đếm ngược từng nhịp một.

    Trước khi nghe được tiếng nứt của quả bom bị phá hủy, cùng với tiếng cổ vũ rền vang từ phía sân bóng ném trên Đại lộ Năm, tôi đã bị cuốn ra phía Quảng trường Madison. Cảnh sát – những cảnh sát giao thông – đang xoay vòng cánh tay của mình, đẩy dòng người lùi trở lại. “Nào mọi người, di chuyển đi, di chuyển đi nào.” Họ rẽ đường đi qua đám đông, vỗ hai tay lại với nhau. “Mọi người đi về hướng đông. Mọi người đi về hướng đông.” Một người cảnh sát – người đàn ông cao lớn với chòm râu dưới cằm và một chiếc khuyên tai, giống như một đô vật chuyên nghiệp – vươn tay ra xô đẩy anh chàng giao hàng đang mặc một chiếc áo nỉ người đang cố dùng điện thoại chụp ảnh lại, làm anh ta ngã va vào tôi và gần như xô tôi lăn ra đất.

    “Phải cẩn thận chứ hả!” người nhân viên giao hàng thét lên bằng một giọng cao và xấu xí; và người cảnh sát lại xô đẩy anh ta, lần này mạnh tới mức anh ta ngã sõng soài trên một rãnh thoát nước.

    “Cậu bị điếc hay sao hả anh bạn?” anh ta mắng. “Đứng dậy đi tiếp đi!”

    “Đừng chạm vào tôi!”

    “Vậy để tôi đập bể sọ cậu thì thế nào hả?”

    Giữa Đại lộ Năm và Madison thực sự là một nhà thương điên. Một đoàn trực thăng đang gầm rú phía trên đầu; tiếng người lẫn lộn phát ra từ loa phóng thanh. Mặc dù Phố 79 rất gần với đường lưu thông, nhưng nó cũng chật cứng xe cảnh sát, xe cứu hỏa, ụ chắn bằng xi măng, cùng với từng đoàn người đang la hét, hoảng loạn và ướt nhẹp. Vài người trong số đó là chạy về từ phía Đại lộ 5l; một vài người đang cố vùng vẫy tìm đường quay trở lại bảo tàng; vài người thì giơ điện thoại lên, tranh thủ chụp lại quang cảnh; vài người khác thì đứng như trời trồng, miệng há hốc kinh ngạc khi đám đông cứ chạy túa ra xung quanh họ, những cặp mắt cứ nhìn chằm chằm vào cuộn khói đen kịt trên bầu trời phía Đại lộ Năm vào một ngày mưa như thể người sao Hỏa sắp bay xuống.

    Tiếng còi hú; khói trắng bốc lên từ lỗ thông hơi ở ga tàu điện ngầm. Một người vô gia cư quấn mình trong tấm vải bẩn thỉu đang lò dò đi tới đi lui, trông có vẻ bồn chồn và bối rối. Tôi vẫn hi vọng và tiếp tục tìm mẹ tôi khắp xung quanh, mong chờ có thể thấy bà ở đâu đó; trong một khoảnh khắc, tôi cố lội ngược lại dòng người đang được di chuyển bởi cảnh sát (đứng trên đầu ngón chân và phải nghển cổ để nhìn) cho tới khi tôi nhận ra là không thể quay lại được và chỉ có thể cố gắng tìm thấy mẹ trong cơn mưa tầm tã ấy, trong đám đông hỗn độn ấy mà thôi. Mình sẽ gặp mẹ ở nhà vậy, tôi nghĩ. Nhà là nơi mà chúng tôi đã hẹn là sẽ gặp nhau ở đó; nhà là nơi có thể sắp xếp ổn thỏa mọi sự nguy cấp; bà chắc hẳn cũng sẽ thấy thật vô ích khi cứ đi tìm tôi trong cái mớ bòng bong đó. Nhưng không hiểu sao trong tôi vẫn có chút thất vọng nho nhỏ - và, khi tôi đi bộ về nhà (đầu đau như muốn nổ sọ, gần như nhìn một thành hai) thì tôi vẫn tiếp tục nhìn xem có mẹ tôi ở đâu đó không, nhìn kĩ từng khuôn mặt vô danh lướt qua tôi. Bà đã ra ngoài được; đó là điều quan trọng. Bà đã cách xa khỏi khu vực nguy hiểm nhất của vụ nổ. Không có cơ thể nào là mẹ tôi cả. Nhưng cho dù chúng tôi có thỏa thuận gì trước đi nữa, cho dù nó có rất hợp lý đi chăng nữa, thì phần nào đó trong tôi vẫn không tin được là bà lại đi ra khỏi bảo tàng đó mà không có tôi bên cạnh.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Trạm cứu hỏa thành phố New York
     
  9. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    CHƯƠNG II

    BÀI HỌC GIẢI PHẪU


    KHI TÔI CÒN NHỎ, khoảng bốn hay năm tuổi, nỗi sợ lớn nhất của tôi là một ngày nào đó mẹ tôi sẽ không về nhà sau khi tan làm nữa. Những phép tính cộng và tính trừ rất hữu ích chủ yếu trong việc giúp tôi tính toán các bước di chuyển của bà (còn bao nhiêu phút nữa là mẹ rời văn phòng? mất bao nhiêu phút để đi bộ từ văn phòng đến tàu điện ngầm?) và thậm chí trước cả khi học đếm thì tôi đã sốt sắng học cách đọc đồng hồ: siêng năng học về cái vòng tròn huyền bí được vẽ bằng bút chì lên giấy, mà một khi học được, tôi sẽ hiểu được những lần đi và về của mẹ tôi. Thông thường mẹ sẽ về nhà vào đúng giờ mà bà bảo, thế nên nếu bà có muộn mười phút thì tôi sẽ rối tinh lên; nếu muộn hơn thế nữa, tôi sẽ ngồi trên sàn nhà gần cửa ra vào căn hộ giống như một chú chó con đã bị bỏ một mình quá lâu, căng tai ra để nghe từng tiếng rung bần bật của thang máy lên tầng.

    Hầu như ngày nào ở trường tiểu học tôi cũng được nghe về những tin tức trên Kênh 7 khiến tôi rất lo lắng. Lỡ như một gã ăn mày trong chiếc áo khoác bẩn thỉu nào đó đẩy mẹ tôi vào đường ray khi bà đang đứng chờ chuyến tàu số 6 thì sao? Hay dồn bà vào một lối đi tối và đâm bà chỉ để lấy một cuốn sách bỏ túi? Lỡ như bà để rơi máy sấy tóc vào bồn tắm có nước, bị xe đạp đâm ngay trước mũi ô tô, hay bị đưa nhầm thuốc ở bệnh viện nha khoa và chết, giống như mẹ một người bạn cùng lớp của tôi thì sao?

    Cái việc nghĩ rằng sẽ có điều gì đó xảy ra với mẹ khiến tôi vô cùng hoảng loạn vì cha tôi là người rất không đáng tin cậy. Tôi nghĩ không đáng tin cậy là cách để nói về chuyện này một cách lịch sự. Ngay cả khi có tâm trạng tốt thì ông cũng làm mọi việc cứ như là đang bị mất chi phiếu và nằm ngủ khi cửa căn hộ vẫn mở toang, vì ông đã đi uống rượu. Và khi ông đang trong trạng thái bực bội – cái mà xảy ra hầu hết thời gian – mắt ông đỏ lừ và người thì ướt, bộ quần áo ông mặc nhàu nhĩ như thể ông đã lăn trên sàn khi mặc nó và một cảm giác cứng nhắc giả tạo tỏa ra từ phía ông giống như từ phía một vật gì bị ép nén và sắp phát nổ.

    Mặc dù tôi không hiểu tại sao ông lại không vui, nhưng nó hiện lên rõ ràng rằng sự không vui đó là lỗi của chúng tôi. Mẹ và tôi khiến ông thấy bực mình. Chính vì chúng tôi mà ông phải làm công việc ông không thể chịu đựng được. Tất cả mọi thứ chúng tôi làm đều rất ngứa mắt. Ông đặc biệt không thích ở gần tôi, chứ không phải là ông thường không thích vậy: vào các buổi sáng, khi tôi chuẩn bị tới trường, ông ngồi đó với cặp mắt sưng lên và uống cà phê trong im lặng với tờ Nhật báo phố Wall trước mặt, áo choàng tắm không cài dây và tóc thì dựng đứng lên để lộ đường bò liếm, và đôi khi ông run lên đến mức cái tách cà phê chao đảo mỗi khi ông đưa nó lên miệng. Ông nhìn tôi cảnh giác khi tôi bước vào, cánh mũi phồng lên nếu tôi gây ra quá nhiều tiếng ồn khi dùng các thứ dụng cụ ăn hoặc khi ăn ngũ cốc trong bát,

    Ngoại trừ sự khó xử hàng ngày thì tôi cũng chẳng gặp ông nhiều. Ông không ăn tối cùng mẹ và tôi cũng như không tham dự các buổi lễ ở trường; ông không chơi cùng hay trò chuyện với tôi nhiều khi ông ở nhà; thực ra cũng hiếm khi ông ở nhà cho tới khi tôi đã đi ngủ, và có vài ngày – những ngày nhận lương, thường là thứ sáu cách tuần – phải tới ba hay bốn giờ sáng ông mới về nhà trong tiếng loảng xoảng: đập cửa, thả cặp đi làm xuống nền nhà, đâm đổ hay va chạm loạn lên đến mức đôi khi tôi hoảng hốt tỉnh giấc, mắt dán vào những ngôi sao phản quang trên trần nhà và tự hỏi liệu có phải một tên giết người đã đột nhập vào nhà. May mắn là khi ông đã say thì những bước chân của ông chỉ còn là những nhịp gõ chậm rãi khó chịu và không thể lẫn vào đâu được – những bước chân của Frankeinstein, như tôi vẫn gọi, thận trọng và ì ạch, với những khoảng nghỉ dài giữa các bước chân – và ngay sau khi đã nhận ra chỉ có mình ông đang lò dò trong bóng tối chứ không phải một tên giết người hàng loạt hay một tên tâm thần, tôi lại dần trôi vào trong giấc ngủ đầy cáu kỉnh. Ngày hôm sau, thứ bảy, mẹ và tôi sẽ tự động đi ra khỏi căn hộ trước khi cha tôi tỉnh dậy khỏi giấc ngủ mướt mồ hôi và quay cuồng trên ghế sofa. Nếu không như vậy thì chúng tôi sẽ phải dành cả ngày rón rén qua lại, sợ mình đóng cửa quá mạnh hoặc sợ làm phiền ông ấy theo bất cứ cách nào, trong khi ông ngồi mặt lạnh như đá trước tivi, cùng với một chai bia Tàu mua ở cửa hàng tiện lợi và cặp mắt đờ đẫn, xem tin tức hay thể thao mà không bật âm lượng.

    Bởi vậy, cả mẹ tôi lẫn tôi đều không gặp quá nhiều rắc rối khi thức dậy vào một sáng thứ bảy nọ và thấy cha tôi đã không về nhà. Đến ngày chủ nhật thì chúng tôi bắt đầu suy nghĩ, và thậm chí chúng tôi cũng chẳng buồn lo lắng như những người bình thường vẫn thế; đó đang là mở đầu mùa giải bóng ném các trường đại học; chắc hẳn là ông cũng đặt cược ít nhiều vào đó, và chúng tôi nghĩ ông đã đi xe buýt đến thành phố Atlantic mà không báo với chúng tôi. Cho tới ngày tiếp theo, khi thư kí Lorette của cha tôi gọi điện vì không thấy ông đi làm thì dường như đã có chuyện gì đó xảy ra. Mẹ tôi lo rằng ông đã bị cướp và giết khi bước ra khỏi quán bar trong trạng thái lướt khướt nên bà đã gọi cảnh sát; chúng tôi đã trải qua vài ngày căng thẳng chờ đợi một cuộc gọi hoặc một cú gõ cửa. Thế rồi, đến gần cuối tuần, một mảnh giấy sơ sài từ cha tôi đã tới (dấu bưu điện từ Newark, New Jersey) để thông báo cho chúng tôi bằng thứ chữ viết dài nghuệch ngoạc rằng ông đã ra đi để “bắt đầu một cuộc sống mới” ở một địa điểm không được tiết lộ. Tôi vẫn nhớ mình đã nghĩ rất nhiều về cụm từ “cuộc sống mới” như thể nó sẽ thực sự hé lộ đầu mối gì đó về nơi mà ông đã đi; sau khi tôi quấy rầy, kêu la và vòi vĩnh mẹ tôi trong khoảng một tuần, bà cuối cùng đã nhượng bộ cho tôi tự đọc lá thư (“Ừm, thôi được,” bà nói với giọng cam chịu, khi bà mở ngăn kéo bàn và lôi nó ra, “mẹ không biết là cha con muốn mẹ nói gì với con, có lẽ con sẽ muốn nghe từ chính ông ấy hơn đấy”). Nó được viết trên một tờ giấy trắng từ một quán trọ Doubletree nào đó ở gần sân bay. Tôi đã tin rằng nó sẽ chứa đựng gợi ý nào đó về nơi ở hiện tại của ông, nhưng thay vào đó tôi đã bị tạt một gáo nước lạnh bởi sự ngắn gọn đến cùng cực của nó (chỉ bốn đến năm dòng) với những nét nghuệch ngoạc cẩu thả, như thứ gì đó mà ông tranh thủ ngoáy qua trước khi chạy ra cửa hàng tạp hóa.

    Về nhiều mặt thì thật là nhẹ nhõm khi cha tôi đã biến mất khỏi khung hình thường ngày. Chắc chắn là tôi sẽ không nhớ nhung gì nhiều, và mẹ tôi cũng không có vẻ sẽ lưu luyến, mặc dù thật là đáng tiếc khi mẹ tôi phải để người giúp việc Cinzia đi vì chúng tôi không có đủ tiền trả cho cô ấy (Cinzia đã khóc lóc và đề nghị được ở lại làm không công; nhưng mẹ tôi đã tìm cho cô một công việc bán thời gian ở cùng tòa nhà, làm cho một cặp vợ chồng với một đứa con; cứ khoảng một tuần cô lại ghé qua thăm mẹ tôi và uống tách cà phê, trên người vẫn còn nguyên tấm áo blouse mặc khi dọn dẹp.) Không ầm ĩ, bức ảnh hình cha tôi thời trẻ với làn da rám nắng đang đứng trên dốc núi phủ tuyết đã xuống khỏi bức tường và được thay bằng tấm ảnh tôi và mẹ ở sân trượt băng của Công viên Trung tâm. Mỗi đêm, mẹ tôi đều thức với cái máy tính, rà soát lại các hóa đơn. Mặc dù tiền thuê nhà là cố định nhưng sống mà không có đồng lương của cha tôi đúng là một cuộc đấu tranh mỗi tháng, vì cho dù ông ấy có thiết kế cho mình một cuộc sống mới kiểu gì đi nữa thì nó cũng không bao gồm việc gửi tiền chu cấp nuôi con. Cơ bản thì chúng tôi sống đủ hài lòng khi tự giặt quần áo ở tầng hầm, đi xem những buổi chiếu phim ban ngày thay vì những buổi chiếu tính tiền cả giá vé, ăn những thứ bánh mỳ không còn mới và những đồ tiện lợi giá rẻ từ Trung Quốc (mỳ, trứng foo yung) và đếm đủ từng đồng từng xu để trả tiền vé xe buýt. Nhưng khi tôi lê bước về nhà từ bảo tàng hôm đó – lạnh, ướt, với một cơn đau đầu làm hai hàm răng nghiến lại kèn kẹt - tôi chợt nhận ra rằng khi cha tôi đã đi rồi, sẽ chẳng còn ai trên trái đất này còn có thể đặc biệt lo lắng về mẹ hay về tôi nữa; không còn ai ngồi đó mà tự hỏi chúng tôi đã đi đâu cả buổi sáng hay tại sao lại không nghe tin gì từ chúng tôi. Dù ông có đang ở đâu, trong cái Cuộc Sống Mới của mình (vùng nhiệt đới hay đồng cỏ, thị trấn nhỏ đầy tuyết hay Thành Phố của nước Mỹ Sầm Uất) thì chắc chắn ông cũng sẽ dán mắt vào ti vi; và cũng đễ dàng tưởng tượng ra rằng có lẽ ông cũng đang cảm thấy đôi chút hoảng hốt và bận tâm, như bình thường ông vẫn hay thể hiện khi nghe được những câu chuyện tin tức gay cấn mà chẳng liên quan chút nào tới ông ấy, những cơn lốc xoáy và cầu sập ở những bang xa tít. Nhưng liệu ông có đủ lo lắng để gọi điện và kiểm tra chúng tôi? Có lẽ là không – cũng không nhiều hơn cái khả năng ông gọi cho văn phòng cũ để xem có gì xảy ra không, mặc dù chắc chắn là ông có nghĩ về những người cựu đồng nghiệp ở thị trấn và tự hỏi liệu những kẻ đếm hạt đậu và những tên vác-bút-chì (như ông hay gọi đồng nghiệp) có đang mở tiệc ở số 101 Đại lộ Park không. Những người thư ký liệu có sợ hãi mà thu dọn hết các bức ảnh trên bàn và đi đôi giày đi bộ vào để về nhà không? Hay nó lại chuyển thành một bữa tiệc nhẹ nhàng trên tầng thứ mười bốn, mọi người gọi sandwich và tụ tập quanh ti vi trong phòng hội thảo?

    Mặc dù quãng đường về nhà kéo dài vô tận, nhưng tôi lại không nhớ nhiều về nó ngoại trừ vầng trăng xám lạnh, khuất sau màn mưa trên Đại lộ Madison – những chiếc ô nhấp nhô, đám đông trên vỉa hè lặng lẽ trôi về phía trung tâm thành phố, một cảm giác như những đám người vô danh tụm lại với nhau như trong những bức ảnh tôi xem về giai đoạn các ngân hàng đồng loạt phá sản và hàng dài người đứng xếp hàng chờ phát bánh mỳ vào những năm 1930. Cơn đau đầu, cùng cơn mưa, đã thu hẹp thế giới lại chỉ còn là một vòng tròn bệnh tật đến mức tôi chỉ nhìn được tấm lưng của những người đi trên vỉa hè phía trước. Thật ra đầu tôi đau nhức đến mức tôi chẳng nhìn được là mình đang đi đâu nữa; có vài lần tôi suýt bị xe tông khi lao vào khu vực sang đường mà không chú ý đèn báo. Có vẻ như không ai biết chính xác chuyện gì đang xảy ra, mặc dù tôi có tình cờ nghe được từ “Nam Hàn” phát ra từ radio bên trong một xe taxi đang đỗ, và “Iran” và “al-Qaeda” được thì thầm bởi một số người bước qua.

    Và một người đàn ông da đen gầy gò với đám tóc uốn lọn – đã ướt nhẹp đến tận xương – đang đi đi lại lại trước phía bảo tàng Whitney, đấm nắm tay vào không trung và hét vào hư vô: “Hãy chuẩn bị đi, Manhattan! Osama bin Laden đang rung chuyển chúng ta lần nữa!”

    Mặc dù đang thấy choáng váng, và muốn ngồi tạm xuống, nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn tập tễnh với sự giật mạnh trong mỗi bước chân giống như một thứ đồ chơi gần hỏng. Cảnh sát ra hiệu; cảnh sát huýt sáo và vẫy tay. Nước vẫn nhỏ giọt từ mũi tôi. Hết lần này đến lần khác, tôi chớp mắt để ngăn nước mưa, ý nghĩ đó lại lướt qua đầu tôi: tôi phải về nhà càng sớm càng tốt. Mẹ sẽ đang nóng ruột đợi tôi ở nhà; bà sẽ lo đến phát sốt, tự nguyền rủa mình vì đã tịch thu điện thoại của tôi. Mọi người đều đang gặp vấn đề với việc gọi điện và những người đi bộ đang xếp từng hàng mười đến hai mươi người ở một số ít các trạm điện thoại công cộng trên phố. Mẹ ơi, tôi thầm nghĩ, Mẹ ơi, cố gắng gửi một tin nhắn thần giao cách cảm rằng tôi vẫn còn sống. Tôi muốn bà biết rằng tôi vẫn ổn và cùng lúc tôi nhớ là đã tự nói với bản thân rằng sẽ ổn khi tôi đang đi bộ thay vì đang chạy; tôi không muốn mình ngất xỉu trên đường về nhà. Thật may mắn là mẹ tôi đã đi khỏi chỗ đó chỉ vài giây trước! Bà đã để tôi lại đúng chỗ trung tâm vụ nổ; bà chắc hẳn sẽ nghĩ rằng tôi đã chết.

    Và nghĩ về cô gái cứu mạng tôi khiến mắt tôi tinh tường hơn chút. Pippa! Một cái tên lạ lùng và khô khốc cho một cô bé tóc đỏ có vẻ ngoài cũ kĩ và đôi chút hài hước: nó hợp với cô bé đó. Bất cứ lúc nào nhớ lại ánh mắt cô bé nhìn tôi, tôi lại thấy chóng mặt với cái ý nghĩ rằng cô bé – một người hoàn toàn xa lạ - đã ngăn tôi khỏi việc đi ra khỏi khu triển lãm và bước vào cái ánh chớp đen ngòm ở cửa hàng bưu thiếp, sự chấm dứt của mọi thứ. Liệu tôi còn có cơ hội nói với cô rằng cô đã cứu mạng tôi? Còn với người đàn ông già: những người lính cứu hỏa và nhân viên cứu trợ đã chạy khỏi tòa nhà chỉ vài phút sau khi tôi thoát ra được, và tôi vẫn giữ hi vọng rằng có ai đó sẽ quay trở lại và cứu ông ra ngoài – cánh cửa vẫn để lơ lửng, họ biết là ông vẫn ở trong đó. Liệu tôi có thể gặp lại ai trong số họ nữa không?

    Khi cuối cùng cũng về tới nhà thì tôi đã lạnh đến thấu xương, người thì nhừ tử và bước chân vấp váp. Nước chảy từ mớ quần áo ướt sũng của tôi tạo thành một vệt dài ngoằn ngoèo qua khu tiền sảnh của khu căn hộ.

    Sau đám đông hỗn độn trên phố thì cảm giác hoang vắng này thật bất bình thường. Mặc dù chiếc ti vi xách tay vẫn đang bật ở phòng đóng gói đồ, và tôi còn nghe những tiếng trò truyện xì xào đâu đó trong tòa nhà này, nhưng không có dấu hiệu nào của Goldie hay Carlos hay Jose hay bất cứ chàng trai quen thuộc nào.

    Phía xa, khoang thang máy sáng đèn đang đứng đó trống trải và chờ đợi, như khoang tủ trên sân khấu trong một màn ảo thuật. Bánh răng quay đều và rung nhẹ; lần lượt, những con số được trang trí màu ngọc trai xỉn màu đang nhấp nháy chạy đều khi tôi leo lên tâng bày. Bước vào cái hành lang tẻ nhạt của chính mình, tôi mới thực sự thở phào – tường sơn màu nâu lông chuột, mùi nước giặt thảm ẩm mốc và tất cả mọi thứ.

    Chiếc chìa khóa xoay trong ổ một cách ồn ào. “Xin chào?” tôi gọi, bước chân vào không gian mờ mịt của căn phòng: bóng tôi phủ kín, không chút âm thanh.

    Trong sự im lặng ấy, cái tủ lạnh vẫn kêu những tiếng vo vo. Chúa ơi, tôi nghĩ, với một cú điếng người, mẹ vẫn chưa về sao?

    “Mẹ ơi?” tôi gọi thêm lần nữa. Tim tôi như rơi một cú thật mạnh, tôi đi tiếp qua chỗ ngồi nghỉ, rôi sau đó đứng như trời trồng ở chính giữa phòng khách.

    Chùm chìa khóa của mẹ không ở trên chiếc móc cạnh cửa ra vào; túi của mẹ cũng không ở trên bàn. Đôi giày ướt vẫn dẫm những bước lẹp nhẹp trong sự tĩnh lặng, tôi bước qua phòng bếp – cái mà cũng không hẳn là một căn bếp, chỉ là một góc phòng với hai mặt bếp, ngửa mặt lên phía ống thông hơi. Ở đó là tách cà phê của mẹ tôi, chiếc cốc thủy tinh màu xanh lá mua từ hội chợ, với vết son mờ trên vành cốc.

    Tôi đứng dán mắt vào chiếc cốc cà phê chưa rửa với chút cà phê đọng lại khoảng 1 inch dưới đáy và tự hỏi mình nên làm gì. Tai tôi ong lên và xì xèo còn đầu tôi thì đau khủng khiếp đến mức tôi không thể nghĩ được gì: những đợt sóng đen ngòm cứ thế cuộn lên trước tầm nhìn. Tôi đã nghĩ quá nhiều về việc mẹ tôi sẽ lo lắng thế nào, việc tôi phải về nhà để nói với mẹ rằng tôi vẫn ổn, đến mức tôi chưa từng mảy may nghĩ rằng có thể chính mẹ cũng chưa về nhà.

    Co rúm lại sau mỗi bước chân, tôi bước qua hành lang vào phòng ngủ của cha mẹ tôi: hầu như không thay đổi từ khi cha tôi bỏ đi nhưng lộn xộn hơn và có vẻ nữ tính hơn vì giờ nó đã là của riêng mẹ. Máy trả lời tự dộng, trên bàn gần chiếc giường bừa bộn, thì tối đen: không có tin nhắn nào.

    Đứng ở lối vào, gần như choáng váng vì đau, tôi phải cố sức tập trung. Một cảm giác ê ẩm từ tất cả mọi chuyện xảy ra hôm nay chợt nảy mạnh trong toàn bộ cơ thể tôi, như thể tôi đã đi trong xe ô tô được một khoảng cách rất rất xa rồi.

    Điều đầu tiên cần làm: tìm điện thoại, kiểm tra tin nhắn. Chỉ có tôi là không biết điện thoại mình ở đâu. Mẹ đã tịch thu của tôi sau khi tôi bị đình chỉ học; đêm trước, khi mẹ đang tắm thì tôi đã cố gắng tìm nó bằng cách gọi vào số đó nhưng rõ ràng là mẹ đã tắt máy nó.

    Tôi nhớ là mình đã thọc tay vào ngăn trên cùng của chiếc tủ trong phòng làm việc của bà và mò mẫm trong mớ khăn quàng cổ: lụa và nhung, những chiếc khăn thêu Ấn Độ.

    Rồi sau đó, bằng hết sức của mình (mặc dù nó cũng không nặng lắm) tôi kéo chiếc ghế băng cuối giường ra và trèo lên đó để có thể nhìn lên cái giá trên cùng của tủ quần áo. Rốt cuộc, tôi đành ngồi thẫn thờ trên tấm thảm, cằm dựa lên chiếc ghế và tai thì thường trực thứ âm thanh gào rú xấu xí.

    Có thứ gì đó không ổn. Tôi nhớ là mình đã ngẩng cao đầu lên khi đột nhiên có ý nghĩ rằng khí gas đang thoát ra từ bếp, rằng tôi đang bị ngộ độc khí gas. Ngoại trừ việc tôi chẳng ngửi thấy chút mùi gas nào.

    Tôi có lẽ là đã đi vào căn phòng tắm nhỏ gần giường ngủ và tìm trong tủ thuốc một viên aspirin, hay một thứ gì đó cho cái đầu mình, tôi cũng không biết nữa. Tất cả những thứ tôi còn nhớ rõ là có một lúc tôi đang ở trong phòng mình mà không hiểu sao mình lại vào đó, tự ôm lấy mình bằng một tay và dựa vào bức tường gần giường ngủ, cảm giác như sắp ngã bệnh. Và rồi mọi thứ trở nên thật rối rắm đến mức tôi không thể nghĩ lại một cách rõ ràng cho tới khi tôi đã ngồi trên chiếc ghế sofa ở phòng khách và bất chợt có tiếng gõ cửa.

    Nhưng không phải là ở cửa chính, chỉ là một người nào đó ở hành lang bên ngoài. Căn phòng vẫn tối đen và tôi có thể nghe thấy tiếng ồn ào của giao thông buổi chiều, giờ cao điểm, trên những con phố ngoài kia. Trong sự lờ mờ, tim tôi như ngừng đập trong khoảnh khắc mà tất cả những âm thanh đó trở nên rõ ràng hơn cùng với những đường nét quen thuộc của chiếc bàn, phần lưng của những chiếc ghế có hình đàn lia đều nổi bật trên khung cửa sổ lúc chạng vạng. “Mẹ ơi?” tôi gọi, sự hoảng loạn đã hiện rõ trong giọng nói.

    Tôi đã ngủ thiếp đi trong bộ quần áo ướt nhẹp của mình; ghế sofa cũng ẩm và lạnh nữa, cùng với hình người tôi in hằn ở chỗ tôi đã nằm. Một cơn gió se se lạnh khẽ đập vào cửa chớp, qua khung cửa sổ mà mẹ và tôi đã để mở một nửa vào sáng hôm đó.

    Đồng hồ chỉ 6:47 tối. Nỗi sợ hãi cứ lớn dần, tôi thận trọng bước qua căn hộ, bật hết đèn lên – cả đèn chùm trong phòng khách, thứ mà chúng tôi thông thường không hay dùng vì nó quà sáng và chói mắt.

    Đứng ở cửa phòng ngủ của mẹ, tôi chợt thấy một chấm đỏ đang nhấp nháy trong bóng tối. Một đợt sóng nhẹ nhõm quét qua tôi: tôi chạy tới quanh giường, dò dẫm tìm nút trên chiếc máy trả lời tự động, chỉ sau đó vài giây thì tôi nhận ra đó không phải giọng mẹ tôi mà là một người phụ nữ mà mẹ làm cùng, nghe có vẻ rộn ràng đến khó hiểu. “Chào Audrey, tôi Pru đây, chỉ gọi để hỏi thăm thôi. Một ngày điên rồ chứ hả? Nghe này, bản in thử của Pareja đã có rồi đấy và chúng ta cần bàn bạc nhưng hạn cuối đã được hoãn nên không cần phải lo, ít nhất là lúc này. Hi vọng cô vẫn đang làm tốt, hãy gọi tôi khi cô có thời gian nhé.”

    Tôi vẫn đứng đó một lúc lâu, nhìn xuống chiếc máy trả lời sau khi tin nhắn đã kêu beep kết thúc. Rồi tôi đẩy cánh cửa chớp lên để có thể nhìn ra phía xe cộ ngoài kia.

    Chính là tầm giờ này: mọi người đang về nhà. Tiếng còi xa xa vang lên yếu ớt dưới phố. Tôi vẫn gặp phải cơn đau đầu như muốn bổ đầu làm đôi cùng với cái cảm giác (lúc trước là mới nhưng giờ không may đã trở nên quá quen thuộc với tôi) về việc mình vừa đi trên phố cùng với kẻ say rượu bẩn thỉu, cảm giác về điều gì đó quan trọng và những thứ đang bị bỏ dở.

    Tôi quay trở lại với phòng ngủ, bằng đôi tay run rẩy, tôi nhấn nút số điện thoại của mẹ, nhanh đến nỗi tôi đã ấn nhầm và phải quay số lại lần nữa. nhưng mẹ tôi không trả lời; số dịch vụ đã nhấc máy. Tôi có để lại một tin nhắn (Mẹ ơi, con đây, con đang lo lắm, mẹ đang ở đâu? ) rồi ngồi đó trên mép giường, hai tay ôm chặt lấy đầu.

    Mùi nấu nướng bắt đầu bay lên từ tầng dưới. Những giọng nói lẫn lộn trôi nổi từ những căn hộ liền kề: tiếng đập cửa mơ hồ, tiếng ai đó đóng mở ngăn kéo. Đã muộn rồi: mọi người đang trở về nhà từ chỗ làm, đặt cặp xuống, cất tiếng chào những chú chó, chú mèo cùng con cái họ, bật chương trình tin tức lên, chuẩn bị ra ngoài ăn tối. Mẹ tôi đã ở đâu vậy? Tôi đã nghĩ nát óc những lý do có thể khiến mẹ bị trễ nhưng không thể nghĩ ra được cái gì – mặc dù, ai mà biết được, có thể một con phố đâu đó đã bị chặn lại nên mẹ không thể về nhà. Nhưng không phải bà nên gọi điện hay sao?

    Hay mẹ đã đánh rơi điện thoại? Tôi nghĩ. Hay bà làm hỏng nó rồi? Hay bà đã đưa nó cho người nào cần nó hơn?

    Cái tĩnh lặng của căn hộ này khiến tôi bồn chồn. Nước róc rách chảy trong đường ống, và gió lạnh thì cứ đập liên hồi vào cửa chớp. Vì tôi chỉ đang ngồi trên mép giường một cách vô dụng và có cảm giác mình cần làm điều gì đó, tôi liền gọi lại và để lại một tin nhắn nữa, lần này thì không thể giấu nổi giọng nói run rẩy. Mẹ à, con quên mất không nói, con về nhà rồi. Hãy gọi cho con, ngay khi mẹ có thể, được không? Rồi tôi cũng gọi và để lại tin nhắn trong hộp thư thoại ở văn phòng của mẹ nữa.

    Với sự lạnh lẽo đang lan tỏa trong lồng ngực, tôi quay trở lại phòng khách. Sau khi đứng sững ở đó một lúc, tôi đi tới chỗ cái bảng nhỏ trong bếp để xem liệu mẹ có để lại giấy nhắn gì cho tôi không, mặc dù tôi biết rất rõ là mẹ không nói gì. Trở lại phòng khách, tôi ngó qua cửa sổ ra ngoài con phố bận rộn. Lẽ nào mẹ đã chạy tới tiệm thuốc hoặc tiệm đồ ăn nhanh, và không muốn đánh thức tôi? Phần nào đó trong tôi rất muốn lao ra ngoài phố tìm mẹ, nhưng cũng thật điên rồ khi nghĩ rằng tôi có thể trông thấy mẹ ở giữa đám đông giờ tan tầm này và bên cạnh đó, nếu tôi rời khỏi căn hộ, tôi rất sợ mình có thể nhỡ cuộc gọi của mẹ.

    Đã quá giờ gác cửa thay ca. Khi tôi gọi điện xuống dưới, tôi đã hi vọng đó là Carlos (người gác cửa lớn tuổi nhất và nghiêm túc nhất) hoặc là Jose sẽ tốt hơn: một anh chàng người Dominica to lớn mà tôi rất ưa thích. Nhưng chẳng có ai nhấc máy, trong một lúc lâu, cho tới khi một giọng nói mỏng mảnh, ngập ngừng và lạ tai nói: “A lô?”

    “Jose có đó không ạ?”

    “Không,” giọng đó trả lời. “Hãy gọi lại.”

    Tôi nhận ra đó là anh chàng người châu Á có vẻ ngoài sợ sệt, luôn đeo kính bảo hộ và găng tay cao su, người mà làm công việc lau sàn và đổ rác và những việc lặt vặt khác quanh tòa nhà. Những người gác cổng (có vẻ cũng không hơn gì tôi trong khoản biết tên anh ta) thì gọi anh ta là “anh chàng mới đến,” và ngồi ca cẩm về việc bên quản lý đã đưa tới một nhân viên không nói được cả tiếng Anh lẫn tiếng Tây Ban Nha. Cứ cái gì không ổn trong tòa nhà này là họ đổ lên đầu anh ta: anh chàng mới đến không lau kĩ chỗ lối đi, anh chàng mới đến không để thư đúng nơi quy định hay không dọn sạch sân trước.

    “Hãy gọi sau,” anh chàng mới đến nói bằng giọng hi vọng.

    “Không, chờ đã!” tôi nói, khi anh ta chuẩn bị cúp máy. “Cháu muốn nói chuyện với ai đó.”

    Một khoảng lặng bối rối.

    “Làm ơn đấy, có ai ở đó không?” tôi nài nỉ. “Chuyện này rất khẩn cấp.”

    “Thôi được,” giọng nói vang lên uể oải, nhưng âm vực mở cuối câu đã cho tôi hi vọng. Tôi có thể nghe rõ cả tiếng anh ta thở nặng nhọc vang lên giữa sự yên ắng.

    “Cháu là Theo Decker,” tôi nói. “Trong phòng 7C? Cháu gặp chú dưới tầng rất nhiều lần ấy? Mẹ cháu chưa về và cháu không biết phải làm gì bây giờ.”

    Một khoảng lặng dài khó hiểu. “Bảy,” anh ta lặp lại, như thể đó là phần duy nhất của câu mà anh ta có thể nghe được.

    “Mẹ cháu,” tôi nói lại. “Chú Carlos đâu? Không có ai ở đó sao?”

    “Xin lỗi, cảm ơn,” anh ta đáp, giọng vội vã, rồi cúp máy.
     
  10. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Tôi cũng cúp máy ngay sau đó, cảm thấy thật bực bội, và sau vài phút đứng như trời trồng giữa phòng khách, tôi cũng cất bước đi tới bật chiếc ti vi lên. Cả thành phố đang thật là hỗn độn; các cây cầu dẫn ra các quận vùng ven đã bị chặn lại, điều đó giải thích cho việc Carlos và Jose không thể tới chỗ làm được, nhưng tôi vẫn chẳng thể hiểu ra cái gì đang giữ chân mẹ tôi. Có một số điện thoại, tôi đã nhìn thấy, để gọi nếu có ai đó mất tích. Tôi ghi nó lại lên tờ báo nhàu nát và tự nhủ rằng nếu mẹ không ở nhà trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ nữa thì tôi sẽ gọi vào số đó.

    Viết số điện thoại đó xuống khiến tôi thấy dễ chịu hơn chút. Vì một lí do nào đó mà tôi tin chắc rằng việc viết những con số đó xuống sẽ khiến mẹ tôi bước qua cánh cửa như một phép màu. Nhưng khi bốn mươi lăm phút đã trôi qua, và rồi một giờ, và mẹ vẫn chưa xuất hiện, tôi cuối cùng cũng quyết định gọi vào số đó (tiếp tục ngả ra rồi ngồi dậy, dán đôi mắt lo âu vào màn hình ti vi trong khi chờ có ai tới nhấc máy, trong suốt thời gian tôi cầm máy, có những quảng cáo về nệm lò xo, quả cáo về đài, giao hàng nhanh miễn phí mà không cần đặt cọc). Cuối cùng cũng có một người phụ nữ nhanh nhẹn xuất hiện ở đầu dây, tất cả đều là thủ tục. Cô ấy lấy tên mẹ tôi, lấy số điện thoại tôi, nói rằng mẹ tôi không ở “trong danh sách” nhưng tôi vẫn sẽ được gọi lại nếu tên mẹ tôi có xuất hiện. Phải đến khi cúp máy rồi tôi mới chợt nhớ ra là phải hỏi cái danh sách mà cô ấy nói tới là loại danh sách gì; và sau một khoảng thời gian dài vô tận của sự nghi hoặc, của những bước đi dày vò qua suốt cả bốn căn phòng, mở ngăn tủ, nhặt ra những cuốn sách rồi lại đặt trở lại, bật máy tính của mẹ lên và thấy những thứ tôi có thể tìm được từ Google (chẳng có gì), tôi đã gọi lại để hỏi rõ.

    “Bà ấy không được liệt kê trong số những người đã chết,” người phụ nữ thứ hai nói với tôi, giọng nói thản nhiên một cách lạ lùng. “Hoặc những người bị thương.”

    Tim tôi nhẹ bẫng đi. “Vậy là mẹ cháu ổn, đúng không?”

    “Tôi đang nói là chúng tôi chưa có thông tin gì cả. Cháu đã để lại số điện thoại để chúng tôi có thể gọi lại chưa?”

    Rồi ạ, tôi nói, họ có nói là họ sẽ gọi lại cho tôi.

    “Giao hàng miễn phí và lắp đặt,” cái ti vi vẫn đang nói. “Hãy nhớ tìm hiểu về chương trình hỗ trợ tài chính sáu tháng của chúng tôi.”

    “Vậy chúc cháu may mắn,” người phụ nữ nói, và cúp máy.

    Cái tĩnh lặng trong căn hộ thật không tự nhiên chút nào; kể cả tiếng ồn từ ti vi cũng không thể át được nó. Hai mươi mốt người đã chết, với những người bị thương “nhiều hơn số đó hàng tá.” Trong vô vọng, tôi cố gắng trấn tĩnh bản thân với con số này: hai mươi mốt người cũng không đến nỗi quá tệ, đúng không? Hai mươi mốt người chỉ bằng một đám thưa thớt trong rạp chiếu phim hoặc trên xe buýt. Số đó ít hơn lớp tiếng Anh của tôi ba người. Nhưng rồi những nghi ngờ và sợ hãi lại nhanh chóng cuộn lấy tôi và tôi chỉ có thể ngăn mình không lao ra ngoài kia và hét to tên mẹ mình.

    Mặc dù rất muốn chạy ra ngoài và tìm mẹ, nhưng tôi cũng ý thức được rằng mình phải ở nguyên đây. Chúng tôi đã hẹn là sẽ gặp ở nhà; đó là thỏa thuận rồi, cái thỏa thuận đã được đóng khung kể từ lúc tôi còn học tiểu học, khi tôi về nhà với cuốn Sách Về Những Hoạt Động Chuẩn Bị Cho Thảm Họa, có thêm ảnh những chú kiến hoạt hình đeo mặt nạ chống khói đang thu thập đồ dự trữ và chuẩn bị cho một trường hợp khẩn cấp không tên. Tôi đã điền hết phần ô chữ và những câu hỏi mập mờ (“Thứ trang phục tốt nhất để cho vào Hộp đồ dự trữ thảm họa là gì? A. Quần áo tắm B. Quần áo nhiều lớp C. Váy Hula D. Lá nhôm”) và – cùng với mẹ tôi – đã thảo ra Kế Hoạch Thảm Họa Của Gia Đình. Kế hoạch của chúng tôi rất đơn giản: chúng tôi sẽ gặp nhau ở nhà. Và nếu một trong hai người không thể về nhà, người còn lại sẽ gọi điện. Nhưng khi thời gian đang trôi qua, còn điện thoại thì không thấy đổ chuông, và số người thiệt mạng trên kênh tin tức thì đã tăng lên hai mươi hai, rồi hai mươi lăm, thì tôi lại gọi vào số khẩn cấp của thành phố thêm lần nữa.

    “Vâng,” một người phụ nữ cất lên cái giọng bình tĩnh đến mức gây bực mình, “Tôi thấy rằng cháu đã từng gọi rồi, và chúng tôi đã ghi lại tên mẹ cháu.”

    “Nhưng… biết đâu mẹ đang ở bệnh viện hay đâu đó thì sao?”

    “Bà ấy có thể như vậy. Tuy nhiên, tôi e là tôi chưa thể xác định chắc chắn. Cháu nói tên cháu là gì? Cháu có muốn nói chuyện với một trong số các tư viến viên của chúng tôi không?”

    “Họ đưa mọi người tới bệnh viện nào?”

    “Tôi xin lỗi, thực sự là tôi không thể…”

    “Beth Israel? Hay Lenox Hill?”

    “Cháu nghe này, việc đó còn tùy thuộc vào tình trạng chấn thương. Mọi người bị thương ở mắt, bị bỏng, bị đủ thứ thương tật. Có bao nhiêu người còn đang nằm phẫu thuật ở khắp cái thành phố này…”

    “Thế còn những người vừa bị báo thiệt mạng vài phút trước thì sao?”

    “Nghe này, tôi rất hiểu, tôi rất muốn giúp cháu, nhưng tôi e không có ai là Audrey Decker trong danh sách của chúng tôi.”

    Mắt tôi đảo loạn khắp phòng khách. Cuốn sách của mẹ tôi (Jane and Prudence, Barbara Pym) đang úp mặt xuống ghế sofa; Một trong những chiếc áo khoác len mỏng của mẹ đang vắt trên tay ghế. Mẹ mua chúng với đủ các màu; cái này mang màu xanh da trời nhạt.

    “Có lẽ cháu nên xuống phía tòa nhà Armory. Họ đã dựng trại ở đó cho các gia đình – có đồ ăn, và rất nhiều cà phê nóng, và có người để trò chuyện.”

    “Nhưng cháu đang hỏi là có người chết nào mà chưa có tên không? Hay những người bị thương?”

    “Cháu nghe này, tôi rất hiểu mối quan tâm của cháu. Tôi thực sự rất muốn giúp cháu chuyện này nhưng chỉ là tôi không thể. Cháu sẽ nhận được một cuộc gọi lại ngay sau khi chúng tôi có thông tin chính xác.”

    “Cháu cần phải tìm mẹ! Xin cô đấy! Có lẽ mẹ cháu đang ở trong bệnh viện nào đó. Cô không thể chỉ cho cháu cách để tìm mẹ hay sao chứ?”

    “Cháu mấy tuổi rồi?” người phụ nữ hỏi bằng giọng nghi ngờ.

