Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 10

    Tại ngõ Xip-xép Vra-giéc

    Trước kia đây chỉ là một ngõ cong queo, bình thường nhất ở Mát-xcơ-va, cũng giống như cái quảng trường Xô-ba-tri mà Pê-chi-a đã ở hồi nào. Nhưng khi Ca-chi-a dọn đến ở ngõ Xíp-xép Vra-giéc thì từ đó trở đi nó lại thay đổi lạ thường. Chính vì nó trở thành cái ngõ mà Ca-chi-a ở cho nên nó không còn giống bất cứ một ngõ nào khác ở Mát-xcơ-va. Ngay như tên ngõ, trước đây cứ nhắc đến là tôi buồn cười, giờ đây cũng trở nên có ý nghĩa sâu xa và hình như tất cả đều có liên quan đến Ca-chi-a, đều có cái “vẻ Ca-chi-a”...

    Ngày nào tôi cũng đến ngõ Xíp-xép Vra-giéc. Hôm ấy Ca-chi-a và Ki-ra chưa về nhà, bà mẹ Ki-ra tiếp tôi và nói chuyện với tôi. Đó là một bà mẹ tuyệt diệu, một diễn viên ngâm thơ. Bà thường ngâm những tác phẩm cổ điển ở các câu lạc bộ ở Mát-xcơ- va. Bà người nhỏ bé, tóc đã điểm hoa râm và giàu tính lãng mạn chẳng giống Ki-ra một tí nào. Bà nói về việc gì cũng rất nhiệt tình, khiến cho người ta hễ gặp là biết ngay bà rất yêu văn học. Điều này cũng chẳng giống Ki-ra tí nào, nhất là khi nhớ lại hồi xưa Ki-ra phải vất vả lắm mới đọc xong “Đu-brốp-xki”, mà vẫn còn yên trí rằng rốt cuộc “Ma-sa đã lấy Đu-brốp-xki”.

    Có khi chúng tôi đã nói chuyện với bà mẹ này đến hai tiếng đồng hồ, nhưng đáng tiếc là chỉ toàn nói về bà Vác-va-ra Ra-bi- nô-vích nào đó. Bà này cũng là một diễn viên kể chuyện, nhưng rất nổi tiếng. Lúc đầu bà mẹ Ki-ra định đến xin học bà này, nhưng sau bà lại bỏ ý định ấy, bởi vì bà Vác-va-ra lúc tiếp bà cứ “vênh mặt” lên.

    Sau đó Ca-chi-a về. Thầy I-van Pa-vơ-lứt đã nói đúng, tôi chưa hiểu cô. Sở dĩ như vậy không phải vì tôi không hiểu nhiều sự kiện trong cuộc sống của cô, - ví dụ như năm ngoái đội địa chất của cô (cô là đội trưởng một đội thăm dò địa chất) tìm thấy ở miền nam U-ran một cái mỏ rất giàu trữ lượng vàng, hay là việc những tấm ảnh của cô đã chiếm giải nhất trong cuộc triển lãm ảnh nghiệp dư, mà chính là tôi không hiểu tinh thần cương quyết, tính thẳng thắn, thái độ công bằng và thông minh của cô đối với cuộc đời, - nghĩa là tất cả những cái mà thầy Cô-ra-bơ-li- ốp gọi một cách thán phục là “tâm hồn nghiêm túc, đĩnh đạc”. Tôi cảm thấy cô già dặn hơn tôi rất nhiều - đặc biệt khi cô nói chuyện về nghệ thuật, những năm gần đây tôi đã lạc hậu về mặt này rất xa. Nhưng cũng có khi bỗng nhiên cô lại trở lại như Ca- chi-a cũ, cô Ca-chi-a say mê với thuốc nổ và hết sức xúc động vì “Phéc-đi-nan Coóc-tét mang theo những lời chúc mừng tốt đẹp của người Tơ-lắc-xca-lan lên đường và chỉ vài ngày sau đã tới Hô-nô-lu-lu”. Tôi sực nhớ đến Phéc-đi-nan Coóc-tét, khi tôi xem bức ảnh Ca-chi-a cưỡi ngựa, mặc quần dài và đi đôi giày ống dài của nam giới, vai đeo khẩu súng các-bin, đầu đội mũ rộng vành. Cô đã trở thành một nhà thăm dò địa chất! Nếu thuyền trưởng trông thấy tấm ảnh này, nhất định ông sẽ rất hài lòng.

