Tên sách: Kẻ phản Ki-tô: Thử đưa ra một phê bình Ki-tô giáo Tác giả: Friedrich Nietzsche Dịch giả: Hà Vũ Trọng Khổ sách: 12x20 cm Số trang: 192 trang Giá bìa: 42.000 VNĐ Loại bìa: Bìa mềm, tay gập Năm xuất bản: 2011 Tủ sách Tinh hoa Thực hiện ebook: thomas Ngày hoàn thành: 02/08/2015 Tác giả: Friedrich Nietzsche (1844-1900) là nhà triết học nổi tiếng người Đức. Ông theo học trường ngữ pháp ở Schulpforta và sau đó học đại học ở Bonn và Leipzig. Ông bắt đầu sự nghiệp như một nhà ngữ văn học. Các tác phẩm của ông nổi bật với phong cách viết ẩn dụ và nhiều nghịch lí. Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời, nhưng tới đầu thế kỉ XX, ông đã được giới trí thức Đức, Pháp và Anh thừa nhận. Tới nửa sau thế kỉ XX, Nietzsche được xem là một nhân vật quan trọng hàng đầu, có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Tác phẩm: Kẻ phản Ki-tô: Thử đưa ra một phê bình Ki-tô giáo được công bố năm 1895, ban đầu được Nietzsche manh nha như là phần đầu cho dự án của bộ sách có nhan đề là Ý chí quyền lực – Đánh giá lại mọi giá trị. Cuốn sách mỏng, với gần 200 trang sách, thể hiện sự phê phán Ki-tô giáo “với những di sản nặng nề về mạc khải và loại biệt của nó khiến chúng ta khó có thể hòa đồng và chung sống”, tạo ra những “mâu thuẫn sâu sắc không thể hàn gắn giữa các tập thể người và hiện đang đe dọa sự sống còn của loài người và đời sống trên trái đất”. Cuốn sách đương thời được Nietzsche cho rằng “thuộc về số rất ít người” và “có lẽ chưa người nào trong số họ hiện đang sống”. Tóm lược và dẫn mục Tính hiện đại là căn bệnh của cư dân Hyperboreanos chúng ta Thiện là gì? – cường lực. Ác là gì? – nhu nhược và thương xót Loại hình con người nào sẽ được tạo ra? Không có sự tiến bộ trong nhân loại; loại hình con người cao đẳng hơn là một chủng loại cá biệt Ki-tô giáo phát động cuộc chiến chống loại hình con người cao hon Sự bại hoại là suy đồi, và đánh mất những bản năng Lòng thương xót là suy đồi, và là việc thực hành chủ nghĩa hư vô Đối thủ của cư dân Hyperboreanos: nhà thần học; tinh thần thuần túy là dối trá thuần túy Bất kì những gì nhà thần học cho là thật, tất là giả 10. Triết học Đức bị bại hoại do dòng máu thần học (Kant) 11. Một đức hạnh phai là tự biểu hiện và tự vệ cần thiết nhất của chúng ta 12. Giới giáo sĩ bị bại hoại do quyết định “những gì là caoo hơn” 13. Những trực giác giá trị nhất đều là những phương pháp 14. Cư dân Hyperboreanos khiêm tốn hơn giáo sĩ, họ đặt con người giữa những động vật 15. Mọi khái niệm Ki-tô giáo đều là hư cấu thuần túy 16. Thượng đế Ki-tô giáo là kẻ rón rén, rụt rè và khiêm tốn 17. Vương quốc KI-tô giáo của Thượng đế là một vương quốc cách li, và dưới lòng đất 18. Thượng đế Ki-tô giáo: một công thức dành cho mọi phỉ báng lại thế giới 