Trà phiếm Mỗi ngày một truyện ngắn

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi Song Ngư, 6/11/13.

Moderators: amylee
  1. lichan

    lichan Lớp 12

    Quà muộn.
    Nguyên Hương
    Căn nhà được quy giá trị ra vàng, ai ở lại thì đưa cho người kia một nửa. Xe, tivi, tủ lạnh... tất cả đều chia đôi. Sự phân chia êm thấm và ai cũng sẵn sàng nhường cho người kia hơn một chút.
    Chỉ còn lại Thu và tôi. áo quần của hai chị em thường để chung một ngăn, bây giờ bề bộn đầy giường. Hai đứa tôi vừa xếp riêng quần áo của mỗi đứa ra, vừa lắng nghe ba mẹ nói với nhau về con cái. Nói qua nói lại cho đến chiều thì ba tôi không còn nhỏ nhẹ nữa, ông thẳng thừng:
    - Về tài sản thì bà muốn lấy thêm gì tuỳ ý. Nhưng về con cái thì tôi nuôi con Linh. Khỏi cần bàn cãi nữa.
    - Đành rằng toà xử tôi một đứa, ông một đứa. Nhưng tôi muốn tụi nó có chị có em với nhau - Giọng mẹ năn nỉ.
    - Vậy, tôi muốn cả hai đứa, bà chịu không? tôi cũng muốn tụi nó có chị có em - Giọng ba thách thức.
    Im lặng một phút rồi mẹ nói, giọng cay đắng:
    - Có thật là ông muốn tụi nó có chị có em không?
    - Đủ rồi! Con Linh là con của tôi - Ba lớn tiếng.
    - Đồ khốn nạn! - Cả người mẹ run lên - Con Thu cũng là con của ông. Tôi nói đi nói lại điều này suốt bao năm nay, không phải vì tôi muốn chứng tỏ sự chung thủy của tôi đối với ông... - Mẹ cười khẩy - Ông không đáng có một người vợ chung thủy...
    - Đừng nói nhiều vô ích - Giọng ba lạnh ngắt.
    - Tôi nói để cho hai đứa con hiểu rằng tụi nó là chị em ruột thịt.
    - Đằng nào thì con Linh cũng ở với tôi.
    Mẹ đi đến giường chất đầy áo quần của hai đứa tôi. bàn tay mẹ ấn trên vai tôi đau điếng:
    - Linh... Em Thu... yếu đuối hơn con nên em cần mẹ hơn. Con hiểu mẹ không?
    Tôi không hiểu được. Cảm giác kiêu hãnh thường ngày biến mất. Thường ngày tôi luôn được khen thông minh hơn, dễ thương hơn và học giỏi hơn Thu. Thường ngày tôi luôn kiêu hãnh, vì ai đến nhà cũng vuốt tóc nựng tôi và chẳng mấy ai hỏi han đến Thu. Và thường ngày, tôi cũng hay lấn át Thu nữa... Nhưng lúc này tôi chỉ thấy tội nó. Tôi không kịp suy nghĩ về những buổi chia tay đang diễn ra. Tôi nhìn đống quần áo đã phân đôi trên giường và chợt nhận ra bao nhiều quần áo đẹp đều là của tôi! áo quần để chung, nhưng có khi nào Thu mặc đâu. Toàn là tôi mặc và quen dần ai cũng coi đó là của tôi.
    Mẹ nhét áo quần của Thu vào valy và cúi hôn tôi:
    - Mẹ yêu cả hai đứa! Con hay nói rằng mẹ không thương con, nhưng không phải vậy đâu. Rồi con sẽ hiểu.
    ***
    Để hiểu được lời mẹ nói, tôi phải trải một thời gian dài. Suốt những năm tháng dài đó, tôi luôn nhớ đén hình ảnh đứa em gái xấu xí khờ khạo của tôi:
    - Chị Linh, con búp bê này chia làm sao? - Nó giơ tay định vặt cổ con búp bê.
    - Cho Thu luôn đó! - Tôi vội giựt con búp bê lại, nhép vào valy của mẹ, lần đầu tiên trong đời tôi nhường em mình. Và kể từ hôm đó, những con búp bê trong tủ kính chưng bày ở tiệm không còn hấp dẫn tôi nữa. Một điều gì đó đã vĩnh viễn qua đi.
    Hai năm đầu, tết nào mẹ cũng gửi thư và quà cho tôi. Con dấu ngoài phong bì cho biết mẹ ở Nha Trang, nhưng không cho biết rõ địa chỉ. Đến năm sau, năm sau nữa... tôi không còn nhận được tin mẹ. Ba cười khẩy: - Chắc mẹ mày lấy chồng rồi! Tôi không nghĩ đến chuyện mẹ lấy chồng. Tôi chỉ nghĩ rằng mẹ không buồn nhớ đến tôi nữa. Ngày xưa, mẹ cũng ít khi nựng nịu chìu chuộng tôi, mẹ thương em Thu hơn.
    Ba lấy vợ. Dì mới hai mươi ba tuổi, lớn hơn tôi tám tuổi. Nhìn dì và tôi người ngoài dễ lầm là hai chị em. Dì không hoạnh họe tôi như những bà dì ghẻ người ta hay nói. Mà thật ra dì không chú ý đén tôi thì đúng hơn. Sáng tám giờ dì thức dậy, chải đầu, thay quần áo rồi ăn sáng đến mười giờ, đi chợ, vậy là tới trưa. Ngủ trưa dậy là đã ba giờ, dì tới tiệm gội đầu hoặc làm móng tay móng chân... rồi cơm chiều. Rồi tối coi tivi hoặc đi xem phim, nghe nhạc...
    Khi có bầu, da mặt bị nám một chút, dì khóc, không chịu vào bếp nấu ăn vì sợ nám nhiều hơn. Ba mua bếp điện về, dì than cái thai làm dì mệt. Vậy là ba thuê một bà già ngày ngày tới lo cơm giặt giũ.
    - Chứ còn con Linh làm gì? - Đó là câu nói đầu tiên của dì ám chỉ đến tôi sau một năm sống chung.
    - Để cho nó học hành! - Giọng ba như ra lệnh, dì im lặng ngay. Dường như dì hiểu được rằng ba rất cưng tôi và đặt hy vọng nơi tôi rất nhiều. Dì muốn gì thì muốn, trừ việc... gây sự với tôi.
    Chỉ tội nghiệp cho bà già giúp việc - Ba tôi vốn khó tính, dì không khó tính nhưng lại nhỏng nhảnh, còn tôi thì ngủng ngẳng với tất cả... Bà nấu món gì, hễ tôi khen ngon thì dì chê dở; bà làm gì, hễ được dì khen thì tôi lại chê. Ba tôi khi thì nghe theo dì, khi thì nghe theo tôi... và một ngày kia ông quát lên:
    - Từ nay về sau ai chê thì tự làm lấy.
    ***
    Dì sinh ra một đá em gái giống em Thu như đúc. Bà gì giúp việc lắc đầu: - Đàn bà có thai mà chưng diện thì sinh con xấu xí vô duyên là đúng rồi. Chỉ tội nghiệp con bé...
    Ba tôi cau mặt mỗi khi nhìn thấy đứa nhỏ. Dì trút bỏ áo quần đẹp, thôi son phấn, cả ngày dì ôm con vào lòng nựng nịu mong cho nó biết cười. Nhưng mặc kệ tình thương lẫn nước mắt của dì, nó vẫn cứ nhìn quanh bằng đôi mắt lờ đờ và chẳng hề vui chút nào khi nghe tiếng lúc lắc của món đồ chơi. - Sao anh chẳng bao giờ nựng con hết vậy? - Tôi nghe tiếng dì khóc hỏi ba tôi và tiếng giày ba tôi đi xa dần.
    Đứa bé đã kéo tôi đến gần dì. Đi học về, tôi thường vào phòng dì bồng bé lên. Tôi ca hát, vui đùa trêu chọc bé, cũng như dì, tôi thiết tha mong nghe tiếng nó cười. Dì vui hơn khi thấy tôi gần gũi bé Bi của dì, nhưng không bao giờ dì hiểu được rằng tôi đang nhìn thấy mẹ nơi dì và bé Bi là em Thu ngày xưa. Giờ thì tôi hiểu được câu cuối cùng mẹ nói" em Thu yếu đuối hơn con nền em cần mẹ hơn".
    ***
    Sau bao ngày tháng, giờ đây tôi bỗng nhớ mẹ và em Thu đến cồn cào. Tôi nhớ hồi đó tôi hay giành đồ chơi với Thu và nó chẳng biết làm gì hơn là khóc ư ử. Cuối năm học nào tôi cũng ôm về gói phần thưởng lớn nhất lớp và ba tôi hãnh diện chở tôi khắp nhà người quen. Mỗi lần ba nựng nịu hoặc mua quà cho tôi thì mẹ lại đưa em Thu đi loanh quanh trong xóm và mua cho em một món quà tương tự để rồi tôi giành luôn món quà đó bằng câu phụng phịu:
    - Mẹ ứ thương con. mẹ chỉ thương em Thu thôi.
    - Linh! Con là chị. Con phải nhường em. - Mẹ dàn hòa.
    Và đôi khi mẹ nói như năn nỉ tôi:
    - Khi nào đi chơi, con dắt em theo cho em biết này biết nọ với nghe con. Tôi lắc đầu nguây nguẩy:
    - Nó chậm chạp lù đù, dắt theo mệt lắm.
    Tôi chưa bao giờ quan tâm đến em Thu - Ba đã khiến tôi nhận ra điều này! Tỗi ẵm bồng bé Bi, ru nó ngủ, may áo búp bê, mua đồ chơi cho nó. Tôi muốn làm thật nhiều cho bé để chuộc lại sự vô tâm đối với em Thu. Nhưng bé Bi là bé Bi, em Thu là em Thu và tôi bật khóc mỗi khi nhớ mẹ. Tôi lục mấy phong thư cũ, tìm địa chỉ cỉa mẹ nhưng vô ích, con dấu ngoài phong bì với hai chữ Nha Trang lạnh lùng chẳng nói được gì hơn. Nha Trang trở thành một địa danh ám ảnh.
    ***
    Giấy báo tôi thi đậu á khoa Đại Học Y Thành phố Hồ Chí Minh gởi về nhà. ba mở tiệc mừng ngay ngày hôm sau. Tiếng cụng ly của khách khứa chúc mừng tương lai tôi vọng vào phòng khiến dì run vai lặng khóc. Tôi bồng bé Bi lên, bé nhìn tôi bằng đôi mắt lờ đờ rồi mệt mỏi ngả cổ trên vai tôi.
    - Mai mốt Linh đi học... ở đây một mình... dì biết làm sao? - Dì nói nho nhỏ, thống khổ, tuyệt vọng, cô đơn. Dì già sọm như đã bốn mươi.
    Tôi cắn nghiêm môi lại. Mẹ cũng đã từng thấy khổ tuyệt vọng và cô đơn như vậy. Mà hồi đó, tôi còn quá nhỏ để biết chia sẻ.
    Tôi rời bữa tiệc mừng đi lang thang trên phố. Hàng cây hai bên đường rũ lá lặng im. Niềm kiêu hãnh trước sự quan tâm đặc biệt của ba dành cho tôi không còn nữa, điều gì đó đã nứt rạn, xót xa.
    - Con gái của ba, con muốn ba thưởng gì cho con? - ba hồ hởi khi tôi quay về sau bữa tiệc.
    - Con thích đi Nha Trang - Tôi đáp và mong ba hỏi "tại sao con muốn đi Nha Trang" để tôi nói với ba về nỗi ray rứt trong tôi, nhưng ba không thèm thắc mắc.
    ***
    Mặc đám bạn vui đùa trên bãi cát. Tôi đi lòng vòng khắp phố biển như một con điên. Tôi dáo dác nhòm ngó, nghểnh cổ xoay đầu nhìn quanh tựa như mẹ và em Thu vừa mới chia tay với tôi xong.
    Tôi đặc biệt chú ý đến những đứa bé trạc tuổi Thu ngày ra đi, những đứa bé rách rưới nhẫn nhục chìa cái mũ trước ngực và ngước mắt chờ đợi. "nếu bỗng nhiên một đứa bé ngửa mũ trước mặt tôi với nụ cười nhăn nhở đó là Thu thì sao?". Câu hỏi kinh khủng lóe lên khiến tôi sựng người khiếp sợ. Mẹ sẽ không bao giờ để em Thu như vậy! Nhưng có thể là mẹ làm sao đó... mẹ chết chẳng hạn và chẳng còn ai trên đời này biết đến em tôi. Một con người sinh ra không lý trí thì có thể làm được gì ngoài việc ngửa mũ xin ăn? tôi thẫn thờ đi trên phố, lòng vừa mong gặp, vừa mong đừng gặp.
    Ngày cuối cùng ở Nha Trang, tôi đi quanh các cửa hàng tìm mua quà cho bé Bi. "Có món quà nào thật hay khiến cho bé cười được không?". Tôi lùng sục món quà trong trí tưởng tượng của mình một cách xét nét tỉ mỉ khiến đám bạn cùng đi kêu trời:
    - Sao mày khó tính như bà già vậy Linh?
    Cuối cùng tôi tìm mua được con thuyền bằng vỏ ốc gắn vào nhau. Những cái vỏ ốc nhiều màu lấp lánh dưới nắng mặt trời.
    - Cám ơn Linh đã mua quà cho bé Bi - Dì buồn bã nói. - Từ lâu rồi, dì cũng chẳng nhớ đến việc mua quà cho bé nữa.
    Dì đưa chiếc thuyền cho bé và ngay lập tức chiếc thuyền tuột khỏi đôi bàn tay lỏng lẻo của bé, rơi xuống nền xi măng khô khốc, vỏ ốc văng tung toé.
    Thật là bất ngờ, tôi gặp mẹ ngay nagỳ đầu tiên đến trường Đại học. Trong phút giây, tôi và mẹ đứng lặng nhìn nhau. Mẹ già đi nhiều, tốc lốm đốm bạc. - Sao mẹ... đứng ở đây? Tôi ấp úng hỏi một câu ngu ngơ.
    - Mẹ đợi con! - Giọng mẹ khàn khàn.
    - Sao mẹ... không viết thư cho con?
    - Biết ba con lấy vợ nên mẹ thôi không gởi. Mẹ ngại ba nghĩ rằng mẹ quấy rầy hạnh phúc của ba con.
    - Mẹ ngại... ngại... Mẹ không nhớ đến con thì có! - Tôi dằn dỗi, như ngày xưa mỗi lần mẹ mua quà cho em Thu.
    - Linh! - Mẹ dịu dàng gọi tên tôi - mẹ luôn hỏi thăm về con. Con có thấy là mẹ đang đứng đây không? từ khi biết con đậu trường này, ngày nào mẹ cũng đến đây đợi...
    Hai mẹ con mà phải đợi chừng đó năm tháng để gặp nhau ở một nơi xa lạ. Tôi gục đầu trên vai mẹ, bật khóc.
    - Con về Nha Trang tìm mẹ... mẹ ơi!
    - Hồi đó mẹ đưa em về Nha Trang với hy vọng khí hậu biển sẽ tốt hơn cho em con. Rồi nghe nói ở thành phố có nhiều bác sĩ giỏi nên mẹ đưa em về đây. - Em Thu... sao rồi mẹ? - Tôi hồi họpp hỏi.
    - Em con mất rồi! - Nước mắt mẹ rơi trên tóc tôi - Em con không ý thức được nguy hiểm nên đút tay vào ổ điện.
    Đột nhiên tôi thấy nhẹ nhõm, nỗi nhẹ nhõm tàn nhẫn, kỳ quặc và đau đớn. mẹ nghẹn ngào:
    - Chết có lúc là giải thoát phải không con?
    Nỗi đau trong mắt mẹ khiến cổ tôi cứng lại.
    ***
    Tôi có thêm một đứa em trai, vì mẹ đã có chồng. Chồng của mẹ là một bác sĩ khoa tâm thần. Thật khó chịu khi biết mẹ có chồng. Việc mẹ có chồng khác hẳn việc ba có vợ! Không thể giải thích được vì sao lại như vậy.
    Tôi cố tạo một vẻ mặt vô tư khi gặp cậu bé. Nó có khuôn mặt tròn và sóng mũi thanh tú của mẹ. Rồi khi đối diện với ông bác sĩ, tôi nhận ra đôi mắt nó là bản sao của đôi mắt ông.
    Câu chào ngập ngừng trên môi, rồi tôi bật ra "Chào bác".
    Ông đáp lại câu chào của tôi bằng một nụ cười.
    Ông đưa mẹ và tôi ra mộ em Thu. Ngôi mộ xây theo một kiểu là lạ, ngồ ngộ. Những viên đá hoa đủ màu đắp quanh mộ như những món đồ chơi bày ra bừa bãi. - Với dáng mộ này, bác mong em của cháu có được tuổi thơ ở thế giới bên kia - Ông nói bằng một giọng ấm áp, ân cần.
    Tôi hình dung một cuộc sống có ông, mẹ, em Thu và đứa em tôi mới gặp. Thật khó mà hình dung được cuộc sống đó ra sao. Tuy nhiên, tôi hiểu ông rất yêu mẹ tôi. Vì yêu mẹ nên ông đã tặng cho em tôi tuổi thơ, dẫu muộn màng. Cũng như tôi thân thiện với dì vì nhớ mẹ, và nựng nịu vỗ về bé Bi vì tình yêu muộn màng dành cho em Thu.
    Tôi chợt hiểu ra một điều cơ bản của cuộc sống. Những ai biết yêu thương sẽ sống đẹp hơn.
    Daklak, 9.94
    Nguồn: Hùng - Thành Viên- VNthuquan.
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  2. lichan

