Tuỳ bút - Biên khảo G Chơi chữ - Lãng Nhân <The Happiness Project #20-NF>

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi teacher.anh, 15/6/16.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Ông Trần-Bình là một tay hay chữ, văn nôm rắn-rỏi và hóm-hỉnh. Bạn Duy-Việt có nhắc lại mấy câu đối chứng-tỏ cái tài châm-biếm của ông.
    Một bữa, ngồi uống rượu với ông Vi và ông Quốc. Ông Vi có bộ răng đẹp nhưng lại là răng giả. Ông Quốc hai vợ, hiềm nỗi bấy giờ tuổi đã quá cao lại đương giở màu tu-tỉnh. Ông Trần đọc hai câu đùa:

    Hàm răng mang nặng: hàm răng giả
    Túi đạn theo thừa: túi đạn chay.

    Có ý rằng hai ông bạn tuy là đại-thần, nhưng trông kỹ từ trên xuống dưới chẳng… gì ra gì cả…
    Ông Vi trước đó đã thay ông Hoàng làm tổng-đốc Hà-đông. Trong lúc ấy, có nạn hoàng-trùng cắn lúa ở Mỹ-Đức và bệnh thổ-tả hoành-hành ở Chương-Mỹ. Ông Trần-Bình viết mấy câu về hai tai-nạn, nhân dịp lại ám-chỉ cả hai ông Vi, Hoàng:

    Hoàng-trùng đi,
    Vi-trùng lại.
    Suy đi xét lại:
    Vi hại hơn Hoàng.

    Vi hại hơn Hoàng, vì tiếng vậy, Hoàng còn săn-sóc khá nhiều cho tiểu công-nghệ.

    o0o

    Cô Tư-Hồng, tay cừ khôi trong những cô xung-phong làm kỹ-nghệ lấy tây, vốn là người có tài tháo-vát. Một năm kia nghe tỉnh Quảng-bình mất mùa, cô chở ba thuyền gạo vào định tâm sẽ bán lấy giá cao, bất đồ bị chính-quyền biết mưu nên ra lệnh tịch thu. Cô liền tuyên bố là đem gạo vào với hảo-ý phát chẩn cho dân đói, nhân đó được vua ban hàm tứ-phẩm, ông cụ thân-sinh cũng được tặng-phong. Ông Trần-Bình đã mừng đôi câu đối:
    Mừng Cô Tư-Hồng

    Bốn chữ sắc phong hàm cụ lớn
    Ba thuyền tế độ của bà to!

    Hàm cụ đối với của bà, thật xứng-đáng với hai người được ân-thưởng.
    Về hai câu này, nhiều sách đã chép câu dưới là: Nghìn năm danh-tiếng của bà to. Chúng tôi được bạn Dương-Tấn-Tươi cho biết câu của ông Trần đúng là “Ba thuyền tế-độ” vì có sự-kiện phát-chẩn nói ở trên. Còn câu Nghìn năm danh-tiếng của bà to, chúng tôi đọc thấy ở cuối bài Đường luật của Yên-Đổ như sau, cũng tặng cô Tư-Hồng:

    Giàu sang bà lớn thực trời cho
    Trời lại cho bà chữ tự-do!
    Áo mạng, con đà ngôi mệnh-phụ
    Sắc rồng, cụ cũng mặt làng nho.
    Tóc sương, bực lão đành không kém
    Má phấn, đàn em dễ dám so!
    Khắp cõi trời Nam đều biết tiếng
    Nghìn năm cái tiếng của bà to!

    Và Yên-Đổ còn mừng thêm đôi câu đối nữa:
    Có tàn, có tán, có hương-án thờ vua, danh-tiếng lẫy-lừng băm sáu tỉnh.
    Cũng biển, cũng cờ, cũng sắc-phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người!

    Từ-ngữ làm đĩ có tàn có tán có lẽ là do ở câu đối này ra.
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/7/17
  2. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Đề Nhà Hộ-Sinh Treo Bảng-hiệu “Con Rồng”:
    Con tiên cháu rồng, lộn xuống cõi trần sung-sướng nhỉ,
    Mộng hùng thơ rắn, sai đầu bà mụ đỡ-đần cho!

    Câu này cũng do ông Trần-Bình sáng tác.
    Sau hai chữ rồng rắn, chúng tôi để dấu phẩy cho đúng cú-pháp. Thực ra hai câu viết bằng chữ nôm đọc dọc theo chiều bức liễn, không có dấu chấm câu (dù đọc ngang cũng vậy, chữ nho không cần chấm câu) cho nên rồng liền với lộn, rắn xuống ngay sai!

    o0o

    Một ông lính chào mào, sau trận đại chiến thứ nhất, trở về ít lâu được bổ làm tùy-phái tòa-sứ, lại mông thưởng phẩm hàm, và vợ sinh con trai, liền mở tiệc ăn mừng. Chủ-nhân vốn là người không biết chữ nho, chỉ đương vọc vạch quốc ngữ chưa thông, nên ông Trần-Bình đã viết hộ một người bạn chủ-nhân đôi câu đối mừng:

    Tiếp tiệp hoan hoàn, tê-ư tư, sắc tứ
    Binh bình sứ sự, hát-ô hô, huyền hồ.

    Thật là gói ghém đủ đề tài: báo tiệp rồi thì vui mà về, được sắc tứ, xong việc binh làm tòa sứ, lại treo cung báo tin sinh con trai.
    Nhưng ác ở chỗ dùng chữ rõ ra giễu người đương học đánh vần…

    o0o

    Nhân nói về ông thợ xẻ ăn cơm vua trên kia, chúng tôi liên-tưởng đến ông Huy-Quang, nguyên là thư-ký lão-luyện ở một văn phòng luật-sư, lại cũng là một tay ăn chơi khét tiếng một thời. Ông người làng Thịnh-Liệt, khi về già, cho xây một ngôi sinh-phần ở đồng làng, để xếp-dọn sẵn lúc hai năm-mươi, và nhờ ông Trần-Bình là bạn thân, làm một câu đối đề ngoài cổng sao cho thật trang-trọng, cho bõ nguyện-vọng một đời trưởng-giả.
    Ông Trần-Bình viết hai câu:

    Khen chê, mồ chú Huy-Quang đó
    Sống chết, dân làng Thịnh-Liệt đây.

    Có ý bào-chữa cho ông thầy cò: ông này vốn bị chê nhiều hơn là được khen, nhưng dù sao cũng là người không quên gốc, sống cũng như chết vẫn ở cùng với dân làng.
    Câu đối viết bằng quốc-ngữ lối triện. Khi sinh phần làm xong, tân khách đến xem, ai cũng ngâm-nga các câu văn bóng-bẩy trên hoành-phi và câu đối, vì đều là của những nhà đại-gia gửi tặng. Duy đến hai câu ngoài cổng, thì quái! Có kẻ nào tinh-nghịch đã lấy mực viết thêm chữ m vào sau chữ mồ, thành chữ mồm, khiến vế trên hóa ra: Khen chê mồm chú Huy-Quang đó.
    Mọi người phân vân: chữ mồ mới phải chứ, vì đây là một ngôi sinh phần.
    Song cũng có người nghĩ xa hơn, lại cho chữ mồm đúng hơn, vì có lẽ tác-giả muốn nói đến cái đặc-điểm của chủ nhân là mồm mép… thầy cò.
    Lời giải-thích này có trúng, cũng chỉ một phần thôi, vì lý-do nêu ra là một lý-do phụ-thuộc, còn lý-do chính lại nằm trong một câu chuyện hơi dài:
    Khoảng năm 1910, ở Hà-nội có vụ tranh cử hội viên thành phố. Trong số ứng cử viên có ông Huy-Quang, đứng chung sổ với ông Nguyễn-văn-Vĩnh; lại có một ông nữa vốn xuất-thân thợ xẻ, đứng trong một danh-sách đối lập.
    Ông Vĩnh cao hứng viết báo Trung Bắc móc cái chỗ xuất-thân này bằng một câu: “Chúng ta nên cưa mạch nào đứt mạch ấy”. So với lối viết xỉ-vả bây giờ thì câu đó đâu có gì là ác-liệt. Nhưng buổi ấy, đả động một tí thế là to chuyện rồi. Ông nguyên thợ xẻ mướn ngay một phu xe và một phu vệ-sinh đi làm cái việc trả thù. Ông Vĩnh được tin ngầm báo, nên đã đề-phòng không mảy may sơ-hở. Không làm gì được ông Vĩnh, ông kia bèn xoay mũi dùi sang ông Huy-Quang. Vốn biết ông này cứ sáng chủ-nhật đi lễ nhà thờ xong là dạo một vòng hồ Gươm, ông kia bèn cho hai người phu đi theo. Đến chừng ông Huy-Quang mỏi chân thì anh xe tiến đến trước mặt, hạ càng mời. Vừa ngồi vào xe, càng xe nâng ngay lên khá cao, và nhanh như cắt, anh phu vệ-sinh chạy đến tặng vào mồm ông Huy-Quang một gói quà mà bấy giờ dân Hà-thành gọi là kem sốt. Thế là anh phu xe cứ chạy, chạy như bay, khiến ông Huy-Quang muốn nhảy xuống mà không dám nhảy, đành ngồi trên xe chịu cái khổ “há miệng mắc… quai”.
    Xe bon-bon qua mấy phố đông rồi đỗ ở gần nhà ông Huy-Quang. Bấy giờ ông mới vội-vã nhảy bổ xuống và ba chân bốn cẳng chạy về… súc miệng.
    Thật là chẳng phải đầu, cũng chẳng phải… mồm, do đó mà trong câu khen chê mồm chú Huy-Quang đó, chữ mồm người rõ chuyện cho là đắc-địa hơn…
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/7/17
  3. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Trần Bình tuy nổi tiếng về những văn thơ hóm hỉnh nhưng chính tích ở các nơi ông lịch-lị không được ca-ngợi trong dân-chúng, vì thế khi về già, ông có sáng-kiến đăng báo yêu-cầu bốn phương gửi câu đối về phúng sống mình, để xem dư-luận khe-khắt đến chừng nào. Có người đã phúng mỉa:
    Lạ lùng thay, nho chẳng ra nho, quan chẳng ra quan, điên đảo đảo điên, chín suối tìm đâu người nỏ miệng.
    Ngao ngán nhẽ, sống không ra sống, chết không ra chết, dở hay hay dở, trăm năm còn mãi tấm bia đời.

    Lại còn có lời mỉa mai sỗ-sàng hơn như sau:
    Muốn sống thì chừa, nào hán-tự, nào quốc-văn, bàn-tán thêm nhơ phường cựu-học;
    Chưa chết đã thối, cũng nguy-khoa, cũng hiển-hoạn, phẩm-bình càng bẩn báo Tân-văn!

    (Nguy khoa, hiển-hoạn: đỗ cao, làm quan lớn)

    o0o

    Khi Hoàng Cao Khải tạ thế, một người đồng hương gởi câu đối viếng:

    Ông ra Bắc là may, quyền kinh-lược, tước quận-công, bốn biển không nhà mà nhất nhỉ!
    Cụ về Tây cũng tiếc, trong triều-đình, ngoài thôn-dã, một lòng vì nước, có hai đâu!

    Ra Bắc là may, vì nếu ông ở lại quê nhà Nghệ-An, chưa chắc đã ai để cho dọc-ngang được đến thế. Người Trung thất-thểu ra Bắc mà làm đến cực-phẩm, lại càng may dữ!
    Về Tây là chết (về Tây-phương cực-lạc) lại có nghĩa là chết đi thì người Pháp cũng tiếc thương một công-bộc. Một lòng vì nước, chỉ có ông chứ không hai, có thể hiểu cách khác: ông một lòng chứ không hai lòng, thờ một nước chứ không phải thờ hai nước, chỉ có không rõ một nước là nước Nam hay nước Pháp!
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/7/17
  4. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Từ khi ông Vi lên tổng-đốc Hà-đông, thấy nhà các quan trong tỉnh nhà nào cũng có nhiều câu đối và bể non-bộ, ông liền cho sắm một bể và muốn tỏ mình cũng là người phong-nhã chứ không phải dân “sơn-cước” như người ta tưởng, ông cho người đi tìm một tay chữ tốt văn hay để đề câu đối trên tường phía sau bể non bộ.
    Nghe nói ở Nam-định có một nhà nho túc học, ông cho người mời lên. Nhà nho ngắm-nghía hòn non-bộ rồi ung dung viết lên tường:

    Nam-sơn trúc bất tận.
    Đông-hải ba vô cùng.

    Rồi cắt nghĩa:
    - Bẩm cụ lớn, Nam-sơn trúc bất tận nghĩa là cây trúc ở núi Nam không bao giờ hết, nghĩa bóng là dòng dõi cụ lớn sẽ mỗi ngày một thịnh. Còn Đông-hải ba vô cùng là sóng ở biển Đông không bao giờ cùng, ngụ ý chỉ vào công ơn của cụ lớn đối với dân, mông-mênh như biển cả.
    Vi nghe khen phổng mũi, trọng thưởng cho nhà nho. Từ đó, mỗi khi có quan khách tới chơi, Vi lại đem khoe câu đối, và mọi người đều tấm-tắc khen hay.
    Có biết đâu nhà nho kia đã rủa ngầm họ Vi thậm tệ. Nguyên hai câu Nam-sơn trúc bất tận, Đông-hải ba vô cùng xuất phát từ hai câu trong bài hịch đả kích Tùy-dạng-Đế của Lý-Mật đời Đường: Quyết Đông-hải chi ba, lưu ác bất tận; khánh Nam-sơn chi trúc, thư tội vô cùng. Nghĩa là khơi hết sóng Đông-hải cũng chưa hết ác, viết đến hết thẻ trúc ở Nam-sơn cũng chưa hết tội!

    o0o

    Một nhà giáo mới được bổ đến làng kia, cao hứng viết về đôi câu đối dán ngay cửa trường:

    Kinh sử một bồ, thầy dạy đánh vần không mỏi miệng.
    Gươm đàn nửa gánh, khách du qua cửa cũng dừng chân.

    Ông giáo này cố làm ra lối văn khẩu-khí, chứ ông chỉ là hương-sư dạy trẻ đánh vần thôi, làm gì có kinh-sử một bồ, vả lại đã ở vào buổi dạy quốc-ngữ thì lấy đâu ra gươm đàn nửa gánh, là đồ-lề của khách giang hồ những thời xa xưa.
    Huống chi không mỏi miệng, cũng dừng chân đem chân của khách đối với miệng mình có lẽ không thơm tho cho lắm.
    Câu đối dán lên được vài hôm thì một buổi sáng ông giáo tới trường, nhìn thấy có chữ viết đè lên trên chữ của mình:

    Kinh-sử gì thầy, chữ nghĩa bao lăm mà mỏi miệng?
    Gươm đàn kệ chúng, mễ-hương không chịu khá rời chân!

    Thấy giọng sỗ-sàng, thầy giáo uất-ức, đưa việc ra trình làng; làng không xử, thầy lên kiện trên quan; đến đấy mới vỡ ra rằng người làng chẳng ghét gì ở thầy cái chứng nói khoác, nhưng ghét vì đã mỉa làng bằng những chữ: Kinh-sử một bồ, Gươm đàn nửa gánh vì cho rằng thầy đã nói móc đến cái nghề của dân làng, vốn là nghề… nhặt bã cơm.
    - Không có nghề gì xấu, thầy giáo ạ. Nghề này trước đã có một câu đề cao rất hách:

    Đới nhất nhung y, đảm thế-gian chi nan sự.
    Trì tam xích kiếm, thu thiên-hạ chi nhân-tâm.
    (Mang một áo chiến, gánh việc khó trên thế-gian.
    Cầm ba thước gươm, thu nhân tâm của thiên-hạ).

    Bồ với gánh là khí cụ để hành nghề, nay thầy đem dùng hai chữ ấy trong câu đối, đúng là có ý mỉa-mai cả làng rồi còn gì!
    Bởi thế, làng mới hạ chữ gươm đàn kệ chúng và nhắn thầy rằng đã không chịu được mùi thơm của gạo (mễ-hương), xin thầy hãy kíp rời chân… cho được việc.
    Thế là vì mấy chữ huênh hoang mà ông giáo phải đổi ngay đi gõ đầu trẻ ở làng khác.
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/7/17
  5. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Cũng có câu đối dán ở cửa hàng buôn-bán tả được những nghề-nghiệp tầm thường một cách rất khí-phách:

    Dán Nhà Thợ Hớt Tóc

    Cười phấn cợt son, tô điểm tóc tai tứ xứ.
    Mài dao đánh kéo, mở mang mày mặt khách năm châu.


    Dán Quán Trầu Nước [18]

    Nhà giàu tính vốn kềnh-cơi, con cháu nương nhờ về ấm.
    Việc nước ra tay chuyên bát, bốn phương đâu đấy lai hang.


    Dán Hàng Nhuộm

    Đã trót nhúng tay xấu đều hơn tốt lỏi.
    Quý hồ thuận mắt thắm lắm lại phai nhiều!


    o0o
    Có tật giật mình, cứu bệnh như cứu hỏa
    Đứt tay hay thuốc, làm phúc như làm giàu.


    Ai đọc đôi câu đối này cũng hiểu là nói về nghề thầy thuốc. Hai câu đem tách ra từng chữ, không chữ nào gượng ép, lại toàn lấy ở phương ngôn, tục ngữ.

    o0o

    Nói chuyện câu đối, ta cũng nên nhắc lại những cuộc thi câu đối, là những lối giải-trí công-cộng của thời xưa.
    Lắm cuộc thi đã làm đầu đề cho những trận cười mà dân-gian còn nhớ mãi.
    Như ông Tuần nọ một ngày mồng chín tháng chín, lên chơi núi Dục Thúy, ra một vế, lời văn thật-thà và không có tình tiết gì lý thú:

    Cuối thu ngày chín lên chơi núi.
    Vì ông Tuần có tiếng là tay cự phách trong làng văn nôm, nên sĩ phu đua nhau gửi đối, để lĩnh giải thưởng thì ít, mà để chế nhạo ông thì nhiều.
    Câu đối được chấm giải nhất là:

    Giá hạ vàng mười chớ bán non.
    Dẫu rằng sát với thời sự lúc ấy: vàng đương sụt giá, nhưng không ăn nhập gì tới cuộc chơi núi cả!
    Có câu đả động đến đời tư ông Tuần:

    Đầu vú cô Ba có sữa non!
    Lại có câu nhạo văn tài của ông:
    Đầu trống canh năm, gọi … thủng đồi [19]
    Mấy câu kế là đối chọi, nhưng không làm bật được cái vẻ thật-thà của cuối thu ngày chín.
    Chỉ có câu này:

    Giờ tí canh ba gọi thủng đồi
    có phần khôi-hài hơn, giễu người xuất đối một cách rõ-rệt: giờ tí cũng là canh ba, thoát ở câu “nửa đêm giờ tí canh ba, vợ tôi đàn bà con gái nữ nhi…”
    Tuy-nhiên, cả hai câu cùng hơi… nặng mùi, không được nhẹ-nhàng phong-lưu bằng câu:

    Giờ tí canh ba xuống nhảy đầm.
    Câu này hay ở chỗ không cần phải nói lái như thủng đồi mà đối lại chọi hơn: lên chơi núi - xuống nhảy đầm… đầm còn mang nghĩa là “ao” đối với “núi”.

