Tuỳ bút - Biên khảo NC-17 Thi ca bình dân Việt Nam - Tòa lâu đài văn hóa dân tộc - Quyển I <Phan Canh – Nguyễn Tấn Long>

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 15/7/15.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    301. Sông sâu sào vẫn khó dò,
    Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa.


    302. Sông hồ một giải con con,
    Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo.
    Yêu nhau sinh tử cũng liều,
    Thương nhau lặn suối, qua đèo có nhau.


    303. Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
    Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.


    304. Sông sâu nước chảy lờ đờ,
    Con thuyền lững vững với trăng mờ nào soi.
    Con sông bên lở, bên bồi,
    Lở kia lở mãi, bên bồi bồi thêm.
    Lúc bao giờ gió đứng, sóng êm,
    Con thuyền anh xuôi ngược qua đêm lại về.
    Với em anh trót nặng lời thề.


    305. Sợ đó không ưng,
    Đó ưng đây anh mừng biết mấy,
    Hễ anh thương rồi cha mẹ thấy cũng thương.


    306. Sơn lâm mất cội tương vàng.
    Cành bao nhiều lá, thương chàng bấy nhiêu.


    307. Ta nghe tiếng hát đâu đây,
    Ta về rút chiếc thuyền mây đi tìm.
    Ta nghe tiếng hát bên kia,
    Ta về ta bảo mẹ cha sang mời.


    308. Tàu Nam-vang chạy ngang cồn cát,
    Xuồng câu tôm hớt sát mé nga,
    Anh thấy em có một mẹ già,
    Muốn vô hoạn dưỡng biết mà đặng không?


    309. Tay cầm cái kéo con dao,
    Chọc trời, vạch đất lấy nhau phen này.


    310. Tay cầm cái kéo cây kim,
    Vai mang hàng lụa đi tìm thợ may.
    Tìm anh bảy tám hôm nay,
    Mượn may cái áo, mượn may cái quần.


    311. Tay cầm cuốn sách bìa vàng.
    Sách bao nhiêu chữ dạ anh thương nàng bấy nhiêu.


    312. Tay tiên rót chén rượu đào,
    Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say.
    Chẳng chè chẳng chén sao say?
    Chẳng thương, chẳng nhớ sao hay đi tìm.
    Tìm em như thể tìm chim,
    Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông.


    313. Tay bưng chậu cúc năm bông,
    Chờ anh chẳng đặng nên trồng xuống đây.


    314. Tay cầm cây viết liếc xem,
    Thấy ai đi đó tưởng tình nương vội mừng.


    315. Tiếc công anh vạch lỗ chun rào,
    Thăm không đặng bậu, hàng rào nó cào trầy lưng.


    316. Tiếng đồn cặp mắt em lanh,
    Ai ai không ngó, cứ anh, em nhìn.


    317. Tình cờ bắt gặp nàng đây,
    Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần.
    May xong anh trả tiền công,
    Bao giờ lấy chồng anh đỡ vốn cho.
    Anh giúp cho một thúng xôi vò,
    Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
    Anh giúp cho đôi chiếu em nằm,
    Đôi chăn em đắp, đôi trầm em đeo,
    Anh giúp cho quan tám tiền cheo,
    Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.


    318. Tình nhân ơi hỡi tình nhân!
    Lại đây ta kể mưa xuân, nắng hè.


    319. Tình về Đại-lược,
    Duyên ngược Kim-long.
    Đến đây là chỗ rẽ lòng,
    Gặp nhau còn biết trên sông bên nào?


    320. Tình cờ bắt gặp nàng đây,
    Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần.
    Để mà kết nghĩa tương thân,
    Mai ngày chỉ Tấn, tơ Tần xe duyên.


    321. Tình cờ anh gặp nàng đây,
    Như cá gặp nước, như mây gặp rồng.
    Rồng gặp mây, bán văn, bán vũ,
    Cá gặp nước, con ngược, con xuôi.
    Chồng Nam vợ Bắc anh ơi,
    Sao anh chẳng lấy một người như em?


    322. Tình cờ bắt gặp nàng đây,
    Hỏi rằng duyên ấy tình nầy làm sao?
    Cái gì là mận, là đào
    Cái gì là ngãi tương giao hỡi nàng?


    323. Tính tháng rồi lại tính năm,
    Tính tháng tháng đoạn, tính năm năm rồi.
    Đôi ta biết thuở nào nguôi.


    324. Tóc em dài lại cài hoa lý,
    Thấy miệng em cười thắm ý anh thương.


    325. Tối trời đom đóm chớp giăng,
    Xa em một bữa mấy cái khăn ướt dầm.
    Mưa sa sấm chớp ầm ầm,
    Tuy chưa gặp cuộc ăn nằm cũng thương.


    326. Tối trời như mực như than,
    Thương anh bất quản đỗi đàng xa xôi.


    327. Tơ tằm đã vấn thì vương.
    Đã trót dan díu, thì thương nhau cùng.


    328. Tới đây chiếu trải trầu mời,
    Cần chi mà đứng giữa trời sương sa.


    329. Từ khi bước cẳng xuống thoàn,
    Bao nhiêu sóng dợn thương chàng bấy nhiêu.


    330. Thân em như tấm lụa đào,
    Còn nguyên hay xé vuông nào cho ai?


    331. Thẩn thơ đứng gốc cây mai,
    Bóng tôi, tôi nghĩ, bóng ai, tôi lầm.


    332. Thẩn thơ đứng gốc mai già,
    Hỏi thăm ông nguyệt có nhà hay không?


    333. Thấy em nhỏ thó lại có duyên ngầm,
    Anh phải lòng thầm hơn mấy năm nay.


    334. Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng,
    Thấy anh em cũng mơ màng,
    Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi.
    Thấy anh chưa kịp ngỏ lời,
    Ai ngờ anh đã vội dời gót loan.
    Thiếp tôi mê mẩn canh tàn,
    Chiêm bao như thấy anh chàng ngồi bên.
    Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên,
    Tương tư, bệnh em nó phát liên miên cả ngày.
    Ngỡ rằng duyên nợ đó đây,
    Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào,
    Cho thiếp tỏ thiệt mới nao.


    335. Thấy em đẹp nói đẹp cười,
    Đẹp người đẹp nết lại tươi răng vàng.
    Vậy nên anh gởi thơ sang,
    Tình cờ anh quyết lấy nàng mà thôi.


    336. Thấy em như chói mặt trời,
    Chót miếng khó chịu, trao lời khó trao.


    337. Thấy bạn mà chẳng thấy chàng,
    Bâng khuâng như mất lọng vàng trên tay.


    338. Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng.
    Khác gì như thể phượng hoàng gặp nhau.
    Tiện đây ăn một miếng trầu,
    Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là.
    Xin chàng quá bước vào nhà,
    Trước là hỏi chuyện, sau là nghỉ chân.
    Thiều quang đãng rật,
    Thục khí nhân huân.
    Ngũ lão ban đồng kiên lão,
    Tam đa chúc hiệp hoa phong,
    Tam đạt tôn chữ Sĩ làm đầu,
    Ai ai cũng mừng ông Trùm tuổi thọ.
    Sách có chữ rằng:
    Tuế hữu tứ thời Xuân tại thủ,
    Nhân kiêm ngũ phúc thọ vi tiên”.
    Mừng ông Trùm dãy Phúc Lộc kiêm tuyền.
    Lại gồm chữ “Hương trung thượng thọ”.
    Tước lộc thế mà danh lợi thế,
    Dẫu nghìn năm còn tiếng thơm dai,
    Thảnh thơi thọ vực xuân đài,
    Đâu đâu cũng hoan hài ca vũ.


    339. Thiếp mà chẳng đặng gần chàng,
    Quyết lòng chờ đợi hoa tàn cũng ưng.


    340. Thò tay mà ngắt ngọn ngò,
    Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ.


    341. Thuyền tình đã ghé tới nơi,
    Khách tình sao chẳng xuống chơi thuyền tình.
    Thuyền không đỗ bến Giang-đình.


    342. Thuyền ngược hay thuyền xuôi,
    Thuyền về Nam-định cho tôi ghé nhờ.
    Con gái chỉ nói ỡm ờ!
    Thuyền anh chật chội còn nhớ làm sao.
    Miệng nói tay anh bẻ lái vào,
    Rửa chân cho sạch bước vào trong khoan.
    Thuyền dọc anh trải chiếu ngang,
    Anh thời nằm giữa hai nàng đôi bên.


    343. Thuyền trôi trước,
    Cho tôi lướt đến cùng,
    Chiều đã về trời đất mung lung,
    Phải duyên thì xích lại,
    Cho đỡ não nùng tiếng sương.


    344. Thuyền đã đến bến, anh ơi,
    Sao anh chẳng bắc cầu noi lên bờ.


    345. Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
    Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.


    346. Thuyền ai đứng chực bên sông,
    Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
    Để ta kết nghĩa làm quen.


    347. Thúng lủng trôn khôn bưng khó bợ,
    Anh tới chốn nầy bợ ngợ có em.


    348. Thuở hỏi anh nhỏ thầy anh có bảo rằng:
    Cứ chuyên tập nghiệp hằng,
    Phải siêng năng đọc sách
    Câu: Võ vô thiết tỏa năng lưu khách,
    Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
    Xét xa rồi lại xét gần,
    Thấy em ai khiến mười phần nên thương.


    349. Thương em anh biết để đâu,
    Để vào tay nải lâu lâu lại dòm.


    350. Thương anh chẳng biết để đâu,
    Để vào khúc gỗ hai đầu sơn son.
     
    kuakangxanh and vinguyen264 like this.
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    351. Thương anh dầu dãi nắng mưa.
    Hết khơi ruộng thấp, cày bừa ruộng cao.


    352. Thương nhau nên phải đi tìm,
    Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn.


    353. Thương em chẳng dám vô nhà,
    Đi ngang qua ngõ hỏi gà bán không.


    354. Thương em vô giá quá chừng,
    Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.


    355. Thương em anh cũng muốn vô,
    Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam-giang,


    356. Thương em như lá đài bi,
    Ngày thì dãi nắng đêm thì dầu sương.


    357. Thương em thuở áo mới may,
    Bây giờ áo rách thay tay vá quàng.


    358. Thương sao thấy mặt thương dành,
    Hay là tơ nguyệt để dành cho anh.


    359. Trái bòn hòn trong tròn ngoài méo,
    Trái thầu dâu trong héo ngoài tươi.
    Em thương anh ít nói ít cười,
    Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng.


    360. Trăm năm đá nát vàng phai,
    Lời nguyền với bạn, nhớ hoài không quên,


    361. Trầu bọc khăn trắng cau tươi,
    Trầu bọc khăn trắng, đãi người xinh xinh.
    Ăn cho nó thỏa tâm tình,
    Ăn cho nó thỏa sự mình với ta.


    562. Trầu này, trầu quế, trầu hầu,
    Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi lấy mình.
    Trầu nầy trầu tính, trầu tình,
    Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình lấy ta.
    Trầu nầy têm tối hôm qua,
    Giấu cha, giấu mẹ đem ra cho chàng.
    Trầu nầy không phải trầu hàng,
    Không bùa, không thuốc, sao chàng không ăn?
    Hay là chê khó chê khăn,
    Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.


    363. Trầu ăn là nghĩa,
    Thuốc xỉa là tình,
    Đội ơn phụ mẫu sinh mình dễ thương.


    364. Trầu em, trầu gói trong khăn,
    Trầu gói trong áo, anh ăn sao đành.


    365. Trèo lên cái núi Thiên-thai,
    Gặp hai con phượng ăn xoài trên cây,
    Đôi ta được gặp nhau đây,
    Khác gì chim phượng gặp cây ngô đồng.


    366. Trên trời có đám mây xanh,
    Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.
    Ước gì anh lấy được nàng,
    Thời anh mua gạch Bát-tràng về xây.
    Xây dọc rồi lại xây ngang,
    Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.


    367. Trên đầu em đội khăn vuông,
    Trông xuống dưới ngực, cau buồng còn non.
    Cổ tay em vừa trắng vừa tròn,
    Mặt mũi vuông vắn chồng con thế nào?


    368. Trên trời có chín từng mây,
    Anh còn trèo được nữa duyên có mình.


    369. Trên trời sa xuống hai tiên,
    Lòng anh không mộ, mộ duyên của nàng.


    370. Trong nhà anh lát đá hoa,
    Chân tảng đồng bạch, lợp nhà tiền trinh.
    Cửa bức bàn anh lồng kính thủy tinh,
    Hai bên bức thuận anh chạm tứ linh, rồng chầu.
    Nhà anh kín trước rào sau,
    Tường đâu bốn mặt, hơn đâu hỡi nàng?
    Nhà anh vóc nhiễu nghênh ngang,
    Nhiễu điều lót áo cho nàng đi chơi.
    Áo nàng anh sắm đủ mười đôi,
    Bộ ba áo nhiễu để mặc chơi ngày thường.
    Dù nàng có bụng nàng thương,
    Thì anh quyết đóng bốn thang giường gỗ lim.


    371. Trông anh như thể nghìn vàng,
    Bỏ ra thì khách hồng nhan được nhờ.
    Anh như chỉ thắm thêu cờ,
    Em như rau má lờ mờ giếng khơi,
    Dù anh mà chửa có nơi,
    Em xin vượt bể qua trời theo anh.


    372. Trồng hường bẻ lá che hường,
    Thương em bất quản đỗi đường xa xôi.


    373. Trống quỳnh tiên đánh trước,
    Kèn nhà nước thổi sau,
    Ba mươi lăm xu không nỡ làm giàu.
    Xin cho thấy mặt không chào cũng vui.


    374. Trời mưa ướt áo em rồi,
    Kiếm nơi có lửa lần hồi mà hơ.


    375. Trời xanh kinh đỏ đất xanh,
    Đĩa bu muỗi cắn làm anh nhớ nàng.


    376. Trời mưa xắn ống cao quần,
    Hỏi cô bán thuốc nhà gần hay xa,


    377. Trời vần vũ mây giăng bốn phía,
    Nước biển Đông sóng dợn tứ bề.
    Biết làm sao cho nên nghĩa phu thê,
    Đó đây chồng vợ đi về có đôi.


    378. Trời vần vũ mây phủ tối tăm,
    Bấy lâu thổn thức ngã tâm,
    Làm sao chung gối ngồi nằm với nhau.


    379. Trước tôi chào anh em đông đủ,
    Sau tôi chào bạn cũ bá niên,
    Câu chào câu hỏi đã yên,
    Còn câu gá nghĩa chào riêng mình chàng.


    380. Trước đường xe ngựa bời bời!
    Bụi hồng mờ mịt, ai người mắt xanh.


    381. Ước gì anh lấy được nàng,
    Thì anh gánh gạch Bát-tràng về xây.


    382. Ước ao ăn ở một nhà,
    Ra đụng vào chạm kẻo mà nhớ thương.


    383. Ước gì anh hóa ra dưa.
    Để em đem rửa nước mưa chậu đồng.
    Ước gì anh hóa ra hồng.
    Để cho em bế, em bồng trên tay.


    384. Ước gì em hóa ra giơi,
    Bay đi bay lại tới nơi anh nằm,


    385. Ước gì sông hẹp một gang,
    Bắc cầu giải yếm cho cho chàng sang chơi.


    386. Vách thành cao lắm khó dòm,
    Nhớ em, anh khóc đỏ lòm con ngươi.


    337. Vào vườn hái quả cau non,
    Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu.
    Trầu này têm những vôi Tàu,
    Giữa dậm cát cánh, hai đầu quế cay,
    Trầu này ăn thiệt là say,
    Dù mặn, dù lạt, dù cay, dù nồng.
    Dù chẳng nên đạo vợ chồng.
    Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương.
    Cầm lược thì nhớ đến gương,
    Cầm khăn nhớ túi, nằm giường nhớ nhau.


    388. Vào vườn hái quả cau non,
    Anh thấy em dòn, muốn kết nhân duyên.
    Hai má có hai đồng tiền,
    Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa.
    - Anh đã có vợ con chưa?
    Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.
    Mẹ già anh để nơi nao?
    Để em tìm vào hầu hạ thay anh,
    Chả tham nhà ngói rung rinh.
    Tham về một nỗi anh xinh miệng cười.
    Miệng cười anh đáng mấy mươi,
    Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm.
    Từ giấy hồng anh phong chữ thọ.
    Anh gửi thư nầy cả họ bình yên,
    Văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình,
    Mặt tuy chưa thấy mặt, nghe tình nên thương.


    389. Vì chàng thiếp phải bắt cua,
    Những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng.
    Vì chàng thiếp phải long đong,
    Những như thân thiếp cũng xong một bề,


    390. Vì tình ta phải tìm tình,
    Vì duyên ta biết quê mình ở đây.


    391. Vì sàng cho gạo xuống nia,
    Vì em, anh phải đi khuya về thầm.


    392. Vì chuôm cho cá bén đăng,
    Vì tình nên phải đi trăng về mờ.


    393. Ví dầu ấy có lòng yêu,
    Bảo ta gánh đá Đông-triều cũng đi.


    384. Vú em chum chúm chủm cau,
    Cho anh bóp cái có đau cũng đền.
    Vú em chỉ đáng một tiền,
    Cho anh bóp cái, anh đền quan năm.


    395. Xa đường mượn áo mà đi,
    Xin cho tốt quế quản chi xa đường.
    Trồng hồng bẻ lá che hồng,
    Thương em chẳng quản nỗi đường xa xôi.
    Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,
    Nước kia muốn chẩy, mà mương không đào.


    396. Xa xôi em chớ ngại ngùng,
    Xa người xa tiếng, nhưng lòng không xa.


    397. Yêu nhau chữ vị là vì,
    Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo.


    398. Yêu nhau chẳng quản chiếu giường,
    Dẫu rằng tàu lá che sương cũng tình.


    398. Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
    Thất bát khe cũng lội, tứ cửu, tam thập lục đèo cũng qua.


    399. Yêu nhau quá đỗi nên mê,
    Rồi sau mới biết kẻ chê người cười.


    400. Yêu anh tâm trí hao mòn,
    Yêu anh đến thác cũng còn yêu anh,


    401. Yêu nhau cởi áo cho nhau,
    Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.


    402. Yêu nhau chẳng quản gần xa,
    Một ngày chẳng đến thì ba bốn ngày.


    403. Yêu nhau chẳng quản gần xa,
    Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.


    404. Yêu em gánh gạch về đây,
    Chẳng đắp nên núi, cũng xây nên thành.


    405. Yêu nhau vạn sự chẳng nề,
    Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.


    406. Yêu nhau chẳng quản đường xa.
    Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.


    407. Yêu anh cốt rũ xương mòn,
    Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.
     
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    B. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN

    Hôn nhân bắt nguồn từ sự luyến ái giữa gái trai. Nó là bước đầu nảy sinh chế độ gia đình, làm nền móng cho xã hội, ràng buộc con người vào lẽ sống của tổ chức tập thể có qui củ. Trái lại, hôn nhân cũng chịu ảnh hưởng ngược chiều do lẽ sống con người chi phối. Bởi vậy từ nghìn xưa, không ai có thể phủ nhận tính chất quan trọng của nó.

    Chúng ta đi tìm quan niệm hôn nhân của người xưa tức là chúng ta đi tìm ý thức sống chung giữa trai gái, ước vọng tạo lập gia đình, và gầy dựng sự nghiệp.

    Ý thức ấy rải rác trong ca dao, tục ngữ rất nhiều. Tuy nhiên, dân tộc Việt-nam vừa bước vào thời ký bán khai đã bị lệ thuộc vào nước Tàu, chế độ phụ hệ của người Tàu gieo ảnh hưởng vào chế độ cai trị ở Việt-nam, khiến dân tộc ta từ khi bắt đầu nhận thức được lẽ sống, nói lên tiếng nói của tâm tư mình, thì cũng là lúc bắt đầu thu nhận một chế độ gia đình đã thành hình sẵn.

    Đó là một đau khổ, một bất công cho nữ giới mà người đàn bà Việt-nam suốt mấy nghìn năm đã phải cam chịu.

    Từ chế độ phụ hệ đi đến chế độ phụ quyền, tập trung quyền lực vào đàn ông, vào kẻ làm cha mẹ, khiến con cái mất hẳn quyền định đoạt cuộc đời mình, mà trong lĩnh vực hôn nhân, người đàn bà chịu thiệt thòi hơn hết.

    Nếu có một nhà cách mạng nào đã nói một cách xác đáng: “Con người là một con vật với cái rồi nó cũng quen”, cho nên, dù chịu dưới áp lực của chế độ xã hội, nhưng ai ngăn cấm được tiếng lòng của gái trai rào rạt dâng lên theo tiếng chày khua trong những đêm trăng dằng dặc, tiếng liềm xào xạc trên ruộng lúa, tiếng chèo khuấy lăn tăn mặt nước, tiếng võng kẽo kẹt lúc trưa hè....

    Từ những tiếng động gợi tình, những cảnh vật huyền ảo bao quanh cuộc sống của những tâm hồn vừa chớm nở hoa xuân, khiến họ cảm thấy dồi dào nguồn sống, sự luyến ái nảy nở, lòng họ khao khát yêu đương, vì họ mơ màng ước ao một đối tượng yêu đương, một ý trung nhân, hay rõ hơn, một người chồng lý tưởng. Do đó mà quan niệm hôn nhân đã được bộc lộ, cởi mở bằng những lời ca dao mộc mạc, cho đến ngày nay chúng ta vẫn còn được nghe âm thanh ấy vang vang trên lòng đất Mẹ.

    Đừng tưởng tiền nhân chúng ta, những người bình dân khổ cực ấy không có ý thức đối với lẽ sống! Tuy phải làm lụng vất vả suốt ngày trong nắng hạ mưa đông, mặt cháy mày nám, nhưng tâm hồn họ vẫn vươn lên tìm cho mình một sức sống.

    Sức sống ấy chính là ý thức phản lại những gì đang bóp chết tâm hồn và thể xác họ.

    Con người và lẽ sống là hai yếu tố tương quan và hiện diện mãi, dù ở thời đại nào, con người cũng vẫn tranh đấu cho hai yếu tố ấy. Chúng ta không thể phủ nhận một trong hai yếu tố ấy mà bảo vệ được sự tồn tại của tổ chức sinh hoạt của con người. Cho nên, chế độ hôn nhân là của xã hội, của một ý thức hệ, của guồng máy cai trị, mà quan niệm hôn nhân là của con người, của ý sống. Nhưng con người lại bị ràng buộc trong xã hội, lẽ dĩ nhiên quan niệm hôn nhân hay ý sống vẫn phải chịu ảnh hưởng theo trình độ sinh hoạt xã hội, song bản chất của nó vẫn không xa rời con người.

    Bản chất ấy dậy men và bốc lên thành tiếng hát từ ngàn xưa vọng lại, mà tâm hồn chúng ta ngày nay còn cảm thông được nỗi ray rứt trong lòng tiền nhân đã phân vân khi đứng trước tình yêu và lẽ sống con người.

    Thân em như tấm lụa đào.
    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
    Em ngồi cành trúc, em dựa cành mai,
    Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng?

    Tâm trạng ấy ở thế hệ ngày nay, những người con gái đang yêu, và đang lựa chọn tình yêu, dù được hưởng một chế độ xã hội tự do cởi mở hơn, nhưng chắc đã không một lần bối rối trước quan niệm hôn nhân của mình.

    Làm thế nào xây dựng đời mình đây? Làm thế nào để khỏi trợt chân khi bắt đầu bước vào cuộc sống?

    Dè đặt ư? Thận trọng ư? Nhưng cái nghĩa thời gian thì sao?

    Khi tâm tư chúng ta chưa quyết định, thì ngoài kia, trong buổi sáng tinh sương, ánh mặt trời mềm dịu như nhung tơ đang sưởi ấm những cành hoa vừa hé nhụy, và những cành hoa ấy cứ âm thầm lớp lớp nở rồi tàn.

    Thử trèo lên mặt đê, nhìn về những cây mạ non chúng ta vừa mới cấy ngày nào, bây giờ đã ngậm đòng trổ gié. Nguồn sống của lúa non vươn lên theo dung lượng chồng chất của thời gian khiến lòng người vì đó mà luyến tiếc tuổi xuân xanh.

    Còn duyên kẻ đón người đưa,
    Hết duyên đi sớm về trưa một mình.
    Còn duyên đóng cửa kén chồng,
    Hết duyên ngồi gốc cây hồng nhặt hoa!
    Còn duyên kén cá chọn canh,
    Hết duyên củ ráy dưa hành cũng trôi.
    Còn
    duyên kén những trai tơ,
    Hết duyên
    ông lão cũng làm chồng!

    Duyên! Một vấn đề quan hệ đối với hôn nhân! Nhưng một chàng trai thời xưa đã quan niệm duyên như thế nào? Dĩ nhiên họ không coi ý nghĩa “duyên” như ý nghĩa của tôn giáo. Ý nghĩa duyên của họ, chúng ta thường được nghe giải thích qua câu hát của những mục đồng:

    Trời mưa lâm râm
    Cây
    trâm trái
    Con
    gái duyên
    Đồng tiền
    lỗ...​

    Vậy “duyên” ở đây có thể là một mái tóc huyền, một nụ cười hàm tiếu, một vành khăn nâu, một làn da trắng một chiếc yếm điều… hoặc tất cả những gì đưa họ vào luyến ái. Chúng ta có thể hiểu theo ý nghĩa rộng hơn thì “duyên” là mức sống, là cái gì đang vươn lên tràn ra ngoài thể chất, là hấp dẫn lực lôi cuốn tâm hồn đối tượng chìm đắm trong cảm khoái say sưa, có khi khứu giác ta còn bắt gặp mùi vị ngọt lịm của hương yêu. Trong phút giây ngây ngất ấy, sự phân tích thẩm mỹ của nhìn quan dường như giao trách vụ lại cho tự nhận định cái duyên của tâm hồn. Và khi chúng ta muốn làm kẻ hưởng thụ cái duyên tức là chúng ta muõn đi tìm sức sống ấy.

    Thời gian đem đến cho mỗi con người chúng ta một sức sống thì thời gian cũng sẽ đoạt mất trong con người chúng ta sức sống ấy. Người bình dân trước kia không cần suy luận như chúng ta, nhưng vẫn quan niệm được điều đó.

    Thời gian đối với hôn nhân rất quan hệ; nó thúc bách, cho nên quan niệm kén chọn của người xưa nhiều lúc tỏ ra bâng khuâng trước định mệnh:

    Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần,
    Làm thân con nhện mấy lần vương tơ!
    Chắc về đâu trong đục mà chờ,
    Hoa thơm mất tiết biết nương nhờ vào đâu!

    Đâu đã hết! Sức sống thoát ra trên con người chưa hẳn là yếu tố quyết định! Hôn nhân còn chịu ảnh hưởng vào sức sống của xã hội, sức sống thực tại bằng áo, bằng cơm, bằng mồ hôi, nước mắt nữa. Cho nên nhiều lúc cái duyên của luyến ái bị sức sống xã hội ám ảnh, làm cho quan niệm hôn nhân của người xưa dồn vào chỗ mung lung bất định. Trạng thái tâm tư ấy, chúng ta có thể ghi nhận ở những câu hát sau đây:

    Rắp mong trời tề xuống cõi trần,
    Hỏi xem duyên kiếp nợ nần sa sao?
    Tím gan thay, khách má đào,
    Mông mênh bể Sở dễ vào khó ra,
    Hươu
    trót đã mắc phải chà,
    Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo.​

    Hai sức sống trên con người và ngoài xã hội tuy tương quan nhưng lại mâu thuẫn nhau. Chính sự tương quan trong mâu thuẫn ấy tạo thành dòng lịch sử tâm tư trong quan niệm hôn nhân từ sơ cổ đến đến thế hệ chúng ta, và có lẽ còn mãi mãi chưa biết bao giờ dứt.

    Thật vậy, từ ngàn xưa, trong tâm tư con người, quan niệm hôn nhân đã chia thành hai chiều hướng: quan niệm hôn nhân vị luyến áiquan niệm hôn nhân vị mưu sinh.

    1) Quan niệm hôn nhân vị luyến ái cho đời sống hôn nhân là cái gì cao đẹp về tinh thần, cái gì hòa hợp của tình cảm giữa trai gái. Đôi vợ chồng không thể sống chung nhau trong dị biệt về tư tưởng, về mỹ quan, v.v... Do đó, họ chủ trương vợ chồng phải xứng lứa vừa đôi:

    Màn hoa lại trải chiếu hoa,
    Bát
    ngọc đũa ngà thì phải mâm son.

    Những người chủ trương cho luyến ái là thiết yếu đối với hôn nhân, họ chối bỏ mọi ràng buộc về sinh sống trong quan niệm hôn nhân. Nguồn hạnh phúc gia đình đối với họ không phải ở chỗ giàu sang, mà ở chỗ đẹp duyên. Đẹp duyên ở đây có nghĩa là xứng vợ xứng chồng, hòa hợp tình cảm.

    Phải duyên, thì bám như keo,
    Trái duyên, trái kiếp như kèo đục vênh.

    Họ bảo: “Nhân nghĩa khó kiếm, tiền bạc dễ tìm”. Sự hòa hợp tình cảm lứa đôi sẽ là năng lực tạo nên sự nghiệp vật chất:

    Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn.​

    Bởi vậy nghèo khổ đối với họ không quan trọng bằng chênh lệch lứa đôi. Một cô thôn nữ khi đã có quan niệm hôn nhân vị luyến ái tất nhiên sẽ xem nhẹ tiền của, địa vị, mặc dù cô ta đang sống trong khổ cực:

    Số em giàu lấy khó cũng giàu,
    Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
    Phải duyên phải kiếp thì theo,
    Thân em có quản khó nghèo làm chi.
    Chữ nhân duyên thiên tải nhất thì,
    Giàu ăn khó chịu lo gì mà lo.

