Nhận định Điển cố - điển tích. Giai thoại... Văn Học. [abc...]

Thảo luận trong 'Tác phẩm và nhận định' bắt đầu bởi tducchau, 18/4/14.

Moderators: Cát Cát
  1. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    THỦ KHẨU NHƯ BÌNH
    (GIỮ MIỆNG KÍN NHƯ BÌNH)


    XUẤT XỨ

    Trong sách “Quý Tân tạp thuyết” của Chu Mật đời Tống có câu: “Phú Trịnh công có câu nói nên “Giữ miệng kín như bình, phòng ngừa ý vững như thành” (Phú Trịnh công hữu “Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành” chi ngữ)


    GIẢNG NGHĨA

    Câu này dùng để hình dung lời nói cẩn thận hoặc nghiêm khắc giữ gìn bí mật.


    ĐIỂN TÍCH

    Phú Bật là đại thần Bắc Tống, tên tự Ngạn Quốc, người đất Hà Nam, thủa thiếu niên đã rất tài học cao. Trạng nguyên xuất thân là Phạm Trọng Yêm tiến cử Phú Bật, Phạm Trọng Yêm rất hâm mộ ông, cho ông là có “vương tá chi tài” (tài phò tá đế vương).

    Phạm Trọng Yêm đem văn chương của Phú Bật khoe với Án Thù, đang là Khu Mật sứ (chức quản phụ trách việc chính trị quan trọng). Án Thù cũng yêu quý tài học của ông bèn gả con gái cho ông.

    Sau này Phú Bật chưa qua kỳ thi tiến sĩ đã được tiến cử lên hòang đế Nhân tông cho làm phán quan Hà Dương rồi được thăng quan chuyển về Khai Phong phủ. Ít lâu sau, Khiết Đan tiến quân vào biên cảnh yêu cầu Bắc Tống cắt đất cầu hòa. Triều đình saỉ Phú Bật giao thiệp với Khiết Đan, ông từ chối cắt đất, bảo toàn cương thổ.

    Khoảng niên hiệu Gia Hựu, Phú Bật giữ chức Tể tướng, nổi tiếng ngang Hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu, Ngự sử trung thừa Bao Chửng và Thị giảng Hồ Dực - Ở thời ấy được giới sĩ đại phu gọi là “Tứ chân" (bốn vị chân chính): Tể tướng chân chính, Hàn lâm học sĩ chân chính, Trung thừa chân chính và bậc thầy chân chính.

    Sau đó, Vương An Thạch chủ trương cải cách chế độ, phần lớn ý kiến không hợp với Phú Bật. Phú Bật tự biết không tranh dành hơn được Vương An Thạch, nên thường lấy cớ bệnh xin lui. Tống Thần tông muốn hỏi ông nên dùng ai thay thế chức Tề tướng? Phú Bật tiến cử Văn Ngạn Bác, Thần tông im lặng không nói gì; một lúc sau, Thần tông hỏi: “Vương An Thạch thì sao?” Phú Bật im lặng. Vì vậy Thần tông mới biết 2 ông bất hòa với nhau. Sau đó Vương An Thạch thực hành tân pháp, Phú Bật có kiến giải khác, lại gặp cảnh bị bỏ rơi, ông bèn xin được về quê dưỡng lão. Thần tông đồng ý phong ông tước Hàn Quốc công.

    Thời gian ở quê nhà, Phú Bật vẫn thường dâng sớ lên hoàng đế bàn về những lợi hại được mất của vận nước. Tuy Thần tông không chấp nhận hết nhưng trước sau vẫn rất kính trọng ông. Bình thường Phú Bật yêu điều thiện ghét điều ác, nhưng không bao giờ tùy tiện biểu lộ ý kiến vui hay buồn, làm việc gì ông cũng coi công là trọng, không cần đến lợi riêng. Ông từng nói: người ta nên “thủ khẩu như bình, phòng ý như thành” nghĩa là nói năng nên cẩn thận, làm việc nên nghiêm khắc ngăn ngừa ý muốn riêng của mình.

    Người đời sau vận dụng câu nói ấy của ông trở thành thành ngữ.


    [...]
     
  2. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    ĐƯƠNG CỤC GIẢ MÊ
    (NGƯỜI TRONG CUỘC MỜ TỐI)


    XUẤT XỨ

    Phần “Nguyên Hành Xung truyện” trong sách Cựu Đường thư có câu: Người trong cuộc mờ tối, người ngoài nhìn lại minh bạch” (Đương cục giả mê, bàng quan kiến thẩm). Phần "Nguyên Hành Xung truyện” trong sách Tân Đường thư cũng có câu: Người trong cuộc gọi là mờ tối, người ngoài nhìn ắt minh bạch (Đương cục xưng mê, bàng quan tất thẩm)


    GIẢNG NGHĨA

    Chữ “Đương cục giả” (người trong cuộc) vốn để chỉ người chơi đánh cờ.

    “Đương cục giả mê, bàng quan giả thanh” (Người trong cuộc mờ tối, người đứng ngoài xem thấy rõ ràng), chỉ đương sự trong cuộc cờ vì suy tính quá nhiều về lợi hại nên xét vấn đề rất mù mờ sai lạc, còn người đứng ngoài xem do vì bình tĩnh, khách quan nên nhận xét rõ ràng minh bạch hơn.


    ĐIỂN TÍCH

    Đời Đường có ông Nguyên Đạm tên tự là Hành Xung là một người có học vấn uyên bác, từng viết bộ “Ngụy điển” gồm 30 thiên, được các học giả đương thời tôn trọng. Một lần, đại thần Ngụy Quang Thừa dâng sớ yêu cầu chỉnh lý lại bản “Lễ ký” của Ngụy Trưng đầu đời Đường. Đường Huyền tông lệnh cho nhóm Nguyên Hành Xung chú giải thêm để ấn hành ban bố.

    Nhóm Nguyên Hành Xung bắt đầu chỉnh lý soạn thành bộ sách 50 thiên chú giải kỹ lưỡng dâng lên Đường Huyền Tông. Lúc ấy, Hữu thừa tướng Trương Thuyết đưa ra ý kiến khác cho rằng sách “Lễ ký” trước đây đã có bản của Đới Thánh đời Tây Hán chỉnh lý, lưu hành đă cả ngàn năm được liệt vào hạng kinh điển rồi, nay lại lưu hành bản của Ngụy Trưng thêm phần chú giải nữa, e rằng không thỏa đáng. Đường Huyền tông đồng ý với ý kiến của họ Trương.

    Nguyên Hành Xung bất mãn với thái độ ấy của Huyền tông, ông viết một bài văn biện giải có tựa đề “Thích nghi” (giải thích những nghi vấn) dùng hình thức chủ và khách vấn đáp lẫn nhau. Trước tiên khách đưa ra vấn đề: “Bộ kinh điển “Lễ ký” do Đới Thánh đời Tây Hán biên soạn và Trịnh Huyền đời Đông Hán chú giải so với bản chỉnh lý của Ngụy Trưng, bản nào tốt hơn?” Chủ đáp: “Bản “Lễ ký” của Đới Thánh sử dụng lưu hành từ cuối đời Hán sau đó trải qua nhiều người tu sửa, chú thích nên có nhiều chỗ tự mâu thuẫn với nhau, Ngụy Trưng suy xét, chọn lọc, chỉnh lý nghiêm túc, bỏ những chỗ thô lậu, chọn những điểm tinh hoa, nào ngờ bị người cố chấp phản đối?” Khách nghe nói than: “Người trong cuộc mờ tối, người ngoài cuộc ắt minh bạch hơn, giống như người chơi cờ, người chơi trong cuộc nhìn xét không rõ ràng bằng người đứng bên ngoài”.

    Ý kiến của Nguyên Hành Xung quả là chính xác; Việc này là bài học cho chúng ta: Làm việc gì cũng nên lắng nghe ý kiến nhiều người chung quanh, không nên cố chấp cho mình là đúng.


    [...]
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/7/16
    Heoconmtv, vuivui2013, Cải and 2 others like this.
  3. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    RẼ MÂY TRÔNG TỎ LỐI VÀO THIÊN THAI


    Nhân lúc cha mẹ và hai em vắng nhà, Kiều đánh bạo sang phòng văn của Kim Trọng:

    “Lần theo núi giả đi vòng,
    Cuối tường dường có nẻo thông mới vào.
    Xắn tay mở khoá động Đào,
    Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai.”

    (Câu 389 đến 392)​

    Thiên thai là tên một hòn núi thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang ở Trung Hoa.


    Sách “Thần tiên truyện” chép :

    Đời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh Bình (58 sau D.L) có hai chàng nho sĩ tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu quê đất Diêm Khê. Gặp tiết Đoan ngọ cũng gọi là Đoan dương (mùng 5 tháng 5 âm lịch), theo tục lệ, người ta thường vào núi Thiên thai hái thuốc chữa bịnh. Hai chàng Lưu, Nguyễn cùng đi. Nhưng chẳng may bị lạc, không tìm được lối về.

    Vơ vẩn trong núi gần tháng trời mà không tìm được lối ra. Lương thực mang theo đã hết đành phải hái những quả đào chín mọc hai bên bờ suối hay ven chân núi để ăn đỡ đói, rồi vốc nước khe mà uống.

    Nhìn dòng nước trong núi chảy ra, hai chàng Lưu, Nguyễn thấy có những hột cơm vừng và lá rau tươi lững lờ trôi, nên đoán chắc cách chỗ người ở không xa nữa. Cả hai bèn lần mò theo đường nước chảy, vượt qua mấy ngọn núi liền mới đến đầu ngọn khe thì thấy cây cỏ xinh tươi, phong cảnh cực kỳ đẹp đẽ. Đương ngẩn ngơ đứng nhìn bỗng nghe tiếng gọi, giọng rất thanh tao:

    - Lưu, Nguyễn hai chàng sao mà đến chậm thế !

    Nghe gọi đích danh mình, hai chàng cực kỳ ngạc nhiên, thì vừa lúc ấy hai cô gái trẻ rẽ hoa đi ra. Thực là đôi giai nhân tuyệt thế. Như quen biết nhau từ xưa, hai nàng ân cần mời hai chàng vô động, và xưng tên là Ngọc Kiều và Giáng Tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu mừng rỡ vì được gặp người – lại người đẹp nữa, nên bằng lòng ngay.

    Đến động bước vào nhìn thấy chung quanh toàn trang trí cực kỳ mỹ lệ, đâu đây thoang thoảng mùi hương. Đến bữa cơm, hai nàng dọn cơm vừng và nem dê rừng mùi vị thơm phức, mời hai chàng dùng. Tối lại, một đoàn mỹ nữ đem mâm đào chín và rượu ngọt đến, đoạn múa hát dưng đào và rượu, chúc tụng: “Chúng em xin có lời mừng tân lang và tân giai nhân nên duyên cầm sắt”. Nói xong, họ lại họp nhau vừa múa vừa hát. Xiêm y lộng lẫy, điệu múa uyển chuyển, giọng hát trong trẻo dưới ánh đèn rực rỡ kết túi ngũ sắc, hai chàng Lưu, Nguyễn say sưa cho mình hạnh phúc lạc vào cảnh tiên.

    Đến khuya, tiệc tàn khách về. hai nàng Ngọc Kiều và Giáng Tiên mời hai chàng Lưu Thần và Nguyễn Triệu cùng nâng ly chúc tụng nhau đêm tân hôn mặn nồng giữa hai nàng và hai chàng bền duyên giai ngẫu.

    Say mê cảnh đẹp, đầm ấm trong tình vợ chồng, hai chàng Lưu, Nguyễn hầu như quên hẳn cảnh trần gian.

    Ở đây, ngày ngày tháng tháng, tiết trời ấm áp hơn Xuân, Không Hạ, không Thu, không Đông, đâu đâu cũng cỏ xanh hoa đẹp, bướm muôn màu nhởn nhơ bay lượn, chim hót véo von, trôi trong mây thanh gió mát đượm mùi hương phảng phất quanh mình. Nhưng thời gian hai năm trôi qua, dầu cảnh đẹp, vợ dầu xinh, khí trời đầm ấm, cỏ có xanh, hoa có đẹp, bướm lượn, chin hót… cũng không sao xoá được nỗi nhớ quê nhà, nên hai chàng thỏ thẻ với vợ xin về thăm, hẹn thời gian ngắn sẽ quay trở lại. Hai nàng buồn bã ngăn hai chàng, không cho về.