    Mấy ngày đã trôi qua như vậy, chúng tôi vẫn chưa nói gì đến chuyện xảy ra sau lần gặp nhau hôm trước, mặc dù sự việc đã rất nhiều. Nếu nói về những chuyện này, hình như có thể nói suốt đời được. Hình như chúng tôi cảm thấy trước hết nên nhớ lại nhau một cách kỹ càng đã. Không có một lời nào về Ni-cô-lai An-tô-nứt, về Rô-ma-sốp, về việc tôi đã có lời đối với cô. Nhưng việc đó không phải dễ đàng, bởi vì hầu như tối nào bà cụ cũng đến ngõ Xíp-xép Vra-giéc.

    Thoạt đầu bà đến rất trang trọng, rất khách khí. Bà mặc cái váy áo chiết li và toàn kể lại những chuyện cũ - lúc đó Ni-cô-lai An-tô-nứt chưa về. Bà kể chuyện về người bạn gái của bà. Bà này đi lấy một ông chồng “cố đạo đã cắt tóc ngắn”, ông cố đạo này đã phát tài. Về sau có một hôm ông ta lên bục giảng và nói: “Hỡi các công dân, giờ đây tôi tin tưởng chắc chắn rằng không có Chúa”. Tôi không hiểu bà cụ kể lại câu chuyện này là có ý gì - có lẽ bà cụ đã phát hiện ra giữa lão cha cố này và Ni-cô-lai An-tô-nứt có chỗ nào đó giống nhau.

    Rồi một hôm bà cụ chạy đến hoang mang và thì thầm nhưng lại rất to: “Về rồi!”

    Nói xong cụ liền đóng ngay cửa ở trong đó với Ca-chi-a. Lúc ra về cụ hầm hầm nói:

    - Sống với người đời cũng cần phải có chiến thuật.

    Ca-chi-a không trả lời, chỉ im lặng, trầm ngâm rồi hôn cụ lúc chia tay.

    Ngày hôm sau bà cụ đến tay cầm cái dù, khóc đỏ mắt lên, vẻ mệt mỏi, cụ ngồi ở phòng ngoài.

    - Ốm rồi, - cụ nói. - Tao đã đi gọi đốc tờ cho ông ấy. Nhưng ông ấy lại đuổi người ta đi. Ông ấy nói: “Tôi đã cống hiến cả đời mình cho cô ấy và cô ấy đền ơn tôi như thế-đấy”.

    Bà cụ hạ giọng:

    - Ông ấy nói “Đây là người cuối cùng giúp cho tôi sống. Bây giờ thì hết”. Toàn là những câu đại loại như vậy.

    Rõ ràng là tất cả chưa phải đã hết, bởi vì sau đó Ni-cô-lai An- tô-nứt đã khỏe lại, tuy bệnh tim trầm trọng quả có bắt lão phải nằm trên giường mấy ngày. Lão gọi Ca-chi-a đến. Nhưng cô không đến. Tôi nghe cô nói với cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na:

    - Bà ạ, ông ấy ốm đau hay khỏe mạnh, sống hay chết, cháu đều không muốn gặp. Bà hiểu chứ?

    - Hiểu rồi, - cụ Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đáp. - Bố nó ngày xưa cũng thế đấy, - trước khi ra về bà cụ nói với bà mẹ Ki-ra như vậy.

    - Làm sao mà uốn nắn được nó - ừ ừ. Có ném nó xuống dưới bánh xe lửa cũng vô ích! Thật là kẻ cuồng tín!

    Nhưng Ni-cô-lai An-tô-nứt đã khỏe hẳn và bà cụ cũng phấn khởi. Giờ đây mỗi ngày bà cụ đến hai lần - do đó chúng tôi thường xuyên được biết những tin tức mới nhất về Ni-cô-lai An-tô-nứt và về Rô-ma-sốp. Nhưng có một lần Ca-chi-a cũng nhắc đến Rô- ma- sốp.

    - Nó đến chỗ mình làm việc, - cồ nói vắn tắt, - nhưng mình nhờ người ta nói hộ là mình không có thì giờ và sẽ không bao giờ có thì giờ.