    Im lặng vì sốc, tôi đã gác máy. Sau một hồi choáng váng đứng nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại,cảm thấy nhẹ người mà cũng tội lỗi, như thể tôi đã đánh rơi và làm vỡ tan tành một vật gì đó. Khi tôi nhìn xuống đôi bàn tay và thấy chúng run rẩy, tôi chợt tự nhiên nhận ra, như khi nhìn thấy pin máy nghe nhạc đã cạn, là tôi chưa ăn gì được khá lâu rồi. Trong suốt cuộc đời mình, ngoại trừ những lúc bị đau bụng, thì tôi chưa từng để bụng rỗng lâu đến thế. Vậy nên tôi đi tới chỗ tủ lạnh và thấy một hộp bìa đựng chỗ mỳ xào còn lại từ đêm hôm trước và chén nó ngay trên quầy ăn, đứng yếu ớt và trơ trọi dưới ánh sáng từ bóng đèn trên trần nhà. Mặc dù vẫn còn trứng foo yung, và cơm nữa, nhưng tôi vẫn để phần mẹ phòng trường hợp mẹ thấy đói khi về đến nhà. Đã gần nửa đêm rồi: rồi cũng sẽ quá muộn để mẹ có thể gọi đồ từ cửa hàng ăn nhanh. Sau khi ăn xong, tôi rửa sạch dĩa và chỗ tách cà phê từ sáng và lau hết quầy ăn để mẹ sẽ không phải làm gì nữa khi về đến nhà: mẹ sẽ rất hài lòng, tôi tự nhủ, khi thấy tôi đã lau dọn sạch sẽ nhà bếp. Mẹ cũng sẽ rất hài lòng (ít nhất là tôi nghĩ vậy) khi thấy tôi đã cứu lấy bức tranh yêu thích của bà. Mẹ có lẽ sẽ nổi giận. Nhưng tôi có thể giải thích mà.

    Theo như ti vi có nói thì đã biết ai là người chịu trách nhiệm cho vụ nổ: những người mà tin tức có gọi bằng một cái tên thay thế là “phe cánh hữu cực đoan” hoặc “những tên khủng bố gián điệp.” Chúng đã móc nối với một công ty vận chuyển và lưu trữ; với sự giúp đỡ từ những tên đồng bọn phía bên trong bảo tàng, chúng đã giấu kíp nổ vào trong chỗ trống bên dưới sàn gỗ, phía các cửa hàng nhỏ nơi bưu thiếp và sách ảnh được chất lên. Một số thủ phạm đã chết; vài kẻ đã bị bắt giam, số khác thì vẫn còn tự do. Họ sẽ đi sâu nói về chi tiết sự việc, nhưng dường như chừng đó là quá nhiều để tôi có thể tiếp thu hết.

    Giờ thì tôi đang vật lộn với cái ngăn kéo bị kẹt trong bếp, cái mà đã bị đóng chặt kín kể từ trước khi cha tôi bỏ đi; cũng chẳng có gì trong đó ngoài vài cái khuôn bánh quy và vài cái xiên chấm nước sốt và cái bào vỏ chanh mà chúng tôi chẳng bao giờ dùng. Trong vòng hơn một năm, mẹ tôi cũng đã cố tìm ai đó trong tòa nhà tới chữa nó (cùng với cái tay nắm cửa bị hỏng và vòi nước bị rỉ cùng với hàng tá những thứ lặt vặt bực mình khác). Tôi dùng một cái dao phết bơ, lách vào khe ngăn kéo, cẩn thận không để bị tróc sơn nữa cho dù nó vốn đã trầy trật rồi. Lực đẩy khủng khiếp từ vụ nổ vẫn len lỏi đâu đó trong từng khớp xương của tôi, cả tiếng ong ong vang lên trong màng nhĩ; nhưng tệ hơn là tôi vẫn ngửi thấy mùi máu, vẫn nếm thấy vị muối mặt và vị thiếc trong miệng. (tôi vẫn còn ngửi thấy nó trong vài ngày, mặc dù lúc đó thì tôi không biết vậy.)

    Trong khi tôi đang mày mò và lo lắng với cái ngăn tủ, tôi cũng tự hỏi liệu tôi có nên gọi ai tới giúp không, và, nếu làm vậy, thì gọi ai. Mẹ tôi là con một. Và mặc dù, về lý thuyết tôi vẫn có một dàn ông bà còn sống – cha và mẹ kế của cha tôi, ở Maryland – nhưng tôi không biết làm cách nào liên lạc với họ. Mối quan hệ chỉ là xã giao giữa bố tôi và mẹ kế của ông, Dorothy, một người nhập cư từ miền Đông nước Đức, người mà đã làm công việc lau dọn những tòa văn phòng trước khi lấy ông nội tôi. (Vẫn luôn là một sự chế nhạo ranh mãnh khi bố tôi nhại lại bà Dorothy theo một cách hài hước đến tàn nhẫn: như một dạng người giúp việc chạy bằng pin, cặp môi mím lại và những cử động ngớ ngẩn, và chất giọng thì giống như Curt Jurgens trong phim The Battle of Britain.) Nhưng cho dù bố tôi có không thích bà Dorothy cho lắm thì sự giận dữ của ông chủ yếu vẫn hướng về Ông nội Decker: một người đàn ông cao lớn, vẻ ngoài đáng sợ với hai má hồng hào và mái tóc đen (do nhuộm, tôi nghĩ vậy) người mà có rất nhiều các loại gi lê và áo len kẻ sọc, và tin vào việc phạt đánh trẻ con bằng thắt lưng. Không phải chuyến picnic là cụm từ dễ hiểu nhất mà tôi dùng để gán cho hình ảnh Ông nội Decker – như trong câu mà cha tôi hay nói “Sống với kẻ đó thật không phải một chuyến picnic” hay “Tin tôi đi, bữa tối ở nhà tôi chưa bao giờ giống như một chuyến picnic cả.” Tôi chỉ mới gặp Ông nội Decker và bà Dorothy hai lần trong đời, những lần gặp mặt đầy căng thẳng khi mẹ tôi phải thẳng người trên ghế sofa mà vẫn mặc nguyên áo khoác và ví để trên đùi còn những cố gắng giao tiếp vô vọng của bà thì đều chìm vào hố cát. Những thứ quan trọng tôi còn nhớ là những nụ cười gượng gạo, mùi tẩu thuốc hương cherry nồng nặc và lời cảnh báo không-thân-thiện-cho-lắm của Ông nội Decker bảo tôi phải tránh xa ra khỏi cái mô hình tàu hỏa của ông (một ngôi làng trên dãy Alps mà chiếm gọn cả một phòng trong căn nhà của họ và theo ông thì nó đáng giá cả chục ngàn đô la).

    Tôi đã làm cho cái lưỡi dao bị bẻ cong vì chọc quá mạnh vào chỗ khe tủ bị kẹt – nó là một trong số ít những con dao tốt của mẹ tôi, một con dao bằng bạc thuộc về mẹ của bà. Tôi lại cố bẻ nó trở lại, cắn chặt môi và tập trung hết sức vào công việc, trong khi những sự việc vừa xảy ra ban ngày vẫn đang bay tứ tung và đập thẳng vào mặt tôi. Cố không nghĩ về nó cũng giống việc cố không nghĩ về một con bò màu tím vậy. Con bò màu tím là tất cả những gì bạn có thể nghĩ tới.

    Đột nhiên cái ngăn tủ bật mở. Tôi ngó xuống đống hỗn độn bên trong: những cục pin bụi bặm, một cái nạo pho mát đã hỏng, những cái khuôn bánh hình bông tuyết mà nẹ tôi chưa dùng kể từ thời tôi còn lớp một, cùng với những tờ menu rách nát từ cửa hàng Viand và Cung điện Shun Lee và Delmonico’s nữa. Tôi để ngăn kéo mở toang – để nó là thứ đầu tiên mẹ nhìn thấy khi bước vào – rồi đi về phía trường kỷ và quấn mình vào chiếc chăn, dựa thẳng lưng lên để có thể nhìn được ra phia cửa trước.

    Tâm trí tôi vẫn cứ tất bật xoay vòng. Trong một lúc lâu tôi ngồi đó run rẩy và chong đôi mắt đỏ quạch về phía ti vi, khi những luồng sáng xanh từ đó vẫn nhấp nháy đầy khó chịu. Không có tin tức gì khác, thực sự là vậy; Những khung hình vẫn là về cảnh buổi đêm của bảo tàng (giờ đã có vẻ hoàn toàn bình thường, ngoại trừ những dải băng cách li màu vàng của cảnh sát vẫn giăng khắp vỉa hè, đội bảo vệ có vũ trang vẫn ở mặt tiền tòa nhà, từng cuộn khói vẫn đang được nhả từ mái nhà lên tới bầu trời được chiếu sáng bởi vô số ngọn đèn).

    Mẹ đang ở đâu? Sao bà vẫn chưa về nhà? Bà chắc chắn sẽ phải có một lời giải thích thỏa đáng; bà sẽ khiến tất cả những vấn đề này biến mất, và rồi tôi sẽ trở nên thật ngốc nghếch khi đã lo lắng như thế.

    Để không nghĩ về mẹ nữa, tôi đành cố tập trung vào cuộc phỏng vấn mà họ chiếu lại từ lúc chiều tối. Một người trông coi bảo tàng với cặp kính cận, chiếc áo khoác bằng vải tuýt và nơ – rõ ràng là đang xúc động mạnh – đã nói về sự bất mãn khi họ không cho phép chuyên gia vào trong bảo tàng để chăm lo cho các tác phẩm nghệ thuật. “Vâng,” ông đang nói, “Tôi hiểu rằng đó là hiện trường vụ án, nhưng những bức tranh này rất nhạy cảm với sự thay đổi của thành phần không khí và nhiệt độ. Chúng có lẽ đã bị hủy hoại bởi nước, hóa chất hoặc khói bụi. Khi chúng ta đang nói đây thì có lẽ chúng đang chết dần. Việc tối quan trọng là phải để các chuyên gia phục hồi và người phụ trách bảo tàng vào những địa điểm chính để đánh giá sự thiệt hại càng sớm càng tốt…”

    Bất chợt điện thoại réo vang – to một cách bất thường, như một cái đồng hồ báo thức đang cố đánh thức tôi khỏi giấc mơ tồi tệ nhất đời mình. Sự nhẹ nhõm trong tôi thật khó có thể diễn tả. Tôi trượt chân và gần như ngã đập mặt xuống khi cố lao tới vồ lấy nó. Tôi chắc chắn rằng đó là mẹ, nhưng phần nhận dạng người gọi đã chặn tôi lại thật lạnh lùng: NYDoCFS.

    Sở gì của New York đây…? Sau nửa khắc chần chừ, tôi chộp điện thoại lên. “A lô?”

    “Xin chào,” một giọng nói nhẹ và dịu dàng một cách đáng sợ. “Tôi đang nói chuyện với ai đây?”

    “Theodore Decker,” tôi đáp, khá ngạc nhiên. “Ai đó?”

    “Xin chào, Theodore. Tôi là Marjorie Beth Weinberg và tôi là một nhân viên xã hội của Sở Cứu trợ Trẻ em và Gia đình?”

    “Sở đó là gì vậy? Có phải cô đang gọi về chuyện của mẹ cháu không?”

    “Cháu là con trai của Audrey Decker? Phải vậy không?”

    “Mẹ cháu! Mẹ cháu đang ở đâu? Bà có khỏe không?”

    Một khoảng lặng – cái sự im lặng khốn nạn ấy.

    “Có chuyện gì vậy?” tôi nức nở. “Bà đang ở đâu?”

    “Cha cháu có ở đó không? Liệu tôi có thể nói chuyện với ông được không?”

    “Ông ấy không thể tới nghe điện được. Có chuyện gì vậy?”

    “Tôi xin lỗi, nhưng đây là việc khẩn cấp. Tôi e rằng tôi phải nói chuyện với cha cháu ngay bây giờ.”

    “Thế còn mẹ cháu thì sao?” tôi hỏi, hai chân bật thẳng dậy. “Cháu xin cô mà! Chỉ cần nói cho cháu biết mẹ đang ở đâu thôi! Chuyện gì đã xảy ra?”

    “Cháu không ở một mình, đúng không, Theodore? Có người lớn ở bên cạnh cháu không?”

    “Không, họ ra ngoài uống cà phê rồi,” tôi đáp, mắt đảo quanh phòng khách. Đôi giày ballet, ở lệch dưới chân ghế. Những cây lục bình tím cắm trong lọ có bọc giấy xung quanh.

    “Cha của cháu cũng vậy à?”

    “Không, ông ấy đang ngủ. Mẹ cháu đâu? bà có bị thương không? Cái gì đã xảy ra?”

    “Tôi e là cháu sẽ phải đánh thức cha cháu dậy, Theodore.”

    “Không! Cháu không làm được!”

    “Tôi e là việc này rất quan trọng.”

    “Ông ấy không tới bên máy điện thoại được! Tại sao cô lại không thể nói cho cháu là có chuyện gì chứ?”

    “Vậy thì, nếu cha cháu không thể nghe điện được, có lẽ cách tốt nhất là tôi sẽ để lại thông tin liên lạc cho cháu.” Giọng nói ấy, mặc dù rất mềm mại và đầy cảm thông, nhưng vẫn nhắc tôi về giọng của chiếc máy tính tên Hal trong phim 2001: A Space OdysseyVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. “Xin hãy bảo ông ấy liên lạc với tôi càng sớm càng tốt. Việc ông ấy gọi lại là vô cùng cấp thiết.”

    Sau khi buông máy, tôi vẫn ngồi tại đó một lúc lâu. Theo cái đồng hồ của bếp điện mà tôi có thể nhìn được từ chỗ mình ngồi, thì đã hai giờ bốn lăm phút sáng. Tôi chưa từng ở một mình mà lại còn đang thức vào cái giờ đó. Phòng khách – bình thường luôn lộng gió và thoáng đãng, vui vẻ khi có sự hiện diện của mẹ - thì giờ co lại chỉ còn là một sự khó chịu lạnh lẽo, như một căn nhà nghỉ dưỡng vào mùa đông: vải lưa thưa, thảm thô ráp, bóng của những tấm chụp đèn bằng giấy mua ở phố tàu và những chiếc ghế thì quá nhỏ và nhẹ. Tất cả các thứ đồ nội thất đều có vẻ khẳng khiu, được treo lơ lửng ở mép rìa của sự căng thẳng. Tôi có thể cảm nhận thấy tiếng tim mình đập, nghe thấy tiếng click chuột, tiếng tích tắc và những tiếng hít thở đều của những tòa nhà lâu đời đang say ngủ xung quanh tôi. Mọi người đều đang yên giấc. Ngay cả những tiếng còi xe phía xa và tiếng rung lắc của những chiếc xe tải trên phố Năm Mươi Bảy cũng có vẻ yếu ớt và mỏng manh, cô đơn như thể là thứ âm thanh tới từ một hành tinh khác.

    Tôi biết rằng sớm muộn gì rồi bầu trời đêm cũng chuyển dần sang xanh thẫm; những tia sáng ban ngày se lạnh và dịu nhẹ đầu tiên sẽ len lỏi vào phòng. Những xe tải chở rác sẽ gầm rú đi trên phố; những chú chim của mùa xuân sẽ bắt đầu cất giọng trong công viên; đồng hồ báo thức sẽ reo vang ở các căn phòng ngủ trên khắp thành phố. Các chàng trai đu đưa sau đuôi xe tải sẽ quăng những bó lớn các báo Times và báo Daily News lên vỉa hè gần với các sạp báo. Những bậc cha mẹ trên khắp thành phố sẽ đi quanh nhà với mái tóc bù xù, trong bộ đồ ngủ hoặc khoác áo choàng tắm, hâm nóng cà phê, cắm máy nướng bánh mỳ, đánh thức con cái dậy tới trường.

    Còn tôi sẽ làm gì? Phần nào trong tôi đã bất động, tê liệt vì tuyệt vọng, như những con chuột mất hết hi vọng trong các cuộc thí nghiệm và nằm vạ vật giữa mê cung chờ chết đói.

    Tôi cố gắng xâu chuỗi lại các ý nghĩ với nhau. Trong một thoáng, dường như là hợp lý rằng nếu tôi ngồi yên và chờ đợi, mọi thứ sẽ tự sắp xếp đâu vào đấy. Những vật dụng trong nhà cũng nghiêng ngả cũng với sự mỏi mệt của tôi: quầng sáng rung rinh quanh chiếc đèn để bàn; những sọc kẻ trên giấy dán tường dường như đang chuyển động.

    Tôi cầm cuốn danh bạ lên; rồi lại đặt nó xuống. Cái ý nghĩ gọi điện cho cảnh sát khiến tôi hoảng sợ. Và cảnh sát thì cũng làm được gì chứ? Tôi đã biết quá rõ qua ti vi là một người phải bị mất tích được hai mươi tư giờ thì mới gọi. Tôi chỉ vừa mới tự thuyết phục mình nên đi tới khu trung tâm và tìm mẹ, bất kể ngày đêm, hay bất kể cái Kế hoạch Thảm họa của Gia đình gì đó, thì một tiếng chuông nhức óc (chuông cửa) đã đập tan sự im lặng và tim tôi nhảy lên vì vui sướng.

    Vừa ngã, vừa trượt chân để tới được cửa, tôi mò mẫm mở khóa. “Mẹ à?” tôi gọi, kéo chốt trên cùng, mở toang cửa – và rồi tim tôi như rơi xuyên qua sáu tầng lầu. Đứng trên thềm cửa là hai người mà tôi chưa từng gặp trong đời: một phụ nữ Hàn Quốc mập mạp với mái tóc ngắn lỉa chỉa, một anh chàng người Tây Ban Nha mặc sơ mi thắt cà vạt trông rất giống Luis trong phim Sesame Street. Chẳng có gì đáng sợ ở vẻ ngoài của họ, ngược lại thì đúng hơn; họ có cái vẻ chắc nịch ở tuổi trung niên làm người đối diện thấy yên tâm, họ ăn mặc như một cặp giáo viên dạy thay, nhưng mặc dù hai bọn họ đều có biểu hiện rất thiện cảm, tôi vẫn hiểu được ngay từ giây phút tôi gặp họ rằng cuộc đời mình, như tôi vẫn biết, sẽ chấm dứt.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tạm dịch: 2001: Một cuộc phiêu lưu vào không gian.
     
  11. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    CHƯƠNG III

    ĐẠI LỘ PARK


    i.

    NHỮNG NHÂN VIÊN XÃ HỘI ĐƯA tôi vào ghế sau chiếc ô tô cỡ vừa của họ và đưa tôi tới một tiệm ăn trên phố, gần chỗ làm của họ, một nơi trông có vẻ rộng lớn được chiếu sáng lấp lánh bởi ánh sáng phản chiếu từ những tấm gương vát cạnh và những chân nến rẻ tiền từ khu phố Tàu. Một khi chúng tôi đã yên vị (hai bọn họ ngồi một bên, đối diện với tôi) họ lấy ra các tập tài liệu và bút từ cặp họ và cố gắng bắt tôi ăn chút bữa sáng trong khi họ ngồi đó nhấm nháp cà phê và hỏi một số câu hỏi. Ngoài trời vẫn còn tối; thành phố chỉ mới vừa thức giấc. Tôi không nhớ là mình đã khóc, hay ăn gì đó, mặc dù trong suốt những năm sau này tôi vẫn có thể ngửi thấy mùi trứng quấy mà họ gọi cho tôi; ký ức về cái đĩa ăn đầy ụ đang bốc khói đến giờ vẫn khiến bụng tôi thắt lại.

    Quán ăn gần như trống không. Anh chàng phục vụ ngái ngủ đang tháo những thùng bánh mỳ tròn và bánh muffin phía sau quầy. Một nhóm những đứa trẻ đi câu lạc bộ đêm với đường kẻ mắt đã nhòe đang tụ tập ở khu bàn gần đó. Tôi nhớ là mình đã nhìn chằm chằm về phía đó với một sự chú ý đến tuyệt vọng – một cậu bé nhễ nhại mồ hôi trong chiếc áo khoác kiểu Trung Hoa, một cô gái luộm thuộm với những vệt nhuộm màu hồng trên tóc – và cũng có một người phụ nữ lớn tuổi trang điểm đậm, mặc một chiếc áo khoác lông quá ấm so với thời tiết, đang ngồi một mình ở quầy để thưởng thức một miếng bánh táo.

    Những nhân viên xã hội – người đã làm đủ thứ ngoại trừ việc lay người và búng ngón tay trước mặt để khiến tôi nhìn họ - dường như cũng hiểu sự miễn cưỡng của tôi khi phải tiếp thu những điều họ đang cố nói. Lần lượt, họ rướn người ra phía trước và lặp lại những thứ tôi không hề muốn nghe. Mẹ tôi đã chết. Bà đã bị thương ở đầu do mảnh vỡ bay lạc. Bà đã chết ngay tại chỗ. Họ xin lỗi tôi vì là người thông báo tin này, đó là phần tồi tệ nhất trong công việc của họ, nhưng họ thực sự rất cần tôi phải hiểu chuyện gì đã xảy ra. Mẹ tôi đã chết và thi thể bà đang ở Bệnh viện New York. Tôi đã hiểu chưa?

    “Vâng,” tôi nói giữa sự im lặng, khi nhận ra là họ đang mong tôi nói gì đó. Cái cách dùng từ “cái chết” và “đã chết” một cách thẳng thừng và nhấn đi nhấn lại của họ không hề hòa hợp chút nào với chất giọng đầy cảm động của họ, những bộ quần áo lịch sự từ polyester của họ, thứ nhạc pop Tây Ban Nha trên đài cùng với những biển hiệu vui tươi sau quầy (Smoothie hoa quả tươi, Delite kiêng, Hãy thử Hamburger gà tây của chúng tôi!).

    “¿FritasVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link?” người phục vụ hỏi khi xuất hiện ở bàn của chúng tôi, đang bưng một khay lớn khoai chiên kiểu Pháp.

    Cả hai người nhân viên đó đều có vẻ sửng sốt; người đàn ông trong cặp đôi đó (có mỗi tên: Enrique) nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha và chỉ tay ra cách đó vài bàn, nơi mà những đứa trẻ trong câu lạc bộ đang khoa chân múa tay về phía anh ta.

    Ngồi đó trợn tròn mắt lên vì sốc, phía trước là đĩa trứng quấy đang nguội đi nhanh chóng, tôi vẫn không thể nào nắm bắt được cái thực tế trong tình cảnh của mình. Theo như những gì đã xảy ra, các câu hỏi của họ về cha tôi có vẻ lạc đề đến nỗi tôi phải nghĩ nát óc tại sao họ lại cứ khăng khăng muốn biết về ông ấy.

    “Vậy lần cuối cháu gặp cha mình là khi nào?” người phụ nữ Hàn Quốc hỏi, người mà cũng vài lần yêu cầu tôi gọi cô ấy bằng tên (tôi đã cố nhớ nhiều lần rồi, và vẫn không thể). Tôi vẫn thấy hai bàn tay mũm mĩm của cô ấy đang đan lại trên bàn, cùng với cái bóng lên nhức mắt từ màu móng tay của cô: thứ màu tro ánh bạc, hình gì đó ở giữa màu xanh của hoa oải hương và xanh da trời.

    “Thử ước tính xem?” người đàn ông tên Enrique gợi nhắc. “Về cha cháu ấy?”

    “Một khoảng xấp xỉ cũng được,” người phụ nữ Hà Quốc nói. “Cháu nghĩ mình gặp ông ấy lần cuối là khi nào?”

    “Um,” tôi đáp – thật khó khăn để có thể suy nghĩ được – “đâu đó vào khoảng mùa thu năm ngoái?” Cái chết của mẹ tôi dường như vẫn còn là một sự nhầm lẫn mà sẽ được làm rõ ràng nếu tôi tập trung và hợp tác với những người này.

    “Tháng mười? Hay tháng chín?” cô ấy hỏi, rất dịu dàng, khi không thấy tôi trả lời.

    Đầu tôi vẫn đau muốn khóc mỗi khi tôi xoay nó, mặc dù cơn đau đầu lúc này chỉ còn là vấn đề nhỏ nhất tôi đang gặp phải. “Cháu không biết,” tôi đáp lại. “Sau khi năm học mới bắt đầu.”

    “Như lời cháu nói, là tháng chín đúng không?” Enrique hỏi, hướng mắt lên nhìn trong khi đang ghi chép trong tập hồ sơ. Anh ta là một chàng trai có vẻ ngoài cứng cỏi – trông thật chẳng thoải mái chút nào trong bộ vest, giống như một huấn luyện thể thao đã phát tướng – nhưng giọng nói của anh ta lại truyền đạt cảm giác vững chắc từ thế giới của dân văn phòng: những hệ thống lưu trữ file, những tấm thảm công nghiệp, công việc kinh doanh thường ngày ở một quận thuộc Manhattan. “Không liên lạc hay giao tiếp gì kể từ đó sao?”

    “Có ai là chiến hữu hoặc bạn thân mà có thể biết cách tìm tới ông ấy không?” người phụ nữ Hàn Quốc nói, người rướn về trước theo một cách rất quan tâm.

    Câu hỏi đó làm tôi thất thần. Tôi không biết ai như thế cả. Thậm chí cái ý nghĩ rằng cha tôi có những người bạn thân (chứ đừng nói đến “chiến hữu”) cũng đã thể hiện một sự hiểu lầm nghiêm trọng về nhân cách của ông ấy đến mức tôi không biết trả lời thế nào.

    Phải sau khi những món ăn đã được dọn đi, trong cái không gian tĩnh lặng sau bữa ăn mà không ai muốn đứng lên ra về, thì tôi mới chợt hiểu ra tất cả những câu hỏi có vẻ không liên quan về cha tôi và ông bà nội Decker (ở Maryland, tôi không nhớ rõ thị trấn nào, một khu thành thị lai thôn quê phía sau một siêu thị Home Depot) và về những người cô người chú không tồn tại của tôi đang dẫn tới đâu. Tôi là một đứa trẻ vị thành niên không có người giám hộ. Tôi sẽ ngay lập tức phải bị di dời khỏi nhà (hay “hoàn cảnh” như họ vẫn gọi). Cho tới khi ông bà tôi được liên lạc thì thành phố sẽ vào cuộc.

    “Nhưng các cô chú định làm gì với cháu?” tôi hỏi đến lần thứ hai, khẽ đẩy ghế ra phía sau, một dấu hiệu hoảng loạn đã xuất hiện trong giọng nói của tôi. Thật là sai quy cách khi tôi cứ thế tắt ti vi và rời khỏi căn hộ cùng với họ, để đi ăn gì đó như họ đã nói. Không có ai bảo tôi là sẽ chuyển tôi đi khỏi căn hộ cả.

    Enrique liếc xuống tập hồ sơ của anh ta. “Ừm, Theo này…” anh ta cứ liên tục đọc nó là Teo, họ đều thế, và như vậy là không đúng… “cháu là trẻ vị thành niên đang cần ngay một sự chăm sóc. Chúng tôi sẽ cần phải đưa cháu đến với một nơi nào đó có sự giám sát khẩn cấp.”

    “Giám sát?” Cái từ đó khiến bụng tôi chộn rộn; nó gợi nhắc tới phòng xử án, những phòng ký túc khóa chặt, sân bóng rổ với hàng rào dây thép gai bao quanh.

    “Vậy thì, hãy dùng từ quan tâm. Và chỉ tới khi ông và bà cháu…”

    “Chờ đã,” tôi nói – đang vô cùng ngộp thở bởi mọi thứ đang vượt khỏi tầm kiểm soát quá nhanh, bởi cái suy đoán nhầm lẫn về tình cảm ấm áp và thắm thiết qua cái cách mà anh ta nói những từ như ông bà.

    “Chúng tôi sẽ chỉ làm những công việc thu xếp tạm thời cho tới khi liên lạc được với họ,” người phụ nữ Hàn Quốc vừa nói vừa đẩy mình ra phía trước. Hơi thở của cô ấy có mùi bạc hà nhưng cũng phảng phất chút mùi tỏi. “Chúng tôi hiểu là cháu đang rất buồn, nhưng không có gì phải lo lắng cả. Việc của chúng tôi chỉ là giữ cho cháu được an toàn tới khi chúng tôi gặp được những người yêu thương và quan tâm tới cháu, được không?

    Việc này quá tệ hại để có thể trở thành sự thực. Tôi nhìn chằm chằm vào hai gương mặt đối diện qua chiếc bàn, làn da vàng vọt đi dưới ánh đèn nhân tạo. Thậm chí cái giả thiết rằng Ông nội Decker và bà Dorothy là những người quan tâm tôi cũng đã đủ lố bịch rồi.

    “Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với cháu?” tôi hỏi.

    “Vấn đề chính là,” Enrique nói, “tạm thời cháu phải được ở trong một môi trường chăm nuôi đủ khà năng. Với ai đó mà sẽ làm việc cùng Trung tâm dịch vụ xã hội để xây dựng kế hoạch chăm lo cho cháu.”

    Những nỗ lực của họ nhằm xoa dịu tôi – giọng nói bình tĩnh và cảm thông, những biểu cảm thấu hiểu – khiến tôi mỗi lúc một phát điên thêm. “Thôi đi!” tôi nói lớn, lùi xa khỏi người phụ nữ Hàn Quốc đó, người mà đang vươn qua bàn để nắm lấy tay tôi một cách đầy quan tâm.

    “Nghe này, Teo. Hãy để tôi giải thích đã. Không có ai nói về chuyện cấm túc hay những cơ sở quản thúc trẻ vị thành niên cả…”

    “Vậy thì là gì?”

    “Giám sát tạm thời. Nó chỉ có nghĩa là chúng tôi sẽ đưa cháu tới một nơi an toàn với những người làm nhiệm vụ giám hộ của bang…”

    “Nếu tôi không muốn đi thì sao?” tôi nói, to đến nỗi mọi người bắt đầu quay ra nhìn.

    “Nghe này,” Enrique nói, ngả người ra sau và gọi thêm cà phê. Thành phố này có những căn nhà cứu trợ cho trẻ em đã được chứng nhận đàng hoàng. Những nơi rất tốt. Và ngay lúc này, đó là lựa chọn duy nhất mà chúng tôi đang xem xét. Vì trong rất nhiều trường hợp như của cháu…”

    “Tôi không muốn đi tới nhà của người nhận nuôi!”

    “Cậu bé à, chắc chắn là cậu không muốn rồi,” cô gái đi câu lạc bộ có mái tóc màu hồng đang nói lớn ở bàn bên cạnh. Gần đây, tờ New York Post đã đăng tin nhan nhản về Johntay và Keshawn Divens, cặp sinh đôi mười một tuổi đã bị hiếp dâm bởi cha nuôi của họ và bị bỏ đói đến gần chết, ở quanh khu vực Morningside Heights.

    Enrique giả vờ như không nghe thấy điều này. “Cháu à, chúng tôi ở đây là để giúp cháu,” ông giải thích, bàn tay nắm lại trên mặt bàn. “Và chúng tôi cũng sẽ xem xét các hình thức thay thế khác miễn là người đó có thể giữ cho cháu được an toàn và đáp ứng nhu cầu của cháu.”

    “Các người chưa từng nói với tôi rằng tôi sẽ phải đi khỏi căn hộ mãi mãi!”

    “Ừm, các cơ quan của thành phố đang quá tải - sí, graciasVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link,” anh ta nói với người phục vụ khi người đó tới rót thêm cà phê. “Nhưng đôi khi những sự sắp xếp khác có thể được nếu chúng ta có thêm sự ủng hộ tạm thời, đặc biệt như trong trường hợp của cháu.”

    “Chú ấy đang nói gì?” Người phụ nữ Hàn Quốc đang gõ ngón tay xuống mặt bàn formica để lấy sự chú ý của tôi. “Nó không cố định là cháu sẽ đi tới các trung tâm thuộc hệ thống bang nếu có ai đó có thể tới ở với cháu trong một thời gian ngắn. Hoặc ngược lại.”

    “Một thời gian ngắn?” tôi lặp lại y hệt. Đó là phần duy nhất trong câu mà tôi hiểu được.

    “Như là có ai đó mà chúng tôi có thể gọi, mà cháu thấy thoải mái nếu ở cùng trong khoảng một đến hai ngày? Như một người giáo viên chẳng hạn? Hay một người bạn của gia đình?”

    Không cần cân nhắc, tôi đưa cho họ số điện thoại của người bạn cũ Andy Barbour – số đầu tiên hiện lên trong đầu tôi, có lẽ là vì đó là số di động đầu tiên sau số của chính tôi mà tôi đã học thuộc lòng. Mặc dù Andy và tôi đã từng là bạn rất thân hồi tiểu học (cùng xem những bộ phim, ngủ ở nhà nhau. những lớp học hè ở Công viên Trung tâm về bản đồ và kĩ năng đọc la bàn) nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao tên cậu ấy lại được tôi nói tới đầu tiên, vì giờ chúng tôi không còn là bạn thân nữa. Chúng tôi dần cách xa nhau vào đầu cấp hai; tôi đã không gặp cậu ta được mấy tháng rồi.

    “Barbour với một chữ u,” Enrique nói khi anh ta viết cái tên đó. “Những người này là ai vậy? Bạn cháu à?”

    Vâng, tôi đáp, thực tế là tôi đã biết họ suốt cả cuộc đời rồi. Gia đình nhà Barbour sống trên Đại lộ Park. Andy đã là bạn thân nhất của tôi từ hồi lớp ba. “Cha cậu ấy có một công việc kha khá ở Phố Wall,” tôi nói – rồi sau đó im bặt. Tôi chợt nhớ ra là cha của Andy đã từng dành một khoảng thời gian không xác định ở trong bệnh viện tâm thần Connecticut vì “kiệt sức.”

    “Thế còn người mẹ thì sao?”

    “Bà ấy và mẹ cháu là bạn tốt.” (Cũng gần đúng, nhưng không nhiều; mặc dù họ hoàn toàn là bạn bè, nhưng mẹ tôi không đủ giàu có hay quan hệ rộng để có liên kết gì với một quý bà lịch thiệp như bà Barbour.)

    “Không, ý tôi là, bà ấy làm nghề gì?”

    “Công việc từ thiện,” tôi nói, sau một hồi im lặng mất phương hướng. “Như làm show trưng bày đồ cổ ở bảo tàng Armory chăng?”

    “Vậy bà ấy là một người nội trợ?”

    Tôi gật đầu, nhẹ nhõm vì cô ấy đã tìm được một cụm từ phù hợp, cái mà về lý thuyết thì đúng nhưng lại không phải cách mà những người biết bà Barbour sẽ dùng để miêu tả bà ấy.

    Enrique ký tên kèm một nét vẽ tô điểm thêm. “Chúng tôi sẽ xem xét việc này. Chúng tôi cũng chưa thể hứa chắc điều gì,” anh ta nói, bấm bút và gắn nó lại vào túi áo. “Mặc dù vậy, chúng tôi nhiều khả năng là sẽ đưa cháu đến với những người này trong vòng vài giờ tới, nếu họ là người mà cháu muốn ở cùng.”

    Anh ta khom người ra khỏi bàn và bước ra ngoài. Qua cửa sổ trước, tôi có thể thấy anh ta đang đi đi lại lại trên vỉa hè, nói chuyện điện thoại trong khi dùng ngón tay ấn vào tai kia. Rồi anh ta lại gọi tới một số khác, cuộc nói chuyện còn ngắn hơn. Chúng tôi đã ghé nhanh qua căn hộ - ít hơn năm phút đồng hồ, chỉ đủ để tôi có thể vớ lấy cặp sách và vài thứ quần áo được nghĩ ra chớp nhoáng – và rồi, lại vào trong xe họ (“Cháu đã thắt dây an toàn chưa?”) Tôi dựa cằm vào lớp cửa kính lạnh toát và ngắm nhìn những ánh đèn chuyển xanh dọc những hẻm đường trống rỗng của Đại lộ Park giữa ánh bình minh.

    Andy sống gần khu Thượng Tây, ở một trong những tòa nhà đúng kiểu cổ điển trên Đại lộ Park nơi mà lối đi hành lang y hệt như trong một bộ phim của Dick Powell còn người gác cửa thì vẫn phần lớn là người Ai-len. Họ vẫn ở đó từ bao năm tháng rồi, và khi tới thì tôi đã nhớ ra anh chàng bảo vệ mà gặp chúng tôi ở lối vào: Kenneth, người đàn ông của màn đêm. Anh ta trẻ hơn hầu hết những bảo vệ khác: da tái xanh như người chết và râu thì cạo qua loa, thường có biểu hiện chậm rãi do hay phải làm đêm. Mặc dù anh ta là một anh chàng thân thiện – đôi khi còn sửa quả bóng đá cho Andy và tôi, và đưa ra những lời khuyên hữu ích để đối phó với bọn hay bắt nạt ở trường – thì anh ta vẫn bị mọi người trong tòa nhà biết tới là có vấn đề với rượu; khi anh ta bước sang một bên cho chúng tôi đi qua cửa lớn, và anh ta là người đầu tiên trong số nhiều người cho tôi một cái nhìn kiểu Chúa ơi, cậu bé, tôi thật lấy làm tiếc mà tôi sẽ tiếp tục nhận trong vài tháng sau đó, tôi có thể ngửi thấy mùi chua của bia trên người anh ta.

    “Họ đang chờ mọi người,” anh ta nói với các nhân viên xã hội. “Hãy lên đi.”


    ii.

    ÔNG BARBOUR là người mở cửa: lúc đầu là một khe nhỏ, sau đó là mở toang. “Xin chào, xin chào,” ông nói và bước lùi lại. Ông Barbour có vẻ ngoài hơi lạ lùng, với thứ gì đó xanh xám và lấp lánh bạc nơi ông, như thể những đợt điều trị ở “trang trại vang tiếng gáy” Connecticut (như cách ông vẫn gọi) đã chuyển ông thành một thứ chói sáng; đôi mắt ông mang một màu xám xiêu vẹo đến kì dị và mái tóc thì toàn một màu trắng, thứ khiến ông trông già hơn tuổi cho tới khi bạn nhận ra khuôn mặt ông vẫn trẻ trung và hồng hào – thậm chí là như trẻ con. Đôi má hồng và cái mũi dài cổ điển, kết hợp với mái tóc già trước tuổi, đã cho ông cái vẻ đáng mến của những con người đi tiên phong ít được biết đến, như thể một thành viên đầu tiên trong lịch sử Quốc hội đã được dịch chuyển tới thế kỉ hai mốt. Ông ta đang mặc thứ trông có vẻ như bộ quần áo đi làm văn phòng từ hôm qua: một chiếc sơ mi nhàu nát và chiếc quần đóng bộ có vẻ đắt tiền mà dường như ông chỉ mới vừa chộp lấy chúng từ sàn phòng ngủ.

    “Hãy vào nhà đi,” ông nói nhanh, nắm tay đưa lên dụi mắt. “Chào cháu yêu quý,” ông nói với tôi – từ yêu quý thật gây sửng sốt, ngay cả khi tôi đang trong trạng thái không ổn định.

    Bằng chân trần, ông đi trước chúng tôi, qua khu nghỉ ngơi làm bằng đá cẩm thạch. Đi qua đó, trong phòng khách được trang trí lộng lẫy (tất cả đều sáng lên màu hoa văn Ấn Độ và những chiếc lục bình Trung Hoa) không gian có vẻ giống buổi đêm hơn là ban ngày: những ngọn đèn tuôn ra dải ánh sàng lờ mờ, những bức tranh tối màu về các trận thủy chiến và rèm thì được kéo kín. Ở đó – gần chiếc piano biểu diễn cỡ nhỏ, và một dàn hoa trang trí to rộng chỉ cỡ một va li – là bà Barbour với bộ quần áo mặc khi dọn nhà, đang rót cà phê vào các tách nhỏ trên khay.

    Khi bà quay lại để chào chúng tôi, tôi có thể cảm nhận được những nhân viên xã hội đang dần nhận thức rõ về toàn bộ căn hộ và về bà ấy. Bà Barbour xuất thân từ một gia đình trung lưu với một cái tên gốc Hà Lan cũ kĩ, bà trông thật bình thản, vàng óng và đơn màu đến nỗi đôi khi trông bà như đang bị mất máu. Bà là một kiệt tác của sự điềm tĩnh; không gì từng làm bà xao động hay khiến bà tuyệt vọng, và mặc dù bà không phải quá xinh nhưng sự bình tĩnh của bà vẫn có một lực hút như nam châm – một sự tĩnh tâm ẩn chứa sức mạnh tới mức các nguyên tử trong không khí phải tự xếp thẳng lại xung quanh bà khi bà bước vào một căn phòng. Như một bản vẽ thời trang được sống dậy, bà quay đầu nhìn tới bất kì nơi nào bà bước đến, lướt mắt qua mà rõ ràng là không để ý tới sự xáo trộn mà bà gây ra với mọi người; hai mắt của bà có vị trí khá xa nhau; đôi tai nhỏ, ở khá cao, và gần với phần trên đầu, và cơ thể thì thắt lại mảnh khảnh, như một chú chồn hương uyển chuyển. (Andy cũng có những nét này, nhưng lại theo một tỉ lệ vô duyên, không có được những nét đẹp thanh lịch và cao quý của bà.)

    Trong quá khứ, sự kín đáo của bà (hoặc sự lạnh lùng, tùy thuộc vào cách bạn nhìn nhận nó) đôi khi khiến tôi thấy bất tiện. Nhưng sáng hôm đó thì tôi thật biết ơn sự thản nhiên đó của bà. “Chào cháu. Chúng ta sẽ để cháu ở cùng phòng với Andy,” bà nói với tôi mà không hề vòng vo. “Nhưng ta e là nó vẫn chưa dậy đi học. Nếu cháu muốn nằm nghỉ một lúc, thì cháu hoàn toàn có thể vào phòng của Platt.” Platt là anh trai của Andy, đang đi học xa nhà. “Dĩ nhiên là cháu biết phòng đó ở đâu chứ?”

    Tôi nói là tôi biết.

    “Cháu có đói không?”

    “Dạ không.”

    “Vậy thì, cứ nói ra những gì mà chúng ta có thể làm cho cháu.”

    Tôi nhận ra là bọn họ đều đang nhìn mình. Cơn đau đầu của tôi đã lớn hơn bất cứ thứ gì trong phòng. Trong cái gương lồi phía trên đầu bà Barbour, tôi có thể thấy mọi thứ được in lại dưới dạng thu nhỏ đầy quái đản: những chiếc bình Trung Hoa, khay cà phê, hai nhân viên xã hội có vẻ ngoài kì cục và tất cả những thứ khác.

    Cuối cùng thì ông Barbour là người phá vỡ sự im lặng. “Vậy thì, hãy đi với ta, cùng sửa soạn mọi thứ cho cháu nào,” ông nói, bàn tay vỗ lên vai tôi và hướng tôi ra ngoài phòng. “Không… quay lại, đường này… phía sau, phía sau. Ngay chỗ đó đấy.”

    Lần duy nhất tôi từng đặt chân vào phòng Platt, vài năm trước, Platt – một nhà vô địch khúc côn cầu và là một kẻ hơi khùng – đã dọa sẽ đánh Andy và tôi nhừ tử. Khi anh ta còn ở nhà, anh ta luôn ở trong đó cả ngày với cánh cửa khóa kín (và, Andy nói với tôi, anh ta hút thuốc). Giờ thì mấy tranh ảnh treo tường của anh ta đã biến mất và căn phòng cũng sạch sẽ và trống trải hơn, vì anh ta đã đi tới Groton. Có vài thùng đồ, vài chồng báo Địa lý Quốc gia đã cũ, một bể cá rỗng. Ông Barbour đang mở đóng các ngăn kéo và khẽ trò chuyện. “Chúng ta hãy xem xem trong này có gì nào? Ga trải giường. Và… thêm ga trải giường nữa. Ta e là ta chưa từng vào đây, hi vọng là cháu thứ lỗi cho ta – ah. Đồ bơi! Chúng ta sẽ không cần đến nó vào sáng nay đúng không?” Ông lần mò đến ngăn kéo thứ ba thì cuối cùng đã tìm thấy một bộ pyjama vẫn còn nguyên mác, xấu như quỷ, có hình tuần lộc trên nền vải flanen xanh chóe, bảo sao chẳng bao giờ nó được mặc.

    “Vậy thì,” ông nói, đưa tay lùa qua mái tóc và đưa mắt nhìn ra cửa. “Ta sẽ để cháu ở đây nhé. Những chuyện đã xảy ra thật quá sức tưởng tượng, lạy Chúa. Chắc hẳn cháu đang thấy vô cùng bấp bênh. Một giấc ngủ ngon sẽ là thứ tốt nhất cho cháu. Cháu mệt không?” ông hỏi, nhìn thẳng vào tôi.

    Tôi có mệt không? Tôi đã thức chong chong, và phần nào đó trong tôi thấy thật trơ trọi và tê liệt đến mức tôi gần như thấy mình đang hôn mê vậy.

    “Nếu cháu muốn có ai đó bên cạnh? Hay là ta đốt lửa lên ở phòng bên kia nhỉ? Hãy nói cho ta biết cháu cần gì nhé.”

    Trước câu hỏi này, tôi có thể cảm thấy một sự tuyệt vọng đến cuống quýt – vì theo tôi thấy thì có lẽ ông ấy chẳng thể làm gì cho tôi, và từ nét mặt ông, tôi nghĩ là ông cũng biết điều đó.

    “Nếu cháu cần gì thì chúng ta ở ngay phòng bên cạnh – nói là vậy thôi, ta cũng sẽ phải đi làm sớm nhưng ai đó sẽ ở lại đây…” Ánh mắt xanh xám của ông lướt qua căn phòng một lượt rồi quay trở lại tôi. “Có lẽ làm việc này là sai, nhưng cũng chẳng hại gì nếu ta rót cho cháu một thứ mà cha ta gọi là một hớp rượu nhỏ. Nếu cháu có cảm thấy muốn một chút. Mà hẳn nhiên là cháu không muốn rồi,” ông liến thoắng khi để ý thấy biểu cảm khó hiểu của tôi. “Nó có vẻ không phù hợp. Thôi không có gì.”