    [18] Trầu, tiếng Bắc là giầu. Màu các tiếng nghề: cơi trầu, ấm nước, bát nước, hàng nước. Chữ ấm dùng nghĩa tổ ấm, lai hàng nghĩa hàng phục, đây là “tới nhà hàng”.
    [19] Thủng đồi: lái lại là đổi thùng. Ở Bắc xưa, cứ nửa đêm phu vệ-sinh đi từng nhà để “đổi thùng” vì chưa có cầu tiêu xối nước như ngày nay.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/8/17
    viettran_ru, dongtrang and Heoconmtv like this.
  6. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    “Nhân dịp lễ khánh thọ ngũ tuần vị quốc-mẫu thời ấy, cụ Tuần cao hứng ra một câu nữa cũng không kém vẻ quê kệch và… ruột ngựa: Tiệc thọ năm mươi mừng mẹ nước.
    Bấy giờ là lúc Pháp vừa thắng Đức, công sứ Ninh-Bình sức cho mỗi xã phải nộp 30 đồng để mua cờ treo mừng, khiến dân chúng xót-xa về tiền, nên có người đối:

    Lá cờ ba chục chết cha dân!
    để nói lên việc này.
    Lại có người nhân tiện đùa cái kiểu làm quan của cụ Tuần:

    Khấn thầm ba chục chết cha dân!

    o0o

    Thi câu đối hồi ấy phần nhiều do báo Trung-Bắc khởi xướng, báo này do mấy nhà nho ưa chơi chữ là hai ông Nguyễn-đỗ-Mục và Dương-bá-Trạc chủ trương bộ biên-tập.
    Có cuộc thi lý thú như thi đối câu: Vợ cả vợ hai, hai vợ cùng là vợ cả.
    Nhiều vế đối ngộ nghĩnh: Quan thừa quan thiếu, thiếu quan đã có quan thừa.
    Câu này có hàm ý châm biếm, vì ám chỉ Thiếu [20] Hà-Đông. Nhưng tiếc rằng quan thiếu thì có, mà quan thừa lại không, vì thừa phái chỉ ở cấp lại, không gọi được là quan. Vả chăng chữ thừa ở cuối câu chỉ dùng được một nghĩa, trong khi phải đối lại chữ cả ở câu trên có hai nghĩa.

    Nhà thuê nhà tậu, tậu nhà đi ở nhà thuê.
    Chữ thuê cuối cùng cũng bị trường hợp một nghĩa như trên.
    Chỉ có câu này gọi là trúng cách: Con nuôi con đẻ, đẻ con há cậy con nuôi.
    Chữ nuôi được hai nghĩa trạng từ và động từ.
    Câu đối ra trên đây cũng từa tựa như câu của ông Hiệp-Hòa. Hiệp-Hòa, nguyên hai phòng, đều đã mất cả, mà con trai con gái ông cũng đã có con trai, nên làm câu đối tự trào:

    Vợ cả vợ hai không vợ cả.
    Con trai con gái có con trai.”


    [20] Gọi tắt chức “thái tử thiếu bảo”.
     
    dongtrang, Heoconmtv and viettran_ru like this.
  7. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Những cuộc thi câu đối như trên rồi từ địa-hạt văn-chương nhảy sang địa hạt thương mại. Người ta áp-dụng vào phương-sách quảng-cáo. Ở Hà-Nội xưa, hiệu ảnh Hương-Ký có lẽ là một nhà buôn sáng kiến ra lối quảng-cáo bằng thi câu đối: Có lần ra một vế bằng văn Kiều: Nhà Hương cao cuốn bức là, tài tử giai nhân mỗi người một vẻ.
    và buộc rằng trong vế đối cũng dùng văn Kiều mà phải có chữ “Ký” chọi với chữ “Hương”, nghĩa là cốt để cho không ai lĩnh được thưởng, vì trong Kiều làm gì có câu đối lại được như thế. Thấy thế, có người gửi lại một vế đối đùa: Cô Ký thấp buông quần lĩnh, anh-hùng hào-kiệt rày ước mai ao.


    o0o
    Gần đây ở Sài Gòn, một quả phụ tài sắc cùng hay, lại chịu ở lâu trong cảnh hiu quạnh. Chút vì năm nọ trời trở lạnh bất thường, vật giá lại gia tăng dữ dội, quả phụ đành phải mở ngôi hàng phở để mưu sống qua ngày. Nhưng lạ gì chốn chợ đời, “nhà hàng không nhớ khách”, oái oăm thay “khách vẫn nhớ nhà hàng”. Mà khách lại đông, mỗi sáng ùn ùn kéo đến, không hẳn vì phở mà nhiều phần vì “nàng”, khiến cho “nàng” phải tính dẹp bớt những sự tấn công nham-nhở, bằng cách ra một vế đối: Nạc mỡ nữa làm gì, em nghĩ chín rồi, đừng nói với em câu tái giá.
    Câu này thật “hóc búa” vì những chữ về phở đều có hai nghĩa: nạc mỡ (nói nửa nạc nửa mỡ), chín, tái, giá.
    Một ông chủ nhà hớt-tóc, trong khi vò đầu khách, lẩn-mẩn đối: Tóc-tơ đâu phải giỡn, tớ liều kéo lại, chớ hòng trốn tớ chuyện giao-đầu (dao, đầu).
    Một ông hai thứ tóc cũng gùn-ghè: Muối tiêu chi đáng ngại, lão còn gân chán, hãy vui cùng lão tát gầu dai.
    Một ông tính nóng như lửa, thấy không được toại ý, những muốn đập phá, may có bạn đứng ra can khéo: Hành tỏi vừa thôi chứ, khách hăng tiết đấy, hãy thêm cho khách đủ răm mùi. (dăm: con số đối với tái; mùi: rau mùi)
    Một ông ở chợ cá góp lời: Cá nước vui đi chứ, tớ lên sốt sẵn, nỡ nào để tớ phải kho tôm!
    Một ông thầy bói đối: Càn khôn đâu cũng mặc, lão xin gieo lại, dẫu bề nào lão chẳng can chi.
    Một thầy lang cũng dọa nữa: Thuốc thang chưa đỡ hả? Tớ còn bốc nữa, không nghe thì tớ sẽ tiêm liều.
    Một bác hủ nho tính ngay chuyện trăm năm: Thịt xương tìm chốn gửi, mỗ xin tô nữa, thử vui cùng mỗ cuộc giao-tranh (dao, chanh)
    Sau cùng, một ông già đứng ra ngỏ lời phương-tiện: Tiết sương (xương) thôi giữ vẹn, lão không hành nữa, biết thân rồi, lão chẳng tranh lèo! (chanh)
    Coi vậy: có một đóa hoa mà bướm lượn hơi nhiều. Thiết tưởng nên để cho đóa hoa phở này vẹn tiết trăm năm là hơn.

    o0o

    Câu đối còn có khi lấy tục-ngữ hay phong-dao làm đầu đề:
    Câu tục-ngữ: Bán hàng trầu miếng mà nuôi thợ kèn đã làm đầu đề cho câu đối sau đây:
    Góp nhặt mấy đồng môi bỏm-bẻm
    Nâng-niu một miệng lưỡi tò-te.
    Còn câu phong-dao:

    Đương khi lửa tắt cơm sôi,
    lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem.
    Bây giờ con đã nín êm,
    lợn no cơm chín, tòm tem thì tòm.

    Tương-truyền ông Trạng Bùng đã tóm tắt đại-ý bằng hai câu:
    Đương lúc vội vàng chàng muốn những…
    Bây giờ thong-thả thiếp tha hồ…

    Vế sau nghe như cô Xuân-Hương có sửa lại cho linh-động hơn:
    Đương lúc vội-vàng, dẽ…
    Bây giờ thong-thả, nào!

    Nhưng ông trạng cũng như Xuân-Hương chỉ tả đến chỗ “thì tòm” mà thôi. Có người thời nhân đã nối tiếp giai-đoạn “thì tòm” bằng hai câu:
    Con trên há miệng đớp dưa gang
    Bố dưới khom lưng tra chốt sắt.
    để thán phục cảnh “thờ chồng, nuôi con, đạo đàn bà”!

    o0o

    Ông Trạng Bùng còn hai câu lấy đề-tài: “Nhân lão tâm bất lão”:

    Tà-tà bóng đã chiềng vàng xế
    Tấp-tểnh tay còn trống bỏi chơi.

    Gần đây có người làm hai câu cho là hùng-hồn hơn:
    Ngoài thấy bạc đầu thưa những “Cụ”,
    Trong thì sắt nguội gọi bằng “Ông”.
     
    dongtrang, viettran_ru and Heoconmtv like this.
  8. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    III
    Lục bát, song thất lục bát

    Lục bát là thể thơ đặc biệt của người bình dân Việt-nam. Cho nên những câu phong-dao phần nhiều làm theo lối này. Phong-dao lắm khi chơi chữ cũng ngoắt-ngoéo lắm.

    Như chọi chữ già, non trong câu:

    Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
    Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?

    Chữ thừng dắt xuống chữ chắp nối:
    Biết nhau từ thuở buôn thừng
    Trăm chắp ngàn nối thì đừng quên nhau.

    Chữ tằm đi với hình-ảnh vương-tơ:

    Đã mang lấy cái thân tằm
    Không tơ vương nữa cũng nằm trong tơ.

    Chữ cau đưa đến chữ buồm, chữ màu:

    Ai về nhắn chị hàng cau
    Giật buồm, dấp nước, giữ màu cho tươi
    Hoặc ghép tên bốn mùa:
    Chị Xuân đi chợ mùa hè
    Mua cá thu về chợ hãy còn đông.

    Hay tên thú vật:

    Anh Hươu đi chợ Đồng Nai
    Bước qua bến Nghé, ngồi nhai thịt Bò.
    Cũng có khi mai-mỉa cay độc thế-thái nhân-tình:
    Con ơi nhớ lấy câu này
    Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.
    Đàn ông quan tắt thì chày
    Đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan.
    Thế gian còn dại chưa khôn
    Sống mặc áo rách chết chôn áo lành.

    Hoặc chê-bai những lời dị-nghị chủ-quan:

    Sớm mưa, trưa nắng, chiều nồm,
    Trời còn luân chuyển huống mồm thế-gian.

    Nói bóng gió về mối tình trai gái, thì:

    Giã ơn cái cối cái chày
    Nửa đêm gà gáy có mày có tao.
    Giã ơn cái cọc cầu ao
    Nửa đêm gà gáy có tao có mày.
    Thương em, anh cũng muốn thương
    Nước thì muốn chảy nhưng mương chưa đào.
    Em ví lo liệu làm sao
    Để cho nước chảy lọt vào trong mương.
    Giễu người lẳng-lơ thì:
    Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
    Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
    Còn như yêu vụng dấu thầm,
    Họp chợ trên bụng cũng trăm con người.
    Bốn chữ họp chợ trên bụng đi trước ba chữ “bề hội đồng” đến hàng thế-kỷ!

    Người luống tuổi mà còn chưa chịu “tài binh” thì người ta giễu:

    Bà già đi chợ cầu Đông
    Bói xem một quẻ “lấy chồng lợi chăng”,
    Ông thầy xem quẻ nói rằng:
    “Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn!
    Trong khi bà già nói lợi-lộc thì ông thầy nói lợi răng.

    Những “anh hùng rơm” thường bị chế nhạo cay độc:

    Đồn rằng quan tướng có danh
    Cưỡi ngựa một mình, chẳng phải vịn ai.
    Vua khen rằng: ấy mới tài
    Ban cho cái áo với hai đồng tiền.
    Đánh giặc thì chạy trước tiên
    Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra.
    Giặc sợ, giặc chạy về nhà
    Tướng về gọi mẹ mổ gà khao quân.

    Chu-mạnh-Trinh, vịnh chùa Hương có những câu:
    Lần tràng hạt niệm nam mô Phật
    Cửa từ bi công đức biết bao.

    Ai chẳng nghĩ ông dốc lòng mộ đạo, hay đâu ông lại cũng có những câu trai lơ:

    Lên chùa chân bước khoan-khoan
    Khi mô, mô Phật, khi tang, tang tình
    Thuyền lan một lá xinh xinh
    Non non nước nước, mình mình ta ta!
     
    Heoconmtv and dongtrang like this.
  9. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Việc cải-cách đầu tiên được Đông-kinh nghĩa-thục tuyên-truyền ráo-riết nhằm vào sự cắt tóc ngắn, bỏ lối để búi tóc cổ-hủ khi xưa:
    Cắt Tóc
    Phen này cắt tóc đi tu,
    Tụng kinh Độc-Lập ở chùa Duy-Tân.
    Đêm ngày khấn vái chuyên cần,
    Cầu cho ích nước lợi dân mới là.
    Tu sao mở trí dân nhà,
    Tu sao độ được nước ta phú cường.
    Lòng thành thắp một tuần hương,
    Nam mô Phật tổ Hồng-Bàng chứng-minh.
    Tu hành một dạ đinh ninh,
    Nắng mưa dám quản công-trình một hai.
    Chắp tay lạy chín phương trời,
    Kêu trời phù hộ cho người nước tôi.

    o0o

    Ở ấp Thái-Hà nơi Hoàng-Cao-Khải hưu-dưỡng, thường có mở ra những cuộc vui chơi, như chọi gà, đánh cờ người, chọi chim hoạ-mi… Một buổi chọi chim đã làm đầu-đề cho bài vịnh sau đây, ám-chỉ gian-thần:

    Chim Họa-Mi
    Họa-mi, ai họa nên Mi,
    Mã thì cũng đẹp, hót thì cũng hay.
    Ai đưa Mi đến chốn này,
    Nước trong, gạo trứng Mi rầy cứ xơi.
    Lầu hồng gác tía thảnh thơi,
    Mi ăn, Mi nhảy, sướng đời nhà Mi.
    Khen cho Mi cũng gặp thì,
    Tổ xưa Mi có nhớ gì hay không?
    Ăn rồi rồi lại hót thong-dong
    Bởi thế nên mi mắc phải lồng
    Gạo trứng nước trong Mi thú nhỉ
    Vào luồn ra cúi có vinh không?

    o0o

    Nói đến bọn “quần thần” không thể bỏ qua ông Vi, ở chức tổng-đốc, được bổ về làm tuần-phủ tỉnh Thái-Bình.
    Muốn biết sự hống hách của Vi thế nào, chỉ nhìn qua những đơn từ cũng rõ: đơn nào cũng phải đề:
    Kính gởi Cụ lớn Hiệp-tá Đại-học-sĩ, Thái-tử thiếu-bảo, thường-thụ đệ tứ đẳng Bắc-đẩu bội-tinh, Tổng-đốc lãnh tuần-phủ Thái-bình.
    Vi tàn-ác nổi tiếng, nên dân coi như hung-thần: lão thẳng tay tàn-sát những người dân Thái-Bình đã nổi lên làm cách-mạng. Khi được thay Hoàng-Trọng-Phu làm tổng-đốc tỉnh Hà-Đông, Vi bắt các quan-lại và hương-chức Thái-Bình phải góp tiền tiễn chân.
    Dịp này có người làm thơ ghi “công-đức” Vi, dán ở trước dinh tuần-phủ:

    Vi-trùng dịch-tả đại-nhân,
    Ngài nên hiểu thấu tình dân Thái-Bình.
    Thái-Bình lắm nỗi bất bình,
    Vì đói khổ phải biểu-tình năm xưa.
    Trả lời, súng bắn như mưa,
    Chín mười mạng chết cũng chưa hả lòng.
    Lại còn đốt phá lung tung:
    Đông-nho, Thanh-giám chỉ trong mấy giờ
    Trâu bò gạch ngói chỏng chơ,
    Đống tro vô-đạo bây giờ còn nguyên.
    Lời căm-tức, tiếng rủa nguyền,
    Mấy năm nay vẫn còn truyền miệng nhau.
    Mùa qua lúa lại bị sâu,
    Lấy gì nộp thuế nuôi nhau lúc này.
    Quan ôn ngài tỉnh hay say,
    Mà không hiểu thấu tình này cảnh kia.
    Lại còn vênh váo mũ hia,
    Lại còn báo hại dân quê Thái-Bình.
    Lại còn bắt góp từng trinh [21]
    Còn muốn bữa tiệc linh đình tiễn đưa.
    Vi trùng dịch tả hiểu chưa?

    o0o

    [21] Trinh là tiền Khải-định.
     
    Heoconmtv thích bài này.
  10. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Sau khi Hít-le tự tử, Nhật-Bản trở thành mục-tiêu duy-nhất cho cuộc tấn-công ồ-ạt đêm ngày của phe Đồng-Minh.
    Đồ Phồn đã phỏng bài “Khóc Dương-Khuê” của Yên-Đổ, mà làm ra lời:


    Nhật Hoàng Khóc Hít-Le


    Hít-le, thôi bác toi rồi!
    Bom bay đạn nổ tơi bời lòng ta…
    Nhớ từ thuở xông-pha ngày trước,
    Trục tam-cường, tôi bác cùng nhau:
    Tưởng rằng đè bẹp năm châu,
    Ai hay lụn-bại, biết đâu cơ trời! …
    Vốn đã biết bỏ đời là phải,
    Vội-vàng chi bác mải ra ma!
    Chợt nghe tôi những xót-xa:
    Đương thân bách thắng, hóa ra thua dồn…
    Cờ chữ vạn không còn phấp-phới,
    Ai người đem thế-giới nhuộm đen?
    Máu tanh không có bạn hiền,
    Say-sưa, không phải không phiền không lo!
    Thơ phát-xít đắn-đo không viết,
    Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
    Trời Âu vừa tạnh gió mưa,
    Sóng dồn bể Thái, khổ chưa hỡi trời!
    Quân đổ-bộ khắp nơi tua-tủa,
    Thành Đông-Kinh khói lửa mịt-mùng.
    Nào Anh nào Mỹ tấn-công
    Nào Nga cũng chực vào vòng đánh hôi!
    Bác biết trọn cái đời của bác,
    Trục, mình tôi, gánh-vác sao đang
    Sóng dâng ngập cả ngai vàng
    Khóc tôi, khóc bác, hai hàng chứa chan…

    o0o

    Cá rô sống trong ao bùn. Cá rô ở đầm Sét trong địa phận làng Thịnh-Liệt tỉnh Hà-Đông, vốn có tiếng là ngon hơn rô các nơi.
    Một nhà nho tìm đến làng Thịnh-Liệt để thăm một người bạn vừa phải lao-đao vì thời-cục, đã để lại mấy câu nói lên cái tình bằng-hữu thật là ân-cần và tế-nhị:


    Qua chợ Mơ, đến làng Thịnh-Liệt
    Rằng cá rô đầm Sét là ngon.
    Bấy lâu cạn nước khô bùn
    Biết rằng phong vị có còn như xưa?


    o0o
    Chúng ta, ai cũng thuộc bài sau này của Tú Xương:

    Sông kia, giờ đã nên đồng,
    Nơi làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoai.
    Nửa đêm tiếng ếch bên tai,

    Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!

    Ta thuộc và ta hay ngâm bài đó vì nó có một nhạc-điệu đầy âm-hưởng u-hoài. Song, nếu ta để ý một chút, ắt phải đánh dấu hỏi: nửa đêm còn ai gọi đò, mà nghe tiếng gọi đò can chi đến phải giật mình? Ấy là bởi ta không biết rằng: sông Vị-Hoàng chảy ở gần nhà ông Tú, về thời ấy thỉnh-thoảng được dùng làm chỗ hò-hẹn của những nhà ái-quốc, hoặc từ Thanh Nghệ ra, như nhóm Phan-Bội-Châu, hoặc từ Hà-Nội Hưng-yên xuống như nhóm Nguyễn-Thiện-Thuật. Những kỳ tụ-tập thường vào lúc đêm khuya, mà tất-nhiên là có mặt ông Tú, vì ông được tiếng là người có nhiệt-tâm. Mỗi khi ông Tú đến họp, lại cũng tất-nhiên có tiếng gọi đò để ông sang. Về sau, quãng sông này bị lấp đi, cuộc hội-họp phải thay địa-điểm. Vả lại thời-cục mỗi ngày một khó khăn, rồi ra cũng không gặp nhau được nữa, những người hội-họp khi trước đều bị bắt-bớ hoặc phải trốn-tránh dần mòn. Vì thế, hễ nghe tiếng ếch đêm khuya, ông Tú lại giật mình nhớ lại tiếng gọi đò khi trước. Cho nên câu thơ hoài-cổ trên kia, nếu ngâm lên với một tâm-trạng ôn cố mới thấy thật là “vô hạn cảm-hoài”.

    o0o
     
    viettran_ru and Heoconmtv like this.
  11. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Một nhà nho, tài học uyên bác mà chỉ đỗ tú tài, sau vì sinh-kế eo hẹp bất đắc dĩ phải xin đi làm thừa phái là bậc thấp nhất trong ngạch “lại”. Làm mà miễn-cưỡng thành ra không mẫn cán, vả lại sẵn cái tâm-trạng bất đắc-chí nên thường phát ra lời thơ không được từ-tốn. Có bài thơ:

    Ông Thừa Tự Thuật
    Ông là Thừa-phái Hoàng-nông
    Ông ngồi ông nghĩ mình ông thật thừa
    Người trong thế giới đã vừa
    Cớ chi Trời lại lọc thừa ra ông
    Mắt thừa ông chẳng buồn trông
    Gặp gái má hồng ông liếc ông chơi
    Tai thừa ông chẳng nghe ai
    Thấy chuyện nực cười ông chỉ thoảng qua
    Miệng thừa ông chẳng nói ra
    Câu chuyện mặn mà ông nói đủ nghe
    Tay thừa ông chẳng buồn phê
    Sẵn dấu son nhòe ông vạch mực đen
    Chân thừa ông chẳng buồn chen
    Sẵn bước đường liền ông cứ ông đi
    Bụng thừa ông chẳng buồn suy
    Ông cứ gan lỳ, mà việc cũng xong!
    Ông còn thừa cái chi không?


