Như Lai có phải là Phật Tổ Như Lai?

Thảo luận trong 'Tủ sách Tôn giáo' bắt đầu bởi alonekiller, 13/8/16.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
Moderators: mopie
  1. V-C

    V-C Lớp 4

    Ví như Đạo Thiên Chúa, họ chỉ có ”Đảng" duy nhất, nhưng lại tham gia vào các đảng phái khác.
     
  2. Derby

    Derby Lớp 7

    ???
    Đây là do những người đã chọn con đường tu hành mà vẫn không thể dứt bỏ lòng tham, sân, si. Họ lợi dụng đạo cho mục đính riêng và bị lợi dụng lại giống như ta đã thấy ở VN từ những năm 1960s. Những người cạo trọc đầu, khoác áo tu hành đó không phải là đạo hay đại diện cho đạo Phật, dù họ có tự xưng hay được phong chức gì đi nữa. Thiên Chúa giáo, vào những thời điểm khác nhau của lịch sử, cũng từng bị con người lợi dụng cho những mục đích xấu xa. Tóm lại, sự xấu xa mà chúng ta đã và đang chứng kiến không thuộc về đạo, mà là sản phẩm của con người.
    ???
     
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Lược Giải Tranh Chăn Trâu Thiền Tông


    Theo ngôn ngữ thiền thì công việc quán sát từng động niệm của tâm để tu tâm gọi là “chăn trâu”. Mã Tổ hỏi Thạch Củng: “Chú làm gì đây?”. Đáp: “Chăn trâu”. Lại hỏi: “Chăn như thế nào?”. Đáp: “Mỗi khi nó chạy ra vào đồng cỏ, thì xỏ mũi kéo lui lại”.

    Do chủ trương nầy, chư thiền sư đã diễn tả quá trình tu tập bằng những bức tranh chăn trâu, mà người hành giả có thể nương vào đó để thâm nhập đạo mầu. Tranh chăn trâu có nhiều loại, loại sáu bức cổ nhất đã thất truyền, loại được truyền tụng nhiều nhất là 10 bức tranh chăn trâu kèm theo thi kệ dẫn giải của thiền sư Quách Am. Để có một nhận định về quá trình tu tâm, xin quý vị tự chiêm ngưỡng tranh, tụng kệ hướng dẫn và suy gẫm. Các bài kệ dẫn giải, trừ bài 3 và 4, đều trích dẫn từ bản dịch của hòa thượng Quảng Độ. Ngoài ra, tác giả mạo muội đóng góp phần lý giải ngắn gọn bằng sự hiểu biết thô thiển của mình, tác giả rất mong được những bậc cao nhân chỉ giáo, những điểm lầm lạc.


    * Tranh 1: Tìm trâu (tầm ngưu):


    [​IMG]

    Kệ: Nước biếc non xanh nhuộm một mầu

    Um tùm lối cỏ biết tìm đâu?

    Hơi tàn chân mỏi, hồn hiu quạnh

    Chiều xuống ve kêu gợi nỗi sầu.

    Lý giải:

    Hành giả biết tu là điều phục tâm, nhưng tâm là cái gì? trốn ở đâu? làm sao ta tìm ra được để điều phục? Hắn nhọc lòng tìm tâm trong cuộc đời, trong chùa chiền, trong rừng kinh điển, nhưng tâm là thứ không có ngữ ngôn nào mô tả nỗi, nên càng tìm kiếm bên ngoài, hắn càng phân vân chẳng biết đâu là đầu mối!


    * Tranh 2: Thấy dấu chân trâu (kiến tích):


    [​IMG]

    Kệ: Ven suối bìa rừng in dấu chân

    Hỏi tin hoa lá đứng tần ngần

    Trời xa, ráng nhạt mờ sương khói

    Núi thẩm rừng sâu một chiếc thân

    Lý giải:

    Nhờ kinh điển, thầy bạn hướng dẫn, hắn bắt đầu hiểu là phải tự tìm kiếm tâm ở bên trong. Tranh vẽ hành giả hăng hái tìm trâu một mình không còn cảnh bên ngoài. Vọng tâm (tức con trâu) vô hình khó thấy bóng dáng, nhưng nhờ biết quan sát hắn bắt đầu khám phá được những dấu vết mà con trâu tâm còn để lại trong cuộc đời. Tâm tham, tâm sân, tâm thương ghét... biến dạng, nhưng dấu vết tai hại, những đổ vở chua xót do nó gây ra vẫn còn lưu lại đâu đó. Đầu mối của con trâu tâm đây rồi, sự nghiệp chăn trâu cũng bắt đầu từ đây.


