Lịch sử - Dã sử Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương

Thảo luận trong 'Tủ sách Kiếm Hiệp - Dã sử' bắt đầu bởi ichono87, 9/4/14.

Moderators: thanhbt
  1. ichono87

    ichono87 Lớp 7

    NỮ TƯỚNG THỜI TRƯNG VƯƠNG

    Truyện dã sử

    – Nguyễn Khắc Xương –

    Nhà xuất bản Phụ Nữ

    Hà Nội – 1976


    LỜI NÓI ĐẦU


    Một sự kiện lịch sử thật kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam và lịch sử các dân tộc khác trên thế giới: Ngay từ đầu công nguyên, cả một dân tộc đã vùng dậy theo lời kêu gọi của hai người phụ nữ trẻ tuổi và đã tôn nhiều phụ nữ lên nắm quyền lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang toàn dân để giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Sự kiện đặc biệt trên đây chỉ xảy ra có một lần trong lịch sử thế giới.

    Các nhà nghiên cứu khoa học xã hội sẽ hào hứng và cố gắng tìm hiểu về thời đại thần kỳ đó, thời đại đã xuất hiện những nhà lãnh đạo quân sự, chính trị lỗi lạc là phụ nữ, và về một thế hệ phụ nữ anh hùng.

    Nhân dân ta luôn luôn quý mến và biết ơn các bậc anh hùng ghi nhớ và truyền kể mãi mãi đời này qua đời khác về sự cống hiến vĩ đại đó. Nhân dân ta luôn luôn học tập, noi gương và phát huy truyền thống anh hùng.

    Trưng nữ Vương, vị lãnh tụ kiệt xuất đã được sử sách đời đời ghi chép công ơn. Các tướng lĩnh tài ba tuy chưa được ghi chép trong chính sử, xong sự tích kỳ tài của các anh hùng liệt nữ đó đã được tạc trên bia đá, ghi vào thần phả và được nhân dân các vùng truyền tụng mãi mãi.

    Nhờ có công cuộc nghiên cứu về Hai Bà Trưng của ngành văn hóa tại Vĩnh Phú, công đức của các vị nữ tướng quân anh dũng đó đã được sưu tập lại. Dựa vào những tư liệu lịch sử và truyền thuyết dân gian, tác giả đã xây dựng thành những truyện dã sử về từng vị nữ tướng. Từ thời đại Hai Bà Trưng tới nay đã quá xa xưa, việc nghiên cứu mới chỉ làm bước đầu nên chưa có thật đầy đủ tài liệu về quá trình chiến đấu và cả về chức vụ của các vị nữ anh hùng như: Lê Chân, Thánh Thiên, Lê Thị Hoa,…

    Để góp phần phát huy truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam, chúng tôi xuất bản cuốn sách giới thiệu: hai mươi vị nữ tướng thời Trưng Vương. Rất mong các nhà nghiên cứu và các bạn đọc sẽ góp ý để chúng tôi sửa chữa, bổ sung cho những truyện trong sách này, cũng như những vấn đề về truyền thống phụ nữ Việt Nam sẽ tiếp tục xuất bản.

    NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ
     
    nmt and thanhbt like this.
  2. ichono87

    ichono87 Lớp 7

    Hiện tại mình mới đang wording lại cuốn sách này. Mong sẽ sớm hoàn thiện để đóng ebook - đặng mọi người có thêm tài liệu tìm hiểu về lịch sử hào hùng của cha ông :)
     
    nmt, sao truc, thanhbt and 4 others like this.
  3. ichono87

    ichono87 Lớp 7

    THÁNH THIÊN

    NỮ TƯỚNG ANH HÙNG


    Trong thanh vắng của đêm trăng suông vẳng lên tiếng vó ngựa đập mau trên mặt đường. Eo óc gà gáy rộn lên rồi tắt, nhưng tiếng vó ngựa không tắt mà lại càng rõ, càng vội, càng lúc càng gấp.

    Trên ngựa, một tên lính đô hộ cúi rạp mình, mặt sát vào bờm ngựa, tay cầm một thanh đao to bản và ngắn, sống dày có đường gờ nổi lên là kiểu đao thông dụng của quân lính đô hộ trong các huyện miền Hải Đông, quận Giao Chỉ.

    Chợt có tiếng mõ nổi lên cắt ngang tiếng vó ngựa. Mặt đường ngập trăng, lố nhố những người cầm giáo và gậy. Có tiếng quát. “Ai đó? Xuống ngựa!”

    Con ngựa chồm lên, hất tung hai vó trước lên trời rồi đập mạnh xuống mặt đất, dừng lại, mũi thở phì phì. Tên lính đô hộ dướn thẳng người trên mình ngựa cất cao giọng nói tiếng Việt rất sõi: “Cho ta đi, có hỏa bài của Sái huyện úy đây!”

    Nghe tới hỏa bài của huyện úy, đám người cầm giáo vây kín lấy tên lính đô hộ và tiếng lào xào nổi lên. Tên lính hỏi, giọng hách dịch: “Đây là đâu, các anh là tuần dũng làng nào?” Một người nói buông thõng: “Làng Kèo!” Tên lính Hán tỏ vẻ vui mừng: “Kèo rồi à? Được, được!”, bèn hất chiếc nón rộng vành xuống đất và nói: “Đây, anh em cả đây, được, hãy cho xin bát nước đã!” Mọi người đưa tên lính vào điếm. Ánh đuốc bật lên.

    Một lát sau, tiếng vó ngựa lại rộn vang trong đêm cuối thu trời se lạnh. Ba con ngựa như ba mũi tên lao đi, và một người trong bọn họ cất tiếng: “Không phải tới Sêu nữa! Tới ngã ba Cây đa chúng ta rẽ tay phải!”


    Nàng chủ ngồi im lặng, cặp mắt đen láy nghiêm nghị nhìn thẳng vào mắt người lính đô hộ, hay đúng hơn là người lính Việt ở huyện mặc bộ binh phụ Hán. Nàng chủ lại mỉm cười hiền hậu khi thấy người này không chịu nổi ánh mắt của mình vội cúi đầu xuống. Trầm ngâm một lúc, nàng quay lại nhẹ giọng nói với một nữ vệ quân đứng mé sau: “Em Nắp à, mời Nguyễn đầu mục tới!”

    Người lính huyện không khỏi ngạc nhiên khi thấy Nàng chủ vẫn thản nhiên như không trước một tin quan trọng và khẩn cấp như thế. Trước ánh sáng của những đĩa đèn dầu dọc, khuôn mặt Nàng chủ như vầng mặt trăng hiện ra trong một đêm trời quang đãng, với đôi mày đen nhánh, đôi mắt trầm tư và cặp môi mỏng màu hoa đào.

    Người lính có tuổi cúi đầu không dám nhìn lâu khuôn mặt đẹp đẽ ấy, khuôn mặt vừa hiền từ vừa nghiêm trang của người con gái mới 19 tuổi mà dân trong toàn huyện đều chỉ tôn xưng là Nàng chủ, chẳng ai dám gọi tới tên húy của nàng là Thánh Thiên.

    Người con gái ấy mồ côi cả bố lẫn mẹ. Từ năm 16 tuổi, Nàng đã cầm đầu dân chúng một vùng, bắt trói diêm quan từ huyện về đòi khám muối các nhà, và chống lại lệnh nộp vải quả, trâu và người làm cống phẩm gửi đi Tràng An. Vụ mùa năm ngoái, Sái Ngạc Hoa mang quân tiễu phạt Thánh Thiên, hai lần đánh đều vứt giáo quay về.

    Nguyễn đầu mục hỏi người lính huyện: “Bạc Nhạc à, quan quân từ Phủ đô úy về do tên nào cầm đầu?”

    - “Mã Giang Long, tên này vẫn tự xưng là Hổ Mắt Đỏ, vì tính tình hắn hung dữ mà hay rượu, mắt lúc nào cũng đỏ vằn lên. Trong số tám trăm quân hắn mang về, có đội thân quân chuyên dùng khiên da trâu và dao ngắn là lợi hại hơn cả.”

    Nàng chủ cất tiếng: “Mã Giang Long, ta vẫn có nghe nói tới hắn. Nhưng hữu dũng vô mưu, hắn cũng không đáng sợ lắm!” Người lính huyện gật đầu: “Đúng, Mã Giang Long tự cao, hống hách và cậy khỏe, nhưng hắn có một tên mưu sĩ mặt choắt như mặt dơi, rất thâm hiểm. Tôi chắc lần này chúng dùng kỳ binh đấy, ta chớ coi thường.”

    Bác Nhạc đứng dậy: “Tôi phải về. Xin Nàng chủ cẩn thận giữ gìn. Lần này không phải như hai lần trước đâu. Mã Giang Long sẽ cất quân ngay đêm mai và mở trận đánh trước lúc trời sáng.”


    Mã Giang Long chỉ huy tám trăm quân từ Phủ đô úy về, hợp với năm trăm quân của Sái Ngạc Hoa, chia quân làm ba đạo tiến đánh Thánh Thiên.

    Đạo thứ nhất do Sái Ngạc Hoa cầm đầu tiến thẳng đến làng Sếu là căn cứ của Thánh Thiên.

    Đạo thứ hai do Mã Giang Long chỉ huy năm trăm thân binh mở một mũi nhọn bất ngờ thọc vào mặt sau căn cứ.

    Đạo thứ ba do phó tướng Chu Bảo Ngọc sẽ đánh vào phía đông căn cứ, làng Trạm.

    Sau khi Sái Ngọc Hoa mở cuộc tập kích bất ngờ thì Mã Giang Long cho bắn tên buộc mồi lửa vào làng Sếu, rồi đưa thân binh tiến vào dùng đoản đao đánh giáp lá cà quét giết nghĩa quân và dân chúng trong cơn hoảng hốt.

    Mã Giang Long hạ lệnh bắt sống Thánh Thiên.

    Giặc định đánh bất ngờ nhưng quân ta lại biết trước.

    Phán đoán địch đánh đêm tất phải dùng nghi binh, Thánh Thiên bèn rút quân chủ lực về đóng ở Trạm và giao Nguyễn đầu mục cầm đầu một đội nghĩa quân phục ở cánh đồng phía Tây làng chờ khi lửa cháy ở Sếu thì bọc vào đánh Mã Giang Long.

    Việc cầm cự trong làng giao nữ đầu mục Ngọc Thuyền.

    Lại nói Mã Giang Long thấy tên lửa bắn vào làng Sếu đã gây những đám cháy lớn vội thúc quân tiến mau: trống trận nổi vang trợ oai cho quân Mã xông vào làng. Trong làng, tiếng tù và của nghĩa quân cũng cất lên inh ỏi. Mã Giang Long tiến sâu vào làng chỉ thấy tre đổ ngổn ngang, ngõ sâu hun hút, tên từ các ngách bắn ra mười phát trúng chín. Quân Mã chùn lại, đoản đao không gặp địch thủ. Mã đang lúng túng thì thấy Sái Ngọc Hoa hoảng hốt chạy tới nơi: “Chu Bảo Ngọc đã bị Thánh Thiên chém rụng đầu rồi. Quân ta đang bị vây khốn. Tướng quân hãy rút mau, nếu chần chừ sẽ bị nguy hại đấy!” Sái vừa dứt lời thì Mã đã thấy quân Nàng từ ngoài vào, từ trong các ngõ xông ra, quây kín quân Mã. Đội thân binh liều chết mở đường máu đưa Mã Giang Long ra khỏi trận.

