Văn học nước ngoài THỊ TRẤN PHÙ DUNG (Tiểu thuyết - Cổ Hoa)

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 23/3/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    [​IMG]

    THỊ TRẤN PHÙ DUNG

    Tiểu thuyết LÊ BẦU dịch

    (In lần thứ hai)

    NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN Hà Nội - 2001
    ( Thực hiện ebook: hoi_ls)


    LỜI GIỚI THIỆU

    Cổ Hoa sinh năm 1942 trong một làng nhỏ miền núi thuộc huyện Gia Hòa, tỉnh Hồ Nam. Tác phẩm của ông bắt đầu được in từ năm 1962. Ông đã sống rất lâu ở nông thôn, vùng núi Ngũ Lĩnh, nên rất thuộc những phong tục nơi sơn trấn.

    Tác phẩm chủ yếu của ông gồm có: tám tập truyện ngắn, trong đó có: Căn nhà gỗ leo đầy dây mây; truyện vừa có mười hai tập trong đó có: Ngọn Phù Đồ, Trinh nữ, và hai tiểu thuyết, trong đó có Thị trấn Phù Dung.


    Trong số tác phẩm đó có tập: Căn nhà gỗ leo đầy dây mây, đã được tặng giải thưởng truyện ngắn toàn quốc năm 1981. Thị trấn Phù Dung là tác phẩm chủ yếu của ông và đã từng được nhận giải thưởng văn học Mao Thuẫn đầu tiên bởi nó mang đậm sắc thái địa phương, sức hấp dẫn nghệ thuật mãnh liệt và đã được độc giả trong cũng như ngoài nước vô cùng yêu mến. Cho đến nay nó đã được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Nhật, Nga, Đức, Hà Lan, Hunggari, Tây Ban Nha, Ukrain, v.v. Tất cả hơn 10 thứ tiếng, ở trong nước nó đã được hơn 10 đài phát thanh cho đọc trên làn sóng nhiều kỳ liên tục. Đồng thời nó cũng được cải biên thành thoại kịch, ca kịch, Việt kịch, Bình kịch, Hán kịch, Hoàng Mai kịch, Bồ Điền kịch, Hoa Đăng kịch đem diễn trên sân khấu. Ngoài ra nó còn được nhà “đạo diễn hàng đầu” Tạ Tấn chuyển thể thành kịch bản phim, và do “ngôi sao sáng hàng đầu” Lưu Hiểu Khánh đóng vai chính. Bộ phim cũng thu được thành công rực rỡ.


    Nhà xuất bản Văn học nhân dân (Bắc Kinh, Trung Quốc) đã liên tục cho in bốn lần theo các khổ sách khác nhau. Bản dịch này theo nguyên bản của nhà sách Vũ Trụ (In lần thứ năm).


    Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu Cổ Hoa cùng tác phẩm của ông tới bạn đọc trong và ngoài quân đội.


    NHÀ XUẤT BẢN
    QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
     
  2. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    Chương I
    BỨC TRANH PHONG TỤC
    THỊ TRẤN MIỀN NÚI
    (Năm 1963)



    CẢNH SẮC MỘT VÙNG

    THỊ TRẤN PHÙ DUNG NẰM TRÊN VÙNG ĐẤT PHẲNG của một thung lũng, nơi giáp ranh của ba tỉnh Tương, Việt, Quế (1), xưa nay vẫn là nơi dừng chân nghỉ lại của thương lái, là nơi anh hùng hào kiệt tụ nghĩa, là nơi quan yếu, cần phải chiếm giữ trong những cuộc chiến chinh. Thị trấn có một dòng sông, một con ngòi. Hai con đường thủy ấy, ôm vòng lấy thị trấn, hợp lưu lại với nhau cách đầu thị trấn đến ngót một dặm xa, do đó, ba mặt đều là nước, nó giống như một bán đảo có địa hình vừa hẹp vừa dài. Từ thị trấn đi ra, qua bến đò ở phía Nam, có thể xuống Quảng Đông; đi về phía Tây, qua một cây cầu bán nguyệt, xây bằng đá, là đường cái quan đi tới Quảng Tây. Không rõ từ triều đại nào, ông quan lớn trấn thủ ở đây, thi hành chính sách nhân từ, hoặc là học đòi phong nhã, muốn lưu danh trong huyện chí, châu sử, đã sai người trồng những cây mộc phù dung, trên bờ sông, bờ ngòi, nước xanh như hạt đậu xanh, lưu lại lâu dài những hoa tươi cành tốt, những bóng xanh bờ mát, nên đã trở thành cảnh sắc riêng của thị trấn; rồi lại cắt dân phu, đào đắp một vùng đầm lầy dưới chân núi thành một mặt ao vuông vức, thả cá, thả thủy phù dung (2), lấy hoa, lấy ngó, coi như “đặc sản nhà quan” nơi nha môn của ông quan lớn miền núi. Mỗi khi hoa thủy phù dung dưới hồ bừng nở, hoặc hoa mộc phù dung trên bờ đấu sắc, thì cả một vùng đất phẳng phiu của dải Ngũ Linh tràn trề hoa sắc, trở thành một vùng quê phú quý, phong lưu. Hoa, lá, cành, ngó thủy phù dung đều được đưa vào làm thuốc. Thủy phù dung, bên trên kết thành bát, bên dưới có ngó, ngay cả những chiếc lá to tròn như những chiếc phèng phèng xanh thẳm phủ kín mặt hồ, cũng là nơi tá túc của những chú chuồn chuồn, những chàng ễnh ương diễu võ dương oai và những hạt sương lăn lóc; đem hái xuống, còn có thể gói cơm, bọc muối cho những người đi bộ đường xa, làm bánh bột mạch lá sen, phủ những gánh hàng của người bán rong, đậy những chiếc gùi của người đàn bà đi chợ, làm nón che mặt trời cho những chú bé chăn trâu... tóm lại, nhất vật bách dụng, rất khác nhau. Dòng sông bé, con ngòi con, thị trấn nhỏ, vì thế mà thành tên: “Sông Phù Dung”, “Ngòi Ngọc Diệp”, “Thị trấn Phù Dung”.

    Mặt phố của thị trấn Phù Dung nhỏ hẹp, mươi cửa hàng, mấy chục hộ chen chúc, kẹp chặt lấy phố Đá Xanh, cửa hàng sát sạt nhau, nên chỉ cần một nhà xào nấu thịt chó là thơm lừng khắp phố, cho đến trẻ con nhà nào bị ngã sứt răng, đánh vỡ bát, dân hàng phố đều biết hết, ngay cả chuyện riêng tư của bọn con gái trong phòng kín, rồi chuyện những cặp vợ chồng trẻ cãi cọ nhau, cũng đều thường bị những người hàng xóm sát vách nghe thấy hết và truyền đi như một tin mật cần phải nghe trong thị trấn, rồi đàm tiếu như một chuyện vui cười. Ngẫu nhiên có anh em một nhà nào đó đánh nhau, một cặp vợ chồng xô xát, cả dãy phố sẽ náo động hẳn lên, người đi kẻ lại rầm rập, khuyên răn can gián, y như một đàn vịt bị săn đuổi dưới sông, có khi mất đến nửa ngày chưa hết ồn ào. Những ngày không phải phiên chợ, những nhà ở dọc hai bên đường phố, thọc dài những cây sào từ gác nhà mình, sang gác nhà đối diện, phơi phóng đầy những thứ bằng vải: áo quần, đồ lót, vỏ chăn. Mỗi khi có làn gió thổi qua, nó bay phấp phới như “cờ vạn quốc”, xanh xanh, đỏ đỏ đủ năm màu bảy sắc. Thêm vào đó, nhà nào cũng treo lủng lẳng dưới mái hiên ngói, từng chùm, từng chùm ớt đỏ, từng túm, từng túm những bắp ngô màu vàng, rồi núc nỉu những quả bầu nậm sắc xanh pha trắng, thành hai dải băng màu sặc sỡ trên dọc hai bên đường phố hẹp, tạo ra một cảnh sắc riêng.

    Trong một năm, tứ thời, bát tiết, người trong thị trấn giữ vẻ ân cần, thường có tập quán đem biếu xén nhau những đồ ăn thức uống. Theo âm lịch, ngày tháng 3 làm bánh thanh minh, ngày mồng 8 tháng 4 hấp bánh khúc nhân thịt, Đoan Ngọ tháng 5 gói bánh chưng (3), uống rượu hồng hoàng lá ngải, mồng 6 tháng 6, trong vườn, trong sân nhà nào cũng có lê, có dưa chín sớm. Mồng 7 tháng 7 nếm cơm gạo sớm, Trung Thu tháng 8 nhà nào cũng tự làm lấy bánh trông trăng, Trùng Dương (trùng cửu) hồng đã được hái. Kim Thu tháng mười cưới vợ, gả chồng. Mồng 8 tháng Chạp nấu “cháo đậu tháng Chạp” (4). Ngày 23 tháng Chạp tiễn ông Táo về chầu trời... thực phẩm, hoa quả chế biến cũng có những đại đồng tiểu dị trong các gia đình, nhưng qua những bàn tay khéo léo của các bà nội trợ thêm dấm, thêm ớt, bánh trái làm ra lại chẳng nhà nào giống nhà nào, mùi vị, kiểu cách cũng khác nhau, điều vui nhất, thứ quý nhất là sau khi hàng xóm láng giềng ăn nếm thử bánh trái xong có được vài lời khen, nên trong âm thầm, nó trở thành một cuộc triển lãm màu sắc, mùi vị của các món ăn phụ. Ngay trong những ngày bình thường nhà ai đó có miếng bánh, viên kẹo, hay nồi chân giò hầm, cũng không thể quên gắp vài ba miếng cho lũ trẻ nhà bên, rồi sau đó, chúng về nhà ríu rít khoe với mẹ những “thu hoạch” kỳ diệu trong chiếc bát của mình. Sau bữa cơm, những bà mẹ thường dắt con sang đó, ngồi trò chuyện thân tình, dăm ba câu trời cao đất dày, nhưng ánh mắt và nét mặt lại mang đầy vẻ cảm ơn.

    Mặt phố thị trấn Phù Dung tuy nhỏ, cư dân không nhiều, nhưng mỗi khi đến ngày phiên chợ, người đi chợ có tới hàng vạn. Chợ không họp ở dọc phố Đá Xanh mà họp trên một bãi trống, bằng phẳng vuông vức ven sông, sau phố, ước chừng vài ba chục mẫu (5). Từ xã hội cũ còn lưu lại hai dãy quán chợ dài, cột bằng đá xanh nhẵn thín, lợp bằng ngói xanh, bốn phía trống không. Đối diện với quán chợ là một sân khấu quét vôi loang lổ, cũ kỹ. Hồi mới giải phóng, các ngày phiên chợ vẫn theo lệ cũ cứ vào ngày 3, ngày 6, ngày 9 là họp, một tuần 3 phiên, một tháng 9 phiên. Những thương lái người Hán, dân săn bắn người Dao, các thầy lang vườn, hàng xay hàng xáo của 18 huyện trong ba tỉnh đều tập trung về đây mua mua bán bán. Thịt lợn, thịt trâu, rau xanh hoa quả, nấm hương mộc nhĩ, hải sâm, trăn, rắn, khỉ, hầu, vải dệt máy, bách hóa tiêu dùng, quán hàng ăn uống... đầy phố, đầy chợ. Người thành sông, ồn ào, ầm ĩ, đầu tóc nhấp nhô. Nếu như đứng trên dốc ngọn núi phía sau nhìn xuống vào ngày đẹp trời chỉ thấy toàn là khăn màu, khăn hoa, nếu là ngày mưa sẽ thấy một rừng áo tơi, nón lá, ô giấy, ô vải. Mọi người hình như không phải đang đi, mà như dập dềnh, trôi nổi trên mặt hồ rộng lớn. Trong dòng người chen vai, thích cánh ấy, từ người bán nước, đến người chữa răng, đều bám vào cái chợ này mà sinh sống. Nghe nói có một người nghèo ở thị trấn, chỉ dựa vào việc hót nhặt phân trâu, phân lợn của các cửa hàng thịt mà trở nên giàu có... Cho đến năm 1958, đại nhảy vọt, do vì tất cả mọi người trong thiên hạ phải đi đun sắt luyện gang, đi phát huy các loại, các kiểu vệ tinh cao sản nổi tiếng nổi danh trên thế giới, thêm vào đó là các ủy ban trên huyện, trên khu (6) viết giấy hạn chế buôn bán, trao đổi trên chợ búa, phê phán thế lực tư bản chủ nghĩa ở thành phố, hương thôn, nên chợ Phù Dung đang từ ba ngày họp một phiên đổi thành một tuần lễ một phiên, rồi lại đổi thành 10 ngày một phiên, cuối cùng thì nửa tháng một phiên. Quá độ dần dần, tiến tới tiêu diệt thị trường, chợ búa, tức là hoàn thành xã hội chủ nghĩa, tiến vào cộng sản chủ nghĩa. Nhưng nghe nói là ông giời không vừa lòng, đồng ruộng, đất cát, nương rẫy chẳng nên cơm cháo gì, thêm vào đó là bọn đế quốc xét lại quấy phá, cái ngưỡng cửa của thiên đàng cộng sản chủ nghĩa khá cao, nhảy vọt lên mà cũng không với tới, nên đã trượt chân ngã bổ chửng từ trên lưng chừng mây xuống, và rơi đúng vào cái miếng đất nghèo nàn, túng bấn giữa nơi trần thế, sống những ngày đói khổ với chảo canh rau xanh loãng thếch, trong nhà ăn công cộng, nửa tháng một phiên chợ chỉ toàn thấy bán những cám bã, rau má, sắn dây, thổ phục linh, bột cây đuôi chồn. Ngựa gầy dài lông, người gầy vàng mặt. Nhà nước và trăm họ đều bị bệnh phù thũng. Thương lái tuyệt tích, chợ không ra chợ, nhưng cờ bạc đĩ điếm, múa võ choảng nhau, trộm cắp lừa đảo, đã bùng lên một thời, cho đến năm kia, - nửa năm cuối của 1961 - Ủy ban huyện mới viết công văn xuống, chuyển chợ từ nửa tháng một phiên xuống thành 5 ngày một phiên. Trước hết là nới rộng ngày phiên chợ, cho tiện việc giao lưu phẩm vật. Vì nguyên khí đã bị trọng thương, thị trấn Phù Dung không sao phục hồi nổi cái chợ có hàng vạn người mua bán, tập trung những thương lái của 18 huyện trong ba tỉnh như trước kia.

    Mấy năm gần đây, người làm ăn buôn bán của thị trấn được coi là khá giả nhất không phải là những hàng thịt trâu thịt lợn vốn nổi tiếng xa gần từ xưa tới nay, mà là quán canh bánh tráng của cô Hồ Ngọc Âm mới mở ở thị trấn. Hồ Ngọc Âm là một nữ thanh niên khoảng 25, 26 tuổi. Những người đến đứng, ngồi, ăn một bát canh bánh tráng ở cửa hàng cô, thường vẫn quen gọi là “cô Phù Dung”, còn những người thích bông đùa cười cợt lại gọi là “Phù Dung Tiên Nữ”. Gọi cô là Tiên Nữ quả cũng có gì đó hơi quá đáng, nhưng Hồ Ngọc Âm mày đen, mắt to, mặt như trăng rằm, khuôn ngực nở nang, dáng bộ gợi tình, khiến cho thương lái qua lại cũng muốn đầu mày cuối mắt. Chủ nhiệm cửa hàng lương thực của thị trấn, Cốc Yến Sơn đã ví von như thế này:
    - Da thịt cô Phù Dung trắng nõn nà, y như tấm bánh tráng của cô vậy.
    Cô niềm nở chiều khách, tính nết dịu dàng, nhanh miệng, nhanh tay, không phân biệt khách quen khách lạ, không phân biệt ăn mặc sang trọng hay rách rưới, đều niềm nở đón đưa, mời chào.
    - Ăn thêm một bát nữa nhé? Em thêm một môi canh cho đỡ khát.
    Hoặc như:
    - Vâng, vâng! Phiên chợ sau lại nhớ đến hàng em!

    Thêm vào đó là bát đũa sạch sẽ, gia vị đầy đủ, nước dùng bao giờ cũng ngọt hơn các cửa hàng khác. Một hào một bát, tùy ý múc thêm nước dùng, cho nên cửa hàng cô lúc nào cũng nườm nượp, khách đến khách đi, không bao giờ dứt.

    “Mua bán ngọt ngào, tiền vào như nước”. “Khách mua là vua cơm áo!”. Đó là những lời “gia huấn” mà Hồ Ngọc Âm đã học được từ chính cha mẹ mình. Cứ theo như lời đồn đại, mẹ cô xưa kia đã từng làm gái thanh lâu, bán phấn bán hoa ở vùng cửa một con sông lớn, sau cùng với một người hầu bàn chạy trốn đến thị trấn miền núi giáp giới ba tỉnh này, rồi mai danh ẩn tích, mở một quán trọ được các thương lái qua rất lại rất mến yêu. Vợ chồng mãi tới khi hơn bốn chục tuổi, đèn nhang cầu Phật mãi mới đẻ được một cô con gái Ngọc Âm. “Ngọc Âm” có ý nghĩa là sự bố thí của Lão Mẫu Quan Âm đại từ đại bi. Năm 1956, công tư hợp doanh, cũng là lúc Hồ Ngọc Âm lấy chồng chưa được bao lâu, hai ông bà già đã song song qua đời. Khi ấy còn chưa thực hành chế độ nông nghiệp cấp cao, Hồ Ngọc Âm và anh chồng mới chỉ tham gia hợp tác xã sơ cấp ở thị trấn, trở thành hộ nông nghiệp. Vào ngày phiên chợ, tranh thủ bán thêm canh bánh tráng, nhưng đấy là chuyện của hai năm gần đây. Về chuyện cũ, kể ra cũng hơi khó nói. Hồ Ngọc Âm tham gia vào việc buôn bán, kể từ khi tay xách cái làn, đi bán bánh cám nhân rau, rồi dần dần bán đến bánh bột cây đuôi chồn, bánh bột khoai, cuối cùng mới bán canh bánh tráng. Cũng chẳng phải cô tiếp nối nghề nghiệp cha ông gì, mà chẳng qua chỉ là trong những ngày đói khổ quá thì đầu gối phải bò, mà thành ra người buôn bán thôi.

    - Cô Phù Dung! Hai bát nhé, cho thật nhiều ớt vào!
    - Có ngay! Nhưng sợ nhiều ớt quá sẽ cay đến cả lỗ rốn của ông anh mất thôi.
    - Lỗ rốn tôi mà bị cay ấy à, đã có cô xoa giúp!
    - Thối!
    - Bà chị, một bát canh bánh tráng với hai lạng rượu trắng hâm nóng.
    - Có ngay, trời nóng nực như thế này, tôi làm bát to, thêm nước dùng. Còn rượu, xin mời sang cửa hàng bên kia mua.
    - Cô Phù Dung, cho một bát bánh tráng chan bằng nước lã. Anh chỉ thích những thứ nước trắng nõn nà như tay em thôi. Ăn thế đi đường, khỏe chân.
    - Anh thật mồm rộng lắm điều, thế nào rồi cũng được bài học. Chắc là hai ngày hôm nay vợ anh chưa bắt anh quỳ xuống chân giường, rồi véo tai anh, phải không?
    - Anh chỉ thích được em véo tai anh thôi!
    - Anh cứ rờ hồn, anh canh bánh tráng chan bằng nước lã, rồi lưỡi anh sẽ mọc mụn lên đấy, kiếp sau, trời sẽ bắt anh làm thằng câm.
    - Đừng nói thế, đừng nói thế, như vậy cửa hàng canh bánh tráng thiếu mất một khách hàng, em có chịu không?

    Cứ như thế đối đáp, chua có, ngọt có, nhưng trong mắt bao giờ cũng mang sẵn nụ cười dịu dàng, với tiếng nói cứ ngọt như tiếng hát. Đối với những khách hàng quen thuộc, thường tới ăn ở đây, lúc nào cô cũng nói cười vui vẻ, thân thiết tiếp đón, đối đãi như anh em trong nhà.

    Rõ ràng, cửa hàng canh bánh tráng của cô có những khách hàng thân quen, phiên chợ nào cũng ghé vào.

    Người đầu tiên phải tính đến là chủ nhiệm cửa hàng lương thực Cốc Yến Sơn. Ông Cốc ngót bốn chục tuổi, người miền Bắc, ông là người thực thà trung hậu, cô đơn, sống độc thân. Không hiểu ra làm sao, vào mùa thu năm ngoái bỗng nhiên báo cho Hồ Ngọc Âm biết, cứ mỗi phiên chợ xưởng xay xát gạo của ông có thể bán cho cô 60 cân đầu mày tấm gãy, khép kín việc làm hàng của cô! Vợ chồng Hồ Ngọc Âm cảm động đến chỉ một suýt nữa sẽ quỳ xuống lễ tạ ông Cốc và gọi ông là ân nhân. Từ đó cứ mỗi phiên chợ, ông Cốc đều ghé vào cửa hàng của Hồ Ngọc Âm ngồi nán lại một lát, lặng lẽ nhìn Hồ Ngọc Âm đang nhanh chân lẹ tay, tiếp đón khách hàng từ bốn phương tới, vẻ như ngâm nga thưởng thức cái dáng tươi trẻ của cô. Vì ông là người đứng đắn, nên đối với ngay cả cái tên “cô Phù Dung” mang đầy sự chớt nhả, dung tục mà người ta đặt cho Hồ Ngọc Âm cũng chẳng gợi lên trong lòng ông một chút tà ý nào.

    Thêm một người nữa là anh Lê Mãn Canh, bí thư chi bộ của đại đội sản xuất ở thị trấn. Anh Mãn Canh ngót ba mươi tuổi, là quân nhân chuyên ngành, là anh em cùng tuổi với chồng Hồ Ngọc Âm, Hồ Ngọc Âm nhận anh là anh nuôi. Mỗi phiên chợ người anh nuôi cũng ghé lại hàng của cô em nuôi, thưởng thức một vài bát không phải trả tiền, điều đó mang ý nghĩa tượng trưng rất lớn, vì vô hình trung, nó như cấp giấy phép hợp pháp cho cửa hàng canh bánh tráng, báo cho những người đi chợ biết rằng, cửa hàng canh bánh tráng đã được bí thư chi bộ cho phép, bí thư chi bộ ủng hộ.

    Đến ăn canh bánh tráng không phải trả tiền, còn có một người nữa: Vương Thu Xá, một nhân vật nổi tiếng ở thị trấn, “rễ của các phong trào vận động”. Vương Thu Xá vừa ba mươi tuổi, có bộ mặt tròn xoe, những ngày bình thường trông giống như pho tượng Phật cười. Nhưng mỗi khi chính phủ cử người đến nắm phong trào, tổ chức một cuộc vận động nào đấy, thì nhất định anh ta trở thành cốt cán, nào vác loa đi gọi người đến họp, rồi đứng ra hô khẩu hiệu đầu tiên, gây không khí trong hội trường, nào vào ban canh gác để phòng người xấu, vô cùng đắc lực. Cho đến khi xong một phong trào, cuộc vận động đã trôi qua, anh ta lại giống như một quả bóng xì hơi. Mồm miệng luôn luôn nhờn mỡ, thích ăn ngon, người ta có một tiền, phải chia, tiêu làm ba lần, còn anh ta ba tiền coi như một tiền, đem tiêu. Mỗi khi đến ngồi ở cửa hàng canh bánh tráng bao giờ cũng chỉ một câu:
    - Thím em, cho hai bát, ghi sổ!
    Anh ta nói ráo hoảnh, không biết ngượng như thế.
    Có khi còn vỗ vỗ vai chồng cô, nói đùa ngay trước mặt cô:
    - Này người anh em! Làm ăn ra sao thế? Cậu với thím em của tôi lấy nhau đã bảy, tám năm rồi, mà thím em của tôi vẫn cứ như một cô gái trinh, chẳng biết mang bầu? Có khi phải mời lấy một anh thợ, kiếm lấy một tên nhóc mà bế bồng!

    Câu nói đã làm cả hai vợ chồng cô phải đỏ mặt, buồn không được, tức không xong và chửi cũng không nổi. Đối với kẻ chỉ biết ăn không ăn hỏng này, Hồ Ngọc Âm tuy trong lòng tức tối, nhưng ở phường phố thị trấn này mỗi khi có phong trào vận động nào đó hắn vô cùng đắc thế, không dại chuốc vạ vào mình, nên vẫn đành phải cười cười, chịu cho hắn ăn quỵt.

    Trong số khách hàng của mỗi phiên chợ, còn một con người kỳ quái nữa thế nào cũng ghé vào hàng, nên cũng đáng nhắc tới, người này có biệt hiệu là “Tần Rồ”, tên thật là Tần Thư Điền, thuộc phần tử loại 5. Tần Thư Điền vốn là một con người đàng hoàng, đã từng là giáo viên âm nhạc, thể thao của trường huyện, và là biên đạo múa của đoàn ca múa huyện, năm 1957 vì đã sáng tác một màn ca múa phản động, dùng dân ca để phản Đảng, nên bị quy thành phái hữu, bị đuổi về quê hương sản xuất. Thái độ của anh ngoan cố, chưa bao giờ chịu nhận tội phản Đảng phản xã hội chủ nghĩa, mà chỉ thừa nhận rằng mình đã có hai lần hủ hóa với phụ nữ, đề nghị bí thư chi bộ đại đội Lê Mãn Canh đổi chiếc mũ “phần tử phái hữu” thành cái mũ “phần tử xấu”. Anh có cả một mớ lý luận ngụy biện. Anh đến quán của Hồ Ngọc Âm bao giờ cũng nhằm vào lúc vắng người, anh cười tít mắt, trong miệng ngân nga một khúc hát: “Ơi gạo ơi! Gọi gạo đến, gạo đến nhiều. Cay đến nhiều... Nhiều nhiều”.

    Có người hỏi:
    - Này Tần Rồ! Anh cứ nhìn giời mà hát cái bài quỷ quái gì thế?
    Anh đáp:
    - “Cao cao mãi”, âm nhạc Quảng Đông, nhảy múa đấy.
    - Cậu mà cũng cao cao mãi à? Rõ ràng là phần tử loại 5, có thấp thấp mãi thì có!
    - Vâng ạ, đúng thế! Dưới bóng núi sông, một lòng cải tạo!
    Khi đứng trước Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền lại tỏ ra là người vô cùng biết điều, mắt không đảo ngược đảo xuôi, không nói quá nửa lời. “Chớ đánh đập chó gầy, đừng quấy rầy ngựa ốm”. Quả là Hồ Ngọc Âm có thấy anh ta tội tội, thấy anh ta khốn khổ. Đôi khi bốc bát canh cho anh ta, cô còn cố ý bốc thêm tý bánh, múc thêm thìa mỡ.

    Mỗi ngày phiên chợ, những người bám vào nghề buôn bán sinh nhai, có đủ các loại, cá mè một lứa, đục trong lẫn lộn, mặt phật tâm xà, mặt phật tâm cũng phật, lương thiện, lưu manh, mượn gió bẻ măng, liệu gió kéo buồm, nhanh mồm nhanh miệng, lèo lá lật lọng, hàng xấu bảo tốt, hàng tốt bảo xấu, bẻo lẻo tráo trở, đánh đá chanh chua... không thiếu mặt nào!

    Mấy người khách quen thuộc, thường hay đến cửa hàng canh bánh tráng của “cô Phù Dung”, xin tạm giới thiệu đến đây.

    Mấy năm gần đây cuộc sống của con người giống như cái chợ. Trong toàn bộ câu chuyện sau đây, mấy nhân vật này chưa thể gọi là nhân vật chính, nhân vật phụ, mà còn nhiều nhân vật phải sinh sôi nảy nở ra, từ đầu xanh đến tóc bạc sẽ tiếp tục vai diễn, lần lượt gặp gỡ cùng độc giả.


    (1) Tên riêng của ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam (N.D).

    (2) Hoa sen ở Trung Quốc có nhiều tên gọi, như “liên”, “hà” và “thủy phù dung”, ở nguyên tác, tác giả dùng chữ “thủy phù dung” để đi đôi với “mộc phù dung”, cố ý nhấn mạnh vào chữ “phù dung” vừa là tên tác phẩm vừa là chỉ cả vào vùng đất Hồ Nam, vì xưa kia Hồ Nam nằm trong đất của nước Phù Dung, và về sau này, chữ “phù dung” chỉ để chỉ riêng và gọi riêng cho tỉnh Hồ Nam (N.D.).

    (3) Người Trung Quốc ăn bánh chưng vào dịp tết Đoan Ngọ chứ không ăn vào dịp tết Nguyên Đán như ta (N.D.).

    (4) Ngày này trong dân gian Trung Quốc thường ăn cháo. Tục lệ bắt nguồn từ Phật giáo: Tương truyền rằng Thích Ca Màu Ni đắc đạo vào ngày mồng 8 tháng Chạp, nên chùa chiền thường nấu cháo cúng Phật. Về sau dân gian lưu truyền mãi liền thành tục lệ. Nguyên chữ Hán là “Lạp Bát chúc” tức là “cháo mồng 8 tháng Chạp”. Nhưng trong nguvên bản, tác giả lại viết là “Lạp bát đậu”. Vì thế dịch là “cháo đậu” (N.D.).

    (5) Tất cả những đơn vị đo lường dùng trong sách này như mẫu, cân, thước... đều là mẫu, cân, thước theo hệ thống của Trung Quốc (trừ những chỗ dùng mét hoặc kilôgam theo nguyên tác). Cụ thể là: một mẫu Trung Quốc ăn 666.67 mét vuông; một cân Trung Quốc ăn 0,5000 kilôgam, một thước ăn 0.333 mét... (N.D.).

    (6) Đơn vị hành chính “khu” nằm dưới đơn vị “huyện” (N.D.).
     
    tducchau thích bài này.
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    CHỊ CỬA HÀNG TRƯỞNG
    MẶT PHỐ THỊ TRẤN PHÙ DUNG TUY NHỎ, NHƯNG lại có tới ba cửa hàng thương nghiệp quốc doanh: cửa hàng bách hóa, cửa hàng thực phẩm và cửa hàng ăn uống. Ba cửa hàng này được chia ra trấn giữ ở ba nơi: đầu phố, giữa phố và cuối phố Đá Xanh. Chỉ đứng riêng về mặt vị trí địa lý mà nói, nó chiếm được ưu thế tuyệt đối, trong công việc khống chế toàn bộ hoạt động thương nghiệp của thị trấn. Nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống Lý Quốc Hương, mới được phòng thương nghiệp điều về, có một nhạy cảm sắc bén đặc biệt đối với thị trường tự do trong toàn thị trấn. Mỗi ngày phiên chợ, chị ta đặc biệt chú ý tới việc đắt hàng, ế hàng của các quán hàng nho nhỏ bán đủ các loại hàng ăn uống linh tinh trong chợ, xem xét có tất cả bao nhiêu cửa hàng tư doanh tranh chấp, chiếm đoạt mất khách của cửa hàng quốc doanh, đe dọa thị trường thực phẩm quốc doanh. Chị ta giống như kiểu bà vợ một ông trưởng thị trấn thời xưa, ưỡn ẹo bộ ngực chẳng được phổng phao cho lắm, diễu đi diễu lại, xem xem xét xét, cuối cùng đã chọn đúng vào cửa hàng canh bánh tráng của “cô Phù Dung”. Chị ta bất giác lấy làm kinh ngạc nhận ra rằng: khuôn mặt xinh đẹp của cô “Tây Thi canh bánh tráng” chính là tấm biển quảng cáo, thu hút được nhiều khách nhất! Ấy là chưa nói tới chuyện cô ta chiều khách rất chu đáo, với nụ cười lúc nào cũng tươi như hoa. “Những cái thằng đàn ông chó chết! Thằng nào cũng như một con hổ đói, thèm mồi, suốt ngày loanh quanh léo quéo vây tròn lấy cái hàng canh bánh tráng...”. Chị ta mang danh là một cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh, tự nhiên thấy mình mất mặt, mất uy thế, và nhận định rằng: cửa hàng canh bánh tráng của “cô Phù Dung” là mối đe dọa lớn duy nhất trong việc tranh giành cao thấp với mình.

    Vào một ngày phiên chợ, chị cửa hàng trưởng và “cô Phù Dung” đã đấu khẩu với nhau một trận. Nguyên do thực ra chẳng là cái gì hết, và nó không hề liên can gì tới chức trách của một người cửa hàng trưởng. Chồng của Hồ Ngọc Âm là Lê Quế Quế vốn làm nghề giết mổ lợn ở thị trấn, phiên chợ hôm ấy có đến hai cỗ lòng lợn, đem thái nhỏ, xào hành mỡ thơm phức, rồi bốc lên trên mỗi bát canh bánh tráng một ít làm “màu”, mà giá tiền vẫn không thay đổi, dẫn tới việc là người ta xếp hàng ngoài cửa quán, nhiều người ăn thấy ngon, ăn liền một lúc hai ba bát. Vô tình đã lôi mất đến già nửa khách của cửa hàng ăn uống quốc doanh nằm đối diện bên kia đường. “Thế là thế nào? Một quán hàng tư nhân lại dám cạnh tranh với cửa hàng quốc doanh sao?”, thế là chị cửa hàng trưởng tức tốc chạy sang cửa hàng canh bánh tráng, trợn mày, trợn mắt, giơ cánh tay có đeo một cái “mắt trâu” (1) ra nói:

    - Này chị kia, đưa giấy phép kinh doanh ra đây xem!
    Hồ Ngọc Âm chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao, bèn ngừng tay bốc bánh, chan canh, cười cười nói:
    - Thưa bà chị cửa hàng trưởng, tôi bán vặt như thế này, phiên chợ nào cũng đều có nộp thuế cho trạm thuế. Từ người lớn đến trẻ con ở thị trấn này đều biết thế mà chị...!
    - Giấy phép kinh doanh? Tôi cần kiểm tra giấy phép kinh doanh của chị!
    Cánh tay của chị cửa hàng trưởng vẫn vươn ra:
    - Nếu như không có giấy phép kinh doanh, tôi sẽ sai nhân viên của cửa hàng đến thu hết hàng của chị về!
    Hồ Ngọc Âm vốn mềm mỏng nên vẫn ôn tồn, hơi xuống nước:
    - Bà chị cửa hàng trưởng ơi, xin bà chị hiểu cho, rón tay cho em nhờ, em chỉ bán có dăm ba bát canh bánh tráng, mọi người ai cũng biết như thế, chứ nào em có buôn gian bán lận gì đâu!
    Điều đó khiến những người khách đang chờ ăn canh bánh tráng thấy phiền lòng, đều đứng cả dậy, nói một câu giữa dạ:
    - Cô ta bán quán của cô ta, chị bán cửa hàng của chị, nước giếng không phạm vào nước sông, và cô ấy cũng chẳng dẫm đạp lên mồ mả của nhà nào mà!
    - Hôm nay là ngày tốt trời, máng trâu lại có một con ngựa thò cổ vào.
    - Thôi chị cửa hàng trưởng hãy về cải tiến cửa hàng của mình đi. Miễn sao cái món mỳ nước không có cứt chuột là được rồi! Ha ha ha!
    Cuối cùng, ông cửa hàng trưởng cửa hàng lương thực Cốc Yến Sơn xuất hiện, hòa giải cho cả hai người:
    - Thôi thôi, thôi thôi, cùng ở trong một thị trấn với nhau, cúi đầu không thấy, nhưng ngẩng mặt lên là nhìn thấy nhau, có chuyện gì, cứ đến ban quản lý chợ và trạm thuế mà nói chuyện với nhau thì hơn!

    Điều đó đã khiến cho Lý Quốc Hương tức đến chết đi được, chỉ muốn chửi một trận thật to cái đồ khấu đuôi của tư bản chủ nghĩa ấy! Thì ra ở cái thị trấn Phù Dung này, miếu nhỏ mà yêu phong lại lớn, hồ nông mà thuồng luồng lại nhiều, che giấu toàn những chuyện xấu, người xấu, cái thằng cha cán bộ từ miền nảo miền nào tới đây ấy mà lại ma cũ bắt nạt ma mới.

    Lý Quốc Hương vốn là cán bộ tổ chức của phòng thương nghiệp huyện, và là cháu ngoại của Dương Dân Cao, bí thư phụ trách khối tài mậu huyện ủy. Vốn nổi tiếng là một nữ tướng phê phán tư bản chủ nghĩa trên mặt trận thương nghiệp. Nghe nói ngay từ năm 1958, chị ta đã hiến kế hiến sách cho phòng quản lý hành chính công thương nghiệp phóng một “quả vệ tinh công thương nghiệp”: Đánh và đại càn quét hết sạch những cửa hàng buôn bán nhỏ đến những người buôn thúng bán bưng trong toàn huyện. Thành tích của chị ta đã từng được đăng trên báo của tỉnh, vụt một cái đã là nhân vật đỏ trong huyện, vào Đảng rất nhanh và được đề bạt làm cán bộ. Nhưng mỗi người lại có một cuốn kinh khó đọc. Đầu xuân năm nay, khi sắp sửa được đề bạt lên làm phó phòng thương nghiệp, thì chuyện kín giữa chị ta với một huyện ủy viên vốn có vợ có con đàng hoàng, bị tiết lộ. Vì khi đi nạo thai, chị ta không thể không khai báo lai lịch cái nghiệp chướng súc sinh trong bụng mình. Để nâng đỡ điển hình, nên chuyện kín đó đã được nghiêm cẩn khép kín trong một phạm vi rất nhỏ. Đến ngay cả bà bác sĩ phá thai cho chị ta, cũng đã nhanh chóng được điều tới nơi cách đó hàng nghìn dặm đất, ở hồ Động Đình làm công tác “phòng dịch”, do nhu cầu công tác đòi hỏi. Lý Quốc Hương cũng tạm thời chịu thiệt thòi một chút, nên được điều về làm cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống ở thị trấn Phù Dung. Thật đáng thương thay khi cái cấp cán bộ còm như thế mà cũng không với tới được.

    Nữ cửa hàng trưởng năm nay băm hai tuổi, ở tuổi băm hai mà chưa thành lập gia đình, đối với một người đàn bà mà nói, quả là cái tuổi phức tạp, rõ ràng là cao không tới, thấp không thông. Ôi chao, biết oán trách ai bây giờ? Lịch sử tình yêu chính là lịch sử tuổi thanh xuân của chị ta. Năm hai mươi hai tuổi, Lý Quốc Hương tham gia công tác cách mạng, trong chuyện lựa chọn ý trung nhân, thật đúng là đã nếm đủ mọi chua chát đắng cay. Mối tình đầu của chị ta đã trao cho một trung đội trưởng, thiếu úy, trên vai có một hạt “đậu” trong huyện đội, nhưng trong những tháng năm ấy, trong các cô gái “thời mới” lại lưu hành bốn câu vè: “Một hạt “đậu” quá yếu. Hai hạt “đậu” hơi thiếu. Ba hạt “đậu” thì vừa. Bốn hạt “đậu” già nua”. Thế là chị ta cho bay ngay anh chàng “một hạt đậu”. Ít lâu sau, chị ta đã kiếm được một vị có “ba hạt đậu”, già cũng không phải là già, có điều chàng thượng úy, đại đội trưởng ấy, vừa ly hôn với cô vợ nhà quê, và đeo bên mình một thằng con trai nghịch như quỷ, hỗn như gấu, lần đầu gặp mặt, nó không chịu gọi là “cô”, mà lại cứ gọi là “dì ghẻ”! Thật là mả mẹ nó đồ quỷ sứ, thế là cắt đứt, đạp đổ. Tiếp theo là vướng mắc vào vòng tình ái thứ ba, tình yêu sét đánh rất chi là đứng đắn, nhưng tạm thời không nói ở đây. Năm 1956, khi đảng hiệu triệu tiến công vào khoa học, chị ta tìm kiếm ngay một nhà trí thức - ông đeo kính trắng ở phòng thủy lợi huyện. Hai người cũng đã có “trăm ngày tình nghĩa”. Nhưng năm sau, ông đeo kính bị gạt sang phái hữu. “Chết cha”, chị ta giống như một người đi đêm gặp phải rắn hổ mang, vội vàng rụt ngay cái chân vừa thò ra, quay về, may quá! Sau việc ấy, chị thề nguyền rằng, sẽ cô trở thành một cán bộ tổ chức nhân sự, đối tượng phải thuộc cấp ban ngành, dù có phải làm “dì ghẻ” cũng cam. Nguyện vọng ấy của chị ta chỉ thành công được có một nửa. Bởi vì việc hay trên đời ít khi được vẹn toàn. Mười năm thanh xuân tuổi trẻ đã vùn vụt trôi qua mất, về chính trị cũng càng ngày càng gặp số đen, còn về mặt đời sống riêng tư, cái vòng nhân duyên càng cao, càng hẹp, chức vụ địa vị cũng càng ngày càng thấp. Nhiều khi bụng dạ cứ cồn cào lên như bị mèo cào, mèo cấu. Việc đầu tiên trong ngày, mỗi khi trở dậy: soi gương. Đứng bên song, hong mái tóc mây, nhìn vào gương mà lòng dạ tân toan. Đôi mắt to, vốn tách bạch rõ ràng hai màu đen trắng, nay đã trải đầy những tia đỏ ly ty, màu sắc ố vàng, tròng mắt xinh đẹp trước kia nay đã ẩn hiện những quầng đen, và đã bắt đầu lan tỏa những nếp nhăn hình đuôi cá. Khuôn mặt trắng hồng, với đôi núm đồng tiền đầy hấp dẫn, nay sề sệ, khô khốc, ngả vàng... Trời đất ơi, lẽ nào một người con gái lại không được những giọt mưa tình ái tưới tắm thấm nhuần, và tuổi thanh xuân lại ngắn ngủi như vậy? Năm tháng chợt trôi qua là đã tàn tạ, héo hon? Một người xấu đi, lòng dạ cũng thành băng giá. Lâu dần thành nếp, trong lòng chị ta âm ỉ ghen ghét với tất cả những người phụ nữ có chồng.

    Lý Quốc Hương cuống quýt trong việc thành lập gia đình để có được người đàn ông theo luật pháp. Nhưng những chuyện kín chị ta làm ở huyện, lại thành chuyện cho mọi người đàm tiếu. Người nào trước khi thành lập gia đình lại chẳng có một vài lời đồn đại hoang đường. Đầu năm nay, sau khi về thị trấn Phù Dung, chị ta đã lưu tâm quan sát những người “đảng viên cộng sản, cán bộ nhà nước”, đó là những tiêu chuẩn tối thiểu. Người “đáng thương” nhất trong số mục tiêu đã lựa chọn, chỉ có “người miền Bắc” Cốc Yến Sơn, chủ nhiệm cửa hàng lương thực. “Người miền Bắc” râu ria tua tủa, áo quần xộc xệch, nhiễm phải cái nết của những người già độc thân là thích rượu. Nhưng cứ như một người có đầy quyền lực ở ngân hàng thị trấn miền núi này tiết lộ thì chủ nhiệm Cốc tích lũy được cả một “bồ sách”. Điều kiện chính trị, kinh tế của Cốc Yến Sơn đều khá, chỉ phải mỗi một tội tuổi tác hơi cao... Ôi chao! Nhưng đã tới nước này, cũng phải lùi một bước, chứ biết làm sao bây giờ? Tục ngữ có câu “chồng già yêu vợ, chồng nhơ nhỡ lắm trò”. Nhưng cũng cần nhắc lại rằng, đã có những lúc Lý Quốc Hương một mình suy ngẫm, cứ nghĩ đến một ngày nào đó, mình phải ôm lấy cái ông thiên lôi đen đúa, râu ria lởm chởm ấy mà ngủ, thì kinh lắm, biết đâu người lại nổi hết da gà lên cho mà xem... Nhưng người con gái như một trái cây đã chín nục không thể sông qua ngày chỉ bằng những ý nghĩ vẩn vơ.

    Chị ta bắt dầu tìm cách gần gụi ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực, khi thân mật chăm sóc:
    - Anh Cốc ơi, để em bảo đầu bếp bên em, nó làm cho anh một mâm rượu nhé!
    Có khi cặp mắt lúng liếng đưa tình bảo:
    - Anh chủ nhiệm này, bên cửa hàng em, mới về một hòm “Hạnh Hoa Thôn”, em đã dặn đi dặn lại chúng nó dành riêng cho anh hai chai cơ đấy!
    - Trời đất ơi, cái cổ áo của anh đen bóng lên như thế kia kìa, sao anh không kiếm một cái cổ giả có phải gọn nhẹ biết bao nhiêu không.
    Cứ như thế, như thế. Xưa nay những biểu lộ, những tống tình giữa con trai con gái đã thành niên, kiểu như thế, nó giống như những vật dễ cháy, hễ chạm vào là bùng lửa lên ngay. Nhưng cái nhà ông Cốc Yến Sơn già cốc đế này, lại cứ như thanh củi ướt, không chịu bén lửa, không bốc khói. Ngán ơi là ngán! Lý Quốc Hương phải hy sinh thêm một bước nữa, đành mặt dày mày dạn hành động tích cực hơn.

    Có một buổi tối, ngành cung tiêu, tài chính lương thực họp liên tịch toàn thể đảng viên, để nghe truyền đạt chỉ thị của trung ương. Khi ấy trên thị trấn còn chưa có đèn điện, trên hội trường treo một chiếc đèn măng sông, phập phù, khi sáng, khi tối như một người hen. Chị cửa hàng trưởng đứng chờ trong bóng tối như hũ nút nơi chân cầu thang. Khi ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực bước vào, chị tự nhiên sấn lại gần:
    - Anh Cốc ơi, đi chầm chậm một tẹo nào, chỗ chân cầu thang này tối như cái quan tài, anh làm ơn dắt em lên với!
    Ông chủ nhiệm cũng chẳng giữ ý tứ gì, giơ tay ra cho chị cửa hàng trưởng nắm lấy, giống y như kiểu trai gái “tỏ tình” với nhau ở chỗ cửa sông. Không ngờ chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống được đằng chân lân đằng đầu, cho rằng sự “tỏ tình” như thế còn chưa đủ, nên đã ập cả người vào ông. Miệng ông chủ nhiệm còn nồng hơi rượu, còn người chị cửa hàng trưởng lại sực mùi nước hoa. Nhưng trên bậc cầu thang tối om om, chẳng người nào nhìn thấy người nào, chị nói:
    - Anh ơi, anh lại rượu vào rồi phải không? Hí hí! Sâu rượu!
    Chị cửa hàng trưởng cứ như người tình cũ, nửa trách, nửa thương như vậy. Trong khi ấy chủ nhiệm cửa hàng lương thực lại như một cái cây vô tri vô giác:
    - Làm sao cô cứ quấn lấy tôi như sợi dây leo vậy? Có ai trên ấy không, giúp chúng tôi một tay với! Cô có buông ngay tôi ra không nào?
    Điều ấy khiến chị cửa hàng trưởng giận dữ, véo một cái thật mạnh lên vai ông:
    - Cái lão già dở hơi ngốc như gì ấy! Miếng ăn đã gắp mời tận miệng, còn chẳng thèm ăn.
    Ông chủ nhiệm cũng choạc lại:
    - Này cô cửa hàng trưởng ạ, đừng có nghe lầm, hành động không đúng và đánh giá sai. Tôi biết uống rượu, lại không biết cô thích điều gì hay sao!
    Trời đất ơi! Thế là thế nào nhỉ? Rõ chán! Cũng may mà lúc ấy đã tới cửa hội trường, nên hai người im bặt. Thế là, hai người lạnh mày lạnh mặt với nhau và giữ lấy vẻ đường hoàng riêng của mình. Khi vào tới hội trường, mỗi người tìm lấy một chỗ ngồi riêng, cứ như chưa từng xảy ra chuyện gì vậy.

    Khi bị vấp vào bức tường của người đàn ông độc thân ngoài bốn chục tuổi, răng của Lý Quốc Hương cứ run lên, đánh vào nhau cầm cập.

    Nhân viên cửa hàng ăn uống đương nhiên là không biết chuyện đổ ngã đau khổ ấy của cửa hàng trưởng, chỉ thấy rằng, sáng sớm hôm sau trở dậy đôi mắt chị ta sưng mọng lên như hai trái đào khô ngâm nước, trông ai cũng không vừa mắt, phát khùng lên với cả bánh bao, bánh cuốn, bánh mỳ và cả những bát mỳ sợi nữa. Và rồi tự nhiên, vô cớ phê phán cô nhân viên phục vụ một trận nên thân:
    - Ưỡn a ưỡn ẹo suốt, mặc váy ngắn đi làm, để khoe cặp đùi nõn nà của cô chắc? Rõ không biết ngượng, cô định học theo thói của con mẹ bán canh bánh tráng kia, hay muốn làm một nhân viên kinh doanh trong cửa hàng ăn uống quốc doanh? Cô thật không biết xấu hổ là gì, cửa hàng ăn uống quốc doanh của ta còn cần phải chú ý tới mặt ảnh hưởng chính trị nữa chứ! Cô phải viết bản kiểm điểm trước chi đoàn thanh niên, phải đào tận gốc, trốc tận rễ cái căn nguyên tư tưởng ăn chơi đua đòi này!

    Chỉ mấy hôm sau, chị cửa hàng trưởng đã tự mình tìm hiểu được nguồn gốc cái lý do mà lão già độc thân Cốc Yến Sơn để mình va đầu vào tường này: Đó chính là con mụ “Tây Thi bán canh bánh tráng”, hoặc như mọi người thường gọi “cô Phù Dung” kia. Số là cái lão già độc thân ấy có ý tằng tịu với Hồ Ngọc Âm, một ả đã có chồng, và lợi dụng chức quyền làm ra vẻ quốc gia gia ân, mỗi phiên chợ cung cấp cho cô ả 60 cân đầu mày tấm gãy. Đầu mày, tấm gãy cái gì? Chẳng qua chỉ là che mắt, bịt tai mọi người mà thôi. Ai biết ma ăn cỗ thế nào, cùng những móc ngoặc bên trong ra sao? Đúng! Ai mà biết được? Hồ Ngọc Âm! Mày là cái thớ gì? Lý Quốc Hương là người như thế nào? Vậy mà ở cái thị trấn Phù Dung nhỏ bé này, việc gì mày cũng có vẻ chiếm hàng đầu!”. Đã nhiều ngày có những lúc chị cửa hàng trưởng phẫn uất đến nghẹt thở, thậm chí đối với việc Hồ Ngọc Âm lấy chồng đã lâu vẫn chưa sinh con đẻ cái gì, đã khiến chị ta lấy đó làm một điều vui thầm trong dạ. Nghĩ tới một người đàn bà “không biết mang thai, không biết chửa đẻ”, chị ta bỗng cảm thấy tự phụ vì chị ta đã có được một kỷ lục: một lần nạo thai ở bệnh viện, một lần làm trụy thai bằng lá lẩu... Cốc Yến Sơn, Hồ Ngọc Âm hãy đợi đấy! Ngày còn sớm, đường còn dài mà! Chỉ cần con Lý Quốc Hương này trụ vững lại đây, bắt rễ được ở đây, ắt phải có một ngày, mối tình lén lút của đôi trai gái này sẽ được chường bày ra trước mắt bàn dân thiên hạ, cho mất mặt.