    Ông bước tới gần hơn, và trong một khoảnh khắc không thoải mái cho lắm tôi đã ngỡ là ông có thể chạm vào tôi, hoặc cho tôi một cái ôm. Nhưng thay vào đó ông lại đập hai tay và xoa chúng vào nhau. “Dù sao thì, chúng ta rất vui lòng khi có cháu ở đây và ta hi vọng là cháu sẽ tự nhiên nhất có thể. Cháu sẽ nói nếu cần gì, nhé?”

    Ông vừa bước ra thì có tiếng thì thầm bên ngoài cửa. Rồi có tiếng gõ cửa. “Có người muốn gặp cháu,” Bà barbour nói, rồi rút ra ngoài.

    Và Andy nặng nề bước vào: mắt hấp háy và trông lóng ngóng với cặp kính của cậu ấy. Rõ ràng là họ đã đánh thức cậu ta dậy và dồn cậu ta ra khỏi giường. Với một tiếng cót két ồn ào từ chiếc giường, cậu ấy ngồi cạnh tôi bên rìa giường của Platt, không nhìn vào tôi mà nhìn vào bức tường đối diện.

    Cậu hắng giọng, rồi đẩy gọng kính lên trên sống mũi. Theo sau đó là một khoảng lặng dài. Chiếc máy sưởi kêu những tiếng lách cách và rít lên một cách khẩn trương. Cả cha và mẹ cậu ta đã ra khỏi nơi này nhanh như thể họ vừa nghe thấy tiếng chuông báo động vậy.

    “Wow,” cậu nói, sau vài phút, với cái giọng đều đều e dè quen thuộc. “Thật là xáo trộn.”

    “Ừ,” tôi đáp. Và chúng tôi cùng nhau ngồi đó trong im lặng, ngồi cạnh nhau, cùng nhìn vào bức tường xanh thẫm của phòng Platt và những khoảng vuông còn băng dính nơi mà những tấm hình của anh ta từng được treo. Còn gì để nói nữa đây?


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Tây Ban Nha: Khoai tây chiên

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng tây Ban Nha: Vâng, xin cảm ơn.
     
  12. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    iii.

    NGAY CẢ BÂY GIỜ, NHỚ LẠI khoảng thời gian đó vẫn khiến tôi có cảm giác nghẹn thở trong nỗi tuyệt vọng. Mọi thứ đều thật tồi tệ. Mọi người đều đề nghị mua cho tôi bao loại đồ uống lạnh, những chiếc áo len, những thứ đồ ăn tôi không thể nuốt: chuối, bánh cupcake, sandwich, kem. Tôi chỉ biết nói có và không khi có ai nói chuyện, và dành nhiều thời gian nhìn chằm chằm vào tấm thảm để không ai nhận ra là tôi đã khóc rất nhiều.

    Mặc dù căn hộ của nhà Barbour là khổng lồ so với tiêu chuẩn thông thường của New York, thì nó vẫn là ở tầng thấp và có rất ít ánh sáng, kể cả ở phía quay ra Đại lộ Park. Mặc dù không có lúc nào hoàn toàn là ngày hay hoàn toàn là đêm, nhưng thứ ánh sáng le lói của đèn chiếu lên những đồ vật bằng gỗ sồi được đánh bóng vẫn tạo cảm giác của một buổi yến tiệc và sự an toàn như trong một câu lạc bộ riêng. Bạn bè của Platt vẫn gọi nó là “căn nhà ghê rợn” còn cha tôi, người đã tới đây một, hai lần để đón tôi sau những bữa tiệc đồ ngủ, lại ám chỉ nó như “Nhà của Frank E. Campbell” theo tên một nhà tang lễ. Nhưng tôi vẫn tìm thấy sự an ủi giữa cái ảm đạm mênh mông và giàu có này, cái mà bạn có thể rút lui vào một góc nếu không muốn nói chuyện hay không muốn bị ai nhìn thấy.

    Nhiều người đã ghé qua thăm tôi – nhân viên xã hội của tôi, tất nhiên, và một bác sĩ tâm lý tình nguyện làm không công được thành phố cử tới, nhưng cũng có những người từ chỗ làm của mẹ tôi (tôi đã rất giỏi trong việc nhại theo giọng của một trong số họ, như Mathilde chẳng hạn, để làm mẹ cười), và rất nhiều bạn bè từ trường Đại học New York và từ các mối làm thời trang. Một diễn viên hơi nổi tên Jed, người mà vài lần cùng tới đón lễ Tạ ơn với chúng tôi (“Như ta thấy thì mẹ cháu chính là Nữ hoàng của cả vũ trụ này”), và một phụ nữ có vẻ phá cách với chiếc áo khoác màu cam, tên Kika, người đã kể cho tôi cách mà cô ấy và mẹ - hồi còn nghèo rớt mùng tơi ở East Village – đã tổ chức thành công một bữa tối cho mười hai người chỉ với ít hơn hai mươi đô la (bao gồm, giữa nhiều thứ khác, là những gói kem và đường nẫng được từ một quán cà phê, và vài thứ thảo dược họ lén lút bứt được từ chậu cây bên cửa sổ một nhà hàng xóm). Annette – một góa phụ có chồng là lính cứu hỏa, ở độ tuổi bảy mươi, hàng xóm cũ của mẹ tôi khi còn ở Khu hạ Đông – đã xuất hiện với một hộp bánh quy từ cửa hàng bánh Ý quanh khu mà bà và mẹ tôi từng sống, vẫn là loại bánh quy bơ với hạt thông mà bà luôn mang cho chúng tôi khi tới thăm ở Sutton Place. Rồi có cả Cinzia, người giúp việc cũ của chúng tôi, người đã òa khóc khi cô ấy nhìn thấy tôi, và hỏi xin tôi một bức ảnh của mẹ tôi để giữ trong ví.

    Bà Barbour sẽ dừng những cuộc viếng thăm nếu chúng kéo dài quá lâu, vì lí do là tôi sẽ thấy mệt mỏi, nhưng – tôi nghi là – cũng vì bà ấy không thể quản nổi những người như Cinzia và Kika đang độc quyền chiếm phòng khách của bà trong một khoảng thời gian vô tận. Sau khoảng bốn lăm phút, bà sẽ tới đứng yên lặng bên cánh cửa. Và nếu họ không nhận ra gợi ý đó, bà sẽ nói thành lời và cảm ơn họ đã tới – hoàn toàn lịch sự, nhưng theo cái cách khiến cho người khác thấy đã muộn lắm rồi và họ phải bật dậy. (Giọng của bà, giống của Andy, trống rỗng và xa xăm; ngay cả khi bà đang đứng ngay cạnh bạn thì giọng bà vẫn chỉ như đang được tiếp sóng từ hành tinh Alpha.)

    Xung quanh tôi, ở phía trên đầu tôi, cuộc sống của một hộ gia đình vẫn tiếp tục. Hàng ngày, chuông cửa reo rất nhiều lần: quản gia, vú em, người nấu ăn, gia sư, thầy dạy piano, những quý bà chuyên làm công tác xã hội và những anh chàng làm kinh doanh rỗi việc có liên hệ với các quỹ từ thiện của bà Barbour. Em họ của Andy, Toddy và Kitsey, vẫn chạy qua các căn phòng u ám cùng với bạn bè chúng. Thường thường, vào các buổi chiều, những người phụ nữ sực nức mùi nước hoa với đủ loại túi đồ mua sắm sẽ ghé qua uống cà phê và trả; vào buổi tối, các cặp đôi ăn diện đẹp đẽ sẽ tới tụ tập uống rượi vang và các thức uống có ga ở phòng khách, nơi mà những lẵng hoa lớn vẫn được chuyển tới mỗi tuần từ một của hàng hoa phô trương trên Đại lộ Madison và những vấn đề mới nhất từ các tờ Architectural Digest và tờ New Yorker vẫn được trải khắp mặt bàn uống cà phê.

    Nếu ông bà Barbour có thấy cực kì bất tiện khi có một đứa trẻ rơi cái bịch lên họ, gần như là không báo trước, thì họ cũng đủ ý tứ để không thể hiện nó ra. Mẹ của Andy, với số nữ trang đã được giảm bớt cùng với nụ cười không-hứng-thú-lắm – dạng phụ nữ có thể gọi điện cho thị trưởng nếu bà cần sự giúp đỡ - có vẻ như đang hoàn thành công việc trên cả mức chính quyền thành phố New York yêu cầu bà làm. Ngay cả trong lúc hỗn loạn và buồn đau, tôi vẫn có cảm giác bà đang sắp xếp mọi thứ ở phía sau, khiến mọi việc với tôi trở nên dễ dàng hơn, bảo vệ tôi khỏi những khía cạnh gồ ghề của bộ máy Dịch vụ xã hội – và, giờ tôi khá chắc, là cả dư luận nữa. Các cuộc gọi đến không ngừng nghỉ của điện thoại bàn được chuyển trực tiếp vào di động của bà. Luôn có những cuộc hội thoại bằng giọng thì thầm, hay bằng những mệnh lệnh nhỏ to với người gác cửa tòa nhà. Sau khi bà can thiệp vào một trong rất nhiều các cuộc chất vấn đầy mệt mỏi của Enrique về nơi ở của cha tôi – những cuộc chất vấn mà thường khiến tôi gần như phát khóc; khéo anh ta có thể đã thẩm vấn tôi về cả địa điểm đặt tên lửa ở Pakistan – thì bà đã đưa tôi ra khỏi phòng và sau đó đặt dấu chấm hết cho nó bằng một giọng nói điềm tĩnh đầy kiểm soát (“Ý tôi là, rõ ràng là cậu bé không biết ông ta ở đâu, người mẹ cũng không rõ… vâng, tôi biết là anh muốn tìm ông ta nhưng hiển nhiên là người đàn ông đó không muốn được tìm thấy, ông ta đã thực hiện các biện pháp để không bị tìm ra… ông ta không chi trả tiền chu cấp nuôi con, ông ta để lại rất nhiều khoản nợ, ông ta gần như đã bay khỏi thị trấn mà không nói một lời thế nên thật lòng thì tôi không biết mục đích của anh là gì khi cứ muốn liên lạc với bậc phụ huynh quý giá hay người công dân tốt này và… vâng, vâng, mọi thứ đều tốt cả, nhưng nếu chủ nợ của người đàn ông đó không lấy được gì từ ông ta và cơ quan của các anh cũng không làm được thì tôi không biết là chúng ta sẽ nhận được gì từ việc cứ quấy rầy đứa trẻ này, anh có nghĩ thế không? Chúng ta thỏa thuận là dừng vụ này lại được chứ?”)

    Một vài điều luật bảo vệ bí mật quân sự đã được thực thi kể từ khi sự xuất hiện của tôi gây bất tiện cho cả ngôi nhà: ví dụ, những người hầu gái không còn được nghe Ten Ten WINS, một kênh tin tức, trong khi làm việc nữa (“Không, không được,” đầu bếp Etta nói, với một cái liếc cảnh giác về phía tôi, khi một trong những người lau dọn định bật radio lên) và vào các buổi sáng, tờ The Times ngay lập tức được chuyển tới cho ông Barbour mà không còn để ngoài cho mọi người cùng đọc nữa. Rõ ràng đây không phải tục lệ của gia đình này – “Ai đó lại mang tờ báo đi rồi,” cô em gái nhỏ Kitsey của Andy sẽ ca thán trước khi rơi vào sự im lặng tội lỗi sau cái nhìn của mẹ cô bé – và tôi cũng sớm hiểu ra rằng tất cả các tờ báo đều bắt đầu biến mất vào phòng làm việc của ông Barbour vì có những thứ viết trong đó mà sẽ tốt hơn nếu tôi không nhìn thấy.

    Ơn Chúa là Andy, người đã từng đồng hành cùng tôi trong những lúc khó khăn, vẫn hiểu được rằng thứ mà tôi không muốn làm nhất là nói chuyện. Những ngày đầu tiên, họ để cậu ấy ở nhà cùng tôi thay vì đến trường. Trong căn phòng kẻ sọc kiểu cũ với chiếc giường tầng, nơi mà tôi đã dành những tối thứ bảy ngủ ở đó hồi học tiểu học, chúng tôi cùng ngồi quanh bàn cờ vua, Andy chơi cho cả hai người, vì trong lúc rối trí tôi gần như không nhớ được cách đi các quân cờ. “Được rồi,” cậu nói, đẩy kính trên sống mũi. “Cậu có chắc là muốn làm thế không?”

    “Làm gì cơ?”

    “Được, tớ thấy rồi,” Andy nói, với cái giọng mỏng mảnh và dễ gây bực mình, cái mà đã không biết bao nhiều lần khiến bọn bắt nạt phải xô đẩy cậu ta lên vỉa hè trước cổng trường. “Quân xe của cậu đang gặp nguy hiểm, điều đó rất đúng, nhưng tớ gợi ý là cậu nên nhìn kĩ hơn vào vị trí quân hậu – không, không, quân hậu cơ. D5.”

    Cậu ta phải gọi tên tôi để tôi có thể chú ý. Hết lần này đến lần khác, tôi cứ sống lại trong đầu cái khoảnh khắc mà mẹ và tôi cùng leo lên những bậc cầu thang của bảo tàng. Chiếc ô kẻ sọc của bà. Mưa cứ nhỏ giọt và chảy trên khuôn mặt hai chúng tôi. Chuyện xảy ra, tôi biết, là không thể quay lại được nữa, nhưng cùng lúc dường như vẫn còn một cách nào đó để tôi có thể trở lại con phố đầy mưa ấy và khiến mọi thứ diễn biến khác đi.

    “Một ngày nọ,” Andy nói, “có ai đó, tớ dám chắc đó là Malcom tên-gì-đó hoặc một tác giả chắc hẳn là uy tín – dù sao thì, ông ta đã đăng một bài lớn trên tờ Science Times để chỉ ra rằng có nhiều cách chơi một bàn cờ hơn là số hạt cát trên cả hành tinh này. Thật kì cục khi một tác giả khoa học của một tờ báo lớn lại thấy cần thiết khi nghiên cứu về một sự thật hiển nhiên như vậy.”

    “Đúng thế,” tôi đáp, lấy hết cố gắng từ trong suy nghĩ.

    “Như kiểu ai mà lại không biết số cát trên hành tinh, mặc dù rất lớn, nhưng vẫn là hữu hạn chứ? Thật là buồn cười khi có ai đó thậm chí còn nhận xét về cái thứ vớ vẩn này là Tin tức mới nhất! Chỉ cần ném nó ra ngoài đó là xong, cậu biết đấy, như một sự thực mà không cần chứng minh gì cả.”

    Andy và tôi, hồi tiểu học, đã kết bạn với nhau trong một hoàn cảnh khá là đau đớn: sau khi chúng tôi được nhảy lớp vì có điểm số bài thi cao. Giờ thì mọi người đều thừa nhận đó chính là một sự nhầm lẫn cho cả hai chúng tôi, mặc dù với một sự giải thích khác. Năm đó – chúng tôi tự do đi lại giữa những đứa con trai lớn tuổi hơn và to con hơn, những đứa đã ngáng chân chúng tôi và xô đẩy chúng tôi và sập cánh cửa tủ lên tay chúng tôi, những đứa đã xé bài về nhà và nhổ nước bọt vào sữa của chúng tôi, những đứa đã gọi chúng tôi là sâu bướm thằng đàn bà óc bã đậuVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (đáng buồn là nó lại hợp với tôi, với cái họ Decker của tôi) – suốt cả năm đó (Sự cầm tù thời Babylon của chúng tôi, Andy vẫn gọi thế, với một giọng ủ rũ) chúng tôi đã cùng nhau chống chọi như hai chú kiến yếu ớt dưới kính hiển vi: bị đá vào ống đồng, bị ăn đấm, bị tẩy chay, phải ăn trưa vội vã trong một góc khuất-tầm-nhìn mà chúng tôi có thể tìm thấy để tránh bị những gói tương cà và thịt gà ném vào người. Trong gần hai năm cậu ấy là người bạn duy nhất của tôi, và ngược lại. Thật nặng nề và xấu hổ khi nhớ lại khoảng thời gian đó: những cuộc chiến Autobot và những chiến hạm không gian bằng Lego, những danh tính bí mật mà chúng tôi lấy từ bộ phim kinh điển Star Trek (Tôi là Kirk, cậu ấy là Spock) trong nỗ lực cố bày trò cười với sự thống khổ của chính mình. Thuyền trưởng, có vẻ như những tên người ngoài hành tinh này đang nhốt chúng ta trong một nơi gọi là trường học cho những đứa trẻ loài người, trên trái đất.

    Trước khi tôi bị ném vào một lũ những đứa trẻ lớn tuổi hơn đầy ganh ghét, với cái mác “tài năng” gắn trên cổ, thì tôi chưa từng bị chửi rủa hay xúc phạm ở trường học. Nhưng Andy đáng thương – ngay cả trước khi được nhảy lớp – thì đã luôn là đối tượng bị trêu chọc kinh niên: dáng người gầy gò, gương mặt sợ sệt, bụng không tiêu hóa được nhiều đường, da dẻ thì tái nhợt như thể trong suốt, và một thiên hướng dùng những từ bác học như ‘độc hại’ và ‘dưới bề mặt’ trong hội thoại thường ngày. Độ vụng về của cậu ta cũng giống như độ trắng sáng của da; cái giọng đều đều, thói quen thở bằng miệng do mắc chứng ngạt mũi kinh niên, đã khiến cậu ta mang cái vẻ ngốc nghếch yếu đuối hơn là cực kỳ thông minh. Giữa những người anh em họ hiếu động, răng sắc nhọn, đậm chất thể thao – chạy qua chạy lại giữa bạn bè và đội tuyển và các chương trình trao thưởng ngoại khóa – thì cậu ta nổi lên như một tên đầu nhồi bột người đã tình cờ lang thang vào sân khúc côn cầu.

    Trong khi tôi chật vật hồi phục lại sau thảm họa hồi lớp năm ấy, thì Andy lại không thế. Cậu ấy ở nhà vào tối thứ sáu và thứ bảy; cậu không bao giờ được mời tới các bữa tiệc hay những lần đi chơi công viên. Theo những gì tôi biết, tôi vẫn là người bạn duy nhất của cậu ấy. Và mặc dù nhờ mẹ mà cậu ấy có những thứ đồ đúng kiểu cách, và mặc như những đứa trẻ cùng thời – thậm chí có lúc còn đeo kính áp tròng – thì chẳng có ai bị lừa cả: những thể loại hung hãn mà vẫn nhớ về cậu ta từ những ngày tồi tệ trong qua khứ thì vẫn xô đẩy cậu ta và gọi cậu ta là “Threepio” vì một lỗi lầm xưa kia là đã mặc đến trường một chiếc áo in hình Chiến tranh giữa các vì sao.

    Andy thì chưa từng là người hay nói, thậm chí là khi còn bé, ngoại trừ vài lần bùng nổ vì áp lực (hầu hết tình bạn của chúng tôi là những lần lẳng lặng trao đổi truyện tranh qua lại). Những năm tháng khổ sở ở trường lại càng khiến cậu ta trở nên kín miệng và ít giao tiếp – ít có xu hướng dùng những từ ngữ kiểu cách của nhà văn Lovecraft hơn, và có xu hướng chôn mình trong những kiến thức toán học và khoa học cao cấp. Toán học chưa từng là niềm yêu thích của tôi – tôi được người ta gọi là có khả năng ngôn ngữ cao – nhưng trong khi tôi còn thiếu sự hứa hẹn trong khả năng học hành, trên mọi lĩnh vực, và không hứng thú gì với điểm số cao nếu tôi phải vất vả để có chúng, thì Andy lại học mọi thứ ở bậc cao cấp và luôn đứng đầu lớp. (Chắc chắn rằng cậu ta sẽ được cho học ở Groton giống Platt – một viễn cảnh khiến cậu ta sợ hãi, khi còn học lớp ba – nếu cha mẹ cậu ấy không lo lắng rằng nó có đúng đắn không khi gửi đi học đứa con trai đã từng bị bạn bè hành hạ tới mức một lần suýt nữa đã ngạt thở trong giờ ra chơi sau khi bị chụp một cái túi nhựa lên đầu. Và cũng có những lo âu khác nữa; lí do tại sao tôi biết về khoảng thời gian của ông Barbour ở “trang trại vang tiếng gáy” là vì Andy nói cho tôi, theo cái cách tự-nhiên-như-thật của cậu ấy, rằng cha mẹ cậu ấy sợ rằng cậu ấy có thể thừa hưởng chút gì đó của sự nhạy cảm ấy, như lời cậu ta nói.)

    Trong suốt khoảng thời gian cậu ấy ở nhà cùng tôi sau giờ học, Andy có xin lỗi tôi vì phải học bài, “nhưng không may là nó lại cần thiết,” cậu giải thích, khụt khịt và quẹt mũi vào tay áo. Chương trình học của cậu có yêu cầu cao không tin nổi (“Bánh xe kiến thức cao cấp”) và cậu ấy không thể để lỡ dù chỉ một ngày. Trong khi cậu chật vật làm việc với đống bài tập có vẻ bất tận (Hóa học và tính toán, Lịch sử Mỹ, tiếng Anh, Thiên văn học, tiếng Nhật) thì tôi ngồi trên sàn, dựa lưng vào tủ quần áo của cậu ta, tự đếm nhẩm một mình: giờ này chỉ mới ba ngày trước mẹ tôi vẫn còn sống, giờ này bốn ngày trước, một tuần trước. Tâm trí tôi dạo lại tất cả những bữa ăn mà chúng tôi cùng ăn trong những ngày trước khi bà ra đi: lần cuối chúng tôi cùng ăn ở quán ăn Hy Lạp, lần cuối cùng ăn ở tiệm Cung điện Shun Lee, bữa tối cuối cùng mẹ nấu cho tôi ăn (mỳ spaghetti sốt cabonara) và bữa tối cuối cùng trước bữa đó (một món có tên gà Ấn Độ, cái mà bà đã học cách làm từ mẹ mình khi còn ở Kansas). Đôi lúc, để trông có vẻ bận rộn, tôi quay qua xem những phần cũ của bộ truyện Nhà giả kim hoặc một cuốn sách minh họa của H. G. Wells mà Andy để trong phòng, nhưng ngay cả những bức tranh cũng vượt quá trình độ tiếp nhận của tôi. Hầu hết thời gian là tôi ngắm những chú bồ câu vỗ cánh trên bậu cửa sổ trong khi Andy đang điền dần những ô trống dài vô tận trong cuốn vở tập viết chữ hiragana, đầu gối đập đều đều vào mặt dưới bàn học khi cậu làm việc.

    Phòng của Andy – từng là một phòng ngủ lớn được nhà Barbour chia làm hai – thì quay mặt ra Đại lộ Park. Còi xe kêu gào ở ngã tư vào mỗi giờ tan tầm và đèn thì tỏa ra ánh sáng màu vàng từ những ô cửa sổ đối diện, dần nhạt đi vào lúc xe cộ vãn dần. Khi màn đêm bao phủ (quầng lân quang bao quanh những ngọn đèn đường, bầu trời đêm màu tím ở thành phố mà không bao giờ chuyển thành màu đen) thì tôi vẫn xoay qua xoay lại, trần nhà thấp gần với chiếc giường như đang đè lên tôi nặng trĩu đến mức đôi khi chợt tỉnh giấc và tưởng như mình đang nằm bên dưới cái giường chứ không phải bên trên nó.

    Làm sao ta có thể nhớ một người nhiều như tôi nhớ mẹ mình lúc này? Tôi nhớ bà đến mức chỉ muốn chết đi: một sự mong mỏi dai dẳng và nặng nhọc, như khi tìm kiếm không khí khi ở dưới nước vậy. Nằm trằn trọc, tôi cố gắng nhớ lại tất cả những kí ức đẹp đẽ nhất về mẹ - đóng băng hình ảnh đó trong tâm trí để không khi nào tôi quên được – nhưng thay vì những dịp sinh nhật hay những sự kiện vui vẻ khác thì tôi lại cứ nhớ mãi về những thứ như cái cách mẹ chặn tôi ở cửa để dứt một sợi chỉ thừa trên áo khoác của tôi chỉ vài ngày trước khi bà bị giết. Vì một lí do nào đó, nó chính là những kí ức rõ ràng nhất mà tôi có được: cặp lông mày nhướng lên, những động tác chính xác khi bà vươn tay ra nắm lấy tôi, tất cả mọi thứ. Có vài lần – khi đang trôi nổi giữa ngủ say và mộng mị - tôi chợt ngồi bật dậy khi có giọng nói của bà vang lên rành rọt trong đầu tôi, những lời nhận xét mà có lẽ là bà đã nói một lúc nào đó nhưng tôi không nhớ cụ thể, những câu như Ném cho mẹ một quả táo được không? Mẹ đang tự hỏi liệu hàng cúc áo này là ở mặt trước hay mặt sau nhỉ? Chiếc sofa này ở trong tình trạng thật đáng xấu hổ.

    Ánh sáng từ ngoài phố hắt vào thành những mảng đen trên sàn nhà. Tôi tuyệt vọng nhớ về phòng ngủ của riêng mình giờ đang trống không chỉ cách đây vài tòa nhà: chiếc giường hẹp của riêng tôi với chiếc chăn màu đỏ đã cũ. Những ngôi sao phát sáng được trong bóng tối từ mô hình vũ trụ, một bưu ảnh có hình Frankeinstein của James Whale. Những chú chim đã lại về với công viên, những bông thủy tiên vàng cũng đã thức giấc; thời gian này trong năm, khi thời tiết có vẻ dễ chịu, đôi khi mẹ và tôi lại thức dậy rất sớm vào buổi sáng và đi qua công viên cùng nhau thay vì bắt xe buýt tới khu phía Tây. Giá như tôi có thể quay lại và thay đổi những chuyện đã xảy ra, bằng cách nào đó ngăn nó đừng xảy ra nữa. Tại sao tôi lại không đòi mẹ cùng đi ăn sáng thay vì tới bảo tàng chứ? Tại sao thầy Beeman lại không yêu cầu chúng tôi tới vào thứ ba, hay thứ năm đi?

    Vào khoảng tối ngày thứ hai sau khi mẹ tôi mất hoặc tối thứ ba – lúc nào đó sau khi bà Barbour đưa tôi tới bác sĩ để khám bệnh đau đầu – gia đình Barbour có tổ chức một bữa tiệc lớn tại nhà vì đã quá muộn để họ có thể hủy nó. Có những tiếng thầm thì, những hành động xôn xao mà tôi khó có thể hiểu nổi. “Mẹ nghĩ là,” bà Barbour nói khi quay trở lại phòng của Andy, “con và Theo có thể sẽ thấy vui hơn khi ở trong này.” Mặc dù giọng bà rất nhẹ nhàng, nhưng rõ ràng đó không phải một gợi ý mà là một mệnh lệnh. “Ngoài đó sẽ chán lắm, và mẹ thực sự không nghĩ là các con sẽ có khoảng thời gian vui vẻ ở đó. Mẹ sẽ nói Etta mang cho các con một vài món từ nhà bếp nhé.”

    Andy và tôi ngồi cạnh nhau ở giường dưới, ăn món tôm cocktail và món bánh mỳ ăn kèm atiso trên những chiếc đĩa giấy – hoặc, thay vì như vậy, cậu ấy ăn còn tôi ngồi với những chiếc đĩa giấy đặt trên đùi, còn nguyên. Cậu ấy có những DVD trữ phim hành động với những con robot nổ tung, kim loại và lửa rơi xuống như mưa. Từ phòng khách: tiếng ly thủy tinh cụng nhau, mùi nến sáp và nước hoa, cứ thi thoảng lại có giọng ai đó phá lên cười thích thú. Người nghệ sĩ chơi piano thì sáng lên lấp lánh, bản cách điệu nhanh của ca khúc “It’s All Over Now, Baby Blue” dường như đang trôi về từ một nơi xa xôi trong vũ trụ. Mọi thứ đều mất hết, tôi như ngã khỏi tấm bản đồ cuộc đời mình: sự chênh vênh – khi ở trong căn hộ không phải của mìnhvới một gia đình không phải của mình – đang làm tôi quỵ ngã, bởi thế mà tôi luôn cảm thấy chệch choạc, như người đang say rượu và có phần ủy mị, giống một tù nhân đang bị thẩm vấn và không được ngủ mấy ngày liền rồi. Hết lần này đến lần khác, tôi vẫn cứ nghĩ Mình phải về nhà và rồi lại nghĩ, đến lần thứ một triệu, rằng mình không thể.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tác giả dùng từ “dickhead” là một từ khá khiếm nhã, và họ Decker của nhân vật thì khá giống từ này.
     
    ichono87, thanhbt, gamekiller and 2 others like this.
  13. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    iv.

    SAU BỐN NGÀY, HOẶC cũng có thể là năm, Andy đã chất đống sách của mình vào chiếc balo căng phồng và quay trở lại trường học. Cả ngày hôm đó, và hôm tiếp theo nữa, tôi chỉ ngồi trong phòng của cậu ấy với chiếc ti vi được bật ở kênh Những bộ phim kinh điển của Turner, cái mà mẹ thường xem sau khi đi làm về. Họ thường chiếu những bộ phim được làm từ những câu chuyện của Graham Greene: Ministry of Fear, The Human Factor, The Fallen Idol, This Gun for Hire. Buổi tối của ngày thứ hai, trong khi tôi đang chờ phim The Third Man được chiếu, bà Barbour (đã diện đồ Valentino và đang trên đường ra cửa để tới dự tiệc ở nhà Frick) ghé qua phòng của Andy và thông báo rằng tôi cũng sẽ quay trở lại trường vào ngày hôm sau. “Bất kì ai cũng sẽ cảm thấy lạc lõng,” bà nói. “Hãy tự mình quay trở lại. Sống thế này không tốt cho cháu đâu.”

    Tôi không biết nói gì. Ngồi một mình xem các bộ phim là việc duy nhất tôi làm mà tôi còn cảm thấy bình thường kể từ cái chết của mẹ.

    “Đã đến lúc cháu phải trở lại với một hoạt động gì đó có tính đều đặn. Ngày mai. Ta biết nó có vẻ không phù hợp, Theo,” bà nói khi không thấy tôi trả lời, “nhưng tự khiến bản thân bận rộn chính là cách tốt nhất để làm bản thân thấy khá hơn.”

    Tôi vẫn nhất quyết nhìn chằm chằm vào màn hình ti vi. Tôi vẫn chưa đi học lại kể từ cái ngày trước khi mẹ tôi ra đi và chừng nào mà tôi còn không đi học thì chừng đó cái chết của mẹ tôi dường như vẫn chưa phải chính thức đã diễn ra. Nhưng một khi tôi trở lại trường thì nó sẽ thành một sự thật mà ai cũng công nhận. Tệ hơn là: ý nghĩ rằng mình sẽ trở lại nhịp sống thường ngày dường như là một sự phản bội, sự sai trái. Mỗi lần tôi nghĩ lại nó đều là một cú sốc nặng nề, một cái tát còn mới nguyên: bà đã ra đi rồi. Tất cả những công việc mới – mà tôi sẽ làm trong suốt cuộc đời còn lại – sẽ chỉ càng thêm ngăn cách chúng tôi thôi: những ngày tháng không còn có mẹ trong đó, một khoảng cách cứ lớn dần giữa chúng tôi. Mỗi ngày trong suốt quãng đời còn lại, mẹ sẽ chỉ thêm xa vời.

    “Theo.”

    Tôi sửng sốt nhìn lên.

    “Từng bước một. Sẽ không còn cách nào khác để qua khỏi chuyện này đâu.”

    Ngày hôm sau, họ chiếu liên khúc phim về điệp viên trong Thế chiến II (Cairo, The Hidden Enemy, Code Name: Emerald) mà tôi thực sự muốn ở nhà xem. Nhưng thay vì làm vậy, tôi tự kéo bản thân mình ra khỏi giường khi ngài Barbour thò đầu vào gọi chúng tôi dậy (“Dậy và chiến đấu nào, các chiến binh!”) rồi cùng đi bộ tới bến xe buýt với Andy. Đó là một ngày trời mưa, và đủ lạnh để bà Barbour bắt tôi mặc một chiếc áo len thô cồng kềnh của Platt ra bên ngoài quần áo của tôi. Em gái của Andy, Kitsey, thì nhảy chân sáo phía trước chúng tôi trong chiếc áo mưa màu hồng, tránh những vũng nước và giả vờ như không quen bọn tôi.

    Tôi biết là nó sẽ rất khủng khiếp, và đúng là như vậy, ngay từ giây phút tôi bước vào khu sảnh đường sáng choang và ngửi thấy thứ mùi quen thuộc của trường học: mùi thuốc khử trùng và có gì đó như mùi tất cũ. Những biển hiệu được viết vẽ bằng tay dọc lối đi: những tờ đơn đăng ký vào câu lạc bộ tennis và các lớp dạy nấu ăn, những bản xem thử của bộ phim The Odd Couple, những chuyến thực địa đến đảo Ellis và các vé đến xem hòa nhạc mùa Xuân, thật không tin nổi là cả thế giới đã chấm dứt mà bằng cách nào đó những hoạt động kì cục này vẫn cứ tiếp diễn.

    Điều lạ lùng là: ngày cuối cùng tôi từng ở tòa nhà này thì mẹ tôi vẫn còn sống. Tôi cứ nghĩ mãi về nó, mà mỗi lần như vậy cảm xúc lại như mới nguyên: lần cuối tôi mở tủ đồ, lần cuối tôi chạm vào cuốn Đại cương sinh học ngu ngốc chết tiệt này, lần cuối tôi thấy Lindy Maisel tô son bằng cái đũa thần bằng nhựa đó. Khó mà tin nổi là tôi lại không thể cứ đi theo những hình ảnh đó để về với thế giới nơi mẹ tôi chưa từng chết đi.

    “Thật đáng tiếc.” Những người tôi biết đều nói thế, và cả những người chưa từng nói chuyện với tôi trong đời. Những người khác – đang cười nói trong hành lang – chợt im bặt khi tôi bước qua, ném tới tôi những cái nhìn thương xót hoặc khó hiểu. Một số người khác thì vẫn hoàn toàn lờ tôi đi, như những con chó hiếu động sẽ lờ đi con chó bị ốm hoặc bị thương ngay giữa đường đi của chúng: bằng cách tránh nhìn vào tôi, bằng việc đùa giỡn với nhau xung quanh tôi ở hành lang như thể tôi không ở đó vậy.

    Đặc biệt là Tom Cable, cái đứa chật vật cố tránh né tôi như thể tôi là đứa con gái mà cậu ta từng đá. Vào giờ ăn trưa, không thấy cậu ta đâu cả. Trong giờ học tiếng Tây Ban Nha (cậu ta lẻn vào sau khi lớp học bắt đầu, bỏ lỡ mất khoảnh khắc ngượng ngùng khi mọi người sụt sùi bu xung quanh bàn tôi để nói rằng họ thấy rất tiếc) cậu ta không ngồi cạnh tôi như bình thường mà ngồi tít lên trên, người gập xuống với cặp chân chừa ra một bên. Những hạt mưa vỗ nhẹ lên khung cửa sổ trong khi chúng tôi bắt đầu dịch những câu văn lạ lùng, những câu mà có thể khiến Salvador Dalí tự hào: về món tôm hùm và những chiếc ô trên biển, về Marisol với hàng lông mi dài đang đi trên chiếc taxi màu xanh vàng để đến trường.

    Sau giờ học, trên đường ra ngoài, tôi có đi lên phía trên và nói chào cậu ta trong khi cậu ta đang thu xếp sách vở.

    “Oh, hey, mọi chuyện sao rồi,” cậu ta hỏi – thật xa cách khi cậu ta lủi ra sau với hàng lông mày hình cánh cung đầy mỉa mai. “Tớ nghe hết rồi.”

    “Ừ.” Đây chính là thói quen của chúng tôi: mọi người sẽ thấy thật lạnh nhạt, nhưng chúng tôi lúc nào cũng hiểu những câu đùa cợt của nhau.

    “Thật xui xẻo. Nó chắc hẳn đau lòng lắm.”

    “Cám ơn.”

    “Này – đáng ra cậu phải nghỉ ốm chứ. Đã bảo rồi! Mẹ tôi cũng nói về chuyện này suốt. Mọi thứ bắn tung lên trần nhà! Ừm, ờ,” cậu nói, sau đó nửa nhún vai, rồi nhìn lên, nhìn xuống, nhìn ra xung quanh, với vẻ mặt kiểu ai cơ, tôi á? sau khi ném đi một quả bóng tuyết đựng một hòn đá bên trong.

    “Dù sao thì,” cậu ta nói với giọng xuôi chèo. “Bộ trang phục này có vấn đề gì vậy?”

    “Cái gì?”

    “Ừm” – cậu lùi lại một bước, đưa mắt ngắm nhìn cái áo len thô đầy châm biếm – “chắc chắn là được giải nhất trong Cuộc thi Ai giống Platt Barbour nhất.”

    Và bất kể tình trạng của bản thân – bị sốc, sau những ngày kinh hoàng và tê dại, như một người bị hội chứng Tourrette chỉ chực bùng nổ với những cơn co giật – tôi đã cười.

    “Đặt tên hay lắm, Cable,” tôi nói, nhại theo cái giọng dài thuỗn đáng ghét của Platt. Chúng tôi đều là những kẻ có tài bắt chước, cả hai đứa, và thường nói cả một cuộc hội thoại bằng giọng của người khác: những phát thanh viên chậm chạp, những cô gái nhõng nhẽo, những giáo viên hiền lành và khờ khạo. “Ngày mai tôi sẽ mặc giống cậu.”

    Nhưng Tom không đáp lại theo kiểu đó hay cùng hùa theo chủ đề này. Cậu ấy đã hết hứng thú. “Errrr – có lẽ là đừng,” cậu nói, với một cái nửa nhún vai, một nụ cười mỉm. “Gặp sau nhé.”

    “Ừ, gặp sau.” Tôi rất bực bội – Có cái vấn đề quái gì với cậu ta vậy? Dù sao thì đó cũng từng là một phần của những màn hài kịch bí ẩn của chúng tôi, chỉ chúng tôi hiểu, để trêu chọc lẫn nhau; và tôi cũng dám chắc là có thời cậu ta đã từng chạy đi tìm tôi sau giờ tiếng Anh hoặc cố bắt kịp tôi trên đường về nhà, chạy theo sau và đập lên đầu tôi bằng quyển sách bài tập hình học của cậu ta. Nhưng giờ cậu không làm vậy nữa. Buổi sáng tiếp theo trước giờ vào tiết một cậu ta thậm chí còn không thèm quay ra nhìn khi tôi nói chào, và cái biểu hiện trống rỗng khi cậu ta bước qua tôi khiến tôi chợt khựng lại. Lindy Maisel và Mandy Quaife dựa lưng vào tủ đồ để có thể nhìn nhau, cùng khúc khích cười với vẻ sốc nửa mùa kiểu: Ôi Chúa ơi! Cạnh tôi là bạn cùng làm thí nghiệm với tôi, Sam Weingarten, đang lắc đầu. “Thật là một tên khốn,” cậu nói bằng giọng trầm, to đến nỗi mọi người trong sảnh đều quay lại. “Cậu là một tên khốn nạn, Cable, cậu có biết không?”

    Nhưng tôi không quan tâm – hoặc, ít nhất là tôi không thấy tổn thương hay thất vọng. Thay vào đó tôi thấy vô cùng tức giận. Tình bạn của tôi với Tom vẫn luôn mang cái chất hoang dã và điên khùng, thứ gì đó tự do, sôi nổi và có chút gì đó mạo hiểm về nó, và mặc dù thứ năng lượng tràn trề của quá khứ vẫn còn đó, nhưng sóng điện đã đổi chiều, luồng điện cao thế đã quay hướng ngược lại để rồi giờ đây thay vì nhảy chồm chồm cùng cậu ta trong khu phòng học thì tôi chỉ muốn dúi đầu cậu ta vào bãi nước tiểu, giựt đứt cánh tay của cậu ta, đánh cậu ta máu me đầy mặt, bắt cậu ta ăn phân chó và rác rưởi trên lề đường. Tôi càng nghĩ về nó thì tôi càng nổi điên, điên đến mức có những lúc tôi đi đi lại lại trong nhà vệ sinh và lầm bầm với bản thân mình. Nếu Cable không mách về tôi với thầy Beeman (“Giờ thì tôi đã biết rồi, Theo, đống thuốc lá đó không phải của cậu”)… nếu Cable không khiến tôi bị đình chỉ học… nếu mẹ tôi không phải xin phép nghỉ một ngày… nếu chúng tôi không ở trong bảo tàng nhầm lúc… những câu đại loại thế, thậm chí thầy Beeman cũng đã phải xin lỗi tôi. Bởi vì, tôi biết, cũng có vấn đề thật với điểm số của tôi (và nhiều những chuyện lặt vặt khác mà thầy Beeman không biết) nhưng cái việc là khởi nguồn của mọi thứ, cái mà khiến tôi bị triệu tập, toàn bộ vụ hút thuốc ở sân sau – đó là lỗi của ai? Cable. Không phải là tôi mong chờ cậu ta sẽ xin lỗi. Thực ra là tôi sẽ không nói bất cứ thứ gì với cậu ta về chuyện này, không bao giờ. Chỉ là – giờ tôi thành một kẻ hạ đẳng sao? Một kẻ vô thừa nhận à? Cậu ta thậm chí không thèm nói chuyện với tôi? Tôi nhỏ người hơn Cable nhưng không đến mức quá nhỏ, và bất cứ khi nào cậu ta buông những câu nhận xét châm biếm quen thuộc, vì cậu ta không thể tự ngăn mình làm thế, hay khi cậu ta chạy qua tôi cùng với lũ bạn mới Billy Wagner và Thad Randolph (theo cái cách mà chúng tôi từng nô nghịch với nhau, lúc nào cũng hết công suất, sự nguy hiểm và điên rồ luôn thúc giục) – thì tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là tôi muốn đập cậu ta một trận nhừ tử nhiều như thế nào, những đứa con gái thì cười nhạo khi cậu ta co rúm người tránh tôi và chỉ chực khóc: oooh, Tom! boo hoo hoo! mày đang khóc đó hả? (Để cố tình gây sự, tôi đã cho cậu ta một cú vào mũi bằng cách giả vờ vô tình đập cánh cửa nhà vệ sinh vào mặt cậu ta, rồi xô cậu ta vào máy bán nước tự động để cậu ta đánh rơi cái bánh pho mát ghê tởm xuống sàn nhà, nhưng thay vì nhảy xổ vào tôi – thứ mà tôi rất muốn cậu ta làm – thì cậu ta lại chỉ khẽ nhếch mép và bước đi mà không nói một lời.)

    Không hẳn là mọi người đều tránh mặt tôi, dĩ nhiên rồi. Rất nhiều người đã đặt những mẩu giấy nhắn gửi và những món quà trong tủ đồ của tôi (bao gồm cả Isabella Cushing và Martina Lichtblau, những đứa con gái nổi tiếng nhất của khóa tôi) và kẻ thù cũ của tôi hồi lớp năm Win Temple cũng làm tôi bất ngờ bằng việc xuất hiện và cho tôi một cái ôm thật chặt. Nhưng hầu hết mọi người đều phản ứng với một sự trang trọng nửa sợ sệt nửa cảnh giác. Không phải là tôi luôn chạy quanh khóc lóc hay thậm chí là có hành động phá rối nhưng bọn họ vẫn cứ dừng nửa chừng cuộc nói chuyện nếu tôi có ngồi cùng họ vào giờ ăn trưa.

    Người lớn thì ngược lại, luôn dành cho tôi một sự chú ý thường trực đến mức khó chịu. Tôi được đề nghị nên giữ một tờ nhật báo, nói chuyện với bạn bè, làm một cuốn “kỷ yếu” (đúng là lời khuyên lập dị, theo như tôi nghĩ; những đứa trẻ khác đều ngại ngần khi ở quanh tôi bất kể tôi có hành xử tự nhiên thế nào, và điều cuối cùng trên thế giới này tôi muốn làm là tự gây chú ý bằng việc chia sẻ cảm xúc với mọi người và làm những thứ đồ có tác dụng hàn gắn tâm trạng trong phòng thủ công). Dường như tôi đã dành một khoảng thời gian đáng kể đứng trong những phòng học và văn phòng trống (nhìn chằm chằm xuống sàn nhà, gật đầu một cách vô nghĩa) cùng với những giáo viên tận tâm, những người đã yêu cầu tôi ở lại sau giờ học hoặc kéo tôi ra một góc để trò chuyện. Giáo viên tiếng Anh của tôi, thầy Neuspeil, sau khi ngồi trên mép ghế và truyền tải một câu chuyện gay cấn về cái chết thảm khốc của mẹ thầy dưới bàn tay của một bác sĩ phẫu thuật bất tài, đã vỗ vai tôi và cho tôi một cuốn sổ mới để viết; cô Swanson, giáo viên phụ trách việc tư vấn ở trường, đã chỉ cho tôi vài bài luyện tập thở và có gợi ý rằng có lẽ nó sẽ giúp ích trong việc giải tỏa nỗi buồn nếu tôi ra ngoài và ném bóng tuyết vào một cái thân cây; và thậm chí là cả thầy Borowsky (người dạy môn toán, và có cặp mắt kém sức sống hơn hầu hết những người khác) cũng dẫn tôi ra một góc trong khu sảnh và – trong khi thì thầm, mặt thầy cách mặt tôi khoảng 2 inch – thầy nói cho tôi thầy đã thấy tội lỗi thế nào sau khi anh trai thầy chết trong một tai nạn xe hơi. (Sự tội lỗi xuất hiện khá nhiều trong lần nói chuyện này. Liệu các giáo viên có tin, như tôi vẫn tin, rằng tôi có lỗi trong việc gây ra cái chết của mẹ tôi? Rõ ràng là vậy rồi.) Thầy Borowsky đã thấy tội lỗi vì đã để anh mình lái xe khi say rượu sau bữa tiệc đêm đó đến mức đã có lúc thầy từng nghĩ tới chuyện tự kết liễu đời mình. Có lẽ tôi cũng đã từng nghĩ tới chuyện tự tử. Nhưng tự tử thì không phải câu trả lời.

