Thanh Hóa Quan Phong - Vương Duy Trinh, bản phiên diễn của Nguyễn Duy Tiếu <1000QSV1TVB #0075>

Thảo luận trong 'Sách chữ Hán và Nôm - 喃與中文圖書' bắt đầu bởi Thu VO, 24/10/17.

  1. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    LƯƠNG-CHÁNH-CHÂU

    Thổ âm : [ ]

    Dịch : Già dê già giá, là tiếng kêu mời, cũng như thấy tăng khi lễ Phật, trước đánh tiếng rằng Nam [Tờ 55b] mô A-di-đà Phật, rượu siêu là rượu cần.

    Nay tôi mời thần thánh các ngài, tầm an được con lợn, bưng ra lúc bây giờ, mời ngài trở mặt lại lên giường cao chiếu rộng, mời ngài trở mặt mời ngồi, giờ nầy xin âm dương với ngài, cho một đồng sấp một đồng ngã, keo mô ngài cho keo nấy, thứ nhứt keo đi, thứ nhì keo lại, ngài trở mặt lại, ngài ngửa mặt trông, nước trầu mâm cỗ, lợn cái lợn đực, cơm nếp tháng năm, cơm chiêm tháng mười, chén rượu siêu cùng chén rượu chợ, thờ phụng hương hoa, mời ngài ăn ngài uống, để ngài binh hộ con cháu tôi. Mời ngài...

    Thổ âm : [ ]

    [Tờ 56a] Dịch : Thương nhau lắm không bỏ nhau được, thương nhau lắm tới nhà thăm em, còn thương anh bước lên nhà, nhai cau ăn trầu. Còn thương anh vào làng thăm anh, còn thương em đến em ăn trầu với em, còn thương đến nhau ăn trầu thăm nhau, mưa quanh mặt nước tìm đến vực cá, vía trai tới đó lại trở về không. Thương anh lắm lắm.

    Tôi nhớ ngày nọ vong ấm vong đau, cơm ăn chẳng được cho mặt sầu rượi rượi, cho cháu con tan tác [Tờ 56b], đi bói đi khoa, giúp lấy cha già để cho mạnh khỏe, những ngày còn bé cậy mẹ cậy cha, phải năm cha già cậy con cậy cháu, vậy có thi rằng :

    Non nước đào trường tôi tới đây.
    Tôi đi mở bội một án nầy.
    Bước tới đêm vong tôi liên giáo.
    Nhà vong phú quí thọ vinh hoa.


    Bài trên lời chúc sự thần, xin đài âm dương ; bài thứ hai trai gái hát du xuân, trai uống rượu cần, gái thì đánh chiêng, đánh còng làm vui ; bài thứ ba thì hai đứa trẻ con, chừng mười lăm mười tám tuổi, mỗi đứa cầm một cái chèo, ngồi trông mặt nhau mà hát, là ngày tết hát nhà thờ Lang.
     
    Heoconmtv and Despot like this.
  2. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

    QUANG-HÓA CHÂU

    [Tờ 57a] Thổ âm : [ ]

    Dịch : Khách tới chơi, lấy trầu mà đãi. Trầu tuy rằng lắm đất lắm cát, lấy nước rửa phơi nắng tám ngày chẳng ráo.

    Thổ âm : [ ]

    Dịch : Nàng có ăn không được đừng ném vô lửa, ăn không được, đừng ném trôi theo nước, đừng lấy chưn mà đẩy xuống dưới đất lấm đi.

    [Tờ 57b] Thổ âm : [ ]

    Dịch : Nàng trả ơn cho trầu cả đùm, trả ơn ba cây cả túi cùng khăn.

    Thổ âm : [ ]

    Dịch : Trầu têm lộn thuốc, cùng bông ngâu non mà thơm, nàng được ăn miếng trầu người, không còn nghe nổi, nàng được ăn miếng trầu của đạo, nàng không còn chết.

    Thổ âm : [ ]

    [Tờ 58a] Dịch : Nàng nuốt xuống bụng đường như bạc cục. Nàng nuốt xuống bụng dường như bạc nén.

    Thổ âm : [ ]

    Dịch : Ngàn nén vàng chẳng bằng thế nầy, bằng anh em cho ăn ruộng, bằng cậu mộng (thê huynh đệ, man tục hô cậu mộng) cho ăn man, có hai mươi vùng (tức hương là làng) bằng vua ban sắc lệnh cho ăn man.