    Chị ta là con người như thế. Trong đời sống cá nhân thường hay bị mắc cạn trong sông, trong ngòi, nhưng gặp phải những trận phong ba dữ dội của chính trị trên biển rộng, sông dài, chị ta lại giương buồm, gióng trống ra khơi.

    “Thần tiên xuổng trần, cũng cần hỏi Thổ Công”, chị ta quyết, trong lúc rỗi việc này, trước hết hãy đi hỏi, đi điều tra qua người bí thư chi bộ đại đội sản xuất của thị trấn, để nắm một số tình hình cơ bản rồi sau đó mới tính đến kế sách lâu dài.




    (1) Người miền núi gọi vui chiếc đồng hồ đeo tay (nguyên chú).
     
    Narga, tducchau and vinhhoa like this.
  4. vinhhoa

    vinhhoa Lớp 7

    Trong nguyên tác, món bánh cô Phù Dung bán là "Mễ đậu phụ" (米豆腐). Bên mình là món bánh đúc tầu, làm bằng bột bạo, cắt cục, xào với dầu, nước tương đen, đôi khi đánh thêm trứng mà người tầu bán ngày xưa. Bây giờ thì cách ăn rất đa đạng, giống như bên Trung quốc như trong ảnh.
    凉拌米豆腐的做法.jpg maxresdefault-1-120612858.jpg
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/3/23
    tducchau and hoi_ls like this.
  5. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    ANH MÃN CANH VÀ CÔ PHÙ DUNG

    TRÊN BỜ SÔNG PHÙ DUNG, ĐẾN NAY NHỮNG CÂY mộc phù dung không còn nhiều nữa. Người ta bảo rằng, những cây phù dung già sẽ biến thành con tinh phù dung, thường thường đêm đêm biến thành người con gái đẹp ra đường lôi kéo cánh đàn ông. Có người, vào lúc sau nửa đêm, giữa khi trăng thanh gió mát, đã nhìn thấy một đám con gái, đẹp như tiên giáng trần, tắm táp ngoài sông, lúc biến thành những đóa hoa sen ngọc trong đêm, lúc lại biến thành những cô tiên nghịch nước... Mỗi nàng tiên, ít nhất cũng phải lôi kéo được một chàng trai, trẻ măng, để kết duyên chồng vợ. Thảo nào, mà sông Phù Dung năm nào cũng dìm chết một thanh niên trai trẻ ra sông tắm mát mùa hè. Làm cho hai trăm rưởi chàng thanh niên trẻ tuổi ở thị trấn vừa kinh, vừa sợ, vừa mừng. Những anh bạo phổi, bơi lặn giỏi đã từng nghĩ: Chỉ cần không mất mạng, sẽ sẵn sàng đi gặp gỡ với các cô tiên phù dung. Đứng trên lập trường người lãnh đạo, với cặp mắt nhìn thấy lợi ích lâu dài, điều đó quả thật là một sự uy hiếp đối với nhân dân và nhũng dân quân tham gia xây dựng thị trấn. Vì thế mà thị trấn Phù Dung vốn là một thị trấn cảnh sắc tuyệt vòi, bỗng trở thành một thị trấn đầy mê tín. Cuối cùng ủy ban xã tổ chức trồng thầu dầu, bảo rằng hạt có thể ép thành dầu bôi trơn cho máy bay bảo vệ quốc gia. Thế là đám học sinh tiểu học, đi hạ hết các gốc phù dung, trồng thầu dầu thay vào đó, vừa củng cố được quốc phòng, vừa bài trừ được mê tín dị đoan. Và cái hồ vuông vức ở ngay đằng sau thị trấn vốn là thả thủy phù dung, nhưng sau khi thành lập công xã, lấy lương thực làm cương lĩnh chính, nên đã cải tạo nó thành ruộng lúa nước. Nhưng ở chỗ bến thuyền bờ sông may mà vẫn còn lưu lại được những cây thạch trắng to khoảng người ôm, leo đầy những dây dương quy xanh ngắt. Đối với ngót mười cây thạch trắng cổ thụ quấn đầy dây dương quy xanh ngắt, có thể hạ xuống cung cấp đủ củi đun cho cả phong trào toàn dân nấu thép luyện gang này, mỗi người ở thị trấn lại có một kiến giải khác nhau. Có người bảo chất lượng gỗ của nó không tốt nên khi đốt thành than hoa rồi, than hoa sẽ không bắt lửa. Có người bảo, ông chủ tịch xã cũ, một người sau này bị quy thành phần tử xã hội hữu khuynh lại ngoan cố giữ những cây đó lại, bảo rằng để làm chỗ cho những người chờ đò qua sông, nghỉ ngơi, tránh nắng. Có người lại bảo rằng rồi khi đến chủ nghĩa cộng sản chỉ có ăn, có uống, thì vào những ngày nóng bức, vẫn phải dùng tới nước giếng trong, xay mấy bát thạch trắng để uống cho mát cổ mát họng, nên mới giữ những cây thạch trắng này lại, coi nó như một thứ lợi ích lâu dài... Đấy bạn xem, mới qua có bốn năm năm, chỉ một việc nhỏ như thế đã sai lệch đi đến vậy, và mỗi người một ý kiến khác nhau, chả trách, những việc từ triều đại này sang triều đại khác, lại cần đến nhiều nhà đại học vấn “nghiên cứu” đến thế. Ôi! Những cây thạch trắng, những cây dương quy, đứng ở hai bên đường nơi bến đò, bến sông, đã hình thành được một vòm đầy bóng mát, mặt trời chiếu không, lọt, phủ kín bóng mát lên đầu khách tứ xứ qua đường, và bên dưới vòm cây, treo lủng lẳng, những quả thạch ông, những quả thạch bà, giống như những chiếc chuông đồng nho nhỏ; những gốc cây, cùng những bóng mát của nó in bóng xuống dòng sông, êm đềm, xanh màu đậu xanh, đều như cùng cất lên những tiếng binh boong, binh boong...

    Anh Mãn Canh bí thư chi bộ đại đội sản xuất. Năm 1956 từ bộ đội phục viên về nhà, được cắt cử vào làm cán sự dân chính của ủy ban tiểu khu, và ở chính chỗ đầu đường bến đò, anh đã gặp cô con gái của một ông chủ quán trọ trong thị trấn. Cô gái vừa giặt xong một làn quần áo và đang cúi đầu xuống nước xem những con cá đòng đong bơi lội trong khe đá. Anh Mãn Canh từ trên đi xuống bến chờ đò, đầu tiên, anh nhìn thấy khuôn mặt trái xoan xinh đẹp in hình trên mặt nước... và anh bỗng thấy giật mình tự hỏi: “Quái! Có phải là giữa ban ngày ban mặt, mình đã gặp phải con tinh của cây phù dung? Không biết nhà nào trong thị trấn đã sinh hạ được một mỹ nhân như thế?”. Anh cán sự dân chính thấy hồn phách mẩn mê. Anh không sợ con tinh phù dung, anh bất giác tiến lại gần hơn, và tiếp tục ngắm nhìn, thầm khen ngợi cái khuôn mặt đẹp đến mê hồn đang in rõ trên mặt nước phẳng, trong như một tấm gương.

    Khi ấy dưới mặt nước bỗng hiện lên khuôn mặt của hai người trẻ tuổi. Cô gái giật thót người, mặt đỏ bừng, bực bội thò tay khỏa tan những hình ảnh trên mặt nước sông. Sau đó cô đứng dậy, buồn bã đưa mắt nhìn chéo sang người thanh niên trẻ tuổi. Nhưng ngay lập tức, hai người đều thấy kinh ngạc, xấu hổ, rùng mình như bị điện giật, cùng thốt lên:
    - Ngọc Âm! Em đã lớn thế này rồi sao?!..
    - Anh Mãn Canh, anh đã về...

    Thì ra họ đã quen biết nhau từ khi còn tấm bé. Anh Mãn Canh là con trai ông lão chở đò. Ngọc Âm đã từng theo anh vào rừng đào măng, hái nấm và đi chặt củi. Họ cũng đã từng đứng từ bờ núi bên này, bò sông bên này, hát đối, hát đùa vọng sang bờ sông, bờ núi bên kia. Cô bé Hồ Ngọc Âm hát:
    Hỡi chàng bên núi, hỡi chàng,
    Có dám bẻ măng, hái củi thì sang bên này.
    Liềm đây chị sẽ chém ngay,
    Mũi liềm móc mắt, cho biết tay... hỡi chàng.
    Cậu bé Mãn Canh hát đáp lại:
    Hỡi nàng đanh đá, hỡi nàng,
    Có muốn bẻ măng, hái củi thì sang bên này.
    Khăn điều anh phủ liền tay,
    Kiệu hoa anh rước em ngay về nhà...

    Những bài sơn ca cứ mời gọi, thách thức nhau như thế tiếp tục vang lên. Mãn Canh không thua và Ngọc Âm cũng không thắng. Trong lòng cô đầy bực bội phát khùng lên: - “Đồ quỷ, ai ước ao cái khăn điều với kiệu hoa của nhà anh? Xì. xì!”. Nhưng cũng có lúc trong lòng cô lại nghĩ: - “Ừ, để rồi xem, cái ngữ ấy, sau này có mang được kiệu hoa đến rước ta về hay không?...”. Về sau người mỗi ngày mỗi lớn, và Ngọc Âm cũng mỗi năm mỗi hiểu biết thêm. Anh Mãn Canh đi tòng quân. Hồ Ngọc Âm cứ mỗi khi nghĩ đến câu hát trong bài sơn ca: “Kiệu hoa anh rước em ngay về nhà”, thì mặt đã đỏ lên, và tim lại đập thình thình, cùng với nỗi thẹn thùng dịu ngọt.

    Một đôi thanh mai trúc mã (1), mặt đối mặt đứng trên cùng một tảng đá. Nhưng cả hai đều ngơ ngẩn cúi đầu, mắt nhìn cắm xuống mũi giầy của mình. Ngọc Âm đi đôi giầy vải chính tay cô khâu lấy, còn đôi giầy của Mãn Canh là đôi giầy giải phóng do bộ đội phát. Lúc đó đúng vào giữa trưa hè, nắng cháy, những con ve trên cây chỉ biết “ve, ve”, ông lão chở đò bên kia sông chính là cha của Mãn Canh, không biết có phải ông đã ngủ khuấy đi mất dưới cái bóng mát của một phiến đá lớn, hay ông chỉ giả vờ ngủ vậy thôi.
    - Ngọc Âm, em có đôi tay trắng quá, cứ y như chẳng bao giờ phải làm lụng gì ấy.
    Anh cán sự dân chính phải cất lời trước như vậy. Nhưng nói xong anh lại cụp mắt xuống, hối hận vì chẳng biết nói gì nên đã nói liều nói lĩnh.
    - Ai bảo thế? Ngày nào em chả làm lụng. Chẳng đội mũ, chẳng che dù, không hiểu sao mà em vẫn chẳng bị cháy nắng... Không tin à? Đây, anh xem, tay em đầy chai đây này...
    Tiếng nói cô con gái của ông chủ nhà trọ rất nhẹ, nhẹ đến nỗi, hầu như chỉ riêng mình cô nghe thấy. Nhưng anh cán sự dân chính vẫn nghe rõ được.
    Bị hiểu lầm nên Ngọc Âm hơi bĩu môi, muốn chìa bàn tay ra cho anh Mãn Canh xem. Nhưng bàn tay lại như cưỡng lại, mới mở ra được nửa chừng đã vội cụp bàn tay vào.
    Anh Mãn Canh tỏ ý hối hận nên cười cười, đưa tay mình ra định nắm lấy bàn tay ấy, sờ xem những vết chai tay, nhưng cánh tay như bất lực cũng chỉ giơ ra được nửa chừng, rồi lại rụt về.
    Nhưng cuối cùng, anh Mãn Canh cũng lấy đủ được dũng khí, mắt mở to hơn, chớp chớp, nhìn thắng vào người con gái xinh đẹp, trong ánh mắt chứa đầy lời thăm dò:
    - Ngọc Âm! Em...
    Ngọc Âm như người được ăn cỏ linh chi, nên tâm sự của anh Mãn Canh cô hiểu được:
    - Em? Em vẫn là một cô gái vẹn toàn...
    Sau đó cô còn cố ý thêm một câu:
    - Tức là vẫn chỉ một mình...
    Giọng anh Mãn Canh bỗng run rẩy, người anh căng lên, khiến cho bộ quân phục trên người như muốn bật tung ra, anh dang rộng đôi cánh tay, như muốn chồm tới:
    - Ngọc Âm!
    - Anh... dám!
    Nói xong, Ngọc Âm lùi lại, và trong cặp mắt cô bỗng lăn ra hai giọt lệ, giống như một đứa bé bị bắt nạt.

    Anh Mãn Canh thấy vậy, trong lòng bỗng bật ra một tình cảm, một trách nhiệm, như của một người anh cần phải bảo vệ cô em gái, nên giọng nói và thần sắc của anh ngay lập tức trở lại dịu dàng.
    - Thôi, thôi, bây giờ anh không... Thôi, thôi, em về nhà đi, chắc là chú với cô ở nhà đang thắc thỏm mong em và không yên tâm vì em đấy. Cho anh gửi lời hỏi thăm cô chú nhé!
    Hồ Ngọc Âm xách làn quần áo lên, gật gật đầu:
    - Thầy mẹ em cũng đã cao tuổi rồi, lại đầy bệnh tật...
    - Ngọc Âm, thế nào anh cũng sang thăm em!
    Từ bờ bên kia, con đò đã sang ngang.
    Hồ Ngọc Âm lại gật gật đầu, gật thấp đến nỗi, cằm cô chạm vào cổ áo. Cô xách làn quần áo, lần theo từng bậc đá bước lên, nhưng cứ vài ba bước, cô lại ngoảnh cô lại một lần.
    Anh cán sự dân chính trở về đến ủy ban khu vô cùng vui vẻ, thoải mái.

    Bí thư khu ủy Dương Dân Cao là người bản địa, rất chú trọng đến việc bồi dưỡng những cán bộ là người địa phương. Ở khu ủy, ở ủy ban khu, trong lớp cán bộ trẻ, tuổi vào độ đôi mươi, người được ông chú trọng nhất là anh cán sự dân chính Lê Mãn Canh. Lê Mãn Canh thuộc loại rễ tốt giống tốt, có tài, tư tưởng thuần chất, tác phong đứng đắn. Nhận xét của bộ đội rất tốt, phục vụ trong quân đội năm năm đã từng bốn lần lập công, xếp hạng ba. Khi ấy, huyện ủy đang chủ trương bỏ cấp khu, dồn xã, Dương Dân Cao sẽ được điều về huyện ủy phụ trách tài mậu. Nên ông đã kiến nghị với huyện ủy đề bạt Lê Mãn Canh về làm chủ tịch, kiêm bí thư đảng ủy một xã lớn miền núi: xã Phù Dung. Tổ chức huyện ủy cũng đã tìm Lê Mãn Canh để bàn bạc, tham khảo ý kiến, chỉ còn chờ chính thức giao công việc nữa mà thôi. Khi ấy cô cháu quý hóa của bí thư Dương Dân Cao, đang công tác ở thương nghiệp huyện về ủy ban khu tìm hiểu tình hình công tác cung tiêu. Tất nhiên là ngày ba bữa cơm và nghỉ ngơi đều diễn ra tại nhà ông cậu bí thư. Bí thư Dương không biết là vô tình hay hữu ý, mỗi bữa, ông đều bảo anh cán sự dân chính đến nhà bếp mang cơm về cùng ăn. Anh cán sự dân chính đã từng nghe phong thanh rằng, cô cháu gái của bí thư khu ủy có nhiều chuyện tình ái ở huyện, tùm lum như khỉ bẻ ngô, bẻ một bắp, quẳng đi một bắp, lòng thòng rất lung tung. Ở bàn ăn, không thể không liếc nhìn cô gái ấy: Đúng vậy, ăn mặc theo mốt Tây, mỗi khi đến bữa ăn, liền cởi bỏ chiếc áo khoác bằng tơ bóng loáng, màu vàng thóc, chỉ mặc mỗi một chiếc áo cộc không tay không cổ, để lộ ra cả đôi cánh tay tròn lẳn, trắng nõn nà như tuyết trắng, ở phía bên dưới cổ cũng để lộ ra lớp da thịt, nửa kín, nửa hở, dễ khiến người ta liên tưởng tới những chuyện lơ mơ. Cái bộ ngực cao vống, làm gồ lên hai cái hạt như hai cái khuy, đối xứng với nhau ở bên phải và bên trái trong lần áo lót. Đến ngay như bí thư Dương Dân Cao, người cán bộ lãnh đạo, quanh năm, bốn mùa vùi đầu trong việc, vậy mà khi ngồi ăn cơm cũng không tránh khỏi đôi lúc liếc nhìn đôi cánh tay phốp pháp cùng cái vùng trắng nõn nà bên dưới cổ với đôi nét cười kín đáo, khó ai có thể nhìn ra được. Cô cháu ngoại của bí thư Dương đã là một cô gái hiểu biết sự đời, đưa cặp mắt táo bạo, biết nói biết hát liếc đi, quét lại trên khắp người anh cán sự dân chính, như muốn cuỗm cả hồn lẫn phách anh đi. Lê Mãn Canh chưa từng bao giờ bị những nữ đồng chí của mình “càn quét” bằng cặp mắt sáng long lanh như vậy, nên tai mặt luôn đỏ gay, chân tay luống cuống, đến nỗi cứ phải cúi mặt xuống, đếm chân bàn, chân ghế.

    Tổng cộng ăn với nhau bốn bữa cơm bên chiếc bàn ấy mà họ mới chỉ biết được tên nhau là “Tiểu Lê”, “Tiểu Lý”. Hôm sau, sau khi tiễn cô cháu ngoại ra về, bí thư Dương cười tít mắt hỏi:
    - Thế nào? Hử? Thế nào?
    Lê Mãn Canh đầu óc rối bời, không biết ứng phó ra sao, nên ngớ ngẩn hỏi:
    - Thưa đồng chí bí thư, cái gì à? “Thế nào” cái gì ạ?
    Thật đúng là đàn gẩy tai trâu! Một quân nhân phục viên, ngoài hai chục tuổi đầu, sao mà lại ngốc nghếch, dở hơi đến thế. Rõ ràng là vừa mới tiễn đưa một người con gái như nụ hoa, thế mà lại dám mở miệng ra hỏi ông cậu rằng: - “Thế nào” cái gì ạ?

    Ngay tối hôm đó, bí thư khu ủy cho tìm anh cán sự dân chính đến, mở một cuộc nói chuyện vô cùng nghiêm túc. Điều đó đối với Dương Dân Cao mà nói, đã là một sự xuống nước và quỵ lụy quá đáng rồi. Nếu như thay vào đó là một cán bộ thanh niên khác, anh ta đã sớm chuẩn bị đủ “gà rượu” đến hiếu kính, phụng dưỡng rồi, rồi từ nước rửa mặt, tới nước rửa chân lúc nào cũng phải đầy phè. Bí thư Dương Dân Cao lấy danh nghĩa là ông tơ, lại lấy danh nghĩa là người có quyền uy cao nhất, nói về tiền đồ chính trị, về sự sắp xếp đời sống gia đình của hai trẻ một cách hết sức rõ ràng chu đáo. Có thể nói do thói quen của người lãnh đạo, ông đã bố trí sắp xếp, như phân công cho cán bộ dưới quyền đi hoàn thành một nhiệm vụ nào đó. Rồi vẫn giống như giọng điệu lúc ban trưa, bí thư khu ủy hỏi:
    - Thế nào? Hử? Thế nào?
    Không ngờ rằng, anh cán sự dân chính miệng lại cứ câm như thóc, mắt mũi cứ lấm la lấm lét, lâu lắm mới, phì ra được một cái rắm ngầm:
    - Cảm ơn sự quan tâm của thủ trưởng, xin hoãn cho tôi dăm ngày, để tôi suy nghĩ cho kỹ đã...

    Điều đó đã làm bí thư khu ủy giận điên lên, đôi mắt ông tối sầm lại, và muốn ngay lập tức mắng thẳng vào mặt anh ta một trận: - Thật là đồ ngạo nghễ điên cuồng, không còn coi lãnh đạo ra cái gì nữa, anh chỉ là một thằng cán sự dân chính to bằng hạt vừng, nhưng lại cứ tưởng mình là quan trạng nguyên, đợi để đi làm phò mã chắc?

    Anh cán sự dân chính lợi dụng việc đi công tác, tạt về thị trấn Phù Dung. Liệu anh chàng nối dõi của ông lão chở đò, và cô con một của ông chủ nhà trọ kia, có gặp gỡ nhau trên tấm đá xanh ở bến đò, có bàn bạc với nhau những gì đó không, không cần nghĩ cũng biết được. Khi ấy, không biết căn cứ vào văn kiện số bao nhiêu quy định: Tất cả những đảng viên cộng sản, thậm chí đến cả những phần tử tích cực ngoài Đảng, khi tính chuyện yêu đương đều phải thành khẩn báo cáo trước với tổ chức Đảng, và phải chờ sau khi được tổ chức đồng ý, tình cảm mới được tiếp tục phát triển, để bảo đảm cho được thành phần giai cấp đảng viên, cũng như sự trong sạch và tính tin cậy trong quan hệ xã hội. Mấy hôm sau, anh cán sự dân chính đã thành thực, kính cẩn báo cáo với bí thư khu ủy chuyện riêng của mình.

    Bí thư khu ủy Dương Dân Cao không thay đổi sắc diện, nửa nằm nửa ngồi trên ghế xích đu, hai chân gác cao bằng đầu, trông giống như hình một con tôm đực. Tay ông cầm một que diêm gảy gảy những sợi thịt, sợi rau còn mắc lại sau bữa ăn, và nói cũng theo kiểu xỉa răng loại bỏ những sợi rau, sợi thịt...
    - Xin chúc mừng, chúc mừng! À thì ra đã kết với cái cô tiểu Tây Thi ở thị trấn Phù Dung rồi đấy.
    - Chúng tôi quen biết nhau từ thuở bé khi cùng đi đào măng, hái nấm.
    Mặt anh cán sự dân chính cũng đỏ như một con tôm luộc.
    - Cô ta thuộc thành phần giai cấp nào?
    - Có lẽ là tiểu chủ, tương đương với trung nông lớp trên.
    - Có lẽ? Tương đương với? Đây có phải là lời lẽ của một người cán sự dân chính không? Người đảng viên cộng sản phải làm gì?
    Bí thư Dương Dân Cao như chợt bừng tỉnh, vừa nói vừa chồm dậy khỏi ghế, mắt ông trợn lên trông giống như chiếc bóng đèn điện hai nhăm oát.
    Anh cán sự dân chính ngượng đến chín người, giống y như hồi còn bé chui vào vườn nhà người ta vặt quả bị chủ nhân bắt quả tang:
    - Tôi... Tôi...
    - Tôi lấy danh nghĩa là tổ chức, nói cho anh biết, đồng chí Lê Mãn Canh ạ. Lão chủ nhà trọ ở thị trấn Phù Dung, trước cách mạng đã từng tham gia bang Xanh Đỏ, còn mụ vợ lại càng phức tạp hơn, đã từng làm gái thanh lâu ở cửa một con sông lớn. Đồng chí cần phải phân biệt cho rõ ràng, con gái nhà kỹ nữ, mới yểu điệu, xinh đẹp như thế...

    Bí thư Dương Dân Cao lại ngả người kiểu nửa nằm, nửa ngồi trên ghế, bí thư đã từng công tác nhiều năm ở địa phương này, bách tính quanh vùng, nhất là những người có lịch sử xuất thân không trong sạch, cùng những cái vẩy, cái vết trong quan hệ xã hội, ông đều có sổ sách ở trong bụng, ghi chép đầy đủ các thành phần giai cấp.
    Anh cán sự dân chính gục mặt, cúi đầu, chỉ một suýt nữa thì rơi nước mắt.
    - Cậu Lê này, căn cứ vào luật hôn nhân. Cậu được tự do tìm kiếm người yêu. Nhưng tổ chức đảng cũng có quy củ của tổ chức Đảng. Cậu có thể lựa chọn, một là giữ lấy đảng tịch, hai là cứ lấy cô tiểu thư của lão chủ nhà trọ làm vợ!
    Bí thư Dương Dân Cao làm là làm việc công, nói là nói nguyên tắc. Đương nhiên rằng, ông không hề nhắc một câu nào tới cô cháu ngoại thân yêu, đã như một trái đào chín nuỗng của mình.

    Từ quân ngũ tới địa phương, từ giản đơn đến phức tạp, anh cán sự dân chính như một ngọn cây bị rụng lá do tuyết rơi sương phủ, chỉ trong mấy ngày mà anh gầy rộc hẳn đi. Nhưng sự việc đâu chỉ có thế. Khi bí thư huyện ủy chính thức tuyên bố bỏ cấp khu mở rộng cấp xã, và công bố danh sách cán bộ lãnh đạo các xã lớn, không có tên anh cán sự dân chính. Ngược lại anh nhận được thông báo điều động anh đi làm cấp dưỡng trong một nhà ăn tập thể xã. Bởi vì khi anh chuyển từ bộ đội về địa phương, vốn không thể làm cán sự dân chính được, mà chỉ có thể làm nhân viên công vụ.

    Lê Mãn Canh không đến nhận việc ở xã mà anh được điều động tới. Anh trở về ngôi nhà đất trên bến đò thị trấn Phù Dung, chở đò thay cho người cha già đã cao niên. Vì không leo cao, nên cũng không thể coi là đã bị ngã đau. Con ông lái đò lại làm lái đò, sử sách xưa nay vẫn nói vậy. Con đò, lênh đênh trên mặt nước, vốn là nghiệp nhà.

    Trong một tối trăng thanh gió mát, Lê Mãn Canh và Hồ Ngọc Âm đã gặp mặt nhau, vẫn ở chốn xưa, trên tấm đá xanh nơi bến nước. Cứ như bây giờ, thế mà lại hay, tự tay Lê Mãn Canh chèo đò qua sông, hai người thường luôn được gặp mặt nhau.

    Hồ Ngọc Âm nước mắt ròng ròng. Dưới vầng trăng, ánh sáng hắt lên từ đáy nước, khuôn mặt dịu dàng trong sáng của cô đẹp như vầng trăng tròn lơ lửng, trên trời:
    - Tại em! Tại em tất cả! Anh Mãn Canh ạ...
    - Ngọc Âm, thôi em đừng khóc nữa. Lòng dạ anh cũng đau như cắt...
    Lê Mãn Canh, cao lớn, rõ ràng là đấng nam nhi, anh không thể khóc được. Một con người đã được bộ đội rèn giũa, dù dao đâm gươm chém cũng không được khóc.
    - Anh Mãn Canh! Em hiểu rồi... Đảng và em, anh chỉ có thể chọn một... Em không xứng đáng, em cao số. Một ông thầy bói đã đoán số cho em, em chỉ nói cho một mình anh biết thôi: Em cao số, khắc phu...
    Hồ Ngọc Âm sụt sùi, tràn đầy tức giận. Lớn đã ngần ấy rồi, mà cô chưa hề biết giận ai, người ta cũng chưa ai từng giận cô, cô chỉ giận mình.
    “Em nói cái gì thế, giải phóng đã sáu, bảy năm rồi, mà em vẫn còn phong kiến, mê tín!”. Nhưng Mãn Canh không thể nhẫn tâm bắt bẻ cô. Cô thật đáng thương và cũng thật thơ ngây, yêu kiều, giống như một bóng cây mộc phù dung in hình xuống nước, em chỉ khỏa tay nhẹ một cái, mà tất cả đã cồn lên, tan nát.
    - Anh Mãn Canh, thôi thì em nhận anh làm anh nuôi vậy! Được không? Còn anh, anh nhận em làm em nuôi. Một khi ta đã không thành duyên thành phận...
    Cái tấm tình si, cái tấm lòng si đó của em, đến sắt thép cũng phải chảy, phải tan. Lê Mãn Canh hầu như đứng không còn vững nữa, người anh như phát điên lên! Anh choàng tới, ôm chặt lấy người thương yêu vào lòng và đặt lên môi cô một nụ hôn.
    Một lát sau, Ngọc Âm gục đầu lên vai Mãn Canh mà khóc:
    - Anh Mãn Canh, người anh vô cùng thân thiết của em, vô cùng quý mến của em!
    “Vô cùng thân thiết”, “vô cùng quý mến”... đó là lòng tín nhiệm, và cũng là trách nhiệm. Lê Mãn Canh nới lỏng vòng tay. Một bầu dũng khí nam nhi bỗng tràn đầy trái tim anh, tràn đầy lồng ngực anh. Trong phút giây thần thánh ấy, mối quan hệ giữa chàng và nàng đã thay đổi. Cái luân lý của người miền núi chất phác, luôn luôn được đưa lên hàng đầu, luôn luôn chiến thắng. Trên mảnh đất tình cảm chủ nghĩa ấy, đã nuôi dưỡng và sản sinh ra những người anh hùng.
    - Em gái Ngọc Âm, kể từ hôm nay, em sẽ là em gái ruột của anh... Anh với em tuy cách một con sông, nhưng vẫn là người trong một thị trấn. Trong cuộc đời này, trong thế gian này, lúc nào anh cũng luôn sát cánh bên em.
    Đó là lời hứa, lời thề trang nghiêm của cuộc sống.

    Chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống Lý Quốc Hương cần gặp bí thư chi bộ đại đội sản xuất của thị trấn, để tìm hiểu tĩnh hình về thành phần giai cấp của cô bán canh bánh tráng Hồ Ngọc Âm, cùng với lịch sử bản thân cũng như thái độ hiện nay, nhưng đã tìm sai người. Chị ta đã ra đến bờ sông, xuống bến đò, mới giật mình hiểu ra một điều: Bí thư chi bộ đại đội sản xuất chính là anh cán sự dân chính trên ủy ban khu ngày xưa! Mẹ ơi! Gặp ma rồi! Mọi người đều đang lên đò, chị ta vội vàng lùi gót.
    - Ồ! Nữ cửa hàng trưởng! Cán bộ đi đâu đấy ạ?
    Chị ta bắt gặp một người vừa từ trên đò bước xuống, đó là Vương Thu Xá, một cái “rễ phong trào” của các cuộc vận động.

    Vương Thu Xá khoảng độ ba nhăm, ba sáu tuổi, dáng người nhanh nhẩu, gọn gàng, ăn mặc lại chải chuốt bảnh bao. Lý Quốc Hương nở nụ cười lịch lãm với anh ta, và trong lòng bỗng chợt lóe lên một ý nghĩ:
    Đúng rồi! Vương Thu Xá là một cái “rễ phong trào” nổi tiếng ở thị trấn, gặp phong trào nào, cuộc vận động nào anh ta cũng là phần tử tích cực, phải hỏi anh ta về tình hình của Hồ Ngọc Âm, vừa được việc lại vừa đỡ tốn sức.
    Thế là họ vừa đi vừa nói chuyện, mới bập vào, đã vô cùng tương đắc, giống y như hai người bạn thân đã nhiều năm không gặp mặt vậy.


    (1) Đôi nam nữ, lúc còn nhỏ, thường vui chơi, đùa nghịch với nhau một cách hồn nhiên, vô tư. (N.D.).
     
    tducchau thích bài này.
  6. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    NGƯỜI CHỦ CỦA NGÔI NHÀ SÀN

    Nhắc lại chuyện Lý Quốc Hương gặp Vương Thu Xá ở đầu bến đò qua sông, quả có thể coi đó là một nhân vật của thị trấn, về thành phần xuất thân mà nói, anh ta còn ưu tú hơn cả bần nông lớp dưới: cố nông. Bần nông và trung nông lớp dưới chỉ có thể được tính là người bán vô sản ở nông thôn. Vàng không có giả, kỳ lân không có thật, còn anh ta, Vương Thu Xá đúng là giai cấp vô sản thập thành. Điều tra cả ba đời bảy kiếp, cả cha mẹ đẻ anh ta đều chẳng là cái thứ gì, cũng không biết từ năm tháng nào, anh ta đã lang bạt từ huyện Hà Châu đến cái góc biên địa thị trấn Phù Dung này làm một đứa trẻ ăn xin. Như thế, còn nói gì đến đời ông của anh ta, đời ông cũng chẳng có chú bác, cô gì, cậu mợ, ông nhạc bà ngoại cùng những quan hệ bạn bè thân hữu phức tạp khác. Đúng là phải tính lịch sử xuất thân của anh ta thanh sạch, và quan hệ xã hội trong trắng, trắng như là không có gì vậy. Đã sạch sẽ, thuần khiết như thế, vô cùng thích hợp với việc lên giời, hay ra nước ngoài, có điều sức chịu đựng của anh ta rất tồi, không đi máy bay được, lại thiếu văn hóa, ra nước ngoài không đọc được tiếng Tây, không nghe được tiếng Tây. Điều đó đều quy vào việc anh ta đã chẳng gặp thời trong xã hội cũ, từ nhỏ đến lớn chỉ chui rúc trong miếu hoang, chùa đổ. Năm cải cách ruộng đất anh ta mới hai mươi hai tuổi, nhưng đã từng đi đánh phèng phèng thuê tới năm năm ròng trong các miếu mạo của thị trấn này. Anh ta mồm mép bẻo lẻo và nhanh chân nhanh tay, đầu óc cũng không đến nỗi ngu đần, lại biết dăm ba chữ, chạy việc vặt trong các miếu mạo, nhìn sắc mặt các ông chủ là anh ta đã biết cách đưa đẩy, cung phụng, vô cùng mẫn cán. Tất nhiên cũng đã nhiều lần ăn đấm xơi đạp, nếm những cái bạt tai tê mặt, mà chẳng có lý do gì hết. Cứ theo như những lời tố khổ của anh ta trong các cuộc họp mà nói thì ăn cơm chan nước mắt, húp nước canh mật đắng, mặt mày bị người ta coi như cái thớt mổ cá, vai cổ bị người ta đem ra làm ghế ngồi, nghèo tới mức 17, 18 tuổi vẫn mặc quần thủng đít, muốn thắt cổ tự tử cũng chẳng có lấy một sợi thừng gai.

    Anh ta được coi là “rễ” của cải cách ruộng đất. Cứ theo như cái tài mép, tài bụng anh ta, đáng ra anh ta phải là những “đồng chí công tác đội”, mặc chế phục, trên túi đeo một chiếc bút máy mạ vàng kia; nhưng khi anh ta vươn mình từ “lớp người dưới người” lên được “lớp người trên người”, anh ta lại không chống đỡ được với những thử thách. Từ trên đài lập trường giai cấp, xây bằng những tấm đá xanh trong sạch, bóng lộn có thể soi gương được, anh ta đã bị lộn nhào xuống: Đội công tác giao cho anh đến canh gác số của nổi của một gia đình địa chủ đã trốn khỏi địa phương trong thị trấn, nhưng anh ta đã trượt chân ngã tùm xuống nước, anh ta đã rúc đầu vào chiếc giường khảm ngà voi, cùng với cô vợ bé của tên địa chủ đã chạy trốn, bỏ lại, giống như cá gặp nước, khiến anh ta mơ hồ cảm thấy rằng đây mới là cái mùi vị chính thức của cuộc “vươn mình”, mà trước kia đối với loại người như cô vợ bé của tên địa chủ này, ngay chuyện chính anh ta lại vớ được, cha chả là vui vẻ. Cái “Quan điểm vươn mình” này của anh ta đương nhiên chính sách của chính phủ nhân dân không thể chấp nhận được và kỷ luật của đội công tác cũng không cho phép. Cái cô vợ bé đã dùng “mỹ nhân kế” ấy, đã phải chịu những hình phạt thích đáng, và anh ta “rễ cải cách” cũng mất tiêu luôn cái tiền đồ làm một “đồng chí công tác”. Nếu không, cho đến nay, Vương Thu Xá đã là một vị cán bộ huyện đoàn, ngồi xe jeep, quản lý hàng triệu hàng vạn nhân khẩu rồi. Anh ta khóc lóc với nước mũi ròng ròng trước đội công tác, tự vả vào miệng mình, đến bật cả máu mồm, máu miệng ra. Đội công tác thương anh ta có hận lớn, thù sâu, lại thành thực hối lỗi, nên vẫn giữ nguyên cho anh ta cái thành phần cố nông, và “rễ cải cách”; khi chia quả thực thắng lợi anh ta vẫn được ưu tiên loại một. Anh ta được chia cho đủ quần áo bốn mùa, đầy đủ chăn đệm, và hai mẫu ruộng nước, không kể được chia thêm một mẫu đất tốt, nhưng điều không thể tưởng tượng là anh ta được chia một ngôi nhà sàn treo, được dựng ở ngay phố Đá Xanh ngoài thị trấn.

    Ngôi nhà sàn, vốn do một tên ác bá vùng núi dựng lên, toàn bằng gỗ theo kiểu biệt thự, dùng để nghỉ chân, chơi gái và nghe hát trong mỗi phiên chợ khi hắn ghé chân tới đây; bên trong, đồ đạc được vẽ rồng vẽ phượng, sơn son thếp vàng, không thiếu một thứ gì. Có mỗi một điều Vương Thu Xá quên mất là không yêu cầu chia cho mình nông cụ và trâu cày. Nhận được món quả thực ấy, quả đã làm hắn mất ăn mất ngủ mấy ngày liền, mỗi khi nhắm mắt lại, hắn cứ tưởng rằng mình đang nằm mơ, một giấc mơ giàu sang phú quý. Tiếp theo đó, hắn thấy đầu váng, mắt hoa, và nảy sinh những ý nghĩ lạ lùng đến tồi tệ: Thằng Vương này, nay có được bấy nhiêu của cải, chỉ việc ngủ vùi cũng vẫn có ăn, nên ngày nào cũng phải có chất tươi, bữa nào cũng làm hai lạng rượu; đồ đạc, dụng cụ trong cái nhà sàn này bán đi cũng đủ ăn chín, mười năm. Như nay đảng cộng sản lãnh đạo đầy uy lực, chính phủ nhân dân lỗi lạc tài ba, tiền đồ của xã hội mới, là vô bờ bến. Cứ theo như các văn kiện, các tài liệu của các đồng chí trong đội công tác, tuyên truyền mà xét, chỉ trong vòng chín, mười năm nữa sẽ xây dựng xong xã hội chủ nghĩa, và tiến lên cộng sản chủ nghĩa rồi. Khí ấy, ăn của công, mặc của công, ở của công, tiêu của công, thật là sung sướng hết mình, chứ gì nữa? Đến nay cả cái xác hơn một trăm cân thằng mình đây cũng đều là của công tất, mày còn đòi hỏi gì nữa? Ha ha ha! Ai cần cái gì? Thằng này bán tất, bán hết! Lúc nào hắn cũng chỉ nghĩ tới cái sự kỳ diệu đó của xã hội mới, hắn vui sướng mê tơi, đến mức lăn lộn, hoa chân múa tay trên chiếc giường chân cao, sơn son thếp vàng.
    Nhưng những ngày sau cải cách ruộng đất tình hình lại chẳng diễn ra như ảo tưởng mỹ miều của hắn trên chiếc giường chân cao sơn son thếp vàng trong ngôi nhà sàn. Từ nhỏ khi chui rúc trong những ngôi miếu hoang, chùa đỏ, anh ta đã có thói quen “ăn cơm sống của thiên hạ”: làm việc vặt. đánh phèng phèng, quét dọn, mà lại không học được những “công việc chết của thiên hạ” như cày bừa, đánh luống, trồng ngũ cốc. Dù ruộng tốt, đất đai màu mỡ cũng không tự nó sinh ra được hạt thóc, hạt mì, mà nó đòi người chủ đất phải đổ công đổ sức vào đấy, tưới vào đấy những giọt mồ hôi đen. Người không lừa dối đất, đất sẽ không lừa dối cái bụng người. Những khi cấy hái, mặt phải bán cho đất, lưng phải bán cho trời, đau đến gãy lưng, đào đất, đắp bờ nắng đến cháy da cháy thịt, còn làm những việc thổ mộc, bụi bặm tắc mũi tắc họng, mồ hôi trên ngươi hết khô rồi lại ướt, thật đúng là một hạt thóc, ngàn giọt mồ hôi. Anh ta chán ngán, không chịu đựng nổi cái khổ, cái bẩn và cái mệt. Anh ta sinh ra đâu phải để làm một người nông dân chân chính, mà anh ta sinh ra cho người ta sai vặt, chạy quanh, ăn cơm hớt thiên hạ. Vài ba năm gần đây, trên ruộng của anh ta cỏ cao hơn lúa, đất cát trở thành tổ thỏ, hang chuột, cuối cùng thì dứt khoát “dẹp tiệm”, cào, cuốc vứt xó nhà, liềm, hái mặc cho sét gỉ. Anh ta lặng lẽ, ngấm ngầm bán dần tất cả những quả thực thắng lợi đã được chia trong cải cách ruộng đất, giường tủ, hòm xiểng đều trở thành nhân dân tệ. Nhân dân tệ tuy in bằng giấy, kêu xoàn xoạt, nhưng so với tiền “Cụ Viên” kêu leng keng, loong coong trước giải phóng, còn có ích hơn nhiều. Anh ta vào nhà hàng, vào tiệm rượu, nhưng chưa bao giờ dám ăn uống đầy diều đầy tễ, vung tay quá trán, mà là ăn ít, dùng dần, ăn dè được lâu, nhưng cũng phải ăn uống cho mặt đỏ tưng bừng, nhờn môi nhờn mép, người béo mập, béo phì. Những cư dân trong thị trấn, có khi hàng tháng, hàng nửa tháng, chẳng thấy ở nhà sàn có khói bếp bốc lên. Cứ ngỡ rằng anh ta học được một thứ đạo pháp nào đấy, một thứ phép tiên nào đấy, nên gà vịt, rượu chè đều được sắp sẵn chỉ cần phẩy tay một cái là hiện ra, phất tay một cái là biến mất, nên ngay đến cả mâm bát, đũa thìa cũng không phải mó tay vào rửa ráy.

    Người ta thường nói: “Kiếm tiền như đãi cát tìm vàng. Tiêu tiền như hàng hàng sóng cuộn”, “miệng ăn núi lở”. Mấy năm ròng quanh quẩn, Vương Thu Xá cũng chẳng kiếm nổi lấy một mụ vợ, đồ đạc trong nhà sàn, mười thứ, đã tám thứ đội nón ra đi. Ngay cả đến áo quần cũng chằng đụp xộc xệch, lại bắt đầu hiện cái cảnh lôi thôi nhếch nhác trước lúc vươn mình thời cải cách ruộng đất. Dân cư trong thị trấn đã đặt cho anh vô khối biệt hiệu. Một là “Vương Thu Nợ”, vì một năm bốn mùa chuyên mua chịu, vay nợ để sống qua ngày; một tên nữa là “Vương Thu Rắn”, vì vào mùa thu, rắn sắp đi ngủ đông, nên lười biếng ít hoạt động; một tên nữa là “Vương Thu Xa”, ý nói đến tiền bạc đã lọt qua kẽ tay của anh ta, chỉ trong vòng mấy năm, anh ta ăn tiêu xa xỉ, phá tan hết cả sản nghiệp (1). Còn anh ta thì bảo rằng, những người đặt tên hiệu cho anh ta như thế, là chẳng có một tý tỵ gì tình thương yêu giai cấp cả. Trong khi đó, những người cùng một lớp vươn mình, cùng là “rễ cải cách ruộng đất” với anh ta, trong mấy năm nay đều ăn nên làm ra, người mua trâu cày, người xây bịch thóc, người cất nhà mới, rồi từ già đến trẻ trong gia đình, đều có quần áo mới, vui tươi đổi đời hết cả. Anh ta nhìn họ mà thèm rỏ dãi. Anh ta mong mỏi đến một ngày nào đó sẽ có một phong trào cải cách ruộng đất mới, rồi lại được chia quả thực thắng lợi mới.

    - Mẹ kiếp! Nếu như bố mày nắm quyền, thi hành chính sách thì mỗi năm một lần quy định lại thành phần, mỗi năm tiến hành một lần cải cách ruộng đất, mỗi năm một lần chia quả thực!
    Anh ta nằm trên mảnh chiếu rách trong nhà sàn, hai tay khoanh lên làm gối, mơ mộng nghĩ ngợi phán xét: ai đưa vào thành phần địa chủ, ai đưa vào thành phần phú nông, ai nên đưa vào thành phần trung nông, bần nông. Còn anh ta thì sao?
    - Chủ tịch nông hội! Trừ thằng này ra, mẹ kiếp, còn đứa nào đủ tư cách hơn nữa chứ?
    Tất nhiên, chính anh ta cũng hiểu rằng, đó chỉ là điều nghĩ cho vui trong lúc túng quẫn. Được may mắn chia quả thực như thế, bao nhiêu đời người mới có một lần thôi.

    Năm 1954, ở thị trấn có thành lập mấy tổ đổi công. Anh ta cũng đứng lên xin đưa ruộng đất của mình vào tổ. Mọi người đã thấy rõ là anh ta không thể tham gia được, anh ta không cày bừa, gặt hái gì hết, cho anh ta vào có khác gì cho phép anh ta thu tô? Vì thế mà chẳng có tổ nào thu nhận anh ta. Cho mãi đến khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp, đi theo con đường hợp tác hóa, anh ta mới trở thành một xã viên hợp tác xã nông nghiệp. Trong hợp tác xã có ban quản trị, trong ban quản trị có chủ nhiệm, phó chủ nhiệm và một số người nữa, bên dưới là một số đội sản xuất, rồi có tổ chuyên, vì thế phải luôn luôn có những cuộc họp, cũng cần phải có chân chạy công văn, chỉ thị, vân vân, việc đó đòi hỏi người thi hành phải có bản chất tốt, có cơ sở chính trị đáng tin cậy, phải nhanh chân mau miệng, đến đây mới gọi là lúc Vương Thu Xá gặp thời, đứng vào một vị trí xứng dáng, có được đất dụng võ.

    Trong cách đối nhân xử thế của Vương Thu Xá còn có một điểm đáng nói nữa là: anh ta rất chịu khó giúp đỡ bà con trong phố phường. Tất cả mọi nhà trong thị trấn, trừ những nhà thuộc phần tử loại 5, bất kể nhà nào có việc dựng vợ gả chồng cho con cái, các ông già bà cả quy tiên, tóm lại là việc hiếu việc hỷ, bao giờ anh ta cũng không cần mời, anh ta tự đến, giúp căng bạt, xếp ghế, chạy đi mua thịt mua rượu, chuẩn bị lễ vật, bày biện sắp xếp cỗ bàn, việc gì cũng làm. Anh ta tận tâm, tận lực, quên ngày quên đêm, góp vui, cũng là góp phần làm mấy bữa rượu, ngoài ra còn thêm bữa ăn đêm. Ngay cả đến những công việc bình thường, như nhà nào đó thịt chó, mổ lợn, anh ta cũng nhất định xin giúp một tay, nào bắc nồi, đun bếp, nào cạo lông, làm lòng, rồi chạy đi mua rượu, mua thuốc và vô hình trung, trong thị trấn, anh ta có một thân phận đặc thù: “Thằng Mõ” của nhân dân thị trấn. Còn anh ta tự gọi mình là “chân chạy”.

    Ngoài một chút “nhân duyên” đó với nhân dân thị trấn, anh ta còn “được lòng” cả cấp trên. Anh ta sống độc thân, lại ở cả một ngôi nhà thênh thang, đàng hoàng, phòng ốc rộng rãi, cho nên tất cả các đồng chí công tác thuộc loại “ăn tập thể” từ trên huyện trên khu về đây, nói chung đều thích đến ngôi nhà sàn đó nghỉ ngơi, ngủ lại. Ván sàn ngôi nhà sàn khô ráo, phía trước phía sau đều có hành lang ngồi nghỉ, không khí trong lành, các đồng chí công tác tất nhiên thích lắm. Do đó mà Vương Thu Xá đã làm quen được với một số cán bộ trên huyện trên khu. Các đồng chí cán bộ này xuống xã đều có tình thương yêu giai cấp. Thấy cảnh chủ nhân ngôi nhà sàn mới được vươn mình sau cải cách ruộng đất, vẫn chưa kiếm được vợ, vẫn những thứ chảo sứt, bát mẻ, bếp nứt, trên giường thì chiếu manh, chăn rách, màn thủng, vẫn chỉ là một hộ bần cố nông, trong tình trạng phân hóa hai cực ở nông thôn. Cho nên, hàng năm mỗi lần có tiền cứu tế mùa đông, hay mỗi vụ xuân hè có gạo trợ cấp giáp vụ, người đứng đầu trong danh sách thường vẫn là Vương Thu Xá. Hơn thế nữa cứ cách độ vài ba năm, anh ta còn nhận được món trợ cấp quần áo bông. Hình như những cán bộ cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh đều chỉ vì có Vương Thu Xá, cùng những người “anh cả, anh hai” như Vương Thu Xá. Vậy mà vẫn đói vẫn rét. Trước đây ít năm có phong trào đại nhảy vọt, và thắt lưng buộc bụng, dân cùng nước khó, nên áo bông cứu tế phải bốn năm năm vẫn chưa phát được cho Vương Thu Xá một lần, nên Vương Thu Xá càng rách rưới, trên vai, trên ngực lòi ra những lá cao (2), trên vạt áo trước, khuy cúc đứt sạch, không còn lấy một chiếc, anh ta đành phải chịu đựng gian khổ lấy cọng rơm bện lại làm dây buộc, trông thật chẳng còn ra làm sao nữa. Vương Thu Xá cho rằng, chính phủ không cứu tế cho anh ta, tức là “đã có cái gì đó sâu xa, xuất hiện trong xã hội mới” mất rồi. Mùa đông anh ta rét quá, môi miệng run lên bần bật, những dòng mũi xanh chảy thò lò ra ngoài, anh ta bèn chạy đến công xã, tìm bí thư công xã, nói:
    - Thưa thủ trưởng thượng cấp, năm 1959 công xã có mở một cuộc triển lãm về quần chúng đấu tranh, đã lấy đi của tôi một chiếc áo bông rách, cái áo ấy so với cái áo tôi đang mặc đây còn khá hơn, thủ trưởng xem có thể mở khóa phòng triển lãm, đổi lại cho tôi có được không ạ?
    Cái gì vậy? Đổi áo bông từ phòng triển lãm đấu tranh giai cấp đem ra mặc? Hôm nay không bằng hôm qua à? Thế thì ảnh hưởng lớn tới chính trị mất. Thì ra bộ mặt mới của xã hội lại nằm trên người Vương Thu Xá? Ông bí thư công xã bỗng nhận thấy trách nhiệm to lớn của mình, rồi liên hệ sang lập trường giai cấp, và tình thương yêu giai cấp. Trong khi cơ quan dân chính cấp trên vẫn còn chưa phát đồ cứu trợ xuống, nên ông đành nhịn đau, cởi chiếc áo bông dung dúc đang mặc trên người ra, cho “rễ cải cách” mặc vào, tránh cái rét mùa đông.