    Đến đây nhà nho đâm cáu, đi vượt ra ngoài mức nhã độ, xin mạn phép bạn đọc chép ra cho đủ nguyên văn và cũng để hiểu cái tai-vạ đã xảy đến cho tác-giả:

    Ông còn thừa cái giấu trong đũng quần
    Cô nào lịch-sự thanh tân
    Hỏi rằng có thiếu, muốn mần ông cho!
    Ngán cho cái bọn nhà nho
    Mất tiền mất của đi lo Ông Thừa.

    Chính vì mấy câu bông đùa thiếu với thừa, nên ông thừa sau này bị ông thiếu [22] bãi chức. Cho mới biết hoạn-trường không phải chỗ được đem thừa bì với thiếu!

    [22] Ông thiếu trỏ thiếu-bảo Hoàng-Trọng-Phu.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/8/17
    viettran_ru and Heoconmtv like this.
  12. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Phan-bội-Châu lúc thiếu thời hay đi hát Phường Vải. Phường Vải dùng văn chương đối đáp như kiểu Trống Quân ngoài Bắc.
    Nam nữ chia làm hai phe: bên đàn bà con gái vừa kéo sợi vừa hát; bên đàn ông, phần nhiều là thanh niên, ngồi uống trà tươi, hút thuốc lào. Phan không hát nhưng thường gà cho hát, lúc gà bên nam, lúc gà bên nữ. Sau đây là những câu đáng ghi nhớ.
    Nữ: Biếu anh một mẻ ngô rang
    Đút mô cho mọc đốt nhang ăn thề?
    Người ra đối hỏi thật khó trả lời: Ngô rang thì làm sao mà mọc được? Mưu này có thể xem như mưu Câu-Tiễn lúc nộp lúa giống cho Phù-Sai toàn nộp bằng lúa đã luộc chín. Lúa chín còn dùng sao được làm giống? Phan đã trả lời hộ rất tài tình:
    Nam: Chỗ nào mà nắng không khô
    Mà mưa không ướt, đút vô mọc liền
    Nữ lại đố: Vua Nghiêu có chín người con
    Đan-Chu là một, hỏi còn những ai?
    Phan gà cho Nam trả lời: Em là phận gái nữ nhi,
    Đan-Chu cũng đủ, hỏi chi chín người!
    Ý nói với bên nữ: đàn bà chỉ nên biết một chồng là đủ rồi.
    Những câu hát ấy nếu nghe vào ban ngày thì chắc các cô phải bỏ chạy, nhưng đây là cuộc vui ban đêm và bóng đêm bao giờ cũng đồng lõa (nuit complice), nên che chở được nhiều tội lỗi, nhất là “tội tình”.
    Phường Vải thường dùng tên người và tên vật địa phương, tức Nghệ-An và Hà-Tĩnh, nên mỗi lần nhắc lại phải giới thiệu dài dòng lắm.
    Ở Nghệ-An, người huyện Yên-Thành (thời xưa gọi là Đông-thành) có tiếng học giỏi, nhưng hay gàn bướng. Một thanh niên Yên-Thành đi hát phường Vải ở một vùng khác, Hưng-Nguyện hay Nam-Đàn gì đó, bị một cô chất-vấn:

    Đất Đông-Thành đồn rằng chàng hay chữ,
    Vậy thiếp hỏi chàng: Thấy Mạnh-Tử con ai?
    Hỏi thế thì khó thật. Sách nho thường nói tới bà Mạnh Mẫu, chứ không hề đề cập đến ông chồng, vì ông này mất sớm và lúc sinh-tiền cũng không có gì đáng để ý. Thanh niên kia bí, đâm ra cáu trả lời:
    Em là phận gái thuyền quyên,
    Sao không chăm lo bếp núc, bàn chuyện thánh hiền mần chi?
    Trả lời tạm thế, cũng thấy là mình đuối lý, nhưng biết bên nữ có người gà, nên anh ta tiếp thêm một câu rồi bỏ đi:
    Thầy Mạnh là do cụ Mạnh sinh ra,
    Tổ mẹ đứa hát, tổ cha đứa bày.
     
    Heoconmtv and viettran_ru like this.
  13. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Thời xưa, các cụ những lúc cao hứng, hay lui tới “xóm chị em” thường được gọi văn-vẻ là “quán Sở lầu Tần”.
    Ả-đào là những người vì cảnh ngộ xui nên mà phải làm cái nghề buôn phấn bán son. Có cô đã từng theo đòi bút nghiên, nên những lúc cảm-thương thân-thế, thường viết ra những vần ai-oán:
    Chốn ca-lầu đèn dong một ngọn,
    Đêm năm canh hao-tổn tinh-thần.
    Ngủ ngày thức tối hư thân,
    Biết đâu quán Sở lầu Tần thế-gian!
    Thân như thể hoa tàn nhị rữa,
    Bỏ bên đường làm của chơi chung.
    Sang hèn có bạc thì xong,
    Tha hồ vợ vợ chồng chồng chén son.
    May gặp khách nha-môn quyền-quý,
    Chẳng may ra, gặp kẻ ngu-hèn.
    Tháng ngày ẻo-ọe chè, men,
    Bẻ hành bẻ tỏi chị em đến điều…
    Nhưng khi gặp khách tri âm, thì đến lúc chia tay có cô níu “anh” lại mà ngâm:
    Anh về, em chẳng cho về,
    Em níu vạt áo, em đề câu thơ…
    Thơ rằng:
    Ta chửa xa nhau đã nhớ nhau,
    Nhớ nhau vì nỗi phải xa nhau.
    Xa nhau chi để cho nhau nhớ,
    Mà có xa nhau mới nhớ nhau!


    o0o​

    Một cô đào khác cũng không kém tha-thiết. Cô đào từng quen thuộc với khách một đôi lần, sau bẵng đi một thời-gian khá lâu, khách lại tìm đến, nhưng lần này giai-nhân đã “lần hôm mai đổi khác hình dung”, nên khách không nhận được ra ngay.
    Cô nghẹn ngào ngâm:
    Bước ra một bước một dừng
    Biết ai không nhớ, thà đừng nhớ ai!
    Đắn-đo cân sắc cân tài
    Nỗi mình mình nhớ, mặc ai quên mình…


    o0o​

    Đôi khi có cô hoạt-bát lại hay pha màu chanh-chua trong sự chiều đãi.
    Tú-Xương một buổi kia xuống xóm chơi, sáng ra về tìm ô không thấy, tuy bực mình mà cũng không nỡ nói nặng, chỉ tức sự mấy câu:
    Hôm qua, anh đến chơi đây,
    Giầy, chân anh dận, ô, tay anh cầm. [23]
    Rạng ngày vừa trống canh năm,
    Anh dậy, em hãy còn nằm trơ-trơ.
    Hỏi ô, ô mất bao giờ,
    Hỏi em, em cứ ậm-ờ, không thưa.
    Nữa rồi rầy nắng mai mưa,
    Lấy gì đi sớm về trưa với tình?
    Em liền trả lời ngay vừa cho xuôi chuyện vừa không quên cong-cớn:
    Chiếc ô là của mấy mươi?
    Ngắn ngày xin chớ dài lời làm chi!
    Nắng thì nắng cũng có khi,
    Mưa thì mưa cũng có kỳ mà thôi.
    Ví dù anh có thương tôi,
    Thì xin anh cứ đội trời anh lên…
    Hay là anh quyết bắt-đền,
    Thì đây sẵn có cái đền… bằng ba!


    o0o
    Tú-Xương một đêm đi chơi phố với một bạn gái, bỗng gặp trời mưa, vội lấy vạt áo bông mình đương mặc, nâng lên che đầu cho bạn và ngâm:
    Này ai có thấu cho không?
    Đêm mưa một mảnh áo bông đội đầu…
    Rồi ra ai biết ai đâu,
    Áo bông ai ướt, khăn đầu ai khô!
    Chưa chi đã kể công, anh chàng xem chừng chỉ những muốn bắt đền!

    o0o​

    Tú Xương một buổi sang chơi tỉnh Thái, ngủ ở nhà bạn, tối đến ngồi trên gác nhìn sang láng giềng thấy một thiếu-phụ đương ngồi trang-điểm trước gương. Hỏi thăm bạn, mới hay đó là một quả-phụ đã ba đời chồng, ông Tú liền lên tiếng ngâm vọng sang nhà giai-nhân:
    Một đời ba bận chôn chồng
    Lại còn trang-điểm má hồng chôn ai?
    Giai-nhân vừa thẹn vừa giận, the-thé đáp lại một hồi, làm cho bên này nhà nho vừa nhấp rượu vừa mỉm cười, đợi cho cơn tam-bành giảm bớt nhiệt-độ, mới đằng hắng sửa lại giọng cho trong rồi chậm-rãi ngâm:
    Ước gì ta hóa ra dưa,
    Để cho ai rửa nước mưa chậu đồng
    Ước gì ta hóa ra hồng
    Để cho ai bế ai bồng trên tay…
    Chẳng rõ sau đó khách đa tình có được thỏa ước không, vì có nhiều cuộc gặp gỡ bắt đầu bằng xung-đột mà rồi sau lại thành khăng-khít. Hay là đêm đó rượu say, thi-nhân ôm gối ngủ khoèo, lạc trong vùng huyễn-mộng, để rồi khi tỉnh ra cái dư vị của dưa với hồng không ngọt nữa mà trở thành chát chát chua chua như âm-hưởng đêm trước của giai-nhân…

    [23] Có bản chép: giầy dôn, ô tây, là lầm vì những thứ ấy mới-mẻ quá, không phải đồ dùng của nhà nho hồi đầu thế-kỷ. Đây tác-giả muốn nhấn mạnh đến sự mình nhớ rõ chân dận giầy, tay cầm ô.
     
    viettran_ru and Heoconmtv like this.
  14. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    IV
    Tập Kiều, vịnh Kiều


    Truyện Kiều, ai cũng phải phục là một áng văn bất-hủ. Có nhiều áng văn cũng vào hàng bất-hủ, mà không được phổ-biến sâu rộng trong quần-chúng như truyện Kiều, là bởi vì đâu? Vì giá-trị của truyện Kiều không những ở trong câu văn óng-chuốt, ý-tứ hàm-súc, lại còn ở cái nhạc-điệu dịu-dàng êm-ái khiến dễ nhớ, dễ ngâm, dễ truyền-tụng; và nhất là vì tâm-trạng con người được vẽ ra trong mọi cảnh-ngộ hỉ nộ ai lạc: ai gặp trường-hợp nào cũng có thể tìm được một câu Kiều vừa ý mà ngâm-ngợi, giãi-tỏ nỗi lòng.
    Để tả những tâm-trạng phức-tạp mà một hai câu liền không đủ ngụ được hết ý, người ta đặt ra lối “lẩy Kiều” hoặc “tập Kiều”, nghĩa là lấy một câu sáu ở đoạn này ghép vào với câu tám cùng vần ở đoạn kia. Dùng lối này, có người đã mô tả được những sự-vật mà Nguyễn Du không từng đề-cập đến, cả những sự-vật chưa có trong thời ông.
    Chẳng hạn như:

    Cái Ống Máng
    Trên vì nước, dưới vì nhà,
    Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng!
    Nhìn càng lã-chã giọt hồng,
    Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra…


    Đèn Cầy

    Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
    Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
    Một mình âm-ỉ canh chầy
    Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi.


    Diều Sáo

    Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
    Đinh-ninh hai miệng một lời song-song.


    Xe Hơi

    Thênh thênh đường-cái thanh-vân,
    Một xe trong cõi hồng-trần như bay!
    Ào-ào đổ lộc rung cây
    Ngoài tai: để mặc gió bay mái ngoài.


    Người Thông Manh

    Tưởng bây giờ là bao giờ
    Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm-bao.
    Trông theo nào thấy đâu nào
    Mắt xanh chẳng để ai vào có không?


    Chó Mực

    Đêm ngày giữ mực giấu quanh
    Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời!


    Mỹ-Nhân Soi Gương

    Một mình lặng ngắm bóng nga,
    Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng!
    Ngập-ngừng thẹn lục e hồng
    Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.


    Một Hàng-ăn có Ca-nhạc

    Thời-trân thức thức sẵn bày
    Nỉ non, thánh thót, dễ say lòng người.
    Lời ngay: đồng mặt trong ngoài
    Tiệc vui suốt tháng, trận cười thâu đêm.


    Một Khách-sạn có Nơi Ăn Chốn Ngủ

    Ở, ăn, thì nết cũng hay
    Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
    Miếng ngon kê đến tận nơi
    Trăm nghìn đổ một trận cười như không.

    Phi Công Ngồi Máy Bay Khu Trục (chữ e xin hiểu theo ngoại-ngữ air)
    Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
    Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
    E thay những dạ phi thường
    Nữa khi dông tố phũ phàng, thiệt riêng!


    Vịnh Nhà Luật Sư

    Gần miền nghe có một thầy
    Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
    Làm chi tội báo oan gia
    Mà trong lẽ phải có ta có người.


    Vịnh Cầu Đoạn-trường

    Đã nên quốc sắc thiên hương
    Làng quê đi một bước đường một đau.
    Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
    Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!


    Xe Đám Ma

    Sắm-sanh nếp tử xe châu,
    Song-song ngựa trước ngựa sau một đoàn.
    Dựng cờ nổi trống lên đàng,
    Họa là người dưới suối vàng biết cho!

    Tiên-Điền có bao giờ ngờ được rằng hai trăm năm về sau, một vài câu châu ngọc của mình, có kẻ hỗn hào đã nhặt ra, đổi vài chữ rồi chắp lại để mô tả:

    Hàng Vệ Sinh
    Cửa hàng buôn-bán cho may
    Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi.
    Cái Trung-tiện
    Hở ra thì cũng thẹn thùng
    Để lòng lại phụ tấm lòng biết sao.
    Trông theo nào thấy đâu nào
    Hương thừa nhường hãy ra vào đâu đây!

    o0o
    Một ông bạn của nàng Phù-dung cứ cả tuần mới vào cầu một lần, mà mỗi lần trên thì thông, dưới lại bí, ì ạch mãi chẳng được, cũng nhăn-nhó lẩy Kiều:
    Buồn trông ngọn nước mới sa,
    Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần!

    o0o

    Ấy là kể những câu đề vịnh có tính cách chung. Còn có những trường-hợp riêng-tư, tình tiết éo le, người ta cũng lẩy được Kiều.
    Một ông xuất thân làm nghề hát chèo, sau trở nên giàu có, đứng ra mở một công ty nấu rượu lớn, được mừng như sau:

    Hương càng đượm, lửa càng nồng
    Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
    Có người đã đùa một ông tên là Cầm, đôi mắt kèm nhèm, vừa nghiện thuốc phiện lại vừa có tính đài các:
    Rằng nghe nổi tiếng Cầm đài,
    Trà chuyên nước nhất khói đôi hương dồn.
    Con mắt đã mòn…
    Và người ta cũng đã giễu một ông trước làm sở Bưu-điện, khi về hưu lại làm mật vụ cho phòng Nhì Pháp:
    Bước ra chốn cũ lầu thơ
    Cắt người tìm tới đưa tờ nhắn nhe.
    Làm thân trâu ngựa đền nghì
    Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!
    Ở vào thời chữ Pháp đã ít dùng và ít người thưởng thức, một nhà văn ngồi dịch một bài thơ nổi tiếng của Pháp, nhận được thư bạn yêu cầu cho xem tác phẩm, bèn gửi ngay bài dịch kèm hai câu:
    Dạy đem Pháp bảo sang hầu
    Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người!
    Khi xưa, một ông tên Lục có bộ râu quai nón, tuy đã cạo nhẵn mà hàm vẫn xanh-rờn, kết bạn với một cô đào tài sắc tên Hồng, nhưng lại có ấn tướng “hãm tài”, một bạn đã đùa:
    Thưa Hồng, rậm Lục đã chừng
    Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
    Một ông khác cho người lối xóm mượn tiền, mãi không thấy trả, sai đi hối thúc mới hay con nợ đã bỏ đi từ hồi nào không biết, lẩm-bẩm phàn nàn:
    Thúc ông nhà ở gần quanh
    Bạc đem mặt bạc lánh mình cho xa.


    o0o
    [...]
     
    viettran_ru and Heoconmtv like this.
  15. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    Hồi Đông-Kinh nghĩa-thục, có truyền tụng một bài tập Kiều nói lên nỗi lòng của kẻ vong quốc:

    Trời Tây Bảng Lảng
    Trời Tây bảng lảng bóng vàng
    Bây giờ kim-mã ngọc đường với ai?
    Cúi đầu nép xuống hiên mai,
    Còn toan mở mặt với đời cho qua!
    Trông người lại ngẫm đến ta
    Làm ra con ở chủ nhà đôi nơi.
    Tẻ vui âu cũng kiếp người
    Công đeo-đẳng chẳng thiệt thòi lắm sao!
    Thân lươn bao quản lấm đầu
    Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi…
    Ra vào theo lũ thanh-y
    Giãi-dầu tóc rối da chì quản bao.
    Ăn làm sao nói làm sao
    Quá ra khi đến thế nào mới hay?

    o0o
    Cuộc tranh-chấp “Vợ cả vợ hai, hai vợ cùng là vợ cả” vẫn hay gây sóng gió trong nhiều gia-đình. Hai vợ, vợ nào cũng có điều bất mãn, khiến ông chồng lâm vào thế “kẹt”, loanh-quanh cua lột bò sàng. Thiệt-thòi nhất thường là cô vợ nhỏ: Tề Sở ép hai bên. Cho nên cô này đã mượn văn Kiều mà giãi niềm tâm-sự như sau:
    Chiên hòa sắp sẵn hai bài
    Người ta, ai mất tiền hoài đến đây.
    Một ngày, nặng gánh một ngày
    Chàng ôi, biết nỗi nước này cho chưa?
    Trông chừng khỏi ngất song thưa
    Ruột tằm đôi đoạn như tơ rối bời.
    Đoạn trường lại chọn mặt người
    Rằng không thì cũng vắng lời rằng không.
    Thôi thì thôi cũng chiều lòng
    Ở không yên ổn ngồi không vững vàng
    Khi ăn khi nói nhỡ nhàng
    Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh.
    Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh
    Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
    Phận bồ từ vẹn chữ tòng
    Lạ gì một cốt một đồng xưa nay.
    Mặt nào trông thấy nhau đây
    Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần.
    Mặc người mưa Sở mây Tần
    Kê lưng hùm sói gởi thân tôi đòi.
    Nghĩ đời mà ngán cho đời!