    lichan Lớp 12

    Cha và con và… tàu bay.
    Nguyễn Ngọc Thuần

    Lần đầu được đi máy bay - với con là dịp khám phá thế giới bên ngoài, còn với cha lại là sự trải nghiệm những cảm giác trong chính con người mình. Nhưng dường như ở đâu đó, có một điểm chung giữa cậu bé con và người đàn ông khi trải qua một chuyến bay đêm với nhiều tình huống bất ngờ...
    Tôi và con trai đi máy bay từ Sài Gòn ra Hà Nội. Chuyến đi máy bay đầu đời của tôi và đương nhiên con tôi cũng thế. Cũng xin nói thêm, đáng lý chúng tôi bay ngày nhưng bay đêm giảm giá, đành vậy.
    Bay đêm được an ủi bằng Saint-Exupéry. Thế giới bay đêm có thật sự trở thành lãng mạn hay không là nhờ cuốn sách của ông. Những kẻ lãng mạn đã nói thế. Nhưng con tôi thì nó chẳng cần biết ông ta là ai, vừa nghe bay đêm đã không vui rồi.
    - Làm sao con nhìn thấy mây!
    Ừ thì tôi cũng như nó, vẫn mong nhìn thấy mây khi chính mình đi xuyên qua. Tôi nói mà thấy mình muốn khóc.
    - Chẳng sao đâu con, con vẫn nhìn thấy, có điều chúng đen thui.
    8 giờ 30 cất cánh, nhưng mới 5 giờ sân bay đã lố nhố người. Chẳng biết họ có cùng chuyến với tôi hay không. Thằng con tôi mặc chiếc áo màu đỏ, màu yêu thích của mẹ nó. Đội chiếc nón màu vàng. Mang thêm đôi dép có quai hậu. Thế là tuyệt vời gọn gàng. Thế là mẹ nó hài lòng cho xem.
    - Con phải luôn nắm túi quần của bố. Tôi dặn.
    - Thế hai tay bố để đâu mà bố không nắm tay con? Thằng con tôi nó hay lý sự.
    - Bố phải ôm giỏ xách.
    Tệ thật, những chiếc giỏ xách, chẳng lẽ chúng quan trọng hơn đứa con của mình à? Quan trọng đến nỗi mình ôm chặt giỏ xách mà không thèm ôm đứa con? Tôi chột dạ. Nhưng đó cũng chỉ là ý nghĩ loáng thoáng khi gởi hành lý thôi. Bây giờ tôi đã trống hai tay để mà ôm nó rồi. Cũng may thằng bé không nghĩ đến chuyện này lâu. Nó đang phân vân về chiếc máy bay.
    - Con muốn được đi chiếc màu xanh. Nó lại có vẻ to hơn chiếc màu trắng.
    - Ừ, bố cũng thấy thế.
    - Nhưng lỡ người ta không cho mình đi chiếc máy bay màu xanh?
    - Thì đành đi chiếc màu trắng đó chứ sao con.
    - Nhưng con vẫn muốn đi chiếc màu xanh.
    - Nhất định là vậy rồi. Nhưng màu trắng cũng hay lắm. Khi đi qua đám mây, chúng ta sẽ giống như màu nó.
    Thằng con tôi nhắm bộ êm êm. Nó êm cũng đúng thôi. Nó mới 10 tuổi làm sao mưu mẹo bằng cái đầu già của thằng cha nó. Làm sao nó có thể hiểu cuộc đời này, nếu không được đi chiếc máy bay màu xanh, thì sẽ có những chiếc màu vàng, màu đỏ thay vào. Hoặc không có máy bay thì người ta đi bằng xe đò, xe máy… Người ta thay đổi phương tiện cho bằng được để đạt mục đích Sài Gòn - Hà Nội, Hà Nội - Sài Gòn. Người ta thay thế bầu trời bằng mặt đất thì có sao đâu?
    Có chết hay không chỉ là dăm giấc mơ cỏn con trên khoảng trời kia, rồi cũng bị dăm giấc mơ bạc tiền làm cho quên đi, mụ mị đi.
    Ở phòng chờ, một vài vị kinh khủng lạnh lùng lăm lăm cái điện đàm. Họ giữ yên cho cái an ninh ở đây. Nói chung để mọi thứ đâu vào đấy. Thằng con tôi quên chuyện màu chiếc máy bay rất nhanh.
    - Chú ấy làm gì vậy bố?
    - Chú ấy xem có ai mang vũ khí không. Vũ khí là súng đó.
    - Thế mang dao có sao không bố?
    - Cũng không cho tuốt. Kẻ nào mang dao đi ngang chú ấy, cái máy sẽ tự reo lên. Một miếng sắt nó cũng sẽ tự reo. Nó là cái máy dò kim loại.
    Thằng con tôi có vẻ rất vui vì điều này nhưng lại không tin lắm. Một cỗ máy làm sao có thể phát hiện một ai đó, mang một cái gì đó nếu như họ giấu kín trong người. Tôi cũng nghĩ vậy.
    Và kết quả nó đã làm một việc dại dột: ngậm hai đồng cắc vào miệng. Ngậm đúng 10000. Số tiền mà tôi đã cho nó không biết từ lúc nào. Có lẽ từ lúc Nhà nước mới sản xuất lại tiền cắc, và tôi đã cho để nó biết mùi tiền cắc với người ta.
    Tôi cũng phải công nhận là con tôi thông minh hơn cả tôi và mẹ nó. Nhiều lúc tôi hay nghĩ ngợi, trí thông minh của một con người từ đâu ra, trong khi bố mẹ nó cứ tầm tầm, ngao ngán. Vợ tôi một hôm đọc báo nói là do thức ăn… Tôi cũng đành chấp nhận giả thuyết này, bởi không từ ăn uống thì từ đâu?
    Vì thông minh nên nó đã nghĩ ra cái sáng kiến ngậm hai đồng cắc dại dột. Nhưng đó cũng chỉ là chuyện sau này tôi được biết. Khi ở sân bay, tôi vô tư hơn nhiều. Thấy thằng con không nói tiếng nào, thế là tôi khỏe. Một ngày nó nói nhiều lắm, hỏi nhiều lắm. Tôi phải giải thích cho nó nghe về thế giới này, từ màu sắc đến âm thanh. Thiếu điều còn giải thích tính tình của một con mèo.
    Lúc này nó chưa ngậm đồng tiền, tôi và nó đang ngồi ngoài phòng chờ thủ tục nên nó nói:
    - Nếu mẹ mà biết con và bố ra thăm chắc sẽ giật mình, bố nhỉ!
    - Đương nhiên rồi. Mẹ sẽ bàng hoàng.
    Rồi cũng nhanh chóng thôi, chúng tôi chuẩn bị bước qua máy soi. Nó đem đến cho tôi cảm giác rờn rợn như bước qua máy chém. Một khối vuông vuông như cánh cổng và những bộ phận huyền bí bên trong nó. Nó sẽ chiếu một tia phản ánh sự thật xuyên qua người tôi, qua con tôi?
    Bỗng dưng tôi chợt thấy ngao ngán và buồn cười. Tôi buồn cười bởi sự an toàn giả tạo bên kia cánh cổng này mà con người có thể nghĩ ra. Ở bên kia cánh cổng đó là một thế giới bình an ư? Có chắc không? Thế tôi đang ở bên đây, tôi không được bình an, tôi đang sống trà trộn với những nỗi nguy hiểm chưa được kiểm soát bằng máy sao? Mà có chắc gì an toàn trên thế giới này, thỉnh thoảng máy bay vẫn cứ rơi, máy móc vẫn cứ hỏng hóc, chưa kể phi công đang lái bỗng dưng ngủ quên... Ai mà biết được. Những phi công cũng là con người, vẫn như tôi, vẫn có một hôm vui chơi quá chén và ngủ quên tuốt. Dám lắm chứ.
    Cú bật cười của tôi xem ra có lý kinh khủng. Nhưng dù tôi có cười thì cái máy soi vẫn lù lù xuất hiện và tôi phải đi qua nó. Lúc này thằng con tôi vội vã móc hai đồng tiền cắc trong túi quần ra, tinh ranh bỏ vào miệng ngậm chặt. Cái miệng nó phồng lên thấy rõ, nhưng con nít má phính là chuyện thường. Mặt nó đỏ gay.
    Người đứng trước bố con tôi đang bỏ điện thoại vào cái rổ, và thế là chúng tự động chạy vào bên trong máy như chạy vào một cái miệng đói.
    - Máy dò kim loại đấy! Tôi nói thầm với con trai.
    Tôi thấy mặt nó đang căng thẳng hơn nhiều. Tôi còn căng thẳng huống gì nó. Rồi đến phiên nó bước tới. Cái máy hét ầm lên như thể bản thân con trai tôi là một khối thuốc nổ. Nó sắp sửa nổ tung. Anh chàng bảo vệ ngoắt thằng bé tới. Tôi thấy nó giơ hai tay lên trời như đầu hàng. Người ta lấy cái máy soi cầm tay dí vào người nó như điểm từng huyệt một. Cũng như đối với người lớn, người ta rà ở ngực, ở bụng, khi rà đến chim thì cái quần nó đã ướt từ lúc nào rồi. Rồi cũng to như cái máy, nó khóc rống. Nức nở như cha chết.
    - Nó đái rồi kìa. Người nhân viên kiểm tra hét lên.
    Thằng con tôi tự động thò tay xuống lấy ra xâu chìa khóa. Nó đã lấy xâu chìa khóa của tôi rồi lận vào ống quần của nó lúc nào tôi cũng chẳng biết. Quỉ quái thật. Rồi nó tự động le cái lưỡi đỏ chót ra, một đồng tiền sáng lóa xuất hiện trên đó như bị phù phép. Nước mắt nó vẫn không thôi chảy. Đã nói là nó khóc như cha chết mà. Cuối cùng thì nó cũng được cho đi qua máy soi, với một ít nước mắt, một cái quần ướt mem, lại còn bị hăm he:
    - Muốn cắt cu không hả nhóc?
    Ở phòng cách ly chờ lên máy bay, thằng bé có vẻ hoàn hồn. Nhưng khi đã hoàn hồn thì nó lại bắt đầu khóc thêm một lần nữa. Đúng vậy, nó ngậm hai đồng tiền, thế nhưng lúc nãy lè ra chỉ có một đồng, vậy thì cái đồng thứ hai đã đi đâu? Hay là nó đã nuốt rồi cũng nên.
    Tôi định dẫn nó đến máy soi nhờ soi cái bụng, nhưng đã lỡ ngậm tiền qua cửa rồi, người ta bắt nhả ra thì làm sao mà nhả.
    - Thôi nín đi. Tôi nói. Một chàng trai không thể cư xử như một mụ đàn bà.
    Nó vẫn cứ khóc.
    Tôi định bảo nếu nuốt tiền mà không mắc cổ thì không sao đâu con, nhưng rồi bỗng dưng nghĩ không nên cho nó thói quen đó. Thế là đanh ác thêm:
    - Nuốt tiền rất nguy hiểm.
    Loa phát thanh bắt đầu giục hành khách ra cửa, giọng lảnh lót đến không ngờ. Người ta nói nhẹ quá, ngọt ngào quá, như được ướp mật. Rõ ràng tôi chưa từng được nghe những âm thanh như vậy ở ngoài đời. Một chút phân vân lạ lùng cứ xoáy sâu vào tôi. Có thể nào đó là cái máy nói.
    Theo sự chỉ dẫn, hai cha con tôi đi cửa số chín. Thằng con tôi đã hết khóc nhưng nó chuyển sang… đau cổ họng. Lạ lùng. Rồi nó thấy mình khó thở.
    - Con nghẹn lắm.
    Tôi đưa ngón tay ra trước mũi của nó:
    - Thở mạnh bố xem.
    Nó từ từ thở ra.
    - Con thở mạnh xem!
    Nó thở mạnh.
    - Bố thấy con thở rất mạnh đó chứ!
    - Mấy bữa con thở mạnh hơn kia.
    Nó lúng búng trong miệng như muốn khóc. Bây giờ nó đã yếu rồi.
    Đoàn người dài dằng dặc đang thu ngắn lại. Nó tiếp tục bồi cho tôi một nhát thứ ba:
    - Đồng tiền nó đang chạy vào phổi của con.
    - Thôi được rồi, lên máy bay chúng ta tính tiếp. Tôi thầm thì với nó.
    Được lên máy bay, thằng con tôi quên khuấy vụ đồng tiền trong phổi. Chỗ ngồi của bố con tôi ngay cửa sổ. Từ đó có thể nhìn ra bên ngoài, thấy cả một khoảng trời lớn. Với cái chỗ thuận tiện như vầy, giá như tôi bay ngày thì sẽ hay hơn nhiều. Thời tiết vô cùng tuyệt. Mây trắng, trời trong, và gió nữa. Nhưng đây là một chuyến bay đêm.
    - Bố nhìn kìa, có hai chiếc máy bay màu xanh. Mình đang đi chiếc màu gì nhỉ!
    - Bố cũng không biết nữa.
    - Một chút bố hỏi cho con nhé!
    - Ừ.
    Thật may mắn làm sao, cô tiếp viên phát cho chúng tôi mỗi người một cái khăn lạnh. Cái mặt của thằng con tôi bấy giờ trông gớm ghiếc quá, nước mắt nước mũi chảy từng vệt, đọng lại nhìn cứ thấy thâm thâm đen đen.
    Lau mặt xong nó lại đau bụng. Đau khủng khiếp.
    Oái ăm thay, trước khi cất cánh nguời ta không cho sử dụng nhà vệ sinh. Cái công việc bất tiện đó cần phải đạt đến một độ cao vừa phải nào đó trên quãng trời kia. Đành chịu thôi.
    Mặt đất xa dần. Những con người lạ lùng là thế vậy mà bỗng chốc bé lại, yếu đuối, run rẩy trong cái đốm sáng nhạt nhòa ở cuối đường bay. Xa xa nhấp nha nhấp nhổm những đốm sáng im lìm, chìm khuất. Mặt đất từ từ hiện ra như một viên kim cương khổng lồ.
    - Chúng ta đi được chưa bố. Thằng con tôi tiếp tục nói bịt miệng không kịp - Con mắc đái lắm. Nó hét lên như giữa chốn không người.
    - Được rồi, được rồi. Tôi nói thầm vào tai nó, bố sẽ dẫn con đi tiểu.
    Nhưng bất hạnh làm sao đã có một gã nhổm dậy trước con tôi. Gã đứng chắn ngay lối vào nhà vệ sinh. Lại thêm một gã khác đứng chờ cái công việc ấy.
    - Đợi một chút nha con.
    Tôi nói rồi ngồi xuống. Lại xuất hiện thêm một cụ bà. Cụ quấn chiếc khăn quàng cũ kĩ. Khuôn mặt hoảng hốt và bất ổn lạ thường. Có lẽ họ toàn là những nạn nhân chờ máy bay đạt đến một độ cao…
    Trên đường đi xuất hiện cô tiếp viên hàng không, đẩy chiếc xe thức ăn. Có hai món ăn được chọn một cho buổi tối. Một món nghe rất lạ, rất Tây, chẳng biết là món gì, ăn thế nào, cuối cùng tôi phải chọn cái món có âm tiết quen quen, Việt Nam hơn, đơn giản là vì nó có chữ đùi gà được phát âm bằng tiếng Việt.
    Bà cụ vẫn còn đứng trên lối đi và thằng con tôi không còn chịu được nữa.
    - Con sẽ đái trong quần. Nó nói một cách chắc chắn.
    Người ngồi kế bên tôi lúc này ra chiều hoảng sợ:
    - Ấy chết! Đằng kia cũng có một nhà vệ sinh.
    Tôi nhìn theo ngón tay anh chỉ thì cũng vừa lúc mọc ra một bà cụ thứ hai ngay hướng ấy, mặt còn hốt hoảng hơn bà cụ trước. Bà đang đứng chờ. Đành phải dẫn thằng bé ra xếp hàng thôi. Và kể từ lúc đó tôi cay đắng nhận ra, cần phải nhìn nhận sự việc này như thế nào, phải chăng có một phần lẩn khuất nào đó trong chính bản thân tôi, luôn luôn và giày vò bị xâm chiếm bởi sự xấu hổ mà tôi không biết.
    Thế rồi cuối cùng chúng tôi cũng xong phần việc của mình, cũng bước qua sự xấu hổ ấy, một nỗi xấu hổ tiểu tiện bé nhỏ. Trên đường trở về chỗ ngồi, thằng con tôi đã hoàn hồn bắt đầu vặn vẹo theo cái kiểu thường trực của nó:
    - Sao lúc nãy bố bảo đi tiểu? Bình thường bố bảo đi đái cơ mà!
    Nó nói to lắm. Nó là đứa trẻ sinh ra từ cánh đồng, nên giọng nói của nó luôn được hiểu là… đồng không mông quạnh. Nó chẳng sợ gì. Cũng chẳng lịch sự gì. ý tứ gì. Lịch sự là thứ buồn cười.
    Tôi im lặng. Nó lại tiếp tục hỏi. Hình như nó tưởng rằng tôi không nghe thấy.
    - Sao vậy bố, sao bố nói là đi tiểu?
    Nó càng hỏi tôi càng muốn khóc. Phải rồi, tại sao tôi phải nói trại đi cái từ mà tôi vẫn từng nói. Nó là tiếng nói của nơi tôi ở, nó tồn tại trước cả khi tôi được sinh ra. Và nếu tôi không lầm thì bất cứ ngôn ngữ nào trên trái đất này cũng đều có nó. Vậy thì tôi xấu hổ vì điều gì?
    Bữa ăn nhanh chóng trôi qua. Thằng con tôi nhắm bộ khoái cái phòng vệ sinh. Theo lời nó thì tiếng dội nước to lắm. Chỉ cần nhấn một ngón tay là âm thanh rú lên kinh khủng.
    - Con đi đái đây. Nó nói.
    Và nó cứ đi ra đi vào liên tục. Việc nó trở về chỗ ngồi chỉ là để hợp thức hóa cho việc nó sắp sửa sẽ đi. Như một mối di truyền quái quỉ từ con truyền sang, bỗng dưng tôi cũng muốn thử một lần cho biết. Tại sao không chứ, một lần làm cái việc ấy trên không trung lạ lùng này, giữa bầu trời đêm!
    Tôi dợm bước định nhổm dậy thì máy bay chênh vênh rơi vào vùng khí loãng. Bầu trời bên ngoài tối sắc lại. Xa xa nhợt nhạt, tôi nhìn thấy một quầng mây u tối. Trước khi đi, tôi đã từng ao ước nhìn thấy mây. Thế mà bỗng dưng tôi đã quên nó một cách nhanh chóng chỉ vì những thứ tầm phào, những thứ quái đản mà tôi không thể đoán trước. Tôi nhìn ra bầu trời một lần nữa. Chẳng thấy ngôi sao nào. Cũng chẳng nhìn thấy ánh đèn trên mặt đất. Có lẽ chúng tôi đã cách xa nhau lắm rồi, cái mặt đất, cánh đồng, cái chỗ ngồi của tôi. Thế là tôi ở lại.
    Đèn máy bay đã giảm. Một vài người thiu thiu ngủ. Thật lạ lùng. Người ta có thể ngủ được khi chính bản thân mình đang được bay lên trên bầu trời ư! Tôi thử nhắm mắt, nhưng không thể nhắm được. Tâm hồn tôi hỗn loạn, chênh vênh như có những tiếng nổ lớn. Tôi bay lên trên cao rồi tôi lại chìm xuống dưới. Tôi chìm sâu vào tâm hồn tôi.
    Bất ngờ một bàn tay nhỏ nhắn đập vào vai tôi, nói cái điều mà tôi chẳng muốn:
    - Bố, dậy đi. Đã tới nơi rồi.
    Tôi nhổm dậy.
    - Cái gì, đã xuống đất rồi à?
    Rõ ràng mặt đất bên kia cửa sổ - nó - sân bay. Tôi thấy mình muốn khóc:
    - Sao con không đánh thức bố?
    - Bố ngủ say lắm!
    - Thì biết là bố ngủ quên. Bố đã thức khuya rất nhiều ngày liên tiếp trước khi có chuyến đi này. Nhưng con thừa biết là bố không bao giờ muốn ngủ khi bay cả.
    Từng đoàn người đã đứng lên chật lối đi. Đã đến lúc dùng dằng thì cũng phải ra về.
    - Con có thức từ đầu đến cuối không? Tôi hỏi.
    - Có.
    - Vậy thì được rồi. Tôi an ủi nó. Con hãy nhìn chiếc máy bay cho kỹ đi. Bởi vì vòng về chúng ta sẽ đi tàu lửa. Và chúng ta cũng chẳng có tiền nhiều để mà đi máy bay lần thứ hai, lần thứ ba. Nhưng dù sao khi cúi xuống ruộng, con vẫn có thể ngẩng đầu lên trời mà nói rằng, con đã từng bay qua cái khoảng trời này. Con đã từng đi trên chiếc máy bay này.
    - Chẳng ai tin con đâu.
    - Ừ, bố cũng biết thế, làm sao họ có thể tin được.
    - Họ lại không có mẹ ở xa. Thằng con tôi đã vui trở lại. Ngẫm nghĩ một hồi nó lại nói tiếp, và nhất là họ không thể… tiểu đến chín lần trên bầu trời.
    Bên ngoài mặt đất hiền hòa đón lại chúng tôi như thể chúng tôi không thể thoát được chúng.

    Trích từ:
    Đánh máy: Sao Băng
    Nguồn: Báo Nhân Dân
    Nguồn: Ct.Ly - Thành viên -VNThuquan.
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  3. lichan

    lichan Lớp 12

    Chuỗi Ngọc Lam
    Ngày cô bé Joan Grace đẩy cửa bước vào tiệm của Pierre Richard thì Pierre là con người cô độc nhất thành phố. Có lẽ hồi ấy các bạn đã được nghe phong phanh câu chuyện đó. Nhưng báo chí không nêu tên mà cũng không kể chi tiết nên hôm nay tôi xin thuật lại tường tận.
    Pierre đã được ông nội để lại cho một cửa tiệm bán đồ cổ. Trong cái tủ kính nhỏ xíu anh chất đủ các thứ đồ kỳ cục : vòng, mề đay đeo vào dây chuyền có từ thế kỷ trước, nhẫn vàng, hộp bạc, ngọc thạch hoặc ngà chạm trổ, tượng nhỏ bằng sứ.
    Buổi chiều, mùa đông hôm đó, một em gái đứng áp trán vào tủ kính, trố mắt ngó kỹ từng vật cổ lỗ đó như muốn kiếm một vật gì. Bỗng em ngững đầu lên, vẻ khoan khoái rồi đẩy cửa bước vào tiệm.
    Tiệm tối tăm mà còn bừa bãi hơn mặt tiền nữa. Có những ngăn tủ muốn sập vì chất quá nặng : hộp đựng tư trang, súng lục cũ không còn dùng được nữa, đồng hồ chuông đèn; còn trên sàn thì chất đống nào là giá để củi trong lò sưởi, đờn măng-đô-lin và những đồ cũ kỹ khó mà phân loại được.
    Pierre ngồi ở sau quầy. Mặc dầu mới ngoài ba mươi mà tóc của anh đã hoa râm. Anh ngó cô bé.
    Em hỏi :
    - Thưa ông, con có thể coi chuỗi ngọc lam bày ở tủ kính không ạ?
    Pierre kéo tấm màn, lấy chuỗi ngọc ra đưa cho cô bé xem. Những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trong bàn tay xanh xao của anh. Em đỡ lấy, thốt lên lời khen :
    -Đẹp quá! Xin ông gói lại thành một gói đẹp cho con.
    Oierre lạnh lùng ngó em :
    -Có ai sai em đi mua hả?
    -Thưa không. Con mua cho chị Hai con. Chị đã nuôi nấng con từ khi má mất. Đây là lễ Noel đầu tiên chị em con được ở gần nhau. Con muốn tặng chị một món quà đẹp.
    Pierre nghi ngờ hỏi :
    - Em có bao nhiêu tiền?
    Em mở khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm bạc xu, bảo :
    - Con đã đập con heo của con ra đấy.
    Pierre Richard ngó em, vẻ trầm tư. Rồi anh ý tứ cầm chuỗi ngọc lên, sợ em trông thấy giá tiền. Nói thẳng cách nào cho em biết được? Cặp mắt xanh đầy tin tưởng của em gợi cho anh nhớ lại vết thương lòng thời trước.
    Quay lưng lại em, anh bảo :
    - Em đợi một chút nhé.
    Rồi vừa lúi húi làm một việc gì đó, anh vừa quay lại hỏi:
    - Em tên gì?
    - Thưa, Joan Grace.
    Khi quay lại thì trong tay anh đã cầm một gói nhỏ bao bằng giấy lụa đỏ và cột bằng một băng lụa màu xanh lá cây. Anh đưa cho em bé và bảo:
    - Này, coi chừng em đừng đánh rơi nhé.
    Em Joan mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt về nhà. Anh nhìn theo, một nỗi buồn mênh mông dâng lên trong lòng. Em nhỏ đó và chuỗi ngọc lam khêu gợi lại một vết thương lòng không bao giờ lành hẳn của anh. Tóc em vàng như lúa chín, mắt em xanh như nước biển; mới mấy năm trước, anh đã yêu một thiếu nữ cũng có mớ tóc đó, cặp mắt đó. Chuỗi ngọc đã tính để tặng nàng.
    Nhưng một chiếc cam nhông trượt bánh trên con đường trơn trợt một đêm mưa đã làm tiêu tan ước mơ.
    Từ đó anh sống cô độc, ôn lại hoài nỗi khổ tâm. Anh ân cần lễ độ tiếp khách, nhưng ngoài công việc ra, anh thấy đời trống rỗng vô nghĩa một cách khủng khiếp. Lầm lì, không giao thiệp với ai, anh ráng quên mà không quên được, nỗi thất vọng như sương mù cứ mỗi ngày mỗi dày đặc.
    Cặp mắt xanh của em Joan Grace gợi cho anh hình ảnh người yêu. Vào dịp lễ này, khách hàng tới đông, ai cũng bộc lộ niềm vui làm cho anh càng đau lòng. Khách qua đường bước vào tiệm, chuyện trò, sờ mó các món đồ, trả giá lăng xăng. Đêm Noel đã khuya rồi, khi người khách cuối cùng bước ra, Pierre Richard thở phào nhẹ nhàng. Thôi thế là qua được năm nay. Nhưng anh đã lầm.
    Cửa thình lình mở ra, một thiếu nữ xông vào. Anh thấy nhói ở tim: thiếu nữ có vẻ mặt quen quen nhưng anh không nhớ rõ đã gặp ở đâu, hồi nào. Tóc cô vàng hoe, mắt xanh thăm thẳm. Cô im lặng lấy trong túi xách ra một gói nhỏ bao vội vàng một thứ giấy lụa đỏ, lại có cả cái băng lụa màu xanh lá cây đã mở ra rồi. Và những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trên bàn:
    -Chiếc chuỗi ngọc lam này có phải của tiệm ông không?
    Pierre ngước mắt lên nhìn cô, nhẹ nhàng trả lời:
    - Phải.
    - Phải ngọc thật không?
    - Nhất định rồi. Không phải thứ ngọc quý nhất nhưng ngọc thật đó.
    - Ông có nhớ đã bán cho ai không?
    - Bán cho một cô bé. Tên em là Joan. Em mua để tặng quà Noel cho chị Hai của em.
    - Giá bao nhiêu?
    Pierre nghiêm mặt đáp:
    - Tôi không khi nào nói giá tiền khách hàng đã trả cho tôi.
    -Em Joan chỉ có ít đồng tiền tiêu vặt làm sao em có đủ tiền mua chuỗi ngọc này?
    Trong lúc đó, Pierre vuốt kỹ lại tờ giấy lụa, gói lại chuỗi ngọc. Anh bảo :
    -Em đã trả đắt hơn hết thảy các người khác. Có bao nhiêu tiền em đưa tôi hết.
    Hai người làm thinh. Cửa hàng bỗng tĩnh mịch lạ thường. Tiếng chuông từ một giáo đường ở gần đó bắt đầu đổ, văng vẳng đưa lại. Cái gói nhỏ đặt trên bàn, vẻ thắc mắc dò hỏi trong cặp mắt thiếu nữ và cảm giác hồi sinh kỳ dị dồn dập dâng lên trong lòng Pierre, tất cả những cái đó đều là do tình yêu của một em nhỏ.
    -Nhưng sao ông lại làm như vậy?
    Pierre vừa đưa gói nhỏ đó cho cô vừa trả lời :
    -Hôm nay là ngày Noel. Tôi bất hạnh không có ai để tặng quà. Cô cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Noel vui vẻ với gia đình nhé!
    Thế là trong tiếng chuông đổ hồi, giữa một đám đông vui vẻ, Pierre Richard và một thiếu nữ mà anh chưa biết tên, cùng nhau bước qua một ngày mới đem lại nguồn hy vọng tràn trề trong lòng mọi người.

    Tác giả : Fulton Oursler - Nguyễn Hiến Lê dịch
    Trích Ý Cao Tình Đẹp
    đánh máy: CaQuynh
    Nguồn: dactrung.com
    Nguồn: Ct.Ly - VNThuquan
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  4. lichan

    lichan Lớp 12

    Đổi quà
    Diane Rayner

    Niềm tin là tin những gì không thấy và rồi
    niềm tin sẽ cho thấy những gì đã tin
    Thánh Augustinô

    Tôi lớn lên với một niềm tin rằng những chuyện kỳ diệu và tuyệt vời thường xảy ra trong ngày lễ Giáng Sinh, khi những nhà thông thái từ phương Đông đến, khi gia súc thì thầm với nhau trong chuồng vào lúc nửa đêm, và khi ánh sáng từ ngôi sao lạ trên bầu trời cao báo hiệu Con Thiên Chúa đã sinh xuống trần. Giáng Sinh trong tôi lúc nào cũng là một dịp reo mừng, vui hưởng hạnh phúc, và chưa bao giờ tôi hạnh phúc cho bằng lễ Giáng Sinh năm đó, năm mà đứa con trai của tôi, Mẫn, vừa tròn tám tuổi.
    Đó cũng là năm mà mẹ con tôi dọn vào căn nhà xe (trailer) ở vùng đồi núi ngoại ô Redmond, tiểu bang Washington. Vào những ngày gần lễ Giáng Sinh, chúng tôi không mấy háo hức lắm; mặc dù không phải vì cơn mưa giông kéo dài mấy ngày gây sình lầy đường sá và làm sàn nhà chúng tôi ướt đẫm bùn. Từ đầu tháng 12, Mẫn trông vui tươi hẳn ra, và có vẻ bận rộn nhất nhà. Nó là con út của tôi, một thằng bé vui tính, mẫn tiệp và thân thiện với mái tóc vàng hoe. Mẫn có tật khi nghe ai nói cứ nghiêng nghiêng cái đầu về một bên trông như con chó nhỏ. Đúng ra là vì Mẫn bị điếc bên tai trái nên phải nghiêng đầu để nghe cho rõ nhưng chẳng bao giờ thấy nó mở miệng than phiền về khiếm khuyết bẩm sinh đó cả.
    Tôi để ý đến nó cả mấy tuần nay. Tôi biết chắc là Mẫn đang giấu tôi một điều gì đó. Tôi nhận thấy nó siêng năng dọn giường chiếu, đổ rác, hăng hái phụ dọn bàn ăn với các anh chị. Nó âm thầm để dành tiền ăn quà, cất giữ cẩn thận. Tôi không hiểu nó đang toan tính chuyện gì nhưng tôi biết rõ một điều là chuyện nó đang toan tính chắc chắn phải liên quan đến Kha.
    Kha là bạn của Mẫn và chúng nó rất thân nhau từ đầu mùa xuân. Chúng thân nhau đến nỗi nếu gọi tên một đứa, cả hai đều lên tiếng. Thế giới của chúng nằm gọn trong cánh đồng cỏ có con suối nhỏ róc rách chảy ngang, nơi mà chúng mải mê bắt ếch nhái, nơi mà chúng cứ tưởng tượng là một ngày nào đó sẽ tìm thấy một mẩu tên đã rỉ sét hoặc đào được một kho tàng của bọn cướp đã chôn dấu lâu năm. Cũng là nơi chúng thường rong chơi suốt buổi trưa, ngồi tựa gốc cây vung tay ném những hạt đậu cho bầy sóc nâu nhỏ.

