Phật Giáo Kinh Lăng Già Tâm Ấn

Thảo luận trong 'Tủ sách Tôn giáo' bắt đầu bởi Đoàn Trọng, 15/3/17.

Moderators: mopie
  1. Đoàn Trọng

    Đoàn Trọng Lớp 11

    KINH LĂNG GIÀ TÂM ẤN
    Thiền Sư Hàm Thị Sớ Giải
    Hoà Thượng Thích Thanh Từ Việt Dịch
    Thiền Viện Thường Chiếu

    MỤC LỤC

    Lời Người Dịch.
    Duyên Khởi Lăng-già Tâm Ấn.
    Lăng –già A-Bạt-Đa-La Bảo Kinh Tâm Ấn.
    Phần 1

    Phẩm Nhất ThiếtPhật Ngữ Tâm.
    Phần Tự.
    Phần 2. Phần Chánh Tông.
    A. Chỉ ThẳngPháp MônĐệ Nhất Nghĩa Rộng Lớn Vi Diệu Lìa Nói Bặt Chứng.

    1. Đáp Chỉ Thẳng Phi Cú.

    2. Bày Ngôn Thuyết Để Vào Đệ Nhất Nghĩa Biển Thức Thường Trụ Dùng Hiển Duy Tâm.
    B. Chỉ Năm Pháp Tự Tánh, Vô Ngã, Giản BiệtNhị ThừaNgoại Đạo, Để Rõ Nhân Quả CủaChánh Pháp.

    C. Chỉ Như Lai TàngSiêu QuáVọng TưởngNgôn Thuyết Của Phàm Ngu Và Ngoại ĐạoThành Tựu Các Địa Cứu Kính Quả Hải.

    D. Chỉ Tự GiácNhất ThừaSoi Sáng Các Địa, Khéo Đoạn Các Lậu, Viên Mãn Thân Phật, Chẳng Rơi Vào Có Không.

    E. Chỉ Tông Thuyết Hai Đều Thông Để Rành Về Dụng Ngữ Nghĩa Thức Trí, Giản Biệt Ngu Ngoại, Giúp Tiến Mình Người, Chánh PhápGiải Thoát.

    F. Chỉ Chánh Giác Chẳng Phải Pháp Nhân Quả, Nói Lìa Sanh Diệt, Hiển BàyChân ThườngKhông Cấu, Chóng Vượt Các Địa.

    G. Chỉ Tám Thức Năm Pháp Ba Tự Tánh Hai Vô Ngã Cứu Kính Đại Thừa Thành Đệ Nhất Nghĩa.

    H. Che Pháp ThânBa ĐờiNhư Lai Quá Chỗ Nghĩ Ngợi Của Thế Gian, Chẵng Phải Nghĩa Sát-Na, Trước Sau Không Lỗi Thanh Tịnh Vô Lậu.


    Chúng tôi phiên dịch bộ kinh Lăng-già Tâm Ấn này với mục đích cho Tăng Ni học tại Thiền viện chúng tôi. Tuy nhiên trước chúng tôi đã có Sư bà Diệu Không dịch, ấn hành vào năm 1970 và 1971 rồi, song bản dịch ấy vì lược nhiều quá khiến chúng tôi không hài lòng, bất đắc dĩ phải dịch lại.

    Ở đây chúng tôi dịch trung thực với Thiền sư Hàm Thị không dám tăng giảm trong phần sớ giải. Nếu có giảm, chỉ đôi chút thôi. Bởi chúng tôi thấy, ngài Hàm Thị quả thật là một Thiền sư ngộ đạo trong môn đình Tào Động, cho nên lời sớ giải của Ngài rất phù hợp với Tâm tông. Trên phần chánh văn kinh, chúng tôi dịch nguyên âm những danh từ, không nhằm làmsáng tỏ ý nghĩa, độc giả cần đọc qua phần sớ giải sẽ hiểu rõ. Vì chánh văn vừa tối nghĩa lại cô đọng khúc chiết, nếu không nhờ phần sớ giải, chúng ta không tài nào lãnh hội được.