    Với quan niệm ấy, họ chọn vợ kén chồng không căn cứ vào địa vị xã hội, không cần đặt vấn đề con dòng cháu giống. Họ chủ trương:

    Trai khôn tìm vợ chợ đông,
    Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.

    Nguồn giao cảm giữa cá nhân quyết định tất cả. Chẳng những họ chú trọng phương diện cân xứng về tinh thần, mà còn chú trọng về mặt thăng bằng thể chất nữa.

    Về tinh thần, họ nhằm trọng tâm chỗ khôn dại, như:

    Vợ khôn lấy thằng chồng dại,
    Tỷ như hoa lài cắm bãi cứt trâu.
    Tiếc thay con người da trắng tóc dài,
    Bác mẹ gả bán cho người đần ngu.
    Rồng vàng tắm vũng ao tù,
    Người khôn ở với đứa ngu bực mình.

    Sự chênh lệch về tinh thần đối với vợ chồng xưa cũng như nay, chúng ta thấy quả là một trở ngại lớn lao trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Những cảm nghĩ của người xưa không phải tự nhiên mà có, chính họ đã đạt được một phần kinh nghiệm do tiền nhân để lại và một phần do nhận định trong tâm tư họ.

    Dưới đây là điển hình một tan vỡ tâm hồn khi bị đun đẩy đến hoàn cảnh trái ngược quan điểm hôn nhân. Các nàng cùng nhau trách phận vì đã run rẩy phản đối chế độ khắc nghiệt, nhưng cũng không xong:

    Chị em ơi! Người ta thấy chồng thì mừng.
    Sao tôi thấy mặt chồng thì nóng như gừng với vôi.
    Cũng tại lấy chồng trước chẳng kén đôi,
    Từ ngày tôi lấy nó chẳng nguôi trong lòng.
    Ba bốn lần tôi trả cũng chưa xong.

    Tình yêu không đến với con người bằng ý nghĩ, bằng lý luận, mà phải bằng giao cảm. Từ cảm giác đi vào ý thức; nếu sự giao cảm không đạt thì chẳng bao giờ có tình yêu. Giao cảm lại đòi hỏi mực cung cầu tương ứng, vì vậy hạnh phúc vợ chồng phải xây trên sự khắn khít của giao cảm. Chính vì vậy mà người xưa bực mình, thốt ra câu tục ngữ như:

    Ông nói gà, bà nói vịt.

    Hoặc câu ca dao như:

    Lọng vàng che nải chuối xanh,
    Tiếc con chim phượng đậu cành cây khô.

    Về thể chất, họ chủ trương đáp ứng tương xứng tính chất thụ hưởng để đem lại công bằng, không bên nào bị thiệt thòi. Chồng đẹp lấy vợ đẹp, chồng xấu lấy vợ xấu, đó là trạng thái công bằng. Có công bằng thể chất thi tinh thần mới bình đẳng giữa vợ chồng được. Khi quan niệm ấy lệch lạc, họ liền có ngay ý thức phê bình như sau:

    Cổ tay em vừa trắng vừa tròn,
    Răng đen rưng rức chồng con kém người.
    Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi!
    Tiên ở với cú, người cười với ma!
    Con công ăn lẫn với gà,
    Rồng kia rắn nọ coi đà sao nên!

    Nếu Nho-giáo chủ trương kén vợ kén chồng dựa trên môn đăng hộ đối, xem đó là một vinh dự của hai bên về dòng giống, thì ở đây quan niệm hôn nhân vị luyến ái lại xem sắc đẹp trai gái là một tài sản, một vinh dự trời ban, nếu có sự chênh lệch về sắc đẹp giữa vợ chồng thì là một sỉ nhục, phạm đến vinh dự của con người:

    Tiếc thay cái tấm lụa đào,
    Áo rách không vá, vá vào áo tơi.
    Trời kia có thấu chăng trời!
    Lụa đào mà vá áo tơi sao đành!

    Đã chê trách nhưng đôi vợ chồng không xứng lứa, họ còn lớn tiếng phản đối những anh chồng xấu có tham vọng lấy vợ đẹp, hoặc những cô gái xấu kén chồng đẹp:

    Gió đưa lúc lắc cột chòi.
    Đồ đen như mọi mà đòi vợ xinh!

    Hoặc:

    Cóc mang guốc ai ưa,
    Đỉa đeo chân hạc sao vừa mà mong!

    2) Trái lại với quan niệm hôn nhân vị luyến ái, quan niệm hôn nhân vị mưu sinh cho rằng hạnh phúc vợ chồng tồn tại trên cơ sở sự nghiệp mới là yếu tố căn bản đem lại cho vợ chồng một nguồn sống êm vui. Bởi vì hôn nhân là khởi điểm của gia đình, mà khi nói đến gia đình tức là nói đến sự sinh sống hàng ngày có liên hệ đến mọi sinh hoạt xã hội, nói đến cuộc tranh đua vật lộn với đời.

    Con người sở dĩ phải tạo lập gia đình, phải cấu kết thành họ hàng là để chung sức nhau chống lại sức mâu thuẫn của loài người trong xã hội.

    Bất kỳ với xã hội nào, mỗi con người đều thụ nhận một sức ép, nếu kẻ nào không chống nổi sức ép ấy thì cũng không thể nào tìm thấy cái tươi đẹp trong cuộc sống cá nhân nữa, bởi vì cá nhân không thể tách rời cuộc sống xã hội.

    Mặc khác, so với đời người thì nhan sắc chỉ là cái gì tạm bợ, không tồn tại với thời gian, dù chỉ là thời gian của đời người. Nếu xây dựng hôn nhân chú trọng trên nhan sắc tức là đã cố nắm phần phụ mà quên mất phần chính của lẽ sống.

    Những tâm tư trên đây, chính người xưa đã nói lên qua những câu ca dao, như:

    Anh ơi trẻ mãi ru mà,
    Càng đo đắn lắm, càng già hết duyên.

    Hoặc:

    Trai ba mươi tuổi đang xuân,
    Gái ba mươi
    tuổi như đùm mắm nêm!

    Câu nói trên không phải nhất thiết thốt ra từ cửa miệng đàn ông để đề cao giống phái mình, mà chính người con gái cũng cảm thấy những gì đau khổ khi nhan sắc bị tàn phai, nên họ đã than:

    Một mai cúc ngã lan quì,
    Bậu lo thân bậu, lo gì thân qua.

    Mùa xuân không dừng lại với loài người! Khi những cánh én kia không còn bay lượn ở lưng trời, những thảm cỏ xanh đổi màu vàng úa, tiếng ve sầu ngâm vang buồn nắng hạ, con người mới cảm thấy những dòng nước trong kia rỉ rả chảy vào lòng đất chính là nguồn an ủi đối với mọi sinh vật trước thiên nhiên.

    Vì quan niệm lẽ sống ảnh hưởng vào đời người như vậy, nên người xưa cũng đã mạnh dạn chủ trương hôn nhân vị mưu sinh.

    Quan niệm này không lựa vợ kén chồng trên yếu tố xứng dối vừa lứa, mà chú trọng vào địa vị, thế lực, vào sức sống vật chất mạnh mẽ của người con trai, con gái hiện có.

    Họ cho rằng:

    Chồng sang vợ được đi giày,
    Vợ sang chồng được ghé ngày cậy trông.

    Khi đã chủ trương hôn nhân trên quan niệm mưu sinh rồi, tất nhiên họ khai thác về khả năng tài sản địa vị:

    Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
    Bõ công tô điểm má hồng răng đen.
    Không tham ruộng cả ao liền.
    Thèm vì cái bút, cái nghiên anh đồ.

    Anh đồ ngày xưa là tượng trưng cho ngựa xe, võng lọng, tượng trưng cho địa vị quan liêu. Ngày nay tuy anh chỉ là chàng hàn nho, nhưng ngày mai tên chiếm bảng vàng thì trước voi anh, sau võng nàng, cuộc đời phong lưu phú quý như mở một đường hoa. Cái ngày rực rỡ ấy không làm sao cho khỏi bao nàng gắm ghé:

    Đi đâu chẳng lấy học trò,
    Thấy người ta đỗ thập thò mà nom.

    Hình ảnh tương lai huy hoàng ấy, nhiều khi đã len lỏi vào tâm tư khiến họ mơ màng:

    Đêm nằm nghĩ lại mà coi,
    Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng.

    Cùng với quan niệm ấy, họ còn đặc biệt lưu tâm đến nòi giống, vì nòi giống tượng trưng cho giai cấp xã hội, mà thời xưa, giai cấp xã hội rất quan trọng trong guồng máy sinh hoạt, biết vậy, sự quyết định của họ như cầm chắc:

    Mua thịt thì chọn miếng mông,
    Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi.​

    Tuy tự quyết định ấy, đôi khi thực tế cũng phản lại ý thức của họ, nhưng họ vẫn bám lấy niềm an ủi:

    Mạch trong nước chảy ra trong,
    Thế nào đi nữa con dòng cũng hơn.

    Với quan niệm vị mưu sinh, vì tôn trọng sự sang giàu và địa vị xã hội, dần dần hôn nhân lệ thuộc vào quyền lực vật chất, hơn nữa nằm trong chế độ phụ hệ, người đàn bà trở thành kẻ ỷ lại, sống bám vào đàn ông! Ý thức ấy phát hiện trong một tinh thần liêu linh:

    Lấy chồng ăn của nhà chồng,
    Ăn hết con mắt, khoét lòng con ngươi.

    Hoặc:

    Hẩm duyên lấy phải chồng đần,
    Có trăm mẫu ruộng bán dần mà ăn.

    Cùng từ quan niệm hôn nhân trong mưu sinh, họ dần dần dẫn đến phong tục thách nhau về hôn lễ. Chính sự thách đố là hình chức phô trương sự giàu sang, địa vị của mình; hơn nữa, là cây thước để do lường khả năng của đối tượng hôn phối. Bản chất thuần túy của hôn nhân vị nhân sinh bị khai thác quá đáng đã khiến trong văn chương bình dân Việt-nam, ngoài những câu phong dao biểu lộ phong tục cưới gả, chúng ta còn thấy những bài hát có tính chất hài hước trong việc thách cưới sau đây:

    Em là con gái nhà giàu.
    Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
    Cưới em trăm tấm lụa đào.
    Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ngôi sao trên trời.
    Tráp tròn, vấn đủ trăm đôi.
    Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng.
    Sắm xe tứ mã đem sang,
    Để quan viên với họ hàng đưa dâu.
    Ba trăm nón Nghệ đội đầu,
    Mỗi người một cái quạt Tàu cầm xinh.
    Anh về sắm nhiễu Nghi-đình,
    May chăn cho rộng, đôi mình đắp chung.
    Cưới em chín chĩnh mật ong,
    Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò.
    Cưới em tám vạn trâu bò,
    Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm.
    Lá đa mặt nguyệt hôm rằm,
    Răng nanh thằng Cuội, râu cằm Thiên-lôi,
    Gan ruồi, mỡ muỗi cho tươi.
    Xin chàng chín chục con dơi góa chồng.
    Thách thế mới thỏa trong lòng,
    Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân.
     
    kuakangxanh and vinguyen264 like this.
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Hôn lễ từ giản dị đến phức tạp, gây thành một lề thói để khoe khoang, họ lấy sự khoe khoang ấy làm bình diện. Cho đến một ngày nào đó, phong tục dựng vợ gả chồng nếu không có mâm cao cỗ đầy, không có giàu dòng cả họ thì đôi trai gái tự cho mình là duyên phận hẩm hiu.

    Chúng ta không lạ lùng gì khi một cô gái sắp bước chân lên ngưỡng cửa đời, nuôi trong lòng một ước vọng:

    Ước gì cho Bắc họp Đông,
    Cho chim loan phượng ngô đồng sánh đôi.
    Ước gì cho quế sánh hồi,
    Ước gì ta sánh được người văn nhân.
    Ước gì ta được quần thâm,
    Thì ta làm cỗ mười mâm bánh dầy.
    Bánh chưng có lẫn bánh dầy,
    Giò hoa chả lụa ta bày lên trên.
    Quang song tám giẻ cho bền,
    Mượn người cho khỏe gánh lên họ hàng.

    Ta thấy, phong tục, lễ nghi ban đầu chỉ có mục đích khoe khoang, dần dần ảnh hưởng vào tâm tư con người biến thành một sức mạnh cổ động cho quan niệm hôn nhân vị mưu sinh.

    Sắc đẹp là một liều thuốc mê, xưa nay có thể làm say đắm những khách đa tình, đến nỗi người ta phải than:

    Má hồng không thuốc mà say,
    Nước
    kia muốn đổ, thành này muốn nghiêng.

    Thế mà, với người xưa, khi quan niệm hôn nhân vị mưu sinh đã chi phối đời sống xã hội con người, ăn sâu vào lề thói, thì sắc đẹp giảm mất hiệu lực. Đứng trước nữ sắc, người con trai không chỉ nghĩ đến sự quyến rủ của cơ hình mà trong thâm tâm mãi bận rộn đến mưu sinh:

    Giếng trong mà nước hôi phèn,
    Tuy rằng em đẹp nhưng hèn mẹ cha!

    Ôi! Người con gái hẩm hiu kia! Sắc đẹp không còn là yếu tố duy nhất để quyết định đời mình trước một kẻ không quan niệm hôn nhân vị luyến ái! Sắc đẹp đối với họ không phải là một linh tượng để tôn thờ. Nếu vì một tham vọng nhất thời nào đó đối với sắc đẹp thì kẻ ấy cũng chỉ xem như luồng gió thoảng trước một chiều hè khi mồ hôi đang nhuễ nhoại, chống cuốc ngồi nghỉ bên ven đồi. Thích thú đấy! Nhưng gió mát không đem đến cho họ một cảm khoái thiết thực bằng niêu cơm tấm, bát canh rau đang chờ họ lúc đói lòng.

    Cho nên, sắc đẹp để bị họ phũ phàng:

    Còn duyên anh cưới ba heo,
    Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi!

    Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng tưởng quan niệm hôn nhân vị mưu sinh chỉ làm mất ảnh hưởng giá trị của sắc đẹp mà thôi. Thực ra nó còn ảnh hưởng đến nhiều phương diện khác nữa, khi giá trị con người, giá trị đời sống lệ thuộc vào tiền bạc, danh vọng.

    Một gã nông phu nghèo, khi muốn lấy vợ giàu sang ít ra cũng phải tỏ cho mọi người thấy mình có tài tháo vát, đủ sức gây nên một sự nghiệp để các cô thôn nữ nhìn vào đó, đặt một hy vọng tương lai trong quan niệm hôn nhân.

    Nếu một anh đồ, một hàn sĩ, lấy bút nghiên làm mối danh vọng mà được khách má hồng để ý, thì chính những anh chàng phu nghèo khổ kia cũng biết lợi dụng tài năng mình, cái tài cày sâu cuốc bẫm, cái tài chịu đựng gian khổ để hứa hẹn với khách má hồng một nguồn sống vững chãi ở tương lai.

    Trạng thái đấu tranh tâm lý của các nông phu đã làm đảo lộn một số cảm nghĩ của những chị em đồng ruộng sống trong thực tế. Cho nên, chúng ta không lạ gì khi thấy cô nàng cố gò gẫm sắc đẹp bằng cách tô điểm má hồng răng đen để nhởn nhơ với anh hàn sĩ, thì lại cũng có những cô xem nhẹ cái bút cái nghiên anh đồ:

    Ai ơi chớ lấy học trò,
    Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
    Mùa đông trời rét căm căm,
    Đi cấy được ba mươi sáu đồng kẽm về, nó lại nằm nó xơi!

    Cây bút cái nghiên trước quan niệm mưu sinh cũng không còn là yếu tố độc quyền của tham vọng nữa khi họ nghi ngờ đến sự thành đạt của ông đồ. Sức lao động của các anh nông phu kia tuy không hấp dẫn lắm, nhưng lại đủ sức chi phối quan niệm hôn nhân.

    Và, trong cuộc chiến đem mồ hôi chống lại ảnh hưởng của cái nghiên cái bút, sự thực, anh nông phu cũng phải điêu đứng trước tình đời mới đánh đổ nổi giá trị tuyệt đối của cấp “sĩ”.

    Cảnh điêu đứng ấy diễn biến trong những gia đình giàu có, chấp nhận một chàng rể kém thế hơn. Sự kém cỏi ấy được bù đắp bằng chỗ chàng rể phải bỏ hết sức mình phụng sự cho nhà vợ.

    Đem giá trị lao động đấu tranh với giá trị giai cấp, người lao động lần lần rơi vào ý thức lợi dụng trong quan niệm hôn nhân.

    Đây, những hình ảnh trong ý thức ấy đã lưu lại:

    Có con mà gả chồng gần,
    Nửa đêm đốt đuốc mang phần cho cha.
    Có con mà gả chồng xa,
    Ba sào ruộng tréo chẳng ma nào cày.

    Thực ra, người nông dân không phải không biết cực nhọc trước những công việc vất vả về lao động, song quan niệm hôn nhân vị mưu sinh đã chi phối họ, lôi họ vào ý thức chung của tổ chức xã hội, buộc họ phải gánh chịu hậu quả tai hại của quan niệm ấy.

    Đây, ta hãy nghe lời than thở của cô thôn nữ trước nổi khổ cực của người chồng nông phu khi phải đem sức lao động đấu tranh với đời:

    Trời mưa cho ướt lá khoai,
    Công anh làm rể đã hai năm ròng.
    Nhà em lắm ruộng ngoài đồng,
    Bắt anh tát nước cực lòng anh thay!
    Tháng chín mưa bụi gió bay,
    Cất lấy gào nước chân tay tụng rời.

    Chính sức lao động đã tạo ra cơm áo, nhưng trên trường tranh đấu, người lao động muốn tỏ ra cho xã hội thấy giá trị của họ cũng không phải dễ!

    Quan niệm hôn nhân vị mưu sinh đối với người con trai đã vậy, thì đối với người con gái cũng không thể thoát ra ngoài ảnh hưởng quyền lực kinh tế.

    Trước hết chúng ta thấy căn bản quan niệm mưu sinh là tước bỏ yếu tố luyến ái. Khi yếu tố luyến ái đã bị xem nhẹ, tự nhiên quyền lựa chọn của người con gái không còn được tồn tại nữa, mà tập trung vào sự định đoạt của mẹ cha. Bởi vì cha mẹ mới chính là người đủ kinh nghiệm trong tầm ảnh hưởng của mưu sinh.

    Cho nên, quan niệm hôn nhân vị mưu sinh chính là nguồn gốc dẫn đến việc tước đoạt quyền lựa chọn của con gái.

    Và, đạo làm cha mẹ, đối với người nghìn xưa cũng vậy, không ai không thương con, sở dĩ họ giành lấy quyền định đoạt là mong bảo vệ con cái trong cuộc sống, còn đối với người con, khi trao quyền định đoạt cho cha mẹ, thì đó là một điều hiếu đạo. Họ lý luận:

    Phụ mẫu sở sinh, để cho phụ mẫu định.
    Em đâu dám tư tình cãi lịnh mẹ cha.

    Hoặc:

    Phụ mẫu sở sinh, để cho cha mẹ định,
    Trong việc vợ chồng, chờ lịnh mẹ cha.

    Quyền định đoạt của cha mẹ dần dần trở thành tập quán, một tối hậu quyết định. Người con hoàn toàn bị thụ động lúc trưởng thành; khi muốn giao tình với nhau, họ vẫn nơm nớp lo sợ cái uy quyền tuyệt đối ấy:

    Gặp mặt em đây, anh chẳng dám chào,
    Sợ cha mẹ hỏi thằng nào biết con?
    Đôi ta như đũa nòng nòng,
    Đẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha.
    Thấy em anh cũng muốn thương,
    Sợ lòng cho mẹ không tường lòng anh.
    Đôi ta làm hạn thong dong,
    Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.
    Bởi chưng thầy mẹ nói ngang,
    Nên đôi đũa ngọc mâm vàng cách xa.

    Tuy nhiên, nền phong tục lễ giáo ràng buộc con người vào chỗ phục tùng thì tư tưởng cá biệt lại phản động lực luôn luôn chống lại những gì tước đoạt, đè nén nên ý thức tự do của họ.

    Cho nên, cùng một lúc với quan niệm hiếu đạo và bổn phận làm con, chúng ta lại thấy xuất hiện những tâm tư đau khổ trong hôn nhân khi bị áp chế:

    Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,
    Cha mẹ ép gả cho anh học trò.
    Đường đi những lách cùng lau,
    Cha mẹ ham giàu, ép uổng duyên con.
    Ăn sung ngồi gốc cây sung,
    Lấy anh thì lấy, nằm chung không nằm.

    Tiếng nói của họ chính là tiếng rên rỉ, kêu than dưới quyền lực của mẹ cha, đồng thời cũng là sức chống đối giữa hai quan niệm hôn nhân vị mưu sinh và hôn nhân vị luyến ái.

    Thực ra, đó cũng chỉ là sự lầm lạc trong tư tưởng con người, mà sự lầm lạc ấy không thể đổ tội cho ai cả, nếu chúng ta hình dung xã hội loài người là một trạng thái chứa đầy mâu thuẫn, trong đó có cả vật chất lẫn tinh thần, có cả tâm tư lẫn tình cảm.

    Trên phương diện hôn nhân xưa nay có ai muốn cho tình duyên gái trai trắc trở đâu, dù với quan niệm nào, nhưng chúng ta lại luôn luôn chứng kiến nhiều cảnh tủi hờn ngang trái:

    Lảy chồng từ thuở mười lăm,
    Chồng chê tôi nhỏ chẳng nằm cùng tôi.
    Đến năm mười tám đôi mươi,
    Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
    Một rằng thương, hai rằng thương,
    Có bốn chân giường gãy một còn ba.
    Ai về nhắn với mẹ cha,
    Chồng tôi nay đã giao hòa cùng tôi.

    Tại cha mẹ ư? Thì dĩ nhiên do sự ép uổng của cha mẹ rồi! Tâm trạng đó đã phản ảnh qua những câu ca dao, như:

    Mẹ em tham thúng xôi dền,
    Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh-hưng.
    Tôi đã bảo mẹ rằng đừng,
    Mẹ ham, mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.
    Bây giờ kẻ thấp người cao,
    Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.

    Nhưng đổ tội cho cha mẹ ham lễ vật mà ép duyên con thì thật cô gái thời xưa chưa quan niệm được tâm tư của kẻ làm cha mẹ! Trong xã hội loài người không có bậc cha mẹ nào không thương con. Tình thương con là tình thiêng liêng như mặt trời phải có sức nóng. Sở dĩ có sự ép uổng của cha mẹ, hoặc sự phản đối của con cái chỉ vì bất đồng trong quan niệm hôn nhân mà thôi. Chính xã hội thời xưa đã phản ảnh lại những hoàn cảnh con gái nhờ vào hôn nhân mà thay đổi địa vị xã hội:

    Cô ấy mà lấy anh này,
    Chẳng phải đi cấy đi cày nữa đâu.
    Ngồi trong cửa sổ têm trầu,
    Có hai con bé đứng hầu hai bên.

    Chúng ta thử tưởng tượng một cô thôn nữ, tay lấm chân bùn, dầm sương dãi gió suốt tháng năm, trong phút chốc nhờ vào hôn nhân mà chễm chệ trong cửa các lầu son thì lòng cha mẹ ai khỏi ước ao.

    Mặt khác, quan niệm hôn nhân vị luyến ái cùng có lúc làm cho họ khổ cực, chán nản, tự cho mình đi lầm lạc, không thể nào sống bằng một lúp lều tranh với hai trái tim vàng má có được hạnh phúc. Họ không thể sống với ái tình bằng một thể tích không khí nhỏ hẹp, bằng một vò nước lã. Họ không thể thoát ra ngoài cái ăn, cái mặc; nói chung, cơ thể họ luôn luôn đòi một sự cung ứng vật chất cho bản năng sinh tồn.

    Dưới đây là điển hình một linh hồn đã sa vào trạng huống buồn đau:

    Trèo lên cây bưởi hái hoa,
    Bước sang vườn cà hái nụ tầm xuân.
    Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
    Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay,
    Thoạt vào anh nắm cổ tay,
    Xưa kia em trắng, sao rày em đen?
    Hay là lấy phải chồng hèn?
    Cơm hẩm, canh mặn nó đen mất người?
    - Ba mươi đồng một xấp trầu cay.
    Sao anh không nói từ ngày còn không!
    Bây giờ em đã có chồng,
    Như chim vào lồng, như cá cắn câu!
    Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
    Chim vào lồng biết thuở nào ra!

    Trái lại, nếu chú trọng vào quan niệm hôn nhân vị mưu sinh thì chính họ cũng vấp phải cảnh não lòng trong tình ái:

    Em tham giàu em lấy thằng bé tỉ ti,
    Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ.
    Em đem thân cho thằng bé giày vò,
    Mùa đông tháng giá mó nằm co trong lòng.
    Cùng đã mang là gái có chồng,
    Chín đêm trực tiết nằm không cả mười!
    Nói ra sợ chị em cười,
    Má hồng bỏ quá một thời xuân xanh.
    Em cũng liều mình vì thằng bé trẻ ranh,
    Đêm nằm sờ mó quẩn quanh cho đỡ buồn.
    Buồn tình em bế thằng bé nó lên.
    Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì!
    Nó ngủ nó ngáy khì khì,
    Một giấc đến sáng còn gì là xuân!
    Chi em ơi! Hoa nở mấy lần!

    Thật là một thảm trạng, mà thảm trạng ấy do xã hội loài người, do sự mâu thuẫn tất yếu của lẽ sống! Hỡi loài người! Có bao giờ con người được sống toại nguyện để cho những tiếng rên than tức tửi ấy không còn nữa chăng?

    Ảnh NGUYỄN CAO ĐÀM

    Cha chài mẹ lưới con câu,
    Thằng rể đi xúc, con dâu đi mò.


    Chưa hết, quan niệm hôn nhân vị mưu sinh còn dẫn đến chế độ đa thê mà cho đến nay vẫn còn lưu lại dấu vết trong lịch sử, mặc dù giới quần thoa vẫn luôn luôn chống đối:

    Đói no một vợ một chồng,
    Một niêu cơm tấm đầu lòng ăn chơi.

    Hoặc:

    Đói lòng ăn nắm lá sung,
    Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.

    Mặc dù bị chống đối, sức mạnh của cơm áo không vì sự chống đối của nữ giới mà mất hiệu lực, cảnh chồng chung vợ chạ đã gieo vào lịch sử hôn nhân của dân tộc nhiều nỗi đắng cay:

    Lấy chồng làm lẽ khó thay.
    Đi cấy đi cày chị chẳng kể công.
    Đến tối chị giữ lấy chồng,
    Chị cho mang chiếu nằm không nhà ngoài.
    Đêm đêm gọi những bớ Hai!
    Chờ dậy nấu cám, thái khoai, băm bèo!

    Nếu chế độ đa thê của vua chúa đã đem lại bất công, tủi nhục cho đời cung phi, đến nỗi trong “Tần cung oán” một nàng phi Tần đã rên la, nức nở, thì trong chế độ đa thê của lớp người bình dân cũng để lại trong dân gian những tâm tư đau khổ của kẻ lấy chồng chung:

    Thân em làm lẽ chẳng hề,
    Có như chánh thất nằm lê giữa giường.
    Tới tối chị giữ mất buồng,
    Cho em mang chiếu nằm suông chuồng bò.
    Mong chồng, chồng chẳng xuống cho,
    Đến khi chồng xuống, gà ó o gáy dồn,
    Mẹ cha con gà, sao mày vội gáy dồn.
    Mày làm tao mất vía kinh hồn vì nỗi chồng con!

    Nếu cảnh bất công ấy trong cung điện nhà vua thì nàng cung phi phải giận hờn trong ray rứt:

    Dang tay muốn dứt tơ hồng,
    Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

    (Cung oán ngâm khúc)​

    Nhưng ở nơi thôn quê đồng nội, sự giận hờn ấy lại trở thành lời xỉ mạ, châm biếm kẻ chuộng đa thê:

    Ba vợ bảy nàng hầu,
    Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.

    Hoặc:

    Một vợ nằm giường lèo,
    Hai vợ nằm chèo queo,
    Ba vợ nằm chuồng heo!

    Sự châm biếm ấy chính là tâm tư phẫn nộ của người đàn bà đối với những ông chồng bình dân, không có quyền lực như một ông vua.

    3) Tóm lại, từ ngàn xưa, quan niệm hôn nhân nước ta vẫn diễn biến theo hai dòng lịch sử của tâm tư chống đối nhau. Sự chống đối khi mãnh liệt mà chúng ta còn tìm thấy tính chất tích cực phản ảnh trong ca dao, tục ngữ rất nhiều.

    Ở đây, chúng tôi xin được dẫn một số ít để chứng minh điều đó.

    Trước hết, những người có quan niệm hôn nhân vị luyến ái xem những cặp vợ chồng không xứng đôi như những cây đinh đồng trước mắt, họ lớn tiếng châm biếm:

    Chồng lớn vợ bé thì xinh,
    Vợ lớn chồng
    ra tình chị em.​

    Hoặc:

    Chồng thấp mà lấy vợ cao,
    Qua sông nước lớn, công tao bớ mầy!

    Thật mỉa mai! Tuy nhiên, phái hôn nhân vị mưu sinh cũng chẳng vừa, họ tìm cách chống chế:

    Chồng già vợ trẻ duyên,
    Vợ già chồng trẻ là tiên ba đời.

    Hay:

    Có phúc lấy được vợ già,
    Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh.
    Vô phúc lấy phải trẻ ranh,
    Nó ăn nó phá tan tành nó đi!
     
    vinguyen264 thích bài này.
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chúng ta thấy rõ ràng là một tương phản vì quan niệm luyến ái. Trong xã hội bình dân trải mấy nghìn năm, hình ảnh hôn nhân đã diễn tả đủ màu sắc. Trong lúc làm lụng gần gũi nhau nơi thửa ruộng nương dâu, nơi mặt đê thềm giếng, nếu sự gần gũi ấy là cơ hội để thổ lộ tâm tình luyến ái thì cơ hội ấy cũng xảy ra những quan niệm chống đối về hôn nhân. Sự tương phản ấy đã chạm nhau chan chát. Nếu bên nào không chống chế nổi, tất nhiên bị nhục suốt đời. Bởi vậy, dù muốn dù không họ vẫn phải bảo vệ lấy hoàn cảnh mình.