    * Tranh 3: Thấy trâu (kiến ngưu):


    [​IMG]

    Kệ: Trên cành ríu rít tiếng vàng anh

    Liễu xanh nắng ấm gió mong manh

    Bóng trâu thoáng thấy đâu dễ trốn

    Đầu sừng rối rắm vẽ không thành.

    (tác giả phỏng dịch)

    Lý giải:

    Đến đây, người hành giả, nhờ tiếp tục quan sát mình đã thấy được phần nào bóng dáng của vọng tâm, hắn có thể chợt thấy tâm sân, tham... của mình còn chất chứa trong lòng, nhưng khi tâm tham, tâm sân đó khởi đầu xuất hiện thì hắn chưa đủ khả năng khám phá. Tranh vẽ trâu chỉ mới thấy phần đuôi, còn phần đầu và sừng theo kệ của thiền sư Quách Am rắc rối quá nên vẽ không thành.


    * Tranh 4: Được trâu (đắc ngưu):


    [​IMG]

    Kệ: Trăm đường mới chộp được mi

    Cứng đầu hăng tiết chưa qui thuận nào

    Thoảng khi lỡ bước đồi cao

    Mãi mê mây nỗi dạt dào buông lung

    (phỏng theo Tuệ Sỹ)

    Lý giải:

    Trâu bao giờ cũng vậy, chẳng hề trốn đi đâu, chỉ vì ta không biết quán sát, nên tưởng là mất trâu và phải đi tìm. Trâu đã hiện nguyên hình nhưng vẫn còn quen thói hoang đàng ngang bướng, do đó, phải dùng giây xỏ ngàm, canh giữ nghiêm nhặt và dùng roi vọt trừng trị, thì mới tránh việc sơ sẩy, trâu vuột giây vàm gây tai họa. Hành giả đã quán thấy niệm khởi thì phải cố gắng cột “trâu tâm” một chỗ (giây vàm) không để tâm lăng xăng loạn động, việc làm nầy phải được hỗ trợ bằng giới (roi), và sự chuyên cần tinh tấn (tay cầm giây vàm, mắt đăm đăm nhìn)... Giai đoạn xỏ mũi trâu và dạy dỗ trâu tuy chỉ mô tả bằng một bước tranh nhưng những kẻ tu hành mấy mươi năm, mấy ai giữ tâm đứng yên một chỗ, trong khi đó, chỉ một phút lơ là, thì vọng tâm đã vùng lên lăng xăng sinh khởi như cũ. Nội dung kệ “đắc ngưu” câu 3 và 4, thiền sư Quách Am đã nhắc nhở chúng ta điều đó.


    * Tranh 5: Chăn trâu (mục ngưu):


    [​IMG]

    Kệ: Sợ quen đường cũ lại đi hoang

    Từng phút, từng giây phải buộc ràng

    Đến một ngày kia nên thuần thục

    Tha hồ trời rộng bước thênh thang.

    Lý giải:

    Tuy vẫn cần dẫn dắc, giây vàm và roi cầm tay, nhưng trâu tương đối đã thuần, đầu không còn nhìn ngược xuôi toan tính chuyện buông lung phá hại ruộng lúa của người.

    Sở ngộ của thiền sư Đại An núi Qui có lẽ tương ứng với giai đoạn cuối cùng của bức tranh nầy. Thiền sư tuyên bố: “Sở dĩ Đại An nầy ở tại núi Qui 30 năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui, mà không học thiền núi Qui, vìø chỉ làm công việc coi chừng trâu mà thôi. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ bèn lôi nó lại, nó ăn lúa mạ của người liền đánh đập nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi”. Ở đây, trâu tâm đã thuần, đứng yên, nhưng chưa mềm mỏng để ung dung cỡi về nhà...


    * Tranh 6: Cỡi trâu về nhà (kỵ ngưu quy gia):


    [​IMG]

    Kệ: Cỡi trâu lững thững trở về nhà

    Tiếng địch chiều thu tiển ráng xa

    Bát ngát bốn bề hương trầm tỏa

    Tri âm nào biết cõi lòng ta.

    Lý giải:

    Trâu hoàn toàn thuần phục thì giây vàm và roi không còn cần thiết, mục đồng thông thả ngồi trên lưng trâu thổi khúc sáo đồng, an vui trở về nhà. Khi vọng tâm đã được điều phục thì công phu và giới luật cũng không cần thiết nữa, chư thiền sư có thể phát ra ngôn ngữ và hành động lạ lùng, tưởng như ra ngoài giới luật, mà thật ra tâm họ vẫn an nhiên không vọng động. Cỡi trâu về nhà nghĩa là trở về với chính mình, không còn nương vào ngoại cảnh để điều phục tâm nữa, nên tranh vẽ chỉ có người và trâu, không cảnh vật. Trở lại tranh số 5 mục ngưu, ta thấy có vẽ ngoại cảnh vì trong giai đoạn chế phục tâm nầy, hành giả cần phải nhập chúng và liên hệ với xã hội..., có chung đụng thì hành giả mới giảo nghiệm xem tâm mình có còn bị trần cảnh lung lạc không?