    “Chính phủ nhân dân là mẹ của áo quần, ăn uống”. Câu nói ấy Vương Thu Xá luôn luôn nhẩm trong miệng, ghi trong lòng. Anh ta không bao giờ quên ơn, mỗi khi có các đồng chí công tác cấp trên xuống xã nắm trọng tâm, phát động phong trào, anh ta lại đánh trống gọi loa, gõ phèng phèng, phát thanh trên chòi, kéo chuông, chạy chân đưa tài liệu, thức đêm canh gác, “lãnh đạo” hô khẩu hiệu trước ở hội trường, tóm lại là rất chịu khó tích cực, đi hàng đầu làm cốt cán. Các đồng chí công tác chỉ đâu anh ta đến đó. Anh ta dựa vào các đồng chí công tác, các đồng chí công tác dựa vào anh ta. Các cuộc vân động chính trị đều cần đến anh ta, và anh ta cũng cần đến các cuộc vận động chính trị.

    Chồng của Hồ Ngọc Âm, Lê Quế Quế là một anh chàng đồ tể thực thà ít nói, thường ngày hiếm khi chịu mở miệng, có đập đến ba búa cũng không lòi ra nổi một cái rắm kêu. Không bao giờ suỵt chó cắn người, nhưng anh đã từng buột miệng tổng kết về Vương Thu Xá bằng một bài vè, đã từng được lưu truyền rộng rãi, ảnh hưởng rất xấu. Vè rằng:
    “Biếng lười, bẻm mép,
    Cấp trên cậy trông!
    Sản xuất gắng công,
    Cấp trên bỏ mặc!
    Thừa tiền thừa thóc,
    Cấp trên phê bình...”
    Ở đây, xin được giới thiệu thêm một đôi câu: Hồ Ngọc Âm bán canh bánh tráng, Vương Thu Xá phiên chợ nào cũng đến ăn chạc, nhưng lại bảo “ghi nợ”. Bởi lẽ anh ta đã có một sự tính toán chẳng hay ho gì: Hồi cải cách ruộng đất, trong khi chia quả thực thắng lợi, anh ta còn được chia một nền đất làm nhà, nằm ngay bên cạnh quán trọ của ông Hồ Ký. Ngôi nhà sàn cũng đã đủ để anh ta ở một mình, nên còn cần gì đến cái nền đất ấy nữa? Anh ta đã từng đánh tiếng với vợ chồng Hồ Ngọc Âm rằng, chỉ cần bỏ ra một vài trăm đồng bạc, anh ta có thể chuyển nhượng cho cái nền đất ấy. Đồng thời cũng tính rằng, như vậy trong vòng hai năm nay, cũng chẳng phải ăn không, ăn hỏng gì ở cái quán canh bánh tráng ấy. Hơn nữa đường đường một đấng nam nhi, ai dám khinh nhờn trong lúc bần cùng? Triệu Khuông Dận (3) đã từng làm tên vô lại vài năm, Tiết Nhân Quý cũng đã từng ở ba năm nơi lều tranh vách nát cơ mà!


    (1) Trong tiếng Trung Quốc, chữ XA nghĩa là chịu, là nợ; chữ XÀ nghĩa là con rắn: chữ XA là xa xỉ, đều đọc cùng một âm giống như tế XÁ của anh ta. Người ta đã đặt tên cho anh ta theo cách “đồng âm dị nghĩa” như thế, và đây là một lối chơi chữ rất khó dịch. (N.D.).
    (2) Những chỗ áo bông rách, thò cả lõi bông ra. (Nguyên chú).

    (3) Trước nay nhiều người vẫn gọi nhân vật này là Triệu Khuông Dẫn. Nhưng nay nhiều tự điển không ghi chữ này là “dẫn” mà chỉ thấy ghi là “dận”. Bởi vậy ở đây dùng chữ “dận” theo tự điển. (N.D.).
     
    tducchau thích bài này.
  7. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    “BỮA ĂN TINH THẦN” VÀ “SÀN HÁT MỪNG”


    ANH ĐỒNG CHÍ ƠI, LIỆU ANH CÓ HIỂU THẾ NÀO LÀ “món ăn tinh thần” không? Đó là những năm 1960, 1961, thời ăn uống ở nhà ăn công cộng, dân nhà quê ăn những món đặc sản quê mùa. Những năm tháng ấy, xã viên ở vùng núi Ngũ Lĩnh, mấy tháng liền không biết mùi thịt thà cá mú là gì. Cả năm, khó mà cúng được ông thần khẩu một lần, những chất xơ trong thực phẩm quá nhiều, còn chất béo, chất bổ lại quá thiếu, bầu bí rau dưa càng ăn vào càng cồn cào gan ruột. Bụng lép đến mức da bụng dính vào cột xương sống, yết hầu nhô tếu lên. Tất nhiên rằng món nợ ấy phải đổ lên đầu bọn đế quốc xét lại phản động, và đổ lên cả đầu ông trời nữa. Ông trời, tức là phần tử loại 5, chuyên môn quấy phá nhà ăn công cộng của công xã nhân dân, sau đó thì thanh toán món nợ này với đường lối chính sách của Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, họ phản đối ba lá cờ đỏ và nhà ăn tập thể. Ăn tập thể có gì là không hay mới được chứ? Rau xanh, củ cải đổ vào đun hổ lốn, không cần thêm dầu mỡ gì hết. ngày nào cũng nghĩ lại và so sánh, nghĩ về cái đắng, cảm ơn cái ngọt. “Khổ hay không, hãy nghĩ tới Hồng Quân hai vạn năm ngàn dặm”. Những năm tháng ấy, những con người giải phóng quân tiên liệt đã hy sinh trên núi tuyết, đồng hoang vì hạnh phúc yên vui, vì sự nghiệp giải phóng vươn mình của nhân dân, ai cũng biết rằng họ đã phải ăn vỏ cây, rễ cỏ. Vậy thì tại sao lại có cái nhìn lệch lạc với “thời đại rau dưa” này, thật ]à đáng trách lắm thay! Những xã viên ở miền núi làm sao mà nhìn rõ được, hiểu rõ được những lý luận diệu huyền ẩn giấu trong những lầu gác nguy nga, trong những thâm cung biệt điện. Những diệu lý, huyền luận đôi khi nó giống như bát quái đồ, như mê hồn trận. Nhân dân lấy ăn làm trời, những người xã viên chỉ biết rằng bụng đói cồn cào, mồm xểu đầy dớt dãi. Ăn bánh bột củ cây đuôi chồn vào, phân táo, kẹt ở hậu môn, cứng như sắt, tóe máu, phải lấy tay móc, que đào, sống dở chết dở. Ban ngày còn tạm ổn, nhưng đêm đến, không sao chợp nổi mắt. Tiếp đó, trí tuệ của con người đã đến để bổ sung vào những chỗ trống rỗng. Nên người nọ đã giúp người kia, hồi tưởng, nghĩ lại, kể lại chuyện mình, vào năm nào, tháng nào, ở chỗ nào, nhà nào, đã được đánh chén một bữa tiệc linh đình nhất, nào nguyên một con gà, cả một con cá, những tảng thịt béo ngậy, những chiếc chân giò, bì giòn sần sật, bốn lạng một miếng thịt hầm, thịt hấp, thịt quay, gắp đến cong cả đũa, vân vân. Tất nhiên rằng, người miền núi, thích ăn thịt chó béo vào những ngày tuyết rơi. Một nhà nào đó nấu, nướng thịt chó, hương thơm ngạt ngào cả xóm. Ăn đến nhờn môi nhờn mép, bụng căng như trống, ấm nóng toàn thân, ợ một cái vẫn thấy béo ngậy. Món thịt chó quốc hồn, ngon tuyệt, không thể chen chân vào những bữa đại tiệc, nhưng nó bổ âm bổ dương, những người đàn ông đi buôn bán xa nhà, kiêng ăn là tốt nhất, ăn nhiều sẽ sinh chuyện... liền tay. Người kể, người nghe đều như nhìn thấy những món ăn ngon bầy dọn ra trước mặt mình, mũi cũng ngửi thấy mùi thơm, nước miếng tứa ra đầy miệng. Ngày tháng còn dài, cơ hội còn nhiều... nhưng chuyện miệng nhai, bụng hưởng, thì xin gửi gắm ở ngày mai. Một thị trấn miền núi đã được giải phóng đến hơn mười năm, nên có được đôi người biết chữ, được theo đòi đèn sách, học được dăm ba chữ, nên đã đặt ra cái từ văn hoa: bữa ăn tinh thần. Thời gian sống của từ này không lâu, ở nơi bản, trại sống được nửa năm, ở nơi thôn, trấn, sống được cả năm. Lịch sử ngàn năm, trời đất dọc ngang vạn dặm, đại địa Thần Châu thiếu chăng những thời mất mùa đói kém? Thời ấy người cơ nhỡ lang thang đầu đường, xương khô phơi đầy bãi hoang. Trong dòng sông lịch sử mênh mang, những dòng chảy kiểu “bữa ăn tinh thần” kể ra sao xiết, tất cả có là cái quái gì đâu? Điều quan trọng là phải phân biệt cho được Diên An với Tây An, chín ngón tay với một ngón tay. Huống hồ nước Trung Quốc mới, mới thành lập được mươi, mười hai năm. Tay trắng dựng nhà, tất cả đều là mày mò tìm kiếm. Tiến vào một xã hội hiện đại, nhà nước và muôn dân đều phải trả “học phí”. Tội thế nào, công ra sao, thôi, hãy để cho người đời sau phán xét.

    Một đêm vào năm 1963, trong quán trọ nhà ông Hồ Ký, cô Phù Dung Hồ Ngọc Âm và chồng Lê Quế Quế, cũng có một “bữa ăn tinh thần” theo kiểu khác. Họ cưới nhau đã sáu, bảy năm vợ chồng ân ái, mà vẫn chẳng có tin mừng. Lê Quế Quế hơn Hồ Ngọc Âm bốn tuổi, tuy gọi là làm nghề đồ tể, dao sạch thọc vào, dao máu rút ra, kiếm sống, nhưng anh là người nhút nhát, sợ lôi thôi rách việc. Đôi khi đi ngoài phố, gặp phải con trâu mắt đỏ, sừng cong, hoặc khi gặp một con chó lông xù là anh đã run bắn hẳn lên, đứng nép vào bên hè phố. Có người chế giễu anh:
    - Này anh Quế, sao không sợ lợn?
    - Lợn? Lợn nó ngu, đã không biết cắn người, lại không có sừng dài, chỉ biết có eng éc, eng éc!

    Người ta bảo anh là đồ nhát gan, anh cũng mặc. Chỉ khi cả người tốt lẫn người xấu bụng, bảo anh đần, không biết đúc lấy một đứa con, để cho người vợ xinh đẹp như thế, đảm đang như thế, thành cái lọ hoa rỗng, là làm anh đau lòng. Cho nên anh đã giấu giếm mọi người (kể cả vợ anh) len lén ăn mấy bộ cật chó, gân lợn rừng. Anh Quế có một thân hình cường tráng, nhiều đêm mất ngủ, sợ mình thở dài, làm phiền lòng Ngọc Âm.
    - Ngọc Âm ạ, chúng mình phải đẻ lấy một đứa con, dù là con gái cũng được.
    - Vâng! Em đã hai sáu tuổi đầu rồi, em cũng sốt ruột lắm chứ anh!
    - Nếu em sinh được một thằng con trai mọi việc trong nhà anh sẽ làm tất, rồi tã lót, bẩn thỉu, anh sẽ giặt tất, buổi tối anh sẽ dỗ con đi ngủ.
    Ngọc Âm cười rúc rích:
    - Thế còn sữa? Anh có cho con bú được không?
    - Thì em là mẹ cơ mà! Ngực anh đâu có nổi lên được hai đống thịt lù lù...
    Bạn xem, đôi lúc Quế Quế cũng bố láo, hóm hỉnh ra phết!
    - Anh bậy, bậy bạ... quá đáng...
    - Anh ấy à, tối tối anh sẽ ôm cục cưng vào ngực... ạ ời... cái ngủ mày ngủ cho nhanh, ạ ời... cái ngủ mày ngủ cho nhanh. Còn ban ngày ấy à, anh sẽ ôm cục cưng, hôn như mưa như gió vào khuôn mặt bé tý xíu của nó. Anh sẽ đặt tên sữa cho nó là “tằng cu Êu” (Yêu).
    - Gớm! Anh cứ nhắc đi nhắc lại mãi...
    - Sao? Không đúng thế à?
    - Lúc nào cũng chỉ nghĩ đến con! Hu hu hu, anh quá đáng! Lúc nào cũng đem chuyện con cái ra để dằn vặt em.
    Ngọc Âm vừa khóc vừa nói vậy.

    Quế Quế là đàn ông, anh đâu có thấu hiểu được rằng, một người vợ trong nhà khi không sinh con đẻ cái được, bao giờ họ cũng cho đó là tội lỗi của họ. Giống như con gà mái, chỉ biết cục tác mà không biết đẻ trứng, không làm tròn chức phận của mình.
    Trong lòng Quế Quế tràn đầy một niềm hối hận, vì đã làm cho vợ mình phải phát khóc lên, thật đáng trách. Anh an ủi vợ, dỗ dành vợ như dỗ dành trẻ con:
    - Thôi nào, thôi nào Ngọc Âm. Thôi thôi thôi, anh nào có trách móc gì em đâu mà em khóc? Khóc nhiều, mắt sưng lên đấy. Này em xem, khăn phủ gối ướt hết rồi đây này...
    Anh nói tiếp:
    - Dù cả đời, em chẳng đẻ đái gì, anh cũng chẳng trách em dâu. Vợ chồng mình có hai đôi tay, nhà chỉ có hai miệng ăn, mình lao động ở một đội sản xuất, về nhà lại bán thêm tý canh bánh, đời sống của mình so với bất cứ gia đình nào trong thị trấn cũng chẳng chịu kém. Cho đến già, anh vẫn chăm sóc em, em cũng chăm sóc anh. Em có tin không, không tin, anh xin thề ngay với em...

    Nghe người chồng trung hậu đòi thề bồi, Ngọc Âm sợ xúi quẩy, vội vàng nín bặt, ngồi bật dậy lấy tay bịt miệng chồng, và nhẹ giọng trách chồng:
    - Anh muốn chết à? Em đánh cho bây giờ đây này! Bao nhiêu chuyện hay chẳng nói sao anh lại cứ đem chuyện xúi quẩy ra mà nói? Không sinh được đứa con cho anh, đấy là lỗi của em đối với anh... dù rằng anh chẳng trách móc gì em, nhưng ở ngoài chợ, khi bán canh bánh tráng, cũng có khối người dè bỉu sau lưng em đấy.
    Kể từ một ngày hè đổ lửa, do sóng xô gió đẩy, đã làm tan vỡ mối tình đầu với Lê Mãn Canh, ngay mùa đông năm ấy, Hồ Ngọc Âm đã làm lễ cưới với Lê Quế Quế. Và cô trao trọn vẹn cho chồng cả tấm lòng si, cả tấm tình si. Cô cho rằng mình cao số, bạc phận, sợ tiếng sát phu, nên cô đã coi Quế Quế còn trọng hơn cả bản thân mình.

    Mỗi buổi tối trước ngày phiên chợ, phải xay bột, rồi xuống sông Phù Dung gánh nước đổ vào chảo đun sôi tráng bánh, rồi để bánh vào trong một chiếc chum to, chuẩn bị sáng hôm sau bán hàng sớm, cả hai vợ chồng đều đi ngủ rất muộn, vì riêng việc xay bột cũng phải mất bốn, năm tiếng đồng hồ, mỗi người đứng một bên, mỗi người giơ một tay ra cầm vào tay nắm, rồi cùng quay cối, xay bột. Riêng Hồ Ngọc Âm còn phải đều đặn, chính xác, đổ từng môi, từng môi nước vào gạo trong lỗ cối, đã được ngâm bằng nước vôi trong. Hai vợ chồng mắt nhìn mắt, mặt đối mặt, và thường không hẹn trước mà cùng đem những chuyện riêng trong lòng ra tâm sự với nhau để giết thì giờ. Những giờ phút ấy, Ngọc Âm không bao giờ khóc, mà còn mang một chút cứng cỏi nữa kia:
    - Hừ! Theo em ấy mà, không to bụng, không đẻ con, cũng chẳng phải chỉ trách người đàn bà...
    - Có giời mới hiểu nổi, cả hai vợ chồng mình, đều khỏe mạnh, lại chẳng có bệnh tật gì.
    Ít nhiều Quế Quế cũng có lòng tự ái của người đàn ông không chịu nhận trách nhiệm về mình.
    Mặt Ngọc Âm hơi đỏ lên, nhìn thẳng vào mặt chồng, nói:
    - Nghe các cô giáo ở trường học nói: Bây giờ bệnh viện người ta kiểm tra được tất, cả vợ lẫn chồng đều có thể đi xét nghiệm được cả.
    - Kiểm tra cái quỷ gì? Lột nhau ra, chẳng để một sợi vải trên người! Em thích kiểm tra thì em đi kiểm tra. Anh chẳng thích làm cái trò quỷ sứ ấy đâu!
    Mặt Quế Quế đỏ lựng lên, còn đỏ hơn cả mặt vợ, giống như những quả hồng chín người ta đem bán ở chợ.
    Ngọc Âm vội nói chữa:
    - Ấy là em vui miệng nói thế, chứ đâu có nói bắt buộc phải đi mà chưa chi anh đã cáu.
    Cả hai vợ chồng họ đều cho rằng sinh con đẻ cái là ở nơi cha mẹ, còn nuôi dạy con cái là ở nơi bản năng, nếu cả đời không sinh đẻ, cũng chẳng thể đến đó được, dù chỉ một lần. Đôi lúc lòng dạ cô cũng thấy có chút hoang mang, có chút liều lĩnh, mắt đăm đắm nhìn chồng, định nói một câu, nhưng không dám nói ra: “Anh cần đứa con nối dõi, hay là cần giữ gìn tiếng tăm, danh tiết? Hay là như cái kiểu nói đùa của thằng cha Vương Thu Xá chủ ngôi nhà sàn ấy, cũng có thể là một cách, kiếm một người... thử xem... Trời ơi! Đồ mất mả, đồ mặt dầy, nghĩ ngợi cái gì mà lung tung, bậy bạ thế?”.
    Quế Quế lúc này cũng mơ hồ cảm thấy vợ mình đang nghĩ quàng nghĩ xiên, nên anh đăm đăm nhìn vợ bằng cặp mắt lạnh lùng:
    “Em dám! Em dám? Anh sẽ đánh què cẳng em cho mà xem”.

    Tất nhiên những câu nói ấy cũng chỉ là họ nghĩ thầm trong bụng và nhìn vào mắt nhau mà đoán ra. Những người dân tầm thường ở miền núi, họ chẳng giàu có gì cho lắm, nên cái của cải tinh thần có pha ít nhiều màu sắc phong kiến, là danh tiếng và trinh tiết bao giờ cũng được xem trọng hơn cả tính mạng của mình.

    Năm tháng trôi qua, Hồ Ngọc Âm, cô gái trẻ, chỉ được học qua những lớp xóa mù chữ hồi đầu giải phóng, đối với việc không sinh đẻ của mình cô cho rằng có hai cái căn do sâu sắc: thứ nhất là cái số của mình và chồng không hợp; vào cái năm cô mới 13 tuổi, có một ông thầy bói mù, lưng đeo đàn, tay chống cây gậy gỗ hoàng dương, đã xem cho cô một quẻ bói, bảo rằng cô cao số, không con, và sát phu, cần phải kiếm một người chồng tuổi rồng hoặc tuổi hổ, làm nghề sát sinh mới đứng số được, gia đình mới hòa thuận được, và mới có được người nối dõi đời sau. Vì cái “quẻ bói” ấy mà cha mẹ cô, từ năm cô 15 tuổi đã chú ý tới việc kén rể, kén suốt bốn năm trời, mà chẳng tìm đâu cho đầy đủ cái điều kiện “làm nghề sát sinh, tuổi rồng hoặc tuổi hổ”. Ngoài ra cũng có “chàng rể” đạt yêu cầu đấy, nhưng lại người đàn ông có địa vị quá thấp trong con mắt dân thôn dân trấn, hơn nữa, cũng còn phải được người ta gật đầu cho mới xong. Cuối cùng cha mẹ cô đành phải nới rộng kích thước ra, trừ bỏ một phần mê tín, nên đã tìm được Lê Quế Quế. Làm nghề sát sinh, thì đúng rồi, anh là con của một người chuyên giết mổ lợn. Mặt mũi cũng khôi ngô: khỏe mạnh, chỉ có con giáp là không hợp, tuổi chuột, đúng là một anh chàng nhút nhát, thấy đàn bà con gái là chưa chi mặt đã đỏ lựng lên. Tính nết thực thà, hiền hậu. Chỉ cần vẽ một vòng tròn là đã có thể giam được anh vào đấy. Như chọn dưa trong giỏ, chọn đi chọn lại mãi cuối cùng cũng chỉ có mỗi một mình Quế Quế xem ra là đường được... Còn có một căn do nữa. Ngọc Âm cho rằng trong đám cưới của mình, tuy thật tưng bừng, nhộn nhịp đấy, nhưng vẫn còn có điều không hay cho lắm. Ôi, nói ra thật dài dòng, cả trăm hộ gia đình trong cái thị trấn Phù Dung này, có gia đình nào cưới con cưới cháu được vinh dự và rôm rả cho đến thế. Cho đến tận hôm nay, tất cả đám đàn bà, con gái, trong phố Đá Xanh này vẫn tấm tắc khen ngợi, với vẻ đầy hâm mộ cái ngày tưng bừng, náo nhiệt ấy.

    Đấy là năm 1956, đoàn ca múa của huyện toàn những diễn viên đẹp như tiên, đến thâm nhập đời sống và sưu tầm văn học dân gian ở vùng thung lũng núi Ngũ Lĩnh này, lãnh đạo đoàn, đồng thời là biên đạo múa Tần Thư Điền, mà bây giờ gọi là “Tần Rồ”, người nào người nấy đều đẹp như tiên nữ từ trong tranh bước ra, lại đều hát hay múa giỏi, khiến cho dân trong thị trấn được xem ca hát đến “mệt nghỉ” và say mê như điếu đổ. Từ thời ông Bàn Cổ đến giờ chưa khi nào có được cái đêm diễm phúc ấy. Nguyên là ở cái thị trấn Phù Dung miền núi này, trong phụ nữ, trước giải phóng, có một tục lệ ca múa rất thịnh hành, đó là “sàn hát mừng”. Bất kể giàu nghèo, vào những đêm trước khi cô gái về nhà chồng, tất cả các cô gái, cho đến các bà nạ dòng, đều đến đây ngồi hát bầu bạn với cô dâu mới, họ thay nhau múa hát, có khi kéo dài tới hai ba ngày những bài như “Giã bạn”, “Nhận dâu”, “Khuyên mẹ”, “Trách bà mối”, “Trách chàng”, “Phu kiệu hoa” vân vân tất cả đến hơn trăm bài hát. Có bài tả tình cảm của bà mẹ lưu luyến con gái, có bài lo lắng, có bài ca ngợi cuộc sống mới của đôi vợ chồng, cũng có những bài chê trách lễ giáo phong kiến, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, như bài “Trách chàng”, trong đó có câu:

    Vợ mười tám, chồng lên ba,
    Đêm đêm chú rể đái ra ướt giường.
    Đứng lên, cao tựa chổi cùn,
    Nằm ngang, bằng chiếc gối mềm, chết cha!
    Đêm đêm đòi bú, ề à...
    Em là vợ, chứ đâu là mẹ anh!

    Như trong bài “Trách bà mối” có câu:

    Ơi bà mối! Hỡi bà mai,
    Răng mài kèn kẹt, cứ mài mãi ru?
    Bảo nhà trai: giàu có, kếch xù,
    Lại rằng: cô gái, đẹp như trăng rằm.
    Chết bảo sống, thối bảo thơm,
    Đôi bên, bố mẹ sồn sồn nghe ngay
    Bà mối này, bà mai này,
    Bao nhiêu gà gạo, vào tay bà rồi?
    Ăn ngày mốt, chết ngày mai,
    Ngày ba đem xác chôn ngoài đường quan.
    Trâu một chân, ngựa một chân,
    Ngày ngày giày đạp cho trần xác ra,
    Xác bà cho chó nó tha...

    Hơn trăm khúc hát ở “sàn hát mừng”, đã mang được tính chất phác, phong vị của sơn ca miền núi, lại mang được tính trong sáng uyển chuyển của ca dao, những bài vui, như hoa nở nước trôi, những bài buồn, như than như oán, những chỗ hứng khởi làm sôi sục lòng người. Nó tràn trề sự nồng hậu, đằm thắm màu vẻ ruộng đồng.

    Tần Thư Điền là người vùng này, phụ thân anh đã từng làm thầy đồ dạy tư. Anh đưa những nữ diễn viên của anh về đây để sưu tầm chỉnh lý những bài hát ở “sàn hát mừng”, khẳng định chủ đề chống phong kiến. Anh cùng với ông thư ký ủy ban đến tìm cha mẹ Ngọc Âm chuyện trò, thuyết phục, rồi quyết định biến lễ cưới của Hồ Ngọc Âm, thành một hội diễn tại chỗ, lấy tên là “Sàn hát mừng”. Bà mẹ Ngọc Âm tuy tuổi tác đã cao, nhưng lại là tay “thiện nghệ” ngồi trên sàn hát. Còn Ngọc Âm thì sao, ngay từ nhỏ cô cũng đã theo mẹ tới sàn hát, bầu bạn với những cô dâu mới, cô đã thuộc lòng hơn một trăm bài “hát mừng”, thêm vào đó cô có trí nhớ rất tốt, người lại đẹp, giọng hát lại tròn vành rõ tiếng, cất tiếng hát lên là đã hấp dẫn, lôi cuốn. Cho nên đối với các cô gái, cũng như với các bà nạ dòng ở thị trấn Phù Dung, cô đã sớm được chấp nhận là một tay “thiện nghệ” nối dòng. Ngay từ Tần Thư Điền, đến các cô vũ nữ diễn viên đều lấy làm tiếc rằng, một cô gái như thế, mới 18, 19 tuổi đầu mà đã vội vã đi lấy chồng.

    Tối hôm đó, nhà trọ Hồ Ký chăng đèn kết hoa, xanh đỏ tưng bừng, nghệ thuật và đời sống hòa làm một, hiện thực và hư cấu hòa làm một, những cô diễn viên hóa trang, Hồ Ngọc Âm cũng đánh phấn tô son, tất cả các cô, các chị, các bà ở thị trấn đều quây lại nơi này làm dàn hát đế:

    Áo xanh, quần lụa, khăn hồng,
    Nuôi em, mẹ những thầm mong lợn gà.
    Mất con, khi lợn đến nhà,
    Bước chân lên chiếc kiệu hoa, em buồn.
    Hòn đá ném rã chim đàn,
    Cướp người, giằng kéo, rách tan khăn hồng;
    Mẹ cha chia bưởi, rẽ bòng,
    Tình ta, em giấu trong lòng, riêng ta!

    Gặp nhau vui cất lời ca,
    Chị em ta sẽ chia xa mai này.
    Hát bài tiễn chị hôm nay,
    Ngày mai em hát bài này cho ai?

    Hôm nay nghe hát, cùng ngồi,
    Ngày mai riêng một khoảng trời trống không.
    Con gái mà đi lấy chồng,
    Cầm bằng nước lã ra sông, hỡi nàng.
    Phận em, như giấy mỏng tang...

    Có ca có múa, có khóc có cười. Hồ Ngọc Âm cũng hát, cũng khóc, cũng buồn. Buồn chăng? Vui chăng? Cứ tựa như nằm mơ, xanh xanh đỏ đỏ. ẩn ẩn hiện hiện, mờ mờ ảo ảo. Cả đoàn diễn viên như tiên nữ múa lượn quanh cô, khi tụ khi tán, vừa hát vừa múa. Có lẽ do Tần Thư Điền quá nhấn mạnh vào chủ đề chống phong kiến, đã tước bỏ mất cái phần châm biếm, khôi hài, khiến cho cả đêm diễn bao phủ bằng cả một không khí mang sắc màu buồn thương, ai oán, khiến chú rể hơi cụt hứng, và song thân cô cũng có phần lo lắng, sợ sái cho con rể và con gái. Cuối cùng có lẽ Tần Thư Điền cũng nhận ra được điều này, nên khi sắp kết thúc hội diễn, anh đã đứng ra bắt nhịp cho hai họ, với toàn thể diễn viên và các cô các chị các bà, cùng hát bài “Đông Phương hồng”, rồi bài “Những ngày ở khu giải phóng là những ngày tươi sáng”, tuy cũng hơi có phần khiên cưỡng, nhưng cũng có thể coi là chính khí đè tà khí, ánh sáng chiến thắng được đen tối.

    Ít lâu sau, Tần Thư Điền đưa đoàn diễn viên của mình về huyện, đem những thành quả sưu tầm được ở vùng núi Ngũ Lĩnh cải biên thành một màn ca múa cỡ lớn về phong tục lấy tên là “Sàn hát nữ”, lần lượt đi biểu diễn hết khắp các phủ huyện, rồi đem cả lên tỉnh lên thành biểu diễn, rất thành công. Tần Thư Điền còn viết bài đăng trên báo của tỉnh nói về việc bới cũ tìm mới, chống phong kiến. Hai mươi mấy tuổi đã nổi tiếng, thành danh và được nhận giải thưởng, có thể coi như là thiếu niên đắc chí. Nhưng cảnh đẹp không dài. Năm sau, khi tiến hành cuộc đấu tranh chống phái hữu. “Sàn hát nữ” bị coi như một mũi tên độc lớn, bắn vào xã hội mới, oán trách lễ giáo phong kiến chỉ là giả, còn căm thù xã hội chủ nghĩa mới là thật, mượn sân khấu xã hội chủ nghĩa để mưu đồ việc xấu, dụng tâm ác độc, điên cuồng chông đối, phản động ngập tràn. Ngay sau đó Tần Thư Điền bị chụp lên đầu chiếc mũ phần tử phái hữu, buộc thôi việc, tống giải về nguyên quán, giao cho quần chúng địa phương quản chế lao động. Từ đấy trở đi, phiên nào cũng thấy Tần Thư Điền ở chợ, có người bảo anh bện giầy rơm để bán, có người bảo anh đi nhặt các đầu thừa thuốc lá để hút. Tất cả mọi người đều gọi anh là “Tần Rồ”.

    Ôi chao, tai vạ tuy chẳng có liên quan gì tới Hồ Ngọc Âm và Lê Quế Quế chồng cô, nhưng cả hai vợ chồng lúc nào cũng cứ nghĩ cho rằng, ít nhiều mình cũng có dính dáng vào cái việc đen đủi ấy. Trong xã hội mới, làm gì còn có cái gọi là phong kiến? Còn có cái gì gọi là chống phong kiến? Xã hội mới còn có cái gì mà chẳng chống được? Giải phóng sáu, bảy năm trời rồi, mà còn làm rối loạn lung tung giữa xã hội mới với “phong kiến”. Bạn xem, chỉ vì chống phong kiến mà Tần Thư Điền phạm pháp, tụt xuống làm phần tử loại 5. Hồ Ngọc Âm cũng bị xúi lây, đen đủi theo, lấy chồng bảy, tám năm vẫn chẳng mang bầu, vẫn chẳng có con.
     
    TuanAnh179 and tducchau like this.
  8. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    “TẦN RỒ”


    TRÊN TẤM CÁNH CỬA GỖ CỦA NHÀ XÍ CÔNG CỘNG, đằng sau cửa hàng ăn uống quốc doanh ở thị trấn Phù Dung xuất hiện một khẩu hiệu phản động. Đồn công an huyện phái tới hai nhân viên để phá án và ở lại trên ngôi nhà sàn của Vương Thu Xá. Vì Vương Thu Xá xuất thân nghèo khổ, đáng tin cậy về chính trị, lại vốn là chân chạy, nên đương nhiên nhân viên công an coi anh ta là chỗ dựa vững chắc trong khi điều tra vụ án. Còn cái “khẩu hiệu phản động” ấy viết những gì? Duy chỉ có hai nhân viên công an, và cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh là Lý Quốc Hương biết được mà thôi. Không thể tiết lộ ra được, sợ nó thành một sự “phản tuyên truyền”. Vương Thu Xá chủ nhân của ngôi nhà sàn, tuy cũng biết được tý râu tý ria, nhưng vì nó có liên quan tới việc cơ mật của lãnh đạo cấp trên, rồi lại phải giữ kỷ luật của công an, nên miệng kín như bình. Còn những người dân thường ở thị trấn, chỉ biết hoang mang lo sợ, vì nếu mình nghi cho người ta, người ta cũng nghi cho mình.

    Bà Lý Quốc Hương và ông Vương Thu Xá báo cáo với công an rằng, đừng có coi thị trấn Phù Dung là một phần đất nhỏ, ít người, mà nó là nơi có chợ, có đường thủy, đường bộ, người qua lại là vàng thau lẫn lộn, rồng, rắn một lồng. Chỉ riêng trong đại đội sản xuất ở thị trấn, những tên địa chủ phú nông, phản động, phần tử xấu, phần tử hữu, đã được đội mũ, đã được đánh số, cũng đã có tới hai mươi mấy tên rồi, rồi những đối tượng chuyên chính chưa bị đội mũ, cùng con cái người thân của chúng nữa, và những kẻ mà thành phần xuất thân không trong sạch, quan hệ xã hội phức tạp, đâu còn là con số ấy nữa. Những người sống bám vào chợ, trong xã hội cũ có ai thoát được chuyện rượu chè, cờ bạc, trai gái, có ai là không sống ở bến tàu bến xe? Liệu có mấy người thực thà, trong sạch? Lại còn có những cán bộ, nhân viên nhà nước, đảng viên đoàn viên, nhưng đã qua nhiều năm tháng sống lẫn lộn với quần chúng phức tạp, như dây leo quấn quýt, như thân bằng cố hữu, nhận dì cháu, kết anh em, rồi cha nuôi, mẹ nuôi, sớm đã bị biến chất, bị mò mịt mơ hồ trên trận tuyến giai cấp.

    Hai anh công an đã bình lặng đánh giá lại trận tuyến giai cấp, tình hình địch ta ở thị trấn nên chưa quăng một mẻ lưới lớn. Họ vẫn làm theo cách thức đánh án xưa nay, đã cộng tác với chị cửa hàng trưởng, và Vương Thu Xá, đầu tiên là triệu tập một cuộc họp “răn đe những phần tử loại 5”.
    Những phần tử loại 5 ở thị trấn, xưa nay vẫn quy về cho trưởng ban bảo vệ trị an của đại đội sản xuất của thị trấn cai quản cải tạo. Mùa hè năm 1962, tình hình eo biển Đài Loan trở nên căng thẳng, cấp trên quy định lại, chức vụ trưởng ban bảo vệ phải do bí thư chi bộ đại đội sản xuất kiêm nhiệm. Bí thư chi bộ Lê Mãn Canh vẫn đúng kỳ triệu tập những phần tử loại 5 lại để huấn thị, răn đe. Anh còn chỉ định trong số phần tử loại 5 đó ra một tên đầu mục có nhiệm vụ đi gọi người, xếp hàng, và báo số, lấy độc trị độc. Tên đầu mục của các phần tử loại 5 này là “Tần Rồ”.

    Tần Rồ năm ấy hơn ba chục tuổi, nhưng dù có lửa đốt, rét ngâm, anh vẫn không can tâm khuất phục, anh là người thuộc phái lạc quan trong đám phần tử xấu. Thành phần xuất thân của anh cũng chẳng thuộc loại kém cỏi gì, anh có họ xa, ngoắt ngoéo với bí thư chi bộ Lê Mãn Canh. Ngay từ khi bị đuổi từ đoàn ca múa về, anh liền xin với bí thư chi bộ đại đội sản xuất, đổi chiếc mũ phần tử phái hữu trên đầu anh, thành cái mũ của phần tử xấu. Anh thành khẩn kiểm điểm rằng, anh chưa từng phản Đảng, phản nhân dân, nhưng đã có hai lần nói chuyện yêu đương với hai cô nữ diễn viên, và đã từng hủ hóa hai lần, trong cuộc đấu tranh chống phái hữu, hai cái tội thực sự chưa hề bị vạch ra, cho nên cái mũ phần tử xấu là thích hợp nhất đối với anh. Bí thư chi bộ Lê Mãn Canh bị anh năn nỉ mấy lần liền, trong lòng cũng thấy phiền phiền: phần tử xấu, với phần tử phái hữu, cũng bên tám lạng, bên nửa cân, cùng là một lũ rắn trong lồng, còn khác gì nhau nữa cơ chứ, nên trong một cuộc họp anh đã tuyên bố Tần Rồ là phần tử xấu. Sau một thời gian, bí thư chi bộ lại thấy Tần Rồ có trình độ văn hóa cao, viết chữ đẹp, có năng lực hoạt động tổ chức, nên chỉ định anh làm đầu mục của phần tử loại 5.

    Sau khi Tần Rồ được làm tên tiểu đầu mục các phần tử loại 5, công tác “giám, quản, cải” của bí thư chi bộ Lê Mãn Canh gặp rất nhiều tiện lợi. Mỗi lần đại đội cần phải triệu tập những phần tử loại 5 đến giáo dục, huấn thị, chỉ cần buông một câu:
    - Tần Rồ!
    Ngay lập tức, Tần Rồ đã đáp lại hết sức mạch lạc, rõ ràng:
    - Có!
    Và làm đúng như một thầy giáo dạy thể dục trong trường học, hai tay kẹp lên sườn, chạy đều bước tới ngay. Khi tới trước mặt bí thư chi bộ, bèn dập gót, trong tư thế “đứng nghiêm”, bàn tay phải đưa lên ngang mày, chào:
    - Báo cáo thượng cấp, phần tử xấu Tần Thư Điền có mặt!
    Lâu dần thành quen.
    - Tần Rồ, dỏng tai lên mà nghe này! Cơm tối xong, toàn thể phần tử loại 5, phải tập hợp đủ mặt ở cửa đại đội bộ.
    - Vâng! Mệnh lệnh của thượng cấp nhất định được thi hành đầy đủ.

    Anh lập tức đằng sau quay, rồi lại làm giống như thầy giáo dạy thể dục, chạy đều bước. Tối, anh tập hợp đúng giờ tất cả các phần tử loại 5 trên đám đất phẳng trước cửa đại đội bộ, xếp hàng ngay ngắn, điểm danh đâu đấy, báo cáo số lượng, tất cả đều cúi đầu nghiêm chỉnh, giống như một hàng cần câu, rồi mới mời lãnh đạo đại đội, kiểm tra, đi duyệt.

    Trong các phần tử loại 5, Tần Thư Điền còn có một cách “thực hành cương lĩnh”. Anh nói riêng với từng đồng loại của mình:
    - Tuy bảo rằng tất cả chúng ta đều vào một cuốn sổ đen, làm dân da đen hoàng chủng, nhưng cũng có cái “đen” đậm, “đen” nhạt. Ví như anh là địa chủ, trước giải phóng, anh uống máu uống mồ hôi, sống bằng bóc lột, hại giời, hại người, là tội ác hàng đầu. Ví như anh là phú nông, ngày xưa anh cũng có lao động, cũng bóc lột bằng cho vay nặng lãi, muốn leo lên bậc thang giai cấp địa chủ, mua ruộng, tậu đất muốn làm giàu nhanh, anh là loại tội ác thứ hai. Lại ví như anh là phần tử phản cách mạng, thì lại khác. Anh chỉ vì tài sản, vì bóc lột mà bị đội mũ, nhưng vì anh phản động trong tư tưởng, trong hành vi, là kẻ địch của nhân dân. Cho nên trong phần tử loại 5, anh là loại nguy hiểm nhất, nếu anh sơ hở manh động, trước hết hãy sờ lên trên cổ xem ở đó mọc được mấy cái đầu.

    Có những địa chủ, phú nông, phần tử phản động, không chịu, vặn lại:
    - Thế còn anh? Anh thuộc vào cái thứ đồ gì?
    - Tôi á? À, tất nhiên tôi là phần tử xấu rồi. Cái phần tử xấu ấy mà, nó cũng rắc rối lắm đấy, đủ các chủng loại. Có người là trộm cắp, lừa đảo, có người là cưỡng hiếp phụ nữ, đàn bà, có người là tham ô hủ hóa, có người là lưu manh trấn lột, có người là tụ họp bạc bài. Nhưng nói chung, sự xuất thân của những phần tử xấu, cũng chẳng phải là xấu hẳn. Tội trạng của phần tử xấu là loại tội nhẹ nhất trong các phần tử loại 5. Ha ha, sau này lúc bọn mình rơi vào các địa ngục, nó có thượng, hạ, trung, tất cả mười tám tầng địa ngục cơ.
    Anh nói văn vẻ, lưu loát, hình như có hơi nhấn mạnh vào cái tính ưu việt của “phần tử xấu” giữa những người đồng hành. Nhưng một chữ anh cũng không nhắc tới “phần tử phái hữu”, và cũng không bao giờ đề cập tới cái “tội phản Đảng, phản xã hội chủ nghĩa của phần tử phái hữu”, và trăm năm sau, khi rời xuống địa ngục, phần tử này xếp vào tầng thứ bao nhiêu.

    Tần Rồ đã từng là giáo viên âm nhạc thể dục trong trường huyện, vì thế anh có thể ngồi lần lượt trên bốn cái ghế: đàn, hát, gõ, thổi, và cầm, kỳ, thi, họa, anh cũng đều biết cả. Múa rồng, múa lân anh thuộc vào hạng kha khá. Lúc bình thường, miệng anh cũng luôn luôn ngân nga mấy câu, thuộc vào hàng chiêng trống: “Khoan hò, hò khoan, này dô khoan”. Những ngày đói khổ vào mấy năm trước, sợi dây đấu tranh giai cấp ở nông thôn còn chưa được vặn căng, tất cả đám dân miền núi trong thị trấn Phù Dung này, những nhà có việc đón dâu, rước rể, còn mời anh tham gia vào đội nhạc phường bát âm, anh được ngồi vào mâm bình đẳng với các xã viên bần nông, trung nông lớp dưới vui vẻ hát hò đàn địch, hát những khúc hát kịch hoa đăng. Cái “nghệ tinh, thân vinh” ấy, khiến cho giá trị của anh trong con mắt mọi người có khác với những phần tử loại 5 khác. Hơn thế, khi đại đội sản xuất của thị trấn phải làm các công tác trọng tâm đột xuất từ cấp trên ban xuống, cần phải viết khẩu hiệu lên tường, lên vách núi, hay ở dọc đường, ví dụ như: “Đại sản xuất thép, đại sản xuất lương thực”, “Chống hữu khuynh, chống bảo thủ”, “Chủ nghĩa cộng sản là thiên đàng, công xã nhân dân là cầu dẫn”, “Ba lá cờ hồng muôn năm”, vân vân, tất cả đều nằm trong nét bút đới công chuộc tội của anh.

    Mùa xuân năm ngoái, không biết rằng anh định biểu thị quyết tâm cải tạo, thay da đổi thịt của mình, hay là do cái gì đó không rõ, anh đã phát huy tài lẻ về âm nhạc của mình, anh đã tự làm lời, rồi phổ nhạc và biểu diễn một bài hát “Khúc hát của phần tử loại 5”:

    Phản Đảng, phản quốc, phản nhân dân
    Phần tử loại 5 đã quyết tâm
    Cùng dân quân công xã chắc tay súng,
    Kẻ nào làm loạn bắn tới cùng
    Kiểm thảo... a!
    Thành khẩn... a!
    Trung thực với luật pháp mới là quang vinh...

    Anh đã làm cho “Khúc hát của phần tử loại 5” này mang tính hành khúc và đầy phong vị dân ca, và rất lấy làm hài lòng, đắc ý, và anh đòi được dạy cho anh em khi đại đội triệu tập các phần tử loại 5 đến để dạy dỗ. Nhưng thái độ của các phần tử loại 5 đều rất ngoan cố, nhất định không chịu mở miệng học hát, hơn nữa bí thư đại đội Lê Mãn Canh cười mà xổ toẹt bài hát đi, thế mới yên chuyện. Nhưng về sau, đám trẻ con trong thị trấn lại chịu học, và đem hát ông ổng khắp nơi, cũng có thể coi như có ít nhiều ảnh hưởng trong xã hội.

    Đối với Tần Rồ, các cán bộ và các xã viên trong thị trấn mỗi người có một cách nhận định về anh rất khác nhau. Có người xem anh như một “nhà bác học” của thị trấn, vì anh đọc nhiều sách, từng trải nhiều, cổ kim đông tây, quá khứ tương lai, thiên văn địa lý, ví như chuyện gà đẻ ra trứng hay trứng đẻ ra gà, Đảng cộng sản Mỹ tại sao không vào rừng đánh du kích, công nhân tại sao không khởi nghĩa, trái đất có tuổi hay không, trên mặt trăng có cây đa, thằng Cuội hay không (nguyên văn: Cây quế và cung Quảng Hàn), vân vân, anh kể thao thao bất tuyệt, thậm chí đôi lúc anh còn kèm theo vào đó đôi ba câu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và duy vật lịch sử, khiến cho những người kém văn hóa ở miền núi như được nghe sách giời, và tôn anh thành người: “Việc trên giời biết một nửa, việc dưới đất biết tất cả”. Có người lại bảo anh thành thật giả vờ, tích cực giả vờ, thực ra chỉ là củ khoai lang hà ruột, mà không hà vỏ. Có người lại bảo anh là ma không ra ma, người chẳng ra người, sống nhục, vui đau, mang tội mang nợ. Cũng có người lại bảo, đừng có tưởng, ban ngày anh ta lúc nào cũng cười ha há như thế, hát hò không dứt, trống phách chẳng rời miệng, chứ thực ra ban đêm anh ta vùi đầu trong mái lều xiêu mà khóc ròng đấy, một con người ngoài ba mươi tuổi vẫn một cây gậy trơn, chưa vợ, lại phải đội thêm một chiếc mũ phần tử xấu, khóc lóc thương tâm lắm. Lại còn có những người dân quân, đêm đứng gác trên bờ sông Phù Dung, đã nhiều lần trông thấy anh đi đi, lại lại trên bờ sông, có khi định nhảy xuống sông tự tử cũng nên? Nhưng lại có vẻ như không phải tự tử mà đại khái là đang suy nghĩ về quá khứ và tương lai của anh.

    Những người trong thị trấn, trong đó có “cô Phù Dung” bán canh bánh tráng, có ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực thị trấn nhìn anh bằng con mắt thế nào không biết, nhưng không có người nào ghét bỏ anh. Mỗi ngày phiên chợ, gặp ai anh cũng cười cười, vẫy tay, mọi người cũng cười cười, cũng vẫy tay với anh. Ngoài đầu bờ, mọi người cũng chịu ngồi chung hóng mát nghỉ ngơi với anh, và cuốn một điếu thuốc lá tổ sâu cùng hút với anh.
    - Này anh bạn Tần Rồ, hát một bài nghe chơi nào!
    - Rồ! Kể một câu chuyện cổ đi nghe, như Lưu Bị, Tôn Quyền, hay Nhạc Phi, Lương Hồng Ngọc gì đó cũng được.
    - Cái đoạn Phàn Lê Huê (Hoa) kỳ trước còn chưa kể hết!
    Ngay đến các chị phụ nữ trẻ và các cô con gái cũng chẳng ai ghét sợ anh, có người còn nhờ anh giúp việc cho.
    - Rồ! Vác cái thang dài dài kia lại đây, trèo lên mái nhà, phơi ít khoai lát này.
    - Rồ! Mau lên! Mẹ tôi vừa bị con đỉa trâu nó cắn, máu chảy ròng ròng, ba chân bốn cẳng chạy đến trạm y tế, mời thầy lang đến đây đi.
    Còn cái đám trẻ bé tý tẹo, quan điểm giai cấp còn mơ hồ lại gọi anh là “Chú Rồ”, hoặc “Bác Rồ” nữa kìa.

    Tần Rồ đi đầu dẫn cả đội gồm hai mươi hai tên phần tử loại 5, người nào người nấy đầu cúi gằm xuống, đến một căn phòng đầy mùi dưa chua ở tầng dưới của cửa hàng ăn uống quốc doanh, kiếm ngói vỡ, gạch vụn ngồi xuống, sau đó nữ cửa hàng trưởng Lý Quốc Hương, cùng với “rễ phong trào” Vương Thu Xá mới đưa hai người công an bước vào. Tay anh công an cầm một cuốn sổ bìa hoa, gọi tên từng người một, gọi tên phần tử nào, phần tử đó đứng dậy cho anh ngó mặt. Ánh mắt của anh công an sắc như gươm, uy nghiêm, lạnh lẽo, những người xấu, việc xấu chỉ liếc qua là nhìn thấu hết. Khi gọi đến tên một phần tử có lịch sử phản cách mạng, thì lại là một thằng nhóc con mới đẻ sau giải phóng, như vậy, làm sao lại gọi là có lịch sử phản động được? Tần Rồ vội báo cáo thay: Bố nó bị bệnh ho ra máu, đang nằm rên hừ hừ trên giường, nên mới phải cho thằng nhóc con này đi thay thế. Thượng cấp có gì chỉ thị, thằng nhóc này sẽ về truyền đạt lại. Vương Thu Xá quay về phía thằng nhóc có lịch sử phản cách mạng quát:
    - Cút mẹ mày sang một bên! Mẹ kiếp! Phần tử loại 5 đã có tầng lớp kế cận rồi đấy! Xem ra cuộc đấu tranh giai cấp còn phải kéo tới mấy đời nữa.

    Sau đó nữ cửa hàng trưởng Lý Quốc Hương cầm một tập giấy trắng phát cho mỗi tên phần tử loại 5 một tờ, bảo mỗi người viết lên đó một khẩu hiệu: “Ba lá cờ hồng đại nhảy vọt, tổng lộ tuyến, công xã nhân dân muôn năm” và phải viết hai lần, một lần bằng tay phải, một lần bằng tay trái. Các phần tử loại 5 hình như cũng đã có được ít nhiều kinh nghiệm, cũng đã đoán được rằng ở một nơi nào đó trong thị trấn đã xuất hiện “khẩu hiệu phản động” nên bắt họ đối chiếu bút tích. Những người to gan, đối với loại chuyện cũ ngàn năm của công an này, họ chẳng coi vào đâu, bởi vì bất kể là anh có làm việc xấu hay không, thì khi phá án, bao giờ cũng bắt đầu từ loại người này trước để khai đao. Loại nhát gan, bắt đầu run lên bần bật, sợ như cha chết, sợ đến vãi linh hồn.