    Nhưng lòng mơ nhớ cố hương ray rứt người lữ thứ, hai chàng cứ năn nỉ mãi. Biết không lưu chồng được, hai nàng ngậm ngùi, thở dài bảo :

    - Nhờ hồng phúc tiền thân mà hai chàng được cùng chị em chúng tôi kết duyên chồng vợ, kẻ tiên người tục hoà hợp chốn Thiên thai. Tưởng rằng duyên ưa phận đẹp, trăm ngàn năm giữ một chữ đồng. Nào ngờ hai chàng căn trần chưa dứt nên mới luyến nhớ đòi về quê cũ. Cõi trần nhỏ nhen, kiếp trần ngắn ngủi đầy hệ luỵ, hai chàng có trở về chốn trần gian thì liễu cũ hoa xưa chắc không còn được như ngày trước nữa. Chia ly ai chẳng não lòng nhưng nghiệp chướng khó mà diệt nổi.

    Thế rồi hai nàng tiễn chân hai chàng ra khỏi động, bịn rịn đưa tận xuống núi. Nhìn xa khói lam phủ nóc nhà ai, quanh đi quẩn lại hai chàng ra khỏi núi Thiên thai, chẳng mấy chốc xuống về quê cũ.

    Cây đa cổ thụ đầu làng còn kia nhưng cảnh vật đã khác hẳn trước. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu, Nguyễn là người đồng hương nữa. Cả hai cực kỳ làm lạ. Mới cách chỉ có hai năm, sao cảnh vật lại đổi thay một cách lạ kỳ. Lối cũ không còn. Trừ cây cổ thụ đầu làng giờ đã già cỗi, cánh lá vàng úa chứng tỏ đã xa lâu lắm rồi và bao lần biến đổi. Bỗng một cụ già tuổi đã gần trăm, hai chàng Lưu, Nguyễn đến hỏi thăm. Cụ già bèn kể lại cách độ 400 năm, cụ có một cụ tổ bảy đời tên là Nguyễn Triệu nhân tiết Đoan ngọ cùng bạn là Lưu Thần vào núi hái thuốc rồi biệt tích.

    Bấy giờ Lưu Thần, Nguyễn Triệu mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Cả hai bơ vơ, lấy làm hối tiếc bèn rủ nhau trở lại động Thiên thai.

    Nhưng thảm thay, đi vòng vo, quanh quẩn… cuối cùng lại lủi thủi trở về, vì lối xưa đã lạc mất rồi. Ở quê cũ cho đến đời Tấn Võ đế (265 – 275), Lưu Thần và Nguyễn Triệu mới bỏ đi, không ai còn gặp nữa.

    Đời nhà Đường, Tào Đường có làm 5 bài thơ thuộc loại thơ “du tiên” miêu tả phỏng chừng sự gặp gỡ và sự cách biệt giữa Lưu Thần, Nguyễn Triêu cùng hai nàng tiên ở núi Thiên thai.

    Bài một: Lưu, Nguyễn du Thiên thai (Lưu, Nguyễn đi chơi núi Thiên thai).

    Bài hai: Lưu, Nguyễn động trung ngộ tiên nhân (Lưu, Nguyễn trong động gặp nàng tiên).

    Bài ba: Tiên tử tống Lưu, Nguyễn xuất động (Hai nàng tiên tiễn Lưu, Nguyễn ra động).

    Bài tư: Tiên tử động trung hữu hoài Lưu, Nguyễn (Nàng tiên trong động nhớ Lưu, Nguyễn).

    Bài năm: Lưu, Nguyễn tái đáo Thiên thai bất phục Kiến chư tiên tử (Lưu, Nguyễn trở lại Thiên thai không gặp các nàng tiên).

    Nàng Kiều và chàng Kim gặp nhau thì cái phòng văn của chàng Kim đối với đôi bạn tình son trẻ – trai tài gái sắc nầy nào có khác gì cái động Thiên thai.

    Trong quyển “Đường thi”, dịch giả Ngô Tất Tố có cho rằng: 5 bài thơ nầy thấy trong tập thơ của Tào Đường, nhưng ở “Đường thi cổ xuý”, Hách Thiên Đỉnh lại cho là của Tống Ung. Thực ra cũng chưa biết đích xác là của ai.

    Vậy là còn nghi vấn về tác giả.


    [...]
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/16
    lichan, teacher.anh and Heoconmtv like this.
  4. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    NÀNG BAN Ả TẠ CŨNG ĐÂU THẾ NÀY


    Kiều đến phòng văn của Kim Trọng. Thúy Kiều chú ý đến bức tranh, Kim Trọng cho biết là chàng mới vẽ xong, và xin Kiều đề cho mấy câu thơ vào tranh cho tăng giá trị. Kiều liền nhanh nhẹn cầm bút “tay tiên gió táp mưa sa; khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu”. Kim Trọng thấy ý thơ đã nhanh, văn hay chữ đẹp, chàng tán dương hết lời:

    “Khen tài nhả ngọc phun châu,
    Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này.
    Kiếp tu xưa ví chẳng dày,
    Phúc nào nhắc được giá này cho ngang”.

    (Câu 405 đến 408)​


    Nàng Ban tức là nàng Ban Chiêu, con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố và Ban Siêu, một danh tướng đời Đông Hán (25 – 196).

    Sinh trong gia đình Nho học, cha anh đều là bực tài danh, Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi cài trâm, Ban Chiêu sánh duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà Nho lỗi lạc. Nhưng phận đẹp duyên ưa của đôi vợ chồng trẻ tuổi tài hoa này lại quá phũ phàng. Chỉ vòng 10 năm, ban Chiêu trở thành góa phụ, thủ tiết thờ chồng.

    Vua Hòa đế nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho vời vào cung đề dạy các hoàng tử, cung phi. Ai cũng tôn trọng xứng đáng là bực thầy.

    Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được nhà vua cử soạn thảo bộ Hán thư. Nhưng làm chưa xong, Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lịnh kế nghiệp cha, nhưng công việc chưa xong lại bị lao tù bạo bịnh rồi mất (1). Thấy cha và anh chẳng may bỏ dở công việc. Ban Chiêu tâu xin nhà vua cho nàng được nối tiếp công việc dở dang của cha anh. Nhà vua bằng lòng. Thế là nàng được vào Đăng quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trước tác tập “Nữ giới” gồm 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.


    Cũng nàng Ban, lại có một điển tích khác.

    Nàng họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành đế (32 – 08 trước D.L) đời nhà Hán. Nàng làm nữ quan Tiệp Dư nên thường gọi là Ban Tiệp Dư.

    Nàng đẹp, duyên dáng có tài văn học được vua sủng ái.

    Một hôm vua Thành đế đi du ngoạn ngoài thành, gọi Ban Tiệp Dư cùng ngồi chung xe. Nàng vốn tính khiêm tốn với thân phận và chức vụ của mình, sợ bên ngoài dị nghị, trong cung nội ghét ghen nên từ chối. Không ngờ thái độ khiêm tốn này bị một thứ phi là Triệu Phi Yến gièm pha, tâu với vua ghép nàng vào tội khi quân.

    Vua Thành đế nghe lời Triệu Phi Yến liền phế Ban Tiệp Dư ra cung Trường Tín chầu bà Thái hậu, không được ở trong cung hầu hạ nhà vua. Bấy giờ nhà vua say mê Triệu Phi Yến. Sự sủng hạnh của nhà vua đối với Ban Tiệp Dư ngày càng phai dần.

    Tủi cho thân phận lâm cảnh phũ phàng, nàng buồn bã, lấy một thứ lụa trắng gọi là Tề hoàn (lụa nước Tề) do nàng tự dệt lấy thành một cái quạt tròn, gọi là quạt Hợp hoan. Trên quạt đề một bài thơ để tự ví thân phận mình:

    “Tân chế Tề hoàn tố,
    Hạo khiết như sương tuyết.
    Tái thành Hợp hoan phiến,
    Đoàn đoàn tự minh nguyệt,
    Xuất nhập quân hoài tụ,
    Đông dao vi phong phát,
    Thường khủng thu tiết chí,
    Lương viêm đoạt viêm nhiệt.
    Khí nguyên giáp tư trung,
    Ân tình trung đạo tuyệt.”​

    Phỏng dịch:

    “Mới chế lụa Tề trắng,
    Trong sạch như tuyết sương,
    Làm thành quạt Hợp hoan,
    Tròn như vành trăng sáng,
    Ra vào trong tay vua,
    Phe phẩy sinh gió mát.
    Thường sợ tiết thu sang,
    Khi mát đoạt nồng nhiệt.
    Ném bỏ vào xó rương,
    Ân tình nửa đường tuyệt.”


    Ả Tạ tức là nàng Tạ Đạo Uẩn, con của Tạ Dịch, người đất Dương Hạ đời nhà Tấn (265 – 419). Nàng lúc nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Cha mẹ mất sớm, ở với chú. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Đạo Uẩn và Tạ Lăng hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết hỏi:

    Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?

    Tạ Lãng đáp:

    Muối trắng ném giữa trời. (2)​

    Tạ Đạo Uẩn bảo:

    Chưa bằng gió tung tơ liễu. (3)​

    Tạ An khen nàng thông minh có nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông thường chỉ Đạo Uẩn bảo con cháu: “Nếu là trai. Tạ Đạo Uẩn sẽ vào hàng công khanh.”

    Tạ Đạo Uẩn sau khi kết duyên với Vương Ngưng Chi, cũng là một nhà Nho lỗi lạc đương thời. Làm vợ Vương, nàng thường thay chồng tiếp khách văn chương, luận bàn thi phú. Nàng còn là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục. Em chồng của nàng là Vương Thiếu Chi, học giỏi nhưng lập luận kém, thiếu hoạt bát nên khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng bị mất giá trị nên bảo thị tì thưa với Thiếu Chi, trong khi biện luận với khách cho nàng ngồi sau màn để nhắc. Thiếu Chi vui lòng; nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh.


    Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ (kể như ba: hai nàng Ban) có tài danh về văn chương thi phú. Về sau các nhà văn học thường dùng tiếng “nàng Ban, ả Tạ” để chỉ người phụ nữ có tài danh về văn chương.

    Ngày xưa, chế độ phong kiến, giới nữ bị kiềm chế đủ mặt. Trường học, trường thi tức phương diện văn chương, khoa cử… để mở mang trí thức, để làm quan “dân chi phụ mẫu” đều dành riêng cho nam giới. Tức quá, phải giả trai đi đến trường học (như Chúc Anh Đài), phải giả trai đi thi (như Mạnh Lệ Quân) v.v… nhưng quá hiếm. Thành thử phải học ở nhà, học lóm, học mót… thế mà đã xuất hiện nhiều bực tài danh lỗi lạc trên địa hạt văn chương như ở nước ta có bà Đoàn Thị Điểm, bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương v.v… Như nàng Ban, ả Tạ; và cũng như nàng Kiều mà Kim Trọng đã hết mực tán dương cái tài “nhả ngọc phun châu” của nàng. Tự học, chịu khổ công tự rèn luyện mình cộng với “thông minh vốn sẵn tư trời”, thì so sánh với Kiều chỉ trên địa hạt văn chương, tài năng của nàng Ban, ả Tạ có kiệt xuất cũng chỉ đến thế mà thôi.

    ______

    (1) Vì có kẻ ghen ghét, gièm pha với vua, ông bị hạ ngục. Sau theo một đại tướng đi dẹp giặc Hung nô. Viên đại tướng bị bại trận, ông lại bị hạ ngục lần thứ hai rồi chết trong ngục.

    (2) Nguyên Hán văn: “Tán diêm không trung sai khả nghĩ.” Có nghĩa là cảnh tuyết rơi có thể ví như muối tán nhỏ bay không đều nhau trong không trung.

    (3) Nguyên văn: “Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi.” có nghĩa là không bằng ví với xơ bông liễu bay khi gió nổi.


    [...]
     
  5. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    THẢ MỒI BẮT BÓNG


    Chuyện kể có một con chó lượn qua hàng thịt. Nó quắp được một miếng thịt to và vội vàng tha mồi chạy. Lúc chạy ngang qua cầu, nhìn xuống lòng lạch, với làn nước trong veo, con chó thấy hình bóng của miếng thịt in dưới nước, xem ra còn to hơn miếng thịt nó gậm trong miệng. Thế là chàng ta bèn bỏ miếng thịt trong miệng, lao ngay xuống nước để chộp cái bóng của miếng thịt được rọi to dưới mặt nước. Kết quả miếng thịt cũng mất và bóng chỉ là bóng nên cũng tan đi khi miếng thịt không còn. Thế là con chó đành trơ mõm lội lên và không còn thức ăn để mà ăn.

    Hình ảnh này gợi cho mọi người một loại người tham lam, thường không chịu an phận trong cuộc sống. Không chấp nhận những gì mình hiện có mà mơ tưởng đến những hình ảnh mông lung như chiếc bóng. Sự mơ tưởng làm mờ đi lý trí và không phân biệt đâu là cái có thật đâu là ảo ảnh và sẵn sàng đánh đổi những giá trị có thật mà mình có để bắt lấy những điều hư ảo.