    Cuộc sống của mẹ con tôi trong thời gian đó vất vả, và chúng tôi cố gắng bước đi từng ngày. Lương lãnh ra từ hãng gói thịt chỉ đủ tạm cho mẹ con chúng tôi có những bữa cơm thanh đạm. Nhưng so ra vẫn tương đối sung túc hơn gia đình của Kha. Gia đình Kha rất nghèo, và bà mẹ thật chật vật mới nuôi đủ từng ấy miệng ăn, chưa kể quần áo, sách vở cho con cái. Bù lại gia đình vẫn giữ được nề nếp cổ truyền. Riêng mẹ Kha rất tự hào về nếp sống thanh bạch, đôi khi pha chút tự ái qua những luật lệ bà đặt ra cho con cái.
    Tôi cố kiếm cho được một cây thông nhỏ dựng ở góc nhà, trang hoàng đèn đóm khiến căn nhà trông ấm cúng hẳn ra. Mẫn và Kha đôi khi phụ giúp tôi làm món bánh ngọt hoặc đan những rổ nho nhỏ để treo lên cây thông. Nhưng chỉ thoáng một chốc là chúng lại chay bay ra khỏi nhà, chui qua dãy hàng rào truyền điện, ngăn chia căn nhà tồi tàn của chúng tôi và nhà của Kha, và băng mình vào cánh đồng cỏ non xanh rì.
    Vài đêm trước lễ Giáng Sinh, tôi đang bận rộn với những món bánh ngọt pha quế, Mẫn nói với tôi bằng một giọng vui tươi pha chút hãnh diện:

    - Mẹ xem này, con mới mua cho Kha món quà Giáng Sinh. Mẹ muốn biết là cái gì không?

    Ồ! Hoá ra nó để dành tiền là để mua quà cho Kha, tôi nghĩ thầm. Mẫn tiếp tục:

    - Đây là món quà mà Kha mong ước từ lâu rồi.

    Chùi vội tay vào cái khăn, Mẫn trịnh trọng lôi trong túi ra một hộp nhỏ. Tôi mở hé nắp hộp và thấy một cái la bàn bỏ túi, cái la bàn mà Mẫn đã nhịn ăn vặt trong nhiều tuần, để dành tiền mới đủ mua cho Kha. Chúng nó rất cần một cái la bàn như vậy để định phương hướng khi đi sâu vào khu rừng nhỏ phía sau nhà.

    - Món quà thật dễ thương, con ạ!

    Vừa nói xong, tôi cảm thấy một cái gì không ổn vì tôi biết mẹ Kha rất nghĩ ngợi về sự nghèo túng của gia đình họ. Trong nhà đã không dám nói đến vấn đề quà cáp cho con cái vào dịp lễ thì làm sao Kha có thể trao đổi quà với Mẫn khi nó nhận được cái la bàn. Tôi tin chắc rằng mẹ Kha sẽ không cho phép nó nhận món quà Giáng Sinh từ Mẫn, vì Kha sẽ không có gì để đổi lại. Tôi nhẹ nhàng giải thích cho Mẫn về vấn đề đó và thằng bé tỏ ra rất hiểu biết.

    - Con biết, mẹ ạ! Nhưng con đã có cách. Nếu Kha không biết ai tặng quà thì mẹ nó sẽ cho nó giữ cái la bàn.

    Tôi không biết phải trả lời sao với con tôi. Tôi thật sự không biết phải nói thế nào với nó.

    Một ngày trước lễ Giáng Sinh, bầu trời âm u, lạnh lẽo và mưa tầm tã. Trong căn nhà nhỏ hẹp, mẹ con tôi ngồi chống cằm buồn buồn nhìn bầu trời u ám ngoài kia và không tránh được tiếng thở dài ảo não. Nhưng bốn mẹ con tôi cũng sửa soạn lại phòng khách, dựng lại cây thông có bóng đèn điện nhấp nháy cho ngay ngắn, và chuẩn bị bữa cơm chiều để chờ đón thân nhân hoặc bè bạn có thể ghé thăm.

    Đêm xuống. Mưa vẫn rơi. Đứng ở bồn rửa bát, qua lớp cửa kiếng mờ hơi sương, tôi nhìn mông vào bóng đêm và lòng cảm thấy buồn bã lạ thường. Sao lại có thể mưa vào đêm áp lễ Giáng Sinh được? Mấy nhà thông thái phương Đông có thể rong ruổi trên lưng ngựa đến viếng Chúa Hài Đồng vào đêm mưa gió như thế này không? Tôi nghĩ là không! Theo tôi, những chuyện kỳ diệu và tuyệt vời chỉ xảy ra vào những đêm quang đãng, những đêm trong sáng để có thể thấy ngôi sao lạ trên bầu trời.

    Khi xoay người lại nhìn nồi thịt heo hầm và khay bánh nướng trong lò, tôi thấy Mẫn mở cửa biến mình vào màn đêm. Thằng bé chỉ khoác vội chiếc áo mưa, bên trong phong phanh một bộ đồ ngủ và nó nắm chặt hộp quà trong tay. Mẫn băng qua cánh đồng cỏ sũng nước, trườn mình qua dãy hàng rào điện và tiến dần về phía nhà Kha. Căn nhà Kha kia rồi, Mẫn nhủ thầm. Nó nhón chân đi thật nhẹ đến trước cửa, nín thở mở cánh cửa lưới, đặt nhẹ hộp quà ngay ngưỡng cửa, rồi nhấn mạnh chuông.

    Và nhanh như một con sóc, Mẫn quay người, chạy phăng xuống những bậc thềm, cúi đầu, cắm cổ chạy biến vào màn đêm để không ai thấy nó. Bằng bất cứ giá nào Mẫn phải chạy khỏi khu đồng cỏ nhà Kha để không một ai biết nó lảng vảng trước nhà thằng bạn. Trong đầu óc của nó chỉ còn tiếng thúc dục chạy, chạy nhanh lên… Mẫn mải miết chạy băng qua cánh đồng và thình lình nó đâm người vào dãy hàng rào điện.

    Cường độ dòng điện đủ mạnh đẩy Mẫn bật ngược về phía sau, ghim cắm thân hình nó xuống mặt đất. Mẫn nằm chết cứng trên thảm cỏ ướt. Cả người Mẫn run lẩy bẩy và nó đang ôm lấy ngực, cong người để cố hớp lấy chút dưỡng khí. Nằm chết rũ một lúc khá lâu, Mẫn mới gắng gượng ngồi dậy, khuôn mặt nó vẫn còn tái mét vì sợ hãi, cố chống tay đứng lên và chậm chạp lê bước chân yếu ớt đi về nhà.

    - Mẫn! - chúng tôi la lên và đâm bổ về phía cửa. “Sao vậy con?” Môi thằng bé run tái vì lạnh, đôi mắt thất thần nhìn chúng tôi mãi lúc sau mới thốt lên lời:

    - Con quên mất hàng rào điện. Nó giật con mạnh quá!

    Tôi ôm vội lấy thằng út người đầy những bùn. Tội nghiệp con tôi! Người nó vẫn còn run rẩy và tôi thấy rõ một vệt đỏ cháy phỏng chạy từ miệng ra đến tận mang tai. Tôi lấy ngay thuốc mỡ xoa lên vết thương rồi pha cho Mẫn một ly ca-cao nóng. Uống xong ly sữa ca-cao, Mẫn lấy lại vẻ vui tươi thường ngày. Khi ủ Mẫn vào giường ngủ, thằng bé nhìn tôi và nói:

    - Mẹ ơi! Kha không thấy con đâu! Con tin chắc là nó chẳng thấy con!

    Buổi tối hôm áp lễ Giáng Sinh đó, tôi buồn phiền đi vào giấc ngủ và chán nản tự hỏi tại sao một tai nạn quái ác như thế lại có thể xảy ra cho một thằng bé hết lòng vì bạn, tìm cách san sẻ niềm vui Giáng Sinh đến cho người khác kém may mắn hơn nó, làm theo đúng như lời Chúa đã dạy - làm phúc không cho tay trái biết. Cả đêm tôi nằm trằn trọc với nhiều ý nghĩ. Trong tôi đã nhuốm lên một chút tuyệt vọng về ý nghĩa truyền thống của ngày lễ Giáng Sinh: lễ an hoà, lễ tình thương. Những ý nghĩa tươi đẹp đó đang chết trong hồn tôi và tôi cũng mất hẳn niềm tin về một ngày lễ kỳ diệu, tuyệt vời nhất của đời người.

    Nhưng tôi đã lầm.

    Buổi sáng hôm sau, mưa tạnh hẳn và ánh nắng chiếu rọi chan hoà trên muôn vật. Vết cháy phỏng trên khuôn mặt Mẫn vẫn còn rõ nét nhưng tôi biết chắc là không còn nguy hiểm nữa. Chúng tôi mở quà và không ngờ Kha đang đứng trước cửa nhà, gõ cửa. Nó nhanh nhẩu khoe với Mẫn cái la bàn và kể lại câu chuyện bí ẩn tối hôm qua khi nó nghe tiếng ai bấm chuông và chạy ra mở cửa. Rõ ràng là Kha không thể nào ngờ Mẫn là người tặng quà vào tối hôm trước và trong khi Kha liến thoắng kể chuyện, Mẫn chỉ mỉm cười.

    Và tôi để ý thấy khi hai thằng bé khoe quà với nhau - gật đầu, ra hiệu, chuyện trò, Mẫn không còn nghiêng đầu về một bên nữa. Lúc Kha nói chuyện, hình như Mẫn đang nghe bằng tai trái, bên tai bị điếc. Vài tuần sau, cô y tá ở trường báo cho tôi một chuyện mà tôi đã biết trước là Mẫn đã nghe rõ bằng cả hai tai.

    Làm thế nào mà Mẫn nghe được bên tai trái vẫn là điều bí ẩn. Các bác sĩ cho rằng, khi Mẫn bị điện giật, cường độ của dòng điện đã khai thông hệ thống thính giác bị tắc nghẽn. Có thể lắm chứ! Nhưng cho dù giải thích thế nào đi nữa, tôi chỉ biết cảm tạ Thiên Chúa đã trao đổi quà và tặng cho con tôi một món quà Giáng Sinh vô giá vào đêm hôm đó.

    Các bạn thấy không, những chuyện kỳ diệu và tuyệt vời vẫn tiếp tục xảy ra vào đêm Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Và người ta cũng không cần một đêm trong sáng để bước theo ngôi sao lạ trên bầu trời.

    “An Exchange of Gifts”

    Hải Ngữ chuyển dịch
    Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  5. lichan

    lichan Lớp 12

    Dư luận không nuôi sống ta, nhưng lại có thể dễ dàng giết chết ta...
    Đôi khi chúng ta là nạn nhân của dư luận , nhưng cũng có đôi khi vô tình chúng ta là kẻ thủ ác- dư luận.
    Và mặc dù chúng ta không sống vì dư luận, nhưng xin hãy thận trọng với cơn bão vô hình này...
    Đau Gì Như Thế,

    Nguyễn Ngọc Tư
    Ông già Tư Nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa từng có trên đời.
    Ông khẽ khàng vòng theo mé hè ra chái sau, bắc ấm nước lên bếp. Một làn khói mỏng bay lên. Lửa bắt đầu le lói ngoi lên giữa đám củi dừa rồi lại ngụp xuống, xanh lè vì gió. Trong nhà, nghe thằng Sáng vùng vằng đập chân xuống giường, ông buột miệng, “Tội nghiệp, chắc muỗi cắn thằng nhỏ”. Con Nga ngồi dậy, hỏi vọng ra, “Mới nửa đêm mà, ba thức chi ?”. Ông già trần tình như con Nga đang ngồi trước mặt mình : “Tao ngủ hỏng được. Mà, bây coi ém mùng cho kỹ, để muỗi cắn thằng nhỏ làm ghẻ à”. Nga dạ, tiếng dạ của nó nghe chớm nghẹn ngào. Giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau chạy xổm trên mái nhà, như một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn. Con Nga ngậm ngùi, bữa nay trời trở gió, chắc ngoài kia lạnh lắm, rồi nó ngập ngừng lên tiếng, “Mai vô nhà ngủ… nghen ba”. Ngực ông Tư hực một tiếng, trái cổ nhảy ầng ậc để ngăn cho dòng nước mắt chực trào. Ông lật bật hốt một nắm trà, bỏ vào cái bình sứt vòi, nói “Bây để từ từ, tao tính…”.
    Ngay lập tức ông thôi thèm trà, ông muốn ngủ, ngủ đêm ngủ ngày, để khi thức dậy, như một phép màu, ông ngồi ngay bên mâm cơm chiều con Nga vừa mới dọn ra. Nó biểu ba uống rượu đi, bữa nay có con cá lóc nướng thiệt ngon. Mà, ba tắm làm sao con nghe hôi sình quá trời đất vậy. Ông cười, ngồi tém tẻ, mắt khoan khoái nhìn con cá lóc da vàng ruộm, “làm nghề lặn đất như tao hỏng hôi bùn sình thì hôi gì, con ?”. Con Nga cũng cười, nó lật lưng con cá lên, lấy đũa xẻ dọc, gắp vô chén ông cái đầu dính theo bộ lòng, bảo “Con giăng mùng sẵn rồi, chút nữa con đi tập văn nghệ, ba nhậu thấy vừa xỉn là chui vô mùng liền nghen”. Nói xong, nó lấy lược chải đầu, vói lấy cái kẹp tóc chạy đi, miệng hát Bông ô môi. Con Nga đã qua khỏi bụi trâm bầu mà tiếng hát vẫn chưa tan.
    Cảnh đó đã lâu rồi không trở lại. Cũng như lâu rồi hai ba con ông Tư không còn quảy lon trùng ra ngồi thong thả câu cá bên gốc trâm bầu, rồi người trước mũi, người sau lái bơi xuồng đi nhổ bông súng dưới kinh. Những trưa nắng, con Nga không còn ngồi nhổ tóc bạc cho ông. Chẳng bao giờ người Xẻo Mê còn chứng kiến hai ba con họ xuất hiện cùng nhau.
    Bây giờ, tối tối ông Tư uống rượu một mình (chớ có ai muốn uống với ông đâu), say rồi giăng mùng ngủ ngoài hàng ba, không quên treo cái đèn chong nhỏ (ý như nói với người qua kẻ lại, tui, thằng Tư Nhỏ, ngủ ở đây nè). Nhiều bữa mưa tạt ướt mẹp, ông ngồi hút thuốc cho đỡ lạnh, con Nga trong nhà cũng ngồi bó gối nghe giông gió. Đi làm về, đói bụng, ông lục cơm nguội dùa vô một tô ra hè ngồi ăn, Nga trong nhà bưng chén mà rơi nước mắt.
    Tình cha con đã như nước chảy xuống kẻ tay từ một ngàn năm trăm mười hai ngày trước. Cái ngày con Nga rầu rầu xin ra Chợ Cũ thăm má nó. Ông gật đầu, thì người đàn bà đó hơn một năm rồi chẳng về, tưởng đã quên mất con đường quay lại Xẻo Mê. Ai dè chiều hôm sau má con Nga tong tả xông vào nhà, níu ao ông mà rằng:
    - Sao anh hại đời con gái tôi đến nỗi nó phải mang bầu ?
    Ông Tư kêu lên một tiếng trời ơi. Tôi là người như vậy sao, Cúc ơi, tôi mà là người như vậy à. Cúc biết tôi từng ấy năm trời, sao lại gieo cho tôi cái tội mà chỉ nghĩ đến thôi đã xấu xa… Nhưng chẳng kịp mặc cái áo khô vào để phân trần, công an xã đến mời ông đi. Má con Nga theo sau, la khóc. Mọi người bàng hoàng ngó nhau, đâu nè, anh Tư Nhỏ hồi nào giờ ở đời tử tế, chị đã dò hỏi kỹ chưa, con Nga nó nói vậy à. Không, con Nga nó không chịu nói tên người đó, bà con cô bác nghĩ coi, ai mà nó không dám kêu tên ? Ai trồng khoai đất này…
    Lúc con Nga hay được thì ông Tư đã bị nhốt năm ngày. Nó trốn má về, chạy thẳng ra xã xin ông ra. Nó sụp lạy ông ngay trụ sở Uỷ ban, nó khóc, “Ba ơi, tại con hư, con làm ba khổ, ba tha lỗi cho con, nghen ba”. Ông đỡ nó dậy, cười mếu máo, “Thôi con, đứng dậy, về. Chuyện qua rồi …”.
    Hồi đó, ông cũng tưởng, chuyện qua rồi. Hai ba con ông ra khỏi cổng uỷ ban, nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong những giấc mơ ông, khi giật mình thức dậy, mắt ông luôn luôn đầy nước). Dài theo dãy hàng quán che tum che bạt, người ta đứng coi đông thiệt đông. Đám con nít chạy theo vỗ tay kêu cô dâu chú rể kìa tụi bây ơi, trâu già khoái cỏ non kìa. Người lớn hả hê nhưng giả đò đằng hắng biểu đám trẻ im đi. Coi tướng tá ông Tư hiền lành, đàng hoàng vậy mà làm chuyện động trời, đúng là “lù đù vác cái lu chạy…”, hết chuyện rồi sao mà tằng tịu với con mình. Đâu nè, có phải con ruột ổng đâu. Chị Hai nhớ không thím Bảy nhớ không, hồi má con Nga xáp lại với Tư Nhỏ, bụng đã mang bầu, rồi con nhỏ Nga mới lẩm đẩm biết đi, chị ta bỏ ra Chợ Cũ, Tư Nhỏ phải làm mẹ gà chắt chiu con vịt. Tưởng đâu ông ấy thương con Nga như cha thương con thiệt lòng, thì ra ổng ghé chỗ tui mua cái bánh dừa, củ khoai lang, cây kẹp tóc… về cho con nhỏ là có ý đồ. Tưởng đâu thằng chả nghĩ tới con Nga nên không lấy vợ, ai mà dè…
    Nắng tắt lịm, trời ơi, đâu rồi xóm giềng thân thuộc, đâu rồi khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười quen, ông Tư đứng khựng lại, uất ức, trơ cứng cả quai hàm. Con Nga òa khóc, bỏ chạy tắt theo đường đồng, trên bờ ruộng lông chông những chân cỏ ống cháy trơ xương xẩu. Rồi nó chợt dừng lại, ngó cái bờ chuối mờ chìm trong đêm. Chỗ đó nhắn mắt lại nó vẫn nhìn ra một bãi cỏ mềm, mấy cành cây khô có con rắn mối bò ra bò vô. Chỗ đó, nó với anh đã mấy lần…
    Nhưng bây giờ chỉ còn một mình nó ngồi đây, giữa đồng khơi, đến lúc sương xuống ướt đầm một vai tóc nó mới đứng dậy ra về. Nó gặp ông Tư giữa đường, ngọn đuốc trên tay ông đã gần tàn, cháy lom đom, phập phều trong gió. Ông bảo, “Ba sợ bây làm chuyện dại, rồi lặng đi một chút, ông thầm thì như nói với chính mình, người ta có ác miệng cỡ nào cũng ráng mà sống nghen con”. Con Nga dạ rồi bỗng giật thót lên, nhìn quanh, trong mắt thoáng hãi hùng, nó biểu ông đi trước đi, nhanh lên, đứng xa nó ra, kẻo người ta thấy…
    Rồi người trước người sau, họ trở về căn nhà nhỏ bên kinh Xẻo Mê. Căn nhà từ đây trở đi nằm chơ vơ trong ánh mắt cười cợt, trong lời đàm tiếu của người đời. Ngày nào cũng vậy, ông già Tư Nhỏ đi làm từ sáng sớm, khi người chưa tỏ mặt người, quen chân nên te te qua quãng đông nhà mới dám đứng lại, thở. Hôm ghé quán thím Hồng Nhiên mua khoanh thuốc gò, thím bảo “Hết rồi”, giọng ngắn ngủn, cộc lốc mà con mắt nguýt thì dài, người ta đây ở goá đã lâu, đã để ý thương mà anh lạnh lùng không đếm xỉa, tưởng anh còn thương má con Nga, ai dè anh khốn nạn vậy… Xóm giềng lạnh nhạt, ông Tư phải vác dá, quảy len thùng đi làm đất xa hơn, qua tận bên Đất Đỏ, Kinh Năm, ở đó, người ta không biết ông là ai. Nhưng chuyện một đồn mười, đồn trăm, đám bạn nghề của ông một trưa ngồi dưới bờ dừa hỏi nhau, bên Xẻo Mê có người lấy con gái nên bị bắt phải hôn. Ờ, nhưng được thả rồi, đứa con gái nói hỏng phải nên lãnh ra. Ai đó cười khào, mai mỉa, ái chà chà, hai người họ bênh nhau quá ha. Định day qua hỏi ông Tư coi có biết người đó không nhưng ông đã nhảy cái ọt, lặn mất, lâu lắm không thấy ngoi lên. Đám người sợ quá nhào xuống lôi ông từ đáy nước ngầu đục, hỏi ông bộ muốn chết sao, ông cười, “Bậy, tao lặn thử coi hơi còn dài không, làm gì tụi bây quýnh lên vậy”. Thật tình ông đã nghĩ đến điều đó, rồi chợt nhớ, còn con Nga, nó ở lại chịu đựng vì không nỡ bỏ mình … Mà, con nhỏ đã gần sinh…
    Ông Tư mua than đước dự trữ trong nhà, đưa con Nga ít tiền ra chợ sắm sửa cho đứa bé sắp chào đời. Ông còn chuẩn bị cả vỏ tỏi, hạt mè để làm thuốc cho con Nga những ngày ở cử. Ông ngượng ngịu bảo, “Cái này… tao biết là vì… hồi má bây sinh…”.
    Chỉ chờ có vậy, kỷ niệm ùa về kinh hãi, tươi xanh. Như thể mới chiều hôm qua, Cúc đội thúng rau ghé nhà, xanh xao, đau khổ hỏi, tui biết anh để ý thương tui, anh có muốn cưới tui làm vợ không ? Rồi Cúc nói luôn, không cần cưới hỏi gì, mai tui cuốn đồ lại theo anh. Tưởng đâu nói chơi, ông cười, ai dè Cúc làm thiệt, cô gái đẹp nhất Xẻo Mê về với ông gọn gàng như người ta nhảy ùm xuống ao. Rồi Cúc có thai, ai cũng cười, úi chà chà, bộ trồng lúa ngắn ngày hay sao vậy cà, có chắc là cái thai đó của mầy không, Tư Nhỏ. Ông cười, không nói, nghĩ nó là của mình thì là của mình. Và khi bà mụ Năm trao cho ông đứa trẻ tóc dày mịt, mắt đen, môi đỏ, lòng ông vui mừng rưng rưng, nó là con của mình, con của mình.
    Dù sau này Cúc đã không yêu được cái mùi bùn sình của ông, dù Cúc bỏ ra Chợ Cũ cất quán hàng, nói là cho gởi con Nga lại ít năm (như gởi một cái lu, cái tủ), ông vẫn thương nó như con của mình. Nó lên sáu tuổi, Cúc về, dẫn nó đi. Ông chạy theo nắm tay con bé lại, Cúc cau mày, giằng ra, nó là con tôi, anh biết mà. Ông nhậu say ba bữa liền, tỉnh dậy, thấy Nga đứng đầu giường, nó nói, “trời ơi, con đi mới mấy bữa mà ba tệ thiệt. Thức dậy, đi câu cá nấu cơm ăn, ba ơi”. Nói rồi nó đon đả cầm cái lon trùng đi trước.
    Đứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: “Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá hen”. Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhỏ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, “Thiên hạ phải để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ” . Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau.
    Đêm đó, ông thức trắng. Sáng ra con mắt trõm lơ, ông sửa soạn quẩy gói đi. Hai mẹ con Nga ọ ẹ lên tiếng trong nhà, ông Tư nói vói vô, “Bây có muốn mua gì không, tao đi huyện nè…”. Trời, đi chi vậy ba ? Ông nói ông cũng chưa biết nữa, nhưng dù không biết phải bắt đầu từ đâu cũng phải đòi lại danh dự cho mình, cho con Nga và thằng cháu ngoại, đòi lại những niềm vui đã bị người đời tước đoạt. Ông ra xã , công an xã cười khà khà, như đang nói về vụ bắt nhầm con cá lóc, hay con vịt con gà, “Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa ?”. Ông cãi, tui đâu có đòi gì, nhưng cậu ra thanh minh với bà con Xẻo Mê dùm vài tiếng được không. Công an chạy qua hỏi chủ tịch, chủ tịch cười “chuyện của chú thấy vậy mà căng lắm, hồi trước giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện hỏi thử coi…” Rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại, không sao, ông nói ông chờ được. Lâu lâu, ông tới để nhắc chừng, mỗi khi hay có sự thay đổi, luân chuyển lãnh đạo, ông đến nộp thêm bộ đơn nữa. Lộ phí xe tàu đi tới lui, ông Tư bán con chó phèn, bán luôn bầy vịt mới lông bông áo lá, còn tiền công đào đất mướn dành để lo gạo cá cho hai mẹ con con Nga. Vận bộ đồ bà ba màu cỏ úa, cái khăn quấn sù sụ trên cổ, giỏ bàng nách một bên, gõ cửa hết cơ quan này đến công đường khác, nhiều khi ông già thấy cuộc hành trình của mình mù mịt quá chừng. Có bữa vừa xuống bến xe bị đám bụi đời giật cái giỏ, ông già hớt hãi rượt theo, ngoằn ngoèo hơn mười con hẻm, bất kể ngoặt phải ngoặt trái, người rượt, người chạy cuối cùng chui tọt vô con hẻm cụt, thằng giật đồ hào hển hỏi, gì mà quý dữ vậy ông nội. Ông thở dốc, không nói, trút giỏ, rớt ra mấy cuộn giấy buộc bằng dây thun. Thằng kia vừa tức vừa mắc cười, chửi thề mấy tiếng rồi bỏ đi. Ông già đứng dậy, ngơ ngác, hỏng biết mình đang đứng đâu đây, hỏi vói theo, “Chú em ơi, đường nào xuống toà án tỉnh ?”
    Lội bộ tới đó, anh bảo vệ ngó ông, cười “Ủa, hôm trước chú tới đây rồi mà”. “Vậy ?! - ông già chưng hửng - tui đâu có nhớ. Thôi vậy để tui qua chỗ tiếp dân, chú em cầm ít đơn đọc chơi”. Rồi ông đi trong mưa rúc rắc, trong gió riu riu, chỉ mong có ai đó thấu hiểu được nỗi niềm oan khuất của mình, ai đó thôi cắm đầu vào bàn giấy, ngước lên, hỏi “ Có gì hôn, chú ?”, ông mừng húm, vọt miệng bảo, có chớ, có tui mới lặn lội từ Xẻo Mê lên đây nè, rồi rụt rè rút ra một bộ đơn, đây là tờ cớ ông bị mất danh dự hồi bốn giờ chiều ngày tháng năm, đây là tờ yêu cầu được minh oan… Và lòng ông được an ủi biết bao nhiêu nếu ai đó ra vẻ quan tâm một chút, hỏi “Vụ của chú ra làm sao, đâu nói cho tụi tui nghe coi”.
    Ông Tư lụm cụm kéo ghế ngồi, lưng lòng khòng, đôi mắt ánh lên như người đang khóc. Ông nói nhà tôi ở bên kinh Xẻo Mê, xưa rày sống bằng nghề lặn đất, cắc củm nuôi đứa con gái tên Nga. Rồi một bữa công an xã lại bắt tôi, vì có người tố cáo, tôi làm cho con Nga có bầu.
    - Tôi nghe như ông trời dộng cái ầm vô mặt, nhưng tôi nói gì người ta cũng không tin. Rồi sau biết tôi bị oan, họ thả tôi ra. Tổng cộng tôi đã ở tù oan sáu ngày năm đêm…
    - Ủa, đơn giản vậy thôi hả ?
    Ông già nghe thất vọng quá, các người đòi thêm gì nữa, các người muốn gì nữa, muốn éo le như thế nào, oan khuất bao nhiêu năm mới đủ ? Rồi nuốt vào lòng khối nghẹn ngào, ông cố tươi tỉnh, hỏi :
    - Dà, hồi nãy tôi kể tới đâu rồi cà ?
    Nhưng rồi đến đây ông không không biết phải diễn tả nỗi đau của mình như thế nào. Nỗi đau của một người mới hôm trước còn đề huề sống trong tình làng nghĩa xóm, chiều chiều khề khà vài chung rượu với mấy bạn già, say rồi hát tỉ tì ti, hôm sau đã thui thủi một mình. Làm sao diễn tả được nỗi đau của người cha hôm trước còn bắt kiến vàng bu trên tóc con gái hôm sau đã phải nghẹn ngào đứng xa xa ngó nó khổ đau.
    Ôi ! Những tâm hồn tươi hơn hớn, những khuôn mặt không nhuốm sầu lo kia làm sao biết được niềm ao ước của ông Tư mỗi khi ngồi nhìn thằng Sáng bò lủm củm trên đất, ông khát có một ngày được đàng hoàng, đĩnh đạc bồng nó xênh xang đi trên con đường xóm rập rờn hoa cỏ dại, ai đó hỏi, “Ủa, chú Tư, ẳm cháu ngoại đi đâu vậy?” Ông sẽ cười (lúc đó chắc ông chẳng còn răng):
    - Đi đằng tiệm mua cho thằng nhỏ mấy cục kẹo dừa. Nó mê kẹo vô phương.
    Bây giờ thằng Sáng đã lững đững biết đi, ước mơ đó chưa thành sự thực. Con Nga đã chai lì, nó thôi sợ những bóng người qua lại, thôi sợ những ánh mắt ngó ngiêng. Mà, hai ba con nó không biết, xóm giềng đã thôi để ý lâu lắm rồi (Người đời thường vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì chỉ nói cho sướng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả). Nó biểu ông Tư thôi đừng đi kêu oan nữa, “Hai ba con mình sống y như hồi chưa có thằng Sáng, nghen ba”. Ông già Tư Nhỏ bảo, phải nghĩ tới tương lai thằng Sáng mai nầy chớ con.
    Một bữa có đoàn cán bộ huyện về khánh thành con đường giao thông nông thôn từ Xẻo Mê về Phước Hậu. Nghe nói họ sẽ đi qua nhà (đi một khúc để Đài truyền hình quay phim), con Nga bèn cầm chổi ra sân quét lá. Thấy bóng người quen, Nga gọi nhỏ, anh gì ơi. Chẳng gọi ngay tên, nhưng có người đứng lại, con Nga nghiến răng cười: “Trời đất ơi, tui chờ anh lên tỉnh làm quan quá chừng. Lên càng cao, té càng đau, đồ có quý bể mới tiếc… Tui nhịn hoài, ngậm đắng nuốt cay, lì lợm, nín thinh là tính chờ anh lên đó mới phá anh chơi, nhưng mà đợi lâu quá… Bây giờ ở huyện anh làm tới chức gì rồi, mà anh làm tới cái gì thì cũng do tui cho, nên anh tính làm sao không tui nổi quạu, tui đòi lại cho mà coi”. Người nọ đứng ngây ra, mặt tái như mặt gà mái, hồi lâu mới hỏi : “Bây giờ… Nga muốn gì…”. Con Nga giả đò chưng hửng, “Ủa, vậy mấy lần ba tui lên huyện kêu oan, anh không gặp sao, anh biết ba tui khổ sao anh im re vậy ?”. Nói rồi nó đủng đỉnh đi vô, kêu thầm, trời ơi, người này, hồi đó với mình nồng mặn biết bao nhiêu, khi anh ta say công danh mà bỏ rơi mình, mình đã đau vất đau vả. Sao bây giờ gặp nhau, thấy nản không muốn nhìn mặt. Thì ra, tình cảm cũng như bát nước hắt đi, không mong gì hốt lại.
    Rồi một trưa đầy nắng, mây trên trời xanh lẻo xanh lơ, trước giờ ca cải lương, đài truyền thanh xã gởi đi lời xin lỗi của chính quyền đối với công dân Dương Văn Nhỏ. Đơn giản, gọn hơ, nhẹ nhỏm. Vậy là huề nghen. Cái câu dài thê thiết những dấu phẩy, dấu chấm lửng cuối cùng cũng được người ta chấm cái rột. Ông Tư lúc đó đang móc đất nắn trâu cho thằng Sáng chơi, khóc hức lên vì không cầm lòng được, sao kỳ vậy cà, người ta đã giải oan cho mình rồi, đã xin lỗi mình rồi sao mình vẫn mãi đau.
    Con Nga đứng đằng sau, ngó cái lưng bắt đầu còng xuống của người cha, nghe gió thổi qua lòng mê miết, nghĩ mình ngu thiệt, mình nuôi hận người ấy làm chi đây, mình trả đũa làm chi, đổi lấy cái gì ? Có đáng không những tháng năm dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn ? Và kia, một mái đầu bạc phơ xơ xác ?
    Có đáng không ? Trời ơi, có đáng không ?
    Nguồn : VNThuquan.
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  6. sun1911