    Tôi đón nhận lấy những lời khuyên bảo một cách lịch sự, với một nụ cười vô hồn và cảm giác như chẳng cái gì là có thực cả. Nhiều người trưởng thành dường như lại phiên dịch sự tê liệt này thành một dấu hiệu tích cực; tôi vẫn còn nhớ rất rõ chuyện thầy Beeman (một người với cái gốc Anh đã bị cắt xén quá mức bằng chiếc mũ nồi bằng vải tuýt ngớ ngẩn, người mà, mặc dù luôn lo lắng về tôi, thì tôi vẫn căm ghét, một cách vô lý, vì là một trong những nhân tố gây nên cái chết của mẹ tôi) đã từng khen ngợi sự trưởng thành của tôi và nói rằng tôi có vẻ như “đang xoay sở tốt một cách đáng buồn.” Và có thể tôi đang xoay sở một cách đáng buồn, tôi không biết nữa. Chắc chắn là tôi đã không gào rú ầm ĩ hay đấm tay vào kính cửa sổ hay làm những thứ mà tôi vẫn tưởng tượng những người có cảm xúc giống tôi sẽ làm. Có những lúc, thật bất ngờ, nỗi đau ấy lại như sóng va đập vào cơ thể khiến tôi ngạt thở; và khi con sóng đã lùi xa rồi, tôi mới thấy mình đang nhìn ra phía bãi phế thải đằng xa, cái đang được chiếu sáng bởi ánh đèn lờ mờ, thật quặn lòng và trống trải, đến mức tôi không thể nhớ ra rằng thế giới này từ trước đến giờ cũng chỉ toàn chết chóc.


    v.

    THỰC LÒNG THÌ, ÔNG BÀ NỘI Decker của tôi sẽ là điều cuối cùng mà tôi nghĩ đến, nhất là kể từ khi bên Dịch vụ Xã hội không thể lần ra họ ngay với lượng thông tin ít ỏi mà tôi cung cấp. Thế rồi một lần bà Barbour đã gõ cửa phòng Andy và nói, “Theo, chúng ta có thể nói chuyện một chút được không?”

    Có thứ gì đó trong lối nói của bà thông báo một cách rành mạch rằng đó là một tin xấu, mặc dù trong tình thế của tôi thì cũng khó có thể tưởng tượng được là còn gì có thể tồi tệ hơn nữa. Khi chúng tôi đã yên vị trong phòng khách – gần với nơi đặt những cành liễu cao ba feet và những cành táo đang đâm chồi mua từ của hiệu hoa tươi – bà vắt chân sang một bên và nói: “Ta đã nhận được một cuộc gọi từ Dịch vụ Xã hội. Họ đã liên lạc được với ông bà của cháu. Không may là bà cháu có vẻ không được khỏe.”

    Tôi bối rối mất một lúc. “Dorothy?”

    “Nếu đó là cách cháu gọi bà ấy, thì đúng vậy.”

    “Oh. Bà ấy không phải bà nội cháu.”

    “Ta biết,” bà Barbour nói, như thể bà đã không thực sự tìm hiểu và cũng không muốn tìm hiểu. “Dù sao đi nữa thì có vẻ bà ấy không được khỏe – ta nghĩ là do bệnh đau lưng – và ông cháu đang chăm sóc bà ấy. Thế nên vấn đề là, cháu thấy đấy, ta chắc chắn là họ thấy rất đồng cảm, nhưng họ nói giờ chưa phù hợp để cháu xuống đó ở. Nghĩa là chưa thể ở cùng nhà với họ,” bà thêm vào, khi không thấy tôi nói gì. “Họ đề nghị được trả chi phí để cháu ở lại quán trọ Holiday gần nhà họ, tạm thời là vậy, nhưng việc đó có vẻ hơi bất tiện, đúng không?”

    Trong tai tôi lại có tiếng vo vo khó chịu. Ngồi đó với vị thế thấp hơn, dưới ánh mắt màu xám lạnh như băng ấy, không hiểu sao tôi lại thấy hổ thẹn về bản thân mình. Tôi đã sợ hãi cái ý nghĩ tới ở cùng Ông nội Decker và bà Dorothy đến nỗi tôi đã gần như hoàn toàn gạt họ ra khỏi tâm trí, nhưng việc biết rằng họ không muốn tôi lại là một việc khác.

    Sự đồng cảm thoáng xuất hiện trên gương mặt bà Barbour. “Cháu không được buồn bã,” bà nói. “Và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được lo lắng. Mọi thứ đã được định rằng cháu sẽ ở với chúng ta trong vòng vài tuần tới và ít nhất là tới khi cháu kết thúc năm học này. Tiện đây, mọi người đều đã đồng ý đó là cách tốt nhất rồi,” bà nói, cúi người ra phía trước, “đó là một chiếc nhẫn đẹp đấy. Một kỉ vật gia đình đúng không?”

    “Um, vâng ạ,” tôi đáp. Vì một vài lí do khó giải thích, tôi cứ thế mang theo chiếc nhẫn của người đàn ông lớn tuổi ấy bất cứ nơi nào tôi đi. Hầu hết thời gian tôi thường chạm vào nó khi nó ở trong túi áo khoác, nhưng kể từ giờ, tôi sẽ đeo nó vào ngón giữa, cho dù nó khá to và thường hay xoay quanh ngón tay.

    “Hay đấy. Của gia đình mẹ cháu hay cha cháu vậy?”

    “Của mẹ cháu,” tôi đáp, sau một khoảng dừng, vì không thích cái cách mà cuộc nói chuyện đang tiếp diễn.

    “Ta xem nó được không?”

    Tôi tháo nó ra và thả vào lòng bàn tay bà. Bà giơ nó lên trước ngọn đèn bàn. “Thật là đẹp,” bà thốt lên, “ngọc carnelian nâu đỏ, và vết khắc chìm này. Thời La Mã à? Hay chỉ là một tấm gia huy nhỉ?”

    “Um, cháu nghĩ nó là một tấm gia huy.”

    Bà xem xét hình con thú thần thoại mang móng vuốt. “Nó trông như một con sư tử đầu chim ưng. Hoặc một con sư tử có cánh.” Bà xoay phần bên cạnh chiếc nhẫn vào hướng ánh sáng và nhìn vào mặt trong của nhẫn. “Còn những dòng khắc chữ này?”

    Biểu hiện khó hiểu của tôi làm bà chau mày. “Đừng nói với ta là cháu chưa từng để ý thấy nó. Chờ đã.” Bà đứng dậy và đi về phía chiếc bàn có rất nhiều ngăn kéo và hộc tủ lằng nhằng, và quay lại với một chiếc kính lúp.

    “Cái này sẽ tốt hơn là cái kính dùng để đọc báo của ta,” bà nói, mắt nhìn qua lớp kính. “Nhưng cái miếng đồng này vẫn thật khó để nhìn ra hết.” Bà đưa chiếc kính lúp lại gần, rồi ra xa. “Blackwell. Cái tên đó có gợi lại chút gì không?”

    “Ah…” Thực ra là có, điều gì đó mà không thể diễn tả bằng lời, nhưng rồi ý nghĩ ấy cũng bị thổi bay và biến mất trước khi kịp hình thành.

    “Ta thấy cả những chữ cái Hy Lạp nữa. Thật thú vị.” Bà thả chiếc nhẫn lại vào tay tôi. “Đó là một chiếc nhẫn lâu đời,” bà nói. “Cháu có thể thấy điều đó qua những vết trầy của đá và cái cách mà nó mòn đi – thấy đó không? Người Mỹ vẫn thường nhặt nhạnh những miếng khắc chìm này ở châu Âu, từ thời của Henry James, và đặt làm chúng thành những chiếc nhẫn. Quà lưu niệm từ những chuyến viếng thăm châu Âu của tầng lớp thượng lưu.”

    “Nếu họ không muốn cháu thì cháu sẽ đi đâu bây giờ?”

    Trong thoáng chốc, bà Barbour có vẻ ngạc nhiên. Nhưng gần như ngay sau đó bà đã trấn tĩnh lại và nói: “Ừm, giờ cháu không phải lo về chuyện đó. Dù sao thì sẽ là tốt nhất khi cháu ở đây lâu hơn chút và hoàn thành xong năm học, đồng ý không? Còn bây giờ” – bà gật đầu – “hãy cẩn thận với cái nhẫn đó và chú ý rằng cháu không được làm mất nó. Ta có thể thấy là nó rất lỏng. Có lẽ cháu sẽ muốn đặt nó ở một nơi an toàn thay vì mang nó đi khắp nơi như thế.”
     
  14. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    vi.

    NHƯNG TÔI VẪN ĐEO NÓ. Hoặc – chính xác hơn – là tôi tảng lờ cái lời khuyên của bà rằng phải để nó ở một nơi an toàn, và vẫn tiếp tục mang nó trong túi. Khi tôi nâng nó trong lòng bàn tay, nó khá nặng; nếu tôi bao lấy nó bằng các ngón tay, phần nhẫn vàng sẽ thu lấy hơi ấm từ tay tôi nhưng phần đá chạm khắc thì vẫn lạnh. Sự chắc chắn, cổ kính của nó, sự kết hợp giữa điềm tĩnh và tươi tắn bên trong nó, lại khiến tôi thấy êm ái một cách khó tin; nếu tôi tập trung vào nó đủ lâu, nó sẽ có một sức mạnh lạ lùng khiến tôi chìm sâu vào trạng thái lơ lửng của mình và đóng lại cả thế giới ngoài kia, nhưng mặc dù vậy, tôi cũng thực sự chẳng muốn nghĩ xem nó đến từ đâu.

    Và cũng không muốn nghĩ về tương lai của mình – vì, mặc dù tôi không hề mong chờ được tới sống ở vùng quê Maryland với sự lạnh nhạt của ông bà Decker, nhưng giờ tôi đã bắt đầu thực sự lo lắng rằng chuyện gì sẽ xảy đến với tôi tiếp theo. Mọi người có vẻ sốc nặng khi nghe đến cái ý tưởng về nhà trọ Holiday, như thể Ông nội Decker và Dorothy đã gợi ý là tôi nên chuyển vào sống trong một cái chuồng ở sân sau nhà họ, nhưng với tôi thì nó không tệ đến vậy. Tôi đã từng ao ước được sống trong một khách sạn, và mặc dù nhà trọ Holiday không thuộc loại khách sạn mà tôi đã tưởng tượng, nhưng chắc chắn là tôi sẽ thấy ổn: những chiếc hamburger được dịch vụ phòng mang lên, xem truyền hình trả tiền, một cái bể bơi vào mùa hè, làm sao mà có thể tệ hơn được nữa?

    Mọi người (các nhân viên xã hội, bác sĩ tâm lý Dave, bà Barbour) cứ nói đi nói lại rằng tôi không thẻ nào sống được một mình ở một cái nhà trọ Holiday nào đó ở ngoại ô Maryland, rằng bất kể thế nào thì chuyện đó cũng sẽ không bao giờ xảy ra – mà không nhận ra rằng những lời tưởng chừng như an ủi của họ lại đang làm sự lo lắng của tôi tăng gấp trăm lần. “Điều phải nhớ là,” Dave, bác sĩ tâm lý được thành phố chỉ định cho tôi, nói, “cháu sẽ nhận được sự chăm sóc bất kể có chuyện gì xảy ra.” Chú ấy là một anh chàng tầm ba mươi tuổi luôn mặc quần áo tối màu và đeo những cặp kính đang mốt, người mà luôn có cái vẻ như vừa bước ra khỏi cuộc thi ngâm thơ dưới tầng hầm của một nhà thờ. “Vì luôn có rất nhiều người quan tâm cháu, những người chỉ muốn điều tốt nhất cho cháu mà thôi.”

    Tôi đã dần trở nên nghi ngờ những người lạ mặt mà luôn nói về những điều tốt nhất cho tôi, vì đó chính xác là những thứ mà các nhân viên xã hội nói với tôi trước khi chủ đề nhà nhận nuôi xuất hiện. “Nhưng… cháu không nghĩ là ông bà cháu đã sai,” tôi nói.

    “Sai về chuyện gì?”

    “Về chuyện nhà trọ Holiday. Nó có thể là một nơi khá ổn cho cháu.”

    “Cháu đang nói là mọi chuyện sẽ không ổn ở nhà ông bà cháu à?” Dave hỏi, không bỏ lỡ một nhịp nào.

    “Không!” Tôi ghét điều này ở chú ấy – cách mà chú ấy cứ nhảy vào mồm tôi.

    “Vậy thì được. Có lẽ chúng ta có thể nói theo một cách khác.” Chú ấy đan tay vào nhau, và nghĩ ngợi. “Tại sao cháu lại thích sống ở khách sạn hơn là với ông bà mình?”

    “Cháu không nói thế.”

    Chú nghiêng đầu sang một bên. “Không phải thế, nhưng từ cái cách mà cháu nói về chuyện nhà trọ Holiday, như thể nó là một lựa chọn khả thi, thì chú lại thấy cháu đang nói đó là cái cháu thích hơn.”

    “Nó tốt hơn nhiều so với việc sống ở một ngôi nhà nhận nuôi.”

    “Đúng…” chú ấy cúi ra đằng trước – “nhưng cháu hãy nghe chú nói điều này. Cháu chỉ mới mười ba tuổi. Và cháu vừa mới mất đi người chăm sóc duy nhất của mình. Sống một mình vào lúc này quả thực không phải một lựa chọn dành cho cháu. Chú đang muốn nói là thật không may khi ông bà cháu gặp phải vấn đề về sức khỏe, nhưng tin chú đi, chú chắc chắn là chúng ta có thể cùng tìm ra một cách nào đó tốt hơn khi bà cháu đã khỏe lại.”

    Tôi không nói gì. Rõ ràng là chú ấy chưa gặp Ông nội Decker và bà Dorothy. Mặc dù bản thân tôi cũng chưa ở gần họ mấy, nhưng thứ duy nhất tôi còn nhớ rõ là sự biến mất hoàn toàn của quan hệ máu mủ giữa chúng tôi, cái cách thờ ơ mà họ nhìn tôi như thể tôi là một đứa trẻ bâng quơ nào đó đang đi từ siêu thị về. Cái viễn cảnh đến sống cùng họ gần như là không thể ngay cả trong tưởng tượng và tôi đã lục lại trí nhớ về cái chuyến thăm cuối cùng tới nhà họ - mà không nhớ được nhiều, vì lúc đó tôi mới chỉ bảy hoặc tám tuổi. Có những câu ngạn ngữ được thêu tay và đóng khung treo lên tường, một dụng cụ bằng nhựa đặt trên quầy mà Dorothy dùng để hút nước thực phẩm. Có một lúc – sau khi Ông nội Decker quát tôi không được động chạm vào mô hình chuỗi tàu hỏa của ông – cha tôi đã ra ngoài hút thuốc (đang mùa đông) và không quay trở vào nữa. “Chúa ơi,” mẹ tôi nói, khi chúng tôi đã ở trong ô tô (đó là ý kiến của mẹ rằng tôi cần biết nhiều hơn về gia đình cha tôi), và sau đó chúng tôi không bao giờ quay lại đó nữa.

    Vài ngày sau lời đề nghị tới nhà khách Holiday, một tấm thiệp chào đón được gửi tới cho tôi theo địa chỉ nhà Barbour. (Chuyện bên lề là: liệu có phải là sai không khi nghĩ rằng Bob và Dorothy, như chữ họ tự ký, đáng ra nên nhấc điện thoại lên và gọi cho tôi? Hay nên leo lên ô tô và lái tới thành phố để tận mặt gặp được tôi? Nhưng họ chẳng làm gì trong số đó – không phải là tôi mong chờ họ sẽ phóng tới bên cạnh tôi cùng sự cảm thông sâu sắc, nhưng nó vẫn sẽ tốt hơn nếu họ có thể làm tôi ngạc nhiên, với chút cử chỉ thân thiết, cho dù đó không phải tính cách của họ.)

    Thật ra, tấm thiệp là từ Dorothy (chữ “Bob” méo mó đứng bên cạnh chữ ký của bà ấy như thế nó chỉ được quyết định viết thêm vào phút chót). Thú vị là chiếc phong bì có vẻ như đã bị mở bằng hơi nước và dính lại – do bà Barbour làm sao? Hay những nhân viên xã hội? – mặc dù tấm thiệp thì mang đúng cái phong cách viết chữ nhấp nhô kiểu châu Âu của Dorothy mà đã từng xuất hiện đúng một lần trên thiệp Giáng Sinh của chúng tôi, kiểu chữ viết mà – theo như cha tôi từng nhận xét – trông như thể nó nên là dòng chữ viết trên bảng đen của tiệm La Goule để thông báo những loại cá đặc biệt trong ngày. Mặt trước tấm thiệp là hình bông hoa tulip đang rũ xuống, và – bên dưới – một khẩu hiệu: Không có gì là kết thúc.

    Dorothy, từ kí ức ít ỏi tôi còn nhớ về bà, thì không phải loại người hay phí phạm từ ngữ, và tấm thiệp này không phải ngoại lệ. Sau lời mở đầu đầy ấm áp – thấy tiếc cho sự mất mát to lớn, luôn nghĩ tới tôi trong khoảng thời gian đau buồn này – thì bà có đề nghị gửi cho tôi một tấm vé xe buýt đến Woodbriar, MD, cùng lúc đó thì bà cùng gợi nhắc về tình trạng bệnh tật hiện tại khiến cho bà và Ông nội Decker khó có thể “đáp ứng những yêu cầu” về sự săn sóc tôi.

    “Yêu cầu?” Andy nói. “Bà ấy nói cứ như cậu đang đòi lấy mười triệu đô ngân phiếu vậy.”

    Tôi im lặng không nói gì. Thật lạ là bức tranh trên tấm thiệp mới là thứ khiến tôi không hiểu. Nó là thứ mà bạn có thể thấy trên những ngăn kệ của hiệu thuốc, hoàn toàn bình thường, nhưng là hình một bông hoa héo – cho dù có được trang trí nghệ thuật – thì vẫn không phải thứ nên gửi cho người có mẹ vừa qua đời.

    “Tớ nghĩ bà ấy đang ốm cơ mà. Sao bà ấy lại là người viết nhỉ?”

    “Tớ chẳng biết.” Tôi cũng tự hỏi mình điều tương tự; nó quả là kì lạ khi ông ruột của tôi không thêm vào lời nhắn nào hay thậm chí là không thèm tự ký tên mình.

    “Có lẽ,” Andy nói bằng giọng u ám, “ông cậu đang mắc chứng Alzheimer và bà ấy đang nhốt ông cậu trong chính ngôi nhà đó. Để lấy tiền của ổng. Việc này xảy ra khá thường xuyên với các cô vợ trẻ, cậu biết mà.”

    “Tớ không nghĩ ông ấy có từng đó tiền.”

    “Có lẽ là không,” Andy nói, hắng giọng một cách phô trương. “Nhưng không ai có thể kháng cự lòng tham quyền lực cả. ‘Răng và móng vuốt tự nhiên luôn nhuốm máu.’ Có lẽ bà ấy không muốn cậu mó tới khối tài sản thừa kế.”

    “Anh bạn này,” cha của Andy nói, đột nhiên nhìn lên từ tờ Financial Times đang đọc dở, “Ta không nghĩ đó là một cuộc nói chuyện hiệu quả đâu.”

    “Thật lòng mà nói thì con không hiểu tại sao Theo không tiếp tục ở cùng chúng ta được,” Andy nói, nói lên cả những ý nghĩ của tôi. “Con thích có bạn bè và còn rất nhiều chỗ trống trong phòng con.”

    “Tât nhiên là chúng ta rất muốn giữ cậu ấy cho riêng mình,” ông Barbour nói, với một sự chân thành không có nhiều sức thuyết phục như tôi mong muốn. “Nhưng gia đình cậu ấy sẽ nghĩ gì? Theo như cha biết thì bắt cóc vẫn bị coi là phạm pháp.”

    “Ý con là, cha à, đó không phải là hoàn cảnh lúc này,” Andy nói bằng giọng bực bội xa xăm.

    Đột nhiên ông Barbour đứng phắt dậy, với lon soda trong tay. Ông không được phép uống rượu vì đang phải uống thuốc điều trị. “Theo, ta quên mất. Cháu có biết cách đi thuyền buồm không?”

    Tôi phải mất một lúc để nhận ra ông đang hỏi tôi điều gì. “Dạ không.”

    “Oh, thật đáng tiếc. Andy đã có khoảng thời gian đáng nhớ nhất ở trại hè thuyền buồm tại Maine vào năm ngoái, đúng không con?”

    Andy không nói gì. Cậu ta đã nói với tôi, rất nhiều lần, rằng đó là hai tuần tệ hại nhất trong cuộc đời mình.

    “Vậy cháu có biết đọc cờ hiệu trên biển không?” ông Barbour hỏi tôi.

    “Đọc gì cơ ạ?” tôi hỏi lại.

    “Có một bảng tra cứu rất hay trong phòng làm việc mà ta rất muốn cho cháu xem. Đừng tỏ vẻ mặt đó, Andy. Đó là một kĩ năng vô cùng tiện lời cho bất cứ chàng trai nào.”

    “Chắc hẳn là thế rồi, nếu cậu ấy cần réo gọi một chiếc tàu thủy đang lướt qua.”

    “Những lời nhận xét như vậy nghe thật mệt mỏi,” ông Barbour nói, mặc dù trông ông có vẻ xao nhãng hơn là tức giận. “Bên cạnh đó,” ông nói, quay qua tôi, “Ta nghĩ cháu sẽ ngạc nhiên khi thấy hải kỳ xuất hiện thường xuyên trong những cuộc diễu hành, những bộ phim, và, ta cũng không biết nữa, trên sân khấu chăng.”

    Andy dài mặt. “Sân khấu,” cậu nói đầy chế giễu.

    Ông Barbour quay qua nhìn cậu ta. “Đúng vậy, sân khấu. Con có thấy từ đó rất hay ho không?”

    “Phô trương thì hợp với nó hơn.”

    “Vậy thì cha e là cha không thể nhìn ra tại sao con lại thấy nó thật phô trương. Chắc hẳn đó chính là từ mà cụ của con sẽ dùng.” (Ông của ngài Barbour đã bị gạch tên khỏi gia phả vì đã cưới Olga Osgood, một nữ diễn viên quèn.)

    “Đúng ý con.”

    “Vậy con muốn cha gọi nó thế nào?”

    “Thực ra, cha ạ, thứ con thực sự muốn biết là lần cuối cùng mà cha nhìn thấy những lá hải kỳ trong bất cứ một tác phẩm sân khấu là khi nào.”

    Nam Thái Bình Dương,” ông Barbour trả lời rất nhanh.

    “Ngoài Nam Thái Bình Dương ra.”

    “Ta đã nói xong rồi.”

    “Con thậm chí còn chẳng tin là cha mẹ đã từng xem vở Nam Thái Bình Dương.”

    “Lạy Chúa, Andy.”

    “Thậm chí là khi cha có xem thì một ví dụ cũng không thể chứng minh được lời cha nói.”

    “Ta không muốn tiếp tục cuộc hội thoại kì cục này. Đi cùng ta nào, Theo.”


    vii.

    TỪ ĐÓ TRỞ ĐI, tôi bắt đầu thực sự cố gắng để trở thành một người khách tốt: dọn giường sau khi thức dậy vào buổi sáng; luôn nói cảm ơn và làm ơn, và làm mọi thứ mà tôi biết là mẹ tôi sẽ rất muốn tôi làm. Không may là nhà Barbour không phải chính xác loại gia đình mà bạn có thể bày tỏ sự trân trọng của mình thông qua việc trông những đứa em nhỏ hay giúp rửa bát đĩa. Ngoài người phụ nữ chăm sóc cây – một công việc căn thẳng, vì có quá ít ánh sáng trong căn hộ đến mức cây toàn chết – và trợ lý của bà Barbour, người sắp xếp lại tủ trưng bày và các bộ sưu tập đồ Tàu, thì họ còn khoảng tám người giúp việc nữa. (Khi tôi hỏi bà Barbour là máy giặt để đâu, bà đã nhìn tôi như thể tôi vừa hỏi tìm bột giặt và mỡ heo để đun lên thành xà phòng.)

    Nhưng mặc dù không ai đòi hỏi gì từ tôi, thì nỗ lực hòa nhập vào khung cảnh sang trọng và phức tạp của họ vẫn là một sự chật vật với tôi. Tôi vất vả để có thể hòa lẫn vào cảnh vật – biến mất giữa nền họa tiết tới từ Trung Hoa như một con cá biến mất trong rặng san hô vậy – nhưng rồi dường như tôi vẫn thu hút sự chú ý không mong muốn về phía mình khoảng mấy trăm lần một ngày: bằng việc phải hỏi tìm khi muốn bất cứ một thứ vật dụng gì, cho dù là một cái giẻ lau hay ít băng cứu thương hay một cái gọt bút chì; bằng việc không có chìa khóa và luôn phải nhấn chuông mỗi khi đi và về - thậm chí là bằng thiện chí của mình khi muốn tự dọn giường mỗi sáng (nên để Irenka và Esperenza làm thì tốt hơn, bà Barbour giải thích, vì họ đã quen với việc đó và họ cũng dọn những góc giường một cách phẳng phiu hơn). Tôi đã làm gãy mất cái chóp của mắc treo áo khoác sau khi mở cửa quá mạnh; hai lần vô tình làm chuông chống trộm reo lên; và thậm chí đã từng một lần lạc vào phòng của ông bà Barbour khi đang lần tìm nhà vệ sinh giữa đêm.

    May thay, cha mẹ của Andy không ở nhà quá nhiều để thấy phiền vì sự có mặt của tôi. Trừ khi bà Barbour có hoạt động giải trí gì đó, không thì bà sẽ ra khỏi nhà từ tầm mười một giờ sáng – rồi tạt qua nhà tầm vài tiếng trước bữa tối, uống ít rượu gin chanh và dùng thứ mà bà gọi là “một chút tắm bồn” – và rồi lại ra khỏi nhà cho tới khi chúng tôi chuẩn bị đi ngủ. Về ông Barbour thì tôi còn gặp ít hơn, ngoại trừ vào cuối tuần và những lúc ông ngồi nhà sau giờ làm việc với lon soda bọc khăn ăn bên ngoài, chờ bà Barbour thay đồ cho buổi đi chơi tối của họ.

    Cho tới lúc đó, rắc rối lớn nhất mà tôi phải đối mặt là anh em của Andy. Mặc dù Platt, thật may, đã tới Groton và đi dọa nạt những đứa trẻ ở đó, thì vẫn còn Kitsey và đứa em trai nhỏ tuổi nhất, Toddy, mới lên bảy, rõ ràng là ghét cay ghét đắng khi tôi ở đó để chiếm hết những sự chú ý nhỏ nhất mà chúng có từ ba mẹ. Đã có rất nhiều những lần giận dỗi và trề môi, rất nhiều những cặp mắt long sòng sọc và tiếng khúc khích khiếm nhã từ Kitsey, cũng như một nỗi buồn khó hiểu (đối với tôi) – mà không bao giờ được giải tỏa – khi con bé cứ phàn nàn với bạn bè và người giúp việc và bất cứ ai nghe được rằng tôi đã vào phòng nó và làm lộn xộn bộ sưu tập lợn tiết kiệm của nó trên cái giá sách gần bàn học. Còn với Toddy, thằng bé càng ngày càng thêm khó chịu còn tôi thì vẫn cứ ở đó; vào bữa sáng, nó ngáp trước mặt tôi mà không giữ ý gì và thường hỏi những câu hỏi khiến mẹ nó phải với chân ớ dưới bàn và nhéo nó. Tôi đang sống ở đâu thế này? Tôi sẽ còn ở với họ bao lâu nữa? Tôi có cha không? Vậy ông ấy đang ở đâu?

    “Hỏi hay lắm,” tôi nói, gây nên một tràng cười ghê gớm ở Kitsey, người mà khá nổi tiếng ở trường và – ở mức chín tuổi – đã mang vẻ xinh xắn từ mái tóc vàng óng của cô bé giống như cái cách Andy khi xưa đã mang cái vẻ ngoài giản đơn của mình.


    viii.

    BÊN CÔNG TY VẬN CHUYỂN SẼ TỚI, một lúc nào đó, để đóng gói đồ đạc của mẹ tôi và lưu trữ lại. Trước khi họ đến, tôi sẽ trở lại căn hộ để nhặt ra những thứ mình muốn hoặc mình cần. Tôi có nghĩ dai dẳng về bức tranh nhưng chỉ là mơ hồ vì vẻ ngoài hoàn toàn chênh lệch với giá trị của nó, như thể nó chỉ là một bài tập ở trường mà tôi chưa hoàn thành. Có những lúc tôi đã định đưa nó trở lại bảo tàng, mặc dù tôi vẫn chưa hình dung ra cách nào làm việc đó mà không gây ra một vụ lùm xùm vĩ đại.

    Tôi đã từng bỏ lỡ mất một cơ hội để trả lại nó – khi bà Barbour đã từ chối những nhân viên điều tra khi họ xuất hiện ở căn hộ và tìm kiếm tôi. Nghĩa là: tôi hiểu họ chính là những nhân viên điều tra hoặc thậm chí cảnh sát qua những gì mà Kellyn, cô gái người Wales làm việc trông trẻ, đã kể cho tôi. Cô ấy đang đưa Toddy từ trường bán trú về nhà khi có những người lạ mặt xuất hiện để tìm tôi. “Những bộ vest ấy, cậu biết không?” cô ấy nói, lông mày nhướn lên. Cô ấy hơi mập và có giọng nói liến thoắng với gò má hồng hào như thể cô ấy luôn đứng cạnh cái lò sưởi. “Họ mang cái vẻ ngoài đó đó.”

    Tôi quá sợ hãi để hỏi cho kĩ ý cô ấy nói vẻ ngoài đó là gì; và khi tôi vào trong phòng, một cách thận trọng, để hỏi bà Barbour về chuyện đó, thì bà lại đang bận. “Ta xin lỗi,” bà nói, không nhìn vào tôi, “nhưng chúng ta có thể nói chuyện sau được không?” Một vài người khách sẽ tới đây tròng vòng nửa giờ nữa, trong số đó có một kiến trúc sư có tên tuổi và một vũ công nổi tiếng thuộc Tuyển ballet thành phố New York; bà đang chỉnh lại chỗ lỏng lẻo trên chiếc vòng cổ và khó chịu vì điều hòa đang không hoạt động tử tế.

    “Cháu đang gặp rắc rối phải không?”

    Nó cứ thế tuôn ra trước khi tôi kịp định thần là mình đang nói gì. Bà Barbour đột ngột dừng lại. “Theo, đừng nói chuyện vô lý thế chứ,” bà nói. “Họ hoàn toàn là người tối, rất hiểu chuyện, chỉ là vì ta không thể tiếp họ vào lúc này. Họ xuất hiện mà không gọi điện báo trước. Dù sao thì ta cũng bảo họ bây giờ chưa phải thời gian thích hợp, và họ có thể tự hiểu được điều đó.” Bà ra dấu cho người giúp việc đang chạy qua chạy lại, người kĩ sư xây dựng đang đứng trên chiếc thang, dùng đèn pin để kiểm tra phía bên trong chiếc điều hòa. “Giờ thì đi nào. Andy đâu rồi?”

    “Cậu ấy sẽ về nhà trong một giờ nữa. Lớp thiên văn học của cậu ấy hôm nay đi tham quan cung thiên văn.”

    “Ừm, có thức ăn trong bếp đấy. Ta không có đủ số bánh tart nhỏ để chia cho mọi người, nhưng cháu có thể ăn bao nhiêu sandwich cũng được. Sau khi bánh được cắt thì cháu cũng có thể lấy vài miếng.”

    Thái độ của bà thờ ơ đến mức tôi quên bẵng mất về những vị khách lạ mặt kia cho tới khi họ xuất hiện ở trường tôi ba ngày sau, ở lớp hình học, một trẻ, một già, ăn mặc lạnh lùng, gõ tay một cách lịch sự lên cánh cửa đã mở sẵn. “Chúng tôi có thể gặp Theo Decker không?” người đàn ông trẻ hơn, có vẻ giống người Ý nói với thầy Borowsky trong khi người đàn ông lớn tuổi hơn chậm rãi nhìn quanh lớp.

    “Chúng ta chỉ muốn nói chuyện với cháu thôi, thế có được không?” người lớn tuổi hơn nói khi chúng tôi đang đi xuống căn phòng hội thảo ghê rợn đó nơi mà tôi đáng ra sẽ có một cuộc đối mặt với thầy Beeman và mẹ tôi vào cái ngày bà qua đời. “Đừng sợ.” Ông ta là một người có làn da đen sậm với đám râu dưới cằm màu xám – có vẻ mạnh bạo nhưng cũng tốt bụng, như một chú cảnh sát vui tính trên truyền hình. “Chúng ta chỉ đang cố gắng chắp nối lại vài thứ về ngày hôm đó và chúng ta hi vọng cháu có thể giúp đỡ.”

    Lúc đầu tôi đã hơi hoảng loạn, nhưng khi ông ấy nói Đừng sợ, thì tôi tin ông ấy – cho tới khi ông ấy đẩy cánh cửa phòng hội thảo. Ngồi ở đó là ông thầy Beeman đáng hận với chiếc mũ bằng vải tuýt, vẫn khoa trương với chiếc áo thắt ở eo và đồng hồ đeo tay; Enrique nhân viên xã hội của tôi; bà Swanson là tư vấn viên của trường (cũng là người nói với tôi rằng tôi có thể thấy khá hơn nếu tôi ném những cục tuyết vào thân cây); bác sĩ tâm lý Dave trong chiếc quần Levi’s màu đen quen thuộc cùng với áo có cổ - và, giữa bao người, là bà Barbour, đi giày cao gót và mặc bộ quần áo công sở màu ngọc trai xám mà có vẻ đắt hơn số tiền mà tất cả những người còn lại làm ra trong một tháng.

    Sự hoảng hốt có lẽ đã hiện rành rành trên mặt tôi. Có lẽ tôi sẽ không sốt sắng lên như thế nếu tôi hiểu thêm một chút cái mà lúc đó tôi chưa biết: rằng tôi còn là trẻ vị thành niên, và rằng bố mẹ hoặc người giám hộ phải có mặt trong một cuộc phỏng vấn chính thức – cái mà giải thích tại sao ngay cả những người có vẻ đứng về phía tôi cũng bị gọi tới. Nhưng tất cả những gì tôi có thể hiểu được, khi tôi trông thấy những gương mặt đó cùng một máy ghi âm đặt giữa bàn, là các bên chính thức đã được triệu tập để quyết định số phận của tôi và loại bỏ tôi khi họ thấy cần thiết.

    Tôi ngồi mà người cứng đơ và chịu đựng những câu hỏi ban đầu (tôi có sở thích nào không? Tôi có chơi môn thể thao nào không?) cho tới khi mọi người đều hiểu thứ chuyện trò này cũng chẳng làm tôi thả lỏng chút nào.

    Chuông reo báo hết giờ. Tiếng tủ đồ loảng xoảng, những giọng nói vang vọng khắp lối đi. “Mày chết với tao, Thalheim,” vài cậu bé reo lên đầy vui vẻ.

    Chàng trai người Ý – Ray, anh ta nói đó là tên anh ta – kéo một cái ghế ra trước mặt tôi, đầu gối gần sát nhau. Anh ta còn trẻ, nhưng khá nặng nề, với sắc thái của một tài xế lái xe limo bẩm sinh, và đôi mắt cụp xuống của anh ta đong đầy nước, có vẻ hơi buồn ngủ, như thể anh ta vừa mới uống rượu.

    “Chúng ta chỉ muốn biết cháu nhớ được những gì,” anh ta nói. “Hãy lục lại trí nhớ, vẽ lại một bức tranh toàn cảnh về sáng hôm đó, được chứ? Bơi vì có thể trong khi nhớ lại những chi tiết lặt vặt, cháu lại có thể nhớ được gì đó mà có thể giúp chúng ta.”

    Anh ta ngồi gần tới mức tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa. “Ví dụ như là gì ạ?”

    “Như là cháu ăn gì vào bữa sáng hôm đó. Bắt đầu từ đó có vẻ thuận lợi chứ hả?”

    “Ừm…” Tôi nhìm chằm chằm vào chiếc vòng ghi tên bằng vàng trên cổ tay anh ta. Đây không phải là thứ mà tôi nghĩ là họ sẽ hỏi. Sự thật là: chúng tôi chẳng ăn bữa sáng ngày hôm đó vì tôi đang gặp rắc rối ở trường và mẹ thì đang giận tôi, nhưng tôi xấu hổ không dám nói ra điều đó.

    “Cháu không nhớ à?”

    “Bánh kếp,” Tôi bật ra thành tiếng trong vô vọng.

    “Thật à?” Ray nhìn tôi khôn ngoan. “Mẹ cháu làm chúng?”

    “Vâng.”

    “Cô ấy cho gì vào đó? Quả việt quất, sô cô la hạt?”

    Tôi gật đầu.

    “Cả hai sao?”

    Tôi có thể thấy mọi người đều đang nhìn mình. Rồi thầy Beeman cất tiếng – giọng kẻ cả như thể thầy đang đứng trước lớp Giáo dục công dân của mình – “Không việc gì em phải bịa ra một câu trả lời nếu em không nhớ được.”

    Người đàn ông da đen - ở góc phòng, với một cuốn sổ tay – ném cho thầy Beeman một cái nhìn cảnh cáo sắc lẹm.

    “Thực ra có vẻ như có một sự suy giảm về trí nhớ ở đây,” Bà Swanson xen vào bằng giọng nói trầm ấm, tay mân mê chiếc kính được đeo trên cổ. Bà ấy như một người bà với những chiếc áo trắng mềm mại và bím tóc dài màu xám sau lưng. Những đứa trẻ được đưa tới văn phòng bà để được hướng dẫn thường gọi bà là “bà Swami.” Trong những tiết tư vấn định hướng với tôi, bên cạnh việc đưa lời khuyên về chuyện ném tuyết, bà còn dạy tôi cách thở ba bước để có thể giải tỏa cảm xúc và bà bắt tôi vẽ một vòng tròn tượng trưng cho trái tim mình. “Thằng bé đã bị đập đầu. Phải không, Theo?”

    “Đúng không? Ray hỏi, hướng mắt lên nhìn tôi thành thực.

    “Vâng.”

    “Cháu đã đi bác sĩ kiểm tra chưa?”

    “Không phải là ngay sau tai nạn,” Bà Swanson nói.

    Bà Barbour vắt chéo hai cổ chân. “Tôi đã đưa thằng bé tới phòng cấp cứu của bệnh viện Giáo hội New York,” bà nói lạnh lùng. “Khi thằng bé tới nhà tôi, cháu có kêu đau đầu. Chúng tôi đã đi khám sau đó tầm một ngày. Có vẻ như không ai nghĩ tới việc hỏi cháu xem nó có bị thương không.”

    Enrique, người nhân viên xã hội, chuẩn bị lên tiếng về việc này, nhưng sau một cái nhìn từ người cảnh sát lớn tuổi (mà tên của ông tôi vừa nhớ ra: Morris) anh ta liền im lặng.

    “Nghe này, Theo,” anh chàng tên Ray nói, gõ nhẹ lên đầu gối tôi. “Chú biết là cháu muốn giúp chúng ta. Cháu muốn giúp, phải không?”

    Tôi gật đầu.

    “Tốt lắm. Nhưng nếu chúng ta có hỏi gì và cháu không biết? Sẽ không sao nếu cháu cứ nói là mình không biết.”

    “Chúng ta chỉ muốn hỏi nhiều câu để xem liệu có thể kéo trí nhớ của cháu trở lại không,” Morris nói. “Cháu đồng ý không?”

    “Cháu cần thêm gì không?” Ray hỏi, nhìn sát vào mắt tôi. “Có lẽ là chút nước uống? Hay một lon soda nhé?”

    Tôi lắc đầu – soda không được cho phép dưới sự quản lý của trường – như chính lời thầy Beeman nói: “Xin lỗi, soda không được cho phép dưới sự quản lý của trường.”

    Ray thể hiện một vẻ mặt kiểu hãy để tôi yên mà tôi không biết là thầy Beeman có thấy hay không. “Xin lỗi cậu bé, ta đã cố gắng rồi,” anh ta nói, rồi quay trở lại tôi. “Ta sẽ chạy đi mua cho cháu một lon soda ở tiệm ăn nhanh nếu sau này cháu muốn, được không? Còn bây giờ.” Anh ta đập hai tay vào nhau. “Cháu nghĩ mình và mẹ đã ở trong tòa nhà được bao lâu trước khi vụ nổ đầu tiên xảy ra?”

    “Cháu đoán khoảng một giờ đồng hồ.”

    “Cháu đoán hay cháu biết?”

    “Cháu đoán vậy.”

    “Cháu nghĩ là nhiều hơn hay ít hơn một giờ?”

    “Cháu không nghĩ là hơn một giờ đâu,” tôi nói sau một lúc im lặng.

    “Hãy miêu tả những gì cháu nhớ được về tai nạn đó nào.”

    “Cháu chẳng nhìn thấy gì,” tôi nói. “Mọi thứ vẫn bình thường và rồi có một tia chớp rất to và một tiếng nổ…”

    “Một tia chớp rất to?”

    “Không phải vậy. Ý cháu là tiếng nổ rất to.”

    “Cháu đã nói là có tiếng nổ,” người tên Morris hỏi, bước vài bước lên trên. “Cháu có nghĩ là mình có thể miểu tả cho chúng ta một chút xem tiếng nổ đó nghe giống cái gì không?”

    “Cháu không biết. Chỉ là… rất to,” tôi thêm vào, khi họ cứ nhìn vào tôi như đang chờ đợi nhiều thứ hơn thế.

    Trong khoảng lặng sau đó, tôi nghe thấy một tiếng lạch cạch lén lút: bà Barbour, đầu cúi xuống, đang thận trọng kiểm tra tin nhắn trong chiếc BlackBerry của mình.

    Morris hắng giọng. “Về mùi thì sao?”

    “Gì cơ ạ?”

    “Cháu có thấy mùi gì vào lúc trước đó không?”

    “Cháu không nghĩ vậy.”

    “Không có chút gì sao? Cháu chắc chứ?”

    Trong khi màn hỏi đáp tiếp tục – hỏi đi hỏi lại những chuyện giống nhau, hơi lắt léo một chút để làm tôi rối trí, và thi thoảng lại có câu hỏi mới – tôi đã luyện cho mình trở nên cứng rắn hơn và chờ đợi trong vô vọng tới lúc họ nhắc tới bức tranh. Tôi đơn giản là sẽ thừa nhận và đối mặt với hậu quả, bất kể chúng là gì đi nữa (chắc hẳn là cũng khá tàn khốc, vì tôi sẽ sớm trở thành một đứa trẻ vị thành niên bị tranh giành quyền giám hộ). Có những lúc tôi đã chuẩn bị xổ hết ra, trong sự hoảng loạn. Nhưng họ càng hỏi (tôi bị đập đầu ở chỗ nào? Tôi đã thấy hoăc nói chuyện với ai trên đường đi xuống cầu thang?) thì tôi càng nhận ra là họ chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với tôi – tôi đã ở phòng nào khi quả bom phát nổ, hay thậm chí là tôi đã đi lối thoát nào để ra khỏi tòa nhà.

    Họ có một tấm bản đồ mặt bằng tòa nhà; những căn phòng đã được đánh số thay vì ghi tên, Phòng trưng bày 19A và Phòng trưng bày 19B, những con số và chữ cái được sắp xếp như mê cung cho tới số 27. “Khi xảy ra vụ nổ đầu tiên cháu đã ở đây à?” Ray nói và chỉ. “Hay đây?”

    “Cháu không biết.”

    “Cháu cứ từ từ nghĩ đi.”

    “Cháu không biết,” tôi lặp lại, đã hơi bực mình. Cái sơ đồ phòng mang vẻ phức tạp như được soạn thảo bởi máy tính, giống như từ trò chơi điện tử hay từ một bản vẽ lại hệ thống phòng của Hitler mà tôi được xem trên kênh Lịch sử, cái mà chẳng mang một ý nghĩa nào hoặc không thể diễn tả đúng về những căn phòng mà tôi nhớ.

    Anh ta chỉ tới một điểm khác. “Khu này thì sao?” anh ta hỏi. “Đó là một bức tường để trưng bày, với những bức tranh được treo lên đó. Ta biết là những căn phòng này đều có vẻ giống nhau, nhưng biết đâu cháu có thể nhớ lại nơi mình ở khi xem những nơi liên quan?”

    Tôi ngắm nhìn cái sơ đồ trong vô vọng và không trả lời. (Một phần lí do nó trông thật xa lạ là chúng đang chỉ cho tôi khu mà thi thể của mẹ được tìm thấy – cách nơi tôi ở những vài phòng khi quả bom phát nổ - mặc dù sau này tôi mới nhận ra.)