    Điều làm cho nữ cửa hàng trưởng và nhân viên công an cụt hứng, thất vọng vì trong số hai mươi hai tên phần tử loại 5 này, có tới mười tên nói rằng mình không có văn hóa, không biết viết chữ, và tên nọ đứng ra bảo lĩnh, chứng minh giúp tên kia. Vương Thu Xá đứng bên, giải thích:
    - Tất cả những tên địa chủ, tài chủ có danh vọng một chút, trước khi giải phóng, đều đã trốn sạch ra Hương Cảng, Đài Loan rồi, còn lại, toàn những đồ chó nhà, lợn đất hết!

    Chỉ riêng có phần tử xấu Tần Thư Điền, xin thêm một tờ giấy từ tay cửa hàng trưởng, rồi viết cả bằng tay phải lẫn bằng tay trái, viết ra những con chữ vừa to, vừa thô, ngay ngắn đẹp đẽ, cứ như vừa in ở máy in ra, và viết đầy cả hai trang giấy. Thực ra những anh công an đều có thể ra đường, so sánh tự dạng những khẩu hiệu mà anh đã viết trên tường, trên vách đá. Tất cả những phần tử loại 5 có biết chữ, sau khi đã để lại bút tích, thì anh công an, và chị cửa hàng trưởng nói dăm câu ba điều dạy dỗ về tính thực thà, về tuân thủ pháp luật, rồi cho những tên có danh sách trong sổ đen ấy giải tán.

    Trong việc này, Tần Rồ là đáng khả nghi nhất. Nhưng khi công an gặp cán bộ đại đội sản xuất để tìm hiểu tình hình, lại được những lời đáp hoàn toàn phủ định:
    - Mấy năm nay, đều rất thực thà, yên phận, tích cực lao động, chưa hề có qua một việc xấu nào.
    Hơn thế, bút tích cũng khác hẳn.

    Nữ cửa hàng trưởng Lý Quốc Hương và chủ nhân ngôi nhà sàn Vương Thu Xá, lại đề cập tới “cô bán canh bánh tráng” Hồ Ngọc Âm có lịch sử xuất thân phức tạp, bố đẻ đã từng tham gia bang Xanh Đỏ, mẹ đã từng làm kỹ nữ, cô ta lôi kéo, hủ hóa cán bộ, hành tung rất khả nghi.

    Theo ý kiến của họ, anh công an đặc biệt tới hàng canh bánh tráng ăn hai bát vào ngày phiên chợ. Ngồi hàng tiếng, ngắm bên trái, nhìn bên phải, và bất kể nhìn từ phía nào, anh công an cũng chỉ thấy Hồ Ngọc Âm là một con người tài ba, lúc nào cũng cười tít, đổi với ai cũng nhỏ nhẹ, dịu dàng, mở miệng ra là “ông anh”, là “người anh em”, còn thái độ phục vụ, nếu so với đa số các nhân viên các cửa hàng ăn uống quốc doanh, thì mèng ra cũng hơn đứt một cái đầu. Hồ Ngọc Âm cũng không phải là người có văn hóa, đâu phải là người viết “khẩu hiệu phản động”? Người ta mở một cái quán nhỏ, bán hàng, kiếm lời, chả có lý do gì để chửi bới ba lá cờ hồng. Dưới bóng của ba lá cờ hồng, cô ta được phép bán canh bánh tráng kia mà, lấy đâu ra mối thù khắc cốt, ghi xương?

    Không tìm ra được đầu mối nào, chị cửa hàng trưởng lại đề xuất một ý kiến mới với các anh công an: Cần phải thông qua tổ chức Đảng, đoàn các cấp, tiến hành một phong trào chính trị, phát động quần chúng viết báo, bàn về những nhận thức của mình đối với ba lá cờ hồng, sao cho những người biết chữ trong toàn thị trấn, đều phải viết báo, rồi lấy đó so sánh tự dạng. Thật đúng là phải huy động bao nhiêu quân tướng, phải dốc ra bao nhiêu công sức, kết quả là vẫn không sao tìm ra được cái tổ con chuồn chuồn.

    Chỉ mấy vết vạch nhằng nhịt lăng nhăng trên tấm cánh cửa gỗ thông nơi nhà xí công cộng của cửa hàng ăn uống quốc doanh mà đã làm cho thần sầu quỷ khóc, thảo mộc đều thành lính, nhân tâm bàng hoàng. Mỗi một người đều có cảm giác rằng chính mình đang bị tố cáo, bị hoài nghi, bị tra xét. Về sau anh công an đành phải mang tấm gỗ thối ấy được coi như vật chứng của vụ án đi. Vụ án chính trị phản cách mạng đỏ bị treo lại nhưng còn chưa kết thúc. Như thế có nghĩa là lớp mây, đen ngòm ngờ vực, vẫn còn vần vũ trên bầu trời của thị trấn Phù Dung. Những hồn ma bóng quỷ vẫn còn lẩn quất, ra vào trong những ngõ sâu, đường hẻm trên phố Đá Xanh.

    Vụ án tuy không phá được, nhưng Vương Thu Xá lại được làm cộng tác viên an ninh cho công an, mỗi tháng được đồn công an huyện trả lương cho 12 đồng. Còn uy tín của chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh vô hình trung đã được dựng lên, đồng thời được đề cao lên trong cư dân thị trấn. Đó là một nhân vật lãnh tụ mới ở thị trấn, chống đối lại với nhân vật lãnh tụ cũ là Cốc Yến Sơn, chủ nhiệm cửa hàng lương thực. Kể từ đó chị cửa hàng trưởng rất thích ưỡn ẹo bộ ngực đã bắt đầu lép xuống, và vênh vác bộ mặt vàng vàng đã ẩn hiện những nếp nhăn mờ mờ, đi đi, lại lại, trên phố Đá Xanh, và dừng lại trước mỗi cửa hàng vài ba phút đồng hồ.
    - Có khách hả? Đến chỗ ông Vương an ninh mà đăng ký đi. Cần phải ghi rõ thời gian khách đến thị trấn, thời gian khách rời thị trấn, thành phần giai cấp, và có quan hệ gì với gia đình này, và có giấy tờ chứng minh của đại đội sản xuất, của công xã hay không đấy nhé...
    - Này cái đôi câu đối này dán lên cửa vào năm nào, tháng nào đấy? Bốn cái chữ “nhân dân công xã” bị mưa đập gió quật tơi tả không còn ra cái thể thống gì nữa, rồi lại, kìa, đóng cái đinh tre dưới ảnh Mao Chủ tịch mà treo cái áo tơi trâu như thế kia là tại sao?!
    - Bác ơi, bác có biết cái nhà bán canh bánh tráng kia mỗi phiên chợ kiếm được bao nhiêu lãi không? Nghe nói là chồng chị ta mua đất, mua gạch, mua ngói để chuẩn bị xây nhà đấy.
    - Có phải trong cái lều xiêu bên cạnh vách nhà anh là phần tử phái hữu Tần Thư Điền không? Vợ chồng anh phải luôn luôn theo dõi mọi hành động của hắn ta, xem những ai là người đi lại, ra vào; ông Vương nhân viên an ninh sẽ đến đây luôn để bố trí công việc cho anh.
    Cứ như thế, như thế, vân vân. Khi chị cửa hàng trưởng nói những lời như thế, thái độ thật dịu dàng, vì trong đó có mang theo một tý nhắc nhở đầy thiện chí.

    Nhưng sự thực lại chẳng được như thế. Sự quan tâm ấy, sự nhắc nhở ấy, chỉ để lại trong lòng người dân một không khí buồn phiền, ngán ngẩm, một loại khủng bố tinh thần: dần dà, cứ mỗi khi thấy chị ta xuất hiện ở đầu phố, người nọ đã đưa mắt cho người kia, rồi im như thóc. Thật đúng là một con chim vào núi, trăm con khác phải im hơi, đến chó mèo cũng phải chạy tụt vào trong nhà. Hình như trong túi chị ta có cuốn sổ sinh tử của các sinh linh trong thị trấn. Những cư dân trong thị trấn Phù Dung xưa nay, vốn là những người an phận thủ thường, sống bằng tình nghĩa xóm giềng đã bắt đầu quan sát được, nhận ra được rằng: Kể từ khi chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh nay xuất hiện thì ông Cốc Yến Sơn, một nhân vật lãnh tụ vốn được nhân dân thị trấn công nhận xưa nay, bỗng nhiên như có phai sắc đi ít nhiều. Từ đó mọi chuyện bỗng trở nên rắc rối.
     
    tducchau and vinhhoa like this.
  9. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    “ĐẠI BINH PHƯƠNG BẮC”


    CHỦ NHIỆM CỬA HÀNG LƯƠNG THỰC CỐC YẾN SƠN, kể từ ngày mặc áo da dê, đi giầy giải phóng theo đại quân nam hạ đến thị trấn Phù Dung, cắm lại làm công tác địa phương, đã vừa tròn 13 năm. Lúc đầu nói toàn giọng miền Bắc, đến nay đã nhập hương tùy tục, đã chuyển thành một thứ “bạch thoại” mà người địa phương ai nghe cũng hiểu được, khi chuyện trò với mọi người ông không dùng chữ “bà con” nữa mà dùng chữ địa phương là “người anh em”. Còn ăn quen cả bát ớt phật thủ, ớt dài, ớt chỉ thiên, rồi thịt rắn, thịt mèo, thịt chó, ăn được tuốt, người ông cao, to, mạnh mẽ, râu ria quai nón, xồm xoàm, mắt ông hơi mọng, hai má ông nổi lên hai thớ thịt nằm ngang, nên tướng ông có vẻ dữ tợn. Khi mới tới đây, mỗi khi ông đứng chống nẹ giữa phố, trẻ con sợ hãi chạy re, thậm chí buổi tối những bà mẹ dọa con cũng nói:

    - Không nín, ông lính râu xồm đến bắt bây giờ!

    Nhưng thực ra ông lại chẳng hung dữ một tý nào, còn hiền là khác. Bà con trong thị trấn sau khi làm quen với ông, mọi người đều thấy rằng: mặt như ông Ác trợn trừng, mà lòng như Phật, vô cùng từ bi.

    Hồi mới giải phóng, ông cũng đã từng lấy vợ một lần, cô vợ béo tốt trắng trẻo, tóc tết thành một chiếc đuối sam dài ở sau gáy, cũng người từ miền Bắc xuống. Nhưng không tròn nửa tháng, cô vợ đã khóc rưng rức, rồi đi mất, không bao giờ còn trở lại nữa. Vậy mà chưa bao giờ người ta nghe thấy hai vợ chồng to tiếng, ngay cả tiếng vo ve nhỏ như tiếng muỗi cũng không có. Điều đó làm cho ông Cốc xấu hổ, mất thể diện. Ông không trách móc cô vợ ấy, vì nguyên nhân chính, là nằm ở nơi ông. Ông cảm thấy như ông phạm tội lừa dối đàn bà con gái, nên đến mấy tháng liền ở thị trấn Phù Dung này, ông chẳng dám ngẩng đầu lên nhìn rnặt một ai. Khi ấy mọi người ở thị trấn chẳng ai biết căn cốt là chuyện gì, người ta cứ tưởng ông bị mất một loại giấy tờ vô cùng hệ trọng, nếu không tìm lại được ắt không xong, Nhưng sau, lại là chuyện từ ngày ông đánh du kích chiến, địa đạo chiến ở miền Bắc, chẳng may, bị đạn của địch, bắn trứng đùi, sát háng, nên bị luôn cái chứng bệnh khốn khổ kia. Các bà các chị, nếu chẳng may mắc phải cái bệnh tương tự như thế, cũng còn có thể tìm thầy, tìm thuốc được. Nhưng đàn ông nam giới mắc cái chứng bệnh này, có ít ai dám nhắc tới nó, bởi khi vừa nhắc tới, mọi người đã phá ra cười, rồi chế giễu rầm rầm. Huống hồ khi ấy, súng đạn còn réo đùng đoàng bên tai, lựu đạn đôi khi còn nổ ngay cạnh người, vùi sống anh trong đất cát, mồm miệng cũng bị nhét đầy bùn đất, nửa đêm tỉnh lại, mới sờ sờ nắn nắn xem chân tay mình có còn đủ hay không, thôi thì hãy giữ lấy cái đầu đi chiếm lại giang sơn, giành lại thiên hạ, rồi dần dần sau này sẽ tính chuyện chạy chữa. Còn cứ nghĩ rằng, làm sao sống tiếp được, để đón chờ thắng lợi, sống cuộc sống thái bình khiến bệnh đã trở thành khó chữa, vấn đề càng khó giải quyết hơn. Những ông chính trị viên, ông nào cũng đầu óc thô thiển, lòng dạ hẹp hòi, (ôi, hỡi những ông chính trị viên thời kỳ chinh chiến, vốn là huynh trưởng thậm chí là người mẹ của chiến sĩ ơi!) cuối cùng, trên đường hành quân cũng phát hiện ra cái nỗi đau khổ của người chiến sĩ lúc đó đã gần ba mươi tuổi, nên trên đường Nam hạ, đi qua thị trấn Phù Dung đã để người chiến sĩ ấy lại cho vùng đất sơn thanh thủy tú này, chuyển sang làm công tác địa phương. Song ông vẫn xấu hổ, không dám đi tìm thầy khám bệnh, làm lại len lén đi uống gần mười thang thuốc lá, cũng chẳng thấy có tác dụng gì. Đấy, người chiến sĩ đã tham gia lật đổ được cả một dải núi của chủ nghĩa phong kiến; mà trong đầu óc lại vẫn giấu giếm những ý thức phong kiến! Khoa học sẽ lột sạch con người ta ra, không để một sợi vải trên người, ngay giữa ban ngày ban mặt, rồi cả một đám đàn ông, đàn bà khoác áo choàng trắng, đeo những chiếc khẩu trang lớn, dòm dòm ngó ngó, hết bên phải lại sang bên trái, sờ sờ, nắn nắn, khám khám, xét xét, giống như vây quanh một con ngựa đực vậy. Ông không thể nào chấp nhận được nỗi “ô nhục, ghê tởm” ấy. Sau, ông nghe người ta nói, đàn ông, cứ lấy vợ vào là một số thứ bệnh nào đó sẽ dần dần khỏi hẳn. Ông nghĩ ngợi rất lâu mới đi đến quyết định, không lấy con gái địa phương mà kiếm lấy một người vợ ở quê nhà, để lỡ mà không làm ăn gì được, cũng còn có chỗ để rút lui, ít nhất cũng không gây ảnh hưởng xấu ở địa phương. Sự việc về sau, quả đúng như mọi tính toán của ông, và coi như một chuyện phụ bạc lòng người. Vì ông cự tuyệt, đứng ngoài ngưỡng cửa khoa học, nên khoa học cũng chẳng tỏ được tình hữu ái đối với ông. Suốt cho đến nay ông vẫn đều đặn gửi lương về cho vợ, để chuộc lại tội lỗi vẫn canh cánh bên lòng.

    Đối với việc này, dân phường phố trong thị trấn cũng u buồn mất đến nửa năm, mới hiểu ra được một nguyên do: Có lẽ trong người chủ nhiệm Cốc, có một thứ bệnh mà những người con gái hiền thục không thể chấp nhận được, nhưng lại không tiện nói ra. Về sau có những người đàn bà tốt bụng, nhưng lại quá ngờ nghệch, đã tìm cách giới thiệu cho ông mấy đám, nhưng đều bị ông dứt khoát chối từ, dần dần về sau, những người thành niên ở thị trấn, bỗng như có mật ước, không bao giờ nhắc tới chuyện vợ con của ông nữa. Do đó mà hai tháng trước, khi chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh tống tình chim chuột ông, đã bị va đầu vào đá ngay từ khi tung ra những cơn sóng tình đầu tiên. Tất nhiên chẳng có ai rỗi hơi, đi kể câu chuyện đầu cua tai nheo ấy cho chị cửa hàng trưởng nghe.

    Lại nói trở lại, tuy ông Cốc không có đường “tử lộ” (1) nhưng ông lại là người có duyên, tất cả những cô thiếu nữ, những cậu con trai mới lớn của thị trấn đều nhận ông làm “bố nuôi”, và ông cũng rất quý mến bọn trẻ con ấy. Vì thế mà trong nhà ông lúc nào cũng đông đặc bọn con trai con gái chơi đùa, chúng nhảy nhót, nhào lộn trên giường ông. Trên bàn, dưới đất chỗ nào cũng đầy những đồ chơi như ô tô, tàu hỏa, xe tăng, đại pháo... rồi lại cả kẹo bánh và sách cho trẻ con nữa. Ông cũng còn cho nhiều đứa tiền mua sách vở, bút chì, thước kẻ, đủ thứ. Căn cứ vào sự tính nhẩm, tính miệng của mấy nhà kinh tế dân gian ở thị trấn, mỗi tháng ông phải bỏ ra tới mười mấy phần trăm lương, chi cho con cái đám “con trai con gái nuôi” này. Đám thanh niên trong thị trấn, khi con trai lớn lấy vợ, con gái lớn lấy chồng đều mời ông làm chủ hôn, nói dăm ba câu khuyên răn, phải trái. Và bao giờ ông cũng có món quà mừng không hậu không bạc. Nhiều gia đình trong thị trấn mỗi khi có người già cả, hoặc những khách khứa sang trọng đến chơi, đều mời ông tới tiếp khách hộ, thậm chí trong nhà có miếng ăn ngon, cũng mời ông tới uống chén rượu vui, và đều có lời giới thiệu với khách rằng:

    - Đây là chủ nhiệm Cốc của thị trấn, là cán bộ cách mạng lão thành Nam tiến...

    Hình như lời giới thiệu ấy đã đem lại sự vinh hạnh cho chính gia đình họ.

    Năm tháng trôi qua, ông Cốc sống trong cuộc sống của người dân bản trấn và có một tác dụng an lạc, hòa giải. Bởi vì đôi khi, hàng xóm, láng giềng, chẳng tránh khỏi những điều va chạm vì con gà con chó con lợn con mèo, thường câu nói cửa miệng của mỗi người sẽ là:

    - Đi, đi! Đi tìm ông Gốc, để xem ông ấy nói thế nào. Tôi sợ rằng ông ấy lại chẳng mắng anh là ngậm máu phun người ấy chứ lại!

    - Nào! Ông Cốc là người trong nhà, đúng không? Ông ấy là người của thị trấn, đúng không? Chỉ cần ông ấy bảo tôi sai, tôi xin chịu ngay!

    Về phần ông Cốc, cái con người mắt trố, râu ria xồm xoàm, dáng vẻ đầy hung tợn ấy lại luôn luôn vui lòng làm một người bình luận, phán xét trong dân chúng phố phường, người đáng mắng, đáng khuyên răn, ông khuyên răn. Nguyên tắc của ông là: việc to coi như việc nhỏ, việc nhỏ coi như không có gì, không để cho chuyện bé xé thành to, rách việc. Nếu như gặp phải những chuyện kinh tế, tiền tài, thì tùy tình hình mà ông móc ví riêng của mình ra. Cho nên thông thường, cả hai bên cãi lộn đều cùng đến ông, tạ tình, cáo lỗi với ông. Đôi lúc, khi ông lên huyện giải quyết công việc hoặc họp hành, vài ba ngày chưa về, cứ vào lúc nhá nhem, người ở đầu phố cuối phố Đá Xanh, khi bưng bát cơm lên đã hỏi nhau:

    - Đã thấy ông Cốc về chưa?

    - Mấy ngày rồi mà vẫn chưa về cơ nhỉ?

    - Có khi được thăng chức, điều đi mất rồi ấy?

    - Nhân dân toàn thể thị trấn ta phải viết cái giấy lên ủy ban huyện bảo rằng, nếu cho ông ấy làm quan thì cứ cho làm quan ở ngay thị trấn này cũng được chứ sao?

    Còn như tại sao, ông Cốc lại chủ động đề xuất, báo cho “cô Phù Dung” rằng mỗi phiên chợ bán cho quán hàng canh bánh tráng 60 cân đầu mày tấm gãy, cho đến nay vẫn còn là một câu đố, việc này, về sau đã dẫn tới cho ông một tai họa to lớn, nhưng chưa bao giờ ông chịu nhận đó là tội lỗi, cũng như chưa bạo giờ ông hối hận vì nó. Về sau này “cô Phù Dung” bị quy định thành phần là “mụ phú nông”, ông cũng không hề thay đổi thái độ đối với cô, mười năm, hai mươi năm vẫn giống như một ngày. Đấy là chuyện về sau.

    Phòng thương nghiệp huyện có gửi xuống cho ban quản lý chợ Phù Dung một bản công văn đánh máy, có dấu son đỏ chót:

    Cần phải kiểm tra lại trong thị trấn mấy năm gần đây những hàng quán, hàng rong, đã lợi dụng khi kinh tế nhà nước gặp khó khăn, tiến hành những vụ đầu cơ buôn lậu lớn để kiếm lãi to. Cũng có rất nhiều xã viên bỏ ruộng đất đi buôn, và dùng những vật tư nguyên liệu thuộc loại nhà nước thống nhất quản lý để chế biến, bày bán khắp nơi những thức ăn sống, thức ăn chín, làm rối loạn thị trường, phá hoại nền kinh tế tập thể của công xã.

    Ban quản lý chợ của thị trấn cần phải ngay lập tức tiến hành thanh tra, kiểm tra tất cả các hàng quán, hàng rong một cách thật triệt để và thủ tiêu, cấm ngặt. Đồng thời phải báo cáo kết quả về ngay phòng.

    Ngày ... tháng ... năm 1963

    Phần cuối của công văn, còn có thêm lời phê của trưởng ban tài mậu “Đồng ý”, lại còn có thêm cả mấy lời phê của bí thư huyện ủy phụ trách khối tài mậu Dương Dân Cao phê: “Vấn đề thị trấn Phù Dung cần được quan tâm chú ý”. Xem thế đủ biết cái lý do có tờ công văn ấy.

    Tờ công văn trước hết là được đưa tới tay ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực Cốc Yến Sơn, bởi vì khi ấy thị trấn Phù Dung chưa có ban quản lý chợ riêng, nên các cán bộ quản lý đều là làm kiêm, để làm công tác bình ổn và điều chỉnh, xử lý những va chạm, thắc mắc, đồng thời lo luôn cả việc phát giấy “đăng ký kinh doanh tạm thời”. Cốc Yến Sơn là ủy viên chủ nhiệm. Ông chủ trì triệu tập một cuộc họp của ban quản lý, những người tham gia bao gồm, trạm trưởng trạm thuế vụ dịch vụ thị trấn, chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu, chủ nhiệm hợp tác xã tín dụng, bí thư đại đội sản xuất Lê Mãn Canh.

    Trưởng trạm thuế đề xuất:

    - Nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh, gần đây cũng rất nhiệt tình với công việc quản lý thị trường, và an ninh đường phố, xem có nên mời chị ấy tham gia không?

    Ủy viên chủ nhiệm Cốc gạt đi:

    - Nhiều người thêm rách việc, cửa hàng ăn uống là do hợp tác xã cung tiêu quản lý, đã có chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu rồi, hà tất gì phải làm phiền đến chị ấy.

    Đầu tiên Cốc Yên Sơn đem công văn ra đọc một lượt. Thế là mấy ông cán bộ đầu ngành của thị trấn bắt đầu bàn bạc:

    - Rõ ràng rằng, có người ở thị trấn ta đâm đơn kiện cáo.

    - Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm giời, thì cũng phải cho những người buôn thúng bán bưng người ta kiếm bát cơm ăn chứ!

    - Có những người lĩnh lương nhà nước, ăn gạo nhà nước, mà lại còn đi xoi mói cơm áo gạo tiền của dân, moi móc bụng no bụng đói của dân thế này ư!

    - Lần trước xuất hiện một cái khẩu hiệu “phản động”, đã làm cho gà chó bất yên; lần này lại cái tờ công văn này, thật đúng là càng bới càng rối!

    Chỉ có bí thư chi bộ đại đội sản xuất là không lên tiếng, anh cảm thấy tất cả mọi chuyện này đều có liên quan tới cái vị nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống kia. Lần trước cửa hàng trưởng cãi nhau với Hồ Ngọc Âm, chính anh đã được chứng kiến. Trước đó nữa anh cũng đã được biết rằng, chính cái chị cửa hàng trưởng này là cô cháu ngoại lẳng lơ có chóp của ông bí thư khu ủy Dương Dân Cao. Nhưng bây giờ cái đồng chí nữ này đã già đi nhiều, sắc mặt đã vàng ra, da dẻ đã bắt đầu nhăn nheo, quanh mắt đã nổi những bọng thịt, rõ ràng đã sa sút hơn ngày xưa nhiều, thảo nào, mấy lần gặp mặt mà vẫn chẳng nhận được ra nhau. Nghe nói là chị ta vẫn chưa lấy chồng, vẫn là một cô gái già, đại khái là đã dốc hết cả tâm trí, cùng sức lực đầu tư cho sự nghiệp cách mạng thì phải. Trước đây ít hôm, bà cửa hàng trưởng, cùng với Vương Thu Xá, đã giúp mấy anh công an, triệu tập tất cả phần tử loại 5 ở thị trấn lại để huấn thị, dạy dỗ, đối chiếu bút tích. Như thế đủ thấy rằng, con người ấy chẳng phải chỉ là một cái củ cải trong cửa hàng ăn uống. Sau vụ đó, mấy anh công an đã sắp xếp cho Vương Thu Xá làm nhân viên an ninh ở phố Đá Xanh, mà không thèm hỏi ý kiến của bí thư chi bộ đại đội sản xuất. Bây giờ phòng thương nghiệp huyện lại tống đạt cái công văn này xuống... Công việc thế là rắc rối đấy! Còn như qua tờ văn bản bằng giấy này, chị ta có giở thêm ngón nghề gì nữa không, anh vẫn chưa tính đến. Tất cả mọi người có mặt ở đây đều chỉ là thấy việc thì bàn việc vậy thôi, chứ chưa có ai đi phân tích kỹ cho tới ngọn ngành công việc.

    Các ủy viên sau khi bàn bạc, kết luận: Căn cứ vào tinh thần chính sách của trung ương, của tỉnh, của địa phương có liên quan tới việc mở cửa cho các chợ búa ở nông thôn, thấy rằng, không nên cấm ngặt hoặc thủ tiêu tất cả, mà nên cho các quán nhỏ, các hàng rong được tồn tại một cách hợp pháp, vì thế quyết định: Đối với tất cả những quán hàng, tiệm nhỏ cùng những người bán rong trong thị trấn, đều phải đăng ký lại, công việc cụ thể do trạm thuế vụ phụ trách, đồng thời phát nhất loạt giấy phép kinh doanh tạm thời. Sau đó dựa vào các điều khoản, chính sách, cùng tinh thần chấp hành công văn, viết một báo cáo gửi lên phòng thương nghiệp huyện, đồng kính gửi lên ban tài mậu và bí thư huyện ủy phụ trách khối tài mậu Dương Dân Cao.

    Trạm trưởng thuế vụ cười hỏi Lê Mãn Canh:

    - “Cô Phù Dung” bán canh bánh tráng, là em nuôi của anh, vậy đại đội sản xuất của các anh có đồng ý để cho cô ấy bày hàng, tiếp tục kinh doanh không?

    Lê Mãn Canh đưa cho trạm trưởng thuế vụ một điếu thuốc lá tổ sâu nói:

    - Việc quan, cứ phép công mà làm. Không có chuyện “nuôi” chuyện “nấng” gì ở đây cả. Mỗi phiên chợ Hồ Ngọc Âm có đến trạm thuế nộp thuế đấy chứ? Cô ấy cũng đã đóng góp cho đội sản xuất những công thiếu, nhưng cả hai vợ chồng đều là những người rất tích cực với công việc sản xuất tập thể của đội sản xuất. Đại đội sản xuất chúng tôi cho rằng việc kinh doanh thêm cái quán nhỏ cũng chỉ là một thứ nghề phụ, phù hợp với chính sách của Đảng, nên có thể phát cho cô ấy giấy phép kinh doanh.

    Chủ nhiệm Cốc quay về phía Lê Mãn Canh gật đầu, tỏ ý tán thành ý kiến thấu tình đạt lý của bí thư chi bộ đại đội sản xuất.

    Khi cuộc họp giải tán, chủ nhiệm Cốc cùng với bí thư chi bộ Lê Mãn Cạnh còn đứng lại với nhau một lát. Cả hai người hình như còn có một chút tâm sự muốn trao đổi.

    Ông Cốc tính tình vốn khoan hậu, nhưng tư tưởng vẫn còn vô cùng nhạy bén nên hỏi:

    - Này người anh em, anh có ngửi thấy cái mùi vị tanh tưởi trong không khí này không?

    Lê Mãn Canh trả lời theo kiểu ví von:

    - Con ong bò vẽ lao vào tổ ong mật thì rồi ra ngày tháng sẽ chẳng yên ổn cho đâu.

    Ông Cốc than vãn:

    - Ôi! Mong sao đừng xảy ra chuyện gì là hay nhất. Thông thường một viên cứt chuột là làm hỏng cả nồi canh.

    - Ông là người có uy tín ở thị trấn, nhờ vào ông mà mọi việc ở thị trấn đâu vào đấy. Nếu không, người phải chịu thiệt thòi nhất sẽ là cô em nuôi Hồ Ngọc Âm của tôi...

    - Đúng thế, cô em nuôi của anh là một người yếu thế, mỏng lực. Chúng ta còn trụ được ở đây, sẽ là những người che chở cho gia đình cô ấy được sống yên ổn. Một vài hôm nữa tôi sẽ lên tỉnh, tìm kiếm mấy ông bạn chiến hữu, tìm cách tống khứ cái con chúa cái bò vẽ ấy đi.

    Đã nói được hết với nhau những lời cần thiết, hai người chia tay.

    Cuối mùa thu năm đó, nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh ở thị trấn Phù Dung bị điều đi, chị ta về huyện làm trưởng một ban của phòng thương nghiệp. Mọi người trong thị trấn đều thở phào nhẹ nhõm, đã hất tung đi được một đám mây đen u ám nặng nề như một khối chì xám xịt vẫn lơ lửng treo trên đầu họ.

    Nhưng những người ở thị trấn miền núi ấy đâu có hiểu được rằng, giữa cái đêm thu họ đang yên tĩnh ngủ say, đầy phố vang lên tiếng ngáy ấy, lại có một bản báo cáo viết tay của công an huyện tường trình lên bí thư huyện ủy đang nằm trên bàn làm việc của Dương Dân Cao. Đèn trong phòng làm việc không bật, chỉ có mỗi một chiếc đèn bàn le lói sáng. Ánh sáng của ngọn đèn, chiếu thành một vòng tròn trên tấm kính bàn làm việc. Bí thư Dương Dân Cao ngồi trên một chiếc ghế tựa bằng mây nằm bên ngoài vòng ánh sáng, nên nét mặt ông trở nên mờ ảo, không rõ nét. Ông trầm tư trước bản báo cáo rất lâu, và rồi bất chợt, ông quay cây bút chì trong tay, ông vẽ lên trang giấy có tiêu đề vốn dùng để viết công văn một bức sơ đồ của một “tiểu tập đoàn”. Khi ngọn bút có sức nặng nhìn cân của ông, rơi vào cái tên Cốc Yến Sơn, “Đại Binh phương Bắc” mà ông đã viết lên đó, ông hạ thêm cái dấu rồi ông lại xóa ngay đi. Cái sơ đồ “tiểu tập đoàn” mà ông đắn đo cân nhắc như sau:



    [​IMG]



    Vẽ xong, ông nhắc lên tự thưởng thức một lát, rồi vò nát, vo viên tờ giấy lại, ném vào sọt giấy vụn ở phòng làm việc. Ông suy nghĩ lại, rồi hình như chẳng an tâm được bao nhiêu, ông lại nhặt viên giấy từ sọt giấy vụn ra, vuốt thẳng, bật một que diêm, đốt.

    Dưới ánh đèn của bàn làm việc, ông giống như tất cả những người phải giải quyết trăm công nghìn việc một ngày, nên quá ư mệt mỏi, đến nỗi mắt sưng vù, mặt mày vàng võ. Tưởng chừng như sau khi đã phê chuẩn xong bản báo cáo này của công an huyện, là ông có thể ra ngoài ban công co duỗi tay chân, tập thể dục một lát cho giãn xương giãn cốt, quay quay mấy vòng cái cổ đã mỏi cứng, rồi rửa mặt mũi, ngâm chân nước nóng, và đi chợp mắt lấy một giấc ngủ ngắn ngủi dăm ba tiếng đồng hồ. Cuối cùng ông rút lấy một tờ giấy chuyên để viết công văn, cầm lấy bút. Cây bút nặng trịch, bởi nó liên quan tới không ít tính mạng con người. Ông đắn đo, lựa chọn, từng chữ một, viết rằng:

    Thị trấn Phù Dung là nơi giáp giới ba tỉnh, một khu xa xôi hẻo lánh, tình hình phức tạp. Xưa nay vẫn là một điểm nóng trong công tác chính trị của huyện ta. Về cái “tiểu tập đoàn”, thứ nhất là không nên vội vàng khẳng định, nhưng cũng không thể dễ dàng phủ định, không thể không quan tâm tới. Tất cả các bộ môn có liên quan, cần phải hết sức cảnh giác. Nếu phát hiện tình hình gì mới, lập tức phải báo cáo ngay với huyện ủy, không được lơ là chậm trễ.


    (1) Đường con cái. (Nguyên chú).


     
    tducchau, thanhphonge and vinhhoa like this.
  10. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    Chương II
    ƠI NGƯỜI MIỀN NÚI
    (Năm 1964)


    KIẾN TRÚC THỨ TƯ


    CHỚP MẮT MỘT CÁI ĐÃ LÀ MÙA XUÂN NĂM 1964.

    Mùa xuân năm ấy lắm gió nhiều, mưa, giá rét căm căm, là cái mùa làm táp mạ héo lúa. Trên bờ sông Phù Dung, vẫn còn một cây mộc phù dung cổ thụ lại tự nhiên trổ hoa vào mùa ấy, còn cây bồ kết ở đầu phố mọi năm hoa nở trĩu cành, năm nay lại là năm “đực”, nên chẳng bói được cánh hoa nào. Người trong thị trấn xôn xao bàn tán, không rõ đấy là điềm lành hay điềm dữ. Cứ theo những người có tuổi nói, chuyện lạ về việc cây phù dụng nở hoa vào mùa xuân các cụ đã được thấy ba lần: Lần đầu tiên, vào năm Tuyên Thống thứ hai, phát bệnh dịch tả, dân đinh trên thị trấn chết mất già nửa, đó làm điềm dữ. Lần thứ hai vào năm Dân Quốc thứ 22 phát đại hồng thủy, cả thị trấn nước ngập mênh mông, biến thành hồ ao nuôi cá, tròn nửa tháng giời, nước mới rút, điềm xấu. Lần thứ ba vào năm 1949, đại quân Giải phóng Nam tiến, tiễu phỉ diệt ác bá, người nghèo vươn mình, đó là điềm lành. Còn như cây bồ kết không nở hoa, không kết được những quả dài như quả đậu, các cụ già cũng có cách nói của mình, đó là điềm ô uế, chuyện đời lộn xộn, kéo dài năm nọ sang năm kia, hoàn toàn bất lợi. Chỉ nguyên cái năm nay, hai sự kiện là cây phù dung nở hoa vào mùa xuân, và cây bồ kết cứ đực ra không chịu nở hoa, lại chập vào làm một, hết sức lạ kỳ, như vậy là thủy hỏa tương khắc, có thể là đại cát đại lợi, nhưng cũng có thể là dân thị trấn sẽ gặp những tai họa khôn lường... Trước mắt, lòng người dân thị trấn thấp thỏm, bàng hoàng, mèo chó bất an. Nhưng giải phóng cũng đã được tới 13, 14 năm rồi, ở ngoài chợ khó mà có thể kiếm được một ông thầy bói, vì thế có một số người bèn đi tìm tên phần tử loại 5 là Tần Thư Điền, con người vốn “việc trên trời biết được một nửa, việc dưới đất biết được tất cả” để thỉnh giáo. Nhưng cái thằng cha Tần Thư Điền lại giả bộ làm người tích cực, làm ra vẻ tinh thần giác ngộ còn cao hơn cả quần chúng xã viên nói chung, và tư tưởng cũng vô cùng tiến bộ, nên đã ra vẻ, lên giọng bảo rằng, những luận điệu, đồn đại nói trên, chẳng qua chỉ tại không chịu đọc sách, không hiểu sinh vật học, sinh thái học mà ra. Vì thế nên đã đem gom góp tất cả những biến thiên của thế sự, cùng những tai họa tự nhiên, và những hiện tượng biến dị của cỏ cây, hoa lá dồn vào làm một, rồi đưa ra các kiểu giải thích đầy mê tín dị đoan, vân vân. Cuối cùng lại còn viện dẫn ra lời răn dạy của ông thầy lãnh đạo cách mạng nói rằng: Trong hoàn cảnh đất nước còn đầy những người mù chữ, thì không thể nào xây dựng chủ nghĩa cộng sản được”, để thuyết phục mọi người, để lên lớp chính trị, hòng nâng cao giá trị của bản thân mình, đồng thời là đề cao tính ưu việt về tri thức văn hóa của mình, và hạ thấp sự giác ngộ tư tưởng của quần chúng xã viên.

    Thế nhưng những hiện tượng biến dị của giới tự nhiên đó lại vừa đúng trùng hợp với những sự kiện trọng đại trong đời sống của xã viên không sớm hơn mà cũng không muộn hơn. Hạ tuần tháng 2, tổ công tác của ban tuyên giáo huyện ủy đã về đóng ở thị trấn Phù Dung. Tổ trưởng tổ công tác lại chính là chị nguyên cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh cũ. Lý Quốc Hương trở lại lần này, ăn mặc giản dị, sắc diện trầm tĩnh, rất nhiều ngày không hề lộ diện, ở trong nhà một người là “bần nông hiện đại”, đó là ngôi nhà sàn của Vương Thu Xá, gọi là “bắt rễ xâu chuỗi” học tập cách thức hồi cải cách ruộng đất của các đội công tác. Những cư dân trong thị trấn miền núi xưa nay đều rất kính nể những đồng chí công tác do cấp trên phái xuống. Đối với chính trị, đối với mọi thứ tình hình lại hết sức ngu ngơ như mắt đui tai điếc. Cuộc sống của họ phẳng lặng như ao nước tù, những phong tục, tình người từ muôn thuở, giống như một thứ thuốc lú dùng liên tục trường kỳ khiến cho họ trở thành mông muội trì trệ. Ngay đến cả nhân vật hàng đầu như Cốc Yến Sơn, Lê Mãn Canh đã từng tiếp xúc với đời mà vẫn cứ tưởng rằng chiếc bánh xe trâu của cuộc sống vẫn bình thường kẽo kẹt chuyển động không nhanh không chậm. Đối với việc tái xuất hiện của Lý Quốc Hương, tuy trong lòng họ cũng có thoáng hiện những cụm mây đen, nhưng rồi họ cũng cho qua không để ý. Chị ta ở vị trí khách, còn mình ở vị trí chủ nhà. Thần tiên xuống trần, cũng cần hỏi Thổ Công. Họ chính là những ông Thổ Công trên mảnh đất này. Cho nên bất kể là tiên cô tiên bà, quan lớn quan bé tới đây, làm những việc lung tung bừa bãi, đại để là cũng sẽ gặp khó khăn. Thêm vào đó, đúng lúc ấy, Cốc Yến Sơn đang bận tung ra một loại giống lúa mới, phẩm chất tốt, còn Lê Mãn Canh lại đang thúc giục đại đội sản xuất làm vụ lúa xuân với giống mới nên bận ngập đầu ngập cổ.

    Có một sự kiện lớn là tổ công tác vào ở trong ngôi nhà sàn của Vương Thu Xá, tạm thời chưa phải là tin quan trọng của thị trấn. Mọi sự chú ý của dân thị trấn đang bị một sự kiện khác cuốn hút hơn: Vợ chồng cô bán canh bánh tráng Hồ Ngọc Âm lên ngôi nhà tầng sắp sửa khánh thành. Ngôi nhà lầu làm phân tán lòng người, ảnh hưởng tới cuộc vận động của tổ công tác. Để làm ngôi nhà lầu này, vợ chồng Hồ Ngọc Âm phải nhờ người vẽ kiểu, chuẩn bị vật liệu, mời thợ nề, thợ mộc, túi bụi suốt cả mùa đông lẫn mùa xuân, khiến người gầy rộc hẳn đi. Những người đi chợ đi phố, lại nói: “Cô Phù Dung” tuy người có gầy đi đôi chút nhưng trông lại trẻ, lại đẹp ra. Cái nhà trọ Hồ Ký cũ kỹ của cô đã quá rệu rã rồi, cô định rằng xong nhà mới là dỡ bỏ nó đi. Ngôi nhà mới xây ngay liền vách với quán trọ cũ, nền đất mua của chủ nhân ngôi nhà sàn Vương Thu Xá. Nghe nói, sau khi tiêu sạch sẽ khoản tiền bán đất 200 đồng bạc, Vương Thu Xá mới bắt đầu hối hận: bán rẻ. Vợ chồng Lê Quế Quế mua rẻ của hắn ít nhất cũng phải tới trăm đồng bạc, tiền ấy, đã tính vào tiền ăn canh bánh tráng hơn hai năm liền không trả, nhưng một trăm đồng bạc là những một nghìn bát canh cơ! Trời đất! Những một nghìn bát! Cái thằng Vương Thu Xá này có cái bụng trâu ruột ngựa cũng chứa không nổi ngần ấy bát. Những người buôn bán bao giờ họ cũng quăng câu dài để nhử cá to, và vớ bẫm... Nhưng cho đến hôm nay, mặc xác anh có hối hận hay không hối hận, ngôi nhà lầu cũng đã lên xong, một màu xanh gạch, xanh ngói, những bức tường quét vôi sáng sủa. Tường mặt tiền lại xây theo kiểu Tây, kẻ bằng xi măng thành những ô vuông vuông dài dài, gây cho người ta cái cảm giác vừa trang trọng vừa hoàn chỉnh. Tầng trên mở hai cửa sổ lắp hoàn toàn kính lưỡng dụng, giữa hai cửa sổ là một ban công dài có gắn những đồ án hoa văn. Tầng dưới là những bậc thềm bằng đá xanh, cửa lớn sơn đỏ. Một chiếc khóa đồng “mắt trâu” có thể chuyển động được, gắn ngay trên khung cửa ra vào. Tòa nhà này có thể gọi là tỉnh quê kết hợp, và Tây ta chung sống, ơ trên phố Đá Xanh của thị trấn Phù Dung xem ra chỉ có ngôi nhà ấy là đọ được với cửa hàng bách hóa, cửa hàng thực phẩm và cửa hàng ăn uổng quốc doanh đứng ở đầu phố, giữa phố và cuối phố, nó cao vượt lên, lừng lững giữa những ngôi nhà già nua cũ kỹ của bốn bên hàng phố, có thể nói rằng đó là kiến trúc lớn thứ tư trong thị trấn này, mà lại là sở hữu của tư nhân! Ngay từ khi giàn giáo còn chưa được dỡ xuống, dân cư thị trấn này đã ngày ngày đến vây quanh nó, bình luận, bàn bạc rồi. Tổ trưởng tổ công tác của ban tuyên giáo xuống xã Lý Quốc Hương cũng đã có đến mấy lần, đứng ngắm nghía lẫn vào trong đám quần chúng và đã ghi vào cuốn sổ tay mấy điều “quần chúng phản ảnh”:

    “Kiếm tiền khó như mò kim đáy giếng”, thật không ngờ bán canh bánh tráng mà lại lãi lờ đến thế, xây dựng được nhà lầu”.

    “Còn đàng hoàng bề thế hơn cả hiệu Mậu Nguyên và to tát vung vinh hơn cả hiệu muối Hải Thông hồi trước giải phóng”.

    “Người không buôn gian bán lậu không giàu, ngựa không có cỏ ăn đêm ngựa gầy”... Không có hai ba nghìn bạc trong tay không làm nổi cái nhà ấy”.

    “Cái thằng Lê Quế Quế xuất thân là đồ tể, chui vào nhà họ Hồ làm rể, không hiểu nó đã tu nhân tích đức được từ đời nào”.

    “Hồ Ngọc Âm là con quỷ quái hàng đầu ở cái thị trấn này. Nó cứ ngậm miệng ăn tiền. Có tiền mặt không chịu gửi vào ngân hàng. Không biết nó nhét vào cái khe cái ngách nào”.

    Nhà mới đã hoàn thành, nhưng nhà cũ còn chưa kịp dỡ, đã vấp phải ngay cái chuyện lạ lùng là cây phù dung trên bờ sông Phù Dung nở hoa vào mùa xuân, Hồ Ngọc Âm quyết định làm mươi mâm rượu để giải xui, đồng thời cũng là bữa cơm liên hoan mời bà con trong phố và cảm ơn thợ nề thợ mộc. Trước hết cô đi hỏi ý kiến người anh nuôi Lê Mãn Canh. Bí thư chi bộ đại đội sản xuất không gật đầu nhưng cũng chẳng lắc đầu. Hồ Ngọc Âm biết rằng điều đó trong hàng ngũ lãnh đạo gọi là “mặc nhiên công nhận”. Sau đó cô lần đến từng nhà, từng hộ, từ ông Cốc chủ nhiệm, ông trưởng trạm thuế, cho đến chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu, cùng tất cả các vị đầu ngành bách hóa, thực phẩm, cửa hàng ăn uống, và kế toán trưởng của hợp tác xã tín dụng, tất cả những nhà quen kẻ thuộc trong ngõ, ngoài phố đều mời hết lượt. Phần lớn mọi người đều vui vẻ nhận lời, cũng có một số ít tìm cách chối từ lẩn tránh. Cô còn đặc biệt chú ý tới việc đi mời con người bằng mặt, chẳng bằng lòng với cô là Lý Quốc Hương, đang là tô trưởng tổ công tác của ban tuyên giáo huyện ủy, cùng với hai vị tổ viên trong tổ ấy nữa. Lý Quốc Hương đầy vẻ lịch thiệp, luôn luôn liến láu “được, được” và nói rằng, tổ công tác vừa mới tới công tác còn chưa triển khai, đi uống rượu mừng kể cũng hơi khó xử, e vi phạm vào kỷ luật của tổ công tác tuyên giáo, nhưng nhất định rằng sau ngày đó, thế nào cũng đến xem nhà xem cửa, ngồi uống chén nước, nói chuyện tào lao. Lý Quốc Hương kỳ này đã có một địa vị khác và trình độ tiếp xúc, nói năng, làm việc cũng đã có nhiều đổi khác. Hồ Ngọc Âm thấy Lý Quốc Hương có vẻ ôn hòa nhã nhặn, trong lòng cũng thấy vui vẻ cảm kích vô cùng.

    Ngày mồng 1 tháng 3, trời vừa tang tảng sáng, ngay ở cửa ngôi nhà lầu mới đã vang lên tiếng pháo lạch tạch đùng, có bánh 500 quả, có bánh 1.000 quả, có bánh 2.000 quả cứ nối tiếp nhau nổ vang lừng, làm sực tỉnh cả thị trấn Phù Dung. Cánh cửa sơn đỏ mỏ toang, đôi câu đối giấy hồng điều chữ kim nhũ vàng được dán lên trông đẹp ngời ngời, vế trước: Cần lao phu thê, phát xã hội chủ nghĩa hồng tài. Vế sau: Sơn trấn nhân gia, thiêm nhân dân công xã phong quang (Chồng vợ cần cù, được phát hồng tài từ xã hội chủ nghĩa. Dân cư sơn trấn, tô thêm vẻ đẹp cho công xã nhân dân), vế ngang: An cư lạc nghiệp.

    Chả nói ai cũng biết rằng, đôi câu đối này do tay của Tần Thư Điền viết ra.

    Suốt cả buổi sáng, thôi thì thân thích bạn bè, phố phường hàng xóm, bạn buôn bạn bán, đều đến “chúc mừng”, tặng gương, tặng chữ, tặng “phong bao”, tiếng pháo nổ giòn gần như không dứt. Bậc thềm đá xanh trước cửa ngôi nhà mới phủ một lớp dầy xác pháo xanh xanh đỏ đỏ trông như tiên nữ rắc hoa. Khắp đường phố sực nức mùi thuốc pháo, cùng với mùi thịt rượu ăn mừng. Vào khoảng giữa trưa, khách khứa đã tề tựu đông đủ, nhà mới nhà cũ bầy ra hơn mười mâm cỗ, chật ních cả hai nhà, náo nhiệt vô cùng. Chủ nhiệm Cốc, bí thư chi bộ Mãn Canh, trưởng trạm thuế vụ, chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu... tất cả những nhân vật hàng đầu của thị trấn, ngồi chiếu trên.

    Trước khi cầm đũa, Hồ Ngọc Âm với nét mặt đỏ tưng bừng mang đầy vẻ mệt mỏi, kéo anh Mãn Canh ra một chỗ nói:

    - Em, một giọt rượu cũng không uống được, còn Quế Quế thì nói năng chẳng được ra hồn, nên không thể đứng ra mà tiếp khách mời mọc được, chỉ có anh là tửu lượng khá, anh phải đứng ra làm chủ thay em, cố mời chủ nhiệm Cốc cùng tất cả mọi người ăn uống cho no say. Suốt đời khó có được một dịp vui như thế này...

    - Yên tâm, yên tâm, hôm nay ấy à, dứt khoát anh phải thay em, chuốc cho “Đại Binh phương Bắc” đổ kềnh...

    - Còn Tần Rồ cũng đi lại giúp đỡ em nhiều, nhưng thành phần của anh ấy cao, em định rồi sẽ cảm ơn anh ấy bằng cách khác. - Hồ Ngọc Âm chu đáo nói.

    - Đúng, đúng! Tần Rồ phải vào một danh sách khác.

    - Ngoài ra, anh Mãn Canh ạ, sau khi về nhà mới, nhà cũ em phá đi, em và Quế Quế định xin nuôi một đứa con nuôi, đến lúc ấy em phải nhờ anh giúp đỡ đấy.

    - Ôi dào, em gái ơi! Em không biết hôm nay là ngày vui mừng sao! Em cứ nhắc mãi đến chuyện ấy để làm gì? Mọi người đang còn đợi anh kia kìa.

    Hôm đó Hồ Ngọc Âm không ăn không uống một tý gì, chỉ nghe những lời chúc mừng của bà con lối xóm, mắt nhìn những khuôn mặt vui vẻ tưng bừng là cô đã tràn trề niềm vui và say khướt...

    Cốc Yến Sơn “Đại Binh phương Bắc” cực kỳ vui vẻ, sau khi chén rượu đầu tiên trôi xuống bụng và do sự thúc giục của bí thư chi bộ Lê Mãn Canh, ông nâng một cốc rượu, đứng lên, ứng khẩu mấy lời chúc mừng. Giọng nói của ông hôm nay, thuần túy giọng phương Bắc, không xen vào đấy một tý giọng địa phương nào. Trong những trường hợp chính thức, nghiêm túc, bao giờ ông cũng nói bằng giọng phương Bắc, hình như có thế ông mới biểu hiện được tính trọng yếu của nó.