    Một cô gái, lấy anh chồng lớn tuổi, tức thì bên tai cô ta đã nghe ngay một lời châm chọc:

    Vô phúc múc phải anh chồng già,
    Ra đường người hỏi rằng: cha hay chồng?
    Nói ra đau đớn trong lòng,
    Ấy cái nợ truyền kiếp, có phải chồng em đâu!

    Dù là một cô gái quê mùa, buộc lòng cô ta cũng phải đứng vào quan niệm vị mưu sinh chống đỡ:

    Áo dài chẳng nệ quần thưa,
    Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm!

    Chẳng những châm biếm các cô gái lấy chồng già, các chàng trai lấy bà già, họ còn chế diễu nhau sâu đậm hơn nữa đối với những chàng trai tơ lấy gái góa:

    Trai tơ ai hỡi trai tơ,
    Ai đâu mà vội mà vơ nạ dòng?
    Nạ dòng lấy được trai tơ,
    Đêm nằm hí hửng như vơ được vàng!
    Trai tơ vớ phải nạ dòng?
    Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu!

    Tuy lời nói mộc mạc nhưng rất đau độc, khiến những chàng trai trong phái mưu sinh phải tìm cách trả đũa. Sự trả đũa của họ nhằm vào quan niệm xứng đôi của phái vị luyến ái châm biếm:

    Chồng hen mà lấy vợ hen,
    Đêm nằm cò cử như kèn thổi đôi.
    Chồng còng lấy vợ cũng còng,
    Nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa.
    Chồng què lấy vợ xà lai,
    Mướn được đứa ở lại sai bánh chè!

    Họ bảo phải chủ trương vị luyến ái biết xứng đôi chưa phải là đẹp, đôi khi chỉ là trò cười trong thế gian. Thực ra, họ tìm được ý tưởng như vậy để châm chọc cũng khá công phu và cay nghiệt. Nhưng sự chống đối chẳng ai chịu thua ai. Phái luyến ái lại bới móc tính chất tham tiền của các cô gái quê mà đùa bỡn:

    Lấy chồng chẳng lấy một chồng,
    Lấy anh hàng thịt ăn lòng sớm mai.
    Lấy ai thì chẳng một chồng,
    Lấy anh câu ếch nằm song xí xoài!
    Lòng ta muốn lấy thợ kèn,
    Đám sang thì bánh, đám hèn thì xôi.
    Lòng ta muốn lấy thợ sơn,
    Một mình một cỗ lại hơn thợ kèn.

    Họ cũng dí dỏm và hiểu tâm lý nhau lắm! Đã khỏi bị thua thiệt, phải vị mưu sinh tìm thấy trong bản chất phái vị luyến ái hay kén chọn, nên trễ duyên, họ châm biếm:

    Ai ơi trẻ mãi ru già,
    Càng đo đắn lắm càng già hết duyên!

    Hoặc:

    Cô kia má đỏ hồng hồng,
    Cô không lấy chồng còn kén đợi ai?
    Buồng không lần lữa hôm mai,
    Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương!

    Hay:

    Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng,
    Trăm khôn nghìn khéo không chồng cũng hư.
    Con trai chưa vợ đã xong,
    Con gái không chồng buồn lắm em ơi!

    Lại nữa:

    Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
    Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
    Gào rằng: Đất hỡi trời ơi!
    Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
    Ông Trời ngoái cổ xuống trông:
    - Mày hay kén chọn, ông không cho mày!

    Phái vị luyến ái đáp lại:

    Một đêm quân tử nằm kề,
    Còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm.

    Phái vị mưu sinh châm biếm:
    Còn duyên kén những trai tơ,
    Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.

    Phái vị luyến ái trả đũa:

    Chồng em vừa xấu vừa đen,
    Vừa kém nhan sắc vừa hèn chân đi.
    Chồng em rổ sứt rổ sì,
    Chân đi chữ bát, mặt thì ngửng thiên.

    Phái vị mưu sinh đáp:

    Củi mục dễ nấu,
    Chồng xấu dễ sai.

    Những ý tưởng chống đối trên đây tuy hài hước, song phân tích tỉ mỉ tính chất căn bản chỉ đó là sự phân hóa trong quan niệm hôn nhân. Sự phân hóa ấy chia thành hai dòng tư tưởng rõ rệt. Đối tượng của phải vị luyến ái là đả phá giai cấp quí tộc trong xã hội, đồng thời chống lại áp lực của ngoại bang dùng thế lực, tiền bạc, lung lạc tính chất luyến ái của dân tộc.

    Sự chống đối ấy đã biểu hiện những nét căn bản qua những da ca dao sau đây.

    Chống đối giai cấp quí tộc họ nhắm vào đả phá chế độ đa thê và phong tục thách cưới. Họ ca tụng sự luyến ái chung thủy trong cảnh thanh bần:

    Đôi ta như lúa phơi màu,
    Đẹp duyên thì lấy, ham giàu làm chi.

    Hoặc:

    Gà nào hay bằng gà Cao-lãnh,
    Gái nào bảnh cho bằng gái Tân-châu.
    Anh thương em chẳng nại sang giàu,
    Mứt hồng một lượng, trà Tàu một cân!

    Chống đối thế lực, ảnh hưởng của ngoại bang chi phối hôn nhân, họ nhằm vào đả phá uy thế Nho học bằng cách khinh miệt học trò, tức là các ông đồ Nho xưa:

    Ai ơi chớ lấy học trò,
    Cái lưng thước mốt, cái giò thước hai!

    Hoặc:

    Ai ơi chớ lấy học trò,
    Dài
    lưng tốn vải, ăn no lại nằm!

    Họ còn chống đồi trực tiếp người Tàu đô bộ cách bêu xấu những cô gái ham tiền lấy khách:

    Thà rằng ăn cá diếc chôi,
    Còn hơn lấy khách có đuôi trên đầu.
    Trèo lên trái núi mà coi,
    Kìa kìa Ngô khách mọc đuôi trên đầu.
    Em ơi, anh dạy tiếng Tàu.

    Chưa hết, họ còn châm biếm độc hơn nữa trong những câu ca dao như:

    Tiều na má nị” đâm đầu lấy Ngô!
    Đêm ba mươi Tết, Tết ba mươi,
    Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách,
    Một tay cầm cái dù rách.
    Một tay xách cái chăn bông,
    Em đứng trên bờ sông,
    Em trông sang xứ người
    Hỡi chú chệch ơi là chú chệch ơi!
    Một tay em xách quan tiền,
    Một tay em cầm thằng bù nhìn
    Em ném xuống sông
    Quan tiền nặng thì quan tiền chìm
    Bù nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi
    Ai ơi, của nặng hơn người!

    Hoặc:

    Tham rằng lấy được thằng Ngô
    Đêm nằm hú hí như vồ đập bông!

    Tóm lại, nếu chúng ta đã xác định quan niệm hôn nhân vị luyến ái có tính chất chống đối giai cấp quí tộc và thế lực ngoại bang, thì ngược lại, quan niệm hôn nhân vị mưu sinh tất nhiên mằm vào ảnh hưởng chi phối, của xã hội.

    Hai quan niệm ấy là dòng lịch sử tâm tư mà cũng là hai dòng lịch sử chống đối giữa con người và xã hội con người di lưu cho đến ngày nay.
     
    vinguyen264 and dongtrang like this.
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    PHẦN TUYỂN TẬP CA DAO TIÊU BIỂU CHO
    QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN​

    1. Ai ăn cau cưới thì đền,
    Tuổi em còn bé, chưa nên lấy chồng.


    2. Ai ơi! đừng lấy học trò
    Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
    Ngày thì cắp sách đi rong,
    Tối về lại giữ đèn chong một mình.


    3. Ai chồng, ai vợ mặc ai,
    Bao giờ ra bảng, ra bài sẽ hay.
    Bao giờ tiền cưới trao tay,
    Tiền cheo rấp nước, mới hay vợ chồng.


    4. Anh khôn nhưng vợ anh đần,
    Lấy ai lo liệu xa gần cho anh.


    5. Anh cũng đã hay:
    Tôi ngay phò chúa thánh,
    Gái chẳng lấy hai chồng,
    Biết em buông mối chỉ hồng,
    Tiếc anh đi chậm nên đứng ngoài phòng bơ vơ.


    6. Anh về thắt rế kim cang,
    Vót đôi đũa bếp cưới nàng còn dư.
    Anh về bán ruộng cây đa,
    Bán đôi trâu già chẳng cưới đặng em.
    Ruộng cây đa anh cấp phần hương quả,
    Đôi trâu già ta chả bán chi,
    Anh về xách áo ra đi,
    Bán rồi mới cưới nữ nhi chốn này.


    7. Ăn mày nơi cả thế,
    Làm rể nơi nhiều con.


    8. Ăn xin cho đáng ăn xin,
    Lấy chồng cho đáng bù nhìn giữ dưa.


    9. Ăn đong cho đáng ăn đong,
    Lấy chồng cho đáng tấm chồng hẳn hoi.


    10. Ăn đua cho đáng ăn đua,
    Lấy chồng cho đáng việc vua, việc làng.


    11. Ăn cam ngồi gốc cây cam,
    Lấy anh thì lấy về Nam không về.


    12. Ấu với sen trồng lộn một bồn,
    Hai đứa mình chồng vợ, ai đồn mặc ai.


    13. Ba bốn nơi đến nói không màng,
    Chờ cho chết vợ, sẵn sàng qui mô.


    14. Ba năm ở với người đần,
    Chẳng bằng một lúc ghé gần người khôn.


    15. Ba vợ bảy nàng hầu,
    Đêm nằm chuồng trâu, gối dầu bằng chổi.


    16. Bảo cho những khách má hồng,
    Thà hầu quân tử, còn hơn chồng ngốc ngu.


    17. Bắc thang thử hỏi trăng già,
    Phải rằng phận gái mưa sa giữa trời.


    18. Bắc thang lên đến tận trời,
    Bắt ông Nguyệt-lão đánh mười cẳng tay.
    Đánh thôi, lại trói vào đây,
    Hỏi ông Nguyệt-lão nào dây tơ hồng?


    19. Bắc cầu cho kiến leo qua,
    Cho con ông xã tới nhà mà chơi.


    20. Bố mẹ là vớ cọc chèo,
    Mẹ vợ là bèo trôi sông.
    Chàng rể là ông Ba-vì.


    21. Bố chồng là lông con lợn,
    Mẹ chồng là trợn mắt lên,
    Nàng dâu mới về là bà hoàng hậu.


    22. Bốn màu bông cúc nở xây,
    Để coi trời khiến duyên này về ai.


    23. Buồn chẳng muốn nói, gọi chẳng muốn trông,
    Tưởng sự lấy chồng tỉnh như con sáo.


    24. Cái cóc ăn trầu đỏ môi,
    Có ai làm lẽ chồng tôi thì làm.


    25. Cái cóc lặn lội bờ sông,
    Muốn lấy vợ đẹp nhưng không có tiền.


    26. Cái cóc lặn lội qua ngòi,
    Lấy sống lấy chết, ta ưng lấy mình.


    27. Căn duyên gặp gỡ giữa trời,
    Ông tơ dìu dắt, ông trời khiến nên.


    28. Có trầu mà chẳng có vôi,
    Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.


    29. Có phúc lấy được dâu hiền,
    Vô duyên lấy phải dâu dại.


    30. Có cưới mà chẳng có cheo,
    Nhân duyên trắc trở như kèo không đanh.


    31. Có con mà gả chồng gần,
    Có bát canh cần nó cũng mang cho,
    Hoài con mà gả chồng xa,
    Một là mất giỗ, hai là mất con.


    32. Có duyên lấy được chồng già,
    Ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương.


    33. Con gái có hai bến nước,
    Bến đục thì chịu, bến trong thì nhờ.


    34. Con ơi chớ lấy vợ giầu,
    Cơm ăn chê hẩm, cá kho bầu nó chê tanh.


    35. Con ơi gia cảnh mình nghèo,
    Ham chi vợ đẹp vợ giàu cho nó khinh.


    36. Con gái là con người ta,
    Con dâu mới thực mẹ cha mua về.


    37. Con cá đối nằm trong cối đá,
    Con chim đa đa đậu nhánh đa đa,
    Chồng gần bậu không lấy, bậu lấy chồng xa.
    Mai sau cha yếu mẹ già,
    Chén cơm bát nước bộ kỷ trà ai bưng?


    38. Còn duyên kẻ đón người đưa,
    Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.


    39. Còn duyên anh cưới ba heo,
    Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi.


    40. Còn duyên như tượng tô vàng,
    Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.


    41. Cô kia nước lọ cơm niêu,
    Chồng con chả có, nằm liều nuôi thân.
    - Chồng con là cái nợ nần,
    Chẳng thà ở vậy nuôi thân béo mầm.


    42. Cô thỉ cô thi,
    Cô đang đương thì, cô kẹo với ai.
    Cô tú kẽo kẹt cô cai,
    Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông.
    Mâm cốm kẽo kẹt mâm hồng,
    Bát bịt, mâm đồng kẽo kẹt một nơi.
    Mâm thịt kéo với mâm xôi,
    Thịt bùi xôi dẻo, kẽo nơi bà già.
    Cùi dừa kẽo kẹt bánh đa,
    Cái dĩa thịt gà kẽo kẹt lá chanh.
    Nồi cơm kẽo với nồi canh.
    Quả bí trên nhành kẽo với tôm he.
    Bánh rán kẽo với nước chè,
    Cô kia cò kè kẽo với anh đây.
    Bà cốt kẽo với ông thầy,
    Con chim loan phượng kẽo cây ngô đồng,


    43. Cơm trắng ăn với chả chim,
    Chồng đẹp, vợ đẹp những nhìn mà no.
    Cơm hẩm ăn với cà kho,
    Chồng xấu, vợ xấu những lo mà gầy,


    44. Của rẻ ấy là của tôi,
    Lấy phải vợ dại khốn tôi trăm đường.


    45. Củi mọc lành đun,
    Chồng đần dễ khiến, chồng khôn khó chiều.


    46. Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài,
    Ham chi bóng sắc, hành hài tấm thân.


    47. Cực chẳng đã mới gả cho vua,
    Gả cho vua thì thua nhiều nỗỉ.


    48. Cực chẳng đã mới gả con cho chệt,
    Biết ngày nào hết mệt con tôi.


    49. Cha mẹ đòi ăn cá thu,
    Gả con xuống biển mù mù, tăm tăm.


    50. Chẳng tham ruộng cả ao sâu,
    Tham vì anh tú rậm râu mà hiền.
     
    kuakangxanh and vinguyen264 like this.
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Chẳng tham nhà ngói ba tòa,
    Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.


    52. Chẳng tham nhà ngói bức màn,
    Trái duyên như thể một gian chuồng gà.
    Ba gian nhà rạ lòa xòa,
    Phải duyên coi tựa chín tòa nhà lim.


    53. Chim khôn đậu nóc nhà quan,
    Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng.
    Chim khôn lót ổ lựa chỗ nhiều nhành,
    Gái như em kiếm chỗ trai lành gởi thân.


    54. Chim khôn lựa nhánh lựa cành.
    Gái khôn lựa chốn trai lành gởi thân.


    55. Chim mênh manh bay quanh vòng cỏ,
    Qua với nàng hiểu rõ mấy năm,


    Tình yêu vẫn giữ âm thầm,
    Đợi quyền cha mẹ sắt cầm định phân.


    56. Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
    Chồng gần không lấy mà lấy chồng xa.
    Một mai cha yếu mẹ già,
    Bát cơm ai xới, kỷ trà ai bưng?


    57. Chốn ước mơ lất lơ mà hỏng,
    Nơi tình cờ mà đóng nhân duyên.


    58. Chồng thấp mà lấy vợ cao.
    Nồi tròn vung méo úp sao cho vừa.


    59. Chồng già vợ trẻ là tiên,
    Vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.


    60. Chồng con là cái nợ nần,
    Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm.


    61. Chồng khôn thì nổi cơ đồ,
    Chồng dại luống tốn công phu nhọc mình.


    62. Vì đâu chồng thấp vợ cao,
    Như đôi đũa lệch biết bao giờ bằng.


    65. Chồng khôn vợ được đi hài,
    Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông.


    64. Chồng lớn vợ bé thì xinh,
    Chồng bé vợ lớn ra tình chị em.


    65. Chồng chèo thì vợ cũng chèo,
    Hau đàng đã nghèo lại đụng lấy nhau.


    66. Chồng rồi! chồng rồi, nghĩ rằng chị em đã có chồng rồi!
    Sao em chửa có đứng ngồi vân vi,
    Ới thầy mẹ ơi! Cấm đoán em chi,
    Mười lăm, mười tám sao chưa cho đi lấy chồng,
    Ới ông Trời ơi! Sao ông ở không công,
    Duyên em đã lỡ, em trách ông Tơ-hồng
    Sao ông khéo trêu ngươi,
    Cứ đêm đêm tôi nằm, tôi vuốt bụng, tôi gọi trời.
    Xin ông thí bỏ cho tôi chút chồng.
    Tôi về làm lễ tế ông,
    Mổ con bò béo, ông cho tôi lấy được anh chồng cho nó to.
    Bõ công tôi mượn chú lái đi mổ bò.


    67. Chồng ta áo rách ta thương,
    Chồng người áo gấm xông hương mặc người.


    68. Chớ thấy duyên muộn mà phiền,
    Tuy rằng duyên muộn, có tiên đợi chờ.


    69. Chớ nghe quân tử nói dòn,
    Mà rồi có lúc ẵm con một mình.


    70. Chớ chê em xấu em đen,
    Em như nước đục đánh phèn lại trong.


    71. Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng,
    Tuy rằng tốt đẹp nhưng chồng người ta.
    Chớ tham vóc lĩnh chiếu hoa,
    Lấy chồng làm lẽ người ta giày vò.


    72. Chuồn chuồn có cánh thì bay,
    Kẻo thằng ỏng bụng bắt mày đem chôn.


    73. Chuồn chuồn có cánh thì bay,
    Kẻo thằng bé nhỏ thò tay bắt mày.


    74. Chuồn chuồn mắc phải nhện vương.
    Đã trót quấn quít thì thương nhau cùng.


    75. Chửa chồng nón thúng quai thao,
    Chồng rồi nón rách, quai nào thì quai.
    Chửa chồng yếm thắm đeo hoa,
    Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành.


    76. Dốc một lòng lấy chồng hay chữ.
    Để ra vào kinh sử mà nghe.


    77. Dốc một lòng lấy chồng dốt nát,
    Để ra vào rửa bát nấu cơm.


    78. Dù em lấy được chồng khôn,
    Như lọ vàng cốm đem chôn dầu giường.


    79. Đã sanh làm phận nữ nhân,
    Nữ sanh ngoại tộc bỏ phần mẹ cha.


    80. Đàn bà như hạt mưa sa,
    Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng.


    81. Đào tơ sen ngó xanh xanh,
    Ngọc lành còn đợi giá lành đẹp duyên.


    82. Đắng khổ qua, chua là chanh giấy,
    Ngọt thứ mấy cũng tiếng cam sành.
    Đôi ta duyên nợ không thành.
    Cũng do Nguyệt-lão chỉ mành xe lơi.


    83. Đấy mây, đây cũng song già,
    Đấy quan Tổng-đốc, đây bà Quận-công.


    84. Đèn chong phòng hạnh biếng xem,
    Phải chi trời định anh với em vợ chồng.


    85. Đêm đông trường. em nghe con vượn cầm canh.
    Nghe chim khuyên tổ, nghe anh khuyên nàng.
    Giàu giữa làng, trái duyên khôn ép,
    Khó nước người, phải kiếp tìm đi,
    Tiền trăm, bạc chục kể chi.


    86. Đêm nằm nghĩ lại mà coi,
    Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà.


    87. Đêm năm canh, năm vợ ngồi hầu,
    Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi,
    Vợ hai trải chiếu chia bài,
    Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong.
    Vợ tư trải chiếu quạt mùng,
    Vợ năm thức dậy trong lòng xót xa.
    Chè thang, cháo đậu bưng ra,
    Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh.


    88. Đến đây thủ lễ nghiêng mình,
    Dầu không đặng vợ cũng tình mẹ cha.


    89. Đó trai đây cũng là trai,
    Mặc tình người nghĩa dành ai thì dành.


    90. Đôi ta lấm tấm hoa nhài,
    Chồng đây, vợ đấy kém ai trên đời,
    Muốn cho gần chợ ta chơi,
    Gần sông tắm mát, gần nơi đi về.


    91. Đôi ta là nợ, là tình,
    Là duyên, là kiếp đôi mình kết giao.
    Em như hoa mận, hoa đào,
    Cái gì là ngãi tương giao hỡi nàng?


    92. Đôi ta như thể con bài.
    Đã quyết thì đánh, đừng nài thấp cao.
    Đôi ta như đá với dao,
    Năng liếc thì sắc, năng chào thì quen,


    93. Đôi ta như lúa phơi màu,
    Đẹp duyên thì lấy, tham giàu làm chi.
    Đường đi những lách cùng lau.
    Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con,
    Đường dài ngựa chạy biệt tăm,
    Người thương có nghĩa mấy năm cũng chờ.


    94. Đồn rằng kẻ Lạng vui thay,
    Đi ba bốn ngày kể đã lắm công.
    Bên dưới có sông, bên trên có chợ.
    Anh lấy em về làm vợ nên chăng.
    Tre già để gốc mọc măng.
    - Em như cây quế trong rừng,
    Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay.
    Anh như cây phướn Nhà Chay,
    Em như chiếc đũa sánh bày sao nên.


    95. Đời xưa kén những con dòng,
    Đời nay ấm cật, no lòng thời thôi.


    96. Đường xa đi gấp lại gần,
    Mẹ đi lấy vợ Thanh-thần cho tôi.


    97. Em có chồng như ngựa đủ yên,
    Anh chưa có vợ như chiếc thuyền nghiêng giữa vời.


    98. Em ơi chớ khá bôn hành,
    Duyên đâu nợ đó ai giành em lo.


    99. Em về thưa mẹ cùng cha,
    Bắt lợn để cưới, bắt gà để cheo.
    Đầu lợn lớn hơn đầu mèo,
    Làng ăn không hết, làng treo cột đình.
    Ông xã đánh trống thình thình,
    Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.


    100. Em về thưa mẹ càng thầy,
    Có cho anh cưới tháng nầy anh ra.
    - Anh về thưa mẹ, cùng cha.
    Bắt lợn sang cưới, bắt gà sang sêu,
    Chắc như lời ấy không sai,
    Tháng giêng đẵn gỗ, tháng hai làm nhà.
    Tháng ba ăn cưới đôi ta.
     
    kuakangxanh, vinguyen264 and tducchau like this.
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    101. Em đây chỉ mến người tài,
    Đánh đông, đông thắng, đẹp đoài đoài tan.


    102. Em về hỏi mẹ cùng thầy.
    Có cho em lấy chồng xa hay đừng.


    103. Gà khôn gà chẳng đá lang.
    Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi.


    104. Gái không chồng như thuyền không lái,
    Trai không vợ như ngựa không cương.


    105. Gái có chồng như gông đeo cổ,
    Trai có vợ như nhợ buộc chân.


    106. Gái có chồng như rồng có vây,
    Gái không chồng như cối xay chết ngõng,


    107. Gái có con như bồ hòn có rễ,
    Gái không con như bè gỗ trôi sông.


    108. Gánh nặng mà đi đường vòng,
    Tuy rằng không gánh nhưng lòng cũng thương.
    Gánh nặng mà đi đường dài,
    Để anh gánh đỡ một vai nên chồng.
    - Gánh thì chị lại trả công,
    Mặt em chả đáng là chồng chị đâu!


    109. Gập ghềnh hòn đá cheo leo,
    Biết đâu quân tử mà gieo mình vào.


    110. Giáp, Ất, Bính là tam bất hạp,
    Dần, Thân, Tị, Hợi tứ hành xung,
    Khuyên anh hãy xét tại cùng,
    Hiệp hôn giá thú em sợ trùng không nên.


    111. Giàu trong làng trái duyên khôn ép.
    Khó nước người phải kiếp cũng theo.


    112. Gió đưa gió đẩy, mây mưa,
    Gặp đâu hay đó kén lừa mà chi.


    113. Giường lèo mà trải chiếu mây,
    Làm trai hai vợ như mây buộc mình.


    114. Hỏi vợ thì cưới liền tay,
    Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.


    115. Hỡi cô thắt giải lưng xanh,
    Ngày ngày thấp thoáng bên mành trông ai?
    Trước cùng xe ngựa bời bời,
    Bụi hồng mờ mịt ai người mắt xanh.


    116. Hỡi cô cắt cỏ bên sông,
    Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
    Sang đây anh nắm cổ tay,
    Hỏi rằng duyên ấy tình nầy làm sao?
    Cái gì là mận, là đào,
    Cái gì là nghĩa tương giao hỡi nàng?
    Phận gái lấy được chồng khôn,
    Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng,


    117. Kể từ ngày tôi lấy anh,
    Anh bảo tôi rằng: chẳng biết chữ gì.
    Tôi chỉ biết một tiếng “phán sì” là củ khoai lang.


    118. Kềnh nghê vui thú kềnh nghê,
    Cá tôm thì lại vui bề cá tôm.


    119. Kiếm nơi cha thảo mẹ hiền,
    Gởi thân khuya sớm, bạc tiền không ham.


    120. Khuyên anh đi lính cho ngoan,
    Cho dân được cậy, cho quan được nhờ.
    Bao giờ nên đội, nên cơ,
    Thì em sẽ quyết đợi chờ cùng anh.


    121. Làm trai chí ở cho bền,
    Chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con.


    122. Làm trai lấy vợ Sơn-đông,
    Thịt xôi chẳng có, tiền chồng như non.


    123. Làm trai lấy được vợ hiền,
    Như cầm đồng tiền mua được món ngon.


    124. Lạy cha ba lạy một quì,
    Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.
    Mẹ sắm cho con cái yếm nhất phẩm hồng.
    Trước là đắc nghĩa cùng chồng,
    Sau là họ mạc cũng không chê cười.
    Con ơi! nhớ bấy nhiêu lời.


    125. Lâm chừ nghèo ít kẻ vãng lai,
    Không ai mà cậy làm mai nói nàng.


    126. Lập đông gió lạnh như đồng,
    Lạnh thì chịu lạnh, lấy chồng cũng không.
    Trai ơn vua chầu chực sân rồng,
    Gái ơn chồng ngồi võng nuôi con,
    Ơn vua xem trọng bằng non,
    Ơn chồng như đức tổ tôn ghi truyền.
    Làm trai lấy được vợ hiền,
    Như cầm đồng tiền mua được của ngon.


    127 Lấy chồng làm lẻ khỏi lo,
    Cơm nguội dầy rá, cá kho đầy nồi.


    128. Lấy chồng cờ bạc là tiên,
    Lấy chồng chè rượu là duyên nợ nần.


    129. Lấy lính thì được ăn lương,
    Lấy thầy ăn óc, ăn xương gì thầy?
    Em đừng thấy lính mà khinh,
    Lãnh-binh, Thống-chế, Tam-dinh một dòng.


    130. Lên rừng hóa hổ, về đồng nội hóa long.
    Trời xui đất khiến hai đứa con dòng gặp nhau.


    131. Liệu cơm em gắp mắm ra,
    Liệu cửa liệu nhà em lấy chồng đi.
    Nữa mai quá lứa lỡ thì,
    Cao thì chẳng tới, thấp thì chẳng thông.


    132. Liệu bề đát đặng thì đươn,
    Đừng gầy mà bỏ thói thường cười chê.
    Muốn cho tốt rể tới đâu,
    Xin anh bỏ lá trầu cau cho tròn.


    133. Linh đinh một chiếc thuyền tình,
    Mười hai bến nước biết gởi mình về đâu.


    134. Linh dinh chiếc bách giữa dòng
    Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì.
    Gió đưa cây trúc ngã quì,
    Ba năm trực tiết, còn gì là xuân?


    135. Lọng vàng che nải chuối xanh.
    Tiếc con chim phượng đậu nhành tre khô.


    136. Lộc còn ẩn bóng cây tùng,
    Thuyền không đợi khách anh hùng vãng lai.


    137. Lửa nhen vừa mới bén trầm,
    Trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con.


    138. Lựa được con dâu sâu con mắt.
    Mua heo lựa nái, mua gái chọn dòng.


    139. Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
    Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.


    140. Mấy năm trời qua tưởng xa em,
    Nào hay trời định anh với em cang thường.


    142. Mẹ già như chuối chín cây.
    Sao đấy chẳng liệu cho đây liệu cùng.


    141. Mẹ cha chi rứa mẹ cha,
    Nơi gần không gả, nơi xa đem vào.


    144. Mẹ mong gì thiếp về giồng,
    Ăn bông bí luộc, dưa hồng nấu canh.


    145. Mẹ sắm cho em cái yếm nhất phẩm hồng,
    Thắt lưng đũi tím, nhẫn đồng đeo tay,


    146. Mẹ em cấm đoán em chi.
    Để em sắm sửa, em đi lấy chồng,
    Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
    Bõ công trang điểm má hồng răng đen.


    147. Mẹ ơi, con chẳng lấy dân,
    Dù xa dù gần lấy khách mà thôi.
    Lấy khách được mặc áo đôi,
    Được đi giày đỏ, được ngồi ghế cao.
    - Thà rằng ăn cá diếc chôi,
    Chẳng thà lấy khách có đuôi trên đầu.