    - ... Họ đang viết thư, - có một lần bà cụ báo tin. - Toàn là nói về phi công G., phi công G. Có lẽ lần này lại mật báo gì đó. Thằng cha cố đạo non ấy bực phát điên lên. Còn Ni-cô-lai An-tô-nứt thì im lặng. Người ông ta phù sũng lên, ngồi im không nói một lời. Choàng cái khăn của tao ngồi đó...

    Va-li-a có đến Xíp-xép Vra-giéc mấy lần. Lúc đó mọi người đều bỏ công việc của mình đấy, ngừng nói chuyện để xem cậu ta ve vãn Ki-ra. Cậu ta đang ve vãn Ki-ra rất đúng qui cách và rất tự tin rằng không ai nghi ngờ việc này được.

    Cậu ta lấy hoa tươi cắm vào lọ đem tặng Ki-ra - bao giờ cũng chỉ có mấy loại hoa, căn phòng của cô biến thành một cái vườn ươm nhỏ những loại hoa hồng trà và hoa thảo anh. Cậu ta nhìn tôi và Ca-chi-a, lúc đó trông cậu ta như nửa tỉnh nửa mê. Chỉ khi cậu ta nhìn Ki-ra và đôi khi nhìn bà mẹ Ki-ra, cậu mói là người tỉnh táo. Cậu cũng tặng bà mẹ Ki-ra tặng phẩm, ví dụ như có lần cậu tặng bà cuốn “Nhà kể chuyện” in năm 1917.

    Có khi cậu phấn khởi lên, cậu kể chuyện vui về đời sống của loài chuột hoặc loài dơi.

    Muốn làm cho Ki-ra cười chẳng có khó khăn gì...

    Những buổi tối ở ngõ Xíp-xép Vra-giéc trôi qua như vậy. Đó là những buổi tối cuối cùng trước khi tôi trở lại miền Bắc.

    Tôi có rất nhiều công việc bận rộn: không thể nói rằng đề nghị của tôi tổ chức việc đi tìm đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp đã được hoan nghênh nhiệt liệt, hay là tôi làm không nổi?

    Tôi đã viết một bài báo: bài gửi cho tạp chí “Hàng không dân dụng”, tôi nói về phương pháp cố định máy bay trong bão tuyết; bài gửi cho báo “Sự thật” viết về những cuốn nhật ký của người hoa tiêu, và một bản báo cáo gửi cho Tổng cục đường Hàng không Bắc cực. Mấy ngày sau, đúng vào hôm trước ngày tôi lên đường, tôi phải đến báo cáo ở Đại hội thường kỳ của Hội Địa lý học về vấn đề tình hình trôi giạt của chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri”. Đây là bản báo cáo tổng hợp chủ yếu nhất.

    Có một lần, tôi về đến khách sạn đã quá mười hai giờ đêm, lòng rất phấn khỏi. Tôi đến gặp ông thường trực để lấy chìa khóa, ông ta bảo:

    - Anh có thư.

    Ông ta đưa cho tôi bức thư và tờ báo.

    Bức thư rất ngắn: thư ký Hội Địa lý học báo tin cho tôi, vì tôi không viết báo cáo thành văn bản gửi đến đúng thời hạn cho nên buổi báo cáo không thể tiến hành được. Tôi vừa cầm tờ báo vào tay thì tự nó đã mở ra theo vết gấp. Đầu đề bài báo là “Để bảo vệ một nhà bác học”. Tôi bắt đầu đọc bài báo ấy, và những dòng chữ hòa thành một khối trước mắt tôi.
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  2. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 11

    Một ngày bận rộn

    Những điều đã viết trong bài báo này như sau:

    1. Ở Mát-xcơ-va có một vị giáo sư, một nhà sư phạm và nhà hoạt động xã hội nổi tiếng tên là N.A. Ta-ta-ri-nốp, tác giả của hàng loạt bài viết về lịch sử chinh phục và khai phá Bắc cực.

    2. Có một phi công tên là G. hiện đang chạy đến các cơ quan nghiệp vụ Bắc cực, dùng mọi thủ đoạn để bôi nhọ nhà bác học tôn kính này, quả quyết rằng giáo sư Ta-ta-ri-nốp cướp đoạt(!) cuộc thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-rí-nốp, người em họ của mình.

    3. Tên phi công G. này còn dự định đọc một bản báo cáo, rõ ràng hắn cho rằng việc vu khống này của hắn là một thành tựu lớn về mặt khoa học.