    Trong cuộc sống, để đạt đến một giá trị nào đó người ta thường phải trải qua nhiều gian nan, vất vả. Nhưng khi đạt đến giá trị đó, và tìm thấy sự bình an hạnh phúc trong nó, thì người ta lại quên đi những gian nan vất vả mà mình đã phải trải qua cũng như không còn nhận chân được giá trị cái mà mình đã đạt được. Và với một hào nhoáng nào đó, một bề ngoài có vẻ lợi lộc hơn, vinh quang hơn nào đó. họ đã buông rơi cái hạnh phúc của mình đang có, cái giá trị thật mà mình đang nắm trong tay để theo đuổi cái ảo ảnh mà họ không bao giờ có thể với tới được, hoặc chỉ là cái bóng, vớ vào rồi thì bóng tan, vinh quang giả tạo tan, lợi lộc cũng chẳng có... và chỉ còn biết ngậm ngùi nuối tiếc cho những sai lầm của mình.


    Tương tự với nghĩa này người ta còn có câu:

    “Đứng núi này trông núi nọ”.

    Đứng dưới chân núi, thấy cảnh sắc hùng vĩ, thấy trời mây tráng lệ, con người đã bỏ bao công sức cố gắng trèo lên đỉnh núi để được ở giữa cái hùng vĩ, để nắm bắt cái tráng lệ uy nghi của rừng, để hòa lẫn vào trong cái phong cảnh mà mình yêu thích. Đường đi từ chân núi lên đến đỉnh gian nan ôi là bao, nhưng khi lên đến đỉnh rồi, đứng cạnh một cây dầu một cây si nào đó, họ thấy nó cũng bình thường như bao cây dầu, cây si mà họ thấy ở dưới đồng bằng. Dưới chân họ cũng là đất, lá đá, trên đầu họ vẫn là mây, là gió, họ không có cảm giác mãn nguyện khi họ đã thực hiện được hành trình lên núi như họ đã mong muốn. Vì cái nhìn của họ bây giờ không còn là cái nhìn tổng quan của nơi họ đang đứng mà là cái nhìn sang ngọn núi bên kia, và họ đã thả tưởng tượng đi cao đi xa hơn để nghĩ rằng có lẽ bên kia núi sẽ đẹp hơn!

    Ở đâu cũng thế thôi, mỗi nơi một vẻ đẹp riêng, một đặc điểm riêng! Mỗi nơi có lợi điểm riêng và cũng có bất tiện riêng! Hãy biết mình đang cần gì và chấp nhận những gì mà mình đang có!
     
  6. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    TIẾNG SEN SẼ ĐỘNG GIẤC HOÈ


    Kim Trọng tựa án thiu thiu ngủ, mơ màng thì Kiều nhân lúc cha mẹ và hai em vắng nhà, mới băng lối vườn khuya sang chỗ ở của Kim Trọng:

    “Sinh vừa tựa án thiu thiu,
    Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
    Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
    Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.”

    (Câu 435 đến 438)​

    Trong “Nam Kha kỹ thuật” của Lý Công Tá đời nhà Đường, có kể chuyện Thuần Vu Phần nằm mộng thất mình đến nước Hoè an. Thuần được vua nước này cho vào bái yết. Thấy Thuần tướng mạo Khôi vĩ nên gả công chúa, phong làm phò mã và cho ra quận Nam Kha với chức Thái thú, cai trị một miền.

    Đương lúc vợ chồng sống cuộc đời vương giả cực kỳ sung sướng thì bỗng có giặc kéo đến vây đánh quận Nam Kha. Thuần đem quân chống cự. Giặc đông, thế mạnh, Thuần thua chạy. Quân giặc bao vây, phá thành. Vợ Thuần chết trong loạn quân.

    Thuần Vu Phần độc thân trở về kinh, tâu lại vua cha. Nhà vua cho Thuần là kẻ hèn nhát, bất tài lại nghi Thuần hàng giặc nên tước hết phẩm hàm, đuổi về làm thứ dân. Thuần oan ức vừa tủi nhục, khóc lóc bi thương… Vừa lúc ấy, Thuần chợt tỉnh dậy, thấy mình đương nằm ngủ dưới gốc cây Hoè, trên đầu một cành cây chĩa về phía Nam. Cạnh Thuần có một ổ kiến lớn. Bầy kiến kéo hàng đàn hàng lũ trèo lên cây Hoè.


    Cũng có sách chép:

    Đời nhà Đường có một nho sinh học Lữ đi thi không đỗ. Trở về dọc đường, vừa buồn vừa đói nên ghé vào một nhà chùa con bên cạnh khu rừng, xin cơm đỡ lòng. Chùa nghèo, nhà sư nấu kê đãi khách.

    Vì mệt mỏi nên họ Lữ nằm một lúc thì ngủ khò. Chàng thấy mình thi đỗ, được chức to lại được nhà vua gả công chúa, phong làm phò mã và cho đi trấn nhậm một nơi. Thực là vinh quang, phú quý không ai bằng. Nhưng khi trên đường đi phó nhậm, chẳng may giữa đường gặp giặc đổ đến đánh. Lữ chống không lại. Lính hộ vệ bị giết, xe cộ bị đập tan tành. Vợ chồng Lữ trốn chạy nhưng bị giặc thộp cổ, đưa gươm lên định thọc huyết… Lữ kinh hoảng, kêu lên một tiếng, giựt mình tỉnh dậy, giữa lúc nồi kê chửa chín.


    Sách “Chẫm trung ký” đời nhà Đường chép có khác.

    Có chàng thư sinh họ Lư một hôm vào quán gặp một cụ già xưng là tiên. Trong khi trò chuyện, họ Lư phàn nàn đời mình sao nghèo khổ quá. Cụ già liền đưa cho chàng một cái gối để gối đầu, Giữa lúc ấy, chủ quán đương nấu kê. Lư nằm gối chờ kê chín bỗng ngủ thiếp đi. Lư mộng thấy mình thi đỗ tiến sĩ làm quan Tiết độ sứ, có vợ giàu đẹp lại dẹp được giắc, được vua phong đến chức Tể tướng. Trong 10 năm, Lư sinh 5 người con đều làm quan. Lư sống đến 80 tuổi mới chết… Chợt tỉnh dậy, chủ quán nấu kê chưa chín.


    Kê vàng” tên chữ là gạo “hoàng lương”, một thứ ngũ cốc nhỏ như cát màu vàng. Nhà nghèo bên Trung Hoa xưa dùng kê để ăn thay gạo.


    Cổ văn Việt Nam thường dùng điển tích: giấc hoè, giấc Nam Kha, giấc kê vàng, giấc hoàng lương… để chỉ sự công danh phú quý của người đời chẳng khác nào như một giấc mộng!

    “Đèn thông khêu cạn giấc hoè chưa an.”
    (Bích câu kỳ ngộ – Vô Danh)

    “Giấc Nam Kha khéo bất bình,
    Bưng con mắt dậy thấy mình tay không.”
    (Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)

    “Giấc mộng Nam Kha khéo chập chờn,
    Giữa trời riêng một cảnh giang sơn.”
    (Tát nước – Trần Tế Xương)​

    Trong “Truyện Kiều”, đoạn tả Kiều bị hai tên tay sai của Hoạn Thư là Khuyển, Ưng đánh thuốc mê, đốt nhà, bắt đem về huyện Võ Tích, Kiều mê man, có câu:

    “Vực nàng tạm xuống môn phòng,
    Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai,
    Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
    Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?”

    (Câu 1713 đến 1716)​

    Và, khi Kiều trầm mình dưới sông Tiền Đường được vãi Giác Duyên nhờ ngư ông vớt lên, có câu:

    “Giác Duyên nhìn thực mặt nàng,
    Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.”

    Giấc hoè, giấc hoàng lương, giấc vàng (kê vàng) dùng ở đây chỉ có nghĩa là giấc ngủ.

    Tiếng sen sẽ động giấc hoè”, tiếng sen là tiếng bước chân nhẹ nhàng của một phụ nữ đẹp (tức Kiều). Nguyên ngày xưa, vua Tề Đông hầu say đắm sắc đẹp của nàng Phan phi nên làm hoa sen bằng vàng dát vào nền cung cho nàng đi rồi khen “mỗi bước đi lại nở một bông sen (bộ bộ sinh liên hoa)”. Cũng như khi nói “gót sen” tức nói chân đẹp của một phụ nữ kiều diễm, để chỉ gót chân đẹp của Kiều:

    “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.”
    (Câu 378)​
     
    Last edited by a moderator: 27/7/16
    teacher.anh, Heoconmtv and lichan like this.
  7. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    NHÂN KIỆT ĐỊA LINH
    (NGƯỜI HÀO KIỆT, ĐẤT LINH THIÊNG)


    XUẤT XỨ

    Trong bài “Đằng Vương các tự” của Vương Bột đời Đường có câu: “Vật quang hoa vốn sẵn báu trời, ánh long tuyền chiếu suốt tới vực sao Đẩu sao Ngưu; người hào kiệt là nhờ khí linh của đất đai, có hạng Từ Trĩ để cho Trần Phồn hạ giường xuống” (Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư; nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp).

    GIẢNG NGHĨA

    Câu ‘Nhân kiệt địa linh” có ý chỉ nhân vật kiệt xuất giáng sinh nơi nào hay đi qua nơi nào, nơi ấy trở thành nơi danh thắng.

    SỬ LIỆU

    Văn học gia trứ danh đời Đường là Vương Bột (sinh năm 650 – mất năm 676) người đất Long Môn (nay thuộc Sơn Tây), thủa thiếu niên tài hoa xuất chúng. Ông cùng với Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương nổi tiếng ngang nhau, được văn học sử gọi là “Sơ Đường tứ kiệt”. Năm 675, Vương Bột đi xuống phương nam thăm cha, đi qua Nam Xương, gặp ngày trùng dương mồng 9 tháng 9, lúc ấy đô đốc họ Diêm mở đại yến ở gác Đằng vương đất Hồng châu (trị sở tại Nam Xương) chiêu đãi các bạn đồng liêu. Vương Bột cũng được mời tới, ngồi cuối bàn tiệc.

    Rượu uống qua 3 tuần, đô đốc họ Diêm nói với mọi người: “Gác Đằng vương là thắng cảnh ở Hồng Đô, xin mời chư vị viết một bài đề tựa cho Đằng vương các để khắc vào bia đá lưu niệm muôn đời, Xin chư vị đừng từ chối”. Dứt lời, người ta đưa giấy bút lên trước mặt mọi người, nhưng không ai dám cầm bút viết. Mọi người cứ từ chối nhường cho nhau, đến nửa ngày trời, chưa ai cầm bút lên. Giấy bút đưa tới trước mặt Vương Bột, mọi người cứ tưởng ông sẽ từ chối như mọi người, nào ngờ Vương Bột nhấc ngay lấy bút, cúi đầu trầm tư. Các vị khách thấy ông chẳng có ý muốn khiêm nhượng đều lấy làm bực bội, mọi người hỏi nhau: “Người trẻ tuổi kia là ai mà dám vô lễ đến thế?” Chỉ có đô đốc họ Diêm là khoan khoái nghĩ bụng: “Bao nhiêu danh nhân học sĩ có mặt đều không dám cầm bút viết, thế mà tên hậu sinh này lại chẳng biết trời cao đất dày!” Hắn ta dặn dò các thủ hạ xem xét coi Vương Bột viết ra sao rồi báo lên.

    Một lúc sau, kẻ thủ hạ báo lên 4 câu đầu: "Nam Xương quận cũ (tức là) Hồng Đô phủ mới, ở vào địa phận sao Dực sao Chẩn, địa thế liên tiếp từ núi Hành và núi Lư” (Nam Xương cố quận, Hồng Đô tận phủ, tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hanh Lư). Đô đốc họ Diêm cho rằng đây chỉ là 4 câu bình thường tả địa thế của Đằng Vương các, ai cũng phải viết như vậy mà thôi. Lại mấy câu nữa được đọc lên, Diêm đô đốc vẫn chưa thấy gì xuất sắc.

    Một lúc sau, bỗng nghe có tỉếng đọc lên: "Vật quang hoa vốn sẵn báu trời, ánh long tuyền chiếu suốt tới vực sao Đẩu sao Ngưu; người hào kiệt là nhờ khí linh của đất đai, có hạng Từ Trĩ để cho Trần Phồn hạ giường (Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư; nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp).

    Lúc này họ Diêm đã có hơi chấn động. Câu này Vương Bột dùng hai điển cố vạch rõ Hồng Châu là đất thiên thời, địa lợi, nhân kiệt. Vật có tinh hoa, trời có trân báu, ánh sáng của bảo kiếm long tuyền sáng rực đến giữa vùng tinh tú sao Đẩu sao Ngưu.