    sun1911 Lớp 11

    Báu vật của ông Tiều

    BÁU VẬT CỦA ÔNG TIỀU
    (Sưu tầm)​

    Mệt, đói và nhất là không biết đi đâu, hắn buông mình xuống phiến đá lớn ven đường. Nằm gặm nhấm nỗi bất hạnh của mình, hắn không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Đột nhiên, một giọng hát từ đâu vọng đến khiến hắn chú ý. Ca từ không nghe rõ nhưng âm điệu ung dung khiến hắn tò mò: “kẻ thì quá sức bất hạnh nằm đây, kẻ thì ung dung ca hát, đời thật quá bất công”. Hắn dõi mắt về phía tiếng ca. Kia rồi, từ sau khúc ngoặt của con đường núi bước ra một lão tiều phu, râu tóc bạc trắng cả nhưng phong thái ung dung nom còn mạnh khoẻ lắm. Trên đầu gánh củi còn lủng lẳng cả một bầu rượu nữa kia mà

    Hắn vô tình nhìn sững ông lão. Cái nhìn của hắn làm ông chú ý. Ông hạ gánh củi, ngồi xuống bên hắn cất giọng sang sảng: “Gì thế cậu trai. Trông cậu đói đấy, dùng bữa với ta nhé”. Không quan tâm đến câu trả lời lí nhí của hắn, ông lão bày lên tảng đá bình rượu và mấy chiếc bánh. Ông đưa một chiếc cho hắn, mỉm cười khuyến khích: “ăn đi”. Hắn rụt rè cắn từng miếng nhỏ rồi dần dần, cơn đói thức dậy khiến hắn bạo dạn hơn. Ông lão thong thả vừa ăn vừa đẩy những chiếc bánh về phía hắn. Sau khi đã tỉnh người nhờ mấy chiếc bánh và ngụm rượu của ông lão, hắn ngước nhìn ông vẻ biết ơn.

    “Cậu ở nơi khác đến hả?” Ông già gợi chuyện.

    “Vâng” hắn thận trọng.

    “Cậu trông khá giả, sao đến nông nổi này?”

    “Chuyện dài lắm”. Được khích lệ bởi sự tin cậy hắn tìm thấy từ cái vẻ từ tốn khoan thai của ông lão, hắn nói thêm: “cháu gặp quá nhiều điều không may”. Rồi, như nước vỡ bờ, những ấm ức dồn nén bấy lâu hắn tuôn cả ra.

    Hắn là con trai một trong một gia đình giàu có. Được xem là người con mẫu mực và được hưởng một nền giáo dục đầy đủ, hắn cũng đã đôi lần lai kinh ứng thí nhưng không thành. “Học tài, thi phận. Gia cảnh sung túc cần chi lập nghiệp chốn quan trường” Song thân hắn nghĩ thế và mở cho hắn một hiệu buôn lớn nhất trấn. Khai trương rầm rộ, hàng hoá dồi dào, nhân công đông đúc. Thế nhưng vận may có vẻ không mỉm cười với hắn. Một thời gian ngắn, công việc kinh doanh đình trệ. “Ngành này không hợp, làm thứ khác vậy, khối người buôn gạo làm giàu”. Thế là xoay qua buôn gạo, lại khai trương rỡ ràng nhưng một thời gian ngắn lại đình đốn, lại chuyển sang kinh doanh thứ khác. Hắn cứ xoay vần như thế từ gạo sang tơ lụa rồi nhà hàng... thứ nào cũng chỉ được đôi ba tháng. Rồi cha mẹ hắn mất, cơ nghiệp vào tay hắn, hắn càng cố làm ăn càng thua lỗ. Vài hôm trước, thanh lý công nợ, hắn trắng tay, ra khỏi dinh cơ chỉ với bộ đồ mặc trên người. Và bây giờ thì hắn ở đây.

    “Cháu là kẻ bất hạnh nhất đời. Thế gian thật bất công, người thì gặp toàn may mắn, kẻ thì chỉ toàn vận rủi” hắn kết thúc câu chuyện bằng lời than.

    Ông già cười khà khà: “cậu đã có nhiều quá đấy, những ức vạn gì gì cả đời ta chưa bao giờ đếm tới, còn tứ thư ngũ kinh gì cậu kể ta cũng chưa bao giờ nghe qua”. Rồi ông nghiêm túc: “Thế bây giờ cậu tính sao?”

    “Còn tính gì được nữa bây giờ” hắn nghĩ thầm và chỉ khẽ lắc đầu.

    “Sao thế? Nếu ai cho một cơ hội, cậu có dám làm lại không?” Ông già cau mày.

    “Cháu còn đường nào nữa đâu” hắn trả lời buông xuôi.

    Ông già không màng đến thái độ của hắn: “Thế thì cậu xoè tay ra”. Ông cầm chiếc que, vạch vào tay hắn mấy nét. Lạ chưa kìa! Trong tay hắn hiện lên chữ “Cần” rõ như vẽ bằng mực tàu. “Tay kia nữa”. Chưa hết kinh ngạc, hắn kính cẩn chìa tay kia, lòng thầm chờ một vật gì thần kỳ, một cây đũa thần hoá đá cục ra vàng chẳng hạn. Nhưng hắn không giấu nổi vẻ thất vọng khi ông già bỏ vào tay hắn vài đồng xu. “Không đủ một bữa ăn”, hắn nghĩ thầm.

    “Chữ Cần đầu tiên cậu phải biết là Cần Kiệm” Ông già khoan thai nói. “Cậu có biết một bữa ăn của những người làm công nhà cậu tốn bao nhiêu không?”

    Hắn chợt nhớ đến hình ảnh những tộ cơm chan thức ăn kèm theo một chén canh với vài lá cải mà những người làm công cho hắn vui vẻ lua vội một cách ồn ào mỗi buổi trưa. Ừ nhỉ, hắn chưa bao giờ để ý đến điều đó. Hắn ngượng ngùng lắc đầu.

    “Mấy đồng xu này đổi được vài bữa ăn như thế đó”. Ông già tiếp.

    Hắn bừng tỉnh: hiểu một chữ Cần Kiệm khiến mấy đồng xu vô giá trị trở thành nguồn sống vài bữa cho hắn, quả là thần kỳ. Bất giác hắn nắm chặt hai bàn tay như sợ vài đồng xu và “bùa hộ mệnh” của hắn rơi đi mất, tươi mặt nhìn ông già chờ đợi.

    “Cậu ngộ nhanh đấy. Nhưng Kiệm đôi ba bữa rồi thôi chưa đủ, phải nhớ luôn Cần Kiệm”, ông già cười. “Chữ kế tiếp cậu phải nhớ là Cần Cù. Dưới chân núi này có một trấn nhỏ. Cậu xuống đó tìm việc làm đi. Quá khứ huy hoàng quên đi, mộng bá đồ vương cũng quên đi. Cần Cù làm việc để sống trước đã. Thôi cậu đi đi, trể rồi”.

    Mấy ngày sau đó, hắn gặp gì làm nấy. Khuân vác vặt ngoài chợ để đổi lấy bữa cơm cũng làm, có chút đỉnh tiền công càng hay. Đôi khi gặp chủ trở chứng, mắng như tát nước, hắn toan liều, ra sao thì ra, nhưng nhìn đến chữ Cần trong tay, hắn lại nhẫn nhịn, cố bình thản mà làm. Tối ngủ trên sạp hàng, có gì mà sợ mất.

    Rồi hắn cũng tìm được công việc ổn định, một chân giúp việc cho hiệu buôn. Chủ đãi cơm, tối thì chia xẻ gian phòng nhỏ trong cửa hiệu với ông chưởng quĩ già thân tín. Càng hay, đỡ phải nói chuyện nhiều sinh buồn. Được nuôi ăn ở, không có hoài bão gì, lương bổng hắn cũng chẳng màng, gởi cả cho nhà chủ. Quá khứ bây giờ đối với hắn dường như xa lơ xa lắc.

    Rồi lễ tết đến, cửa hàng nghỉ, công nhân được thưởng món tiền nhỏ, rủ nhau đi lễ hội. Hắn chợt nhớ đến ông tiều phu. Hắn mua vò rượu ngon, một ít bánh quả, lần lại con đường núi. Như hắn thầm mong, ông già đang ngồi ung dung trên tảng đá, vò rượu và gánh củi kế bên. Hắn rụt rè gật đầu chào, không biết nói gì. Hỏi sức khoẻ ông thì quá thừa, còn hỏi thăm gì khác thì hắn có biết gì về ông để mà hỏi. Hắn lẳng lặng bày rượu, bánh ra. Ông già nhìn hắn cười: “cậu trông rắn rỏi hẳn ra. Cảm thấy đỡ hơn chứ?”. Hắn cười, nhớ lại: “Vâng, cuộc sống có vẻ không đến nỗi đáng sợ như lần trước con gặp ông”. “Thế đấy” ông già gật đầu.

    “Không ngờ chữ Cần thế mà thần kỳ, con tưởng đã chết mất từ lâu.” hắn xoè bàn tay, gợi chuyện sau một lúc lặng im.

    “Cậu không nên hài lòng ở đây. Cậu nên biết một chữ Cần nữa, đó là Chuyên Cần. Chăm chú vào công việc, xem mình có thể làm tốt hơn nữa không. Và Ân Cần cũng cần thiết lắm, hãy quan tâm đến mọi người xung quanh, xem thử mình có thể làm gì hơn cho họ với cái mình đang có trong tay”.

    Hắn trở về cửa hiệu với một sinh khí mới. Quyết tâm xem thử câu thần chú mới của ông già làm được gì, hắn bắt đầu quan tâm đến từng thứ một. Hắn thú vị nhận thấy hắn có thể cải tiến công việc cho đỡ cực nhọc hơn và kết quả khả quan hơn ví dụ dành vài phút sau khi bán hàng để dọn dẹp, hắn tiết kiệm được hàng giờ cho cùng công việc lúc cuối ngày. Những kinh nghiệm đó được bạn đồng nghiệp ứng dụng nhanh chóng và chẳng bao lâu hắn lên “lão làng”, ai có gì cứ hỏi hắn. Hắn quan tâm đến người mua hơn và phát hiện ra rằng chỉ thêm vài lời ân cần hỏi han, hắn có thể hướng nhu cầu của khách đến những món hàng có sẵn thay vì chỉ đơn giản trả lời: ”không có”. Hắn lại có thể đề xuất với chủ những món hàng khách cần mà cửa hiệu không có khiến lòng tin của chủ tăng dần. Buổi tối thay vì nằm than thân trách phận, hắn lân la giúp ông chưởng quĩ già cộng sổ sách, nghe ông rề rà kể chuyện ở đời, chuyện sổ sách, công nợ... có chuyện hay, cũng có chuyện chán chết được nhưng hắn cứ cười xoà. Dần dà, được việc, hầu như sổ sách ông chưởng quĩ đưa cho hắn làm cả.

    Lúc này những lúc gặp ông tiều phu hắn không còn ngồi lặng im ăn bánh uống rượu nữa. Hắn đã có thể kể cho ông nghe những điều thú vị hắn gặt hái trong cuộc sống. “Có một bà khách khó tính như quỉ. Đến cửa hàng cứ đòi đích thân con bán, mà nào có dễ dàng gì, hỏi han chê bai đủ thứ mới mua được vài món. Không có chữ Cần của ông chắc con chạy mất dép. Mấy cửa hàng trong trấn chắc cũng chạy mặt bả, thấy bả chỉ mua được chổ con”. Ông già cười: “Cái tật khó khăn khiến bả tự buộc mình thành khách hàng trung thành của cậu rồi, đố chạy đâu được”. Nhận xét kỳ dị nhưng chí lý của ông già khiến hắn bất ngờ và thú vị. Hai người bất giác bật cười ha hả.

    Mê say với những điều thú vị rút ra khi áp dụng câu thần chú của ông già, hắn đôi lúc quên rằng mình là kẻ làm công ăn lương. Rồi ông già chưởng quĩ về hưu, hắn được chủ thay vào đấy như một sự tự nhiên nhất trên đời. Còn ai trong tiệm này rành hơn hắn? Không còn ông chưởng quĩ để chia xẻ bữa cơm, hắn được gọi ăn chung với nhà chủ như con cháu trong nhà.

    Một ngày nghỉ, sau bữa cơm sáng, hắn hồi hộp linh cảm thấy có gì bất thường. Ngước mắt nhìn, hắn thấy ông bà chủ chăm chú nhìn hắn. Ông hắng giọng: “Con nghe này! Con ở trong nhà này đã lâu, tánh ý ta cũng hiểu, công sức con bỏ vào cơ nghiệp nhà này cũng nhiều. Ta già rồi, chỉ có một đứa con gái, muốn gả cho con để con nối nghiệp nhà. Con nghĩ sao?” Hắn sững sờ không nói nên lời. Sự việc đến với hắn bất ngờ quá.

    Ông chủ cười ”Không cần đáp ta cũng đoán được. Nhưng ta tôn trọng câu trả lời của con. Đi ra suy nghĩ đi và trả lời ta sau cũng được”.

    Vận may đến quá bất ngờ nhưng trách nhiệm cũng làm hắn choáng ngợp. “Cả một cơ ngơi của nhà chủ, rồi còn gia đình mới phải chu toàn, liệu mình có giữ vững nổi không hay lại làm hỏng như xưa?” Hắn bất giác nhìn vào bàn tay, lá bùa hộ mạng chữ “Cần” đã biến đâu mất. Nỗi kinh hoàng bóp nghẹt cả tâm trí làm hắn không suy nghĩ gì được. Hắn chạy như điên lên núi. Ông tiều phu già vẫn thong dong ngồi đó.

    Hắn hổn hển, lắp ba lắp bắp kể. Ông già khoát tay: “thế thì sao nào?”.

    “Con sợ” hắn nói “sợ làm hỏng như xưa. Chữ “Cần” ông cho đã mất rồi”. Hắn lo lắng xoè tay

    Ông già khẽ gắt: “chữ Cần ở trên tay cậu làm gì, nó đã vào trong đầu cậu rồi. Còn cậu sợ gì nào? Chuyện may rủi là ngẫu nhiên có chừa một ai? Thế nhưng hậu quả là do mỗi người. Nghĩ lại mà xem. Cần Kiệm giúp cậu sống sót qua vận bỉ. Cần Cù giúp cậu có miếng ăn. Chuyên Cần giúp cậu thăng tiến trong công việc. Ân Cần giúp cậu hiểu người và được lòng người. Quả ngon hay dở do cậu tạo ra cả.”

    Hắn tạm yên lòng: “dù sao con cũng phải cám ơn ông về mấy đồng xu và chữ Cần khởi nghiệp”.

    Ông già cười ha hả: “Trong gia sản của cậu ngày xưa chả lẽ không có mấy đồng xu ấy. Còn chữ Cần ắt phải có đâu đó trong mấy cuốn tứ thư ngũ kinh gì gì của nhà cậu. Ta chả cho cậu cái gì thêm đâu”

    Hắn chợt tỉnh ngộ, quá khứ ập về với một đống “phải chi” khiến hắn choáng váng. Cả một gia sản nhà hắn... phải chi... Khi hắn tỉnh lại, ông già đã đi mất chỉ còn lại văng vẳng lời ca:

    Gieo lúa thì gặt lúa

    Trồng cam thì hái cam

    Bất dụng công, chớ mong hưởng quả...
     