    4. Ban phụ trách Tổng cục tuyến đường Hàng không Bắc cực phải đặc biệt chú ý đến con người này, bởi vì hành vi của hắn đã bôi nhọ danh dự gia đình các nhà công tác Bắc cực Xô Viết.

    Bài báo được ký tên “I.Crư-lốp” và tôi lấy làm ngạc nhiên, tại sao Bộ biên tập tòa báo lại có lòng tốt dùng tên của một người vĩ đại để ký cho một bài báo như thế này. Tôi không nghi ngờ gì cả, chính Ni-cô-lai An-tô-nứt đã viết bài báo này, đó cũng chính là “bức thư” mà bà cụ đã nói ra. Tờ báo đã được gửi bằng đường dây bưu điện đến cho tôi.

    “Khỉ thật, nếu như không phải lão ta? - Lúc đó đã ba giờ sáng, tôi cứ đi đi lại lại hoài và suy nghĩ. - Đây là bức thư của Hội Địa lý học gửi đến - cũng không nghi ngờ gì nữa, đây cũng là của lão. Vả lại thầy Cô-ra-bơ-li-ốр cũng là hội viên của Hội này, ông còn trách tôi là tôi đã nói cho thằng Rô-ma-sốp biết về bản báo cáo của mình. Bài báo này cũng là do lão viết! Lão đang hoảng. Ca-chi-a đi rồi và lão hoảng”.

    Tôi hình dung lão ta ngồi choàng cái khăn của bà cụ và im lặng, còn thằng Rô-ma-sca đang nói những câu thô bỉ với lão. Điều này rất có thể xảy ra!

    Điều họ ít muốn nhất là Tổng cục đường Hàng không Bắc cực gọi tôi lên và yêu cầu tôi giải thích! Mà hiện nay tôi lại đang muốn đạt được điều này....” Tôi nằm trên giường suy nghĩ về việc này. “Hành vi của hắn đã làm nhục...” Hành vi như thế nào? Tôi chưa hề nói với ai về lão. Họ hy vọng rằng tôi sẽ phải lùi, sẽ sợ...

    Rất có thể, nếu không có bài báo này, tôi đã đi khỏi Mát-xcơ- va mà chẳng làm việc gì cho Thuyền trưởng cả. Nhưng bài báo đã thúc tôi. Giờ đây tôi phải hành động và càng nhanh càng tốt.

    Không nên nghĩ rằng lúc đó tôi cũng bình tĩnh như bây giờ hồi tưởng lại những sự việc này. Mấy lần tôi phát hiện mình có những ý nghĩ khá dã man, những ý nghĩ ấy Cục Điều tra hình sự hiểu rõ ràng nhất. Nhưng chỉ cần nhớ đến Ca-chi-a và những lời cô nói: “Ốm đau hay khỏe mạnh, sống hay chết, cháu đều không muốn gặp” - thế là mọi việc lại đâu vào đấy. Ngay bản thân tôi, tôi cũng rất lấy làm ngạc nhiên sao mình có thể nói năng và hành động bình tĩnh như vậy trong cái ngày bận rộn này.

    Ngay từ sáng sớm tôi đã đặt xong kế hoạch - rất đơn giản, nhưng qua bản kế hoạch này cũng thấy rõ là tôi rất ngán việc phải đi gặp các văn thư, thư ký.

    1. Đến báo “Sự thật”. Dù sao tôi cũng cứ phải đến tòa báo “Sự thật”, bởi vì trước khi đi tôi phải nộp một bài báo tôi hứa viết.

    2. Đến ông TR.

    Ý nghĩ này - đến ông TR. đến ông TR. Nổi tiếng, trước kia là anh hùng của Trường Hàng không Lê-nin-grát, sạu đó trở thành anh hùng toàn Liên bang, cả nước đều biết và đều yêu mến ông - tôi đã nghĩ từ hồi đêm, nhưng lúc đó tôi thấy ý nghĩ đó táo bạo quá. Gọi dây nói cho ông có tiện không? Liệu ông có còn nhớ tôi không? Hồi tôi còn là học viên phi công, chúng tôi đã chia tay nhau rồi!

    Nhưng giờ đây tôi đã quyết định - có sao đâu, dù cho ông không nhớ tôi, chắc ông cũng không từ chối việc gặp tôi.

    Tôi không biết ai đến nghe điện thoại, có lẽ bà vợ.

    - Tôi là phi công Gri-gô-ri-ép.

