Giới thiệu sách Sức mạnh của số Sáu (phần 2 quyển Tôi là số bốn)

Thảo luận trong 'Giới thiệu sách hay chưa có trên TVE-4U' bắt đầu bởi skypeaful, 15/10/13.

Moderators: CreativeIdiot
  1. skypeaful

    skypeaful Lớp 4

    The Power of six – Sức mạnh của Số Sáu là tiểu thuyết giả tưởng của tác giả Pittacus Lore (bút danh của hai nhà văn James Frey và Jobie Hughes), và là phần thứ hai trong series 6 cuốn sách về hành tinh Lorien dành cho bạn đọc trẻ.
    [​IMG]
    Truyện xoay quanh những cuộc phiêu lưu tại Trái Đất của Số Bảy, Số Sáu, Số Bốn… - những Garde thuộc hành tinh Lorien phải lưu vong xuống Trái đất để chạy trốn kẻ thù độc ác, và tìm cơ hội phục hồi lại thế giới của mình. Trải qua rất nhiều hiểm nguy, các thành viên trong nhóm đã phát lộ và hoàn thiện các biệt năng; họ quyết định phá vỡ lớp hộ thân, gắn kết bên nhau để cùng chiến đấu vì mục tiêu chung.
    Truyện hấp dẫn, kịch tính, dành cho teen.

    Truyện này dài lắm 516 trang (33 chương), mình hiện đang bận nên chỉ đánh được vài chương, chương mới sẽ cập nhật ở top này (Vì hiện tại 4rum không có phòng đọc trực tuyến nên mình post tạm tại đây :D).
    Đánh máy bởi skypeaful. Copy vui lòng ghi rõ người đánh máy :D
     
    Tiểu Lý, le anh and viettran_ru like this.
  2. skypeaful

    skypeaful Lớp 4

    CHƯƠNG MỘT

    TÊN TÔI LÀ MARINA - MỘT CÁI TÊN MANG Ý NGHĨA của biển khơi, nhưng đấy là mãi sau này, người ta mới gọi tôi như vậy. Kỳ thực thì ban đầu, tôi được biết đến với danh xưng Số Bảy, một trong chín Garde thuộc hành tinh Lorien, nơi mà số phận của nó - đã và đang - phụ thuộc vào chính bản thân chúng tôi, những kẻ vẫn chưa đi vào con đường diệt vong, những kẻ vẫn còn tồn tại.
    Lúc đáp xuống đây, tôi được sáu tuổi. Khi con tàu vũ trụ chọn điểm đến cuối cùng là ở Địa Cầu, mặc dù hãy còn nhỏ, nhưng tôi vẫn ý thức được tình thế nguy nan của cả đoàn - chín Cêpan, chín Garde - ý thức được rằng cơ hội duy nhất của tất thảy chúng tôi là ở chốn này. Con tàu vũ trụ đã xâm nhập vào tầng khí quyển của Trái Đất giữa cơn giông tố bão bùng do chính chúng tôi tạo ra, và chúng tôi đã đặt bước chân đầu tiên lên hành tinh xanh. Tôi còn nhớ đám hơi nước đã làm rung chuyển con tàu, cũng như hai tay tôi đã sởn da gà ra sao.
    Suốt một năm trời, tôi đã không có cảm nhận về gió, và lúc ấy, ở ngoài trời mới lạnh làm sao. Có một người đã có mặt sẵn ở đấy chờ chúng tôi. Tôi không rõ ông ta là ai, chỉ ghi nhận được rằng ông ta đặt vào tay mỗi Cêpan hai bộ quần áo cùng một cái phong bì thật to. Cho tới tận giờ phút này, tôi vẫn chưa biết được trong phong bì ấy là thứ gì cả.
    Cả đoàn đứng túm tụm lại với nhau, hiểu rằng có thể chúng tôi sẽ chẳng còn được nhìn thấy nhau nữa. Liền sau đó là những lời dặn dò, những cái ôm siết rất chặt, thế rồi mọi người tách nhau ra, với ý thức là cần phải làm như vậy; mỗi đội gồm hai người đi về chín hướng khác nhau. Tôi ngoái đầu nhìn theo tất cả những người khác đang mỗi lúc một xa dần, một cách chậm rãi, từng người một, cho tới chừng tất cả đều mất hút. Cuối cùng, chỉ còn lại cô Adelina và tôi, lê bước đơn độc trong cái thế giới mà chúng tôi còn chưa có ý niệm gì về nó. Giờ thì tôi mới hiểu khi đó, cô Adelina đã phải sợ hãi như thế nào.
    Tôi còn nhớ cô cháu chúng tôi đã đáp một chuyến tàu thủy đến một nơi xa lạ. Tôi nhớ sau đó là hai, ba chuyến xe lửa khác nữa. Cô Adelina và tôi dìu nhau, tựa vào nhau ở những con hẻm tối tăm, tránh xa bất cứ người nào đang lai vãng gần đó. Chúng tôi đã đi hết thị trấn này đến thị trấn khác, hết băng núi lại đến băng đồng, gõ lên các cánh cửa mà ngay sau đó đã nhanh chóng đóng sầm lại trước mặt hai cô cháu tôi. Đói lả, mệt mỏi và sợ hãi - tôi chẳng bao giờ quên được những lúc mình phải ngồi trên vỉa hè để xin vài xu lẻ; nhớ lúc khóc lóc thay vì ngủ say. Chắc chắn là cô Adelina đã phải buộc lòng cho đi vài viên đá quí Lorien để đổi lấy những bữa ăn ấm áp, ngon lành - là nhu cầu thiết yếu của hai cô cháu; mà cũng có thể là cô đã cho đi tất cả số đá quí ấy cũng nên. Thế rồi chúng tôi cũng tìm ra được nơi trú ngụ này tại Tây Ban Nha.
    Một người phụ nữ lạnh lùng - mà sau này tôi được biết là Sơ Lucia - đã bước ra mở cánh cửa làm bằng gỗ sồi nặng trịch. Kẻ đối diện liếc nhanh diện mạo của cô Adelina, rồi đôi vai rũ xuống, tỏ rõ thái độ thất vọng.
    - Bà có tin vào lời Chúa không? - Người phụ nữ ấy đã cất giọng hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha; môi bà ta bĩu ra, ánh mắt se lại đầy toan tính.
    - Lời của Thiên Chúa là lời thề của tôi - Cô Adelina trả lời, kèm theo một cái gật đầu vô cùng trang trọng.
    Tôi không rõ người giám hộ của mình làm thế nào mà biết được câu trả lời này, có lẽ cô đã học lỏm được khi cả hai cô cháu cùng trú tạm trong hầm ngầm của một nhà thờ cách đó vài tuần, nhưng rõ ràng đấy là một câu trả lời chuẩn xác. Sơ Lucia mở rộng cánh cửa cho chúng tôi vào.
    Từ đó, chúng tôi náu mình ở đây, mười một năm ròng trong tu viện, bên trong những căn phòng ẩm mốc cũ kĩ, những hành lang rét mướt và những sàn nhà lạnh lẽo không khác nào những phiến băng. Ngoài vài vị khách ít ỏi đến thăm nhà thờ, Internet là nguồn kết nối duy nhất của tôi với cái thế giới bên ngoài cái thị trấn bé nhỏ; và tôi không thôi tìm kiếm, tìm tòi những dấu hiệu cho biết những đồng đội còn lại đang ở ngoài đó, những dấu hiệu cho thấy họ cũng đang tìm kiếm chúng tôi, cũng có khi là họ đang chiến đấu. Rồi cũng có dấu hiệu chứng tỏ tôi không hề đơn độc một mình, bởi lẽ ở thời điểm đó, tôi không thể khẳng định rằng cô Adelina vẫn còn niềm tin, rằng cô vẫn còn ở bên tôi. Thái độ của cô đã chuyển lên một tầm mức nào đó vượt lên trên những dãy núi. Có lẽ đó chính là thái độ đóng sầm cánh cửa trước một người phụ nữ đói khổ cùng đứa con của cô ta, mặc cho ngoài trời giá rét, vào một đêm nọ. Nhưng dù có là biểu hiện như thế nào, cô Adelina dường như đã đánh mất sự hối hả của một đời sống trốn chạy, niềm tin của cô về sự hồi sinh của Lorien dường như đã bị thay thế bởi niềm tin mà các nữ tu vẫn thường chia sẻ với nhau trong tu viện. Tôi còn nhớ sự thay đổi rõ rệt trong mắt của cô Adelina, nhớ những lời lẽ bất ngờ của cô về nỗi khó khăn cần có sự chỉ đạo và xây dựng nếu như chúng tôi sống sót được.
    Niềm tin của tôi về Lorien vẫn còn vẹn nguyên. Ở Ấn Độ, một năm rưỡi trước, có bốn người đã tận mắt chứng kiến một cậu bé có thể dùng ý nghĩ di chuyển đồ vật. Ban đầu, sự kiện này chẳng mang lại ý nghĩa gì đáng kể, nhưng rồi sự biến mất đột ngột của cậu ta ngay sau đó đã khiến dư luận xì xào, người ta đã đổ xô đi tìm cậu bé. Tuy nhiên, theo tất cả những gì tôi biết được thì chẳng ai tìm thấy cậu trai ấy cả.
    Vài tháng trước cũng có tin một cô gái ở Argentina, trong một trận động đất, đã nâng một khối bê-tông nặng năm tấn lên để cứu sống một người đàn ông bị mắc kẹt ở bên dưới, rồi khi tin tức về hành động anh hùng ấy lan truyền, cô gái bỗng dưng biến mất. Và cũng y hệt như cậu bé ở Ấn Độ, không một ai tìm thấy cô gái ấy cả.
    Và rồi sau đó, có hai cha con nhà kia đã thu hút toàn bộ sự chú ý của giới truyền thông Mỹ, ở bang Ohio, đối tượng đang bị cảnh sát tầm nã sau khi cả hai bị cáo buộc đã hủy hoại toàn bộ một ngôi trường, giết hại năm người. Họ chẳng để lại bất kỳ một dấu vết nào ngoại trừ một đống tro tàn bí ẩn.
    “Có vẻ như ở đây đã xảy ra một trận chiến. Tôi không biết phải giải thích khác đi như thế nào” - Báo chí trích lời của một điều tra viên hàng đầu - “Nhưng chắc chắn một trăm phần trăm, chúng tôi sẽ đi đến cùng vụ này, chúng tôi sẽ tìm ra ông Henri Smith và John, con trai ông ta”.
    Có lẽ John Smith, nếu như đó là tên thật của cậu ta, chỉ đơn thuần là một cậu nhóc có tính khí nóng nảy đã bị đẩy đi quá xa. Nhưng tôi không cho là như thế. Cứ mỗi khi hình ảnh của cậu ta xuất hiện trên màn hình máy vi tính của tôi là y như rằng tim tôi lại đập loạn nhịp. Tôi như bị chìm ngập trong một nỗi niềm tuyệt vọng không sao lí giải được. Không hiểu sao tôi lại cảm nhận rõ ràng rằng đó chính là một trong những đồng đội của tôi. Và tôi biết, dù thế nào, tôi cũng phải tìm ra cho bằng được cậu ấy.
     