    “Cháu không gặp ai trên đường thoát ra,” Morris nói một cách động viên, lặp lại chính những gì tôi đã nói với họ.

    Tôi lắc đầu.

    “Cháu không nhớ gì cả sao?”

    “Ừm, ý cháu là – những thi thể đã bị che kín. Máy móc nằm xung quanh.”

    “Không có ai đi vào hoặc đi ra khỏi khu vực vụ nổ.”

    “Cháu không thấy ai cả,” tôi lặp lại một cách ngoan cố. Chúng ta đã nói điều này rồi.

    “Vậy cháu chưa từng thấy một người lính cứu hỏa hay một nhân viên cứu trợ nào.”

    “Không ạ.”

    “Tôi nghĩ là chúng ta có thể phỏng đoán rằng, họ đã bị ra lệnh phải ra khỏi tòa nhà trước khi cháu tỉnh lại. Vậy chúng ta đang nói tới một khoảng thời gian ngắt quãng khoảng bốn mươi phút đến một tiếng rưỡi đồng hồ sau vụ nổ đầu tiên. Nghĩ như vậy có hợp lý không?”

    Tôi nhún vai một cách nặng nhọc.

    “Ý cháu là có hay không?”

    Tôi nhìn chăm chăm xuống nền nhà. “Cháu không biết.”

    “Cháu không biết cái gì?”

    “Cháu không biết,” tôi nói lại lần nữa, và sự im lặng theo sau đó thật dài và căng thẳng đến nỗi tôi nghĩ rằng có lẽ mình sắp òa khóc.

    “Cháu có nhớ là nghe thấy tiếng nổ thứ hai không?”

    “Xin thứ lỗi vì đã hỏi,” thầy Beeman nói, “nhưng chuyện này có thực sự cần thiết không?”

    Ray, người đang hỏi tôi, liền quay ra. “Xin lỗi?”

    “Tôi không chắc là mình hiểu mục đích của việc bắt thằng bé phải làm việc này.”

    Với sự trung lập thật cẩn trọng, Morris nói: “Chúng tôi đang điều tra về hiện trường tai nạn. Công việc của chúng tôi là hỏi về những gì xảy ra trong đó.”

    “Đúng, nhưng chắc hẳn các ông sẽ có cách thức khác để thực hiện những vấn đề đơn giản này. Tôi nghĩ là họ đều có các phương tiện cùng với máy quay an ninh trong đó.”

    “Chắc chắn là họ có,” Ray nói cụt lủn. “Ngoại trừ việc máy quay không thể nhìn được qua bụi và khói. Hoặc khi chúng đều bị thổi quay ngược lên trần nhà. Giờ thì,” anh ta nói trong khi chỉnh lại ghế cùng một tiếng thở dài. “Cháu có nói về khói. Cháu có ngửi hay trông thấy nó không?”

    Tôi gật đầu.

    “Nhìn thấy hay ngửi thấy?”

    “Cả hai.”

    “Cháu nghĩ là nó tới từ hướng nào?”

    Tôi đang định nói không biết lần nữa, nhưng thầy Beeman lại chưa trình bày xong luận điểm của mình. “Xin thứ lỗi, nhưng tôi hoàn toàn không hiểu tác dụng của máy quay an ninh là gì nếu chúng không thể hoạt động được trong trường hợp khẩn cấp,” ông nói cho cả phòng nghe. “Với công nghệ ngày nay, và tất cả những thứ hiện đại…”

    Ray quay ra như muốn nói điều gì đó bực tức, nhưng Morris, người đang đứng ở góc phòng, đã giơ tay lên và nói.

    “Thằng bé là một nhân chứng quan trọng. Hệ thống giám sát không được thiết kế để chịu đựng được một tình huống như thế này. Giờ thì, tôi xin lỗi, nhưng nếu ông không dừng việc nhận xét lại thì chúng tôi sẽ phải yêu cầu ông ra về, thưa ông.”

    “Tôi tới đây như một người bảo vệ của đứa trẻ. Tôi có quyền đặt câu hỏi.”

    “Sẽ không phải vậy trừ khi câu hỏi liên quan trực tiếp tới lợi ích của đứa trẻ.”

    “Thật lạ lùng nhưng tôi vẫn cứ nghĩ rằng chúng có liên quan đấy.”

    Trước câu nói này, Ray, đang ngồi ghế trước mặt tôi, đã quay lại. “Thưa ông? Nếu ông còn tiếp tục cản trở quá trình làm việc?” anh ta nói tiếp. “Ông sẽ phải rời khỏi căn phòng này.”

    “Tôi không có ý định cản trở các anh,” thầy Beeman nói giữa sự im lặng đến nghẹt thở. “Tâm trí tôi sẽ không đi xa được thêm nữa. Xin mời cứ tiếp tục,” ông nói, với một cái khoát tay bực bội. “Không đời nào tôi lại ngăn cản các người.”

    Việc truy hỏi lại tiếp tục. Khói tới từ đâu? Tia sáng lóe lên có màu gì? Những ai đã đi ra đi vào khu vực trong khoảng thời gian trước vụ nổ? Tôi có nhận ra điều gì, bất cứ điều gì, bất thường trước và sau đó không? Tôi nhìn những bức hình mà họ cho tôi xem – những khuôn mặt vô tội, tôi không nhận ra ai cả. Những tấm ảnh hộ chiếu của các du khách châu Á và những người cao tuổi, những bà mẹ và những thiếu niên mặt đầy mụn đang cười trên nền xanh của studio – những khuôn mặt đời thường, không có gi đáng nhớ, nhưng theo cách nào đó vẫn gợi nên sự bi kịch. Rồi chúng tôi lại quay trở lại với cái sơ đồ. Liệu tôi có thể cố gắng, chỉ một lần thôi, cố chỉ ra được nơi tôi ở trên bản đồ này? Đây, hay đây? Thế còn chỗ này?

    “Cháu không nhớ.” tôi vẫn tiếp tục nói vậy: một phần là vì tôi thực sự không chắc, phần khác là vì tôi sợ và lo lắng rằng cuộc hỏi đáp này sẽ đi sâu hơn, và cũng vì đang có một sự mất kiên nhẫn bất ổn trong căn phòng; những người lớn khác dường như đã ngầm đồng ý với nhau rằng tôi không biết gì, và nên được yên ổn.

    Và rồi, trước khi tôi kịp nhận ra, thì mọi chuyện đã xong xuôi. “Theo,” Ray nói trong khi đứng dậy và đặt một bàn tay chắc nịch lên vai tôi, “Ta muốn cám ơn cháu, anh bạn, vì đã làm mọi thứ có thể cho chúng ta.”

    “Không có gì ạ,” tôi nói, ngạc nhiên vì cái cách mọi chuyện kết thúc thật đột ngột.

    “Ta biết chuyện này rất khó khăn với cháu. Không ai muốn sống lại những chuyện đó cả. Nó như là…” anh ta dùng tay vẽ một khung hình… “chúng ta đang chắp nối lại những mảnh ghép hình, đang cố hình dung chuyện gì xảy ra bên trong đó, và có lẽ cháu sở hữu một vài mảnh ghép mà không ai có. Cháu thực sự đã giúp rất nhiều khi để chúng ta được nói chuyện với cháu.”

    “Nếu cháu còn nhớ được gì khác,” Morris nói, xen vào để đưa cho tôi tấm danh thiếp (cái mà bà Barbour nhanh chóng cầm lấy và cho vào ví), “cháu sẽ gọi cho bọn ta, đúng không? Bà sẽ nhắc cậu bé, phải không, thưa bà,” ông nói với bà Barbour, “nhắc cậu bé gọi chúng tôi nếu cậu có gì khác để nói? Số điện thoại văn phòng ở ngay trên tấm danh thiếp nhưng…” ông lấy ra một chiếc bút từ túi áo… “bà có phiền không nếu tôi cầm lại nó một chút?”

    Không nói lời nào, bà Barbour mở túi và đưa tấm danh thiếp lại cho ông ấy.

    “Phải phải.” Ông bấm ngòi bút và nguệch ngoạc một số điện thoại ra mặt sau. “Đó là số di động của tôi. Bà luôn có thể để lại tin nhắn ở văn phòng, nhưng nếu bà không gặp được tôi ở đó thì hãy gọi vào di động của tôi, đươc chứ?”

    Khi mọi người đi dần ra lối cửa, bà Swanson đã luồn lách lên trước và vòng tay qua người tôi, theo cái cách ấm áp mà bà vẫn làm. “Chào cháu,” bà nói, một cách tự nhiên, như thể bà là người bạn gần gũi nhất của tôi trên đời. “Mọi chuyện thế nào rồi?”

    Tôi nhìn ra chỗ khác, cố tạo vẻ mặt cháu nghĩ là cháu ổn.

    Bà vỗ nhẹ lên tay tôi như thể tôi là chú mèo yêu thích của bà. “Vậy thì tốt. Ta biết là nó sẽ rất khó khăn. Cháu có muốn tới văn phòng ta một lúc không?”

    Thật thất vọng khi trông thấy bác sĩ Dave đang lảng vảng đằng sau bà, và theo sau là Enrique, tay chống hông, với nụ cười nửa miệng quen thuộc trên khuôn mặt anh ta.

    “Làm ơn,” tôi nói, và có lẽ sự tuyệt vọng đã hiển hiện trong giọng nói của tôi, “cháu muốn trở lại lớp.”

    Bà siết cánh tay tôi, và – tôi để ý thấy – bà ném một cái liếc nhanh về phía Dave và Enrique. “Chắc chắn rồi,” bà nói. “Tiết này cháu học ở đâu? Để ta đưa cháu xuống.”
     
  15. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    ix.

    TẦM ĐÓ LÀ TIẾT TIẾNG ANH – tiết cuối cùng của ngày hôm ấy. Chúng tôi đang học về bài thơ của Walt Whitman:


    Sao Mộc sẽ xuất hiện, hãy kiễn nhẫn, hãy lại tới ngắm vào một đêm khác, sao Thất tinh sẽ xuất hiện

    Chúng đều bất tử, tất cả những vì sao ánh bạc và ánh vàng sẽ lại chiếu sáng rực rỡ


    Những khuôn mặt đờ đẫn. Lớp học thì nóng và uể oải vào chiều muộn, cửa sổ mở tung, tiếng xe cộ ồn ào vọng lên từ phía Tây Đại lộ. Bọn trẻ chống tay vào cằm và vẽ những bức tranh trên lề cuốn sổ lò xo của chúng.

    Tôi hướng mắt ra ngoài cửa sổ, hướng ra phía cái bể chứa nước cáu bẩn đặt ở mái nhà đối diện. Cuộc tra hỏi (tôi vẫn nghĩ về nó như vậy) đã làm tôi xáo trộn nhiều, đã dựng nên một bức tường của những cảm xúc rời rạc mà giờ cứ liên tục đập thẳng vào tôi ở những lúc không ngờ tới: mùi khói và mùi hóa chất cháy đến mức nghẹt thở, tia lửa cùng dây điện, sự ớn lạnh đến tái mét khi nhìn ánh đèn báo động, nó quá mạnh mẽ đến mức sáng hết cả phần con người tôi. Chuyện đó cứ đôi lúc lại xảy đến, lúc ở trường hoặc trên phố - tôi chợt đông cứng lại khi đang bước đi vì nó lại ập đến với tôi lần nữa, đôi mắt của cô bé ấy dán chặt vào mắt tôi trong cái khoảnh khắc nghiêng ngả đến lạ lùng ngay trước khi cả thế giới nổ tung. Đôi lúc tôi chợt tỉnh ra, không biết có ai vừa nói gì với mình, và thấy bạn cùng làm thí nghiệm sinh học đang nhìn tôi chằm chằm, hay chàng trai mà tôi đang chắn đường trước quầy thức uống lạnh ở chợ đồ Hàn thì nói với tôi rằng nhìn đường đi cậu bé, di chuyển đi, tôi không có cả ngày để chờ đâu.


    Thế rồi đứa trẻ thân yêu này mi chỉ khóc than cho sao Mộc thôi ư?

    Mi chỉ nghĩ tới sự chôn cất của những vì sao thôi ư?


    Họ chẳng đưa cho tôi bức ảnh nào mà theo tôi là giống với cô bé đó cả - hoặc hình của người đàn ông già nữa. Tôi im lặng đặt tay vào túi áo bên trái và mân mê chiếc nhẫn. Trong danh sách từ mới mà chúng tôi được học vài ngày trước có từ consanguinity: cùng dòng máu. Khuôn mặt của người đàn ông đã bị trầy xước và hủy hoại đến nỗi tôi thậm chí không thể nói chính xác là ông trông như thế nào, thế nhưng tôi lại nhớ rất rõ cảm giác ấm nóng khi máu của ông chảy trên tay tôi – đặc biệt là khi theo cách nào đó vết máu vẫn còn, thì tôi vẫn có thể ngửi thấy nó và nếm thấy nó trong miệng, và nó khiến tôi hiểu ra tại sao mọi người cứ nói về anh em ruột và cái cách mà máu mủ có thể gắn kết con người lại với nhau. Lớp tiếng Anh của tôi đã đọc Macbeth vào mùa thu, nhưng phải đến bây giờ nó mới rõ ràng việc tại sao Quý bà Macbeth không bao giờ có thể cọ hết vết máu trên tay, tại sao nó vẫn cứ ở đó sau khi bà đã rửa đi rồi.


    x.

    VÌ RÕ RÀNG CÓ NHỮNG LÚC tôi đánh thức Andy bằng việc quẫy đạp và khóc lóc trong khi ngủ, nên bà Barbour đã đưa cho tôi một viên thuốc nhỏ màu xanh tên là Elavil mà bà giải thích là sẽ giúp tôi bớt sợ hãi vào buổi đêm. Việc này thật đáng xấu hổ, đặc biệt là khi những giấc mơ của tôi không hoàn toàn là ác mộng mà chỉ là những vở kịch vụn vặt đầy rắc rối nơi mà có mẹ tôi khi đang đi làm về muộn và phải lẻ loi đi về mà không ai đưa đón – có khi là ở khu bắc, ở những khu vực bỏ không chỉ có xe ô tô rách nát cùng những con chó bị xích đang sủa ầm lên trước sân. Tôi cuống cuồng tìm bà trong thang máy và trong những tòa nhà bị bỏ quên, chờ đợi bà trong bóng tối ở một trạm xe buýt lạ, liếc nhìn những phụ nữ trông giống mẹ qua khung cửa sổ của những con tàu đang vụt qua và rồi không nhấc điện thoại kịp khi bà gọi cho tôi ở nhà Barbour – những thất vọng và những lần hụt hẫng cứ thể đấm vào tôi túi bụi và khiến tôi bừng tỉnh cùng cơn thở dốc, cảm thấy buồn nôn và người thì đẫm mồ hôi vào cái lúc trời gần sáng. Phần tồi tệ không phải lúc tôi cố gắng tìm bà khắp nơi, mà là lúc thức dậy và nhớ ra là bà đã chết.

    Với những viên thuốc xanh ấy, những giấc mơ thậm chí còn trở nên tối tăm và bí bách hơn. (Giờ thì tôi đã hiểu, mặc dù hồi đó thì không, rằng bà Barbour đã vượt quá giới hạn bằng việc đưa cho tôi thuốc chưa được kê đơn ngoài những viên con nhộng màu vàng và viên tròn màu cam mà bác sĩ Dave kê cho tôi.) Giấc ngủ, khi nó đến, thì giống như bị ngã vào hố sâu, và tôi thường gặp khó khăn trong việc thức dậy mỗi sáng.

    “Cà phê đen, đó chính là tấm vé,” ông Barbour nói vào một buổi sáng khi tôi đang gà gật trước bữa sáng, trong khi ông đang rót cho tôi một tách từ bình cà phê đặc của riêng ông. “Loại Assam cực mạnh. Đặc như Mẹ pha. Nó sẽ cuốn trôi hết lũ thuốc đó khỏi cơ thể cháu. Judy Garland? Trước khi lên show truyền hình hả? Bà của ta vẫn nói với ta rằng Sid Luft còn có thói quen gọi xuống phía nhà hàng Trung Hoa và đặt một ấm trà bự để cuốn hết đống cá báp trong bụng ra ngoài. Ta tin đó là ở London, có tượng của thần Pallad, và trà đặc là thứ duy nhất hiệu nghiệm, đôi khi họ sẽ gặp khó khăn trong việc đánh thức cô ấy, cháu biết đấy, chỉ có mỗi việc ra khỏi giường và thay quần áo…”

    “Thằng bé không uống được cái đó, như là axit chì vậy,” bà Barbour nói, thả thêm hai viên đường và đổ thêm vào một tảng kem trước khi bà đưa tách trà cho tôi. “Theo, ta ghét việc cứ phải nói nhiều nhưng cháu thực sự phải ăn gì đó.”

    “Vâng ạ,” tôi nói giọng ngái ngủ, nhưng không di chuyển chút nào để cắn lấy miếng muffin dâu tây của mình. Thức ăn thì như bìa cứng; đã nhiều tuần rồi tôi không thấy đói.

    “Hay cháu muốn chút bánh mỳ nướng quế? Hay cháo yến mạch?”

    “Thật là bất bình thường khi mẹ không để cho con được uống cà phê,” câu nói phát ra từ Andy, người luôn có thói quen mua một cốc Starbucks cỡ lớn trên đường đi học và về nhà mỗi chiều mà không để bố mẹ biết. “Mẹ thật lạc hậu về vấn đề này.”

    “Có lẽ,” Bà Barbour lạnh lùng đáp.

    “Thậm chí nửa cốc thôi cũng có ích lắm rồi. Thật là vô lý khi mẹ cứ muốn con phải tới lớp Hóa học Nâng cao vào 8:45 sáng mà không có chút caffeine nào trong người.”

    “Đáng buồn quá nhỉ,” bà Barbour nói mà không ngước lên khỏi tờ báo.

    “Thái độ đó thật chẳng giúp ích được gì. Mọi người ai cũng được uống thứ đó.”

    “Mẹ tình cờ được biết là điều đó không đúng,” bà Barbour nói. “Betsy Ingersoll có nói với mẹ là…”

    “Có thể cô Ingersoll không cho phép Sabine uống cà phê, nhưng để mà Sabine Ingersoll có thể vào được một lớp Nâng cao nào đó thì cậu ta cũng sẽ cần hơn một cốc cà phê rất nhiều đấy mẹ ạ.”

    “Không cần thiết phải nói điều đó, Andy, và như vậy cũng thật kém thân thiện.”

    “Chỉ là sự thật thôi mà mẹ,” Andy bình thản đáp. “Sabine cứ trơ như cái cột ấy. Con đoán là cậu ta cũng giỏi bảo vệ sức khỏe mình vì chẳng còn việc gì khác để làm.”

    “Trí óc không phải là tất cả mọi thứ, con ạ. Cháu ăn một quả trứng luộc cô Etta làm cho cháu nhé?” bà Barbour nói, quay qua phía tôi. “Hay trứng rán? Trứng bác? Hay kiểu nào đó mà cháu thích?”

    “Con thích trứng bác!” Toddy nói. “Con có thể ăn liền bốn quả!”

    “Không, con không thể đâu, anh bạn ạ,” ông Barbour nói.

    “Có, con có thể! Con có thể ăn sáu quả! Con có thể ăn hết cả vỉ trứng!”

    “Không phải là con đang đòi hỏi được dùng chất kích thích,” Andy nói. “Mặc dù con có thể có được nó ở trường nếu con muốn.”

    “Theo?” bà Barbour gọi. Cô đầu bếp Etta, tôi thấy, đang đứng ở cửa. “Về món trứng thì sao?”

    “Chưa có ai từng hỏi bọn con bọn con muốn ăn gì vào bữa sáng,” Kitsey phàn nàn; và mặc dù con bé nói bằng giọng rất to thì mọi người vẫn giả vờ như không nghe thấy gì.


    xi.

    MỘT SÁNG CHỦ NHẬT NỌ, tôi chợt bừng tỉnh dậy khỏi một cơn mê rối rắm và trĩu nặng, trong tôi chẳng còn đọng lại gi ngoài tiếng ong ong trong màng nhĩ và đau thắt khi có thứ gì vừa trượt khỏi tay và rơi thẳng xuống khe vực nơi mà tôi không còn được thấy nó nữa. Bằng cách nào đó – giữa sự chìm nghỉm dưới đáy sâu cùng với những sợi dây thừng đứt, những mảnh vụn bị trôi mất mà không thể tìm lại – một câu nói vẫn cứ nổi lên, đếm nhịp trong bóng tối như mẩu tin tức chạy chầm chậm phía dưới màn hình ti vi: Hobart và Blackwell. Hãy rung chiếc chuông màu xanh.

    Tôi nằm đó nhìn trần nhà, không muốn dậy nữa. Từng câu chữ ấy thật rõ ràng và tươi mới như thể có ai vừa đưa cho tôi tờ giấy có ghi những rõ chữ đó. Và tuy vậy – theo một cách kì diệu nhất – những kí ức bị lãng quên giờ đã được mở ra và nổi lên bề mặt cùng những câu chữ đó, như những viên giấy nhỏ mua từ phố Tàu mà sẽ phồng lên và nở thành hoa khi cho vào ly nước.

    Trôi nổi trong đầy ắp những suy nghĩ, lòng tôi chợt dấy lên những nghi ngờ: nó là kí ức thật sự, ông ấy đã thực sự nói những lời đó với tôi, hay tôi chỉ đang mơ? Không lâu trước ngày mẹ tôi qua đời, tôi đã có lần thức dậy và cho rằng một giáo viên (không tồn tại) được gọi là cô Malt đã lén bỏ thủy tinh vụn vào đồ ăn của tôi vì tôi quá nghịch – trong thế giới những giấc mở của tôi, gồm các chuỗi sự kiện hoàn toàn logic – và tôi đã thấp thỏm lo lắng trong hai hoặc ba phút trước khi kịp tỉnh táo trở lại.

    “Andy?” tôi gọi, cúi xuống để nhìn vào chiếc giường ở tầng dưới, nhưng nó đã trống không.

    Sau khi nằm mở mắt chong chong nhìn trần nhà một lúc, tôi bèn trèo xuống và lấy chiếc nhẫn ra khỏi túi áo khoác đi học, giơ nó lên phía ánh sáng để nhìn rõ vào chỗ có khắc chữ. Sau đó, thật nhanh chóng, tôi đặt nó qua một bên và đi thay quần áo. Andy đã dậy cùng với toàn bộ gia đình nhà Barbour, đang ăn bữa sáng – bữa sáng chủ nhật luôn là một dịp lớn với họ, tôi có thể nghe tiếng tất cả mọi người trong phòng ăn, ông Barbour đang dông dài như thường lệ, nói hơi lung tung một chút. Sau khi dừng lại ở sảnh, tôi đi theo lối khác, qua phòng sinh hoạt chung, và lấy cuốn danh bạ điện thoại từ chiếc bao lưới nằm trong chiếc tủ ở dưới cái điện thoại.

    Hobart và Blackwell. Đây rồi – rõ ràng là một địa chỉ kinh doanh, mặc dù phần danh sách không nói là kinh doanh cái gì. Tôi thấy hơi choáng váng. Việc nhìn những dòng tên tông màu đen trắng cho tôi cảm giác ớn lạnh mà không hiểu sao, phải cho tới khi các phần tên tự sắp xếp lại vào đúng chỗ.

    Địa chỉ là ở gần công viên The Village, Đường Mười phía Tây. Sau chút lưỡng lự, và rất nhiều lo lắng, tôi đã quay số.

    Khi đầu dây bên kia đổ chuông, tôi đứng đó mân mê chiếc đồng hồ hộp bằng đồng để trên bàn trong phòng sinh hoạt, cắn chặt môi, hướng mắt qua bàn điện thoại tới khung hình của các loài chim biển treo trên tường: Chim nhạn nhiệt đới, Chim cốc , Chim ưng biển. Tôi không biết làm thế nào để giải thích mình là ai hoặc để hỏi về thứ tôi muốn biết.

    “Theo?”

    Tôi nhảy dựng lên, cảm thấy thật tội lỗi. Bà Barbour – trong chiếc áo len lông cừu màu xám – đã đi vào phòng, trên tay là một tách cà phê.

    “Cháu đang làm gì thế?”

    Đầu dây bên kia chuông điện thoại vẫn reo. “Không có gì ạ.” tôi đáp.

    “Vậy thì nhanh lên. Bữa sáng của cháu nguội rồi. Etta đã làm món bánh mỳ nướng kiểu Pháp.”

    “Cám ơn ạ,” tôi nói, “cháu sẽ tới ngay,” đúng lúc một giọng nói tự động từ số điện thoại của công ty vang lên và nói tôi hãy gọi lại sau.

    Tôi ngồi cùng với cả nhà Barbour, đầu vẫn chồng chất suy nghĩ – tôi đã hi vọng là ít nhất sẽ có máy trả lời tự động – và cũng ngạc nhiên khi thấy không phải ai khác mà là Platt Barbour (đã cao lớn hơn và mặt cũng đỏ hơn lần cuối tôi thấy anh ta) đang ngồi ở vị trí tôi vẫn ngồi.

    “Ah,” ông Barbour nói – tự ngắt lời khi đang nói dở, quẹt qua miệng bằng chiếc khăn ăn và đứng bật dậy – “đây rồi, đây rồi. Chào buổi sáng. Cháu còn nhớ Platt, đúng chứ? Platt, đây là Theodore Decker – bạn của Andy, nhớ không?” Ông vừa nói vừa đi ra khỏi bàn và quay lại với một chiếc ghế nữa, cái mà ông vụng về đặt xuống cho tôi ở phía góc bàn.

    Khi tôi ngồi xuống chỗ cách xa tất thảy mọi người – thấp hơn họ khoảng ba đến bốn inch, trên chiếc ghế gỗ mảnh khảnh mà không hợp tí nào với những cái còn lại – Platt đã bắt gặp ánh mắt tôi mà không thể hiện chút nào xúc cảm rồi quay đi. Anh ta trở về nhà để dự một bữa tiệc, và anh ta trông có vẻ chếnh choáng.

    Ông Barbour đã lại ngồi xuống và lại tiếp tục nói về chủ đề ưa thích của mình: đi thuyền buồm. “Như cha đang nói đó. Tất cả đều là do sự thiếu tự tin. Con không tin vào bản thân mình khi đi trên cái xà lan đó, Andy,” ông nói, “và chẳng có cái lí do gì con phải làm thế, ngoại trừ việc con thiếu kinh nghiệm đi tàu một mình.”

    “Không,” Andy nói bằng cái giọng xa cách, “Vấn đề nhất thiết nằm ở chỗ là con ghét tàu thuyền.”

    “Không thể tin nổi,” ông Barbour nói, nháy mắt với tôi như thể tôi cũng có tham gia vào câu chuyện đùa, nhưng tôi đâu có làm vậy. “Ta sẽ không bỏ tiền mua cái thái độ nhàm chán ấy! Hãy nhìn bức tranh trên tường kia kìa, ở dưới vùng Sanibel cách đây hai mùa xuân! Cậu chàng đó đâu có thấy chán ghét biển cả và bầu trời và những vì sao đâu.”

    Andy ngồi đó ngắm nhìn cảnh tuyết rơi được in trên vỏ chai sốt đường trong khi cha cậu cứ ngâm nga một cách đau đầu, khó theo dõi về cách mà đi thuyền sẽ giúp xây dựng kỉ luật và sự cảnh giác ở các cậu bé, và nhân cách mạnh mẽ như của những người lính hải quân trưởng thành. Trong quá khứ, Andy từng nói với tôi rằng cậu chẳng phiền lắm nếu đi thuyền vì cậu có thể ở dưới cabin đọc sách và chơi bài cùng mấy đứa em. Nhưng giờ cậu đã đủ lớn để giúp việc cho đội tàu – nghĩa là dành những ngày mệt mỏi, nắng gắt trên mạn tàu cùng với kẻ chuyên bắt nạt là Platt: phải cúi gập người dưới những thanh xà, hoàn toàn mất phương hướng, cố gắng không bị rối tinh lên với bản đồ toàn đường kẻ hay không bị rơi khỏi mạn tàu trong khi cha cậu thì hét lên ra lệnh và ngồi đó tận hưởng chai xịt muối.

    “Chúa ơi, em còn nhớ chuyến đi tới Sanibel đó không?” Cha của Andy ngả người ra sau và hướng mắt lên trần nhà. “Nó rực rỡ đấychứ hả? Những buổi hoàng hôn rực màu cam ánh đỏ? Lửa và than hồng? Gần như tất cả trở về dạng nguyên tử? Những ngọn lửa tinh khiết xẻ đôi bầu trời và chảy xuống từ đó? Và em nhớ vầng trăng tròn trịa với quầng sáng xanh bao quanh nó không, ở vùng Hatteras – có phải anh đang nghĩ tới phong cách của Maxfield Parrish không, Samantha?”

    “Gì cơ?”

    “Maxfield Parrish ấy? Người họa sĩ mà anh thích? Người sáng tạo ra những bầu trời lộng lẫy, em biết đấy…” ông dang rộng hai cánh tay – “với những tầng mây? Xin lỗi cháu, Theo, ta không cố ý làm cháu giật mình.”

    “Constable mới vẽ nên những đám mây.”

    “Không, không, anh không nói tới người đó, người họa sĩ ta đang nói tới làm ta thấy hài lòng hơn. Dù sao thì – ý anh là, bầu trời mà chúng ta được chứng kiến trên biển ngày hôm đó. Kì diệu. Thanh bình.”

    “Đó là đêm nào cơ?”

    “Đừng nói với anh là em không nhớ! Nó chắc chắn là sự kiện nổi bật của cả chuyến đi đấy.”

    Platt – đang ngồi thụt vào trong ghế - nói một cách thâm hiểm: “Sự kiện nổi bật trong chuyến đi của Andy là khi chúng ta dừng lại ăn trưa ở quán ven đường.”

    Andy nói giọng mỏng manh: “Mẹ cũng không quan tâm gì tới việc đi thuyền đâu bố.”

    “Không quan tâm một cách thái quá, không,” bà Barbour nói, tay vươn ra lấy một quả dâu tây nữa. “Theo, ta thực sự muốn cháu ăn ít nhất là một miếng nhỏ bữa sáng thôi. Cháu không thể bỏ đói mình thế này được. Cháu đã bắt đầu trở nên xương xẩu rồi.”

    Mặc dù đã được dự bài giảng bộc phát về cờ hiệu trên biển trong phòng làm việc của ông Barbour nhưng tôi cũng không tìm được sự gắn bó nào với chủ đề đi thuyền này. “Bởi vì món quà lớn lao nhất mà cha của cha đã trao tặng?” ông Barbour đang nói rất tâm huyết. “Chính là biển cả. Tình yêu với biển – cảm giác đó. Cha đã cho ta cả đại dương. Và thật là một mất mát lớn với con, Andy – Andy, nhìn cha đi, cha đang nói với con đấy – sẽ là một mất mát kinh khủng nếu con quyết định quay lưng lại với những thứ mà đã từng cho cha sự tự do, sự…”

    “Con đã cố gắng thích nó. Nhưng việc con ghét nó đã là bản chất rồi.”

    Ghét?” Kinh ngạc; chết lặng. “Ghét cái gì? Ghét những vì sao và những ngọn gió? Ghét bầu trời và vầng dương? Ghét sự tự do?”

    “Cho tới giờ thì là tất cả những thứ có liên quan đến đi thuyền, vâng đúng thế.”

    “Được…” ông nhìn quanh bàn, gồm cả tôi, để kêu gọi – “giờ nó chỉ còn là đứa ngốc nghếch. Biển cả…” ông quay qua Andy “… có thể không cho con thứ con muốn nhưng nó ở trong bản năng của con, trong máu con, từ thời người Phê-xi-ni, người Hy Lạp cổ đại…”

    Nhưng trong lúc ông Barbour tiếp tục vể nhà thám hiểm Magellan, và kĩ năng định vị thiên văn, và cả cuốn Billy Budd (“Tôi vẫn nhớ cảnh Taff the Welshman chìm xuống nước/ Và đôi má anh ta mới chớm hồng”), những suy nghĩ của riêng tôi lại trôi về Hobart và Blackwell: tôi tự hỏi Hobart và Blackwell là ai, và chính xác là họ làm gì. Hai cái tên nghe như một bộ đôi luật sư đã lớn tuổi, hay thậm chí là ảo thuật gia trên sân khấu, có những đối tác làm ăn luôn thay đổi trong ánh nến mập mờ.

    Có vẻ như cũng có tia hi vọng khi số máy đó vẫn hoạt động. Điện thoại nhà của tôi đã bị ngắt kết nối. Ngay sau khi tôi lịch sự rút khỏi bữa sáng và đĩa đồ ăn còn nguyên của mình, tôi liền quay trở lại với chiếc điện thoại trong phòng sinh hoạt, cùng với cô Irenka đang bận rộn xung quanh, chạy máy hút bụi và lau phủi vài thứ đồ cổ, và Kitsey thì đang dùng máy tính ở phía bên kia phòng, nhất quyết không thèm nhìn tôi.

    “Cậu đang gọi cho ai vậy?” Andy hỏi – thật giống với những người nhà của cậu, cứ lẳng lặng tới đằng sau tôi mà tôi không hề hay biết.

    Có lẽ tôi đã không nói cho cậu ấy bất cứ điều gì, nhưng tôi biết mình có thể tin tưởng rằng cậu ấy sẽ giữ bí mật. Andy chưa từng tiết lộ gì với ai, và chắc chắn là không với bố mẹ cậu rồi.

    “Những người này,” tôi thì thầm – lùi xuống một chút để tránh tầm nhìn từ cửa chính. “Tớ biết là nghe có vẻ kì cục. Nhưng cậu biết cái nhẫn mà tớ có chứ?”

    “Tôi giải thích về người đàn ông già và tôi cũng đang nghĩ xem nên giải thích thế nào về cô bé ấy, sự kết nối với cô ấy mà tôi cảm nhận được và sự mong muốn được gặp lại cô ấy. Nhưng Andy – như thường lệ - đã nhảy trước một bước, xa khỏi những khía cạnh thuộc về cá nhân mà nhảy ngay tới khía cạnh logic của tình huống. Cậu nhìn quyển danh bạ đang để mở trên bàn. “Họ ở thành phố này không?”

    “Đường Mười phía Tây.”

    Andy khẽ sụt sịt, rồi xì mũi; cơn dị ứng thời tiết mùa xuân khiến cậu khốn đốn. “Nếu cậu không gặp được họ qua điện thoại,” cậu nói, gấp chiếc khăn tay rồi bỏ lại vào túi, “thì tại sao cậu không đi luôn xuống dưới đó?”

    “Thật sao?” tôi nói. Có vẻ hơi khác người nếu không gọi trước mà đã đến. “Cậu nghĩ thế à?”

    “Đấy là việc tớ sẽ làm.”

    “Tớ không biết nữa,” tôi nói. “Có lẽ họ sẽ không nhớ tớ đâu.”

    “Nếu họ trực tiếp gặp mặt cậu thì họ sẽ dễ dàng nhớ cậu hơn,” Andy nói đầy lí lẽ. “Nếu không thì cậu sẽ chỉ là tên lập dị chuyên gọi điện thoại và giả vờ này nọ. Đừng lo,” cậu nói, ngoái lại nhìn qua vai, “Tớ sẽ không nói cho ai nếu cậu không muốn.”

    “Một tên lập dị?” tôi nói. “Giả vờ chuyện gì cơ?”

    “Ý tớ là, cũng có rất nhiều người lạ mặt gọi đến đây cho cậu mà,” Andy thẳng thừng.

    Tôi im lặng, không biết sao để có thể hiểu hết được câu này.

    “Hơn nữa, họ cũng không nhấc máy, cậu còn làm được gì khác nữa? Cậu sẽ không thể tới đó cho đến cuối tuần tới. Và đây có phải là cuộc nói chuyện mà cậu rất muốn…” cậu phóng tầm mắt dọc hành lang, nơi mà Toddy đang nhảy lên nhảy xuống trong đôi giày có lò xo, còn bà Barbour thì đang chất vấn Platt về vụ bữa tiệc ở nhà Molly Walterbeek.

    Cậu ấy nói có lý. “Đúng thế,” tôi nói.

    Andy đẩy gọng kính lên sống mũi. “Tớ sẽ đi cùng nếu cậu muốn.”

    “Không, thế này được rồi,” tôi nói. Tôi biết là chiều hôm đó Andy sẽ có buổi Trải nghiệm tiếng Nhật để lấy thêm tín chỉ - một nhóm tự học ở quán trà Toraya, rồi sau đó đi xem một bộ phim mới của đạo diễn Miyazaki ở Trung tâm nghệ thuật Lincoln; không phải là Andy cần thêm tín chỉ mà bởi những lớp ngoại khóa cũng chính là cuộc sống xã hội của cậu ấy.

    “Đây,” cậu nói, lần mò trong túi và lôi ra chiếc di động. “Cậu cầm cái này theo. Phòng trường hợp. Đây…” cậu ấn vài lần lên màn hình… “tớ đã bỏ mật khẩu đi rồi. Chúc may mắn nhé.”

    “Tớ không cần cái này,” tôi nói, nhìn vào cái điện thoại bóng bẩy với hình anime của Virtual Girl Aki (khỏa thân, đi đôi bốt cao tới đùi) trên màn hình khóa máy.

    “Rồi có lẽ cậu sẽ cần. Không bao giờ biết trước được. Cứ tự nhiên đi,” cậu nói khi tôi còn do dự. “Cứ cầm lấy.”


    xii.

    VÀ THẾ LÀ tầm mười một rưỡi sáng, tôi nhận ra là mình đang trên đường xuống khu The Village trên chuyến xe buýt từ Đại lộ Năm với địa chỉ tiệm Hobart và Blackwell trong túi, được viết trên một tờ giấy nhớ lấy từ tập giấy mà bà Barbour vẫn để cạnh điện thoại.

    Sau khi đã xuống xe ở Quảng trường Washington, tôi đi bộ thêm bốn mươi lăm phút nữa để tìm địa chỉ. The Village, với cái sơ đồ sắp xếp hỗn độn của nó (những tòa nhà hình tam giác, những con phố bất tận cắt chéo góc với đường này đường kia) là một nơi dễ dàng bị lạc, và tôi phải dừng lại hỏi đường ba lần: ở một tiệm tạp chí toàn sách báo khiêu dâm về người đồng tính, ở một tiệm bánh mỳ đông đúc, và hỏi một cô gái mặc áo trắng mỏng bên trong quần yếm, đang lau chùi cửa sổ một hiệu sách với con lăn và một cái xô.

    Khi cuối cùng cũng tìm được Đường Mười phía Tây – con đường vắng vẻ - tôi bèn đi dọc theo đường để lần tìm số nhà. Tôi đang đi ở một khu vực tồi tàn mà chủ yếu là nhà dân. Một đám bồ câu đi nghênh ngang phía trước tôi, ba con đi ngang hàng, như những vị khách đi bộ nhỏ bé và khệnh khạng. Nhiều số nhà không được ghi rõ ràng, và ngay khi tôi e là mình đã bỏ qua nó và phải lộn lại từ đầu, thì tôi chợt thấy trước mắt là dòng chữ Hobart và Blackwell được sơn lên khung cửa tò vò nhỏ nhắn cũ kĩ ngay phía trên cửa sổ của tiệm. Qua lớp kính bám bụi tôi có thể thấy những chú chó giống Staffordshire và những chú mèo majolica, đồ pha lê phủ bụi, đồ bạc đã xỉn màu, những chiếc ghế cổ và sofa thì được phủ kín dưới lớp vải thêu xám xịt, một chiếc lồng chim làm bằng sành thật tỉ mỉ, những tấm bia cẩm thạch nhỏ nhắn đặt phía trên một bệ đá cẩm thạch cùng với một cặp vẹt mào bằng thạch cao. Đó đơn thuần chính là kiểu cửa tiệm mà mẹ tôi sẽ thích – đồ vật được xếp gần chặt với nhau, một chút hoang tàn, với hàng chồng sách trên sàn nhà. Nhưng cửa đã bị kéo xuống và tiệm đã đóng rồi.

    Hầu hết các cửa hàng đều chưa mở cửa cho tới tận trưa hoặc một giờ chiều. Để giết thời gian tôi đi bộ tới Phố Greenwich, tới nhà hàng Voi và Lâu đài, nơi mà mẹ và tôi đôi khi vẫn ăn khi chúng tôi có dịp xuống phố. Nhưng ngay từ khoảnh khắc bước vào, tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Những chú voi Trung Quốc không hợp khung cảnh, thậm chí cả cô gái hầu bàn tóc đuôi ngựa trong chiếc áo phông đen đi tới và cười với tôi: thật quá sức chịu đựng, tôi có thể thấy rõ chiếc bàn trong góc nơi mẹ và tôi đã ăn bữa trưa cuối cùng khi ở đó, tôi phải ấp úng một lời xin lỗi rồi quay trở ra cửa.

    Tôi đứng trên vỉa hè, tim vẫn đập mạnh. Những chú bồ câu bay là là dưới màu xám xịt của bầu trời. Đại lộ Greenwich gần như không có ai: một cặp hai chàng trai mắt đục ngầu và có vẻ như đã thức cả đêm để đi đánh nhau; một phụ nữ tóc rối trong chiếc áo len cao cổ cỡ bự, đang dắt chú chó phốc đi về phía Đại lộ Sáu. Có đôi chút kì lạ khi tôi tới khu the Village một mình vì đó không phải là nơi để bạn nhìn thấy nhiều đứa trẻ chơi đùa trên phố vào sáng ngày cuối tuần; nó có cảm giác của người trưởng thành nhiều hơn, cao cấp hơn và phảng phất mùi cồn. Ai nhìn cũng có vẻ say khướt hoặc trông như thể họ vừa lăn xuống khỏi giường.

    Vì không có mấy cửa hàng mở cửa, và bởi tôi có vẻ hơi lạc hướng và không biết làm gì, nên tôi bắt đầu quay trở lại theo hướng tiệm Hobart và Blackwell. Đối với tôi, người tới từ khu trên, mọi thứ ở the Village trông thật bé nhỏ và cũ kĩ, với những dây leo thường xuân và dây nho mọc trên tường các tòa nhà, thảo dược và cây cà chua thì được trồng trong các thùng tròn trên phố. Thậm chí quán bar cũng có những biển hiệu vẽ tay giống các quán rượu thôn quê: ngựa và mèo đực, gà trống, ngỗng và lợn. Nhưng sự thân quen, sự cô đơn nhỏ bé, cũng khiến tôi tụt hứng; tôi thấy mình nhanh bước qua những lối vào đầy mời gọi và đầu thì cúi gằm, cảm nhận rất rõ cuộc sống tiệc tùng vào sáng chủ nhật đang cuộn lấy tôi.

    Cánh cửa của tiệm Hobart và Blackwell vẫn đang bị sập xuống. Tôi có cảm giác rằng tiệm này đã không mở cửa một thời gian rồi; nó quá lạnh lẽo và tối tăm; không có dấu hiệu gì của sự sống bên trong giống như những nơi khác trên cùng con phố.

    Tôi đang nhìn qua cửa sổ và nghĩ xem nên làm gì thì đột nhiên tôi thấy có sự cử động, một hình thù to lớn trượt qua phía cuối căn phòng. Tôi dừng lại, bất động. Nó di chuyển thật nhẹ nhàng, như cách mà ma quỷ vẫn được cho là di chuyển như thế, không hề nhìn sang hai bên, lướt thật nhanh qua lối vào và đi vào trong bóng tối.

    Và nó biến mất. Một tay đặt lên trán, tôi nhòm vào sâu bên trong cửa tiệm u ám chật chội, rồi gõ lên tấm kính.

    Hobart và Blackwell. Hãy rung chiếc chuông màu xanh.

    Một chiếc chuông ư? Không thấy có chiếc chuông nào cả; lối vào cửa hàng được che kín bởi tấm cửa sắt. Tôi bước tới lối vào tiếp theo – số 12, một tòa chung cư khiêm tốn – rồi quay trở lại số 8, một ngôi nhà của người giàu có. Có một phần hiên không mái che dẫn tới tầng một, nhưng lần này tôi đã thấy thứ gì đó mà mình chưa từng nhìn thấy trước kia: một lối đi hẹp, kẹp giữa nhà số 8 và số 10, một nửa đã bị che khuất bởi cái giá đựng lon kim loại bỏ đi. Bốn hoặc năm bước tiếp theo dẫn tới một cánh cửa có vẻ như không có ai dùng cách mặt đường khoảng ba feet. Không có biển hiệu hay biển báo gì – nhưng thứ thu hút tôi chính là cái vệt màu xanh ấy: một dải cờ xanh, được dán dưới một nút bấm đặt trên tường.

    Tôi bước xuống cầu thang; tôi nhấn chuông và lại nhấn lần nữa, hơi chùn bước trước cái tiếng chuông rè rè đầy kích động (thứ mà khiến tôi chỉ muốn chạy xa) và hít sâu để lấy can đảm. Thế rồi – đột ngột tôi lùi lại – cánh cửa mở ra, và tôi thấy mình đang dán mắt vào một con người cao lớn và xa lạ.