    * Tranh 7: Quên trâu còn người (vong ngưu tồn nhân):


    [​IMG]

    Kệ: Cỡi trâu giờ đã đến nhà rồi.

    Roi gác, trâu buông, ngủ thảnh thơi

    Rực rỡ vừng hồng còn dệt mộng

    Trong gian nhà cỏ, một mình thôi.

    Lý giải:

    Về nhà rồi, buông bỏ roi, giây vàm, buông bỏ trâu, người mục đồng thảnh thơi nằm ngủ. Do tâm khởi vọng nên mới thấy được tâm, một khi tâm không khởi vọng nữa thì bóng dáng tâm cũng biến mất. Nếu không khởi vọng mà bóng tâm vẫn còn, chỉ vì ta chấp tâm vọng là “có”ù chưa chịu buông bỏ nó. Trở về nhà tức quán chiếu tự tâm, để thấy vọng tâm không thật nên buông bỏ thì bóng trâu tâm đương nhiên mất dạng. Ta nên lưu ý là hành giả phải buông bỏ tâm ác và cả tâm thiện nữa, vì thiện vẫn là vọng chớ chưa là chơn. Tổ Nam Tuyền đi thăm trang trại dưới núi thấy trang chủ đã sẵn sàng chuẩn bị để đón rước, hỏi lý do thì trang chủ thưa: “Hôm qua có thổ địa mách nên biết hôm nay Hòa thượng đến”. Tổ Nam Tuyền than: “Thầy già họ Vương nầy tu hành vô lực bị quỷ thần thấy tâm”. Thiền sư Đạo Ưng ở Nam Phong được thiên thần cúng dường, nhưng lại bị tổ Động Sơn khiển trách là vẫn chưa được kiến giải. Buổi chiều Đạo Ưng đến tham vấn thì Động Sơn gọi: “Ưng am chủ”. Đáp “Dạ”. Động Sơn bảo: “Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác là gì?”. Đạo Ưng trở về am ngồi lặng lẽ, Thiên thần tìm mãi không thấy, trải ba ngày như thế mới thôi cúng dường. Lắm khi con trâu tâm tưởng đã biến mất hẳn rồi, nhưng khi đối cảnh, nhất thời cũng hiện trở ra. Xin đơn cử trường hợp Ngài Động Sơn Lương Giới như sau: Một hôm tổ thấy cơm gạo bị rơi rớt tại nhà bếp, nên cất tiếng rầy dạy đệ tử “Của đàn na thí chủ không nên hủy hoại”. Ngài vừa dứt lời, bỗng có vị thần hiện ra, quỳ trước mặt. Ngài hỏi “Oâng là ai”. Thần thưa “Con là thần Thổ địa, trong ba mươi năm nay con chỉ nghe tiếng nói của Ngài, nay nhờ Ngài rầy đệ tử mới thấy được Ngài, nên vội xin yết kiến”. (Trong 30 năm, tâm tổ lặng lẽ an nhiên quỷ thần không thấy được Ngài, khi tổ động tâm rầy đệ tử hủy hoại của tín thí, quỷ thần mới thấy được)

    Tranh nầy có lẽ phản ảnh đúng theo sở đắc và tâm trạng của Thần Quang khi Ngài thỉnh cầu Đạt Ma tổ sư dạy “phép an tâm”: Đạt Ma bảo “Đưa tâm đây ta an cho”, Thần Quang ngần ngừ rồi đáp “Con kiếm mãi chẳng thấy tâm đâu”. Tổ dạy “Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó”. Thần Quang liền ngộ đạo. (Thần Quang dày công tu tập không tạo nghiệp, không khởi tâm thiện ác... nhưng bóng vọng tâm vẫn còn lảng vảng chỉ vì chưa buông bỏ, và do đó tâm không an. Khi được Đạt Ma hỏi, sư sực tỉnh nên quán sát kỹ, buông bỏ, bóng dáng vọng tâm biến mất và được an tâm).


    * Tranh thứ 8: Người trâu đều quên (nhân ngưu câu vong):


    [​IMG]

    Kệ: Trâu, người, nhà, cỏ thảy đều không?