  7. lichan

    lichan Lớp 12

    Chỉ trăm bước nữa là thành công số một
    Hồi đó tôi hai mươi lăm tuổi, thất nghiệp và đói. Đã nhiều lần tôi ở trong tình trạng như vậy tại Constantinople, tại Paris, tại Rome. Nhưng tại New York, ngay cái không khí người ta thở cũng có cái vị của hạnh thông mà thất nghiệp thì thật là tủi nhục.
    Tôi hoàn toàn không biết xoay xở ra sao, điều đó chẳng có gì lạ. Tôi muốn kiếm ăn bằng ngòi bút nhưng lại không viết được bằng tiếng Anh, nên suốt ngày tôi lang thang ngoài phố, không phải vì thích sinh hoạt mà để bà chủ nhà khỏi bận mắt.
    Một hôm, trên con đường 42, tôi đụng đầu với một người to lớn tóc hung hung. Tôi nhận ra liền: Féodoe Chaliapine, diễn viên Nga nổi tiếng. Hồi thiếu niên, đã nhiều lần tôi sắp hàng mua giấy hạng bét để nghe ông hát ở rạp Đế Quốc Hí Viện Moscou. Hồi làm báo ở Paris, có lần tôi đến phỏng vấn ông, tôi tưởng ông không nhận ra tôi, không ngờ ông nhận ra. Ông hỏi tôi:
    - Bận lắm không?
    Tôi đáp lí nhí một câu mơ hồ. Có lẽ ông đoán được tình cảnh của tôi.
    -Theo tôi về khách sạn ở góc đường Broadway và đường 103 nhé? Chúng mình cùng đi bộ
    Lúc đó đã giữa trưa và tôi đi lang thang đã năm giờ rồi.
    -Nhưng ông Chaliapine ạ, từ đây tới đó năm sáu cây số lận.
    Ông ta ngắt lời tôi:
    -Điên nào, chưa đầy trăm thước.
    Tôi ngạc nhiên hỏi :
    -Trăm thước?
    -Thì vậy chứ sao! Tôi không nói là tới khách sạn, dĩ nhiên. Là tới gian bắn ở đại lộ 6 ấy.
    Tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng cũng đi theo. Một lát chúng tôi tới trước gian hàng đó, đứng ngó hai chú lính thủy bắn vào một cái bia, đều đều, không biết bao nhiêu lần. Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi.
    Ông Chaliapine vui vẻ bảo tôi :
    -Bây giờ còn hơn một cây số nữa.
    Tôi gật đầu. Một lát sau tới Carnegie Hall, ông Chaliapine bảo ông thích nhìn vẻ mặt của những người tới mua vé nghe hòa nhạc ở Viện Âm Nhạc. Chúng tôi ngừng lại vài phút rồi tiếp tục đi.
    Lần này ông nhanh nhẩu bảo :
    -Chỉ còn tám trăm thước nữa là tới vườn thú Công Viên Trung Ương. Ở đó có một con đười ươi mặt giống như một ca sĩ có giọng cao mà tôi quen.
    Chúng tôi lại thăm con đười ươi. Cách đó một ngàn hai trăm thước, về đường Broadway, chúng tôi ngừng trước một tiệm tạp hóa. Trước cửa tiệm có bày một thùng dưa leo, Chaliapine trố mắt ngó dưa leo một lúc : bác sĩ cấm ông ăn dưa leo.
    -Chà, coi ngon quá. Trông thấy mà nhớ tuổi trẻ của tôi.
    Còn tôi, tôi tự hỏi vì sao ông chưa ngất ngư chứ, mà lại thấy khỏe mạnh hơn bao giờ. Chúng tôi ngừng một lần cuối cùng nữa ở đường 90 để ngắm những hàng trái cây tại ngôi chợ trước trạm xe điện mới sơn lại, góc đường 96 và sau cùng là tới khách sạn. Chaliapine cười bảo tôi :
    -Đường đâu có xa, phải không? Bây giờ tụi mình đi ăn.
    Sau bữa ăn thịnh soạn, ông mới cho tôi hiểu tại sao ông bắt tôi đi bộ sáu cây số đó. Giọng ông nghiêm trang:
    -Anh sẽ không bao giờ quên lần đi bộ ngày hôm nay đâu. Tôi đã cho anh một bài học nhỏ đó. Đừng bao giờ lo lắng, buồn rầu vì đích còn xa. Chỉ nghĩ tới cái gì ở cách ta một trăm thước thôi. Đừng lo ngại về một tương lai bấp bênh. Chỉ nghĩ tới những cái vui ngày hôm sau thôi, dù nó tầm thường tới mức nào đi nữa.
    *
    Nhiều năm đã trôi qua. Ông Chaliapine đã quy tiên nhưng hầu hết những chỗ làm mục tiêu để đi trong lần đi bộ không sao quên được đó nay đã không còn, cảnh vật đã biến thiên. Nhưng trong bao nhiêu năm đó, triết lý thực tế của ông đã giúp tôi rất nhiều.
    Nó đã giúp tôi khi tôi quyết định học tiếng Anh.
    Không khi nào tôi tự hỏi: “Phải học bao năm nữa mới viết được thứ tiếng đó?” Trái lại tôi tự nhủ: “Hôm nay trên tờ báo Times có hai mươi tám tiếng mình chưa biết. Ngày mai sẽ còn không tới hai mươi tiếng.”
    Triết lý đó cũng giúp tôi giữ vững được tinh thần khi vì lầm lỡ của các người hùn vốn, tôi buộc phải trả cho chủ nợ nửa số tiền mà tôi hy vọng kiếm được trong bốn năm sau. Nếu trong hai trăm lẻ tám tuần lễ đó, tôi cứ nghĩ bụng rằng phải sống cực khổ thì chắc chắn tôi đã nản chí mà không kiếm được một đồng nào cả. Nhưng tôi chỉ tự nhủ: “Thứ hai, thứ tư và thứ sáu, mình sẽ làm cho mình.” Nghĩ vậy thì mọi sự sẽ thay đổi hết. Tôi trả được hết nợ và kiếm được đủ sống, không đến nỗi thiếu thốn.
    Qui tắc trăm bước của Chaliapine là quy tắc vàng. Ai cũng thấy được điều hữu ích mà đi theo. Có thể rằng cái đích ta nhắm còn xa thăm thẳm, nhưng không đầy trăm bước là “tới đại lộ 6”. Như vậy cứ từng chặng từng chặng một, chúng ta chẳng những sẽ tới đích, mà trên đường đi còn được hưởng nhiều cái vui nữa.
    Tác giả: Frederick Van Ryn
    Nguyễn Hiến Lê dịch
    Đánh máy: Caquynh
    Nguồn: Đặc Trưng - Ct.Ly - VNThuquan
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  8. lungocyennhi

    lungocyennhi Lớp 3

    O. Henry

    Món quà Giáng sinh

    Thanh Bình dịch

    qua-giang-sinh.jpg

    Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

    Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhằm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh.

    Cô sẽ không thể làm gì hơn,chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.

    Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.

    Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên,cô rất hạnh phúc khi ôm "Jim", James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.

    Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.

    Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

    Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.

    Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.

    Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

    Della buớc chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.

    Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"

    "Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo: "hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi"

    Suối tóc nâu đẹp tuyệt vời buông xuống.

    "Hai mươi đồng" bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

    "Hãy cắt nhanh đi! Và đưa tiền cho tôi" Della nói.

    Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.

    Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

    Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: "Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!" Cô tự nhủ "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?"

    Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.

    Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: "Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!"

    "Em đã cắt mất tóc rồi à?" Jim hỏi

    "Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà!" Della nói.

    Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"

    "Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?"

    Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy."

    Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc,những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

    Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc. "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi, Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.

    "Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này."

    Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu."

    Đó là một câu chuyện cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng yêu nhau.
     
  9. lichan

    lichan Lớp 12

    SỰ HÀO PHÓNG ĐÍCH THỰC
    Cho đi những gì ta không cần nữa thật dễ dàng nhưng phải tự nguyện rời bỏ những gì ta yêu thích thì thật vô cùng khó khăn, phải không nào? Tuy nhiên tinh thần đích thực của hành động cho đi ấy chính là đem tặng với cả trái tim từ chính bạn.

    ***
    Khi cơn bão ập đến khu thị trấn nhỏ ở gần nhà tôi, rất nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Ngay sau đó, các báo địa phương đều đăng tải những câu chuyện thương tâm về một số gia đình chịu hậu quả nặng nề nhất từ cơn bão.

    Ngày chủ nhật nọ, một bức ảnh đập vào mắt tôi. Một phụ nữ trẻ đang đứng trước căn nhà lưu động đã bị bão phá huỷ, vẻ đau khổ hằn trên gương mặt chị. Một cậu bé chừng bảy, tám tuổi gì đó đứng cạnh, ánh mắt cúi xuống. Nắm chặt váy người mẹ là một bé gái nhìn chằm chằm vào máy ảnh, đôi mắt em mở rộng đầy lo lắng và hoảng sợ.
    Bài báo kèm theo bức ảnh đó rất gần gũi với từng thành viên trong gia đình tôi. Bằng sự cảm thông sâu sắc, tôi nhận thấy gia đình họ có nhiều điểm tương đồng với gia đình mình. Đây sẽ là dịp phù hợp để dạy các con tôi về việc cần phải giúp đỡ những người kém may mắn hơn chúng. Tôi buộc bức ảnh của gia đình đó lên chiếc tủ lạnh trong nhà và bắt đầu giải thích về cảnh ngộ của họ với hai đứa con sinh đôi lên bảy là Brad và Brett và cô con gái ba tuổi Meghan.

    "Chúng ta thì có quá nhiều trong khi những người nghèo khổ này thì chẳng có gì", tôi nói. "Chúng ta sẽ chia sẻ với họ những gì ta có".

    Tôi lấy trên gác mái xuống ba chiếc hộp lớn và đặt trên sàn nhà phòng khách. Meghan đứng nhìn nghiêm nghị khi các anh và mẹ chất đầy một hộp các loại hàng hoá đóng hộp, các loại thực phẩm không bị hỏng, xà phòng và nhiều vật dụng tắm giặt đủ loại khác.

    Lúc tôi phân loại quần áo của cả nhà, tôi khuyến khích các con xem qua đống đồ chơi của chúng để đem tặng những thứ chúng không thích nữa, Meghan im lặng quan sát khi các anh chất đống những đồ chơi đã bỏ xó từ lâu.

    "Mẹ sẽ giúp con tìm thứ gì đó cho cô bạn gái đó khi mẹ làm xong việc này", tôi nói.

    Hai con trai tôi bỏ tất cả số đồ chơi chúng đã chọn để cho đi vào một chiếc hộp trong khi tôi bỏ đống quần áo vào hộp thứ ba. Lúc đó bé Meghan bước tới, ôm sát ngực Lucy, con búp bê nhồi bằng giẻ rách nó rất yêu quý đã rách mòn, phai màu. Con bé đứng trước hộp đựng đồ chơi, áp sát khuôn mặt tròn bé bỏng vào mặt Lucy, hôn con búp bê lần cuối sau đó nhẹ nhàng đặt nó lên trên các món đồ chơi khác.

    "Ồ, con yêu. Con không phải đem tặng Lucy đâu. Con yêu nó thế cơ mà".

    Meghan nghiêm nghị gật đầu, đôi mắt ầng ậc nước. "Lucy làm cho con vui mẹ à, thế nên có thể nó cũng sẽ khiến cô bé kia được hạnh phúc".

    Nghẹn ứ trong cổ họng, tôi lặng nhìn Meghan một lúc lâu, tự hỏi làm sao tôi có thể dạy các con trai tôi bài học như con bé đã dạy cho tôi. Vì tôi chợt nhận ra ai cũng có thể cho đi những thứ họ không còn cần tới nữa. Sự hào phóng thực sự phải là có thể cho đi những gì bạn yêu thích nhất.

    Lòng nhân từ chân thực là khi một đứa trẻ lên ba đem tài sản quý giá của nó dù chỉ là một con búp bê đã sờn cũ tặng cho một cô bé không quen với hy vọng con búp bê sẽ đem lại cho cô bé đó nhiều niềm vui như đã từng đem lại cho nó. Tôi đã muốn dạy bảo con nhưng rốt cuộc lại được chính con dạy lại.

    Hai đứa anh trai đứng nhìn, miệng há to kinh ngạc khi thấy cô em gái đặt con búp bê yêu thích nhất vào trong hộp. Không nói lời nào, Brad đứng lên, bước vào phòng, sau đó trở ra, mang theo một nhân vật siêu nhân nó rất thích. Thoáng chút ngần ngại, Brad cầm lấy món đồ chơi, nhìn sang Meghan rồi đặt nó vào hộp, cạnh chỗ Lucy.

    Một nụ cười chậm rãi rộng mở trên khuôn mặt Brett, sau đó nó đứng dậy, hai mắt lấp lánh khi tìm ra một vài chiếc ô tô làm bằng hộp diêm vốn là niềm tự hào của nó.

    Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy hai cậu con trai cũng đã nhận ra ý nghĩa trong cử chỉ của bé Meghan. Nén vào lòng những giọt nước mắt xúc động, tôi giang tay ôm chặt cả ba đứa.

    Bắt chước đứa con bé bỏng, tôi bỏ chiếc áo khoác màu nâu đã cũ có cổ tay áo bị sờn khỏi thùng quần áo và thay vào đó là chiếc áo khoác màu xanh vừa mua tuần trước. Tôi hy vọng người phụ nữ trong bức ảnh cũng sẽ thích nó như tôi.

    Cho đi những gì ta không cần nữa thật dễ dàng nhưng phải tự nguyện rời bỏ những gì ta yêu thích thì thật vô cùng khó khăn, phải không nào? Tuy nhiên tinh thần đích thực của hành động cho đi ấy chính là đem tặng với cả trái tim từ chính bạn.

    ( Từ Alex Chu - Truyện Ngắn )
     
    Chỉnh sửa cuối: 7/12/13
  10. lichan

    lichan Lớp 12

    TÌNH YÊU, GIÀU SANG VÀ SỰ THÀNH CÔNG
    Một người phụ nữ ra khỏi nhà và nhìn thấy ba người đàn ông râu dài bạc trắng đang ngồi trên băng ghế đá ở sân trước. Bà không hề quen ai trong số họ. Tuy nhiên, vốn là người tốt bụng, bà nói: “Tôi không biết các ông nhưng chắc là các ông đang rất đói, xin mời các ông vào nhà ăn một chút gì đó”.
    - Ông chủ có nhà không? - họ hỏi
    - Không, chồng tôi đi làm rồi - bà trả lời.
    - Thế thì chúng tôi không thể vào được.
    Buổi chiều, khi chồng trở về, bà kể lại câu chuyện cho chồng nghe. Chồng bà muốn biết họ là ai nên bà ra mời ba người đàn ông - vẫn chờ từ sáng - vào nhà.
    - Ba chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được - họ trả lời.
    - Sao lại thế? - người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
    Một người giải thích: “Tên tôi là Tình yêu, ông này là Giàu sang, còn ông kia là Thành công. Bây giờ hai vợ chồng bà quyết định xem ai trong chúng tôi sẽ là người được mời vào nhà”.
    Người phụ nữ đi vào và kể lại toàn bộ câu chuyện. “Tuyệt thật! - người chồng vui mừng - Đây đúng là một cơ hội tốt. Chúng ta hãy mời ngài Giàu sang. Ngài sẽ ban cho chúng ta thật nhiều tiền bạc và của cải”.
    Người vợ không đồng ý. “Thế tại sao chúng ta lại không mời ngài Thành công nghỉ? Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể”.
    Hai vợ chồng tranh cãi một lúc lâu mà vẫn chưa ai quyết định được. Cô con gái nãy giờ yên lặng đứng nghe trong góc phòng bổng lên tiếng đề nghị: “Chúng ta nên mời ngài Tình yêu là tốt hơn cả. Nhà mình tràn ngập tình thương yêu ấm áp và ngài sẽ cho chúng ta thật nhiều hạnh phúc”.
    “Có lẽ chúng ta nên nghe lời khuyên của con gái - người chồng suy nghĩ rồi nói với vợ - Em hãy ra ngoài mời ngài Tình Yêu, đây chính là người khách chúng ta mong muốn”.
    Người phụ nữ ra ngoài và hỏi: “Ai trong ba vị là Tình yêu xin mời vào và trở thành khách của chúng tôi”.
    Thần Tình yêu đứng dậy và đi vào ngôi nhà. Hai vị thần còn lại cũng đứng dậy và đi theo thần Tình yêu.
    Vô cùng ngạc nhiên, người phụ nữ hỏi: “Tôi chỉ mời ngài Tình yêu, tại sao các ông cũng vào? Các ông nói không thể vào cùng một lúc kia mà”.
    Hai người cùng nhau trả lời: “Nếu bà mời Giàu Sang hoặc Thành Công thì chỉ có một mình người khách được mời đi vào. Nhưng vì bà mời Tình yêu nên cả ba chúng tôi đều vào. Bởi vì ở đâu có Tình yêu thì ở đó sẽ có Thành công và Giàu sang”.


    Nguồn: Latdat - VietNamThuquan
     
  11. lichan

    lichan Lớp 12

    BA CÂU HỎI
    Leo Tolstoy

    Ðó là chuyện ba câu hỏi khó của một nhà vua, do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại.
    Nhà vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là:

    1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?

    2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?

    3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?

    Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.

    Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.

    Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết.

    Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một Hội Ðồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ.

    Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xẩy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.

    Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.

    Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói: chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.

    Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết.
    Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia.

    Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.

    Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hào hển.

    Nhà vua tới gần ông đạo và nói: "Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc ? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả ? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên ?"

    Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.

    Nhà vua nói: "Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát". Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho Vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: "Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc". Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.

    Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo:

    "Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà".

    Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: "Bác thử xem có ai chạy lên kìa". Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.

    Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy.

    Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.

    Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt:

    "Xin bệ hạ tha tội cho thần".

    "Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?"

    "Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa".

    "Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần".

    Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.

    Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.

    Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: "Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà".

    Vua hỏi: "Trả lời bao giờ đâu nào ?"

    "Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho thì ông ta sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: "Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống"

    _Những mẩu truyện sưu tầm của Latdat. VietNamThuquan_
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/12/13
  12. lichan

    lichan Lớp 12

    CÕNG EM LÊN GÁC

    Cô là nhân viên văn phòng, anh làm nghề bốc vác trong thành phố.

    Sau ngày tốt nghiệp phổ thông, hai người rẽ theo những quỹ tích khác biệt nhau của tuổi trẻ. Nhưng họ vẫn còn giữ mối tình đầu của nhau. Nhưng chỉ giữ mà thôi.

    Ban ngày, cô đi làm, ngồi quán cafe thời thượng với đồng nghiệp; chiều tan sở, cô ăn que kem rẻ tiền anh mua; buổi trưa, cô ăn cơm trong nhà hàng đắt tiền, buổi tối, cô đi ăn với anh trong những quán mì vằn thắn tồi tàn.

    Cô nghĩ cuộc sống của mình sao quá lệch pha. Cứ yêu kiểu này mãi, từ ngày đầu tiên tới ngày hôm nay, dường như rồi sẽ báo trước đến một kết cục nào đó.

    Mỗi lần đón người yêu, anh thường tiễn cô tới tận cửa thang máy đi lên căn hộ của cô trong chung cư mới, chúc cô buổi tối an lành, rồi vội vàng đi.

    Hôm đó cô làm nũng, nói: "Anh cõng em đi!"Anh nhìn thang máy, nó vẫn chạy tốt. Nhưng anh không hỏi lý do, cõng cô, từ tầng một, đi theo cầu thang bộ lên tầng. Cô hỏi anh có mệt không, anh đáp: "Có, mệt hơn vác bao tải hàng!" Cô hơi cảm động vì anh nói thật.

    Thế nhưng họ vẫn chia tay nhau. Vì cảm động hay mối tình đầu vẫn không phải là thứ đảm bảo được cho họ.Thành phố chẳng thiếu cửu vạn, anh chia tay cô xong, quyết định về quê. Đôi khi gọi điện thoại lên thành phố, kể cho cô biết, bây giờ anh trồng vườn, kiếm chút tiền. Cô nghe thấy quá xa lạ, quá nhạt nhẽo. Khi đó cô đã có người yêu mới, cũng làm nhân viên văn phòng như cô.

    ***

    Một ngày anh gọi điện từ quê lên, nói anh đã kiếm đủ năm nghìn tệ, số tiền này ở quê có thể cưới được vợ rồi. Cô chợt phát hiện thấy, khi buông máy, mắt mình hơi ướt.

    Người yêu mới cũng ngày ngày đón cô tan sở, tiễn cô tới chân thang máy, rất lịch thiệp nói chúc em buổi tối tốt lành.

    Có lần cô đòi người yêu cõng lên nhà, chàng đồng ý ngay. Lúc đó thang máy đang ở tầng một, chàng cõng cô lên, xông thẳng vào thang máy, rồi đứng ở đó, vẫn cõng cô trên vai, bấm số tầng cô ở, chàng cười hì hì bởi hiểu ra trò đùa của cô. Thế mà hôm đó, cô đã không làm sao vui được.

    Cô gọi điện về quê, gặp người yêu cũ, cô hỏi mối tình đầu của mình: "Số tiền năm nghìn tệ lần trước anh nói ấy, anh đã tiêu chưa?"

    Anh ngập ngừng: "Đã tiêu rồi!"

    Cô buông máy điện thoại xuống, giây phút ấy bỗng dưng thấy như mình vừa mất đi cả một thế giới.

    Mấy hôm sau về đến nhà, dưới chân cầu thang máy, cô thấy người yêu cũ đứng đấy, tay nâng một chiếc nhẫn đắt tiền, nói với cô: "Đây là năm nghìn tệ!"

    Cô khóc, và anh nói "Để anh cõng em lên nhà nhé".

    Trang Hạ dịch
    Nguồn Truyện Ngắn.
     
  13. lichan

    lichan Lớp 12

    MỘT NỤ HÔN, MỘT CÁI ÔM

    Lúc đó, bà Betty nói: "Cô có thể ôm, hôn tôi được không?".

    ***

    Tôi vừa trở về từ viện dưỡng lão, nơi mẹ tôi đang ở. Những người ở đây hầu hết đều mắc chứng Alzheimer's – một dạng của bệnh đãng trí. Cứ mỗi lần đến thăm mẹ, tôi luôn cảm nhận được cái đẹp tâm hồn của họ.

    Hôm qua, tôi gặp một cụ bà tên Betty ... Bà Betty giành hầu hết thời gian của mình cho trò chơi ghép hình. Buổi tối, mỗi cụ tự chọn một góc phòng để chơi ghép hình. Khi bà Betty không chơi ghép hình, bà thường hỏi nhân viên trực, những người ở gần bà, hay bất cứ người nào mà bà thấy một vài thứ để ăn, uống. Nhiều lần, bà đòi ăn ngay sau khi vừa rời khỏi phòng ăn.

    Tôi nghĩ có vài lý do khiến bà Betty cứ ăn mãi. Có lẽ bà thường ăn nhanh (chia thành nhiều lần ăn) và thói quen xấu đó kéo dài đến bây giờ, hoặc cũng có thể lúc ở nhà, bà ta thường ăn trong khi chơi ghép hình.

    Nhưng dù vì lý do gì đi nữa, bà Betty cũng bị coi là người đòi ăn liên tục ngoại trừ giờ bà ngủ. Những lúc bị bà hỏi, tôi cố dẫn bà ấy lại những nhân viên phục vụ, vì họ biết bà đã ăn hay chưa.

    Khi tôi kéo hành lý ra cửa và chuẩn bị tới sân bay thì bà Betty lại gần tôi. Như mọi lần, với thái độ nhẹ nhàng, đứng đối mặt tôi, cái nhìn đầy hy vọng của một đứa trẻ khi đang chờ đợi một món quà. Tôi nghĩ thế nào bà ấy cũng hỏi vài thứ để ăn hoặc uống, và tôi tự hỏi sẽ phải nói gì để từ chối bà đây.

    Nhưng thật bất ngờ, bà xin tôi một thứ mà tôi có thể cho bà được.

    Lúc đó, bà Betty nói: "Cô có thể ôm, hôn tôi được không?".

    Tôi đã cảm thấy ngại về việc này vì cả tuần nay tôi bị viêm họng, nhưng bà ấy đã đứng rất gần tôi. Tôi nghĩ nếu bà ấy hôn lên má tôi, bà có thể bị lây bệnh. Vậy là tôi ôm bà rất chặt, nồng nàn chan chứa bằng tất cả tình cảm của tôi. Bà bất ngờ đặt một nụ hôn thật lâu lên má. Tôi cười, cảm thấy rất hạnh phúc vì đã cho bà Betty thứ bà cần.

    Một cảm giác ấm áp hiện về, bà hỏi tôi, "tôi có thể hôn lên má còn lại được không?". Tôi cười khúc khích và nói "dĩ nhiên". Sau đó, bà trở về bàn tiếp tục trò ghép hình của mình.

    Tôi đã rất xúc động về những gì bà cần: bà cần một cái ôm ấm áp, một nụ hôn dịu dàng, một cảm giác khi da tôi chạm vào da bà. Tôi nghĩ có lẽ bà cảm thấy cô đơn. Ý nghĩ đó làm tôi thoáng buồn nhưng tôi thấy bà đã rất vui.

    Hầu như tất cả chúng ta đều được nghe về sự quan trọng của cái "chạm" đối với sức khỏe, cuộc sống của con người. Có lẽ bạn từng nghe câu chuyện về những đứa trẻ mồ côi trong trại trẻ. Ở đó, họ không thường quan tâm cũng như ẵm, bồng những đứa bé. Vì vậy bọn trẻ không phát triển tốt về thể chất , cảm xúc, và tinh thần. Đôi khi, chúng ta để động vật thay chúng ta xóa đi cảm giác cô đơn của những người già. Chúng làm cho người già bớt cô đơn bằng những hành động âu yếm, chạm mình của chúng.

    "Chạm" rất quan trọng đối với thể chất, tinh thần, cảm xúc và cảm giác hạnh phúc. Bà Betty đã chạm vào tâm hồn tôi, nhưng bằng cách nào thì tôi không thể diễn tả được.

    Nếu bạn là doanh nhânh, tôi khuyên bạn đừng bàn chuyện với với đối tác qua điện thoại. Hãy gặp mặt đối tác của mình và tạo ra những cái chạm đơn giản. Ví dụ như 1 cái vỗ vai, khoác vai, bắt tay. Nếu bạn đang theo đuổi một người, hãy tìm cách tạo ra những cái chạm vô tình, nó sẽ làm cho đối phương cảm thấy thân thiết với bạn. Nếu bạn đã có người yêu, đừng nên chỉ yêu nhau qua lời nói, ánh mắt. Một cái chạm ấy có sức mạnh diệu kì, mang hai người lại gần nhau hơn. Đó là cảm giác bạn cảm thấy an toàn, ấm áp và được yêu. Loại cảm giác ấy làm mở cửa trái tim bạn, để bạn cho và nhận. Giúp bạn quên đi những chuyện buồn đã qua, người làm bạn tổn thương. Những lời nói sẽ trở nên không cần thiết.