    - Các đồng chí! Hôm nay, chúng ta và chủ nhân đều vui vẻ hứng khởi như nhau, cùng đến đây chúc mừng việc xây dựng hoàn tất một ngôi nhà mới! Một cặp vợ chồng lao động bình thường, dựa vào chính đôi bàn tay mình, tích cóp được một số tiền, rồi xây dựng được một ngôi nhà mới như thế này, điều đó nói lên cái gì đây? Lao động có thể trở thành giàu có, có thể cải thiện đời sống. Chúng ta từ chối sự nghèo khổ, chúng ta cần có một cuộc sống hạnh phúc. Đó chính là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là sự lãnh đạo anh minh của Đảng Cộng sản. Hôm nay đây, tay chúng ta nâng cốc rượu, và chúng ta ăn gà vịt thịt cá, chúng ta cần phải nghĩ tới cái điểm thứ nhất đó. Điểm thứ hai là, chúng ta cùng nhau sống trong một thị trấn, ta nên có thái độ thê nào đối với ngôi nhà mới này cũng như với chủ nhân của nó đây? Là vui mừng hay đố kỵ? Là vun vào hay đứng sang một bên dè bỉu, dèm pha? Theo tôi chúng ta cần phải khen ngợi và học tập đôi vợ chồng cần cù này. Nói như thế đương nhiên không phải rằng tất cả mọi người đều đi dọn hàng bán canh bánh tráng. Có rất nhiều con đường và cách thức phát triển sản xuất tập thể cũng như nghề phụ. Điểm thứ ba, chúng ta đã chẳng vẫn thường nói rằng cần phải xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa, rồi mới tiến lên chủ nghĩa cộng sản đó sao? Tôi nghĩ, cái chủ nghĩa cộng sản ấy mà, cứ ngồi mà đợi, chẳng bao giờ nó đến cho đâu, có thò tay ra xin, cũng chẳng ai cho. Mấy năm trước, ăn chảo to ở nhà ăn công cộng, nhưng đâu có ăn được... Tôi nghĩ, chủ nghĩa cộng sản ở thị trấn Phù Dung chúng ta nên chăng đưa ra một tiêu chuẩn cụ thể, tức là mỗi hộ gia đình, ngoài việc ăn ngon mặc đẹp, mỗi nhà cần xây dựng lấy một ngôi nhà mới như thế này, mà còn phải đẹp hơn thế này, cao hơn thế này, và khí thế hơn thế này. Ta dần dần thay thế tất cả những ngôi nhà tường cây, lợp tranh, những ngôi nhà bằng gỗ bắp, gỗ thông, những ngôi nhà sàn xiêu xiêu vẹo vẹo, với cánh cửa đen sì, những cửa hàng cũ kỹ ẩm mốc, bằng những ngôi nhà tầng trên tầng dưới, điện thoại, đèn điện! Khi ấy, hai bên đường phố Đá Xanh của thị trấn Phù Dung sẽ là những ngôi nhà mới kề sát bên nhau, giông như một dãy phố gọn gàng đẹp đẽ trong các thành phố lớn...

    Bởi vì đây không phải là hội trường, cho nên đối với những lời chúc rượu của “Đại Binh phương Bắc” người ta không đáp lại bằng những tràng vỗ tay nhiệt liệt, mà đáp lại bằng những tiếng cười, bằng những tiếng kêu “hảo, hảo”, và bằng những tiếng lanh canh chạm cốc với nhau. Đương nhiên cũng có một số người trong lòng ngờ vực, cho rằng: cái ông Cốc này, mới có mấy cốc rượu vào bụng, mà rượu đã bắt đầu lên tiếng rồi sao? Mọi người đều ở nhà mới, sống những ngày sung sướng tức là chủ nghĩa cộng sản rồi sao? Nhưng hôm nay, gió mưa lại bắt đầu rầm rập kéo về, và hình như giai cấp và giai cấp đấu tranh, mới là căn cốt của cách mạng, mới là con đường dẫn tới chủ nghĩa cộng sản.

    Tiếp đó, ông trưởng trạm thuế vụ cũng nâng cốc nói đôi câu. Khi ông đề nghị chúc chủ nhân nhà mới chóng sinh quý tử và thịnh vượng đa đinh, thì đã được mọi người hò hét, hoan nghênh.

    Rượu, là rượu của nhà nấu, uống đậm đà lại có hậu. Cỗ, gồm hơn mười bát ô tô, có đủ gà vịt thịt cá. Ông Cốc và Lê Mãn Canh hai người hết sức vui vẻ, uống như hũ chìm.

    Cũng có những người e ngại, bằng cặp mắt bàng quan, lạnh lùng đã nhận ra được một điều rằng, chủ nhân ngôi nhà sàn Vương Thu Xá đã “cả gan” phá bỏ lệ xưa, không tham gia vào tiệc rượu này, không làm một “chân chạy” giúp đỡ công kia việc nọ, rồi sau đó thì ăn giúp. Điều đó quả có nhiều người cho rằng có chuyện bất bình thường. Phải chăng anh ta vì tiếc của, đã “bán rẻ” mất miếng đất, nên không muốn trông thấy cảnh người khác dựng nhà mới trên mảnh đất quả thực của mình. Hay là do tổ công tác của ban tuyên giáo huyện ủy đã đến ở trong ngôi nhà sàn của anh ta, nên nay anh ta đã trở thành “người đỏ”, trở thành “rễ”, phối hợp với tổ công tác đang chuẩn bị phát động phong trào, nắm phong trào, nên không có thời gian mà rút chân ra được? Còn có một ý nghĩ lo lắng, sợ hãi đoán rằng, có thể là anh ta đã dò nghe được một tin tức quan trọng nào đó, đã đánh hơi được một việc quan trọng nào đó, nên đã đề cao cảnh giác, đề cao giác ngộ.
     
    tducchau thích bài này.
  11. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    ÔI, NGÔI NHÀ SÀN

    NGÔI NHÀ SÀN VỐN LÀ NƠI NGHỈ CHÂN CỦA MỘT nhà giàu có sung túc miền núi. Nó hoàn toàn bằng gỗ. Khi xây dựng đã được tính toán hết sức kỹ lưỡng. Thế của nó: dựa núi, cạnh sông, dưới bóng cây xanh mát và đột khởi lên trong vùng núi đá lô xô. Nó có bốn cây cột chôn xuống đất, rầm ngang rầm dọc đều có mộng khớp vào nhau, gỗ bắp lợp mái. Ngôi nhà nói chung có hai tầng, nhưng dựa theo thế núi cao dần lên, nó có tới bốn tầng. Tầng thứ nhất, chuồng lợn, chuồng trâu. Tầng thứ hai, nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ cùng các thứ vặt vãnh, tạp nham. Tầng thứ ba là nhà bếp, tất cả người trong nhà đều ăn uống tại đây, đồng thời cũng là nơi tiếp khách, hát xướng, kể chuyện. Tầng thứ tư là phòng ngủ. Ở tầng bếp, có hành lang chạy bốn xung quanh, nhưng bên dưới không có cột chống, dùng vào việc: ban ngày ngắm mây, ngắm gió, ban đêm ngắm trăng ngắm sao, vì thế nó được gọi là “nhà sàn”. Những người mới tới vùng này, thoạt nhìn ngôi nhà sàn có vườn cây ăn quả, có khe biếc, núi xanh, với cái mái nhà nhòn nhọn bằng gỗ bắp, cùng bốn cây cột màu vàng nâu, lại có dây leo trên những bức tường gỗ và trên đỉnh nóc nhà, điểm xuyết bằng những bông hoa hình loa kèn, sẽ cảm thấy mình như đang đi bộ vào một nơi đầy tân kỳ thần bí.


    Hồi cải cách ruộng đất, Vương Thu Xá được chia quả thực ngôi nhà sàn gần phố này. Nó vốn là nơi dừng chân tạm nghỉ của một tên ác bá vùng núi, mỗi khi hắn xuống chợ. Trước cửa nhà trước đây vốn có hai khóm cây đông thanh thấp, bây giờ đã thành hai bụi rậm, cao ngập đầu người. Phía sau nhà có trồng mấy khóm chuối tiêu thật to, và hai cây quất vàng. Đến nay những cây chuối đang ngắc ngoải, hai cây quất, thân mình lỗ chỗ đầy sâu. Ngôi nhà chia làm hai tầng trên dưới: tầng dưới ngày xưa là nhà bếp và là nơi ăn ở của bọn đầy tớ; tầng trên là nơi ăn uống, chơi bời, hành lạc của một tên ác bá. Tầng nhà này được chia làm đôi, một nửa phía quay ra đường phố, làm phòng khách, nửa phía trong chia thành ba gian phòng ngủ. Nhưng bây giờ Vương Thu Xá chỉ dồn lại, ăn ở vào một tầng dưới, còn tầng trên vẫn thường xuyên bỏ không, nay dành riêng cho các nam nữ đồng chí trong tổ công tác ở nhờ. Trước đây trên tầng ấy còn có một chiếc giường chân cao trang trí hoa văn đẹp đẽ còn chưa bán mất đi, Vương Thu Xá cũng đã từng ở trên đó vài ba năm và đã từng mơ màng những giấc mộng thần tiên trên chiếc giường chân cao đó. Ôi chao, cái hồi ấy, không hiểu sao mà người lúc nào cũng như ma ám quỷ trêu. Trong óc hắn lúc nào cũng mường tượng thấy cái tên ác bá ngày xưa, nghiêng người trên chiếc ghế trúc mát rượi, rồi vừa uống rượu vừa ôm những cô gái, vừa nghe hát và bỡn cợt, chơi bời như thế nào. Có khi hắn nằm dài trên đệm, nhắm mắt lại và trong đầu lại hiện lên những ý nghĩ lăng nhăng vớ vẩn: Mẹ kiếp, chính trên chiếc giường này, chính trên chiếc đệm này, tên ác bá đã chơi bao nhiêu cô gái, bao nhiêu mụ nạ dòng? Bao nhiêu đứa béo, đứa gầy?... Cái thằng ác bá ấy sau này bị bệnh giang mai, rồi sau chết thảm, chết khổ. Thật đáng đời! Mẹ kiếp! Nhưng lúc nào hắn cũng cảm thấy trên giường vẫn còn phảng phất mùi son phấn và trên mép gối vẫn còn đọng lại hương thơm nơi khóe miệng.

    Chết dưới hoa mẫu đơn, thành quỷ cũng phong lưu! Dần dần hắn đã nghĩ ra được những hành động mới. Trong những ngày tiết trời ấm áp, màu trăng như nước, trong những đêm mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, hắn chẳng giữ nổi mình, hắn từ giường vùng dậy nhảy tót sang phòng khách, rồi mô phỏng các kiểu ăn chơi của tên ác bá miền núi, hắn cũng nghiêng người trên chiếc ghế tre mát rượi, ôm lấy cái gối, giả làm cô kỹ nữ:

    - Nào cục cưng, hát đi một bài cho ông nghe nào! Dạ quan lớn muốn nghe bài nào ạ? Lại còn phải hỏi nữa ư? Cưng là gan ruột của ông! Ông là cây tiền của cưng...

    Hắn ôm lấy cái gối và có hỏi có đáp như thế. Trước kia những ông quan có danh ở miền núi, thỉnh thoảng có ngâm nga đôi khúc Kinh kịch, mới được gọi là hợp thời. Nhưng hắn không biết hát Kinh kịch, hắn chỉ biết hát mấy câu theo kịch Hoa Đăng quê mùa:

    Ơ này, em với anh,

    Ơ này, anh với em.

    Lưỡi anh đã liếm lưỡi em ngọt tình,

    Nào em hãy cắn môi anh...

    Đôi khi hắn còn để chân trần chạy rùng rùng đuổi bắt quanh phòng khách, quanh phòng ngủ. Hắn đuổi bắt cái gì, chỉ trong bụng hắn là hiểu được. Hắn đuổi bắt một ảo ảnh. Khi hắn chạy quanh cột nhà, khi hắn nhảy vọt qua ghế, khi lại chui qua gầm bàn, miệng lầu bầu chửi bới:

    - Đồ đĩ! Đồ yêu tinh! Mày chạy đi đâu cho thoát? Mày trốn vào đâu cho thoát! Ha ha ha, hi hi hi, cái con yêu tinh thần nữ này. Cái con đĩ rời đĩ rạc này...

    Hắn cứ đuổi bắt như thế cho đến khi mệt mỏi rã rời, cuối cùng hắn thở hổn hển, vật người lên chiếc giường chân cao khảm hoa văn, nằm sóng sượt như một con rắn chết. Nhưng cuối cùng hắn cảm thấy trống rỗng, hắn bối rối, đau lòng, và nước mắt ứa ra:

    - Ngày xưa, bọn ác bá miền núi này có ăn, có uống và có đàn bà... Nay đến lượt ông... chỉ là một giấc mơ...

    Có một thời gian, dân phường phố xung quanh nghe thấy trên ngôi nhà sàn vang lên những tiếng thình thình, kèm theo những tiếng cười, những tiếng nhiếc mắng, tưởng là con hồ ly tinh đã hiện về ở trên gác và cái thằng Vương Thu Xá không chịu học hành, không chịu đi theo con đường chính đáng đã bị ma ám, bị yêu quái làm cho mê muội đi rồi.

    Trước đây đã có mấy người muốn mối lái vợ con cho Vương Thu Xá, mong sao hắn thành gia lập nghiệp, sống những ngày đường hoàng với vợ con, nay đã rút hết, không mối lái gì nữa. Còn đàn bà con gái nói chung, giữa ban ngày ban mặt mà phải đi qua ngôi nhà sàn, đều phải cúi đầu, rảo bước để khỏi bị cái “hơi ma” ám vào người. Về sau, chính bản thân Vương Thu Xá cũng tự dối mình, bảo rằng quả thật hắn cũng đã mấy lần gặp hồ ly tinh trên nhà sàn, nó rất yêu kiều, xinh đẹp, chỉ trừ có mỗi một mình cô Hồ Ngọc Âm bán canh bánh tráng ra, còn không ai có thể so sánh với nó được. Từ đó Vương Thu Xá thôi không lên ngủ trên tầng trên ấy nữa. Không phải là hắn sợ hồ ly tinh gì đó, mà hắn sợ chuyện giả thành chuyện thật, hắn sẽ mắc bệnh thần kinh và “điên vì tình”.

    Ít lâu sau, trong thị trấn lại có tiếng đồn đại bảo rằng: Chủ nhân ngôi nhà sàn chẳng có gặp yêu quái nào hết, mà chỉ là do say đắm cô Phù Dung bán canh bánh tráng mà thôi. Và đã mấy lần đến quán trọ Hồ Ký tán tỉnh, nhưng đều bị Hồ Ngọc Âm bạt tai cho, về sau Lê Quế Quế phải rút dao bầu ra, hắn mới chịu thôi đi. Nhưng vợ chồng Hồ Ngọc Âm trong thị trấn, vốn là người đứng đắn xưa nay, làm ăn chăm chỉ, cần mẫn giữ nếp thực thà, do đó mà những lời đồn đại ở xó chợ, đầu đường đều chẳng đáng tin cậy.

    Nhà cửa phải sửa sang, đền đài phải tu bổ. Ba người trong tổ công tác vào ở trong ngôi nhà sàn, khi ấy ngôi nhà đã bất thành dạng rồi, cả ngôi nhà sàn ấy đã nghiêng đi, chỉ còn dựa vào sự chống đỡ của ba cây cột, đều có treo một khối đá nặng trăm mấy mươi cân buộc bằng dây thép. Trong những đêm trăng sao mờ mịt, đột nhiên mà nhìn thấy nó, trông giống như ba cái xác treo cổ, khiến phải sởn da gà. Dưới chân cột nhà sàn, chỗ thò lên sát mặt đất, bị nước ngấm đen sì, mọc đầy loài nấm phượng vĩ và đầy mối mọt. Cái loài nấm phượng vĩ cũng hay, túm tụm thành chòm như khảm những cánh hoa màu xanh cho cây cột gỗ. Phía sau nhà, cỏ rậm hoang vu, chen chúc mọc lút đầu lút cổ và đã vươn lên tới cửa sổ của tầng trên.

    Ngôi nhà xiêu vẹo, sân sướng hoang vu, khiến tổ trưởng Lý Quốc Hương vô cùng xúc động, cảm thấy trách nhiệm của mình thật trọng đại. Giải phóng đã mười bốn, mười lăm năm, Vương Thu Xá “rễ của cải cách ruộng đất” này, vẫn còn phải sống những ngày nghèo khổ và vẫn không vươn mình toàn diện được. Vậy thì đây là vấn đề gì đây? Ba năm ròng khổ sở, thế lực tư bản chủ nghĩa ở nông thôn và thành thị đã ngóc đầu dậy rồi. Nếu không phát động phong trào, không nắm chắc đấu tranh giai cấp, nông thôn tất yếu sẽ biến thành hai cực và người giàu vẫn giàu, người nghèo vẫn nghèo, sẽ làm cho đất nước biến màu, Đảng biến thành xét lại, thành quả của cách mạng bị thui chột, chủ nghĩa tư bản phục hồi, giai cấp địa chủ tư sản lại đăng đài và lại phải vào rừng núi đánh du kích, tiến hành nông thôn bao vây thành thị. Khi ở dưới nhà bếp, Lý Quốc Hương nhìn thấy những chảo sứt, bát mẻ của Vương Thu Xá, thì mắt đỏ lên và lệ chảy! Ôi cái tình cảm giai cấp nồng thắm biết bao nhiêu. Nữ tổ trưởng và hai tổ viên đã làm một chuyện “người tốt việc tốt”, mỗi người bỏ ra hai đồng bạc mua về một chiếc nồi nhôm bóng loáng, một bó đũa nhựa, mười chiếc bát ăn cơm. Tổ công tác còn đích thân bỏ sức ra làm nghĩa vụ lao động. Tổ trưởng, tổ viên cùng bắt tay vào một lần dọn sạch hết những đám cỏ hoang gai dại, lấp phẳng những ổ rắn hang chuột, cấp cứu cấp tốc những cây bưởi (1) đang sống dở chết dở, làm vệ sinh môi trường thật sạch sẽ. Tổ trưởng Lý Quốc Hương bị rộp hết lòng bàn tay, trên cánh tay bị những vệt gai xước ngang xước dọc, đỏ lên đòng đọc. Phần trước cửa nhà sàn, nơi sát với mặt phố, bộ mặt cũng được đổi mới, nhà cửa được dán một đôi câu đối đỏ:

    Thiên vạn bất vong giai cấp đấu tranh

    Vĩnh viễn phê phán tư bản chủ nghĩa.

    (Luôn luôn ghi nhớ giai cấp đấu tranh

    Mãi mãi phê phán chủ nghĩa tư bản).

    Để “bắt rễ” cho đúng, cho chắc ở thị trấn, nên tổ công tác chưa vội mở đại hội, dán khẩu hiệu, tuyên truyền động viên chỉ thuần tuý làm ầm ĩ bề mặt bên ngoài, mà chú trọng tới việc xâu chuỗi, nắm bắt tình hình, trước hết là phân định rõ ràng phái tả, phái hữu, phái trung gian trong toàn thể cán bộ của thị trấn, “phân cấp chính trị” trong đám cư dân, xác định xem trong phong trào vận động này sẽ dựa vào ai, đoàn kết với ai, giáo dục tranh thủ ai, cô lập đả kích ai. Một hôm Lý Quốc Hương bắt cả hai tổ viên trong tổ công tác, thâm nhập vào mấy gia đình “hiện là bần nông” trong thị trấn để “bắt rễ xâu chuỗi”, còn chị ta ở lại ngôi nhà sàn, để tiến hành bồi dưỡng trọng điểm cho Vương Thu Xá và đích thân đọc văn kiện cho “rễ” nghe. Kể từ hồi năm kia, sau mấy lần tiếp xúc với Vương Thu Xá, chủ nhân của ngôi nhà sàn, Lý Quốc Hương thấy ấn tượng của mình với hắn cũng không tồi và thấy rằng dễ uốn anh ta nên người: Đầu tiên là khổ lớn thù sâu, lập trường kiên định, đối với chỉ thị của thượng cấp không bao giò có lời thứ hai. Hơn nữa hình thức của con người này cũng chẳng đến nỗi nào, không cao không lùn, thân thể cường tráng, lúc nào cũng cười tít mắt thật dễ mến dễ thương. Điều quan trọng hơn cả là Vương Thu Xá có sự nhạy bén, phản ứng nhanh, miệng nói tay làm, biết cách ăn nói, có năng lực hoạt động tổ chức nhất định. Người ta bảo rằng xét người đừng xét theo cái vẻ bề ngoài, cho nên trước mắt đây, Vương Thu Xá, cái mặc cũng hơi rách rưới một tý thật, ăn uống cũng hơi có thô lỗ thật, nhưng nếu như thay cho anh ta mặc một bộ quần áo cán bộ, đeo thêm một cái cổ áo trắng giả, đi một đôi giầy giải phóng màu cỏ úa, rồi đem so sánh về phong độ với tất cả các trưởng ban, trưởng phòng trong toàn huyện chưa chắc anh ta đã kém ai. Chị ta có ý định bước đầu hãy xây dựng cho Vương Thu Xá thành một “điển hình”, nâng cao giác ngộ phong trào vận động của ban tuyên giáo, đồng thời là một tiêu binh tiên tiến, rồi từ đó sẽ tự mình nắm bắt được phong trào vận động trong thị trấn và rất có thể trỏ thành một lá cờ hồng trong toàn huyện.

    Miệng Lý Quốc Hương đọc văn kiện, nhưng trong lòng lại nghĩ lan man tới những cái đó, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn Vương Thu Xá suốt từ trên xuống dưới. Đương nhiên rằng Vương Thu Xá không thể nhận biết ra được nỗi khổ tâm đó của người nữ tổ trưởng tổ công tác. Khi nữ tổ trưởng đọc tới những điều khoản: “Thanh tra giai cấp, thanh tra thành phần, thanh tra kinh tế”, thì tim hắn bỗng giật thót lên, mắt sáng ra và cổ họng ngứa ngáy, không thể nén nổi một câu hỏi:

    - Thưa tổ trưởng Lý, trong phong trào vận động kỳ này, có phải nó cũng giống như hồi cải cách ruộng đất không... hoặc gọi là cải cách ruộng đất lần thứ hai phải không ạ?

    - Cải cách ruộng đất lần thứ hai? Đúng, đúng, phong trào vận động này cũng bắt rễ xâu chuỗi giông như hồi cải cách ruộng đất, dựa vào bần cố nông, đánh đổ địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, phái hữu, đồng thời đánh đổ luôn các phần tử mới nảy sinh của giai cấp tư sản.

    Lý Quốc Hương kiên tâm giải đáp những câu hỏi của “rễ” và đọc thông vanh vách các điều khoản, chính sách.

    - Thưa tổ trưởng Lý, trong phong trào vận động kỳ này có đúng là quy định lại thành phần giai cấp không?

    - Tình hình hết sức phức tạp, những nơi mà cuộc cải cách ruộng đất chưa làm được triệt để cần phải thành lập lại đội ngũ giai cấp, mặt trận của tổ chức giai cấp. Anh Vương này, anh nghe văn kiện, mà đầu óc biết suy nghĩ như thế là rất cừ, rất cừ.

    - Tôi còn một điều chưa hiểu, cái điều khoản thanh tra kinh tế, có phải là sẽ thanh tra kiểm tra tài sản của tất cả các nhà, các hộ không?

    Vương Thu Xá trợn tròn đôi mắt, nhìn chị nữ tổ trưởng không chớp. Chỉ một suýt nữa thôi là hắn đã hỏi cái câu: “Có chia của nổi không?”. Nữ tổ trưởng bị con người sống độc thân, ba mươi mấy tuổi này nhìn chằm chằm, khiến mặt mũi nóng bừng lên, nên vội vã ngoảnh mặt đi và tiếp tục giảng giải giới hạn của chính sách:

    - Cần phải thanh tra công điểm, sổ sách, phân phối vật tư của đội sản xuất trong mấy năm gần đây. Cần phải thanh tra sự tham ô, lạm dụng, ăn uống nhiều, chiếm đoạt lắm của cán bộ cơ sở, cũng cần phải thanh tra những người nông dân bỏ ruộng đất đi chạy chợ, cùng những tài sản của những kẻ đầu cơ buôn lậu, rồi tiến hành triển lãm về đấu tranh giai cấp, nợ chính trị, nợ kinh tế đều phải thanh toán hết.

    - Hay lắm, hay lắm, cuộc vận động này tôi ủng hộ! Dù rằng có phải ôm đầu đi giữa đêm đen, tôi cũng đi.

    Vương Thu Xá vừa nói vừa đứng bật dậy, hứng khởi tới độ: tim đập thình thịch. Cái con mẹ nó! Ha ha, những công việc đã nghĩ từ mấy năm trước, đã ước mơ từ mấy năm trước và cứ tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ nó đến, vậy mà hôm nay nó đã đến rồi đây! Cưng ơi! Cải cách ruộng đất lần thứ hai, phân định thành phần lần thứ hai, chia của nổi lần thứ hai... Hãy xem đấy, tất cả những tiên đoán sáng suốt của thằng Vương Thu Xá này ra sao? Một lũ ngu xuẩn chúng mày, khi cải cách ruộng đất được chia ruộng tốt, đất tốt, trâu bò cày bừa, thế là lăn vào làm, chắt chắt bóp bóp, chỉ nghĩ đến chuyện xây nhà tầng, vun vén tài sản để làm giàu... Ha ha, thằng Vương Thu Xá này quả là có con mắt biết nhìn xa hơn lũ chúng bay, vẫn chỉ là chảo sứt, bát mẻ, bếp nứt, làm một thằng “bần nông hiện đại”, bây giờ tao sẽ “cách” cái “mạng” của chúng mày, “tranh” cái “đấu” của chúng mày. Toàn thân hắn nóng ran, đầy sức mạnh, hắn không nén nổi tình cảm của mình, đã vồ lấy hai cánh tay của nữ tổ trưởng nói:

    - Thưa tổ trưởng Lý, cái thân xác hơn một trăm cân của tôi đây, tôi xin giao nó cho tổ công tác! Tổ công tác là cha là mẹ của tôi, tôi xin nhận sự điều khiển, sai phái của tổ công tác!

    Lý Quốc Hương rụt tay mình về, trong lòng cũng thấy bồi hồi thích thú. Chị ta nén lại, nghiêm túc nói với “rễ”:

    - Ngồi xuống! Thật chẳng ra làm sao cả, nếu cứ không có trên có dưới, không có lớn có bé như thế, rồi lại động chân chạm tay như thế, sẽ ảnh hưởng đấy, cần phải chú ý một tý chứ!

    Vương Thu Xá đỏ mặt, ngoan ngoãn ngồi xuống, hắn vặn vẹo đôi bàn tay, vừa mới đây đã bóp bóp vào đôi cánh tay của nữ tổ trưởng và cảm thấy nó rất mịn màng:

    - Tôi thật đáng tội chết! Chỉ một mực nghĩ tới sự ủng hộ các văn kiện, ủng hộ chính sách của cấp trên, nên, nên quên phứt đi mất tổ trưởng là nữ giới...

    - Thôi, bớt những lời linh tinh đi. Tốt nhất là quay về việc chính.

    Lý Quốc Hương quả là người rộng lượng, xuề xòa cười, vuốt lại mấy sợi tóc xõa xuống trán, không trách móc gì anh ta nữa.

    - Anh là người đất này làng này, bây giờ anh thử nói xem, trong số các nhà ở thị trấn này, trong đó có hộ nào trong mấy năm gần đây làm giàu đặc biệt nhanh?

    - Hãy nói về cán bộ trước, rồi sau sẽ nói đến các hộ gia đình! Cán bộ ở thị trấn thì... thì có một người giống như cây đại thụ bên bờ sông, tỏa bóng che đỡ cho cả đống những con cá tư bản chủ nghĩa nổi trên mặt nước. Mỗi phiên chợ ông ta bán cho Hồ Ngọc Âm 60 cân đầu mày tấm gãy làm bánh canh bán ra, kiếm được bự tiền để xây nhà. Có điều địa vị của ông ta rất vững vàng, rễ bắt cũng thật sâu và uytín. Giả sử tổ công tác muốn động chạm tới ông ta e rằng cũng khó động chạm đấy.

    - Ông ta? Hừ hừ! Nếu đúng là có vấn đề thật, thì tổ công tác của chúng ta cứ thử mó đít hổ một cái chơi! Còn những ai nữa?

    - Còn một người nữa là trạm trưởng trạm thuế vụ. Nghe nói thành phần xuất thân của ông ta là tầng lớp quan liêu địa chủ, có thù với bần nông và trung nông lớp dưới, đã nhiều lần ông ta bảo tôi là “du thủ du thực” và là “dân vô sản lưu manh”.

    - Ồ, ồ! Vu cáo khinh bỉ bần nông tức là vu cáo khinh bỉ cách mạng. Còn ai nữa?

    - Còn một người nữa là bí thư chi bộ đại đội Lê Mãn Canh. Anh này lập trường chung chiêng, đã sử dụng phần tử xấu Tần Thư Điền cho viết khẩu hiệu, lại cho làm tiểu đầu mục của các phần tử loại 5. Lại còn nhận con bé bán canh bánh tráng Hồ Ngọc Âm làm em nuôi, lại còn kéo bè kéo cánh cùng với chủ nhiệm cửa hàng lương thực và chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu. Thị trấn Phù Dung là khoảng trời riêng của mấy con người này.

    Những điều Vương Thu Xá nói, thực ra lại rất đúng. Mấy người đầu ngành này của thị trấn thường vẫn bảo hắn là rong chơi, lười biếng, ham nhậu nhẹt, sợ lao động vất vả. Lê Mãn Canh là tay cứng rắn nhất. Thường hay lầu bầu trong việc cứu tế lương thực cũng như quần áo cho hắn, thật đúng là chẳng có một chút tình yêu thương giai cấp nào hết. Hừ hừ! Những loại người như thế mà nắm quyền hành của đại đội sản xuất trong thị trấn này, thì hắn, Vương Thu Xá làm sao mà ngóc đầu, vươn mình lên được? Phen này nhà nước mở lượng hải hà, chiếu cố tới tình hình cơ sở, cử tổ công tác xuống, lên tiếng thay cho người nghèo nhất khổ nhất, sẽ “cách” những cái “mạng” những kẻ hiện đang có tiền, có thế!

    Lý Quốc Hương vừa hỏi vừa ghi chép, đã nắm bắt được những điều cơ bản về những cán bộ trong thị trấn. Vương Thu Xá quả đúng là một cuốn sổ tay ghi chép, thằng cha ấy biết được nhiều điều, lại có một trí nhớ khá tốt, ai có quan hệ họ hàng thân thích với ai, có liên quan đầu dây mối nhợ với ai, ai với ai có những mối bất hòa, ai có thù hằn sâu sắc, thầm kín với ai, thậm chí ai đã từng lần mò lên gác nhà ai, ai đã lẻn vào chuồng gà chuồng lợn nhà ai, ai đã bị vợ tát cho nổ đom đóm mắt, con gái nhà nào đã từng phải ngậm đắng nuốt cay, khi lấy chồng chỉ còn là một cái củ cải rỗng ruột, những đứa trẻ nào đẻ ra không giống bố, mà lại giống những ai, những ai ai, hắn đều nói được một cách rõ ràng mạch lạc, đủ gốc đủ rễ, mà lại còn có đủ cả ngày tháng cùng nhân chứng. Vừa nghe vừa ghi chép, nữ tổ trưởng bỗng cảm thấy có phần nào cảm tình và thích thú đối với cái “rễ” này và có cảm giác rằng Vương Thu Xá giống như một khối đá xanh bị chìm dưới nước đã cuốn hút được rong rêu, rác rến, cùng với tôm cua, sò ốc bâu đến bên mình.

    Nữ tổ trưởng hỏi:

    - Trong vòng mấy năm, lợi dụng sự khó khăn của kinh tế nhà nước, cùng với chính sách mở cửa tương đôi rộng rãi, chợ búa, thị trường tương đối hỗn loạn, đã có những nhà nào buôn bán, phất lên, kiếm tiền, làm giàu trong thị trấn ta?

    Vương Thu Xá giả bộ kinh ngạc, hỏi lại:

    - Còn phải hỏi thế sao, tổ trưởng cấp trên, làm gì mà chẳng biết cả rồi? Tổ trưởng cấp trên đã nghe biết bao nhiêu lời phản ảnh rồi còn gì? Đó chính là Hồ Ngọc Âm chủ ngôi nhà mới xây dựng ở ngoài phố ấy! Cái nhà chị này mở cửa hàng bán canh bánh tráng, dùng nhan sắc của mình lôi kéo khách hàng, làm giàu to, hơn thế cái nhà chị này cũng ghê gớm lắm. Tất cả từ người già đến trẻ con ở thị trấn chẳng người nào là không vị nể chị ta. Cái ấy là do những cán bộ rất là... rất là...

    - Rất là, rất là làm sao?

    Nữ tổ trưởng hỏi với vẻ vừa sốt ruột vừa hiếu kỳ.

    - Rất là... là mê đắm, khuôn mặt của chị ta, đôi mắt của chị ta! Bí thư đại đội nhận chị ta là em nuôi, khiến cho cô vợ của bí thư ghen lồng ghen lộn. Rồi chủ nhiệm cửa hàng lương thực cung cấp gạo tấm cho chị ta. Trạm trưởng trạm thuế cứ coi mình như ông cậu, mỗi phiên chợ chỉ thu của chị ta có một đồng bạc thuế. Ngay cả đến cái thằng Tần Rồ, cái tên thuộc phần tử xấu ấy cũng lại rất có duyên với chị ta nữa, chính hắn đã thu thập những bài sơn ca từ chính miệng chị ta, đê chửi bới xã hội chủ nghĩa là phong kiến, như thế chẳng phải là mụ đàn bà ghê gớm, thì còn là gì nữa ạ?

    Cả một lô lời lẽ ấy đã khiến cho Lý Quốc Hương hiểu biết thêm được rất nhiều, nắm chắc được một lô những tài liệu quý bước đầu. Ngườơi chủ ngôi nhà sàn, rõ ràng là một nhân tài của thị trấn, để rồi thông qua thử thách của cuộc đấu tranh lần này, xem xem có thể bồi dưỡng anh ta được không.

    Nửa tháng sau, tổ công tác đã nắm được toàn bộ tình hình cơ bản của tất cả các nhà, các hộ trong thị trấn. Nhưng quần chúng còn chưa được phát động lên, vì thế đã phải quyết định bắt tay vào việc thăm nghèo hỏi khổ, so sánh nhớ lại, ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, để kích thích tình cảm giai cấp của xã viên quần chúng. Cụ thể phải làm ba công việc như sau: Thứ nhất, khi ăn nhớ lại ngày đói khổ; thứ hai, khi hát nhớ lại những bài hát đau thương; thứ ba, mở một cuộc triển lãm về đấu tranh giai cấp trong đại đội sản xuất, với hai phần là trước giải phóng và sau giải phóng. Phần trước giải phóng cần tìm cho được một số hiện vật: Một tấm chăn rách, một chiếc áo bông rách, một chiếc làn nát, một chiếc bát đàn sứt mẻ, một chiếc gậy đánh chó.

    Nhưng giải phóng đã mười bốn, mười lăm năm rồi, người nghèo đều đã vươn mình, đòi sống đã được nâng cao, nên bây giờ biết tìm đâu cho ra những đồ rách bẩn cũ nát ấy! Ôi chao, cái hồi cải cách ruộng đất ấy, người ta tràn trề vui sướng trong việc vươn mình, ruộng đất được chia cho từng nhà, người ta chỉ nghĩ đến việc làm sao cày cấy cho thật tốt mảnh đất được chia, chỉ tính sao bước gấp trên con đường sáng sủa của xã hội mới, ba cái thứ đồ tả tơi bươm tướp ấy còn sợ vứt đi không hết, ai còn đi giữ lại cái thứ chỉ gợi lên sự thương tâm ai oán mỗi khi nhìn thấy nó để làm gì và thật cũng chẳng có ai ngờ rằng, mười mấy năm sau người ta lại đi tổ chức triển lãm những thứ đó, để tiến hành ôn nghèo nhớ khổ làm gì. Cho hay, việc gì cũng phải có tầm nhìn xa, những thứ đồ rách nát, cũ kỹ, cũng có chỗ đứng rách nát cũ kỹ của nó. Càng ở những nơi nghèo khó, khốn khổ, lại càng cần phải ôn nghèo nhớ khổ. Những nơi của cải vật chất có kém đi một chút, thì của cải tinh thần cần phải có nhiều hơn. Ví như, có những nơi sản xuất của đội sản xuất tập thể không đẩy lên được, thóc lúa phân phối chẳng đủ ăn, có một ít xã viên chửi đổng, bất mãn. Ví như: lại có nơi, công điểm quá thấp, cả năm tính ra chẳng được bao nhiêu, nên đã có xã viên xé sổ ghi công, chửi đội trưởng, kế toán, ăn xén ăn bớt. Lại ví như, cán bộ lãnh đạo trong huyện, trong công xã thống nhất cách thức cày cấy làm ăn, quy định gieo cấy một giống lúa có phẩm chất cao nào đó của nơi khác, nhưng không hợp thung hợp thổ, nên sản lượng bị giảm đi trông thấy, thế là xã viên suốt ngày than vãn chỉ đất réo trời. Cho nên không thể không tiến hành ôn nghèo nhớ khổ. Không nhớ đến cái khổ xưa sao nghĩ được tới cái ngọt bây giờ? Mới giải phóng có mười bốn mười lăm năm trời, lắm sao có thể để quên đi mất những nghèo đói, tội nợ ngày xưa? Trong ba lá cờ đỏ, trong kinh tế tập thể làm sao có thể tránh khỏi những khiếm khuyết vụn vặt kiểu vỏ tỏi vỏ hành, lông gà lông vịt, vậy mà các người cũng ý kiến ý ong, thắc mắc thắc miếc. Đừng bao giò đứng núi này, trông núi nọ cao hơn bưng cái bát xấu mà nghĩ tối cái bát đẹp, ăn bát bo bo lại nghĩ đến bát cơm gạo tám, đừng có làm chuyện rắn nuốt voi. Vì thế ôn nghèo nhớ khổ phải được coi là bảo bối, nó chứa đựng rất nhiều tác dụng.

    Tất nhiên rằng tổ trưởng Lý Quốc Hương cần phải tổ chức cuộc triển lãm để giáo dục giai cấp, ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, và để phát động quần chúng, triển khai cuộc vận động. Chị ta đã chạy rất nhiều nơi, khắp cả mọi nhà để tìm cho ra mấy thứ hiện vật cần thiết đem triển lãm, nhưng chẳng kiếm đâu ra. Chị ta bất chợt nảy ra một sáng kiến: Đúng rồi! Mình đã có một cuốn tự điển, trăm sự, sự gì cũng có ở trong tay, tại sao chẳng tìm ở đấy? Hoặc ít ra thì chủ nhân ngôi nhà sàn cũng nghĩ ra được một cái gì đấy. Một hôm vào bữa ăn trưa, chị ta đem việc này nói ra với Vương Thu Xá. Vương Thu Xá có vẻ ngượng nghịu, một lát sau mới do dự nói:

    - Hiện vật thì cũng có một ít, nhưng chẳng biết có dùng được hay không?

    - Cái gì mà không dùng được với chẳng dùng được, mau thử đem ra đây xem nào!

    Hòn đá tảng trong lòng Lý Quốc Hương đã được hất bỏ, cười đến tít cả mắt, khi thấy “đối tượng tin cậy” bắt đầu đi lục lọi khắp các xó xỉnh trong nhà.

    Chỉ một lát sau, Vương Thu Xá, người phủ đầy bụi bậm, xách ra cả một làn đồ vật toàn những của bỏ đi, cho chị tổ trưởng xem. Đó là một chiếc chăn trăm ngàn lỗ thủng, một chiếc áo bông nhàu nát bóng láng mồ hôi và ghét bẩn, một chiếc làn rách, một chiếc bát mẻ. Duy chỉ thiếu có chiếc gậy đánh chó, cái đó tìm đâu mà chẳng thấy.

    Nữ tổ trưởng vô cùng phấn khởi, tán thưởng:

    - A ha! Anh này giỏi! Có đủ mọi thứ mà chẳng mất một chút công phu nào!

    Vương Thu Xá nhăn nhó, rồi đành nói thực:

    - Có điều cần phải báo cáo với thượng cấp rằng, cái chăn bông, cái áo bông rách nát này, đều là những đồ cứu tế của chính phủ phát cho tôi, sau ngày giải phóng...

    Nữ tổ trưởng nghiêm sắc, nghiêm giọng, phê bình, giáo dục ngay:

    - Anh định giở cái trò cười gì ra đấy thế? Đây là một nhiệm vụ chính trị nghiêm túc! Còn dao động chao đảo cái gì nữa mới được chứ? Tôi đã đến xem qua các phòng triển lãm lớn ở Hoành Dương, Quảng Châu, rất nhiều thứ đặt trong những tủ kính to đùng, nhiều cái cũng chỉ là mô hình, phỏng chế cả thôi!



    (1) Ở trên tác giả viết là: cây quất (N.D.).

     
    tducchau thích bài này.
  12. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    MÓN NỢ ĐÀN BÀ


    TRONG THỊ TRẤN BỖNG CÓ MỘT TIN ĐỒN RẰNG: Tổ công tác của huyện ủy sẽ dẹp cái quán bán canh bánh tráng của “cô Phù Dung” và tịch thu con dao mổ lợn của chồng cô. Tin ấy bắt đầu lan truyền từ đâu ra, không ai biết được và cũng chẳng có ai đi xác minh làm gì. Mọi người coi những kẻ thích loan truyền những tin tức mới nhất, cũng giống như những con ong suốt ngày đi truyền hoa thụ phấn, vì nó vừa thuộc vào tính trời, vừa thuộc vào bản năng. Thông thường họ còn thêm dầu thêm mắm, tô cành, điểm lá vào những tin tức ấy khiến cho trời sầu đất thảm và truyền đi càng xa càng thêm phần kỳ lạ, cho đến khi nào có một tin mới khác và chuyển mục tiêu sang một hướng khác mới thôi.

    Những cái đưa mắt liếc nhìn, cùng những lời thì thào to nhỏ của mọi người trong phường phố, vô hình trung bỗng trở thành một áp lực đối với vợ chồng Hồ Ngọc Âm, một thứ không khí khủng bố. Điều đó khiến Hồ Ngọc Âm vô cùng bốì rối, đồng thòi cũng làm cho Lê Quế Quế sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Sắc mặt Lê Quế Quê bạc trắng ra, ngồi vào mâm mà quên cả cầm bát. Thảo nào mà các nhà chính trị đã dùng dư luận làm vũ khí, trước khi họ làm một sự việc gì, đầu tiên bao giò họ cũng tung dư luận và tung tin đồn.

    Hồ Ngọc Âm đối với người chồng ngờ nghệch của mình, vừa buồn cười vừa tức giận:

    - Cụ ạ! Chồng người ta thì như cái cột trụ trong nhà, nên dù trời có sụp xuống nó vẫn chống lên được! Vậy mà trong nhà mình chỉ có một chút chuyện cỏn con như thế, cụ lại không bằng một người đàn bà, đến đũa đến bát cũng cầm không vững nữa.

    Với cặp mắt đầy khiếp sợ, và đầy kinh hoàng Quế Quế nói:

    - Ngọc Âm, anh, có lẽ vợ chồng mình không nghĩ thấu đáo tới chuyện rằng, trong xã hội mới này người ta không thích việc tư nhân xây dựng nhà lầu. Hồi trước cải cách ít năm, cũng đã có những nhà ăn nên làm ra, nhưng vẫn ăn nhịn để dành, thít dải rút cho thật chặt để tậu ruộng, mua đất, về sau đều bị quy sang thành phần địa chủ, phú nông...

    Hồ Ngọc Âm cắn môi, hỏi:

    - Theo anh, ta phải làm gì bây giò?

    Ánh mắt của Quế Quê nhấp nháy, nói:

    - Bây giờ nhân lúc tổ công tác còn chưa sờ đến gáy mình, vợ chồng mình phải nhanh chóng tìm cách tống khứ cái nhà này đi... cho dù phải bán rẻ mất vài ba trăm cũng được... Cái số vợ chồng mình chỉ được ở cái nhà gỗ rệu rạo, cũ nát mà thôi...

    - Cút! Đồ tồi! - Hồ Ngọc Ám vừa nghe dứt lời chồng nói đã đùng đùng nổi giận, đôi đũa trong tay đã quay đầu chọc vào đầu chồng, làm cho trán của chồng nổi lên hai điểm hằn đỏ. - Địa chủ với phú nông là họ phát canh thu tô, cho vay nặng lãi, thuê tá điền, bóc lột! Anh là cái thằng đồ tể, anh bóc lột ai? Em bán canh bánh tráng, em bóc lột ai? Bán nhà mới! Cái số phải ở nhà gỗ rệu rạo! Người đàn ông trong nhà mà nói ra được những lời như thế thật xấu hổ. Việc nặng việc nhẹ, đầu tắt mặt tối, xay bột đến mòn cả tay quay cối xay, cọ rửa đến mòn thủng cả trôn nồi, trôn chảo, mòn vẹt cả ngón tay, thế mà anh dám bảo đem bán ngôi nhà mới đi. Giời đất ạ! Chồng người ta gánh vác được cả thiên hạ, còn chồng tôi chỉ có giữ lấy cái nhà cũng không xong...

    Lê Quế Quế đưa tay lên xoa xoa trán, vết hằn của hai đầu đũa hơi rỉ máu. Bất chợt Hồ Ngọc Âm thấy được diều đó, khiến cô rân rấn nước mắt, chả biết ma trêu quỷ ám ra làm sao, chỉ mới nghe mấy lời đồn đại, vướng víu tý chút, vậy mà đã nóng nảy bẳn gắt, coi người không bằng đồng tiền, tính nết mình xưa nay đâu có thế! Cô và Quế Quế lấy nhau đã tám năm, chưa bao giờ phải to tiếng, đỏ mặt. Do chưa chửa đẻ gì, nên cô đã đem đổ tất cả tấm lòng yêu thương của người mẹ vào cho chồng, ngay đến cả cái tính nhu nhược của chồng cũng làm cho cô quý mến anh, mọi tình cảm của cô đối với anh lúc nào cũng thật đậm đà. Quế Quế vừa là chồng cô, vừa là anh em với cô, nhiều khi cô còn nghĩ bậy bạ cho anh là đứa con yêu thương của cô... Vậy mà hôm nay, cô đã làm cho trán chồng cô tứa máu! Cô vội vã buông đũa buông bát, đi vòng ra sau lưng anh, hai tay ôm lấy đầu chồng:

    - Anh ơi, sao anh đần thế không biết! Bị đau mà cũng không biết kêu lên một tiếng!

    Quế Quế không hề giận vợ, anh ngả đầu vào ngực vợ nói:

    - Cũng chẳng đau bao nhiêu, Ngọc Âm ạ, bảo rằng bán ngôi nhà mới chẳng qua cũng chỉ là tiện miệng anh nói thế thôi, quyền bán hay không bán là ở em... Em quyết định thế nào, anh nghe thế ấy, em bảo làm thế nào, anh sẽ làm thế ấy. Em là nhà của anh, là cửa của anh... Anh chỉ cần có em ở bên cạnh, chẳng còn có gì có thể làm anh sợ hãi được... Thật thế đấy, dù có phải đi ăn mày kiếm sống, anh cũng chẳng hề sợ hãi...

    Hồ Ngọc Âm ôm chặt lấy chồng, như có ý che chở cho anh tránh khối cái thế lực tàn bạo không hề trông thấy và bất giác, nước mắt cô chảy ròng ròng. Vâng! Cái thế giới của một người đàn bà nông dân bày hàng bán quán chỉ nhỏ nhoi có thế. Cô là mạng sống của chồng và chồng cũng là mạng sống của cô. Họ sống vì cái đó và cũng chính vì cái đó mà họ đã ăn nhịn, để dành, chịu khó chịu khổ vất vả bôn ba xuôi ngược.

    - Ngọc Âm ạ, em đừng tưởng lúc nào anh cũng nhát như con chuột... Thực ra gan anh cũng chẳng nhỏ lắm đâu. Nếu như cần bảo vệ ngôi nhà mới của chúng ta, em bảo anh đi giết một người nào đó, anh sẽ vung con dao chọc tiết lợn lên, mà vung con dao chọc tiết lợn, anh đã quen lắm rồi, sức mạnh lúc nào cũng đầy đủ.

    Quế Quế nhắm mắt, lơ mơ như người trong mộng, cuối cùng đã bật ra những lời không thèm coi giời đất ra cái thớ gì.

    Hồ Ngọc Âm vội vàng bịt miệng chồng mình lại:

    - Anh muốn chết hay sao thế? Sao anh lại dám nói những lòi rồ dại như vậy? Chuyện ấy anh ạ, nguyên chỉ nghĩ đến thôi cũng đã là có tội rồi, huống hồ anh lại dám nói toạc ra như thế...

    Nói xong, cô quay lưng, lau nước mắt.

    - Ngọc Âm! Ngọc Âm! Chẳng qua là anh nói để em nghe thôi, nói để em nghe thôi mà... đâu có phải là anh định đi giết ai đó thật...

    - Nhưng anh, mới chỉ là chuyện bán rẻ ngôi nhà mới, anh đã định đi giết người... mà mọi chuyện cũng chỉ là đôi lời đồn đại, đã làm anh lo sợ đến như thế... Nếu như sau này thực sự xảy ra một chuyện gì đó, anh làm sao mà vượt qua được.

    - Cuối cùng, chẳng qua cũng chỉ là một cái chết. Ngoài ra, còn làm gì nổi mình nữa nào?

    Quế Quế đã buột miệng nói ra một chữ “chết”, khiến Hồ Ngọc Âm thấy tối tăm mặt mũi. Thực tình cô muôn vung tay tát cho chồng một cái và cánh tay cô vữa vung tới nửa chừng đã thõng xuống. Vì bất chợt trước mặt cô như có một dải núi lớn chặn ngang, như đè xuống toàn bộ con người cô, cô cảm thấy những lời đồn đại đang ở mức độ cấp bách, nghiêm trọng. Là loại người ngoài mềm trong cứng, nên ngay lập tức cô nảy ra một ý định:

    - Em sẽ đi tìm Lý Quốc Hương, thử hỏi thẳng người nữ tổ trưởng công tác này xem có phải là định dẹp cái quán bán canh bánh tráng và thu con dao chọc tiết lợn của anh hay không, sẽ biết thực hư thế nào. Em nghĩ, tất cả những đồng chí công tác do cấp trên đưa xuống, đều là những người như ông Cốc, những người lúc nào cũng làm việc vì những người dân thường chúng mình và lúc nào cũng nói những lời đúng đắn...