    [Tờ 58b] Thổ âm : [ ]

    Dịch : Trầu không leo trụ thiết tốt xinh xinh, trầu không leo trụ đồng anh xin ngắt ngọn, anh không biết xin ra sức hỏi, cây mơ hay là cây vông, gái không hay vợ người khác, mẹ cho thiệt cùng qua, hễ gái không, anh xin kéo, anh có ơn trời còn chia, ngôi mạng anh thấy em bằng lòng và trả ơn, bằng thấy hoa vàng trong có nụ ở trên ngọn núi, thân tôi nầy như chim lạc đường, khắp [Tờ 50a] các man tìm kêu có nghe không, cội hoa cây còn có lòng thương chăng, hỡi ôi.

    Thổ âm : [ ]

    Dịch : Anh cũng thấy có hoa vàng ở, hoa vàng ở trên cao, làm sao lấy được, anh cũng lấy hương vàng thắp đủ ngày khấn tề hương đăng, khấn trời ở trên cao, trời ở trên cao trông xuống, cùng giúp hay không, biết có anh cùng em, cùng mến lòng nhau không.

    [Tờ 50b] Thổ âm : [ ]

    Dịch : Mến lòng làm bạn với nàng, mà không theo đến, anh thì lòng muốn bẻ lấy cội cây hoa, muốn lấy hoa cây, mà người khác tranh lấy tức lắm hỡi.

    Thổ âm : [ ]

    Dịch : Bao giờ ơn nàng còn có lòng thương, xin cho đặng hợp số ở cùng nhau cho đến già, dài tháng cho vững đến ngàn năm.

    [Tờ 60a] Thổ âm : [ ]

    Dịch : Ơn nàng còn toan làm những vật đem cho, của quí đem cho trả ơn nàng hỡi, còn lắm của quí, như hộp vàng của trọng, có cả cau tốt muôn buồng lên ngọn hoa vàng, cái nầy của tốt mà nàng còn thương, đem đến cho anh, anh cảm ơn, lại có trầu bẻ ở trên cao, cùng cả thuốc lào.

    [Tờ 60B] Thổ âm : [ ]

    Dịch : Cái nầy ơn lòng nàng còn thương thiệt được ăn nhờ, được ăn trầu với nàng chẳng còn nghe nổi, được ăn cau nhỏ miệng không còn chết, muốn có đồng lòng kết nghĩa vàng với nàng, đừng trái nghĩa bạn ta, làm nhọc mệt lòng anh hỡi.

    Bài ấy là trai gái hát phong tình, một khúc mười hai đoạn.