    148. Mình rằng, mình chỉ lấy ta,
    Ta đi xuống chợ mua gà xem chân.
    Một chân xem cửa, xem nhà,
    Một chân xem lứa bạn ta thế nào.


    149. Một cành tre, năm bảy cành tre,
    Lấy ai thì lấy chớ nghe họ hàng.


    150. Một cành dâu, năm bảy cành dâu,
    Bên tài, bên sắc lấy nhau cũng vừa.
     
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    151. Một ngày đứng mũi thuyền rồng,
    Còn hơn chín tháng ở trong thuyền chài.


    152. Một là em lấy chồng quan,
    Hai là chồng lính, ba là chồng dân.
    Nhưng em không chịu lấy thằng đần,
    Về nhà cha mẹ chửi, ra đường chúng bạn khinh.


    153. Một trăng là mấy Cuội ngồi,
    Một gương Tư-mã mấy người soi chung?
    Một đôi cho đáng một đôi.
    Anh thì sứt mũi, chị tôi lẹm cằm.


    154. Một năm chưa dễ mấy xuân.
    Gái kia chưa dễ mấy lần đưa dâu.
    Chẳng tham ruộng cả, ao sâu,
    Tham về anh tú lắm râu mà hiền.
    Chẳng tham ruộng cả, ao liền,
    Tham về cái bút cái nghiên anh đồ.


    155. Một đời được mấy anh hùng,
    Một nước được mấy đức ông trị vì.
    Anh đừng cợt ghẹo em chi,
    Em đang chấp chí chọn ngày cải hoa.
    Tin lên Thiên-thượng, Hằng-nga,
    Cậy ông Nguyệt-lão với bà Tơ-vương.
    Chăn loan, gối phượng sẵn sàng,
    Màn đào rủ dọc, lầu hồng dãi ngang.
    Còn đang chọn đá thử vàng,
    Ngọc lành ai quảy ra đàng bán rao.
    Quan quan bốn tiếng thư cưu,
    Mong người quân tử hảo cầu kết duyên.
    Phấn son cho phỉ tấm nguyền,
    Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình.
    Phạt-kha thơ ấy rành rành,
    Phỉ-môi bất đắc xin anh liệu tường.


    156. Một mình lo bảy, lo ba.
    Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.


    157. Một vũng nước trong năm bảy dòng nước đục,
    Một trăm người tục một chục người thanh.
    Biết đâu nhơn đạo hiền lành,
    Trao thân gởi phận mới dành dạ em.


    158. Mua cau chọn những buồng sai,
    Mua trầu chọn những trăm hai lá vàng.
    Cau tiện ngang, trầu vàng ngắt ngọn,
    Thời buổi nầy kén chọn làm chi,
    Sao em chẳng lấy chồng đi.


    159. Mua cá thì phải coi mang,
    Mua bầu xem cuống mới toan không nhầm.


    160. Mua cam thì chọn lấy cam,
    Lấy chồng thì chọn trưởng nam cho giàu.


    161. Muôn nghìn chớ lấy kẻ La,
    Cái tương thì thối, cái cà thì thâm.


    162. Muốn cho no vợ đủ chồng,
    Để mà kết tóc trông mong ở đời.


    163. Muốn cho gần bến gần thuyền,
    Gần bác, gần mẹ, nhân duyên cũng gần.


    164. Mưa lâm râm ướt đầm lá hẹ,
    Tôi thương một người có mẹ, có cha.


    165. Mười giờ ông Chánh về tây,
    Cô ba ở lại lấy thầy Thông-ngôn.
    - Thông-ngôn, ký lục bạc chục không thèm màng,
    Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.


    166. Nay mừng anh chị tốt đôi,
    Mong cho có cháu để tôi cho vòng.


    167. Năm voi anh đúc năm chuông,
    Năm cô anh đóng nằm giường bình phong.
    Còn một cô bé chửa chồng,
    Lại đây anh kén cho bằng lòng cô.
    Một là ông Cống, ông Đồ,
    Hai là ông Bát, ông Cửu, ông Đô cũng vừa.
    Giả ơn bà Nguyệt, ông Tơ,
    Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng,
    Cho mau cửa lại treo cung,
    Để cho cô bế, cô bồng, cô ru.
    Cô ru rằng:
    Con lẫy, con bò, con chững, con đi.
    Ngày sau con cả lớn khôn,
    Con học, con thi, nhảy ba tầng sóng kinh kỳ khai nhan.


    168. Nắm tóc ngôi, tóc ngói dài,
    Nắm tóc mai, tóc mai cụt.
    Câu trời, khấn bụt cho lóc mai dài.
    Bao giờ tóc chấm ngang vai,
    Thì ta kết ngãi làm hai vợ chồng.


    169. Nuôi con những tưởng về sau,
    Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi.
    Mực đen vô giấy khó chùi,
    Vợ chồng chồng vợ việc đời trăm năm.


    170. Nuôi lợn thì phải vớt bèo,
    Lấy chồng thì phải nộp cheo cho làng.


    171. Nước đứng mà đựng chậu thau,
    Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài.
    Tiếc thay con người da trắng tóc dài,
    Bác mẹ gả bán cho người đần ngu,
    Rồng vàng tắm nước ao tù,
    Người khôn ở với người ngu nặng mình.


    172. Nước lên cuốn sào nhổ đăng,
    Trong tay em có ngọc cũng không bằng có anh.


    173. Nước trong veo, bao giờ có cá,
    Nàng lỡ thời tại má vời cha.
    Kén sui kén rể lọc lừa,
    Nên em hiu quạnh cũng vừa phần duyên.


    174. Ngày nào em bé cỏn con.
    Bây giờ em da lớn khôn thế nầy.
    Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
    Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.


    175. Nghìn muôn chớ lấy học trò,
    Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
    Hay nằm thì có võng đào.
    Dài lưng thì có áo trào nhà Vua.
    Hay ăn thì có thóc kho,
    Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm.


    176. Người ta câu bể, câu sông.
    Tôi đây câu lấy con ông cháu bà.
    Có chồng thời nhả mồi ra,
    Không chồng em cắn em tha lấy mồi.


    177. Người ta lên núi thì vui,
    Sao tôi lên núi những chui cùng trèo.
    Gập ghềnh hòn đá cheo leo,
    Biết đâu quân tử mà gieo mình vào.


    178. Người ta chọn cá nấu canh,
    Em đây chỉ chọn một anh tượng đồng.


    179. Nhà ta ba bốn chị em,
    Mẹ ta còn thèm một chút rể xa.
    Ta về ta bảo mẹ ta,
    Rể gần cho ruộng, rể xa cho tiền.


    180. Nhà tôi có dãy vườn hoa,
    Có ba dãy nhãn, có ba dãy vườn,
    Dù anh đi sớm về trưa,
    Sao anh chẳng nghĩ dẫy dừa nhà tôi.
    Sao anh chẳng đứng, chẳng ngồi,
    Hay là anh phải duyên ai anh buồn.
    Anh buồn anh lại đi buôn.
    Còn tiền lấy vợ anh buồn làm chi?


    181. Như anh có muốn gần em,
    Mâm trầu hũ rượu khá đem tới nhà.


    182. Ở đời ba bảy đường chồng,
    Miễn sao chọn được một lòng là hơn.


    183. Phải duyên hương lửa cùng nhau,
    Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.


    184. Phải duyên Hồ-Việt cũng gần,
    Trái duyên Tần Tấn dẫu gần cũng xa.


    185. Phải duyên áo rách cũng màng,
    Chẳng phải duyên, áo nhiều nút vàng không ham.


    186. Phải chi anh chưa vợ,
    Hãy còn nợ còn duyên,
    Em cũng cậy yên như thuyền cậy lái.
    Ai ngờ phận gái như lái nghịch chèo.
    Thôi anh phải giữ lấy lèo,
    Đừng ham thả lỏng hiểm nghèo có khi.


    187. Phận gái bến nước mười hai,
    Gặp nơi trong đục may ai nấy nhờ.


    188. Phụ mẫu em không có con trai,
    Kiếm nơi rể thảo một mai phượng thờ.
    Không con trai thời có cháu trai,
    Phận anh là rể đứng ngoài ngó vô.


    189. Quyết lòng chờ đợi trò thi,
    Dầu ba mươi tuổi lỡ thì cũng ưng.


    190. Rồi đây ta kiện ông Tơ,
    Nơi thương không vấn, vẩn vơ nơi nào.


    191. Ruộng ai thì nấy đắp bờ.
    Duyên ai nấy chọn đừng chờ uổng công.


    192. Rượu lưu ly chân quì tay rót,
    Cha mẹ uống rồi, dời gót theo anh.


    193. Rượu hồng đào trút nhào vổ nhạo,
    Kiếm nơi nào nhơn đạo hơn anh.


    194. Sáng trăng suông, sáng cả bờ sông,
    Ta được cô ấy, ta bồng ta chơi.
    Ta bồng, ta tếch lên trời,
    Hỏi ông Nguyệt-lão tốt đôi chăng là?


    195. Sông sâu nước đục lờ đờ,
    Cắm sào mà đợi bao giờ cho trong.


    196. Sông sâu cá lội biệt tăm,
    Chín tháng cũng đợi, mười năm cùng chờ.


    197. Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
    Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.


    198. Sông sâu lối hiểm như vầy,
    Ai xui em đến chốn nầy gặp anh.
    Đào tơ sen ngó xanh xanh,
    Ngọc lành còn đợi giá lành đẹp duyên.
    Cho hay tiên lại kiêm tiên,
    Phượng hoàng chẳng chịu đứng chen đàn gà.


    199. Sông sâu cá lặn vào bờ,
    Lấy ai thì lấy đợi chờ nhau chi.


    200. Sông sâu cá lội biệt tăm,
    Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
     
    kuakangxanh, vinguyen264 and tducchau like this.
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    201. Sớm mai đi chợ Gò-vấp,
    Mua một xấp vải.
    Đem về con hai nó cắt,
    Con ba nó may.
    Con tư nó đột,
    Con năm nó viền.
    Con sáu đơm nút,
    Con bảy vắt khuy,
    Anh bước cẳng ra đi,
    Con tám níu, con chín trì,
    Ớ mười ơi, sao em để vậy còn gì áo anh?


    202. Tài trai lấy năm, lấy bảy,
    Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng.


    203. Tại chim diều nó biểu chim quỳnh,
    Biểu to biểu nhỏ, biểu mình thương tui.


    204. Tay cầm nhành dứa, lụy ứa đôi hàng,
    Thuở xuân xanh không gặp để hoa tàn gặp em.


    205. Tiếc thay cây quế giữa rừng,
    Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.


    206. Tiếc thay hột gạo trắng ngần,
    Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm.


    207. Tình thương quán cũng như nhà,
    Lều tranh có nghĩa hơn lòa ngói xây.


    208. Tốt số lấy được chồng chung.
    Lương vua khỏi đóng, áo chồng khỏi may.


    209. Thà rằng làm lẽ thứ mười.
    Còn hơn chánh thất những người đần ngu.


    210. Thắp hương vái với ông bà,
    Đôi ta kết ngãi đến già an cư.


    211. Thân em chẳng đáng mấy tiền,
    Vì tình em nặng, mấy nghìn cũng mua.


    212. Thân em như hạt mưa rào,
    Hạt sa cát, hạt vào vườn hoa.
    Thân em như hạt mưa sa,
    Hạt vào đồng nội, hạt ra vũng lầy.


    213. Thẩn thơ đứng gốc mai già,
    Hỏi thăm ông Nguyệt có nhà hay không?


    214. Thấy anh em cũng muốn theo,
    Em sợ anh nghèo, anh bán em đi.
    Lấy anh em biết ăn gì,
    Lộc sắn thì chát, lộc si thì già.


    215. Thôi đừng lấy chú biện tuần,
    Tuy lòng bóng bẩy, nợ nần chứa chan.
    Thà rằng lấy chú xẩm xoan,
    Công nợ chẳng có, hát dàn cung mây.


    216. Thờ cha kính mẹ đã đành,
    Theo tôi, theo lối mới thành thất gia.


    217. Thuyền em lựa bến cắm sào,
    Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.


    218. Thứ nhất cung voi ra na,
    Thứ nhì đất đỏ, thứ ba khoa tràng,
    Rủ nhau lên núi đốt than.
    Anh trèo Tam-điệp em mang nón giành.
    Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,
    Lấy anh thì lấy, về Thanh không về.


    219. Trai có tài nào lo ế vợ,
    Gái có sắc nào sợ ế chồng,
    Xin em giữ phận cho đồng,
    Tình duyên dầu đứt, em chẳng hề nhớ thương.


    220. Trai tứ chiếng, gái giang hồ,
    Gặp nhau ta nổi cơ đồ từ đây.


    221. Trai làm nên năm thê, bẩy thiếp,
    Gái làm nên thủ tiết thờ chồng.


    222. Trai chê vợ, mất của tay không,
    Gái chê chồng, một đồng thành bốn.


    223. Trai giỏi giắn dễ lo ế vợ,
    Gái lịch xinh chẳng sợ ế chồng.
    Khuyên em giữ phận cho đồng,
    Chọn nơi phải đạo chỉ hồng sẽ xe.


    224. Trai anh, hùng gái thuyền quyên,
    Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cõi lòng.


    225. Trai anh hùng gái thuyền quyên,
    Ví như Lữ-Bố Điêu-Thuyền gặp nhau.
    Trai làng ở góa còn đông,
    Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư.
    - Ngụ cư có thóc cho vay.
    Cà lụa bán đầy, em lấy ngụ cư.


    227. Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng,
    Dù ai thêu phượng vẽ rồng đừng ham.


    228. Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
    Phải dò cho hết ngọn ngành lạch sông.


    229. Trăm năm xe sợi chỉ hồng,
    Bắt người tài sắc buộc trong khuôn trời.
    Bao giờ tài sắc có lời,
    Thì ta lại cỡi khuôn trời cho ra.


    230. Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng,
    Hễ ai có bạc thì bồng trên tay.
    Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng,
    Đẹp duyên thì lấy chẳng ông tơ hồng nào xe.


    231. Trắng như bông lòng anh không chuộng,
    Đen tợ than hồng lòng muốn dạ ưng.


    232. Trâu kia kén cỏ bờ ao,
    Anh kia không vợ khi nào có con.
    Người ta con trước con sau,
    Thân anh không vợ như cau không buồng.
    Cau không buồng ra tuồng cau đực,
    Trai không vợ cực lắm anh ơi.


    233. Trầu vàng ăn với cau sâu,
    Lấy chồng thua bạn thêm sầu mà hư.


    234. Trâu kia kén cỏ bờ ao,
    Anh kia không vợ đời nào có con.
    Người ta con trước con sau,
    Thân anh không vợ như cau không buồng,
    Cau không buồng như tuồng cau đực,
    Trai không vợ cực lắm anh ơi.
    Người ta đi bốn về đôi,
    Thân anh đi lẻ về loi một mình.


    235. Trầu vàng còn để trong cơi,
    Anh kia đũa mốc chớ chòi mâm son.
    Trầu vàng đâu ở mãi trong cơi,
    Sợ mai trầu héo, trầu ơi là trầu!


    236. Trầu đã có đây, cau đã có đây.
    Nhân duyên chửa định trầu này ai ăn.
    Trầu này, trầu túi, trầu khăn,
    Cùng trầu giải yếm anh ăn trầu nào?


    237. Trèo lên Ba-dội tôi coi,
    Bốn dội tôi ngồi, năm dội tôi trông.
    Nồi đồng lại úp vung đồng,
    Con gái xứ Huế lấy chồng Đồng-nai,
    Giậm chân xuống đất kêu trời,
    Lấy chồng trong Quảng biết đời nào ra.


    238. Trên trời băm sáu vì sao,
    Vì thấp là vợ vì cao là chồng.
    Cô kia gái lớn ngồng ngồng?
    Hỏi thăm cô đã có chồng hay chưa?


    239. Trên rừng băm sáu thứ chim,
    Thiếu gì chim phượng đi tìm quạ khoang.
    Quạ khoang có của có công,
    Tuy rằng chim phượng nhưng không có gì?


    240. Trong làng bà tú, bà cai.
    Có khôn thà lấy vợ hai cho chồng.


    241. Tròng trành như nón không quai,
    Như thuyền không lái, như ai không chồng.
    Gái có chồng như gông đeo cổ,
    Trai không vợ như phản gỗ long đanh.
    Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi.
    Không chồng khổ lắm chị em ơi!


    242. Trời mưa nước chảy qua sân,
    Em lấy chồng ông lão qua lần thì thôi.
    Bao giờ ông lão chầu trời.
    Thì em lại kiếm một người trai tơ.


    243. Ước gì cho Bắc họp Đông,
    Cho chim loan phượng ngô đồng sánh đôi,


    244. Vái trời cưới được cô năm,
    Làm chay bảy ngọ mười lăm ông thầy.


    245. Vái ông tơ một dĩa bánh bò bông.
    Cùng bà Nguyệt-lão gắng công xe giùm.


    246. Vắn tay với chẳng tới kèo.
    Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em.


    247. Vì dây thiên lý ngang trời,
    Để cho tài tử gặp người giai nhân.


    248. Ví dầu nhà dột cột xiêu,
    Anh đi cưới vợ phải chiều ông mai.


    249. Vô duyên mới lấy chồng khòm,
    Mai sau nó chết cái hòm khum khum.


    250. Vừa đi, vừa gặp em đây,
    Một là duyên kỳ ngộ, hai là trời xoay đất vần.


    251. Vườn em đã có choẻn cau,
    Nhà anh có chiếc cơi son đợi chờ.
    Anh về thưa mẹ với thầy,
    Anh sang làm rể tết nầy là xong.


    252. Xấu tre uốn chẳng nên cần,
    Xấu mai nên chẳng đặng gần với em.


    253. Xấu dao xắt chẳng mỏng gừng,
    Xấu người mai chước lỡ chừng đôi ta.


    254. Xưa nay những bạn má hồng,
    Thà hầu quân tử hơn chồng đần ngu.
     
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    C. TÍNH CHẤT HỜN DỖI, GHEN TƯƠNG CỦA BẢN NĂNG CON NGƯỜI.

    Trước đây, chúng ta đã xác định sự luyến ái là tính chất của con người, mà quan niệm hôn nhân là bước đường cá nhân từ con người đi vào xã hội. Ngược lại, xã hội cũng ảnh hưởng vào đời sống con người trước nhất từ quan niệm hôn nhân, tức là ý thức cấu tạo gia đình, lần lần đưa con người vào nhịp sống hòa hợp trong guồng máy tập thể.

    Tuy nhiên, quan niệm hôn nhân cũng chỉ mới là phần ý thức, chịu ảnh hưởng sự phân hóa giữa con người và xã hội chứ chưa phải là phần thực trạng của sự phân hóa ấy. Phần thực trạng của sự phân hóa chính là cuộc đời.

    Vậy cuộc đời là gì?

    Nói một cách vắn tắt thì nó là trạng thái mâu thuẫn giữa con người và con người trong tâm tư cũng như ngoài hành động. Sự mâu thuẫn ấy chằn chịt muôn mặt, và phát sinh đủ mọi biến thái. Nhưng, nếu chúng ta truy nguyên thì nguồn gốc phát sinh vẫn là sự mâu thuẫn giữa con người và cuộc sống.

    Vậy, tại sao con người lại phải mâu thuẫn với cuộc sống con người? Muốn phân định điều này, chúng ta phải bước vào lãnh vực triết học. Ở đây, vì là quyển sách khảo cứu văn học, không cho phép chúng ta vượt quá xa trong phạm vi tham luận. Nhưng, nếu chúng ta buông lửng vấn đề thì chúng ta phải gặp trở ngại khi khảo sát đến tâm tư con người và mọi hiện tượng của sinh hoạt con người trong lẽ sống. Để có một ý niệm làm căn bản cho chiều hướng suy cứu, chúng ta thử đặt ở đây một khái niệm tổng quát.

    Xưa nay, không phải chỉ có những nhà triết học mới quan niệm con người là thân phận bi đát, mà chính những người bình dân sống trong đồng không mông quạnh, bên lũy tre xanh, bên dòng suối bạc, vẫn thấy đời người là một kiếp sống khổ cực về thể xác mà cả đến tâm hồn chẳng bao giờ được thỏa mãn. Sở dĩ họ cảm thấy như vậy là vì từ lúc họ sinh ra cho đến lúc họ chết đi, lúc nào những ưu tư cũng đè nặng tâ, tâm hồn họ, mà trước mặt họ, đối với mọi người cũng thế, ngoài những cảnh giành giựt nhau để mà sống, cướp đoạt nhau để mà thụ hưởng thì chẳng thấy có gì là cao đẹp. Thế thì họ bảo thân phận con người là bi đát, cuộc đời là bể khổ tưởng không phải vô lý.

    Tuy nhiên, đó là họ đứng trong con người mà nhìn xã hội con người. Nếu họ bước ra ngoài phạm vi con người, và đừng đặt con người trước vũ trụ, mà đặt con người trong vũ trụ thì họ sẽ thấy chẳng phải chỉ có cuộc sống con người là bi đát, mà tất cả muôn loài, vạn vật đều chịu chung ảnh hưởng của vũ trụ. Vũ trụ là một hiện tượng mâu thuẫn, trong đó bao gồm con người và sinh hoạt của con người. Con người không thể đặt mình ra ngoài vũ trụ, thì sự mâu thuẫn giữa con người và xã hội con người là việc tất yếu. Sở dĩ chúng ta cảm thấy đau khổ chỉ vì chúng ta là con người, một sinh vật có tâm tư.

    Tiếng nói đau khổ của tâm tư tràn ra mọi lãnh vực trong cuộc sống, nối tiếp thành một dòng lịch sử tâm tư của nhân loại. Tuy nhiên, nếu trở về với căn nguyên thì cũng chỉ là sự mâu thuẫn trên hai dòng lịch sử con người và xã hội con người.

    Nguồn gốc mâu thuẫn trong tâm tư con người đi vào xã hội khởi đầu từ luyến ái đến hôn nhân, rồi từ hôn nhân biến thành những chực trạng xã hội tức là cuộc đời.

    Trong phần này chúng ta khảo sát tính chất hờn dỗi, ghen tương của con người bình dân thời xưa tức là chúng ta mổ xẻ những mâu thuẫn căn bản trong tâm tư con người khi bước vào thực trạng của lẽ sống.

    Hờn dỗi, ghen tuông là trạng thái phản ứng đầu tiên để đã dẫn đến bất mãn vì hành động, nó phát xuất từ ý thức tự ái, tự kỷ.

    Nhưng chế nào là tự ái, tự kỷ.

    Con người cũng như mọi sinh vật khác đều ảnh hưởng vào qui luật tất yếu là mỗi cá thể đều vươn lên để tranh đấu tự tồn.

    Con muỗi, con kiến, con ong đốt chúng ta không phải vi thù oán, mà chính vì quy luật tranh đấu tự tồn. Chúng ta thương một người nào, hoặc ghét một người nào cũng không phải tự nhiên mà có, nó phát xuất ở bản tính thiên nhiên tức là sự mong muốn đi tìm một sức sống.

    Chúng ta không thể vui với một mùa đông giá mưa tầm tã, cũng như không thể không cảm hứng trước một cảnh đẹp huy hoàng. Bản chất tự ái, tự kỷ gắn liền với ngoại cảnh, với mọi sinh hoạt chung quanh ta. Những sinh hoạt ấy ảnh hưởng vào tâm hồn chúng ta không phải ít. Tuy nhiên, chúng ta lại thấy có những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp.

    Trong lãnh vực hôn nhân và luyến ái cũng vậy, bản chất ghen tương hờn dỗi luôn luôn là những trạng thái bênh vực lẽ sống của cá nhân mình, của tâm tư mình, mà mỗi cá nhân, mỗi tâm tư khi đã bị đời sống xã hội chi phối thì trở thành cách biệt và tương phản.

    Chúng ta cầm một đồng bạc cho người ăn mày, đừng tưởng chúng ta thương người ăn mày ấy, mà chính chúng ta đã tự thương mình. Bởi vì tình thương chúng ta đối với người ăn mày phát xuất trước tiên bằng một cảm giác so sánh. Chúng ta nhìn người ăn mày, chúng ta nghĩ đến thân mình, tuy rằng cảm giác so sánh ấy biểu hiện không rõ rệt trong đầu óc chúng ta do một thói quen về cử chỉ từ thiện.

    Và, mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi cảm giác của chúng ta hằng ngày không bao giờ thoát ra ngoài bản chất tự ái, tự kỷ của con người được. Bản chất ấy cũng là bản chất thương, ghét, giận, hờn của chúng ta.

    Từ ngàn xưa, tiền nhân chúng ta tuy không biện bạch, nhưng cũng đã quan niệm một cách xác đáng tính chất căn bản của tình cảm con người trong những câu ca dao:

    Ớt nào mà ớt chẳng cay,
    Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
    Vôi nào mà vôi chẳng nồng,
    Gái nào là gái có chồng không ghen?

    Tại sao đàn bà lại phải ghen chồng? Tại sao tâm trạng người đàn bà lại giống nhau một cách cố định trong lãnh vực này?

    Thực ra, nếu chúng ta tìm được căn bản mâu thuẫn, của tâm tư con người bắt đầu đi vào đời bằng quan niệm hôn nhân thì chúng ta không lấy gì làm lạ trước trạng thái cố định ấy.

    Ghen là gì? Phải chăng là cảm giác bất mãn trên con đường từ luyến ái đến hôn nhân? Sở dĩ người đàn bà ai cũng phải ghen chồng là vì họ đều là con người Căn bản của con người không khác gì cả. Căn bản ấy va chạm với cuộc sống trở thành một hiện tượng mâu thuẫn, con người yêu giống nhau, tức là ai cũng yêu và ghen.

    Ghen mới chỉ là cảm giác chứ chưa phát lộ ra tâm tư. Cũng như mâu thuẫn chỉ mới là trạng thái tự nhiên của lẽ sống chứ chưa phát lộ ngoài sinh hoạt. Từ cảm giác đi đến tâm tư, từ trạng thái mâu thuẫn tự nhiên phát lộ ra sinh hoạt xã hội, thì đó mới là bộ mặt của cuộc đời.

    Cho nên tính chất con người thì ai cũng giống nhau, nhưng tính chất cuộc đời thì không một ai giống nhau. Bởi vì khi con người đã hòa vào cuộc sống, tính chất con người bị chi phối rất nhiều mặt, do dó, đứng vào quan điểm xã hội nhìn con người thì giữa con người rất khác biệt.

    Cũng như chúng ta nhìn vào ý thức, thì trong lãnh vực luyến ái và hôn nhân không người đàn bà nào khỏi ghen chồng, nhưng nếu nhìn vào tâm tư thì không có cái ghen của người đàn bà nào giống người đàn bà nào cả.

    Nhưng người đàn ông và người đàn bà vẫn là con người, tại sao chỉ có người đàn bà ghen chồng, còn người đàn ông không ghen vợ ư?

    Không ai dám phủ nhận người đàn ông không ghen vợ. Tình cảm con người vẫn là một, chỉ khác ở lãnh vực tâm tư. Người xưa sở dĩ không nói đến người đàn ông ghen vợ là vì họ chỉ nhìn vào chiều hướng tâm tư, tức là bộ mặt của cuộc đời. Trong lãnh vực hôn nhân và luyến ái. Ở lãnh vực này, sự ghen tuông của người đàn bà biểu hiện một cách đặc biệt hơn, dễ thấy hơn do tâm tư họ bị ràng buộc vào tổ chức của guồng máy xã hội phong kiến.

    Ở đây, chúng ta khảo sát tính chất ghen tương, hờn dỗi của người xưa, cũng chỉ khảo sát những tính chất đặc biệt ấy. Bởi vì chỉ có sự diễn biến tâm tư con người trong cuộc sống mới là điều đáng nói.

    Tâm tư! Lịch sử tinh thần của nhân loại! Nếu tách rời khỏi cuộc sống thì không còn xã hội loài người nữa. Trong phạm vi hôn nhân và luyến ái, tâm tư con người đi từ ghen tương đến hờn dỗi, vì từ hờn dỗi biến thành nhiều trạng thái của tâm tư, khiến chúng ta không thể nào ghi trọn vẹn được.

    Hỡi bộ óc của loài người! Ngày nay chúng ta tự hào là có thể dùng nó đã khám phá vũ trụ, nhưng thử hỏi bộ óc loài người đi làm gì được những cái mà người xưa cho là khó khăn?

    Thì đây, tiền nhân chúng ta đã bảo cho chúng ta biết:

    Dò sông, dò biển dễ dò,
    Nào ai lấy thước mà đo lòng người!

    Ngày nay chúng có những nhà bác học đang cỡi phi thuyền vượt quả đất lên cung trăng, đang chui vào tiềm thủy đỉnh du hành khắp đáy đại đương, nhưng thử hỏi các nhà bác học tài năng của thế hệ chúng ta đã đo được lòng người chưa? Lòng con người có bao nhiêu chiều sâu, chiều rộng?

    Ôi! khi nói đến cõi lòng con người, nhà bác học của thế hệ chúng ta cũng phải mù tịt! Bởi vì lòng người không thể dùng cây thước để đo lường.