    Ông ta cao sáu feet tư hoặc sáu feet rưỡi, ít nhất là thế: có vẻ phờ phạc, khung xương hàm thanh tú, người nặng trịch, có thứ gì đó ở ông ta gợi nhắc đến ảnh của những nhà thơ hoặc những võ sĩ quyền anh người Ai-len được treo ở các quán rượu trong thành phố nơi mà cha tôi vẫn thích tới uống. Tóc ông ta hầu hết là màu xám, và cần được cắt, và làn da thì trắng kiểu ốm yếu, với những quầng thâm lan rộng quanh hai mắt đến nỗi cứ như thể mũi ông đang bị gãy. Bên ngoài quần áo ông ta là tấm áo choàng thêu hoa vương giả với ve áo sa tanh đã rơi rớt xuống gần mắt cá chân của ông và chảy lộn xộn quanh người, nhưng thứ mà nhân vật chính trong những bộ phim năm 1930 sẽ mặc: cũ kĩ, nhưng vẫn ấn tượng.

    Tôi ngạc nhiên tới mức mọi từ ngữ đều biến đâu hết. Phong thái của ông không có vẻ kiên nhẫn chút nào, ngược lại thì đúng hơn. Ông ta trống rỗng nhìn tôi, với mí mắt thâm xì, chờ đợi tôi cất tiếng.

    “Xin lỗi…” tôi nuốt khan, cổ họng khô khốc. “Cháu không muốn làm phiền…”

    Ông chớp mắt, hòa nhã, trong sự im lặng theo sau đó, như thể dĩ nhiên là ông hiểu được chuyện này, và sẽ không bao giờ xen vào giữa ngắt lời.

    Tôi mò mẫm trong túi; tôi lôi ra chiếc nhẫn đưa cho ông ta, trong lòng bàn tay mở rộng của mình. Khuôn mặt xanh xao nhưng khá đầy đặn của ông trở nên mệt mỏi. Ông nhìn chiếc nhẫn, rồi nhìn tôi.

    “Cháu lấy cái này ở đâu?” ông hỏi.

    “Ông ấy đưa nó cho cháu,” tôi nói. “Ông ấy bảo cháu mang nó tới đây.”

    Ông ta đứng đó nhìn tôi, nhìn rất kĩ. Trong khoảnh khắc, tôi đã nghĩ là ông sẽ nói rằng ông chẳng biết tôi đang nói về cái gì. Thế rồi, không nói gì, ông lùi lại và mở rộng cửa.

    “Ta là Hobie,” ông nói khi tôi còn đang lưỡng lự. “Vào đi.”
     
  16. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    CHƯƠNG 4

    KẸO MÚT VỊ MORPHINE


    i.

    CƠ MAN ĐỒ MẠ VÀNG, lấp lánh dưới ánh sáng xiêu xẹo từ phía khung cửa sổ phủ bụi: tượng thần tình yêu mạ vàng, tủ com mốt và chân đèn mạ vàng, và – xuyên qua thứ mùi gỗ cũ kĩ – là mùi mốc của dầu thông, dầu vẽ và mùi véc ni. Tôi theo ông đi qua những chỗ trưng bày nằm dọc theo lối đi đầy mùn cưa, qua những giá treo đồ và dụng cụ, những chiếc ghế bị tháo rời và những chiếc bàn chân xoắn nằm chổng ngược lên trời. Mặc dù to con nhưng ông lại rất nhã nhặn, một “người lơ lửng,” như mẹ tôi sẽ gọi, có thứ gì đó nhẹ nhàng và bay bổng trong cái cách mà ông đi lại. Mắt dán chặt vào gót chân mang dép của ông, tôi đi theo ông lên trên vài cầu thang hẹp và đi vào trong một căn phòng lờ mờ, được trải thảm sang trọng, nơi mà những chiếc lư màu đen được đặt trên bệ đỡ và tấm rèm có quả tua trang trí đã được kéo ra để che ánh sáng mặt trời.

    Trước sự tĩnh lặng, tim tôi như đông cứng lại. Những bông hoa héo rũ đang nằm thối rữa trong những chiếc bình Trung Hoa và một sự nặng nề đến câm nín bao phủ cả căn phòng: không khí quá ẩm mốc để có thể thở được, chính là cái cảm giác ngột ngạt ở căn hộ của chúng tôi khi bà Barbour đưa tôi quay lại toà Sutton Place để lấy vài vật dụng cần thiết. Đó là sự tĩnh lặng mà tôi từng trải qua; đây là cách mà một ngôi nhà tự thu mình lại khi có ai đó vừa qua đời.

    Ngay lập tức tôi ước rằng mình chưa từng tới đây. Nhưng người đàn ông – Hobie – dường như cảm thấy sự e ngại của tôi vì đột nhiên ông quay người lại. Mặc dù không còn trẻ nhưng ông vẫn sở hữu một vài nét của một gương mặt thanh niên; đôi mắt ông, màu xanh non trẻ, rất trong và ấn tượng.

    “Có chuyện gì vậy?” ông nói, và rồi: “Cháu ổn chứ?”

    Sự quan tâm của ông làm tôi xấu hổ. Tôi ngại ngùng đứng giữa bầu không gian xám xịt bức bối chất đầy đồ cổ ấy, không biết phải nói gì.

    Dường như ông ấy cũng không biết nói gì; ông mở miệng; khép miệng; rồi khẽ lắc đầu như muốn rũ bỏ những suy nghĩ đó. Ông vào khoảng năm mươi hoặc sáu mươi tuổi, râu ria cạo qua loa, cùng gương mặt bẽn lẽn dễ nhìn với những đường nét to đậm, không đẹp trai nhưng cũng không đơn điệu – một người đàn ông sẽ luôn chiếm vị trí to lớn hơn tất cả những người đàn ông khác trong phòng, mặc dù ông cũng có cái vẻ ốm đau bệnh tật dựa trên bề ngoài ẩm ướt, lôi thôi, đôi mắt thâm quầng và nét vàng vọt khiến tôi nhớ về những tu sĩ tử vì đạo được khắc họa trên những bức tranh tường của nhà thờ cái mà tôi đã thấy trong chuyến đi tham quan tới Montreal: cao lớn, tài giỏi, những người châu Âu xanh xao, bị bắt trói ở căn cứ quân Hurons.

    “Xin lỗi, ta có hơi…” Ông nhìn quanh với một sự sốt sắng khẩn trương, như mẹ tôi mỗi lần bà quên vị trí của thứ đồ nào đó. Giọng ông khàn nhưng rất chín chắn, như thầy dạy lịch sử O’Shea của tôi người đã lớn lên với tuổi thơ cực nhọc ở khu Boston và cuối cùng đã theo học ở Harvard.

    “Cháu có thể quay lại đây sau. Nếu điều đó giúp ích.”

    Ông liếc nhìn tôi, khẽ chột dạ. “Không, không,” ông nói – khuy măng sét ở áo đã xổ ra, cổ tay áo thì lỏng lẻo, luộm thuộm – “chỉ cần cho ta vài phút để bình tĩnh lại, xin lỗi… nào,” ông nói một cách xao nhãng, tay đẩy những lọn tóc xám khỏi mặt, “chúng ta đi nào.”

    Ông dẫn tôi qua một bộ sofa chật chội, với tay nắm uốn và mặt sau có chạm trổ. Nhưng nó bị ném vào đầy gối và chăn và hai chúng tôi có vẻ đều cùng lúc nhận ra rằng đống chăn gối lộn xộn ấy khiến việc ngồi xuống cũng thật bất tiện.

    “Ah, xin lỗi,” ông thì thầm, bước lùi về nhanh đến nỗi chúng tôi suýt đâm sầm vào nhau, “ta đã dựng lều ở đây như cháu thấy đấy, không phải là sự sắp đặt tốt nhất trên thế giới nhưng ta đã phải cố tận dụng vì ta cũng không còn theo kịp được những sự kiện mới nữa…”

    Quay mặt đi (để tôi không nghe được phần còn lại của câu), ông dẫm chân lên mép một cuốn sách đang úp mặt xuống thảm và một tách trà có viền màu nâu bên trong, rồi ông đưa tôi tới chỗ một chiếc ghế nhồi đệm được thêu và dệt cùng với vải tua rua và mặt ghế thì đầy những cúc – một chiếc ghế kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, như những gì tôi được học sau này; ông là một trong số ít những người ở New York còn biết nhồi những chiếc ghế thế này.

    Những thứ đồ bằng đồng có cánh, đồ nữ trang bằng bạc. Lông đà điểu màu xám tro được đựng trong một chiếc bình bạc. Cảm giác không an tâm, tôi ngồi ghé vào mép ghế và nhìn quanh. Tôi thích được đứng hơn, việc ra về sẽ nhanh và thuận tiện hơn.

    Ông cúi người ra phía trước, kẹp bàn tay giữa hai đầu gối. Nhưng thay vì nói gì đó thì ông ấy lại cứ nhìn tôi và chờ đợi.

    “Cháu là Theo,” tôi nói cuống cuồng, sau một hồi dài im lặng. Mặt tôi nóng đến mức mà tôi có cảm giác như sắp bốc cháy. “Theodore Decker. Mọi người gọi cháu là Theo. Cháu sống ở phố trên,” tôi nói thêm vào một cách lưỡng lự.

    “Vậy thì, ta là James Hobart, nhưng mọi người gọi ta là Hobie.” Ánh mắt ông ảm đạm và có phần làm người khác dịu nguội đi. “Ta sống ở phố dưới.”

    Không biết nói gì, tôi quay đầu đi, không biết có phải là ông đang bày trò đùa không.

    “Xin lỗi.” Ông nhắm mặt lại trong vài giây, rồi lại mở ra. “Đừng để ý tới ta. Welty…” ông liếc vào chiếc nhẫn trong lòng bàn tay… “đã từng là bạn cùng làm ăn với ta.”

    Đã từng? Chiếc đồng hồ đính với mô hình mặt trăng – kêu vo vo và có tiếng các bánh xe khớp với nhau, tiếng xích chạy nặng nề, cùng một bức hình mô phỏng thuyền trưởng Nemo – đã vang lên những tiếng rù rù nổi bật giữa không gian tĩnh lặng trước khi đánh chuông sau mỗi mười lăm phút.

    “Oh,” tôi thốt lên. “Cháu chỉ… Cháu nghĩ là…”

    “Không. ta xin lỗi. Cháu không biết chuyện đó à?” ông hỏi thêm, nhìn tôi thật gần.

    Tôi quay mặt đi. Tôi đã không nhận ra là mình đã mong chờ được gặp lại người đàn ông già đó như thế nào. Bất chấp những gì tôi đã thấy – những gì tôi biết – thì đôi lúc tôi vẫn cố gắng nuôi dưỡng cái hi vọng ngốc nghếch rằng ông sẽ sống sót, một cách thần kì, giống như nạn nhân của một vụ giết người trên ti vi, sau đoạn quảng cáo giữa giờ, thì hóa ra lại vẫn còn sống và đang hồi phục bí mật trong bệnh viện.

    “Và làm sao mà cháu có được vật này?”

    “Gì cơ ạ?” tôi nói, khá ngạc nhiên. Chiếc đồng hồ, tôi nhận ra, đã chỉ sai giờ: mười giờ sáng, mười giờ tối, chẳng gần chút nào với giờ đúng.

    “Cháu nói là ông ấy đưa nó cho cháu à?”

    Tôi đổi tư thế một cách bất tiện. “Vâng. Cháu…” Cú sốc trước cái chết của ông ấy dường như chỉ vừa mới đây, như thể tôi lại lỡ hẹn với ông lần thứ hai và khoảnh khắc ấy lại được chiếu lại từ đầu nhưng là ở một góc độ khác.

    “Lúc đó ông ấy còn tỉnh táo à? Ông ấy đã nói chuyện với cháu?”

    “Vâng,” tôi bắt đầu, và rồi lại rơi vào lặng im. Tôi thấy thật khổ sở. Được là một phần ở trong thế giới của ông ấy, giữa bao thứ khác, đã đem lại cho tôi những cảm nhận về ông một cách mãnh liệt: cái không khí đầy ảo mộng như ở dưới nước cái lúc chúng tôi còn ở trong phòng trưng bày đó, những tấm vải nhung phủ đầy bụi, sự giàu sang và chết lặng của nó.

    “Ta mừng vì ông ấy đã không cô đơn,” Hobie nói. “Ông ấy sẽ ghét phải cô đơn.” Chiếc nhẫn được bao bọc bởi ngón tay ông và ông đưa nắm tay lên miệng rồi nhìn tôi.

    “Lỗi của ta. Cháu vẫn còn là một đứa trẻ mà.” ông nói.

    Tôi cười gượng gạo, không biết nên trả lời ra sao.

    “Xin lỗi cháu,” ông nói, theo kiểu giống với dân buôn bán hơn nên tôi nghĩ ông đang muốn trấn an tôi. “Chỉ là… Ta biết việc này thật tồi tệ. Ta đã thấy. Xác của ông ấy…” ông có vẻ như đang tìm từ ngữ phù hợp… “trước khi họ gọi cháu vào, họ sẽ lau dọn sạch sẽ nhất có thể và họ sẽ nói trước rằng việc này sẽ không dễ dàng, điều mà cháu cũng biết rõ nhưng rồi… Cháu không thể tự chuẩn bị cho bản thân trước những việc thế này. Bọn ta đã từng có một bộ ảnh của Mathew Brady trưng bày ở của tiệm vài năm trước – tư liệu về cuộc nội chiến, tàn khốc đến nỗi mà ta đã gặp rất nhiều khó khăn mới bán được nó.”

    Tôi không nói gì. Tôi không có thói quen tham gia vào những cuộc chuyện trò của người lớn ngoài việc nói ‘có’ hoặc ‘không’ khi bị hỏi, nhưng dù vậy thì lần này tôi vẫn chết lặng. Người bạn tên Mark của mẹ tôi, một bác sĩ, là người đã vào nhận dạng xác bà và mọi người cũng không muốn nói nhiều cho tôi về chuyện đó.

    “Ta vẫn còn nhớ một chuyện mà ta từng đọc, một người chiến sĩ, ở Shiloh phải không nhỉ?” Ông đang nói với tôi nhưng không hoàn toàn tập trung. “Hay ở Gettysburg? Một chiến sĩ đã sốc nặng đến nỗi anh ta bắt đầu đi chôn cất cho cả xác chim chóc và chồn ở chiến trường. Chúng ta đã mất mát rất nhiều, giữa biết bao bom đạn, những loài vật nhỏ bé. Rất nhiều những ngôi mộ tí hon.”

    “24000 người đã chết ở Shiloh trong vòng hai ngày,” tôi buột miệng.

    Mắt ông trượt qua tôi đầy cảnh giác.

    “50000 người chết ở Gettysburg. Đã có vài loại vũ khí mới. Những viên đạn rãnh xoắn cùng với súng tiểu liên. Đó là lí do vì sao số người chết lại cao như vậy. Ở Mỹ chúng ta đã có hầm trú ẩn trước Thế chiến I. Hầu hết mọi người không biết điều đó.

    Tôi có thể thấy là ông ta đang không biết phải làm gì với tình huống này.

    “Cháu có hứng thú tìm hiểu cuộc nội chiến phải không?” ông hỏi sau một khoảng lặng thận trọng.

    “Er… vâng,” tôi đáp nhanh. “Kiểu như vậy.” Tôi biết rất nhiều về Liên đoàn pháo binh dã chiến, vì tôi đã viết một bài luận về nó với nhiều thuật ngữ và nhiều tư liệu đến mức thầy giáo đã bắt tôi viết lại bài, và tôi cũng biết về những bức hình của Brady chụp lại những người chết ở Antietam: Tôi đã xem các bức hình trên mạng, những chàng trai da đen mắt vẫn mở to với máu chảy ra từ mũi và miệng. “Lớp cháu đã dành sáu tuần để học về Lincoln.”

    “Brady có một studio không xa đây lắm. Cháu đã tới xem chưa?”

    “Chưa ạ.” Có một ý nghĩ bị nhốt chặt trong tôi đang chuẩn bị xuất hiện, một ý nghĩ rất quan trọng và không thể nói ra bằng lời, nó hiện ra từ việc liên tưởng tới những người chiến sĩ có khuôn mặt vô hồn ấy. Giờ thì mọi thứ cũng dần biến mất ngoại trừ hình ảnh: những chàng trai đã chết với tứ chi dang rộng, nhìn chằm chằm lên bầu trời.

    Sự im lặng sau đó thật là đau đầu. Cả hai chúng tôi đều không biết cách nào để tiếp tục. Ít nhất là Hobie cũng đã đổi cách vắt chéo chân. “Ta muốn nói là… Ta xin lỗi. Vì đã liên tục hỏi ép cháu,” ông nói ngập ngừng.

    Tôi thấy thật lúng túng. Khi xuống khu phố dưới, trong tôi đầy ắp sự tò mò đến nỗi quên khuấy mất là tôi có thể sẽ phải tự mình trả lời bất cứ loại câu hỏi nào.

    “Ta biết là việc này rất khó nói ra. Chỉ là… Ta đã nghĩ…”

    Đôi giày của tôi. Thật là buồn cười khi tôi chưa từng nhìn kĩ nó bao giờ. Mũi giày bì trầy xước. Còn dây giày thì đã sờn. Chúng ta sẽ tới hiệu Bloomingdale và mua cho con một đôi giày mới. Nhưng chuyện đó không bao giờ xảy ra nữa rồi.

    “Ta không muốn làm cháu phải nhớ lại chuyện đó. Nhưng… lúc đó ông ấy còn nhận thức được chứ?”

    “Vâng. Kiểu vậy. Ý cháu là…” gương mặt căng thẳng, lo lắng của ông khiến phần xa xôi nào đó trong tôi muốn xổ ra tất cả những thứ mà ông không cần phải biết và không nên được biết, những mẩu vụn vặt trong tôi, những tia chớp xấu xí thi thoảng lại vụt qua cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi ngay cả khi tôi còn thức.

    Những bức chân dung u ám, hình giống chó spaniel từ Trung Quốc được đặt trên nóc lò sưởi, quả lắc vàng thì cứ đung đưa qua lại, tích tắc, tích tắc.

    “Cháu đã nghe thấy tiếng ông ấy gọi.” Tôi dụi mắt. “Khi cháu tỉnh dậy.” Cứ như là tôi đang cố gắng giải thích về một giấc mơ. Cái mà bạn không thể làm nổi. “Và cháu bước tới chỗ ông ấy và ở cùng ông ấy và… tình trạng không tồi tệ đến thế. Hoặc, không tồi tệ như ông tưởng,” tôi nói thêm, vì điều này nghe có vẻ giống một lời nói dối.

    “Ông ấy nói chuyện với cháu?”

    Cố nuốt nước bọt, tôi gật đầu. Về gỗ hồng đào sẫm màu; những cây cọ được trồng trong chậu.

    “Ông ấy còn tỉnh táo?"

    Tôi gật đầu lần nữa. Miệng tôi có vị thật kinh khủng. Đó không phải là thứ mà bạn có thể tóm tắt lại, những thứ mà chẳng có ý nghĩa gì và cũng không đủ để hình thành nên một câu chuyện, khói bụi, tiếng chuông báo động, cách mà ông nắm lấy tay tôi, chúng tôi đã ngồi đó lâu như cả một đời người, những câu nói lộn xộn về tên các thị trấn và những con người mà tôi chưa từng nghe qua. Những sợi dây điện đứt và tóe lửa.

    Mắt ông vẫn dán vào tôi. Cổ họng tôi khô khốc và có cảm giác hơi mệt. Khoảnh khắc đó không chịu trôi qua như đáng ra nó phải thế và tôi vẫn chờ ông hỏi thêm, về bất cứ điều gì, nhưng ông không làm vậy.

    Cuối cùng thì ông cũng lắc đầu như muốn xua đuổi ý nghĩ đó. “Chuyện này…” Ông dường như cũng bối rối như tôi; chiếc áo choàng, những sợi tóc màu xám lòa xòa khiến cho ông có cái vẻ ngoài của một ông vua không ngai vàng trong những vở kịch hóa trang của trẻ nhỏ.

    “Ta xin lỗi.” ông nói, lại lắc đầu. “Chuyện này vẫn còn mới mẻ quá.”

    “Gì cơ ạ?”

    “Thì, như cháu thấy đấy, chỉ là…” ông cúi người ra trước và chớp mắt, nhanh và đầy hối thúc… “Mọi thứ rất khác với những gì mà ta được nghe, được thấy. Họ nói ông ấy chết ngay tại chỗ. Họ đã rất rất nhấn mạnh vào điểm đó.”

    “Nhưng mà…” tôi mở to mắt kinh ngạc. Ông ấy nghĩ tôi đang bịa chuyện sao?

    “Không, không,” ông vội vàng nói, giờ một tay lên để giữ tôi bình tĩnh. “Chỉ là… Ta chắc chắn đó là những gì mà họ nói với mọi người. ‘Chết ngay tại chỗ?” ông nói một cách ảm đạm, trong khi tôi vẫn dán mắt vào ông. “ ‘Hoàn toàn không đau đớn’? ‘Không biết cái gì đã va đập vào ông ấy’?”

    Thế rồi – đột nhiên – tôi đã thấy được, sự ẩn ý dần luồn lách vào bên trong tôi đầy ớn lạnh. Mẹ tôi cũng đã “chết ngay tại chỗ.” Cái chết của bà “hoàn toàn không đau đớn.” Những nhân viên xã hội đã day đi day lại một cách cương quyết đến mức tôi chưa từng tự hỏi tại sao họ lại biết chắc như vậy.

    “Mặc dù, phải nói rằng, thật khó để tưởng tượng là ông ấy lại ra đi theo cách đó,” Hobie nói, giữa không gian yên ắng một cách đột ngột. “Một tia chớp lóe lên. Bao phủ lên tất cả những con người đang không hiểu chuyện gì xảy ra. Đôi khi cháu sẽ cảm thấy thực tế không giống như những gì họ nói, phải không?”

    “Gì cơ ạ?” tôi hỏi khi ngước nhìn lên, mất phương hướng bởi những giả thiết vòng vo mà tôi vừa rơi vào.

    “Một lời chào tạm biệt ở cổng,” Hobie kể. Ông ấy dường như đang nói chuyện với bản thân. “Đó là điều ông ấy muốn. Một sự chia tay chớp nhoáng, cái chết đến cụt lủn như ba dòng thơ haiku – ông ấy sẽ không muốn ra đi mà chưa dừng lại để nói chuyện với ai đó trên đường đi. ‘một căn phòng thưởng trà giữa một rừng anh đào, trên con đường về với cát bụi.’”

    Ông có vẻ như đã quên mất tôi. Trong căn phòng mờ tối, một tia nắng duy nhất đã xiên vào giữa lớp rèm và chiếu qua căn phòng, nơi mà nó tiếp xúc với chiếc khay đặt những chiếc bình thon bằng thủy tinh và sáng rực lên, tạo nên những hình lăng trụ lấp lánh nhảy múa khắp nơi và cứ bay cao mãi trên bức tường, trông giống như loài trùng giày dưới kính hiển vi. Mặc dù có mùi củi cháy đâu đó, nhưng lò sưởi đã tắt lửa và đen thui, tấm vỉ lò thì kẹt chặt tro tàn, như thể đã lâu rồi lửa không được thắp lên.

    “Cô bé đó,” tôi rụt rè nói.

    Ánh mắt ông quay trở lại tôi.

    “Còn có một cô bé nữa.”

    Trong khoảnh khắc, dường như ông không hiểu gì. Rồi ông ngồi thẳng lên trên ghế còn mắt thì chớp lia lịa như thể mặt ông vừa bị té nước vào.

    “Sao ạ?” tôi nói – kinh ngạc. “Bạn ấy đâu? Bạn ấy ổn chứ?”

    “Không…” ông cọ cọ sống mũi… “không.”

    “Nhưng bạn ấy còn sống chứ?” Tôi gần như không tin nổi.

    Ông nhướng mày theo cái cách mà theo tôi tự cho nó nghĩa là có. “Con bé khá may mắn.” Nhưng giọng ông và thái độ của ông dường như đang nói điều ngược lại.

    “Bạn ấy ở đây chứ ạ?”

    “Ừm…”

    “Bạn ấy ở đâu? Cháu gặp bạn ấy được không?”

    Ông thở dài, với thứ gì đó nghe như là đau khổ. “Con bé buộc phải giữ im lặng và không được có khách tới thăm,” ông nói, bàn tay lần mò trong túi áo. “Con bé không còn là mình nữa – thật không tưởng tượng được là nó lại phản ứng kiểu này.”

    “Nhưng bạn ấy sẽ ổn chứ?”

    “Hãy hi vọng là vậy. Nhưng con bé vẫn chưa thoát ra khỏi khu rừng ấy. Đó là nói theo cách mập mờ mà bác sĩ vẫn thường xuyên giải thích.” Ông đã lôi ra bao xì gà từ túi áo choàng tắm. Với đôi tay run rẩy, ông đốt một điếu rồi quăng cả gói lên mặt chiếc bàn kiểu Nhật ở giữa chúng tôi.

    “Sao?” ông nói, tay đang xua khói ra khỏi mặt, khi ông bắt gặp tôi đang nhìn dán vào bao thuốc nhăn nhúm, của Pháp, như thứ mà mọi người vẫn hút trong những bộ phim cũ. “Đừng nói với ta là cháu cũng muốn một điếu đấy.”

    “Dạ không, cám ơn ạ,” tôi nói, sau một thoáng im lặng gò bó. Tôi khá chắc rằng ông ấy đang nói đùa mặc dù tôi không hoàn toàn cho là vậy.

    Ông đáp lại bằng cái chớp mắt nhìn sắc sảo xuyên qua lớp khói thuốc, phảng phất vị buồn, như thể ông vừa biết thêm vài điều quan trọng về tôi.

    “Là cháu, phải không?” ông chợt cất lời.

    “Xin lỗi?”

    “Cháu là đứa bé trai đó, đúng không? Người mà có mẹ thiệt mạng ở trong đó?”

    Tôi quá sửng sốt để có thể nói gì lúc này.

    “Có chuyện gì ạ,” tôi nói, ý hỏi làm sao ông biết, nhưng tôi không thể nói ra thành lời.

    Một cách lúng túng, ông dụi một bên mắt và bất chợt ngồi thẳng dậy, với vẻ ngượng ngịu của một người đàn ông vừa làm đổ nước ra bàn. “Xin lỗi cháu. Ta không… Ý ta là… chuyện đó không nên nói ra. Chúa ơi. Ta thật là…” ông lờ mờ ra dấu bằng tay như muốn nói ta mệt mỏi quá nên không nghĩ thông được.

    Không giữ ý cho lắm, tôi quay mặt đi – mắt nhòa đi bởi chồng chất những cảm xúc thật nôn nao và đột ngột. Kể từ cái chết của mẹ tôi, tôi hiếm khi rơi nước mắt và dĩ nhiên là càng không làm vậy trước mặt người lạ - không khóc ngay cả trong đám tang mẹ, nơi mà những người không biết bà nhiều lắm (cùng một, hai người đã biến cuộc đời bà thành địa ngục, như Mathilde chẳng hạn) cũng khóc lóc và xì mũi xung quanh tôi.

    Ông ấy thấy tôi đang buồn bã; ông định nói gì đó; ông lại xem xét lại ý nghĩ đó.

    “Cháu ăn gì chưa?” ông hỏi bất ngờ.

    Tôi ngạc nhiên không biết nói gì. Thức ăn là thứ cuối cùng xuất hiện trong tâm trí tôi.

    “Ah, ta nghĩ là chưa,” ông nói, rồi đứng dậy một cách kẽo kẹt. “Hãy đi ăn bừa thứ gì đó đã.”

    “Cháu không đói,” tôi đáp, hơi thô lỗ đến mức tôi đã thấy hối hận ngay sau đó. Từ cái chết của mẹ, dường như tất cả những gì mọi người nghĩ được là nhét thức ăn xuống cổ họng tôi.

    “Không, không, tất nhiên là không đói rồi.” Với bàn tay rảnh còn lại, ông phe phẩy quạt đám khói thuốc ra xa. “Nhưng cứ đi cùng ta đi, làm ơn. Hãy để ta thấy hài lòng một lần. Cháu không phải người ăn chay chứ?”

    “Không ạ!” tôi nói, thấy bị xúc phạm. “Tại sao ông lại nghĩ thế?”

    Ông cười – tiếng cười ngắn và khỏe. “Dễ mà! Nhiều người bạn của con bé ăn chay, con bé cũng thế.”

    “Oh,” tôi nói giọng chìm nghỉm, còn ông thì nhìn xuống tôi với sự thích thú tràn trề, chậm rãi.

    “Vậy thì, cũng để cháu biết luôn, ta cũng không ăn chay,” ông nói. “Ta sẽ ăn đủ loại đồ ăn khác người. thế nên ta nghĩ chúng ta sẽ xoay sở được thôi.”
     
  17. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Ông đẩy cửa mở, và tôi theo sau ông trên lối đi chật hẹp xếp đầy những tấm gương đã xỉn màu và những bức ảnh cũ. Mặc dù ông đi trước tôi khá nhanh nhưng tôi vẫn không kìm lòng được mà đưa mắt ngó nghiêng các thứ: ảnh những buổi tụ họp gia đình, những cột tường trắng, hiên nhà cùng vài cây cọ. Một sân quần vợt; một tấm thảm Ba Tư trải rộng trên bãi cỏ. Những người phục vụ nam trong bộ pyjama trắng, đứng thành hàng. Mắt tôi dừng lại ở hình ảnh ngài Blackwell – chiếc mũi nhọn và vẻ ngoài lịch thiệp, trang phục trắng sang trọng, tấm lưng đã hơi gù mặc dù ông còn đang trẻ. Ông đang đứng cạnh một bức tường chắn sóng ở một bãi đất trồng toàn cọ; ở bên cạnh ông – ngồi trên gờ tường, đặt bàn tay lên vai ông và ở vị trí cao hơn ông một cái đầu – là cô bé Pippa thời mẫu giáo. Vẫn nhỏ nhắn như thế, sự giống nhau hiện lên thật rõ rệt: màu da, màu mắt, đầu cô bé nghiêng sang cùng một bên với ông và mái tóc có cùng màu đỏ như thế.

    “Là bạn ấy, phải không ạ?” tôi hỏi – cùng lúc đó tôi cũng nhận ra đó không thể nào là cô bé. Tấm ảnh này, với màu sắc nhợt nhạt của nó và kiểu quần áo lỗi mốt, đã được chụp rất lâu trước khi tôi sinh ra.

    Hobie quay đầu và bước lại nhìn. “Không,” ông nói nhỏ nhẹ, tay đặt sau lưng. “Đó là Juliet, mẹ của Pippa.”

    “Vậy cô ấy đâu?”

    “Juliet…? Chết rồi. Bệnh ung thư. Vào tháng năm của sáu năm trước.” Và rồi, dường như nhận ra mình đã nói quá thẳng thừng: “Welty là anh trai Juliet. Anh một nửa dòng máu thì đúng hơn. Cùng cha – với hai người vợ khác nhau – cách nhau ba mươi năm. Nhưng ông ấy vẫn nuôi cô như con đẻ của mình.”

    Tôi bước tới để nhìn rõ hơn. Cô ấy đang dựa vào ông, cằm đặt âu yếm lên phần tay áo khoác của ông ấy.

    Hobie hắng giọng, “Cô ấy được sinh ra khi cha họ đã ở độ tuổi sáu mươi,” ông khẽ nói. “Quá già để còn thấy hứng thú với con trẻ, đặc biệt là khi ông ta cũng chẳng có điểm yếu nào để lũ trẻ có thể khai thác nó.”

    Một cánh cửa ở bên còn lại của lối đi đang để ngỏ; ông đẩy nó ra và đứng đó nhìn trân trân vào bóng tối. Đi bằng đầu ngón chân, tôi rón rén theo sau, nhưng thật đột ngột ông bỗng lùi lại và đóng chặt cánh cửa vào.

    “Là cậu ấy phải không?” Mặc dù bên trong quá tối để có thể nhìn rõ thứ gì nhưng tôi vẫn bắt gặp một ánh mắt không lấy gì làm thân thiện của một con thú, một sắc xanh lá cây đầy thắc thỏm sáng lên từ phía bên kia căn phòng.

    “Không phải bây giờ.” Giọng ông trầm xuống đến mức tôi gần như không nghe thấy gì.

    “Có cái gì ở bên trong cùng với bạn ấy vậy?” tôi thì thào – cứ chần chừ mãi ở phía lối vào, không muốn đi đâu cả. “Một con mèo ư?”

    “Là chó. Người y tá không đồng ý, nhưng con bé muốn có chú chó ở cùng và thực ra, ta không thể để con chó ở ngoài được – nó sẽ cào cửa và rên ư ử - Đây, hãy đi lối này.”

    Đi từng bước chậm rãi, bồn chồn, với cái dáng hơi đổ về phía trước của một người lớn tuổi, ông đẩy một cánh cửa đi vào một nhà bếp chật hẹp với trần nhà sáng như sao và một cái lò bếp đầy đặn: màu đỏ cà chua, với những đường nét mảnh khảnh như một chiếc tàu không gian thời những năm 1950. Sách thì chất thành đống trên sàn nhà – sách nấu ăn, từ điển, tiểu thuyết cũ, bách khoa toàn thư; giá sách chen chúc đồ cổ Trung Quốc và khoảng nửa tá mẫu vật. Gần cửa sổ, ngay bên cạnh ô thoát hiểm, một bức tượng thánh bằng gỗ đã nhạt màu đang giơ lòng bàn tay lên trong lễ ban phước; trên tấm ván nhựa đặt gần khay đựng tách trà bằng bạc có vẽ hình các con thú đang đi rời rạc hai con một để leo lên con thuyền tránh cơn đại hồng thủy của Noah trong truyền thuyết. Nhưng bồn rửa thì đầy những chồng bát đĩa, và trên mặt quầy và bậu cửa sổ thì đặt những chai đựng thuốc, cốc chén bẩn, một tệp các bức thư chưa mở nhiều đến mức đáng báo động, và những cái cây mua từ tiệm cây cảnh thì khô héo và nâu rũ trong chậu của chúng.

    Ông dẫn tôi ngồi xuống bàn, đẩy ra xa các tờ hóa đơn của Con Ed và mặt sau tờ tạp chí Antiques. “Trà,” ông nói, như thể chợt nhớ ra một thứ trong danh sách mua đồ tạp hóa.

    Khi ông đang tất bật ở chỗ bếp đun, tôi ngắm nhìn những vòng tròn ố cà phê trên khăn trải bàn. Một cách không thoải mái, tôi hơi ngả ra sau ghế và nhìn xung quanh.

    “Er…” tôi nói.

    “Gì thế?”

    “Cháu có thể gặp bạn ấy sau không?”

    “Có lẽ được,” ông nói, lưng vẫn quay về phía tôi. Tiếng gõ nhanh gọn vào chiếc bát từ Trung Quốc: tap tap tap. “Nếu nó còn thức. Con bé đã phải chịu nhiều đau đớn và phải có thuốc để giúp nó ngủ được.”

    “Chuyện gì đã xảy ra với bạn ấy vậy?”

    “Ừ thì…” Giọng ông vừa vội vàng vừa thờ ơ và tôi nhận ra nó ngay lập tức vì đó cũng chính là giọng điệu mà tôi dùng khi được hỏi về mẹ. “Nó có một vết nứt khá nghiêm trọng trên đầu, là nứt sọ, và cũng nói thực với cháu là con bé đã hôn mê được một thời gian rồi và chân trái của nó thì gãy thành nhiều mảnh đến mức con bé suýt đã phải từ bỏ nó. ‘Như đá cẩm thạch vụn trong chiếc tất,’” ông nói cùng với tiếng cười khẩy tuyệt vọng, “Đó là lời bác sĩ miêu tả khi xem bản chụp tia X. Mười hai chỗ gãy. Năm cuộc phẫu thuật. Vừa tuần trước xong,” ông nói, quay nửa người lại, “con bé đã được tháo đinh, và nó xin xỏ được về nhà nhiều đến mức mà họ phải cho phép. Miễn là bọn ta có một y tá làm việc bán thời gian ở đây.”

    “Cậu ấy đã đi được chưa ạ?”

    “Trời ơi, chưa,” ông đáp, đưa điếu xì gà lên rít một hơi; bằng cách nào đó ông đang nấu ăn với một tay và hút thuốc bằng tay còn lại, như những thuyền trưởng hay đầu bếp ở trang trại gỗ trong các bộ phim cũ. “Con bé còn khó ngồi dậy được quá nửa tiếng.”

    “Nhưng bạn ấy sẽ ổn thôi.”

    “Thì, đó cũng là thứ bọn ta hi vọng,” ông nói, theo cái giọng không tin tưởng cho lắm. “Cháu biết đấy,” ông nói, liếc lại phía tôi, “nếu cháu cũng ở trong đó thì thật khó tin là cháu vẫn ổn đấy.”

    “Ừm.” tôi chẳng bao giờ biết cách trả lời khi mọi người nhận xét vậy, như họ vẫn thường làm, về việc tôi hiện đang “ổn.”

    Hobie húng hắng ho, và dập điếu xì gà đi. “Ừm.” tôi có thể thấy, từ nét mặt của ông, rằng ông biết ông đã làm phiền tôi, và ông thấy rất tiếc. “Ta đoán rằng họ cũng đã nói chuyện với cháu hả? Bên nhân viên điều tra ấy?”

    Tôi cúi xuống nhìn tấm khăn trải bàn. “Vâng.” Càng nói ít về chuyện đó thì, bên trong tôi, càng dễ chịu.

    “Ta không biết cháu thế nào nhưng ta thấy họ rất có quy cách – rất hiểu biết. Chàng trai người Ai-len này – anh ta đã chúng kiến rất nhiều những vụ thế này, anh ta đã nói về bom hành lý ở Anh và ở sân bay Paris, ở vài quán cà phê ven đường ở Tangier, cháu biết đấy, hàng tá người thiệt mạng và người ở ngay cạnh quả bomb thì lại chẳng thương tật gì. Anh ta nói họ đã thấy được những ảnh hưởng khá lạ lùng, cháu biết đấy, đặc biệt ở những tòa nhà đã cũ. Những không gian đã bị giới hạn lại, mặt đất thì không bằng phẳng, vài chất liệu có thể nảy được – chúng càng làm mọi thứ khó dự đoán hơn. Như là âm nhạc vậy, ông nói. Sóng từ vụ nổ giống như sóng âm thanh – chúng có thể đi hướng nảy và cũng có thể chệch sang hướng khác. Đôi khi ta lại thấy kính cửa sổ vỡ từ cách xa vài dặm. Hay là…” ông dùng cổ tay đẩy lọn tóc ra khỏi mắt… “đôi khi, những thứ ở ngay sát quả bom, đó là thứ mà chàng trai đó gọi là hiệu ứng che chắn. Những thứ rất gần điểm kích nổ thì lại còn nguyên vẹn – chiếc tách trà ở gian hàng IRA không hề nứt vỡ hay như trường hợp của cháu. Thứ giết chết hầu hết mọi người là kính và mảnh vụn bay lạc, cháu biết đấy, thường là bay ra phạm vi rất xa. Một hòn đá hay một mảnh thủy tin ở tốc độ đó thì cũng gần như một viên đạn rồi.”

    Tôi di ngón tay theo họa tiết hoa văn trên khăn trải bàn. “Cháu…”

    “Xin lỗi cháu. Có lẽ đó không phải là thứ nên nói.”

    “Không, không,” tôi nói hấp tấp; thực ra tôi lại thấy nhẹ nhõm khi được nghe ai đó nói chuyện trực tiếp, và rất cụ thể, về việc mà mọi người đã thỏa thuận là cùng nhau né tránh. “Không phải vậy. Chỉ là…”

    “Sao?”

    “Cháu đang tự hỏi. Bạn ấy thoát ra bằng cách nào?”

    “Thì, cũng là nhờ may mắn thôi. Con bé bị mắc kẹt dưới rất nhiều thứ rác rưởi – những người lính cứu hỏa sẽ không tìm ra con bé nếu một trong những chú chó không sủa lên báo hiệu. Họ bắt đầu lần tìm đường vào trong, cẩu mọi thứ lên – ý ta là, cũng thật kinh ngạc là con bé vẫn tỉnh, vẫn nói chuyện với họ suốt, mặc dù bây giờ thì nó không còn nhớ gì cả. Điều kì diệu là bọn họ đã đưa con bé ra trước khi có lệnh phải sơ tán toàn bộ - cháu nói là cháu bị ngất đi trong bao lâu?”

    “Cháu không nhớ nữa.”

    “Vậy thì cháu cũng may mắn đấy. Nếu họ phải rời đi và để con bé ở đấy, vẫn mắc kẹt, thứ mà ta biết là đã xảy ra với một vài người… Ah, chúng ta ăn thôi,” ông nói trong khi ấm nước đang huýt lên.

    Đĩa thức ăn, khi ông đặt xuống trước mặt tôi, chẳng có gì đáng để nhìn – một thứ gì đó bông xốp màu vàng đặt trên bánh mỳ nướng. Nhưng có mùi rất hấp dẫn. Tôi thận trọng nếm nó. Nó tan chảy trong miệng tôi vị pho mát, với cà chua băm nhỏ và ớt cayenne và vài thứ mà tôi không xác định được, và nó rất ngon.

    “Xin lỗi, đây là món gì ạ?” tôi nói, cẩn thận ăn thêm một miếng nữa.

    Ông trông hơi ngượng ngùng. “Ừm, nó cũng chẳng có một cái tên cho ra hồn.”

    “Nó rất ngon,” tôi nhận xét, hơi ngạc nhiên vì thấy mình đói đến mức nào. Mẹ tôi cũng từng làm món pho mát-trên-bánh-mỳ-nướng khá giống thế này mà chúng tôi đôi khi vẫn ăn vào những tối chủ nhật của mùa đông.

    “Cháu thích pho mát à? Đáng ra ta phải hỏi trước.”

    Tôi gật đầu, đầy một miệng thức ăn đến mức không trả lời nổi. Mặc dù bà Barbour cũng thường dúi vào tay tôi nào kem, nào kẹo, nhưng theo một cách nào đó thì tôi vẫn có cảm giác mình chưa ăn được bữa tử tế nào kể từ khi mẹ qua đời – ít nhất là không được ăn những bữa ăn thông thường với chúng tôi, trứng chiên hoặc trứng bác hoặc bánh macaroni hoặc pho mát đóng hộp, trong khi tôi ngồi trên cái thang đặt trong nhà bếp và kể cho mẹ về một ngày của mình.

    Khi tôi đang ăn thì ông ngồi mép bàn đối diện, cằm đặt trong lòng bàn tay trắng trẻo. “Sở trường của cháu là gì?” ông hỏi hơi đột ngột. “Thể thao chăng?”

    “Gì cơ ạ?”

    “Cháu hứng thú với thứ gì? Trò chơi điện tử và tất cả những thứ đó?”

    “Thì… trò chơi điện tử. Như trò Age of Conquest? Trò Yakuza Freakout ấy ạ?”

    Ông ấy có vẻ cụt hứng. “Thế còn về trường học thì sao? Môn học ưa thích ấy?”

    “Cháu nghĩ là môn lịch sử. Cả môn tiếng Anh nữa,” tôi nói trong khi không thấy ông đáp lời. “Nhưng môn tiếng Anh sẽ cực kì nhàm chán trong vòng sáu tuần tới – bọn cháu sẽ ngừng học về tác phẩm văn và quay trở lại học sách ngữ pháp còn bây giờ thì bọn cháu đang phân tích câu.”

    “Văn học? Của Anh hay của Mỹ?”

    “Của Mỹ ạ. Bây giờ cháu đang học. Hoặc bọn cháu từng học. Cả lịch sử Mỹ nữa, vào năm nay. Mặc dù dạo gần đây thì nó cũng khá là buồn ngủ. Bọn cháu chỉ mới học xong phần Đại suy thoái nhưng mọi thứ sẽ lại trở nên tốt đẹp khi bọn cháu học tới Thế chiến II thôi.”

    Đây là đoạn hội thoại hay ho nhất mà tôi có trong một khoảng thời gian khá dài. Ông đã hỏi tôi đủ loại các câu hỏi rất thú vị, như là tôi đọc tác phẩm nào khi học môn văn và trường cấp hai thì khác gì so với trường cấp một; môn khó nhất của tôi là gì (tiếng Tây Ban Nha) và thời đại lịch sử ưa thích của tôi là gì (tôi cũng không chắc lắm, miễn không phải thời Eugene Debs và Lịch sử lực lượng lao động, thứ mà chúng tôi phải dành rất nhiều thời gian để học) và tôi muốn làm nghề gì khi tôi lớn lên? (không có đầu mối gì luôn) – những mẩu chuyện đời thường, nhưng vẫn thật mới mẻ khi được chia sẻ với một người trưởng thành, người mà thấy hứng thú với tôi chứ không phải với cái vận rủi của đời tôi, người mà không cố moi móc thông tin từ tôi hay cố lướt hết cái danh sách Điều cần nói với Những đứa trẻ gặp rắc rối.

    Chúng tôi vừa bàn luận xong chủ đề về các tác giả - từ T. H. White và Tolkien cho tới Edgar Allan Poe, một nhà văn ưa thích khác của tôi. “Cha cháu nói Poe chỉ thuộc loại tác giả hạng hai,” tôi kể. “Rằng ông ấy chỉ là Vincent Price với tác phẩm American Letters mà thôi. Nhưng cháu không nghĩ nói như vậy là công bằng.”

    “Không, đúng là không công bằng,” Hobie nói, một cách nghiêm túc, trong khi tự rót cho mình một tách trà. “Ngay cả khi chúng ta không thích ông ấy – thì ông ấy cũng là người tự mình sáng tạo nên những câu chuyện trinh thám. Và cả truyện viễn tưởng nữa. Tóm lại là ông ấy đã sáng tạo nên một phần đáng kể của thế kỷ hai mươi. Ý ta là – thực ra, ta cũng không quan tâm tới ông ấy lắm khi ta còn là một thằng bé, nhưng ngay cả nếu có không thích ông thì cũng không thể coi ông ấy là một tên lập dị được.”