    Điển cố này xuất phát ở trong sách Tấn thư, phần “Trương Hoa truyện”: Tương truyền rằng thời Tấn Võ đế, trung thư lệnh Trương Hoa nhờ phát hiện giữa vùng sao Đẩu sao Ngưu thường phát ra sắc màu tía nên cho rằng tinh hoa của kiếm báu chiếu tới trời cao liền sai thuật sĩ Lôi Hoán đi tìm kiếm báu. Quả nhiên Lôi Hoán tìm được 2 thanh kiếm báu, trong ấy có thanh kiếm tên “Long tuyền”. Hai câu này nhắc tới vật quý báu ở Hồng châu.

    Còn câu “nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp” là điển cố xuất xứ từ sách Thế thuyết tân ngữ, Từ Trĩ người Nam Xương quận Dự Chương thời Đông Hán, nhà nghèo, cày cấy mưu sinh không chịu ra làm quan. Ông ta kết bạn với thái thú Dự Chương Trần Phồn. Bình thường Trần Phồn không thích tiếp đãi khách khứa nhưng vẫn để dành một cái giường đặc biệt cho Từ Trĩ, chỉ khi nào Trĩ đến chơi, cái giường ấy mới được hạ xuống, Trĩ về rồi giường lại treo lên, không để cho ai khác sử dụng. Ở đoạn văn này ý nói Hồng châu có nhân tài kiệt xuất.

    Họ Diêm đang thú vị thưởng thức, người đọc lại đọc lớn đến 2 câu: “Chim âu cùng ráng chiều cùng bay. Nước sông với trời cao một sắc” (Lạc hà dữ cô lộ tề phi. Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc). Đô đốc họ Diêm vỗ bàn khen tuyệt diệu: “Hay quá! Hay quá! Quả là tuyệt hay!”

    Vương Bột viết một mạch xong toàn văn.

    Cuối cùng ông làm một bài thơ:

    Đằng Vương cao các lâm giang chử
    Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
    Hoạ đống triêu phi Nam phố vân
    Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ
    Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
    Vật hoán tinh di kỷ độ thu
    Các trung đế tử kim hà tại
    Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.​

    Bên sông đây gác Đằng Vương,
    Múa ca đã hết, ngọc vàng nào ai.
    Cột rồng Nam phố mây bay,
    Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây sớm chiều.
    In đầm, mây vẩn vơ trôi,
    Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu?
    Đằng vương trong gác giờ đâu?
    Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

    (Trần Trọng San)​

    Từ đó, bài "Đằng vương các tự” của Vương Bột nổi tiếng khắp nơi, lưu truyền đến tận ngày nay. Bài này có nhiều giai cú tuyệt hay và nhiều câu đã trở thành thành ngữ người ta thường dùng. 'Nhân kiệt địa linh’ là một câu trong số ấy. Tiếc thay, Vương Bột chết đuối khi vượt biển, tuổi mới vào 27.


    [...]
     
    teacher.anh, lichan and Heoconmtv like this.
  8. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    BÂNG KHUÂNG ÐỈNH GIÁP NON THẦN


    Ðoạn diễn tả Kim Trọng thiu thiu ngủ, mơ màng có câu:

    “Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,
    Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.”

    (Câu 439 đến 440)​

    Ðất Cao đường, bên cạnh đầm Vân Mộng có ngọn Vu Sơn của dãy núi Vu Giáp thuộc tỉnh Hồ Bắc ở Trung Hoa. Ðời Xuân Thu (772 – 480 trước D.L) vua Sở Tương vương thường đến du ngoạn. Một hôm nhà vua đến đấy, say sưa ngắm cảnh, một lúc mệt mỏi nằm ngủ dưới chân núi Vu Sơn.

    Trong lúc say ngủ, Vua Sở Công thấy một thiếu nữ tuyệt sắc, tha thướt đến bên mình, rồi cùng vua chung chăn chung gối. Sau khi cùng giai nhân thoả tình ân ái, nhà vua hỏi:

    – Chẳng hay ái khanh ở đâu đến đây để quả nhân duyên may gặp gỡ?

    Nàng mỉm miệng cười duyên, thưa:

    – Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn, qua chơi đất Cao Ðường, vốn cùng nhà vua có tiền duyên, nay được gặp gỡ thật thoả lòng mong ước. Thiếp có nhiệm vụ buổi mai làm mây, chiều làm mưa ở Dương Ðài.

    Nói xong đoạn biến mất.

    Nhà vua chợt tỉnh dậy, cảm thấy mùi hương như còn thoang thoảng quanh mình. Mộng đẹp vơ vẩn trong trí não, nhà vua thấy luyến tiếc vô cùng. Nhưng rồi ngủ đi ngủ lại, cả đêm lẫn ngày, nhà vua mong được lại khách giai nhân trong mộng đẹp ái ân, nhưng con người đẹp đó không còn xuất hiện nữa. Nhà vua sai người lập miếu thờ gọi là miếu "Vu Sơn thần nữ". Cảm nhớ người đẹp trong mộng, vua Sở thuật lại cho quan Ðại phu là Tống Ngọc nghe. Vốn một danh sĩ đương thời, Tống Ngọc liền làm bài "Phú Cao đường" ghi lại sự gặp gỡ trong mộng của vua Sở cùng thần nữ Vu Sơn ở đỉnh Vu Giáp:

    “Tiên vương du Cao đường,
    Ðái nhi trú tầm.
    Mộng kiến nhứt phu nhân viết:
    “Thiếp Vu Sơn chỉ thần nữ dã,
    Vi Cao Ðường chỉ khách.
    Văn quân du Cao Ðường,
    Nguyện tiến chẫm tịch.”
    Vương nhận hạnh chi,
    Khứ nhi tử viết:
    “Thiếp tại Vu Sơn chỉ dương,
    Cao khâu chi trở.
    Triệu vi hành vân,
    Mộ vi hành vũ.”​

    Tạm dịch:

    “Tiên vương dạo Cao Ðường,
    Mỏi mệt ngủ ngày,
    Mộng gặp người đàn bà nói:
    “Thiếp là thần nữ Vu Sơn,
    Ðến Cao Ðường làm khách.
    Tin vua dạo Cao Ðường,
    Nguyện dâng cùng chăn gối.”
    Vua nhận yêu nàng.
    Khi đi nàng nói:
    “Thiếp ở Vu Sơn chốn Ðương đài,
    Cao khâu hiểm trở.
    Sớm đi làm mây,
    Chiều đi làm mưa.”

    Trong bài "Thanh bình điệu" của thi hào Lý Bạch đời nhà Ðường, có câu:

    “Nhứt chi nùng diếm lộ ngưng hương,
    Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.”​

    Ngô Tất Tố dịch:

    “Một cành sương đọng ngát hương thơm,
    Mây mưa Vu Giáp nỗi đau lòng.”


    Trong bài "Ðĩ già đi tu" của Tôn Thọ Tường, có câu:

    “Chày Kình gióng tỉnh giấc Vu Sơn,
    Mái tóc Kim Sinh nửa trắng vàng.”

    Cùng đầu đề trên, cụ Huỳnh Mẫn Ðạt có câu:

    “Lầu xanh thảnh thót tiếng chuông chiều,
    Tỉnh giấc Cao Ðường lúc ngửa nghiêng.”

    Những tiếng "giấc Vu Sơn", "giấc Cao Ðường", "Ðỉnh Giáp", "Vu Giáp", "Giấc mộng Dương Ðài"... đều chỉ việc trai gái chung chạ chung chăn gối, ấu yêu nhau. Dùng những tiếng này để tránh những tiếng tục. Nhưng vì thần nữ ở Vu Sơn của đỉnh Vu Giáp cho rằng "sớm đi làm mây, chiều đi làm mưa" nên nhân đó, người ta thường dùng "mây mưa" (vân vũ) cùng có ý nghĩa như trên.

    Khi Kim Trọng tỏ vẻ lả lơi, suồng sã, Kiều van lơn, lý luận khuyên ngăn, có câu:

    “Mây mưa đánh đổ đá vàng.
    Quá chiều nên đã chán chường yến oanh.”

    (Câu 513 và 514)​

    Cũng có lúc để chỉ cơn giận như đoạn miêu tả mẹ của Hoạn Thư khi hai tên Khuyển, Ưng bắt Kiều đưa đến:

    “Bất bình nổi trận mây mưa,
    Nhiếc rằng: những giống bơ thờ quen thân.
    Con nầy chẳng phải thiện nhân,
    Chẳng phường trốn chúa cũng quân lộn chồng.”

    (câu 1727 đến 1730)​

    "Mây mưa" ở đây không có nghĩa như điển tích trên.

    Riêng về tiếng "mưa gió" cũng có hai nghĩa.

    Ðoạn miêu tả một trận cuồng dục, dâm bạo của Mã Giám Sinh đối với Kiều khi mua Kiều, trong đêm tạm ở trú phường trước khi đem về lầu xanh giao cho Tú Bà:

    “Một cơn mưa gió nặng nề,
    Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.”

    (Câu 847 và 848)​

    Hoặc nhẹ nhàng hơn qua câu trả lời của Kiều khi mụ Tú Bà dặn dò:

    “Nghề chơi cũng lắm công phu,
    Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.
    Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,
    Liều thân thì cũng phải liều thế thôi.”

    (Câu 1201 đến 1204)​

    Lại cũng chỉ sự đánh đập tàn nhẫn, đoạn tả Kiều bị mẹ của Hoạn Thư ra lịnh cho bọn a hoàn dùng trúc côn đánh đập Kiều:

    “Xót thay đào lý một cành,
    Một phen mưa gió tan tành một phen.”

    (câu 1741 và 1742)​

    "Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần", ý chỉ Kim Trọng mơ nhớ say sưa mộng thấy Kiều... như Sở Tương vương mộng thấy thần nữ - người đẹp - cùng giao hoan, mà nhà tâm lý học cùng nhà y học cho là "mộng dâm". Qua cuộc ái ân, người nằm mộng tỉnh dậy, khiến lòng càng say sưa mơ nhớ, bâng khuâng hơn:

    “Vẩn vơ còn nhớ người trong mộng,
    Mộng đến tàn canh cũng não nùng !.
    ” (1)​

    Trong "Truyện Kiều", tác giả diễn tả liên tiếp bốn câu:

    “Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
    Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
    Bâng khuâng Ðỉnh Giáp non thần,
    Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.”

    Dùng hai điển tích: Từ giấc ngủ chợt chiêm bao đến... liền đó để diễn tả sự say mê đắm đuối của chàng Kim, và mối tình của cả hai, nhất là đối với Kim Trọng vỡ tan như một giấc mộng hay chỉ là một giấc mộng, mãi đến 15 năm sau mới có thực khi Kiều được sum họp gia đình.

    Nghệ thuật diễn tả quá khéo.


    [...]
    ______

    (1) “Đầy vơi” – Thơ của Tchya (Đái Đức Tuấn)
     
    teacher.anh, lichan and Heoconmtv like this.
  9. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    BẤT TRI SỞ VÂN
    (KHÔNG BIẾT NÓI GÌ)

    XUẤT XỨ

    Trong bài “Tiền xuất sư biểu” của Gia Cát Lượng có câu: “Dâng biểu rơi nước mắt, không biết nói gì” (Lâm biểu thế khấp, bất tri sở vân).


    GIẢNG NGHĨA

    Ý của câu “Bất tri sở vân” là không biết nói gì, vốn là câu tự khiêm của Gia Cát Lượng. Hiện nay dùng câu này phiếm chỉ ngôn ngữ hỗn loạn, phù phiếm.


    ĐIỂN TÍCH

    Thời Tam Quốc, nước Đông Ngô đánh úp chiếm Kinh Châu, giết chết đại tướng nước Thục là Quan Vũ; Thục chúa Lưu Bị không nghe lời can ngăn của Thừa tướng Gia Cát Lượng, đem quân đi báo thù (cho em kêt nghĩa với mình là Quan Vũ), lại bi đánh bại. Lưu Bị rút về giữ thành Bạch Đế (nay thuộc Tứ Xuyên) rồi vì lo mà ngã bệnh, bèn sai người đi mời Gia Cát Lượng đến dặn dò việc sau này. Gia Cát Lượng đang ở tại Thành Đô, vội vàng tìm đến thành Bạch Đế. Lưu Bị nói với ông: “Tài năng của ông hơn Tào Phi gấp mười lần, ắt sẽ an định được tổ quốc, hoàn thành sự nghiệp nhất thống. Nếu như con trai ta đáng cho ông phò tá ông hãy phò tá, còn nếu nó bất tài, ông hãy thay thế nó (mà làm vua)”. Nói dứt, Lưu Bị qua đời. Gia Cát Lượng quyết tâm phò tá Lưu Thiện, con trai Lưu Bị để hưng thịnh nhà Hán. Sau khi tổ chức xong lễ tang, ông chiêu tập quần thần đưa Lưu Thiện lên ngôi đế.