    Bản kinh ngài Hàm Thị sớ giải đây, nguyên tên là Lăng-già A-bạt-đa-la Bảo Kinh(Lankàvatàrasùtra), do ngài Cầu-na-bạt-đà-la (Gunabhadra) dịch Phạn Hán, có bốn quyển. Bởi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sau khi truyền pháp cho Tổ Huệ Khả còn bảo: “xứ này có bốn quyển kinh Lăng-già có thể dùng ấn tâm…”, nên ngài Hàm Thị sớ giải để thêm hai chữ Tâm Ấn.Tâm ấn có nghĩa là toàn bộ kinh Lăng-già cốt làm sáng tỏ Bản tâm. Người đọc khéo lãnh hội sẽ thấy rõ Bản tâm mình, bao nhiêu lời Phật nói trong kinh dường như Phật đem tâm Ngài in qua tâm mình. Cộng thêm lời giải của ngài Hàm Thị càng làm cho chúng ta thấy rõBản lai diện mục của chính mình, hiện sờ sờ dưới bóng mặt trời trí tuệ của Ngài. Vì thế, hai chữ Tâm Ấn thật là xứng đáng. Do đó ngoài bìa chúng tôi chỉ đề năm chữ Kinh Lăng-giàTâm Ấn.

    Về phẩm loại thì bản dịch đời Ngụy chia mười tám phẩm, bản dịch đời Đường chia mười phẩm, chỉ riêng bản này gồm chung lại một phẩm để tên là Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm, có bốn phần. Câu Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm đã nói lên chẳng những đức Phật Thích-ca nói kinh Lăng-già này chỉ thẳng Bản tâm, ngoài tâm không có một pháp, mà tất cả chư Phật có nói ra cũng đều chỉ Bản tâm. Như thế, để thấy Phật Phật giáo hóa không khác, pháp pháp đều hiện bày Bản tâm.

    Trong phần đầu trước khi giải kinh, ngài Hàm Thị có làm bài Tổng luận mà không để tên Tổng luận, lại để phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm phần một khiến độc giả dễ lầm là văn kinh. Đó là Ngài muốn nêu lên cho chúng ta thấy lời bàn luận của Ngài ở đây do góp nhặt những yếu điểm trong kinh, chỗ tất cả chư Phật nói về tâm, chớ không có ý kiến nào riêng của Ngài. Vì thế, trong bài Tổng luận này thật cô đọng có thể gom hết toàn ý bộ kinh. Độc giả thông được bài Tổng luận coi như nắm được yếu chỉ bộ kinh Lăng-già.

    Bốn quyển kinh Lăng-già, ngài Hàm Thị giải thành tám quyển. Đến phần cuối kinh, độc giảsẽ ngạc nhiên tại sao không có câu: “Phật nói kinh này rồi, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni… đều rất vui mừng, tin nhận vâng làm, lễ bái lui đi” (Phật thuyết thử kinh dĩ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni… giai đạihoan hỉ, tín thọ phụng hành, tác lễ nhi khứ). Bởi vì toàn bộ kinh Lăng-già rất nhiều, các vịhọc giả Ấn Độ mang sang Trung Hoa phần nào thôi, nên phiên dịch chưa đến phần chót.

    Chúng tôi mong độc giả đọc bộ kinh Lăng-già này thấy được Bản tâm, để khỏi cô phụ công ơn đức Phật dùng mọi cách chỉ dạy và khỏi uổng công ngài Hàm Thị đã nhọc nhằn giải thích cho chúng ta.

    Kính ghi,

    Tu viện Chân Không

    Đầu Xuân 1975

    THÍCH THANH TỪ

    Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     

    Các file đính kèm:

    Quoc Tung 1989, grazia, haist and 9 others like this.
Moderators: mopie

Chia sẻ trang này