    Trận đánh này, Thánh Thiên tuy không bắt được Mã Giang Long nhưng đánh bại quân của Phủ đô úy. Oai danh của Thánh Thiên trăm phần lừng lẫy, dân chúng các nơi đều phấn khởi, hào kiệt xứ Hải Đông tìm đến ứng nghĩa dưới cờ của Thánh Thiên.


    Quân Hán tiến đánh quân Nam nhiều trận, chặn các ngả đường, cướp phá thóc lúa, cấm chợ ngăn sông. Thánh Thiên một hôm họp với các đầu mục, nói rằng: “Ta xem vùng này là bình địa, bốn mặt thu địch, nếu ta đánh lâu tất có cái nguy bị diệt vong. Ý ta muốn tìm nơi hiểm địa lập căn cứ mới, các đầu mục nghĩ thế nào?” Bàn tán một hồi, mọi người nhất trí đi tìm địa bàn hoạt động mới, tạm rời quê hương. Bấy giờ có Lý đầu mục xin đưa Thánh Thiên về thăm đất ở huyện Bắc Đái (nay là tỉnh Hà Bắc) là vùng Lý đầu mục có nhiều họ hàng và người quen biết.

    Mùa thu, Thánh Thiên cùng Lý đầu mục và một số nghĩa quân thân tín đóng vai khai thương quang gánh lên đường, từ biển tìm đến rừng. Chẳng bao lâu, các hào kiệt đã tới vùng đất mới, chỉ thấy rừng tiếp rừng, đồi núi hoang vu, ngàn lau san sát, làng xóm thưa thớt rải rác từng chòm, nhà thì vách nứa, cột lim, lại có những xóm trâu buộc cột nhà, lợn thả dưới sàn. Khi đi đường thỉnh thoảng họ lại nghe có tiếng mõ lốc cốc. Lý đầu mục nói đó là mõ trâu. Không còn thấy nữa nhưng cánh đồng bát ngát, những bến sông tấp nập, những thôn làng trù phú với lũy tre bao quanh. Cảnh đẹp vẻ hoang sơ, mỗi bước chân đi quang cảnh lại một khác, không bằng phẳng đơn điệu như ở đồng bằng. Thánh Thiên lần đầu tới vùng đồi núi không khỏi bỡ ngỡ, nhưng nàng không chỉ ham mê cảnh lạ mà vẫn suy nghĩ tìm một nơi lập căn cứ có thể công thủ lâu dài.

    Một buổi chiều, Lý đầu mục đưa Thánh Thiên cùng các bạn chiến đấu vượt qua mấy quả đổi lâu lần bước theo một lối hẹp ven gò. Những bông lau màu tím bạc đọng ánh nắng chiều óng ánh lòa xòa che khuất lối chen với cỏ gianh cây dại. Mọi người phải lấy tay gạt, dao phát mới đi được. Bước lên một quả đồi hoang trọ chỉ nhìn thấy những tảng đá lớn nhỏ nằm ngồi ngổn ngang, mọi người có thể thu được cảnh vật khắp vùng vào trong tầm mắt. Lý đầu mục chỉ những ngôi nhà nhỏ ẩn hiện sau lớp cây rừng xa xa nói với Thánh Thiên: “Đó là Trại Cỏ, người anh em tôi ở đó. Cách Trại Cỏ một thôi đường là Trại Hái và gần đó là Trại Cây Lai. Ba trại này ở theo thế chân kiềng trong lòng rừng núi, gần dòng sông Nhật Đức. Trước kia, nơi đây chỉ có lợn rừng và cọp, sau rồi những người đói khổ, những kẻ tội đồ và các khách giang hồ lục lâm mới tìm đến lập trại. Địa thế vùng này vừa hiểm vừa kín, lại là đầu mối nhiều ngả đường xuôi ngược, dân ở đây thì ngang tàng, thích nói thẳng và tra sức mạnh.” Thánh Thiên đưa mắt ngắm xem địa thế, lại nghe Lý đầu mục chỉ dẫn, vừa ý gật đầu. Mọi người cùng nhau rảo bước về phía Trại Cỏ.

    Tới bên một khe nước lượn quanh co, Thánh Thiên thấy hai người con gái trạc tuổi mình đang bắt cá khe. Những con cá nhỏ vảy đen lượn đặc dưới chân những tảng đá rêu xanh. Một cô cầm cây gậy chọc vào các khe đá dồn cá xuống một cái vũng mà các cô đã lấy đã xếp chặn lại. Cô gái kia nhỏ tuổi hơn, cầm một thứ đồ đan bằng tre xúc lấy cá đổ vào một đống lá xếp trên bờ. Khi thấy những người lạ đi tới, hai cô ngừng tay chăm chú nhìn. Các cô đặc biệt ngắm nghía Thánh Thiên rồi vụt chạy về phía xóm. Chốc lát nghe có tiếng mõ gõ đổ hồi. Lý đầu mục mỉm cười: “Họ sắp tiếp đón chúng ta đó!”

    Thu qua đông tới, khu Ba Trại đã trở thành căn cứ của ngĩa quân Thánh Thiên. Mọi người đốt rừng làm nương, mùa xuân tra hạt, mùa hạ gặt lúa. Nhiều tràn ruộng dộc đã được cuốc và cấy lúa hai vụ. Thánh Thiên cho đi mua trâu về thả hàng đàn lại lại đón người về mở xưởng rèn nông cụ và khí giới. Tới khi gặt lúa thu thì quê hương mới của Thánh Thiên đã đông vui. Thánh Thiên tiếp tục mở rộng căn cứ, tích trữ lương thực, một giải núi dài Yên Dũng, huyện Bắc Đái đã trở nên thành lũy kiên cố của những người Việt bất khuất mài gươm rèn giáo chờ buổi diệt thù.

    Thánh Thiên có năm đầu mục, trong đó có một nữ đầu mục là Nguyễn Ngọc Thuyền, người cùng họ, hơn Thánh Thiên hai tuổi và bốn vị đầu mục Nguyễn, Lý, Trần, Lê đều đứng tuổi, đã có vợ con. Tối hôm đó các đầu mục được mời đến để tiếp khách ở đại trại. Xôi thơm phưng phức, thịt lợn rừng chấm muối, rượu nếp men lá, đèn đuốc sáng trưng, mọi người chuyện trò thân mật. Khách tự xưng họ tên là Đào Quang Thái, đầu mục của Trần Công. Sau khi nghĩa quân Yên Tử bị đánh thất tán, Đào Quang Thái bị giặc bắt giữ, tra tấn nhục hình rồi đưa vào đoàn phu đi khai mỏ An Bình. Đào Quang Thái xúi giục mọi người đánh giết quan quân áp giải rồi bỏ trốn. Được nghe mong manh Trần Công đang len lỏi ở vùng rừng núi Yên Dũng, Đào Quang Thái bèn tìm tới vùng này. Khách nói: “Tôi đã được nghe Trần chủ tướng nói về cháu gái là Thánh Thiên. Tôi không ngờ tới đây lại được gặp nữ hào kiệt.” Mọi người vui vẻ nâng chén rồi bàn cách tìm gặp Trần Công.

    Một tháng sau, hai cậu cháu Thánh Thiên gặp nhau trong một xóm nhỏ ở Ký Hợp. Cậu nói: “Ta không sợ thất bại, nhưng giặc kia đã đóng kín toàn cõi Giao Châu, đè đầu cưỡi cổ dân ta ngót hai trăm năm. “Trứng trọi với đá” khó lắm!” Thánh Thiên nói: “Ngày nay đâu phải chỉ có cậu cháu ta dám mưu việc lớn! Chốn chốn nhân dân bất bình, lời hờn căm nói ra miệng. Giặc càng vơ vét, càng hà hiếp, nhân dân càng căm phẫn. Bốn bề đang như nồi nước bắt đầu sôi. Không đứng dậy lúc này còn chờ lúc nào nữa!” Thánh Thiên và Đào Quang Thái ở lịa với Trần Công ba ngày bàn tính mọi việc.

    Sau đó, Thánh Thiên lại đến đất Ký Hợp bốn tháng cùng cậu xây dựng căn cứ tụ nghĩa, đưa Lý đầu mục đến giúp cậu. Đào Quang Thái cũng về với chủ tướng. Thánh Thiên bàn với cậu mộ dân lưu tán vỡ đất làm ruộng lấy lương và tổ chức nghĩa binh. Sau đó Thánh Thiên lại nói với cậu: “Muốn lật đổ nền đô hộ ngoại tộc, phải biết nhẫn nại, dưỡng uy xúc nhuệ chờ thời cơ thuận lợi. Nếu giặc Hán mạnh kéo đến ta chớ khinh địch, tạm lánh đi là hơn. Căn cứ của cậu cháu ta xa nhau, đường sá đi lại khó khăn, xin cậu cẩn thận giữ gìn, khi tán khi tụ, lúc này chưa nên bàn chuyện ra quân vội.” Ông cậu nhất nhất nghe lời. Hai cậu cháu và các vị đầu mục chuyện trò tới khi gà gáy sáng mới thôi.


    Giặc Hán hoảng hốt trước các cuộc nổi dậy của nhân dân càng thẳng tay đàn áp. Chúng càng đàn áp nhân dân càng bất bình. Phu khai mỏ, phu thuyền cống phẩm, phu xây dựng thành lũy dinh thự cho giặc càng ngày càng bỏ trốn nhiều. Đã xảy ra những vụ táo bạo, phu trói đánh cả quan lính đô hộ rồi bỏ đi cả đoàn.

    Thánh Thiên nhận định lúc này phất cờ khởi nghĩa sẽ thắng lợi. Thánh Thiên hội quân với Trần Công ở Ký Hợp. Ngày rằm tháng Ba, nghĩa quân tế cờ khởi nghĩa. Trần Công được tôn là Nam Thành Vương và Thánh Thiên được suy tôn là Thiên Nữ. Các vị đầu mục cả nam lẫn nữ đều phong là tướng quân.

    Ngày mười sáu, nghĩa quân tiến đánh trại lương của giặc ở núi Lạng Thái, giết một viên phó tướng và nhiều lính đô hộ, thu hai chục ngựa chiến và hai ngàn hộc thóc.

    Ngày mười bảy, nghĩa quân phục ở đường hẻm Đào Thâu, đánh giết quan quân áp giải, cứu thoát nhiều người bị địch bắt lao dịch, cướp được nhiều trâu mộng và gỗ quý.

    Ngày mười chính, nghĩa quân xuôi sông Nhật Đức đánh đồn Tháp Khẩu là đồn chứa lâm thổ sản của giặc, giành lại nhiều bè gỗ lim, táu và chò hoa cùng các kho móc, mây, nâu, khúc khắc, mật ông, lông trĩ và bảy bộ da cọp.

    Nam Thành Vương và Thiên Nữ đánh trận nào thắng trận ấy. Nhân dân các nơi mong mỏi nghĩa quân, tìm theo nghĩa quân, dắt trâu gánh gạo đến dâng nộp nghĩa quân.


    Trước những cuộc nổi dậy liên tiếp của nhân dân Âu Lạc, thêm nữa việc bắt tráng đinh, thợ khéo, nô tì và thu nộp cống phẩm của Giao Chỉ để đưa về Tràng đô, đều bị chậm trễ và thiếu hụt, vua Hán nổi giận triệu Thái thú Giao Chỉ về trị tội và cử tên Tô Định sang thay thế.