    Nếu tiến bộ của khoa học chúng ta ngày tuy cảm thấy xấu hổ trước một câu nói thường nghiệm của người ngàn xưa. Thì chúng ta cũng chớ nên tự hào đối với bộ óc con người

    Chúng ta hãy trở về với tiền nhân, học hỏi ở tiền nhân trên con người. Tiền nhân chúng ta không ích kỷ, cũng không tự phụ như chúng ta ngày nay đâu. Điều khó khăn ấy, tiền nhân đã bảo chúng ta:

    Thức đêm mới biết đêm dài,
    lâu mới biết ai ai bạc tình.​

    Lòng người không thể đo bằng cây thước mà phải am hiểu bằng sự cọ xát giữa lòng người với lòng người qua thời gian. Chỉ có lòng người mới đo lường được lòng người. Nói một cách khác, tâm tư con người là một trạng thái biến ảo, mà chúng ta muốn hiểu nó, chúng ta phải dùng tâm tư của chúng ta hòa nhịp với trạng thái biến ảo ấy, không thể đứng khách quan bên ngoài mà nhận định nổi. Bởi vì tâm tư không còn là cảm giác mà cũng chưa thành là ý thức. Tâm tư là cái vùng ảnh hưởng giữa cảm giác và ý thức. Nó mênh mông và vô định. Đem cảm giác mà nói thì cảm giác chưa đạt đến vùng ảnh hưởng của tâm tư, đem ý thức phân tích thì ý thức lại là sản phẩm của bộ óc, vượt lên quá tầm ảnh hưởng của cảm giác đã bị chan hòa với lẽ sống. Cho nên chúng ta chỉ hình dung nó với một hình bóng lờ mờ, mà người xưa gọi là cõi lòng.

    Để cắt nghĩa thế nào là cõi lòng, cổ nhân đã cho chúng ta thấy:

    Khó than, khó thở, khó nỗi phân trần,
    Tóc không xe lại rối, ruột không giần lại đau!

    Đấy, hiện tượng của cõi lòng như vậy. Các nhà bác học thời nay có thể dùng tài khoa học xác định hình bóng của nó chăng? Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một trong muôn nghìn hiện tượng biến ảo, mà tầm mắt chúng ta đủ có mở rộng đến bực nào cũng chẳng thể thu thập hết.

    Người xưa muốn tìm nó, không phải một sớm một chiều mà nói lên được hiện trạng ấy. Chính họ đã phải xả thân vào cuộc sống, đúc kết hình bóng của nó qua tâm tư bằng thời gian, không gian. Vậy, cõi lòng con người cũng chính là kết tinh của thời gian, không gian!

    Thực vậy, nếu thời gian và không gian biến đổi thực chất của con người từ cảm giác qua tâm tư. Thì thời gian cũng chính là đối tượng của cõi lòng. Những ưu tư, những cảm nghĩ của cõi lòng con người không thể vượt ra ngoài thời gian, không gian được.

    Một mối sầu dằng dặc, chìm đắm trong tâm tư người cô phụ, nếu không thai nghén trong thời gian, không gian, làm gì có những nhớ nhung, phiền muộn:

    Nhớ ai em những khóc thầm,
    Nằm thân áo vải ướt đầm như mưa!
    Nhớ ai, ra ngẩn vào ngơ,
    Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
    Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn,
    Hồ bưng lấy bát lại dằn xuống mâm!

    Chúng ta làm sao thông cảm được những nỗi buồn bực nhớ mong ấy nếu không nhờ vào khoảng thời gian không gian của cuộc đời chúng ta đúc kết trong tâm tư chúng ta một đau buồn tương tư. Vậy chỉ có lấy đau buồn mà hiểu đau buồn, tức là lấy tâm tư đo lường, thông cảm với tâm tư.

    Một giải trăng suông trong đêm trường cô tịch, nếu tâm hồn chúng ta suốt một thời gian chung đụng với cuộc sống không có một lần vương mang mỗi buồn dưới ánh trăng ấy, thì cũng không thể nào hiểu nỗi niềm tâm tư của cô gái sầu xuân:

    Đêm đêm ngồi tựa bóng đèn,
    Thở than với bóng, giải phiền với hoa.

    Nhưng, chúng ta đã thấy rõ tính chất của tâm tư là một khoảng mung lung, biến ảo, thì chuyện trớ trêu của lòng người là chuyện dĩ nhiên! Lòng người trớ trêu để trạng thái tâm tư biến đổi, và trạng thái tâm tư biến đổi để cho lòng người trớ trêu.

    Thời xưa, tiền nhân đã đổ lệ khóc cho lòng người. Dòng lệ ấy chảy dài đến thế hệ chúng ta mà vẫn chưa thôi. Ở đây, chúng ta phải trở ngược về nguồn, nhìn lại những chỗ uẩn khúc của dòng tâm tư, và chỉ có tâm tư chúng ta mới thông cảm một phần nào tâm tư của tiền nhân, bởi vì chúng ta với tiền nhân tuy xa cách về thời gian, nhưng lại cùng chung một dòng lịch sử.

    *

    Giữa một xã hội bình dân, điều kiện kinh tế cho phép gái trai được gần gũi nhau, tự do luyến ái, lẽ ra tâm tư sầu muộn của người xưa không sâu sắc lắm, tính chất ghen tương không đến nỗi đậm đà, thế mà ngược lại, chúng ta vẫn thấy bao giờ cũng như bây giờ, bóng dáng con người trong lãnh vực tình ái vẫn luôn luôn khắc khoải! Điều đó, có lẽ người xưa cùng quan niệm như vậy, cho nên đã có ý tưởng:

    Đã mang lấy cái thân tằm,
    Không vương tơ nữa, cũng nằm trong tơ!

    Họ quan niệm tình ái như một yếu tố của hờn dỗi, khổ đau, mà tâm trạng của những người đang yêu bao giờ cũng không tránh khỏi:

    Ai làm cho dạ em buồn,
    Cho con bướm lụy, chuồn chuồn lụy theo.

    Ai làm cho một cô gái buồn! Tất nhiên là một chàng trai rồi! Nhưng trong lãnh vực luyến ái, tâm hồn con người không bao giờ thấy mình được toại nguyện thì con gái cũng như con trai chưa hẳn ai đã buồn hơn ai.

    Nếu người con gái cảm thấy:

    Đêm qua em có ngủ đâu,
    Em ngồi nghe dế kêu sầu bên tai!

    Thì người con trai có khác gì:

    Đêm qua hết nhớ lại buồn,
    Nhớ buồn nghe dế kêu sương bên thành.

    Những buồn tủi giữa tâm hồn gái trai như một sự vừa giao cảm vừa mâu thuẫn. Giao cảm khi thấy trong tâm hồn mình chất chứa niềm luyến ái, và mâu thuẫn khi thấy trong tình luyến ái ấy chất chứa một sự bất mãn đối với tình yêu. Luyến ái càng tăng thi bất mãn càng nhiều. Bởi tâm trạng thái ghen tuông là một trạng thái mâu thuẫn tương quan, nghĩa là vừa dung hợp vừa chống đối. Đó cũng chính là quy luật tự nhiên trong hiện tượng vũ trụ theo triết lý Đông-phương.

    Trước đây, chúng ta đã xác định ghen tương là một tính chất tự ái tự kỷ, thì dù người đàn ông hay đàn bà khi đã ghen, bao giờ cũng đứng vào tâm trạng ấy, xem đối tượng của tình yêu như là một phản bội, và tự đặt mình vào thân phận bi đát của ái tình. Nếu họ cảm thấy:

    Duyên sao cắc cớ lỡ làng,
    Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai!

    Thì chính họ đã đem đau đớn riêng của tâm tư gắn vào ngoại cảnh, oán trách ngoại cảnh đã tàn nhẫn đối với thân phận họ. Nhưng ngoại cảnh bao giờ cũng khách quan, chỉ vì tâm tư họ tự thấy mâu thuẫn với khách quan mà họ đau khổ.

    Một con bướm hút nhụy hoa, đó là trạng thái tự nhiên của ngoại vật, nhưng đối với một kẻ buồn khổ vì tình, khi nhìn cành hoa và cánh bướm, tính chất của họ đi từ cảm giác đến tâm tư, và họ cảm thấy đó là chuyện bất công, phi lý, vì chính sự bất công, phi lý ấy đang đè năng trên thân phận. Họ oán trách:

    Khá khen con bướm khôn ngoan,
    Hoa tươi bướm đậu, hoa tàn bướm bay!

    Mang tâm trạng vị kỷ ấy, con người lao mình vào thực trạng xã hội thì thực trạng xã hội lại rất phũ phàng. Bởi vì thực trạng xã hội là guồng máy chung của loài người, của dân tộc, không còn tính cách cá nhân nữa, cho dù bản chất cá nhân bị bản chất tập thể phủ nhận.

    Dù vậy, tham vọng cá nhân trong tính chất vị kỷ vẫn luôn luôn đòi hỏi và tranh đoạt những dục vọng cho mình, mà càng tranh đoạt, cá nhân mình càng cảm thấy mát mát, thiếu thốn.

    Một nhà đạo đức học khi xét đến tâm tư con người đối với xã hội đã phải thở dài than “xã hội không làm cho lòng người đau khổ mà chính dục vọng cá nhân làm cho lòng người cảm thấy phũ phàng”.

    Dục vọng cá nhân là lòng tham không đáy của con người, dưới mắt nhà dạo đức học thì dục vọng cá nhân là cái gì xấu xa, đê tiện, nhưng dưới mắt nhà triết học thì dục vọng cá nhân là ý thức vươn lên của một cá thể đòi hỏi lẽ sống, nó nằm trong qui luật tất yếu không thể chối bỏ. Bởi vậy, tự ngàn xưa, con người đã bị phủ lên không biết bao nhiêu lớp đạo lý, mà con người vẫn tồn tại với ý thức dục vọng ấy.

    Mỗi con người trong chúng ta đều mang tính chất vị kỷ, tất nhiên ai cũng muốn hưởng thụ hơn là hy sinh. Mà luật tạo hóa khi một kẻ hưởng thụ tất phải có một kẻ hy sinh. Cho nên, kẻ bị đau khổ trong đời là kẻ bị hy sinh, bị tước đoạt tính chất vị kỷ của họ.

    Khi người đàn bà phê phán người đàn ông:

    Đàn ông một trăm lá gan,
    Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.

    Thì chính người đàn bà đã cảm thấy dục vọng cá nhân mình bị hy sinh. Họ đòi hỏi một khả năng thụ hưởng chính người đàn ông đã tước đoạt của họ.

    Dục vọng cá nhân lại chẳng bao giờ thỏa mãn khi một cá thể đang vươn lên tìm sức sống! Nếu chúng ta nhìn vào vũ trụ, buồn chán trước những cành khô, lá rũ, những cánh hoa tàn, những ống xương khô đang mục rã qua thời gian, thì chính những dục vọng cá nhân là trạng thái tương phản, chống lại với những gì đang tàn tạ! Khi dòng máu còn đang rào rạt trong huyết quản con người thì không một ảnh hưởng đạo lý nào đủ quyền lực buộc dòng máu ấy phải dừng lại. Cũng như một con sông, khi dòng nước đã ứ tràn thì dù bị địa thế cản trở, con sông ấy vẫn phải uốn mình để thoát đi. Đó chỉ là sức sống!

    Chính trong tâm hồn vị kỷ, người xưa cũng đã cảm thấy sức mạnh của nguồn sống ấy xuyên qua sự hờn dỗi của họ:

    mới thì nới ra,
    Mới
    để trong nhà, để ngoài sân!​

    Hoặc:​

    Nghĩa nhân mỏng dánh
    Như
    cánh chuồn chuồn.
    Khi vui đậu, khi buồn bay!
     
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Tâm tư con người luôn luôn đòi hỏi những mới lạ, và tìm đến những gì mới lạ. Bởi vì mới lạ chính là ý nghĩa của cái sống!

    Một vũng ao tù hàng ngày chúng ta nhìn nó trong trạng thái cô đọng và cạn dần dưới sức nóng mặt trời, chúng ta không tìm thấy bên trong một sinh lực. Một mầm non hàng ngày chúng ta săm soi thấy mãi thêm lên, chúng ta hình dung được sức phát triển nguồn sống nó. Thế thì tâm tư con người cũng vậy, khi sức sống đã chứa đựng trong cơ thề thì tâm tư tất phải ăn nhịp với nguồn sống của thể xác.

    Sở dĩ lịch sử loài ngoài không đứng yên một chỗ chính vì ý thức con người luôn luôn tìm kiếm những mới lạ, và trạng thái ấy đã đánh dấu sự sống của con người.

    Thời xưa, cổ nhân cũng đã tìm thấy bản chất của ý sống, và gởi gắm vào các câu ca dao như:

    Tới đây lạt miệng thèm chanh,
    Ở nhà đã có cam sành chín cây.

    Cam cũng chua, chanh cũng chua, nhưng cam không phải là chanh! Ý thức con người không cắt nghĩa được sự đòi hỏi của lẽ sống, chỉ có người đang sống, vì chính con người đang sống ấy mới hiểu được bản chất của họ.

    Một cô gái hờn dỗi chế diễu một chàng trai:

    Đũa mun bịt bạc anh chê,
    Đũa tre lau cạnh anh mê nỗi gì?

    Hoặc:

    Cam sành anh chê đắng, chê hôi,
    Hồng rim chê lạt, cháo bồi khen ngon!

    Thì cũng mới chỉ đứng trên quan điểm của bản chất xã hội mà chưa đứng trên quan điểm bản chất con người. Xã hội mặc dù thay đổi nhưng thay đổi trên dòng lịch sử giai cấp, nên quí vật được tôn thờ trên truyền thống, còn đối với sự thay đổi của bản chất con người không thể đánh giá bằng quí vật của xã hội được.

    Chính bản chất con người như vậv, nên trong lãnh vực luyến ái và hôn nhân này sinh không biết bao nhiêu cảnh huống dị thường.

    Khi đặt mình vào lãnh vực luyến ái, không ai nghĩ đến chung thủy. Nhưng chung thủy tức là duy trì, là giữ lại khả năng phát triển của lẽ sống, mà điều đó, theo qui luật thiên nhiên của bản chất con người là điều trái ngược. Cho nên ái tình duy lý bị phá vỡ, và những kẻ nào đứng trên quan điểm ái tình duy lý đều thấy lòng người là một cái gì bội bạc, phản phúc.

    Chúng ta không thể không cảm động trước một lời rên siết của cô gái xưa:

    Nào khi anh bủng anh beo,
    Tay bưng chén thuốc, tay đèo muối chanh.
    Bây giờ anh mạnh, anh lành,
    Anh ham nhan sắc, anh đành phụ tôi!

    Thật chua chát, đắng cay! Nếu bảo con người là một sinh vật có trí khôn, có lý trí, thì tại sao có thể tàn nhẫn như thế được! Tại sao tình cảm của họ không gắn liền với muối chanh, với chén thuốc, với sự săn sóc của người đàn bà đã chịu khổ với họ! Tuy nhiên, tính chất của con người đối với sự sống đã làm cho họ không còn giữ được đạo lý! Họ đã chạy theo sức sống của con người, mãnh lực của thụ hưởng.

    Chẳng những đối với người đàn ông, người đàn bà cũng không khỏi qui luật tự nhiên ấy:

    Có oản em tình phụ xôi,
    Có cam phụ quýt, có người phụ ta.
    Có quán em phụ cây đa.
    Ba năm quán đổ, cây đa hãy còn.
    Có mực em tính phụ son,
    Có kẻ đẹp dòn, em phụ nhơn duyên.
    Có bạc em tính phụ tiền,
    Có nhân nghĩa mới quên người tình xưa!

    Hỡi Tạo-Hóa! Tạo-Hóa đã phú cho con người có được một tình cảm vô biên, một tinh thần kiêu hãnh trên mọi sinh vật khác, nhưng Tạo-Hóa cũng lại không cho con người thoát ra ngoài qui luật tất yếu của muôn loài, và gây cho loài người những mâu thuẫn giữa tâm tư và bản năng.

    Chính con người đã đau khổ trên chiều hướng mâu thuẫn ấy:

    Một thương, hai nhớ, ba sầu,
    Ăn cơm chẳng được, ăn trầu ngậm hơi!

    Nỗi buồn tê tái của con người chẳng những chất chứa trong tâm hồn mà còn tràn ra cảnh vật để giao cảm với thiên nhiên.

    Đợt chàng không thấy chàng đâu!
    Bóng trăng đủng đỉnh ra màu cợt trêu!

    Hoặc:

    Kiểng xa bồn kiểng lại không xanh,
    Anh rầu người bất nghĩa, cơm canh bỏ liều!

    Những nét buồn tê tái ấy cứ đeo đẳng mãi trên những hành động của bản ngã, và tâm tư con người đã phải điêu đứng. Tuy nhiên, con người vốn là một sinh vật có tư tưởng, muốn tránh những trạng thái khắc khoải vì bản ngã con người trong lẽ sống, nên cố tìm ra một đạo lý để ngăn chặn mọi dục vọng con người.

    Đạo lý buộc con người vào đạo nghĩa, vận dụng lý trí để kềm hãm bản năng thiên nhiên. Nhưng, nếu đạo lý kềm hãm được phần nào bản tính con người thì đạo lý cũng bị trở thành đối tượng mâu thuẫn với bản tính con người.

    Ai cũng thừa nhận đạo nghĩa là trọng trước quan niệm ái tình:

    Đạo vợ chồng không phải cá tôm,
    Đang mua mớ nọ lại chồm mớ kia!

    Tuy nhiên, đạo nghĩa chỉ đem lại cho tâm tư con người buồn tủi thêm. Bởi vì dục vọng con người không vì đạo nghĩa mà chịu nằm yên trong trạng thái bất động. Càng bị đè nén, dục vọng càng chỗi dậy.

    Đây, chúng hãy nghe tiếng rên than của một nạn nhân:

    Đem em mà bỏ xuống gành,
    Kéo neo mà chạy sao đành anh ơi!
    Đêm đêm góc biển chân trời,
    Một mình em đứng em ngồi em nghe.
    Em nghe hết giọng con ve,
    Đến lời con cuốc gọi hè tiếc xuân!

    Chẳng biết ngôn ngữ loài người có đủ sức mạnh gieo vào tình cảm con người những đau thương, để cho dục vọng của bản năng con người vì chỉ mà kém chế chăng?

    Nhưng chắc là không! Tiếng nói bi thảm của con người không đủ sức mạnh sửa đổi qui luật vũ trụ. Bởi vậy, mặc dù tự ngàn xưa, loài người đã vận dụng hết ngôn ngữ nói lên những đau đớn trong lãnh vực phụ tình, mà vẫn còn tiếp diễn mãi những cảnh:

    Khoác mùng ra thấy mùng không,
    Gối loan để đó, lệ hồng tuôn rơi!

    Hoặc:

    Đi đâu bỏ nhện giăng mùng,
    Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu!

    Hay:

    Đi đâu mà chẳng thấy về,
    Hay là quần tía dựa kề áo nâu!
    Đi đâu mà chẳng thấy về!
    Hay là ăn cận ngồi kề với ai?

    Lý trí con người đã không thể dùng đạo nghĩa chế ngự bản năng, ngôn ngữ con người cũng chẳng đủ sức mạnh kềm hãm được dục tính, thế thì những đau khổ trong tâm tư đối với những kẻ bị tước đoạt sức sống trong lãnh vực ái tình phải làm sao? Hiện tượng mâu thuẫn ấy đã đưa xã hội loài ngoài đến một phương thức mới, đó là ý thức trả đũa.

    Ý thức hờn dỗi, ghen tương bắt đầu đi vào hành động, vì sự đấu tranh vì tình ái mang tính chất gay gắt hơn. Những tiếng rên than biến thành những lời căm hận:

    Hồi nào bậu nói với qua,
    Bậu không hái lựu bẻ đào;
    Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay?
    Trăng tròn thì mặc trăng tròn,
    Bậu xinh mặc bậu, bậu xằng anh chê!
    Trống không ai dám đánh thùng,
    Bậu không lang chạ, ai dám giở mùng chun vô.

    Từ trạng thái đau buồn đi đến căm hận, và từ căm hận, ý thức ái tình chung thủy tiến đến chỗ mất tin tưởng:

    Vợ ba con anh còn để bỏ.
    Huống chi nàng ngọn cỏ phất phơ.
    Ngọn cỏ phất phơ, ngọn cờ phơ phất
    Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi.
    Đôi ta duyên mặn tình rồi,
    Bậu phân cho phải, lại rồi sẽ đi.

    Hoặc:

    Đánh liều nhợ dứt phao trôi.
    Đánh liều giấy ướt hồ rơi cho rồi.

    Nếu lịch sử xã hội loài người là một chuỗi đấu tranh vì bạo lực kết tụ, thì lịch sử hôn nhân vì luyến ái của loài người cũng là một chuỗi đấu tranh vì tâm tư đúc kết và biến chuyển không ngừng.

    Cho nên những giọt nước mắt thấm đọng nơi cô phòng chưa thể làm lịch sử ái tình cho nhân loại, mà phải kể đến năng lực tranh đấu của ái tình phát hiện trong cuộc sống nữa.

    Năng lực ấy đi từ những giọt nước mắt kia kết tụ để biến thành sức chống đối mãnh liệt.

    Đây, chúng ta thử nhìn lại ở thế hệ xa xưa, sức chống đối đã vượt ra ngoài những tiếng rên rỉ:

    Đất xấu nắn chẳng nên nồi,
    Anh đi lấy vợ thì tôi lấy chồng.
    Anh đi lấy vợ cách sông,
    Tôi
    đi lấy chồng giữa ngõ anh ra. ​

    Nước mắt đã biến thành những tia căm hờn! Và nếu những kẻ chạy theo dục vọng đã tạo thành những giọt nước mắt căm hờn kia, thì ngược lại, nhưng kẻ đã đổ lệ cũng lại dùng bản năng dục vọng để chống đối:

    Ông ăn chả thì bà ăn nem,
    Đứa ở có thèm mua bánh mà ăn.
    Sông sâu nước chảy ngập kiều,
    Dù anh có phụ, còn nhiều nơi thương!
    Dứt dây nên gỗ mới chìm.
    Bởi anh ở bạc, em tìm nơi xa.

    Chưa hết, lòng căm hận trong lịch sử tình ái còn đi xa hơn nưa. Nếu vì phụ bạc mà trong thế hệ chúng ta đã xẩy ra những vụ đầu độc, giết chồng, đánh ghen thì tự ngàn xưa trạng thái ấy cũng đã có:

    May gối luông bằng nỉ,
    May cho kỹ mình nằm,
    Tại mình ở bạc, ta đem bằm gối luông.

    Hoặc:

    May cho mình áo lá,
    Châu xá bông tây,
    Tại mình ở bạc ngồi xuống đây ta lột trần.

    Hỡi tiền nhân! Sự đau dớn trong tâm tư mà xã hội đã gieo rắc cho loài người có lẽ đến ngày nay cũng không khác mấy! Yêu đương là nguồn gốc của lẽ sống, nếu nguồn gốc bị mất thì mọi vật cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Quan niệm ấy, chính tiền nhân đã bộc lộ:

    Dao phai kề cổ máu đổ không màng,
    Chết thời chịu chết buông nàng không buông.

    Hoặc:​

    Chợ Sài-gòn đèn xanh đèn đỏ,
    Anh xem không rõ, anh ngỡ đèn màu.
    Rút gươm đâm họng máu trào,
    Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh!

    Thật vậy, còn gì đắng cay hơn khi xã hội loài người phủ bên ngoài một lớp màu đạo nghĩa, mà bên trong chất chứa những dục vọng cá nhân.

    Đêm nằm bỏ tóc qua mình,
    Thề cho bán mạng kẻo lòng anh nghi!

    Như chúng ta đã thấy, sức mạnh đạo nghĩa không thắng nổi dục vọng yêu đương thì những biến thái của tâm tư con người cũng chẳng còn là chuyện lạ nữa.

    Nếu một cô gái giận chồng tỏ ra những cử chỉ gần điên đại, như:

    Gái đâu có gái lạ lùng,
    Chồng chẳng nằm cùng,
    Nổi giận đùng đùng ném chó xuống ao!

    Thì đó cũng chỉ là một phản ứng của tâm tư mà thôi! Bởi vì nếu không ném chó xuống ao thì họ cũng tìm những cử chỉ khác để cởi mở lòng bực tức của mình. Chẳng hạn như:

    Ngọt canh là bí đao hồng,
    Đánh cho một trận xem chồng về ai!

    Tâm tư con người ở ngoài lãnh vực cảm giác và lý trí, nó hành động theo trạng thái đau khổ, theo dung lượng uất ức chất chứa trong người, cho nên chúng ta không thể dùng ý thức con người mà nhận xét. Chính vì vậy mà chúng ta thấy những cử chỉ ghen tuông từ xưa đến nạy như là những trạng thái mất thăng bằng trong con người.

    Nhận thức được điều đó, người xưa cũng đã châm biếm, chế diễu:

    Ao sâu thì lắm ốc nhồi,
    Chồng mình lịch sự nửa người nửa ta.
    Ghen lắm thì dứt ruột ra,
    Chồng mình thì tới tay ta phen này.
    Em thấy anh em cũng muốn chào,
    Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình.
    Đấy giắt dao, đây gươm kề nách,
    Thuận nhân tình cất cánh sang chơi.
    Chẳng lấy cũng khuấy cho hôi,
    Làm cho bể trách, bể nồi mà chơi.
    Tôi đã biết vợ anh rồi,
    Quăn quăn tóc trán là người hay ghen.
    Ta rằng ta chẳng có ghen,
    Chồng ta, ta giữ, ta nghiến, ta nghiền, ta chơi!
    Cái cò trắng bạch như vôi,
    Cô kia có lấy chú tôi thì về.
    Chú tôi chẳng mắng chẳng chê,
    Thím tôi thì mổ lấy mề nấu canh.
    Anh thấy em anh cũng muốn chào,
    Sợ anh chồng cũ, hắn đứng bờ rào hắn trông!
    - Hắn trông thì mặc hắn trông,
    Để quyết một lòng, ta quyết lấy nhau.

    Nếu tâm tư người xưa đã đau khổ nhiều trong lãnh vực luyến ái, và những giọt lệ thâu đêm đã chảy tràn trên gối mộng thì trái lại tinh thần hài hước của họ cũng chỗi dậy điểm vào đó những nụ cười hóm hỉnh vô cùng.

    Chúng ta không lấy làm lạ trước trạng thái ấy, bởi vì họ là người bình dân, cuộc sống hàng ngày chung đụng, gần gũi nhau, tâm hồn họ trao đổi nhau rất dễ dàng, và mọi biến cố của tâm tư đều là những đề tài được họ mổ xẻ trong niểm vui sống.

    Tuy nhiên, những mâu thuẫn của yêu đương dù khốc liệt đến đâu cũng không thể làm con người chùng bước trước sự luyến ái giữa gái trai. Cũng như gió bão, mưa lụt, hạn hán không tiêu diệt sự nẩy mầm của cây cối. Tình yêu trong xã hội loài người vẫn huy hoàng. Những đêm trăng sáng, tiếng chày vẫn khua đều trong câu hát giao duyên. Những buổi bình minh, giọng hò trữ tình vẫn vang lên bên sườn núi, như khiêu khích những tâm hồn còn đang nặng trĩu lòng xuân, và chính trong nguồn an ủi ấy họ khuây khỏa phần nào những nỗi hằn học của tâm tư:

    Chồng giận thì vợ làm lành,
    Miệng cười hớn hở, rằng anh giận gì?
    Thưa anh, anh giận em chi?
    Muốn lấy vợ bé em thì cưới cho.

    Đồng thời họ cũng lại dí dỏm:

    Vợ anh xấu máu hay ghen,
    Anh đừng lấp lửng chơi đèn hai tim!

    *

    Tóm lại, tính chất ghen tương, hờn dỗi trong lãnh vực hôn nhân và luyến ái từ xưa đến nay vẫn giống nhau, chỉ khác một đôi chút về diễn biến của trạng thái tâm tư mà thôi.

    Người bình dân Việt-nam thời xưa sống dưới ách kềm kẹp của chế độ phong kiến, tuy họ được tự do luyến ái, song quan niệm hôn nhân bị chi phối, thành thử ý thức bình đẳng hôn nhân của họ bị giáo lý Nho-học phá vỡ. Trong những gia đình bình dân chúng ta thấy quyền lực của người đàn ông vẫn đè nặng trên người đàn bà như những gia đình quí tộc gây cho người đàn bà một áp lực, bắt họ phải chịu dựng.

    Áp lực của người đàn ông đối với người đàn bà trong gia đình người bình dân đã phản ánh qua các câu ca:

    Vì dù tình bậu muốn thôi.
    Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
    Bậu ra cho khỏi tay ta,
    Cái xương bậu nát, cái da bậu mòn.

    Hoặc:​

    Không đánh bậu để bậu luông tuồng.
    Cầm roi đánh bậu cũng buồn dạ anh.​

    Dưới áp lực ấy, người đàn bà là kẻ chịu đựng nhiều nhất. Tâm tư họ bị dồn ép bao nhiêu khổ đau trước bản năng dục vọng, trước đạo lý bất công, trước năng lực tiền tài. Ngày nay, khi đào sâu vào tâm tư của họ trong ca dao tục ngữ, chúng ta phải nhìn nhận người phụ nữ bình dân thời xưa có một sức chịu đựng đáng kể. Chi vì xã hội bất công và mọi mâu thuẫn trong luyến ái đã ép họ đến ngộp thở, buộc lòng họ phải bật lên tiếng khóc, tiếng than, tiếng gào, tiếng rú... khơi nguồn cho dòng lệ tâm tư chẩy mãi đến thế hệ ngày nay.

    Trên quan điểm mâu thuẫn chung trong lãnh vực luyến ái, chúng ta đã bàn đến rồi, ở đấy trong phần kết luận, chúng tôi tưởng không thể bỏ qua một vài đặc tính của xã hội phong kiến thời xưa, có ảnh hưởng đến tâm tư người bình dân trong lãnh vực luyến ái.

    1) Sự hờn dỗi ghen tuông của người bình dân có chịu ảnh hưởng vì chế độ phong kiến không?

    Dĩ nhiên không thể tránh được. Chế độ phong kiến là chế độ giai cấp, ảnh hưởng giai cấp đã chi phối cả quan niệm luyến ái lẫn hôn nhân, thì sự ghen tương hờn dỗi không thể tách rời ra ngoài. Cho nên, trong tâm tư người bình dân, chúng ta thấy lúc nào cùng phảng phất một ý thức chống đối giữa quan niệm giàu nghèo, như:

    Tham vàng bỏ ngãi chàng ơi!
    Vàng ăn cũng hết, ngãi tôi vẫn còn.
    Bậu chê nước sông, bậu uống nước bầu,
    Chê đây lấy đó lại giàu hơn ai?