    Vậy đừng chần chừ cho một nụ hôn, một cái ôm bạn nhé.!

    Nguồn Truyện Ngắn ( Pipi Tất Màu )
     
  14. lichan

    lichan Lớp 12

    SỰ HOÀN HẢO CỦA CHÚA

    Trong một bữa tối gây quỹ do trường Chush tổ chức, người cha một học sinh đang theo học tại đây đã có những lời phát biểu mà bất cứ ai tham dự hôm đó đều không thể quên được.

    ***

    Tại Brooklyn, New York có ngôi trường Chush là nơi chuyên dành phục vụ những trẻ em thiểu năng trí tuệ. Sau một thời gian ở đây, ngoài những trẻ tham gia toàn bộ khoá học của trường thì số khác có thể chuyển sang tiếp tục học tại các trường bình thường khác.

    Trong một bữa tối gây quỹ do trường Chush tổ chức, người cha một học sinh đang theo học tại đây đã có những lời phát biểu mà bất cứ ai tham dự hôm đó đều không thể quên được.

    Sau khi hết lời ca ngợi ngôi trường cùng đội ngũ giáo viên tận tuỵ, người cha nói lớn: "Đâu là sự hoàn thiện với Shaya, con trai tôi? Chúa tạo ra mọi thứ đều hoàn hảo, nhưng sao con trai tôi không thể hiểu được những điều mà mọi đứa trẻ khác đều có thể. Sao con trai tôi lại không thể nhớ được chính xác mọi điều như các đứa trẻ bình thường khác. Vậy thì sự hoàn hảo của Chúa là ở đâu?"

    Tất cả đám đông đều xúc động trước câu hỏi của người cha, họ đau đớn và sững sờ bởi nỗi thống khổ cũng như lời chất vấn đầy nhức nhối của ông. "Tôi tin rằng," người cha tiếp tục, "khi Chúa tạo ra một đứa trẻ trong thế giới, sự hoàn thiện cho đứa trẻ mà Người mong mỏi chính là cách thức những người khác đối xử với đứa trẻ ấy".

    Sau đó, ông liền kể cho mọi người nghe câu chuyện về con trai mình:

    Một buổi chiều nọ, Shaya cùng bố đi bộ qua khu công viên, lúc đó một vài đứa trẻ Shaya quen đang chơi bóng chày. Shaya hỏi, "Bố có nghĩ là chúng sẽ cho con chơi cùng không hả bố?" Bố Shaya hiểu rằng, con trai mình không thực sự khoẻ mạnh và có lẽ tất thảy lũ trẻ đang chơi đó đều không muốn cho nó vào đội của chúng. Nhưng ông cũng biết, nếu được cho phép chơi cùng, Shaya của ông sẽ rất hạnh phúc.

    Thế là ông tới gần một trong số những cậu bé trên sân và xin cho Shaya được chơi cùng chúng. Cậu bé liếc nhìn xung quanh tham khảo ý kiến của các bạn chơi khác trong đội. Không có ý kiến phản đối, cậu bèn tự quyết định và nói: "Hiện tại, chúng mình đang thua sáu run (điểm trong bóng chày) và trận đấu đang ở lượt thứ tám. Tớ cho là Shaya có thể tham gia cùng đội mình và chúng mình sẽ thử thách cậu ấy ở lượt đánh thứ chín tới".

    Bố của Shaya đã rất phấn khởi khi nhìn cậu con trai há rộng miệng cười hết cỡ. Lũ trẻ bảo Shaya đeo găng tay vào và ra sân đảm nhiệm vị trí giữa sân.

    Cho tới cuối lượt thứ tám thì đội của Shaya cũng ghi thêm được một số run nữa nhưng vẫn thua tới ba run. Và khi gần kết thúc lượt thứ chín, đội của Shaya tiếp tục ghi điểm và lúc này hai thành viên của đội tấn công đã bị loại, chỉ cần loại một người nữa thì đội của cậu sẽ giành chiến thắng. Theo dự kiến thì lúc này Shaya sẽ được tham gia trò chơi.
    Nhưng liệu đội bóng có để Shaya chơi vào thời điểm quyết định này không, liệu họ có sợ sẽ vuột khỏi tay cơ hội chiến thắng đã gần kề?

    Thật bất ngờ, Shaya đã được chọn là người đánh bóng. Gần như ai cũng hiểu điều đó là không thể vì Shaya thậm chí còn không biết cầm gậy chứ nói gì tới chuyện đánh bóng. Thế nhưng, khi Shaya bước tới đĩa nhà (khu vực đánh bóng) người ném bóng phía đối phương đã bước thêm lên vài bước để tung bóng nhẹ nhàng giúp Shaya ít nhất có thể chạm tới được. Dẫu thế thì khi cú giao bóng đầu tiên bay tới, Shaya vung gậy vẫn rất vụng về và đã đánh trượt bóng. Lần giao bóng tiếp theo, một cậu bé cùng đội tiến tới cạnh Shaya và cùng em nắm gậy, hướng về phía đối phương ném bóng chờ đợi.

    Cậu bé giao bóng một lần nữa lại tiến thêm vài bước và ném bóng nhẹ nhàng về phía Shaya. Thế là Shaya với người đồng đội cùng vung gậy lên và đánh vào quả bóng đang từ phía người ném chầm chậm bay tới. Liền sau đó, người ném bắt được bóng và hoàn toàn có thể dễ dàng ném về phía căn cứ thứ nhất. Nhưng nếu làm như thế thì Shaya sẽ bị loại và trận bóng sẽ kết thúc. Thế là cậu bé ném bóng giữ lấy quả bóng vừa bắt và ném bổng vòng cung lên phía sân bên phải, rất xa vị trí của người đồng đội đang đứng ở căn cứ thứ nhất.

    Mọi người bắt đầu thét lớn cổ vũ, "Shaya, hãy chạy tới căn cứ thứ nhất. Chạy đi!". Thế là chưa từng chạy một lần trong đời nhưng lần này Shaya vụt lao tới căn cứ thứ nhất, mắt mở to thoáng chút lo sợ. Khi cậu chạy tới được căn cứ thứ nhất thì người chặn bóng bên phải đã bắt được bóng. Bình thường ra, cầu thủ chặn bóng sẽ ném bóng cho người chốt giữ căn cứ thứ hai và người này sẽ cố chạm được vào người Shaya để loại cậu. Nhưng cậu bé chặn bóng hiểu ngay ý đồ của người ném, thế là cậu liền ném bóng lên cao, vượt qua đầu của người đang chốt giữ căn cứ thứ ba.

    Lúc này mọi người lại hô to, "Chạy tới căn cứ thứ hai đi Shaya, chạy đi." Thế là Shaya lại dốc sức chạy tới căn cứ thứ hai trong khi những người chạy trước cậu đã quây tròn phấn khích quanh các căn cứ hướng về phía đĩa nhà. Lúc Shaya chạy tới được căn cứ thứ hai rồi, một cậu bé đội bạn chặn Shaya lại, lái Shaya theo hướng về căn cứ thứ ba và la lên, "Chạy mau về căn cứ thứ ba."

    Khi Shaya đã chạy tới căn cứ cuối cùng, tất cả các cậu bé của cả hai đội đều chạy sau Shaya và la lớn: "Shaya, chạy về đĩa nhà đi!" Thế là Shaya chạy về đĩa nhà, bước lên đĩa nhà và cả 18 cậu bé liền công kênh Shaya trên vai, biến cậu thành một anh hùng như thể cậu vừa đánh một cú quyết định thắng lợi cho đội nhà.

    "Và ngày hôm đó tôi nghĩ rằng," người cha kết thúc câu chuyện khi nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt, "18 cậu bé kia đã đạt tới cái ngưỡng hoàn hảo mà Chúa dành cho các em".

    Trích từ Truyện Ngắn - Alex Chu.
     
  15. lichan

    lichan Lớp 12

    Câu Chuyện Đêm Giáng Sinh
    .
    Steve Brookes
    Dịch giả: Trần Lê Thanh Hà

    Tom yêu những câu chuyện. Ông ngồi trong chiếc ghế kể chuyện bên lò sưởi, đôi mắt xanh nhạt lấp lánh trong ánh sáng chập chờn của những ngọn nến trên các bàn chung quanh .Tiếng cười khẽ của ông phát ra từ đôi môi cũng dạn dày sương gió như những xà nhà bằng gỗ sồi cũ kỹ phía trên đầu ông . Một cách hài lòng, ông ngồi thoải mái trong chiếc ghế gỗ sồi đã được nghe hàng ngàn câu chuyện qua hàng trăm năm trong cái quán nhỏ nằm giữa những ngọn đồi tối tăm của vùng Pennines này. Mọi người đến thăm Tom từ khắp cả nước . Bằng cách truyền miệng, họ biết về ông, và nhờ ông ngôi quán trọ đã đón được khách du lịch.

    Để tìm được ông, khách phải vượt qua nhiều dặm đường hẹp ngoằn ngoèo rậm lá. Nhưng khi họ qua được đỉnh đèo để đi xuống ngôi làng nhỏ bé này, họ được đền đáp xứng đáng. Mái tranh thấp xộc xệch có vẻ như thu mình trong thung lũng. Có một vòi nước cũ gỉ sét và một bánh xe của cối xay được hoa hồng đỏ và trắng phủ kín trong mùa hè. Những xà nhà thấp đã bị mọt ăn lỗ chỗ, và quán có mùi ẩm thấp, nhưng luôn luôn có thức ăn ngon cho khách.

    Trong những buổi tối mùa hè ấm áp, mùi hương của cây hoa vân anh trộn lẫn với mùi xạ hương đắng của những bụi cây nhỏ ẩm thấp ở những hàng rào bằng đất cao bao quanh, nhưng khi mùa đông đến, khách khứa ít hơn và dân làng sẽ kéo đến vây quanh ngọn lửa đốt bằng củi đang réo lên qua những ống khói bằng đá cho đến khi khói của nó tan loãng vào những cánh đồng hoang đằng xa – và người ta tiếp tục kể chuyện.

    “Ai sẽ kể chuyện tối nay?” Tom khẽ hỏi.

    Những người uống ở quầy và những người ăn ở các bàn nhìn lảng đi, cố tránh đôi mắt của ông . Trong suốt lịch sử kể chuyện trong quán trọ xây bằng đá biệt lập này , luôn luôn có một người tình nguyện kể chuyện của mình.

    Thi thoảng, một người bán hàng thông minh sẽ nhận lời thách thức và, với điện thoại bên hông và bộ đồ nhân viên hành pháp , anh ta kể lại những cuộc phiêu lưu đầy chinh phục và những khó khăn trắc trơ.

    Đôi khi là một giọng nói dịu dàng của một phụ nữ địa phương kể lại những câu chuyện đồng quê và những truyền thuyết dân gian người ta thường nghe.

    Một đôi lần, Tom cũng ngồi vào chỗ và tìm trong kho dự trữ kinh nghiệm mênh mông hơn 80 năm của mình và với cặp mắt lấp lánh ánh lửa , ông tạo ra những hình ảnh lạ lùng đến nỗi mọi người im phăng phắc lắng nghe và tiếng chiếc ly nhỏ nhất đặt xuống quầy rượu vang lên cũng giống như tiếng đại bác gầm .

    Nhưng câu chuyện hay nhất luôn luôn được để dành cho đến Giáng Sinh vì đây là câu chuyện đánh dấu kết thúc của một năm .
    Đó là lúc cây ô rô được cắt khỏi hàng rào cao và kết thành chuỗi quanh quầy rượu với những chiếc lá xanh nhọn rực rỡ và những trái dâu đỏ. Rồi cây Giáng Sinh , chặt từ hàng cây thông trên những ngọn đồi phía trước, được trân trọng đặt bên lò sưởi đang cháy và chất đầy quà để tặng cho nhau.

    Đó cũng là lúc chủ đất sẽ đãi món rượu vang hâm nóng với đường và hương liệu , thức uống ưa thích nhất của khách hàng vào dịp Giáng Sinh và đó chính là lúc chắc chắn Tom sẽ thách thức mọi người .

    ” Nào”, ông cười giòn ” các người không trốn lão già Tom này được đâu. Nếu không ai đến ngồi vào chiếc ghế này và kể chúng ta nghe một câu chuyện Giáng Sinh, ta sẽ bảo ông chủ đất dẹp món rượu vang hâm nóng đi!”

    ” Bác sẽ không làm như vậy đâu”, một cô gái trong làng có gương mặt xinh xắn kêu lên. ” Chính bác cũng thích mê món rượu hâm nóng mà, bác Tom!”

    ” A , cô gái ơi, ta thích món rượu hâm nóng nhưng ta còn thích câu chuyện Giáng Sinh hơn nữa. Đó là một truyền thống bắt nguồn từ lâu đời đến mức ta không biết là khi nào - thậm chí khi những lãnh chúa và phu nhân đến để làm vinh dự cho quán này thay vì lũ dân thường các người”.

    Ông gật đầu một cách hiền lành để khẳng định lại những ngày thời xa xưa tốt đẹp hơn . Mắt ông lấp lánh trong ánh lửa.

    ” Tôi ủng hộ Tom !” Một người nhanh miệng nói .Y phục ông ta rất sang trọng, một cái quần xanh nhạt ủi kỹ và áo sơ mi phanh ngực bày ra nhiều lông ngực hơn tóc trên đầu ông .

    ” Mỗi năm khi tôi từ London đến đây, tôi luôn luôn mong đợi câu chuyện Giáng Sinh”.

    ” Vậy anh kể chuyện đi , anh bạn thân ơi!” Anh thanh niên Jim bẻ lại, quần jeans của anh ta vẫn còn những vết dơ vì vắt sữa bò .

    ” Tôi không kể được”- nhân viên hành pháp nói “ Tôi chỉ biết những giấy đối chiếu, lợi tức , những khoản nợ bị mất và chuyện giá cả

    ” Tôi lại muốn biết về những chuyện đó!” Anh thanh niên nói, gương mặt anh sáng lên vẻ hứng thú muốn trêu chọc dưới bộ tóc dày màu sáng ” Có lẽ tôi sẽ học được nhiều thứ để khỏi phải vắt sữa những con bò ngu ngốc hàng ngày”.

    ” Chúng ta không muốn biết những kinh nghiệm của cậu, Jim ạ”. Tom vừa nói vừa vuốt râu. ” Bây giờ là mùa Giáng Sinh và chúng ta cần câu chuyện Giáng Sinh đặc biệt” .

    Căn phòng im lặng nhưng ai cũng nghe thấy tiếng gió bên ngoài đang rít mạnh hơn. Những bàn chân nhích đi và những bờ vai chạm nhau trong khi mọi người cố chen nhau tới cuối quầy rượu để né tránh cái nhìn dò hỏi của Tom . Mắt ông lướt từ người này sang người khác. Vài người nhìn lại ông một lúc lâu trước khi nhìn xuống, bối rối. Không ai sốt sắng ngồi vào chiếc ghế kể chuyện tối nay.

    Đột nhiên, cánh cửa quán kẽo kẹt mở ra và cơn gió đang xô nghiêng ngã cây cối bên ngoài ầm ĩ lao vào trong quán, làm mọi thứ trang trí lắc lư dữ dội.

    Tất cả mọi cặp mắt đều hướng ra cửa.

    Người phụ nữ ấy có gương mặt xanh xao gần như trắng bệch , mái tóc ngắn màu sáng và đôi mắt xanh lạnh lùng. Cô ngập ngừng đứng lại, nhìn quanh quán, ngạc nhiên khi thấy quá đông người ở nơi vắng vẻ này. Cô kéo lại chiếc áo choàng màu đen quanh vai dù nó đã được giữ chặt quanh cổ bằng một sợi dây chuyền vàng nhỏ. Bên dưới lớp áo choàng , cô mặc một áo polo màu sẫm và váy đen . Cô chậm chạp đi đến chiếc ghế duy nhất còn trống ở quầy rượu. Tom đã qua ngồi trên một khúc cây, và đang sưởi ấm bên cạnh cây Giáng Sinh, vẻ mặt bình thản.

    ”Hình như chỉ còn một chỗ ngồi trong quán. Tôi ngồi có được không ?” cô hỏi.

    ”Nếu cô ngồi đó”, Tom ân cần nói “cô phải kể chúng tôi nghe một câu chuyện và đó phải là một câu chuyện Giáng Sinh”.

    ” Tôi sẽ làm điều đó nếu mọi người muốn như vậy.” Cô vừa nói vừa tháo áo choàng và đặt trên đầu gối như để bảo vệ mình và tạo sự dễ chịu.

    Người chủ đất lách qua đám đông với một ly rượu hâm nóng và trân trọng đặt vào tay cô.”Cô sẽ cần cái này để giúp cô kể chuyện, cô bạn ạ”, ông nói.

    Sau khi uống một hớp dài, cô đặt ly cạnh ghế và úp hai lòng bàn tay trên tay ghế cao. Ngôi quán cũ bằng gỗ có vẻ thu nhỏ lại và thật yên lặng, mọi người chăm chú nhìn cô trong khi cô bắt đầu câu chuyện.

    ” Giáng sinh là về những hy vọng và những nỗi sợ hãi. Tôi muốn kể cho các bạn nghe về một ngôi trường nơi tất cả trẻ em đang học tiểu học”. Cô dừng lại một chút. ” Đó là mùa Giáng Sinh và bọn trẻ đang tập những bài hát mừng lễ Giáng Sinh. Chen lấn nhau quanh cây đàn dương cầm của cô giáo trẻ, chúng hát những bài thánh ca. Sau đó cô giáo dạy chúng những nốt nhạc trong khuông nhạc và cách cô đọc chúng. Rồi bọn trẻ áp dụng những điều đã học . Chúng họp thành nhóm nhỏ, chọn một nốt nhạc và tạo thành hình nốt đó. Chúng cười lớn và thảo luận sôi nổi. Tất cả, ngoại trừ một cô bé nhìn lại bản nhạc và đứng sang một bên căn phòng”.
    Người phụ nữ ngừng lại và nhìn lên chiếc đồng hồ phía trên quầy rượu. Cô nói:”Nhóm thứ nhất tự tạo thành một đường thẳng trên sàn nhà với một em cuộn tròn người như trái banh ở một đầu và một em khác đứng chéo tạo thành một góc nhọn ở đầu kia.”

    ” Chúng em là một nốt móc đơn“ chúng vui vẻ reo lên. ”Nốt nhạc của chúng em rất nhanh, chúng em mang đầy sự sôi động và niềm vui”. Cả lớp vỗ tay khen ngợi.

    Nhóm thứ hai cũng tạo thành một đường thẳng giống như vậy trên sàn nhà, nhưng lần này không có cái đuôi cong và giải thích rằng chúng là một nốt đen. Nhạc của chúng nghiêm trang, đều đặn ,chậm rãi và rõ ràng. Một tràng hoan hô nhanh chóng tiếp theo.

    Nhóm thứ ba nằm trên sàn nhà và tạo thành một hình bầu dục lớn. ”Chúng em là một nốt tròn,” chúng tự hào nói, ”nốt dài nhất trong tất cả các nốt nhạc, chúng em đến vào cuối bài nhạc, lúc mọi âm thanh chấm dứt .” Mọi người vỗ tay.

    Rồi cuối cùng còn lại một đứa bé không thuộc nhóm nào. Cô bé này không được nhiều người thích và thường nghỉ học vì bệnh. Dưới ánh mắt nhìn chăm chú và coi thường của cả lớp , em chậm chạp tới giữa phòng, mỗi bước đi có vẻ đau đớn và khi em ngồi xếp chân xuống sàn nhà với chiếc áo đồng phục xanh xếp cẩn thận dưới hai đầu gối nhợt nhạt , có vẻ như em thấy nhẹ nhõm vì đã làm xong việc .

    ”Em sẽ là một nốt nhạc chứ ?” Cô giáo trẻ hỏi . Cô biết cô bé đang bị một chứng bệnh trầm trọng .

    Cô bé ngồi im lặng và hoàn toàn bất động, mắt nhìn chằm chằm xuống sàn nhà bằng gỗ của lớp
    Cô giáo quay lại các em khác và hỏi chúng: ” Các em nghĩ bạn Natalie là nốt nhạc gì hôm nay?”
    Lập tức các cậu bé và cô bé chung quanh đồng thanh la lên, mỗi em chọn một nốt nhạc khác nhau trong trí tưởng tượng của chúng để kết hợp với cô bé đang ngồi trên sàn nhà.

    Cô giáo cau mày, lo lắng . Trong lý lịch của Natalie ở trường, cô biết cô bé đã bị mất cha mẹ trong một tai nạn xe đêm Giáng Sinh và em bị rối loạn tinh thần. Có thể ngay lúc này em cũng đang bệnh, vì em ngồi yên lặng quá.

    Cả lớp đã ngừng la hét và đang sốt ruột đợi Natalie nói.

    Cuối cùng em ngước mắt lên khỏi sàn nhà.

    ”Em không thật sự là một nốt nhạc. Bây giờ là Giáng Sinh và em là sự yên lặng khi âm nhạc kết thúc. Em là sự hạnh phúc khi mọi nỗi buồn kết thúc , hoặc là nỗi buồn khi mọi hạnh phúc kết thúc … Rốt cuộc, mọi người muốn em là điều gì em sẽ là điều đó“.

    Người phụ nữ áo đen ngước mắt lên nhìn mọi người trong quán đang đứng chung quanh, mỗi người có những hy vọng và những nỗi sợ hãi của riêng mình trong mùa Giáng Sinh đang đến .

    ”Và đó là kết thúc câu chuyện “- cô nói .

    Cô đứng lên khỏi chiếc ghế kể chuyện, chậm chạp khoác áo choàng vào và đi ra cửa.

    Một thanh niên đứng ở cửa giơ tay ra nắm chặt chiếc áo khoác và thô bạo hỏi:

    ”Cô phải nói cho chúng tôi biết. Cô là cô giáo đó phải không?”

    Hình như anh ta chùn tay lại khi mắt hai người gặp nhau, rồi cô nhìn mọi người trong quán với những món trang trí chung quanh .

    ”Không”-

    Cô trả lời ”Anh muốn tôi là gì ?”

    Cô đi khuất ra ngoài và trong quán, người ta có thể nghe được tiếng một bông tuyết đang rơi xuống …

    Nguồn: nguoimesach
    VNthuquan - Thư viện Online
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/12/13
  16. lichan

    lichan Lớp 12

    Một chuyện ngày Giáng Sinh
    PAULO COELHO
    Dịch giả: Từ Vũ
    Phóng dịch từ truyện "Une Histoire de Noël"- Conto de Natal - của PAULO COELHO gởi bằng émail cho Từ Vũ ngày 22.12.2009 với những giòng chữ :
    Afin de vous remercier pour le soutien que vous m'avez apporté en 2009, poursuivant la tradition des années précédentes, je vous envoie le conte de Noël que j'ai écrit pour les colonnes que je tiens dans plusieurs journaux du monde.
    Que Dieu nous illumine en 2010,
    Paulo Coelho
    ***
    Một chuyện thần thoại được nhiều người biết đến nhưng lại không hiểu nguồn gốc từ đâu ra kể rằng một tuần lễ trước Giáng Sinh, vị tổng thiên thần Michel bảo với các vị thiên thần dưới quyền mình rằng ông muốn tới thăm địa cầu; ông muốn biết tất cả mọi điều đã sắp xếp sẵn sàng để cho ngày lễ mừng kỷ niệm ngày Chúa Jésu ra đời chưa. Tổng thiên thần Michel luôn luôn gởi một vị thiên sứ có tuổi và một vị trẻ cùng đi với nhau để có được một quan điểm đồng nhất về điều xảy ra ở lãnh địa của Chúa.

    Một trong những cặp thiên thần được chỉ định đến nước Việt Nam, cả hai lại đến rất trễ vào một buổi tối. Vì không biết phải ở đâu nên cả hai hỏi xin được tạm trú tại một trong những ngôi nhà đồ sộ, như nhiều người biết, tại khu Phú Mỹ Hưng.

    Chủ nhân ngôi nhà , một đại gia nhưng đang trên đà phá sản vì tình trạng khủng khoảng kinh tế toàn cầu - theo lời đồn đại của mọi người thì tình trạng này cũng đang xảy ra đối với nhiều vị đại gia khác trong khu vực Phú Mỹ Hưng - , là một người ngoan đạo . Ông ta nhận ra ngay được đấy là những thiên sứ từ nước Trời phái tới nhờ vào những vầng hào quang thấp thoáng trên đầu hai người khách xin ở tạm song ông ta lại qúa bận rộn trong việc sửa soạn một buổi tiệc lễ lớn để mừng Giáng Sinh và ông không muốn phải di chuyển xáo trộn những trang trí bầy biện đã gần xong nên yêu cầu hai vị khách vào nghỉ ở dưới tầng hầm ngôi nhà.