    brisingr thích bài này.
  3. skypeaful

    skypeaful Lớp 4

    CHƯƠNG HAI

    TÌ TAY LÊN BẬU CỬA SỔ, TÔI DÕI MẮT NGẮM NHÌN các bông hoa tuyết lắc rắc rơi dưới bầu trời đêm, thả mình xuống sườn núi lô nhô mấy ngọn thông, ngọn sồi và rải rác đó đây vài cây bần, thảng hoặc là một số tảng đá dốc đứng đây đó. Tuyết sẽ không ngừng rơi cả ngày, và người ta bảo rằng tuyết sẽ rơi suốt cả buổi tối. Tầm nhìn của tôi có thể bươn tới tận mạn bắc của thị trấn - cả thế giới như bị mất hút trong màn sương trắng lờ nhờ. Khi trời quang, suốt cả ngày, có thể nhìn thấy rõ được mực nước xanh lơ của Vịnh Biscay. Còn với cái thời tiết này thì đành chịu, tôi không sao ngăn được mình trước thắc mắc: liệu có gì đó đang ẩn nấp dưới cái màu trắng lóa ở bên ngoài nhỡn giới của tôi?
    Tôi ngoái nhìn lại đằng sau. Trong căn phòng lạnh lẽo với cái mái cao ngất chỉ có vỏn vẹn hai chiếc máy vi tính, nếu muốn sử dụng thì phải điền tên mình vào danh sách rồi chờ đến lượt. Buổi tối, khi có người đợi thì chỉ được sử dụng đúng mười phút, còn nếu không có ai thì được sử dụng máy hai mươi phút. Hiện thời, hai cô gái kia đã ngồi tới nửa tiếng đồng hồ rồi, mà sự kiên nhẫn của tôi thì chẳng còn mấy nữa. Từ ban sáng, khi lò dò bước chân vào căn phòng này, trước bữa điểm tâm, tôi chưa hề có lúc nào kiểm tra tin tức cả. Lúc ấy, vẫn chưa có bài viết nào mới về John Smith, nhưng không một giây phút nào tôi lại thôi phập phồng cho điều sắp sửa xảy ra. Kể từ khi bản tin đầu được trình làng, mỗi ngày người ta lại phát hiện thêm một điều mới.
    Santa Teresa là một tu viện, đồng thời cũng là một trại trẻ mồ côi chỉ nhận các trẻ em gái. Bây giờ, trong ba mươi bảy người ở đây; tôi là kẻ “già đầu” nhất, đây là cái “danh hiệu” mà tôi đã giữ suốt sáu tháng ròng, sau khi cô gái cuối cùng vừa mới bước sang tuổi mười tám đã khăn gói ra đi. Đến mười tám tuổi; chúng tôi phải tự đưa ra quyết định cho bản thân mình, hoặc là ra khỏi tu viện, hoặc là gắn bó toàn bộ cuộc đời mình với Nhà Thờ. Và thực tế là trong tất cả các cô gái đã đến ngưỡng mười tám tuổi, chưa có cô nào chịu ở lại cả. Cũng chẳng thể nào trách họ được. Ngày sinh của tôi do cô Adelina và tôi cùng ấn định lúc hai cô cháu đến tá túc nơi này, chỉ còn chưa đầy năm tháng nữa, đó cũng là cái mốc đánh dấu thời điểm tôi mười tám tuổi. Và chẳng khác nào các bạn, tôi luôn nung nấu ý định thoát khỏi cái nhà tù này, mặc cho cô Adelina có chịu lên đường cùng tôi hay không. Thật cũng khó mà hình dung là cô ấy chịu đồng hành cùng tôi lắm.
    Tu viện Santa Teresa được xây bằng đá từ năm 1510, một tu viện quá đồ sộ so với nhóm người trú ngụ. Đa số các phòng đều bỏ không; những phòng có người thì đem lại cảm giác ẩm ướt; hơi đất nồng nồng, cứ âm vang tiếng vọng rền trần. Tọa lạc trên một ngọn đồi cao nhất vùng, Santa Teresa trông xuống một ngôi làng có cùng tên gọi, ẩn mình sâu trong rặng Picos de Europa, nằm về phía bắc Tây Ban Nha. Cũng chẳng khác nào tu viện, ngôi làng được dựng bằng đá, nhiều cấu trúc ăn sâu thẳng vào sườn núi. Nếu thuôn theo Calle Principal - con đường chính của thị trấn - sẽ bắt gặp những khung cảnh hoang tàn. Vùng đất như chìm trong sự lãng quên của thời gian. Qua hàng thế kỷ, rêu phong đã phủ đầy sắc xanh, nâu; không khí ngai ngái thứ mùi mốc ẩm.
    Kể từ ngày tôi năn nỉ cô Adelina cùng lên đường với mình, theo đúng tinh thần phải luôn luôn dịch chuyển, tính đến nay đã năm năm: "Biệt Năng của cháu sẽ sớm xuất hiện thôi; cháu không muốn đón nhận nó ở chốn này, lúc nào cũng có các Sơ và mấy bạn tới lui qua lại”. Tôi đã mở lời như vậy. Và người giám hộ của tôi đã thẳng thừng từ chối, cô viện dẫn lời của La Biblia Reina Valera (Bản Kinh thánh King James) rằng chúng tôi phải tĩnh tâm để cứu rỗi linh hồn. Từ đó, cứ mỗi năm, tôi lại ra rả cái điệp khúc cầu xin, và năm nào cô Adelina cũng nhìn tôi bằng đôi mắt vô hồn, cũng gạt phăng lời tôi bằng những huấn thị tôn giáo. Dù gì thì gì, tôi vẫn cứ đinh ninh một điều rằng sự cứu rỗi linh hồn của tôi không hề nằm ở đây.
    Lướt mắt ra phía cổng nhà thờ, thả tia nhìn trôi theo sườn đồi thoai thoải, tôi có thể ghi nhận được lác đác mấy ánh đèn lập lòe của thị trấn. Đang cơn bão tuyết thế này, những đốm sáng trông chẳng khác nào các vầng hào quang. Tuy chẳng nghe ra được tiếng nhạc của một trong hai quán rượu, tôi cũng dám chắc cả hai quán đang đông nghẹt khách. Ngoài chỗ này ra thì thị trấn còn có một nhà hàng, một quán cà-phê, một cái chợ, một cửa hàng rượu và mấy sạp hàng nằm dọc theo đường Calle Principal hoạt động chủ yếu vào các buổi sáng và chiều. Xuống đến chân đồi, chỗ rìa nam thị trấn là ngôi trường gạch - nơi tất cả chúng tôi đang theo học.
    Không gian chợt vang vọng một hồi chuông, tôi quay phắt đầu lại: giờ cầu nguyện còn đúng năm phút nữa, sau đó là giờ đi ngủ. Một nỗi sợ hãi bao trùm lấy cơ thể tôi. Tôi cần phải biết được là đã có tin tức gì mới hay chưa. Có lẽ John đã bị bắt rồi. Có khi cảnh sát đã phát hiện ra được một điều gì đó ở ngôi trường đã bị hủy hoại, một điều mà ban đầu họ đã bỏ qua rồi cũng nên. Mà dẫu không hề có tin tức gì mới mẻ đi chăng nữa, tôi cũng phải biết cho kỳ được; nếu không, tôi sẽ chẳng thể nào mà chợp mắt nổi.
    Tôi bắt đầu điều chỉnh lại ánh nhìn, rọi thẳng vào Gabriela García - gọi tắt là Gabby - kẻ đang “chiếm dụng” một chiếc máy vi tính. Gabby mười sáu tuổi, khuôn mặt xinh xắn, có mái tóc đen dài và đôi mắt nâu; cứ mỗi lần bước chân ra khỏi tu viện là cô ta lại chọn tông đồ kệch cỡm, mặc những chiếc áo bó cố tình để lộ cái rốn xỏ khoen. Mỗi sáng, Gabby đều vận lên người bộ đồ rộng thùng thình, nhưng chỉ ngay sau khi các Sơ vừa khuất dạng; cô ta đã cởi hết mấy thứ đồ ấy ra để phô phang bên trong bộ đồ thiếu vải chật ních, bó sát cơ thể. Thế rối thay vì đến trường, Gabby dành thời gian cho trang điểm và làm tóc, y chang bốn cô bạn của cô ta, trong đó, có ba người là sống ở đây. Đến cuối ngày, cả ba sẽ rửa mặt mũi sạch sẽ rồi cuốc bộ trở về tu viện, không quên thay lại các bộ quần áo thường nhật.
    - Sao hả: - Gabby cất giọng léo nhéo, mắt nhìn xoáy vào tôi một cách hằn học - Tôi đang viết thư điện tử mà.
    - Tôi đã chờ hơn mười phút rồi đó - Tôi sẵng giọng - Mà đâu có phải là bồ viết thư điện tử. Bồ đang coi hình mấy anh chàng cởi trần đấy chứ.
    - Thì đã sao? Tính mách lẻo chuyện tôi hả, đồ nhiều chuyện? - Gabby trả treo, tông giọng đầy chất nhạo báng không khác nào đang nói với một đứa con nít.
    Cô gái ngồi bên cạnh có tên Hilda, nhưng hầu hết học sinh trong trường đều gọi là La Gorda - “ú nu” (chỉ nói sau lưng thôi, không bao giờ gọi trước mặt) cười ngặt nghẽo.
    Gabby và La Gorda đúng là đôi bạn hợp rơ. Tôi nín thinh, quay trở lại với ô cửa sổ, khoanh hai tay trước ngực, trong lòng không tránh được cảm xúc bực bội, phần vì muốn ngồi máy vi tính, và phần vì không biết phải đáp trả lời nói xóc xỉa của Gabby như thế nào. Lại thêm bốn phút nữa trôi qua. Sự nôn nóng ở tôi đã chuyển thành nỗi tuyệt vọng. Ắt hẳn giờ này là đã phải có tin tức rồi - tin nóng hổi hẳn hoi! - thế mà tôi không có cách nào để biết được, chỉ vì hai đứa khùng ích kỉ này không chịu nhả bớt một máy vi tính cho tôi.
    Ba phút tiếp tục trôi qua. Tôi gần như run lên vì tức giận. Hốt nhiên, một ý tưởng chợt bùng phát trong đầu tôi, và môi tôi thoáng nở một nụ cười đắc ý. Liều lắm đây, nhưng nếu thành công thì cũng đáng.
    Tôi khẽ ngoái đầu lại, chỉ vừa đủ để cho chiếc ghế của Gabby lọt vào nhỡn giới. Rồi hít vào một hơi thật sâu, tôi dồn hết sức mạnh vào chiếc ghế của cô ta, dùng siêu năng lực để xô nó sang bên trái, đoạn nhanh chóng đẩy nó sang bên phải mạnh đến độ chiếc ghế gần như đổ kềnh xuống sàn. Gabby nhảy dựng lên, thét ré. Tôi quan sát đối phương đang vô cùng ngạc nhiên.
    - Cái gì thế? - La Gorda sửng sốt.
    - Không biết nữa, có cảm giác như ai đó vừa đá vào ghế của mình hay sao ấy. Bồ có cảm thấy gì không?
    - Có thấy gì đâu - La Gorda trả lời; và vừa lúc lời lẽ đó được thốt ra, tôi xô chiếc ghế của cô ta ra sau vài xăng-ti-mét, rồi hẩy sang phải, trong lúc vẫn dõi mắt vào mục tiêu của mình ở cửa sổ. Lần này, cả hai người họ cùng kêu ré lên. Tôi hích vào chiếc ghế của Gabby, rồi tới ghế của La Gorda. Không dám nhìn vào chiếc máy vi tính của mình thêm một lần nào nữa, cả hai cô gái đồng loạt lao thẳng ra khỏi phòng, vừa chạy vừa la hét không ngớt.