    Lồng lộng trời xanh tin chẳng thông

    Sợi tuyết trên lò đang rực lửa

    Đến được đấy rồi hợp tổ tông.

    Lý giải:

    Vọng tâm biến dạng thì chân tâm hiển bày. Đây là chỗ mà chư tổ chứng ngộ, “kiến tánh” thấy rõ bản lai diện mục vô thủy vô chung,”bổn lai vô nhất vật”, là lãnh vực vô ngôn, không thể nghĩ bàn, không mô tả được... nên chỉ tạm tượng trưng bằng một vòng tròn.

    Tranh nầy có lẽ phản ảnh đúng theo sở ngộ của Ngài Huệ Năng. Khi vừa nghe ngũ tổ giảng đến câu kinh Kim Cang “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền bạch với thầy mình: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lai động! Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp”.

    Cũng chỉ nằm trong phạm vi bức tranh nầy thôi, nhưng chỗ sở đắc của chư thiền sư có mức độ nông sâu rất rõ rệt. Thí dụ điển hình là câu chuyện trình sở đắc của môn đồ Ngài Đạt Ma:

    - Ni Tổng Trì đã thấy tự tánh một lần, rồi không thấy nữa, nên có thể hiểu là mới đến ngưỡng cửa chớ chưa thật sự bước vào.

    - Ngài Đạo Dục thực sự bước vào thấy được phần chân không nhưng chưa thực sự tiếp xúc diệu hữu, nên cái thấy vẫn còn giới hạn ở chỗ “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có...”

    - Riêng Ngài Huệ Khả đã đạt đến chỗ cùng tột không thể nghĩ bàn nên mới lặng lẽ lễ tổ Đạt Ma, rồi đứng qua một bên để trình sở đắc của mình.

    Trong bộ tranh chăn trâu, tranh vẽ Vòng tròn thuở mới xuất hiện có tên là “Vòng tròn Viên Giác”, sau mới đổi lại là “Người trâu đều quên” cùng một lượt với sự xuất hiện của tranh 9 và 10. Xin xem phần bổ túc trong dấu ngoặc nếu thấy cần thiết.

    (Ghi chú sơ lược về sự xuất hiện tranh 9 và 10: Tranh chăn trâu cổ xưa nhất có 6 bức, rồi bổ túc thêm lần lần thành 10 bức do nhiều tu sĩ đại thừa khác tông phái sáng tác. Dù sáu hay mười thì bức tranh chót cũng vẽ một vòng tròn tượng trưng cho sự viên giác. Đến thế kỷ thứ 12, thiền sư Quốc Aán, giòng Lâm Tế cho rằng tranh chấm dứt với vòng tròn Viên Giác dễ khiến cho thiền sinh lầm lẫn dừng lại nửa đường, nên mới sáng tác thêm hai bức 9 và 10. Từ đó, tranh chăn trâu thiền tông mang một sắc thái riêng, so với tranh chăn trâu đại thừa.

    Vòng tròn Viên Giác của tranh xưa tượng trưng cho Pháp tánh, chân tâm diệu minh, là chân lý tuyệt đối không thể nghĩ bàn, là cứu cánh tột cùng chư Phật mà bậc toàn giác thể nhập. Thế nhưng, vì thiền tông chủ trương “thấy tánh thành Phật”, tôn sùng quá khích thông điệp “kiến tánh”, nên có một số thiền sinh đạt kiến tánh, dù chỉ trong nhất thời, cũng tự mãn là đã hoàn thành sự nghiệp tu tập, và đó là một sự lầm lẫn lớn, vì sau khi “ngộ” (kiến tánh) thì phải đến giai đoạn “sống thực” (nhập) với cái mình đã ngộ. Đó là lý do thâm sâu mà Vòng tròn Viên Giác được cải sửa thành Vòng tròn “trâu người đều quên”, kèm theo hai tranh 9 và 10).


    * Tranh 9: Về nguồn (phản bản hoàn nguyên):


    [​IMG]

    Kệ: Tìm lối quay về những uổng công

    Nào biết xưa nay lý vốn không

    Trước mắt bao la nhưng chẳng thấy

    Hoa cười tươi thắm, nước mênh mông.

    Lý giải:

    Kiến tánh nghĩa là thấy rõ chân tâm từ vô thủy đến nay vốn thanh tịnh, hồn nhiên rổng lặng, không sanh không diệt, rằng Phật, ta và pháp giới chúng sanh, hữu tình và vô tình đồng một thể (tình dữ vô tình đồng viên chủng trí). Cổ đức thường mượn “hoa vàng trúc biết” để chỉ cho chân tâm diệu minh, nhưng đúng ra thì vạn vật muôn loài dù nhỏ nhoi ti tiện như côn trùng, như hòn sỏi, hạt bụi... tất cả cũng đều là ảnh tượng của chân tâm cả. Cho nên “về nguồn” (tranh 9) là về với thiên nhiên trời đất, “thỏng tay vào chợ” (tranh 10) là về với chúng sanh, cả hai đồng mang ý nghĩa là hội nhập với chân tâm, với chính mình.