    Mấy câu tập Kiều trên đây, người ngoại-cuộc có cảm-tưởng như là chắp-chểnh không có mạch-lạc, nhưng riêng cô vợ nhỏ thì lại ngâm đi ngâm lại lấy làm đắc-ý, vì nó nói lên được những chi-tiết mà chỉ riêng mình biết. Thì cô nằm trong chăn mà!

    o0o

    Sau khi được tha, Phan-Bội-Châu bị đưa về Huế, ở đây tuy ông được sống tự-do, nhưng nhà cầm quyền xét-nét hành-vi của ông rất gắt-gao, chỉ sợ ông liên-lạc với những người vận-động ân-xá, để thừa cơ dấy động phong-trào cách-mạng. Vả lại dư-luận trong nước tỏ ra thắc-mắc tự hỏi không biết ông có giữ trọn tiết-khí hay không.
    Ông không biết làm thế nào hơn là gửi cho quốc-dân mấy câu tâm-sự mà cô Kiều buổi đầu ngỏ với chàng Kim:

    Ví chăng xét tấm tình si
    Thiệt ta mà có ích gì đến ai!
    Vội chi liễu ép hoa nài
    Còn thân ắt hẳn đền bồi có khi.
    Sinh rằng: từ thuở tương tri
    Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non.
    Trăm năm tính cuộc vuông tròn
    Phải dò cho đến ngọn nguồn ngách song.
    Muôn đội ơn lòng…


    o0o

    Đến trào nhà Ngô, dân di-cư ở Bắc vào Nam tuy lao đao về sinh-kế, mà vẫn còn tìm được thời-giờ lẩy Kiều:

    Ngô Trào
    Trải qua một cuộc bể dâu,
    Trông vời cố-quận biết đâu là nhà?
    Khéo oan gia, của phá gia
    Này là em ruột, này là em dâu!
    Cửa nhà dù tính về sau
    Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng-Sào!


    o0o
    Về lối “lẩy Kiều”, ông bảng Nông-Sơn (Mỗ) là một trong những tay cự-phách. Ông vốn là người phóng-khoáng, vì phóng-khoáng nên hay thiếu tiền, có lần đi vay nợ tây-đen. Lệ vay phải có người ký bảo-đảm, mình không trả được thì chủ nợ cứ người bảo-đảm mà đòi. Đến hạn, ông bảng tất-nhiên không trả được, mà rủi thay, người bảo-đảm cũng không xoay ra tiền, cho nên việc phải đến đã đến: tây-đen đệ đơn kiện, xin câu-lưu ngay ông bảo-đảm là người có tóc. Tòa cứ theo luật mà lên án: ông bảo-đảm ngồi tù. Ông bảng ân-hận lắm, nhưng biết sao bây giờ? Chỉ còn có cách gửi vào đề-lao mấy câu Kiều lẩy để an ủi:

    Tù Nợ

    Tin tôi nên quá nghe lời,
    Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
    Phép công chiếu án luận vào,
    Ăn làm sao nói làm sao bây-giờ!
    Chung-quanh lặng ngắt như tờ,
    Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây…
    Trông gương trong bấy-nhiêu ngày,
    Khéo là mặt dạn mày dày khó coi…
    Trăm điều ngang-ngửa vì tôi,
    Còn thân, ắt hẳn đền-bồi có khi!

    Mấy câu này, ông bảo-đảm ngâm-nga, chắc cũng lấy làm thú, nên đành ngồi trong bóng rợp ít lâu mà không nỡ trách bạn một lời: cho hay cái ma-lực của văn-chương!

    o0o

    Ông bảng Mỗ còn lẩy nhiều vần kỳ-thú, tiếc rằng chúng tôi chỉ chép được vài câu. Có lần ông đi dự tiệc do một người bạn cũ mời, bạn này mới đến trọng-nhậm chức tổng-đốc tỉnh Thanh nên tổ-chức một bữa rượu mừng.
    Bạn vốn chân cử-nhân, lúc thiếu-thời có gia-nhập một đảng cách-mạng. Đi phiêu-lưu bên Tàu một dạo, ông từng dịch ra quốc-âm bài “Hồ-Trường” lâm-li khẳng-khái, do Nguyên-quân một khách giang-hồ lạc-phách làm ra – bài này mỗi khi có tửu-hứng, nghệ-sĩ Trương-Đình-Thi lại lấy dao bào nhà ả-đào làm gươm, vừa múa vừa hét, bi-tráng như kẻ sĩ nước Yên nước Triệu khi xưa:


    Hồ Trường
    Trượng phu đã không hay xé gan bẻ cột [24] phù cương-thường,
    Sao lại tiêu-dao bốn bể, luân-lạc tha hương? [25]

    Trời Nam nghìn dặm thẳm; Mây nước một màu sương.
    Học không thành, công chẳng lập,
    Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc; trăm năm thân-thế bóng tà dương.
    Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi:
    Trời đất mang mang, ai là tri-kỷ?
    Lại đây cùng ta cạn một hồ-trường.
    Hồ-Trường! Hồ-Trường! Ta biết biết rót về đâu?
    Rót về Đông-Phương, nước bể Đông chảy xiết, sinh cuồng-lạn.
    Rót về Tây-Phương, mưa Tây-Sơn từng trận chứa-chan;
    Rót về Bắc-Phương, ngọn bắc phong vi-vút, đá chạy cát dương;
    Rót về Nam-Phương, trời Nam mù-mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
    Nào ai tỉnh, nào ai say?
    Chí ta ta biết lòng ta hay.
    Nam nhi sự-nghiệp ở hồ-thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây!

    Sau ít năm phiêu-bạt, ông về đầu-thú, phản thầy là cụ Sào-Nam, tố-giác bạn trong số đó có Huỳnh-Nghi (sau đổi là Hoàng-Hưng, đổi nữa là Đặng-Văn-Phương tức Đặng-Bình-Thanh, người Cần-Thơ từng học tại Đồng-văn thư-viện Đông-Kinh, bị bắt và đày Côn Đảo mang số tù 193) do đó ông cử-nhân cách-mạng được bổ làm quan, chẳng bao lâu đã lên đến chức tổng-đốc. Tiệc rượu họp toàn bạn cũ, thơ phú tất-nhiên là nhiều, song lúc ra về, ai cũng chỉ còn nhớ có mấy câu Kiều mà ông Bảng đã lẩy:

    Kể từ lạc bước bước ra
    Một là đắc hiếu, hai là đắc trung
    Giang-hồ quen thú vẫy-vùng
    Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
    Câu cuối cùng đã làm cho mặt chủ-nhân đương hồng-hào, bỗng biến ra xám ngắt!

    o0o

    Đối-chọi sao cho lại được lối “lẩy Kiều” sắc-bén của ông bảng! Ấy thế mà có lần một cô đào đã “lẩy” được cho ông phải “ứ hơi”: ông bảng bữa nọ qua chơi tỉnh Nam, gặp cô đào nọ là trang thanh-sắc. Nhân lúc cao-hứng ông ngỏ ý sẽ giúp cô một nghìn đồng làm vốn dọn nhà riêng, cho cô khỏi phải than thân là đương ở vào lúc chân nâng.
    Sau khi ông trở về Hà-Thành, cô đào quả-nhiên nhận được bưu-phiếu, nhưng nhìn vào số tiền thì chỉ thấy ghi có 100$! Bực mình, cô gửi trả lại bưu-phiếu, kèm hai câu:

    Nghìn tầm, nhờ bóng tùng-quân,
    Tiền trăm, lại cứ nguyên-ngân phát hoàn!

    o0o

    Tổng-đốc Hoàng-trọng-Phu một buổi đi nghe hát với các quan, trong đó có ông bảng.
    Một cô đào trẻ đẹp đến mời rượu Hoàng, Hoàng ghé môi hôn vào má cô. Một quan bắt cô phải hôn lại Hoàng. Cô đào thẹn-thùng không biết phải làm sao, thì ông bảng nháy cô lại bảo nhỏ. Cô quay lại Hoàng hãm liền hai câu:

    Chút chi gắn bó một hai
    Nay Hoàng hôn đã, lại mai hôn Hoàng.
    Hoàng vỗ tay cười quay nhìn ông bảng nói: “Được rồi! Rồi đâu có đó!”

    o0o

    Một buổi, ông bảng xuống xóm, gặp một cô đào mới đi lấy chồng được mấy tháng nay lại trở về nhà hát, ông hỏi:

    Bấy lâu khăng khít dải đồng
    Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng tại ai?
    Cô đào tần-ngần một lúc rồi nghẹn-ngào ngâm hai câu:
    Cũng là lỡ một lầm hai
    Cơ duyên âu cũng có trời ở trong!

    o0o

    Trong một cuộc đỏ đen, một được một thua, bên thua thiếu lại tiền, bên được đòi mãi không trả, đến hơn một năm lằng-nhằng như thế, bên được gửi lại bên thua mấy câu:

    Nợ Cờ Bạc
    Rằng ngày hôm nọ giao binh
    Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây.
    Tháng tròn như cuội cung mây
    Tường đông nghé mắt ngày ngày hằng trông.
    Trách lòng hờ hững với lòng
    Đổi thay nhạn én đã hòng đầy niên.
    Nào hay chưa hết trần duyên!
    Lạ thay, mấy câu này công hiệu hơn bao nhiêu thư hỏi, vì gửi đi là có tiền về ngay, lại còn kèm theo mấy câu:
    Trước sau cho vẹn một lời
    Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
    Rằng trong ngọc đá vàng thau
    Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?

    o0o

    Một ông túng tiền – tình-trạng này xảy ra rất thường, nhất là cho những người đàng-hoàng xưa nay - đến nhờ bạn chạy cho một số, hẹn hai tháng sẽ trả. Chờ đến gần một năm, cũng chẳng thấy âm-hao, bạn bèn lẩn-mẩn tập mấy câu Kiều:

    Nhớ lời hẹn những bao giờ
    Đào đà phai thắm, sen vừa nẩy xanh.
    Xa-xôi ai có thấu tình
    Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
    Để tội cho hoa phải trả nợ một mình, kể cũng oan-ức thật. Nhưng ư-ử ngâm mấy câu trên, ông bạn thấy bể oan nhường cũng vơi-vơi!

    o0o

    [24] Xé gan bẻ cột: Chu-Vân làm quan thời Hán-Thành-Đế, một hôm tâu vua: “Nay các đại-thần, trên không phò chúa, dưới không giúp dân. Nếu được ban bảo kiếm, thần nguyện sẽ chém một kẻ nịnh-thần để răn chúng”. Vua hỏi chém ai? Vân tâu: “An-Xương-Hầu Trương-Vũ”. Vua nổi giận phán:”Kẻ tiểu-thần dám phạm thượng, tội chết không thể tha được”. Ngự-sử cho bắt Vân. Vân trèo lên xà ngang cung-điện. Xà gãy. Vân kêu: “Thần chỉ mong được xé gan như Tỉ-Can khi xưa là mãn-nguyện, nhưng không biết Thánh-Triều rồi sẽ ra sao?”
    Tả Tướng-quân Tân-Khánh-Kị, bỏ mão, rập đầu kêu xin cho Vân. Vua tha. Sau các quan đề-nghị thay cây xà gãy. Vua phán đừng thay, chỉ cho sửa lại, để ghi nhớ hành-động quyết-liệt của người trung-thần.
    Nguyên tác: chiết hạm (gãy xà) dịch là bẻ cột, e không sát với điển. Các bản chép “bẻ cật” không hiểu theo điển nào.

    [25] Có bản chép: Hà tất tiêu dao… Nguyên Hán văn: Tiêu-dao tứ hải hồ vi thử hương?
     
    viettran_ru and Heoconmtv like this.
  16. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    Một ông quan nguyên-quán ở phủ Kiến-Xương, sau nhiều năm lịch-ly các nơi lại được bổ về làm tri phủ ở phủ nhà. Nhân gặp lúc viên án-sát trong tỉnh đột-nhiên bị bệnh phải nghỉ lâu, tòa sứ cử ông phủ Kiến này lên tỉnh quyền chức án-sát.
    Ông phủ Kiến một mặt lên phó nhậm, một mặt nhờ người chạy-chọt cho được bổ án-sát thực-thụ. Chắc mẩm sẽ đạt tới mục-đích, nên khi rời phủ lên tỉnh, ông mới ra lệnh cho trống dong cờ mở, rồi võng anh đi trước võng nàng theo sau, rất là oai vệ.
    Bất đồ đám rước nghênh-ngang qua tòa sứ, viên công-sứ hỏi ra sự-thể, thấy là quá lố, bụng nảy ngay ý muốn cho viên quan rởm đời kia một bài học: xin với phủ thống-sứ cấp-tốc bổ một viên án-sát khác thay vào ông án cũ để ông phủ này hết ngồi.
    Thành ra ông phủ Kiến quyền chức án-sát vừa được một tuần lại phải khăn gói trở về phủ Kiến, lần này thì tất-nhiên là… không kèn không trống.
    Bấy giờ trong dân-chúng có thì-thào mấy câu tập Kiều:

    Phủ Kiến
    Dựng cờ nổi trống lên đường
    Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.
    Trông xem đủ mặt một nhà
    Quan trên trông xuống, người ta trông vào.
    Chém cha cái số hoa đào
    Lòng người dẫu quyết, trời nào đã cho.
    Khéo mà dơ-ruốc bày trò
    KIẾN trong miệng chén, có bò đi đâu!


    o0o
    Còn lối lẩy Kiều lắt-léo, là lấy hai câu tám cắt đi mỗi câu một chữ sau cùng, làm thành câu-đối. Thí-dụ:
    Dán Cửa Vườn
    Dường gần rừng tía, dường xa bụi…
    Khi xem hoa nở, khi chờ trăng…


    o0o
    Xóm hồng-lâu, buổi tối nọ, xảy ra một tấn bi-hài-kịch: hai cha con chạm trán nhau. Vì chạm trán nhau mới biết rằng hai thế-hệ đã cùng chung một… quan điểm về thanh-sắc. Hai thế-hệ, không biết làm thế nào để thoát-hiểm, và khỏi tổn-thương thể-diện, liền cùng quay lại quy lỗi cả cho giai-nhân.
    Con mắng: Dám đem trần-cấu dự vào bố…
    Bố cũng mắng: Mượn màu son-phấn đánh lừa con…

    Câu đối trên đây, có lẽ không phải đương-sự đứng trước cảnh-ngộ mà làm thành: chúng tôi ngờ là ai đó đã ngẫu-nhiên tìm ra được hai câu đối nhau, rồi bày đặt thành chuyện để cho có sự-kiện, có lý-lẽ chứng-minh câu đối. Vì chúng tôi thiết tưởng ai mà thật sự gặp phải trường-hợp khó xử như kia, thì ba mươi sáu chước, chước nào là hơn! Còn bụng dạ nào mà nghĩ làm câu đối cho chỉnh nữa!
    Nhưng theo ông Hoàng-quảng-Đức, sự-kiện này đã có xảy ra thực: câu đối do khách bàng-quan làm, không phải do hai thế-hệ tự nghĩ lấy mà đối-đáp.
    Hai câu đối có chép thêm như sau:

    Chẳng hổ mình sao, dám đem trần-cấu dự vào bố.
    Tuồng gì hoa thải, mượn màu son-phấn đánh lừa con.
    Thật là nhất-khí, vì mỗi vế lấy ngay ở hai câu 6-8 liền nhau:
    Nghĩ mình chẳng hổ mình sao
    Dám đem trần-cấu dự vào bố-kinh.
    Tuồng gì hoa thải hương thừa
    Mượn màu son-phấn đánh lừa con đen.

    Song lẩy thêm “chẳng hổ mình sao”“tuồng gì hoa thải” thì được câu liền thực, nhưng giá-trị câu đối sợ rằng kém đi vì “mình sao” đối với “hoa thải” không chỉnh. Tuy vậy chúng tôi cũng xin lục ra cho rộng phẩm-bình.
    Dù sao, điều cốt-yếu trong chuyện này là nêu ra cái tài-tình của người đã lẩy trong Kiều hai câu cắt đi cho đối nhau một cách ngộ-nghĩnh:

    Dám đem trần-cấu dự vào bố…
    Mượn màu son-phấn đánh lừa con…
    Còn thì sự-kiện đưa ra thực có hay không, văn do đương-sự làm hay người bàng-quan cấu-tạo, chỉ thuộc vào chi-tiết.

    o0o

    Dưới đây lại xin lục thêm một câu nữa cùng loại, do ông bạn Minh-Đạo sưu-tầm được.
    Số là một ông có hai bà, bà lớn phải cái cả ghen, âu cũng sự thường. Nhưng ở đây có sự khác thường: ông chồng không chịu nổi sự ghen-tuông, đã tìm ra một lối thoát hiểm kỳ lạ, là xin đầu-quân làm lính thợ sang Pháp để chém giết quân Đức, cho hả giận! Thành ra tuy là được bà lớn hết ghen ngay, vì thiếu… đối-tượng, nhưng lại tội cho bà bé thiệt-thòi một cách tuyệt-vọng, cũng vì đối-tượng… thiếu.
    Ít lâu sau, bà lớn nhuốm bệnh từ-trần. Bà bé một mình lo-liệu chu-tất. Một nhà nho thấy sự đối-xử của bà bé rất mực đường-hoàng, liền gửi tặng đôi câu đối:

    Cùng một tiếng đồng, chẳng nề u-hiển mới là chị…
    Cách năm mây bạc, tấm lòng nhi-nữ cũng siêu anh…

    Nếu được đọc câu này, bà chị ở nơi u-minh ắt cũng nghĩ đến chút tình “cùng trong một tiếng tơ đồng” mà quên cái hờn trong cảnh ấy, và lại cảm-thông tấm lòng đãi-ngộ của bà em; còn ở nơi “cách năm mây bạc xa xa”, ông chồng tất phải siêu lòng, tính cho gấp cuộc trùng-lai để an-ủi con người từng chịu thiệt trong hiu-quạnh.
    Cùng một tiếng đồng đối cách năm mây bạc lại xuất sáo nữa: một với năm (là năm tháng), đồng với bạc (là trắng).

    o0o

    Về cách đối này, có hai câu hợp tình, hợp cảnh, đối thật chọi, là của một nhà nho:

    Dán Cửa Phòng Vợ Bé
    Khi vào dùng-dắng, khi ra vội…
    Nỗi đêm khép-mở, nỗi ngày riêng…

    Thần-tình, là để nguyên câu trên “Khi vào dùng-dắng, khi ra vội-vàng” thì chữ vàng thừa, mà để nguyên câu dưới “Nỗi đêm khép-mở, nỗi ngày riêng-chung”, chữ chung lại không đúng cảnh và làm mất hết ý-nghĩa “yêu vụng dấu thầm”. Dùng hai câu Kiều, cắt đi thành câu của mình, ám-hợp với tình-tiết và tâm-trạng riêng biệt, ít khi thành-công được như thế.

    o0o

    Lại có một lối tập Kiều công-phu nữa: câu sáu thì lấy ở câu tám cắt đi hai chữ cuối; câu tám, dùng câu sáu nối thêm hai chữ ở câu tám theo liền sau. Lối này chỉ thấy ông Vữkhắc-Tiệp tập được bốn câu, mà có lẽ khắp trong truyện Kiều cũng duy có bốn câu có thể ghép theo thế này, và thích-hợp với một đầu đề như sau:

    Đề Ảnh Cô Đầm
    Hoa-quan phấp-phới, hà-y…
    Nổi danh tài-sắc một thì… xôn-xao!
    Mà cho thiên-hạ trông vào…
    Bấy lâu nghe tiếng má đào… mắt xanh!

    Phải là đầm thì mới có hoa quan phấp-phới và má đào mắt xanh, nhưng không biết đã có cô đầm nào lấy “mắt xanh” mà đền lại cái công tập Kiều của ông Vũ chưa?