    - Được lắm! - Tôi nhảy bổ vào chiếc máy vi tính vừa nãy Gabby đang dùng, nhanh tay gõ lóc cóc địa chỉ trang tin mà tôi tin cậy. Sốt ruột, tôi đợi cho trang web hiển thị đầy đủ. Mấy chiếc máy này cũ mèm, cộng thêm kết nối internet chậm như rùa, đúng là hai thứ ám hại đời tôi.
    Trình duyệt chuyển thành trang trắng, rồi từng hàng, từng hàng một, trang web của tôi bắt đầu hiển hiện thành hình. Nhưng tải đến khoảng chừng một phần tư trang thì có tiếng chuông réo vang. Giờ cầu nguyện chỉ còn đúng một phút nữa. Nhưng tôi đã quyết là sẽ mặc kệ tiếng chuông, thậm chí là cả khả năng sẽ bị trừng phạt. Vấn đề này thì tôi chẳng mảy may quan tâm. “Chỉ còn năm tháng nữa” - Tôi tự nhủ trong lòng.
    Giờ thì trình duyệt đã hiện được nửa trang, phần trên khuôn mặt của John Smith bắt đầu hiện rõ trên màn hình, ánh nhìn của cậu ta chếch lên trên, tuy nỗi bất an thể hiện rõ thành sự lúng túng, nhưng đôi mắt đen lay láy ấy vẫn toát lên vẻ tự tin. Tôi ngồi như dán vào ghế, chờ đợi, trong lòng khấp khởi, hai tay run run.
    - Nữa đi - Tôi nói với cái màn hình trước mặt, giục giã một cách vô ích - Nữa đi, nữa đi, nữa đi.
    - Marina! - Một giọng nói bất thần vang lên nơi ngưỡng cửa mở toang. Tôi ngoái đầu lại và nhận ra Sơ Dora, người phụ nữ có thân hình đẫy đã và là bếp chính trong nhà bếp, Sơ đang hằm hằm nhìn tôi. Chẳng có gì mới mẻ cả. Sơ vốn vẫn có cái nhìn đầy hằn học như thế đối với bất kỳ ai cầm khay đi lấy thức ăn, làm như thể nhu cầu ăn uống của chúng tôi là một việc phải lấy làm nhục nhã lắm vậy. Sơ bặm môi, hai mắt se lại - Đi! Ngay! Ngay là ngay bây giờ ấy!
    Thở dài, tôi ý thức được rằng mình chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài chuyện phải nhổm dậy, bước ra ngoài. Tôi xóa phần lịch sử của trình duyệt và tắt trang rồi theo Sơ Dora đi về phía cuối hành lang tối om. Màn hình ấy có gì đó mới lắm; tôi vỡ lẽ ra. Tại sao khuôn mặt của John lại choán hết nguyên một trang? Một tuần rưỡi là khoảng thời gian quá dài, thừa sức biến bất kỳ một tin tức nào trở thành cũ rích, vì lẽ đó, khi cậu trai chiếm trọn màn hình thì điều đó có nghĩa là đang có một nguồn tin mới vô cùng quan trọng.
    Chúng tôi bước vào chính điện của tu viện Santa Teresa, đây là một giáo đường đồ sộ với những cây cột chống cao ngất chạm tới trần nhà hình mái vòm, những ô kính màu chạy dọc theo các bức tường xung quanh. Dọc theo chiều dài căn phòng là các hàng ghế gỗ, có sức chứa tới gần ba trăm người. Sơ Dora và tôi là hai kẻ vào sau cùng. Tôi ngồi một mình ở một hàng ghế thuộc dãy giữa. Sơ Lucia - người đã mở cửa cho cô Adelina và tôi khi lần đầu tiên hai cô cháu tôi đặt chân đến tu viện, hiện vẫn đang cai quản nơi này - đứng nơi bục giảng, hai mắt khép hờ, đầu hơi cúi, hai tay chắp lại ở phía trước. Tất thảy mọi người đều làm theo y hệt như vậy.
    - Padre divino (Đức Chúa Trời) - Lời nguyện cầu được cất lên bằng một âm thanh nghe não nuột - Que nos bendiga y nos proteja en su amor… (Ban phước cho chúng ta và bảo vệ chúng ta trong tình yêu của Người… )
    Tôi chẳng mảy may để tâm, cứ lặng lẽ quan sát những cái đầu ở trước mặt mình, tất cả đều đang cúi xuống trong sự tập trung cao độ. Hay chỉ đơn thuần là cúi đầu mà thôi? Dõi mắt tìm người giám hộ, tôi nhận ra cô Adelina đang ngồi ở hàng ghế đầu tiên trong sáu chiếc ghế nằm trước mặt tôi, mé bên phải. Cô ngồi trên gối, dáng điệu cho thấy đang trầm tư, mái tóc nâu được tết chặt thành bím thả giữa lưng. Không hề ngẩng mặt lên lấy một lần, cô Adelina chẳng buồn ngoảnh mặt ra phía sau để tìm kiếm tôi, như cái dạo cô vẫn hay làm khi cả hai cô cháu vừa mới dọn đến đây trong vài tuần lễ đầu, vừa nhác thấy bóng nhau đã nhoẻn miệng cười; cả hai chúng tôi cùng nắm giữ bí mật chung. Hiện thời chúng tôi vẫn giữ bí mật ấy, nhưng rồi từ lúc nào, cô Adelina đã thôi chấp nhận điều đó. Từ lúc nào, kế hoạch ở lại cho tới chừng chúng tôi cảm thấy đủ mạnh, đủ an toàn để lên đường, đã được thay thế bằng ước vọng của cô Adelina - bằng chính nỗi sợ hãi của cô - để rồi chỉ đơn thuần là chấp nhận chôn vùi cuộc đời ở tu viện này.
    Trước khi có nguồn tin về John Smith được mấy tháng, tôi có kể với cô Adelina khi tin tức rộ lên, chúng tôi đã bàn với nhau về nhiệm vụ của mình. Hồi tháng Chín, tôi có cho cô xem vết sẹo thứ ba, vết sẹo thứ ba cảnh báo rằng một Garde nữa đã bỏ mạng, rằng cô cháu tôi đang tiến thêm một bước nữa đến vị trí bị săn đuổi và chết dưới tay của bọn người Mogadore; thế mà người giám hộ của tôi lại làm như chẳng hề có chuyện này. Làm như cái điều mà hai cô cháu đều biết chẳng hề tồn tại. Lúc nghe kể về John, cô chỉ đơn thuần là trố mắt ra rồi bảo tôi hãy thôi tin vào mấy cái chuyện cổ tích ấy đi.
    - En el nombre del Padre, y del Hijo, y del Espíritu Santo. Amén (Nhấn danh Cha, Con và Thánh Thần. Amen) - Mọi người đồng thanh cất tiếng, rồi tất cả những ai đang có mặt ở trong phòng đều đồng loạt làm dấu thánh giá ở câu cuối cùng, kể cả tôi, để giữ thể diện: chạm tay lên trán, ngực rồi vai trái và vai phải.
    Khi ấy tôi đang say giấc, mơ thấy mình đang thả dốc xuống núi và hai tay dang rộng ra hai bên như thể chuẩn bị bay, bất chợt tôi choàng tỉnh vì đau, dưới chân sáng rực khi vết sẹo thứ ba thành hình. Ánh sáng đã đánh thức một số người trong phòng, nhưng may mà không có Sơ phụ trách nào cả. Mọi người trong phòng cho rằng tôi đang giấu một chiếc đèn pin và một quyển tạp chí dưới đám mền mùng, và rằng tôi đang phạm vào lệnh giới nghiêm. Trên chiếc giường kê kế giường tôi, Elena, một cô gái kiệm lời mười-sáu-tuổi có mái tóc đen nhánh thường hay đưa vào miệng mỗi khi chuyện trò, đã ném một cái gối về phía tôi. Da thịt tôi bắt đầu cháy xém, cơn đau tồi tệ đến mức tôi phải cắn chặt răng vào mền để có thể giữ được sự câm nín. Tôi không thể nào ngăn mình thôi không khóc, bởi lẽ ở đâu đó ngoài kia, Số Ba đã bỏ mạng. Giờ thì chúng tôi chỉ còn lại sáu người.
    Còn tối nay, tôi cùng các bạn nối đuôi nhau ra khỏi giáo đường đến chỗ ngủ, nơi này kê hàng loạt các dãy giường giống nhau, kẽo cà kẽo kẹt, nhưng trong tâm tưởng tôi đã lên kế hoạch rõ ràng. Để bù đắp cho những chiếc giường cứng, sự lạnh lẽo của những khối bê-tông ở từng phòng, thứ xa xỉ duy nhất chúng tôi được ban phát là các tấm ga mềm mại và những chiếc mền nặng trịch. Giường tôi được kê ở góc cuối cùng, cách xa cửa nhất nên được coi là chỗ “độc”; ở đây tuyệt đối yên ắng, và phải mất cả một thời gian dài tôi mới chiếm lĩnh được, cứ mỗi một người ra khỏi tu viện là tôi lại chuyển sang một giường gần hơn.
    Đèn đóm tắt sạch vừa khi mọi người kịp đặt lưng xuống giường. Tôi nằm ngửa, mắt như dán dính vào trần nhà hình chóp đang hiện ra lờ mờ. Đột ngột, sự tĩnh lặng bỗng bị phá vỡ bởi tiếng thì thào của ai đó, tiếp theo là tiếng suỵt nhắc nhở của Sơ phụ trách. Tôi mở mắt thao láo, chờ đợi cho mọi người ngủ say mà sốt ruột quá đỗi. Sau nửa tiếng đồng hồ, các tiếng xì xào bắt đầu lắng dịu, thay vào đó là tiếng thở sâu đều đặn, vậy mà tôi vẫn chưa dám mạo hiểm. Còn sớm quá. Rồi mười lăm phút nữa trôi qua, vẫn không thấy động tĩnh gì. Lúc này thì tôi không thể chịu đựng lâu hơn được nữa.
    Nín thở, tôi rướn chân từng chút một ra tới mép giường, tai vẫn ghi nhận nhịp thở đều đều ở bên cạnh của Elena. Hai bàn chân tôi chạm được tới sàn nhà lạnh cóng, ngay lập tức trở lạnh. Một cách từ tốn, tôi đứng dậy, hết sức tránh để chiếc giường không kêu kẽo kẹt thành tiếng rồi nhón chân băng qua phòng ra đến cửa, không quên bước đi thật chậm để không va phải một chiếc giường nào. Tới ngưỡng cửa, tôi hối hả tiến đến cuối hành lang, vào phòng vi tính. Nhấc ghế ra, tôi ấn vào nút khởi động máy.
    Tôi sốt ruột chờ cho chiếc máy vi tính khởi động, mắt không thôi dõi ra ngoài hành lang xem có ai lẻn theo không. Rốt cuộc, tôi cũng đã có thể gõ địa chỉ trang web và màn hình trở nên trắng xóa, tiếp theo đó là hai tấm hình hiển hiện ngay chính giữa trang, xung quanh là các dòng chữ, tít bài nằm trên cùng có màu đen được in đậm, nhưng đang còn hiện ra mờ quá, không dễ đọc chút nào. Giờ thì tới hai hình rồi - không rõ ban nãy; khi tôi cố kiểm tra cho tới bây giờ đã có gì thay đổi. Và cuối cùng, các hàng chữ cũng bắt đầu tượng hình thật rõ nét:
    NHỮNG KẺ KHỦNG BỐ QUỐC TẾ?​