    Bấy giờ, ở phương nam có tù trưởng dân tộc Di tên Mạnh Hoạch, chứng kiến nước Thục thảm bại vì Ngô, lại đang có tang lớn, y thừa cơ đem quân đánh Thục. Gia Cát Lượng sai người đi vỗ về Mạnh Hoạch, tạm đình chiến để nghi ngơi và liên kết giao ước với Đông Ngô, đợi thế lực khôi phục.

    Năm 225, không quản ngại đang giữa mùa hạ nóng nực, Gia Cát Lượng chỉ huy đại quân vượt qua sông Lư tiến xuống phương nam đánh Mạnh Hoạch. Ông áp dụng sách lược “cao nhất là đánh vào lòng người, thấp là đánh thành” giao chiến với Mạnh Hoạch nhiều lần, 7 lần ông bắt sống y lại 7 lần tha y. Cuối cùng, Mạnh Hoạch tâm phục quy hàng Thục Hán, y nói với Gia Cát Lượng: “Uy trời của thừa tướng, tôi không bao giờ dám làm phản nữa!”.

    Bình định xong phương nam, cởi bỏ được nỗi lo sau lưng, Gia Cát Lượng quyết định thực hiện chí hướng của Lưu Bị, đem quân đánh lên nước Ngụy phương bắc. Trước khi xuất quân, ông dâng lên Lưu Thiện một tờ biểu trần thuật từ khi Lưu Bị lập sự nghiệp nửa đường đã chết, kể đến bản thân mình “nhận nhiệm vụ vào lúc nguy nan” đến nay đã hơn 20 năm. Ông dư biết Lưu Thiện chỉ là hôn quân bất tài, nên trong biểu ông nhiều lần khuvến cáo Lưu Thiện “hãy thân cận hiền thần, xa bọn tiểu nhân” “tìm kiếm và nghe những ý kiến có ích”. Cuốỉ cùng, Gia Cát Lượng viết câu “Kim đương viễn ly, lâm biểu thế khấp, bất tri sở vân”. (Nay sắp đi xa, dâng biểu rơi nước mắt, không biết nói gì) biểu đạt sự khẩn thiết của mình.

    Câu này của Gia Cát Lượng sau được rút gọn trở thành câu thành ngữ như trên.
     
    teacher.anh, lichan and Heoconmtv like this.
  10. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    NÀNG RẰNG: “HỒNG DIỆP XÍCH THẰNG…”


    Nhân cha mẹ và hai em vắng nhà chưa về, đêm khuya Kiều trở lại sang chỗ ở của Kim Trọng. Thấy chàng Kim có lời nói bay bướm, thiếu vẻ nghiêm chỉnh, Kiều khéo léo mở lời khuyên.

    “Nàng rằng: “Hồng Diệp xích thằng,”
    Một lời cũng đã tiếng rằng Tương tri.
    Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
    Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai!”

    (Câu 459 đến 462)​

    “Hồng diệp” đã nói ở bài “Cạn dòng lá thắm…

    “Xích thằng” là tơ đỏ hay tơ hồng, chỉ hồng.

    Đoạn diễn tả cha mẹ Kiều khóc lóc kể lể đưa tiễn Kiều đi theo tên lái buôn người Mã Giám Sinh, thì tên họ Mã nầy lại thề độc để cha mẹ Kiều yên lòng, có câu:

    “Cạn lời khách mới thưa rằng:
    “Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
    Mai sau dầu đến thế nào,
    Kìa gương nhựt nguyệt nọ dao quỷ thần.”

    (Câu 903 đến 906)​

    Sách “Tục U quái lục” có chép.

    Đời nhà Đường có chàng nho sĩ tên Vi Cố đến Nam Điện ở Tống Thành, trọ một ngôi chùa để học tập, chuẩn bị đi thi. Một đêm nhân trời quang mây tạnh, trăng sao vằng vặc, gió hiu nhẹ thổi, chàng thơ thẩn dạo chơi, ngắm xem phong cảnh. Đến một quãng vắng, chàng bỗng ngạc nhiên vì nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi dưới ánh sáng trăng, mắt nhìn vào quyển sổ to, tay se tơ đỏ. Trông người tiên phong đạo cốt. Vi Cố lấy làm lạ đến gần, hỏi:

    – Chẳng hay lão trượng ở đâu đến đây mà ngồi một mình giữa đêm khuya canh vắng? Còn sách này là sách gì mà to nặng thế nầy, và tơ đỏ nầy cụ se làm gì lại nhiều thế ?

    Cụ già đáp:

    – Ta là Nguyệt Lão, xem sổ định hôn của nhân gian. Còn chỉ ta đương se là duyên của vợ chồng do tơ này buộc lại.

    Vi Cố mừng rỡ, yêu cầu cụ già cho biết duyên của mình và xe tơ giùm. Cụ già mỉm cười, nói:

    – Số duyên của nhà ngươi là con bé hiện mới ba tuổi, con của mụ ăn mày, thường ăn xin ở chợ Đông Đô.

    Vi Cố nghe nói hỡi ôi, buồn tủi không nói được tiếng. Cụ già biết ý, bảo:

    – Đó là duyên trời định. Già này không thay đổi được. Mà nhà ngươi muốn tránh cũng chẳng xong.

    Vi Cố buồn bã, từ giã lủi thủi đi về.

    Đêm nằm băn khoăn không ngủ được, nhưng lòng vẫn còn bán nghi, huyễn hoặc hay thực tế?

    Sáng hôm sau, Vi Cố ra chợ Đông Đô, quả thực trông thấy một mụ ăn mày dơ dáy, tay ẵm đứa bé gái 3 tuổi, thơ thẩn xin ăn ở góc chợ. Vi Cố bực tức, mướn một gã lưu manh đâm chết được đứa bé kia, sẽ thưởng nhiều tiền. Tên lưu manh ưng chịu, nhận lấy một số tiền trước. Hắn liền cầm dao lén đến, chém một nhát vào đầu đứa bé. Mụ ăn mày hốt hoảng, ôm con chạy. Nhìn thấy máu tuôn xối xả, tên lưu manh tưởng đứa bé đã chết, sợ người bắt nên cuống cuồng chạy trốn.

    Mười lăm năm sau, Vi Cố đi thi đỗ Thám Hoa. Vào triều bái yết nhà vua xong, Cố ra lễ quan Tể Tướng họ Châu vốn làm Chủ khảo khoa thi. Thấy quan tân khoa chưa vợ, quan Tể Tướng liền gả con gái cho. Vi Cố mừng rỡ, bái tạ.

    Đến khi động phòng hoa chúc, Cố nhìn thấy vợ mỹ miều, đẹp đẽ lấy làm hớn hở, vừa ý. Chợt nhìn ở sau ót có một vết thẹo, chàng lấy làm lạ hỏi. Nàng thành thật kể rõ thân thế mình vốn là con của mụ ăn mày, 15 năm về trước bị tên lưu manh ác độc, không biết có thâm thù gì lại chém nàng. May mẹ nàng nhanh chân chạy khỏi, nàng chỉ bị thương sau ót. Mẹ chết, nàng chịu cảnh bơ vơ, may Tể Tướng đi gặp giữa đường, vì không con nên đem về nuôi xem như con đẻ.

    Nghe vợ thuật, Vi Cố thở dài, lẩm bẩm:

    – Thật là duyên trời định, tránh không khỏi được!

    Tuy than thở nhưng Vi Cố cũng lấy làm hả dạ, vì dù sao... vợ cũng đẹp và là con yêu của nhà quan to.

    Khi nói “tơ đỏ” (xích thằng) tất nói đến Nguyệt lão hay ông Tơ.

    Trong vở kịch thần thoại "Lên cung trăng" của Ngô Tổ Quang có chép.

    Hậu Nghệ, người nước Hữu Cùng ở biển Đông, sau khi bắn 9 mặt trời cứu dân thoát khòi nạn lửa thiêu, được tôn làm hoàng đế. Một đêm cùng hai người đồ đệ là Ngô Cương và Phùng Mông đi đi săn trở về. Cả ba gặp một ông lão ngồi dưới ánh sáng trăng, tay cặp một quyển sổ to, trên sổ buộc tơ đỏ chằng chịt. Hậu Nghệ lấy làm lạ, hỏi:

    – Thưa cụ! Quyển sổ gì to lại có buộc tơ đỏ thế kia?

    Cụ già đáp:

    – Quý nhân đã hỏi, già này phải nói thực: già này chuyên coi việc hôn nhân thiên hạ. Đây là quyển sổ cưới gả của người thế gian.

    – Thế thì may quá. Ba thày trò chúng tôi còn độc thân, nhờ cụ xét coi việc hôn nhân chúng tôi thể nào?

    Ngô Cương đến trước nghiêng mình thi lễ, xưng tên họ và nhờ cụ già xem. Cụ già giở sổ xem một lúc nhưng không nói. Hậu Nghệ hỏi:

    – Thưa cụ thế nào?

    Ngô Cương nóng nảy, giục:

    – Có không cụ?

    Cụ già đáp:

    – Số tráng sĩ trọn đời không vợ.

    Ngô Cương mỉm cười:

    – Không vợ cũng chả sao.

    Đến phiên Phùng Mông. Cụ già bảo:

    – Vì tráng sĩ chưa quyết, còn tấn thối lưỡng nan, nên việc hôn nhân vì thế mà chưa nhứt định.

    Hậu Nghệ cất tiếng cười ha hả:

    – Té ra hai đứa học trò đều không vợ cả. Vậy dám phiền cụ xét coi số phận của Nghệ nầy ra sao?

    Cụ già cúi đầu giở từng trang sổ tìm kiếm, một lúc kêu lên:

    – Có đây rồi. Cách đây rất xa, ở trong một cái hang hiu quạnh tại phương Bắc. Cô con gái nhà nghèo, mình không áo che thân, cơm không đủ ngày hai bữa.

    Hậu Nghệ tỏ vẻ bất bình:

    – Tôi có một người vợ như thế sao?

    Cụ già cười bảo:

    – Nàng là chim phượng hoàng, là đóa hoa khôi. Kiếp trước đã định rồi, đời nầy sẽ tác hợp. Nhưng hiện giờ, nàng còn nhỏ quá.

    Nghệ nóng nảy hỏi:

    – Thì mấy tuổi.

    – Mới có 6 tuổi thôi!

    Phùng Mông, Ngô Cương nín không nổi, bật cười, nhưng thấy Hậu Nghệ có vẻ giận nên không dám cười nữa. Hậu Nghệ cau mày nói với cụ già:

    – Tôi không tin.

    – Già nầy có bắt buộc quý nhân tin đâu. Nhưng già đã nói là không bao giờ sai. Sổ nhân duyên đã chép, đâu có phải nói chơi được.

    Hậu Nghệ lẩm bẩm:

    – Nhưng nó mới có 6 tuổi.

    Cụ già bình thản, nói một hơi:

    – Sau 10 năm nữa há chẳng 16 tuổi ư? Sau 20 năm nữa há chẳng phải 26 tuổi ư? Lại 60 năm nữa há chẳng phải 66 tuổi ư? Quý nhân chẳng biết con gái lớn lên, thay đổi đến mười tám lần sao?

    Hậu Nghệ bực tức, lớn tiếng:

    – Rõ ràng là cụ muốn trêu tôi!

    Cụ già đĩnh đạc, bảo:

    – Ngàn dặm nhơn duyên một sợi tơ, trêu đùa sao được.

    Hậu Nghệ giận dữ toan xốc lại đánh, quát:

    – Rõ đồ quỷ.

    Nhưng cụ già đã biến mất.

    Mười năm sau, Hậu Nghệ sai Ngô Cương đến phương Bắc, tìm gái đẹp về làm Hoàng hậu. Ngô Cương tìm bắt được Hằng Nga, chính là cô gái đúng như lời cụ già đã nói trước.

    Cụ già đó là “Nguyệt Lão” hay “Ông già ngồi dưới trăng” (Nguyệt hạ lão nhân) hay cũng gọi là “Ông Tơ”.

    Trong “Truyện Kiều", có câu:

    “Dù khi lá thắm chỉ hồng,
    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.”

    Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, cũng có câu:

    “Tay Nguyệt Lão khờ sao có một,
    Bỗng tơ tình vướng gót cung phi."

    Và:

    “Tay Nguyệt Lão chẳng se thì chớ,
    Se thế này có dở dang không?”

    “Truyện Kiều”, khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, tìm gặp Kiều từ giã. Kiều đau lòng:

    “Tai nghe ruột rối bời bời,
    Ngập ngừng nàng mới giải lời trước sau:
    “Ông tơ ghét bỏ [1] chi nhau,
    Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.”

    (Câu 547 đến 550)​

    Và, đoạn diễn tả Kiều ký giấy bán mình cho Mã Giám Sinh:

    “Mé ngoài họ Mã vừa sang,
    Tờ hoa đã ký cân vàng mới trao.
    Trăng già độc địa làm sao,
    Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.”