    Lê Quế Quế nhìn vợ mình bằng cặp mắt vô cùng kính phục. Mỗi khi gặp chuyện gì đó, vợ anh bao giờ cũng là người có những ý kiến dứt khoát hơn anh, có những biện pháp thích hợp hơn anh và đồng thời bao giờ cũng biết cách giải quyết thật gọn ghẽ. Trong cái gia đình chỉ có hai nhân khẩu này, vị trí của người chồng và người vợ hình như đã được đảo ngược lại.

    Hồ Ngọc Âm chải đầu và vuốt lại quần áo, đồng thời nghĩ xem nên nói những gì với người nữ tổ trưởng ấy để không đến nỗi làm cho người ta khó chịu, hoặc để lại những lời trách móc. Giữa lúc cô định mở cửa bước ra, ngoài cửa bỗng vang lên giọng lanh lảnh của một người đàn bà:

    - Hồ Ngọc Âm! Hồ Ngọc Âm có nhà không đấy? Hôm nay là ngày phiên chợ cơ mà!

    Hồ Ngọc Âm vội vàng mở cửa, chợt nhìn đã thấy ngay bộ mặt tươi cười của tổ trưởng Lý Quốc Hương. Thật đúng là trời đất linh thiêng thật! Cô vội mời khách vào nhà. So với một năm trước, khi Lý Quốc Hương còn làm cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống, cũng có đẫy đà hơn một chút, nhưng trên da mặt cũng đã xuất hiện một vài nếp nhăn. Đồng chí tổ trưởng tổ công tác tuy phải lao tâm nhưng không phải lao lực và sống an nhàn thanh thản, ba mươi ba tuổi vẫn là gái chưa chồng, nên vẫn còn rất trẻ trung.

    Lê Quế Quế thấy tổ trưởng đến một mình, không mang theo những người giúp việc, lại ôn tồn vui vẻ, nỗi lo lắng trong lòng bỗng như giảm đi được một nửa. Anh vội vã pha trà, mang lạc, mang hạt dưa tới. Anh ném cho vợ một ánh mắt, rồi bẽn lẽn cười. Sau khi đã sắp xếp xong mọi thứ trên bàn, anh chỉ nói một câu: “Dạ, mời đồng chí tổ trưởng ngồi chơi”, rồi anh luồn ra cửa sau, vác lấy chiếc cuốc đi ra vườn rau.

    Tổ trưởng Lý Quốc Hương nhấp một ngụm trà, rồi nói theo kiểu nửa cười nửa không:

    - Anh ấy nhà chị, thấy khách lạ, đã vội vàng chạy mất y như một chàng rể mới, xấu hổ trốn chạy vậy.

    Mặt Hồ Ngọc Âm đỏ lựng lên, vừa mời Lý Quốc Hương bóc lạc, cắn hạt dưa, vừa nói:

    - Ôi chao, nhà em, đần thối đần thiu ra ấy mà!

    Nhưng đồng thòi cô lại nghĩ: Chị, cái mụ gái già không chồng, có thể cái của quý của đàn ông còn chưa biết mặt mũi, ngược xuôi của nó ra sao, mà lại nói “rể mới”, ra khỏi miệng được thì cũng lạ.

    - Hôm nay, tôi đại diện cho tổ công tác đặc biệt tới đây tham quan ngôi nhà mới. Tiện thể có vài việc muốn nói riêng với chị. Chị cứ yên tâm, chúng tôi đã quen người, quen việc và việc công sẽ làm theo phép công.

    Lý Quốc Hương vừa nói vừa bốc lấy một nắm hạt dưa, rồi đứng dậy.

    Nét mặt Hồ Ngọc Âm hơi bệch ra và đầu óc bỗng thấy căng lên, bởi lẽ hôm nay đến đây, mụ chẳng phải là người lương thiện, vì người lương thiện sẽ không đến. Mụ đến xem ngôi nhà mới, chắc chắn chẳng vì sự thích thú cá nhân trong chốc lát. Nhưng Hồ Ngọc Âm vẫn cố giữ vững tinh thần, đon đả cười, đưa Lý Quốc Hương ra khỏi cái nhà trọ tồi tàn cũ kỹ và mở đôi cánh cửa quét sơn đỏ của ngôi nhà mới. Vừa bước vào tới cửa Lý Quốc Hương đã ngửi thấy ngay mùi thơm của gỗ mới cùng với mùi dầu véc ni. Lý Quốc Hương đi một vòng xem xét tất cả các phòng từ phòng xép, phòng bếp, phòng kho cho tới chuồng lợn, chuồng gà, chuồng xí ở phía sân sau. Và miệng thì luôn luôn khen ngợi “Đẹp lắm”, “Khá lắm”. Sau đó lần theo cầu thang lên gác xem cái phòng ngủ rộng rãi sáng sủa, trong đó có kê một chiếc tủ đứng lớn, một chiếc giường chân cao, tủ lệch, bàn viết, bàn tròn, ghế bành, tất cả đều còn mới nguyên, đánh véc ni màu mận chín bóng lộn, cùng với bốn bức tường sơn trắng, làm toát lên một không khí đầm ấm, vui tươi. Miệng Lý Quốc Hương không còn thoát ra những lời “đẹp lắm”, “khá lắm” nữa, mà bây giờ hơi mím lại, đầy vẻ ngạc nhiên, lạ lẫm. Hồ Ngọc Âm vẫn một mực chăm chú tới mọi biểu hiện thay đổi trên mặt mụ ta, song vẫn không làm sao thấu hiểu được trong lòng mụ ta nghĩ gì, và ẩn giấu cái gì. Cuối cùng họ mở cửa bước ra ban công ngắm nhìn phong cảnh thị trấn. Lý Quốc Hương đứng tựa mình vào lan can, trông giống như một vị thủ trưởng đứng trên lễ đài duyệt binh. Mụ đứng trên lan can cao vượt lên như thế, mới nhìn thấy rõ những ngôi nhà cũ kỹ xám xịt, thấy ngôi nhà xiêu xiêu, vẹo vẹo và nóc nhà bằng gỗ bắp tựa trên những chiếc cột chống nghiêng nghiêng và mới thấy được sự khác biệt đáng kinh ngạc giữa ngôi nhà lầu này với những nhà xung quanh, chẳng khác gì con hạc đứng giữa đàn gà, cùng với sự khác biệt rất đậm nét giữa người giàu và người nghèo.

    Trở lại phòng ngủ, Lý Quốc Hương tự động ngồi xuống, trước chiếc bàn viết. Bàn viết đặt ngay bên cửa sổ, mặt bàn đánh véc ni bóng loáng, sáng như một tấm gương, soi rõ cả bóng người. Hồ Ngọc Âm đứng bên cạnh tiếp khách. Cô thấy nữ tổ trưởng đã mở cuốn sổ tay đặt trên bàn, chiếc bút máy trong tay đã vặn rời chiếc nắp ra.

    - Ngồi xuống, chị cứ hãy ngồi xuống cái đã nào. Rồi hai người chúng ta, nói chuyện...

    Khi ấy Lý Quốc Hương hình như đã trở thành chủ ngôi nhà mời Hồ Ngọc Âm ngồi xuống vậy.

    Hồ Ngọc Âm kéo một chiếc ghế đẩu ngồi xuống. Trước mặt người nữ tổ trưởng với cuốn sổ ghi chép đã mở trên bàn và vặn chiếc bút máy trong tay, Hồ Ngọc Âm bất chợt cảm thấy mình là người lép vế. Cho nên người nữ tổ trưởng ngồi trong chiếc ghế bành, còn cô ngồi trên một chiếc ghế đẩu vuông cho thích hợp.

    Lý Quốc Hương bắt đầu đi vào công việc:

    - Chị Hồ Ngọc Âm ạ, tổ công tác của huyện ủy chúng tôi tới thị trấn nay để tiến hành một phong trào vận động “Bốn thanh tra”. Điều đó chắc chị cũng đã nghe biết rồi. Để mở đầu phong trào vận động, chúng tôi cần phải nắm cho chắc về tình hình chính trị, kinh tế của từng hộ, từng gia đình. Chị ở đây không phải là nhà đầu tiên, mà cũng không phải hộ cuối cùng. Nói những lời thực thà với tổ công tác, cũng có nghĩa là nói những lời thực thà với Đảng, ý của tôi, chị hiểu chứ?

    Hồ Ngọc Âm gật đầu. Nhưng thực tình trong lòng cô mù mờ, mông lung, chẳng hiểu một chút nào hết.

    - Bây giờ, tôi hãy giúp chị tính toán sổ sách bước đầu, để xem xem chị thành khẩn đến mức độ nào. Nếu có gì sai thiếu chị có thể tự đề xuất.

    Lý Quốc Hương vừa nói vừa dùng cặp mắt lòng trắng, lòng đen phân biệt rất rõ ràng, nhìn Hồ Ngọc Âm một cái.

    Hồ Ngọc Âm lại gật đầu. Cô mơ hồ cảm thấy rằng, làm như thế lại là điều hay, tránh được cho mình khỏi phải tính toán lôi thôi. Giả dụ như người nữ tổ trưởng này, bắt mình phải tự tính toán, không biết chừng còn rách việc đến đâu. Hơn thế thái độ của nữ tổ trưởng, còn có thể gọi là biết điều, không giống như cách thức ăn nói dạy dỗ các phần tử loại 5 với cặp mắt sắc như dao, làm lạnh gáy mọi người.

    Lý Quốc Hương lại nhìn Hồ Ngọc Âm một lần nữa:

    - Tính từ nửa năm cuối của năm 1961, thị trấn Phù Dung bắt đầu chuyển chợ họp nửa tháng một phiên thành năm ngày một phiên. Như vậy có nghĩa là một tháng sáu phiên chợ, đúng không?

    Hồ Ngọc Âm vẫn gật đầu, không nói gì. Cô không hiểu được tại sao nữ tổ trưởng lại đi xa như thế không biết, hình như đang có ý lật lại hồ sơ một vụ án xưa cũ nào đó.

    - Cho đến cuối tháng 2 năm nay, tổng cộng là hai năm linh chín tháng. - Lý Quốc Hương tiếp tục nói, nhưng cặp mắt chị ta chăm chăm nhìn vào cuốn sổ - Như vậy tức là nói tổng cộng gồm ba ba tháng, tính ra là có một trăm chín tám phiên chợ, đúng không?

    Hồ Ngọc Âm ngớ người ra. Cô không còn gật đầu như trước nữa. Và cô bắt đầu có một cảm giác rằng, cô đang bị thẩm vấn.

    - Mỗi phiên chợ, số gạo làm bánh canh ước chừng năm mươi cân. Có người bảo rằng đây là nghề phụ của gia đình, thì chúng tôi cũng biết vậy, một cân gạo bánh canh đại khái là bốc được mười bát. Chị bán giá rẻ, bốc đầy, đủ định lượng, cái đó gọi là lãi ở chỗ bán nhiều. Các thứ phụ liệu, cùng bát đũa đều sạch sẽ, nước dùng cũng khá, nên đã thu hút được nhiều khách hàng. Như vậy một phiên chợ chị bán được khoảng năm trăm bát, như thế cũng có nghĩa là thu về được năm mươi đồng bạc, chỉ có hơn chứ không có kém. Một tháng sáu phiên chợ, chị thu nhập tất cả là ba trăm đồng. Trong ba trăm đồng bạc ấy, tôi tính cho chị thật rộng rãi là một trăm đồng tiền vốn, tính thế không thể gọi là ít được chứ? Như vậy là lãi ròng của chị mỗi tháng là hai trăm đồng! Tiện đây, tôi nói luôn một câu, sự thu nhập của chị đã đạt tới mức thu nhập của một vị thủ trưởng cấp tỉnh đấy. Một năm mười hai tháng lãi ròng của chị là hai ngàn bốn trăm đồng! Hai năm linh chín tháng, tổng cộng số lãi ròng đó lại là sáu ngàn sáu trăm đồng!

    Hồ Ngọc Âm không thể ngờ được rằng, mụ tổ trưởng này lại thay cô tính toán sổ sách chi tiết đến như thế! Sự thu nhập của cô đã đạt tới mức lương của một cán bộ đầu tỉnh, lãi ròng lên đến sáu ngàn sáu trăm đồng. Trời đất ơi, bản thân cô, chưa hề bao giờ, tính toán kỹ đến thế... Thật đúng là sét đánh ngang tai và lúc ấy cô tưởng rằng mình vừa bị sét đánh thật.

    - Vì là buôn bán vặt, nên tôi chưa từng tính toán như thế bao giờ, mà chỉ toàn là đại khái qua ngày, đúng là tiền bạc cũng kiếm được chút ít và cũng đã đổ vào cái nhà mới này hết cả rồi... Đồng chí tổ trưởng ạ, tôi mở cái quán nhỏ bán canh bánh tráng là có giấy phép kinh doanh, đã được nhà nước cho phép, không hề vi phạm pháp luật...

    - Chúng tôi đâu có nói là chị phạm pháp, và bóc lột!

    Nét mặt Lý Quốc Hương vẫn là cái vẻ cười mà không cười:

    - Ngoài cửa nhà chị chả dán vế câu đối “Phát xã hội chủ nghĩa hồng tài” đó sao? Nghe nói đôi câu đối ấy là do tay Tần Rồ, một phần tử loại 5 nghĩ ra viết ra. Chị chả phải lo lắng gì sất, tôi chẳng qua chỉ là đến nắm một chút tình hình cho đầy đủ chu đáo thế thôi.

    Tinh thần của Hồ Ngọc Âm đang từ chỗ lo sợ, bỗng như chuyển sang trạng thái đông cứng, mê muội, mắt nhìn đăm đăm xuống sàn gác, cắn chặt môi. Lý Quốc Hương thì ngược lại, không thèm đếm xỉa đến thái độ đó của cô và cũng chẳng quan tâm gì tới việc cô nín lặng chẳng nói được gì.

    Sắc mặt Lý Quốc Hương đanh lại, trong lúc ấy, thật đúng như đang thẩm vấn một ngươi đàn bà có những hành vi không chính đáng:

    - Còn có một việc nữa. Chủ nhiệm cửa hàng lương thực Cốc Yến Sơn, mỗi phiên chợ đã phê duyệt bán cho chị sáu mươi cân gạo tốt từ xưởng xay xát để chị làm bánh bán có đúng không?

    - Không! Không! Những cái thứ đó không thể tính là gạo được, đó là những thứ bỏ đi ở xưởng xay xát, toàn những đầu mày, tấm gãy. Mỗi phiên mua về đều phải chọn ra bao nhiêu là sạn, rồi sàng trấu, sảy bổi, nhặt đi thóc lép, sỏi đất. Hơn nữa, việc duyệt bán đầu mày tấm gãy của chủ nhiệm Cốc đâu phải chỉ có một mình tôi, rất nhiều đơn vị và tư nhân ở thị trấn đều được mua về để chăn nuôi... Mới đầu tôi cũng chỉ mua về để nuôi lợn, rồi sau mới tìm cách chế biến làm bánh bán...

    Vừa nghe tới chuyện chủ nhiệm Cốc của cửa hàng lương thực, Hồ Ngọc Âm đang trong tình trạng đông cứng, mê muội bất chợt thức tỉnh ngay lại, lớn tiếng biện hộ, tranh cãi. Ông Cốc là một con người tốt, dù rằng mình có phạm pháp, cũng không để liên lụy tới ông được.

    - Thì đấy, lúc nãy tôi tính rằng, mỗi phiên chợ chị chỉ làm năm mươi cân gạo bánh là đã trừ hẳn đi mười cân những thóc lép, trấu sạn, đất sỏi, thê là đủ rồi chứ gì. Tôi tính thế là quá rộng rãi rồi còn gì. Hơn nữa, người ta mua đầu mày, tấm gãy về là để vỗ lợn cho béo, bán cho nhà nước, nhưng chị mua đầu mày tấm gãy về lại chế biến thành thương phẩm, hàng hóa, nuôi khách hàng!

    Trong lời nói của tô trưởng Lý Quốc Hương chứa đựng đầy uy lực, vì thế mà ngay lập tức đã đè bẹp được Hồ Ngọc Âm. Sau đó, nữ tổ trưởng lại giữ nguyên giọng điệu cũ tiếp tục đọc những khoản mục khác trong sổ tay:

    - Một tháng sáu phiên chợ, mỗi phiên sáu mươi cân, hai năm linh chín tháng, vị chi đi một trăm chín tám phiên. Như thế có nghĩa là ông Cốc Yến Sơn chủ nhiệm cửa hàng lương thực đã phê duyệt, cung cấp cho chị số lượng gạo là một vạn một nghìn tám trăm tám mươi cân! Con số này là cái gì đây? Tất nhiên rằng, đây là một vấn đề khác, tuy cũng có liên quan tới chị, nhưng vấn đề chủ yếu không thuộc về phần chị ở đây...

    Tính toán xong xuôi, tổ trưởng Lý Quốc Hương, ghi thêm một dòng chữ vào trong cuốn sổ tay ghi chép của mình: “Đã đối chiếu với chính người bán canh bánh tráng Hồ Ngọc Âm. Chính xác, không sai sót”. Ghi xong liền đi ngay. Hồ Ngọc Âm đưa tiễn ra đến tận ngoài cửa chính. Lòng cô cồn cào như có một chảo dầu sôi, nên đến ngay một lời mời khách khí: “Tổ trưởng Lý hãy ăn một chút điểm tâm đã”, cũng không sao nói ra được.

    Đến tối, Hồ Ngọc Âm đem chuyện nữ tổ trưởng Lý Quốc Hương tính toán sổ sách với mình là hơn một vạn cân gạo, cùng số lãi ròng là sáu nghìn sáu trăm đồng ra nói với Lê Quế Quế. Cả hai vợ chồng đều bàng hoàng kinh hãi, thật đúng như những nhà giàu đương phải đối diện với cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai. Nhưng những nhà giàu trong xã hội cũ đều đã trở thành phần tử loại 5, song bọn họ là đồ chó thôi, cứt thối, thối đến tận cùng trời đất, điều đó không đáng sợ. Còn hai vợ chồng Hồ Ngọc Âm cũng kiếm được tý tiền trong xã hội mới, lẽ nào lại quy định lại thành phần và bị quy sang thành phần địa chủ mới, phú nông mới?

    Từ đấy, đêm đêm vợ chồng Hồ Ngọc Âm không sao chợp mắt được. Họ đều cho rằng cái số họ chỉ được ở trong những ngôi nhà gỗ rệu rã. Ở trong những ngôi nhà rệu rã cũ nát như vậy tuy có lo sợ về lũ trộm cắp đấy, nhưng lại có được cái cảm giác an toàn về chính trị. Họ chẳng còn thiết nghĩ tới việc có mang hay không có mang nữa, bụng to hay bụng bé nữa, mà họ còn mừng thầm rằng mình không có giống dòng nôi dõi, nếu không những đứa bé ấy, cũng lại là phần tử loại 5 y như cha mẹ chúng, cái đó mới thật là sống mà mang tội mang nợ.
     
    zoomvietnam, tducchau and vinhhoa like this.
  13. vinhhoa

    vinhhoa Lớp 7

    Truyện này nổi tiếng được dựng thành phim "Phù Dung Trấn" vào năm 1987. Địa điểm được quay phim vì thế mà đổi tên thành Trấn Phù Dung, vốn tên là thôn Vương trước đó.

    Mong rằng bác hoi-ls tiếp tục truyện này. Xin cảm ơn.
     
    tran ngoc anh thích bài này.
  14. tran ngoc anh

    tran ngoc anh Cử nhân

    Tìm thử bộ phim trên Youtube mà không thấy :D
     
    vinhhoa thích bài này.
  15. vinhhoa

    vinhhoa Lớp 7

    Bản này có phụ đề tiếng Anh nhé bạn Ngọc Anh.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    tran ngoc anh thích bài này.
  16. tran ngoc anh

    tran ngoc anh Cử nhân

    Khung hình bị cắt mất phần phụ đề tiếng Trung thành ra gần như 20:9 luôn :D
     
  17. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    GÀ VÀ KHỈ


    TỐI HÔM ĐÓ, TỔ CÔNG TÁC CỦA HUYỆN ỦY MỞ ĐẠI hội quần chúng lần thứ nhất. Đại hội được tiến hành trên bãi đất trống, ngay trước sân khấu ở chợ. Chiếc đèn măng sông rên rỉ như người bị bệnh hen được sửa chữa lại, treo lên chính giữa sân khấu, soi sáng ngời ngời cả trên sân khấu lẫn ngoài sân, và làm bệch bạc những khuôn mặt tụ tập ngoài sân. Có điều khác với trước kia, là những nhân vật thuộc hàng đầu của thị trấn đều không ngồi trên sân khấu lễ đài, Cốc Yến Sơn chủ nhiệm cửa hàng lương thực, bí thư đại đội sản xuất Lê Mãn Canh, trưởng trạm thuế vụ, vân vân, đều phải tự mình kiếm lấy chiếc ghế thấp, hoặc kiếm một viên gạch vỡ, lót báo lên mà ngồi dưới sân khấu. Hồ Ngọc Âm và Lê Quế Quế ngồi nép vào phía sau những người ấy, như muốn tìm lấy một chỗ dựa, một chỗ bao che. Ngồi trên sân khấu chỉ có nữ tổ trưởng Lý Quốc Hương cùng hai người trong tổ. Nhân dân thị trấn rất nhạy bén với sự thay đổi này, vừa thấy kỳ kỳ lạ lạ, vừa băn khoăn lo lắng, nên tất cả đều đổ dồn cặp mắt lên sân khấu. Có người còn cố ý đi vòng hết một vòng sân bãi, chen vào chân sân khấu, để ngó ngó xem ông “Đại Binh phương Bắc” và bí thư Lê Mãn Canh ngồi ở vị trí nào.

    Đại hội cũng khác những đợt trước ở chỗ, nữ tổ trưởng Lý Quốc Hương chủ trì đại hội, không có đọc lời khai mạc, giống như những người đứng vào vị trí hàng đầu của thị trấn trước kia mà nói ngay vào sự kiện lớn của tình hình quốc tế, rồi chuyển sang những sự kiện lớn của tình hình trong tỉnh, trong huyện, sau đó là tình hình những sự kiện lớn của thị trấn này, cuối cùng mới nói tới cái ý nghĩa của đại hội này, và đi vào mấy vấn đề cụ thể: Đầu tiên là một tổ viên trong tổ công tác, tuyên đọc ba bản thông báo của tỉnh, của vùng và của huyện.

    Thông báo của tỉnh là: “ở một địa phương nọ, có một phần tử xấu, xuất phát từ bản chất giai cấp phản động, thù hận Đảng và nhân dân, nên đã điên cuồng chống đối cuộc vận động “bốn thanh tra”, đã xúi giục, kích động một số quần chúng lạc hậu, bao vây, tấn công những đội viên của đội công tác, tội trạng rất nghiêm trọng, nên đã bị trừng trị mười lăm năm tù giam theo luật pháp”.

    Thông báo của vùng là: “Ở huyện X có một tên đảng ủy viên Đảng ủy công xã, kiêm bí thư chi bộ đại đội sản xuất, trong mấy năm nay, đã lợi dụng chức quyền để bao che cho bọn địa chủ, phú nông, phản động, và bọn phái hữu đã làm nhiều việc vô cùng bậy bạ. Khi tổ công tác đến nơi, đóng lại, hắn đã làm ầm ĩ, đập bàn quăng ghế, cự tuyệt mọi cuộc bàn bạc, thái độ vô cùng hung hăng, càn rỡ, sau khi nghiên cứu, đã quyết định cách hết mọi chức vụ trong Đảng cũng như ngoài Đảng, khai trừ đảng tịch, giao cho quần chúng quản chế lao động”.

    Thông báo của huyện ủy như sau: “Ở công xã X, có một người bán quán mà trước kia đã làm nghề kỹ nữ, đã đầu cơ buôn bán làm giàu nhanh trong một thời gian dài, và dùng tửu sắc để lôi kéo, hủ hóa cán bộ địa phương, để mong sao lọt lưới trong cuộc vận động này. Sau khi được phê chuẩn, đã đưa người đàn bà bán quán này đi đấu tố lưu động trong phạm vi toàn công xã, để giáo dục quảng đại cán bộ, đảng viên, đoàn viên...”.

    Sau khi đọc xong ba bản thông báo, mọi người đã nhận ra ngay sự bóng gió đang lảng vảng bên mình, nên ai nấy đều câm như thóc và hình như vừa có một trận băng tuyết đột ngột tràn tới, làm cho tất cả mọi ngươi tham gia đại hội đều đông cứng cả lại. Cốc Yến Sơn, Lê Mãn Canh cùng mấy nhân viên hàng đầu vẫn giải, quyết mọi việc trong thị trấn, đều phải há miệng trợn mắt kinh ngạc, giống y như những người câm.

    Đột nhiên, một tổ viên của tổ công tác, thét lên như băng tan tuyết lở:

    - Hãy dẫn tên Tần Thư Điền phần tử phái hữu, giai cấp tư sản lên sân khấu!

    Ngay lập tức Vương Thu Xá và một dân quân cốt cán, mỗi người một bên, như xách một chiếc bao tải, quăng Tần Thư Điền lên sân khấu. Tất cả hội trường rộ lên một lát, rồi sau lại trở lại sự tĩnh lặng nghiêm túc. Tần Thư Điền buông thõng đôi tay, đầu cúi xuống, đứng bơ vơ trước sân khấu, chiếc đèn măng sông sáng chói khiến anh không sao mở được mắt. Ánh sáng đèn hất đổ chiếc bóng gầy guộc lên ván sàn sân khấu, làm thành một vùng tăm tối, trông như một bóng ma.

    Lý Quốc Hương vẫn ngồi bên chiếc bàn bát tiên duy nhất trên sân khấu, lúc ấy mới đứng dậy đi ra phía mép sân khấu, vuốt vuốt lại mấy sợi tóc xõa xuống trước trán theo thói quen, chỉ vào Tần Rồ, và nói bằng thứ giọng đặc sệt địa phương, một cách rõ ràng mạch lạc và hòa nhã:

    - Đây là một con người mà danh tiếng nổi như cồn ở thị trấn Phù Dung ta, đó là Tần Rồ. Những người bần nông và trung nông lớp dưới, cùng với quần chúng cách mạng đều hiểu được rất rõ rằng sự thù hận đối với bọn địa chủ, phú nông cũ. Nhưng đối với kẻ địch của giai cấp này, mọi người thù hay không thù? Đặc biệt là xin có một lời hỏi các vị cán bộ nhà nước, những đảng viên cộng sản, những đoàn viên thanh niên, các vị cho rằng Tần Thư Điền là thơm hay là thối đây? Một kẻ thù của giai cấp như vậy, trong thời kỳ đói khổ ba năm, đột nhiên lại trở nên con người hùng của cả vùng thị trấn Phù Dung này. Hắn khoe khoang những văn chương chữ nghĩa, những đàn phách, hát ca, vô cùng sôi động. Hàng năm về mùa đông các gia đình xã viên tổ chức cưới hỏi, cùng những công việc vui mừng khác, mời ban nhạc, trong đó có hắn. Hàng năm vào ngày Tết Nguyên đán, tết nguyên tiêu, đại đội sản xuất của thị trấn tổ chức những cuộc rước đèn, múa sư tử long trọng, chúc mừng năm mới, đều không thể không có mặt hắn. Trong những ngày thường, gặp mặt hắn trên đường trên phố, trong số các vị có bao nhiêu người vẫy gọi, chuyện trò với hắn, và mời hắn hút thuốc lá? Ở ngoài đầu bờ, mặt ruộng, đã có biết bao nhiêu người nghe hắn kể những chuyện đồi bại không bao giò dứt, những câu chuyện hắn mượn xưa chửi nay? Những đứa trẻ trong nhà mọi người, những đứa bé học trò chưa từng bị áp bức bóc lột, đã có bao nhiêu đứa gọi hắn là “Chú Tần” hoặc “Bác Tần”?

    Lý Quốc Hương không cao giọng, mà bình thản thường thường, nói năng hết sức khúc chiết, để đặt ra những câu hỏi. Tất cả không khí của hội trường hầu như ngưng đọng lại, và nó tĩnh lặng đến mức người ta tưởng rằng không còn ai thở nữa. Cốc Yến Sơn, Lê Mãn Canh và vợ chồng Hồ Ngọc Âm ngồi bên dưới sân khâu mà có cảm tưởng như mình đang ngồi giữa một trận động đất nào đó.

    Lý Quốc Hương tiếp tục nói, không nhanh không chậm, và giọng điệu, cứ như nói chuyện thân mật về gia đình nhà cửa vậy:

    - Những việc kỳ quái ở ta đây nhiều lắm lắm. Hỡi các đồng chí, hỡi các anh em bần nông và trung nông lớp dưới, hỡi bà con xã viên...

    Rõ ràng rằng nghệ thuật đấu tranh của chị ta đã thu được thành công. Thấy được năng lực kích động quần chúng và tạo không khí khống chế của mình, chị ta vô cùng đắc ý.

    - Trước đây không lâu, trong thị trấn, một kẻ bán quán đã dựng lên được cả một ngôi nhà lầu. Có người đã vạch ra rằng, ngôi nhà lầu ấy đã đàng hoàng ăn đứt “Cửa hàng buôn Mậu Nguyên” và “Cửa hàng muối Hải Thông” trước giải phóng trong thị trấn ta. Tiện đây xin nhắc một điều, cái quán bán canh bánh tráng ấy trong mấy năm gần đây đã thu được bao nhiêu lời lãi? Và cả tiền kiếm được ấy là lấy của ai? Mụ ta, lấy cái số gạo làm bánh bán năm ngày một phiên chợ ấy từ đâu? Tất cả những cái đó, ta tạm thời chưa nói tới ở đây. Đôi câu đối dán trên cánh cửa của ngôi lầu mới, là ai viết đấy? Tần Thư Điền, hãy đọc lại một lần cho mọi người cùng nghe.

    Tần Rồ hơi hơi ngẩng đầu lên, nhìn chéo sang người nữ tổ trưởng, đáp:

    - Dạ, thưa, đó là do con viết, vế trước là: “Chồng vợ cần cù, được phát hồng tài từ xã hội chủ nghĩa”, vế sau là “Dân cư sơn trấn, tô thêm vẻ đẹp cho công xã nhân dân”. Bức hoành là...

    Lý Quốc Hương phất tay về phía Tần Rồ, ra lệnh cho anh câm miệng, đồng thời hơi nâng giọng cao lên nói:

    - “Chồng vợ cần cù được phát hồng tài từ xã hội chủ nghĩa”. Đấy, mọi người đã ngửi thấy cái khí vị phản động chưa? Xây dựng xã hội chủ nghĩa làm sao cá nhân lại phát tài? Xưa kia người ta nói: “Người không buôn bán không giàu, ngựa không cho cỏ đêm không béo”, vậy mà hắn lại nêu ra cái khẩu hiệu vừa phản động vừa làm mê hoặc lòng người “phát hồng tài”. Đó chính là sự phản động đối với nền kinh tế tập thể của công xã nhân dân! Bây giờ trong thị trấn Phù Dung chúng ta, kẻ giàu thì xây dựng nhà lầu, còn người nghèo thì bán đất, điều đó muốn nói cái gì đây? Mọi người hãy cứ thử suy nghĩ kỹ mà xem; các đồng chí ạ. Câu đối còn cả vế sau của nó nữa: “Dân cư sơn trấn tô thêm vẻ đẹp cho công xã nhân dân”, thì thật lại càng trắng trợn hơn bao giờ hết! “Dân cư sơn trấn” là dân cư thế nào đây? Đó là những dân, những hộ bần nông và trung nông lớp dưới, cơ bản, chân chính, hay là những dân xuất thân có thành phần phức tạp cùng với những quan hệ rối rắm, bát nháo trong xã hội? Theo như phản ánh, cái dân này ngay từ những năm 50 đã phỉ báng miệt thị chính sách nông thôn của chúng ta và đường lối giai cấp của chúng ta:

    Biếng lười bẻm mép,

    Cấp trên cậy trông!

    Sản xuất gắng công,

    Cấp trên bỏ mặc!

    Thừa tiền thừa thóc,

    Cấp trên phê bình!

    Những câu đó đâu chỉ phải là những lời nói lạc hậu, lung tung bừa bãi? Lẽ nào lại để cho những gia đình này tô thêm vẻ đẹp cho công xã nhân dân? Công xã nhân dân là thiên đàng, là lạc viên, bản thân nó đã vô cùng đẹp đẽ rồi, cần gì đến cái chế độ tư hữu làm đẹp thêm cho xã hội chủ nghĩa. Cái đó có ý muôn lật đổ! Thưa các đồng chí, điều đó là phản xã hội chủ nghĩa, là phản Đảng. Đôi câu đối phản động ấy, đã dám công nhiên viết trên giấy hồng điều dán trên cửa ngõ của thị trấn chúng ta! Chủ nhân của ngôi lầu mới đã đến đây chưa đấy? Đôi câu đối này không được bóc đi, mà phải giữ lại, để đấy làm tài liệu phản diện, để mỗi người hàng ngày phải nhìn thấy nó ba lần. Thưa các đồng chí! Chúng ta chớ có coi thường việc viết lách với vẽ vời, đó chính là một loại vũ khí, một loại thủ đoạn của giai cấp thù địch thường dùng tấn công vào Đảng, vào xã hội chủ nghĩa đấy!

    Tần Rồ nghe đến đây, chừng như muốn phản đối liền ngẩng đầu lên nhìn Lý Quốc Hương. Vương Thu Xá vẫn đứng canh chừng ở một bên, ngay lập tức đã lấy tay đập một cái thật mạnh vào gáy, rồi ấn đầu Tần Thư Điền xuống. Bên dưới sân khấu, ngay tức khắc bật lên mấy tiếng thét của những cốt cán phong trào:

    - Tần Rồ không thành khẩn! Bắt nó quỳ xuống!

    - Tần Rồ quỳ xuống!

    - Tần Rồ không chịu quỳ! Chúng ta có chịu để như thế không?

    Tất cả hội trường như lắng lại một phút, rồi bắt đầu có phản ứng.

    - Không!

    Tần Rồ sợ hãi run rẩy, đưa mắt xuống phía dưới sân khấu nhìn bí thư chi bộ đại đội Lê Mãn Canh có vẻ như cầu cứu. Lê Mãn Canh cúi đầu, làm sao có thể đáp ứng được cái ý cầu cứu ấy? Phía sau bí thư Lê Mãn Canh là hai vợ chồng “cô Phù Dung” lại càng rụng rời, bay hồn lạc phách, ngơ ngác nhìn xung quanh. Đôi đầu gối của Tần Rồ như mềm nhũn ra, rồi “thức thời” vội vàng quỳ sụp xuống.

    - Tần Thư Điền! Anh hãy đứng dậy đi!

    Lý Quốc Hương phảy tay, nói điều đó, khiến cho mọi người đều thấy bất ngờ. Điều đó cũng chẳng lấy gì làm lạ, vì những cán bộ từ cấp trên phái xuống bao giờ cũng là những người nắm vững chính sách.

    Theo lời, Tần Rồ đứng dậy. Anh đứng lại theo tư thế trước đó, mặt ngoảnh ra phía quần chúng với đôi tay buông thõng, cúi đầu nhận tội. Có điều là trên hai ông quần, chỗ đầu gối, có thêm hai đám bụi đất rõ mồn một.

    Lý Quốc Hương nói:

    - Tần Thư Điền, bây giờ mọi người tiếp tục đấu tố anh. Con mắt của quần chúng rất sáng suốt, sẽ bóc trần lớp sơn vẽ vời của anh ra. Các vị bô lão ở thị trấn, chắc đều biết câu chuyện của những hảo hán Lương Sơn Bạc, trong đó có một hảo hán tên là Tiêu Nhượng, còn được gọi là Thánh Thủ thư sinh (1). Có đúng vậy không? Tần Thư Điền ở đây cũng là một vị hảo hán, đã được một số cán bộ cơ sở coi như một “Thánh Thủ thư sinh”. Chúng ta thử xem xem nó như thế nào, trên tất cả các bức tường trong phố, trong chợ, trên đồi, và trên cả những vách núi của đại đội chúng ta, chỗ nào cũng viết những khẩu hiệu: “Toàn Đảng dốc lòng làm đại công nghiệp”, “Ba lá cờ hồng muôn năm”, “Nông nghiệp lấy lương thực làm cương lĩnh, công nghiệp lấy gang thép làm cương lĩnh”, “Nhất định giải phóng Đài Loan” vân vân. Những khẩu hiệu lớn như thế đều được đẻ ra từ tay bút của ai vậy? Nó được đẻ ra từ tay bút của một phần tử loại 5! Hàng trăm hộ ở thị trấn Phù Dung chúng ta, lẽ nào đều là những người mù chữ, đến nỗi không tìm đâu ra được một người biết viết khẩu hiệu, biểu ngữ? Cái đó là nâng uy tín của ai lên và giảm chí khí của ai xuống? Tần Thư Điền, anh hãy nói xem, cái nhiệm vụ vinh quang đó, do ai giao cho anh?

    Tần Rồ rụt cổ, rúm ró lại, liếc mắt nhìn bí thư chi bộ đại đội sản xuất Lê Mãn Canh đang ngồi ở phía dưới sân khấu:

    - Dạ, dạ, do... do... bí... bí...

    Lý Quốc Hương vung tay, kịp thời ngăn chặn Tần Thư Điền lại.

    - Lúng ba lúng búng, trong đầu có quỷ ám phải không? Thôi!

    Lý Quốc Hương biết cách thêm dầu, bớt củi, để điều chỉnh ngọn lửa ở hội trường. Tiếp đó, liền đưa ra một vấn đề khác làm rụng rời hồn phách mọi người:

    - Tần Thư Điền, bây giò trước mặt quảng đại bần nông, trung nông lớp dưới và quần chúng cách mạng đây, anh hãy khai rõ về thành phần giai cấp của anh.

    Tần Rồ nói:

    - Thành, phần xấu! Con là thành phần xấu!

    - Được! Một phần tử xấu hả? Thưa các đồng chí! Hôm nay tổ công tác đến đây để vạch trần âm mưu của hắn ra...

    Khi ấy, Lý Quốc Hương giống như một bộ loa phóng thanh mở hết cỡ, cất giọng lanh lảnh tuyên bố:

    - Căn cứ vào tài liệu mà chúng tôi đã điều tra bên trong và sưu tập bên ngoài, Tần Thư Điền không phải là một phần tử xấu, mà là một kẻ có tội trạng nghiêm trọng, và là một phần tử cực hữu đã biên đạo và dàn dựng những màn ca múa phản động tấn công vào Đảng, vào chủ nghĩa xã hội. Hắn đã từ một phần tử phái hữu bị thanh lọc và khai trừ ra khỏi mọi chức vụ bỗng biến thành một phần tử xấu chỉ có quan hệ bất chính với đàn bà con gái. Cái việc hay ho này do ai mó tay vào đây? Danh sách của những phần tử loại 5, đồn công an huyện đã nắm rất chắc. Đây là một hành động vi phạm luật pháp hết sức nghiêm trọng.

    Nói tới đây Lý Quốc Hương chợt dừng lại. Chị ta giống như những người báo cáo, trình bày có kinh nghiệm, bao giờ cũng dành ra một khoảng trống ngắn ngủi, để cho ngươi nghe suy ngẫm, và tiêu hóa kịp một vấn đề cực kỳ quan trọng nào đó, hoặc là để cho người nghe kịp ghi lấy những lời vàng ngọc, hay ho, gối đầu giường.

    Cả hội trường bỗng xôn xao lên những lời bàn tán, cùng những tiếng tặc tặc đầy kinh ngạc.

    - Thưa các đồng chí bần nông và trung nông lớp dưới, cùng các đồng chí xã viên!

    Lý Quốc Hương hạ thấp giọng lấy lại cái cung cách rủ rỉ chuyện trò đặc sệt tiếng địa phương lúc ban đầu:

    - Ở thị trấn Phù Dung chúng ta còn khối chuyện kỳ lạ. Ví như cái tên Tần Thư Điền này, hắn còn có một chức vụ đặc biệt, ấy là hắn được làm đầu mục tất cả các phần tử loại 5 trong toàn đội sản xuất. Như vậy có nghĩa là hắn là giám thị cai quản tất cả các phần tử loại 5. Thử xem xem, những cán bộ nào của chúng ta đã tín nhiệm và trọng vọng cái phần tử phái hữu này? Giám thị và cải tạo các phần tử loại 5 vốn là quyền lợi và chức trách của bần nông và trung nông lớp dưới chúng ta đây. Nhưng mà, một thiểu số cá biệt cán bộ chúng ta đã đem quyền lợi và chức trách đó dâng lên cho giai cấp thù địch. Thưa các đồng chí, vấn đề này là vấn đề gì vậy? Đây là một sự đánh mất lập trường nghiêm trọng trong việc phân biệt địch ta. Những chuyện kỳ quái như trên đều đã có ở thị trấn chúng ta. Hôm nay, tổ công tác chúng tôi cho giải Tần Thư Điền tới đây, coi như một cái bia sống, làm bài học phản diện, đồng thời cũng làm một tấm gương, cho một số cán bộ, đảng viên, thử soi mặt mình xem và để xem xem cặp mông của họ ngồi ở phía bên ấy ra làm sao?

    Tiếp đó, Lý Quốc Hương ra một mệnh lệnh: Hô khẩu hiệu, áp giải tên phái hữu Tần Thư Điền ra khỏi sân khấu! Tất cả các phần tử loại 5 cùng gia đình của họ, nhất loạt bị đuổi ra khỏi cuộc họp.

    Trong những tiếng hô khẩu hiệu rinh tai nhức óc: “Đả đảo Tần Thư Điền”, “Tần Thư Điền không cúi đầu nhận tội, chỉ có một con đường chết”, “Thành khẩn được khoan hồng, kháng cự bị trừng trị”, Tần Thư Điền đã bị Vương Thu Xá cùng một người dân quân áp giải ra khỏi hội trường, những người trong gia đình các phần tử loại 5, cùng con cái họ lao xao rời khỏi cuộc họp. Sau đó, tổ trưởng tổ công tác Lý Quốc Hương nói thêm một hồi nữa, coi như những lòi kết thúc đại hội:

    - Bây giờ, giai cấp thù địch đã rời khỏi cuộc họp của chúng ta, tôi còn cần bổ sung thêm một điều...

    Chị ta hất mái tóc với một dáng điệu thật đẹp mắt, giọng nói cũng trở nên vô cùng hòa nhã:

    - Thưa các đồng chí bần nông, trung nông lớp dưới, thưa các đồng chí xã viên! Cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, phức tạp và sâu sắc, tao sống mày chết, thế là đã bắt đầu triển khai ở thị trấn Phù Dung ta. Việc chúng tôi làm, tuy bên ngoài gọi là “bốn thanh tra”, nhưng tổ công tác sẽ kề vai sát cánh cùng với tất cả, dốc toàn bộ sức lực vào cho cuộc đấu tranh này. Chúng ta có một số đảng viên, một số cán bộ, một số xã viên, những năm trước kia đều phải sống trong đói khổ do có một số chính sách bị để cho lơi lỏng, hoặc nhiều hoặc ít đều có phạm vào một số sai lầm này, hay một số sai lầm khác, điều đó không quan trọng gì. Phương châm của chúng ta là: Có sai nhận sai, có tội nhận tội, tham ô trả lại, rửa ráy tắm táp, quay đầu về chính nghĩa. Nhưng nếu có người không chịu quay đầu thì sao? Khi đó phải căn cứ vào sự nặng nhẹ và dùng kỷ luật Đảng, pháp luật nhà nước để ngăn chặn. Nếu không, bọn địa chủ, phú nông, phản động, phái hữu, phần tử xấu cùng nhảy xô ra, cấu kết bên trong Đảng với bên ngoài Đảng, trong khi bần nông cùng trung nông lớp dưới chúng ta và cán bộ, quần chúng bị tê liệt hết đi, không hỏi han, không chất vấn, thì chang bao lâu Đẳng sẽ biến chất, đất nước biến màu và giai cấp địa chủ, tư sản lại lên đài trở lại mất!

    Sau cuộc họp, Hồ Ngọc Âm và Lê Quê Quế về đến ngôi nhà trọ Hồ Ký cũ kỹ, mà vẫn chưa hoàn hồn, lòng dạ nóng như thiêu như đốt. Cả hai vợ chồng đều cảm thấy rằng, đã có một ngôi hung tinh đang lơ lửng treo trên bầu trời, chiếu đúng vào nóc ngôi nhà mới của họ. Ngôi nhà lầu mới, họ chưa được dọn đến để ở lấy một đêm, vậy mà bỗng trở thành tai vạ. Nay dù có tình nguyện đành lòng ở lại ngôi nhà gỗ cũ nát, cũng sẽ thiếu mất sự yên ổn cần thiết. Điều làm cho cả hai vợ chồng cô lo lắng xót xa là xem ra trong phong trào đấu tranh lần này, ông chủ nhiệm Cốc Yến Sơn và bí thư chi bộ Lê Mãn Canh chắc chẳng thoát khỏi bàn tay mụ nữ tổ trưởng, họ là những tượng phật làm bằng đất sét, phải qua sông, thật khó bảo toàn được hình hài. Như thế cũng có nghĩa là không còn cách gì chống đỡ cho người bên cạnh.

    Lê Quế Quế sợ hãi đến nỗi người cứ run lên cầm cập, chỉ còn biết trợn tròn cặp mắt đầy bấn loạn, nhìn vào vợ mình.

    Cuối cùng thì Hồ Ngọc Âm vẫn còn giữ được chút ít tinh thần, cô ngồi thừ trên chiếc ghế trúc tư lự. Ôi! Nếu như một nhà chỉ có hai nhân khẩu mà lá gan của người nào cũng như lá gan của con chấy cái, như con chuột thấy bóng mèo, thì ôi thôi, mỗi người hãy kiếm lấy một đoạn dây thừng, rồi treo cổ lên mà tự tử.

    Hồ Ngọc Âm, mắt chăm chắm nhìn ra cửa, hạ thấp giọng nói:

    - Bây giờ phải thế này, sự việc không thể lần lữa được nữa rồi. Không biết tối nào họ sẽ đến khám nhà. Thôi ta đành đem cái khoản tiền còn dành dụm lại được, gửi sang anh Lê Mãn Canh nhờ anh ấy giữ hộ. Còn cất giấu nó ở trong nhà, trước sau rồi cũng thành tai vạ.

    Lê Quế Quế nhắc nhở vợ mình:

    - Anh Mãn Canh? Thế em không nghe thấy gì sao, hình như anh ấy bị liên quan, sai lầm trong sự việc Tần Rồ... Trong báo cáo của nữ tổ trưởng, có đến già nửa chuyện là nhằm vào anh ấy, đó là cách giết gà, bắt khỉ xem...

    - Không lo, anh ấy là người trong Đảng. Quá lắm cũng chỉ bị vài câu phê phán, viết một bản kiểm điểm, nhận thiếu sót là xong. Liệu họ dám làm gì một quân nhân phục viên như anh ấy: Anh lo gì...

    - Dào! Lo là lo làm liên lụy đến người khác ấy chứ...

    - Anh ấy là anh nuôi của em. Mình là hộ đơn thương độc mã, chỉ có anh ấy là người thân thích có thể nhờ cậy được.

    - Thôi được. Cái quán canh bánh tráng của mình cũng chả phải đợi họ đến dẹp bỏ, mình tự dẹp bỏ lấy cho xong. Em ạ, còn em, cũng phải đi đâu đó để tránh cái tai, cái vạ này đi. Anh có một người họ xa đang ở Tú Châu, Quảng Tây, mười mấy năm nay chưa hề đi lại thăm nhau, nên người ở thị trấn không ai biết được.


    (1) Người học trò có bàn tay Thánh. (N.D.).

     
    vinhhoa thích bài này.
  18. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    BÍ THƯ LÊ MÃN CANH


    MẤY NGÀY GẦN ĐÂY, TRONG NHÀ BÍ THƯ CHI BỘ Lê Mãn Canh lúc nào cũng thấy ầm ĩ khóc lóc làm lộn tùng bậy hết cả lên. Vợ Lê Mãn Canh thuộc loại người chém to kho mặn, biệt hiệu là “Ớt phật thủ” (1), ở đội sản xuất làm lụng như trâu, ở nhà lo liệu việc gia đình, chăn nuôi chó lợn, lại là một người đàn bà đanh đá chua ngoa. Bắt đầu từ năm ngoái, khi đại hội xã viên, Lê Mãn Canh bắt đầu tuyên truyền việc kết hôn muộn, sinh đẻ có kế hoạch, nói đến khô cả nước bọt, nhưng vợ anh, chị “Ớt phật thủ” ở nhà lại mắn đẻ như thỏ, chị đẻ một loạt sáu lần, nuôi được bốn, toàn là con gái, bốn cô con gái đứng xếp hàng một, trông như bốn bậc thang. Có xã viên nói đùa vợ anh:

    - Chị bí thư đứng đầu trong việc sinh đẻ có kế hoạch.

    Chị chống đôi tay lên eo lưng to bè bè đáp:

    - Tôi mà dẫn đầu á? Cứ thoải mái đẻ theo cái bụng dạ tôi ấy à, tôi đã đẻ ra được đến một tiểu đội nữ dân quân rồi! Người ta nuôi con, coi như phải vượt quỷ môn quan, còn tôi, lại dễ dàng như bước qua bậu cửa.

    Cái năm Lê Mãn Canh mới cưới vợ, anh cũng có ý chê vợ là người thô kệch, chân tay cứ nần nần ra, vén ống tay áo lên, xắn ống quần lên, trông cứ như một đô lực sĩ nam giới vậy. Nếu đem ra so sánh với Hồ Ngọc Âm, quả là có thua kém nhiều nên anh vẫn đem lòng lưu luyến vẻ đẹp của Hồ Ngọc Âm. Nhưng các cụ đã bảo: “Tự cổ hồng nhan đa bạc mệnh”, những cô con gái sinh ra mà quá xinh đẹp, thường là phận bạc. Liệu Hồ Ngọc Âm có được một số phận tốt đẹp hay không? Anh là một quân nhân phục viên, làm bí thư chi bộ đại đội sản xuất chứ đâu phải một ông thầy bói, nên biết sao được, sau này sẽ xảy ra những chuyện gì? Kể từ khi vợ anh sinh hạ cho anh được hai nàng “thiên kim tiểu thư”, anh đã dần dần cảm thấy tính “ưu việt” của vợ mình, việc đồng, việc nhà, nuôi con, cơm nước, giặt giũ, hình như chị không biết mệt mỏi là gì, vậy mà đôi khi lại còn ư ử hát bài “Xã viên đều là hoa hướng dương”. Hàng ngày trời chưa sáng, đã dậy, đêm ngủ cũng ngáy như chồng, chẳng khác gì một con trâu cái lực lưỡng. Sau đó lại đẻ tiếp một mạch bốn đứa con nữa, vậy mà chẳng thèm biết đến cái cửa phòng y tế của công xã là gì!