    Hình ảnh của John Smith nằm ở bên trái, với quai hàm góc cạnh, mái tóc vàng sậm rối tung cùng đôi mắt màu xanh; còn cha cậu ta - có vẻ như là một Cêpan - ông Henri, nằm ở bên phải. Đây không phải là hình chụp, mà chỉ là một bức phác họa bằng bút chì trắng đen. Tôi đọc lướt qua những gì đã ý thức được - ngôi trường bị san bằng thành bình địa, năm người chết, đột ngột biến mất - và ghi nhận thêm thông tin bây giờ mới được tường thuật:
    Một bước ngoặt mới trong tiến trình điều tra, hôm nay, các điều tra viên FBI đã phát hiện ra các tang vật được cho là công cụ của một kẻ làm giả chuyên nghiệp. Họ đã tìm thấy một số máy móc chuyên dụng được dùng để tạo ra các tài liệu ở thị trấn Paradise, bang Ohio, trong một căn nhà mà ông Henri và John Smith đang thuê mướn, các máy móc được để dưới hầm ngầm của phòng ngủ, sự kiện này đã khiến các điều tra viên nhắm đến khả năng có sự liên quan đến chủ nghĩa khủng bố. Tạo nên sự rúng động trong cộng đồng dân cư Paradise, ông Henri và John Smith được xem là mối đe dọa của an ninh quốc gia, hiện đang lẩn trốn; các điều tra viên đang kêu gọi bất kỳ thông tin nào có thể dẫn đến chỗ trú ẩn của họ.
    Tôi trở lại với hình ảnh của John, ngay vào thời khắc ánh nhìn của tôi rọi thẳng vào ánh mắt của cậu trai ấy, thì hai tay tôi chợt bắt đầu run rẩy. Đôi mắt của John - thậm chí chỉ là trong bức ảnh thôi - cũng có nét nào đó thật quen thuộc. Làm sao tôi có thể quen với ánh mắt ấy nếu không phải từ chuyến bay kéo dài cả năm trời đã đưa chúng tôi đến Địa Cầu? Giờ thì không một ai có thể làm cho tôi tin rằng John không phải là một trong sáu Garde còn lại, vẫn còn sống trong thế giới xa lạ này.
    Ngả người ra sau, tôi thổi tung mái tóc đang xòa xuống mắt, ước sao có thể đích thân đi tìm John. Lẽ tất nhiên là bác Henri và John Smith có thể qua mặt được cảnh sát; đến giờ hai bác cháu ấy đã ẩn mình được cả thảy mười một năm ròng, cũng như cô Adelina và tôi. Nhưng làm sao tôi có thể hy vọng được rằng mình sẽ là kẻ tìm thấy cậu ta trong lúc cả thế giới đang đổ xô kiếm tìm? Làm sao mọi thành viên trong chúng tôi có thể hy vọng được sát cánh cùng nhau?
    Khắp nơi đều có các cặp mắt theo dõi của bọn người Mogadore. Tôi không rõ làm thế nào mà bọn chúng lùng ra được Số Một và Số Ba, nhưng tôi biết chắc chúng lần ra được Số Hai vì trang nhật kí cá nhân của cậu bạn ấy hay cô bạn ấy. Bản thân tôi cũng đã tìm thấy trang blog đó, tôi đã ngồi thừ người ra tới mười lăm phút liền để nghĩ xem nên trả lời thế nào là tốt nhất mà không để lộ tung tích. Tuy lời nhắn rất mơ hồ, nhưng với những kẻ đang kiếm tìm như chúng tôi thì lại quá rõ ràng: Chín, giờ còn tám. Các bạn có đó không? Thông tin này được một tài khoản lấy tên là Số Hai đưa lên. Tôi đặt các ngón tay lên bàn phím và gõ thật nhanh câu trả lời, thế nhưng ngay trước khi tôi kịp nhấn nút Gửi, trang web đã bị thay đổi - có người đã trả lời trước rồi.
    Tụi mình đây, nội dung dòng tin hồi âm là như vậy.
    Tôi há hốc miệng, mắt trố ra trong sự sững sờ đến tột cùng. Hai tin nhắn ngắn ngủi đó đã khiến toàn bộ cơ thể tôi ngập tràn niềm hy vọng, tuy nhiên, đúng vào thời khắc các ngón tay của tôi vừa kịp gõ xong một dòng tin trả lời khác, thì ngay bên dưới chân tôi, một vòng sáng rực rỡ chợt xuất hiện kèm theo những tiếng lèo xèo của da thịt bị cháy. Đi cùng với hiện tượng ấy là cơn đau rát bỏng dữ dội đến độ tôi đã ngã quị xuống sàn và lăn lộn vì đau. Hai hay rịt chặt lấy mắt cá chân để không ai trông thấy, tôi thét đến khản cổ gọi cô Adelina. Đến khi người giám hộ của tôi tới nơi và ý thức được mọi sự, tôi trỏ tay vào màn hình, nhưng tất cả đã trống không; cả hai tin nhắn được gửi lên đã bị xóa sạch.
    Tôi cất ánh nhìn khỏi đôi mắt thân thuộc của John Smith trên màn hình. Bên cạnh chiếc máy vi tính là một bông hoa nhỏ đã hoàn toàn bị lãng quên. Bông hoa héo rũ và tàn úa, teo quắt lại chỉ còn một nửa chiểu cao, ven rìa lá đã ngả sang màu nâu và giòn rụm. Vài cánh hoa rụng rơi trên bàn, hiện thời khô cong và nằm rải rác quanh chiếc chậu. Hoa vẫn chưa chết, nhưng cái đích đó chẳng còn xa mấy nữa. Chồm người tới, tôi chụm tay quanh bông hoa rồi ghé mặt lại gần, vừa đủ để môi tôi khẽ chạm vào những chiếc lá, tôi thổi hơi vào đó. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng tôi, nhưng đáp lại, sự sống hồi sinh nơi bông hoa bé nhỏ. Sinh thể ấy vươn thẳng dậy, màu xanh căng đẩy nhựa sống ngập tràn trên các lá, các nhánh cành, các cánh hoa mới cũng xòe nở, ban đầu là vô sắc, rồi ngả sang màu tím thắm tươi. Trên môi tôi nở một nụ cười tinh quái, không sao ngăn được dòng suy nghĩ, chẳng biết các Sơ sẽ phản ứng như thế nào khi được chứng kiến tận mắt cảnh này. Tuy nhiên, tôi sẽ chẳng bao giờ để các Sơ có được cơ hội đó. Thể nào cũng sẽ bị hiểu sai, và tôi không muốn bị đuổi cổ ra ngoài đường trong giá lạnh. Tôi vẫn chưa sẵn sàng cho điều đó. Sẽ sớm thôi, chỉ có điều là chưa phải lúc này.
    Tắt máy vi tính, tôi hối hả quay trở lại giường giữa bao suy tưởng về John Smith, rằng cậu trai ấy đang ở ngoài kia; những suy nghĩ ấy cứ không thôi chờn vờn trong đầu tôi.
    Hãy giữ an toàn và náu mình thật kĩ nhé, tôi nhủ thầm trong bụng. Rồi tụi mình sẽ đi tìm những người khác.