    Tính chất người bình dân bao giờ cũng muốn thủ phận, sống một cuộc sống thanh bần và chung thủy.

    2) Ngoài tâm tư bất mãn guồng máy phong kiến, tính chất ghen tương, hờn dỗi trong xã hội bình dân Việt-nam còn chống giáo lý phụ quyền của Khổng Mạnh nữa. Sự chống đối ấy phản ánh trong các câu ca dao như:

    Chàng đành phụ mẫu không đành,
    Lá che cây khuất ngọn ngành trời ơi!
    Trách mẹ trách cha, chớ ta không trách bậu,
    Cha mẹ ham giàu gả bán em đi.
    Vách thành cao lắm khó dòm,
    Nhớ em anh khóc đỏ lòm con ngươi!
    Tiếc công anh lau dĩa chùi bình,
    Cậy mai tới nói phụ mẫu nhìn bà con.
    - Trời mưa nhà thiếc bon bon,
    Phụ mẫu không thương nói vậy, chớ bà con đâu mà nhìn.

    3) Chẳng những chống phụ quyền trong giáo lý Khổng Mạnh mà tâm tư người bình dân còn chống cả sự bất công trong lễ nghi của Nho giáo. Đây, chúng ta hãy nghe lời than của người mệnh phụ đang xuân:

    Vai mang bức tượng thờ chồng,
    Thấy
    trai nhan sắc, nước mắt hồng tuôn rơi!

    Những giọt nước mắt ngắn dài trong một biến thái của tình yêu đã tuôn chảy tự ngàn xưa, cho mãi đến ngày nay, và có lẽ không bao giờ dứt khi con người cũng vẫn là con người, một con người tự ái, tự kỷ vì chất chứa đầy dục vọng mà không sao thỏa mãn được.
     
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho
    TÍNH CHẤT HỜN DỖI, GHEN TUÔNG​

    1. Ai về đường ấy hôm nay,
    Ngựa hồng ai cỡi dù tay ai cầm.
    - Ngựa hồng đã có tri âm.
    Dù tay đã có người cầm thì thôi.


    2. Ai làm cho bướm lìa hoa,
    Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.
    Ai đi muôn dặm non sông,
    Để ai chất chứa sầu đông vơi đầy.


    3. Anh khôn nhưng vợ anh đần,
    Lấy ai lo liệu xa gần cho anh.


    4. Ao sâu thì lắm ốc nhồi,
    Chồng mình lịch sự nửa người, nửa ta.
    Ghen lắm thì đứt ruột ra,
    Chồng mình thì tới tay ta phen này.


    5. Ăn sao cho được mà mời,
    Thương sao cho được vợ người mà thương.


    6. Ba bốn năm nay lòng thiếp chí thành,
    Nữ nhi nan hóa sự tình nam nhi.
    Phận đàn bà như hoa nở một thì,
    Thiếp xin anh chàng nghĩ lại thiếp tôi thì đội ơn.
    Dù chàng nay trăm giận, nghìn hờn.
    Thiếp xin anh chàng về tới đào tơn chốn này.
    Có đàn ông tình phụ liễu tây,
    Bơ vơ phận đàn bà con gái thiếp biết rầy làm sao?
    Song quân tử chí cao,
    Diệu thường cốt bạch ra vào quyến ong.
    Kể từ khi thiếp tới loan phòng,
    Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan,
    Bởi vì ai cho thiếp tôi phải võ vàng,
    Vì chàng tư lự dạ càng long dong.


    7. Bạc sao bạc chẳng vừa thôi,
    Để cho nước chảy hoa trôi lỡ làng.
    Tin sang chẳng thấy người sang,
    Hẹn ba bốn hẹn, lòng càng xót xa.
    Đoạn tràng phải bước chân ra,
    Gió sương hiu hắt, sương sa lạnh lùng.
    Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng,
    Đôi hàng châu lệ, đôi hàng chứa chan.
    Gặp chàng thiếp phải thở than,
    Dưới khe nước chảy, trên ngàn thông reo.
    Cơm ăn thất thểu ít nhiều.


    8. Bây giờ nàng đã nghe ai,
    Gặp anh ghé nón chạm vai chẳng chào.
    Bấy lâu vắng mặt khát khao,
    Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra.


    10. Bên đây sông, em bắc cái cầu năm mười tấm ván.
    Bên kia sông, em lập cái quán năm bảy từng thương.
    Cái quán năm bảy từng thương,
    Là để người thương em đi buôn bán.
    Cái cầu năm mười tấm ván,
    Là để người thương em đi,
    Trách anh sao bạc nghĩa vô nghì,
    Bây giờ có đôi bạn không nói tiếng gì với em.


    11. Biết nhau từ thuở buông thừng,
    Trăm chắp nghìn nối xin đừng quên nhau.
    Bởi vì chàng nên chị thiếp phải chịu hàm oan,
    Thân phụ già đánh mắng, thế gian ta chê cười.


    12. Cô kia mà hát đa đoan,
    Anh cầm con dao lá trúc anh gạch lá gan cô mày.
    Ruột non anh quấn trên cây,
    Ruột già anh vấn làm dây kéo thuyền.


    13. Cô kia xách giỏ đi đâu,
    Cho tôi gởi trầu cô xách giùm tôi.
    - Trầu anh trầu đắng trầu nồng,
    Em không dám nhận sợ chồng em ghen.


    14. Công tôi gánh gánh gồng gồng,
    Giở ra theo chồng, bảy bị còn ba.
    Xưa tôi ở cùng mẹ cha,
    Mẹ cha yêu dấu như hoa trên cành.
    Bây giờ tôi về cùng anh,
    Anh tham nhan sắc, anh tình phụ tôi.
    Đất rắn nặn chẳng nên nồi,
    Anh đi lấy vợ cho tôi lấy chồng.
    Anh đi lấy vợ cách sông,
    Để tôi lấy chồng giữa ngõ anh ra.


    15. Cục đá lên nghiêng lăn ngửa,
    Khen ai khéo sửa cục đá lăn tròn,
    Giận thời nói vậy, chớ dạ còn thương anh.


    16. Dậm chân xuống đất cái bon,
    Nay còn ở vậy chồng con đâu nà!
    Thôi thôi đừng nói nữa nà!
    Con trâu ăn đám mạ đâu mà còn đây.


    17. Dù chàng năm thiếp bảy thê,
    Chàng cũng chẳng bỏ nái sề nầy đâu.
    Đã thành gia thất thì thôi,
    Đèo bòng cho lắm tội trời ai mang.


    19. Đã lâu không gặp bạn vàng,
    Nay gặp bạn vàng lòng càng thêm tủi.
    Nghĩ đến ân tình giỏ thoảng, mây bay,
    Kể từ ngày xa cách đến nay,
    Lòng ta ngơ ngẩn, đắng cay muôn phần.
    Còn gì mà thở mà than,
    Còn anh qua lại ân cần anh ơi!
    Anh có vợ rồi,
    Như áo có đôi,
    Bỏ mình em lơ lửng mồ côi một mình.


    20. Đêm qua ngõ cửa chờ ai,
    Đêm nay cửa đóng then gài khăng khăng,


    21. Đêm đông lạnh ngắt như đồng,
    Mượn ai cho mượn, mượn chồng thì không.


    22. Đêm qua chung bóng chung hơi,
    Bây giờ kẻ ngược người xuôi mặc lòng.


    23. Đến đêm chồng lại lần vào,
    Vội vàng vác sọt đi trao chó về.


    24. Đi mô mà nỏ thấy về,
    Hay là ai bỏ bùa mê cho chàng.


    25. Đôi duyên ta như loan với phượng,
    Nỡ lòng nào để phượng lìa cây,
    Muốn cho có đó có đây,
    Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi!
    Thà rằng chẳng biết thì thôi,
    Biết chi gối chiếc lẻ loi thêm phiền.


    26. Đối địch thì dịch lại đây,
    Bên thửng, bên chão xem dây nào bền.
    - Nhất bền là dây bồ nâu.
    Chị còn giật đứt nữa đầu chúng em.


    27. Canh cải mà nấu với gừng,
    Không ăn thì chớ, xin đừng mỉa mai.
    Khuyên chàng đừng ở đơn sai,
    Vắng mặt chàng sẽ yêu ai mặc lòng.


    28. Cây kiểng đang xanh, sao anh lại tưới?
    Còn cây kiểng tàn, sao anh lại bỏ khô?


    29. Có yêu thời nói rằng yêu,
    Chẳng yêu thì nói một điều cho xong.
    Làm chi dở dục, dở trong,
    Lờ đờ nước bến cho lòng vẫn thương.


    30. Có nên thì nói rằng nên,
    Chẳng nên sao để đấy quên, đây đừng.
    Làm chi cho dạ ngập ngừng,
    Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu.


    31. Có ai thêm bận về ai,
    Không ai giường rộng chiếu dài dễ xoay.


    32. Có ai ta cũng thế nầy,
    Không ai ta cũng như ngày có ai.


    33. Chàng đã bạc nghĩa thì thôi,
    Dù chàng lên ngược xuống xuôi mặc lòng.


    34. Chàng về cho chóng mà ra,
    Kẻo em chờ đợi sương sa lạnh lùng.
    Cơn lạnh còn có cơn nồng,
    Cơn đắp áo ngắn, cơn chung áo dài.
    Hay là chàng đã nghe ai,
    Áo ngắn chẳng đắp, áo dài không chung.
    Bây giờ sự đã nhạt nhùng,
    Giấm thanh mà đổ mấy thùng cho chua.


    35. Chanh chua thì khế cũng chua,
    Chanh bán có mùa, khế bán quanh năm.


    36. Chẳng chua cũng thể là chanh,
    Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây.
    Chẳng khôn cũng chị lâu ngày,
    Chị đái ra váy cũng tày em khôn.


    37. Chẳng tư túi, chẳng trăng hoa,
    Cớ sao lại thiết việc nhà người dưng.


    38. Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
    Chẳng lịch cũng thể là người trường an.


    39. Chiếu hoa mà trải sập vàng,
    Điếu ngô xe trúc, sao chàng chẳng say.
    Những nơi chiếu cói võng đay,
    Điếu sành, xe sậy chàng say là đà.


    40. Chồng ăn chả vợ ăn nem,
    Đứa ở có thèm mua thịt mà ăn.


    41. Chồng người chẳng mượn được lâu,
    Mượn được hôm trước, hôm sau người đòi.


    42. Chồng giận thì vợ làm lành,
    Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì?
    Thưa anh, anh giận em chi?
    Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho.


    43. Chúng chị là con gái trung vàng,
    Đứng trên đỉnh núi thì ngang với trời.
    Chúng chị là hòn đá tảng trên trời.
    Chúng em chuột lắt cứ đòi lung lay.
    Cha đời chuột lắt chúng bay!
    Hòn đá tảng rơi xuống thì mày gãy xương.


    44. Đồng tiền Vạn-lịch thích bốn chữ vàng,
    Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu.
    Bây giờ cô ấy lấy chồng đâu,
    Để anh giúp đỡ trăm cau, nghìn vàng.
    Năm trăm anh đốt cho nàng,
    Còn năm trăm nữa giải oan lời thề.
    Xưa nói nói, thề thề.


    45. Đừng chê em xấu em đen.
    Em như nước đục đánh phèn lại trong.


    46. Đường lên xứ Lạng bao xa,
    Cách một cái núi với ba quãng đồng.
    Ai ơi đứng lại mà trông,
    Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam-cờ.
    Anh chớ thấy em lắm bạn mà ngờ.
    Bụng em vẫn trắng như tờ giấy phong.


    47. Em ơi! chị bảo em nầy.
    Nhất mặn là muối, nhất cay là gừng.
    Nhất cao là núi Tam từng,
    Chị còn đạp đổ nữa rừng cỏ may.
    Nhất đẹp là núi Sơn-tây,
    Chị còn chẳng tiếc nữa dây bìm bìm.


    48. Em thấy anh em cũng muốn chào,
    Sợ anh chồng cũ, hắn đứng bờ rào hắn trông.
    - Hắn trông thì mặc hắn trông,
    Đã quyết một lòng ta quyết lấy nhau.


    49. Gái đâu có gái lạ lùng,
    Chồng chẳng nằm cùng, nổi giận đùng đùng ném chó xuống ao.
    Đến đêm chồng lại lần vào,
    Vội vàng vác sọt đi trao chó về.


    50. Giàu thì thịt, cá, cơm, canh,
    Khó thì lưng rau, đĩa muối cúng anh tôi đi lấy chồng.
    Hơi anh chồng cũ tôi ơi!
    Anh có khôn thiêng xin anh giở dậy ăn xôi nghe kèn.
    Thôi đã về nghiệp ấy xin anh đừng ghen,
    Anh để người khác cầm quyền thê nhi,
    Miệng em khóc, tay bế ẵm ông thần vì.
    Tay em gạt nước mắt, tay em thì thắp nén nhang.
    Bở vì đâu mà nên xót xa nỗi võ vàng.
     
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Giận chồng xách gói ra đi,
    Chồng theo năn nỉ tu ti trở về.


    52. Gió đưa cây cải về trời,
    Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.


    53. Gió đưa trăng, trăng thanh vằng vặc,
    Trăng đưa gió, gió mát hiu hiu...
    Ngày rày anh được chỗ tin yêu,
    Nghĩa nhơn hỏi trước em kêu thấu trời!
    Uổng công em cặn kẽ mời lời,
    Uổng công trao thuốc, trao trầu,
    Uổng công nóng lạnh nhức đầu em thăm.
    Uổng công em mang tiếng chịu tăm.


    54. Khi kia ai ở cùng ai.
    Bay giờ đặng chiếc thuyền hai, phụ đò.
    - Khi kia anh ở cùng đò,
    Bây giờ thuyền lủng, anh mò thuyền nguyên.


    55. Lấy chồng làm lẽ khỏi lo,
    Cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.


    56. Mang bầu tới quán rượu đâu,
    Say hoa đắm nguyệt quên câu ân tình.


    57. Mấy bữa ni anh ăn phở với cao lầu.
    Bữa ni anh ăn một bát canh bầu cho mát chưn răng.


    58. Mình về ta ngóng ta trông,
    Ta về mình chẳng chút công đoái hoài.


    59. Mình về đường áy hôm nay,
    Giường kia chiếu nọ hôm nay ai nằm?


    60. Mồ cha đẻ mẹ con giơi,
    Sao mà ăn nói những lời Hà-đông.


    61. Một thuyền một bến chẳng xong,
    Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào.


    62. Một tay đun chín bếp rơm,
    Một tay nạo mướp, chị nhường chồng cho.


    63. Một mai thiếp cứ xa chàng.
    Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.


    64. Một trăm con bướm trắng nó cắn sợi dây đờn,
    Bởi anh thất ngôn lời nói, con bạn hờn trăm năm.


    65. Một trăng được mấy Cuội ngồi,
    Một thuyền chở được mấy người tình chung.


    66. Năm quan tiền tốt bó mo,
    Làm tờ ký chỉ, chị cho chuộc chồng.
    Măng non nấu với gà đồng,
    Chơi nhau một trận xem chồng về ai.
    Già gan cướp được chồng người,
    Non gan hết vía rụng rời tay chân.


    67. Non non nước nước khơi chừng,
    Át ân đôi chữ xin đừng chớ quên.
    Tình sầu mong trả, nghĩa đền.
    Đừng vui chốn khác mà quên chốn nầy.
    Nước vơi rồi nước lại đầy,
    Tình kia chưa trả, nghĩa nầy chớ quên.


    68. Ngỡi nhân nay giận mai hờn,
    Lòng em ở thẳng như đờn lên dây.


    69. Ngựa ô anh không cỡi, anh cỡi ngựa hồng,
    Đường ngay không chạy, chạy vòng bãi cỏ may.


    70. Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn,
    Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm.


    71. Ớt nào mà ớt chẳng cay,
    Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
    Vôi nào là vôi chẳng nồng.
    Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.


    72. Phương ngôn câu ví để đời,
    Nhường cơm nhường áo, dễ ai nhường chồng.


    73. Qua phân đã cạn lời,
    Bậu còn hơi hờn trách,
    Để qua nói sách còn có ghi rằng:
    Nam trọng tài năng, nữ hằng trinh tiết.
    Bậu dứt qua rồi, bậu tíểc thương qua.


    74. Qua truông anh đạp lấy gai,
    Anh ngồi anh lể trách ai không chờ.


    75. Rau răm hái ngọn còn tươi,
    Lặng nghe anh nói mấy lời mà cay.
    Kể chi những chuyện trước ngày,
    Lòng em còn tưởng núi này non kia.


    76. Rõ ràng giấy trắng mực đen,
    Duyên ai phận nầy chớ ghen mà gầy.


    77. Sầu đong trong héo ngoài tươi,
    Vui là vui gượng, cười là cười khuây.


    78. Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
    Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.


    79. Sông sâu cá lội ngù ngờ,
    Biết em có đợi mà chờ uổng công.


    80. Ta rằng ta chẳng có ghen,
    Chồng ta, ta giữ, ta nghiến, ta nghiền, ta chơi.


    81. Ta thương mình, mình chẳng thương ta.
    Muối kia bỏ bể mặn đà có nơi.


    82. Tảng mảng tê mê vì cô bán rượu,
    Liệt chiếu liệt giường vì cô bán nem.


    83. Tiếc công xúc tép nuôi cò,
    Cò ăn cho lớn cò dò cò bay.


    84. Tôi đà biết vợ anh rồi,
    Quăn quăn tóc trán là người hay ghen.


    85. Tương tư chẳng ốm chẳng sầu,
    Con ruồi đậu mép chẳng đau cũng buồn.


    86. Thấy anh tôi cùng yêu đời.
    Biết rằng vợ cả có rời anh ra.


    87. Thiếp toan bồng bế con sang,
    Thấy chàng bạc bẽo thiếp mang con về.


    88. Thức đêm mới biết đêm dài,
    Ở lâu mới biết ai người bạc đen.


    89. Trách ai đặng cá quên nơm,
    Đặng chim bỏ ná quên đi hận thù.


    90. Trách lòng con nhện lăng loàn,
    Chỉ bao nhiêu sợi, mỗi đàng mỗi giăng.


    91. Trách người quân tử bạc tình,
    Có gương mà để bên mình không soi.


    92. Trông trầu thì phải khai mương,
    Làm trai hai vợ phải thương cho đồng. 


    93. Vì đâu cậu giận mợ hờn,
    Cháu theo cùng cậu kéo đờn cậu nghe.
    Cậu hờn thì kéo te te,
    Ú liêu xang xự, xự xang xê liêu hò.


    94. Vợ ba, vợ bảy, nàng hầu,
    Đêm nằm chuông trâu gối đầu bằng chổi.


    95. Xin đừng phụ thiếp làm chi,
    Thiếp như cơm nguội để khi đói lòng.


    96. Xưa kia ăn đâu, ở đâu,
    Bây giờ có bí chê bầu răng hôi.
     
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    D. SỰ SI MÊ CÁC THÚ VUI

    Các thú vui trong đời sống con người chúng ta thường gọi là thú ăn chơi.

    Nhưng thú ăn chơi là gì? Nếu xét về nguồn gốc thì đó là bản năng dục vọng, phát xuất từ ý thức hưởng thụ, tìm trong nguồn sống chung của xã hội loài người một nguồn sống riêng cho cá nhân.

    Bản năng dục vọng chính là mầm mống thường xuyên phá vỡ cơ cấu của tổ chức xã hội, ngược lại tổ chức xã hội là guồng máy kềm hãm bản năng dục vọng con người. Cũng chính vì vậy mà cuộc sống loài người chất chứa đầy mâu thuẫn.

    Các tổ chức xã hội phong kiến thường mượn giáo lý vì đạo học, bắt lý trí chế ngự bản năng con người. Đó là một phương pháp hữu hiệu nhất, mà loài người từ xưa đến nay đã đạt được ít nhiều kết quả trong lẽ sống.

    Tuy nhiên đối với bản năng, lý trí chỉ mới làm được nhiệm vụ kềm hãm chứ không thể nào tiêu diệt được, vì bản năng là nguồn gốc của sức sống, phát triển theo nhu cầu bản ngã, luôn luôn đúc kết thành tiềm lực để phá tung xích xiềng của tổ chức xã hội. Mà đó cũng chính là mâu thuẫn của căn bản trong xã hội loài người giữa thể chất và tinh thần giữa cá nhân và tập thể, giữa con người và lẽ sống.

    Xã hội Việt-nam từ ngàn xưa đã bị giáo lý Nho học ràng buộc. Lý thuyết Khổng Mạnh lấy đạo tam can, ngũ thường củng cố nền chính trị phong kiến, lấy đức cần kiệm liêm chính chế ngự bản năng. Tuy nhiên cần kiệm liêm chính cũng chỉ là giáo lý được phổ cập trong giai cấp quí tộc, để dạy cho lớp người thống trị biết tự kềm chế mình, làm gương cho kẻ dưới. Thực ra giáo lý cần kiệm liêm chính của Nho học không có ý giáo dục trực tiếp đối với lớp người bình dân.

    Nho giáo chia xã hội con người làm nhiều giai cấp: thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng. Áp dụng vào chính sách giáo dục thì Nho giáo cho rằng: “Thượng đẳng chi nhơn bất giáo nhi thiện, Trung đẳng chi nhơn giáo nhi hậu thiện, Hạ đẳng chi nhơn giáo diệc bất thiện” (lớp người trên không dạy cũng tốt, lớp người thường phải dạy mới tốt, lớp người dưới dạy vẫn không tốt).

    Quan niệm như thế có nghĩa là kẻ nào lý trí mạnh, không cần trấn áp mà bản năng dục vọng vẫn không nổi dậy được thì đó là lớp người thượng đẳng. Kẻ nào phải dùng lý trí đàn áp mới thắng được bản năng dục vọng, thì đó là lớp người trung đẳng, còn kẻ nào lý trí quá kém dù có vận dụng cũng không đàn áp được bản năng, thì đó là lớp người hạ đẳng.

    Quan niệm như thế cũng có nghĩa là Nho giáo cho rằng lớp người bình dân không thể dùng lý trí trấn áp bản năng, họ chỉ sống theo dục vọng, cho nên đối với họ không hề đặt vấn đề lý trí, mà chỉ đem tình cảm sửa đổi họ.

    Trong quyển “Kinh thi Việt-nam”, luận về giáo lý Khổng học, ông Trương-Tửu có viết:

    “Theo đức Khổng thì tình cảm con người thiện hay ác là do chính trị tốt hay xấu. Chính trị tốt đối với ngài là người cầm quyền tốt. Ngài không thể quan niệm được chính trị ngoài một đấng quân vương. Nếu ông vua là bậc quân tử hiếu đễ nhân nghĩa, biết dùng người hiền để trị nước, biết chế đúng lễ nhạc để dạy dân thì dân sẽ bắt chước, người trên mà làm điều thiện, nghĩ điều thiện, cảm điều thiện, nhiên hậu cái tâm của mỗi người trong dân chúng sẽ cảm nhiễm toàn những điều nhân nghĩa, và cái nền tình cảm của họ được điều hòa, trong trẻo. Nếu, ông vua là một hôn quân, chỉ chuộng tư lợi, không nghĩ đến nhân nghĩa, dùng quần thần toàn là những kẻ tiểu nhân xảo quyệt, pháp chính thì bất công hà khắc, lễ nhạc thì dâm dật, kiêu sa, tất nhiên dân chúng sẽ theo người trên mà cảm điều ác. Cái tâm tư con người tất phải mờ ám, tình cảm tất phải rối loạn, không thể nào tránh được.

    Tóm lại, Khổng-Tử quan niệm chính trị như một hiện tượng của luật ảnh hưởng từ cao xuống thấp, trên toàn thể thống trị (vua quan), dưới toàn thể bị trị (dân). Sự ảnh hưởng ấy được thực hiện nhờ có một bộ máy nối trên với dưới. Bộ máy này là những cơ quan giáo dục và hành chính, như: pháp luật, luân lý, lễ nhạc, văn từ... Tùy theo cái chủ não tốt hay xấu của kẻ trên (vua), bộ máy đó có phận sự truyền nhiễm những cảm xúc và ý kiến (tốt hay xấu) xuống cho kẻ dưới (dân), bắt kẻ dưới phai hành động theo. Phần bị sức mạnh của xã hội điều khiển, phần có tính chất bắt buộc toàn thể, cá nhân chỉ còn là một phản ảnh của những cảm xúc và ý nghĩ công cộng do bộ máy chính trị truyền từ trên xuống.

    Xem vậy, theo đạo Khổng thì chính trị đẻ ra một hoàn cảnh xã hội tương đương, hoàn cảnh xã hội lại đẻ ra một cá nhân có những tình cảm tương đương. Tình cảm cá nhân theo chính trị mà tốt xấu cũng như nước theo chum vại mà vuông hay tròn vậy... Cho nên, có thể xem cách chính trị mà biết được tình cảm cá nhân, và ngược lại cũng có thể xem tình cảm cá nhân mà biết cách chính trị trong một xứ...”

    Thực ra, giáo lý trên đây có một tác động khá mạnh đối với xã hội phong kiến Việt-nam thời xưa. Tuy nhiên, Nho giáo cũng chỉ đứng trên quan niệm lý trí và tình cảm để uốn nắn xã hội chứ chưa kết hợp được ảnh hưởng kinh tế.

    Áp dụng phương pháp giáo dục về lý trí cho giai tầng trên, và phương pháp giáo dục vì tình cảm cho giai cấp dưới tức là Nho giáo đã thừa nhận giữa tình cảm và lý trí con người có sự mâu thuẫn nhau. Đồng thời, Nho giáo cũng cho rằng giai cấp thống trị là giai cấp của lý trí, giai cấp bị trị là giai cấp của tình cảm, nên đã chủ trương rèn luyện lý trí cho mạnh (tư tưởng và tư cách của giai cấp trên) để trấn áp bản năng dục vọng (tình cảm của giai dưới), với phương thức ấy, lý trí cá nhân đúc thành một khuôn mẫu hun đúc cho tình cảm cá nhân trở thành tình cảm tập thể theo khuôn mẫu ấy.

    Sự thành công một phần nào của giáo lý Khổng Mạnh trên xã hội phong kiến Việt-nam thời xưa, xét ra không phải hoàn toàn do ảnh hưởng của chủ thuyết này.

    Nếu bảo rằng người bình dân (hạ đẳng chi nhơn) không đủ lý trí đã trấn áp dục vọng con người thì cũng không đúng. Hoặc nếu bảo giai cấp quí tộc ngày xưa đã đem giáo lý Khổng Mạnh cảm hóa người bình dân tạo nên một xã hội duy lý, tiết chế dục vọng con người thì cũng không đúng.

    Trong lãnh vực này, chúng ta cần soát xét lại thực trạng của nó.

    Trước hết chúng ta phải thấy rằng xã hội duy lý thời phong kiến tuy có đạt được một sự tiết chế dục vọng bản năng, song không vì thế mà dục vọng bản năng bị tiêu diệt. Ngay trong giai cấp quí tộc (thượng đẳng chi nhơn) bản năng dục vọng vẫn âm thầm phát xuất trong cửa các lầu son mà họ đã phải đem cái hình thức lễ nghi, cái giả dối bên ngoài để che đậy.

    Thực trạng ấy đã chứng minh rõ ràng qua sử sách, không một ai có thể phủ nhận được.

    Nhưng nếu giai cấp lý trí (thượng đẳng chi nhơn) đã không đủ nghị lực để tự chế mình, thì làm sao có đủ năng lực để kềm hãm giai cấp bản năng (hạ đẳng chi nhơn) được.

    Thế mà Khổng giáo vẫn không đủ sức tạo cho giai cấp thượng đẳng một sức mạnh về lý trí, giai cấp thượng đẳng cũng không đủ khả năng cảm hóa giai cấp hạ lưu.

    Tuy nhiên, chúng ta lại thấy nguồn sống của xã hội phong kiến thời xưa có một khả năng điều hòa lý trí và bản năng dục vọng. Vậy, khả năng điều hòa ấy do đâu mà có?

    Thực ra nếu chúng ta không thừa nhận tổ chức xã hội duy lý của Khổng-Mạnh có tác dụng đối với giai cấp bình dân thì chúng ta cũng không phủ nhận hoàn toàn ảnh hưởng của Nho giáo trong tâm tư lớp người quí tộc.

    Nếu vong lớp người quí tộc vẫn thường xẩy ra trạng thái dao động về dục vọng mà lớp người bình dân đã châm biếm như:

    Tôi là con gái đồng trinh,
    Tôi đi bán rượu qua dinh ông Nghè.
    Ông Nghè sai lính ra ve,
    Bẩm lạy ông Nghè tôi đã có con.
    - Có con thì mặc có con,
    Thắc lưng cho dòn theo võng cho mau.

    Thì cũng chính trong lớp người quí tộc ấy lại nêu được những tấm gương trinh liệt, hoặc anh hùng, bất chấp cả dục tính cá nhân. Cho nên, những ý thức vì nhân nghĩa, lễ, trí, tín hoặc cần, kiệm, liêm, chính của tổ chức duy lý quả đã tác dụng một phần nào trong tâm tư của lớp người quí tộc.

    Còn đối với lớp người bình dân thì sao?

    Người bình dân có một cuộc sống điều hòa như lớp người quí tộc. Nếu trong lớp người quí tộc có những kẻ say mê dục vọng, có những kẻ thoát ra ngoài dục tính thì trong lớp người bình dân cũng thế. Tuy nhiên, người bình dân không phải chịu ảnh hưởng của giáo lý Khổng Mạnh, và cũng không chịu ảnh hưởng giao cảm của lớp người quí tộc. Yếu tố chính đưa họ vào cuộc sống tiết chế dục vọng là do hoàn cảnh sinh hoạt của xã hội. Họ không được học hành như lớp người quí tộc, họ không hiểu thế nào là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và tại sao lại cần phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mới nên người. Nhưng trong tâm tư của họ, trong nếp sống của họ chúng ta vẫn thấy họ có đủ những đức tính ấy.