    “Cha cháu đã làm vậy đấy. Ông ấy vẫn thường đi loanh quanh và nhại lại cuốn “Annabel Lee” với cái giọng ngớ ngẩn, cốt để làm cháu bực mình. Vì ông ấy biết là cháu thích cuốn đó.”

    “Vậy cha cháu chắc hẳn là một nhà văn.”

    “Không ạ.” Tôi chẳng biết ông lôi ý tưởng đó từ đâu ra. “Một diễn viên ạ. Hoặc ông ấy đã từng là một diễn viên.” Trước khi tôi ra đời thì ông có đóng một số vai khách mời trong các chương trình truyền hình, chẳng bao giờ được làm ngôi sao mà chỉ được đóng vai một anh chàng trăng hoa hư hỏng của ngôi sao đó hoặc một đối tác làm ăn bòn rút tiền quỹ và rồi sau đó bị kết liễu.

    “Liệu ta có cơ hội thấy anh ta nữa không nhỉ?”

    “Không đâu ông ạ. Giờ cha cháu làm việc trong văn phòng rồi. Hoặc ông ấy đã từng.”

    “Vậy thì bây giờ anh ta đang làm gì?” ông hỏi. Ông đã tháo chiếc nhẫn khỏi ngón út, và đôi lúc lại xoay nó giữa ngón cái và ngón trỏ của bàn tay kia, như muốn chắc chắn rằng nó vẫn luôn ở đó.

    “Ai mà biết được hả ông? Cha đã bỏ rơi hai mẹ con cháu.”

    Thật ngạc nhiên, ông cười. “Thế là thoát được cục nợ phải không?”

    “Thì…” tôi nhún vai… “Cháu không biết nữa. Đôi khi ông ấy cũng được mà. Cha và cháu sẽ xem vài chương trình thể thao hay hình sự và ông sẽ nói cho cháu biết làm cách nào mà họ làm được những hiệu ứng đặc biệt với máu me và bao nhiêu thứ khác. Nhưng, nó như là… cháu không rõ. Như là, thi thoảng ông sẽ say rượu khi tới đón cháu ở trường ấy?” Tôi chưa hề nói những chuyện này với bác sĩ tâm lý Dave hay với bà Swanson làm tư vấn viên hay với bất kỳ ai. “Cháu sợ không dám nói với mẹ nhưng rồi một trong số những phụ huynh khác đã nói chuyện với mẹ cháu. Và rồi…” đó là một câu chuyện dài, tôi cũng dần cảm thấy xấu hổ, tôi muốn rút ngắn nó đi… “ông bị gãy tay khi ở trong một quán bar, ông ấy đã đánh nhau với ai đó, đấy là quán bar ưa thích mà ông tới mỗi ngày nhưng mẹ và cháu thì không hề biết việc đó vì ông vẫn nói rằng ông phải làm việc muộn, và ông còn có cả đám mà người nhà không quen biết gì và họ vẫn gửi ông các tấm bưu ảnh mỗi khi họ đi du lịch tới đảo Virgin chẳng hạn, gửi tới địa chỉ nhà cháu, đó là cách mà cháu và mẹ phát hiện ra nơi mà ông vẫn hay lui tới. Mẹ cố gắng bắt ông phải tới Trại cai nghiện rượu nhưng ông không chịu. Có những lần mà những người bảo vệ tòa nhà phải tới đứng trước cửa căn hộ và làm thật ầm ĩ để cha cháu nghe được – để ông biết là có họ ở ngoài đó ấy? Để ông đừng có làm trò gì mất kiểm soát.”

    “Mất kiểm soát?”

    “Ông la hét rất nhiều và làm nhiều hành động khác. Hầu như là từ ông mà ra. Nhưng mà…” tôi ngại ngần nhận ra rằng tôi đã nói nhiều hơn mình nghĩ… “chủ yếu cha cháu là người đã làm ầm lên. Như là… ôi cháu chẳng biết nữa, như là khi ông phải ở nhà với cháu, khi mẹ cháu đi làm ấy? Ông ấy lúc nào cũng bực bội. Cháu không tài nào nói chuyện gì khi ông ấy đang xem tin tức hay thể thao, đó là luật rồi. Ý cháu là…” tôi dừng nói, trong lòng bỗng chùng xuống, cảm giác như đã tự đưa mình vào ngõ cụt. “Dù sao thì chuyện đó cũng xảy ra lâu rồi.”

    Ông ngồi thẳng lưng và nhìn vào tôi: một người đàn ông cao lớn, biết kiềm chế và rất ý tứ, mặc dù đôi mắt ông vẫn mang cái sắc xanh đượm buồn của một chàng trai trẻ.

    “Thế còn bây giờ thì sao?” ông hỏi. “Cháu có thích những người mình đang ở cùng không?”

    “Ừm…” tôi ngừng lại, miệng đầy thức ăn, không biết diễn tả bằng lời thế nào về nhà Barbour. “Cháu đoán là họ cũng tốt bụng.”

    “Vậy thì thật đáng mừng. Ý ta là, ta không thể nói là mình biết rõ Samantha Barbour, mặc dù ta đã từng làm vài việc cho gia đình bà ấy. Bà ta quả là có mắt nhìn tốt đấy.”

    Nghe thấy điều này, tôi liền ngừng ăn. “Ông biết nhà Barbour à?”

    “Không phải ông ấy. Là bà ấy. Mặc dù mẹ của ông Barbour cũng là một nhà sưu tầm kha khá – ta có nghe được là mọi thứ đều đi vào gia tài của người anh trai, do một vài mâu thuẫn trong gia đình. Welty sẽ có thể nói cho cháu rõ hơn về chuyện này. Không phải vì ông ấy là một kẻ buôn chuyện,” ông vội vàng bổ sung, “Welty rất kín đáo, dè dặt, nhưng mọi người thì luôn muốn tâm sự với ông ấy, là kiểu người đó đó, hiểu không? Người lạ cũng cởi mở với ông ấy – những khách hàng, những người mà ông không quen biết, ông ấy là loại người mà chúng ta luôn tin tưởng giao phó những câu chuyện buồn của mình.

    “Nhưng đúng thế.” Ông đan hai tay vào nhau. “Mọi kẻ buôn đồ nghệ thuật và buôn đồ cổ ở New York thì đều biết Samantha Barbour. Trước khi kết hôn thì bà ấy chính là một Van der Pleyn chính hiệu. Bà ta không hay mua đồ, mặc dù Welty cũng từng trông thấy bà ở các cuộc đấu giá, và chắc chắn là bà cũng sở hữu không ít những thứ đẹp đẽ đấy.”

    “Ai nói với ông là cháu đang ở cùng nhà Barbour vậy?”

    Ông chớp mắt rất nhanh. “Ở trên báo,” ông nói. “Cháu không thấy à?”

    “Báo?”

    “Tờ Times. Cháu không đọc à? Chưa thật hả?”

    “Có thứ gì trên báo về cháu à?”

    “Không, không,” ông nói khẩn trương. “Không phải về cháu. Là về những đứa trẻ đã mất người thân trong bảo tàng đó. Hầu hết bọn họ là khách du lịch. Có một đứa bé gái… một trẻ sơ sinh, thực sự rất… và cả con của một nhà ngoại giao tới từ Bắc Mỹ nữa…”

    “Trong báo họ nói gì về cháu vậy?

    Ông khẽ nhăn trán. “Ồ, thì là thảm kịch của đứa trẻ mồ côi… những nhân vật chuyên làm từ thiện cũng can thiệp… những thứ kiểu vậy. Cháu có thể tưởng tượng ra mà.”

    Tôi nhìn đăm đăm vào đĩa đồ ăn, cảm thấy thật lúng túng. Trẻ mồ côi? Từ thiện?

    “Đó là một bài báo khá được đấy. Ta ngộ ra là cháu đã bảo vệ một trong số mấy đứa con trai của bà ấy khỏi bọn côn đồ à?” ông nói, cúi thấp mái đầu muối tiêu để có thể nhìn vào mắt tôi. “Ở trường ấy? Cậu bé giỏi giang còn lại mà được cho nhảy lớp?”

    Tôi lắc lắc đầu. “Gì cơ ạ?”

    “Con trai của Samantha ấy? Người mà cháu đã che chắn khỏi một nhóm những đứa lớn tuổi hơn ở trường? Đỡ đòn cho thằng bé – những việc như vậy ấy?”

    Một lần nữa tôi lại lắc đầu – hoàn toàn rối trí.

    Ông cười lớn. “Thật là khiêm tốn quá đấy! Cháu không cần phải ngượng ngùng đến thế đâu.”

    “Nhưng… mọi chuyện không phải như vậy,” tôi nói, thật kinh ngạc. “Bọn cháu đều bị tẩy chay và bị đập cho nhừ tử. Mỗi ngày ấy.”

    “Câu chuyện trong báo cũng nói vậy. Và nó làm nổi bật lên khía cạnh là cháu đã đấu tranh cho chú bé đó. Chuyện cái chai vỡ ấy?” ông nói, khi tôi không đáp lại lời nào. “Ai đó đã muốn đâm cậu con trai của Samantha Barbour bằng một cái chai thủy tinh vỡ, và cháu…”

    “Ôi, chuyện đó,” tôi nói, ngượng ngùng. “Chuyện đó có gì đâu.”

    “Cháu cũng bị thương mà. Khi cháu cố giúp cậu bé ấy.”

    “Mọi chuyện không xảy ra như vậy! Cavanaugh đã nhảy chồm lên cả hai bọn cháu! Đã có một mảnh thủy tinh nằm trên vỉa hè.”

    Một lần nữa ông lại cười – giọng cười của một người đàn ông cao lớn, thật trầm và thô ráp, trái ngược với giọng nói được gọt giũa cẩn thận của ông. “Cho dù nó xảy ra thế nào đi nữa,” ông nói, “thì cháu chắc hẳn đã thay đổi số phận mình trong một gia đình khá thú vị đấy.” Ông đứng dậy, tiến đến cái tủ kính, nơi mà ông lôi ra một chai whiskey và rót một lượng bằng vài đốt ngón tay vào một chiếc ly thủy tinh không-sạch-lắm.

    “Samantha Barbour có vẻ không phải là người ấm áp nhất hay có trái tim rộng mở nhất – ít nhất đó cũng là cảm nhận bước đầu,” ông nói. “Nhưng bà ta dường như đã làm được rất nhiều điều tốt đẹp trên thế giới thông qua các tổ chức và các cuộc gây quỹ, phải không?”

    Tôi vẫn giữ im lặng trong khi ông đưa cái chai vào lại trong tủ kính. Phía trên đầu, nhìn qua cửa sổ áp mái, ánh sáng mang một màu xám đục; một cơn mưa bụi đang đập nhè nhẹ lên cửa kính.

    “Ông có định mở lại cửa hàng này không?” tôi hỏi.

    “Thì…” ông thở dài. “Welty đã lo liệu gần như mọi thứ - về khách hàng, về công việc buôn bán. Còn ta – ta chỉ là thợ chế tác thôi, không phải một thương nhân. Người buôn bán, người sửa chữa. Ta hầu như là không đặt chân lên trên đó – ta lúc nào cũng ở dưới này, đánh bóng bằng cát và bằng nước bóng. Giờ ông ấy đi rồi – mọi thứ vẫn còn mới mẻ quá. Mọi người cứ gọi tới để nói về những thứ ông ấy đã bán, những thứ vẫn đang được chuyển tới mà ta không hề biết là ông ấy có mua, ta không biết giấy tờ để ở đâu, không biết nó nói về ai… có hàng triệu thứ mà ta cần hỏi ông ấy, ta sẽ đánh đổi tất cả chỉ để được nói chuyện với ông ấy trong vòng năm phút. Đặc biệt là… ừm, đặc biệt khi nghĩ tới Pippa. Con bé cần được chăm sóc và…”

    “Đúng vậy,” tôi nói, chợt nhận ra mình thật không ra đâu vào đâu. Chúng tôi lại đang tiến gần tới việc nói về lễ tang của mẹ tôi một cách vụng về lóng ngóng, những sự im lặng kéo dài, những nụ cười gượng gạo, nơi mà từ ngữ không thể giúp được gì.

    “Ông ấy là người rất đáng mến. Không phải là nhiều người quý ông ấy. Thật dịu dàng, hòa nhã. Mọi người thì luôn thấy thương cho cái lưng của ông, mặc dù ta chưa từng được gặp ai lại có cái bản năng luôn cảm thấy yêu đời như thế, và tất nhiên các khách hàng rất quý trọng ông… một ông cởi mở, thân thiện, luôn luôn là… ‘thế giới không tự đến với tôi,” như ông vẫn nói, “nên tôi phải đến với nó’…”
     
  18. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    *Vô cùng xin lỗi những bạn theo dõi truyện này vì tớ bận chút việc nhà nên bỏ bê quá :(. Mọi người đọc đi ạ*


    Chợt chiếc iPhone của Andy rung chuông: có tin nhắn tới.

    Hobie – đang đưa chiếc ly lên miệng – bắt đầu nói một cách mạnh bạo. “Cái gì đấy?”

    “Chờ cháu một chút,” tôi nói, thò tay vào túi. Tin nhắn từ Phil Lefkow, một trong số mấy đứa trẻ trong lớp tiếng Nhật của Andy: Chào Theo, tớ Andy đây, cậu ổn chứ? Một cách vội vàng, tôi tắt điện thoại và nhồi nó lại vào túi.

    “Xin lỗi,” tôi nói. “Ông đang nói gì thế ạ?”

    “Ta quên mất rồi.” Ông nhìn vào khoảng không trong một lúc, rồi lắc đầu. “Ta chưa từng nghĩ là mình có thể gặp lại vật này,” ông nói, nhìn xuống chiếc nhẫn. “Thật đúng kiểu của ông ấy khi bảo cháu mang nó tới đây… để đặt nó vào tay ta. Ta… ta không có ý gì đâu nhưng thực sự ta đã nghĩ chắc rằng có ai đó đã lén lấy nó ở nhà xác rồi…”

    Lại lần nữa chiếc điện thoại réo lên tiếng chuông chói tai, đầy bực bội của nó. “Trời ơi, cháu xin lỗi!” tôi nói, lần mò tìm nó. Tin nhắn của Andy là:

    Tớ chỉ muốn chắc rằng cậu không bị giết thôi!!!!

    “Xin lỗi ông,” tôi nói – tay nhấn giữ nút, chỉ để chắc chắn thôi – “lần này thì nó tắt thật rồi.”

    Nhưng ông chỉ mỉm cười, và nhìn vào ly rượu. Cơn mưa vẫn vỗ nhẹ và nhỏ giọt trên cửa sổ áp mái, tạo nên những vệt nước mưa chảy in trên tường. Quá ngại ngùng để nói được điều gì đó, tôi chờ đợi ông gợi dậy câu chuyện một lần nữa – và rồi khi ông không làm vậy thì chúng tôi cùng ngồi đó tĩnh lặng, trong khi tôi nhấp chút trà mát lạnh của mình (loại Lapsang Souchong, mùi vị khét của khói thật khác thường) và tôi cảm nhận được sự khác biệt của cuộc đời mình, và cả của nơi tôi đang ở nữa.

    Tôi đẩy đĩa đồ ăn sang bên. “Cám ơn ông,” tôi nói đầy tính nghĩa vụ, mắt đảo quanh căn phòng, “đồ ăn thật ngon” – nói để mẹ tôi ghi nhận thái độ của tôi (như tôi đã quen làm), trong trường hợp lỡ như bà đang lắng nghe.

    “Ôi, khách sáo quá!” ông nói – cười với tôi nhưng không chê trách gì, mà vô cùng thân thiện. “Cháu thích nó không?”

    “Gì cơ ạ?”

    “Bộ Con Thuyền Của NoahVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link mà ta bày ấy.” Ông hướng đầu ra phía giá đồ. “Cháu vừa liếc nhìn ra nó, ta nghĩ vậy.” Những con thú bằng gỗ đã bạc màu (voi, hổ, bò đực, ngựa vằn, tất cả chỉ lớn cỡ những con chuột nhỏ) đang kiên nhẫn đứng thành hàng, chờ được lên tàu.

    “Là của cậu ấy ạ?” tôi hỏi, sau một hồi im lặng thích thú; vì những con thú được sắp xếp rất đáng yêu (những con mèo lớn thì tảng lờ nhau; con công trống thì bỏ con mái của nó để tự trầm trồ cái vẻ đẹp của mình được phản chiếu trên chiếc máy nướng bánh mỳ) tôi có thể tượng tượng ra hình ảnh cô bé ấy dành hàng giờ để sắp xếp chúng và cố gắng đặt chúng vào vị trí chính xác.

    “Không…” bàn tay ông chạm nhau trên mặt bàn… “đó là một trong những món đồ cổ đầu tiên mà ta từng mua, ba mươi năm trước. Trong một dịp giảm giá mặt hàng truyền thống của Mỹ. Ta không phải một gã chuyên gia về đồ dân gian, chưa từng thì đúng hơn – bộ này, không thuộc hàng chất lượng cao nhất, không hợp với bất cứ thứ gì mà ta có, nhưng chẳng phải những thứ lạc loài, những thứ có vẻ như không có tác dụng, thì vô tình lại là những thứ thân thuộc nhất hay sao?”

    Tôi đẩy ghế lùi lại, không thể khiến cho bàn chân ở yên một chỗ nữa. “Cháu có thể gặp bạn ấy bây giờ không?” tôi hỏi.

    “Nếu con bé đang thức…” ông cắn môi… “ừm, mà ta cũng chẳng thấy hại gì. Nhưng chỉ một phút thôi đấy, hãy nhớ điều đó.” Khi ông đứng dậy, cái chiều cao khổng lồ cùng bờ vai rộng của ông lại khiến tôi hoàn toàn kinh ngạc thêm lần nữa. “Mặc dù vậy ta vẫn phải nhắc cháu là tinh thần con bé vẫn hơi rối loạn. À…” ông quay ra phía cửa… “và tốt nhất là đừng có nhắc chuyện Welty nếu cháu có thể.”

    “Cậu ấy không biết chuyện ư?”

    “À có chứ…” giọng ông gấp gáp… “con bé biết, nhưng thi thoảng khi nghe lại chuyện đó, con bé lại vô cùng suy sụp. Nó lại hỏi điều đó xảy ra khi nào và tại sao không ai nói cho nó biết.”


    ii.

    KHI ÔNG MỞ cánh cửa đó, bên trong là bóng tối bao trùm, và mắt tôi phải mất một lúc mới quen được với cái không gian đen kịt phảng phất hương thơm nước hoa, với một mùi dịu nhẹ của thuốc và sự ốm yếu bệnh tật. Phía trên đầu giường treo một tấm áp phích đóng khung của phim Phù thủy xứ Oz. Cây nến thơm đang chảy thành giọt trong một ly thủy tinh màu đỏ, giữa những thứ đồ nữ trang giả kim và những chiếc vòng ngọc trai, bản nhạc, hoa làm từ giấy ăn và những tấm thiệp valentine đã cũ – cùng với khoảng hàng trăm những tấm thiệp chúc-mau-hồi-phục được gói trong những sợi ruy băng, và cả một đống bóng bay màu bạc đang lơ lửng trên trần nhà như ám quẻ, những sợi dây màu bạc từ bóng bay thì thòng xuống như là tia sứa.

    “Có ai đến gặp cháu này, Pip,” Hobie nói giọng sang sảng và mừng rỡ.

    Tôi thấy tấm chăn động đậy. Rồi cái cùi chỏ khẽ giơ cao. “Umn?” một giọng ngái ngủ cất lên.

    “Trong này tối quá, cháu yêu. Để bác mở rèm ra nhé?”

    “Không, bác đừng mở, ánh sáng làm cháu nhức mắt lắm.”

    Cô bé nhỏ người hơn những gì tôi nhớ được, và khuôn mặt cô bé – một dáng hình mờ mờ trong bóng tối – thì rất trắng. Đầu đã bị cạo đi, chỉ còn một nhúm tóc ở phía trước. Khi tôi tới gần hơn một cách e dè, tôi chợt thấy ánh phản chiếu từ mảnh kim loại gắn trên thái dương của cậu ấy – tôi đã nghĩ là cái kẹp tóc, trước khi tôi nhận ra là có thêm một miếng kẹp y tế bằng thép có nối dây được đính phía trên một bên tai.

    “Cháu đã nghe thấy bác ở hành lang,” cô bé nói, giọng hơi bực bội, nhìn từ tôi cho tới Hobie.

    “Cháu nghe thấy gì hả, bồ câu nhỏ?” Hobie hỏi lại.

    “Thấy tiếng bác nói chuyện. Cosmo cũng nghe thấy nữa.”

    Lúc đầu tôi chưa để ý chú chó, và rồi sau đó tôi cũng thấy – một chú chó săn lông xám đang cuộn mình cạnh cô bé, giữa đống gối và thú nhồi bông. Khi chú chó ngẩng đầu lên, qua bản mặt lấm tấm hoa râm và đôi mắt mờ đục, tôi có thể thấy rằng chú ta đã rất già rồi.

    “Ta cứ tưởng lúc đó cháu đang ngủ, bồ câu nhỏ ạ,” Hobie nói trong khi vươn tay ra gãi gãi cằm chú chó.

    “Bác lúc nào cũng nói thế, nhưng cháu luôn tỉnh mà. Xin chào,” cô bé nói, ngước lên nhìn tôi.

    “Chào cậu.”

    “Cậu là ai vậy?”

    “Tớ là Theo.”

    “Bản nhạc ưa thích của cậu là gì?”

    “Tớ không biết nữa,” tôi đáp, và rồi, để trông cho có vẻ đỡ ngu ngốc: “Beethoven.”

    “Tuyệt đấy. Trông cậu cũng giống một người thích nhạc Beethoven.”

    “Tớ á?” tôi nói, cảm thấy choáng ngợp.

    “Tớ nói là nói theo ý tích cực ấy. Tớ thì không thể nghe nhạc. Vì đầu của tớ như vậy. Nó cực ký khó chịu. Đừng,” cô bé nói với Hobie, người đang dọn đi những cuốn sách, bông gạc và hộp giấy Kleenex khỏi chiếc ghế gần đó để tôi có thể ngồi xuống, “ông cứ để cậu ấy ngồi đây. Cậu có thể ngồi đây này,” cô bé nói với tôi, nhẹ nhàng dịch chuyển để có thêm chỗ.

    Sau khi quay lại liếc nhìn Hobie để chắc rằng làm vậy không sao, tôi bèn rón rén ngồi xuống, chỉ ghé vào một bên mông, thật cẩn thận để không đánh động chú chó khi chú ta đang ngẩng lên và nhìn tôi trừng trừng.

    “Đừng lo, cậu ấy không cắn đâu. Ừm, mà đôi khi cũng có đấy.” Cô bé nhìn tôi bằng đôi mắt ngái ngủ. “Tớ có biết cậu đấy.”

    “Cậu vẫn nhớ tớ à?”

    “Bọn mình là bạn đúng không?”

    “Ừ,” tôi nói mà không kịp nghĩ, và rồi lại quay qua liếc Hobie, thật xấu hổ là tôi đã nói dối.

    “Tớ quên mất tên cậu rồi, xin lỗi nhé. Nhưng tớ vẫn nhớ khuôn mặt cậu đấy.” Rồi – vỗ nhẽ lên đầu chú chó – cô bé nói: “Tớ còn không nhớ phòng mình ở đâu khi tớ về nhà. Tớ vẫn nhớ cái giường của mình, và tất cả các đồ vật, nhưng căn phòng thì khác quá.”

    Giờ khi mắt tôi đã quen với bóng tối, tôi thấy có một chiếc xe lăn ở góc phòng, vài chai thuốc trên chiếc bàn gần giường ngủ.

    “Cậu thích bản nào của Beethoven?”

    “Ừm…” tôi đang nhìn vào cánh tay cô bé, rồi dừng mắt trên tấm chăn phủ, phần da mềm mại ở mặt trong của cánh tay với miếng băng cứu thương ở chỗ cùi chỏ

    Cậu ấy đang ngồi thẳng dậy trên giường – nhìn qua tôi, tới Hobie, người đang đứng ở lối vào có ánh sáng và hắt bóng xuống nền nhà. “Cháu không được phép nói nhiều đúng không?” cậu hỏi.

    “Không phải đâu, bồ câu nhỏ.”

    “Tớ không nghĩ là mình bị quá mệt. Nhưng tớ cũng không chắc lắm. Cậu có thấy mệt suốt cả ngày không?” cô bé hỏi tôi.

    “Thỉnh thoảng.” Sau sự ra đi của mẹ, tôi dần dần có xu hướng ngủ trên lớp và nằm vật ra trên giường của Andy sau khi đi học về. “Hồi xưa thì tớ chưa từng như vậy.”

    “Tớ cũng thế. Giờ thì lúc nào tớ cũng thấy buồn ngủ. Tớ tự hỏi là tại sao nhỉ? Tớ nghĩ là do mọi việc quá nhàm chán.”

    Hobie – tôi để ý khi quay lại nhìn phía cửa sáng rực – đã tạm lánh đi một lúc. Mặc dù không giống tôi bình thường chút nào, nhưng vì một sự thôi thúc nào đó mà tôi đã rất bồn chồn muốn được vươn tay ra và nắm lấy bàn tay cậu ấy, và giờ chúng tôi chỉ còn một mình, nên tôi đã làm việc đó.

    “Cậu không phiền đúng không?” tôi hỏi cậu. Mọi thứ dường như trôi qua thật chậm giống như là tôi đang di chuyển sâu dưới nước vậy. Cảm giác thật lạ khi nắm tay ai đó – tay một đứa con gái – và đồng thời cũng là chuyện bình thường một cách đáng ngạc nhiên. Tôi chưa từng làm những chuyện kiểu này bao giờ.

    “Không hề. Tớ còn nghĩ là nó khá hay.” Rồi, sau một khoảnh khắc im lặng chóng vánh – mà tôi có thể nghe thấy tiếng ngáy của chú chó săn – cô bé nói: “Cậu không phiền nếu tớ nhắm mắt lại vài giây thôi, đúng không?”

    “Không đâu,” tôi nói, ngón tay cái trượt theo những đốt ngón tay của cô bé, cảm nhận từng khớp xương.

    “Tớ biết như vậy là bất lịch sự, nhưng chỉ là ngay lúc này tớ phải làm vậy.”

    Tôi nhìn xuống phần mi mắt thâm quầng của cậu ấy, đôi môi nứt nẻ, vẻ xanh xao cùng những vết sứt sẹo, cả cái miếng kim loại xấu xí bên trên tai nữa. Phép kết hợp kì dị của những thứ mà tôi mong đợi ở cậu ấy, và những thứ mà không nên có ở cậu ấy, khiến tôi vừa thấy nhẹ đầu mà lại vừa bối rối.

    Cảm thấy thật tội lỗi, tôi quay lại nhìn, và nhận ra Hobie đang đứng ở cửa rồi. Sau khi nhón chân đi ra phía hành lang, tôi nhẹ nhàng đóng chặt cánh cửa lại sau lưng, thầm thở phào rằng hành lang cũng thật tối.

    Chúng tôi cùng nhau đi về phòng khách. “Con bé phản ứng thế nào về cháu?” ông hỏi, thấp giọng đến mức tôi gần như không nghe rõ.

    Tôi phải trả lời thế nào đây? “Cháu nghĩ là cũng ổn.”

    “Con bé không còn là mình nữa.” Ông dừng lại, buồn bã, với bàn tay thọc sâu vào trong túi áo choàng. “Nghĩa là… con bé vẫn là nó, và cũng không phải là nó. Con bé không nhận ra được rất nhiều người từng thân thiết với nó và nói chuyện với họ một cách khách sáo, nhưng rồi có những lúc con bé lại rất cởi mở với người lạ, tán gẫu cùng họ và tỏ ra quen thuộc, những người mà con bé chưa từng gặp, nó lại coi như bạn cũ. Ta được nghe rằng việc như vậy là khá phổ biến.”

    “Mà tại sao cậu ấy lại không được phép nghe nhạc vậy ông?”

    Ông nhướng mày. “Ồ, con bé đôi khi vẫn nghe đấy. Nhưng đôi khi, đặc biệt là lúc muộn, mấy bản nhạc thường làm nó thấy buồn – con bé nghĩ nó phải tập nhạc, rằng con bé phải chuẩn bị một bản trình diễn trước khi tới trường, con bé cứ quay cuồng. Thật là gian nan. Nếu muốn chơi nhạc trong một chừng mực nghiệp dư thì một ngày nào đó con bé có thể làm được, hoặc đó là những gì họ nói với ta…”

    Bỗng đột nhiên, chuông cửa réo vang, làm cả hai chúng tôi giật thót.

    “À,” Hobie nói – trông ông có vẻ mệt mỏi, nhìn vào thứ mà theo tôi là một chiếc đồng hồ đeo tay lâu năm tuyệt đẹp, “là ý tá của con bé đấy.”

    Chúng tôi nhìn nhau. Chúng tôi vẫn chưa trò chuyện xong; vẫn còn quá nhiều thứ để nói.

    Chuông lại reo lên lần nữa. Cuối lối đi, con chó đang sủa ầm lên. “Cô ấy đến sớm,” Hobie nói – vội vã lướt đi, trông hơi thất vọng.

    “Liệu cháu có thể quay lại đây nữa không? Để gặp cậu ấy?”

    Ông ngừng lại. Ông có vẻ hơi hoảng khi tôi thậm chí còn cất lời hỏi. “Nhưng tất nhiên là cháu có thể quay lại rồi,” ông nói. “Làm ơn hãy quay lại đây…”

    Lại là tiếng chuông cửa.

    “Bất cứ khi nào cháu muốn,” Hobie nói. “Làm ơn đấy. Bọn ta luôn thấy vui khi được gặp cháu.”


    iii.

    “VẬY CHUYỆN GÌ XẢY RA DƯỚI đó thế?” Andy hỏi khi chúng tôi mặc quần áo để đi ăn tối. “Nó có quái dị không?” Platt đã dời đi để bắt chuyến tàu trở lại trường; bà Barbour đang ăn bữa tối cùng ban quản trị một quỹ từ thiện; và ông Barbour thì sẽ đưa bọn chúng tôi ra ngoài ăn tối ở tiệm Yacht Club (nơi mà chúng tôi chỉ đến vào những tối mà bà Barbour phải làm việc khác).

    “Ông ấy biết mẹ cậu, người đàn ông đó đó.”

    Andy, đang thắt nơ trên cổ, liền làm bộ mặt kiểu: ai mà chẳng biết mẹ cậu ấy.

    “Cũng hơi quái dị,” tôi nói. “Nhưng thật may là tớ đã đi đến đó. Này,” tôi nói, thọc tay vào túi áo khoác, “cảm ơn vì cái điện thoại.”

    Andy kiểm tra tin nhắn, rồi tắt máy và cho vào trong túi. Chợt cậu ngừng động tác, tay vẫn để trong túi, cậu ngước mắt lên mà không nhìn vào tôi.

    “Tớ biết mọi thứ thật tồi tệ,” cậu nói một cách bất ngờ. “Tớ thấy rất tiếc khi mọi chuyện lại khốn nạn như thế.”

    Giọng cậu – nhẹt ra như giọng robot trên máy trả lời tự động – khiến tôi bị xao nhãng một lúc mà không nhận ra là cậu đang nói về cái gì.

    “Cô ấy tốt khủng khiếp,” cậu nói, vẫn không nhìn tôi. “Ý tớ là…”

    “Ừ, ừm,” tôi lắp bắp, không buồn tiếp tục cuộc hội thoại này.

    “Ý tớ là, tớ thấy nhớ mẹ cậu lắm,” Andy nói, nhìn vào mắt tôi với một cái nhìn nửa hoảng loạn. “Tớ chưa từng quen ai mà người đó lại chết cả. Thì, chỉ có ông ngoại Van der Pleyn của tớ. Chứ chưa từng có ai nằm trong số tớ thích cả.”

    Tôi không nói gì. Mẹ luôn đối đãi vô cùng tử tế với Andy, luôn kiên nhẫn lắng nghe Andy dông dài về cái trạm dự báo thời tiết ở nhà cậu ấy, trêu cậu ấy về số điểm khi chơi trò Galactic Battlegrounds cho tới khi cậu ấy đỏ mặt lên vì sung sướng. Trẻ trung, vui vẻ, hài hước, nồng nhiệt, mẹ tôi có mọi thứ mà mẹ cậu ấy thiếu: một người mẹ thường chơi ném đĩa với chúng tôi ở công viên và cùng bàn luận với cúng tôi về những bộ phim về zombie, sẽ cho chúng tôi nằm trên giường của bà vào các sáng thứ bảy để cùng ăn bánh may mắn và xem hoạt hình; và đôi lúc nó cũng làm tôi bực mình, một chút thôi, khi thấy cậu ta thật ngốc nghếch và bấn loạn lên mỗi khi thấy mẹ tôi, cứ đi theo sau bà để ba hoa về cái Level 4 của bất cứ trò nào mà cậu ấy đang chơi, hay không thể rời mắt khỏi bà mỗi khi bà cúi xuống mở tủ lạnh để lấy thứ gì đó.

    “Cô ấy là tuyệt nhất,” Andy nói bằng cái giọng xa xăm của cậu ấy. “Cậu còn nhớ lúc cô ấy đưa bọn mình đi xe buýt tới buổi họp fan phim kinh dị ở New Jersey không? Và cái kẻ ghê rợn tên Rip đó cứ lẵng nhẵng đi theo chúng ta để cố thuyết phục cô ấy vào đóng bộ phim ma cà rồng của hắn ấy?”

    Cậu ấy có ý tốt, tôi biết vậy. Nhưng nó gần như là không chịu nổi khi phải nói về bất cứ chuyện gì có mẹ tôi trong đó, hoặc chuyện của giai đoạn Trước, và tôi lặng lẽ quay đầu đi.

    “Tớ còn không nghĩ hắn xứng đáng là một nhân vật kinh dị,” Andy nói bằng giọng nhàn nhạt, khó chịu. “Tớ nghĩ hắn ta theo đạo thờ loài vật thì đúng hơn. Tất cả những cái mô hình nhà tù với những cô gái bị trói trên những chiếc bàn của phòng thí nghiệm, chúng rõ ràng đều là thể loại khiêu dâm còn gì. Cậu có nhớ lúc hắn năn nỉ mẹ cậu thử đeo mấy cái răng nanh ma cà rồng không?”

    “Có. Đó là lúc bà đã đi nói chuyện với bảo vệ.”

    “Cả quần da nữa. Tất cả chỗ đinh cắm trên đấy nữa. Ý tớ là, ai mà biết được, có khi hắn ta đang thực sự làm một bộ phim ma cà rồng nhưng hắn cũng đích thực là một tên biến thái kinh tởm, cậu có để ý không? Như là, cái nhếch mép lén lút ấy? Và cái cách mà hắn ta cứ liên tục cố nhìn xuống khe áo của cô ấy?”

    Tôi giơ ngón giữa lên với cậu ta. “Nào, đi thôi,” tôi nói. “Tớ đói rồi.”

    “Ồ, thế hả?” Tôi đã sụt mất chín hay mười puonds gì đó kể từ khi mẹ tôi qua đời – đủ số cân nặng để bà Swanson (một cách ngại ngần) phải cân tôi trong văn phòng của bà, bằng cái cân mà bà dùng cho những đứa con gái bị rối loạn ăn uống.

    “Sao, thế cậu không đói hả?”

    “Có chứ, nhưng tớ cứ nghĩ là cậu đang theo dõi cân nặng của mình. Để còn vừa cái váy dạ hội cuối năm nữa.”

    “Khốn kiếp,” tôi nói tự nhiên trong khi mở cửa – và đối mặt thẳng với ông Barbour, người mà đã đứng chờ sẵn bên ngoài phòng, không biết là đã nghe lén hay đang chuẩn bị gõ cửa nữa.

    Thật mất mặt, tôi bắt đầu trơ như tượng gỗ - chửi thề là trái với luật lệ nhà Barbour một cách nghiêm trọng – nhưng ông Barbour chẳng mảy may xáo trộn.

    “Ừm, Theo,” ông nói giọng khô khốc, ánh mắt liếc qua đầu tôi, “ta rất vui khi biết rằng cháu đã thấy khỏe hơn. Giờ thì đi theo ta, cùng ngồi vào bàn ăn nào.”


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Theo Kinh Thánh, con thuyền là của Chúa gửi tới cứu Noah cùng muông thú trên mặt đất khỏi cơn đại hồng thủy
     
  19. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    v.

    “ỪM, CHÀO CHÁU, CHÀO MỪNG CHÁU ĐÃ TỚI,” bác sĩ trị liệu Dave nói khi chú ấy đóng cửa và ngồi vào chỗ đối diện tôi trong văn phòng chú ấy: thảm kilim, trên giá đầy những cuốn sách tham khảo (Thuốc và Xã hội; Tâm lý trẻ em: Một cách tiếp cận khác); cả tấm rèm màu be sẽ mở ra với một tiếng huýt nhỏ khi bạn ấn vào một cái nút.

    Tôi cười gượng gạo, mắt đảo khắp phòng, một cây cọ trong chậu nhỏ, tượng Phật bằng đồng, tôi nhìn khắp mọi nơi ngoại trừ chú ấy.

    “Vậy.” Tiếng ồn yếu ớt của xe cộ vọng lên từ Đại lộ Một khiến sự im lặng giữa hai chúng tôi càng thêm mênh mông, như từ ngoài vũ trụ xa xôi. “Mọi chuyện hôm nay thế nào?”

    “Ừm…” tôi rất kinh sợ mỗi buổi hẹn gặp với chú Dave, một màn tra tấn hai tuần một lần, không khác lắm so với một cuộc giải phẫu răng; tôi cũng thấy thật tội lỗi khi không thể làm thân với chú ấy trong khi chú thì luôn nỗ lực, luôn hỏi tôi thích phim gì, sách gì, thâu đĩa CD cho tôi, cắt ra những bài báo từ tờ Game Pro mà chú nghĩ là tôi sẽ thích – đôi khi chú thậm chí còn đưa tôi tới tiệm EJ’s Luncheonette để ăn hamburger – thế nhưng bất cứ khi nào chú bắt đầu hỏi là tôi lại đông cứng toàn thân, như thể tôi vừa bị đẩy lên sân khấu để diễn một vở kịch mà tôi không biết dòng thoại nào.

    “Hôm nay cháu có vẻ hơi xao nhãng đấy.”

    “Um…” Nó vẫn chưa ra khỏi đầu tôi rằng một số lượng sách trên giá của chú Dave có tựa đề với chữ giới tính trong đó: Nhận biết giới tính ở tuổi thiếu niên, Giới tính và Triết học, Các dạng hiểu sai về giới tính và – loại ưa thích của tôi: Đi qua Bóng tối: Hiểu về sự Hấp dẫn Giới tính. “Cháu đoán là cháu ổn.”

    “Cháu đoán?”

    “Không, cháu ổn. Mọi chuyện rất suôn sẻ.”

    “Thế à?” Dave tựa lưng vào ghế, đôi giày Converse vẫn gõ đều. “Thế thì tốt.” Rồi: “Thế tại sao cháu không cho chú cập nhật một chút về tình hình hiện nay nhỉ?”

    “Oh…” tôi gãi gãi phần lông mày, quay mặt ra chỗ khác… “môn tiếng Tây Ban Nha thì vẫn khá là khó nhằn… cháu còn có một bài khảo sát nữa, có lẽ cháu sẽ làm bài kiểm tra vào thứ hai. Nhưng cháu được điểm A cho bài luận về Stalingrad. Thế nên có vẻ như nó sẽ kéo con B trừ môn lịch sử của cháu lên điểm B.”

    Chú ấy cứ giữ im lặng và nhìn tôi một lúc lâu đến mức tôi bắt đầu suy nghĩ và tìm kiếm xem còn gì để nói không. Thế rồi: “Còn gì khác nữa không?”

    “Ừm…” tôi nhìn xuống ngón tay cái.

    “Sự lo lắng của cháu ra sao rồi?”

    “Nó cũng không tệ lắm,” tôi nói, thầm nghĩ thật là bứt rứt khi tôi chẳng biết gì về Dave cả. Chú là một trong số những chàng trai mà đeo nhẫn cưới nhưng chẳng có vẻ gì giống nhẫn cưới – hoặc có thể nó chẳng phải nhẫn cưới gì sất mà chẳng qua chỉ là chú thấy tự hào quá dỗi về gốc gác Celtic của mình nên đeo thôi. Nếu tôi phải đoán thì tôi sẽ đoán là chú chỉ mới cưới, có một đứa con nhỏ - ở chú tỏa ra cái vẻ run rẩy mệt mỏi của một ông bố trẻ, cứ như là chú luôn phải thức dậy thay tã cho con vào giữa đêm ấy – nhưng ai mà biết được?

    “Còn về việc uống thuốc? Có tác dụng phụ gì không?”

    “Ừm…” tôi gãi mũi… “cháu đoán là nó cũng tiến triển rồi.” Tôi thậm chí còn chưa từng uống viên thuốc nào được đưa cho cả, nó làm tôi mệt rũ và đau đầu đến nỗi tôi phải thả chúng xuống lỗ thoát nước của bồn rửa.

    Chú Dave im lặng chốc lát. “Vậy… liệu có sai gì không nếu nói là cháu đã khỏe hơn nhỉ?”

    “Cháu đoán là không,” tôi nói, sau khi yên lặng ngắm nhìn phần tường sau lưng chú ấy. Nó trông nghiêng lệch sang một bên và được làm từ nhiều viên đất sét và lòng thòng dây thừng thắt nút, và tôi đang dành một phần không nhỏ của cuộc đời mính để chiêm ngưỡng nó.

    Dave cười mỉm. “Cháu nói cứ như đó là một điều đáng xấu hổ vậy. Nhưng cảm thấy khỏe hơn không có nghĩa là cháu đã quên đi mẹ mình. Hay là cháu đã giảm bớt tình yêu thương với mẹ.”

    Cảm thấy bực bội với giả thiết đó, thứ mà chưa từng xảy đến trong tâm trí tôi, tôi quay đầu nhìn ra chỗ khác, ra khung cửa sổ, nhìn cái khung cảnh chán nản bên ngoài với một tòa nhà trắng bằng gạch lẻ loi bên kia đường.

    “Cháu biết rõ tại sao mình lại cảm thấy tốt hơn chứ?”

    “Không, không hẳn ạ,” tôi đáp cụt lủn. Tốt hơn thậm chí còn không phải từ phù hợp với tình trạng của tôi. Không từ nào có thể diễn tả hết. Nó phức tạp như khi những vật quá nhỏ để nhắc tới – tiếng cười trên lối đi trong trường, một con tắc kè lon ton chạy trong bể kính phòng thí nghiệm khoa học – cũng khiến tôi vui và rồi ngay sau đó lại muốn khóc ngay được. Đôi khi, vào những buổi tối, một làn gió ẩm và đặc quánh thổi qua cửa sổ từ Đại lộ Park, ngay khi phần giao thông của giờ cao điểm đã vãn và thành phố thưa thớt dần trước buổi đêm; trời thì mưa, cây đang rụng lá, mùa xuân đang chìm sâu vào mùa hè rồi; tiếng còi xe trơ trọi trên phố, mùi ngai ngái của vỉa hè ướt nước mưa cũng có một sự thu hút, cảm giác đông đúc và bất động, những người thư kí lẻ loi và những người đàn ông béo phì với những túi đồ từ cửa hàng ăn, ở mọi nơi cái buồn chán đồ sộ của mọi loại sinh vật luôn cố gắng để tồn tại. Đã hàng tuần rồi, tôi đã vùi mình trong lạnh lẽo, khép kín; còn giờ, dưới vòi nước chảy, tôi có thể vặn nước mạnh nhất có thể để tôi có thể tự do mà la hét, trong im lặng. Mọi thứ vẫn như còn mới nguyên và còn đau đớn, còn bối rối quá, như thể tôi vừa bị lôi ra khỏi dòng nước lạnh để đi qua một khối băng, rồi đi ra với ánh mặt trời và lại đi vào cái lạnh thấu xương.

    “Cháu vừa mới thả mình đi đâu vậy?” Dave hỏi, cố gắng nhìn vào mắt tôi.

    “Gì cơ ạ?”

    “Cháu vừa mới nghĩ gì đấy?”

    “Không gì cả ạ.”

    “Thế hả? Để mà không nghĩ về bất cứ cái gì cũng khá khó đấy.”

    Tôi nhún vai. Ngoài Andy ra, tôi chưa nói với ai về chuyện đi xe buýt tới nhà của Pippa, và cái bí mật đó thì bao trùm lên tất cả, như là ánh sáng còn sót lại từ một giấc mơ: những bông hoa anh túc bằng giấy ăn, ánh sáng nhờ nhờ từ ngọn nến đang nhỏ giọt, hơi ấm từ bàn tay cô bé trong tay tôi. Nhưng mặc dù đó là sự kiện đáng nhớ nhất và chân thật nhất từng xảy ra trong một thời gian dài gần đây, tôi lại không muốn phá hỏng nó bằng việc kể lể, nhất là với chú ấy.

    Chúng tôi vẫn còn ngồi đấy một lúc nữa. Thế rồi chú ngả người ra phía trước đầy quan tâm và nói “Cháu biết đấy, khi ta hỏi là cháu đã thả mình đi đâu khi cứ im lặng thế, Theo, không phải ta muốn trở thành một kẻ bệnh hoạn hay muốn săm soi cháu hay gì cả.”