    Hết chương 2
    Đánh máy bởi skypeaful
     
    brisingr thích bài này.
  4. skypeaful

    skypeaful Lớp 4

    CHƯƠNG BA

    CÓ TIẾNG THÌ THẦM KHE KHẼ VANG ĐẾN BÊN TAI TÔI.
    Giọng nói ấy nghe thật lạnh lẽo. Dường như không thể cử động được, tuy nhiên, tôi vẫn lắng nghe một cách chăm chú.
    Không còn buồn ngủ nữa, vậy nhưng tôi vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn. Cả thân người tôi tê cứng, khi những tiếng thì thào mỗi lúc một nhặt hơn, tôi bừng mở mắt giữa bóng tối dày đặc trong căn phòng ở nhà nghỉ ven đường. Bên trên giường tôi, một cảnh tượng lạ lẫm bắt đầu thành hình, làm dấy lên thứ cảm giác căng thẳng ngày nào khi Biệt Năng đầu tiên - Lumen - thắp sáng hai bàn tay tôi ở thị trấn Paradise, bang Ohio. Hồi đó bác Henri vẫn còn ở đấy, hồi đó người giám hộ của tôi vẫn còn sống. Hiện thời thì bác đã không còn nữa. Sẽ không bao giờ bác trở về. Thậm chí trong tình trạng này, tôi vẫn không sao thoát khỏi cái thực tế ấy.
    Thế rồi tôi hoàn toàn hòa nhập vào ảo ảnh bên trên, hai bàn tay sáng rực rọi chiếu bóng tối, thế nhưng các quang tử nhanh chóng bị bóng đêm nuốt trọn. Tôi ngừng lại một cách đột ngột. Mọi thứ chìm trong im lặng. Tôi đưa hai bàn tay ra trước, nhưng không chạm thấy một thứ gì, hai bàn chân không hề tiếp đất, tôi cứ trôi đi trong khoảng không bao la.
    - Tiếng xì xầm qua lại càng lúc càng dày, tuy không nhận ra được thứ ngôn ngữ đó, nhưng chẳng rõ làm sao tôi lại hiểu một cách tường tận. Các ngôn từ thể hiện sự lo lắng. Bóng đêm chợt trở nên nhạt nhòa, và cái thế giới tôi đang hiện diện chuyển từ sắc xám sang trắng lóa, rực rỡ đến nỗi tôi phải nheo mắt lại. Đằng trước tôi, một làn sương mờ lượn lờ rồi tan biến, mở ra một căn phòng trống rộng thênh, với những ngọn nến sắp quanh các bức tường.
    - Tôi không biết trục trặc ở đâu nữa - Một giọng nói bất thần cất lên, tỏ ra vô cùng sửng sốt.
    Căn phòng vừa rộng vừa dài, có kích cỡ của một sân bóng. Thứ mùi hăng hắc của lưu huỳnh xộc thẳng lên mũi tôi, khiến tôi ứa cả nước mắt. Không khí nóng hầm hập và ngột ngạt. Thế rồi ở phía xa cuối căn phòng, tôi trông thấy hai nhân vật ấy: hai kẻ khuất mình trong bóng tối, một tên to gấp bội so với tên kia, dù đã cách một khoảng cách khá xa nhưng vẫn có thể toát lên sự đe dọa.
    - Chúng đã trốn thoát. Chẳng hiểu sao mà chúng lẩn đi được đằng nào. Tôi không biết sao…
    Tôi tiến về phía trước, sự điềm tĩnh lan tỏa trong dạ, thi thoảng; cảm giác này vẫn đến trong những giấc mơ, khi bản thân ta ý thức được rằng mình đang ngủ và không một thứ gì có thể thực sự làm tổn hại đến mình. Từng bước từng bước một, tôi di chuyển đến phía những bóng hình đang lớn dần.
    - Tất cả, tất cả đều tham gia vào cuộc tàn sát. Cùng với ba con piken và hai con kraul của chúng ta - Kẻ nhỏ hơn cất tiếng, hắn đứng cạnh tên kia, hai tay cứ cử động liên hồi.
    - Phía mình đã tóm được chúng. Chúng ta đã sắp… - Giọng nói vẫn vang đều, nhưng tên thứ hai đã ngắt lời kẻ thuộc hạ. Hắn đảo mắt nhìn quanh hòng tìm kiếm điều đang cảm nhận được.
    Tôi ngừng bước, đứng thật im và nín thở. Thế rồi đối phương cũng phát hiện được tôi. Sau lưng tôi, một cơn rùng mình chạy dọc theo xương sống.
    - John - Một kẻ nào đó mở lời, âm giọng cất lên từ đằng xa.
    Gã đàn ông lớn hơn bước lại phía tôi. Với chiều cao vượt trội, sừng sững hơn sáu mét, hắn sở hữu một cơ thể lực lưỡng cùng một quai hàm góc cạnh. Mái tóc của gã to xác không dài như tên kia, mà được cắt ngắn một cách gọn gàng. Làn da hắn rám nắng. Hắn thong thả tiến từng bước lại gần tôi, ánh nhìn của chúng tôi đan chặt vào nhau. Khoảng cách còn chín mét, rồi còn sáu mét.
    Cuối cùng, hắn dừng lại khi chỉ còn cách tôi ba mét. Trên cổ tôi, mặt dây chuyền trở nên nặng trình trịch, sợi dây như thít vào da thịt. Còn quanh cổ hắn, tôi ghi nhận được một vết sẹo méo mó, đỏ tía, trông chẳng khác nào một cái cổ áo.
    - Ta đang chờ ngươi đó - Hắn lên tiếng, giọng nói nghe đều đều, điềm tĩnh. Nói đoạn hắn đưa cánh tay phải lên rút thanh gươm trên lưng ra khỏi vỏ. Thanh gươm hoạt động ngay tức khắc, vẫn hình dáng đó nhưng chất kim loại bắt đầu chảy ra. Vết thương trên vai tôi do con dao găm của tên lính gây ra trong trận chiến ở Ohio chợt đau thốn chẳng khác nào tôi lại bị đâm một lần nữa. Tôi khụy gối xuống - Lâu lắm rồi - Hắn nói tiếp.
    - Ta không biết ngươi nói cái gì cả - Tôi đáp lại bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi chưa từng sử dụng bao giờ.
    Tôi rất muốn bỏ đi ngay, dẫu cho chốn này có là nơi nào đi chăng nữa. Tôi cố gượng dậy, nhưng tình thế chẳng khác gì như hốt nhiên tôi bị dán dính xuống đất vậy.
    - Thế sao? - Kẻ đối diện hỏi ngược lại.
    - John - Một lần nữa, tôi nghe thấy tiếng gọi ở đâu đó bên ngoài. Dường như tên Mogadore không chú ý mấy, ánh nhìn của hắn có điều gì đó giữ rịt lấy tôi. Tôi không sao có thể chuyển hướng nhìn sang phía khác được.
    - Ta không hề ở đây - Tôi thốt lên. Âm điệu nghe chừng ủ dột. Mọi thứ trở nên nhạt nhòa cho đến chừng chỉ còn lại hắn và tôi, ngoài ra, không còn một thứ nào khác nữa.
    - Nếu ngươi muốn, ta có thể làm cho ngươi biến mất - Vừa đáp lời tôi, tên Mogadore vừa vung gươm lên khoa theo hình số tám, tạo nên một vệt trắng rực rỡ trong không khí. Thế rồi hắn chuyển thế tấn công, thanh gươm trên tay hắn đưa lên cao, đầy uy lực. Và hắn chém xuống, thanh gươm hạ nhanh như một viên đạn nhắm thẳng vào cổ họng tôi, còn tôi thì ý thức được rằng mình không thể làm gì được để ngăn chặn đường tấn công đoạt lấy đầu ấy.
    - John! - Giọng nói lại vang lên một lần nữa.
    Tôi mở bừng mắt. Có hai bàn tay đang ôm ghì lấy vai tôi. Khắp người tôi nhầy nhụa mồ hôi và không sao thở nổi. Tôi chú mục vào Sam đang đứng bên cạnh mình, rồi đến Số Sáu, đôi mắt màu nâu vàng của cô gái thi thoảng ánh lên màu lam, thảng hoặc lại trở sang màu lục. Cô ấy đang quì bên cạnh tôi, có vẻ mệt nhừ và kiệt sức; dường như tôi vừa mới làm cho cô ấy tỉnh dậy thì phải, có thể như vậy lắm.
    - Có chuyện gì thế? - Sam thắc mắc.
    Tôi lắc đầu xua tan cơn mộng mị kia, đồng thời ghi nhận cảnh tượng xung quanh mình. Căn phòng tối đen, các tấm màn đã được kéo kín, và tôi đang ngả lưng trên chiếc giường đã nằm suốt một tuần rưỡi qua; các vết thương của chiến trận đang dần hồi phục. Bên cạnh tôi, Số Sáu cũng đã phục hồi, kể từ lúc đến đây, cả cô gái và tôi đều không hề dời chân ra khỏi chỗ này; tất cả thực phẩm và vật dụng cần thiết đều cậy cả vào Sam lo liệu giúp. Căn nhà nghỉ tồi tàn chỉ vỏn vẹn có hai chiếc giường ngủ nằm cách đường phố chính ở Trucksville, nằm về mạn Bắc Carolina, một quãng xa. Để mướn phòng, Sam đã phải dùng đến một trong những giấy phép lái xe dành cho người đã đủ mười bảy tuổi mà bác Henri đã tạo cho tôi trước khi bác bị giết hại, và may sao ông già ở quầy lễ tân mải xem ti-vi nên không coi kĩ tấm ảnh. Tọa lạc nơi rìa tây bắc của tiểu bang, nhà nghỉ chỉ cách Virginia và Tennessee mười lăm phút đi xe, là một địa điểm được chọn chủ yếu do chúng tôi đã di chuyển xa đến mức tối đa trong tình trạng tả tơi như thế này. Tuy nhiên, các vết thương hở đang từ từ liền lại, cũng như sức mạnh của cả bọn rốt cuộc cũng đang hồi phục.