    Tô Định là một tên đại gian đại ác, lòng tham vô đáy. Hắn cho rằng tình hình Giao Chỉ sở dĩ rối loạn chính vì tên Thái thú cũ “mềm” quá, còn chưa hiểu nổi như hắn rằng cái giống “Nam man” (!) cõi Lĩnh ngoại này là phải trị thẳng tay, phải đàn áp bằng sắt và máu, phải vơ vét cho thật kiệt quệ. Hắn sang Giao Chỉ không có gì đổi mới trong chính sách mà càng đàn áp khốc liệt hơn và bóc lột tàn nhẫn hơn. Hắn bắt hàng vạn phu để xây thêm thành lũy, lập cung lầu tráng lệ, hắn mộ bọn cướp núi, tướng rừng ở hai quận Điền, Quế sang Giao Chỉ bổ sung cho quân lính đô hộ, hắn vét vàng bạc châu báu của các lạc tướng và huyện lệnh người Việt. Phủ thái thú có nhiều đồ quý chất như núi, tiền của như nước. Nô tì của Tô Định có hàng trăm.

    Thánh Thiên nhận định rằng Tô Định thế nào cũng cất quân đánh dẹp quân khởi nghĩa, bèn bàn với Nam Thành Vương củng cố lực lượng ở Ký Hợp, còn mình thì về Kinh Môn chiêu mộ nghĩa binh, lập thêm căn cứ và mở rộng hoạt động bên sông Hồng. Thánh Thiên dặn đi dặn lại Nam Thành Vương không được khinh địch và phải đề phòng Tô Định đánh bất ngờ.

    Nhưng Thánh Thiên vừa đi khỏi Ký Hợp được ba ngày thì Tô Định thân đem đại quân đến đánh Nam Thành Vương. Gà chưa gáy sáng, quân Tô Định đã ồ ạt tràn vào Ký Hợp. Quân Nam chống trả quyết liệt. Nam Thành Vương bị vây khốn, tử trận ngay trên mình ngựa, tay không rời kiếm. Đào tướng quân tả xung hữu đột, khắp mình thương tích, cướp được xác Nam Thành Vương đặt lên ngựa, đi chân đất múa thanh kích, không cho giặc xâm phạm thi hài chủ tướng. Đào đang trong cơn nguy khốn thì nữ tướng Ngọc Thuyền phóng ngựa tới cùng Quang Thái xông xáo như hai con hổ dữ giữa đàn dê, cuối cùng đưa được thi hài Nam Thành Vương vào một khu rừng hẻo lánh. Chôn cất cho Nam Thành Vương xong, Đào Quang Thái nghiến răng dậm chân mà rằng: “Ta không bảo vệ được chúa công, quân tan chúa mất, còn sống làm gì nữa!”, bèn rút kiếm ngắn định đâm vào họng mình. Ngọc Thuyền vội đưa tay gạt kiếm mà nói: “Chết thì dễ, nhưng nếu hiền huynh chết, giặc lại càng mừng, hỏi chết như thế có ích lợi gì hay chỉ mang cái tiếng hèn nhát? Chi bằng ta thu thập tàn quân về Kinh Môn tạ tội với nữ chủ soái, xin lập công chuộc tội, lấy máu giặc mà trả thù cho Nam Thành Vương chẳng hơn ư!” Đào Quang Thái nghĩ ra, bèn tạ lỗi với Ngọc Thuyền, rồi hai người tìm đón các nghĩa quân tản lạc, kéo về Ba Trại gặp Lý đầu mục.

    Khu Ba Trại có tên chữ là Ngọc Lâm, nhưng nhân dân ở đây vẫn quen gọi là Ba Trại. Ba Trại thoạt đầu nằm gọn trong lòng một vùng đồi hoang rậm, ít người biết tới, còn tên Ngọc Lâm là chỉ chung cả vùng này. Ở rừng Ngọc tuy chưa ai tìm thấy ngọc nhưng của rừng thì quý giá vô vàn. Đây thật là nơi anh hùng dụng võ vì địa thế hiểm trở, đường lối quanh co, nhiều tràn lầy trên khô dưới thụt. Lau và cỏ dại mọc đầy. Sông Nhật Đức cuồn cuộn đổ về xuôi lượn sát khu Ba Trại.

    Lý tướng quân trấn giữ căn cứ quan trọng này là người mưu trí, quen thuộc thung thổ, được nhân dân địa phương vô cùng quý trọng. Khi tiếp Đào tướng quân và Ngọc Thuyền nữ tướng, Lý tướng quân an ủi hai người, lại khen họ là có công bảo vệ được thi hài chủ soái.

    Sau đó, Lý tướng quân giục Đào Quang Thái đi nghỉ vì Đào tướng quân thương tích khắp mình, cơn sốt nổi lên nóng bừng cả người, lại bảo Ngọc Thuyền về ngay Kinh Môn báo tin dữ cho Thiên Nữ được hay.

    Thánh Thiên nhận được tin Ký Hợp thất thủ vội đi suốt ngày đêm về Ngọc Lâm. Các tướng ra đón, mọi người bàn ngay việc bố phòng căn cứ. Tô Định đánh xong Ký Hợp, bắt dân chúng chém giết, không từ đàn bà trẻ nhỏ. Dân chạy trốn tìm về Ngọc Lâm. Các tướng đều căm giận, ai nấy hăm hở xin với Thiên Nữ cho tiến đánh Tô Định. Thánh Thiên đoán chắc Tô Định sẽ thừa thắng đánh Ngọc Lâm luôn, bèn họp các tướng bàn kế bố phòng đợi giặc.

    Quả nhiên, Thánh Thiên vừa họp xong với các tướng được hai ngày thì Tô Định mang quân đến Ngọc Lâm cờ giong trống đánh, khí thế nghênh ngang tự đắc. Quân ta đã chuẩn bị sẵn sằng đón đánh Tô Định. Ai nấy đều thề trả thù cho Nam Thành Vương và dân chúng Ký Hợp bị giặc tàn sát. Tô Định đắc chí, khinh địch, đóng quân lại nghỉ, đưa thư cho Thánh Thiên dụ đầu hàng, và dọa nếu trái lời thì: “Ngọc đá đều tan, bắt Thiên Nữ dong về hầu hạ!” Các tướng được thư đều nổi giận bừng bừng đòi mang quân đánh ngay với Tô Định một trận sống mái.

    Thánh Thiên bảo với các tướng: “Giặc coi thường ta, thế là ta sẽ thắng đấy. Lúc này mà xốc nổi là hỏng việc. Nay ta đưa thư ôn tồn xin khất một hai ngày nhưng chỉ tối nay sẽ đánh ngay vào đại trại bắt sống Tô Định, các tướng nghĩ thế nào?” Mọi người đều kính phục Thiên Nữ suy nghĩ sâu xa. Thiên Nữ bèn cho người mang trâu rượu dến cửa quân Tô Định xin hạn trong hai ngày sẽ trả lời. Tô Định càng giương giương đắc chí, cho quân mổ trâu sắp rượu, cùng các bộ hạ say sưa chè chén chờ lúc Thiên Nữ đến hàng. Chẳng ngờ tiệc rươu vừa tàn, quân tướng mê mệt, cờ trống trễ tràng, chợt tù và rúc vang, trống khua như sấm, quân Nam bốn mặt ập tới, gươm chém giáo đâm không khác thiên thần tự trời rơi xuống, ma vương tự đất chui lên, tung hoành chém giết, bao nhiêu căm giận bấy giờ trút hết vào đầu giáo, lưỡi đao.

    Quân của Tô Định vốn là quân thiện chiến của Trường Sa, Quê Dương, đi với Tô Định trận này lại có Mã Giang Long và đội thân binh của hắn, nhưng vì bị đánh bất ngờ trong khi không phòng bị, tướng say quân mệt nên Tô Định không sao giữ được cho quân khỏi đại bại.

    Mã Giang Long hò hét đội thân binh liều chết chặn đường cho Tô Định rút chạy. Chợt Mã thấy một tướng dừng ngựa sát ngay bên mình, y tròn măt nhìn thì ra đó là một người con gái mặc võ phục màu đen, ngực mang yểm tâm kính bằng đồng chạm hình đầu hổ. Nữ tướng mày cong mắt sếch, lẫm liệt uy phong, tay vung đôi kiếm. Mã đưa đạo chặn kiếm, quát hỏi: “Mày cỏ phải là con hổ dữ Thánh Thiên đó không?” Nữ tướng dựng ngược mày ngài, nói: “Ta là Ngọc Thuyền đây. Nữ chủ soái ta đâu có để gươm bẩn máu hạng mày. Trông đây!” Chỉ thấy gươm lòe ánh chớp, bảo đao của Mã Giang Long rơi ngay xuống đất. Mã vội rút kiếm bên sườn nhưng kiếm chưa ra khỏi vỏ, đầu Mã Giang Long đã rụng bên chân ngựa.

    Bấy giờ các tướng của Thánh Thiên phấn chấn thần oai chém giết quân giặc thế như chẻ tre, như ngả rạ dồn địch về bên sông Nhật Đức.

    Cuộc hỗn chiến bên sông diễn ra vào lúc trời tờ mờ sáng. Máu giặc loang đỏ mặt sông.

    Trận này, Tô Định thoát chết. Về được Phủ thái thú, y ốm liệt giường suốt ba tháng.

    Sau trận đại phá quân Tô Định ở Ngọc Lâm, Thánh Thiên lại về Ký Hợp, xây mộ dựng bia cho cậu là Nam Thành Vương Trần Lộ. Thánh Thiên dựng đồn đắp lũy, lại mộ thêm quân, trữ lương thực, xây dựng căn cứ Ký Hợp thành một căn cứ quan trọng. Tiếng tăm Thánh Thiên lừng lẫy cả quận Giao Chỉ. Khắp hai huyện Long Biên, Bắc Đái bọn quan quân đô hộ nghe nhắc tới Thánh Thiên là tái mặt, rụt cổ, nhớn nha nhớn nhác.

    Từ Ký Hợp, Thánh Thiên đem quân đánh phá các đồn trại của địch. Tô Định, sau trận Ngọc Lâm, chỉ co mình ở Phủ thái thú. Suốt từ đó cho tới khi y bị Hai Bà Trưng đánh bại ở Luy Lâu phải chạy về Nam Hải, y không bao giờ cầm quân ra trận nữa. Y giao mọi việc tiễu phạt các đạo quân khởi nghĩa cho Phủ đô úy và các huyện lệnh, huyện úy. Y chỉ phát lệnh và ngày càng vơ vét cho đầy túi tham, càng đắm mình trong các cuộc truy hoan, càng làm đổ máu nhân dân vô tội.

    Quan quân đô hộ cũng không còn tên nào dám lần đến Ngọc Lâm và Ký HợpVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Thánh Thiên không những là một đại công thần khai quốc mà còn là một tướng lĩnh cao cấp đã được Hai Bà Trưng giao phó những trọng trách trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mã Viện. Truyền thuyết dân gian cho biết chính Thánh Thiên đã đánh tan quân Mã Viện ở Hợp Phố và sau đó đã dự trận Lãng Bạc với Hai Bà Trưng. Cũng có truyền thuyết nói Thánh Thiên đã chặn đánh quân Mã Viện ngay ở Quỷ Môn Quan (Lạng Sơn) khiến Mã Viện phải lui lại và tìm đường khác vào Âu Lạc.
     
    nmt, thanhbt, nguyenbahuy and 2 others like this.
  4. ichono87

    ichono87 Lớp 7


    LÊ CHÂN


    TƯỚNG QUÂN MIỀN BIỂN




    Người con gái ấy tóc đen như mun, lông mày đen nhánh và có nước da hồng như hoa phù dung. Người con gái ấy đậm và chắc. Tên nàng là Lê Chân.