    “Ồ, chắc chắn là vậy rồi! Cháu biết chứ,” tôi nói đầy vụng về, tay nắm lấy chỗ tay cầm uốn lượn của chiếc sofa.

    “Ta ở đây là để nói về bất cứ chuyện gì mà cháu muốn. Hoặc là…” tiếng gỗ kẽo kẹt khi chú thay đổi tư thế ngồi trên ghế… “chúng ta không cần phải nói gì cả! Cứ để mặc chú tự hỏi liệu cháu đang nghĩ gì trong đầu.”

    “Dạ thì,” tôi nói, sau một lúc im lặng như vô tận, cố nén sự thôi thúc được liếc vào cái đồng hồ đeo tay của mình. “Ý cháu là cháu chỉ…” - chúng tôi còn bao nhiêu phút nữa đây? Bốn mươi hả?

    “Bởi vì ta có nghe được, từ một vài người lớn quanh cháu, rằng cháu đã có một sự tiến bộ mặc dù chậm trễ. Cháu đã tham gia nhiều hơn trên lớp,” chú nói, khi tôi không trả lời. “Cháu đã giao thiệp với mọi người. Lại ăn những bữa ăn bình thường.” Giữa không gian khô cứng đó, tiếng còi báo động của xe cứu thương trên phố đang khẽ trôi nổi. “Vậy chú đoán là mình đang tự hỏi liệu cháu có thể giúp chú hiểu xem cái gì đang thay đổi không.”

    Tôi nhún vai, tay gãi gãi một bên mặt. Bạn thường giải thích những việc thế này kiểu gì? Có vẻ khá là ngu ngốc nếu thử giải thích nó. Thậm chí là kí ức rồi cũng đến lúc trở nên mơ hồ và lẫn lộn với những điều không thực, như một giấc mơ với mọi chi tiết càng mờ nhạt nếu bạn càng cố nắm bắt nó. Cái quan trọng là cảm giác, nó như một con sóng ngọt ngào vỗ bờ, thôi thúc đến mức dù có ở trong lớp, trên xe buýt hay nằm trên giường thì tôi cũng luôn cố nghĩ về thứ gì đó an toàn hoặc dễ chịu, một khung cảnh hay một hình khối mà ở đó lồng ngực tôi không còn thắt lại vì lo lắng nữa, tất cả những thứ tôi cần làm là chìm vào dòng nước ấm nóng và để mình tự trôi tới một nơi bí mật mà ở đó mọi chuyện đều ổn thỏa. Những bức tường màu nâu quế, mưa trên kính cửa sổ, sự tĩnh lặng bao trùm và cảm giác về sự sâu lắng và xa xôi, như lớp đánh bóng trên nền một bức tranh từ thế kỉ mười chín. Những tấm thảm đã sờn chỉ, những chiếc quạt giấy được những họa sĩ người Nhật vẽ lên và những tấm thiệp valentine cổ điển sáng rực dưới ánh nến, Pierrots, chim bồ câu và những trái tim có hoa bao quanh. Gương mặt xanh xao của Pippa trong bóng tối.


    vi.

    “NGHE NÀY,” TÔI NÓI VỚI Andy vài ngày sau đó, khi chúng tôi vừa ra khỏi cửa hàng Starbucks sau giờ học, “cậu giấu giếm hộ tớ chiều nay được không?”

    “Tất nhiên là được,” Andy nói, hớp một ngụm cà phê to tướng. “Bao lâu?”

    “Chưa biết được.” Theo như thời gian để tôi đổi chuyến tàu ở Đường Mười Bốn, có thể sẽ mất bốn lăm phút để xuống được phố dưới; vào ngày thường thì xe buýt còn mất nhiều thời gian hơn. “Ba tiếng nhé?”

    Cậu ta dài mặt; nếu mẹ cậu ấy ở nhà thì bà sẽ hỏi han. “Tớ phải nói gì với mẹ đây?”

    “Cứ nói với bà ấy là tớ phải ở lại trường muộn hay gì đó.”

    “Mẹ sẽ nghĩ là cậu gặp rắc rối.”

    “Ai mà thèm quan tâm chứ?”

    “Đúng, nhưng tớ không muốn mẹ gọi tới trường để kiểm tra.”

    “Vậy nói với bà là tớ đi xem phim.”

    “Vậy mẹ sẽ hỏi tại sao tớ không đi cùng. Sao tớ không nói là cậu ở thư viện nhỉ.”

    “Thế nghe tởm quá.”

    “Vậy thì được rồi. Sao chúng ta không nói là cậu có một cuộc hẹn quan trọng với người quản thúc của cậu ấy. Hoặc là cậu dừng lại để mua một cặp Old Fashioned ở quán bar Bốn Mùa.”

    Cậu đang nhại lại điệu bộ của cha cậu; cái biểu cảm thật là chính xác đến mức tôi phải bật cười. “Fabelhaft,” tôi đáp bằng giọng của ông Barbour. “Thật là hài hước.”

    Cậu nhún vai. “Chi nhánh chính của bar mở cửa đến bảy giờ tối nay,” cậu nói bằng giọng đều đều quen thuộc. “Nhưng nếu cậu quên không bảo tớ là cậu đi tới chi nhánh nào thì tớ cũng không tự biết được đâu nhé.”


    vii.

    CỬA MỞ NHANH HƠN tôi tưởng, trong khi tôi vẫn đang nhìn xuống đường và nghĩ vẩn vơ. Lần này, ông đã cạo râu sạch sẽ, người tỏa hương thơm của xà phòng, với mái tóc xám dài được chải ngược ra sau và vuốt gọn sau tai; và ông ăn mặc ấn tượng y như ông Blackwell mặc lúc gặp tôi.

    Lông mày ông nhướng lên; rõ ràng là ông đã ngạc nhiên khi thấy tôi. “Chào cháu!”

    “Cháu tới nhầm lúc ạ?” tôi hỏi, mắt chạm tới cái cổ tay áo trắng như tuyết của ông, trên đó thêu một dòng chữ kí hiệu nhỏ xíu màu đỏ tươi, những chữ cái in hoa nhỏ và được cách điệu tới mức chúng gần như không thể nhìn rõ.

    “Không hề. Thực ra ta cũng đang mong cháu ghé qua đây.” Ông đang đeo một chiếc cà vạt màu đỏ với họa tiết vàng nhạt; đôi giày thấp cổ màu đen; một bộ vest màu xanh navy được đặt may tuyệt đẹp. “Vào đây cháu.”

    “Ông đang định đi đâu à?” tôi hỏi, rón rén liếc về phía ông. Bộ vest cứ như biến ông thành một người khác, ít ủy mị và xao nhãng hơn, trông có năng lực hơn – không giống như Hobie trong lần tới thăm đầu tiên, với cái khía cạnh bê tha của một chú gấu bắc cực cự phách nhưng bị ngược đãi.

    “Ừm… đúng rồi. Nhưng không phải bây giờ. Nói thật là bọn ta đang gặp chút hỏng hóc. Nhưng chẳng sao cả.”

    Điều đó có nghĩa là gì? Tôi theo ông đi vào bên trong – qua cả rừng những đồ trưng bày, chân bàn, những chiếc ghế chưa lắp lò xo – và đi lên qua căn phòng khách u ám để vào bếp, nơi mà chú chó săn Cosmo đang đi đi lại lại một cách cáu kỉnh và rên rỉ, móng chân nó thì liên tục cào vào nền gạch. Khi chúng tôi bước vào, nó lùi lại vài bước và giương mắt nhìn chúng tôi đầy phẫn nộ.

    “Sao nó lại ở đây?” tôi hỏi, quỳ xuống vỗ nhẹ vào đầu nó, và rồi phải rút tay về khi nó quay đầu đi.

    “Hmn?” Hobie nói. Dường như ông đang bận nghĩ ngợi điều gì.

    “Cosmo. Nó không thích ở với cậu ấy à?”

    “Oh. Cô của con bé. Cô ấy không muốn để nó trong đó.” Ông đang đổ đầy ấm nước ở bồn rửa; và – tôi để ý thấy – cái ấm nước rung rung trong tay ông khi ông làm việc đó.

    “Cô ạ?”

    “Đúng thế,” ông nói, đặt ấm nước lên để đun, rồi cúi xuống cào nhẹ cằm chú chó. “Tội nghiệp con ếch nhỏ này, mày không biết phải làm gì đúng không? Margaret luôn nghiêm khắc với chuyện để chó trong phòng bệnh. Nhưng mà cô ấy cũng đúng. Chẳng trách mà mày ở đây,” ông nói, ánh mắt ông khi nhìn qua vai sáng lên một cách lạ lùng. “Nói lại chuyện cũ. Pippa đã nói về cháu nhiều kể từ lúc cháu tới đấy.”

    “Thật ạ?” tôi nói một cách vui vẻ.

    “ ‘Cậu ấy đâu.’ ‘Có một cậu bé ở đây mà.’ Hôm qua con bé còn nói với ta rằng cháu đã tới và a lê hấp, biến mất,” ông nói, kèm theo giọng cười trẻ trung ấm áp, “giờ thì cháu đã tới.” Ông đứng dậy, đầu gối kẽo kẹt, và quệt mu bàn tay vào phần lông mày trắng hơi nổi cục. “Nếu cháu chờ chút thì cháu có thể vào thăm con bé đấy.”

    “Cậu ấy sao rồi ạ?”

    “Khá lên nhiều rồi,” ông nói quả quyết mà không nhìn tôi. “Có nhiều chuyện đã xảy ra. Cô của con bé sẽ đưa nó tới Texas.”

    “Texas?” tôi nói, sau một hồi im lặng ngỡ ngàng.

    “Ta e là vậy.”

    “Khi nào ạ?”

    “Ngày kia.”

    “Không được!”

    Ông nhăn mặt – một cái nhói đau vừa hiện lên đã chợt biến mất khi tôi quay qua nhìn nó. “Đúng vậy đấy. Ta đã sắp đồ cho con bé đi rồi,” ông nói bằng giọng mừng rỡ trái ngược với thứ cảm xúc buồn chán mà ông vừa để lộ. “Nhiều người đã tới và đi. Bạn bè ở trường – thực ra, đây là khoảng thời gian yên tĩnh đầu tiên mà chúng ta có đấy. Thật là một tuần bận rộn.”

    “Khi nào thì cậu ấy quay lại đây?”

    “Ừm… thật ra là sẽ không nhanh đâu. Margaret sẽ đưa con bé xuống đó sống.”

    “Mãi mãi?”

    “Ôi không! Không phải là mãi mãi,” ông nói bằng cái giọng làm cho tôi nhận ra mãi mãi chính xác là thứ ông muốn nói. “Không phải như chuyện ai đó sắp rời khỏi hành tinh này đâu,” ông nói thêm khi nhìn nét mặt tôi. “Tất nhiên là ta sẽ xuống đó thăm con bé. Và tất nhiên là nó cũng sẽ quay lại đây thăm ta.”

    “Nhưng mà…” tôi cảm thấy như trần nhà vừa sụp xuống đầu mình. “Cháu vẫn nghĩ cậu ấy ở đây chứ. Sống với ông cơ mà.”

    “Ừm, con bé đã từng là như vậy. Cho tới bây giờ. Mặc dù ta cũng chắc chắn là con bé sẽ được sống tốt hơn nhiều khi ở đó,” ông nói thêm, không hề bực bội. “Đây là một sự thay đổi lớn với tất cả chúng ta, nhưng về lâu dài thì đó lại là cách tốt nhất.”

    Tôi có thể chắc chắn rằng ông chẳng tin bất cứ lời nào mình vừa nói. “Nhưng tại sao cậu ấy không thể ở đây chứ?”

    Ông thở dài. “Margaret là em gái một nửa dòng máu với Welty,” ông nói. “Một cô em gái nửa dòng máu khác của ông ấy. Là họ hàng gần nhất của Pippa. Dù gì vẫn là máu mủ, còn ta thì không. Cô ấy nghĩ là Pippa sẽ được sống tốt hơn khi ở Texas, giờ thì con bé đã đủ khỏe để đi.”

    “Cháu sẽ không bao giờ muốn ở Texas,” tôi nói đầy ngạc nhiên. “Nó nóng như thiêu như đốt.”

    “Ta cũng không nghĩ là bác sĩ ở đó tốt như trên này.” Hobie nói, phủi hai bàn tay. “Mặc dù Margaret thì không cho là như vậy.”

    Ông ngồi xuống, rồi nhìn vào tôi. “Cặp kính của cháu,” ông nói. “Ta rất thích chúng.”

    “Cám ơn ông.” Tôi chẳng muốn nói chuyện về cặp kính mắt mới của tôi chút nào, một sự tiến triển chẳng hay ho gì, mặc dù chúng cũng giúp tôi nhìn rõ hơn. Bà Barbour đã chọn gọng kính cho tôi ở tiệm E. B. Meyrowitz sau khi tôi không qua được bài kiểm tra thị lực ở trường. Chúng là loại gọng tròn mai rùa, trông hơi người lớn và hơi đắt tiền, còn người lớn đã đi hơi xa trong việc trấn an tôi rằng cặp kính đó nhìn vẫn rất tuyệt.

    “Mọi chuyện ở phố trên thế nào?” Hobie hỏi tôi. “Cháu không tưởng tượng được việc cháu đến thăm có ảnh hưởng lớn thế nào đâu. Nói thật nhé, ta còn đang nghĩ đến chuyện lên phố trên để đích thân gặp được cháu. Lí do duy nhất mà ta không làm vậy là ta ghét phải để Pippa một mình khi mà con bé lại sắp đi rồi. Mọi việc sẽ diễn ra nhanh lắm, cháu sẽ thấy. Việc thương lượng với Margaret. Cô ấy giống y như người cha của hai bọn họ, ngài Blackwell – cô ấy có ý tưởng gì đó trong đầu và bắt tay vào làm luôn, thế là xong.”

    “Thế cậu ấy có tới Texas cùng không, Cosmo ấy?”

    “Ồ không… nó ở đây là tốt rồi. Nó đã sống ở ngôi nhà này kể từ lúc chỉ mới mười hai tuần tuổi.”

    “Liệu nó có buồn không?”

    “Ta hi vọng là không. Ừm… nhưng thực ra… nó sẽ nhớ con bé đấy. Cosmo và ta thì vẫn luôn hòa thuận, mặc dù nó cũng đã phải trải qua một khoảng thời gian xuống dốc kể từ khi Welty chết. Nói đúng ra thì nó là chó của Welty, nó chỉ mới làm quen với Pippa dạo gần đây thôi. Loại chó săn mà Welty thường nuôi này thì không phải lúc nào cũng quấn quýt với trẻ nhỏ, cháu biết mà – mẹ của Cosmo là Chessie còn là một nỗi khiếp sợ ấy chứ.”

    “Nhưng tại sao Pippa lại phải chuyển xuống dưới đó chứ?”

    “Thì,” ông nói, tay dụi mắt, “đó là điều duy nhất có vẻ hợp lý. Về lý thuyết thì Margaret là người thân cận nhất. Mặc dù Margaret và Welty hiếm khi nói chuyện với nhau – đặc biệt là những năm gần đây.”

    “Sao lại không ạ?”

    “Ừm...” tôi có thể thấy ông ấy không muốn giải thích chuyện này. “Nó phức tạp lắm. Margaret khá là bất đồng với mẹ của Pippa mà.”

    Ngay khi ông vừa nói câu này, một người phụ nữ dáng người cao, mũi thẳng, trông có vẻ tháo vát đang đi vào trong phòng, bà ở độ tuổi của một bà trẻ, với gương mặt quý tộc thon gọn và mái tóc nâu đỏ màu đồng đang chuyển dần thành màu xám. Bộ quần áo lịch sự và đôi giày của bà nhắc tôi tới bà Barbour, chỉ có điều chúng mang cái màu mà bà Barbour không bao giờ đụng đến: màu vàng chanh.

    Bà ấy nhìn tôi; bà ấy nhìn vào Hobie. “Chuyện gì thế này?” bà cất giọng lạnh toát.

    Hobie thở mạnh thấy rõ; trông ông như người mất hồn. “Đừng để ý, Margaret. Đây là cậu bé đã ở cùng với Welty khi ông ấy qua đời.”

    Bà liếc tôi qua cặp kính nửa vầng trăng – và rồi cười một tiếng đanh gọn, một tiếng cười tự đắc.

    “Nhưng chào cháu,” bà nói – đột nhiên lại trở nên vô cùng duyên dáng, bà dang đôi bàn tay đỏ hồng đầy kim cương về phía tôi. “Ta là Margaret Blackwell Pierce. Em gái của Welty. Em gái nửa dòng máu,” bà tự chữa lại lời mình, với một cái nhìn qua vai tôi, hướng tới Hobie, khi bà thấy lông mày tôi cụp xuống. “Welty và ta có cùng một người cha, cháu biết đấy. Mẹ ta là Susie Delafield.”

    Bà nói cái tên ấy lên như thể nó phải có một ý nghĩa gì đó vậy. Tôi nhìn Hobie để xem thái độ ông thế nào về cái tên này. Bà thấy tôi làm vậy, và nhìn liếc ông một cái sắc như dao trước khi niềm nở quay trở lại tôi.

    “Và cháu thật là một cậu bé đáng yêu,” bà nói với tôi. Cái mũi dài của bà hơi ửng đỏ ở chóp mũi. “Ta cực kỳ vui khi gặp cháu. James và Pippa nói với ta suốt về lần tới thăm của cháu – điều đặc biệt nhất. Bọn ta đã bàn luận rất nhiều về chuyện đó. Và…” bà nắm lấy tay tôi… “Ta phải cám ơn cháu từ tận đáy lòng vì đã mang trả lại ta chiếc nhẫn từ ông của ta. Nó rất rất có ý nghĩa với ta.”

    Chiếc nhẫn của bà ấy? Lại lần nữa, vô cùng bối rối, tôi nhìn qua Hobie.

    “Nó cũng mang rất nhiều ý nghĩa với cha ta nữa.” Sự thân thiện của bà ấy như là có chủ định trước và đã được luyện tập nhiều lắm rồi (“quyến rũ đầy một xô,” như ông Barbour vẫn nói); thế nhưng cái mái tóc đỏ màu đồng giống của ông Blackwell, và của Pippa, lại vẫn cứ thu hút tôi liên tục. “Cháu biết khi xưa nó đã mất tích thế nào, đúng không?”

    Cái ấm nước rít lên. “Cô có muốn một tách trà không, Margaret?” Hobie nói.

    “Vâng, phiền anh,” bà đáp lại khô khốc. “Trà chanh mật. Với một chút rượu scotch nhé.” Quay lại phía tôi, với một giọng thân thiện hơn, bà nói: “Ta vô cùng xin lỗi, nhưng ta e là bọn ta còn chút công chuyện kinh doanh cần làm. Bọn ta chuẩn bị có cuộc gặp nhanh với luật sư. Ngay sau khi y tá của Pippa tới đây.”

    Hobie hắng giọng. “Tôi cũng không thấy ảnh hưởng gì nếu…”

    “Cháu vào thăm cậu ấy được không?” tôi nói, mất hết kiên nhẫn để có thể chờ ông nói hết câu.

    “Tất nhiên rồi,” Hobie nói nhanh, trước khi Bà cô Margaret kịp chen vào – người đang quay đầu kiêu ngạo ra chỗ khác để che giấu biểu hiện bực bội của mình. “Cháu nhớ đường vào đúng không? Cứ đi qua đó.”
     
  20. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    viii

    ĐIỀU ĐẦU TIÊN CẬU ẤY nói với tôi là: “Cậu tắt đèn hộ tớ được không?” Cô bé đang ngồi tựa lưng trên giường với đôi tai nghe cắm vào máy iPod, một hình ảnh trông có vẻ mờ mịt và mất phương hướng dưới ành đèn điện trên đầu.

    Tôi tắt đèn đi. Căn phòng đã trống đi nhiều, chỉ còn một chồng hộp các tông đặt dựa vào tường. Một cơn mưa bụi của mùa xuân đang khẽ đập vào cửa kính; bên ngoài, trong khoảng sân tối đen, những bông hoa lê trắng nở thành chùm như bong bóng xà phòng, trông thật nhợt nhạt trên nền gạch ẩm ướt.

    “Chào cậu,” cô bé nói, bàn tay đan chặt hơn trên tấm chăn.

    “Xin chào,” tôi nói, ước gì mình đừng có vẻ ngượng ngập thế này.

    “Tớ biết là cậu mà! Tớ nghe thấy giọng cậu nói trong bếp.”

    “Vậy à? Sao mà cậu biết là tớ vậy?”

    “Tớ là nhạc công cơ mà! Tai tớ chính xác lắm đấy.”

    Giờ khi mắt tôi đã quen với ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra cậu có vẻ đã bớt xanh xao hơn lần trước tôi tới. Tóc cậu đã mọc lại một chút và miếng kẹp trên tai không còn nữa, mặc dù những vết xước xát thì vẫn còn nhìn thấy được.

    “Cậu cảm thấy thế nào?” tôi nói.

    Cô bé mỉm cười. “Buồn ngủ lắm.” Vẻ ngái ngủ trong giọng nói cậu ấy, sự thô ráp và sự ngọt ngào đều như sắp rơi rụng. “Cậu có muốn cùng làm không?”

    “Cùng làm gì?”

    Cậu quay đầu sang bên và tháo một chiếc tai nghe ra, đưa nó cho tôi. “Cùng nghe.”

    Tôi tới ngồi cạnh cậu trên giường bệnh, và đặt nó lên tai: những giai điệu bâng quơ nhẹ như bay rồi lại sắc nhọn, như tiếng tín hiệu radio tới từ thiên đường.

    Chúng tôi nhìn nhau. “Đây là gì vậy?” tôi hỏi.

    “Umm…” cô bé nhìn vào chiếc Ipod… “Palestrina.”

    “Ồ.” Nhưng tôi cũng không quan tâm lắm xem nó là nhạc gì. Lí do duy nhất tôi nghe bản này là bởi cơn mưa nhẹ ngoài kia, cái cây màu trắng bên cửa sổ, tiếng sấm sét, và bởi có cô bé ấy.

    Sự tĩnh lặng giữa chúng tôi thật mãn nguyện và lạ lùng, được nối kết lại bởi điệu nhạc và giọng hát lạnh như băng đang mơ hồ vang vọng. “Cậu không cần nói gì hết,” cô bé nói. “Nếu cậu không thích.” Mí mắt cậu đã trĩu nặng và giọng cậu thì mệt mỏi như đang thì thầm một bí mật. “Mọi người lúc nào cũng muốn nói còn tớ chỉ thích yên lặng.”

    “Cậu đã khóc đúng không? tôi hỏi, nhìn cô bé gần hơn nữa.

    “Không. Mà… cũng có một chút.”

    Chúng tôi ngồi đó mà không nói gì, và chẳng thấy ngại ngùng hay kì cục chút nào nữa.

    “Tớ phải đi khỏi đây,” cậu nói rành mạch. “Cậu biết chứ?”

    “Tớ biết. Ông ấy đã nói cho tớ rồi.”

    “Thật là chán. Tớ chẳng muốn đi tẹo nào.” Cậu ấy có mùi như muối biển, và mùi thuốc, và mùi gì đó nữa, như hương trà táo thảo mộc mà mẹ tôi mua từ tiệm của cô Grace, có mùi cỏ thật ngọt.

    “Cô ấy có vẻ tốt mà,” tôi nói, giọng ngờ vực. “Tớ đoán vậy.”

    “Tớ đoán,” tiếng cô bé vọng lại buồn bã, một ngón tay khẽ di theo mép chiếc chăn. “Cô ấy có nói về bể bơi. Và những chú ngựa nữa.”

    “Thế thì sẽ vui đấy.”

    Cô bé chớp mắt, lúng túng. “Có thể.”

    “Cậu có cưỡi ngựa không?”

    “Không.”

    “Tớ cũng thế. Nhưng mẹ tớ thì có. Bà yêu ngựa lắm. Bà luôn dừng lại để nói chuyện với những chú ngựa kéo xe ở phía nam công viên Trung tâm. Như là…” tôi không biết diễn tả thế nào… “gần như là chúng sẽ nói chuyện với bà. Như là, chúng sẽ cố gắng quay đầu lại, kể cả là đang bị khuất tầm nhìn, chỉ để nhìn theo hướng bà đi vậy.”

    “Mẹ cậu cũng qua đời rồi à?” cô bé rụt rè nói.

    “Ừ.”

    “Mẹ tớ qua đời vì…” cô bé dừng lại suy nghĩ… “Tớ không nhớ được. Mẹ mất một năm sau kỳ nghỉ xuân của tớ, vậy nên tớ phải nghỉ cả kỳ mùa xuân và một tuần sau đó nữa. Và có cả một chuyến đi quan sát mà bọn tớ bắt buộc phải đi, tới Vườn nhà kính, và tớ cũng không đi được. Tớ nhớ mẹ lắm.”

    “Tại sao bà lại qua đời?”

    “Mẹ bị ốm. Mẹ cậu cũng ốm à?”

    “Không. Đó là một tai nạn.” Và rồi – không muốn đào sâu thêm vào chủ đề này: “Dù sao thì, bà dành một tình yêu bất tận cho loài ngựa, mẹ tớ ấy. Khi bà đã lớn, bà có một chú ngựa mà bà nói rằng chú ta thường hay thấy cô đơn và chú thích tới thẳng căn nhà để có thể ló đầu qua cửa sổ xem có chuyện gì đang diễn ra.”

    “Tên chú ta là gì vậy?”

    “Hộp Sơn.” Tôi luôn thích thú mỗi lần nghe mẹ kể về trại ngựa ở Kansas: cú và dơi ở đầy trên mái, ngựa thì khịt mũi và thở phì phì. Tôi còn nhớ tên tất cả những chú ngựa và chú chó mà bà nuôi thời thơ ấu.

    “Hộp Sơn! Trên người nó toàn các màu sắc khác nhau à?”

    “Người nó có đốm, kiểu vậy. Tớ nhìn nhiều hình của nó rồi. Đôi khi – vào mùa hè – nó sẽ tới và nhìn vào trong nhà nơi mẹ tớ đang ngủ trưa. Mẹ có thể nghe thấy tiếng nó thở, cậu biết đấy, ngay sau tấm rèm cửa.”

    “Hay thế! Tớ thích ngựa. Chỉ là…”

    “Là gì?”

    “Tớ muốn ở đây!” Đột nhiên cậu như sắp khóc. “Tớ không biết tại sao mình lại phải đi nữa.”

    “Cậu nên nói với họ là cậu muốn ở lại.” Tay bọn tôi chạm nhau khi nào vậy? Mà sao tay cô bé lại nóng như thế?

    “Tớ có nói với họ rồi! Ngoại trừ việc mọi người đều nghĩ đến đó sẽ tốt cho tớ hơn.”

    “Tại sao?”

    “Tớ chẳng biết nữa,” cậu nói cáu kỉnh. “Nó yên tĩnh hơn, họ nói vậy. Nhưng tớ không thích im lặng, tớ thích có nhiều thứ để mình có thể lắng nghe.”

    “Họ cũng bắt tớ phải rời đi.”

    Cô bé chống cùi chỏ đẩy người ngồi thẳng lên. “Không!” cậu thốt lên, vẻ mặt sửng sốt. “Khi nào?”

    “Tớ chưa biết. Nhưng tớ đoán là sớm thôi. Tớ phải tới sống cùng ông bà nội.”

    “Oh,” cậu nói giọng tha thiết, ngả đầu trở lại gối. “Tớ còn chẳng có ông bà nữa.”

    Tôi đan ngón tay mình qua ngón tay cô bé. “Ông bà tớ cũng chẳng tốt đẹp gì lắm.”

    “Tớ rất tiếc.”

    “Không sao mà.” tôi nói bằng giọng bình thường nhất có thể, mặc dù tim tôi thì đập loạn xạ đến mức tôi có thể cảm nhận mạch máu đang nhảy lên trong từng ngón tay. Tay cô bé, trong tay tôi, mượt như nhung và nóng bừng bừng, chỉ hơi dính một chút xíu thôi.

    “Cậu không còn họ hàng nào khác à?” Đôi mắt cậu tối lại dưới ánh sáng yếu ớt từ cửa sổ, trông như một màu đen thẫm.

    “Không. Ừm…” Bố tôi có tính không nhỉ? “Không.”

    Theo sau là một khoảng lặng dài. Chúng tôi vẫn kết nối với nhau qua chiếc tai nghe: một cái trong tai cô bé, cái còn lại trong tai tôi. Tiếng sóng biển. Những dàn đồng ca của các thiên thần. Nhưng đột nhiên mọi thứ bỗng chốc trở nên thật chậm rãi; như thể tôi chợt quên mất cách thở vậy; hết lần này đến lần khác tôi nhận ra mình đang nhịn thở, và sau đó thở ra rời rạc thành tiếng.

    “Cậu nói đây là nhạc gì cơ?” tôi hỏi, chỉ để có cái gì đó mà nói.

    Cô bé cười ngái ngủ, và với tay lấy chiếc kẹo mút không ngon mắt tí nào đang nằm chỏng chơ trên một tấm giấy gói trên mặt tủ đầu giường.

    “Palestrina,” cậu nói, trong khi ngậm kẹo. “Âm lượng lớn. Hay gì đó. Bọn họ giống nhau lắm.”

    “Cậu có thích bà ấy không?” tôi nói. “Người cô của cậu ấy?”

    Cậu ấy nhìn tôi trong vài nốt nhạc dài. Rồi cậu cẩn thận đặt chiếc kẹo mút trở lại tấm giấy gói và nói: “Cô ấy có vẻ tốt. Tớ đoán vậy. Chỉ là tớ không biết nhiều về cô ấy lắm. Cảm giác thật lạ.”

    “Sao cậu lại phải đi?”

    “Chỉ là vấn đề về tiền thôi. Hobie thì không có việc làm – ông ấy cũng chẳng phải bác ruột của tớ. Một ông bác giả vờ, cô tớ gọi ông ấy vậy.”

    “Ước gì ông ấy là bác ruột của cậu,” tôi nói. “Tớ muốn cậu ở lại đây.”

    Đột nhiên cô bé ngồi thẳng dậy, vòng tay qua người tôi, và hôn tôi; máu chảy rần rật trong người tôi, như thế tôi đang lao đầu xuống từ một mỏm đá.

    “Tớ…” Sự sợ hãi lao thẳng vào tôi. Trong lúc bàng hoàng, tôi đã lấy tay quệt đi nụ hôn đó – ngoại trừ việc nó chẳng thấy ghê chút nào, tôi có thể thấy dấu vết của nó vẫn còn lấp lánh trên mu bàn tay tôi.

    “Tớ không muốn cậu đi đâu cả.”

    “Tớ cũng vậy.”

    “Cậu có nhớ là đã từng gặp tớ không?”

    “Khi nào cơ?”

    “Mới trước đây thôi.”

    “Không.”

    “Còn tớ thì nhớ rất rõ về cậu,” tôi nói. Thế nào mà tay tôi chỉ muốn đưa lên chạm vào đôi má của cậu ấy, và rồi lại vụng về rụt tay lại kẹp chặt bên mình, nắm chặt lại, gần như phải ngồi đè lên nó. “Tớ đã ở đó.” Và ngay lúc đó tôi nhận ra Hobie đang đứng ở cửa rồi.

    “Xin chào, tình yêu bé nhỏ.” Và mặc dù sự ấm áp trong từng câu chữ là dành cho cô bé, tôi vẫn cảm nhận được chút gì đó dành cho mình. “Ta đã nói là cậu bé sẽ trở lại mà.”

    “Đúng vậy bác à!” cậu nói, ngồi thẳng dậy. “Cậu ấy đang ở đây rồi.”

    “Vậy lần tới phải nghe lời bác đó nhé?”

    “Cháu vẫn nghe mà. Chỉ là cháu không tin thôi.”

    Đường viền của lớp rèm mỏng dính cứ quẹt qua lại trên bệ cửa sổ. Xa xa đâu đó tôi nghe được tiếng xe cộ bận rộn trên phố. Ngồi đây trên giường bệnh của cô bé, cảm giác như khoảnh khắc giữa cơn mơ và ánh sáng ban ngày nơi mà mọi thứ xuất hiện và trộn lẫn vào với nhau ngay trước khi chúng kịp thay đổi, tất cả đều lướt đi nhịp nhàng và bình thản: cơn mưa lất phất, Pippa đang ngồi thẳng dậy còn Hobie thì đứng tựa bên cửa, và nụ hôn của cô bé ấy (với cái hương vị kì quặc của thứ mà tôi tin chắc là một cái kẹo mút vị morphine) vẫn còn vương vấn trên môi tôi. Nhưng tôi không biết liệu có phải morphine khiến tôi cảm thấy lâng lâng lúc đó không, thấy mọi thứ đều được gói gọn đầy đẹp đẽ và mãn nguyện. Trong cảm giác mụ mị, chúng tôi nói lời tạm biệt (không viết lại lời nào; có vẻ như cô bé cũng không đủ khỏe để làm việc đó) và rồi tôi đứng ở hành lang cùng với người y tá, bác Margaret đang nói sang sảng và khiến người khác giật mình cùng với bàn tay an ủi của Hobie lên vai tôi, sự đè nặng đầy êm ái như một chiếc mỏ neo, như để cho tôi biết rằng mọi chuyện sẽ ổn. Tôi đã không cảm nhận được sự tiếp xúc nào giống vậy kể từ khi mẹ tôi qua đời – rất thân thiết, vững vàng giữa biết bao sự việc hỗn độn đang xảy ra – và, như thể một chú chó đi lạc đang rất cần tình thương, tôi bỗng nhận ra lòng tôi đang chuyển dần sang sự trung thành như ruột thịt, một sự tin tưởng nhanh chóng đầy cảm động nhưng cũng thật đáng xấu hổ rằng nơi này rất tốt, con người này thật đáng tin, tôi có thể tin tưởng ông, ở đây sẽ không có ai làm tôi tổn thương nữa.

    “Ôi,” Bác Margaret sụt sùi, “cháu đang khóc đấy à? Cô thấy không?” bà nói cho người y tá trẻ (đang gật đầu, mỉm cười, sốt sắng bợ đỡ và rõ ràng là nghe lời bà ấy răm rắp). “Thằng bé thật dễ thương! Cháu sẽ nhớ con bé đấy, phải không nào?” Nụ cười của bà thật phóng khoáng và đáng tin, như nó vẫn thế. “Cháu phải xuống thăm đấy nhé, chắc chắn là cháu sẽ xuống. Ta lúc nào cũng vui khi có khách tới. Cha mẹ ta… họ có một trong những biệt thự Tudor lớn nhất ở Texas…”

    Bà cứ thế vỗ về và thân mật như một chú vẹt. Nhưng sự hưởng ứng của tôi thì trôi đâu mất rồi. Và hương vị của cái hôn từ Pippa – vừa đắng lại vừa ngọt và có chút lạ kỳ – cứ ở mãi trong tôi trên suốt con đường trở lại phố trên, trong cả những lúc mơ màng hay ngái ngủ khi đi xe buýt về nhà, nó tan chảy trong sự nuối tiếc và cả tình cảm yêu thương, một nỗi đau đầy mộng ảo đưa tôi bay lên khỏi cái thành phố đầy gió như một cánh diều: tâm trí tôi bay giữa những tầng mây còn trái tim tôi thì nằm giữa bầu trời.


    ix.

    TÔI GHÉT VIỆC PHẢI NGHĨ RẰNG cô bé đã đi rồi. Tôi không thể chịu được việc đó. Vào ngày cô bé rời đi, tôi thức dậy mà thấy tim mình chao đảo. Nhìn lên bầu trời bao phủ trên Đại lộ Park, một màu xanh xám xịt và đầy đe dọa, cảnh trời đục ngầu bước ra từ một bức tranh của Calvary, tôi tưởng tượng ra cảnh cô bé cũng đang nhìn ra bầu trời tối tăm này từ cửa sổ máy bay; và – khi Andy và tôi cùng đi bộ tới trạm xe buýt, những ánh nhìn chán nản và tâm trạng ảm đạm của mọi người trên phố như phản chiếu và nhân lên nhiều lần nỗi buồn trong lòng tôi khi cô bé không còn ở đây nữa.

    “Ừm, Texas rất nhàm chán, cái đấy thì rõ rồi,” Andy nói, giữa những cái hắt xì; mắt cậu đỏ ngầu và giàn giụa vì dị ứng phấn hoa nên giờ trông cậu giống với chuột thí nghiệm hơn bình thường.

    “Cậu đến rồi à?”

    “Ừ - Dallas ấy. Chú Harry và dì Tess có thời gian sống ở đó. Chả có gì làm ngoài việc đi xem phim và cậu cũng chẳng biết đi bộ đến đâu cả, mọi người sẽ phải lái xe đưa cậu đi. Mà họ cũng có cả rắn đuôi chuông nữa, và cũng áp dụng án tử hình, cái mà đã rất cũ kĩ và trái với đạo lý xã hội trong khoảng chín mươi tám phần trăm số vụ. Nhưng có lẽ nó lại tốt cho cậu ấy khi ở đó.”

    “Tại sao?”

    “Khí hậu là cái đầu tiên,” Andy nói trong khi chùi mũi bằng một trong những chiếc khăn mùi soa bằng cotton mà cậu rút ra từ tủ quần áo. “Những người đang dưỡng bệnh sẽ có tiến triển hơn trong thời tiết ấm áp. Đó là lí do vì sao ông ngoại Van der Pleyn của tớ đã chuyển tới Palm Beach.”

    Tôi im lặng. Tôi biết Andy là người trung thành; tôi tin tưởng cậu ấy, tôi coi trọng ý kiến của cậu, nhưng đôi lúc cuộc nói chuyện với cậu khiến tôi có cảm tưởng như mình đang nói chuyện với một trong những chương trình máy tính có thể nhại lại câu trả lời của con người.

    “Nếu cậu ấy ở Dallas thì chắc chắn là nên đến Bảo tàng Tự nhiên và Khoa học. Mặc dù tớ nghĩ cậu ấy sẽ thấy chỗ đó khá nhỏ và lạc hậu. Cái IMAX mà tớ xem ở đó thậm chí còn chẳng phải 3-D. Mà họ còn đòi thêm tiền nếu cậu muốn vào cung thiên văn nữa, thật là nực cười vì nó còn chẳng bằng nổi Hayden.”

    “À há.” Đôi khi tôi tự hỏi làm thế nào để có thể tống Andy ra khỏi cái pháo đài mọt sách-toán học của cậu ấy: một cơn sóng thần? Bọn Decepticon đến xâm lăng trái đất? Hay Godzilla nhảy xuống Đại lộ Năm? Cậu ấy đúng là một hành tinh mà không có bầu khí quyển.


    x.

    LIỆU CÓ AI ĐÃ TỪNG THẤY lạc lõng thế này chưa? Trở về nhà Barbour, giữa tiếng ồn ào và sự đông đúc trong một gia đình không phải của tôi, giờ tôi còn thấy cô đơn hơn nữa – đặc biệt là vì, khi năm học đã gần kết thúc, tôi (hoặc cả Andy, với cùng một vấn đề) cũng chưa rõ liệu tôi có đi cùng họ tới ngôi nhà nghỉ dưỡng mùa hè ở Maine không. Bà Barbour, với sự nhạy cảm quen thuộc, đã liên tục đề cập tới chủ đề này giữa lúc cả đống hộp các tông và va li mở đang xuất hiện khắp nhà; ông Barbour và lũ trẻ con thì đều phấn khởi nhưng Andy thì chỉ đơn thuần cảm thấy kinh khiếp trước cơ hội này. “Mặt trời và sự yêu đời,” cậu ta nói khinh bỉ, tay đẩy kính (giống của tôi nhưng dày hơn nhiều) lên trên sống mũi. “Ở với ông bà thì ít nhất cậu còn được ở trên đất liền khô ráo. Có nước nóng. Và mạng Internet.”

    “Tớ chẳng thương gì cậu đâu.”

    “Nếu cậu phải đi với nhà tớ thì để xem cậu thích thú thế nào nhé. Nó như trong phim Bắt cóc vậy. Cái phần mà họ bán thằng bé vào làm nô lệ trên tàu ấy.”

    “Thế còn phần mà thằng bé phải tới gặp mấy người họ hàng ghê rợn không biết từ đâu chui ra thì sao?”

    “Đúng, tớ cũng đang nghĩ về phần đó đấy,” Andy nói vẻ nghiêm túc, quay chiếc ghế ra nhìn tôi. “Dù sao thì họ cũng đâu có lên kế hoạch giết cậu – chẳng có vẻ gì là cậu có một khối tài sản thừa kế kếch sù cả.”

    “Không, chắc chắn là không có rồi.”

    “Cậu có biết lời khuyên của tớ là gì không?”

    “Không. Là gì vậy?”

    “Lời khuyên của tớ,” Andy nói trong ghi gãi gãi mũi bằng đầu tẩy của chiếc bút chì gỗ, “là cậu phải học chăm chỉ nhất có thể khi cậu tới trường mới ở Maryland. Cậu đã có sẵn lợi thế rồi – cậu đang học trước một năm. Nghĩa là cậu sẽ tốt nghiệp khi cậu mười bảy tuổi. Nếu cậu tự nộp đơn vào trung học thì cậu có thể ra khỏi đó sau bốn năm, thậm chí là ba, với một cái học bổng tới bất cứ nơi nào cậu muốn.”

    “Điểm của tớ đâu có tốt đến thế.”

    “Đúng,” Andy nghiêm túc, “nhưng chỉ là vì cậu không học thôi. Mà cũng đúng khi tớ nghĩ rằng trường mới của cậu, dù cho có ở chỗ nào đi nữa, cũng sẽ không đòi hỏi quá cao đâu.”

    “Tớ cầu Chúa là không.”

    “Ý tớ là – trường công lập ấy,” Andy nói. “Maryland. Không có ý xúc phạm gì Maryland đâu. Ý tớ là, họ cũng có Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng và Viện Thiên văn học Vũ trụ ở Đại học John Hopkins, đấy là còn chưa kể đến Trung tâm Du hành Không gian Goddard ở Greenbelt nữa. Rõ ràng đó là một tiểu bang với sự liên kết chặt chẽ với NASA. Điểm tổng kết cấp hai của cậu được bao nhiêu?”

    “Tớ chẳng nhớ nữa.”

    “Ừm, không sao nếu cậu không muốn nói cho tớ. Cái tớ muốn nói là, cậu có thể học xong với một số điểm cao khi cậu mười bảy tuổi – mà khéo còn mười sáu, nếu cậu cố gắng đủ– và sau đó cậu có thể đi học đại học ở bất cứ nơi nào cậu muốn.”

    “Ba năm cũng là một khoảng thời gian dài.”

    “Còn tùy thuộc vào chúng ta. Chứ còn với các chương trình học á – không đời nào. Ý tớ là,” Andy giảng giải đầy lí lẽ, “thử nhìn vào vài em ngây thơ ngốc nghếch kiểu Sabine Ingersoll hay James Villiers xem. Forrest khốn-nạn Longstreet nữa”

    “Những người đó đâu có nghèo. Tớ còn thấy cha của Villiers trên trang bìa của tờ Nhà kinh tế kìa.”

    “Đúng, nhưng mấy đứa đó đần như mấy cái gối ôm trên ghế sofa ấy. Ý tớ là – Sabine thì chẳng thể đặt một chân ra phía trước chân còn lại cơ mà. Nếu nhà con bé đó không có tiền và nó phải tự kiếm sống thì có lẽ nó sẽ làm, tớ chẳng biết nữa, gái bán hoa chẳng hạn. Longstreet – cậu ta thì chắc chắn sẽ bò vào một góc phố và chết đói luôn ở đó. Như một con chuột hamster mà cậu quên cho ăn thôi.”

    “Cậu đang làm tớ nhụt chí đấy.”

    “Tất cả những điều tớ muốn nói là – cậu rất thông minh. Và người lớn thì thích cậu.”

    “Cái gì cơ?” tôi nói đầy ngờ vực.

    “Chắc chắn là vậy rồi còn gì,” Andy nói bằng cái giọng nhạt nhòa đến bực mình của cậu. “Cậu nhớ được những cái tên, làm được mấy trò giao tiếp bằng ánh mắt, rồi bắt tay ai đó khi cần thiết. Ở trường bọn họ đều phải nhượng bộ cậu hết.”

    “Ừ, nhưng mà…” tôi không muốn nói rằng đó là vì mẹ tôi đã qua đời.

    “Đừng có ngốc thế. Cậu còn có thể thoát được tội giết người ấy chứ. Cậu đủ thông minh để tự suy nghĩ được.”

    “Vậy tại sao cậu không luận ra được gì về cái vụ tàu thuyền này hả?”

    “Ồ, tớ luận ra rồi mà,” Andy nói đầy nham hiểm, quay trở lại với cuốn vở luyện chữ hiragana. “Tớ đã suy ra được là tớ sẽ có bốn mùa hè dưới Địa Ngục, ở tầng khủng khiếp nhất. Sẽ là ba mùa hè nếu Cha tớ để tớ đi học đại học sớm ở tuổi mười sáu. Sẽ còn hai mùa hè nếu tớ gắng gượng chịu đựng qua cấp hai và tới Trường Trang Trại và học trồng cây hữu cơ. Và sau đó, tớ sẽ không bao giờ đặt chân lên cái thuyền nào nữa.”
     

Chia sẻ trang này