    Sở dĩ họ có lòng nhân chỉ vì họ là lớp người đau khổ nhiều nhứt. Sự đau khổ của bản thân đã khiến họ xót xa, thương hại trước mọi sự đau khổ của kẻ khác. Cũng vì sự khổ cực ấy mà họ trở thành có nghĩa. Họ đối xử với nhau trong tình tương thân tương ái, trong ý nghĩa thủy chung... v. v...

    Còn nói về đức cần, kiệm, liêm, chính của con người theo Nho giáo thì họ cũng, không hề biết. Tuy nhiên, họ lại vẫn có đủ. Bởi vì họ là hạng nghèo khổ, phải đem thực lực ra làm việc để nuôi thân, dĩ nhiên họ không thể không cần kiệm được. Đến như liêm chính thì họ lại là kẻ không có địa vị, quyền thế, chịu áp mình dưới pháp luật làm sao không liêm chính được? Hoàn cảnh sinh sống của xã hội đã tạo cho họ có đủ điều kiện để bảo vệ những tánh tốt ấy.

    Có phải vì Đức Khổng-Tử đã thông đạt lẽ sống của người bình dân như vậy, nên không cần đặt vấn đề bắt họ phải vận động lý-trí để trấn áp dục vọng, bản năng, không cần bắt họ phải đọc sách thánh hiền chăng?

    Nếu vậy, phải nói họ là những kẻ “bất giáo nhi thiện” mới đúng. Hay Đức Khổng-Tử phân chia đẳng cấp con người không căn cứ trên sự nghèo giàu, mà căn cứ trên giá trị bẩm chất, cho rằng người nghèo không nhất thiết là “hạ đẳng chi nhơn”?

    Thực vậy, nếu Đức Khổng-Tử đã đánh giá con người trên bẩm chất mà dưới mắt những kẻ giàu có, phong lưu, quí phái, từng khoe mình là người nho học, lại khinh miệt kẻ nghèo là trái với đạo thánh hiền. Ý thức ấy chính người bình dân đã mỉa mai:

    Mất cơm nghi đứa đói,
    Mất gói nghi đứa nghèo!

    Tuy vậy, trên đây chúng ta cũng chỉ luận về trạng thái chung của xã hội ảnh hưởng vào tâm tư con người, kỳ thật, trong giai cấp quí tộc cũng như giai cấp bình dân nghĩa là từ người nghèo đến người giàu không có một tầng lớp nào không bị ảnh hưởng dục vọng chi phối.

    Tâm tư con người chịu ảnh hưởng trước cuộc sống, bị ràng buộc vì lẽ sống cũng bị thúc đẩy bởi tham vọng của lẽ sống. Do đó, trạng thái điều hòa bên ngoài luôn luôn ngầm chứa một sức xao động của bên trong, và sức xao động của bên trong là năng lực cải biến qui luật điều hòa bên ngoài.

    Xã hội bình dân thời xưa, không thoát ra ngoài qui lệ ấy. Nếu chúng ta thấy cuộc sống họ cần cù, chất phác, tâm tư họ ôn hòa, nhẫn nại thì chúng ta lại cũng thấy nơi họ có những xao động vì dục vọng.

    Ví như:

    Vai mang bầu rượu chiếc nem,
    Mảng say quên hết lời em dặn dò.

    Rượu nồng, nem chua đẩy cảm giác của họ vào vòng vui thú của bản ngã, mà tâm tình, sự gắn bó về nhân nghĩa phải lu mờ.

    Bản ngã vốn là đặc tính của cá nhân. Khi bản ngã vùng dậy thì chính đó là lúc con người và cuộc sống nổi lên những va chạm. Một cô gái trách một chàng trai không chung tình, một xã hội khinh rẻ một lớp người xấu xa... Thì đó cũng chính là dục vọng cá nhân không dung hòa với dục vọng của tập thể, chứ chẳng có gì lạ!

    Dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Cho nên, bất kỳ trong một chế độ nào, xã hội loài người vẫn có độc tài. Độc tài tức là sức trấn áp những dục vọng của loài người trong xã hội. Nếu sự trấn áp ấy để bảo vệ dục vọng cho thiểu số tức là trái nhân đạo, còn để bảo vệ cho dục vọng đa số thì hợp với nhân đạo, bởi nhân đạo thoát thai từ dục vọng của đa số.

    Tuy nhiên, dục vọng của tập thể lại khởi đầu từ dục vọng cá nhân. Không có dục vọng cá nhân thì chẳng có dục vọng tập thể.

    Bởi vậy, đứng vào lĩnh vực cá nhân, chúng ta vẫn tìm thấy trong quan niệm của người bình dân bàng bạc về dục tính như:

    Thế gian ba sự không chừa,
    Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.

    Hoặc:​

    Còn trời còn nước, còn non.
    Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.

    Hoặc:​

    Đố ai nằm võng không đưa,
    Ru con không hát, anh chừa nguyệt hoa.

    Dục tính cá nhân đã như thế, dĩ nhiên phải bộc lộ ra ngoài hành động:

    Ai ơi chơi lấy kẻo già,
    Măng mọc có lứa, người ta có thì.
    Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
    Cái già xông xộc nó thì theo sau.

    Tuy nhiên, vì mâu thuẫn giữa dục vọng cá nhân và dục vọng tập thể luôn luôn chống đối, nên trên con đường hành động, nghĩa là từ lãnh vực cá nhân biến sang lãnh vực tập thể, rất có nhiều hạn chế. Sự hạn chế ấy chính là năng lực kềm hãm của xã hội loài người trong ý niệm chung về dục vọng.

    Chúng tôi xin chép ra đây một câu chuyện tiếu lâm để chứng minh thực trạng đó:

    “Anh chàng nọ vợ đẻ, nhà đơn chiếc, nên cô em vợ đến giúp. Nửa đêm, dục tính nổi dậy, anh chàng liền bò đến giường cô em vợ. Biết được, cô em vợ vội cất tiếng hát ru cháu để ngăn cản hành động anh ta:

    Nửa đêm gà gáy o o,
    Của dì, dì giữ, ai bò mặc ai!

    Xấu hổ, anh ta vội lên tiếng chữa thẹn:

    Nửa đêm gà gáy o o,
    Tao
    ngủ không được tao tao chơi.

    Tuy câu chuyện hài hước trong giới bình dân, song phản ảnh thực trạng của dục tính cá nhân và năng lực chế ngự dục vọng tập thể.

    *

    Nhìn chung, xã hội loài người ở bất kỳ tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt không phải ở con người, mà ở tính chất con người. Nếu dục tính của lớp người quí tộc nhuốm đậm màu sắc kiêu sa, lãng mạn, thì dục tính của lớp người bình dân chỉ là thứ dục tính đơn thuần, chất phác, biểu lộ qui luật tất yếu trong lẽ sống cá nhân.
     
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho
    SỰ SI MÊ TRONG THÚ VUI​

    1. Anh ơi uống rượu thì say,
    Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo.


    2. Anh nằm cầm ống than với ngọn đèn hồng,
    Tay anh lăn liều nhựa chạnh lòng nhớ em.


    3. Ăn chơi cho thỏa thòa thoa,
    Có năm bức áo xé tà cả năm.


    4. Cờ bạc canh đỏ canh đen,
    Nào ai có dại mang tiền vứt đi.


    5. Cơm ăn một bát sao no.
    Kẻ về người ở sao cho dành lòng.


    6. Cu kêu ba tiếng cu kêu,
    Cho mau tới Tết dựng nêu ăn chè.


    7. Chiếu hoa mà trải sập vàng,
    Điếu Ngô, xe trúc sao chàng chẳng say.
    Những nơi chiếu cói võng đay,
    Điếu sành, xe sậy chàng say la đà.


    8. Chơi cho thủng trống long bòng,
    Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm.
    Chơi cho thủng trống long chiêng,
    Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng.


    9. Đói thì ăn cơm lại no,
    Từ ngày có vợ chẳng dò đi đâu.


    10. Đố ai chừa được rượu tăm,
    Chừa được thuốc chín, chà nằm chung đôi.


    11. Đố ai nằm võng không đưa,
    Ru con không hát anh chừa nguyệt hoa.


    12. Đố ai nằm võng không đưa.
    Ru con không hát anh thừa rượu tăm.
    Đố ai chừa được rượu tăm,
    Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi:
    - Có tôi chừa được mà thôi,
    Chừa ăn thuốc chín, chung hơi chẳng chừa.


    13. Dồn vui sai thú đi thăm.
    Thú đi thú ở mười năm chẳng về.


    14. Gái phải hơi trai như thài lài phải cứt chó.
    Trai phải hơi vợ như cò bợ phải trời mưa.


    15. Hôm qua tới buổi anh ngáp dài,
    Túng tiền mua nhựa, anh thế ngoài má ba.


    16. Lạ lùng anh mới tới đây,
    Bồ câu đóng sáu chim bay lạc đàn.
    Đồn đây hay hát, hay đàn,
    Để ta lặn suối qua ngàn tới nơi.


    17. Lúc đêm sương, sương lạnh trắng mờ,
    Canh tàn rượu tỉnh, lúc bấy giờ em nghĩ thương thân,
    Em tiếc thay trong giá trắng ngần,
    Nỡ gieo mình vào đám phong trần mà chơi.
    Chốn hang sâu lẩn quất hương trời,
    Non xanh nước biếc dễ ai người biết cho.
    Con chim khôn đã mắc phải đò,
    Vui gì cái kiếp giang hồ, hỡi chị em ơi!
    Tính đốt tay quá nửa xuân rồi,
    Đầu xanh mấy nỗi da mồi tóc sương.
    Kiếp hồng nhan nghĩ đến mà thương,
    Tài tình chi lắm để mang nợ đời.


    (HÌNH MINH HỌA)

    Ảnh NGUYỄN CAO ĐÀM

    Ai về cuốc đất trồng cau,
    Cho em vun ké dây trầu một bên.
    Chừng nào trầu nọ bén lên,
    Cau kia có trái lập nên cửa nhà

    Trông con sông mà thẹn với trời,
    Khi vui em vui gượng, khi cười em cười suông.
    Ruột con tằm trăm mối tơ vương.
    Bên trời góc bể biết gởi con đường vào đâu.
    Ai về nhắn ả Mạc sầu.


    18. Mang bầu đến quán rượu dâu.
    Say hoa đắm nguyệt quên câu ân tình.


    19. Nước nóng đổ lọ bình vôi,
    Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn.
    Bố tôi dở dại, dở khôn,
    Say mê cái l... bỏ mẹ con tôi.


    20. Nghề chơi cũng lắm công phu.
    Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.


    21. Nghêu ngao vui thú yên hà.
    Mai là bạn cũ, hạc là người quen.


    22. Ngộ bần cùng bá lạc,
    Ngộ bần tiện chí thông.
    Em nay dạo chơi cho biết cái đục cái trong.
    Dầu em có lâm cơ thất vận cũng đành dạ em.


    23. Qua than với bậu qua ghiền,
    Thương anh thì em kết ngãi chớ phiền phận qua.


    24. Rắn đến nhà chẳng đánh thì quái,
    Gái đến nhà chẳng chơi cũng thiệt.


    25. Say là say nghĩa say nhân,
    Say thơ Lý Bạch, say đờn Bá Nha.


    26. Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
    Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.


    27. Tảng mảng tê mê vì cô bán rượu,
    Liệt chiếu liệt giường vì cô bán nem.


    28. Tiếc thay cây quế giữa rừng,
    Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay?
    Canh một, canh hai mê mẩn tỉnh say,
    Mồ hôi má phấn đượm đầy áo thâm.


    29. Thế gian ba sự khôn chừa,
    Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.


    30. Thôi thôi tôi biết anh rồi:
    Anh hút á phiện cái môi thâm sì.


    31. Vì hoa nên phải tìm hoa,
    Vì tình nên phải vào ra với tình.


    32. Vị vì một mảnh tình con,
    Làm mê tài tử, rút khôn anh hùng,
    Thà rằng chẳng biết cho xong,
    Biết ra thêm để lắm lòng sầu riêng.


    33. Vui xem hát, nhạt xem bơi,
    Tả tơi xem hội,
    Bối rối xem đám ma.
    Bỏ cửa bỏ nhà đi xem giảng thập điều.


    34. Yêu nhau quá đỗi nên mê.
    Rồi sau mới biết kẻ chê người cười.
     
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    E. TÍNH CHẤT CẦN CÙ, NHẪN NẠI, CHẤT PHÁC:

    Xưa nay, nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học đã xác nhận dù ở một nước nào, tính chất người bình dân vẫn cần cù, nhẫn nại, chất phác. Sự kiện đó đã trở thành tất nhiên, ở đây chúng ta không cần phải xác định thêm một lần nữa. Trong phạm vi bài này chúng ta thử tìm hiểu tại sao tính chất người bình dân lại cần cù, nhẫn nại, chất phác.

    Đặt vấn đề như vậy tất nhiên chúng ta phải đi trở lại căn bản con người.

    Thực ra, đã là con người thì tính chất căn bản chẳng khác nhau. Các nhà xã hội học đã tìm thấy bản chất con người không một ai thoát ra ngoài qui luật tất yếu là đi tìm nguồn sống. Đó chính là bản năng tự tại. Tuy nhiên, họ cũng tìm thấy nguồn sống xã hội ảnh hưởng rất mạnh vào tính chất con người, khiến cho con người tiến dần đến chỗ cá biệt dị đồng. Nguồn sống con người lại gồm nhiều mặt, không thể đứng trên một quan điểm nào đó mà giải thích trọn vẹn những ảnh hưởng ấy.

    Chẳng phải đến bây giờ chúng ta mới tìm thấy qui luật ảnh hưởng, mà người bình dân thời xưa cũng đã nói đến tác dụng ấy.

    Ví dụ:

    Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài,
    Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

    Bây giờ chúng ta dựa trên từng quan điểm một để nhận định tính chất của họ.

    1) Quan điểm chính trị:

    Nói đến chính trị tức là nói đến chế độ xã hội, nói đến giai cấp thống trị và bị trị. Từ xưa đến nay thế giới loài người đã trải qua không biết bao nhiêu chế độ, nhưng

    không một chế độ nào hoàn toàn đem đến sự bình đẳng cho loài người. Bởi vậy, chế độ chính trị vẫn luôn luôn là công cụ của một lớp người. Và cũng vì lẽ ấy mà xã hội loài người luôn luôn có lớp người bình dân. Nói một cách khác, người bình dân là sản phẩm của guồng máy cai trị, họ thường xuyên phải nhận lấy sự ruồng rẫy, phũ phàng, bất công do chế độ xã hội gây ra. Do đó, cuộc sống của họ là phải đem hết sức lực dồn vào con người để chịu đựng.

    Nói chung, trước qui luật mâu thuẫn của thiên nhiên, con người cũng như mọi sinh vật khác, tất cả đều phải có một sức chịu đựng để tự tồn, nhưng đối với người bình dân thì sức chịu đựng của họ lại bị dồn nén thêm một lần nữa trước qui luật cạnh tranh của xã hội.

    Xã hội bắt buộc họ đem sức lực phụng sự cho đời sống mọi người, đồng thời lại không cho phép họ đòi hỏi những quyền lợi của họ. Tuy nhiên, họ vẫn là con người. Họ cần phải sống.

    Ảnh hưởng chính trị đã đem đến cho họ đức tính cần cù, nhẫn nại. Cho nên, họ quan niệm rằng:

    Có khó mới có miếng ăn,
    Không dưng ai dễ mang phần cho ai.
    Có vất vả mới có thanh nhàn,
    Không dưng ai dễ cầm tàn che cho.

    Họ dùng sức lao động để tự tồn, và dùng sức nhẫn nại để chống lại mọi sự bắt nạt, bất công trong đời sống xã hội con người.

    Thật vậy, xã hội loài người lúc nào cũng tràn đầy những bất công, mà con người muốn chống lại nó chỉ có hai cách: một là phản đối trực tiếp, hai là nhẫn nại chịu đựng; mà con người bình dân chính là kẻ đã chọn phương thức thứ hai. Bởi lẽ, đối với họ, sự khổ cực vật chất đã quá nhiều, nắng mưa sương gió đã quen với thân xác họ rồi, họ đã từng rưới những giọt mồ hôi trong lúc đói khát để hoàn thành một luống cày, một thửa ruộng, cho nên, đối với tinh thần họ trước mọi áp bức, bất công về chính trị cũng không lấy gì làm đau khổ lắm.

    Con người khi đã chịu đựng quen những đau khổ, dù chồng chất thêm khổ đau, thì đồng thời cùng làm cho bản năng của họ tăng thêm cường độ chịu đựng. Tính chất chịu đựng hay nhẫn nại một phần lớn ảnh hưởng vào địa vị xã hội thấp kém của họ, khiến họ trở thành lớp người dễ dãi, chất phác, vị tha hơn vị kỷ.

    Để diễn tả tính chất đặc thù của người bình dân Việt-nam, ông Toan Ánh có một đoạn trong quyển Làng xóm Việt-nam do Nam-chi tùng thư xuất bản năm 1968:

    “Đời sống người dân quê vất vả, cực nhọc, nhưng nhờ sự tương trợ với tinh thần tương thân, tương ái giữa mọi người, sự vất vả cực nhọc này như giảm bớt được nhiều. Người trong làng lúc nào cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau từ việc nhỏ tới việc lớn, về tinh thần cũng như về vật chất…

    Một nhà đến buổi ăn thiếu chút muối ư? Nhà đó có thể xin ngay nhà hàng xóm một cách rất dễ dàng Có thể nhà đó thiếu hẳn thức ăn trong một bữa cơm vì không gặp phiên chợ, và trong nhà không sẵn đồ ăn dự trữ! Cũng không sao, một nhà hàng xóm có thể sẵn sàng giúp đỡ mấy quả cà, dĩa mắm để nhà này dùng tạm trong bữa cơm. Và cũng thế, nếu nhà thiếu muốn, sang ngay một nhà khác trong xóm, xin mấy cây rau, nhà hàng xóm sẽ vui lòng mời người thiếu tới vườn rau nhà mình tự nhổ lấy số rau cần thiết cho bữa cơm.

    Và nếu một nhà, bố mẹ đi vắng, đến bữa cơm, các con ở nhà chưa có gạo thổi, nhà hàng xóm biết, họ sẵn sàng cho vay số gạo cần dùng để các em thổi cơm.

    Trong làng, có một nhà có chai mật ong tốt, có thể chữa được các chứng bệnh cảm của trẻ em, thế là người làng mỗi khi trong nhà có trẻ bị cam răng, tưa lưỡi, họ đều mang chén tới xin, và nhà có của không hề bao giờ từ chối. Con người cũng như con mình, mình sẵn có, người thiếu thốn, tại sao mình lại không giúp.

    Đây chỉ nói về những việc nhỏ. Việc nhỏ giúp nhau được thì việc lớn người ta cũng giúp nhau.

    Trong xóm có một người bị cháy nhà ư? Cả xóm sẽ cùng xô lại cứu chữa, người xách nước, người dọn đồ, và có thể nói được rằng sự hôi của không bao giờ xảy ra.

    Một nhà có mật con lợn sổng chuồng chạy ra đường ư? Lập tức có vài người giúp chủ nhà đón bắt ngay con lợn lại.

    Một người vô ý bị ngã xuống sông chăng? Người làng lập tức hè nhau lội xuống vớt, và khi vớt được lên, mỗi người một tay, cùng nhau lo cứu chữa nạn nhân.

    Và còn rất nhiều trường hợp, sự giúp đỡ của dân làng bao giờ cũng tận tình, và không hề ai nghĩ đến sự đền công của những người được giúp đỡ.

    Mội người nhận được một giấy quan đòi, không biết chữ, lập tức có người biết chữ đọc giùm.

    Về mặt tinh thần, sự giúp đỡ của dân làng cũng rất đáng quí.

    Một người không may bị oan ức một điều gì, dân làng tìm cách minh oan và nếu không được thì cũng có sự an ủi đương nhân.

    Sự tương trợ nhiều khi là một tự đồng lần. Thí dụ, trong dịp Tết đến, nhà nào cũng có gói bánh chưng ăn Tết. Ngày hôm nay nhà này gói bánh, ba bốn người khác tới giúp. Và ngày mai ngày mốt, đến nhà người khác gói bánh, thì lại cũng được sự giúp đỡ như vậy, của những người mình đã giúp và của cả những người khác nữa.

    Ở trong làng, nhà này đi vắng, gởi nhà người hàng xóm là chuyện thường, và người kàng xóm khi đã nhận giữ nhà họ, thường cho người nhà, hoặc con cái sang trông nhà giúp người đi vắng. Có khi người ta gửi nhau cả con cái, và người nhận giúp, họ trông nom con cái người như chính con cái họ.

    Tình tương thân tương ái giữa người làng còn thể hiện sợ trao biếu lẫn nhau. 

    Một người đi chơi xa về, có quà cáp, ngoài việc kinh biếu bố mẹ, thường biếu cả hàng xóm láng giềng. Hoặc trong nhà có cây ăn quả, khi quả chín, người ta thường mang biếu hàng xóm láng giềng.

    Và trong dịp lễ bái, có làm xôi, nấu chè, người ta cũng không quên làng xóm lân cận.

    Khi có việc gì có thể có lợi, người ta đều mách nhau. Tính ích kỷ thật là ít có đối với người dân quê...”.

    Với bài khảo cứu trên của ông Toan Ánh về tính chất tương thân tương ái của người bình dân Việt-nam, chúng ta không lấy gì làm lạ khi họ là lớp người tận cùng trong xã hội, họ cần phải giúp đỡ nhau, thương mến nhau để sống, để chống lại mọi bất công đang phủ trùm lên đầu họ. Ai cũng phải công nhận rằng những người cùng một hoàn cảnh, một tâm trạng thường thương mến hơn. Người bình dân thời xưa đã cảm thấy điều đó. Họ bảo:

    Giốc bồ thương kẻ ăn đong,
    Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.

    Chỉ có những người đã nếm mùi đắng cay đau khổ mói thương những kẻ bị đau khổ, đắng cay. Cho nên, lòng thương người cũng chính là lòng thương mình.

    Một vị thầy tu, sở dĩ có lòng bác ái, vị tha, chẳng những họ thông hiểu nguyên lý về lẽ sống của con người, mà chính họ cũng là kẽ đã từng bị khổ đâu vì lẽ sống.

    Một nhà trọc phú không biết thương kẻ nghèo khó chính vì họ chưa nếm mùi đau khổ, vì chính họ cũng nghĩ rằng mình có thể bị đau khổ như vậy.

    Cho nên lòng tương thân tương ái là một tình cảm phát xuất trong khổ đau, trong thực trạng đời sống con người. Các nhà đạo đức học đã dùng nó để phát huy lẽ sống, chống lại dục vọng con người.
     
    vinguyen264 thích bài này.
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    1) Quan điểm kinh tế:

    Nếu trong lãnh vực chính trị người bình dân bị áp bức vì tinh thần khiến họ phải kiên trì, nhẫn nại. Tương thân tương ái để mà sống thì trong lãnh vực kinh tế, chính người bình dân lại là lớp người cực nhọc nhiều hơn ai hết vì vật chất. Sự cực nhọc ấy đã hun đúc họ có được bản tính cần cù, chất phác và chịu đựng mọi gian lao.

    Khi một lớp người không có quyền lực trong tổ chức xã hội thì nguồn sống của họ chỉ còn dựa vàp sức lao động. Đem mồ hôi để đổi lấy chén cơm, manh áo thì con người đâu còn nghĩ đến những chuyện se sua về hình thức, giả nhân giả nghĩa, những mánh khóe lòe đời để phỉnh phờ, gạt gẫm thiên hạ. Họ sống cuộc đời với thực chất của ý sống, không pha trộn. Đó là căn bản phát sinh tính chất cần cù nhẫn nại của người bình dân.

    Chúng ta phải nhìn ở họ những cảnh khổ, như:

    Một mình vừa chống vừa chèo,
    Không ai tát nước đỡ nghèo một khi.

    Hoàn cảnh lao động thúc bách, vây phủ,tràn ngập chung quanh cuộc sống mà họ chỉ thốt ra những lời cầu mong vô tư, êm dịu và đậm tình như thế, sự kiện cho ta thấy rõ cảnh sống của họ không cho phép họ thiếu bền chí, kiên nhẫn được. Chính hoàn cảnh xã hội tạo nên tâm trạng và đặc tính con người.

    Chúng ta bảo họ cần cù! Phải, làm thế nào không cần cù được khi đời sống họ đầy dẫy kham khổ:

    Chú kia nhổ mạ trên cồn,
    Nước non không có, miệng mồm lấm lem.

    Đấy, sự vất vả và cực nhọc của họ buộc họ huy động mọi khả năng để chống chọi với gian lao. Tuy nhiên họ không lấy thế làm nhục, câu hát trên đây chỉ là một câu trào lộng để diễn là nỗi cực khổ của kẻ bình dân. Họ đem những ý tưởng trào lộng phủ lên mọi cực nhọc của họ để làm vui, để an ủi lấy mình, đồng thời cũng để tự hào bản tính cần cù của họ trong lẽ sống. Chúng ta đừng tưởng trong cực nhọc, người bình dân sẽ mơ ước những gì cao sang, đẹp đẽ, lòe loẹt. Không, họ đã cho chúng ta thấy:

    Một trăm con gái Thủ,
    Một lũ con gái chợ, anh không màng,
    Cảm thương con gái ruộng cơ hàn, nắng mưa.

    Hỡi những người phong lưu đài các! Trong lúc các người không thích cảnh vất vả, không thích tay lấm chân bùn, không thích những làn da rám nắng, không thích những gò má đen sạm vì gió sương thì chính người bình dân cũng lại không màng đến những bàn tay óng chuốt, những gót sen tơ đỏ chót của các người.

    Tại sao?

    Phải chăng vì người bình dân là hạng nghèo khổ dầu họ muốn có được sắc đẹp như vậy cũng chẳng làm sao có được, nên thủ phận?

    Thực ra không phải vậy! Nếu chúng ta thừa nhận tâm tư con người là sản phẩm của sinh hoạt xã hội thì chúng ta lại phải nhận rằng cuộc sống đã làm nảy nở trong ý thức con người của mỗi giai cấp một sự khác biệt.

    Sở dĩ người quí tộc thích cái đẹp xa hoa, phù phiếm chỉ vì họ đã tách rời cái đẹp vật chất của con người ra khỏi cái đẹp tinh thần, - cái đẹp của tình thương Cái đẹp của đôi bàn tay óng chuốt, đôi gót chân son, đôi má ửng hồng trong làn da trắng mịn chỉ là con người biệt lập với đời sống. Trong lúc đó cái đẹp của đôi tay rám nắng, đôi má đen sạm kia lại chứa đựng một dấu vết khổ đau của thân phận con người. Nó là cái đẹp của tình thương, của những tâm hồn đã trộn lẫn với loại tình thương ấy. Như vậy, ý thức của người bình dân thích cái đẹp của kẻ cơ hàn nắng mưa không phải là chuyện phi lý. Dưới mắt họ bao giờ cũng chứa đựng một tình thương, và tình thương ấy phát xuất ở sức lao động, làm nền tảng cho lẽ sống.

    Vả lại, guồng máy kinh tế của xã hội phong kiến ảnh hưởng vào sinh kế của gia đình bình dân không phải ít. Gia đình bình dân không một ai rảnh rỗi! Tất cả đều phải làm việc, phải lặn lội trong nắng mưa. Nếu họ là gia đình ngư nghiệp thì:

    Cha chài, mẹ lưới, con câu,
    Thằng rể đi xúc, con dâu đi mò.

    Hoặc:​

    Chồng chài vợ lưới, con câu,
    Sống nhờ bọt nước lấy đâu mà giàu.

    Như vậy, nếu cái đẹp đối với họ không phải là cái đẹp của cần cù thì làm sao chung sống với họ được? Vả lại, đối với họ, con người sinh ra không phải để sống nhờ vào sức lực của kẻ khác. Cái mà họ quí trọng là sự đương đầu với mọi áp lực của thiên nhiên, của con người. Dù phải ở trong hoàn cảnh:

    Con thơ tay ẵm tay bồng,
    Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông.

    Thì họ vẫn tin vào sự bền chí, kiên nhẫn của họ để đạt lấy sự thành công:

    Người đời ai khỏi gian lao,
    Gian nan có thuở, thanh nhàn có khi.

    Thanh nhàn đối với họ không có nghĩa là giàu sang, mà chỉ có nghĩa là giữ được mức thăng bằng với lẽ sống. Họ không có cao vọng sống trên địa vị xã hội. Bởi vậy họ nhìn đời bằng đôi mắt tự phụ:

    Càng cao, càng gió, càng lay,
    Công cao danh vọng, càng dầy gian nan.

    Lấy kinh nghiệm thực tiễn trong lẽ sống, chính họ đã thấy rõ sự vật lộn của giai cấp, sự cấu xé của loài người để ngoi lên một địa vị trong xã hội, để lẩn trốn trách nhiệm lao động cực nhọc, muốn sống thảnh thơi trên sức làm việc của kẻ khác mà đang tâm tiêu diệt mọi tình thương đồng loại. Người bình dân cũng đã nhận ra yếu tố trên là nguồn gốc của ích kỷ, tham lam, nên họ mỉa mai:

    Ma không thương người ốm,
    Kẻ trộm không thương nhà nghèo.​

    Thật vậy, nếu kẻ trộm kia cũng quan niệm như họ, biết sống bằng sự làm lụng cực nhọc thì kẻ trộm chẳng bao giờ lấy của nhà nghèo. Theo họ, kẻ lương thiện là kẻ không sống nhờ kẻ khác, và kẻ nào đã sống nhờ kẻ khác, thì chẳng lương thiện bao giờ.