    - Vâng.

    - Tôi rất muốn được gặp đồng chí TR., - tôi gọi ông bằng tên và tên đệm. - Tôi từ Da-pô-li-a-ri-e về và do đó mà rất cần...

    - Thế thì mời anh đến.

    - Khi nào ạ?

    - Tốt nhất là hôm nay, mười giờ thì ông ấy ở sân bay về...

    Tôi đã đến tòa báo “Sự thật”, lần đó tôi phải chờ vị phóng viên của tôi đến hai tiếng đồng hồ. Cuối cùng ông ta ra.

    - A, phi công G. đấy à? - Ông nói rất niềm nở. - Có phải anh đã làm nhục người khác không?

    - Đúng hắn đấy.

    - Tại sao lại như thế?

    - Xin cho tôi được giải thích, - tôi bình tĩnh nói.

    Đó là cuộc nói chuyện rất nghiêm túc ở trong phòng làm việc của biên tập viên phụ trách. Trong khi nói chuyện, tôi lần lượt đặt lên bàn những văn kiện sau đây:

    a) Bức thư cuối cùng của thuyền trưởng (bản sao).

    b) Bức thư của người hoa tiêu bắt đầu bằng câu: “Trước hết tôi xin báo tin để bà biết, ông I-van Li-vô-vích hãy còn sống và khỏe mạnh” (bản sao).

    c) Những cuốn nhật ký của người hoa tiêu.

    d) Bài ghi câu chuyện của người thợ săn I-van Vưn-ca, có chữ ký xác nhận của bác sĩ I-van I-va-nứt.

    e) Bài ghi câu chuyện của Vư-si-mia-ski, có chữ ký xác nhận của thầy giáo Cô-ra-bơ-li-ốp.

    g) Tấm ảnh chụp cái câu liêm bằng đồng thau trên có khắc chữ “Tàu “Xanh Ma-ri””.

    Buổi nói chuyện này hình như rất có kết quả, bối vì có một đồng chí trông rất nghiêm nghị bắt tay tôi rất chặt, còn một đồng chí khác nói rằng trong số báo “Sự thật” gần đây nhất sẽ đảng bài của tôi về tình hình của chiếc tàu “Xanh Ma-ri”.

    Từ tòa báo “Sự thật” đến nhà đồng chí TR. ít nhất cũng đến sáu ki-lô-mét, nhưng đi được nửa đường tôi mới nhớ ra là có thể đi xe điện được. Tôi bay nhảy như điên và nghĩ giờ đây nên kể lại như thế nào cho ông ấy nghe về cuộc nói chuyện của tôi ở tòa báo “Sự thật”.

    Và đây tôi đã bước lên cầu thang, trên chiếc cầu thang sạch sẽ của một ngôi nhà mói, tôi dừng lại trước cửa và lau mặt - nóng quá - và cố gắng bắt óc từ từ nghĩ về một điều gì đó - đó là biện pháp tốt nhất để ngăn sự xúc động.

    Cửa mở. Tôi xưng tên và nghe thấy tiếng trầm trầm ở phòng bên cạnh, tiếng “o” của ông rất nặng.

    - Ai hỏi tôi đấy?

    Thế là người mà chúng tôi quí mến từ thời thơ ấu và cứ mỗi năm trôi qua, chúng tôi lại càng quí mến hơn, người mà chúng tôi chưa được nhìn tận mắt, mới chỉ được nghe về những chuyến bay thiên tài của ông càng ngày càng được mọi người yêu mến, chính người đó đã ra đón tôi và chìa bàn tay chắc nịch cho tôi bắt.

    - Xin chào đồng chí TR., - tôi nói và gọi ông bằng tên và tên đệm, - có lẽ đồng chí không còn nhớ tôi. Tôi là Gri-gô-ri-ép. Chúng ta đã gặp nhau ở Lê-nin-grát, hồi đó tôi còn là học viên phi công.

    Ông im lặng. Sau đó ông rất phấn khởi nói:

    - Sao lại không nhớ! Thật là một con đại bàng! Tôi nhớ!

    Chúng tôi đi vào phòng làm việc của ông. Tôi bắt đầu kể chuyện, tôi càng cảm động hơn bởi vì hình như ông còn nhớ tôi đã...