    Từ đây chép làm ghi để, trước có sự tích lưu-truyền : Ở Đời vua Hán, bụt trên trời chia xuống dương-gian, giúp đời vua Hán, cấp cho quân mạnh, đủ cả ba ông, xuống đồng bằng mà giúp lấy ông Lưu, đánh nước Rợ để mà tranh ngôi cướp nước, ba ông đã vâng lời chịu phép, ba ông đều đủ phép ban cho, [Tờ 61a] đồ mặc chơi cùng cả siêu đao, nhện bạch nhện vàng, trời cho đem xuống, trời bắt rồng đưa ba ông xuống, xuống đến đất nước Hán cõi Quì-châu, thấy giặc Rợ đem quân ra đánh, vua nước Rợ sai tướng Phi-long hiệu là Mạnh-Hoạch, trong quân Mạnh đủ trong các phép, kéo quân ra chật đất nghiêng trời, đâm không phải, chém chẳng vào da, miệng hô reo phun ra lửa cả, sai bắt được vua Lưu nước Hán, Hán sai ba đạo, Triệu-Tử, Trương-Phi, lại thêm quan Châu-Thương, phải ra cho mạnh, vua Rợ lại giao cho quân tướng, đánh thâu Lưu thì chết cả quân gia. Tướng Mạnh-Hoạch xin vâng đi đánh, lại ban cho các phép vào mình, cho Mạnh-Hoạch đem quân đi đánh, thêm cho thất tượng tréo nha kỵ đi đường. Đức thánh mới nghe thấy tiếng : « Tài thế nào [Tờ 61b] chưa thấy, để xem nó có đến, cho ta coi mặt nó, nghe nói dần dà ba tháng, mới hội nhau về đến Quì-châu. Quan thánh hỏi tài sức thế nào, thì phải nói cho ta biết được. Nó nói rằng vua Rợ sai đi, như ta nay tài đủ mọi nghề, muốn giao chiến thử chơi một trận ». Thánh lại nói : « Giặc nầy lừng lẫy, phép nó nhiều mà quân nó cũng nhiều, lâm trận đến biết nghĩ sao cho đặng ». Thánh lại nói : « Tài ta thao lược, dưới dương-gian ai địch cùng ta. Thánh liền gọi nào là tam-đệ, tướng Trương-Phi cùng tướng Châu-Thương, lại mạnh mạnh để mà giao chiến, ta thấy giặc nước Lào nước Mân, quân nó nhiều mà phép nó cũng tài, ta đã thấy hiệu cờ mặt tướng, danh tướng tài mà hiệu cờ đỏ, quân thì đen mà thích những dấu [Tờ 62a] lam, đủ khí-giới thần công súng ống, anh em ta nghe khốn lắm đây, trời đã khiến giặc ma sa xuống, sao giữ được nước nhà khỏi mất, anh em ta quyết đánh thử xem, binh mã đâu lập tức sắp bày, truyền binh mã vững bền theo tướng ». Ba ông mới tiên phong đi trước, ông Triệu thì phải giữ thành trì, còn Đức Thánh quan Trương, quan Châu để ra bài trận. Ba ông nhảy lên mình ngựa, cầm long-đao từ đó giao chinh, quân Rợ ra lăn lóc cổi trần, cởi voi ngựa giao công đấu chiến, quân nó mới cầm gươm ra múa, quân liền lăn sấn đến cửa thành. Quan thánh coi thấy gươm sáo bằng đồng, người cởi voi tay múa siêu đao, người cởi ngựa thần công hỏa hổ bắn những súng, thời ba ông đều cởi ngựa cầm siêu, mới gọi thiệt ta đây Vân-Trường nhà [Tờ 62b] Hán. Tiếng lạc ngựa vang dậy khắp trời, đức thánh mới huy đao chém giặc, giặc thấy lăn ra mà không thấy chết, người bay như gió, ngã ra rồi quân lại dậy ngay, thánh nom thấy quân nào cũng có, đủ thứ người chợ, khách, man, lào sức chém thế mà không thấy chết, thánh chịu thua thánh phải rút quân về. Về tới thành tấu dụng với ông Lưu : « Giặc nầy hẳn trên trời sai xuống, nội dương-gian đủ cả thứ người, việc thấy lạ tâu cho vua biết ; nó không như Tào-Tháo, Tôn-Quyền đấu trí lực để phân thắng phụ, nó có đều thu được đủ trăm thú sơn tinh, hiện ra trước trận tiền mà đấu chiến, như thế nầy ta phải chịu thua, việc đã đến xin vua nghị-luận, còn tướng nào ra địch được không, nước Hán ta Triệu-tử-Long, thế địch được [Tờ 63a] nói cho ta biết, giặc ma là thế, các tướng nay cũng đã chịu rồi ». Ông Triệu tấu dụng với vua : « Phải thế, tôi xin đi đánh ». Ông Triệu đi, đức thánh Quan điều nhủ cho : « Nó có phép, chém như chém đá, nó lăn ra rồi lại dậy ngay ». Ông Triệu dạ, nhảy lên mình ngựa cầm siêu đao, áo sắt mặc vào, một mình quyết xông vào, chém giặc, ngựa cởi đi như thể gió bay, giặc tan tác vang trời những tiếng súng, giặc Lào rợ chết lăn dưới đất, còn quân nào chạy thoát ra ngoài, cũng giục ngựa đuổi theo chém hết, gởi siêu đao xuống ngựa liền quyền, địch với tướng Phi-long Mạnh-Hoạch, cướp lấy đặng một đôi song kiếm, đem về thời ngựa lại mất rồi, phải theo cho được ngựa, hai tay hai kiếm, chém hết quân mà lấy được ngựa về, lại [Tờ 63a] phục chiến để sinh cầm lấy tướng. Trời thì đã tối, giặc rút rồi, ông Triệu mới về, tính chém ra được sáu trăm quân, những tướng nó được tám tên tài tướng. Ông mới về cho tới cửa thành, trông thấy khác, không ngờ rằng ông Triệu máu rơi lưu loát khắp mình người mình ngựa đỏ hồng.Vua mới sức tắm gội cho sạch máu, áp hương hoa để rưới khỏi tanh hôi, rồi vua mới thiết đàn phong chức. Trâu bò voi ngựa đem giết ra tấu cáo thiên-đình, phong cho ông Triệu, trong tướng tài vào bậc thứ hai. Vua mới đòi văn võ triều thần, lại hội-nghị để dẹp yên giặc Rợ : « Trong triều thần văn võ có ai thời phải nói để ta được biết, trước ba tướng chịu thua một trận, sau Triệu-Tử mới ra đánh được, được trận nầy nhưng giặc chưa thanh, sợ [Tờ 64a] lòng trời không còn có tựa, giúp ta trị nước. Các triều thần ai cũng hết lòng, giặc Rợ Mán khó so tài trí, các đình thần nghị-luận thế nào, cho nước được yên, rước quân-sư để ra ta hỏi, giặc thế nầy tính đánh làm sao ». Khổng Minh : « Dạ, để tôi xin hiến, phải lập mưu xuất thú trá hàng, tôi viết thư vua hạ long bút, có lời vua lòng nó mới tin, xin làm tên để bắn sang cho nó ». Nó lấy tên lại bắt được thư, rõ-ràng chữ vua Lưu nhà Hán, trong thư nầy chịu thú về ta. Các tướng Rợ đều cười ha hã : « Đã chịu ta, ta cũng tha cho, binh thuế phải nạp về ta hết, quân ta về bãi bể vũ an ». Rợ chịu rút rồi. Ông Khổng-Minh thiết kế, sức truyền văn võ các triều thần nội ngoại Kinh-Châu : « Tận [Tờ 64b] dân phải lấy ra làm lính, mỗi một người đều có cuốc mai, đem đào núi rộng dư muôn dặm, người ở trong được kể dư muôn, Rợ có hỏi quân đào chi thế, thì nói rằng vua sức đào vàng đem đưa thú Rợ, để cho yên nước ». Ông Khổng-Minh rồi lại trở về tâu với vua, xin mười kho thuốc đạn, được hai ngày đào đã xong rồi. Ông Khổng-Minh lập tức truyền quân, đem thuốc đạn chôn vào hang núi, chôn thuốc rồi lại trần thiết, sắp bày lửa hoa đỏ rải liền hang núi, thiết yến ra bày kế muôn bàn, rước vua Rợ để khao quân-sĩ, vua Rợ ra thì hết nước đều ra, đủ tướng sĩ đều ra cho hết. Ông Khổng-Minh ra rước mời ngồi. Vua Rợ ngồi, quân-sĩ đều ngồi, xin hiến hưởng : « Tôi xin về rước chúa ». Vua Rợ nghe [Tờ 65a] truyền quân-sĩ, cứ uống rượu say. Ông Khổng-Minh ngồi nơi ngoài cửa, châm lửa làm phép phục địa lôi, cả nước Rợ chết tan như pháo. Ông Khổng-Minh trở về lại nói : « Biết ý trời còn tựa nước nhà, cho có phép cũng là rợ, mán ».