    Nước biển xanh màu rêu. Nhưng Lê Chân nghĩ rằng biển đã hòa nước mình với máu của con người. Máu những người Âu Lạc đã đổ ra tan trong sóng biển. Đứng giữa những tảng đá lớn như bày voi quây quần, Lê Chân nhìn không chớp mắt người con trai vừa bị sóng biển đánh dạt vào.


    Người ấy chống tay, cố gượng dậy. Lê Chân đỡ lên, cho ngồi tựa vào tảng đá, rồi nàng bước lên một mỏm đá cao, khum bàn tay kề miệng và cất tiếng hú.


    Hú tới tiếng thứ ba thì có tiếng hú xa đáp lại.


    Những người mới đến đều đeo vòng tai bằng đá, cả trai và gái. Họ cởi trần, cầm lao nhọn. Họ đưa người mà biển cả mang đến cho họ đặt vào một hốc đá rộng, lấy cỏ khô đốt lửa lên, và yên lặng chờ. Từ lúc đến theo tiếng hú của Lê Chân, họ cứ lặng lẽ làm, không ai nói một tiếng.


    Người của biển là một anh con trai lực lưỡng, trán có một vết sẹo nằm chéo từ chân tóc bên phải tới đầu lông mày trái. Tay người ấy có dây buộc, loại dây chão dùng buộc thuyền lớn. Một bên chân hơi teo. Khi người ấy bắt hơi lửa ấm mở mắt ra nhìn xung quanh, cặp mắt đen thẳm, ngơ ngác, đượm vẻ lo sợ.


    Mọi người vất thêm cành khô vào đống lửa, lửa bốc cao, lửa nhảy nhót và mọi người đều thấy vui. Chàng là một trong số những người bị giặc bắt đi mò ngọc trai, đi đánh cá mực và tìm san hô cho chúng. Họ đang làm ở đảo Ngọc, và tám người lừa khi biển động và gió mùa từ phương Đông Bắc thổi về đã rủ nhau trốn trong đêm qua.


    Lê Chân bảo mọi người xung quanh:


    - Hãy đưa người của biển về làng của chúng ta. Anh ấy sẽ ở lại và là người của làng!


    Làng mới chưa có tên.


    Từ ngày làng đặt chiếc cột đầu tiên trên nền cát cho tới hôm nhận được người của biển đưa vào vừa tròn ba tháng. Tối hôm đó, làng họp nhận người mới và đặt tên làng. Họ đặt tên làng là An Biên, vì An Biên là tên làng cũ của họ và cũng là của chủ làng bây giờ: Lê Chân.


    Làng mới ven biển chỉ là sáu túp lều nhỏ, cột lều mái lều là những thân cây, cành cây còn nguyên vỏ hoặc đẽo sơ sài. Làng nằm dựa rừng, núp vào rừng và đá lớn, và cát trải trắng làng, gió mặn thổi suốt ngày đêm qua làng, sóng biển ì ầm không bao giờ dứt tiếng hát với làng, nói chuyện với làng, ru làng ngủ và đánh thức làng dậy, gọi làng ra với biển.


    Biết bao nhiêu công việc của một làng mới, và việc quan trọng nhất là làm ra lương ăn. Nơi đây chỉ có cát và sóng biển, có đá và cây rừng. Núi đá phủ đầy cây từng mảng chạy ra biển như muốn chặn đứng biển lại. Biển tung sóng mạnh quật vào đá, thách thức.


    Người con trai được Lê Chân cứu tên là Vạn. Vạn thuộc các mùa cá biển, các loài cá biển như Lê Chân thuộc các gỗ rừng, cây rừng ở quê cũ Đông Triều núi cao, rừng già. Lê Chân giao cho Vạn hướng dẫn mọi người đóng thuyền, đóng mảng ra lộng ra khơi, may buồm và dệt lưới. Lê Chân nói với mọi người: “Biển cả sẽ nuôi chúng ta như mẹ hiền nuôi các con mình.”


    Mười tám người dân làng toàn người trẻ tuổi nói với Lê Chân:


    - Làng ta ít người quá! Ít người thì không làm gì nổi. Làng ta không có người già. Không có người già là không người dạy dỗ nên khôn.


    Lê Chân nói:


    - Các người nói đúng. Chúng ta hãy về quê cũ rủ về đây họ hàng và những người khổ cực. Chúng ta hãy tìm đón những người của biển đưa đến và tiếp đón tất cả những người trốn tránh, lang thang.


    Ngày tháng qua, những túp lều mới mọc lên. Ban đêm có tiếng chó sủa, sớm mai có tiếng gà gáy. Buổi chiều, trẻ con ríu rít đi đón lưới. Quanh làng trồng khoai, trên núi trồng lúa. Tết năm ấy, Lê Chân nói với mọi người: “Chúng ta ăn ba cái tết ở đây rồi. Làng ta đã ba tuổi. Năm đầu, tết không có bánh nếp và thịt lợn. Bây giờ chúng ta có cả.” Mọi người đều vui và một cụ già nhất làng nói: “Nàng chủ đã dựng lên làng này từ năm nàng 19 tuổi. Nàng là người vất vả nhất trong chúng ta, người lo nghĩ nhất làng, người con gái tài giỏi của rừng và biển. Sớm mai làng hãy ra khơi đánh mẻ cá đầu năm mừng tuổi chủ làng và lấy may cho cả làng.”


    Mười chín chiếc buồm in hình đen thẫm trên nền trời xanh. Chân trời đông hửng dần màu đỏ lửa và da cam. Mặt biển chuyển từ đen sang xanh lam như màu da trời. Trời biển một màu xanh thẳm. Đoàn thuyền cưỡi sóng ra khơi.




    Cụ già nhất làng đã nói đúng. Lê Chân là người vất vả và lo nghĩ nhất làng, nhưng Lê Chân còn là người kiên nghị nhất. Khi 18 người trai gái theo nàng tới đây, họ chỉ thấy cát trắng và sóng biển. Cát và sóng biển thờ ơ với họ, và hình như còn đe dọa họ. Sống ở nơi đây? Bằng cách nào?


    Một vụ đói đã qua và thiếu đói kéo dài. Không có lúa, không có thịt và muối. Cát và núi đá không cho họ gạo. Biển cả bao nhiêu cá và của chìm nhưng nó đòi trả bằng máu con người.


    Những lúc khó khăn, Lê Chân ngồi bên bờ sóng và nghĩ. Nàng thấy những con dã tràng se cát ngày đêm không mỏi. Những con vật tí ti, da màu cát ấy không sợ sóng biển hung dữ cứ xóa đi xóa mãi những công trình của chúng. Những con vật tí ti ấy không chịu thua biển cả. Và hóa ra chính là biển cả đã nhọc công mất sức vì không thắng nổi chúng, những con dã tràng bé tí tẹo.


    Biển động, nuốt bớt số dân ít ỏi của làng mới. Mùa lúa nương đầu tiên không thu hoạch nhiều được vì lúa không có thức ăn gì. Bão biển kéo đổ những túp lều mảnh dẻ và xóa đi màu xanh của khoai và bí mới trồng.


    Những người ở làng mới nhớ quê cũ làng xưa, nhớ mùi rơm tháng chín, mùi cỏ tháng giêng, nhớ làn khói trên những mái tranh và những cánh cò trắng liệng nắng lóe sáng.


    Thế nhưng họ vẫn theo Lê Chân. Người con gái chủ làng nói với họ về những con dã tràng bé tí tẹo và nói lên những món nợ máu phải tính toán với quân đô hộ ngoại tộc. Họ theo Lê Chân và sẽ theo nàng tới cùng trời cuối đất bởi vì họ không thể sống chung một bầu trời với kẻ thù.


    Và những con người cũ ở làng mới kể với những người mới đến về người con gái là chủ làng.


    … Nàng đẹp và khỏe. Mùa xuân, con trai các nơi tìm đến hát với nàng và nàng thì chẳng hát với trai nào. Nàng chỉ hát một mình và hát với các bạn gái của nàng. Khi sáu người con trai không nhấc nổi đòn khiêng một cây thủy tùng, nàng ghé mình vào và cây gỗ nhẹ đi trên vai những người trai lực lưỡng. Có ai cấy nhanh hơn nàng? Và có ai gói bánh chưng ngày tết khéo hơn nàng? Bánh tét nàng gói tròn như ống mai ống vầu, đường sống lá chạy thẳng tắp chia đôi chiếc bánh. Nàng ngủ khi con cọp bắt đầu lần rừng và nàng thức trước khi con gà chuồng gọi mặt trời dậy.


    Hãy nhìn nàng đi săn. Chiếc áo màu lá rừng bó sát người và chiếc váy ngắn gợn sóng trên đầu gối, tay nàng cầm lao và lưng đeo dao. Khi tiếng tù và rúc lên, nàng dẫn đầu đoàn người săn, bước chân thoăn thoắt. Theo hiệu lệnh của nàng, những chiếc lưới mở ra, và con thú hồng hộc chạy, con lợn rừng nanh sắc như mác xông thẳng vào nàng. Nàng chạy xuống mé rừng và ngoắt mình lại phóng một mũi lao. Lưới khép lại. Đấy, nàng là người đã dử con thú vào lưới và phóng mũi lao đầu tiên đánh ngã thú. Mọi người nhảy và hát quanh con vật bị thương. Con lợn từng có đôi nanh sắc như hai lưỡi kiếm nằm chềnh ềnh như một quả gò.


    Các tên quan đô hộ trong địa hạt đều biết tiếng nàng và lui tới nhà nàng. Nhưng chúng biết rằng bắt cọp dễ hơn bắt nàng. Và chúng “tâu” với Tô Định về Lê Chân, người con gái đẹp nhất Đông Triều, tóc đen như mun, mày đen như cánh nhạn và nước da hồng như hoa phù dung.


    Khi viên thừa sai Phủ thái thú đến đưa lễ vật và nói với ông Lê Thái Bảo xin nàng về “hầu hạ” quan thái thú, ông đã khéo léo lựa lời từ chối. Ba tháng sau Lê Thái Bảo bị bắt và bị giết. Lê Chân trốn được. Nàng tới mồ mẹ khóc lóc khấn xin mẹ phù hộ cho trả được thù nhà và cùng những người thân tín ra đi…


    … Đoàn thuyền ra khơi đầu năm đã trở về. Biển trao lễ vật cho đoàn thuyền đem về đưa nàng, người con gái kiên cường, người chủ làng anh hùng đang mài giáo cho sắc.




    Nhà ở đây mái chấm đầu sát đát, cửa ra vào ở đầu chái nhà. Cả làng chung một giếng. Lưới dăng quanh làng và ban ngày làng quạnh vắng, chỉ chiều mới đem lại tiếng ồn ào, tiếng người và ngọn lửa ấm cúng. Nhưng làng mỗi ngày một đông vui hơn và bây giờ là năm thôn năm giếng nước ngọt. Nhà chủ làng ở thôn Giữa, bốn thôn Đông, Nam, Đoài, Bắc vây xung quanh. Thôn Bắc có lò rèn, thôn Nam vá lưới. Nhà chủ làng có treo đồi mồi trên vách và trống da trâu bên cửa. Làng có một ngôi đình nhỏ mái tranh thờ chung cả Sơn thần và Ông cá voi. Tháng giêng làng mở hội đấu vật, trai gái kéo dèo (kéo co), tung quả còn qua vòng tre. Giết trâu để tế thần, chủ làng tung búa cho trai làng cướp đánh đầu trâu, mổ trâu lấy da làm nồi nấu thịt.