    Tóm lại, Về nguồn nghĩa là hội nhập hài hòa với trật tự thiên nhiên, “vào rừng không khua lá, vào nước không quậy sóng (nhập lâm bất động thảo, nhập thủy bất lập ba)”, tiếp xúc vạn vật bình thường mà cũng rất trang trọng. Hành giả cũng thấy “núi chỉ là núi, nước chỉ là nước”, nhưng vạn vật ở đây sinh động sáng ngời vì tất cả đều ảnh hiện từ chân tâm diệu minh.

    Đây có lẽ chính điều mà Tổ Thanh Nguyên Duy Tín mô tả: “Sãi tôi, ba mươi năm trước, khi chưa học thiền, thấy núi là núi, thấy nước là nước; sau nhân theo bậc thiện tri thức chỉ cho chỗ vào, thấy núi chẳng là núi, thấy nước chẳng là nước. Rồi nay sau khi thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh y nhiên, thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.

    (Có vị cho rằng tranh Về nguồn có nghĩa là nhập pháp giới, nhưng thiết nghĩ nhập pháp giới là cảnh giới của chư Đại Bồ Tát; trong phạm vi 10 bức tranh chăn trâu hành giả vẫn tiếp tục điều phục tâm nên chưa thong dong tự tại đến mức đó)


    * Tranh 10: Thõng tay vào chợ (nhập thị):


    [​IMG]

    Kệ: Mình trần lem luốc cười ha ha

    Ngất ngưởng rong chơi chốn chợ xa

    Phép lạ thần thông không màng tới

    Cây cỗi, cành khô khiến trổ hoa.

    Lý giải:

    Thõng tay vào chợ nghĩa là hội nhập với thế tục, vào chỗ bụi trần mà không nhiễm ô, tự tại nhưng lại rất bình thường mà hòa hợp với kẻ thế tục: thân mật “đánh bạn với bạn hàng thịt, với bọn trộm cắp, đĩ điếm”, họ và mình không khác, họ “đều là Phật kia mà”. Ơ Ûđây người hành giả, tùy duyên tùy hoàn cảnh mà hội nhập vào giòng đời để hóa độ người, vừa có cơ hội điều phục những vọng niệm vi tế còn sót lại: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp. Nhậm vận trứớc xiêm y” (Tổ Lâm Tế).

    Hành hoạt của nhị tổ Huệ Khả sau khi đắc pháp là thí dụ điển hình. Nhị tổ ẩn hình dười dáng người hạ lưu cùng khổ, đánh bạn với bọn đầu đường xó chợ một cách hồn nhiên vui vẻ. Có vị tu sĩ trách:”Oâng là đạo nhân sao như thế được”. Tổ đáp: “Ta tự điều tâm ta, có gì dính líu đến ông mà hỏi?”. Về sau, tổ bị vu cáo, bị tù tội và chết trong ngục tù, nhưng lúc nào tổ cũng ung dung hội nhập vào cuộc đời, coi ngục tù là đạo tràng để độ người và cũng để tiêu trừ nghiệp cũ của mình.


    Tóm lược:

    Quá trình tu tâm phát họa bởi 10 tranh chăn trâu có thể phân thành 3 giai đọan:

    - Giai đoạn hướng ngoại “khiến Phật đi tìm Phật, dùng tâm để biết tâm” (tổ Hy Vận): thấy dấu vết của tâm, thấy lỗi thấy nghiệp của mình, và dùng “giới” để điều phục tâm (tranh 1 đến 5).

    - Giai đoạn hướng nội “đem tâm trở về với tâm” (tranh 6 và 7: cỡi trâu về nhà, quên trâu còn người) hầu đạt đến cứu cánh là sự kiến tánh, tức thấy “tâm chính là vô tâm” (người trâu đều quên, tranh 8).

    - Giai đoạn hướng ngoại hội nhập với thiên nhiên (tranh 9) và thế tục (tranh 10) bằng “tâm bình thường” để thực sự sống với cái “tâm không tâm”.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
  4. V-C

    V-C Lớp 4

    À! Cuốn nói về Chăn Trâu nhà VC có và bản thân cũng có đọc qua! Đợi tí, vừa lúc đang ở nhà.
     