    Hay là ông cũng đã phải ngâm với Tản-Đà:

    Đời không tri-kỷ ai xanh mắt?
    Khách chẳng công-danh cũng bạc đầu!

    o0o

    Nhà thơ Vũ Hoàng-Chương mới nghĩ ra lối lẩy mà ông gọi là Truyền Kiều, làm những bài 4 câu 7 chữ, mỗi câu hoặc cắt ở hai câu Kiều liền nhau, hoặc bắt một chữ ở câu 8 vắt xuống câu 6, cũng mô tả được nhiều trạng thái:

    Đào nguyên lạc lối đâu mà đến
    đây… kẻ đi muôn dặm một mình.
    Khi cúi đầu… khi vò chín khúc
    Chân mây mặt đất một màu xanh.
    Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy
    khi… tử sinh liêu giữa trận tiền.
    Hãy dốn ngồi… xem cho rõ mặt
    Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên.
    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
    ngồi… đốt lò hương giở phím đồng.
    Rỉ tiếng tơ… trầm bay lạt khói
    Gió hiu hiu thổi một vài bông.
    Mảnh gương còn đó phím đàn còn
    đây… ruột tằm ngày một héo don.
    Cát đã đầy… gương lờ nước thủy
    thấy trăng mà thẹn những lời non.

    o0o
    Những chữ dùng trong truyện Kiều đôi khi còn được khoác cho một nghĩa riêng biệt để phù-hợp với một cảnh ngộ khác thường.
    Một anh học-trò quanh năm ở tỉnh, nhân ngày xuân cao-hứng về vùng quê chơi.
    Đi qua một bãi cỏ, thấy mấy cô thôn-nữ chăn bò đương cười đùa vui-vẻ, anh ta liền sấn đến định kiếm chuyện làm quen.
    Một cô trong bọn lên tiếng ngay: Trông chừng thấy một văn-nhân…
    Rồi cô bỏ lửng. Anh học-trò hí-hửng, vuốt vạt áo the đứng ngóng nghe câu tiếp theo. Chợt một cô khác cất giọng: … Mày râu nhẵn-nhụi áo quần bảnh-bao.
    Những tưởng mình được là Kim-Trọng, đã tấp-tểnh; không ngờ lại bị coi là Mã-giám-sinh, anh học-trò vừa thẹn vừa tức. Nhưng thấy các cô ngâm Kiều, mà truyện Kiều lại là món sở-trường của mình xưa nay, anh ta chắc mẩm sẽ áp-đảo được các cô, liền lên mặt hợm-hĩnh hỏi dấm-dẳn:
    - Chắc các cô thuộc truyện Kiều nhiều lắm đấy nhỉ!
    Một cô nhanh-nhảu nói:
    - Chúng em quê-mùa ngu-dốt đâu dám khoe tài. Anh chắc giỏi Kiều lắm nên mới hỏi thế chứ gì! Vậy nhờ anh đọc một câu Kiều bảo con bò đang đi chỗ kia hãy đứng lại xem nào!
    Anh học-trò chột dạ, tự nhủ:
    - Chết rồi, mình có dùng Kiều để điều-khiển bò bao giờ?
    Nhưng rồi cũng đánh liều đọc:

    Tẩn-ngẩn đứng suốt giờ lâu,
    Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.

    Anh ta cố ý đọc to chữ đứng để xem bò có đứng lại không. Song bò vẫn lững-thững bước một. Các cô cười ầm. Tưởng con bò chưa nghe rõ, anh lại đọc một câu khác:
    Trong vòng tên đạn bời bời,
    Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.

    Anh thét to chữ đứng. Con bò vẫn tiếp tục đi. Một cô liền nói:
    - Thôi, anh chả bảo được nó đâu, để em bảo dùm cho.
    Đoạn, cô ngâm:

    Họ Chung có kẻ lại già,
    Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.

    Cô đọc to và kéo dài tiếng họ, quả nhiên con bò đứng lại ngay. Kế đó một cô thách:
    - Bây giờ lại đố anh bảo được con bò đi rẽ sang bên phải đấy!
    Anh chàng muốn gỡ thẹn, liền đọc luôn:

    Nàng rằng phận gái chữ tòng,
    Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

    Anh nhấn mạnh cả hai tiếng đi, con bò đi thật, nhưng lại đủng-đỉnh đi thẳng chứ không rẽ sang bên phải. Anh chạy theo đọc lại lần nữa, nó cũng chẳng nghe cho. Chợt nhớ ra một câu khác, tin chắc lần này thế nào cũng có kết-quả, anh dõng-dạc ngâm: Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha
    Anh kéo dài tiếng dẽ. Con bò vẫn chậm-rãi đi thẳng đường. Các cô ôm bụng cười. Anh chàng tiu-nghỉu, mặt chín rừ. Bấy giờ một cô trong bọn mới đọc:

    Một vùng cỏ mọc xanh rì,
    Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.

    Cô nhấn mạnh tiếng vắt, quả nhiên con bò ngoan-ngoãn rẽ ngay sang phải. [26]

    o0o

    Xưa, có một cô thiếu-nữ ăn nói bặt-thiệp, mở quán nước bên đường để kén chồng. Các cậu khóa anh đồ nghe tin kéo đến rất đông, ai cũng muốn khoe tài để mong được người đẹp chú ý; nhưng đã bao ngày vẫn chưa có ai địch lại được mồm mép của giai-nhân.
    Nghề đời vỏ quýt dày tất có ngày gặp móng tay nhọn.
    Một hôm, một nho-sinh vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi lần, lại giở cái giọng “đàn chị” ra để trêu chọc, nhưng anh chàng đối-đáp không kém phần cứng-cỏi. Cuối cùng, cô bèn đọc một câu:

    Khen cho con… mắt tinh đời!
    Anh-hùng đoán giữa trần ai mới già.

    Cô nhấn mạnh ba tiếng khen cho con, nghỉ một lát rồi mới đọc nốt ba tiếng sau, thành câu thơ có nghĩa: “Khen cho con đấy, con ạ!” Nho-sinh hiểu ý, đọc ngay một câu cũng trong Kiều:
    Vả bây giờ… mới thấy đây,
    Mà lòng đã chắc những ngày một hai.

    Lúc đọc anh ta dằn mạnh ba tiếng vả bây giờ, cũng nghĩ một tí mới đọc tiếp ba tiếng sau, câu thơ lại có nghĩa là: “Hỗn với tôi thì tôi vả cho bây giờ!”
    Thấy nho-sinh trả lời hóm hỉnh như vậy, cô gái vừa phục vừa thẹn, mặt đỏ ửng lên, và lặng thinh ngồi mân-mê ta áo…

    o0o

    Một nhóm học trò lớn, nhân một hôm thầy đi vắng, ngồi chuyện vãn với nhau về văn Kiều.
    Một anh nói: “Trong suốt truyện Kiều, cô Kiều lúc nào cũng khóc, không lúc nào cười, lạ quá”.
    Một anh đáp: “Có chứ, có một lần cô cười. Đố biết là lần nào?”
    Nhóm học trò đang suy nghĩ, một anh chợt nói: “Lần thăm mả Đạm-Tiên chứ gì! Này nhé:

    Vân rằng: Chị cũng nực cười!
    Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!”

    Cả nhóm vỗ tay. Nhưng một anh bẻ lại: “Đây là Vân cười chứ đâu phải Kiều! Cô Kiều có cười mà lại cười to nữa kia! Đó là lúc Từ-Hải trở về rước cô:

    Cùng nhau trông mặt cả cười,
    Dan tay về chốn trướng mai tự tình”.


    o0o

    Trong dân-gian, còn hay có lối đố Kiều.
    Cô thiếu-nữ đố anh nho-sinh:

    Truyện Kiều anh đã thuộc làu
    Đố anh kể được một câu hết Kiều.

    Nho-sinh đáp ngay:

    Trăm năm trong cõi người ta
    Mua vui cũng được một vài trống canh.

    Cô chịu là đúng, vì đó là câu đầu và câu cuối của truyện. Cô lại đố:

    Truyện Kiều anh đã đọc thông
    Đố anh kể được một dòng chữ nho.

    Nho-sinh ư-ử ngâm:

    Hồ-công quyết kế thừa ki
    Lễ tiền binh hậu, khắc kỳ tập công.

    Thiếu-nữ khen, lại đố luôn:

    Truyện Kiều anh kể đã thông
    Đố anh kể được một dòng chữ nôm.

    Nho-sinh trả đũa ngay:

    Này chồng này mẹ này cha
    Này là em ruột này là em dâu.

    Thiếu-nữ chưa chịu thôi, còn đố:

    Truyện Kiều anh đã thuộc làu
    Đố anh kể được bốn câu một tiền.

    Nho-sinh ngồi nhẩm mãi, mới trả lời được:

    Kể từ trên ngọn đào tơ
    Mười lăm năm ấy bây giờ là đây.
    Từ con lưu-lạc quê người
    Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm
    Mười lăm năm bấy nhiêu lần
    Làm gương cho khách hồng-quần thử soi
    Những là rày ước mai ao
    Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.

    Đấy nhé, bốn lần mười lăm là 60, sáu mươi đồng chả một tiền là gì?
    Thiếu-nữ cười ngặt-nghẹo: “Chịu thầy!”

    o0o

    Người ta kể lại rằng năm 1948, khi các chính-khách ta được vời sang Hương-cảng hội kiến với cựu-hoàng Bảo-Đại, một hôm một số nhà cách-mạng nổi danh cùng ngồi chung với Cousseau trong chuyến máy bay đi từ Hương-Cảng sang Quảng-Châu. Cousseau nguyên là một công chức ngành cai trị Pháp nổi tiếng nói sõi tiếng Việt, bấy giờ sang Hương-cảng để theo dõi cái gọi là “giải pháp Bảo-Đại”. Trong lúc nhàn thoại, Cousseau quay mình nhìn mọi người rồi mỉm cười hỏi:
    - Khỏi nói tôi cũng biết các cụ thuộc truyện Kiều lắm. Nhưng tôi muốn hỏi trong Kiều, các cụ cho câu nào hay nhất?
    Nhiều vị không đáp, lặng nhìn Cousseau để đoán ẩn ý của y. Một vài vị nói lưỡng:
    - Kể thì nhiều câu hay lắm, khó mà bảo câu nào hay hơn câu nào.
    Cousseau gật-gù nói: “Tôi thì tôi cho hay nhất câu này:

    Trong tay đã sẵn đồng tiền
    Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì?

    Y lại đưa mắt nhìn từng người; rồi nhếch mép chậm rãi tiếp:
    - Tôi nghĩ làm cách mạng mà không có tiền thì khó mà thành công, phải không các cụ?
    Các cụ đều ngồi im, vẻ mặt có hơi sượng sùng.

    o0o

    Hương-Sơn cư-sĩ là bút hiệu ông Nguyễn-danh-Khanh, một nhà túc nho người xã Hương-Ngải, huyện Thạch-Thất, tỉnh Sơn-Tây, sinh vào quãng giữa thế-kỷ trước. Sự-nghiệp văn-chương của ông phần lớn là khai-thác truyện Kiều: ông đã đề-cập đến hầu hết những nhân vật trong truyện bằng những lời thơ phong-lưu tao-nhã, đem toàn chữ sẵn ứng-dụng vào thơ, vừa xác-đáng, vừa tinh-công; lại cũng thêm-thắt những ý-kiến riêng làm bật lên nhiều khía-cạnh mà ít ai để ý tới, đủ thấy rằng ông đã thấm-nhuần rất nhiều tinh-hoa Tiên-điền.

    Kim Kiều
    Gặp-gỡ nhau từ hội Đạp-Thanh,
    Lân-la vừa chắp mối tơ-tình:
    Kẻ về tang chú nên xa mặt,
    Người chuộc oan cha phải bán mình.
    Đàn hạc sầu riêng nơi gác tía,
    Cờ hoa vui gượng chốn lầu xanh.
    Còn trời, may hãy còn duyên nhỉ?
    Này chiếc gương loan vỡ lại lành.
    Tài-tử với giai-nhân những tưởng xây nên mộng đẹp, có ngờ đâu sau này Kim thì đàn hạc sầu riêng nơi gác tía, Kiều lại cờ hoa vui gượng chốn lầu xanh (cờ hoa: đánh cờ và thưởng hoa, chớ hiểu xuyên-tạc) 15 năm cách-trở sơn-khê, cuộc đời kể biết bao gian-khổ. Nhưng nếu không có những thử-thách ấy, tình đôi lứa đâu có thành giai-thoại!

    Thúy Kiều

    Cũng đừng trách lẫn mệnh ghen tài,
    Vì mối tơ tình buộc lại thôi,
    Mộ cỏ, thương hoài con đĩ rạc
    Bóng hoa, mê tít cậu đồ choai
    Duyên đầu dắt lại lòng dan-díu,
    Oan nọ xui nên bước lạc-loài
    Giữ ngọc, gìn vàng ai dặn đó?
    Mảnh tình đà sẻ khắp ai ai…
    Đà sẻ khắp ai ai, lòng kia đâu có muốn, chẳng qua cảnh-ngộ xui ra… Vì thế:
    Như Kiều nên trọng lại nên thương,
    Nợ trước duyên sau đã nhẹ-nhàng.
    Chữ mệnh chữ tài thôi xóa tất,
    Nghìn thu chữ hiếu đủ làm gương.
    o0o

    Kim Trọng
    Trạng-mạo thiên-tư thế, thế mà…
    Văn-nhân sao học tính trăng-hoa?
    Chỉ quen phong-nhã nghề chim gái,
    Chẳng giữ trâm-anh cái thói nhà!
    Án, bút, phòng văn thường lạnh ngắt,
    Túi đàn cặp sách khéo lân-la.
    Trông hiên Lãm-Thúy tròn hai tháng,
    Bắt được trên đào một chiếc thoa…

    Lời trách hơi thiên, vì sau đó Kim cũng có học, có thi, có đỗ, có làm quan, không hẳn chỉ là một tay “công-tử-bột”. Vả lại, tính tình trọng-hậu thủy-chung, cũng đáng được hưởng một cuộc tái-hợp gần như không còn mong nữa. Nghề chim gái đối cái thói nhà không chỉnh.

    o0o

    Thúy Vân

    Tình chị, thôi em đã hiểu rồi;
    Giả vờ mà hỏi thử nhau chơi!
    Tơ duyên, nếu chắp người hôm nọ,
    Không lạy, thì em cũng chịu lời!

    Ngay từ lúc hai Kiều e-lệ nép vào dưới hoa, lòng em hẳn cũng đã như lòng chị, còn cần gì mà phải: cậy em, em có chịu lời, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa…

    o0o

    Đạm Tiên
    Tài, sắc nhường bao hỡi chị đào?
    Nửa chừng vội dứt nợ phong-lưu!
    Tỳ-Bà nhớ khúc Tâm-Dương đó,
    Nên chẳng cho ai thấy bạc đầu.

    Ky-binh phải chết vào giữa lúc tuổi ba mươi: lời Nã-phá-Luân cũng na-ná như câu: Mỹ-nhân tự cổ như danh-tướng, bất hứa nhân-gian kiến bạch đầu. Có chết trẻ như thế mới để thương để tiếc, chứ lại sống dai-dẳng mãi như gái Tầm-Dương: Năm năm lần-lữa vui cười, mải trăng huê, chẳng đoái-hoài xuân-thu, buồn em trẩy lại lo dì thác, lần hôm mai đổi khác hình dong, thì bây giờ: Cửa ngoài, xe ngựa vắng không, là phải lắm rồi, đời không còn gì đáng kể nữa.

    o0o

    Thằng Bán Tơ
    Dắt mối oan-khiên khéo ỡm-ờ!
    Lôi-thôi chi thế chú hàng tơ?
    Dật dàm buộc lại nên vương-vít,
    Thêu truyện quần-thoa mãi đến giờ.
    Thằng bán tơ đem tai-vạ đến cho gia-đình Kiều, mà không ai rõ vì đâu nên nỗi. Năm trước Mân-châu đã thử tìm ra một lý-do cho việc tiêu-xưng này:
    Có lẽ chim Kiều, Kiều không chim,
    Căm kia chôn ở gốc buồng tim!

    o0o

    Mã-Kiều
    Hết mẹo gian-tham đến thực-thà,
    Lầu xanh lại có Mã-Kiều ra.
    Chịu cung, mượn lấy người đoan-lĩnh:
    Ấy cũng mưu-mô mụ Tú-bà!

    Lớp trò cung-chiêu và bảo-lĩnh để buộc Kiều-nhi chút lòng trinh-bạch xin chừa, rất có thể là do Tú-bà xếp đặt: lạ gì một cốt một đồng…

    o0o

    Chung Công
    Thương nỗi Vương-ông mắc tụng đình,
    Túi tham đã vét sạch sành sanh.
    Ba trăm lạng bạc trong ba bữa,
    Nên nỗi Kiều-nương phải bán mình.
    Ngòi bút, con dao, cụ lại già
    Thay đen đổi trắng: khó chi mà!
    Tình oan, nẹt đủ ba trăm lạng…
    Sẵn mối từ-tâm cụ thế a?
    Chung-công thương tình mới lo-liệu cho được lẹ-làng như thế. Nếu không thương thì có lẽ cả Vân nữa cũng phải bán mình, họa chăng mới thỏa-mãn được yêu-sách.
    Cụ lại già dùng bút như dao đã đành, nhưng lại vừa khôn vừa khéo: tiền thì ních đủ, ơn vẫn hoàn ơn. Chả thế mà về sau Vương-Quan, khi thành danh rồi, lại đến xin làm rể, để… minh-tạ! Cái hành-vi ngớ-ngẩn của chàng Vương đã khiến Hương-Sơn phải lên tiếng:

    Vương-Quan
    Nối dòng kinh-sử, nghiệp nho-gia,
    Oanh-yến ngày xuân cũng thướt-tha!
    Bầu-bạn khéo làm mê cả chị
    Oan-khiên chưa biết gỡ cho cha…
    Trời còn nuông phúc nhà viên-ngoại
    Vua cũng thương tài hội chế-khoa.
    Chuyện cũ nhớ chi ân-nghĩa hão?
    Châu-Trần kết với bọn sai-nha!
    Oan-khiên chưa biết gỡ cho cha, lời trách thực đúng: không những không biết gỡ, lại còn chẳng dự một phần nào trong việc cứu chữa cơn gia-biến. Bảo rằng cậu còn nhỏ tuổi ư? Thì cậu đâu phải là trẻ nít: cậu đã biết cả “Khách viễn-phương xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi” kia mà! Song bầu-bạn khéo làm mê cả chị, thì nghĩ cũng oan: Kim-Trọng mê Kiều hay ngược lại, là chuyện của hai người, cậu ta có ngờ chi đến.

    o0o

    Thầy Tướng
    Biết Kiều bạc-mệnh vị tài-hoa,
    Pháp tướng tiên-sinh đoán đã già!
    Ý hẳn xem Kiều khi nhỏ dại
    Nên thầy mới ngắm được ngoài da.
    Nói trắng ra là nhớ từ năm hãy thơ-ngây, thầy sở-dĩ đoán được dễ-dàng là vì bấy giờ quần-áo may ngắn-ngủn đề phòng những lúc anh hoa phát tiết ra ngoài!

    o0o

    Tú Bà
    Nhác trông nhờn-nhợt cái màu da,
    Trùm đám lầu xanh đấy hỡi bà?
    Mày trắng một thần thờ trước án,
    Môi son dăm chị nghiệp trong nhà.
    Kiếm ăn no đủ nghề son-phấn,
    Buôn-bán rành quen sự nguyệt-hoa.
    Sao cũng chiêu danh là mụ Tú?
    Khéo làm ô-uế tiếng nho khoa!
    Hai câu kết ít ai nghĩ đến: bà Tú danh-giá bao nhiêu thì Tú-bà lại càng đáng khinh bấy nhiêu. Sự gặp-gỡ hai chữ “tú” tình-cờ mà cũng trớ-trêu thay!

    o0o

    Quan Lôi-Châu
    Án tơ chưa chắc có hay không?
    Nhờ lượng đèn trời bóng chí-công
    Bạc có ba trăm không tội lệ!
    Cho hay mặt sắt cũng hơi đồng!
    Chỗ này nên nhắc lại câu thơ Yên-Đổ: Có tiền việc ấy mà xong nhỉ. Thủa trước làm quan cũng thế a? Cho biết không phải chỉ quan Lôi-Châu mới mặt sắt bén hơi đồng, mà từ thủa nào đến giờ cái hiện-tượng của sự cảm-ứng “đồng khí tương cầu” vốn là sẵn có…27

    o0o

    Quan Lâm-Chi
    Thực rằng hai miệng khéo phân-vân,
    Thét mắng lôi-đình đập bụi sân.
    Chàng Thúc kêu oan tai đã lọt,
    Khen ngay tài-tử với giai-nhân!
    Thét mắng đùng-đùng, rồi lại cho đàn-địch tiễn đưa về nhà. Vì cảm-tình văn-nghệ mà bỏ cả nguyên-tắc “luật là luật”, ông Lâm-Chi đúng là một viên quan tài-tử!

    o0o

    Thúc Sinh
    Sớm đào, tối mận, những lân-la,
    Nhát thế, còn hay sự nguyệt-hoa!
    Giọt lệ thương ai, vờ khóc mẹ
    Lòng si mê gái chẳng kính cha!
    Kẻ xuôi ngơ-ngẩn trông người ngược,
    Con ở bâng-khuâng thẹn chủ nhà.
    Đã vững tay co, tay lại bó!
    Trăm điều thôi chớ chắc vào ta…
    Lúc mê gái thì cha cũng chẳng sợ, nhưng lúc sợ vợ thì thương gái lại đồ ngay rằng thương mẹ… cho đỡ đòn! Coi vậy, mẹ cha không bằng vợ cả, cũng không bằng cả vợ lẽ. Là bởi vợ còn hơn trời. Yên-
    Đổ đã giải nghĩa: Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ? Vợ chỉ hơn trời có cái trai!