    Chủ làng lo mọi việc. Lo mở rộng làng, lo cho làng thêm người thêm của. Cái lo nhất lúc này là lo đối phó với kẻ thống trị dị tộc.


    Trên chiếc bản đồ huyện trị An Đông, giặc ghi “An Biên trại” và chúng tìm đến trại An Biên.


    Có phải từ nay trai làng lại phải lui tới ở năm tháng trên các hòn đảo xa vắng để mò ngọc tai, săn cá biển và tìm san hô, sò huyết nộp cho kẻ thù?


    Có phải từ nay trai làng phải leo lên những vách đá cheo leo heo hút chìa ra biển để bắt những tổ yến về cho giặc tiệc yến phè phỡn với nhau trên xương máu của dân mình.


    Có phải từ nay lại phải nộp lúa nộp mình cho giặc? Và những ai sẽ phải rời bỏ An Biên đi theo đoàn cống phẩm vượt nơi “phân mao cỏ rẽ” về tới Tràng An?


    Bọn chúng sẽ lại mò tới An Biên, nhâng nháo, hạch sách, nạt nộ tìm cahcs vét của hiếp người!


    Con trăng mùa xuân treo trên cao bầu trời yên tĩnh gọi nước triều lên. Triều dâng ào ào cuộn sóng xô bờ. Đêm rộng vang tiếng biển. Tiếng biển cả đầy ngập không gian…


    Lòng Lê Chân lúc này còn dao động hơn biển lớn.




    Lê Chân vừa là người chủ làng lại vừa là người thủ lĩnh. Khi nàng mới lần đầu đặt chân tới đây, nàng chỉ gặp biển lớn và cát trắng. Ngày nay An Biên đã có lúa có khoai, có trâu có lợn, có bãi xú, có thuyền đi khơi, có mảng đi lộng.


    Nhưng nàng đến nơi đây không phải để trốn kẻ thù mà là để đánh chúng.


    Đánh bằng cách nào?


    Đã năm năm nay, từ khi lễ mồ mẹ và khấn vong bố ra đi, nàng vẫn nghĩ tới điều đó. Trả thù cho mình và cho nhân dân bằng cách nào?


    Câu hỏi nóng bỏng đó lúc này như ngọn lửa cháy đỏ trong đầu óc những người có trách nhiệm ở An Biên.


    Sau khi bàn đi tính lại, mọi người đồng lòng cử cụ Họp, cụ già 70 tuổi có đôi lông mày trắng như bông và nước da đỏ như đất nung làm chủ làng thay Lê Chân để giao dịch với các quan chức của giặc. Lê Chân là con gái, gặp bọn kẻ cướp hiếu sắc tham lợi hàng ngày rõ ràng là không tiện.


    Cụ già Họp chỉ là người đứng ra giao dịch với giặc, còn mọi việc quyết định vẫn do Lê Chân.


    Và một đội nghĩa dũng quân ra đời do Lê Chân đứng đầu với một chức mà dân tự đặt ra để phong cho Lê Chân: Đô Lĩnh! Cái chức ấy không thấy có trong hệ thống các võ chức hiện hành. Trong công việc hàng ngày, mọi người vẫn gọi Lê Chân là chủ làng hay chủ tướng.


    Nghĩa dũng quân của An Biên ra đời chỉ có 31 người trong đó có 8 cô gái khỏe mạnh được chọn làm nữ vệ quân. Em gái họ Lê Chân là Lê Ngà, con ông chú cũng ở trong số này. Còn những nghĩa quân nam đều là những người được tuyển lựa kỹ càng, vừa gan dạ, vừa khỏe mạnh.


    Bây giờ Lê Chân phải lo cho nghĩa quân tập dợt, lại lo gạo cho làng ăn lâu dài. Nghĩa quân vẫn đi biển, vẫn cắt xú nhưng tối tối lại cùng nhau tập vật, tập đao, tập múa khiên, tập đánh gậy. Họ tập rất hăng, rất say, và họ dạy lẫn nhau, ai biết thế nào dạy thế ấy.


    Lê Chân lo nhất là khoản gạo. Đánh giặc lâu dài phải có gạo. Làng biển không có gạo, vẫn lấy cá đổi gạo. Lại còn phải tìm một chỗ nào cho nghĩa quân ẩn náu, bởi không thể đem cái làng biển An Biên nhỏ bé và trống trải này ra để chọi nhau với giặc.


    Còn dân làng? Dân chỉ thấy sung sướng khi đội nghĩa quân của mình ra đời. Đêm nào dân cũng đến xem “quân mình” tập, dân hởi lòng hởi dạ nhìn “quân mình” khỏe biết bao, nhanh nhẹn biết bao, và mọi người trầm trồ khen anh này lăn khiên khéo, anh kia có đường gậy mới kín làm sao! Lê Chân sợ việc bị lộ, bèn ra lệnh cho dân không được xem “quân mình” luyện tập nữa, và nói rõ cho mọi người biết phải kín đáo như thế nào, phải cẩn thận như thế nào mới có thể chống chọi lại được với kẻ thù hung ác và xảo quyệt.


    Làng biển lúc này vừa phải chống đỡ với những yêu sách nhũng nhiễu của giặc, vừa lo tìm cách đánh giặc và phòng đánh giặc.


    Chính Lê Chân, người chủ làng gái 22 tuổi phải gánh những mối lo nặng nề đó.


    Và cả làng cùng lo với Lê Chân.




    Gió biển ầm ầm suốt đêm. Gió mặn cuồng loạn chạy bốc cát cuộn mù trời và cát đập rào rào vào những túp lều mái úp sát đất. Gió thổi ù ù như có hàng ngàn chiếc cối xay đang cùng quay tít. Gió thổi thốc thổi quét, gió lồng lên, gió hồng hộc chạy, rít lên, xoáy tít rồi quật mạnh.


    Biển nữa, biển cũng giận dữ bốc sóng, sóng vỗ tung trời.


    Không gian chuyển động, trời đất rung lên.


    Và rồi bình minh đến trên những xe mây hồng phớt, da cam và đỏ lửa. Nào ai nhớ đích xác tiếng gầm dữ tợn của gió mặn và biển cả tắt tự lúc nào? Có lẽ tất cả cảnh tàn phá và nỗi sợ đêm qua chỉ là một giấc mơ? Trời rất trong, biển rất xanh, và đàn hải âu lại tung những chiếc cánh trắng đùa với sóng biển.


    Nhưng đâu có phải là cơn ác mộng! Kia làng biển đổ sập, úp sụp, chìm ngụp trong gió bão, làng biển nằm kia, tơi tả…


    Bình minh đã ngạc nhiên biết bao khi ánh sáng trong trẻo hiền hậu của mình gặp những mái nhà bị quăng ra xa, bị xé ra, những con người ướt át, lấm láp, bơ phờ, mắt trĩu lo âu, mắt tối xầm giận dữ.


    Lê Chân tóc chẩy xõa trên lưng, tóc ướt bết vào lưng, Lê Chân người chủ làng kiên cường ấy lúc này đứng giữa đống đổ vỡ, lòng không khỏi bàng hoàng.


    Nàng vắt tóc, vuốt cho tóc hết nước và búi tóc lên đỉnh đầu. Nàng đi đi lại lại cắt đặt công việc và cùng mọi người thu dọn. Vài con trâu đã chết được mổ thịt và thui ngay để làm lương khô. Một miếng lương khô như thế đối với họ lúc này quý vô cùng.


    Họ lại dựng làng. Và những con dã tràng màu cát bé tí ti cũng lại lăng xăng vê cát làm những căn nhà tí tẹo của chúng.


    Con người không chịu thua thiên nhiên. Họ không chịu như những con dã tràng cứ để cho thiên nhiên phá mãi những công trình của mình. Họ học tập tính kiên nhẫn lạ lùng của dã tràng và khác hẳn với dã tràng là họ quyết tâm làm cho những công trình của họ có thể chống được với tàn phá của thiên nhiên.


    Làng mới lại cười với nắng biển gió biển, làng mới lại ấm tiếng người, hơi người. Làng trồng cây ngăn gió, trồng rất nhiều cây. Làng làm nhà chạy dọc với chiều ngang bờ biển để bớt sức gió phá. Mỗi nhà có một cái hố nhỏ, và các vò, chóe đựng lúa, đỗ được đặt xuống đó.


    Đội nghĩa quân lại ra đi, đi để đón giặc bằng những mũi giáo của căm thù.




    Nghĩa quân tìm giặc mà đánh. Sức còn mỏng, nghĩa quân không thể đánh thành lũy và đồn trại kẻ thù. Nghĩa quân đón những con đường giặc đi, đón những đoàn chuyển lương chuyển thuế, những đoàn cống phẩm, những đoàn giải tù, giải phu mà đánh.


    Giặc tiến qua một khu rừng trúc. Đi đầu là một toán lính đô hộ cầm giáo dài, mang cung tên. Xe vận tải đi theo sau chở toàn lúa mới, chúng chuyển về huyện thành. Một tên hộ tướng cưỡi trên mình ngựa tay cầm đại đao đi quãng giữa và rồi lại xe, lại lính.


    Chúng tiến sâu vào rừng trúc, mệt mỏi, vội vã. Chúng thúc giục và quất roi vào mình những người phu đẩy xe. Tên tướng cưỡi ngựa mắt gườm gườm nhìn quanh. Chúng không sợ hãi gì. Rừng này không có thú dữ và vùng này vẫn là vùng an toàn. Dân đói kéo nhau đi ăn cướp thì không dám dại dột xông vào đoàn quân lương của huyện, vả lại những toán cướp đường như thế ở vùng này cũng chưa có bao giờ.


    Nhưng bỗng tiếng hét tiếng hò reo cất lên vang dậy, tù và rúc inh ỏi và những người mai phục từ mặt đất bốc lên, lao tới vung giáo mác, lia đao xông thẳng vào đoàn lính áp lương. Chỉ chốc lát, tên tướng đô hộ đã nằm lăn trên mặt đất. Bọn lính còn sống sót chạy thục mạng.


    Ba chục xe lúa mới về với nghĩa quân cùng hơn trăm người phu áp tải.


    Đó là trận đầu, chiến công đầu của làng biển, chiến công đã làm nức lòng những con người nung nấu căm thù bao lâu nín nhịn. Chiến công ấy có lẽ chỉ là một chiến công nhỏ nhưng nó đã mở đầu một cuộc vùng dậy của những người bị áp bức, cuộc vùng dậy đầy sức mạnh căm thù của những người dân Âu Lạc miềm duyên hải quật cường.


    Từ làng này sang làng khác, từ những làng ven biển vào tới những động và trại trong núi, người ta kể với nhau những chuyện thần kỳ về Lê Chân, người con gái anh hùng và về đoàn quân dũng mãnh của người con gái đó. Trận này tiếp trận khác, đoàn quân Lê Chân ngày càng dày dạn trong chiến đấu, ngày càng lớn mạnh, và giống như biển cả không bao giờ lặng sóng, đoàn nghĩa quân không bao giờ nghỉ bước chân chiến đấu của mình.


    Giặc khiếp hãi Lê Chân. Chúng đặt cho Lê Chân một cái tên: “Con cá kình biển Đông”. Cá kình tung sóng quẫy mình, nền đô hộ của giặc miền duyên hải rung rinh chao đảo và như ngụp chìm dưới những làn sóng mạnh.


    Dưới ngọn cờ Lê Chân, nhân dân miền biển vùng dậy.