  5. V-C

    V-C Lớp 4

    IMG_-1.jpg
    Đây, bươi mãi mới ra.
    Tác giả Nghiêm Thức
    Xuất bản năm 1999, 228 trang gồm cả chữ Hán và một đống hình minh họa.
    Đọc mới thấy nhiều tranh tác giả nói hơi quá!
     
  6. V-C

    V-C Lớp 4

    IMG_2016.jpg
    Tìm thấy cuốn này:
    Tác giả: Jonathan Landaw
    Thích Chân Tính dịch, 170 trang, xuất bản 2013.
    Vác lên xe đọc, xem các bác chém gió có đúng không.
     
  7. V-C

    V-C Lớp 4

    ”Đảng" của Thiên Chúa Giáo là Chúa, nhưng tham gia các đảng phái chính trị để tranh giành “đất" thì vô số.
     
    Depressed thích bài này.
  8. Depressed

    Depressed Lớp 6

    Phật vừa sinh ra đã tự bước về 4 phía Đông Tây Nam Bắc, mỗi bước đều có sen vàng hiện ra, miệng hát: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Theo như bây giờ thì mới sinh ra đã biết đi biết hát thì là quái thai hay siêu nhân?3cat113 Duy ngã độc tôn - Duy nhất chỉ có ta tôn quý, chỉ có duy nhất ta được tôn trọng? Phật là cao quý ai cũng phải tôn trọng, ai không tôn trọng thì phải xuống địa ngục???? Vậy từ bi hỷ xả là gì vậy? 3cat113
     
  9. Lười Đọc Sách

    Lười Đọc Sách Thích Nhuận Trí Thành viên BQT

    Hỏi chút bạn đọc được ở đâu mà Phật sinh ra đã tự bước đi và có sen vàng hiện ra vậy :D :D
    Còn chuyện "ai không tôn trọng Phật thì phải xuống địa ngục", thì không rõ nghĩa lắm về chữ "tôn trọng", nên không đánh giá được câu đấy đúng hay sai :D
     
    Heoconmtv thích bài này.
  10. Depressed

    Depressed Lớp 6

    Vậy bạn không biết đức phật ra đời ra sao sao? Nếu câu nói duy ngã độc tôn bạn cũng không biết thì sao cần phải tranh luận về phật nữa?3cat113
     
  11. Lười Đọc Sách

    Lười Đọc Sách Thích Nhuận Trí Thành viên BQT

    Mình vốn ít đọc, kiến thức cũng hạn hẹp nên mới hỏi bạn cho tường tận :D
    Còn "tranh luận" về Phật thì mình đây không dám :D
    Theo vốn kiến thức hạn hẹp của mình thì đức Phật sinh ra rất bình thường. Có chăng những hiện tượng tự nhiên trước khi ngài sinh thì mới kỳ lạ.
    Còn mình không có đọc được ở những chỗ nào đáng tin cậy cho rằng đức Phật sinh ra đã biết đi và biết nói :D Khi Ngài vừa chào đời thì Vua cha bồng bế Ngài và cho mời các vị pháp sư Bà-la-môn đến để xem tướng cho thái tử. Lúc ấy các vị Bà-la-môn ai nấy cũng thốt lên rằng ở thái tử có quá nhiều tướng tốt. Và vị pháp sư cao tay ấn nhất xứ sở lúc này đã tiên đoán: Nếu người này sau này thành Vua thì là Vua của cả thế gian, còn nếu không thành Vua thì cũng thành một bậc bá chủ không ai sánh bằng. (Mình chỉ nhớ theo ý của mình, không phải nguyên văn như vậy).
    ---
    Mình chỉ biết có vậy thôi, kiến thức của mình rất kém cho nên không dám bình luận gì thêm cả. Có điều gì mong bạn chỉ điểm thêm để được mở mang tầm mắt. Cảm ơn bạn nhiều.
     
    Despot thích bài này.
  12. Depressed

    Depressed Lớp 6

    Đức phật được sinh ra từ sườn phải hoàng hậu Maya, lúc sinh ra xuất hiện di tượng chứ không phải sinh ra như một người bình thường nhé bạn. Nhà tiên tri Asitarsi dự đoán: Nếu thái tử làm vua kế thừa ngai vàng, chắc chắn không cần đánh cũng có thể khuất phục kẻ thù, là một Chakravartin lấy đức phục dân; nếu như xuất gia tu hành, chắc chắn có thể tự nhiên giác ngộ, thành phật, phổ độ chúng sinh.
     