19. Thượng đế Ki-tô giáo trộn lẫn bệnh hoạn vào trong bản năng của những chủng tộc tin vào ngài 20. Phật giáo, tuy cũng là tôn giáo suy đồi khước từ thế giới, nhưng hiện thực hơn Ki-tô giáo gấp trăm lần. 21. Trong Ki-tô giáo, những bản năng của kẻ bị áp chế và bệnh nhân nổi bật lên trên 22. Ki-tô giáo lôi cuốn kẻ man rợ hung hãn, Phật giáo lôi cuốn kẻ nhân từ và hiền hòa 23. Những gian dối giảo hoạt đằng sau ba đức tính của Ki-tô giáo – Tin, Yêu, Hi vọng 24. Ki-tô giáo như một hệ quả từ bản năng quá khích của Do-thái để tồn tại 25. Lịch sử Isreal (Do-thái giáo) minh họa cho sự biến chất những giá trị tự nhiên 26. Giới giáo sĩ ăn bám dùng khái niệm “Thượng đế chí thánh” để biện minh cho việc thực thi quyền lực 27. Giê-su bị đóng đinh bởi ngài công kích quyền lực giáo sĩ Do-thái 28. Tâm lí học về Đấng Cứu Chuộc là gì? Nó bị mờ ám bởi những hàm hồ và truyền thuyết 29. Đọc lịch sử của một “linh hồn” trong những phúc âm là điều phù phiếm tâm lí đáng khinh miệt 30. Ki-tô giáo là kết quả do mẫn cảm cực độ đối với thống khổ và phấn khích 31. Những đặc tính của Giê-su bị bóp méo do tính thô thiển suy đồi của những kẻ truyền bá phúc âm 32. Giê-su biểu tượng cách xa với mọi sùng bài, mọi văn hóa, mọi cuồng tín, mọi khoa học, và mọi biện chứng. 33. Những khái niệm về tội hay phạt đều hoàn toàn không có trong tâm lí học về Giê-su 34. Đối với Giê-su, Nước Trời là một thực tại nội tâm, một trạng thái tâm linh 35. Vì vậy, Giê-su đã hành xử: chớ phản kháng, chớ bảo vệ bản thân – ngay cả chống lại kẻ ác 36. Tín đồ Ki-tô thờ phụng ngược lại với những gì Giê-su chủ trương 37. Trong giáo hội Ki-tô, chủ nghĩa man rợ bệnh hoạn cuối cùng chiếm quyền lực 38. Ngày nay là một người Ki-tô là bất chính 39. Tôi nêu ra lịch sử chân thực về Ki-tô giáo 40. Giê-su đã minh chứng cho thị kiến của ngài bằng cái chết, nhưng người Ki-tô đã bóp méo sự kiện này thành sự phẫn hận và phục thừ 41. Đi vào học thuyết về “sự cứu chuộc”, về một con người trừ khử mọi tội lỗi 42. Ki-tô giáo hứa hẹn đủ thứ nhưng không hoàn thành điều gì 43. Bằng việc đặt giá trị sống vào thế giới bên kia, vào hư vô, Ki-tô giáo hạ giá trị toàn bộ đời sống 44. Phúc âm là những sách quyến rũ mà một dân tộc bị áp chết bảo lưu mọi luân lí cho bản thân 45. Những ví dụ về thói đạo đức giả và xuyên tạc Giê-su trong trước tác Ki-tô giáo 46. Thật vinh dụ khi bị “người Ki-tô tiên khởi” chống đối 47. Điểm để nhận ra dân Hyperboreanos khi họ coi điều được sùng kính là Thượng đế ngang với cái phi lí và ti tiện 48. Vấn đề chính đối với Thượng đế Ki-tô giáo: làm sao chống lại khoa học 49. Những khái niệm về tội lỗi và hình phạt được tạo ra để phòng thủ chống lại khoa học 50. Tiêu chí của Ki-tô giáo về chân lí: “đức tin dẫn đến chân phúc” 51. “Thế giới nội tâm” của