    Bây giờ thì không pahir chỉ là một đội quân nhỏ bé 31 người mà là gấp mười lần như thế và rồi lại gấp trăm lần như thế.


    Lê Chân bây giờ không còn nữa những nét non nớt trên gương mặt trẻ trung. Da nàng đã đen sạm vì gió biển, nắng biển. Gương mặt nàng gầy đi và nghiêm nghị trầm tư qua bao cuộc chiến đấu gian khổ.


    Nghĩa quân đi tới nơi này nơi khác, đi đến những làng ven biển và những trại trong rừng. Đã nhiều lần, nghĩa quân bị giặc vây lùng ráo riết, phải đào củ dém củ rạng để ăn. Làng An Biên bị giặc vây quét, lùng sục, bắt bớ, phá phách. Nhưng biển cả có bao giờ lặng không?


    Nhiều chúa động và chủ làng tìm đến xin quy phụ Lê Chân. Vạn và Ngà trở nên những phó tướng được sĩ tốt yêu kính. Lê Chân đã tổ chức được quân doanh chia làm năm đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Thực ra thì chưa bao giờ cả năm đạo cùng được họp mặt, mà chỉ có các vị đốc lĩnh các quân là được gặp nhau.


    Mùa xuân năm ấy, Lê Chân chỉ huy các quân vây đánh thành châu Bản Lập, chém giết và bắt hơn một nghìn quân tướng đô hộ. Nghĩa quân chiếm giữ thành trì.


    Những người con của làng biển An Biên, những người lính chiến đầu tiên của nghĩa quân vùng biển Đông xúc động đến chảy nước mắt khi thấy nữ soái của mình đứng trên tướng đài, tươi cười nhìn cả năm quân chỉnh tề trong ngày đại lễ.


    Những người con của làng biển An Biên thấy nữ chủ tướng cười, với những giọt nước mắt long lanh trên gò má. Họ biết rằng cũng như họ, nữ chủ tướng Lê Chân vụt nghĩ đến cái làng nhỏ bé với sáu mái lều con ven biển, nghĩ đến đội nghĩa quân đầu tiên 31 người thiếu áo mặc, thiếu lương ăn, nghĩ đến những ngày đào củ trong rừng, những đêm biển gầm phá tan những chiếc mảng của những con người tìm sống trên biển cả.


    Và họ còn biết rằng cũng như họ, lúc này nữ chủ tướng nghĩ đến những người lính chiến đã ngã xuống, máu thịt gửi đất trên chiến trường chẳng bao giờ còn trở về để dự lễ mừng công.


    Những người đã đổ máu đào vì đất nước ấy sẽ cùng họ theo Lê ChânVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link bước vào những trận đánh mới cho tới khi nước Âu Lạc lại trở về với người Âu Lạc.




    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Nhân dân thời xưa đã dựng đền Nghè ở An Biên (Hải Phòng) để mãi mãi tưởng nhớ Lê Chân, người phụ nữ anh hùng.

     
    nguyenbahuy and bichdinh like this.
  5. ichono87

    ichono87 Lớp 7

    PHẬT NGUYỆT

    TẢ TƯỚNG THỦY QUÂN


    Chuyện trò hồi lâu, bà góa nói với cô con gái đang ngồi vót nan bên chõng tre: “Tôi đi dỡ mấy củ khoai về luộc ăn cho vui miệng!” Người con gái vẫn đều tay đưa lưỡi dao, ngước mắt nhìn người đàn bà mái tóc đã điểm bạc và nói: “Thôi, mẹ! Bận bịu làm gì. Nói chuyện một lát rồi ta đi ngủ thôi mẹ ạ.” Bà góa bước ra khỏi cửa, quay lại cười: “Đã khuya khoắt gì đâu. Với lại vườn khoai nhà cũng gần đây thôi mà! Chờ tôi một lúc!”

    Người con gái sắp những chiếc nan tre vót trắng bóng, óng mượt cho gọn lại, rồi hai tay chắp vào đầu gối, mơ màng nghĩ ngợi.

    Bà góa đẩy cửa bước vào, tay cắp rổ khoai, nói với ra ngoài: “Các bác, cứ vào cả đây, nhà có ai đâu!”

    Người con gái ngạc nhiên khi nhìn thấy có ba người đàn ông lạ bước vào căn nhà lụp xụp. Cả ba đều cao lớn lực lưỡng làm cho gian nhà như thấp hơn, bé hơn.

    Quần áo họ rách rưới và gương mặt họ xanh xao. Tóc họ bờm xờm rủ trước trán. Một người trạc bốn mươi tuổi, đeo một cái đẫy nhỏ bên vai, còn hai người kia trẻ hơn có đeo dao ngắn bên sườn.

    Người con gái không nói gì, chăm chú nhìn những người mới đến và tất cả im lặng một lúc. Bà mẹ nói với người con gái: “Nàng hãy sắp nước mời các bác đi, tôi ra vườn dỡ khoai thấy các bác nằm bên luống khoai, thế là tôi đưa các bác ấy về nhà.”

    Người con gái rót mấy bát nước chè xanh bốc khói đưa mời. Những người mới đến đón bát, uống thong thả. Họ đã tươi tỉnh hơn và đưa mắt nhìn quanh nhà.

    Bà góa lại nói: “Để tôi đi luộc khoai cùng ăn. Các bác cứ ngồi chơi nói chuyện với… à, nàng đây là…”

    Người con gái đỡ lời: “Mẹ luộc hộ con vậy, để con tiếp chuyện các bác ấy.”

    Sau đây là những lời trao đổi giữa người con gái và ba người mới đến:

    - Các bác ở đâu đến đây?

    - Chúng tôi từ xa đến, mỗi người một nơi, và chúng tôi đã gặp nhau.

    - Sao các bác lại nằm ở vườn khoai của bà mẹ?

    - Chúng tôi không thuộc đường và… đói!

    Một người nói cho rõ hơn:

    - Đói, không đi được nữa, nằm tạm đấy!

    Im lặng một lúc.

    Người đứng tuổi nói:

    - Tôi bị chúng nó hành hạ khổ quá, làm gỗ ở rừng Quán trên thượng nguồn đấy. Còn các anh này là dân chài, chúng nó bắt đóng bè mảng đưa gỗ về xuôi. Chúng tôi rủ nhau trốn.

    - Các bác định về đâu?

    - Nghe nói ở vùng này có nàng Phật Nguyệt. Nàng ấy chiêu mộ dân xiêu dạt các nơi về làm ăn. Chúng tôi muốn tìm theo Phật Nguyệt.

    Người con gái chợt cười. Ba người mới đến lúc này mới để ý ngắm kỹ cô giá.

    Nàng tuổi độ đôi mươi, da ngăm đen, gương mặt trái xoan rất tươi, mắt nhỏ và dài. Khi nàng cười, má lúm đồng tiền. Nàng mặc váy ngắn, áo cộc tay nhuộm nâu non, yếm tơ mỏng mịn. Họ để ý thấy áo nàng không có miếng vá nào nhưng nàng lại không đeo vòng tai, vòng tay hay chuỗi vòng cổ.

    Bà góa từ trong bếp bước ra:

    - Để vùi khoai một lúc ăn mới ngon. Chỉ tí nữa là được thôi. À, các bác nói muốn tìm nàng Phật Nguyệt à? Thì nàng chả là…

    Người con gái cắt ngang lời bà góa:

    - Mẹ ơi, mẹ dọn khoai cho các bác ấy ăn, còn con, con về đây mẹ ạ. Sáng mai mẹ đưa các bác ấy đến gặp nàng Phật Nguyệt, mẹ nhé!

    Làng Yển bên sông Thao có ông Đinh Văn Bôn làm nghề bốc thuốc là người nhân hậu, hiền lành, được nhân dân yêu mến và quý trọng. Không những ông đã mát tay hay thuốc mà lại sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, nhiều khi chỉ chữa hộ không cần trả công. Có những đêm trời rét như cắt da, ông vẫn ra đi theo lời mời để chữa trị cho các con bệnh cấp cứu hiểm nghèo. Nhà ông là một nhà khá giả trong vùng, có của ăn của để. Tuy vậy ông vẫn không được vui vẻ, thường vẫn phàn nàn “dao sắc không cứa được chuôi” vì làm bạn với bà Phí Thị Vang đã mười năm mà vẫ hiếm muộn không được mụn con nào. Tới năm ba mươi tuổi, bà Phí Thị Vang mới có mang, sinh được một gái. Hai vợ chồng mừng rỡ đặt tên con là Phật Nguyệt. Nguyên chữ Đinh là họ ông và chữ Phí là họ bà đặt bên nhau thành chữ Phật, ý ông muốn nói con gái là vầng mặt trăng của cả hai vợ chồng.

    Bố mẹ Phật Nguyệt chiều con gái không biết chừng nào, thương con gái không biết ngần nào. Ông dạy Phật Nguyệt đọc chữ và giảng sách giảng thơ cho Phật Nguyệt. Bà thì dạy Phật Nguyệt làm ăn nấu nướng, kim chỉ vá may, hái dâu nuôi tằm. Phật Nguyệt mới mười ba tuổi mà đã lớn, đã đẹp như gái mười sáu nết na đảm đang, quán xuyến mọi việc cửa nhà, xa gần đều khen ngợi.

    Chẳng may Phật Nguyệt mười lăm tuổi thì bố mẹ lần lượt qua đời, Phật Nguyệt mồ côi cả bố lẫn mẹ, nhưng với tuổi mười lăm nàng đã sớm biết suy nghĩ và tự lo do lo liệu được mọi việc gia đình. Và lại họ hàng làng xóm đều sẵn sàng giúp đỡ nàng mà chẳng ai là có bụng lấn át hay có ý coi thường nàng.

    Cơ nghiệp của bố mẹ để lại có một nếp nhà gỗ năm gian, ba sào vườn và vài mẫu ruộng. Vườn trồng dâu để nuôi tằm. Tháng năm kén tằm vàng óng phươi trước sân trước ngõ mọi nhà. Cả làng Yển đểu nuôi tằm kéo tơ bán cho lái các nơi về ăn hàng. Ruộng làng Yển là chân ruộng chiêm trũng, lại thường ngập nước sông nên cũng chẳng được bao nhiêu hạt lúa.

    Phật Nguyệt có những suy nghĩ khác người. Và những suy nghĩ ấy nàng thường bày tỏ với một người đàn bà góa đã có tuổi mà cả làng đều quen gọi là “bà góa” ở một túp lều nhỏ bên sông. Người đàn bà này có lẽ là một người khổ cực nhất trong những người khổ cực của làng Yển và của cả châu Thanh Hoa này nữa. Khi mới sinh ra, người đàn bà ấy đã không biết bố mẹ là ai, vì là con đẻ rơi bỏ góc vườn, người ta nhặt và nuôi làm phúc. Người đàn bà ấy suốt đời lam lũ vất vả, làm đầy tớ các nhà giàu, làm nô tì cho những nhà quan đô hộ. Bốn mươi tuổi mới lấy được chồng thì chồng lại bị giặc bắt đi phu chết dấp chết dúi nơi ma thiêng nước độc. Bà đẻ được mụn con gái lại bị dịch sởi mang đi. Bà góa thường than thở: “Giặc cướp chồng, trời cướp con, tôi ăn ở hiền lành, ăn ngay nói thật mà sao khổ thế này hở trời!”

    Bà góa ở một mình một lều và mặc dù Phật Nguyệt vẫn mời bà về ở với mình, bà vẫn cứ khư khư ra vào túp lều lụp xụp.