    - Cậu nói thứ ngôn ngữ gì lạ lùng lắm, chưa bao giờ tôi nghe thấy cả - Sam giải thích với tôi - Tôi tưởng cậu bịa ra chứ, anh bạn.
    - Không phải đâu, anh ấy nói tiếng Mogadore đấy - Số Sáu nhẹ nhàng chỉnh lại - Thậm chí có cả một ít tiếng Lorien nữa.
    - Vậy hả? - Tôi buột miệng - Lạ quá.
    Số Sáu bước về phía cửa sổ, kéo lại cho ngay ngắn tấm màn bên phải.
    - Anh nằm mơ thấy gì thế?
    Tôi lắc đầu:
    - Tôi không rõ nữa. Mơ mơ thực thực, cô hiểu không? Chắc là ảo ảnh, về bọn chúng, chúng sắp sửa tấn công; mà tôi thì, không biết nữa; yếu, ngây ra hay sao đó - Tôi nhìn sang Sam, anh bạn đang cau mặt và ngó chằm chằm vào màn hình ti-vi - Cái gì thế?
    - Tin xấu - Sam thở dài, lắc đầu.
    - Sao cơ? - Tôi ngồi dậy, dụi mắt cho tỉnh hẳn.
    Sam hất đầu về phía trước phòng, và tôi chuyển điểm nhìn về phía ánh sáng của chiếc ti-vi. Khuôn mặt của tôi chiếm trọn bên trái màn hình, còn khuôn mặt của bác Henri được vẽ lại nằm ở bên phải. Bức họa chẳng có nét nào giống với bác: gương mặt bác trông sắc cạnh và phờ phạc đến hốc hác, khiến cho diện mạo của bác trông già hơn đến hai mươi tuổi. Hay diện mạo trước đây của bác trông già hơn hai mươi tuổi thật?
    - Làm như gọi tụi mình là mối đe dọa của an ninh quốc gia hay một tên khủng bố còn chưa đủ tệ hay sao - Sam lẩm bẩm - Mà giờ còn treo giải thưởng nữa.
    - Treo giải thưởng cho ai bắt được tôi à? - Tôi hỏi lại.
    - Treo giải thưởng cho ai bắt được cậu và bác Henri. Những một trăm ngàn đô-la cho bất cứ thông tin nào giúp ích cho việc bắt được cậu và bác Henri, hai trăm năm mươi ngàn đô-la cho người tự tay bắt được một trong hai bác cháu cậu - Sam trả lời.
    - Thì cả cuộc đời tôi là trốn chạy mà - Tôi trả lời và lại dụi mắt - Có gì khác biệt đâu?
    - Ờơơ, chà, còn tôi thì đâu có vậy, thế mà giờ thì họ cũng treo giải thưởng cho ai tìm ra tôi luôn - Sam cho biết - Hai mươi lăm ngàn đô-la bèo bọt, tin nổi không? Tôi không biết mình sống trốn tránh giỏi cỡ nào. Chưa bao giờ tôi làm như vậy cả.
    Một cách cẩn trọng, tôi gắng gượng ngồi dậy, cử động hãy còn cứng nhắc. Sam ngồi ở chiếc giường còn lại, hai tay bưng lấy đầu.
    - Dù sao thì cậu cũng đã đi cùng với bọn tôi mà, Sam. Mọi người sẽ yểm trợ cho cậu - Tôi nói chắc như đinh đóng cột.
    - Tôi có lo đâu - Cậu bạn của tôi cụp mắt nhìn vào ngực áo của chính mình.
    Có lẽ Sam không lo lắng gì thật, nhưng tôi thì không khỏi lo ngay ngáy. Nhay nhay phần má trong của mình, tôi nghĩ đến chuyện làm sao để Sam được an toàn, cũng như tôi và Số Sáu được sống mà không còn bác Henri. Tôi đưa mắt sang Sam, cậu bạn của tôi đang có thừa căng thẳng để tìm kiếm trên chiếc áo thun NASA đen đang mặc một lỗi sai nào đó.
    - Nghe tôi nói này, Sam. Tôi ước sao bác Henri có mặt ở đây. Tôi thậm chí không thể cho cậu biết rằng tôi mong bác ấy ở đây đến nhường nào, vì nhiều lẽ. Không phải chỉ vì bác luôn luôn tạo cho tôi sự an toàn khi cả hai bác cháu di chuyển từ bang này sang bang nọ, mà còn vì bác hiểu biết rất rõ về hành tinh Lorien, về gia đình tôi, và bác lúc nào cũng điềm tĩnh, cực kì điềm tĩnh, khiến chúng tôi trong suốt một thời gian dài không mắc phải một sai lầm nào. Tôi không rõ mình có thể làm nổi những việc mà bác đã làm để giữ cho cả hai bác cháu được an toàn hay không, nhưng tôi dám cược rằng nếu còn sống đến ngày hôm nay thì bác sẽ không để cho cậu đi theo đâu. Bác sẽ không đời nào kéo cậu vào mối nguy hiểm này. Tuy nhiên, cậu hãy tin tôi, cậu có mặt ở đây và chỉ có thế thôi, tôi xin hứa rằng tôi sẽ không để cho bất cứ một điều gì xấu xảy đến với cậu.
    - Tôi muốn ở đây - Sam nói một cách dứt khoát - Đây là điều tuyệt vời nhất trong đời tôi - Cậu ta dừng lại một thoáng rồi nhìn thẳng vào mắt tôi - Với lại, cậu là người bạn thân nhất của tôi, tôi chưa bao giờ có bạn thân cả.
    - Tôi cũng vậy - Tôi đáp lại cậu bạn của mình.
    - Vậy thì huề nhau đi - Số Sáu xen vào góp lời.
    Sam và tôi cùng cười.
    Tôi vẫn hướng mắt vào màn hình. Cái ảnh trên ti-vi là tấm ảnh do Sarah đã chụp tôi vào đúng ngày đầu tiên tôi đến trường, vào đúng cái ngày tôi đã gặp cô ấy; vẻ mặt của tôi trông mới lúng túng và khó chịu làm sao. Giờ thì bên phải màn hình đã hiện lên các tấm ảnh nhỏ hơn của năm người mà chúng tôi bị cáo buộc là đã giết hại: ba giáo viên, huấn luyện viên môn bóng rổ, và người lao công. Rồi một lần nữa màn hình chuyển sang mấy bức ảnh chụp ngôi trường bị hủy hoại - bị hủy hoại thật sự, toàn bộ dãy nhà bên phải giờ chỉ còn là đống gạch vụn. Kế đến là loạt phỏng vấn cư dân thị trấn Paradise, người cuối cùng là mẹ Sam. Khi xuất hiện trên màn hình, bà đang khóc nức nở, bà nhìn trực diện vào ống kính máy quay và van xin “những tên bắt cóc” một cách tuyệt vọng rằng “hãy làm ơn, làm ơn, làm ơn trả con tôi về lại cho tôi một cách an toàn”. Khi Sam xem bài phỏng vấn này, tôi có thể khẳng định rằng có một điều gì đó ở trong con người cậu ấy vừa biến chuyển.
    Kế đến là các cảnh đám tang và những đêm đốt nến thức cầu nguyện. Màn hình hiện lên chớp lóa gương mặt của Sarah, cô ấy cầm nến mà nước mắt lã chã. Cổ họng tôi nghẹn đắng. Tôi sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì chỉ để được gọi điện thoại cho cô gái ấy, để được nghe giọng nói của cô. Điều mà Sarah đang phải đối mặt dường như bóp nghẹt tim tôi. Đoạn phim quay cảnh chúng tôi thoát ra khỏi căn nhà đang cháy của Mark - khởi nguồn cho mọi sự - đã tràn ngập trên mạng internet, và trong lúc tôi bị qui trách nhiệm là đã gây ra ngọn lửa đó, thì Mark bước vào và thanh minh thanh nga khắp nơi rằng tôi không có liên quan gì, dù rằng nếu biến tôi thành vật tế thần, cậu ta sẽ hoàn toàn thoát được các rắc rối.
    Khi chúng tôi rời khỏi Ohio, ban đầu, thiệt hại của ngôi trường được cho là do một cơn bão trái-mùa; nhưng khi đội cứu hộ sục sạo vào trong đống gạch vụn, chẳng mấy chốc sau, họ đã tìm thấy cả thảy năm thi thể nằm ở các khoảng cách đều nhau - trên người các nạn nhân xấu số không có lấy một dấu tích nào - trong một căn phòng còn nguyên vẹn, không bị chiến trận làm ảnh hưởng. Các chuyên gia khám nghiệm tử thi cho biết cả năm người chết vì những nguyên nhân tự nhiên, không hề có vết tích của chất hóa học hay sự thương tổn. Ai mà hiểu được chuyện gì đã thực sự xảy ra. Rồi một phóng viên nghe được chuyện tôi lao mình qua khỏi cửa sổ của phòng thầy hiệu trưởng và chạy ra khỏi trường, sau đó không còn ai thấy bác Henri và tôi nữa, ông ta đã dựng chuyện đổ riệt cho chúng tôi đã gây ra mọi điều; những người còn lại cũng nhanh chóng hùa theo. Và với việc phát hiện ra các công cụ làm giả của bác Henri, cộng thêm các tài liệu giả mạo khác mà bác đã bỏ lại trong căn nhà, làn sóng giận dữ của dư luận đã trào dâng.