    Mặc dù trên những tấm thiệp mừng Giáng Sinh bao giờ cũng in hình ảnh tuyết đổ, ở Việt Nam nhất là Sài Gòn tuy khí hậu có hơi lành lạnh nhưng chẳng hề có tuyết bao giờ và ngược lại còn khá nặng nề với cái ẩm và sự ngột ngạt của căn hầm nhà.
    Họ phải nằm ngay trên nền xi măng cứng nhưng trước đó cả hai chuẩn bị đọc kinh cầu nguyện theo thông lệ. Thiên sứ lớn tuổi nhận ra được một vết nứt trên tường hầm nên đứng ngay dạy dùng phép lạ sửa chữa lại rồi quay về chỗ để đọc kinh .

    Cả hai vị thiên sứ đã trải qua một đêm kinh khiếp vì căn hầm quá nồng nực .
    Hai vị thiên sứ mỏi mệt vì mất ngủ nhưng cả hai đều biết là họ phải hoàn thành nhiệm vụ đã được bề trên trao phó.
    Sáng hôm sau, hai thiên sứ đi khắp thành phố SàiGòn với hàng triệu cư dân, những khu phố, những ngôi dinh thự, những ngõ hẻm ổ chuột nhỏ chỉ đủ cho một người đi, những tương phản thật rõ rệt.

    Hai thiên sứ lập bản báo cáo rồi lúc bóng đêm lại đổ xuống, cả hai dự tính sẽ đi ra các tỉnh lân cận nhưng vì họ không biết được sự sai biệt giờ giấc nên thêm một lần nữa lại lâm vào cảnh không có nơi cư trú qua đêm.

    Hai thiên sứ tới gõ cửa một căn nhà lá thật khiêm tốn tại vùng Đức Linh - Đồng Nai nơi trú ngụ của một cặp vợ chồng, hai vợ chồng chủ nhà mở cửa đón tiếp hai khách lạ. Vì nghèo nên họ không có những hình ảnh nào về các vị thiên thần nên không thể biết được đấy là hai thiên sứ của Thượng đế tuy nhiên hai người lạ này cần một nơi trú thì họ vẫn niềm nở đón tiếp.

    Hai vợ chồng chủ nhà sửa soạn bữa ăn tối, săn sóc đứa con vừa chào đời và nhường lại cho hai vị khách căn phòng duy nhất của họ với lời chân thành xin lỗi khách vì họ nghèo nàn không thể có tiền mua sắm được một chiếc giường có nệm để hai vị khách nghỉ lưng thay cho chiếc giường tre ọp ẹp hiên có.

    Sáng sớm hôm sau khi hai vị thiên sử bị giật mình thức giấc vì nghe có tiếng ai đó đang nức nở khóc .
    Bước ra khỏi căn phòng, họ nhận ra đưỡc hai vợ chồng chủ nhà đang sụt suì rơi lệ . Hỏi ra thì mới biết được là của cải duy nhất mà họ có, một con bò vừa chết bất thình lình đêm hôm qua. Vợ chồng chủ nhà xin lỗi hai vị khách là họ rất xấu hổ vì không có món gì cho khách dùng điểm tâm.

    Trong lúc cả hai cùng đi trên một con đường đất đỏ ngoằn nghèo, chợt thiên thần trẻ bộc lộ sự bất mãn của mình với vị thiên sứ đồng hành :
    - " Tôi không tài nào hiểu ra được cách ứng xử của ông! Người đàn ông thứ nhất mà mình ngủ trọ có đủ mọi thứ mà ông lại giúp ông ta trong khi đối với cặp vợ chồng nghèo khổ này, họ nghèo nhưng đã tiếp đón chúng ta với tất cả sự chân tình của họ, thì ông lại chẳng làm gì để xoa dịu nỗi đớn đau của họ !

    - "Mọi việc không giống như nó đã lộ diện ta đâu, vị thiên sử lớn tuổi đáp lại. Lúc chúng ta ở trong gian hầm tôi đã nhận ra được rằng ở đấy có một kho vàng chôn dấu trong bức tường ngôi nhà lớn này, kho vàng mà người chủ trước đã chôn dấu. Vết nứt ở tường đã để lộ ra và tôi quyết định phải che dấu lại, bởi lẽ chủ nhân ngôi nhà ở Phú Mỹ Hưng đã chẳng biết tiếp giúp đỡ đần ai. Đêm qua, khi chúng ta nằm ngủ trên chiếc giường tre của cặp vợ chồng nghèo khó này, tôi đã thấy được rằng hai chúng ta có thêm một vị khách thứ ba : Thần Chết-Ông này được gởi đến để đem đứa trẻ sơ sinh đi, nhưng tôi và vị thần chết này là chỗ quen biết từ bao nhiêu năm nay nên tôi đã thuyết phục ông ta hãy lấy mạng của con bò để thay vào mạng sống của đưá bé."

    Ngưng một lát, thiên sứ già tiếp tục trong sự im lặng của bạn đồng hành :

    - " Hãy luôn nhớ, cái ngày mà người ta sửa soạn lễ tiệc Giáng sinh. Trong khi mọi người đều chú tâm đến giá trị hình thức bề ngoài, không ai muốn đón tiếp Mẹ Maria. Nhưng, những mục đồng đã đón bà, và vì lẽ đó, họ đã được ơn huệ là những người đầu tiên được chiêm ngưỡng nụ cười của vị Cứu Thế. "

    Troyes, 15.58 - chiều ngày 22.12.2009 tại Sérénité .

    Nguồn: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Thanh Vân - VietNamThuQuan.
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/12/13
  17. Nga Hoang

    Nga Hoang Lớp 11

    Tình
    Nguyễn Đông Thức​

    Y như ngày xưa, bà cười đến chảy nước mắt sau khi nghe ông kể lại chuyện “Ba điều ước” với hậu quả dành cho anh chàng hay chửi thề là cuối cùng vợ chồng anh ta “mèo lại hoàn mèo”, chẳng còn điều ước nào để tranh với giành. Bà lấy khăn tay thấm đuôi mắt:
    - Chuyện này đúng là chỉ có anh kể mới hay, nhờ cái miệng chửi thề ngon lành! Còn cái chuyện gì được giải ngắn nhứt mà độc địa nhứt đó? Nhớ không? Kể lại em nghe đi!
    - Sao lại không nhớ? chuyện vầy nè: “Hai vợ chồng đang nằm ngủ. Chị vợ chợt mớ: “Chết! Chồng em về!”. Anh chồng lật đật chui xuống trốn dưới gầm giường. Hết!”.
    Chính kiểu cười hả hả của bà làm ông không thể nín được cười, bà vừa ngừng thì ông lại cười lớn hơn làm bà bị lôi theo cười tiếp, cứ như thế hai người cười như khùng như điên, đến lúc ông phát ho sặc sụa hồi lâu mới thôi...
    Bất chợt, cả hai cùng im lặng nhìn nhau.
    Họ đang ngồi trong quán Splash ở Laguna Beach, một bãi biển nhỏ cách Quận Cam khoảng ba mươi phút lái xe. Quán nằm trong resort Surf & Sand của ngưòi Mỹ và hiếm khi có khách Việt, theo yêu cầu của bà muốn sự riêng tư tuyệt đối. Bà nhờ ông hỏi và gọi vài món đặc biệt của quán, không quên kêu hẳn một chai Cordon Bleu. Bà không giấu được nụ cười khi anh hầu bàn ngạc nhiên hỏi lại là một chai hay một ly, vì bên đây thỉnh thoảng mới có khách gọi một chai, nhưng phải cho cả buổi tiệc mười người trở lên.
    Ông xúc động:
    - Em vẫn nhớ anh thích loại này à?
    Bà chỉ im lặng, như vừa bị xúc phạm. Chuyện gì liên quan đến ông mà bà lại không nhớ? Như những câu chuyện tiếu lâm bà vừa kêu ông kể, thật ra bà vần nhớ như in, cái chính là bà muốn nghe lại đúng kiểu kể mạnh mẽ đầy sảng khoái của ông, bởi kể chuyện tiếu lâm mà thiếu tự tin không thể nào hay được.
    Anh sáng trong phòng ăn thật vừa phải, tạo cảm giác thân mật, ấm áp. Từng bàn đều có một ngọn nến tỏa hương thom thoang thoảng, đặt cạnh một lọ hoa chỉ cắm vỏn vẹn một cánh hồng thắm, nổi bật trên mặt khăn trắng muốt! Ngọn lửa bập bùng tỏa ra từ cái lò sưởi trong góc phòng hất những ánh sáng nhảy múa trên gương mặt ông. Chỉ có mỗi tiếng dương cầm ở đâu đó thật nhẹ.
    Chung quanh phòng, cửa sổ đều bằng kính, nhìn ra như ngồi giữa thiên nhiên. Tiếp nối là một khoảnh sân nhỏ được bao quanh bới những cây dừa cao vút, nhiều chậu hoa tươi thắm được treo xen lẫn các lồng đèn đủ màu, rồi mấy bậc thang nhỏ dẫn khách xuống bãi cát mịn màng vàng rực trong ánh chiều tà, ngoài cùng là bién xanh ngăn ngắt mút mắt.
    Tiếng sóng vỗ rì rào, tiếng nhạc êm dịu, tiếng lửa reo tí tách, hương thơm hoa cỏ, rượu ngon mềm môi, tất cả không gian như đắm chìm trong mộng. Khi mặt trời rực đỏ buồn bã chìm dần xuống biển thì lòng bà cũng đắm trong dĩ vãng, nhớ ngày nào ông bà tóc hãy còn xanh, cũng đã từng ngồi bên nhau nhìn mặt trời lặn như thế này trong những ngày lưu diễn ở các thành phố biển.
    Mặt trăng từ từ ló dạng, ánh trăng thanh làm dịu hẳn những màu sắc mới đây thật rực rỡ dưới mặt trời, cảnh vật bất chợt mang một vẻ huyền hoặc khác hẳn.
    Cuộc đời ông bà giờ như một buổi chiều tàn, biết còn gì cho nhau?
    Tràng cười như đã tuôn ra hết sinh lực, làm gương mặt người đàn ông bảy mươi tuổi ngồi trước mặt bà chợt sọp xuống, trong cánh hoàng hôn càng tiểu tụy gì đâu. Thật sự hồi chiều khi ông mở cửa, bà đã không nhận ra. Dấu vết của anh kép đẹp lừng lẫy một thời chỉ còn lại chút xíu nơi đôi mắt đa tình có đuôi, nhưng cũng đã gần như bị che lấp bởi hai mí dưới bọng mỡ...
    Bà cố nên tiếng thở dài, nâng ly mời ông.
    - Tiếng chạm ly lại nhắc bà nhớ về cả một thời. Cái thời mà Cordon Bleu này ông vừa đánh phé vừa cầm cả chai đưa lên miệng tu, mặt trơ trơ tái mét không ai đoán được con bài tẩy. Vãn tuồng, họ đi ăn khuya rồi về chơi bài tới sáng, sống với giờ giấc không giống ai. Bà rất yên tâm khi ngồi bên cạnh coi ông chơi bài, vì đó là lúc ông còn là của bà. Bởi hôm nào không diễn là ông... biến mất, bà đành nằm khóc vì biết ông lại đang ôm một cô gái hoặc một bà sồn sồn mê cải lương nào đó.
    Ông bỗng đề nghị:
    - Em hát cho anh nghe vài câu đi. Bốn chục năm rồi...
    Bà cười dịu dàng:
    - Hát thì hát...
    Và không đợi ông yêu cầu bài gì, bà cất tiếng nói lối:
    - Vua nước Sở một hôm lòng thanh thản, cởi long bào giả dạng một thường dân...
    Ông mừng rỡ vỗ tay khe khẽ. Thật lạ lùng cái ông này, một tay sát gái, thay đào như thay xe hơi, đàn bà với ông không hơn một món đồ chơi, vậy mà lúc nào có dịp là lại yêu cầu bà hát cho nghe một bài duy nhứt Lòng dạ đàn bà . Để rồi khi vừa hết câu ba “đàn bà lòng dạ hiểm sâu, ngoài môi lại nói những câu chung tình”, là ông đưa tay ra dấu ngừng, coi như đã đủ... Lẽ nào một người như ông lại từng bị đàn bà phản, và tất cả những chuyện tình sau chí là những cuộc trả thù đời?
    Hai người uống thêm hai shot rượu nữa. Ông ăn có vẻ ngon lành, còn bà thì cứ im lặng nhìn ông, đầy thương cảm. Đẩy chiếc đĩa sạch trơn ra, ông cười có vẻ ngượng:
    - Lâu quá anh mới có một bữa ngon như vầy.
    - Anh dùng thêm gì nữa không? Đừng ngại. Em lo được.
    - Không, đủ rồi. Cảm ơn em.
    Họ cạn ly, rồi ông chợt chồm tới, nháy mắt, nói nhỏ:
    - Tối nay về nhà anh đi. Anh ngồi nhìn em ngủ thôi, không làm gì đâu...
    Trời đất ơi, y hệt câu nói cách đây mấy chục năm ông nói với bà, lần đầu tiên ông dụ bà về, không sai một chữ! Ông vẫn nhớ kỷ niệm lần đầu với bà, hay ông không quên chỉ vì đã dùng câu đó “câu” không biết bao nhiêu em? Bà và bao nhiêu em đó đâu phải dễ tin ông, đâu phải không biết chuyện gì đang chờ mình!
    Bà nghiêm trang lắc đầu:
    - Không được đâu, má em nói con gái mà tới nhà con trai ngủ là có bầu đó!
    Y chang câu nói ngày xưa bà đã dùng trả lời ông. Hai người lại cười tiếp một trận nữa. Lại chảy cả nước mắt. Vài bàn khách Mỹ gần đó dù rất lịch sự vẫn không thể không ngoái nhìn họ.
    - Về với anh đêm nay nhé? - Ông hỏi lại, khẩn khoản.
    - Về thì về, sợ gì?
    Phải rồi, hồi xưa lúc theo ông về nhà, riu ríu nằm cho ông cởi hết quần áo, bà mới hai mươi, còn con gái, vậy mà còn không sợ, nói gì bây giờ? Lúc đó bà là một cô đào trẻ vừa về đoàn, chỉ được giao những vai nhỏ, khi ông đang là kép chính, hào quang chói lòa. Ông đẹp trai, ca hay diễn giỏi, uống rượu không say và càng uống càng lợi khẩu, nói chuyện có duyên... Ông nổi tiếng cực kỳ nguy hiểm với phụ nữ, nhưng phụ nữ vẫn cứ đâm đầu vào. Trong số những con thiêu thân đó, có bà, sau chỉ vài lời tán tỉnh của ông. Sống như vợ chồng với ông được hơn ba năm, theo ông đó là một thời gian kỷ lục, chứng tỏ ông cũng rất yêu bà, cuối cùng bà vẫn không chịu nổi tính trăng hoa của anh kép hát đa tình. Họ chia tay... Thời gian như nước chảy qua cầu, sau bao cảnh biển dâu giờ đây hai người mới gặp lại nhau.
    ***
    Ồng lái chiếc Camry cũ mèm đưa bà về lại nhà.
    Gọi nhà cho sang chứ thật ra chỗ ông ở chi là một căn mobile home trong một khu dành cho dân nhà nghèo ở quận Cam, hầu hết sống bằng trợ cấp chính phủ. Bà đi qua Mỹ thăm đứa cháu ngoại, hỏi thăm cả chục người mói ra được địa chỉ này, hồi chiều tìm đến nơi gõ cửa cho ông bắt ngờ thì họ chỉ còn mỗi đêm nay, vì khuya mai bà phải bay về Sài Gòn rồi. Đứa con rể người Mỹ đưa bà đến lịch sự nói bao giờ bà cần đón thì cứ gọi điện thoại... Bà đau lòng khi thấy ông sống quá nghèo, đồ đạc trong nhà gần như không có gì và toàn thứ cũ kỹ. Phải chăng vì một trong ba tổ nghiệp là ăn mày nên hầu hết dân cải lương về già đều nghèo?
    Khi lên giường, ông có vẻ ngượng ngùng:
    - Anh hết làm gì được rồi...
    Bà cười, tát nhẹ mả ông:
    - Anh này! Chứ anh nghĩ em còn muốn làm gì? Quay lưng lại đi, em gãi cho...
    Ngày xưa ông là chúa nhõng nhẽo, trước khi ngủ bao giờ cũng bắt bà gãi lưng. Nhưng bây giờ, ông lắc đầu:
    - Không, hôm nay đặc biệt, anh muốn đấm lưng cho em.
    Bà tủm tỉm cười trước khi nằm sấp lại:
    - Chắc tối nay mưa lớn quá!
    Ông vừa đấm vừa đùa:
    - Nói bậy! Ở Cali này trời ít mưa lắm.
    Bà hỏi điều đã định hỏi từ chiều:
    - Sao anh cạo trọc vậy?
    - Tại anh... định đi tu...
    Bà bật cười:
    - Anh tu biết chừng nào mới hết tội?
    Ông cũng cười, “Đúng rồi!”, rồi hỏi:
    - Anh cạo đầu xấu quá phải không?
    - Không. Không có gì quan trọng hết.
    Bà nói rồi lơ mơ nghĩ, đúng vậy. Có gì là quan trọng nữa đâu?
    Ông đấm rất êm, rồi xoa bóp thật nhẹ nhàng, chạnh lòng nhớ tới ngày xưa da thịt bà săn chắc như thế nào. Cám giác dễ chịu làm bà chìm vào giác ngủ lúc nào không hay. Trong lúc mơ màng, bà quay qua nép vào ông như tìm một hơi ấm, đầu gối lên tay ông làm tê tay nhưng ông không dám động, sợ làm bà mất giấc.
    Sáng sớm, thức dậy, bà thấy ông đang ngồi nhìn mình đăm đăm, cứ như sẽ không bao giờ được nhìn nữa. Rồi ông mỉm cười:
    - Anh giữ đúng lời hứa đó nghe. Và anh thật ngạc nhiên khi nhận ra đây là lần đầu tiên anh được nhìn em ngủ. Trước kia bao giờ anh cũng ngủ trước và dậy sau em...
    Bà làm bữa sáng cho hai người, chi là săng-uých, đồ nguội có sẵn, cà phê, vậy mà ông cứ suýt soa khen ngon. Rồi bà mở hết cửa sổ, dọn dẹp lau chùi nhà cửa thật gọn gàng, sạch sẽ, trong khi ông đi chợ cho bữa trưa. Họ vừa cùng ỉàm com vừa kể cho nhau nghe bao kỷ niệm êm đềm ngày xưa. chuyện ông đang hát bị rớt một bên râu, chuyện bà đang bay bị đứt dây may rớt đúng ngay vòng tay ông, chuyện ông rượt đánh ghen anh kép mới không ngờ anh ta là pêđê, chuyện bà tập lái xe của ông bị lao xuống ruộng... Lạ lùng là tất cả những chuyện buồn, nỗi đau, sao chẳng ai còn nhớ? Chi nghe những tiếng cười vang lên không ngớt trong căn nhà nhỏ.
    Xế chiều, ông đưa bà về lại nhà con gái. Họ chia tay. Bà hẹn sang năm sẽ cố gắng thu xếp bay sang với ông, hoặc nếu ông không ngại thì bà rất sẵn lòng lo vé máy bay cho ông về. Ông chỉ im lặng.
    Tối hôm đó, ngồi ở phòng chờ sân bay, bà nhận được điện thoại của ông:
    - Em có thấy vui không?
    - Cảm ơn anh, rất lâu rất lâu rồi em mới có một ngày vui như vậy.
    -Anh thật sự muốn làm em được hạnh phúc, dù mình chỉ có được đúng một ngày...
    - Sao vậy anh, mình còn gặp lại mà?
    Ông không trả lới câu hỏi của bà, cứ miên man, chậm rãi:
    - Mấy lúc sau này... Em vẫn là người mà anh nghĩ đến nhiều nhứt... Em đúng là yêu anh hơn tất cả... Tại sao ngưòi ta luôn không biết yêu người đã yêu mình nhứt?... Anh có lỗi với em nhiều...
    Bà bắt đầu sụt sùi khóc. Tại sao bây giờ anh mới nhận ra điều đó? Đúng quá, cuối cùng vẫn mỗi mình anh là người em yêu thương trên cuộc đời có hàng triệu triệu người này, bao năm qua em vẫn không thể quên anh. Trái tim của em, một cô đào hát, sao vẫn không thế đổi thay?
    Ông tiếp tục nói:
    - Ngày xưa anh chi nghĩ đến niềm vui của mình mà không hề biết đem lại hạnh phúc cho ai... Trời còn thương cho anh được gặp lại em một lần... Một lần làm cho em vui... Tha thứ cho anh...
    “Em đã tha thứ cho anh từ lâu lắm rồi!”, bà muốn nói như vậy với ông nhưng không thể được, vì đang khóc mùi.
    Ông cố nén tiếng thở dài, gác máy.
    Căn nhà buổi tối buồn hiu.
    Ông cầm chai cognac đêm qua còn lại lên, run run rót tràn ly. Bà không hề biết mấy năm nay bác sĩ không cho phép ông uống nữa, và hôm qua là lần đầu tiên ông phá lệ. Mấy lần đã định, nhưng cuối cùng ông vẫn không thể nói với bà rằng ống đang bị ung thư, giai đoạn cuối...

    (24-8-2008)​
     
  18. lichan

    lichan Lớp 12

    PHẦN QUAN TRỌNG NHẤT
    Những mẩu truyện sưu tầm của Latdat

    Mẹ tôi đã ra một câu đố: "Con yêu, phần nào là quan trọng nhất trên cơ thể hả con?"
    Ngày nhỏ, tôi đã nói với mẹ rằng âm thanh là quan trọng đối với con người nên tai là bộ phận quan trọng nhất. Mẹ lắc đầu: "không phải đâu con. Có rất nhiều người trên thế giới này không nghe được đâu, con yêu ạ. Con tiếp tục suy nghĩ về câu đố đó đi nhé, sau này mẹ sẽ hỏi lại con."
    Vài năm sau, tôi đã nói với mẹ rằng hình ảnh là quan trọng nhất, vì thế đôi mắt là bộ phận mà mẹ muốn đố tôi. Mẹ lại nhìn tôi âu yếm nói: "Con đã học được nhiều điều rồi đấy, nhưng câu trả lời của con chưa đúng bởi vi vẫn còn nhiều người trên thế gian này chẳng nhìn thấy gì."
    Đã bao lần tôi muốn mẹ nói ra đáp án, và vì thế tôi toàn đoán lung tung. Mẹ chỉ trả lời tôi: "Không đúng. Nhưng con đang tiến bộ rất nhanh, con yêu của mẹ."
    Rồi đến năm 1991, bà nội yêu quý của tôi qua đời. Mọi người đều khóc vì thương nhớ bà. Một mình tôi đã vừa đạp xe vừa khóc trên suốt chặng đường 26 km từ thị xã về quê trong đêm mưa rào ngày 4/5 âm lịch của năm đó. Tôi đạp thật nhanh về bệnh viện huyện để mong được gặp bà lần cuối. Nhưng tôi đến nơi thì đã muộn mất rồi.
    Tôi đã thấy bố tôi gục đầu vào vai mẹ tôi và khóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố khóc như tôi.
    Lúc liệm bà xong, mẹ đến cạnh tôi thì thầm: "Con đã tìm ra câu trả lời chưa?" Tôi như bị sốc khi thấy mẹ đem chuyện đó ra hỏi tôi lúc này. Tôi chỉ nghĩ đó là một trò chơi giữa hai mẹ con thôi.
    Nhìn vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, mẹ liền bảo cho tôi đáp án: "Con trai ạ, phần quan trọng nhất trên cơ thể con chính là cái vai."
    Tôi hỏi lại: "Có phải vì nó đỡ cái đầu con không hả mẹ?"
    Mẹ lắc đầu: "Không phải thế, bởi vì đó là nơi người thân của con có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một cái vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai cho con có thể ngả đầu vào."
    Từ lúc đó, tôi hiểu rằng phần quan trọng nhất của con người không phải là "phần ích kỷ", mà là phần biết cảm thông với nỗi đau của người khác.

    Nguồn VNThuQuan.
     
  19. lichan

    lichan Lớp 12

    "Cô già" NôEn
    Dương Lệ
    *****
    Đã gần đến ngày Nô en...

    Tôi học cùng với cậu ấy từ năm cấp 3. Sang đến Đại học, như một duyên nợ, chúng tôi lại học cùng nhau.
    Ra trường được một thời gian, tôi cũng đã đi làm nơi này nơi khác. Cuối cùng, tôi lại nộp đơn vào công ty nơi mà bố cậu ấy làm Phó Tổng giám đốc. Hôm đầu tiên đến nhận việc, biết cậu ấy làm trưởng phòng mình, tôi suýt ngất.

    Mấy nhân viên cùng phòng cực kết phong cách làm việc của cậu ấy: nhanh nhẹn, chuyên nghiệp, bản lĩnh, quyết đoán. Thật không khó để hiểu được tại sao cậu ấy có thể trở thành trưởng phòng. Một chị lớn tuổi hơn tôi bảo:

    - Tôi không bao giờ phục những người trẻ tuổi hơn mình đâu. Nhưng cậu ấy thì ngoại lệ đấy.