    Lười Đọc Sách thích bài này.
  13. Lười Đọc Sách

    Lười Đọc Sách Thích Nhuận Trí Thành viên BQT

    Cảm ơn bạn đã chia sẻ thêm cho mình kiến thức mới :D
     
  14. alonekiller

    alonekiller Lớp 7

    Câu chuyện mà Depressed nói có 1 phần sự thật. Nhưng chưa hoàn toàn đúng. Mình gửi mọi người các lý giải của câu chuyện:

    Đức Phật sinh ra từ hông bên phải "thực chất hay huyền thoại"?

    Có nhiều người (kể cả tăng sĩ Phật giáo) cho rằng chuyện Đức Phật sinh ra từ hông bên phải của Hoàng Hậu Maha Maya là chuyện hoang đường, dị đoan.
    Bài viết này cố gắng dựa vào kinh điển Phật giáo và tài liệu lịch sử để tìm hiểu những gì đã xảy ra khi Hoàng hậu Maha Maya sinh Thái tử Tất Đạt Đa dưới cái nhìn y học hiện đại.
    Kinh điển Phật giáo nói về sự ra đời của Đức Phật kể lại hai chi tiết quan trọng là Hoàng hậu Maha Maya mang thai đến 10 tháng âm lịch mới sinh ra Thái tử Tất Đạt Đa và sau khi sinh Thái tử bảy ngày thì Hoàng hậu qua đời. Người ta nhớ chi tiết thứ hai nhưng thường bỏ qua chi tiết thứ nhất, mà đó là một chi tiết then chốt trong việc tìm hiểu thực chất sự ra đời của Đức Phật.
    Theo Wikipedia , một tháng âm lịch luân phiên là 29 và 30 ngày, tương ứng với tháng thiếu và tháng đủ. Tính ra, một tháng âm Lịch trung bình có 29,5388 ngày. Như vậy, 10 tháng âm lịch là khoảng hơn 295 ngày, hay hơn 42 tuần.
    Trong y khoa, thời gian mang thai trung bình là 40 tuần. Một thai nhi sinh ra trước tuần thứ 38 của thai kỳ (tức 2 tuần sớm hơn thời gian trung bình) gọi là sinh non (prematurity) và một thai kỳ kéo dài 42 tuần (tức 2 tuần chậm hơn thời gian trung bình) gọi là thai kỳ quá ngày (postterm pregnancy) hay sinh muộn (postmaturity).
    Sự phát triển trong thời kỳ bào thai rất nhanh, cho nên trong thời gian hai tuần kéo dài hơn trung bình này, [ngoại trừ những trường hợp bệnh lý (pathologic postterm pregnancy)] bào thai sẽ lớn hơn bình thường khiến cho sản phụ khó có thể sinh con theo đường âm đạo bởi vì đầu của thai nhi quá lớn không thể chui ra khỏi khung chậu. Đó là tình trạng mà trong khoa sản gọi là bất tương xứng đầu-chậu (cephalopelvic disproportion). Biến chứng của tình trạng này nếu không kịp thời giải phẩu lấy thai là vỡ tử cung, đưa đến tử vong cả mẹ lẫn con.
    Thai kỳ kéo dài đến một lúc nào đó rồi cũng sẽ dẫn đến sự chuyển dạ, khi đó các bắp thịt tử cung sẽ co bóp rất mạnh để tống bào thai ra ngoài. Có lẽ lúc Hoàng hậu Maha Maya đến gần cây hoa vô ưu, Hoàng Hậu bắt đầu chuyển dạ. Trong tình huống đó, với trình độ của người thầy thuốc vào hạng giỏi nhất của triều đình, ngự y của hoàng hậu (chắc chắn thế nào cũng tháp tùng hoàng hậu trong chuyến đi này) hiểu rằng hoàng hậu không thể sống sót qua lần sinh đẻ này nên đã sáng suốt và dũng cảm quyết định rạch bụng của Hoàng Hậu để cứu Thái tử.
    (Theo Wikipedia, điều này đã từng được thực hiện tại La Mã. Theo phong tục có từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên ở La Mã, khi người phụ nữ có thai đến tháng thứ 10, người ta buộc lòng phải hy sinh người mẹ bằng cách mổ bụng sản phụ khi người này còn sống để cứu thai nhi. Phong tục này chứng tỏ lúc đó người ta hiểu rằng (với trình độ sản khoa thời bấy giờ, chưa có kỹ thuật mổ lấy thai, kềm (forceps), giác hút (ventouse) người đàn bà có thai kỳ kéo dài 10 tháng không thể nào sống sót sau khi sinh [ii].)
    Chính quyết định sáng suốt và dũng cảm của ngự y rạch bụng hoàng hậu khi hoàng hậu còn sống không những đã cứu sống Thái tử Tất Đạt Đa mà còn kéo dài cuộc sống của hoàng hậu thêm bảy ngày. Nếu không, việc vỡ tử cung nhất định không thể nào tránh khỏi và hậu quả của vỡ tử cung kèm xuất huyết nội khó lòng kéo dài sự sống của hoàng hậu đến bảy ngày.
    Đến đây chúng tôi thử tìm hiểu một chi tiết khác trong kinh điển Phật giáo nói về sự ra đời của Đức Phật: Đức Phật sinh ra từ hông bên phải của Hoàng Hậu Maha Maya.
    Về phương diện cơ thể học vùng bụng, ở phía sau có cột xương sống và nhiều lớp cơ rất chắc trong đó có Cơ Lưng Lớn (Le muscle grand dorsal - latin: musculus latissimus dorsi)
    Phía trước có các cơ Thẳng Lớn và một cấu trúc sợi chạy từ xương ức đến xương mu gọi là Đường Màu Trắng (Linea alba). Những cơ Thẳng Lớn và Đường Màu Trắng rất chắc (hình 1).
    [​IMG]
    Hình 1 (sơ đồ cắt ngang ở phía trước vùng bụng)
    Phía ngoài bờ ở hai bên Cơ Thẳng Lớn (chỗ hai mũi tên) tương ứng với vùng hông là những chỗ yếu trong vành đai của bụng. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng ngự y đã rạch bụng hoàng hậu Maha Maya ở vùng hông để lấy bào thai ra. Một đường rạch ở vùng này có lẽ ít gây tổn thương hơn đường rạch qua cơ thẳng lớn. Điểm đáng lưu ý rằng đây là cuộc giải phẩu cấp cứu, khác với cuộc giải phẩu lấy thai (césarienne – C-section) có sửa soạn như thường làm hiện nay.
    Bên phải hay bên trái cũng giống nhau, vậy kinh điển nói rằng bên phải thì ta hãy tin bên phải. Điều chủ yếu nhất khi viết bài này, tác giả muốn chứng minh rằng Thái tử Tất Đạt Đa được sinh ra không theo đường sinh dục mà từ bụng của hoàng hậu Maha Maya.
    Hy vọng rằng sự trình bày những diễn tiến này phù hợp với những gì kinh điển Phật giáo nói về sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa và chấm dứt mối hoài nghi cho rằng việc Thái tử Tất Đạt Đa sinh ra từ hông bên phải của Hoàng hậu Maha Maya chỉ là huyền thoại.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  15. V-C