    - Giờ thì chúng ta sẽ phải cực kì cẩn thận đấy - Số Sáu nhắc nhở, cô gái đang ngồi tựa lưng vào tường.
    - Ở trong căn nhà nghỉ rẻ tiền này rồi, rèm che trướng rũ kín mít, mà vẫn còn phải cẩn thận hơn nữa sao?
    Số Sáu bước trở lại phía cửa sổ, vén hé một bên màn để nhìn ra ngoài. Một tia sáng nhỏ rọi xuống nền nhà.
    - Ba giờ nữa, mặt trời sẽ mọc. Mình hay lên đường ngay khi trời còn nhập nhoạng đi.
    - Ơn trời - Sam phấn khích kêu lên - Đêm nay có mưa sao băng, nếu mình đi về phương nam là có thể ngắm được đó. Với lại, nếu phải ở trong căn phòng đáng ghét này thêm một phút nào nữa chắc là tôi sẽ thành ra lẩn thẩn mất.
    - Sam à, từ hồi đầu tiên tôi trông thấy cậu, cậu đã lẩn thẩn lắm rồi - Tôi cất giọng bông đùa.
    Cậu chàng ném chiếc gối vào tôi, và tôi chẳng cần phải động tay cũng có thể làm cho nó chệch hướng. Dụng đến siêu năng lực của mình, tôi làm cho chiếc gối quay mòng mòng trên không rồi ném nó đi như một quả tên lửa vào chiếc ti-vi để tắt máy.
    Tôi ý thức được rằng việc Số Sáu bảo chúng tôi luôn phải chuyển chỗ là hoàn toàn đúng đắn, nhưng tôi không thể ngăn được cảm giác nản lòng. Dường như nhìn đâu cũng thấy vô cùng, không có nơi nào khả dĩ an toàn cả. Dưới chân giường tôi, luôn giữ cho đôi chân tôi được ấm áp, là Bernie Kosar, nhân vật hầu như không bao giờ chịu ở xa tôi từ hồi ở Ohio. Lúc này, chú chó đang mở mắt, ngáp dài và làm động tác duỗi người. Con vật nghếch mắt nhìn tôi; qua giao tiếp ngoại cảm, tôi hiểu được rằng nó cũng đang cảm thấy tốt hơn. Hầu hết các vảy máu nhỏ chi chít khắp người Bernie Kosar đã không còn nữa, những vảy máu lớn hơn thì đang hồi phục một cách tốt đẹp. Hiện thời, chú chó của tôi đang phải đeo một thanh nẹp chỗ chân trước bị gãy, trong vài tuần nữa, nó sẽ còn phải đi cà nhắc; nhưng hiện thời thì trông Bernie Kosar đã trở lại gần như xưa. Con vật vẫy đuôi, khều khều vào chân tôi. Tôi rướn người tới, bế Bernie Kosar vào lòng và gãi gãi vào bụng nó.
    - Chú mày thì sao hả, anh bạn? Đã sẵn sàng rời khỏi cái ổ rác này chưa?
    Bernie Kosar đập đuôi xuống giường.
    - Thế tụi mình sẽ đi đâu? - Tôi cất tiếng hỏi.
    - Tôi cũng không biết nữa - Số Sáu trả lời tôi - Tốt nhất là nơi nào ấm áp để trú đông. Tôi muốn bệnh vì cái thứ tuyết này, tuy nhiên tôi còn muốn bệnh hơn khi không biết các bạn kia hiện đang ở đâu.
    - Giờ thì mới chỉ có ba người tụi mình. Bốn cộng Sáu, cộng Sam.
    - Tôi thích số học lắm - Sam bộc bạch - Sam bằng x nè. X là biến số.
    - Anh bạn đúng là một con mọt sách - Tôi châm chọc.
    Số Sáu bước vào phòng tắm, và chỉ một giây sau đã trở ra, trên tay là các loại đồ dùng vệ sinh.
    - Với những gì đã xảy ra, nếu có được một ít an ủi nào, thì đó chính là các Garde khác biết được rằng John không chỉ sống sót trong trận đánh đầu tiên của mình, mà còn chiến thắng nữa. Có lẽ mọi người sẽ tìm được một chút hy vọng trong chuyện này. Còn bây giờ, ưu tiên hàng đầu của chúng ta là tìm kiếm những đồng đội còn lại. Và trong khi chờ đợi, mình sẽ tập luyện với nhau.
    - Đồng ý - Tôi tán thành ngay lập tức và đưa mắt sang Sam - Vẫn chưa phải là quá trễ để quay trở lại và sắp xếp lại mọi thứ cho đâu vào đấy đâu, Sam ạ. Cậu có thể bịa ra bất cứ câu chuyện nào về tụi mình mà cậu muốn. Cậu hãy kể với họ rằng tụi mình đã bắt cóc cậu và buộc cậu phải làm trái với ý nguyện, và rằng cậu đã trốn thoát được ngay khi có cơ hội đầu tiên. Rồi cậu sẽ được mọi người tôn vinh như một anh hùng. Rồi các cô gái sẽ vây quanh lấy cậu...
    Sam bặm môi dưới thật chặt và lắc đầu:
    - Tôi không muốn là anh hùng đâu. Với lại, tôi cũng đã được các cô gái vây quanh rồi.
    Số Sáu và tôi giương tròn mắt, nhưng tôi còn thấy được rằng Số Sáu đang đỏ mặt. Hay chính tôi đã tưởng tượng ra điều đó?
    - Tôi nói thật đấy - Sam quả quyết - Tôi sẽ không bỏ đi đâu.
    Tôi nhún vai:
    - Chắc là như vậy thôi. Trong phương trình này, Sam bằng x đó.
    Sam nhìn theo Số Sáu bước về phía chiếc túi nhỏ làm bằng len thô nằm ở bên cạnh chiếc ti-vi, vẻ mặt của Sam thể hiện rõ rành rành rằng cậu chàng đã bị cô nàng hút hồn. Số Sáu đang mặc trên người chiếc quần soọc may bằng vải cotton màu đen, chiếc áo thun trắng sát nách và mái tóc đen buộc túm ra sau. Vài lọn tóc rủ xuống khuôn mặt của cô gái. Trên bắp đùi trái của cô nổi rõ một vết sẹo tím, xung quanh đó là dấu vết của những mũi khâu đã chuyển sang màu hồng và hiện đang đóng vảy. Những mũi khâu này, không chỉ do một mình Số Sáu tự khâu, mà chính tay cô cũng đã cắt chỉ nữa. Khi cô gái ngước nhìn lên, Sam cất vội ánh nhìn đi một cách bẽn lẽn. Rõ ràng Sam có một lý do khác để nán lại bên chúng tôi.
    Cúi người xuống và lần tay vào chiếc túi xách, Số Sáu lấy ra một tấm bản đổ đã được gấp một cách cẩn thận. Cô gái mở bản đồ, trải ra trên sàn nhà bên cạnh chân giường.
    - Ngay chỗ này - Số Sáu lên tiếng và chỉ tay vào Trucksville - Là địa điểm mình đang dừng chân. Còn đây - Cô tiếp tục nói đồng thời rà ngón tay từ phía Bắc Carolina đến một ngôi sao đỏ bé xíu được vẽ bằng mực gần trung tâm Tây Virginia - Là hang ổ của bọn người Mogadore, dù sao thì tôi cũng đã phát hiện ra nơi này.
    Tôi chú mục vào cái chấm điểm mà Số Sáu đang chỉ tay vào. Dù rằng chỉ được thể hiện trên bản đồ, nhưng rõ ràng ngôi sao ấy cũng nằm một mình trơ trọi; trong vòng bán kính năm dặm đường chẳng thấy xuất hiện một con lộ chính nào, cũng như trong vòng bán kính mười dặm chẳng thấy mảy may bóng dáng của một thị trấn nào.
    - Làm sao cô biết được sào huyệt này?
    - Chuyện dài lắm - Số Sáu trả lời tôi - Có lẽ tốt hơn hết là tạm thời gác sang một bên.
    Ngón tay của Số Sáu lướt lên một con đường mới trên bản đồ, từ Tây Virginia hướng xuống phía tây nam, ngang qua Tennessee, và rồi dừng lại ở một điểm trên Arkansas, gần sông Mississippi.
    - Ở đây có cái gì? - Tôi hỏi với nỗi thắc mắc không kềm được.
    Số Sáu phồng má rồi thổi ra một hơi thật dài, rõ ràng là đang hồi tưởng lại chuyện gì đó trong quá khứ. Khuôn mặt của cô gái đầy ắp cảm xúc khi tập trung một cách cao độ.
    - Chiếc Hộp của tôi đã từng ở chỗ này - Cô bạn đồng hành của tôi bắt đầu kể lại - Với lại, có một vài thứ mà cô Katarina mang theo từ hành tinh Lorien. Cô cháu tôi đã giấu tất cả ở đây.
    - Cô nói đã từng, nghĩa là sao?
    Số Sáu lắc đầu.
    - Nó không còn ở đây nữa hả?
    - Ừ. Bọn chúng đã lần theo chúng tôi, và cả hai cô cháu chúng tôi không thể để cho chúng lấy được chiếc Hộp. Không còn an toàn cho chúng tôi nữa, thế nên chúng tôi đã giấu chiếc Hộp đi cùng với những vật dụng của cô Katarina ở Arkansas rồi lẩn trốn thật nhanh, tin rằng mình có thể nhanh hơn chúng một bước... - Cô gái ngừng lời.
    - Chúng đã bắt kịp, phải không? - Tôi hỏi lại, ý thức được rằng Cêpan Katarina của Số Sáu đã chết cách đây ba năm.
    Cô bạn đồng hành thở dài.
    - Đó lại là một chuyện tốt hơn hết là tạm thời gác sang một bên.