    - Ôi dào, làm chồng một người đàn bà như thế mà lại hóa ra hay, đúng là nhẹ cái xác thằng chồng được bao nhiêu thứ... - Cuối cùng Lê Mãn Canh nghĩ như vậy.

    Nếu bảo rằng người vợ ấy có khuyết điểm gì đó, thì chỉ có mỗi một cái mắn đẻ.

    “Ớt phật thủ” rất ít khi lu loa, om sòm, nhưng chồng làm công tác ở bên ngoài, chị chẳng yên tâm được bao nhiêu. Đặc biệt là cái cô “em nuôi” đã quen biết nhau trước khi cưới chị, người con gái xinh đẹp quá thể ấy, thì đến những ngôi sao trên giời cũng phải phát thèm lên được, biết đâu lại chả vẫn lòng thòng với chồng mình? Nên chị đã để mắt đến chuyện ấy ròng rã hai năm trời liền, nhưng chẳng nhận ra được một tý gì gọi là “anh nuôi”, “em nuôi” lòng thòng với nhau. Song cái tính cảnh giác bóng gió ở đàn bà làm chị khó có thể lơi lỏng ra được. Thường ngày tuy chẳng nói ra miệng, nhưng thái độ lại rất rõ ràng dứt khoát: Phải cho đàng hoàng nghe! Anh có chui vào cái xó xỉnh nào đi nữa, đôi mắt tôi cũng vẫn nhìn thấy hết đó! Đôi lúc hai vợ chồng cười cợt với nhau, chị cũng từng nói cạnh nói khóe:

    - Lại nốc nước đái ngựa ở nhà cô em nuôi phải không? Vợ con nhà người ta không ngủ đêm với mình được đâu nhá, phải biết điều một tý mới được!

    - Anh chàng ơi, anh chàng ơi, cái chuyện ấy, độ rầy ra sao rồi?

    - Chẳng qua chỉ là em nói chơi một câu thế thôi. Chứ ở nhà mình mới là vợ cái con cột. Chồng cô ta tuy đần thật, nhưng con dao chọc tiết lợn trong tay anh ta cũng đáng sợ lắm đấy!

    - Răng vàng khè, cứt thối inh, có gì mà cứ rống mãi lên!

    - Răng trắng nhởn như răng con chó cái ấy, anh có thích không...

    Chị cứ nói trêu, nói tức cho đến khi nào Lê Mãn Canh vung nắm đấm chị mới cười toáng lên, rồi câm tịt.

    Tối hôm đó, sau khi từ bãi đất bằng trước sân khấu họp đại hội trở về, trong khi nấu nồi cám lợn “Ớt phật thủ” cứ đay nghiến chồng suốt:

    - Này, ông bí thư chi bộ! Những lời của bà nữ tổ trưởng tổ công tác của huyện nói tối nay, có đến già nửa là nói móc máy ông đấy! Không biết người thông minh như ông có nghe ra được những lời ấy không hả?

    Lê Mãn Canh nét mặt sa sầm, ngồi ủ rũ trên chiếc ghế dài, quấn thuốc lá sâu kèn hút.

    - Anh với ả bán canh bánh tráng đó đã có những trò, những vè gì với nhau? Đối với cái thằng Tần Rồ ấy anh đã mất lập trường như thế nào? Cái bà tổ trưởng ấy chỉ còn thiếu có mỗi một nước là réo họ réo tên anh ra nữa thôi! Mà cái con mụ ấy cũng lạ, già không ra già, trẻ không ra trẻ, con gái không ra con gái, đàn bà không ra đàn bà!

    “Ớt phật thủ” ngồi bạch xuống đầu ghế bên kia, căn vặn chồng như vậy.

    Lê Mãn Canh lườm vợ một cái:

    - Thôi! Cô có bớt những lòi rắm rít của cô đi không nào? Tối nay ngửi thôi thế cũng đã đủ no rồi đấy!

    “Ớt phật thủ” vẫn không chịu nhịn:

    - Này anh đừng có ra vẻ ta đây với vợ với con. Việc gì mà phải đốt người qua chiếu như cái con rệp ấy vậy. Đàn ông, đàn ang ấy mà, cần phải ra ngoài đường mà thi thố tài năng, xem xem được thua thế nào, mới phải chứ!

    Lê Mãn Canh quay người lại, với nét mặt đầy giận dữ:

    - Cô có chịu câm cái họng của cô đi không nào? Cô đang ngứa da ngứa thịt, phải không?

    Người đàn bà có sự thông minh của người đàn bà. Mỗi khi thấy chồng sắp sửa dùng tới chân tay thật, bao giò “Ớt phật thủ” cũng thức thời biết rút lui đúng lúc. Cho nên trong suốt bảy tám năm trời, trong nhà cũng có lúc to tiếng, nhưng Lê Mãn Canh cũng biết rằng, khi mà “Ớt phật thủ” đã chịu xuống nước thì không còn xảy ra chuyện gì nữa. “Ớt phật thủ” bao giờ cũng biết tính toán đề phòng cái sức trâu lăn của chồng, nếu cứ làm rách việc ra, trước hết chính mình sẽ rước vạ vào thân, cho nên rất ít khi gây ra chuyện đổ vỡ trong nhà.

    Khi ấy “Ớt phật thủ” bỗng nhảy bật ra khỏi một đầu ghế để né tránh, làm cho chiếc ghế dài mất thăng bằng, hất bổng một đầu lên, khiến cho Lê Mãn Canh đang ngồi ở đầu ghế bên kia, đập phệt mông xuống đất.

    “Ớt phật thủ” chạy tụt vào trong buồng, nhưng vẫn thò bộ mặt “làm ngoáo ộp” ra chế giễu chồng:

    - Đáng đời! Cho chết!

    Lê Mãn Canh vừa buồn vừa bực, lồm cồm bò dậy, chạy đuổi theo vợ tới cửa buồng:

    - Để thằng này cho biết tay! Mẹ kiếp!

    “Ớt phật thủ” đóng cửa thật chặt, nói vọng ra:

    - Đánh hử, đánh hử? Ai bảo anh “ngồi về phía bên ấy”, đến lúc ngã lại đổ tội lên đầu người khác.

    Không tát vào mặt người đang cười. Mỗi khi vợ anh tỏ vẻ lắm điều làm nũng và cánh tay đã giơ lên là không giáng xuống được mà trong lòng lại còn cảm thấy nhẹ nhõm vui vui.

    Nhưng tối hôm nay, anh chẳng thấy nhẹ nhõm một tý nào, vừa rồi vợ anh cũng đã vô ý nhắc tới câu nói của nữ tổ trưởng tổ công tác của huyện ủy: Ngồi về phía bên ấy! Bên ấy ư? Lẽ nào cặp mông của mình đã ngồi đúng vào bên phía giai cấp địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, phái hữu và tư sản hay sao? Mình giúp đỡ Hồ Ngọc Âm, cô em nuôi ấy, mấy năm nay bán canh bánh tráng, tức là bao che, dung túng cho tư bản chủ nghĩa sao? Hồ Ngọc Âm dành dụm tiền nong xây ngôi nhà đẹp nhất thị trấn, mà đã gọi là bóc lột, là giàu có bột phát được sao? Lẽ nào lại gạt một người bán canh bánh tráng sang thành phần phú nông mới? Lại còn cái thành phần của Tần Thư Điển nữa, từ phần tử phái hữu, đổi sang thành phần xấu, đúng là mình có tuyên bố như thế ở đại hội quần chúng thật. Mình làm việc thiếu nghiêm túc. Nhưng cũng chưa hề làm một thủ tục chính thức nào. Cứ theo như cách nói của nữ tổ trưởng, thì thành phần xấu, so với thành phái hữu, tội trạng có nhẹ đi một bậc thật sao? Cứ theo như mình, chẳng qua cùng là một loài rắn nhốt trong lồng, rắn đen, rắn đốm tất cả đều là rắn. Lại còn, công việc nghĩa vụ của Tần Thư Điền nữa, bảo anh ta đi viết những khẩu hiệu lớn ở tường chợ, ở trên đồi, trên vách núi lại được coi là trọng dụng người của giai cấp thù địch được sao? Lẽ nào mình đã vi phạm vào quá nhiều điều kỷ luật như vậy?

    Vào lúc chập tối ngày hôm sau, đúng vào lúc “Ớt phật thủ” xách thùng cám đi cho lợn ăn và cũng đúng lúc ấy Lê Mãn Canh vừa đi dự cuộc họp đấu tố trong công xã trở về, đang đứng rửa chân ở ngoài cửa, thì thấy Hồ Ngọc Âm hốt hoảng lén lút chạy vào giao cho anh một cái gói nhỏ, bọc bên ngoài bằng mảnh giấy dầu cũ, bảo rằng trong đó có một nghìn năm trăm đồng, nhờ ông anh nuôi giữ hộ, nhỡ có túng bấn cứ rút ít nhiều ra mà chi tiêu cũng được. Hồ Ngọc Âm quá sợ hãi, nên đầu tóc rối bời, mặc chiếc áo ngoài bằng vải xanh, dáng dấp không còn xinh đẹp như lúc bình thường. Nói xong vội vàng đi mất, không dám cả ngồi lại, hình như sợ mọi người nhìn thấy. Lê Mãn Canh hiểu rằng, khoản tiền này không thể đem gửi vào ngân hàng được, vì thế theo tập quán từ ngàn xưa, bèn lập tức đem cả cái gói giấy dầu ấy nhét vào trong một kẽ gạch trên tường lầu, không kịp cả đếm. Trong vấn đề đạo đức và tiền tài, xưa nay cô em nuôi vẫn tin vào ông anh nuôi và ông anh nuôi vẫn tin vào cô em nuôi. Còn cách thức giấu tiền nong như thế này, cũng chẳng phải là chuyện bí mật gì trong thị trấn, vì mọi người đều làm thế cả. Một khi trộm cắp có vào nhà, chúng không thể giỡ hết cả bốn bức tường ra mà tìm kiếm lấy tiền được, có điều là cần phải đề phòng mối xông chuột gặm.

    Đáng lẽ ra việc đó không được cho “Ớt phật thủ” biết mới phải, Lê Mãn Canh từ trên lầu đi xuống trong khi trên người còn vướng đầy bụi bậm và đã bị “Ớt phật thủ” trông thấy. “Ớt phật thủ” vặn vẹo rất lâu, nhưng anh không nói chuyện ấy ra. “Ớt phật thủ” càng hỏi vặn càng sinh nghi, thế là òa lên khóc, rồi vừa sụt sùi vừa day dứt chì chiết rằng, đã ăn ở với nhau đến bảy tám năm giời rồi, lại đẻ với nhau được những bốn đứa con gái, vậy mà chồng vẫn đề phòng mình như đề phòng quân giặc... Khóc lóc làm cho Lê Mãn Canh đến não cả lòng và cảm thấy rằng vợ mình trách móc thế cũng là phải, đã ăn ở chung đụng với nhau mọi thứ trong một nhà, làm sao mà phải giấu giếm nhau và ngay đến cả vợ mình cũng không tin nổi...

    Nhưng anh đã tính toán sai lầm. Lên giường đi ngủ, khi anh “diễn vở gối đầu tay”, rồi thủ thỉ đem chuyện “tuyệt mật” đó thổ lộ ra cho “Ớt phật thủ” nghe, “Ớt phật thủ” đã bật dậy khỏi giường như một cái lò xo:

    - Giỏi! Cái nhà này đến lúc lụn bại rồi! Bạch Hổ hung tinh đã chiếu vào đúng nóc nhà này rồi! Anh thật là đồ bất nhân, đồ giết người. Tôi đối xử với anh như thế, mà hồn phách anh, tâm trí anh vẫn bị cái con yêu tinh thần nữ ấy cuốn hút hết cả đi... Giời ơi là giời! Giời ơi là giời!

    “Ớt phật thủ” tự nhiên gào thét lên, có giời mới hiểu tại sao tự nhiên chị lại nổi cơn nổi trận lên như thế, lại làm toáng lên như thế.

    Lê Mãn Canh cũng nổi cơn ba máu sáu tiết lên, bò dậy khỏi giường, quát:

    - Đang yên đang lành, làm sao mà gào thét lên như thế hử? Không đánh được cái rắm kêu thì tức hả, thật là đồ đàn bà thối thây!

    - Đang yên đang lành! Có thực là đang yên đang lành không? Tôi là con mẹ bị cắm sừng, là con ba ba úp mặt xuống đất! Sáng mai tôi không liều cái thân tôi với con đĩ ấy một trận là không xong đâu nhé!

    “Ớt phật thủ” đầu tóc rũ rượi, trên người chỉ toòng teng có hai mảnh: quần lót, áo ngực, bé tí xíu, vỗ đùi bành bạch vừa gào vừa khóc.

    Lê Mãn Canh trợn tròn đôi mắt, cơn giận dữ cứ như muốn nổ bùng ra. Nhưng anh vẫn cố ghìm cố nén cơn giận của mình lại, sợ làm to tiếng thêm ra, hàng xóm láng giềng người ta nghe biết, sẽ không còn giấu giếm nổi nữa:

    - Cô có câm cái miệng cô đi không nào? Đồ thối thây! Tôi nói cho cô biết nhé, ông giời này sắp sụp xuống rồi đấy, sắp chết cả lũ với nhau rồi đấy!

    - Anh phải nói ngay cho tôi biết, anh với cái con Hồ Ngọc Âm ấy có những chuyện gì với nhau? Nó là vợ anh, hay tôi là vợ anh? Các người đầu mày cuối mắt với nhau, cong mõm, cong đuôi như con chó đực với con chó cái ấy. Giời đất ơi, thế mà tôi mù tịt, tôi chẳng nhìn ra được cái gì cả!...

    - Này, tôi vả cho cái mồm thối của cô ra bây giờ đấy. Đồ thối thây! Tôi đường đường hoàng hoàng, thế mà cô dám ngậm cứt phun cái thối tha dơ bẩn lên người tôi hả?

    - Anh đánh tôi hả? Đánh tôi hả? Tôi đã đẻ cho anh bốn đứa con gái, mà bây giờ, anh định bỏ tôi phải không? Tôi đâu có được nõn nà trắng lốp như người ta! Hoa dại bao giờ chẳng thơm hơn hoa nhà! Anh đánh tôi hả? Đây tôi liều cái thân tôi cho anh đánh, anh giết! Anh cứ đánh chết tôi cho xong đi! Rồi anh tìm cái của mới lạ, ăn sống nuốt tươi cái của mới lạ ấy!

    “Ớt phật thủ” vừa nhiếc mắng, xỉ vả vừa đập đầu thình thịch vào ngực Lê Mãn Canh, làm cho cả người anh dúi dụi vào tường. “Ớt phật thủ” là người rất khỏe, nên Lê Mãn Canh cố đẩy ra, mà không sao đẩy nổi, tức đến run cả người và cặp mắt như bật ra lửa.

    - Đồ giời đánh thánh vật! Lại còn đi giấu tiền hộ cái con đĩ dại ấy nữa chứ! Anh có còn cần cái nhà này nữa không? Trong cuộc họp tối hôm qua đấy, nữ tổ trưởng tổ công tác nói những gì trên sân khấu hử? Anh định lôi cả lũ mẹ con tôi dìm chết xuống sông, để làm conma xó nhà anh hử? Giết người thì đi ngồi nhà đá. Nội nhật ngày hôm nay, mà không đem nộp cái số tiền một nghìn năm trăm đồng bạc ấy ra, thì cái thân xác không đáng giá một xu này sẽ chết trong tay anh cho xong đi... Đồ giời đánh, đồ giết người. Cái con đĩ dại ấy nó đã thu hết hồn vía của anh đi rồi! Cái khố thấy tháng của nó anh cũng đem quàng lên cổ anh! Tôi sẽ đến tổ công tác để tố cáo anh, để họ sai dân quân đến khám xét, lục lọi!

    Một cái tát bốp, khiến “Ớt phật thủ” ngã quay lơ xuống đất. Cái tát thật mạnh, vì Lê Mãn Canh đã như người rồ dại. “Ớt phật thủ” ngã vật vào góc tường như một thanh củi ướt. Lê Mãn Canh sợ chị bò dậy sẽ làm tan hoang hơn nữa, rồi liều sống liều chết, nên anh tỳ đầu gối xuống người chị:

    - Cô còn có định giở trò đanh đá chua ngoa ra nữa không nào? Có còn làm ầm ĩ lên giữa đêm hôm khuya khoắt nữa không nào? Thằng này chỉ cho một quả thụi là rồi đời, thằng này cũng chẳng muốn sống làm gì nữa!

    Nói xong, Lê Mãn Canh phẫn nộ chẳng thiết sống nên vung tay đấm vào đầu mình.

    “Ớt phật thủ” nằm ở dưới đất, mép tứa máu, đầu mũi sưng vù tím lại, nhưng chị đã bị chồng làm cho khiếp sợ và im bặt.

    Khi ấy bốn đứa con gái từ phía tường bên kia cùng òa lên khóc và cùng chạy sang:

    - Mẹ ơi! Bố ơi!

    Tiếng khóc của trẻ con giống như một liều thuốc tiên chữa được cho anh cái bệnh điên khùng. Lê Mãn Canh vội buông vợ mình ra. “Ớt phật thủ” cũng vội vàng chồm dậy, vơ vội vơ vàng lấy đống quần áo che lên người. Người ta bao giờ cũng biết xấu hổ, nhất là lại lõa lồ ra trước mặt con cái, còn ra cái thể thống gì nữa.

    Trên đường phố chó sủa mèo gào, hàng xóm bốn bên đều giật mình tỉnh giấc và chạy tới khuyên can. Người đứng bên đầu hồi gõ gõ vào cửa sổ, người đứng ngoài cửa chính gõ gõ vào cửa chính, có người gọi “đồng chí bí thư”, có người lại khẽ khàng gọi “thím ơi, thím ơi”.

    Hàng xóm láng giềng nói điều hay lẽ thiệt, các bà các chị, can gián khuyên răn, một hồi sau cũng coi như trời quang mây tạnh, mọi việc thế là xong. Sau khi cài cửa, lại trèo lên giường đi ngủ. “Ớt phật thủ” không thèm ngó ngàng gì đến chồng nữa, nằm quay mặt vào tường. “Ớt phật thủ” không khóc lóc, không nói rằng, trái lại Lê Mãn Canh lại thút thít khóc và than vãn:

    - Có khổ thân tôi không hở giời... Làm sao mà sống cho qua khỏi những ngày như thế này đây? Người nào, con mắt cũng đỏ đọc! Răng nghiến đến tứa máu ra, lòng dạ cứng như sắt đá, táng tận lương tâm, sống chẳng thành người... Cái số mệnh người đàn bà nó khổ... Từ trước nay anh chẳng có điều gì sai trái với em, anh sống bằng lương tâm của con người mình... Con người là con người, chứ đâu phải là đồ súc sinh trâu ngựa... Mai đây... mai đây, ngay đến bản thân mình, anh cũng chẳng biết rằng liệu mình có còn trụ nổi hay không?... Trong cái cõi đời này, người này không dẫm đạp lên người kia, người kia không dẫm đạp lên người này, thì không sống nổi được...

    Tiếng khóc của người đàn ông, đến cây cỏ cũng kinh hoàng. Sống trên đời đã ba mươi mấy năm, đây là lần đầu tiên Lê Mãn Canh khổ đau đến rơi nước mắt như vậy. Anh đã làm cho “Ớt phật thủ” sợ hãi. Nhưng trong lòng “Ớt phật thủ” vẫn còn đầy tức giận. Chị cứ nằm im lắng nghe, nhưng thấy chồng càng khóc càng thảm thiết thương tâm. Cuối cùng không chịu đựng nổi nữa, chị ngồi bật dậy, chị bắt đầu nói phải nói trái, nửa trách nửa khuyên. Chồng mình có xấu đến đâu, cũng vẫn là chồng mình:

    - Anh làm sao thế, anh đánh em ngã quay lơ xuống đất, giống y hệt như anh vẫn nói về các phần tử loại 5 bị đấu tố ấy, lại còn dẫm một chân lên em nữa, như thế vẫn còn chưa thỏa giận hay sao? Anh thật chẳng ra làm sao cả, dù em có xấu hơn, có hư hơn, cũng vẫn làm vợ anh cơ mà, vẫn làm quân hầu đầy tớ cho anh. Tất cả sáu lần sinh, còn được bốn mặt con gái, thế mà anh nỡ nào vung tay lên, tát em ngã vật xuống đất, đánh em tối tăm cả mặt mũi lại... lại còn lấy đầu gối tỳ vào ngực em nữa... hu hu hu... cái số em nó khổ! Ới mẹ ơi, cái số con nó khổ.

    “Ớt phật thủ” vốn là chỉ định khuyên giải chồng đôi câu nhưng càng khuyên càng thấy tủi thân, càng khuyên càng thấy mình khổ, nên tu tu lên, thút thít khóc rấm rứt. Chị còn giận dỗi véo mấy cái liền vào vai chồng:

    - Cái lương tâm của anh ấy, đem mà quẳng cho chó nó nhá! Em thì cũng là một con mẹ bậy bạ, nói láo nói lếu mấy câu... hu hu hu, mà anh cũng chẳng thương em một tý một tẹo nào... hu hu hu, anh chẳng thương yêu em, thế mà em vẫn cứ thương yêu cái con người chẳng có chút lương tâm nào ấy. Cái mồm của đàn bà, nó giống như cái khăn lau bàn, mà anh thì không phải anh không hiểu điều đó, nói vẫn nói... mà thương thì vẫn thương... hu hu hu... Anh không coi ra gì cái con mẹ sề này, thì anh cũng phải biết yêu quý bốn đứa con gái chứ... hu hu hu!

    Lòng dạ Lê Mãn Canh cũng đã mềm nhũn cả ra, tan chảy. Nước mắt anh ròng ròng, anh ôm choàng lấy vợ. Đúng thế, đây là vợ, là bốn đứa con gái, là gia đình... mới thực là của cải của anh, của anh! Trong suốt tám năm nay, anh đã vất vả khó nhọc, cùng vợ anh như con chim xây tổ, cọng rơm sợi rác, từng cọng, từng sợi, đều dùng mỏ quắp về...

    Anh ôm “Ớt phật thủ” thật chặt và lòng dạ “Ớt phật thủ” cũng mềm lại, tan chảy. Đột nhiên chị bật dậy, quỳ hai đầu gối xuống trước mặt chồng, cầm lấy đôi bàn tay anh, đặt lên ngực mình:

    - Anh Mãn Canh, anh Mãn Canh xin anh nghe em nói một câu... anh là một bí thư chi bộ, anh là người hiểu chính sách, cũng hiểu được cái phong trào vận động lần này, có thể gọi là mày chết tao sống đấy... Nhưng vợ chồng mình không thể chết được, mà cần phải sống... Giấy không bọc được lửa đâu anh ơi... Cái khoản tiền ấy, anh không giữ nó ở nhà được đâu... Anh còn nhớ cái hồi cải cách ruộng đất đó không, có người giữ vàng bạc của địa chủ phân tán tài sản, bị đánh đến chết đi sống lại, lại còn bị chụp lên đầu cái mũ chân chó... Thôi anh cứ đem nộp nó đi, nộp cho tổ công tác ấy... Nếu như anh không giao nộp, đợi đến lúc người ta tố cáo... Nếu không, nếu không... Không phải là mình hại cô ấy, mà mình cũng chưa hại cô ấy cái gì bao giờ. Nếu cô ấy có trách, cũng chỉ nên tự trách mình. Trong xã hội mới, nếu giàu, mọi người cùng giàu, nếu nghèo, mọi người cùng nghèo, không thể cá nhân làm giàu được, nhưng cô ấy lại tự tách ra, muốn làm giàu một mình...

    Lê Mãn Canh lại một lần nữa ôm chặt lấy vợ mình. Nhưng trong lòng anh vẫn có lệ rơi. Anh mơ hồ cảm thấy rằng hình như anh đang vĩnh biệt Lê Mãn Canh xưa cũ. Cái con người Lê Mãn Canh xưa cũ ấy, sẽ không sống qua được cái cửa quan “mày chết tao sống” này được.


    (1) Loại ớt rất cay, ở Việt Nam không có (N.D.).

     
    vinhhoa thích bài này.
  19. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    ÔNG CHỦ NHIỆM


    Ban tổ chức huyện ủy và phòng Lương thực huyện, gửi xuống một công văn: Xét thấy Cốc Yến Sơn chủ nhiệm cửa hàng lương thực thị trấn Phù Dung đã mất lập trường nghiêm trọng, bán trộm lương thực trong kho nhà nước. Tình tiết nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm. Nay quyết định: Kể từ ngày hôm nay đình chỉ công tác để kiểm điểm, rà xét. Công văn là do tổ công tác của huyện ủy công bố khi đến cửa hàng lương thực triệu tập cuộc họp toàn thể cán bộ công nhân viên chức. Bản thân Cốc Yến Sơn không có mặt ở cuộc họp. Thật đúng là tiếng sét giữa lúc trời quang mây tạnh, bất ngờ đến không kịp bịt tai. Cốc Yến Sơn bị cưỡng chế “ởtrên gác” và biến phòng ngủ của mình thành trại giam, hoàn toàn mất hết tự do hành động. Tổ công tác cắt đến hai cốt cán của phong trào, ngày đêm canh giữ ngoài cửa, bảo là để ngăn ngừa ông tự sát chạy tội. Đầu tiên, ông gần như không còn tin tưởng vào đôi tai mình nữa, không tin vào cặp mắt mình nữa, tất cả những điều ông nhìn thấy, khiến ông tưởng rằng mình đang trong một giấc mơ cực kỳ vô lý, cực kỳ hoang đường. Giả dối, giả dối! Tất cả những cái đó đều như diễn kịch, như chiếu bóng... mà những người viết vở, biên kịch, chưa bao giờ từng lên hỏa tuyến, xuống nông thôn, nhìn một cái đã biết ngay là giả dối! Có một lần, ông xem một bộ phim truyện đánh nhau, người chính trị viên đứng trước trận tuyến của địch, vung tay hô lớn:

    - Các đồng chí, vì tổ quốc, vì nhân dân, vì hàng triệu người anh em cùng giai cấp đang chịu muôn vàn đau khổ trên thế giới, xung phong!

    Trời đất ạ, trên chiến địa, lấy thì giờ đâu ra, mà làm một bài diễn văn dài dòng như thế? Làm thế chỉ thành cái bia sống cho quân địch! Xem qua cũng biết là giả dối, buồn cười và khó chịu. Nhưng lần này Cốc Yến Sơn vớ phải cái mệnh lệnh: “Đình chỉ công tác để kiểm điểm, rà xét”, lại hoàn toàn là sự thực, không hề có một tý giả dối nào. Bản thân ông, không mù, không điếc và cũng không hề nằm mơ. Sau đó, con người tốt nết, tốt bụng và đã nhận được cái vinh dự ở thị trấn Phù Dung gọi là “Đại Binh phương Bắc”, đã sực tỉnh lại trong sự nhốn nháo hỗn độn. Ông bắt đầu phẫn nộ, ông đập bàn, quăng ghế, đấm tường, ông to tiếng gào lên, thét lên:

    - Cái tổ công tác lũ bay, thanh tra cái gì, kiểm điểm cái gì? Chúng mày báo cáo bằng tài liệu giả, lừa dối huyện ủy. Cái con mẹ mày Lý Quốc Hương ạ, mày cào... mặt ăn vạ hả? Trước mặt tao, mày nói cứ ngọt xớt, nào là cách mạng tiền bối, nào là lão đồng chí, vậy mà mày lại đánh lén sau lưng... đánh lén sau lưng là chiến thuật ở nơi trận địa, bọn tao cũng đã từng dùng khi đánh Nhật, đánh Tưởng, còn chúng mày, chúng mày dùng nó để đánh lại đồng chí của chúng mày... Khi chúng tao chui địa đạo, nếm mùi súng đạn, chúng mày còn mặc quần thủng đít, ỉa đùn! Máu chảy thành sông, xương chất thành núi, mới giành lại được cái đất nước này, thế mà chúng mày lại đấu láo, tố điêu, không để cho ngươi ta yên ổn, không cho người ta sống nữa...

    Cốc Yến Sơn đấm cửa, đá cửa, nhưng cửa đã khóa ngoài. Có lẽ vì thái độ của ông dữ tợn quá. Hai người cốt cán đành mặc xác ông, mỗi người ôm một khẩu “38”, ngồi hút thuốc chuyện tào lao. Chưa biết chừng, cái khẩu súng “38” này lại do chính tay ông Cốc và các chiến hữu của ông nhận từ tay những tên quỷ Nhật giao nộp cũng nên, và bây giờ lại bị người ta dùng nó để canh gác ông.

    - Bọn chó canh cửa! Bọn chó canh cửa! Mở cửa ra! Có mở cửa ra không? Mở ra tao dạy cách bắn súng, dạy cho cách ngắm chuẩn... Tại sao chúng mày lại dám khóa tao, nhốt tao ở đây? Đây mà là nhà tù hả? Nếu ngồi tù, tao lên huyện ngồi tù, tao không ngồi cái nhà tù tư nhân của chúng mày!

    Không ai thèm đáp lại lời ông, cũng không ai bập tay lên ông chiếc còng cho gọi là hợp cách. Đấu tranh là vô tình, không thể có một chút “tình người”, hay “tính người” gì hết, đó là những trò chơi của giai cấp tư sản. Thời gian trôi qua không biết được bao lâu, nhưng người ông đã mỏi rã rời, giọng ông đã khản đặc lại, ông uống một cốc nước lạnh ngăn ngắt, mi mắt ông trĩu nặng như đổ chì, ông ngồi bệt xuống sàn, tựa lưng vào cánh cửa và chợt thiếp đi. Cho đến nửa đêm, ông tỉnh lại vì giá rét, đêm tối mù mịt, xòe bàn tay ra không nhìn thấy ngón. Ông mò mẫm đi tới bên giường, giật lấy chiếc khăn trải giường quàng lên người. Ông đi đi, lại lại trên ván sàn, giống như một vị tướng bị vây hãm hoặc bị bắt làm tù binh... Trong lúc này hình như đầu óc ông có tỉnh táo hơn một chút, ông bình tĩnh lại nghĩ tới những sự việc đã xảy ra lúc ban ngày. Ông lập tức thấy ân hận và cảm thấy xấu hổ, một người đảng viên cộng sản, một người xuất thân là bộ đội, mới gặp có một chút gập ghềnh, bị một chút oan uổng, mà đã đập tường phá cửa, gào thét ầm ĩ làm huyên náo cả cái phố Đá Xanh này, giống như một conmẹ đanh đá chua ngoa, thế còn ra cái thể thống gì nữa! Này Cốc Yến Sơn, Cốc Yến Sơn, anh đã tham gia cách mạng hai mươi mấy năm rồi, vào Đảng đã hai mươi mấy năm rồi, thế mà vẫn không vượt qua được một chút thử thách này sao? Anh cứ tưởng những ngày hòa bình, bao giờ cũng là gió êm, nắng ấm, là trời quang mây tạnh, là không có mây đem vần vụ, không có bão táp mưa sa chăng? Khi anh phục viên về làm công tác địa phương, anh mới là anh trung đội trưởng, một chức sĩ quan to bằng hạt vừng... Trong đầu óc ông bỗng hiện lên những ý nghĩ mà thường ngày nó vẫn được cất giấu ở nơi sâu thẳm, những ý nghĩ mà thường ngày chỉ nghĩ đến thôi đã là một sự phạm tội rồi. Anh vốn là người của dã chiến quân Hoa Bắc, vậy mà nguyên soái Bành Đức Hoài, phó tổng tư lệnh Bành của anh nếu như dùng những từ ngữ ngày xưa thì là nhất phẩm triều đình, là khai quốc công thần, ở hội nghị Lô Sơn 39, đã thay lời quần chúng phản đối việc luyện gang nấu thép tràn lan, phản đối việc ăn uống ở nhà ăn tập thể, mà bị bãi quan, bị lột lon nguyên soái, trở thành phần tử hữu khuynh cơ hội chủ nghĩa... Có người nào trong thiên hạ không biết rằng ông bị oan uổng, bị dập vùi, phê phán ông, đấu tố ông, là che lấp lương tâm, là vi phạm ý dân. Về sau, đất nước chúng ta đã phải trải qua ba năm đói khổ, không còn luyện gang nấu thép tràn lan nữa, không còn phóng những vệ tinh bằng da trâu nữa, không còn ăn uống ở những nhà ăn tập thể nữa, nhưng vẫn không chịu chọn dùng những kiến nghị của ông... Nhưng cái phong trào vận động hôm nay là cái gì đây? Những ngày đói khổ vừa mới qua xong, trăm họ vừa chợt lấy lại được chút hơi sức; sản xuất, đời sống vừa mới lấy lại được một chút nguyên khí, thế mà lại bắt đầu tính toán nợ nần trong thòi kỳ ba năm đói khổ, tính toán nợ nần lúc khó khăn của chính sách... mở cửa cải cách, thanh toán nợ nần, lại “lật lại bản án hữu khuynh”! Thật đúng là qua sông dỡ cầu, sấp mặt với người thân... Ôi Bành Nguyên soái ơi, Bành Tổng tư lệnh ơi, so với ông, cái anh Cốc Yến Sơn này ra cái thá gì mới được chứ? Một cái anh cửa hàng trưởng cửa hàng lương thực của một thị trấn con con, một “Đại Binh phương Bắc” bình thường, chẳng qua chỉ bị tuyên bố: Đình chỉ công tác để kiểm điểm rà xét, nhưng chưa bị bắt đi ngồi tù chính thức, đi tù với còng chân, khóa tay... Ha ha ha, đảng viên cộng sản đi ngồi nhà tù cộng sản, trong cái vòng trời này, đúng là có cái chuyện kỳ quái này thật! An nói lăng nhăng, suy nghĩ lung tung... Tất nhiên Cốc Yến Sơn cũng thừa biết rằng, tư tưởng của mình đã ra chệch quỹ đạo, đã biến dạng, rất nguy hiểm. May mà cái tư tưởng này còn tiềm ẩn ở trong đầu, nhón nhác ở trong lòng. Nếu như “tư tưởng” là một bím tóc, hoặc là một cái đuôi mọc thò ra ngoài, bị người ta túm được, thì khốn nạn rồi, dứt khoát phải đi ngồi tù.

    Tình cảm, suy nghĩ của Cốc Yến Sơn khi hay, khi dở và cứ lật đi, lật lại như thế. Đối với cuộc tranh đấu rơi đúng vào người ông bây giờ, ông nghĩ đi tính lại nhiều lần vẫn không làm sao thông suốt được. Ông tổng họ Bành vì nhân dân làm liều mình, vì nghĩa lớn mà nói năng, đương đầu với sóng gió. Còn ông, Cốc Yến Sơn có bao giờ nghĩ tới việc cung đình, bàn bạc việc triều chính? Liệu ông có xứng đáng với mười vạn tám ngàn dặm trường chinh? Ông thật thà, trung thực, từ xưa tới nay đều là: Đảng bảo làm gì thì làm nấy. Ông chẳng qua chỉ là một người tốt bụng, một người hòa giải ở thị trấn Phù Dung trong vùng núi Ngũ Lĩnh này, một con người bình thường, không thể bình thường hơn, nhỏ bé, không thể nhỏ bé hơn. Ôi chao, thế là thế nào nhỉ? Lẽ đâu cuộc đấu tranh cách mạng hôm nay, lại bắt buộc phải bùng nổ từ trong nội bộ mà ra, bắt đầu từ cuộc mình tự đấu tố mình, mình tự đánh đập mình, chính mình vung tay lên để tiêu diệt những người chiến sĩ của mình? Vừa động một cái là đã “mày chết tao sống”, sao mà sợ hãi đến thế, chà đạp nhân tình đến thế! Vậy thì bản thân mình đã làm những gì không phải với cách mạng, không phải với Đảng? A! Là “bán trộm lương thực trong kho nhà nước”, phải chăng nói về ông? Trong hai năm nay, mỗi phiên chợ, bán cho “cô Phù Dung” 60 cân đầu mày tấm gãy từ xưởng xay xát, để cô làm bánh chan canh bán... Đó đó, thấy chưa, thế mà mình cũng lẫn lộn, có một cái việc mà người trong thị trấn ai ai cũng biết, mà mình đã phải bỏ ra ba ngày ba đêm suy nghĩ mãi mới ra.

    Tìm được chuyện ấy, trong lòng ông bỗng nhẹ nhõm hẳn đi, ông cảm thấy vấn đề không đúng như tố công tác đã công bố, và cũng không đến nỗi nghiêm trọng như viết trong công văn của huyện ủy. Trong mấy năm gần đây, một số đơn vị và cá nhân trong thị trấn, có ai là không mua đầu mày cấm gãy ở xưởng xay xát về nuôi lợn, nuôi vịt, chăn gà, chăn thỏ. Đương nhiên rằng, việc phê duyệt bán đầu mày tấm gãy cho cô Hồ Ngọc Âm về làm canh bánh tráng, đúng là ông cũng có những điều chưa thỏa đáng... nhưng, rõ khỉ, cái ý nghĩ ấy từ đâu ập tới thế nhỉ? Nói thực lòng, bản thân mình chẳng có tà tâm tà ý gì với phụ nữ, mọi người trong thị trấn đều hiểu mình là con người đàng hoàng, đứng đắn, nhưng bản thân mình cũng có thấy mến Hồ Ngọc Âm, thích nhìn cô ta cười, đặc biệt là thích đôi mắt to, mà lòng đen với lòng trắng phân minh rõ ràng, thích nghe cái âm thanh trong tiếng nói của cô. Cứ mỗi khi ngồi vào cái quán canh bánh tráng là ông thấy thoải mái, nhẹ nhõm, thân thiết. Ngươi đàn bà dịu dàng, xinh đẹp bao giờ cũng được mọi người quý mến, cánh đàn ông quý mến và cánh đàn bà cũng quý mến nữa. Lẽ nào điều đó lại tính là một cái tội? cả đời mình chưa bao giờ được hưởng sự hiền dịu của đàn bà. Lẽ nào dành riêng trong lòng mình, một góc trời nhỏ nhoi cho sự hiền dịu ấy, lại không được phép hay sao? Điều đó đã chẳng có hại gì về mặt đạo đức và cũng chẳng ảnh hưởng gì tới hôn nhân và gia đình của Hồ Ngọc Âm cả, vì thế mà ông mới quyết định giúp cho Hồ Ngọc Âm một tay; lẽ nào việc chế biến từ đầu mày tấm gãy thành canh bánh tráng lại là lượng biến thành chất được sao, và từ đó gây nên tai vạ.

    Dần dần, lòng ông cũng bình tĩnh, yên ổn lại. Ông cũng hiểu rằng mình sẽ không tránh khỏi việc “kiểm điểm” một vài tháng và cũng chẳng “xuống” được “thang”. Đi đái, đi ỉa đều bị người canh gác. Những ngày như thế quả thật là khó sống, khó chịu đựng nổi. Nguyên trước kia, mỗi buổi sáng ra khỏi giường là ông cầm lấy cái chổi, làm bằng cành trúc, quét cả một đoạn phố Đá Xanh trước cửa hàng lương thực, lên tiếng cười đùa với những người xã viên đi làm sớm, hoặc bế ẵm, xoa đầu mấy đứa trẻ đeo cặp đi học. Mỗi buổi hoàng hôn, ông có thói quen đi dạo dọc theo đường phố Đá Xanh giải buồn, rồi đứng lại trước một cửa hàng nào đó, chuyện vãn một hồi, hoặc là chèo kéo cho bằng được một “người anh em” nào đó, vào trong quán làm mấy chén rượu nấu bằng khoai lang, nhấm mấy hạt lạc chao dầu, nhắc đến một vài hồi chuyện cổ chuyện kim... thế mà nay, chẳng còn có được cái thú vui yêu thích ấy nữa. Ông cùng với bà con phố phường trong thị trấn thật đúng là xa tận chân trời, gần trong gang tấc vậy!

    Cốc Yến Sơn sau khi bị công bố “đình chỉ công tác để kiểm điểm” năm ngày, thì tổ trưởng Lý Quổc Hương “lên thang” tìm ông để tiến hành một cuộc chuyện trò “tấn công bằng chính sách”.

    - Ông Cốc ơi, mấy hôm nay tinh thần cũng hơi bị căng thẳng phải không? Với ông, một lão đồng chí, đáng lẽ ra chúng tôi phải tôn kính và học tập mới đúng, nhưng không ngờ tính chất của vấn đề nó lại nghiêm trọng đến thế. Trong cuộc vận động này, huyện ủy cũng muốn nắm một vấn đề có tính chất điển hình.

    Giọng lưỡi của Lý Quốc Hương vẫn mạch lạc dễ nghe như vậy. Mỗi lần nghe chị ta nói, ông Cốc đều nghĩ rằng, thật đáng tiếc cho cái giọng kim của chị ta, không được dùng vào đúng chỗ, tại sao chị ta không đến đài phát thanh huyện làm phát thanh viên nhỉ?

    Cốc Yến Sơn lạnh nhạt gật đầu với Lý Quốc Hương. Ông có một nhận định hết sức phức tạp về người đàn bà này, vừa mang một chút khinh bỉ, lại vừa mang một chút thán phục, và còn có cả một chút thương hại nữa. Vậy mà, một người đàn bà như thế lại bỗng nhiên làm đại diện cho huyện ủy và chỉ trong chốc lát, đã nắm vận mệnh toàn thể nhân dân ở thị trấn trong tay, trong đó có cả vận mệnh của mình... Con người này có nhiều khả năng, nên được cấp trên trọng dụng, đại hội lớn, đại hội nhỏ, việc này việc khác, mở miệng ra là nói đến chủ nghĩa Mác - Lê, nói đến đấu tranh giai cấp, rồi “bốn thanh tra” với “bốn không thanh tra”. Nói liền một mạch hai ba tiếng đồng hồ không cần nước nhấp giọng và đến ho một tiếng cũng không, cứ giống như đã được qua huấn luyện đào tạo của một trường dòng cao đẳng chỉ chuyên đọc và tụng những câu cách mạng.

    - Thế nào, trong mấy ngày gần đây ông có những suy nghĩ gì? Theo tôi thì dù vấn đề có to lớn hơn, nhưng chỉ cần bộc bạch trình bày cho thật rõ ràng với tổ chức, thì chẳng có khó khăn nào mà không giải quyết được. Đồng thời, đứng về phía cá nhân tôi mà nói, tôi cũng mong muốn ông sớm được tắm rửa bằng nước nóng một lần, sớm được “xuống thang” hòa cùng với quần chúng cách mạng của thị trấn, tham gia vào cuộc vận động vĩ đại là giáo dục lại và tổ chức lại đội ngũ giai cấp.

    Lý Quốc Hương có vẻ muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình, để lay chuyển người “Đại Binh phương Bắc” này nên đã nói thêm một câu:

    - Ông xem, tôi chỉ muốn nói chuyện riêng cá biệt với ông, nên không để một người nào trong tổ công tác tham gia. Tối thiểu, thì tôi với ông, ta chẳng có chút thành kiến nào với nhau cả!

    Cốc Yến Sơn không hề thấy rung động trước tấm lòng thành ấy, ông chỉ đảo mắt lên, nhìn chị ta một cái và trong cái nhìn ấy như muốn nói: Thì thích nói gì, chị cứ việc mà nói, còn tôi, tôi sẽ chẳng nói gì với nhà chị đâu.

    Lý Quốc Hương cũng lờ mờ nhận ra được sự chống đối này của ông, nên quyết định quẳng ra một chút tài liệu, để kích ông một mũi, xem xem ông có nhảy thót lên không. Sau đó chị ta rút từ trong túi ra một cuốn sổ tay con con, trong đó các trang đều ghi đặc sịt cả và lật giở từng trang, không nhanh cũng không chậm. Sau khi dừng lại ở một trang sổ, bèn đổi giọng thành cứng nhắc, đúng theo kiểu việc quan làm theo phép công:

    - Ông Cốc Yến Sơn, ở đây có một khoản mục, với đầy đủ các con số, ông thử nghe xem! Sau khi tổ công tác điều tra nội bộ, và đối chiếu với bên ngoài, đã có những số liệu xác thực sau đây: kể từ sáu tháng cuối năm 1961 cho tới nay, trong khoảng thời gian hai năm linh chín tháng, như thế có nghĩa là, thị trấn Phù Dung năm ngày một phiên chợ, một tháng có sáu phiên tổng cộng là một trăm chín tám phiên, cứ mỗi phiên chợ ông đã bán cho Hồ Ngọc Âm là người đàn bà buôn bán, một thành phần của giai cấp tư sản mới nảy sinh, sáu mươi cân gạo, chế biến thành thương phẩm, canh bánh tráng bán ra, tổng cộng thành một vạn một ngàn tám trăm tám mươi cân gạo. Điều đó có đúng sự thực không?

    - Hơn một vạn cân!

    Quả nhiên Cốc Yến Sơn nghe thấy con số đó, đã đứng bật dậy. Con số đó, đối với ông quả thật là tiếng sét giữa lúc trời quang mây tạnh, từ xưa tới nay, ông chưa bao giờ nghĩ theo kiểu ấy và tính toán theo kiểu ấy!

    - Đấy không phải là con số nhỏ chứ? Hả!

    Trong cặp mắt của Lý Quốc Hương như toát ra một nụ cười lạnh lẽo. Hình như nó còn mang theo một sự thưởng thức nhấm nháp đầy tự hào: Thấy chưa, mới chọc một mũi nhẹ nhàng như thế đã nhảy cẫng lên rồi, thật khó mà đối phó lại được.

    Cốc Yến Sơn không thể nín lặng lâu hơn được nữa, vì không chịu đựng nổi sự vu cáo, nên ông lớn tiếng phản đối:

    - Nhưng đó là cám bổi với đầu mày tấm gãy, chứ đâu phải là gạo trong kho nhà nước.

    Lý Quốc Hương vẫn ngồi yên trên ghế, không động cựa, nhưng miệng nói liên tục như pháo nổ:

    - Dù là đầu mày tấm gãy, hay là gạo cũng đều như nhau cả thôi, thưa ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực, hơn một vạn cân đó, là của cá nhân ông sao? Ông ra ruộng cày cấy khi nào? Nếu nó không phải của kho nhà nước thì nó ở đâu ra? Việc này ông đã báo cáo với phòng lương thực huyện bao giờ chưa? Ai cho ông cái quyền hành to như thế?

    - Đầu mày tấm gãy là đầu mày tấm gãy, gạo là gạo. Tôi duyệt bán cho cô ấy theo giá quy định của nhà nước, đồng thời tôi cũng duyệt bán cho nhiều đơn vị và nhiều cá nhân khác nữa, tất cả đều có sổ sách đàng hoàng và không hề có chuyện tư lợi một đồng xu nhỏ.

    - Trong sạch như vậy đấy? Không tơ hào một đồng xu nhỏ, điều ấy chúng tôi có thể tin được. Nhưng ông là người đàn ông sống độc thân, thì cũng có những mối lợi theo kiểu người đàn ông sống độc thân chứ...

    Lý Quốc Hương không thay đổi sắc giọng, gợi ý như thế. Chị ta nhìn thẳng vào mặt ông Cốc mà thấy trong lòng nở nang từng khúc ruột, giống như người thợ săn trông thấy con sơn dương cuống cuồng lao đầu vào tấm lưới mà mình đã giăng sẵn:

    - Lẽ nào đến như việc này cũng cần đến tổ công tác nhắc.

    - Lợi ích của người đàn ông sống độc thân cái gì?

    - Cái chị bán canh bánh tráng là Tây Thi của thị trấn Phù Dung, da thịt chị ta trắng trẻo nõn nà như thế cơ mà!

    - Thật xấu hổ thay cho một nữ đồng chí mà lại dám mở miệng ra nói những lời như thế!

    - Thôi, ông đừng có phách lối giả vờ. Trong thiên hạ có con mèo nào lại không biết ăn cá rán? Bây giờ ông thành khẩn bộc lộ cũng còn chưa muộn đâu. Mối tình lòng thòng của hai người đã được bắt đầu từ năm nào? Cái nghề ấy, chị ta có giống đấy. Mẹ chị ta đã chẳng từng làm gái chơi là gì?

    Cốc Yến Sơn kinh ngạc đến lồi cả hai con mắt ra, ông xòe hai bàn tay, lùi về sau hai bước:

    - Tôi với cô ta lòng thòng?

    - Thì sao?

    Lý Quốc Hương vênh mặt lên và để lộ ra vẻ quyến rũ đặc biệt của người đàn bà lẳng lơ, làm bộ kinh ngạc hỏi lại như vậy.

    Có mấy sợi gân xanh nổi lên trên trán Cốc Yến Sơn trông như những con giun:

    - Lý tổ trưởng! Tôi với cô ấy lòng thòng cái gì? Tôi có khả năng không? Tôi có khả năng không mới được chứ?

    Ông đã bị đẩy tới đường cùng, đằng sau ông là góc tường:

    - Lý Quốc Hương! Cái con đĩ kia! Mày hãy gọi mấy cái thằng tổ viên trong tổ công tác của mày đến đây, rồi tao tụt... tụt quần tao ra cho mày xem... Trời ơi, thật đáng chết, tại sao tôi lại ăn nói bậy bạ như thế được nhỉ?

    Lý Quốc Hương đập bàn đứng dậy, hình như chị ta không còn có thể kiên tâm hơn nữa, không thể chịu đựng hơn được nữa, chị ta trợn trừng đôi mắt phượng hình tam giác và dựng ngược đôi lông mày lá liễu lên, mặt đầy phẫn nộ:

    - Cốc Yến Sơn, anh định giở cái trò lưu manh ra đây phải không? Anh giở cái trò lưu manh ra trước mặt tôi hả? Giỏi lắm! Cái thằng già độc thân! Định tụt quần ra hả? Tao sẽ triệu tập đại hội toàn thị trấn, để cho mày tụt quần ra trước mặt quần chúng! Mày dám giỏ trò lưu manh ra trước mặt tổ công tác, mày thật là không biết lượng sức mình!

    Cốc Yến Sơn trước sau vẫn là một con người thực thà, trung hậu, thiếu hẳn kinh nghiệm đấu tranh một khi đã bị người ta túm gáy, thì thái độ lại mềm nhũn xuống một cách nhanh chóng, hai bàn tay ông ôm lấy mặt:

    - Tôi, tôi... tôi bất chợt nóng nảy, bị chị dồn... dồn hết chỗ, nên những lời vừa rồi, xin coi là không có... Tôi đã mắc những sai lầm khác, nhưng sai lầm lần này tôi thật đúng là chưa mắc phải bao giờ, tôi... tôi... bị cái bệnh của... đàn ông...

    - Nói thực như thế còn nghe được!