    Cái thân sợ vợ thế thì thôi!
    Sợ một, ai ngờ sợ cả đôi.
    Miệng đắng bồ-hòn khi rượu chuốc,
    Mặt xanh chàm đổ lúc gươm đòi.
    Trước hàm sư-tử đàn chia khúc,
    Ngoài cửa viên-môn trống nửa hồi.
    Kẻ cắp, bà già, người mỗi ngả,
    Bốc rời từ đấy hết mua vui…
    Sợ Hoạn, sợ cả Kiều. Sợ Hoạn nhưng vẫn thương, sợ Kiều mà vẫn mừng thầm cho Kiều gặp được người hơn mình: cái tâm-trạng khách mày râu như thế nghĩ đáng thương mà cũng… đáng mến.
    o0o
    Hoạn Thư
    Vốn dòng họ Hoạn, nếp cung-trang,
    Rất mực khôn-ngoan, nói dịu-dàng.
    Khuôn-phép thực nòi quan lại-bộ.
    Tình-duyên sớm kết bạn thư-hương.
    Trăng hoa, bởi vị ai đen-bạc,
    Giông-tố xui nên thiếp phũ-phàng.
    Lượng cả sẵn lòng dung kẻ dưới,
    Kể chi khánh bạc với chuông vàng!
    Ở ăn thì nét cũng hay, ghen tuông thì thói cũng thường, nhưng biết điều khinh-trọng, biết lẽ phải chăng, đàn bà như Hoạn-Thư, ghét dù đáng ghét mà khen cũng nên khen.

    Hoạn Phu-Nhân
    Hoạn-Thư ràng-buộc có già tay,
    Cũng tại phu-nhân mách kế hay.
    Gia-pháp nhà quan đâu lại thế,
    Chiều con đến nỗi đánh ghen thay! …
    Hoạn phu-nhân mới thật là người đáng ghét. Không trách trong gia-đình Tây-phương, bà mẹ vợ tượng-trưng cho sự cay-đắng chịu-đựng của anh chàng rể.

    o0o

    Hồ-Tôn-Hiến
    Bát-tiễu ra tay giúp nghiệp vương,
    Kéo cờ chiêu-phủ, chẳng tranh cường.
    Hai tên thể-nữ đưa vàng lại,
    Mười vạn tinh-binh bó giáo hàng.
    Trước lễ, sau quân, vừa xếp-đặt,
    Trong hào, ngoài lũy, phút tan-hoang.
    Sóng êm kình-ngạc miền Đông-hải.
    Thực đã nên công chốn miếu-đường.
    Đã hay thành toán miếu-đường, giúp công cũng có lời nàng mới nên! Kế mỹ-nhân xưa nay vẫn dễ thành-công, nhưng bao giờ cũng vẫn chỉ là hạ-sách, cho nên:
    Kinh-luân gì đấy chước chiêu-an?
    Tuy được công thành cũng chước gian.
    Chụp kẻ hàng-thần khi bó giáp,
    Gạ người oan-phụ lúc buông màn.
    Lòng son đã mải năm canh rượu.
    Mặt sắt hồ ngây mấy nhịp đàn.
    Phương-diện quốc-gia, thôi vẫn tiếc,
    Thổ-quan thừa-huệ của triều-quan!

    o0o

    Hương-sơn cư-sĩ vốn tính phóng-khoáng, hay la-cà quán Sở lầu Tần nên vào khoảng năm 1925, ông gần bảy chục mà nợ phong-hoa còn chưa dứt.
    Các cô đào trẻ thường gọi đùa ông là bố để ông khỏi nghịch-ngợm đòi-hỏi. Có lần nghe tiếng “bố”, ông bực mình đọc cho các cô đôi câu đối tập Kiều:

    Còn Nói Chi Con
    Thôi còn nói chi con, nắng giữ mưa gìn thêm tức nỗi!
    Đã cho vào bậc bố, quạt nồng ấp lạnh phải đền ơn!
    Chết rồi, phải đền ơn thì nguy quá, vì còn đâu phái phủa phương phì, các cô vội-vàng tay nào tay nấy thu ngay vào bọc để “nắng giữ mưa gìn”.

    o0o

    Ông Nguyễn-sĩ-Giác có hai bài vịnh nhân-vật truyện Kiều, lời thơ thật khám phá.

    Từ-Hải
    Nhờ có Phù Tang giúp chiến công,
    Năm tòa hùng-cứ một miền đông.
    Cơ-đồ tính cuộc chưa xây vững
    Ân-oán vì ai phải trả xong?
    Xiêm-áo những mong ngôi tước quý,
    Cà-sa còn nhớ cửa thiền không?
    Trượng phu vì kém tài vương bá,
    Há phải thành nghiêng bởi má hồng.
    Theo trong Minh-sử thì Từ-Hải vốn là một anh sư hổ-mang, sở-dĩ quấy rối được miền bể Trung-Hoa là nhờ có sự viện-trợ của Nhật-Bản. Nhật-Bản từ xưa vẫn có ý xâm-lăng phía nam Trung-Hoa, đến đời Thanh chiếm-cứ được Đài-Loan.
    Trượng phu vì kém tài vương bá, cho nên mới chết đứng, chết đứng vì ngạc-nhiên hơn là vì súng đạn, nhưng cũng chỉ ngạc-nhiên một phút rồi liền ngã ra; không ngã ra lúc ấy, ắt sau đó trong quân mở tiệc hạ-công mà Hồ-tôn bắt nàng thị yến dưới màn; thì dù trơ như đá vững như đồng cũng đến phải ngã rạp. Tản-Đà đã an-ủi:

    Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran
    Tướng quân chỉ tiếc cảnh hoa tàn
    Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng,
    Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan.
    Tổng đốc ví thương người bạc mệnh,
    Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan.
    Sè-sè nấm đất bên sông nọ
    Hồn có nghe chăng mấy ngón đàn?

    o0o

    Thúc-Sinh
    Hào hứng trăm ngàn một trận cười,
    Chung tình nào phải giống trên đời!
    Ngẫm khi tiệc rượu đành rơi lệ,
    Mà lúc yêu hoa chỉ bốc rời…
    Đủ bộ mày râu nên rể quý,
    Gọi là nghiên bút, cũng thơ chơi!
    Bình khang, vì mảnh tình son phấn,
    Tấn kịch Tài-nhân ghé một vai…
    “Gọi là nghiên bút, cũng thơ chơi”, Thúc-Sinh quả là một anh cái gì cũng chỉ “gọi là”: chơi gọi là, học gọi là, buôn gọi là, yêu gọi là, sợ cha gọi là, sợ tòa án gọi là, đóng một vai trong truyện cũng gọi là!
    Chỉ có sợ vợ là thật-sự!
    Ấy thế mà rồi sau này lại gấm trăm cuốn bạc nghìn cân và giữ-giàng họ Thúc một nhà cho yên, âu cũng là số cả!

    o0o

    Một nhà nho đã vịnh Kiều để nhạo một quan đốc-học.
    Quan đốc nguyên là chân tiến-sĩ xuất-thân, có tiếng hay chữ đến nỗi Tú-Xương phải “xem văn mà gớm cho văn mãi!” Vả lại hành-vi của quan không lấy gì làm khuôn-mẫu lắm, nên sĩ-phu thường chế-nhạo.
    Một năm gần Tết, một nhà nho giả là học-trò nghèo đến xin tiền. Biết quan thường hay ngâm Kiều, nhà nho lập tâm sẵn, khi vào quả nhiên quan đốc nói:
    - Anh là học-trò, thì thử làm bài vịnh Thúy-Kiều, hay ta sẽ thưởng.
    Nhà nho dạ dạ, xin giấy bút, chậm-rãi viết tám câu:

    Thân-Thế Kiều
    Khóa cửa buồng xuân luống đợi chờ
    Mà em mất nết tự bao-giờ!
    Chàng Kim mê gái công đeo-đuổi,
    Viên-ngoại chiều con chết ngất-ngơ…
    Nợ trước hẹn-hò con-đĩ Đạm,
    Duyên sau gặp-gỡ bố-cu Từ.
    Mười-lăm năm ấy bao-nhiêu sướng,
    Còn oán làm chi đứa bán tơ!

    Đọc trong bài, thấy nêu cả tên lẫn họ mình ra, quan đốc hối-hả gọi người lấy tiền tặng nhà nho, rồi quay lưng trở vào, không buồn đáp lại tiếng chào cung-kính của anh học-trò xấc-láo…
    Ít ra quan đốc này cũng là người biết phục-thiện và có bụng lân-tài đấy chứ!
    Vả lại, dù muốn lập-nghiêm đem thơ ra mà bắt-bẻ, quan cũng không bẻ vào đâu được, vì những chữ hỗn-xược đều được dùng hợp-lý hợp-tình, và lại sát với đầu-đề.

    o0o

    Tôn-thọ-Tường đã mượn Thúy-Kiều để giãi tâm-sự “theo tây” của mình:

    Mười mấy năm trời nhục rửa xong
    Sông Tiền đường đục hóa ra trong.
    Cái duyên bình lãng còn nong nả
    Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.
    Chữ hiếu ít nhiều trời đất biết,
    Gánh tình nặng nhẹ chị em chung.
    Soi gương kim cổ thương mà trách,
    Chẳng trách chi Kiều, trách Hóa công.
    Nhưng cũng có người chê Kiều một cách nghiêm khắc. Ông Nguyễn-mạnh-Bồng tự Mân-Châu viết:
    Ai bảo rằng cô một gái lành
    Con nhà nền-nếp giống trâm-anh.
    Động tình lập kế chim Kim-Trọng
    Biết thú đầm ghì lấy Mã-Sinh.
    Niệm Phật, ở chùa đi xoáy của
    Lấy chồng, ăn lễ nỡ quên tình.
    Toan về làm lẽ cô em vậy
    Cô thật khôn ngoan đủ thập-thành.
    Ừ, bảo thương cha phải bán mình
    Sao em ăn ở thế cho đành.
    Dụ hàng kìa giết ông Từ-Hải
    Nghe tán này theo cậu Sở-Khanh.
    Mấy độ lầu xanh còn chửa chán
    Bao lần qui Phật cũng không thành.
    Ngứa nghề trở lại toan làm bé
    Đời vẫn khen em hiếu với tình.

    o0o

    Tổng vịnh truyện Kiều, Nguyễn-công-Trứ đã làm bài hát nói sau đây để nói lên kiến giải của mình về hiếu với tình, ám chỉ sự bất hợp tác rồi lại hợp tác của Nguyễn-Du:

    Đã biết má hồng thì phận bạc,
    Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng.
    Chiếc quạt thoa, đành phụ nghĩa Kim lang
    Nặng vì hiếu nhẹ vì tình âu cũng phải.
    Từ Mã-giám-Sinh cho đến chàng Từ-Hải,
    Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu.
    Bây giờ Kiều còn hiếu vào đâu?
    Mà bướm chán ong chường cho đến thế?
    Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
    Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!
    Bán mình trong bấy nhiêu năm,
    Đố đem chữ “hiếu” mà lầm được ai.
    Nghĩ đời mà ngán cho đời!

    o0o

    Có nhà nho lại dùng thân-thế cô Kiều để ngụ ý chỉ-trích một vài nhân-vật có liên-quan đến thời cục. Tức như bài của Tùng-Lâm làm năm 1948:

    Kiếp Hoa-Nô
    Từ thủa tơ-duyên lỡ phận bồ,
    Cửa người cam chịu kiếp hoa-nô!
    Dặm nghìn rừng tía vừa ra khỏi,
    Lối cũ lầu xanh lại bước vô…
    Đã trót lỗi thề cùng chú Hải,
    Lại thêm sượng mặt với anh Hồ.
    Lộn chồng trốn chúa, con người ấy,
    Vì nước, vì dân, ở chỗ mô?

    o0o

    Ở trên là những thơ vịnh nhân-vật truyện Kiều. Còn để vịnh tổng-quát, xin lục một bài của Huỳnh-Thúc-Kháng. Bài này bỏ hẳn phương-diện văn-chương và tâm-lý, chỉ chú-trọng vào đạo-đức, nên lập-luận thiên-lệch, lời lẽ quá độ. Ông Huỳnh viết ra chỉ cốt bênh-vực Ngô-đức-Kế, người đã đả-kích phái sùng-bái truyện Kiều bằng một bài xã-thuyết “Chính học với tà thuyết” lời tuy đanh-thép, nhưng ý thật cố-chấp hẹp-hòi.
    Cuộc bút-chiến này nếu có đem chút thắng-lợi nào cho Ngô và Huỳnh, ấy là nhờ riêng về cá-nhân và quá-khứ của hai ông, chứ thành-thực mà nói, chủ-trương trên ít có ai tán đồng triệt-để.
    Phong-trào Sùng-bái Kiều
    Á cũ qua rồi mới chửa Âu
    Học Kiều xúm-xít bọn mày râu.
    Đã mang thân thế nương nhà thổ,
    Còn trách cha ông vụng kiếp tu!
    Một khúc đoạn-trường khêu lửa dục,
    Mấy dây bạc mạng chác hơi sầu.
    Biết chăng hỡi cụ Tiên-Điền nhỉ,
    Sách dạy ngày nay đĩ đứng đầu.
    o0o
    Xưa có một cuộc thi thơ nổi tiếng, vì người tham-dự đều là danh-sĩ và trường-hợp chấm thi có những tình-tiết éo-le.
    Ấy là cuộc thi thơ Đường-luật “Kim-Vân-Kiều thập vịnh” do Khâm-sai Lê Hoan đề xướng ra khoảng đầu thế-kỷ khi y giữ chức tuần-phủ tỉnh Hưng-yên.
    Vì dẹp các cuộc đề-kháng của văn-thân, Lê Hoan chém giết đã nhiều, khiến cho chỉ nghe tên y dân-chúng cũng đã ghê-tởm, nên khi mọi việc tạm yên, Lê có ý mượn cuộc thi này để làm cho không-khí bớt nặng-nề, thiên-hạ có dịp quên bớt những hành-động của mình. Muốn có uy-tín với làng nho, y đặt Tam-nguyên Yên-đổ làm chủ-khảo.
    Dự thi là những tay danh-sĩ tỉnh Hưng-yên như Chu-Thấp-Hi, Phan-Mạnh-Danh, Chu-Mạnh-Trinh… Yên-đổ phải chấm cho Chu Mạnh-Trinh được nhất, vì bấy giờ ông này chức lớn hơn cả đám: ông đang ngồi án-sát tức là chức thứ nhì trong tỉnh, sau Lê-Hoan.

    Chấm cho lấy nhất nhưng Yên-đổ cũng không dằn được mà không chê hai câu thực trong bài vịnh Sở-Khanh:
    Làng nho, người cũng coi ra vẻ,
    Bợm xỏ, ai ngờ mắc phải tay.
    Yên-Đổ phê:
    Rằng hay thì thật là hay,
    “Nho” đối với “xỏ”, lão này không ưng!
    Bấy giờ Yên-đổ đã cáo quan về ẩn, và đôi mắt lại lòa, không muốn dính-dáng đến việc đời, nhưng thế không từ chối được, nên phải nhận việc chấm thi này song cũng nhân dịp mượn truyện Kiều mà tỏ ý mình:
    Thằng Bán Tơ
    Thằng bán tơ kia giở-rói ra
    Đề cho bận đến cụ Viên già.
    Muốn ém phải biện ba trăm lạng
    Khéo xếp nên liều một chiếc thoa!
    Đón khách mượn màu son phấn mụ,
    Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
    Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
    Thủa trước làm quan cũng thế a?
    Bài này rõ-ràng là không cốt để vịnh Kiều: không có chủ-trương rành-mạch về hiếu hay tình, tài hay mệnh. Vả lại câu có tiền việc ấy mà xong nhỉ làm cho ta phải nghĩ việc ấy tất là việc khó khăn tày trời nên mới nói mà xong, chứ đâu phải chỉ bận cho cụ Viên già chút ít mà thôi… Vậy lời lẽ trong thơ, nếu ta hiểu là nói riêng về cuộc thi này thì rõ nghĩa ngay: thằng bán tơ trỏ Lê-Hoan, cụ Viên già là Yên-đổ, mượn màu son phấn chuộc tội tình cho Lê, là Chu, có tiền việc ấy là chuyện đặt giải thưởng lớn trong cuộc thi, để mua chuộc lòng sĩ-phu.
    Chu-mạnh-Trinh lấy làm bất-mãn về câu phê của Yên-Đổ. Yên-Đổ thì chất-phác, Chu-Mạnh lại hào-hoa, Yên-Đổ vốn vẫn không ưa cái lòe-loẹt nông-nổi của ông nghè Chu, mà ông này cũng không tán-thưởng lối văn chuộng thực-tế của Yên-đổ.
    Chờ đến Tết năm ấy, ông nghè Chu mới gửi đến biếu Yên-Đổ một chậu hoa trà, như muốn ngụ-ý rằng văn mình đẹp như hoa, mà Yên-Đổ không có mắt để thưởng-thức (nên nhớ là ông đã lòa).
    Yên-Đổ liền gửi lại một bài thơ cám ơn:

    Tạ Cho Hoa Trà
    Có khách cho ta một chậu trà
    Ta say, ta chẳng biết là hoa!
    Da mồi tóc trắng ông già nhỉ,
    Áo tía đai vàng, chú đấy a?
    Mưa bụi những kinh phường xỏ lá,
    Gió to, luống sợ lúc rơi già.
    Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
    Đếch có mùi thơm, một tiếng khà!
    Mưa bụi những kinh phường xỏ lá, ý nói giọt mưa có thể rơi xuyên qua được lá cây, câu thơ dùng nghĩa hơi ép, chỉ cốt đi một cách gượng-gạo đến thành-ngữ nôm-na: xỏ lá.
    Gió to, luống sợ lúc rơi già: già có hai nghĩa một là trái cà, hai là đài hoa, đây dùng nghĩa thứ hai, ý nói đài hoa, gió to có thể làm cho rơi-rụng, âu cũng là khuyên tuổi trẻ đừng nên tự-phụ quá.
    Hai câu kết tuy là khinh-miệt một cách hóm-hỉnh, nhưng tiếc rằng lời văn thiếu phong-độ.


    [26] Họ, vắt: tiếng vùng quê dùng để bảo trâu bò. Họ là đứng lại, vắt là rẽ sang bên phải.
     