    (Câu 685 đến 688)​

    Khi Từ Hải nghe lời Kiều hàng triều đình, lầm mưu bị giết chết, tên Tổng đốc Hồ Tôn Hiến bắt Kiều đánh đàn hầu rượu, rồi sợ tai tiếng mang vạ, bắt ép Kiều gả cho tên thổ quan, có câu:

    “Lịnh quan ai dám cãi lời,
    Ép tình mới gán cho người thổ quan.
    Ông Tơ thật nhẽ đa đoan,
    Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?”

    (Câu 2597 đến 2600)​

    “Tơ hồng”, “chỉ hồng” (dù khi lá thắm chỉ hồng – câu 333; duyên em dù nối chỉ hồng – câu 2243) để chỉ việc nhân duyên vợ chồng đã định trước. “Ông Tơ”, “Nguyệt lão”, “Trăng già” chuyên xe tơ theo sổ nhân duyên. Trong lễ cưới, có lễ Tơ hồng tức là lễ vị thần chủ trì tơ hồng, buộc chỉ hồng tức Nguyệt lão (trong màn làm lễ Tơ hồng kết duyên – câu 2134), tức cụ già ngồi dưới trăng đó.

    Nên duyên chồng vợ đạt được ý nguyện, người ta cảm ơn ông. Nhưng ông thường bị người ta trách nhiều hơn vì tình duyên thường bị dang dở, không toại nguyện… Đây cũng là một tư tưởng theo triết thuyết định mệnh của Nho gia “nhứt ẩn nhứt trác sự giai tiền định” [2]. Ăn một miếng cơm, uống một ngụm nước đều có định trước, thì nhân duyên vợ chồng con người – theo họ – cũng chỉ thế mà thôi. Ca dao ta có câu:

    “Bắc thang lên đến tận trời,
    Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
    Đánh thôi lại trả vào đây,
    Hỏi ông Nguyệt lão nào dây tơ hồng.”

    ______

    [1] Có bản chép: “Ông Tơ gàn quải chi nhau”. “Gàn quải” là làm trắc trở, rắc rối.

    [2] Nguyên câu trong sách “Mạnh Tử”: “… Vạn sự phân dĩ định, phú sinh không tự mang”. (Muôn sự đều có định phần, chỉ có sự sống nổi trôi làm băn khoăn).
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/8/16
    teacher.anh, nhungnhinh783 and lichan like this.
  11. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    BẤT VI NGŨ ĐẤU MỄ CHIẾT YÊU
    (KHÔNG CONG LƯNG VÌ NĂM ĐẤU GẠO)


    XUẤT XỨ

    Phần “Đào Tiềm truyện” trong sách Tấn thư có câu: “Tiềm than rằng: “Ta không thể cong lưng vì năm đấu gạo, ngoan ngoãn nghe lời bọn tiểu nhân trong làng như thế này!” (Tiềm thán viết: “Ngô bất năng ngũ đấu mễ chiết yêu, quyền quyền sự hương lý tiểu nhân da!)


    GIẢNG NGHĨA

    Ngũ đấu mễ: năm đấu gạo, nghĩa bóng là bổng lộc quá nhỏ bé. Câu “Bất vi ngũ đấu mễ chiết yêu” biểu thị người thanh cao, không chịu vì miếng ăn sinh kế mà khuất phục dưới người.


    ĐIỂN TÍCH

    Mùa thu năm Nghĩa Hi nguyên niên đời Đông Tấn (năm 405), Đào Uyên Minh đến huyện Bành Trạch cách quê nhà không xa giữ chức huyện lệnh. Thân ở lại Bành Trạch nhưng tâm hồn Đào Uyên Minh vẫn quyến luyến với cuộc sống điền viên cũ nơi quê nhà. Ông chán ghét thói bợ đỡ trong quan trường, hay lấy rượu làm vui. Ông lấy phần lớn đất đai trong huyện trồng lúa nấu rượu. Ông bảo, chỉ cần được say sưa trong rượu thì chẳng còn cầu mong gì khác.

    Một hôm, Quận thú sai một viên Đốc bưu (viên quan đại diện Thái thú đi đốc sát các thuộc viên) đến Bành Trạch thị sát. Tên Đốc bưu ấy thô tục ngạo mạn không coi ai ra gì. Vừa đến Bành Trạch hắn đã ngạo nghễ hạ lệnh tất cả các huyện lệnh phải đến yết kiến hắn. Các huyện lệnh khác không dám chậm trễ vội vàng đi báo với Đào Uyên Minh. Lúc ấy Uyên Minh đang uống rượu ngắm hoa cúc, nghe tin báo, bất giác giật mình, trong lòng buồn bực. Một lúc sau, ông mới miễn cưỡng mặc áo dài bước ra ngoài. Các tùy tùng nhắc khéo ông rằng, gặp mặt Đốc bưư cần phải ăn mặc chỉnh tề, đeo thắt lưng ngang lưng (cổ đại gọi là “Thân”, một loại trang sức của quan lại), nếu không sẽ không ra thể thống gì, vi phạm tới chế độ. Đào Uyên Minh nghe những lời ấy, dường như bị người ta nhổ vào mặt, trong khoảnh khắc, bao nhiêu chán ghét, ăn năn như xông lên đầu ông. Ông đưa mắt nhìn một vòng nhà đường, thở dài, căm phẫn nói: “Ta há vì bổng lộc mỗi tháng năm đấu gạo nhỏ bé mà cam tâm khuất thân thờ phụng tên tiểu nhân làng xóm ấy ư!” Dứt lời, ông đóng kín ấn huyện lệnh lại, để lại một thư xin từ chức, sai người mướn một thuyền nhỏ, dẫn gia thuộc rời bỏ huyện Bành Trạch, quay về quê nhà.

    Trên đường đi về, ông như con chim sổ lồng, ông lớn tiếng ngâm bài “Quy khứ lai từ” biểu lộ quyết tâm bỏ quan ẩn cư, trở về với tự nhiên của mình “Mau về đi thôi. Ruộng vườn cỏ mọc, sao không về?” (Khoái hồi khứ ba, điền viên tương vu, hà bất quy?)


    [...]
     
    teacher.anh thích bài này.
  12. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    BẮT CÁ HAI TAY


    Hễ một người nào đó vì lòng tham muốn có được nhiều thứ trong cùng một lúc, hoặc để ăn chắc, không được thứ này thì được thứ khác, hoặc vừa làm điều này ở đây rồi lại làm điều đó ở nơi khác nữa (theo lẽ thường anh ta chỉ được làm ở một nơi), thì sẽ bị mọi người gọi một cách mỉa mai là kẻ “bắt cá hai tay”.

    “Bắt cá hai tay” tức là dùng cả hai tay để bắt một con cá, như kiểu: "cầm hai tay", "đưa hai tay", "bưng hai tay"... Song hiểu như thế thì hành động "bắt cá" ở đây sẽ đạt được kết quả một cách khá chắc chắn và không có gì đáng chê.

    Nhân dân ta đều hiểu thành ngữ này với nghĩa đen là: mỗi tay bắt một con cá, và kết quả là tuột mất, chẳng bắt được con nào. Chẳng thế mà ca dao Việt Nam đã từng khuyên nhủ mọi người:

    “Xin đừng bắt cá hai tay,
    Cá lội dưới nước, chim bay lên trời.”

    Từ nghĩa đen cụ thể đó, nhân dân ta đã dùng thành ngữ này với nghĩa rộng hơn để chỉ những người có tư tưởng “nước đôi”, hoặc tham lam, ôn đồm, muốn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng một lúc, không được việc này thì được việc khác, kết quả hoặc là không được gì, “xôi hỏng bỏng không” hoặc được chắc một thứ, nhưng thường bị chê trách là tham lam, khôn ranh.


    [...]
     
    vuivui2013 and teacher.anh like this.
  13. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    NƯỚC NON LUỐNG NHỮNG LẮNG TAI CHUNG KỲ


    Nghe lời từ chối khéo có lý có nghĩa của Kiều và bản thân cũng có chút tính tự trọng, Kim Trọng bỏ qua chuyện ái ân, chuyển sang xin Kiều đánh dàn cho nghe :

    “Rằng: “Nghe nổi tiếng cầm đài”,
    Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.”

    (Câu 463 và 464)​

    “Chung Kỳ” tức là Chung Tử Kỳ, một người nghe tiếng đàn đoán được ý nghĩ của người gảy đàn.

    Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Ðô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa hai nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn.

    Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây.

    Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng:

    – Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được khúc đàn tuyệt diệu của Ngài.

    Bá Nha cười lớn bảo:

    – Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta, sao ngông cuồng thế?

    – Ðại nhân nói sai quá vậy. Há chẳng nghe: Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu.

    Nghe đáp xong, Bá Nha hơi choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng nói:

    – Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?

    – Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc Nhan Hồi (1), phổ vào tiếng đàn, lời rằng:

    Khả tích Nhan Hồi mạng tảo vương,
    Giao nhân tư tưởng mấn như sương.
    Chí nhân lậu hạng đơn biều lạc, (2)

    Ðến cuối câu ba thì dây đàn đứt, còn lại câu bốn là:

    “Lưu đắc hiền danh vạn cổ dương.” (3)

    Bá Nha nghe xong, đúng quá, mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm đạo.

    Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói:

    – Xin quí hữu miễn lễ cho.

    Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách.

    – Quí hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn?

    – Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình.

    Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên, Ðịa, Nhơn. Ðoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là Dao cầm.

    Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Ðàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm: Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ.

    Vua Thuấn khảy Dao cầm, ca bài Nam phong, thiên hạ đại trị. Vua Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây nữa gọi là dây Văn (Văn huyền), đàn nghe thêm ai oán.

    Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm vào Dao cầm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).

    Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữa thành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.

    Ðàn ấy có Sáu kỵ, Bảy không, Tám tuyệt, kể ra:

    * Sáu Kỵ là: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.

    * Bảy Không là: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.

    * Tám Tuyệt là: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.

    Ðàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời vậy.

    Bá Nha nghe xong , kính phục bội phần, hỏi thêm:

    - Quí hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, Ðức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền hỏi Ðức Khổng Tử. Ngài đáp: Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng.

    – Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quí hữu có thể đoán biết chăng?

    – Ðại nhân thử dạo một khúc xem.

    Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng:

    – Hay, hay ! Ý đại nhân vòi vọi ở non cao (nga nga hề chí tại cao sơn.)

    Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thuỷ, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng:

    – Hay, hay ! Ý đại nhân cuồn cuộn nơi nước chảy (nga nga hề chí tại lưu thuỷ.)

    Bá Nha thấy tiều phu đã thấy rõ lòng mình qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm. Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp. Bá Nha lại sanh lòng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp.

    Hai người đến trước bàn hương án lạy Trời Ðất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự mãi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt.

    Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá nầy. Bá Nha lấy ra hai đỉnh vàng, hai tay nâng lên nói:

    – Ðây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm tình chí thành, em đừng từ chối.

    Hai người từ biệt, lòng đầy lưu luyến.

    Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu trình Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng.

    Thời gian lặng lẽ trôi qua... Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà.

    Bá Nha thu xếp hành trang đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ: Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức về Tử Kỳ.

    Ðêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vã lên bờ, tiến vào núi Mã Yên. Khi qua cửa núi, gặp ngã ba đường, chưa biết nên đi đường nào, đành ngồi chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lão trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi:

    – Xin lão trượng chỉ giùm đường đi Tập Hiền Thôn?

    – Thượng quan muốn tìm nhà ai?

    – Nhà của Chung Tử Kỳ.

    Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lão trượng nhoà lệ, nói:

    – Chung Tử Kỳ là con của lão. Ngày Trung thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Ðại Phu là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha tặng hai đỉnh vàng, nó dùng tiền nầy mua sách học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, mãi như vậy, sức khoẻ hao mòn, sanh bệnh rồi mất.

    Bá Nha nghe vậy thì khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lão trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu thì biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lão biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói:

    – Mong ơn thượng quan không chê con lão hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng: Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mã Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Ðại Phu Bá Nha.

    Lão phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lão mang vàng hương ra cúng mộ.

    – Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lão bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn tình tri kỷ.

    Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng: Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt.

    Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám. Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím đồng rơi lả tả.

    Chung lão không kịp ngăn, sợ hãi nói rằng:

    – Sao đại quan huỷ cây đàn quí giá nầy?

    Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời:

    Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
    Tử Kỳ bất tại, hướng thuỳ đàn?
    Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
    Dục mịch tri âm, nan thượng nan
    (4)​

    – Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lão để lão cảm tạ tấm lòng tốt đẹp của thượng quan đối với con lão.

    – Cháu quá bi thương, không dám theo bá phụ về quí phủ e gợi thêm nỗi đau lòng. Nay nghĩa đệ vắn số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ và bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu trở về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan, cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già.

    Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền.

    Chung lão cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nhìn theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.

    Khi nói đến “tri âm”là người ta thường nhắc đến Bá Nha và Chung Tử Kỳ, hoặc ngược lại. Cũng như nói bạn “tri kỷ” là nhắc đến chuyện Quản Trọng và Bảo Thúc Nha. (4)

    Trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” của cụ Nguyễn Đình Chiểu, có câu:

    “Than rằng lưu thuỷ sơn cao,
    Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm.”

    Cổ thi cũng có câu: “Bất tích ca dã khổ đản thương tri âm hy.” (Không tiếc người hát khó nhọc chỉ đau đớn ít người biết nghe).

    Trong cuộc hội ngô, đáp lời thương nhớ của Kim Trọng:

    “Nàng rằng: “Gió bắt mưa cầm,
    Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
    Vắng nhà được bữa hôm nay,
    Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng”

    (Câu 385 đến 388)​

    “Chung Kỳ”, “tri âm”, “lưu thuỷ cao sơn” đều do điển tích trên, ý biết được tiếng đàn tức hiểu tiếng lòng của nhau.

    Kim Trọng tự nhận mình là Chung Kỳ và tôn Kiều là Bá Nha vừa đề cao tình nhân mà cũng vừa đề cao mình, có ý kéo dài cuộc hội ngộ… vì là bạn tri âm thì câu chuyện càng tâm đắc, ý không bao giờ cạn, lời không bao giờ hết. Tình yêu say đắm sinh ra một nghệ thuật cao. Nhưng ở đây cũng cần nói thêm về “nghệ thuật cao” nầy.

    Tại sao mới qua vài lời khuyên từ khước của Kiều gồm có 4 câu, nàng rằng:

    “… hồng diệp xích thằng,
    Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
    Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
    Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.”

    (Câu 459 đến 462)​

    Thì chàng Kim đa tình hiếu sắc lại vội chuyển ngay (hay đánh trống lảng), xin Kiều đánh đàn cho nghe vì biết Kiều có tài về âm nhạc:

    “Rằng: “Nghe nổi tiếng cầm đài,
    Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.”

    Đạo Nho cho rằng: tâm tính con người vốn do Trời phú cho, nhưng tình dục thì do cảm xúc với ngoại vật mà thành nên. Nhạc với lòng người vốn cảm hoá lẫn nhau, vì lẽ lòng người cảm xúc ngoại cảnh mà thành ra tiếng nhạc, và tiếng nhạc cảm lòng người rồi khiến lòng người theo tiếng nhạc mà biến đi. Cho nên tác dụng của nhạc là cốt hoà thanh âm cho tao nhã để đi dưỡng tính tình. Khổng Tử nói : “Xét cho cùng các lẽ về nhạc để tự lòng người thì lòng giản dị chính trực từ ái thành tín tự nhiên phơi phới mà sinh ra.” (Trí nhạc dĩ tự tâm, tắc dị trực từ lượng chi tâm du du nhiên sinh hĩ. – Lễ ký: Tế nghĩa XXIV); và “Nhạc là cái vui của thánh nhân, khả dĩ khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và di dịch được phong tục, cho nên tiên vương mới đặt ra dạy nhạc.” (Nhạc giả dã, thánh nhân chi sớ lạc giả, nhi khả dĩ thiện dân tâm, kỳ cảm nhân thâm, kỳ di phong dịch tục, cố tiên vương trứ kỳ giáo yên. – Nhạc ký, XIX). (5)

    Kim Trọng vừa mới mở lời, Kiều cũng vừa mở lời khuyên, Kim Trọng không van nài nữa mà chuyển ngay xin Kiều đánh đàn, chủ ý của Kim trọng – hay chủ ý của tác giả “Truyện Kiều” – để cho Kim Trọng giữ được tính tự trọng, kềm chế được dục tình với tư cách nghiêm chỉnh… bằng âm nhạc chăng?

    Điều này cũng khá phức tạp, còn được bàn đến ở một bài cuối, sau khi Kiều nghe lời ý trung nhân gảy xong bốn khúc đàn.


    ______


    (1) Nghĩa là :

    Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong,
    Dạy người tư tưởng tóc như sương.
    Ðàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng đạo,

    Lưu mãi danh hiền với kỹ cương.

    (2), (3) Dịch nghĩa:

    “Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
    Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
    Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
    Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay !“

    (4) Xem ở một bài sau: “Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người.”

    (5) Theo “Nho giáo” của Trần Trọng Kim.

    ______

    * Nt: Bản nhạc được gửi vào vũ trụ!

    Cao sơn lưu thủy” (高山流水) gắn liền với điển tích Sở Bá Nha- Chung Tử Kì.

    Tương truyền, hơn hai nghìn năm trước Bá Nha hay đàn bản “Cao sơn lưu thủy”, nhưng chỉ có một mình Chung Tử Kì biết thưởng thức. Một lần Bá Nha gảy đàn, lòng nhớ tới núi cao, Tử Kì liền bảo “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Đánh đàn hay thay, vời vợi tựa Thái Sơn). Đến lúc Bá Nha nghĩ đến vực sâu, Tử Kì nhận ngay ra rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Cuồn cuộn như nước chảy).

    Khi Tử Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.

    Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú, khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy”.

    Bản nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển hợp. Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển và âm bội sáng rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.

    Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh. Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn. Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng và thú vị.

    Thời nhà Đường, “Cao sơn lưu thủy” phân ra thành hai khúc, không phân đoạn. Đến thời Tống lại phân cao sơn thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên về lưu thủy, khiến cho người nghe có cảm giác biển lớn đang vỗ sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.

    “Cao sơn lưu thủy”, khúc nhạc được danh cầm Quản Bình Hồ (1879 - 1967) - người chơi đàn Cổ cầm hay nhất thế kỷ 20 chơi. Bản nhạc cũng được thu băng và gửi vào vũ trụ, coi như là tinh hoa của nhân loại.


    [...]
     
    vuivui2013 thích bài này.
  14. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    KHÚC ĐÂU HÁN SỞ CHIẾN TRƯỜNG


    Chiều theo lời yêu cầu của Kim Trọng, Kiều liền cầm lấy đàn:

    “So dần dây vũ, dây văn,
    Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
    Khúc đâu Hán, Sở, chiến trường,
    Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau.
    Khúc đâu Tư Mã phượng cầu,
    Nghe ra như oán, như sầu phải chăng.
    Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
    Một rằng Lưu thủy, hai rằng Hành vân.
    Quá quan này khúc Chiêu Quân,
    Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.”

    (Câu 471 đến 480)​

    Đây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc Quảng Lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt.

    Khúc “Hán Sở chiến trường”.

    Tần Thủy Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479 – 220 trước D.L) – cũng gọi là Thất hùng – thống nhứt đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngô Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và Hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp. đem binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và Sở (Hạng Võ) tương tranh.

    Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bậc hiền tài đến phò tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt… nên đánh thắng được Sở, lên ngôi vua, thống nhứt đất nước (206 trước D.L).

    Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn tám ngàn tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Đông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc chiến đấu.

    Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán tám ngàn tử đệ để cô lập Hạng Võ. Có thế cuộc chiến thắng đỡ bớt hao sinh mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đấn núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài “Bi ca tán Sở” do Trương soạn lấy.

    Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai oán gợi lòng thương nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ… vọng vào dinh Sở. Quân Sở, tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo chỉ mành… nên trước chỉ buồn bã than thở, sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngoài, Hàn Tín khéo léo nới rộng vòng vây để quân Sở tự do ra đi.

    Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng:

    “Lực bạt sơn hề khí cái thế,
    Thời bất lợi hề chuy bất thệ.
    Chuy bất thệ hề khả nại hà?
    Ngu hề Ngu hề khả nại hà?”​

    Tạm dịch:

    “Sức nhổ núi chừ khí hơn đời,
    Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi.
    Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao?
    Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao?

    Ngu cơ càng cảm động, cất giọng hòa lại:

    “Hán binh dĩ lược địa,
    Tứ diện Sở ca thinh.
    Đại vương ý khí tận,
    Tiện thiếp hà biểu sinh.”​

    Tạm dịch:

    “Binh Hán chiếm lấy đất,
    Bốn mặt tiếng Sở kêu.
    Đại vương y khí hết,
    Mạng sống thiếp phải liều.”

    Ngu Cơ cầm gươm tự tử.

    Thế rồi vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đáng mở con đường máu, thoát khỏi vòng vây chạy đến bến sông Ô, nhưng không qua được sông, cuối cùng tự tử.

    Khúc Hán Sở chiến trường”, “tiếng sắt tiếng vàng” là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục (sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe tiếng gươm giáo chạm mạnh, sát phạt giữa chiến trường. Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hòa hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đôi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau.


    [...]
     
    vuivui2013 thích bài này.
  15. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    [...]


    ĂN NHƯ RỒNG CUỐN,
    NÓI NHƯ RỒNG LEO,
    LÀM NHƯ MÈO MỬA.


    Câu ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa dùng để nói hạng người ăn khỏe, nói hay nhưng làm thì quá dở.

    Thực ra đây là một cụm thành ngữ thường được dùng như một chỉnh thể, trong đó có ba vế. Khi sử dụng ngôn ngữ, người ta có thể dùng cả ba hoặc hai vế của thành ngữ này, thậm chí có khi dùng tách rời từng vế riêng lẻ. Để hiểu nghĩa toàn cụm, chúng ta lần lượt xét từng vế của thành ngữ.

    Nói về ăn uống, dân gian đã sử dụng rất nhiều thành ngữ khác nhau như: ăn như gấu ăn trăng, ăn như thần trùng, ăn như tằm ăn rỗi, ăn như hùm đổ đó, ăn như mỏ khoét... Các thành ngữ này đều diễn tả sự ăn nhanh, ăn khỏe. Còn, cách nói ăn như rồng cuốn thì thế nào? Theo quan niệm dân gian, con rồng xuất hiện từ xa xưa. Trong trí tưởng tượng của con người, rồng là con vật đầu to, bờm rậm, râu ngắn, mũi sư tử, mình rắn có vảy lớn, ... Con rồng của dân gian gắn liền với mây, mưa, sấm, chớp. Rồng là con vật linh thiêng có thể làm mưa, hút nước. "Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa" (tục ngữ). Thêm vào đó, trong thực tế, từ biển Đông thường thấy bốc lên những cột nước cao, xoáy vào đất liền, đổ xuống cả khối nước và nhiều tôm cá kèm theo. Nhân dân ta cũng gọi đó là vòi rồng, hay rồng cuốn nước. Nhờ trí tưởng và những hiện tượng thực tế này mà dân gian đã lấy hiện tượng rồng cuốn để so sánh với việc ăn uống của con người. Do đó, thành ngữ ăn như rồng cuốn được dùng để chỉ hiện tượng ăn uống nhanh và nhiều tựa như rồng cuốn nước. Thí dụ:

    "Chúng tôi không đợi mời, ăn như rồng cuốn. Mẫn rạng mặt như tất cả các bà chủ nhà, luôn tay múc cháo" (Phan Tứ, "Mẫn và tôi").

    Trong trí tưởng tượng của nhân dân ta, rồng còn bay bay bổng trên mây, trên gió. Văn học dân gian và văn học cổ điển có rất nhiều tác phẩm nói về vẻ đẹp khỏe khoắn của rồng bay trong sự liên hệ với cuộc sống con người: "Tình cờ ta gặp mình đây, như cá gặp nước, như mây gặp rồng" (ca dao) hay "Cuồn cuộn rồng bay ngoài Bãi ấp, đùng đùng hươu chạy bãi Hàm Dương" (Hồng Đức quốc âm thi tập). Và, có lẽ nói như rồng leo, hay nói như rồng cũng gắn liền với sự bay bổng của con rồng. Ở đây thành ngữ nói như rồng leo muốn diễn tả cái tài hùng biện của ai đó, nói toàn những lời có cánh, như rồng bay phượng múa! Rằng hay thì thật là hay, nhưng nói thì phải có thật, nói phải làm, chứ "trong lưng chẳng có một đồng, lời nói như rồng cũng chẳng ai nghe" (Ca dao).

    Ăn, nói thì dễ, chứ làm mới khó. Những kẻ ăn nói hay mà làm dở thì dân gian lại ví như mèo mửa. Không rõ vì nguyên nhân gì mà dân gian gán mèo với những việc xấu, và kém, nào mèo mả gà đồng nào là ăn như mèo rồi lại mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang,... Rõ là những hành vi của con người phải ví như hành vi của mèo, vốn đã thấp hèn rồi, thế mà dân gian ta lại còn ví với việc mèo mửa nữa, thì quá ư là thấp hèn, kém cỏi. Mèo thì rất là kì lạ. Khi "đại tiện" thì kín đáo, "giấu như mèo giấu cứt". Ấy vậy mà khi mèo mửa, mèo lại rất tùy tiện, bừa bãi, chỗ này một ít, chỗ kia một đụn. Mà trông những đụn ấy thì quá là gớm ghiếc, quá tớp túa, bẩn thỉu. Vậy ai đã làm như mèo mửa thì cũng là cách làm bừa bãi, lổn nhổn, chẳng ra gì cả.