người Ki-tô rất giống thế giới nội tâm kẻ bệnh hoạn, kẻ kiệt sức 52. Giáo sĩ chiến đấu với loại hình cao hơn: “Hễ cái gì phát sinh từ sự viên mãn, dồi dào, sức mạnh, là điều ác” 53. Cái chết của những kẻ tuẫn đạo là sự quyến rũ tới tín ngưỡng 54. Những tinh thần vĩ đại là những kẻ hoài nghi; chỉ có kẻ nhu nhược cần đức tin 55. Lịch sử của những kiên tín (đức tin); kiên tín nguy hiểm hơn dối trá 56. Cuối cùng, đây là vấn đề cứu cánh mà người ta dối trá 57. Pháp điển manu khiến luật Ki-tô giáo hổ thẹn 58. Người Ki-tô và người vô chính phủ: cả hai là những kẻ suy đồi, chỉ có khả năng đầu độc đời sống 59. Ki-tô giáo như cuộc chiến thắng bẩn thỉu đối với mọi đức tính thuần khiết của Hi-lạp và La-mã 60. Islam hơn hẳn Ki-tô giáo 61. Phong trào Cải cách của Đức đã lừa gạt châu Âu đánh mất mùa gặt của thời Phục Hưng 62. Tôi lên án Ki-tô giáo: nó là kí sinh trùng, sự bại hoại lớn nhất trong mọi bại hoại mà người ta có thể quan niệm được. Trích sách “Thực sự, chỉ có một Ki-tô, và ngài đã chết trên thập giá. "Phúc âm" đã chết trên thập giá. Cái được gọi là "phúc âm" từ khoảnh khắc đó thực ra là cái đối nghịch với phúc âm mà ngài đã sống: là "tin xấu", một phản phúc âm (dysangelium). Thật là giả trá tới mức phi lí khi tìm ra dấu ấn của người Ki-tô trong "đức tin", chẳng hạn, niềm tin vào sự cứu chuộc qua đấng Ki-tô: chỉ có sự thực hành Ki-tô giáo, sống như một con người đã chết trên thập giá, mới thật là người Ki-tô. “Đức tin” trong mọi thời đại, chẳng hạn, với Luther, chỉ là cái áo khoác, một cái cớ, một tấm bình phong mà đằng sau là những bản năng đang diễn trò – một sự mù quáng, giảo hoạt về sự thống trị của những bản năng nhất định. “Đức tin” – tôi đã từng gọi nó là sự giảo hoạt đặc thù của Ki-tô giáo – người ta luôn nói về đức tin, nhưng người ta luôn hành động theo bản năng”. (Trích Tiết 39, Kẻ phản Ki-tô: Thử đưa ra một phê bình Ki-tô giáo, Friedrich Nietzsche)
Tôn giáo suy đồi khước từ thế giới? Phán thế này thì chứng tỏ tác giả chỉ mới biết chút da lông bên ngoài của Phật giáo rồi...Chắc chắn ông triết gia này chưa bao giờ nghe bài kệ: Phật pháp tại thế gian Bất ly thế gian giác Ly thế mích Bồ đề Kháp như cầu thố giác Tạm dịch: Phật pháp nơi thế gian Không lìa thế gian giác Lìa thế tìm Bồ đề Giống như tìm sừng thỏ Đại ý: tinh thần tìm cầu Phật pháp phải ngay trong thế gian này, Phật pháp không phải là một thế giới khác hoặc một sản vật trong cảnh giới tách rời khỏi xã hội thế tục. Không thể chấp trước vào sự phân chia tuyệt đối hóa giữa thế gian và xuất thế gian, rời khỏi thế gian để tìm cầu sự giác ngộ trong Phật giáo là việc không có kết quả. Sơ sơ nhiêu đó thôi cũng đủ thấy vị triết gia này chủ quan kiến thế nào, mà cái gì chủ quan trong ý niệm thì không thể đúng với thực tế được