    Heoconmtv and viettran_ru like this.
  17. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    V
    Hát ả đào


    Hát ả-đào là thể ca-trù, văn điệu phổ vào đàn phách, gồm có 2 hoặc 4 câu lục bát mở đầu gọi là mưỡu, và 11 câu “hát nói” hoặc 15 câu hay 19 câu nếu thêm 1 hay 2 khổ giôi mỗi khổ 4 câu; đôi khi lại thêm 2 câu lục bát ở cuối gọi là “mưỡu hậu”.
    Nhà nho chán đời giận mình, hay đâm ra khinh thế ngạo vật, viết ra câu nào cũng có ý mỉa-mai, hay lãng-mạn. Bài Hát Nói sau đây của ông Hải-nông Lê-Lăng-Vân, một nhà cách-mạng lưu-vong bên Tàu, tuy tự giễu mình sức mọn mà dám đương việc lớn, nhưng lúc nào cũng mang một ý chí phấn đấu, không ngại cảnh luôn luôn nghèo về phương-tiện.
    Thuật Hoài

    Người tai mắt đứng trong vũ trụ,
    Đố ai hay tên họ là gì?
    Nếp phong-lưu cũng đã chi chi.
    Áo lộn lại đóng khuy đành hở nách28
    Còn nói khoác: “Ngã thị bố-y khách,
    Phi đồng nhục-thực nhân”29
    Phận giàu nghèo phó mặc hồng-quân,
    Đường danh-lợi nón chuôi chưa đủ cặp
    Xảy gặp lúc tang-thương chi biến
    Ních rượu vào nói liền chuyện con ma.
    Hầm-bà-làng ngộ mậu pha,
    Ngộ dậu xìn, dậu ngần, dậu phùng xường, ngộ tả nị, nị chu mắt dẻ.30
    Ô hay nhỉ? Tóc thì ngắn, mắt thì lòa, tay thì ghẻ.
    Chỉ lăm le những việc tày trời.
    Ai ơi thế mới nực cười.


    o0o

    Nguyễn-Khuyến đã từng làm “gia-sư” cho một nhà quyền-thế. Nghề gia-sư tuy là dạy chữ nghĩa nhưng trong thực-tế là giữ con trẻ cho bậc phụ huynh, chẳng khác nào công việc một người vú em, mà lại là “vú đực”. Ông có bài hát cảm-khái sau đây:
    Vú Đực

    Trong thiên-hạ có người vú đực,
    Khắp tiếng đồn nô-nức gần xa.
    Vú xưa vốn cũng con nhà,
    Khi vị ngộ, mới phải ra ở vú.
    Đối tọa giai đàm tri hữu chủ,
    Phùng nhân mạn thuyết hiếu vi sư.31
    Đêm ngày nuôi nấng lũ hài-nhi,
    Văn kinh sử, vận phú thi, ru mãi mãi!
    Lấy thiệt-chiến mà đền phạn trái,32
    Vú này há có phải ăn không?
    Khi nuôi nên con phụng cháu rồng
    Công vú lại hơn công sinh đẻ.
    Thuê mướn được vú này há dễ,
    Chẳng như ai sộ-sệ vú dưa gang!
    Vú này nuôi khắp tài-lang!


    o0o

    Hồi Đông-kinh Nghĩa-thục, có truyền-bá một bài hát nói cổ xúy phong-trào yêu nước, chống ngoại-xâm:
    Vợ Khuyên Chồng

    Tình thân ái, tình trong phu phụ,
    Nợ anh-hùng, nợ cũ non sông!
    Nghĩ nguồn cơn, ngán với Âu phong
    Tưởng nông-nỗi than cùng Á-vũ33
    Ai lăn-lóc chen trong đài múa?
    Trò diễn ra: nào hiểm, nào ác, nào hoan, nào lạc, nào tráng, nào bi.
    Nực cười thay! Mây nước tới kỳ,
    Kìa hiệp-nữ, nọ kiện-nhi đâu máu lạnh?
    Tỉ diện, Cách mi quân đối kính,34
    Qua tình, La tứ thiếp lâm trang.35
    Thiếp tôi đây, đâu có nhi-nữ chi thường.
    Anh tai mắt, mong mở-mang trong vũ-trụ.
    Đường ưu-thắng, anh thênh-thang vó ngựa,
    Gánh văn-minh, em sớn sở lưng ong.
    Đôi ta vợ vợ chồng chồng,
    Nước non nhẹ gót tang bồng này chăng?
    Xem trong phu phụ ai bằng!


    o0o

    Chúng tôi đã đề cập nhiều đến văn-tài trào-lộng của ông Trần-Bình, và tiếc rằng văn ông hơi thiếu phần tế-nhị.
    Hồi làm đốc-học, có buổi ông đi nghe hát, gặp cô đào Trang, nguyên là em đồng-bào ông Nguyễn-Hiếu, em dị-bào ông Nguyễn-Tích, ông này bấy giờ cũng làm đốc-học, và lại là bạn đồng-niên.
    Ông Trần ứng-khẩu làm bài hát nói:

    Có phải cô Trang em chú Hiếu?
    Người xinh-xinh yểu-điệu dáng con nhà…
    Hỏi vì đâu vương lấy nợ tài-hoa
    Bắt luân lạc, trời già âu cũng độc!
    Cha án-sát, anh làm đốc-học
    Nền đỉnh-chung bỗng chốc hóa truân-chuyên.
    Cất chén quỳnh tưởng nhớ bạn đồng niên
    Xui lòng khách bên đèn rơi nước mắt.
    Vắng bạn cũ, thấy em như thấy mặt
    Dừng roi chầu, lặng ngắt một hồi.
    Đời mà đến thế thì thôi
    Nghĩ người vinh-hiển, thương người lưu-ly.
    Hoa thơm em giữ lấy thì…


    Bài hát này lời-lẽ có phần cảm-động, vì do lòng chân-thành mà ra. Song tác-giả chân-thành ở chỗ nhớ bạn, mà không tế-nhị ở chỗ thương người. Vì thế cho nên vô-tình lôi cả gia-phả người ta ra, tức là nêu cái khổ-tâm nhất đời của cô Trang, nêu một cách sống-sượng, sống-sượng cũng lại vì chân-thành!
    Còn thì không một lời an-ủi hồng-nhan, quá nữa lại khuyên-nhủ một cách vụng-về: “Hoa thơm em giữ lấy thì”. Thì cánh hoa kia, đến đất sạch cũng không chọn được mà rụng nữa, nữa là còn “giữ lấy thì”!
    Thái-độ ấy quyết không phải trong làng phong-nhã.
    Phong-nhã, ít ra cũng phải như thái-độ cư-sĩ Đồng-Giang chẳng hạn. Cư-sĩ nhân đọc câu thơ Tàu đại ý:

    Hoa tàn nỡ thổi rơi đầy đất
    Luống trách đông-phong quá nhẫn tâm.

    lời thơ kể đã hay, tứ thơ tỏ ra xót-xa lắm nhưng cư-sĩ chưa lấy thế làm vừa ý: lòng kia dẫu có băn-khoăn đấy, nhưng cảnh ấy diễn ra thấy như quá phũ-phàng, nên cư-sĩ đã nhân-cách-hóa gió và trăng một cách trìu-mến nâng-niu:
    Gió thổi bên hoa không dám mạnh
    Trăng còn mến khách, hóa đi lâu.

    Nhân-cách hóa như vậy, còn có thú-vị hơn hai câu cầu-kỳ, tài-tình, nhưng mất cả chất thơ:
    Gió dựa tường ngang: lưng gió phẳng;
    Trăng dòm cửa sổ: mắt trăng vuông!


    o0o

    Không biết cô Trang trên kia đã trả lời ông Trần ra sao, nhưng phần đông những cô “nếp phong-lưu bỗng hóa truân-chuyên”, giá có ai hỏi đến: Hỏi vì đâu nặng kiếp oan-gia? đều thấy đáp lại là vì hoàn-cảnh: vào nhà hát, bỏ nhà hát đi lấy chồng, hay bỏ chồng lại trở về nhà hát, đều do hoàn-cảnh xui-nên. Thuyết “ảnh-hưởng hoàn-cảnh” của Taine không bao giờ thấy nêu ra nhiều bằng ở xóm Bình-khang!
    Chữ “Bình-khang” dùng đây là theo thói quen, chứ thực ra là dùng sai: Bình-khang là nơi cô Kiều nấn-ná, mà Kiều-nhi đâu có được cao giá như cô-đào. Vậy xin gọi nôm-na mà đúng hơn là “xóm chị em”.
    Vậy thì hoàn-cảnh đã đưa cô Trang vào xóm chị em, cũng như hoàn-cảnh đã xui cô-đào nọ bỏ cư-sĩ Đồng-Giang mà ra đi, khiến ông giận thì có giận, nhưng thương lại càng thương, vừa nhấp chén hoàng-hoa, vừa rung đùi mà hát vo [36] một bài:

    Số cô chưa đứng
    Bỗng tự dưng lững thững dẫn ra đi.
    Đoạn trường chừng còn nợ duyên gì
    Nên lối quỷ đường ma đi lại mãi.
    Gắn bó thương ai khờ lại dại
    Giang hồ ngán nỗi trước ra sau.
    Thôi tiếc chi cái giống vợ cô đào
    Gương tầy liếp: nhà giàu, quan với khách.
    Ấy như thế nợ ông là nợ sạch
    Túi ông mai róc rách lại nhiều tiền.
    Phen này ông quyết mua tiên!

    “Lấy quan, quan cách, lấy khách, khách về Tàu, lấy nhà giàu, nhà giàu hết của” bấy nhiêu gói vào một câu “Gương tầy liếp: nhà giàu, quan với khách”, thật là giản-bút.
    Phen này ông quyết mua tiên! Ấy khách phong-lưu xưa nay thường vẫn thế: tiên đi thì để dành được tiền, nhưng hễ có tiền thì lại nghĩ ngay đến chuyện… tìm mua tiên khác!

    o0o

    Đi tìm tiên tuy có mang tiếng là chơi bời, có lỗi với danh giáo, nhưng ông bảng Nông-sơn đã tự bào chữa:
    Mưỡu

    Ông xanh đã lọt ra mình,
    Lại cho lấy chữ tài-tình mà chơi.
    Chẳng chơi cũng mắc tiếng rồi,
    Thời đem tâm-sự cho đời soi chung,

    Nói
    Đã chẳng dọc ngang trong vũ-trụ,
    Còn khu-khu cho khổ nữa mà chi;
    Kiếp phong-trần cười được mấy khi,
    Mà ngày tháng bỏ qua đi cũng thiệt.
    Chẳng rượu, chẳng thơ, chẳng phong-hoa tuyết-nguyệt,
    Sau nghìn năm ai biết bác Nông-sơn;
    Được lúc chơi ta hãy chơi tràn,
    Khi dụng-thế dẫu muốn nhàn sao được.
    Còn thân thế còn non còn nước,
    Kiếp đa tình là nợ trước ba-sinh.
    Kìa như Tham tán Trứ, Nghè Thượng-cốc, Tổng-đốc Vân-đình
    Khoa hoạn thế mà phong tình là thế.
    Nào khi lạc khi ưu, khi trần ai khi tao-tế.
    Vẻ phong-lưu còn tiếng để lâu dài.
    Ngày nay những chỗ ta ngồi,
    Người đời trước đã qua rồi đấy nhỉ?
    Có tai mắt ta chơi cho phỉ,
    Đắc-ý chơi mà thất-ý cũng là chơi.
    Chẳng qua người cũng một đời!

    Mà ở nhà cô đào thì ngoài thú nghe hát, còn có gì đâu: chẳng qua đêm khuya uống rượu xong rồi ăn cháo gà! Chính ông bảng đã tả cái cảnh:
    Ăn Cháo
    Mưỡu

    Xưa nay anh vẫn cơm nhà,
    Nằm không yên giấc mới la-cà hồng-lâu.
    Cuộc đời láo nháo vì đâu,
    Yêu nhau nấu cháo nuôi nhau cũng là.

    Nói
    Vẫn biết đến đây là láo cả,
    Mà chẳng đầy, khôn tả nỗi u-hoài.
    Trót tham lam nếm thử mùi đời,
    Từng cay đắng ngọt bùi âu đã trải
    Nói nửa điều khôn còn biết phải,

    Đồng ba quãng chạy quản chi xa [37]
    Nếu nhân-sinh chỉ biết hương hoa,
    Chi đến nỗi sinh-nhai là rắc-rối.
    Trời đã bắt phải ăn phải nói,
    Ở đời nay chịu đói thế-gian cười.
    Ừ thì làm cháo ăn chơi!


    o0o

    [...]


    [36] Hát vo: hát ngâm một mình, không có đàn phách.
    [37] Tục ngữ: ăn bát cháo chạy ba quãng đồng.
     
    viettran_ru thích bài này.
  18. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    Thú ả-đào vẫn lôi-cuốn được nhiều khách văn-nhân, vì nói thì nói vậy, dễ đâu các ngài chỉ nghe hát, xơi cháo gà hay họp nhau bông lơn mà thôi. Cũng còn cái thú “ai ai ấy thì ta cũng ấy” nữa chứ!
    Trần Lê-Kỷ, người làng Bát-tràng, huyện Văn-giang, tỉnh Bắc-ninh, đỗ cử-nhân năm 1891, đi tri-huyện sau ngồi đốc-học Hưng-yên rồi về hưu-trí, đã có bài:
    Chơi Cho Thích

    Từ lên một đến mười lăm còn trẻ nít
    Bốn mươi lăm cút kít đã về già.
    Tính trong vòng cắn đá với trăng hoa
    Già cho lắm, ba mươi năm là sắp kiệt.
    Thế mà còn đi học đi hiệc, đi thi đi thiếc, khi đỗ khi điệc, làm quan làm kiếc
    Việc đời vấn vít mấy khi ngơi.
    Trời đã sinh ra kiếp làm trai
    Chả chơi nữa người cười ra chú vích.
    Được ngày nào ta chơi cho thích
    Cho phong-lưu thanh-lịch mới là chơi.
    Thấy ai ai ta cũng ai ai,
    Ai ai “ấy”, ai ai ta cũng “ấy”.
    Đừng có quở chữ dâm là chữ bậy
    Nếu không dâm sao nảy ra hiền.
    Nhủ em: em chớ giữ gìn!


    o0o
    Và trong cuộc đùa rỡn với ái-tình, thỉnh-thoảng vẫn có trường-hợp mà Nguyễn-Khuyến xưa đã từng gặp: “Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông, ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì, bây giờ Tuyết đã đến thì, ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già”. Ông bảng Nông-sơn đã bênh-vực cái già của mình bằng bài:
    Tặng Cô Đào Ngân
    Mưỡu

    Chẳng vàng nhưng cũng chẳng thau,
    Tiếng ai trong trẻo ra màu thanh-tân.
    Cảm người vì một tiếng ngân,
    Say người vì bóng thanh-xuân đang tròn.

    Lại Mưỡu
    Năm mươi chưa hẳn ai già,
    Mười lăm chưa hẳn ai là thơ ngây.
    Thử đem đôi tuổi đổi thay,
    Ngược lên lộn xuống tuổi này hợp nhau.

    Nói
    Ước gì ta trẻ lại,
    Cứ mười-lăm mười-tám mãi mà chơi;
    Áng trăng hoa chi kể tuổi trời,
    Gặp tri-kỷ vẫn vui cười như độ trẻ.
    Từng-trải phong sương mình vẫn khỏe,
    Còn nhiều duyên phận đầy đang tươi.
    Đời thiếu-niên ta cũng trẻ với đời,
    Vòng ân ái ai ai chừng cũng rứa.
    Thử tính rộng độ ba mươi năm nữa,
    Ngót năm mươi ngoài bảy chục lứa đôi ta;
    Đấy hoa râm mà đây hạt sương pha,
    Đôi mái tóc bạn già sơ-sần cả.
    Trong khoảng ấy tháng ngày thong thả,
    Ngẫm cơ duyên ai đã vội già đâu;
    Gặp đây ta hãy yêu nhau.


    o0o

    Ở Hà-thành khi xưa, ai cũng biết tiếng ông giáo Nghĩa là một nhà mô-phạm gương mẫu, dạy học giỏi, giao du rộng, tính tình hồn nhiên. Đặc-tính của ông là ăn rất khỏe, uống rất hào, mà ít khi chịu trả tiền, nên anh em gọi đùa là “tướng trạc”. Trạc trong ngôn-ngữ cờ-bạc có nghĩa là chịu, không chi tiền ngay (do chữ trịch đọc theo âm Tàu). Một hôm ông cử Dương-bá-Trạc dự tiệc ở xóm chị em, trong đám bạn bè có ông giáo Nghĩa. Anh em yêu cầu ông cử làm một bài hát đùa ông “tướng Trạc”. Ông cử làm ngay tại tịch một bài hát đùa bạn lại nhân dịp đùa mình:

    Trong thiên hạ ai bằng thằng Trạc?
    Sinh ra đời chỉ trạc đời chơi!
    Chẳng trạc danh trạc lợi như ai,
    Mà cao đạo hơn người ta chỉ trạc!
    May trạc được chẳng khoe-khoang vì được
    Rủi trạc thua không tức bực vì thua.
    Được hay thua, cũng chỉ trò đùa
    Trên sân khấu đóng vai trò “tướng trạc”.
    Trạc cho non phải chuyền, cho biến phải đầy, cho thổi gió tung mây, cho chọc trời quấy nước,
    Trạc xong rồi mà tâm tính vẫn như như.
    Bảo ông thằng trạc, ông ừ!


    o0o

    Chữ “đồ” nghĩa Nam khác nghĩa Bắc, sự khác biệt đi từ “tĩnh-vật” sang “động-vật”, muốn làm tỏ rõ nghĩa Bắc, chúng tôi phải mượn đến ông đồ Vĩnh-Tường:

    Thầy đồ là người tài-bộ,
    Quẩy cầm-thư đi giáo-thụ phủ Vĩnh-Tường.
    Trước nha-môn, thiết một học đường
    Dạy dăm đứa chi hồ giả dã.
    Nhân lúc đồ ngồi nhàn-hạ
    Ra hồ sen xem ả hái hoa.
    Ả hớ-hênh, ả để đồ ra
    Đồ trông thấy đồ ngâm ngay tức-khắc:
    Phong tiền lạn-mạn hoa sinh sắc
    Thủy diện vi-mang bạng thổ thần [38]
    Đồ ngâm rồi, đồ đứng tần-ngần
    Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc-mắc.
    Suốt năm canh đồ nằm khôn nhắp
    Những mơ-màng đồ nọ nhớ đồ kia.
    Đồ đâu gặp-gỡ làm chi!


    o0o

    Một năm đến ngày gần tết, ở nhà giục làm câu đối dán cửa, Tú Xương thấy năm nào cũng theo lệ mà làm thì ngán quá, bèn viết hai câu ngông-nghênh chẳng có gì là xuân là tết cả. Thấy bà tú ngó qua, lẩm-bẩm như không ưng ý, ông cao hứng làm ngay bài hát:

    Nhập thế cục bất khả vô văn tự [39]
    Chẳng hay ho cũng húng hắng lấy một vài.
    Huống chi đã đỗ Tú-tài,
    Gặp ngày tết phải một hai câu đối.

    Đối rằng:
    Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
    Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt. [40]
    Viết vào giấy dán ngay lên cột.
    Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay.
    Rằng: - Hay thì thật là hay,
    “Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú-tài!
    Xưa nay em vẫn chịu ngài…”

    Cùng một giọng hí-hước này, một ông huấn-đạo ở huyện Yên-phong, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh, cũng có một bài hát nói sống-sượng hơn:
    Huyện Yên-phong có chàng huấn-đạo
    Ngồi một mình huấn đạo-mạo lên râu.
    Lối văn-chương chắp-chểnh giọng Tàu,
    Nghề đối-đá giở một vài câu đề-vịnh.

    Đối rằng:
    Hoàng-triều Thành-Thái quân-vương thánh,
    Từ-phủ, Yên-phong, Huấn-đạo thần [41]
    Huấn viết rồi huấn đọc vần vần
    Hỏi Huấn-cái rằng hay chăng tá?
    Huấn-cái vỗ đùi khen tuyệt quá:
    Đối-đá này ai họa cho ra.
    “Có chăng huấn-đực nhà ta!”


    o0o

    Bài sau đây của Dương-Khuê đã phổ-biến nhiều, chúng tôi chép lại không ngoài mục-đích để cho bạn đọc biết rõ trường-hợp cấu-tạo, và nhận thấy những nét tế-nhị:
    Nhân Vong Cầm Tại
    Mưỡu

    Nghe đàn nhớ lão Trung-Kỳ
    Vợ mi ở đó, mi đi mô chừ
    Sớm khuya xe tẩu phụng thờ
    Mất chồng cũng kể như chưa có chồng.