    Phật Nguyệt suy nghĩ và bất bình khi nhìn các cảnh trái ngược, những tên quan đô hộ và bọn tay sai thì vàng bạc đầy kho, thóc lúa đầy bịch, no nê phè phỡn, đày tớ nô tì hàng chục hàng trăm, còn nhân dân thì hầu hết chui rúc trong những túp lều lụp xụp, ăn đói mặc rách.

    Nàng càng căm phẫn khi thấy những cô gái trẻ xinh tươi và làm lụng chăm chỉ bị bán vào các cửa nhà quan, cửa nhà giàu, phải kéo dài một cuộc đời đày đọa máu hòa nước mắt.

    “Ruộng chiêm là chiêm bao,” cả vùng đất đồi gò bên sông Thao này khổ vì nạn nước, nước sông nước đồng. Có làm mà chẳng có ăn. Nhưng mặc dân mất mùa đói kém, giặc vẫn thu cho đủ thuế đủ lương, vẫn bắt người đi phu đi tráng, dù cho nước ngập trắng đồng, dân sờ không thấy lần không ra một hạt gạo.

    Bà góa nói với nàng: “Dân mình lành quá, chịu khổ nó quen rồi. Với lại cũng là cái số cả!”

    Tới năm vừa rồi, giặc vét thóc gạo tơ lụa các làng các chợ, làng Yển gần như mất trắng tay. Nhân dân khắp nơi đều xôn xao phẫn uất.

    Phật Nguyệt nói với bà góa: “Chúng ta có làm mà không được ăn, giặc kia ngang ngược quá chừng! Chúng coi dân ta như chó lợn! Không lẽ cứ đành sống mãi trong cảnh địa ngục trần gian này sao?” Bà góa nói: “Dân ta muốn đuổi giặc đấy, nhưng phải có một người tài giỏi đứng lên mới được. Nàng thử xem như mẹ góa này, như dân chạ ta đây, làm gì được kia chứ!” Phật Nguyệt muốn đem thân mình mà cứu dân báo quốc mới tìm đến ông chú, ngỏ bày tâm sự. Ông chú là một nhà nho không đỗ đạt, ở làng làm thầy đồ dạy học.

    Ông chú nghe cháu nói, giật mình, không ngờ cháu lại có những suy nghĩ táo bạo như vậy. Cháu nói một lần, cháu nói hai lần, nghe nói mãi chú cũng lạ lùng và kính phục cháu. Ông chú nói: “Đây là việc lớn, không phải chuyện đùa. Đã làm phải kín đáo kiên trì. Này cháu ơi, dòng nước sông Thao đỏ đặc phù sa chảy êm ả giữa đôi bờ đồng xanh núi biếc. Sông Thao nuôi ta mà ta vẫn khổ. Phải chăng sông ấy là dòng máu hòa nước mắt của dân Nam chảy mãi không bao giờ dứt?”

    Cháu nói: “Sao chú lại nói những lời buồn chán như vậy! Cháu quyết đứng lên, chú phải giúp cháu. Sông Thao là mẹ hiền, châu Thanh Hoa người đông, của nhiều, chẳng lẽ không có người hào kiệt hưởng ứng chúng ta sao?”

    Chú cháu bèn tìm họp người máu thịt được vài ba người, cùng bàn việc dời non lấp biển.


    Ba người ở ruộng khoai về làng Yển ở được sáu tháng, vỡ đất làm trại, trồng sắn cày ruộng. Ông chú đến gặp gỡ, cùng nói chuyện làm ăn và giúp đỡ ba người trong mọi việc, nhưng vẫn kín đáo không nói gì tới những việc chọc trời khuấy nước.

    Một hôm ba người đến gặp Phật Nguyệt, nói rằng: “Người có lòng không dám ngỏ cùng nhau, bao giờ mới nên việc lớn? Nhà sắp đổ có gỗ tốt sao không dùng?” Phật Nguyệt tươi cười nói: “Gỗ có ngâm lâu mới dùng được bền. Nay cũng đã tới lúc vớt lên dựng cột được rồi, tiếc rằng còn thiếu.” Ba người hăng hái nói: “Chúng tôi đều có thù sâu với giặc, nàng cần gì xin cứ sai khiến!”

    Phật Nguyệt nói: “Còn chờ đợi gì nữa! Nay đã đến lúc cần đến các tráng sĩ đấy. Tìm người có tài có chí cùng nhau mưu việc, đó là một. Tích lương trữ thóc, tính kế lâu dài, đó là hai. Tụ khởi nghĩa binh, rèn đao tập gậy, đó là ba. Học trò của chú tôi có một vài người, nhưng lực còn ít quá, mong các tráng sĩ xắn tay áo cho!”

    Ba tráng sĩ vui vẻ nhận lời, bèn tìm các bạn cùng chí và những người giỏi đánh đao múa gậy, đưa đến gặp Phật Nguyệt. Các học trò của chú cũng ra sức kết giao hào kiệt, tập luyện võ nghệ. Phật Nguyệt họp dân làm binh, chia thành đội ngũ. Mọi người tôn Phật Nguyệt làm chủ.

    Lại nói về ba tráng sĩ ở ruộng khoai. Người cao tuổi nhất là Lê Bảo Hoàn mưu cơ trí lự, vốn chỉ là dân cày nghèo, vì trong một cuộc đấu vật ở hội làng lỡ tay quật mạnh con một tên cường hào ốm đến ba tháng, sau rồi nó bị què, nên phải bỏ làng đi để tránh thù của nó. Hoàn bị giặc bắt đi phu lại tìm cách trốn, trốn đã nhiều lần, nhân lần này thấy teen quản phu Hán đánh một người đàn bà trẻ bằng roi da đầu bọc đồng, mới xách bổng tên này lên ném xuống chân rừng. Giặc trói Hoàn lại đánh suốt ngày, nửa đêm Hoàn được Vũ Giao và Đào Lộc đến cởi trói đưa đi.

    Vũ Giao và Đào Lộc đều là dân chài nòi, bơi lặn như cá, đã có lần hai người hai dao nhọn lặn sông đâm chết thuồng luồng, được người ta gọi là dũng sĩ. Hia người và Lê Bảo Hoàn bàn nhau cùng đi tìm Phật Nguyệt để mong có thể thành được chí mình.

    Có ngày nhân lúc bàn việc, Lê Bảo Hoàn nói với Phật Nguyệt: “Nàng là phận gái mà có chí lớn, nay sự nghiệp đã bắt đầu, chúng tôi rất mừng. Nhưng múa đao đánh gậy là việc nhỏ, còn như chém tường phá thành, đến giặc không ngờ, đi giặc không biết, một người nghĩ cho trăm người, đánh thì được, giữ thì vững, đó mới là những việc người nghĩa chủ phải lo!” Phật Nguyệt nghe tráng sĩ nói, thấy sáng ra nhiều, mới cùng ông chú và Lê Bảo Hoàn đi xem xét địa thế trong vùng, vẽ bản đồ từ sông vào tới đất giữa, từ ngược về xuôi, định trước thế tiến thế thoái, chỗ đánh chỗ phục. Phật Nguyệt lại lập một đội thủy binh giao cho Vũ Giao và Đào Lộc quản lĩnh, còn Lê Bảo Hoàn thì cùng ông chú lo mọi việc quân lương và huấn luyện sĩ tốt.

    Khi lực lượng đã mạnh, Phật Nguyệt đi các trang nói với các trang chủ: “Mọi người hãy cùng đứng dậy! Các trang hãy dựng giáo lên! Giặc đánh một thì mười trang cứu, giặc kia dẫu khỏe cũng không bằng chúng ta cùng một bụng. Sức chúng ta đã mạnh rồi!” Mọi người đều một lòng theo Phật Nguyệt. Từ đó không trang nào chịu đi xâu đi phu cho giặc, không trang nào chịu nộp thóc nộp tơ cho giặc. Giặc về xách nhiễu thì dằng dai chống lại, đánh trống làm hiệu tiến, đánh mõ làm hiệu lui. Quả nhiên giặc koong còn lùng sục hoành hành được như trước.

    Một hôm nhân lúc thư thả, ba tráng sĩ nói với Phật Nguyệt: “Chúa anh hùng đã ra đời, nàng đã biết chưa?” Phật Nguyệt ngạc nhiên hỏi lại. Ba tráng sĩ nói: “Ở Mê Linh có cháu ngoại Vua Hùng là Trưng nữ chủ đang mưu cứu nước, hào kiệt bốn phương đều theo về, nàng còn chờ gì nữa!” nói rồi đưa cho Phật Nguyệt tờ hịch cứu nước của Trưng nữ chủ. Phật Nguyệt xem xong mừng rỡ nói: “Những điều Trưng nữ chủ nói thật trúng ý ta, nay phải làm gì?” Các tráng sĩ đều vụt đứng dậy, nói: “Thời cơ đã đến, còn chờ gì nữa! Ta hãy đến gặp nữ chủ xin người dạy bảo cho.” Ngày hôm sau, Phật Nguyệt và vài chị em thân tín đi cùng Lê Bảo Hoàn về gặp Trưng nữ chủ.

    Ngày Trưng nữ chủ làm lễ tế cờ ở Hát Môn, Phật Nguyệt dẫn đầu hai nghìn ngĩa quân nam nữ Sông Thao về hội với các anh hùng cả nước.


    Trong cuộc khởi nghĩa chống Tô Định, Phật Nguyệt được phong là Thao giang thượng, Tả tướng thủy quân. Nàng lập nhiều công lớn nên khi bình xong giặc được phong là công chúa.

    Phật Nguyệt lấy làng Yển làm thực ấp, mở bến mở chợ, từ đó Yển trở nên một nơi sầm uất đông vui.

    Theo lệnh của Vua Trưng, Phật Nguyệt cùng các tùy tướng đi tìm đất hiểm yếu để lập đồn trại, mới vào vùng đất giữa, trang Thanh Cù nghỉ lại đêm ở một tòa miếu nhỏ. Hôm sau, Phật Nguyệt chọn tuyển ở trang Thanh Cù mười lăm người làm bộ hạ, lại bàn với các cụ sửa lại cổ miếu, cử người trông nom đèn nhang. Phật Nguyệt đặt ở đấy một đồn quân gọi là đồn Gò Voi. Phật Nguyệt lại cho đào một con ngòi từ Yển vào Thanh Cù gọi là ngòi Cài để tiện việc đi lại.

    Vài năm sau, Mã Viện là tướng giỏi của nhà Hán theo lệnh Vua Hán cầm quân sang xâm chiếm lại nước Nam ta. Sông Thao là đường tiến quân chiến lược của Mã Viện tiến đánh Bạch Hạc, vì thế Mã Viện giao cho phó soái Lưu Long tiến theo đường này. Phật Nguyệt chống cự với Lưu Long ở mạn ngược sông Thao nhiều trận đẫm máu, giặc bị kìm chân không xuôi về nam được. Ngày mồng mười tháng hai năm Quý Mão, Lưu Long dùng kế phục quân đang đêm bao vây phá vỡ đại đồn của Phật Nguyệt. Phật Nguyệt cả thua, tả xung hữu đột thoát được vòng vây, chạy theo bờ sông một thôi đường, ngoảnh lại quân tướng không còn ai, sau lưng lửa bốc rực trời, giặc lại chặn đánh ở phía trước. Phật Nguyệt kêu to một tiếng, phóng ngựa xuống sông, nước réo lên ầm ầm, tự nhiên xoáy thành vực lớnVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Phật Nguyệt công chúa là một người con gái anh hùng của sông Thao, vì bất bình trước cảnh lầm than của nhân dân mà tuốt gươm đứng dậy, kiên trì mưu trí, thu phục được hào kiệt, tuổi trẻ gánh việc lớn, làm nên được công nghiệp hiển hách, nêu cao chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta hồi đầu công nguyên.