    Nếu đặt cả ba thành ngữ này thành một chỉnh thể như ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa sẽ tạo nên bức chân dung đầy đủ về một con người ăn giỏi nói hay, còn làm thì dở. Loại người như thế xứng đáng được gọi thẳng tên là kẻ ăn tục nói phét.

    Trong tiếng Việt, cụm thành ngữ này được vận dụng khá linh hoạt. Thường thường, người ta hay dùng sóng đôi giữa nói như rồng leo, làm như mèo mửa để nói tới sự cách biệt, sự mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm.

    "Trong cuộc sống chúng ta đã từng gặp những kẻ nói như rồng leo, làm như mèo mửa" (Báo Tiền Phong, số 2571).

    Có khi thành ngữ này được vận dụng khá nhuần nhuyễn mà chúng ta chỉ còn nhận diện ra nó qua ý, qua lời của câu nói mà thôi. Thí dụ:

    "Nói như rồng như phượng, về nhà nấu cơm sượng, mổ cá không biết kho, thái dọc thớ thịt bò" (Báo Phụ nữ Việt Nam, số 390).


    [...]
     
    vuivui2013 and teacher.anh like this.
  16. tducchau

    tducchau "Nhặt lá..." Thành viên BQT

    Bài xem thêm:


    THIẾP CÒN HAM SỐNG LÀM GÌ


    Những năm từ 136 trước Công nguyên, ở Trung Quốc luôn luôn tiếp diễn những cuộc tranh giành thế lực. Nhà Tần đã suy sụp, hai phái quân phiệt nổi lên đánh nhau kịch liệt. Phái này do Lưu Bang cầm đầu, phái kia có một thủ lĩnh quật cường là Hạng Vũ. Sau đó gọi là thời kỳ Hán Sở Tranh Hùng.

    Hạng Vũ là một viên tướng tài năng kiệt xuất, và cũng là một khách đa tình. Trên bước đường chiến đấu, ông được gặp gia đình họ Ngu có người giai nhân tuyệt sắc, và xây dựng mối lương duyên với nàng. Tướng tá và binh sĩ dưới quyền đều gọi nàng là Ngu Cơ. Nàng đã đi theo Hạng Vũ trong những chặng đường chinh chiến.

    Đối thủ của Hạng Vũ là Lưu Bang. Người này có nhiều văn quan võ tướng tài năng giúp đỡ, đã giúp cho thế lực của ông ngày càng cường thịnh, gây nhiều khó khăn cho quân Sở. Trận quyết chiến cuối cùng là trận Cai Hạ, do Hàn Tín bố trí một cách tài tình, đã khép chặt vòng vây, làm cho Hạng Vũ trở nên lúng túng. Ông năm lần bảy lượt mở cuộc tấn công mà không sao phá nổi quân Hán. Giữa lúc ấy, một mưu sĩ của Lưu Bang là Trương Lương, dùng chiến thuật địch vận gây thêm hoang mang cho quân Sở. Trương Lương thổi một bài sáo lâm ly, ai oán, khêu gợi tình cảnh xa nhà, nhớ quê. Nghe tiếng sáo não ruột ấy, quân lính của Hạng Vũ ngã lòng, tinh thần chiến đấu càng suy sụp.

    Sở Bá Vương không biết tính liệu thế nào, ông nói với Ngu Cơ:

    Lực bạt sơn hề, khí cái thế
    Thời bất lực hề, chung bất thệ
    Chung bất thệ hề, khả nại hà
    Ngu hề, Ngu hề! Nại nhược hà!​

    (Sức lực này nuốt trời nhổ núi
    Thời không may, ngựa cũng không ruổi
    Ngựa không ruổi nữa biết làm sao
    Ngu Cơ em ơi! Tính thế nào?)

    Ngu Cơ hiểu nỗi khổ tâm của người yêu. Nàng biết nếu chỉ có một mình, Hạng Vũ thừa sức vượt khỏi vòng vây, nhưng vì quyến luyến, chàng không nỡ bỏ nàng mà tìm lấy lối thoát riêng cho mình. Nàng nghĩ ngay ra một giải pháp : mình phải tự nguyện hy sinh để Hạng Vũ được rảnh rang thoát khỏi vòng vây nguy hiểm. Ngu Cơ đã quỳ xuống bên chân Hạng Vũ, cầu khẩn xin chàng đừng nghĩ đến tình riêng, đừng lo toan đến số phận của nàng nữa. Nàng kết thúc lời cầu xin của mình bằng mấy câu:

    Hán binh dĩ lược địa
    Tứ diện Sở ca thanh
    Đại vương chí khí tận
    Tiện thiếp hà liêu sinh!​

    (Hán binh đóng đặc gần xa
    Bốn bề trại Sở khóc ca bồi hồi
    Đại vương chí đã núng rồi
    Thiếp còn ham sống ở đời nữa chi.)

    Tiếp ngay đó, Ngu Cơ rút nhanh thanh kiếm đeo bên hông Hạng Vũ, tự đâm vào cổ mình. Hạng Vũ không kịp đỡ, ôm choàng lấy xác người yêu. Mãi đến khi quân hầu vào gỡ tay Ngu Cơ ra khỏi vị thủ lĩnh, Hạng Vũ mới sực tỉnh. Ông vút lên mình ngựa, múa gươm xông ra ngoài chiến địa với một khí thế hùng hổ xưa nay chưa từng có. Tướng tá và binh sĩ nhà Hán hoảng hốt chạy rạt cả ra, để một mình Hạng Vũ vượt thoát tới bờ sông Ô Giang với nỗi hờn kim cổ…

    Ngu Cơ được binh sĩ cả hai bên Hán-Sở cảm phục, đắp điếm cho nàng mồ yên mả đẹp. Trên mộ nàng sau này mọc lên một thứ cỏ quý, được đặt tên là cỏ Ngu Mỹ Nhân.

    (Theo Tình sử)​


    Nguyên văn:

    - Lời Hạng Vũ:

    Lực bạt sơn hề, khí cái thế
    Thời bất lực hề, chung bất thệ
    Chung bất thệ hề, khả nại hà
    Ngu hề, Ngu hề! Nại nhược hà!​

    - Lời Ngu Cơ:

    Hán binh dĩ lược địa
    Tứ diện Sở ca thanh
    Đại vương chí khí tận
    Tiện thiếp hà liêu sinh!​


    Câu chuyện vĩnh biệt giữa Ngư Cơ và Hạng Vũ là đề tài hấp dẫn nhiều tác giả xưa nay.

    Ở Việt Nam, bài thơ Tiếng địch sông Ô nổi tiếng của Phạm Huy Thông viết theo chuyện tình sử này. Nhưng ít người biết rằng, trước Phạm Huy Thông, đã có tác gia Việt Nam đem sự tích Hán Sở tranh hùng viết thành kịch bản tuồng. Tuồng này cũng đã được công diễn nhiều nơi trước Cách mạng tháng Tám 1945. Sách Đại Nam quốc âm ca khúc (Thư viện KHXH, ký hiệu A,146) có chép vở tuồng này và ghi rõ tác giả là Nguyễn Công Trứ (Chưa có điều kiện để thẩm tra xem có đúng không ?!). Sau đây là cảnh vĩnh biệt ứng với nội dung giai thoại kể trên:

    "...
    - Hàn Tín:

    … Cai Hạ nơi nao
    Đường vào Cai Hạ nơi nao
    Ba quân chỉ ngọn cờ đào ruổi mau.


    Nào chủ tướng. Vũ nó lui về Cai Hạ. Mà ta nghe ra thế đã cùng, bổ lưới ra vây bọc mấy lần kẻo thưa thớt, nhỡ hùm ra lọt lưới.

    - Quân: Dạ! Dạ!

    - Hạng vũ:

    … Thôi thôi! Bị trùng vi rồi!
    Bách chiến uy phong tận
    Song không bộ vận tuỳ
    Tiến vô lộ, thoái vô lộ
    Thiên hồ nhi, địa hồ nhi
    Ba nghiệp dĩ tuỳyên tận diệt
    Thê phong tinh mịch nhạn cô phi (*)

    Ngu Cơ Nàng ơi!
    Sơn hà khí tán nhất triêu lộ
    Tinh đẩu hàn trâm ngũ dạ vân
    Nay Hán quân vây đó mấy lần
    (mà ta nghe)
    Bốn mặt ca thanh tiếng Sở quân
    Thiên mệnh, nhân tâm trở về Hán cả
    Vô khả nại hà, vô khả nại hà!
    Ngu Cơ hỡi, Ngu Cơ
    Thậm khổ ! Thậm khổ ! Chí nguy ! Chí nguy
    Nàng hãy đến cùng ta bên trướng


    - Ngu Cơ:

    Lang quân hỡi!
    Khi bàn căn mới biết lợi khí (?)


    - Hạng Vũ:

    Nàng hỡi nàng…
    Nàng ra đây cho anh than thở một hai lời
    Chén rượu đầy, nước mắt vơi
    Nghĩa vợ chồng chăn gối than ôi
    Biết làm sao tránh khỏi mệnh trời!

    Nàng hỡi nàng… Ta từ thuở ra binh
    Nhìn lại trăm trận, không trận nào thua
    Nay trời làm đến nỗi sa cơ
    Mệnh như vậy biết làm sao nữa

    Ta định kế trăm đường vương bá
    Nàng theo đòi nghĩ cực gian truân
    Ai oán thay tủi phận hồng nhan
    Vinh chưa thấy mà nhục đã thấy đó

    Ngũ Cơ hỡi Ngu Cơ! Thậm khổ! Thậm khổ!


    - Ngu Cơ:

    Lang quân hỡi!
    Đau đớn lòng tôi, chua xót lòng tôi
    Thiếp ra gì cỏ nội hoa hèn
    Những chúc mừng tao tế là duyên
    Thiếp chẳng có quản chi sương nắng

    Nay trời đã làm đến nỗi sa cơ cùng cực
    Phận liểu bồ khôn biết cậy trông
    Thiếp ra đây muôn đội ơn lòng
    Dốc một lòng tòng nhất nhi chung

    Thanh gươm này thiếp quyết cho xong
    Hình hài xin (để) thiếp cùng cỏ cây


    - Hạng Vũ:

    Thảm thiết lòng ta!
    Sơn hà tinh đẩu lạc
    Cung kiếm ảnh y quang
    Mấy năm trời đất ngang tàng
    Đem mình đi bỏ chiến tràng như không!
    Thậm khổ! Thậm khổ!


    - Ngu Cơ:

    Lang quân hỡi ! Lang quân!
    Xin chàng hãy đành lòng một chút
    Chớ băn khoăn chi những chuyện má hồng
    Phận liễu bồ mệnh bạc đã xong

    Chàng thả ra cho hết sức anh hùng
    Hoạ may thiếp chẳng nhờ phận sống thì cũng nhờ phận chết
    Phong tiêu tiêu hề dạ trầm trầm
    Vân ám ám hề, nguyệt âm âm
    [1]

    Lấy kiếm này thiếp quyết cho xong
    Vậy lưu hoá vi nguyên thương thảo


    - (Ngu Cơ tự vẫn)

    - Hạng vũ: (cả khóc)

    Ôi thương ôi ! Trời hỡi trời
    Tam quân tán tận, tinh kỳ đảo
    Ngọc trướng giai nhân toà thượng không [2]
    Vô khả nại hà! Vô khả nại hà!

    ..."

    Nguyễn Công Trứ (?)​

    ______

    (*) Nghĩa là:

    Oai trăm trận đã hết
    Mạt vận đôi chân không
    Tiến khó, lùi cũng khó
    Hỡi trời ơi đất ơi!
    Nghiệp bá đã tan thành mây khói
    Gió lạnh nhạn bay lẻ giữa trời!



    Sông núi não nùng sương một sớm
    Trăng sao mờ mịt mây năm canh



    Không biết làm sao! Không còn cách làm sao!

    Tới nguy hiểm mới tỏ can trường
    Chàng ngỡ chi thích bỏ thêm (?)
    Càng cho thiếp những mang phiền não.


    [1] Nghĩa là:

    Gió vi vu, đêm trầm trầm
    Mây đen đen, trăng mờ mờ


    [2] Nghĩa là:

    Ba quân tan nát, cờ nghiêng đổ
    Màn ngọc người tiên lên cõi tiên…
     
    teacher.anh thích bài này.
Moderators: Cát Cát

Chia sẻ trang này