    Lý Quốc Hương nghe người đàn ông nói những lời rất riêng tư trước mặt mình, vừa cảm thấy ngạc nhiên, lại vừa thấy mới lạ. Chị ta cảm thấy vui chen lẫn với chút ít thẹn thùng và thấy mình là kẻ mạnh, cuối cùng đã áp đảo được người công dân đàn ông này về mặt tinh thần:

    - Ông Cốc, ngồi xuống, chúng ta cùng ngồi lại và không nên gay cấn như thế. Tôi chưa hề nổi nóng lên với ông. Ông phạm sai lầm làm sao thái độ lại cứ khăng khăng như thế? Tổ công tác chúng tôi làm việc theo chính sách của Đảng, đối với cán bộ bao giò cũng phải suy trước tính sau, trị bệnh cứu người mà. Trừ phi đối với loại ngoan cố, sống chết chống đối. Tại cuộc vận động, chúng tôi mới phản kích lại không thương xót.

    Nói xong, Lý Quốc Hương quay lại ngồi xuống bàn như có ý làm mẫu. Cốc Yến Sơn cũng ngồi trở lại trên chiếc ghế cũ. Ông cảm thấy chân tay rã rời, và có một khối khí lạnh đau thương, thê thảm đè nặng lên trái tim ông.

    Khi đó hai người cốt cán vẫn gác ở ngoài cửa ngơ ngác thò đầu vào phòng, Lý Quốc Hương phẩy tay ra cửa, có ý bảo họ ra ngoài.

    - Ông Cốc ạ! Thôi thì bây giờ ta lại trở lại câu chuyện ban đầu, trước mặt tổ công tác, chuyện gì ông cũng có thể bộc bạch ra hết được, tôi có thể trực tiếp đảm bảo cho ông với huyện ủy.

    Lý Quổc Hương lại trở lại cái giọng thủ thỉ chuyện trò một cách ngọt ngào dễ nghe lúc ban đầu, tiếp tục đánh phá từ trong lòng đánh ra, quyết định mở toang khuyết khẩu và tranh thủ rèn sắt khi còn nóng đỏ, làm sao đánh bại được một nhân vật lãnh tụ trong lòng, trong mắt quần chúng ở thị trấn Phù Dung này:

    - Vấn đề của ông chẳng chỉ có thế mà thôi đâu, nó có khả năng nghiêm trọng hơn nhiều những điều mà chúng tôi nghĩ kia! Thì cứ cho là ông với Hồ Ngọc Âm không phải là cái quan hệ gian phu dâm phụ đi, nhưng cái sự liên quan về mặt kinh tế cũng như tư tưởng, chắc chắn là có chứ. Ông đã lấy hơn một vạn cân tấm gãy - thì cứ cho là tấm gãy như ông nói đi - trong kho nhà nước, để giúp đỡ cho một người bỏ ruộng đất đi buôn bán, chạy theo tư bản chủ nghĩa, trở thành một hộ làm giàu nhanh chóng ở thị trấn Phù Dung, vấn đề về người đàn bà này đâu có đơn giản. Lại còn quan hệ giữa Hồ Ngọc Âm với Lê Mãn Canh là thứ quan hệ gì? Anh nuôi em nuôi chăng? Lê Mãn Canh chắc chắn là không mắc cái bệnh đàn ông như ông, đúng không? Hồ Ngọc Âm ngoài cái vẻ tốt nước sơn bên ngoài còn là một người đàn bà không đẻ đái, Lê Mãn Canh là chỗ dựa chính trị rất vững chắc của cô ta, đã bao che dung túng một thời kỳ dài cho cô ta làm giàu không chính đáng ở thị trấn Phù Dung này. Hơn nữa quan hệ giữa Lê Mãn Canh với Tần Thư Điền là quan hệ gì? Rồi quan hệ giữa Tần Thư Điền với Hồ Ngọc Âm là quan hệ gì? Quan hệ giữa Hồ Ngọc Âm với trạm trưởng thuế vụ, một con người xuất thân từ giai cấp quan liêu, địa chủ là thứ quan hệ gì? Chúng tôi đã điều tra thấy rằng, mỗi phiên chợ, trạm thuế vụ chỉ thu của Hồ Ngọc Âm có một đồng bạc gọi là thuế doanh nghiệp, trong khi mức kinh doanh của Hồ Ngọc Âm mỗi tháng lên tới trên ba trăm đồng. Đó là vấn đề gì? Cho nên cái nhóm người các ông này, cả trong Đảng lẫn ngoài Đảng, câu kết với nhau, lợi dụng lẫn nhau, hòa cùng một giuộc đã từ lâu rồi, và đã quần tụ thành một đám, lũng đoạn cả chính trị lẫn kinh tế ở thị trấn Phù Dung này, và thực chất của nó là một tiểu tập đoàn!...

    Nói tới đây, Lý Quốc Hương cố ý ngừng lời.

    Trên trán Cốc Yến Sơn toát ra những giọt mồ hôi, đọng lại, to như những hạt đậu:

    - Ở thị trấn có tiểu tập đoàn gì? Như thế là ngậm máu phun người, là đẩy người ta vào chỗ chết...

    Lý Quốc Hương đẩy giọng cao lên, trỏ thành sắc nhọn:

    - Sao? Sợ rồi hả? Các ông là một tập đoàn có thực. Cũng là lẽ tất nhiên thôi. Chỉ cần các ông, từng người một, nhận thức ra điều ấy, rồi thành khẩn bộc lộ, thì cũng có thể xem xét để khỏi quy thành tiểu tập đoàn. Băng đóng dầy ba thước, chẳng tránh khỏi một ngày đại hàn đâu! Năm ngoái đã có những quần chúng cách mạng ở thị trấn làm đơn tố cáo ông với công an huyện rồi đấy. Tổ công tác sẽ hết sức cố gắng trình bày với huyện ủy để không xử lý các ông là một phe nhóm tiểu tập đoàn... nhưng cái quyết định là ở chỗ các ông có thực thà, thành khẩn hay không. Hồ Ngọc Âm ngoan cố, đã trốn khỏi thị trấn để tránh tội. Nhưng chúng tôi đã bắt Lê Quế Quế chồng nó để trị tội rồi... Ông Cốc ạ, ông là người có tên tuổi, có uy tín, có danh vọng ở thị trấn, nên ông phải làm đầu tàu trong việc này. Chén rượu mừng bao giờ uống cũng ngon, ông phải dắt dẫn mọi người vào việc. Chuyện có liên quan tới tính mạng đó, chẳng phải chơi đâu...

    Thật đúng là những lòi ngọt ngào dễ nghe, đầy nhân, đầy nghĩa.

    - Trời đất ơi! Tôi xin lấy đầu tôi ra để đảm bảo rằng, ở thị trấn không có tiểu tập đoàn với phe nhóm nào cả.

    Chỉ trong chốc lát mà Cốc Yến Sơn đã có cảm giác rằng ông đã già đi mười tuổi, và mồ hôi lạnh toát ra ướt đầm cả người.
     
    vinhhoa thích bài này.
  20. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 6

    NGƯỜI QUẢ PHỤ TRẺ MĂNG


    HỒ NGỌC ÂM Ở LẠI TRONG NHÀ NGƯỜI ANH EM thúc bá có họ xa ở Tú Châu đã hai tháng, đợi khi trời quang mây tạnh, sẽ lại trở về thị trấn Phù Dung. “Tránh voi chẳng xấu mặt” đó là một biện pháp tiêu cực mà những người dân bình thường vẫn sử dụng để đối phó với một tai họa nào đấy. Nhưng lại cũng biết rằng “trăm đường tránh chẳng khỏi số”, bởi trên thế gian này có những tai họa không thể nào tránh khỏi! Nhất là ngày nay, đất nước đã thống nhất, ngũ hồ tứ hải đâu đâu cũng chỉ là một chính sách, dù rằng ở nơi xa xôi, ngàn dặm, vạn dặm, dù là chân trời góc bể, chỉ cần một cú điện thoại hoặc một bức điện báo, tức khắc anh bị áp giải trở về.

    Hai tháng nay, Hồ Ngọc Ảm ngày nghĩ đêm lo cho cái số “số phận” ở thị trấn Phù Dung. Cô chỉ nhận được mỗi một bức thư của chồng. Trong thư bảo cô cứ yên tâm và cho biết rằng cuộc vận động ở thị trấn đang ầm ĩ, nhốn nháo lắm. Tất cả các phần tử loại 5 của toàn đội sản xuất đều phải tập trung ở thị trấn để nghe những lời dạy dỗ, giáo dục, khi đi biểu tình thị uy thì họ bị áp giải đi đầu ở đội ngũ. Tất cả các nhân vật đầu ngành ở thị trấn đều không thấy ai xuất đầu lộ diện, vì tất cả mọi công việc đều do tổ công tác nắm giữ. Trạm trưởng trạm thuế vụ xuất thân từ giai cấp quan liêu địa chủ đã bị lôi ra đấu tố. Dân quân đã đi lục soát, khám xét nhiều nhà nhiều hộ, con dao chọc tiết lợn của anh đã bị tịch thu giao nộp lên cấp trên. Tịch thu đi cũng phải thôi, vì đó là một thứ hung khí... Nghe nói trong cuộc vận động này, sẽ phân định lại thành phần giai cấp. Những dòng cuối của bức thư là bảo cô phải ở yên đó, không được mò về, và cũng không được viết thư trả lời.

    Đấy thấy không, cái ông chồng đần thối đần thiu ra ấy, việc riêng trong nhà mình, ngoài cái con dao chọc tiết lợn ra, thì không hề được một lời nào khác, còn tất cả đều do Hồ Ngọc Âm tự đoán lấy mà thôi. Ví dụ như trong thư nói, các nhân vật đầu ngành ở thị trấn không thấy xuất đầu lộ diện, có phải là có ý nói đến ông chủ nhiệm Cốc và anh Mãn Canh hay không? Lục soát khám xét nhiều hộ nhiều nhà... là những hộ nào, nhà nào mới được chứ? Có phải là đã lục soát ngôi nhà mới nhà mình không? Sẽ quy định lại thành phần giai cấp mới, vậy nhà mình có thể bị gạt vào thành phần giai cấp nào? Rõ thật, chồng ơi là chồng, lúc nào cũng cứ vô tâm, ngốc nghếch như thế cả, đến một lá thư cũng không viết được cho nó rõ ràng rành mạch. Từ đó chồng cô không còn viết cho cô một lá thư nào nữa. Có phải là Quế Quế đã bị bắt rồi không? Hồ Ngọc Âm vừa nghĩ vừa đoán, và càng ngày càng thấy thấp thỏm, sợ hãi trong lòng. Cô như một con gà mái bị nhốt trong lồng khi nhà có khách đến chơi, dự cảm thấy đại họa đã đổ xuống đầu. Cái “đại họa” này sẽ như thế nào, cô chưa được nghe ai nói đến, và mắt cũng chưa từng trông thấy. Phải chăng sẽ là rác rưởi, là cặn bã như các phần tử loại 5, ăn mặc lôi thôi, lếch thếch, mặt mũi lúc nào cũng nhọ nhem như mặt quỷ, lũ trẻ con tiểu học hễ cứ gặp là lấy đá ném, lấy bùn quăng, mỗi khi ở chợ, ở thị trấn có phong trào vận động đấu tranh gì, lôi họ ra để giáo dục quần chúng, và tha hồ cho quần chúng cách mạng chửi bới, phỉ nhổ, đánh đập.

    Trời đất ơi, nếu như cái “đại họa” này sẽ làm cho mình rơi vào cái vòng luân hồi của những con người ấy, làm sao mà sổng cho nổi! Không, nhất định là không. Bản thân mình có làm việc gì xấu đâu, cũng chưa nói một lời phản động nào, và cũng chẳng chống đối cán bộ bao giờ. Không những thế mình còn có cảm giác rằng anh Mãn Canh hay chủ nhiệm Cốc như người trong nhà, cứ như cha như anh vậy. Một người đàn bà bán canh bánh tráng ở chợ, liệu có thù hằn gì với xã hội mới. Xã hội mới đối với Hồ Ngọc Âm có chỗ nào là không tốt đâu! Sau giải phóng không còn trộm cắp lừa đảo nữa, những ông chồng cũng chẳng còn ai đánh bạc đánh bài, cũng chẳng còn ai hát cô đầu, lấy vợ hai, buổi tối có thể yên tâm lên giường đi ngủ, xã hội mới tốt đẹp biết bao nhiêu mà kể. Nếu không phải là xã hội mới, một con người như mình, một bộ mặt dễ coi như mình, đã sớm bị lừa gạt, bị chăn dắt trong những tổ quỷ ở vùng đất cửa con sông lớn kia rồi...! Không, không, những phần tử loại 5 kia mới là loại người xấu, họ là những người, tim đen, phổi đen, xương cốt đen, là những người cặn bã, rác rưởi, lẽ nào mình lại như họ được.

    Khi cô đi sống nhờ, trong huyện thành Tú Châu cũng đang có tin đồn xôn xao rằng, đội công tác cũng sắp về đó, và một phong trào vận động như cải cách ruộng đất cũng sẽ được triển khai ở đây. Rõ ràng là đã có người đến hỏi người anh em thúc bá của cô rằng:

    - Cái cô ấy là người từ đâu tới vậy? Gia đình thuộc thành phần giai cấp nào? Đã ở đây được bao nhiêu ngày rồi? Có giấy tờ chứng minh gì của công xã, của đại đội sản xuất không?

    Cô cũng là người biết phải trái tiến lui, cũng là người biết điều này lẽ nọ, cô cũng lại là con người có lòng tự trọng, không thể mặt dày mặt dạn ở mãi trong nhà người anh em thúc bá như thế này được, có thể sẽ làm liên lụy tới người ta. “Cái tránh được, không phải là tai họa, mà đã là tai họa thì không tránh được”. Cô quyết định vi phạm lời khuyên của chồng, trở về thị trấn Phù Dung. Cũng thật là... Tại sao lúc đầu không nghĩ ra một điều rằng, càng những lúc như thế này, lại càng phải cùng kề vai sát cánh bên chồng! Dù rằng lưỡi tầm sét có bổ xuống đầu, cũng phải cùng chồng giơ đầu ra nhận lấy lưỡi tầm sét ấy! Hoặc như, dù có phải chui xuống mồ, cũng phải cùng chung một lỗ huyệt với chồng. Ngọc Âm ơi Ngọc Âm, mi hư đốn quá! Ròng rã hai tháng trời, đã bỏ mặc chồng ở một xó, không thèm nhòm ngó gì đến cả, mi quá nhẫn tâm đấy... Thôi... Nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên...

    Trên đường, từ lúc mờ sáng cho đến khi tối sẫm, miệng cô luôn luôn lẩm bẩm “nhanh lên, nhanh lên”, nó như một nhịp trống, thúc giục lòng cô. Hành trang của cô chỉ có một chiếc túi dết màu cỏ úa, loại của cán bộ thường dùng đi công tác, đeo chéo ngang lưng, trong đó đựng mấy bộ quần áo thay đổi, cùng với một chiếc đèn pin. Trên dọc đường cô chỉ dừng lại ăn quà bánh cơm nước hai lần, một lần ăn đĩa cơm rang đập trứng, một lần lại ăn hai bát canh bánh tráng. Nước dùng chan canh hơi mặn, mà màu thì vàng đục. Không thể sánh với canh bánh tráng của cô bán được, nước dùng trong veo, mà ngọt đậm, dầu mỡ, gia vị cũng không đầy đủ bằng cô vẫn thường bốc cho khách của mình. Còn nhân viên phục vụ quấn cái tạp dề, bưng hàng cho khách, chẳng khác gì bưng đi bố thí cho người qua đường vậy. Hừ, cứ đến cửa hàng canh bánh tráng của mình mà xem,nào nói nào cười, nào thân mật chuyện trò, ăn no uống đủ rồi, buông bát đứng dậy, cũng còn được một câu chào: “Chị ơi, tôi đi đây, phiên sau lại đến!”, “Vâng, bác đi, nhưng đừng có lạc trên đường, đừng để cho bà xã ở nhà tựa cửa trông mong mỏi mắt đấy...”.

    Khi trời sập tối, cũng là lúc Hồ Ngọc Âm đặt chân tới đầu thị trấn Phù Dung.

    - Ai?

    Đột nhiên từ trong bóng tối một góc tường có một người bước ra hỏi. Người ấy Hồ Ngọc Âm biết mặt, đó là cậu choai choai làm ở xưởng xay xát. Vốn là trước kia, Hồ Ngọc Âm, mỗi khi đến xưởng xay xát mua đầu mày tấm gãy, cậu choai choai này, người lúc nào cũng bạc phơ bụi cám, vẫn thường quấn riết lấy chị mà nài nỉ: “Bà chị, bà giới thiệu cho thằng em một cô đi. Sống độc thân khổ lắm bà chị ơi!” “Thế định loại người như thế nào?” “Cần trắng đẹp, xinh xẻo, mắt to, mày rậm, y như bà chị ấy!”, “Hứ, đồ mất nết, chị làm mối cho cậu cái con mặt choắt, tứ túc mai hoa!” (1), “Nhưng em lại chỉ thích cái eo lưng rắn nước, cùng cái bộ ngực nhọn hoắt của chị thôi!”, “Có xê ra không nào! Ai thèm nhăng nhít với cái thứ cậu... Tao mà mời chủ nhiệm Cốc của cậu ra thì chớ chết!”, “Bà chị ơi, sao bà chị nhẫn tâm thế!”, “Cút, cút, bố mẹ mày chết sớm, không có người dạy phải không?”.

    Đúng rồi, cuộc vận động chắc là đang triển khai, cho nên gió bão ở thị trấn chưa qua khỏi được, vì thế mà buổi tối phải có người canh gác. Đến nay cả cái loại oắt con xỉ mũi không sạch này, bây giờ cũng ra dáng lắm lại còn đeo cả súng sính nữa.

    - Ồ! Chị đấy à, chị đã tự trở về đấy à?

    Thằng oắt ở xưởng xay xát cũng đã nhận ra cô, nhưng giọng điệu vừa lạnh lùng vừa cứng rắn, nó giống như một tiếng roi quất vào trong không khí tối đen. Sau đó thằng oắt không thèm nói gì với cô nữa, nó khoác súng đứng sang một bên. Nếu như là lúc bình thường, nó đã bắt đầu tán dóc láo lếu, thậm chí đã quờ quạng chân tay rồi cũng nên.

    Cô bỗng thấy giật mình: “Chị đã tự trở về” là cái gì nhỉ? Lẽ nào, nếu cô không tự trở về, sẽ cho người đi bắt về sao? Hình như cô đã vùng chạy vút vào trong phố Đá Xanh. Trên những tấm gỗ của những cửa hàng hai bên mặt phố, viết đầy, dán đầy, những khẩu hiệu thật to. Những khẩu hiệu đó viết những gì, cô nhìn không rõ lắm. Cô đã vấp vào mép bậc đá ở ngay trước cửa hàng cũ của cô, suýt ngã. Trên cửa vẫn là chiếc khóa đồng cũ, chồng cô không có nhà. Nhưng chiếc khóa đồng vẫn rất thân thuộc, đó là ổ khóa từ khi cha mẹ cô mở nhà trọ còn để lại. Cô buông ra một hơi thở khe khẽ. Còn cái ngôi nhà lầu bên cạnh của cô ra sao đây? Cánh cửa ngôi nhà lầu sao dán toàn giấy trắng? Lại có cả hai tờ dán chéo lên nhau. Như thế có nghĩa là ngôi nhà lầu không những đã bị khám xét, mà còn bị niêm phong nữa. Trời đất ơi, thế này là thế nào? Cô luống cuống rút chiếc đèn pin từ trong túi ra, chiếu soi trên cánh cửa ra vào sơn màu đỏ. Trên cánh cửa, đóng ngang một thanh gỗ nền trắng chữ đen: “Nhà triển lãm hiện vật cuộc đấu tranh giai cấp ởthị trấn Phù Dung”. Sao? Ngôi nhà lầu mới của mình đã bị nhà nước trưng dụng làm phòng triển lãm rồi sao? Vậy mà trong thư của Quế Quế không có một chữ nào nhắc tới chuyện này cả. Thật đúng là ông chồng đần của tôi, anh Quế Quế ơi, anh Quế Quế ạ! Giữa đêm hôm khuya khoắt thế này mà không biết biến đi đâu mất tăm mất dạng? Anh bỏ đi đâu, vợ anh đã về đây, mà sao anh không ra đón, mà sao cửa đóng then cài thế này?

    Nhưng cô lập tức hiểu ngay ra rằng, tìm Quế Quế bây giờ cũng chẳng được ích gì, cái anh chồng chết rấp này, đến đánh cái rắm, cũng không đánh cho ra hồn. Cô kịp thời quyết định là trước hết phải đi tìm chủ nhiệm Cốc Yến Sơn. Ông Cốc là cán bộ Nam tiến, vốn là người trung hậu, làm việc công tâm lại hay giúp đỡ mọi người. Ở thị trấn này chỉ có ông là người cách mạng tiền bối, có uy tín lớn, lời nói bao giò cũng đầy sức nặng...

    Cô có cảm giác rằng, cô đi trên đường phố Đá Xanh mà không phát ra một tiếng động nào, chân cô như lướt đi nhè nhẹ, người cô nhiều lúc hình như bốc lên khỏi mặt đất, bay đi. Cô đi tới cửa lớn của cửa hàng lương thực thị trấn, cửa lớn đã đóng, nhưng một cánh cửa nhỏ hãy còn mở. Ông lão gác cửa đã nhận ra cô, ông bất chợt lùi lại một bước, như người gặp ma... Thế này là thế nào đây? Trước kia những người trên phố, nhất là những người đàn ông, thấy mình bao giờ cũng mắt la mày lém, cười tít mắt, và có vẻ tiếc rằng, đôi mắt không được dán chặt lên người mình.

    Dù rằng ông lão gác cửa đã coi mình như ma chứ chẳng coi mình là người nữa, nhưng dầu sao cô cũng cần tìm cho được chủ nhiệm Cốc:

    - Bác ơi! Bác cho hỏi ông chủ nhiệm Cốc có ở đây không ạ?

    - Này cô con gái nhà họ Hồ ơi! Cô lại còn đến đây để tìm ông Cốc sao?

    Ông già gác cửa ngoảnh đầu lại, nhìn nhìn vào bên trong những bức tường rào, rồi lại ngó đầu ra nhìn theo dọc phố, thấy không có ai, ông mới hạ thấp giọng thì thào nói:

    - Cô không nên tìm ông Cốc làm gì nữa. Ông ấy đang bị sa vào một vụ án lớn lắm, mà trong đó có cả cô đấy. Họ bảo rằng ông ấy đã bán trộm hơn một vạn cân gạo trong kho nhà nước, để phát triển chủ nghĩa tư bản... Ông ấy đã bị người canh gác suốt ngày đêm từ lâu rồi, muốn tự tử mà cũng không sao tìm ra được một sợi dải rút... Thật đáng thương cho con người ấy...

    Lòng dạ Hồ Ngọc Âm như thắt lại... Trời ơi, ông Cốc, ông Cốc mà cũng bị người ta canh gác rồi ư? Điểu ấy làm sao cô có thể tưởng tượng ra được. Trong lòng trong dạ cô, ở thị trấn này, ông Cốc là đại diện cho xã hội mới, đại diện cho chính phủ, đại diện cho Đảng... Thế mà nay, ông đã bị người ta canh gác rồi. Cái ông già tốt bụng ấy có làm gì nên tội? Cái đất nước này, cái giời đất này là do chính những người như ông ấy đổ mồ hôi sôi nước mắt giành lại được, lẽ nào ông lại phản lại cái đất nước này?

    Hồ Ngọc Âm quay trở về phố Đá Xanh. Cô ngẩng đầu nhìn lên tầng hai, nơi đầu cùng phía tây, là phòng ông Cốc ở, vẫn thấy còn đèn sáng. Mắt cô nhìn lên đó chăm chăm, không chớp. Ông Cốc đang ngồi viết kiểm thảo dưới đèn hay đang nghĩ cách lừa cho được mấy đứa gác ông, tìm đường tự vẫn? Không! Không thể như thế được, ông Cốc ơi! Ông phải nghĩ rộng ra mới được, nhất định là có người làm sai rồi, làm phản rồi. Người ta không thể vu cáo cho ông, những người ở thị trấn Phù Dung sẽ viết giấy, sẽ làm đơn lên huyện, lên tỉnh bảo lãnh cho ông, ông hết lòng vi mọi người, điều ấy người lớn, trẻ con, có ai là không biết, ông chỉ có làm việc tốt mà chưa làm việc gì xấu bao giờ. Trong giây phút, Hồ Ngọc Âm đã quên mất tai họa của mình, cũng như sự khiếp hãi của mình, mà lại đi bất bình thay cho cảnh ngộ của ông Cốc.

    À à... Nghĩ ra rồi, hơn ba tháng trước đây, nữ tổ trưởng tổ công tác Lý Quốc Hương đã đến ngôi nhà lầu mới của cô, đã ngồi trong gian phòng được bày biện toàn đồ gỗ mới, đã tính toán nợ nần với cô, đã nói hai năm linh chín tháng, tiền bán canh bánh tráng là hơn sáu nghìn đồng bạc, và cũng đã nhắc đến người cung cấp cho cô hơn một vạn cân gạo làm nguyên liệu... Thì ra, nay ông Cốc bị canh gác, chắc chắn là từ chuyện này mà ra... À, à, người này phạm pháp mà người kia phải chịu tội, canh bánh tráng là do mình bán, tiền hàng cũng là do mình nhặt, làm sao lại đổ tội lên đầu ông Cốc được? Tiền lời lãi của canh bánh tráng, vẫn còn có một khoản, gửi trong tay anh Mãn Canh.

    Đi tìm anh Mãn Canh. Có lẽ bây giờ anh Mãn Canh vẫn là người trông nom mọi việc trong thị trấn. Anh Mãn Canh đã từng nhận mình là em gái nuôi. Thế là Hồ Ngọc Âm vẫn còn chỗ dựa, trong thị trấn vẫn còn một con người tìm gặp được. Anh Mãn Canh còn thân thiết hơn cả anh em máu mủ ruột rà của mình... Hồ Ngọc Âm quay người bước đi. Cô đi. Nhưng đâu phải là cô đi, mà là cô lao, cô chạy. Đầu óc cô rối loạn nhưng vẫn còn có đôi chút tỉnh táo. Dưới chân cô nhẹ như bay, lướt đi không hề có một tiếng động, toàn thể con người cô như bốc khỏi mặt đất, bay đi... Ôi, ôi, anh Mãn Canh, ngày ấy anh chẳng lấy được em... vì anh là người trong Đảng, không được lấy một đứa con gái như em... Nhưng ở trên tảng đá, nơi bến đò bò sông, anh đã từng ôm em, đã từng hôn em. Anh ôm em chặt thế cơ mà, ôm chặt đến nỗi đau hết cả xương cốt em. Anh đã từng thề rằng, trong cuộc đời này, trên thế gian này, anh sẽ giúp đỡ em, sẽ che chở cho em... Anh Mãn Canh ơi, anh Mãn Canh, bến đò nơi bờ sông ấy, vẫn còn nguyên đó, và tảng đá ấy cũng vẫn còn đây. Bây giờ anh còn giúp đỡ em không, còn che chỏ cho em không?... Anh Mãn Canh, anh Mãn Canh ơi, anh phải cứu lấy đứa em gái của anh, hãy cứu lấy tôi.

    Cô không còn nhớ được cô đã qua sông như thế nào, không còn nhớ được cô đã bò lên dốc ra sao... Cô đập cửa nhà bí thư Mãn Canh thình thình. Cái cửa này cô ra vào rất ít, nhưng cô thân thiết với nó, thuộc nó. Có những nơi, người ta chỉ đi qua có một lần, mà nhớ mãi, nhớ trong suốt cả cuộc đời.

    Ra mở cửa là “Ớt phật thủ”, người vợ to lớn đẫy đà của anh Mãn Canh. “Ớt phật thủ” trông thấy cô, giật mình, sợ hãi bước lùi lại, y như là gặp ma. Trước đây, các cô gái, các bà nạ dòng, gặp cô, bao giờ cũng muốn ngắm nhìn thêm một tý, vừa hâm mộ, vừa phát ghen. Đàn bà thường là hay ghen ghét, đố kỵ. Vậy mà hôm nay, tại sao thế nhỉ, tất cả đàn ông, người già người trẻ trong thị trấn gặp cô mà cứ ngỡ như gặp ma, gặp quỷ, như gặp những đồ xúi quẩy vậy.

    Hồ Ngọc Âm hỏi:

    - Anh Mãn Canh có nhà không?

    Cô bất chấp bộ mặt của vợ anh Mãn Canh như thế nào, cô cần phải gặp một con người đã từng yêu cô, đã từng thề bồi với cô.

    - Tôi đề nghị chị đừng bao giờ đến tìm anh ấy nữa! Chỉ một suýt nữa thôi là chị đã hại anh ấy, và cũng chỉ một suýt nữa thôi là anh ấy đã hại cả nhà, hại tất tật lũ mẹ con tôi... Bây giờ cấp trên đã đưa anh ấy lên huyện để anh ấy học tập, kiểm điểm và phản tỉnh..., anh ấy đã đeo chăn màn đi rồi. Xin nói cho chị biết, số tiền một nghìn năm trăm đồng chị nhờ anh ấy giấu hộ, đã bị người ta phát giác, anh ấy đã đem nộp cho tổ công tác của huyện ủy rồi...

    - Ôi, ôi, người đàn ông, thằng đàn ông... Trời đất ơi... người đàn ông, kẻ làm chồng bất nhân, bất nghĩa...

    Như một tiếng sét đánh ngang mặt, nó làm cho tai Hồ Ngọc Âm điếc đặc lại, làm cho đầu óc cô mụ mị đi. Người cô choáng váng, loạng choạng, đứng không vững nữa.

    - Chồng? Chồng chị thật là một người to gan. Dám nói ra miệng rằng sẽ ám sát nữ tổ trưởng tổ công tác, bây giờ thì ra ở ngoài nghĩa địa ấy!

    Nói xong, “Ớt phật thủ” như đuổi kẻ ăn mày, đóng sầm ngay cửa lại. Cánh cửa nhà chị vừa dầy và nặng!

    Hồ Ngọc Âm như sắp ngã vật ra... ngã vật ra... Không! Đừng ngã, nếu có ngã cũng không thể ngã ở cửa nhà người ta được! Chính bản thân cô cũng thấy kinh ngạc, vì không biết từ đâu, một nguồn sức mạnh đã đến với cô, chân cô nhẹ như bay, và chân cô lại bước đi, dưới chân không hề có một tiếng động, và cả con người cô cứ như bay lên, bay lên...

    Anh Quế Quế, anh ở đâu? Vừa rồi “Ớt phật thủ” bảo rằng anh định ám sát nữ tổ trưởng tổ công tác, không phải... không phải chứ anh? Anh nhát gan thế cơ mà, đi đường thấy một con chó xù, gặp một con trâu sừng cong, anh đều sợ, đều phải né tránh nó cơ mà... Không thể, không thể. Anh Quế Quế ơi, dưới vòm trời, anh là người thân thích cuối cùng của em... Thế mà anh chẳng ở cửa hàng để chờ em, mà anh lại đi lấy ổ khóa đồng khóa lại. Anh ra nghĩa địa để làm gì? Làm gì... hả đồ ngốc, từ trước tới nay, nơi ấy, nơi ấy là nơi chôn người chết của thị trấn, đến ngay giữa ban ngày ban mặt còn chẳng có ai dám đến đây, vậy mà trong lúc trời tối đen tối mò như thế, anh lần ra đấy để làm gì? Anh vốn nhát gan, làm sao anh dám đi đến nơi mộ địa, tha ma ấy?

    Cô mê muội đi... nhưng vẫn còn có một tia sáng như tia chớp, rọi chiếu vào đầu óc đang cuồn cuộn trong lớp sóng đen của cô... À à, anh Quế Quế, anh Quế Quế thân yêu ơi, lẽ nào, lẽ nào anh... Anh Quế Quế, anh Quế Quế ơi, anh không thể... không thể! Anh còn đang đợi em trở về để gặp nhau một lần nữa cơ mà...

    Cô cất tiếng gọi to, cô chạy trên mặt đường đầy những ổ bùn, vũng nước, chạy như bay, vậy mà vẫn không vấp ngã... Trông kìa, lại còn khóc, lại còn gào, lại còn cuống cuồng lên... Anh Quế Quế ơi, em đã về đây này, về đây, về đây này... Vâng Quế Quế! Anh Quế Quế, anh Quế Quế ơi...

    Khi Quế Quế hai mươi hai tuổi, thì Hồ Ngọc Âm tròn mười tám. Do một người già làm nghề giết mổ làm mối. Lần đầu tiên khi Quế Quế chạm mặt mình, anh cao cao, gầy gầy, xinh xẻo, mặt lúc nào cũng đỏ như trôn con khỉ, và chỉ rập rình định trốn vào sau cánh cửa... Cha mẹ nói, thế là tốt rồi, anh đồ tể, lấy nghề sát sinh làm nghiệp... Lúc mới đầu, mình cũng thật là ngốc, trong bụng lúc nào cũng chỉ mang Quế Quế ra so sánh với anh Mãn Canh, và lần nào Quế Quế cũng bị thua. Ngọc Âm cứ nghĩ tới chuyện ấy là tức tối, đau lòng, khó chịu, nên chẳng thèm ngó ngàng gì tới Quế Quế cả. Gặp mặt là cúi đầu, dẩu mỏ, trong bụng thầm rủa người ta là “đồ mặt dầy”. Nhưng Quế Quế là một con người thực bụng, không nói không rằng, ngày ngày đến cửa hàng, nào gánh nước, nào chẻ củi, nào quét nhà, lên mái nhà, lật ngói, dọi chỗ dột, xuống sông Phù Dung giặt giũ chăn chiếu, màn mùng của nhà trọ. Hôm nào cũng đến làm giúp, vừa nhanh vừa gọn gàng, làm xong là biến mất. Cha mẹ thấy thế cũng nể, giữ lại ăn cơm, anh không chịu, đến nước cũng không uống... Thế là hàng xóm láng giềng đồn ầm ĩ lên: Chủ nhà trọ Hồ Ký đi tu đâu từ kiếp trước, nên đã vớ không được một thằng rể chịu khó lam làm. Lại bảo rằng, con bé Ngọc Âm cũng thật tốt phúc, câu được một anh chồng quý đến nhà, rồi ra, mọi việc trong nhà con bé sẽ chẳng phải dúng tay vào đâu, cứ gọi là ngồi duỗi mà ăn... Quái lạ, Ngọc Âm càng không thấy thích thú cái anh chàng ấy, thì cha mẹ và láng giềng lại càng ca ngợi anh chàng, càng thương mến anh chàng. Còn anh chàng hình như cũng muốn khoe sức mình, để cho Ngọc Âm thấy thì phải. Về sau, cái anh chàng chăm chỉ lam làm không muốn ngơi tay ngơi chân một lúc, đã lấy trộm cả quần áo, giầy tất của Ngọc Âm đem đi giặt, ừ, thích giặt, cho giặt, giặt cả đời, Ngọc Âm cứ giả vờ như không biết, không nhìn thấy...

    Cô và Lê Quế Quế không chiến cũng không hòa, kéo dài có đến hàng nửa năm trời. Thế rồi, dần dà, bất chợt như có ma ám, Hồ Ngọc Âm bỗng thấy Lê Quế Quế đẹp trai, ưa nhìn, tính nết hiền lành, nhã nhặn, hiểu biết. Nhìn cũng thấy thuận mắt, thuận lòng. Ở lâu mới biết lòng người mà! Thế rồi có một hôm ngẫu nhiên Lê Quế Quế không đến nhà trọ Hồ Ký, Ngọc Âm ngồi đứng không yên, chín mười lần bước ra ngoài cửa ngóng nhìn... làm cho cha mẹ rất mừng, còn hàng xóm láng giềng đều liếc mắt mỉm cười. Cười gì? Trong lòng Ngọc Âm, Lê Quế Quế đã sánh ngang được với anh Mãn Canh... Hơn thế, anh Mãn Canh đã thành gia thất rồi, anh đã lấy một người vợ cao lớn đẫy đà như anh, táo tợn có thể đánh chết hổ được. Tại sao Quế Quế lại hơn anh? Bởi vì Quế Quế mới là của mình, là chồng mình, là ông xã của mình... Vả lại Quế Quế có chỗ nào không hay đâu. Anh nhanh chân nhanh tay, điềm đạm ít nói, một tiếng hừ cũng không có. Đám cưới của cô và Quế Quế thật nhộn nhịp tưng bừng, và cũng thật là vinh dự, các cô ở đoàn ca múa của huyện đẹp cứ như một bầy tiên nữ đến hát xướng, đến phù dâu, hát trọn một đêm ởsàn hát. Mãi về sau này, các cô các bà ở thị trấn vẫn còn bảo rằng: Chu vi của thị trấn Phù Dung có tới hàng trăm dặm, những nhà giàu nứt đố đổ vách khi làm đám cưới cho con gái, đâu có được vui, được tưng bừng nhộn nhịp như đám của Ngọc Âm với Quế Quế...

    Gió ào ào, cỏ rạp sang hai bên, cây cối ngả nghiêng, Ngọc Âm vẫn cắm đầu cắm cổ chạy...

    Lê Quế Quế đang ở bên cô, bầu bạn với cô, trò chuyện với cô:

    - Anh Quế Quế, anh còn nhớ không, cái tối hôm cưới nhau ấy, những cô gái đẹp như tiên của đoàn ca múa, đẩy hai đứa mình vào nhập phòng, rồi kéo nhau đi. Cả hai đứa mình đều đã mệt nhoài. Hát suốt cả một đêm mệt quá đi chứ. Anh thật là ngốc, mặt mũi đỏ tưng bừng, lại còn cúi đầu xuống nữa chứ, đến nhìn em một cái mà cũng chẳng dám nhìn. Anh lên giường để nguyên quần áo không dám cởi. Em vừa tức vừa buồn cười. Anh nhút nhát như thế, cứ y chính anh là cô dâu vậy. Anh tưởng em không nhút nhát hay sao? Thế mà anh còn nhút nhát hơn em. Em bỗng đột nhiên cảm thấy rằng, anh chẳng phải là chồng em, mà là em trai em thì phải. (Ôi chao, cái lúc ấy, chỉ nhắc tới chữ “chồng”, tim đã đập, mặt đã đỏ lên rồi). Em nghĩ, tính nết anh như thế chắc về sau này anh sẽ chẳng mắng mỏ em đâu, sẽ không hung dữ và đánh đập em đâu, có khi lại còn nhường nhịn em ấy chứ... Cái đêm hôm ấy, cả hai đứa đều để nguyên cả quần áo mà ngủ, chẳng ai đụng chạm tới ai. Nghĩ lại thật tức cười. Sáng sớm ngày hôm sau, trời chưa sáng anh đã vùng dậy, anh đi gánh nước, thổi cơm, rồi dọn dẹp trong phòng, ngoài cửa, nơi nhộn nhịp suốt cả đêm hôm qua, sạch sẽ đến mức không còn một cái vỏhạt dưa, một cái vỏ củ lạc. Vậy mà em chẳng biết gì. Em ngủ muộn, em dậy trưa. Anh Quế Quế ơi, em vẫn còn là con gái, vẫn còn muốn làm nũng. Trước kia, làm nũng cha mẹ, từ nay về sau, em làm nũng anh...

    - Đúng thế, anh Quế Quế ơi, đúng là em đã nghĩ rằng: em sẽ làm nũng anh. Nhưng người anh ngốc nghếch của em ơi, làm một chàng rể mới, mà lại còn ngượng ngùng hơn em. Anh còn nhớ không, tối hôm thứ hai khi làm lễ cưới, có một đội phim đèn chiếu ở thị trấn. Khi ấy thị trấn ta còn chưa có chiếu bóng, nhưng mỗi tháng lại được xem một lần phim đèn chiếu. Đúng thế không anh? Trước giải phóng, thị trấn ta chỉ diễn rối bìa, rối giấy, và hát hoa đăng. Em vẫn còn nhớ, bộ phim đèn chiếu hôm ấy có tên là “Chú Hai Đen lấy vợ”, đôi nam nữ trong bộ phim ấy trông thật tươi tắn, đẹp đôi. Họ tự do tìm hiểu, hẹn gặp gỡ nhau vào buổi tối ở trong rừng, thế mà bị kẻ xấu trong ủy ban xã bắt trói đem giải lên ủy ban khu. Đứng xem phim mà người em cứ tựa sát vào người anh. Anh thấy không, như thế mới thật là phong kiến, cha mẹ xếp đặt, bà mai mối manh, và cán bộ xã thì tùy tiện trói người. May mà mình được sống trong cái xã hội mới tốt đẹp, không còn phong kiến nữa, con trai con gái ngồi lẫn lộn với nhau, chẳng bị ai bắt trói. Hôm ấy ở bãi chiếu phim, trời tối lắm, trên trời không có lấy một vì sao. Em nhớ rằng cứ đứng xem, rồi anh choàng tay ôm lấy eo lưng em... Rồi anh vội rụt tay về như mó phải lửa, nhưng em đã tóm được, em phát nhẹ vào tay anh một cái. Ôm eo thì cứ ôm eo, có làm sao cả đâu, em là vợ anh kia mà, còn anh là chồng em, đâu phải thằng cha căng chú kiết nào... và anh cũng chẳng chịu rời em ra nữa.

    - Anh Quế Quế ơi! Mình chung sống với nhau, việc nào cũng hợp với nhau. Bởi vì việc gì anh cũng nghe em, chiều em. Anh lại còn bảo em là bộ tư lệnh của anh, là nữ hoàng thượng của anh. Anh cứ hay ví von theo kiểu ngốc nghếch như thế, đúng không? Xem được vở tuồng mối, tuồng cũ, anh cứ ví von liên hệ như thế. Em đối xử với anh cũng tốt chứ, chưa bao giờ cáu gắt với anh. Những năm ấy vợ chồng mình chưa bao giờ to tiếng với nhau... Nhưng chúng mình cũng có nỗi khổ tâm riêng. Lấy nhau sáu, bảy năm giời mà chưa có được một mụn con... Anh Quế Quế ơi! Vợ chồng thèm muốn một mụn con biết bao nhiêu! Chưa có con vợ chồng càng yêu càng thương nhau hơn nhưng vẫn thấy thiếu thốn, chông chênh, và cảm thấy sự dài lâu như bị ngắn bớt đi. Đứa trẻ mới là cái quả trên cây của vợ chồng mình, là khúc ruột cắt tự trong lòng mình ra. Đứa trẻ mới có thể làm cho vợ chồng mình đời đời kiếp kiếp được bên nhau, không bao giò tách rời ra được... Cũng chính vì đó, mà em thường vụng trộm khóc thầm, và anh cũng thường giấu em mà thở dài than vắn. Cái tâm tình ấy cả hai người đều biết, nhưng lại phải giả vờ là không biết tí gì... Và cũng chính vì việc ấy, mà vợ chồng mình cũng đã có đôi câu, đôi tiếng, nhẹ nhàng cằn nhằn nhau, những người hàng xóm sát vách chang bao giờ nghe thấy cả. Thực ra anh cũng chẳng trách móc gì em, mà là em tự mình trách mình... Về sau, em đâm ra cũng có đôi điều mê tín. Em nghĩ, có lẽ do cả hai đứa ngốc chúng mình đã ríu rít, sum vầy, đã yêu thương nhau quá đáng, nên đứt mất đường “con cái”. Đáng lẽ ra chúng ta phải giống như gia đình khác, chửi bới, nhiếc móc lẫn nhau... Ôi, ôi, anh Quế Quế ơi, anh Quế Quế ơi, sao anh chẳng chịu nói năng gì thế? Làm sao anh lại cau mày lại thế? Có phải là anh đang trách em không nên bán canh bánh tráng, không nên xây dựng mái nhà lầu tai vạ ấy không? Vì chuyện đó mà vợ chồng đã điều đi tiếng lại với nhau, mà em đã dùng đầu đũa chọc anh một cái, chỉ vì anh muốn đem bán rẻ nó đi...

    Hồ Ngọc Âm lao đi trong đêm tôi. Tâm trí cô hoảng loạn, tình cảm rối bời. Mặt đất u ám, mịt mờ, cô cũng mịt mờ, u ám. Cô không nhớ được rằng trên đường trở về cô có ngồi đò hay không, ai chở đò cho cô. Cô chạy và chạy. Cứ như cô đang truy đuổi một người nào đó phía trước. Còn người ở phía trước chạy rất nhanh, Lê Quế Quế chạy rất nhanh, và cô truy đuổi không bao giờ bắt kịp người ấy. Cô gào lên:

    - Anh Quế! Sao anh tàn nhẫn thế? Anh chờ em với! Chờ em với chứ! Em còn có chuyện muốn nói với anh. Những điều em muốn nói với anh, em mới chỉ nói được có non nửa thôi. Chuyện quan trọng nhất em vẫn chưa bàn bạc với anh được một lời nào...

    Phía sau cô hình như cũng có một người nào đó đang truy đuổi cô, tiếng bước chân kêu thình thịch, không rõ đấy là người hay là ma. Không quay đầu lại nhìn, việc quan trọng hơn cô cần phải đuổi kịp chồng cô. Nghe người ta nói rằng, ma chạy trên đường không bao giờ phát ra tiếng động, thế thì đấy có lẽ là người. Họ truy đuổi cô để làm gì nhỉ? Cô chẳng còn có một chút gì hết, chẳng có gì hết! Chỉ còn lại một mảnh hồn, chẳng lẽ không tha cho cả mảnh hồn ấy hay sao mà còn đem ra đấu, đem ra tố, đem ra chăng trói? Tôi cần phải sống cùng với Quế Quế, cùng với Quế Quế... Nếu như các người có bắt được tôi, trói ghì cả chân lẫn tay của tôi lại, tôi sẽ lấy răng mà cắn lưỡi cho đứt, cả thừng, lẫn chão...

    Cuối cùng cô cũng đã bỏ lên được khu nghĩa địa. Người ta bảo rằng, nơi đây là thế giới của ma quỷ, vậy mà cô chẳng sợ chút nào. Từ xưa tới nay, các thế hệ con cái, cháu chắt, đã chôn xuống nơi đây hàng ngàn ngôi mộ. Ma quỷ, oan hồn, người chết già, kẻ chết non, kẻ ác, người thiện, đàn ông, đàn bà, người được lên thiên đàng, kẻ phải xuống địa ngục đều tìm ra được ở đây một thế đất quý giá theo phong thủy, đều tìm được ở đây niềm an ủi ba thước sâu hoàng thổ.

    - Anh Quế Quế ơi! Anh ở đâu? Anh... ở... đâu...

    Trời đen thăm thẳm, giơ bàn tay ra không nhìn thấy ngón. Hàng nghìn nấm đất sè sè, không thể phân biệt được đâu là mả mới, đâu là mả cũ.

    - Quế... Quế! Anh ở đâu? Anh trả lời em đi chứ! Vợ anh đến tìm anh đây...

    Hồ Ngọc Âm thê thảm réo gọi, thanh âm của cô kéo dài, cao vút và hoắt nhọn. Cái thanh âm đó làm cho tất cả những lời kêu gọi trên thế giới này nhòa nhạt hẳn đi. Và nó giống như ánh lửa ma trơi, xanh lè trong đêm tối, bập bùng nhảy múa trên những nấm mồ hoang, bãi vắng... Hồ Ngọc Âm chân cao, chân thấp, tậm toại luồn lách giữa nơi tha ma mộ địa. Trên suốt dọc đường cô không bị vấp ngã một lần nào, nhưng ở đây cô lại bị vấp ngã liên hồi. Vấp ngã vào khe những nấm mồ, không sao bò dậy được, hình như cô sẽ phải vĩnh viễn nằm lại giữa nơi tha mô mộ địa này...

    - Cô Phù Dung, cô đừng có réo gọi nữa, cũng chẳng nên tìm kiếm, nữa, người anh em Quế Quế, không còn trả lời cô được đâu!

    Không biết mất bao lâu, mới có người lôi cô từ khe những nấm mồ dậy.

    - Anh là ai? Anh là ai?

    - Tôi là ai... mà cô không nghe ra à?

    - Anh là người hay là ma vậy?

    - Tôi biết nói thế nào bây giờ nhỉ? Cũng có lúc là người, cũng có lúc là ma!

    - Anh... anh là...

    - Là Tần Thư Điền, là Tần Rồ ấy mà!

    - Anh là phần tử loại 5! Cút ngay đi! Đừng có mó vào tôi, cút ngay đi!

    - Tôi muốn giúp cô, mà không mang theo một tý tỵ ý đồ xấu xa nào... Cô Phù Dung, tôi ngàn lần vạn lần xin cô nghĩ lại đi, cô phải biết thương tiếc lấy thân mình, ngày tháng còn dài lắm...

    - Tôi không cần cái thứ anh chạy tới tận đây mà thương xót tôi. Trời u đất ám, anh là phần tử xấu, là phái hữu...

    - Này, chị ạ... Lê Quế Quế bị quy thành phú nông mới và chị sẽ là...

    - Anh bịa đặt! Ai là phú nông mới?

    - Tôi không nói dối chị đâu...

    - Ha ha ha! Tôi là bà phú nông! Bà phú nông bán canh bánh tráng! Anh là quân đểu cáng, anh dọa tôi, dọa tôi?

    - Tôi không doạ cô đâu, điều tôi nói là sự thật, chắc như đanh đóng cột ấy, không sai một tý nào hết.

    - Không sai?

    - Rùa rùa không cười ba ba, đều là cảnh sống trong bùn với nhau cả. Cũng cùng một con đường hoạn nạn, oan nghiệt như nhau cả thôi mà.

    - Giời vật anh đi... Bà phú nông... Cái nhà anh Tần kia, tất cả đều do anh mà ra, đều là do anh cả! Cái tối hôm chúng tôi cưới nhau ấy, anh cùng với cả đám yêu tinh thần nữ của anh đến để chống phong kiến, ngồi hát ở sàn hát mừng... làm hại cả đời tôi, hát mừng gì, có hát tai hại, hát chết người thì có... Hu hu hu... Sao anh lại khốn khổ mà đi sưu tầm những bài hát ấy? Khốn khổ mà đi chống phong kiến làm gì? Anh đã hại cả một đời anh còn chưa đủ hay sao, mà anh còn đi hại Quế Quế, hại cả tôi...?

    Tần Rồ đúng là một thằng rồ, anh ngồi trên một nấm mồ, giữa bãi tha ma mà hát lên một khúc, trong cái ngọn cỏ độc mang tên “Sàn ca nữ” anh đã cải biên năm đó:

    Cây nến cháy, lửa xanh, lửa đỏ,

    Chân nến kia, lệ nhỏ lâm ly.

    Lệ khô, khi tắt nến đi,

    Cô em khóc lóc, giọng kia đã khàn.

    Cây nến cháy, lửa vàng, lửa đỏ,

    Ngồi cùng em, hát đỡ đôi câu.

    Tình đau, khúc hát củng rầu

    Kim đâm vào mắt, lệ đau chảy tràn...


    (1) Ý nói con chó. (Nguyên chú).

     
    vinhhoa and zoomvietnam like this.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này