    Quan niệm như vậy, người bình dân tạo cho mình một tinh thần tự lực tự cường. Họ không ngại gian lao. Tinh thần ấy được biểu lộ một cách rõ rệt qua những câu hò, câu hát, như:

    Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi,
    Giậm ra ván nát, thuyền thì long đanh.
    Đôi ta lên thác xuống gành,
    Em ra đứng mũi để anh chịu sào.

    Họ bằng lòng gánh vác một cách thản nhiên mọi trách vụ gian nguy trong đời sống họ với sức kiên nhẫn của con người.

    Chiếc thuyền nho nhỏ, ngọn cỏ đìu hiu:
    Nay nước thủy triều, mai lại nước rươi.
    Sông sâu sóng cả em ơi,
    Chờ cho sóng lặng, buồm xuôi ta xuôi cùng.
    Trót đem nhau vào kiếp bình bồng,
    Xuống ghềnh lên thác quyết một lòng cho ngoan.

    Xem đời người như một con thuyền trên sóng, bão tố là chuyện tất nhiên, muốn giữ vững con thuyền chỉ có sức người và trì chí mới là yếu tố quan trọng. Người bình dân sẵn sàng đặt mình trước mọi việc tất yếu của lẽ sống. Dù ở địa hạt nào, tinh thần chịu đựng của họ cũng sáng ngời:

    Cấy đồng giữa buổi đang trưa,
    Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

    Thì họ vẫn xem đó là bổn phận làm người; đồng thời họ nhắn nhủ với nhau chớ thấy cực khổ mà bất mãn với cuộc sống:

    Dù no, dù đói cho tươi,
    Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.

    Tại sao họ lại bằng lòng với thực trạng cuộc đời khổ cực của họ mà không hề than thở. Nếu người bình dân không có tinh thần tự lực tự cường thì chẳng bao giờ đủ sức chịu đựng như vậy! Sức lao động quả là một vũ khí chinh phục gian lao, một năng lực bảo vệ đời sống con người, và cũng là nguồn vinh dự để họ tin tưởng và tự phụ đối với họ! Mang một tinh thần mạnh mẽ trong ý thức tự tồn do sức lao động của mình, họ đã khinh thường những kẻ biếng nhác:

    Giàu đâu những kẻ ngủ trưa,
    Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày.

    Đã sinh ra kiếp nam nhi, tượng trưng cho sức mạnh, cho khả năng lèo lái con thuyền trước phong ba, thế thì tại sao lại tránh trách nhiệm? Không! Đối với họ, con người không có quyền chối bỏ năng lực của mình hiện có. Họ bảo:

    Đã sinh ra kiếp đàn ông,
    Đèo cao, núi thẳm, hang cùng kể chi?

    Từ ý thức xem sức lao động là năng lực của thiên nhiên và là bổn phận của con người trước lẽ sống. Giá có ai khinh khi sức lao động của họ, họ sẽ phản ứng ngay. Những ý thức chống đối bao giờ cũng hàm chứa trong thanh bạch.

    Họ bảo:

    Giàu thì cùng chẳng có thèm,
    Khó khăn ta liệu ta làm ta ăn.

    Hoặc:

    Giàu thì cơm cháo bổ lao,
    Khó thì đánh điếu thuốc lào ngậm hơi!

    Không phải họ chê cái giàu, mà chính họ khinh khi những kẻ làm giàu trên sức lao động của kẻ khác.Cái giàu ấy đối với họ là cái giàu bất lương, trái với đạo làm người.

    Đạo làm người đối với họ là tự lực cánh sinh, tức là phải tự mình nuôi lấy thân mình, không nhờ vả ai. Do đó, họ nêu lên những nghị lực, như:

    Muốn ăn lăn vào bếp,
    Muốn chết lết ra gò.

    Ý thức trên đây quả là tinh thần bất mãn đối với kẻ ăn gởi nằm nhờ, mua danh chuốc lợi, và chính sự bất mãn ấy đưa tâm tư họ đi dần đến chỗ khinh miệt những giá trị bên ngoài của con người mà họ cho là giã dối:

    Hay quần, hay áo, hay hơi,
    Mà chẳng hay người là của bỏ đi.

    Họ đánh giá con người không phải bằng những phù phiếm bên ngoài, mà bằng thực chất của con người:

    Hơn nhau tấm áo manh quần,
    Bỏ ra bóc trần, ai cũng như ai.

    Ý thức thực tiễn trong lẽ sống của người bình dân đã đưa giá trị con người trở về với bản ngã.

    Thực vậy, con người có hai phần giá trị: giá trị bản ngã và giá trị tâm thức

    Giá trị bản ngã là giá trị thiên nhiên của mỗi con người thụ hưởng do luật sinh tồn của vũ trụ; cũng như mối con người, đều có một sức lao động để mưu sinh, một khối óc để hiểu biết và một bản năng chống lại mọi nguy nan. Phần giá trị này ai cũng như ai.

    Giá trị tâm thức là phần bản lãnh của con người trong cuộc sống. Nó là mưu mô, là sự tiếm đoạt, là khả năng chiếm hữu của con người. Phần này không ai giống ai và biểu lộ bên ngoài bằng nhiều hình thái.

    Người bình dân vốn là kẻ quê mùa, mộc mạc, cần cù, chất phác. Bản tính của họ xuất phát từ giá trị bản ngã, nên họ lúc nào cũng đề cao ý thức tự lực tự cường.

    Chỉ có ý thức tự lực tự cường mới đưa con người đến đời sống tự lập và khinh thường lợi danh. Mọi cử chỉ nhân đạo của con người cũng từ lãnh vực ấy mà phát sinh.

    Tuy nhiên, tự lực tự cường mới chỉ là quan niệm nhân sinh của người bình dân, tức là ý thức để tranh đấu cho lẽ sống, chứ chưa phải phương thức thực hiện. Phương thức thực hiện của họ vẫn là cần cù, nhẫn nại. Nếu không cần cù, nhẫn nại thì chẳng bao giờ đạt đến ý hướng tự lực tự cường được.

    Tinh thần nhẫn nại của họ phát hiện bàng bạc trong các câu ca dao, như:

    Ai ơi đã quyết thì hành,
    Đã đốn thì vác cả cành lẫn cây.
    Ai ơi đã quyết thì hành,
    Đã đan thì lận tròn vành mới thôi.
    Ai ơi, chẳng chóng thì chầy.
    Có công mài sắt, có ngày nên kim.

    Dĩ nhiên cần cù, nhẫn nại là một ý thức đấu tranh tích cực trong đời sống con người! Người đời ai lại không muốn rảnh rang mà được ăn sung mặc sướng. Nó chính là cái bả mồi để đưa loài người vào tròng xâu xé, chém giết nhau… Người bình dân muốn tránh cái bả mồi ấy tất phải dùng tâm tư mình chống lại sự cám dỗ của dục vọng. Đó là một khó khăn. Tuy nhiên, người bình dân vốn có phương tiện hơn các từng lớp người khác, vì họ là kẻ cùng khổ, sống trong cực nhọc đã quen, sự hoành hành của dục vọng không còn có hiệu lực mạnh mẽ trong bản ngã họ. Cho nên, họ tự phụ là phải:

    Dù ai nói đông, nói tây,
    Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng.
    Dù ai nói ngửa nói nghiêng,
    Lòng ta vẫn giữ như kiềng ba chân.
    Đây ta như cây trên rừng,
    Ai lay không chuyển, ai rung không sờn.

    Với ý thức tự cường, nhẫn nại ấy, tâm hồn người bình dân trở nên thanh thản trước sóng gió vật chất, và cuộc sống của họ trở nên thanh nhàn trong đời mộc mạc của họ. Đây, ta hãy nghe từ tâm tư họ thoát ra:

    Cóc kêu dưới vũng tre ngâm,
    Cóc kêu mặc cóc, tre giầm mặc tre.

    Hỡi những con cóc kia! Tiếng kêu của con người không làm lay chuyển được vũng tre ngâm, cũng như mối danh lợi không làm xao xuyến được lòng người bình dân. Tuy cùng sống chung trong một dòng đời, nhưng hai bên hình như tách biệt. Chính vì thế mà cuộc sống họ trở nên ung dung tự tại:

    Mặc ai lưới, mặc ai te,
    Ta cứ thủng thẳng kéo bè nghinh ngang.
    Phải cho bền chí câu cua,
    Mặc ai câu trạnh, câu rùa mặc ai.
    Thủng thẳng mà lượm hoa rơi,
    Ở cho có chí hơn người trèo cao.
    Ai ơi giữ chí cho bền,
    Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai.

    Họ không cần thiết đua chen, bay nhảy, đối với họ, khi đã quan niệm đem sức mình sống với sức mình thì dù có bay nhảy cũng chỉ bằng thừa. Họ bảo:

    Trời sinh voi sinh cỏ.​

    Nghĩa là trời đã sinh con người có sức lao động tất nhiên sức lao động ấy là tài sản để nuôi con người. Lòng họ không quá bận rộn, lo âu về viễn tượng một cuộc sống phù hoa. Vì vậy mà họ, và dù họ mới nói lên được tiếng nói, của vũ trụ.

    Còn trời còn nước còn mây,
    Còn ao rau muống, còn đầy chum tương.

    Dù gặp sóng gió trong đời, họ vẫn thản nhiên:

    Chớ thấy sóng cả mà lo,
    Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.

    3) Quan điểm xã hội:

    Nếu chúng ta quan niệm xã hội loài người là một bức tranh màu sắc rực rỡ thì những màu sắc ấy chính là những chứng tích của dục vọng con người.

    Dục vọng con người không phải chỉ âm thầm nằm trong tâm tưởng mà nó luôn luôn phát hiện ra ngoài bằng mầu sắc xã hội.

    Sở dĩ ta thấy người bình dân cần cù, quê mùa, mộc mạc là vì con mắt chúng ta đã thấy những màu sắc xa hoa, phù phiếm của xã hội.

    Ví như, màu sắc của nhà sư là chiếc áo đà, và chiếc áo đà chỉ có nghĩa tu hành khi trong xã hội có trăm ngàn màu sắc rực rỡ khác đang nổi bật lên.

    Cũng như, nếu bên cạnh xã hội bình dân không có những cảnh xa hoa, phù phiếm thì xã hội bình dân chẳng còn nằm trong trạng thái cần cù, chất phác, mộc mạc nữa. Nó sẽ được đồng hóa. Vậy quan niệm người bình dân cần cù, chất phác, mộc mạc chỉ là quan niệm so sánh, quan niệm phân tích trước một bức tranh nhiều màu, mà không có giá trị khen chê.

    Nếu đem sự phân tích ấy đặt vào giá trị khen chê thì thật là chuyện lầm lạc. Vì nếu bảo tính chất của họ là tốt đẹp tại sao xã hội loài người không bắt chước mà lại đua đòi theo màu sắc xa hoa, bóng bẩy của thời đại? Còn nếu bảo tính chất của họ xấu xa, lạc hậu thì tại sao lại xấu xa, lạc hậu, trong lúc sự cần cù chất phác của họ chính là nguồn gốc xây dựng đạo đức con người, nguồn gốc bảo vệ nhân cách, nguồn gốc của nhân sinh tự tại?

    Ở đây chúng ta không đặt vấn đề khen chê mà chỉ tìm hiểu tính chất thôi.

    Chính người bình dân Việt-nam thời xưa cũng đã nhận quan điểm của họ trước xã hội loài người. Họ cho cuộc sống loài người nếu xa rời thực chất con người, thì chỉ còn là ngụy tạo, mà những ngụy tạo chẳng bao giờ bền.

    Mọi cực đoan trong xã hội đều sớm bị tiêu diệt. Màu sắc càng loè loẹt càng dễ tàn phai:

    Đào thắm thì đào lại phai,
    Đồ nâu dãi nắng thì mài chẳng đi.

    Hương thơm càng nức mùi càng mau hết: :

    Càng thắm thì lại càng phai,
    Thoang thoảng hoa lài thì được thơm lâu.

    Ý thức như vậy cho nên họ từ chối mọi giá trị của nghệ thuật không chứa đựng tính chất lao động. Nói như thế cũng có nghĩa là họ đứng ra bênh vực tính chất cần cù, chất phác của họ, mà chỉ riêng họ, con người lao động, mới thấy giá trị của nó. Họ bảo:

    Đèn trời đèn sáng bốn phương,
    Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi.

    Hoặc:​

    Đèn nhà ai rạng nhà nấy,
    Khách qua đường biết đấy là đâu.

    Thực vậy, nếu không là một nhà tu thì khó thấy được mục đích cao cả của kẻ vì đạo. Nếu không là người bình dân thì không sao phân tích nổi tâm trạng của kẻ không màng lợi danh.

    Đời sống của họ là hoạt động lao động bằng sức làm việc của mình. Kẻ nào đã không dùng hết sức mình trong việc làm kể như chết đi một phần. Họ bảo: 

    Đời người chỉ một gang tay,
    Ai hay ngủ ngày chỉ được nửa gang.

    Những kẻ đang ngủ không phải là những kẻ đang sống. Ví như những kẻ ăn không ngồi rồi cũng không phải là những người đang sống. Khi họ phí mất sức làm việc hoặc không dùng sức làm việc để nuôi thân họ kể như họ đang chết. Trong cái khoảng một gang tay ấy, người bình dân đã đem sức lao động để đánh giá trị cuộc đời con người.

    Quan niệm vì cuộc đời họ lại cho rằng đời người chỉ là một thời gian tạm bợ, thì dù có se sua, lòe loẹt đến đâu, lúc chết cũng chẳng được gì. Họ bảo:

    Một đời đánh sáp đeo hoa,
    Một đời ỉa trịn cũng qua một đời.

    Cái tốt và cái xấu của thân xác con người lúc chết vẫn ngang nhau. Giá trị con người không hơn không kém. Vậy thì giá trị con người ở chỗ nào nếu không phải là giá trị lao động, cái mà con người đã dùng nó để tự lực tự cường, để nuôi lấy thân mình, làm lợi cho đồng loại.

    Bởi vậy, họ không cho cần cù, chất phác là xấu, là đấng chê. Đời người, nếu chưa chết dù phải khổ sở, phiêu bạt điêu linh đến đâu cũng chẳng mất. Họ tự nhủ:

    Đừng có chết mất thì thôi,
    Kìa như cái cóc bôi vôi lại về.

    4) Quan điểm văn hóa:

    Tính chất cần cù, nhẫn nại, chất phác cũng chính là nguồn gốc tạo nên tính chất nền văn hóa bình dân.

    Người bình dân sống với sức lao động, dùng sức lao động làm nền tảng cho cuộc sống, tất nhiên tâm hồn họ phải thực tế, cử chỉ họ phải mộc mạc, hồn nhiên.

    Sở dĩ lớp người quí tộc có lời ăn tiếng nói trang nhã, có những cử chỉ bóng dáng. chỉ vì họ không dùng đến sức lao động của họ. Họ sống trong nhàn rỗi, tâm tư của họ không chịu ảnh hưởng lao động, cử chỉ họ thoát ra ngoài vòng ràng buộc của tay chân trong nghề nghiệp. Ngược lại người bình dân dù muốn nghĩ khác và làm khác đi cũng không được, bởi vì thân xác họ phải gánh vác những việc nặng nề, tâm hồn họ dính liền với đời sống thực tế.

    Chúng ta bảo họ quê mùa, mộc mạc! Được! Nhưng chúng ta không có quyền chê họ. Tại sao chúng ta bắt họ phải có những cử chỉ trang nhã, ăn nói bóng bẩy, mà những cái đó đối với họ không cần thiết.

    Họ nói những lời nói không giấu lòng họ, làm những cử chỉ không che đậy của họ, như vậy không có gì gọi là thô bỉ cả.

    Tại sao chúng ta không dám nói tiếng thực tế như họ, ví dụ:

    Nhiều phân tốt lúa,
    Nhiều lụa tốt l...

    Trong lúc những việc thực tế ấy luôn luôn diễn biến trước mắt chúng ta?

    Chúng ta cho tiếng nói của họ là nôm na, mách qué? Không, tiếng nói của họ không bóng bẩy, văn hoa, song là đặc tính của bình dân. Chúng ta đừng bắt họ phải pha trộn để mất tính chất ấy. Vả lại, tiếng nói đã diễn đạt tâm tư, dù chúng ta có dùng những danh từ bóng bẩy đến đến cũng phải làm cho người đối thoại hiểu cái nghĩa chúng ta ta muốn nói, thế thì giấu đi để làm gì?

    Người bình dân không cần bóng bẩy! Cử chỉ và lời nói họ là phản ánh chân thật, vì chỉ có chân thật mới có giá trị đối với quan niệm nhân sinh của họ.

    Bởi vì, nguồn gốc của cử chỉ trang nhã, của lời bóng bẩy là gì? Chính nó là phương pháp đấu tranh về xảo thuật, bắt đối phương phải quan niệm giá trị hiểu biết mà qua lối giao thiệp. Phương pháp ấy đã đẩy con người vào chỗ lừa dối mình, phỉnh phờ kẻ khác, tạo thành những lầm lạc về giá trị con người, mà chúng ta cho đó là trình độ văn minh.

    Thực ra, đối với người bình dân, thi cái văn minh ấy chẳng qua là cái văn minh giả tạo của ý thức con người, chứ không phải cái văn minh của bản ngã con người. Cái văn minh của bản ngã là cái văn minh vì đạo nghĩa, phải bắt nguồn từ chân thật, mình không lừa dối ai đã đành, nhưng cũng đừng để cho ai hiểu lầm mình.

    Mặt khác, người bình dân là lớp người thấp kém nhất trong xã hội, họ không cần ai khen chê họ, thì họ cần gì phải ràng buộc vào một nghi thức phiền toái.

    Chính vì yếu tố trên mà người bình dân có những tính chất khác biệt trong xã hội loài người.

    *

    Tóm lại, từ xưa đến nay, dù với thế hệ nào, chúng ta vẫn thừa nhận người bình dân là lớp người cằn cù, nhẫn nại, chất phác. Những đức tính ấy chính là quan niệm nhân sinh của họ. Quan niệm nhân sinh của họ là đem sức lao động để tự lực tự cường. Và từ chỗ tự lực tự cường ấy mà họ trở thành con người tự lập, sống bằng sức lực mình, không lừa đảo, điêu ngoa.

    Cũng từ trong hoàn cảnh phải đem sức lao động cực nhọc để nuôi sống mà họ nảy sinh ra một tình thương, khiến họ trở thành con người vị tha nhiều hơn vị kỷ. Lòng bác ái của họ phát xuất từ nguồn gốc ấy.

    Cũng từ đặc chất của bản tính họ mà họ khinh thường danh vọng, xem nhẹ giàu sang. Họ sống gần gũi với ý thức đạo nghĩa.

    Cho nên, nếu chúng ta đi tìm đạo nghĩa trong lẽ sống mà chỉ tìm ở các giáo lý, ở các triết thuyết hiện thời mà không trở về với lẽ sống người bình dân ngàn xưa, tìm hiểu nhân sinh quan của họ thì thật là chuyện thiếu sót. Tiền nhân chúng ta tuy không có ý thức triết học, nhưng cuộc sống đúc kết cho họ một quan niệm về chân lý nhân sinh.
     
    vinguyen264 thích bài này.
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần tuyển tập ca dao tiêu biểu cho
    TÍNH CHẤT CẦN CÙ, KIÊN NHẪN, CHẤT PHÁC​

    1. Ai về đường ấy mặc ai,
    Ta về cày ruộng trồng đồi ta ăn.
    Đỉnh chung là miếng nợ nần,
    Hay chi bó buộc mà lăn lưng vào.
    Mưa xuân phơi phới vườn hồng,
    Ta về đắp đất mà trồng lấy cây,
    Trồng lấy cây mong ngày có quả.
    Can chi mà vất vả ai ơi,
    Long đong nay ngược mai xuôi.
    Đỉnh chung là cạm trên đời hay chi.
    Ai giàu thì mặc ai giầu,
    Ta về ta ở hái dâu nuôi tằm.
    Ta chăn tằm, lấy tơ ta dệt,
    May áo quần khỏi rét ai ơi!
    Tham chi tấm áo của người,
    Họ cho ta mặc lại đòi lại ngay.


    2. Ai về ai ở mặc ai,
    Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh.


    3. Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang,
    Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.


    4. Áo Tô-Tần ấm cật, cơm Tử-Lộ no lòng,
    Ăn bận anh dài vắn cho xong,
    Kiệm cần dư dả để phòng cưới em.


    5. Ăn được ngủ được là tiên,
    Không ăn không ngủ là tiền vứt đi.


    6. Ăn cơm với cáy thì ngáy o o,
    Ăn cơm với bò thì lo ngay ngáy.


    7. Bán hàng ăn những chũm cau.
    Chồng con có biết cơ màu này chăng?


    8. Bậu đừng đòi lãnh đòi lương,
    Vải bô bậu mặc thường thường thì thôi.


    9. Bởi anh tham việc nông công,
    Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài.


    10. Canh rau cũng thể canh rau,
    Để ai cậy thế, ỷ giàu mặc ai.


    11. Cây khô tưới nước cũng khô,
    Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo.


    12. Có răng thì để răng nhai,
    Không răng lợi gặm chẳng sai miếng nào.


    15. Có tiền khôn như con tép,
    Không tiền dại như con dòng dòng.


    14. Có ăn vất vả đã xong,
    Không ăn ta phải nhọc lòng làm chi.


    15. Cơm ăn một bữa một lưng,
    Hơi đâu mà giận người dưng thêm phiền.


    16. Cú có cú ăn,
    Vọ không có vọ lăn ra chết.


    17. Của giàu tìm lượng, nghìn tư,
    Chết hai tay cắp lỗ đít.


    18. Cuộc đời để mặc cho đời,
    Vinh hoa thế sự phó cho mặc đời.


    19. Chẳng lo đuổi thỏ săn hưu,
    Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
    Kình nghê vui thú kinh nghê,
    Tép tôm thì lại vui bề tép tôm,
    Xem loài bán thỏ buôn hùm,
    Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò.
    Thà ăn cáy ngáy o o,
    Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.


    20. Chẳng được miếng thịt miếng xôi,
    Cũng được lời nói cho nguôi tấm lòng.


    21. Chẳng nên cơm cháo gì đâu,
    Trở về đất bãi trồng dâu chăn tằm.
    Ai ơi! trời chẳng trao quyền,
    Túi thơ đủng đỉnh vui miền thú quê.


    22. Chẳng ngon cũng thể sốt,
    Chẳng tốt cũng thể mới.


    23. Chi bằng cần trúc áo tơi,
    Danh cương lợi tỏa mặc đời tranh đua.


    24. Chim gà, cá, lợn cành cau,
    Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê.


    25. Chồng chài, vợ lưới, con câu,
    Sông Ngô bể Sở biết đâu là nhà.


    26. Chữ nhẫn là chữ tương vàng,
    Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.


    27. Dù ai sang cả mặc ai,
    Thân này nước chẩy hoa trôi sá gì.


    28. Đã từng ăn bát cơm đầy,
    Đã từng nhịn đói bảy ngày không ăn.


    29. Đã giàu thì lại giàu thêm,
    Đã khó lại khó cả ngày lẫn đêm.


    30. Đàn ông học xẩy học sàng,
    Đến khi vợ đẻ phải làm mà ăn.


    31. Đàn bà không biết nuôi heo, đàn bà nhác,
    Đàn ông không biết cột nuộc lạt, đàn ông hư.


    32. Đánh cờ nước bí không toan,
    Dù anh khéo liệu trăm bàn cũng thua.


    33. Đến ta mới biết của ta,
    Nghìn trăm năm trước biết là của ai?


    34. Đói thì đầu gối phải bò,
    Cái chân phải chạy cái giò phải đi.


    35. Giàu về thể, nghèo về thể,
    Mèo uống nước bể chẳng bao giờ cạn.


    36. Giàu không hà tiện, khó liền trong tay.
    Khó không hà tiện, khó ăn mày.


    37. Giàu từ trong trứng giàu ra,
    Khó từ ngã bảy ngã ba khó về.


    38. Giàu nhân ngãi hãy giữ cho giàu,
    Khó tiền bạc mưa lo rằng khó.


    39. Giàu ba mươi tuổi chớ mừng,
    Khó ba mươi tuổi em đừng vội lo.


    40. Hay làm mà chẳng hay lo,
    Làm chi làm vậy làm cho nhọc mình,


    41. Hoài tiền mua pháo đốt chơi,
    Pháo nổ tan xác tiền ơi là tiền.


    42. Hoài tiền mua thuốc nhuộm răng,
    Để tiền mua mía đánh khăng vào mồm.


    43. Ý ai thì mặc ý ai,
    Ý tôi, tôi muốn canh khoai đầy nồi.


    44. Khó giúp nhau mới thảo,
    Giàu phò trợ không ơn.


    45. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà,
    Lường thưng tráo đấu, chẳng qua đong đầy.


    46. Không ai giàu ba họ,
    Không ai khó ba đời.


    47. Làm trai có chí lập thân,
    Chẳng nên thì chớ chẳng nhờ cậy ai.


    48. Làm trai chí ở cho bền,
    Đừng lo muộn vợ, chớ phiền muộn con.


    49. Làm trai quyết chí tu thân,
    Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
    Khi nên trời giúp công cho,
    Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.
    Trời sinh trời chẳng phụ nào,
    Công danh gặp hội anh hào ra tay.
    Trí khôn rắp sẵn dạ này,
    Có công mài sắt, có ngày nên kim.


    50. Làm người chỉ biết tiện tần,
    Đồ ăn thức mặc có ngần thì thôi.
    Những người đói rách rạt rời,
    Bởi phụ của trời làm chẳng nên ăn.
     
    kuakangxanh and vinguyen264 like this.
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    51. Làm thân con vạc mà chẳng biết lo,

    Bán đất cho cò phải đi ăn đêm.

    52. Làm trai phải biết đủ nghề,

    Hòng khi có lỡ thì về mót khoai.

    Mót được củ chạc, củ chài,

    Cứ giắt lưng khố, cứ nhai vào mồm.

    53. Lận đận lao đao, phải sao chịu vậy,

    Tới số ăn mày, bị gậy phải mang.

    54. Lên non ăn sĩ qui điền.

    Kiếm nơi cha thảo mẹ hiền gởi thân.

    55. Lòng đã thấm, dạ vàng phai,

    Hơi đâu theo đuổi đường dài uổng công.

    56. Mặc ai đánh sáp soi gương,

    Mặc ai đỏng đảnh phố phường trăng hoa.

    57. Mặc ai chác lợi mua danh,

    Miễn ta học đặng đạo lành thì thôi.

    58. Mặt trời tang tảng rạng đông.

    Chàng ơi thức dậy ra đồng kẻo trưa.

    59. Một ngày ba bữa cơm đèn,

    Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng.

    60. Một cây làm chẳng nên non.

    Ba cây dụm lại thành hòn núi cao.

    61. Một ngày mấy lượt trèo đèo,

    Lấy gì làm đẹp làm giòn hỡi anh.

    62. Một ngày ba bận trèo cồn,

    Còn gì mà đẹp mà giòn hỡi anh.

    63. Một ngày ba bận trèo đèo,

    Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng.

    64. Mưu toan thì dễ,

    Sự thành thì khôn dễ làm nên.

    65. Nợ nần cũng chẳng là bao,

    Ra công tháo vát lúc nào cũng xong.

    66. Nghề xe đổi lấy nghề đò,

    Sông sâu nước chẩy tôi mò từng xu.

    Chiều buồn gió thổi vi vu,

    Thân tàn rũ liệt canh thu hít hà.

    67. Ngồi rỗi sao chẳng xé gai,

    Đến khi có cá mượn chài ai cho.

    68. Người có chí ắt phải nên,

    Nhà có nền ắt phải vững.

    69. Người ta đi cấy lấy công,.

    Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.

    Trông trời, trông đất, trông mây,

    Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.

    Trông cho chân cứng đá mềm,

    Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng.

    70. Nhà anh cột gỗ kèo tre,

    Trên thì lợp ngói dưới che mành mành.

    71. Ông cả ngồi trên sập vàng,

    Cả ăn, cả mặc, tại càng cả lo.

    Ông bếp ngồi trong xó tro,

    Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm.

    72. Ở cho phải phải phân phân,

    Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.

    75. Phượng hoàng gặp bước cheo leo,

    Sa cơ thất thế phải theo đàn gà.

    Bao giờ mưa thuận gió hòa,

    Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.

    74. Quê mùa ở đất đồng chiêm,

    Lấy dao cắt cỏ, lấy liềm bửa cau.

    75. Ra đường thấy cánh hoa rơi,

    Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta.

    76. Rủ nhau đi cấy đi cày,

    Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.

    Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

    Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

    77. Sinh không, tử lại hoàn không,

    Khó ta, ta chịu, đừng mong giàu người.

    78. Sự đời để mặc đời lo,

    Nghiêng tai giả điếc, gật đầu làm ngơ.

    79. Ta về ta tắm ao ta,

    Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.

    80. Tu thân rồi mới tề gia,

    Lòng ngay nói vậy, gian tà mặc ai.

    81. Thân lươn chẳng quản lấm mắt,

    Thân trạch chẳng quản lấm đầu.

    82. Trông cho chân cứng đá mềm,

    Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng.

    83. Tranh quyền cướp nước gì đây,

    Coi nhau như bát nước đầy là hơn.

    84. Trời mưa trời gió đùng đùng,

    Cha con chú Sùng đi gánh phân trâu.

    Đem về trồng bí trồng bầu,

    Trồng hoa, trồng quả, trồng cau, trồng dừa.

    85. Trời mưa thì mặc trời mưa,

    Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi.

    86. Trời nào có phụ ai đâu,

    Hay làm thì giàu, có chí thì nên.

    87. Vua Ngô ba mươi sáu tàn vàng,

    Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
     
    kuakangxanh thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này