    GIẢI

    Chuyện cổ nầy vốn ở huyện Sầm-na. Thuở Tự-Đức năm thứ mười sáu, quan Chánh-quản-cơ Quan-Hùng là người Quan-hóa, tên là Phạm-bá-Ít, khi lên đánh giặc xá ở huyện ấy, thấy truyện nầy mà chép lại đó. Nay xem trong Hán-sử, thì việc ấy dường là trận hỏa-công, mà thất cầm thất túng lại là việc sau. Vả lại đương khí ấy, ba nước tranh hùng, mà người nước Nam gọi sứ-giả [Tờ 65b] bên Tào là thằng Tàu, gọi sứ-giả bên Ngô là thằng Ngô, gọi sứ-giả bên Thục là khách Thục, dường là trọng bên Thục mà khinh bên Ngô bên Tào, cũng là ở chưn sau cái việc thất cầm thất túng đó chăng.

    Tiếng nói Trung-quốc với thổ-âm nước Nam khác. chữ Tào gọi là Tàu, cũng như tụ tam gọi là tổ tôm. Sau nầy lại có chữ hồi Đường, lại là thuở nước Nam ta nội-thuộc đời nhà Đường, khách Thục cũng như Thanh-khách, là lấy tân khách mà đãi người ta vậy.
     
    Heoconmtv and Despot like this.
  3. Thu VO

    Thu VO Leader 1000QSV1TVB

: 1000qsv1tvb

Chia sẻ trang này