    Phật Nguyệt được thờ ở các xã Thanh Vân, Phương Lĩnh huyện Thanh Ba, Vĩnh Phú.

    Đền thờ Phật Nguyệt ở Phương Lĩnh có câu đối:

    “Tích trù Động Đình uy trấn Hán

    Phương lưu thanh sử lực phù Trưng.”

    Nghĩa:

    “Sự tích hiển hách còn lưu ở Động Đình, uy trấn nhà Hán.

    Danh thơm lưu truyền sử xanh, sức mạnh phù Vua Trưng.”
     
    nmt and nguyenbahuy like this.
  6. ichono87

    ichono87 Lớp 7

    Liên quan đến sự tích của Bà Phật Nguyệt công chúa, mình tìm được một tài liệu khá hay, các bạn có thể tìm đọc thêm tại Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    tducchau thích bài này.
  7. ichono87

    ichono87 Lớp 7

    NÀNG QUỲNH, NÀNG QUẾ

    TIÊN PHONG PHÓ TƯỚNG


    Làng Trò bên sông Thao là một làng nhỏ dân ít, có hai vợ chồng Nguyễn Diệu và Đào Thị Lộng là dân chài, hiền lành như đất, sớm chiều thả lưới buông câu, sống lần hồi với một túp lều lúp xúp và mảnh vườn nhỏ bé. Đã nghèo lại hiếm muộn về đường con cái, hai vợ chồng thường phàn nàn về nỗi ông trời sao ở bất công, với người lương thiện chỉ biết chí thú làm ăn mà bắt tội hiếm cả con lẫn của.

    Tối hôm ấy, người vợ nằm mộng thấy vị thần núi hiện đến, trông như một chàng học trò xinh đẹp, mặc áo dài xanh, tay cầm hai cành hoa, cười mà nói rằng: “Có hai bông hoa đẹp nơi đỉnh núi ta vẫn để dành cho các ngươi, sao lại không hái về? Thương vợ chồng ngươi tu nhân tích đức, ta cho hai cành hoa của ta để các ngươi được hưởng phúc lâu dài.” Nói đoạn, vị thần đặt một bông quỳnh và một bông quế lên một chiếc mâm vàng chói lọi, trao cho hai người.

    Người vợ chợt tỉnh giấc, vừa mừng vừa sợ, đợi tới sáng mới đem chuyện mộng nói lại với chồng.

    Sau bà Lộng sinh đôi được hai người con gái, vợ chồng đặt tên cho là Quỳnh và Quế. Quỳnh và Quế cùng cất tiếng khóc chào đời một lúc, nên làng không biết coi ai là chị gọi ai là em. Tới khi hai con vừa đầy tuổi vợ chồng dọn đến ở xóm nhỏ dưới chân núi.

    Xóm nhỏ này nằm bên dòng sông Bứa giữa vùng rừng núi bao la thăm thẳm, thuở đó không rõ tên gì, sau này được gọi là làng Quang Húc. Quỳnh và Quế lên ba tuổi bụ bẫm xinh đẹp, cả làng yêu quý. Khi hai em lên mười tuổi, các người đi rừng bắt đầu dạy các em ném lao. Các em đòi bắn nỏ. Mọi người đều cười, nói rằng các em chưa đủ sức giương nỏ, hãy cố mà ném cho cây lao trúng thân chuối cách ba thước chân là được. Người trùm phường săn vui vẻ đưa các em dây cung của mình. Quỳnh và Quế lần lượt nhấc dây cung của người trùm phường săn, lắp tên, bắn thử. Cây cung cong như vành nguyệt mồng ba, chiếc tên vút bay như ánh chớp! Từ đó Quỳnh và Quế được tập lao tập cung, tập tìm vết thú rừng, tìm nơi chúng uống nước. Mùa xuân, xóm núi trắng rợi hoa mận hoa ban, mùa hè quả dâu da rụng đỏ rừng đỏ suối, tới mùa thu lá rừng trải vàng mặt đất, làng gặt lúa nếp lúa tẻ, cất rượu và làm lễ ăn cơm mới. Cụ già nhất làng nói: “Quỳnh và Quế đã lớn tuổi rồi, bắt được dấu con nai, tìm được chỗ ẩn con dũi, thế mà chưa biết ăn ở cho có thứ bực. Phải phân biệt chị em mới được. Nay ta hãy dồn con hươu cho hai đứa nó bắn, đứa nào bắn trúng đầu hươu sẽ là chị.” Làng khen phải, hò reo dồn vây một con hươu vàng cho hai em gái bắn. Mũi tên của Quỳnh buộc dải lụa trắng, mũi tên của Quế buộc dải lụa đỏ. Con hươu vàng bị dồn chạy lao qua chỗ các em gái nấp. Hai mũi tên bay như cánh én! Con hươu bị trúng tên chạy tới khe suối, cúi đầu uống nước. Dân làng đuổi tới vây bắt cùng vui vẻ reo lên. Mũi tê buộc lụa trắng cắm giữa hai sừng hươu còn mũi tên dải đỏ cắm vào cổ hươu ngập nửa thân tên. Từ đó, Quế phải gọi Quỳnh là chị.

    Khi Quỳnh và Quế tới tuổi mười lăm như trăng tới ngày rằm, vẻ đẹp rực rỡ hiện ra làm chói mắt người trẻ người già. Cụ già nhất làng lại nói: “Hai đứa nó đúng là hoa của thần núi ban cho dân ta!” Quỳnh và Quế xinh tươi như hai bông hoa của rừng núi châu Đại Man, bắn nỏ giỏi vượt hết trai tráng trong vùng, tiếng đồn về vẻ đẹp và tài bắn nỏ của hai cô gái bay khắp châu. Hai ông bà Nguyễn Diệu và Đào Thị Lộng tuổi đã già chỉ mong cho con gái yêu sớm được gặp người vừa đôi phải lứa.

    Thuở ấy giặc Hán đô hộ nước ta, chính sách bóc lột của giặc làm dân ta cơ cực trăm chiều. Giặc bắt dân châu Đại Man nộp mật ong, lông trĩ, nộp đuôi sóc và nhung hươu, nộp tắc kè và sừng dê. Giặc lại bắt nộp rượu và gạo nếp, rồi lại bắt nộp quế và trầm. Giặc còn đánh thuế rất nặng vào các lâm sản phẩm. Dân không nộp đủ, không có nộp đều bị giặc cùm kẹp đánh đập. Mỗi khi quan quân của chúng đi các làng các động thu thuế và cống phẩm, dân chúng phải trốn tránh lẩn lút góc rừng ven núi rất khổ sở.

    Một ngày có tin về làng là giặc Hán sẽ bắt hai nàng Quỳnh và Quế. Cả làng căm phẫn, lo sợ. Ông bà Nguyễn Diệu lại càng lo nghĩ trăm phần, mất ăn mất ngủ. Quỳnh và Quế vẫn cười nói như không. Cụ già nhất làng nói: “Các con hãy lẩn vào rừng sâu hang kín, tránh chúng nó như tránh con cọp dữ.” Quỳnh và Quế đều nói: “Chị em chúng con không tránh cọp bao giờ, thấy cọp là bắn, sao lại chịu trốn tránh mấy tên lính Hán? Nếu quan quân giặc Hán tới đây, hai chị em sẽ bắn chúng nó như bán con chồn con nai thôi!”

    Quả nhiên giặc về vây làng. Làng nổi trống nổi mõ. Trai làng nghiến răng giương nỏ lắp tên độc tẩm nhựa cây sui. Giặc nhốn nháo hò nhau tháo chạy. Xác giặc phơi ở cửa rừng, mặt đỏ tím như quả bồ quân, quạ bay lượn kêu toáng lên rồi lảng tránh cả.

    Con gái của vị chủ trưởng châu Đại Man là nàng Xuân dựng cờ tụ nghĩa, hào kiệt trong châu mang nỏ theo về được tới vài trăm người. Các làng các động châu Đại Man rèn giáo vót tên đều rủ nhau theo về với Xuân nương.

    Quỳnh và Quế muốn được gặp nàng Xuân. Nàng Xuân cũng cho người tìm gặp Quỳnh và Quế, nói rằng: “Xuân nương mưu việc lớn mong được gặp hai nàng để kết bạn!” Quỳnh và Quế đều nói: “Quan chủ trưởng châu là dòng lạc hầu. Anh nàng Xuân mưu giết Tô Địch, việc không thành, bị giặc sát hại. Nàng Xuân vì nợ nước thù nhà đứng lên cùng dân trong châu chống nhau với giặc. Hai đứa chúng tôi phải tìm đến xin làm nữ tốt dưới cờ của nàng Xuân, đâu dám nói tới chuyện kết bạn cùng nàng!” Nói rồi cả hai cùng về gặp Xuân nương. Xuân nương vui mừng nói với hai người: “Hai nàng thật là những bông hoa của thần núi, đã xinh đẹp lại kiên cường. Ta không dám coi hai nàng là kẻ dưới nên muốn được kết bạn với hai nàng để cùng đuổi giặc Hán đấy thôi!” Quỳnh và Quế cũng vui mừng vì biết Xuân nương là bậc hào kiệt có tài đức, có trí lớn, nhìn xa nghĩ sâu, xứng đáng ở ngôi chủ trưởng đưa dắt mọi người, mới xin theo Xuân nương. Xuân nương an ủi bảo ban, dặn rằng về kết bạn với các tráng sĩ, cùng nhau hãy lên núi Bứa lập trại chống giặc. Nàng Xuân lại nói: “Muốn vào nhà phải qua cổng. Vùng núi rừng châu Đại Man ta lấy sông Bứa làm hào, núi Bứa làm cổng, hai em chớ coi thường. Các động đều ở nhà sàn, ăn cơm ống, đó chính là quê của mẹ ta. Các em giữ vững nơi cổng ngõ, chờ lệnh ta nhé!” Từ đó núi Bứa trở thành nơi hai nàng Quỳnh và Quế thiết lập căn cứ chống giặc Hán.

    Xuân nương đưa hai nàng Quỳnh và Quế cùng theo về gặp Hai Bà Trưng ở Mê Linh. Hai bà giao cho Quỳnh và Quế năm trăm quân, lại cho về đóng giữ núi Bứa.

    Khi Trưng Vương tế cờ ở Hát Môn, đem đại quân tiến đánh Luy Lâu lại có lệnh gọi Quỳnh và Quế về, phong làm Tiên phong phó tướng, thuộc dưới quyền Thiều Hoa, đi trước đến Luy Lâu vây hãm.

    Dẹp xong Tô Định, hai Bà luận công phong thưởng các tướng sĩ, hai nàng Quỳnh và Quế đều được phong công chúaVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Xã Quang Húc ở đầu con sông Bứa (còn có tên là sông Mỹ giang) có miếu Cây Quân thờ nàng Quỳnh và miếu Cây Sấu thờ nàng Quế. Núi Bứa trong truyền thuyết trên, nay có tên là núi Nàng hời Nàng hỡi, có thuyết cho rằng vì hai nàng mất trên núi nên núi có tên như vậy, với ý nghĩa là nhân dân than khóc hai nàng.
     
    nmt and thanhbt like this.
Moderators: thanhbt

Chia sẻ trang này