    V-C Lớp 4

    Mọi bài viết hay sách nói về Phật Đản như thế nào đều là giả thiết cả, không có vật gì liên quan đến thời kỳ ấy để chứng minh, tất cả đều phỏng đoán dựa trên những chuyện truyền miệng. Mà việc truyền khẩu thì ai cũng biết rồi, cứ gọi là “ngàn hoa" chứ “ba hoa" chưa đủ.
    Cuốn VC đang đọc thì phật sinh ra bình thường như mọi người, còn các dị tượng linh tinh: Cầu vồng hiện, mây ngũ sắc, hương hoa thơm ngát... chẳng qua thêm vào cho sống động, chứ ai cũng biết là bốc phét rồi.
     
    Depressed thích bài này.
  16. alonekiller

    alonekiller Lớp 7

    Ủa?
    "Your thread Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link was moved to a different forum. Lý do: Vi phạm điều 1 phần quy định chung"

    Có vẻ chủ đề của tôi đã đi hơi quá xa và vi phạm quy định của Diễn đàn. Thành thật xin lỗi mọi người. Hi vọng sẽ có dịp trao đổi về chủ đề này ở một topic khác phù hợp hơn.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Có sự nhầm lẫn của 1 Mod. Thay mặt BQT xin lỗi bạn vì sự cố này. Các bạn cứ tiếp tục bàn luận trên tinh thần hòa nhã lịch sự là được.

    Cũng xin xóa post của bạn và câu trả lời này cho khỏi loãng topic. Sẽ thực hiện sau xác nhận của bạn bằng cách like post này cũng được.
     
  18. V-C

    V-C Lớp 4

    Có thấy đâu, mà đang theo sát chủ đề, cũng chả xung đột hay phỉ báng ai, vi phạm là thế nào?
     
  19. Depressed

    Depressed Lớp 6

    Lúc nãy thấy đóng rồi, giờ lại mở lại.
     
    4DHN thích bài này.
  20. Depressed

    Depressed Lớp 6

    Tam sao thất bản, nhiều người truyền miệng với nhau sau sẽ không còn đúng sự thật nữa.
     
Moderators: mopie
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này