    Nói
    Nhân vong cầm tại
    Nhớ chàng Hai mà hỏi lại cô Hai.
    Tiện đây hỏi một đôi lời
    Đàn bản ấy cùng ai so phím cũ?
    Hồng-phân kỷ nhân vi quả-phụ
    Bạch đầu nan lão Trác-văn-quân [42]
    Thế thì khi gió gác lúc trăng sần
    Chừng Bạch-Tuyết Dương-Xuân còn tưởng nhớ.
    Hãy ngồi lại hát chơi lúc nữa
    Ai trách chi tang chở xóm Bình khang.
    Xưa nay nghề nghiệp thế thường…

    Bài này làm tại-tịch, trong lúc Dương đi với một ông bạn đang cư-tang, đến nhà anh Hai là một kép nghiện, người miền Trung, do đó chữ lão Trung-Kỳ để màu với nghe đàn, nhưng sợ hiểu lầm anh Hai là tri-kỷ của mình như Chung-Kỳ với Bá-Nha nên lại dùng những chữ mô, chừ để nói rõ cái nguồn-gốc miền Trung và chữ mi cho rõ sự cách-biệt.
    Bởi ông bạn cũng đương cư-tang, và bất đắc dĩ phải đi với mình để khiển muộn, nên Dương hạ câu: Ai trách chi tang chở xóm Bình khang, gỡ cả cho bạn lẫn cô Hai đương ngồi hát ở trước bàn nhà chồng.
    Nhưng cô Hai đâu có phải tay vừa! Hát đến câu Ai trách chi tang chở, cô sửa lại mấy chữ: Ai trách chi, ai trách chi tang chở chốn quan-trường rồi cô tiếp luôn với một đuôi mắt ranh-mãnh: Xưa nay nghề nghiệp thói thường!

    o0o

    Chép lại văn cũ, nhiều khi nguy-hiểm, vì chỉ chép sai một chữ mà ý-nghĩa toàn bài lệch-lạc cả.
    Khác nào chữ mệt đổi thành chữ hệt trong bài của Cao-bá Quát:

    Thế-sự thăng trầm quân mạc vấn
    Yên-ba thầm xứ hữu hư-châu [43]
    Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
    Đem mộng-sự đọ với chân thân thì cũng mệt.
    Duy giang-thượng chi thanh phong, dữ sơn-gian chi minh nguyệt
    Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng.
    Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
    Ai thành-thị mặc ai lầm tẩu.
    Gõ dịp lấy, hát câu “Trương-tiến tửu”
    Quân bất kiến Hoàng-hà chi thủy thiên thượng lai…
    Làm chi cho mệt một đời…

    Các bản cũ, ra trước bản Dương Quảng Hàm, đều chép chữ mệt ở cuối câu 4. Trong sách giáo-khoa hiện giờ lại đổi chữ mệt ra là hệt.
    Nếu mộng với thực mà lại hệt nhau, thì đời chả hóa ra đúng với lý-tưởng rồi ư? Bởi mộng với thực có khác nhau, đem đọ hai thứ với nhau mới mệt sức, không bao giờ “hệt” nhau được.

    Việc chẳng như lòng, mười thường tám chín cho nên đem mộng sự đọ với chân-thân thì cũng mệt!
    Vì hạ chữ đọ trên nên mệt ở dưới mới hợp-lý. Chứ nếu dùng chữ hệt thì chữ đọ trên thành vô-lý: đã hệt thì còn gì phải đọ!
    Vả chăng, nếu là chữ “hệt” thì bắt xuống làm sao cho liền nghĩa với chữ “Duy” trong câu tiếp theo “Duy giang-thượng chi thanh phong”? Hơn nữa có chữ mệt ở trên thì đến câu kết lại có chữ mệt láy lại, mới rõ cái triết-lý của toàn bài: hồ vi lao kỳ sinh!
    Đây chúng tôi hiểu mộng-sự là những điều ta mơ-ước, chứ nếu hiểu là mọi việc thoảng qua như giấc chiêm-bao, thì có thể hỏi tại sao không dùng hai chữ mộng ảo? Hiểu mộng-sựmộng-ảo, e không phù-hợp với thái-độ của tác-giả, vốn hiếu-động. Hiếu-động cho nên mới nổi công-phẫn mà chống-đối, nhưng lại hay chán-nản trước sự khó-khăn. Tuy nói làm chi cho mệt một đời, song vẫn không phải vì thế mà có thái-độ tiêu-cực vô-vi hẳn.
    Dù sao, đây chỉ là một thiển-kiến, xin trình chính với các bậc cao-minh.
    Sau câu: “Hoàng-hà chi thủy thiên thượng lai”, các bản lại còn chép thêm câu “Bồn lưu đáo hải bất phục hồi”, cùng cước-vận bằng mà lại khiến cho 11 câu hát nói thành 12, đào không hát được vì hết khổ phách, kép không đàn được vì hết khổ đàn, mà về phương-diện văn-chương, đoạn này lại thành ra thật quá, mất cả cái thần-tình trong sự chuyển ý.
    Huống chi cổ-nhân có lối lấy một đoạn, một câu ở một bài nào đó, bất kể bản ý của tác-giả là thế nào, cứ đem đặt vào bài của mình, miễn là câu đó có thể chứng thực, nói lên ý tứ ở bài của mình. Lối này gọi là đoạn chương thủ nghĩa. Thí-dụ như bài hát nói trên, lấy một đoạn “quân bất kiến Hoàng-hà chi thủy thiên thượng lai” ở bài Tương Tiến Tửu, mà không phải là cái ý chán đời của nguyên văn. Ở đây dẫn một đoạn của câu ấy, chỉ là nói một cách hầu như hài hước rằng: đến như sông Hoàng-hà mà người ta (tức Trương-Kiên đời Đường được ủy-nhiệm đi coi xem Hoàng-hà phát nguyên từ đâu) dám nói là từ trên trời xuống, đại để trò đời láo khoét là thế (chân, giả, thực, hư, phải trái), vậy mà ta cứ quan tâm làm chi cho mệt.


    [...]

    [38] Trước gió hoa tăng vẻ đẹp, mặt nước trai thè lưỡi.
    [39] Vào cuộc đời không thể nào không có văn-tự.
    [40] Thanh giá cực phẩm chốn nhân-gian, là người có tính phong nguyệt.
    Phong lưu rất mực ở trên đời, là người có máu giang hồ.
    [41] Triều vua Thành-Thái là vua thánh, Huấn-đạo phủ Từ-sơn, huyện Yên-phong là tôi.
    [42] Người hồng phấn mấy ai làm gái góa, Trác-văn-Quân đến đầu bạc cũng chưa già.
    [43] Các sách thường chép “hữu ngư châu”. Theo chỗ chúng tôi hiểu thì có lẽ “hư châu” phải hơn. Trang-tử viết: “Phương châu nhi tế ư hà, hữu hư thuyền lai xúc châu, tuy hữu biển tâm chi nhân, bất nộ”: Đại ý Trang-Tử nói rằng có một chiếc thuyền đậu ở bên sông, lại có một chiếc thuyền nữa (không có người) trôi giạt, đụng phải thì dù người trong chiếc thuyền đậu có hẹp hòi khó tánh đến đâu cũng bất quá tắc lưỡi than rằng: “Chà! Thuyền của ai mà trôi giạt vào đây thế này!” Thế là hết, không xảy ra lôi thôi gì cả. Nhưng nếu cái thuyền kia mà cũng có người, thì nhất định hai bên sinh sự, nhẹ ra là cãi cọ, nặng ra là đánh nhau chí mạng. Tại sao thế? Chỉ vì sự đụng chạm giữa người với người mà ra đó thôi! Ở đời, phải hay quấy, tranh chấp nhau chỉ là do đụng chạm người với người. Đại để phải quấy, chân giả là thế. Nếu hiểu theo “hư châu” thì tiếp các câu dưới, luôn cả Duy giang thượng chi thanh phong v.v… ý tưởng sẽ liên tục (Tiêu xài gió mát trăng trong v.v…) ai cầm ai giữ, chẳng đụng chạm với ai hết… Mặc ai thành thị, mặc ai lầm tẩu, rõ ràng là một triết lý nhân sinh, đâu phải là ý chán đời!
     
    viettran_ru and Heoconmtv like this.
  19. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    VI
    Thơ ngũ ngôn

    1. Cổ thể


    Thơ ngũ-ngôn dùng kể tự sự, ít có bài được lời mộc-mạc mà tứ sâu-sắc bằng bài liên-vận sau đây của ông Phan-hoài-Dật đọc lên mường tượng như câu chuyện Từ-Thức lúc ở động tiên trở về trần-thế:

    Truyện ông Viên Hộ
    Tôi biết ông Viên-Hộ,
    Người ở đất Vân-lỗ.
    Thuở nhỏ vốn học trò,
    Lớn lên thi không đỗ.
    Sau ông đi đá gà,
    Với tôi thường lại qua.
    Thuở ấy tôi còn bé,
    Bạn với ông hơi già.
    Ông người rất hào hiệp,
    Ban ngày mỗi mỗi tiếp.
    Đá gà mà phong lưu,
    Rộn-ràng thê với thiếp.
    Rảnh việc lại ngâm thơ,
    Uống rượu hay đánh cờ.
    Bề nào ông cũng thích,
    Thoi đưa mặc ngày giờ.
    Tôi lớn phải đi học,
    Toán làm với sách đọc.
    Lúc ấy ông thật già,
    Mồi da mà trắng tóc.
    Sau thôi học tôi về,
    Tìm bạn cũ năm tê.
    Hỏi đến ông Viên-Hộ,
    Ông chết răng chừ kia.
    Tôi lấy làm thương nhớ,
    Nhớ bạn già than-thở.
    Bèn đến nhà ông thăm,
    Nhà ông khách lạ ở.
    Tôi hỏi gia-quyến ông,
    Còn ở, ở đâu không?
    Vợ ông đi đâu mất!
    Hầu ông đi lấy chồng.
    Tôi trở về chán ngắt,
    Buồn cho thân kẻ khuất.
    Ông sống nhiều người thương.
    Ông chết không ai nhắc!
    Than ôi! Cái cuộc đời,
    Sống: còn, đến chết: thôi.
    Người thương nói “tội nghiệp”!
    Thế là xong chuyện rồi.
    Xong rồi! Xong rồi thật!
    Không! Còn, còn nắm đất!
    Gió thổi nắm đất bằng,
    Thế là còn hay mất?
    Đời lắm ông Viên-Hộ,
    Có đó, không ngay đó.
    Nghĩ thương cái hình-hài.
    Thoảng qua như chiều gió.
    Thử ngày sau ông Viên,
    Sống lại nhờ phép tiên.
    Trở về nơi đất cũ,
    Hỏi thăm kẻ láng-giềng.
    Còn ai nhớ đến ông?
    Ai ai cũng rằng không!
    Thì ông cười hay khóc?
    Ông về thật luống công.
    Ngó lại trên trời cao,
    Cảnh trời có khác sao?
    Mây đen đuổi mây trắng,
    Khi nào như khi nào…
    Cỏ hoa sao hững-hờ?
    Chào mãi vẫn làm lơ,
    Ôi! Khách đà khách cũ!
    Hoa này phải hoa xưa?
    Bước vào nhà thăm hỏi,
    Cửa nhà lâu đã rụi.
    Thầy thợ đang xây nền,
    Chực làm ngôi nhà mới.
    Chủ nhà đắc ý lắm!
    Tới ngắm rồi lại ngắm.
    Cười reo vênh-váo râu,
    Nhà này sét không thấm!
    Ông Viên tất bật cười,
    Cười mà thương cho ai.
    Tưởng một mình ông dại,
    Ngu mà cũng có đôi!
    Người đời còn mãi thế,
    Được oa mà muốn bể.
    Múa gậy giữa vườn hoang,
    Cũng rung đùi rung vế!
    Ai bảo người khôn đần,
    Khôn vẽ rắn thêm chân,
    Hại nhau khôn kế quỉ,
    Cướp của khôn mưu thần.
    Người khôn là thế đó,
    Nực cười ông Viên-Hộ,
    Chống gậy về núi than:
    “Có khôn chi mô có!”


    o0o

    Thơ ngũ ngôn khó làm cho rung-cảm. Chúng tôi tưởng ít khi có được bài như bài liên-vận sau đây của Nhượng-Tống nói lên tâm-sự một cô gái giang-hồ, vừa chua-xót nỗi mình, vừa đắn-đo cảnh người, đành ôm hận lòng mà từ-khước mọi đề-nghị xây-dựng, chỉ biết có một chữ yêu, yêu thiêng-liêng và trong sạch, thoát hẳn ra ngoài những tính-toán phàm-tục:

    Tâm-sự Gái Một Đêm
    Uổng có sắc nghiêng nước,
    Sinh vào cửa nhà nghèo.
    Một sớm bụng thấy đói,
    Trăm năm thân đành liều.
    Mê-man đám bụi trần,
    Lăn-lóc bông hoa xuân
    Từng cánh lại từng cánh,
    Hôm mai héo héo dần.
    Mưa nắng xóm Bình-khang
    Mười năm bao đoạn-trường.
    Cười nhạt mình biết mình
    Chưa chịu cầu ai thương.
    Cảm anh tiếng thở dài,
    Nhìn nhau khác mắt đời.
    Khêu đèn thức sáng đêm,
    Gan ruột bày anh soi.
    Vườn hồng từ lỏng cánh,
    Ong bướm đua dập-dìu.
    Mua được miệng em cười
    Khôn mua lòng em yêu.
    Miệng cười em bán rẻ,
    Lòng yêu em để dành.
    Không phải đợi giá cao:
    Đợi cho người mắt xanh…
    Mắt xanh đời mấy ai
    Biết cho em lạc-loài.
    Chỉ thấy thân đọa-đày,
    Vội đem lòng mỉa-mai.
    Họ chê mặt em dạn,
    Họ bảo lòng em chết.
    Cắn răng em làm thinh,
    Mặc kệ đời yêu ghét.
    May gặp dạ quân-tử,
    Dám cùng ngỏ tâm-sự.
    Kề vai sẽ kêu oan,
    Khôn cầm tiếng nức-nở.
    Anh bàn cơ-hội sau
    Buồn tênh em lắc đầu.
    Cá nước với chim trời
    Đâu dễ thường thấy nhau?
    Anh tính việc gia-đình,
    Ngơ-ngác, em giật mình.
    Thân này trót đã nhục
    Đâu dám nhục lây anh.
    Lác-đác chòm sao thưa,
    Lạnh-lẽo bóng trăng mờ.
    Một bước tiễn anh ra,
    Trăm tình cùng ngẩn-ngơ.
    Lấp-lánh giọt sương đêm,
    Tưới ướt hoa bên thềm.
    Hái hoa đưa tặng anh,
    Thấy hoa như thấy em.
    Giữ hoa xin giữ kín,
    Nửa ngày hãy nhìn đến.
    Nhìn đến sẽ thương hoa:
    Hương phai màu cũng biến.
    Thăm-thẳm phương trời xa,
    Bảng-lảng bóng trăng tà.
    Nên biết trái tim này,
    Khô héo còn trước hoa.
    Thân này đã xa anh,
    Khác đâu hoa lìa cành.
    Cát vùi với sóng vỗ,
    Bao quản kiếp lênh-đênh.
    Bể cả cánh bèo trôi,
    Duyên ta có thế thôi.
    Hồn mộng gặp không gặp,
    Tử sinh ai khác ai!
    Tử sinh dù chẳng biết,
    Ân tình không đoạn-tuyệt.
    Nhớ anh chẳng thấy anh,
    Đêm sương ngồi bóng nguyệt.
    Bóng nguyệt dãi thềm hoa,
    Nào lúc tiễn anh ra.
    Ngẩng đầu trăng vẫn gần,
    Cúi đầu người sao xa!
    Cùng dưới vầng trăng ấy,
    Ở đâu anh cũng thấy.
    Như chẳng nỡ quên em,
    Bồi-hồi nửa đêm dậy:
    Dậy ngắm vầng trăng bạc,
    Bâng-khuâng tìm mộng trước.
    Nhớ em chẳng thấy em,
    Từng mây nghe tiếng vạc,
    Lại giở cảnh hoa tàn
    Nhìn hoa lệ chứ chan.
    Đem lệ tưới cho hoa
    Chia-sẻ mùi tân-toan:
    Hồn em gửi trong hoa,
    Sẽ được tắm bằng lệ.
    Lệ anh càng chua-cay,
    Hồn em càng mát-mẻ.
    Anh nghèo không nhà vàng,
    Em hèn ở lầu xanh.
    Hàng lệ, tiếng thở dài,
    Duy có thế là tình…
    Thương nhau tiếng thở dài,
    Nhớ nhau hàng lệ nhỏ.
    Miễn lòng ta biết ta,
    Yêu nhau thế là đủ.
    Yêu nhau thế là đủ
    Cho nhau thế là nhiều.
    Người ta giàu sang cả
    Mấy ai từng biết yêu!


    o0o
    [...]
     
  20. teacher.anh

    teacher.anh Rùa lười Thành viên BQT

    [...]

    2. Thơ luật

    Năm 1923, ở Hà-thành có cuộc thi thơ ngũ-ngôn, đầu đề là “Đền Hai Bà”. Giải nhất về ông Hoàng-Thúc-Hội với bài như sau:
    Ngựa Gióng đã lên không
    Rừng Thanh voi chửa lồng.
    Một chồi hoa nụ Lạc
    Muôn dặm nước non Hồng.
    Trăng tỏ gương hồ Bạc
    Mây tan dấu cột đồng.
    Nén hương lòng cố quốc
    Xin khấn một lời chung.

    Kể là một bài ngũ-luật rất tề-chỉnh, chữ đối chặt-chẽ, hai câu kết tỏ tấm lòng thành-khẩn vì non nước, có 10 chữ mà vô hạn cảm-hoài.
    Nhưng người khó tính lại muốn hai câu đầu phải đối nhau nữa. Vì thế ông Đông-Hồ đã đề-nghị sửa: Núi Sóc ngựa lên không
    đề xuống: Rừng Thanh voi chửa lồng.
    cho cân hơn và định rằng trong câu Ngựa Gióng đã lên không chữ đã thừa. Chúng tôi không đồng ý, vì chúng tôi thấy chữ đã rất cần. Có chữ đã ở trên mới bắt xuống chữ chửa trong câu sau, để nói cái thời-gian quật-khởi của hai Bà là vào lúc sau ông Gióng và trước bà Triệu. Bỏ chữ đã đi, câu thơ thành lỏng-lẻo, mất hẳn ý-niệm thời-gian. Chúng tôi tưởng cứ giữ nguyên-văn là hơn, hoặc nếu muốn sửa cho cân thì đối như sau cũng tạm được:

    Ngựa Gióng đã lên không
    Voi Thanh còn chưa lồng.


    o0o

    Một nhà nho đã sỉ-vả bọn tham-quan ô-lại bằng bài ngũ luật:
    Mắng Muỗi

    Chúng bay loài bọ gậy
    Ở nước chỉ hay quấy.
    Xuống dưới đã ăn càn
    Lên trên lại làm bậy.
    Sợ những kẻ nằm màn
    Khinh các người mặc váy.
    Thế cũng gọi là “văn”
    Thật là một lũ xoáy.

    Chữ nho “văn” là muỗi, cùng âm với “văn” là văn-chương.
    Mắng muỗi thật đã đáng lời: Xuống dưới ăn càn, lên trên làm bậy, lại vẽ rõ thái-độ xu-phụ người trên, lấn át kẻ dưới của quân tiểu-nhân trong hai câu “sợ những kẻ nằm màn, khinh các người mặc váy”.

    o0o

    Bài ngũ-luật sau đây có cái giọng ngông-nghênh của một khách làng chơi hào-hoa mã-thượng:
    Tự Trào

    Phong-lưu tính đã quen
    Thằng tôi há chịu hèn.
    Bạc mở vung tàn tán
    Rượu đánh tít cù đèn.
    Trên trời đứt dây xuống
    Dưới đất chật nẻ lên.
    Ao ước còn toan những
    Có tiền để mua tiên!


    o0o

    [...]
     
    SauRiengSG thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này