    Chỉ mất có vài phút, tôi đã tống tất cả quần áo của mình vào trong túi xách, trong lúc sắp xếp dọn dẹp, tôi nhận ra lần cuối cùng chiếc túi được sắp xếp là do bàn tay của Sarah. Mới chỉ có một tuần rưỡi thôi mà tưởng chừng như đã một năm rưỡi trôi qua rồi. Không biết cô ấy có bị cảnh sát thẩm vấn, hay bị cô lập ở trường hay không? Trường học đã bị hủy hoại rồi, cô ấy sẽ đi học ở đâu? Chắc chắn Sarah có thể tự lo cho mình, nhưng dù sao cũng không hề dễ dàng cho cô ấy, nhất là khi cô ấy không biết tôi đang ở đâu, hay thậm chí là không biết tôi có bình yên hay không. Ước sao tôi có thể liên lạc được với Sarah mà không đẩy cả hai đứa vào vòng nguy hiểm.
    Sam mở ti-vi theo lối thông thường - dùng thiết bị điểu khiển từ xa - rồi xem tin tức, còn Số Sáu thì tàng hình để kiểm tra xe tải. Ai cũng hiểu được rằng khi mẹ Sam thông báo con trai của mình bị mất tích, là cảnh sát đã theo dõi sát sao vụ này. Hồi đầu tuần, Sam có tỉa một biển số xe trước của một xe tải. Nhờ đó, chúng tôi có thể đến được nơi nào mình mong muốn.
    Sắp xếp quần áo xong xuôi, tôi để túi xách bên cạnh cửa ra vào. Sam mỉm cười khi một lần nữa, tấm ảnh của cậu ta lại xuất hiện trên màn hình ti-vi, theo các bản tin cũ, tôi thừa hiểu cậu bạn của mình thích thú với sự nổi tiếng nhỏ nhoi ấy, dù rằng cậu ta cũng đang có nguy cơ bị coi là tội phạm. Thế rồi người ta lại đưa hình của tôi lên, điều đó cũng có nghĩa là họ cho hiện cả hình của bác Henri nữa. Trông thấy hình ảnh của bác mà tôi không tránh khỏi cảm giác đau lòng, cho dù bức họa không có một chút nào giống bác cả. Giờ không phải là lúc để mặc cảm tội lỗi hay nỗi đớn đau lên ngôi, nhưng tôi nhớ bác biết dường nào. Bác Henri chết là vì tôi.
    Mười lăm phút sau, Số Sáu bước tới, cầm theo trên tay một túi nylon trắng.
    Cô gái giơ chiếc túi ra và giũ giũ trước mặt chúng tôi.
    - Tôi có mua cho hai anh cái này nè.
    - Ờơơ, cái gì vậy? - Tôi hỏi.
    Số Sáu lần tay vào túi rồi lấy ra một cái tông-đơ.
    - Tôi nghĩ là đã tới lúc phải hớt tóc cho anh và Sam rồi.
    - Ôi, thôi cô ơi, cái đầu của tôi đã nhỏ lắm rồi. Thế nào trông tôi cũng giống con rùa cho mà coi - Sam phản đối. Tôi cười khanh khách và cố hình dung ra cảnh cậu bạn của mình một khi không có nhiều tóc thì sẽ như thế nào. Cổ Sam dài và mảnh, có lẽ cậu ta nói đúng.
    - Anh sẽ giấu được thân phận của mình - Số Sáu nhẹ nhàng giải thích.
    - Chà, tôi đâu có muốn giấu thân phận của mình đâu. Tôi là Biến X mà.
    - Thôi đừng có làm tên ngốc nữa - Số Sáu sẵng giọng.
    Cậu bạn của tôi cau mặt lại, còn tôi thì cố giữ vẻ mặt vui vẻ.
    - Ờơơ, Sam, đồng ý đi - Nói rồi tôi cởi áo.
    Số Sáu bước theo tôi vào phòng tắm, hí hoáy gỡ bao nhãn cái tông-đơ trong lúc tôi khom mình bên bồn tắm. Ngón tay của cô bạn đồng hành lành lạnh, khiến xương sống tôi nổi gai ốc. Ước gì chính Sarah là người giữ lấy vai tôi và hớt tóc cho tôi. Đứng ở ngưỡng cửa quan sát chúng tôi, Sam thở dài ngao ngán, tỏ rõ sự bất mãn.
    Sau khi được Số Sáu húi tóc cho xong, tôi lấy khăn lau sạch chỗ tóc rụng rồi đứng thẳng dậy ngắm nghía mình trong gương. Cái đầu tôi trắng hơn khuôn mặt, chỉ đơn giản là vì chỗ đó chưa từng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Chỉ cần vài ngày ở quần đảo Florida, nơi bác Henri và tôi đã từng lưu lại trước khi đến Ohio, thế nào tình hình cũng sẽ được cải thiện ngay.
    - Coi kìa, trông John mới mạnh mẽ và khỏe khoắn làm sao. Còn tôi thì sẽ giống một thằng bèo bọt - Sam rên rĩ.
    - Thì tôi vốn mạnh mẽ và khỏe khoắn mà Sam - Tôi khẳng định.
    Cậu ta trợn tròn mắt, trong lúc ấy, Số Sáu chùi sạch cái tông-đơ.
    - Ngồi xuống - Số Sáu hối thúc.
    Sam vâng lời liền tắp lự, cậu ta ngồi xuống trên hai đầu gối và khom lưng bên bồn tắm. Khi cô bạn đồng hành hoàn tất việc xén tóc cho Sam, cậu bạn của tôi đứng dậy và gửi cho tôi một ánh nhìn sầu thảm.
    - Xấu cỡ nào hả?
    - Trông cừ lắm, anh bạn - Tôi an ủi - Giống hệt một tên tội phạm.
    Sam xoa xoa đầu mình vài lần trước khi miễn cưỡng nhìn vào tấm gương. Và cậu ta co rúm ngay người lại.
    - Tôi giống người ngoài hành tinh quá! - Sam kêu ré lên kèm theo một cử chỉ thể hiện rõ sự khó chịu, thế rồi cậu ta ngoái lại nhìn tôi - Không có ý đụng chạm gì đến cậu đâu - Cậu ta phân bua một cách yếu ớt.
    Số Sáu gom tóc trong bồn tắm rồi bỏ vào bồn cầu, cẩn thận dội sạch không để sót một cọng nào. Đoạn cô gái quấn chặt sợi dây của chiếc tông-đơ lại thành cuộn nhỏ rồi đút trở vào cái túi riêng của nó.
    - Giờ thì không còn thời gian nữa đâu - Số Sáu khẳng định một cách chắc nịch.
    Chúng tôi máng các túi của mình lên vai Số Sáu, cô gái giữ lấy chúng bằng cả hai tay rồi biến thành vô hình, khiến cho các túi xách cũng mất dạng. Số Sáu sải chân bước nhanh ra khỏi cửa để đưa tất cả đồ đạc ra xe tải mà không một ai nhìn thấy. Khi cô bạn đồng hành đã đi khuất, tôi lần tay lên góc phải sâu nhất của chiếc tủ, lật mấy lần khăn ra để lấy chiếc Hộp Loric.
    - Cậu có định mở cái gì ấy ra không? - Sam hỏi tôi. Từ khi được tôi tiết lộ về chiếc hộp, cậu ta rất háo hức muốn xem các thứ bên trong.
    - Có chứ - Tôi trả lời - Khi nào cảm thấy an toàn là tôi sẽ mở nó ngay.
    Cửa phòng chợt mở ra và đóng lại. Số Sáu hiện nguyên hình, đưa mắt về phía chiếc Hộp.
    - Tôi không thể biến anh, Sam và cái đó tàng hình được. Chỉ làm biến mất được thứ gì nắm trong tay thôi. Tôi sẽ đưa nó ra xe trước.
    - Không sao đâu, được rồi. Cô cứ đưa Sam đi trước đi, tôi sẽ theo sau.
    - Thật là ngớ ngẩn hết sức, John. Anh theo sau bằng cách nào chứ?
    Tôi đội mũ và mặc áo khoác vào, rồi kéo phẹc-mơ-tuya cài kín người và kéo cả chiếc mũ trùm lên phủ kín đầu, chỉ để lộ ra ngoài mỗi khuôn mặt.
    - Tôi sẽ không sao đâu. Thính giác của tôi cũng nhạy lắm, giống như cô vậy - Tôi trả lời cô bạn đồng hành.
    Chiếu tia nhìn vào tôi một cách nghi hoặc, Số Sáu lắc đầu. Tôi chộp lấy sợi xích buộc Bernie Kosar rồi cài vào cổ nó.
    - Chỉ buộc đến khi chúng mình vào xe thôi - Tôi trấn an con vật, vì chú chó của tôi không ưa gì chuyện đi tới đi lui với sợi xích sắt. Nghĩ lại, tôi cúi xuống để bế Bernie Kosar vì chân nó vẫn đang còn đang trong giai đoạn phục hồi, nhưng điệu bộ của con vật cho tôi hiểu rằng nó muốn tự thân bước đi hơn.
    - Chừng nào cô đã sẵn sàng thì tôi cũng sẵn sàng đấy - Tôi xác định.
    - Được rồi, bắt đầu nào - Số Sáu đáp gọn lỏn.
    Sam đưa tay về phía cô bạn đồng hành với một chút nhiệt thành thái quá. Tôi cười khà.
    - Sao? - Cậu ta thắc mắc.
    Tôi lắc đầu:
    - Có gì đâu. Tôi sẽ cố gắng theo sát hai người đến mức tối đa, nhưng đừng có đi trước xa quá đấy.
    - Chừng nào không theo kịp thì nhớ ho lên một tiếng, bọn tôi sẽ dừng lại ngay. Chiếc xe đậu cách đây chỉ vài phút đi bộ thôi, phía sau nhà xe bị bỏ hoang đó - Số Sáu dặn dò - Đừng có bỏ sót.
    Thế rồi cánh cửa lại mở ra, Sam và Số Sáu biến mất.
    - Tới mình rồi đó, Bernie Kosar. Giờ thì chỉ còn tao với chú mày thôi.
    Bernie Kosar theo tôi ra ngoài, chú chó chạy lon ton, hí hửng với chiếc lưỡi thè ra. Nếu không kể đến những lần chạy ra thửa cỏ cạnh nhà nghỉ để tè thì Bernie Kosar cũng phải chịu cảnh giam nhốt hệt như bọn chúng tôi vậy.
    Bầu không khí ban đêm thật mát lạnh và trong lành, thoang thoảng hương thông, làn gió phả vào mặt ngay lập tức đem lại cho tôi sự tỉnh táo. Nhắm mắt sải từng bước chân, tôi hòa tâm trí của mình vào bầu không khí xung quanh để nhận biết về hướng đi của Số Sáu. Đưa hai tay ra phía trước, tôi cảm nhận khung cảnh xung quanh bằng siêu năng lực, cũng là phương thức cũ - nắm bắt mọi thứ trong không trung - mà tôi đã từng sử dụng để cho dừng một viên đạn đang bay ở quận Athens. Tôi ý thức được rất rõ hai người bạn đồng hành của mình đang ở trước mặt, chếch về phía bên phải, cách tôi vài bước chân. Rồi tôi huých nhẹ vào Số Sáu, cô gái không khỏi giật mình, hơi thở tắt lịm trong cổ họng. Sau đó đúng ba giây, Số Sáu tông thẳng vai vào tôi, suýt chút nữa là khiến tôi ngã soài ra đất. Tôi cười. Cô bạn đồng hành cũng cười khúc khích.
    - Hai người đang làm gì vậy? - Sam cất tiếng hỏi. Cậu ta tỏ ra phật ý trước màn va quệt đùa giỡn của chúng tôi - Chúng ta phải giữ yên lặng, nhớ chưa?
    Rồi cả bọn cũng ra tới chỗ xe tải, chiếc xe đang đậu sau một nhà để xe cũ kỹ hoang tàn trông như sắp sửa đổ sụp đến nơi. Số Sáu buông tay Sam, cậu chàng bèn leo ngay vào giữa ca-bin. Số Sáu nhảy lên ngồi sau bánh lái, còn tôi thì lách người vào ngồi kế bên Sam, Bernie Kosar ngồi ngay dưới chân tôi.
    - Ôi trời ơi, anh bạn, tóc cậu làm sao thế? - Tôi chòng ghẹo Sam.
    - Im lặng nào.
    Số Sáu khởi động máy xe. Tôi mỉm cười khi cô bạn đồng hành đưa chúng tôi ra đường, đèn pha mở chói lòa khi các bánh xe vừa tiếp xúc với con đường rải nhựa.
    - Sao thế? - Sam hỏi tôi.
    - Tôi chỉ nghĩ rằng, trong bốn người chúng ta - ba kẻ ngoài hành tinh này, hai tên là tội phạm có quan hệ với khủng bố này, và không có người nào sở hữu một tấm giấy phép lái xe hợp lệ cả. Coi bộ mọi chuyện sẽ thú vị đây.
    Thậm chí cả Số Sáu cũng không thể ngăn được một nụ cười trước cái điều vừa được nói ra thành lời ấy.


    Hết chương 3
    Đánh máy bởi skypeaful
     
    brisingr thích bài này.
  5. huyenmarx

    huyenmarx Mầm non

  6. langbavibo

    langbavibo Mầm non

    truyện hay quá! Tiếp đi bạn ơi!
     
  7. Phi_van

    Phi_van Mầm non

    Bộ này sky làm ebook rồi mà sao ko up lên
     
    angoc1234 thích bài này.
Moderators: CreativeIdiot

Chia sẻ trang này