    Tôi cứ thắc mắc vì nghĩ chứ không phải chị ấy sợ Phó Tổng nên mới nói như vậy hay không. Nhưng khi nhìn thấy cậu ấy giao việc cho tôi thì tôi đã dập tắt ngay ý nghĩ ấy trong đầu.

    Cậu ấy quả thực biết rất rõ tôi mạnh và yếu ở điểm nào. Nên không ngại ngần chỉ dạy cho tôi và giao cho tôi toàn những việc khó. Có ngày, tôi phải bạc mặt ở ngoài đường và suýt nữa phát khóc lên vì không thể hoàn thành được công việc. Rồi chẳng hiểu sao bỗng có cuộc gọi của cậu ấy.

    - Nếu cậu không thể hoàn thành được công việc thì trước hết đừng bao giờ nhận dự án này. Hãy tìm người chia sẻ nó. Nhưng cậu đã nhận làm rồi, thì đừng có nản chí như thế chứ. Mình không quen người cam chịu thất bại đâu. Đừng để trở thành người xa lạ với mình như thế.

    - Mình không phải người cam chịu thất bại. Nhưng đối tác không chịu đồng ý giúp đỡ. Chân mình hiện giờ đang rất mỏi và toàn bộ ý nghĩ của mình bây giờ là cái tai của mình được yên. Mình không phải nghe những lời phàn nàn của cậu nữa.

    - Được thôi. Hãy cố gắng nhé!

    Rồi cậu ấy dập máy. Tôi đã phải chờ đến 10h tối mới về được đến nhà. Trời đã vào mùa đông nên rất lạnh. Không khí càng gần đến ngày Nô en khiến tôi thêm chạnh lòng vì công việc vẫn chưa thể xong. Chạy lên chạy xuống công ty của đối tác (trước cửa đã đặt cây thông lớn) và nhà của ông ta mười mấy lần, bị bảo vệ đuổi ngay ở ngoài cửa, bị chó nhà họ xộc ra sủa oăng oẳng, suýt nữa thì toạc cả gấu quần, tôi thất vọng đến nỗi không còn tin tưởng vào những cố gắng cuối cùng của mình vào ngày hôm sau nữa.

    Thật không ngờ chiều hôm ấy tôi nhận được điện thoại. Ông ấy đồng ý gặp tôi để nghe tôi thuyết trình bản kế hoạch sơ lược của năm sau. Tôi vui sướng đến mức muốn nhảy cẫng lên. Trưởng phòng nhìn tôi, mỉm cười. Tôi chỉ cười trừ với cậu ta. Trời đất! Sao tôi lại ghét cậu ta đến thế! Mỗi khi tôi không hoàn thành công việc gì một cách nhanh chóng, là cậu ta lại mắng như tát nước vào mặt tôi.

    Lúc sáng, tôi bước vào văn phòng, chào cậu ấy mà không thèm mỉm cười với tôi lấy một lần.

    Sau đó thì tôi đã thuyết phục được một cách khó khăn đối tác nhận dự án của tôi. Ngày cuối cùng, trước khi dự án được ký kết, tôi gặp ông ấy. Ông ấy bảo với tôi:

    - Thực ra tôi là người rất kỹ tính, cuối năm thì lại càng bận rộn hơn. Nhưng trưởng phòng của cô là một người thật tuyệt vời đấy. Cậu ấy đã kiên nhẫn gọi điện cho tôi đến hơn 70, 80 cuộc để thuyết phục tôi đồng ý gặp cô. Cậu ấy bảo nếu tôi gặp cô thì tôi cứ yên tâm rằng tôi không gặp lầm người đâu. Cậu ấy nói đúng. Chúc mừng sự cố gắng của cô!

    - Dạ! À vâng, xin cảm ơn ông ạ.

    - Không có gì. Hẹn gặp lại cô sau.

    Thực ra thì tôi đã hiểu lầm về cậu ấy. Cậu ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều, mặc dù cậu ấy không nói ra. Trước mặt tôi, cậu ấy luôn tỏ ra lạnh lùng. Có lẽ vì cậu ấy biết tôi rất tự trọng. Nếu cậu ấy nể tình bạn bè mà thiên vị với tôi thì những người khác trong phòng sẽ nói về tôi không được tốt. Tôi càng là bạn bè của cậu ấy, thì cậu ấy càng phải yêu cầu khắt khe hơn. Nhưng chính vì thế mà mối quan hệ giữa chúng tôi lạnh như băng. Có lần, cậu ấy uống rượu say, ngã đập đầu vào tường, tôi cũng không dám ra đỡ cậu ấy.
    Hôm sau, tôi mới hỏi:

    - Vết thương của cậu sao rồi? Đầu cậu sưng có bị đau lắm không?

    - Mình đến đây được là mình đã đỡ rồi. Cậu đừng lo cho mình. Nếu cậu lo cho mình thật thì tại sao hôm qua mình bị ngã, cậu lại không phải là người đầu tiên đỡ mình chứ?

    - Cậu biết là mình không thể đỡ cậu dậy mà. Nếu mà mình ra đỡ cậu thật thì liệu cậu có cho phép mình không hả? Hay là cậu lại đẩy mình ra như 5 năm về trước?

    Cậu ấy chỉ nhìn tôi cười rồi nắm lấy tay tôi, nhìn sợi dây chuyền mặt hình cây Thánh giá trên tay tôi một lát, rồi xoa lên vết thương trên trán:

    - Nếu có thể quay lại ngày hôm qua, cậu có thể giúp mình lần nữa được không?

    Tôi rụt tay lại:

    - Cậu thôi đi. Mình làm sao mà giúp cậu được. Mình không phải là bác sỹ. Cậu có hiểu không hả?

    - Cậu không phải là bác sỹ. Nhưng cậu đã từng là bạn mình mà. Chuyện 5 năm trước mình đã muốn xin lỗi cậu. Song hình như cậu không muốn tha thứ cho mình.

    Tôi quắc mắt với cậu ta, bỏ ra ngoài.

    Cậu em trai của tôi năm nay học lớp 5. Gần đến Nô en rồi, nên cu cậu háo hức lắm. Nhà tôi theo đạo. Mỗi năm, cứ đến dịp này, bố tôi lại mang về một cây thông to. Em trai tôi mua đầy đồ về trang trí. Nào là những quả bóng tròn, nhỏ, vàng ánh, những dây kim tuyến lấp lánh, những chiếc chuông kêu leng keng leng keng. Những món quà nhỏ cũng được treo lên cây thông. Một hôm, thằng bé bảo tôi:

    - Chị ơi, năm nay chị làm “Chị già” Nô en nhé.

    Tôi đang uống nước, suýt sặc ra ngoài.

    - Em sao thế? Làm ông già Nô en phải là đàn ông chứ? Năm nào, bố cũng làm ông già Nô en phát quà cho trẻ em trong xóm đạo mà.

    - Nhưng mà không phải phát cho trẻ con đâu. Phát cho người lớn cơ.

    - Hả? - Tôi ngạc nhiên - Ai cơ?

    - Chị không biết thật sao? Là anh Tuấn.

    - Em sao thế? Sao tự nhiên lại phải phát quà cho anh ấy? Nhà anh ấy thì thiếu gì. Vấn đề là người ta có thích hay không chứ?

    - Anh ấy rất tội nghiệp. Anh ấy chẳng bao giờ được nhận quà vào Nô en cả.

    - Sao cơ?

    - Thì hôm trước anh ấy đến nhà mình tìm chị mà. Anh ấy tự nhiên bảo anh ấy muốn bé lại lần nữa. Vì anh ấy chưa bao giờ được nhận quà Nô en cả. Anh ấy kể với em là, hồi anh ấy còn bé, còn tin ông già Nô en là có thật. Như em bây giờ thì là lớn rồi - Thằng bé nhấn mạnh - Hồi ấy, bố anh ấy toàn đưa anh ấy đi chơi bằng xe hơi. Anh ấy không được chạy bộ như những đứa trẻ khác. Một lần, anh ấy trốn ra ngoài chơi. Đó là ngày Nô en. Anh ấy được một ông già Nô en tặng cho một chiếc kẹo mút, bảo là tặng cho cậu bé ngoan. Anh ấy rất thích. Nhưng ngay sau đó, bố anh ấy đi ra, quăng chiếc kẹo mút đó đi, rồi lột chiếc mũ và râu ông già Nô en ra. Thì ra, đó chính là một người nhân viên dưới quyền của bố anh ấy. Sau đó, không hiểu sao bố anh ấy đuổi người nhân viên đó ra khỏi công ty. Từ đó, anh ấy không tin và cũng không cần có ông già Nô en nữa. Cái gì anh ấy cũng được bố cho, anh ấy chẳng phải mong ước bất cứ điều gì cả.

    Tôi ngắm lại tấm ảnh của tôi và cậu ấy hồi cấp 3. Cậu ấy đúng là rất đáng thương. Mẹ cậu ấy bỏ hai bố con cậu ấy đi theo người khác khi cậu ấy còn chưa đầy một tuổi. Cậu ấy thiếu tình thương của mẹ trong một gia đình giàu có. Mẹ cậu ấy cũng theo Công giáo. Có thể, bố cậu ấy giận lây sang cả ông già Nô en, không cho cậu ấy dính dáng đến ngày Giáng sinh. Chúng tôi cũng rất sợ bố cậu ấy. Biết bố cậu ấy không thích nên Nô en chẳng khi nào dám rủ cậu ấy đi chơi cả. Thế nhưng, tôi biết cậu ấy rất yêu mẹ mình, thường lén đến gặp mẹ, mỗi khi mẹ cậu ấy trở về từ nước ngoài. Tôi nhớ lại. Cậu ấy đã từng nói với tôi:

    “Một buổi sáng, năm mình học lớp 5, mình nhìn thấy một gói quà vứt ở ngoài sọt rác. Mình nhặt lên xem thì thấy có đề gửi đến cho mình từ mẹ. Hôm đó, mình mới biết mẹ vẫn quan tâm đến mình. Tiếc là món quà Giáng sinh ấy đã bị bóc ra và bị lấy mất. Sau đó ít lâu thì mình gặp mẹ. Mẹ bảo mẹ không muốn mình xa bố, vì bố chỉ có mình thôi. Mẹ cũng bảo là năm nào mẹ cũng gửi quà Giáng sinh cho mình. Mình nói là mẹ đừng làm như thế nữa, vì bố chắc chắn sẽ không vui, mình cũng chẳng bao giờ được nhận quà cả. Chỉ cần có thể gặp mẹ là món quà lớn nhất đối với mình rồi”.

    Một buổi sáng, tôi ra mua đồ ở ngoài chợ. Họ có bán bộ đồ đỏ của ông già Nô en rộng thùng thình. Tôi chọn mãi mới được bộ quần áo của người lớn cỡ bé nhất, nhưng dù sao nó cũng vẫn rất rộng so với người tôi.


    Vê lại cái râu giả trắng xóa dán ở quanh miệng, tôi đội chiếc mũ đỏ vào, vác hộp quà sang nhà cậu ấy, định nhấn chuông. Sau đó nhớ ra bố cậu ấy không thích ông già tuyết, nên tôi đành trốn một góc, gọi điện thoại cho cậu ấy ra.
    Cậu ấy cười rũ rượi. Tôi phải lôi cậu ấy ra một góc.

    - Này, cái thằng bé kia. Ông già Nô en đang ở đây. Cười cái gì mà cười hả? - Tôi giả giọng khàn khàn, bảo.

    - Xin lỗi ông, ông già Nô en. Con không cố ý. Nhưng con trông ông buồn cười quá. Để con dán lại râu cho ông đã - Cậu ấy đưa tay lên miệng tôi - Bây giờ thì được rồi.

    - E hèm - Tôi gạt tay cậu ta ra - Ai cho động vào ông già Nô en như thế chứ? Bởi vì cậu chưa bao giờ được tặng quà Nô en nên hôm nay ta tặng cho cậu một món quà. Nào, giơ tay ra đi. 1,2,3!

    Cậu ấy giơ tay ra, nhưng vẫn ngạc nhiên hỏi:

    - Sao tự nhiên năm nay cậu lại giả làm ông già tuyết tặng quà Giáng sinh cho mình vậy? Chà. Cậu chưa bao giờ rủ mình đi chơi Giáng sinh cơ mà.

    Tôi đưa hộp quà vào tay cậu ấy:

    - Nào, tặng cho đứa bé ngoan. Ta tặng con thì con phải cảm ơn ta đã. Sao chưa gì đã thắc mắc rồi?

    Cậu ấy cười rất tươi:

    - Vâng. Cảm ơn ông... à không, “cô già” Nô en nhiều ạ.

    Cậu ấy ngạc nhiên, mở ra đọc thiệp Giáng sinh và một hộp kẹo mút to.

    - Ôi, trời đất. Nhiều kẹo thế này thì ăn biết bao giờ cho hết chứ. Cảm ơn cậu. Thực sự cảm ơn cậu.

    - Ừm... Ta đã hết nhiệm vụ của ngày hôm nay rồi. Bây giờ ta đi về đây. Chào tạm biệt!

    Cậu ấy kéo vội tay tôi:

    - Khoan đã. Sao chưa gì cậu đã đi như thế? Chúng ta không thể trở về như trước kia được sao?

    - Mình nói rồi. Chúng ta không thể mà. Mình không thể ở bên cạnh cậu như trước kia được.

    Nhưng cậu ấy bất chợt ôm lấy tôi, làm tôi không kịp phản ứng.

    - Bỏ ra nào - Tôi bảo.

    - Mình không thể xa cậu lần nữa. Mình xin lỗi. Đầu năm thứ ba đại học, mình đã biết mình yêu cậu. Mình đã nói với bố về cậu. Nhưng bố mình đã ngăn cản, vì cậu là người Công giáo. Bố bảo rồi cậu sẽ giống như mẹ mình, cậu sẽ bỏ rơi mình. Bố nói là nếu mình còn muốn ở bên cậu, thì phải bỏ ngay tình yêu đó với cậu đi, nếu không thì bố sẽ bắt mình đi du học. Lúc đó mình đã nghĩ, chỉ cần mình hàng ngày được nhìn thấy cậu thì mình sẽ chấp nhận tất cả. Ra trường, mình biết cậu làm ở rất nhiều công ty. Mình đã nhờ bố mẹ cậu cố gắng thuyết phục cậu nộp hồ sơ ở chỗ công ty bố mình đấy. Lúc cậu vào làm chỗ mình, thực ra mình cũng đã đấu tranh với bố rất nhiều. Mình nói bấy lâu nay, mình vẫn giữ khoảng cách với cậu, sao bố vẫn còn lo lắng đến thế. Mình đã nghĩ là sẽ có ngày mình nói ra tất cả mọi chuyện với cậu. Hôm nay, mình đã nói với bố mình vẫn còn yêu cậu. Mình cũng đã viết đơn xin thôi việc rồi. Ngày mai, mình sẽ gửi cho bố. Cậu hãy ở lại tiếp tục làm việc. Mình sẽ không để bố mình làm gì được cậu, tình yêu của mình đâu. Dù sao thì thời gian qua, cậu cũng đã trở thành nhân viên chính thức của công ty rồi.

    Tôi đẩy cậu ấy ra:

    - Cậu điên rồi. Sao cậu có thể rời bỏ công ty chỉ vì mình chứ? Hãy ở lại và mình sẽ rời khỏi công ty.

    - Đừng. Cậu đừng làm như thế. Cậu phải cho bố mình biết là ông ấy đã sai rồi. Cậu là người rất tuyệt vời. Và cậu sẽ không bao giờ rời bỏ mình vì bố mình hay bất cứ điều gì khác, có được không?

    Tôi thúc vào ngực cậu ta:

    - Cậu đang định lợi dụng mình để chứng minh bố cậu đã sai đấy hả? Cậu muốn mình làm thế vì điều gì chứ?

    - Vì mình yêu cậu. Và mình yêu mẹ mình. Có thể cậu không tin, nhưng mình cũng yêu bố mình nữa. Mình hi vọng rằng tình cảm của mình đối với cậu sẽ giúp ông ấy nghĩ lại. Mẹ mình không bao giờ trở về nữa. Nhưng mà Nô en thì năm nào cũng có. Ngày mai, cậu có thể vào đặt một hộp quà Nô en trong văn phòng bố mình được không? Mình sẽ dẫn cậu vào, sau đó sẽ đưa đơn thôi việc của mình cho bố.

    Chúng tôi đang tranh luận thì có một bóng người đi ra. Tôi giật mình hoảng hốt. Cậu ấy nắm lấy tay tôi:

    - Bố!

    - Không phải là một Ông già Nô en mà lại là một “Cô già” Nô en ở đây sao? - Bố cậu ấy bảo.

    - Cháu chào bác ạ - Tôi lúng túng.

    - Cháu tặng quà cho nó thì cháu có hứa suốt đời này sẽ ở bên cạnh nó không? - Tiếng bố cậu ấy cất lên.

    - Dạ... Cháu...

    - Nếu cháu hứa được thì Tuấn sẽ không phải thôi việc nữa. Bác sẽ cho phép hai đứa. Vì thực ra thì... - Bố cậu ấy tiến lại gần hai đứa tôi - Hai đứa rất xứng đôi. Cảm ơn cháu vì đã trả lại tuổi thơ cho nó. Tuổi thơ đau khổ của nó, bác có lỗi rất nhiều. Vì có ai lại không thích Nô en chứ. Bác cũng rất thích, chỉ vì một số nguyên nhân nên mới phải không thích thôi.

    - Thưa Phó Tổng giám đốc, cây thông và mấy dây trang trí này để ở đâu vậy ạ? - Tiếng một người gọi ở đằng xa. Tôi nhận ra anh ấy, hình như là trợ lý của Phó Tổng giám đốc.

    - Cậu để vào trong nhà cho tôi - Bác ấy ngoảnh lại, bảo, rồi quay ra nói với chúng tôi - Hai đứa tối nay cứ đi chơi đi. Tối mai đã là Nô en rồi đấy.

    Tôi ngoảnh nhìn cậu ấy rồi nói với bác ấy:

    - Dạ, để cháu trang trí cây thông Nô en giúp bác trước đã được không ạ? Bây giờ cũng chưa muộn mà. Vừa nãy, ăn cơm xong, cháu sang đây luôn. Chợ Giáng sinh phải gần khuya thì mới vui. Bác có muốn đi cùng bọn cháu không ạ?

    - Bố, con cảm ơn bố - Cậu ấy bất chợt nói - Vì năm nay nhà mình lại có Nô en rồi.

    - Bố đặt cây thông ấy từ chiều đấy. Nếu hai đứa muốn giúp đỡ bố thì cũng được. Nhưng trang trí xong thì hai đứa đi chơi thôi, bố còn bận nhiều việc lắm. Thế nhé! Vào trong nhà đi. Lạnh lắm!

    Tôi kéo tay cậu ấy:

    - Mình phải về thay đồ đã. Mình không thể mặc đồ ông già Nô en như thế này lâu được.

    - Không sao đâu. Mặc thế rất ấm mà. Ông già Nô en à, cháu yêu ông lắm.

    - Dở hơi à? Ai là ông già Nô en chứ? - Tôi véo cậu ấy.

    - Vậy thì “Cô già” Nô en vậy. Anh yêu em!

    Tôi mỉm cười, muốn nói với cậu ấy rằng tôi cũng thế. Nhưng đã bước vào nhà rồi, căn nhà này sang trọng quá, tôi thấy ngần ngại, nên lại thôi.

    Ngoài kia, người ta đi bộ rất nhiều trên đường. Không khí Giáng sinh đã tràn ngập khắp các ngả. Bài hát Nô en vang lên: “Jingle bell, Jingle bell...”. Một đứa trẻ nghịch ngợm, nhấn chuông rồi bỏ chạy...

    Nguồn VNThuQuan
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/12/13
  20. lichan

    lichan Lớp 12

    CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT VÁN CỜ

    Con Hậu bực bội nói với con Vua: "Này, tại sao tôi là người có quyền lực cao nhất ở đây, nhưng lũ quan lính kia lại cứ lăng xăng bảo vệ ông mà không thèm bảo vệ tôi thế hở?"

    ***

    Vua trả lời: "Trời ạ, khổ bà quá, bà vừa phải thôi, thì bà cũng thấy rồi đó, bà là người có quyền lực nhất ở đây chứ có phải tôi đâu? Bà gần như muốn đi đâu thì đi, trong khi tôi mỗi lần chỉ được nhích có một bước. Mà đường đường mang danh nhà vua, không có quyền lực thì ít nhất cũng phải được bảo vệ chứ! Mất tôi rồi thì coi như rắn mất đầu, trò chơi kết thúc mà!".
    Nghe thấy Vua và Hoàng hậu nói chuyện thế, con xe cũng quay sang con tượng: "Ờ, mà phải rồi, nghe hoàng hậu nói thế, tui cũng nghĩ sao tui với ông không hơn nhau cấp bậc là mấy, mà sao ông được đi đường xéo, còn tui chỉ được đi đường thẳng vậy? Thật không công bằng, tui khoái đi đường xéo hơn!".

    Tượng nhếch mắt: "Cũng không công bằng cho tui vậy! Tui thì cũng chỉ đi đường xéo được thôi, có đi được đường thẳng đâu, hay ho gì? Ông cứ làm như tui đi được như Hoàng Hậu không bằng!".

    Tới Mã khịt mũi: "Tụi bay thôi đi. Tụi bay được đi đàng hoàng vậy là sướng lắm rồi. Như tao lúc nào cũng phải canh đúng chữ L mà đi. Mệt thấy mồ, sao không tội nghiệp tao?".

    Xe và tượng cùng nhau lườm bọn Mã: "Mày là cái đứa duy nhất được nhảy qua đầu người ta, kể cả tụi tao, còn đòi gì nữa! Đúng là không biết điều!"

    Một con Tốt chịu hết nổi lên tiếng: "Mấy chú bác im đi cho các con nhờ. Bọn tui mới là những đứa thiệt thòi nhất đây nè! Đi thì cũng chỉ đi được có một hai bước về phía trước, đã vậy nhưng còn chả được ăn cái đứa đứng ngay trước mặt mình! Tức chết được! Mấy người thì cứ thay nhau mà được ăn quân địch, còn bọn tui thì cứ thay nhau bị đem ra làm vật hy sinh cho quân địch ăn. Đúng là thật không công bằng cho tụi này tí nào!"

    Mấy con Tốt kia nghe vậy đều đồng tình: "Phải đó, phải đó!". Bọn kia bắt đầu cãi lại: "Tụi này cũng bị hy sinh vậy! Mà mấy con Tốt của tụi bay là đông nhất rồi còn gì nữa! Đông nhất mà giá trị thấp nhất thì bị đem ra hy sinh trước là phải rồi!" Thế là cả đám quân cờ nhốn nháo, cãi vã lộn xộn cả lên.

    Cái bàn cờ nãy giờ nhẫn nhịn lắng nghe bọn quân cờ cãi nhau trên... mặt của mình, bây giờ ngáp một cái chán chường, rồi thở dài lên tiếng:

    - Đúng là một lũ ngốc nghếch! Mỗi đứa tụi bây đều có một đặc tính riêng. Không ai trong tụi bây hoàn hảo hết, nhưng nếu chỉ cần thiếu một đứa thôi thì cái bàn cờ này sẽ không hoàn thiện! Tụi bây sinh ra là để đi những bước riêng của mình, để biết tận dụng thế mạnh của mình trong mỗi ván cờ, chứ không phải để ghen tỵ với cái lợi của người khác mà không thấy được cái tốt của chính mình.

    Trong ván cờ nào cũng sẽ có những sự hy sinh, và những sự hy sinh ấy đều có mục đích. Vấn đề là sự hy sinh ấy được quyết định bởi một tay biết chơi cờ hay một tay không biết chơi cờ, và cái mục đích của nó có đáng hay không thôi. Nếu nó đáng, thì đằng sau một sự hy sinh là một mất mát và một thành quả, còn nếu nó không đáng thì sau sự hy sinh đó chỉ là một mất mát.

    Một tay cờ giỏi thì biết cái gì đáng giá để giữ lại và cái gì đáng phải hy sinh để đạt được một cái khác đáng hơn. Một tay cờ tồi thì đánh mất những quân cờ giá trị của mình mà không hề hay biết, bởi quá bận rộn nhắm đuổi con Vua của đối phương. Mất và được, đó là quy luật của trò chơi. Nhưng mỗi tụi bây đều là một phần của một bàn cờ hoàn chỉnh, và những bước đi của tụi bây đều là một phần của những ván cờ thú vị. Đó là sự hoàn hảo của cái không hoàn hảo.

    Bàn Cờ vừa nói xong, bỗng nhiên cả đám nghe Vua gằn giọng, với bộ mặt... của một người mới ngủ dậy: "Cãi xong chưa? Tụi nó chiếu tướng tao rồi kìa! Sướng nhá!"...

    Trích Truyện Ngắn - Alex Chu.
     
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này