    Chính trong cuộc gặp mặt này, ông TR. đã tặng tôi một tấm ảnh có ghi hàng chữ: “Nếu đã làm người - phải làm người giỏi nhất”. Ông nói tôi thuộc loại người “có vé tàu đi xa”. Sau khi nghe tôi kể xong, ông nói ngày mai ông sẽ gọi dây nói cho Tổng cục trưởng Tổng cục tuyến đường Hàng không Bắc cực để nói về vấn đề dự án của tôi.
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  3. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 12

    Rô-ma-sca


    Mười hai giờ đêm tôi chia tay đồng chí TR. về nhà. Đối với một người khách như vậy là quá khuya. Thế mà vẫn có một người khách đang chờ tôi, thật ra đó là một vị khách không mời mà đến, nhưng dù sao cũng là khách.


    Người thường trực nói với tôi:


    - Có người tìm anh.


    Rô-ma-sca đứng dậy ra gặp tôi.


    Cần phải nói rằng, lần này không phải chỉ chuẩn bị tinh thần đến gặp tôi mà nó còn chuẩn bị cả thân thể nữa, bởi vì chưa bao giờ tôi nom thấy nó ăn mặc sang như vậy. Nó mặc cái áo bành tô màu thép xanh rất rộng, đầu đội mũ mềm, không phải nó đội mà là đặt trên cái đầu to quá khổ của nó... Từ người nó tỏa ra mùi nước hoa nhè nhẹ.


    - À, Rô-ma-sca, - tôi vui vẻ nói, - Chào cậu, Cú mèo!


    Hình như nó giật mình về câu chào hỏi ấy.


    - À, ừ, cú mèo - nó cười nói. - Mình quên bẵng đi mất, họ đã gọi mình như thế hồi ở trường. Nhưng thật kỳ lạ, cậu còn nhớ những cái biệt hiệu hồi còn đi học ấy!


    Nó cũng cố gắng nói cho có vẻ tự nhiên.


    - Mình ấy à, anh bạn ạ, mình nhớ hết. Cậu đến tìm mình?


    - Nếu như cậu không bận.


    - Không bận gì cả, - tôi nói. - Hoàn toàn rỗi rãi.


    Lúc lên thang máy, nó cứ chăm chú nhìn tôi suốt: хem ra nó đang đoán xem tôi có sау rượu hay không, nếu tôi say rượu nó có thể lợi dụng được gì trong việc này. Nhưng tôi không say - tôi chỉ uống có một cốc rượu vang để chúc sức khỏe người phi công vĩ đại và người bạn già của tôi thôi...


    - Cậu ở đây à, - nó nói khi tôi mời nó ngồi xuống chiếc ghế bành một cách lịch sự. - Buồng tốt lắm.


    - Không sao.


    Tôi chờ xem nó hỏi gì, tưởng nó sẽ hỏi tôi phải trả bao nhiều tiền thuê buồng. Nhưng nó không hỏi.


    - Nói chung đây là một khách sạn tốt, - nó nói, - không kém gì “Mê-trô-pôn”.


    - Có lẽ.


    Nó hy vọng tôi sẽ bắt đầu câu chuyện trước. Nhưng tôi ngồi bắt chân chữ ngũ, hút thuốc lá và chăm chú nghiên cứu kỹ “Bản nội qui đối với khách trọ”, đặt dưới tấm kính trên bàn làm việc. Lúc đó nó thở dài một cách khoan khoái rồi bắt đầu nói.


    - Xa-nhi-a này, chúng mình cần bàn với nhau về rất nhiều vấn đề, - nó nghiêm nghị nói. - Hình như chúng ta đều là những người rất có văn hóa để thảo luận và giải quyết mọi vấn đề một cách hòa bình. Có phải thế không?


    Rõ ràng là nó chưa quên, có lần tôi đã giải quyết “tất cả mọi vấn đề” bằng phương pháp không hòa bình lắm. Nhưng càng nói giọng nó càng trở nên cứng rắn hơn.


    - Mình không biết những nguyên nhân trực tiếp nào đã khiến cho Ca-chi-a thình lình bỏ nhà ra đi. Nhưng mình có quyền hỏi: những nguyên nhân này có liên quan gì đến sự xuất hiện của cậu ở đây không?


    - Về vấn đề này, cậu hãy đi hỏi Ca-chi-a ấy, - tôi bình tĩnh trả lời.


    Nó im lặng. Tai nó đỏ lên, mắt nó bỗng trở nên điên dại, trán căng ra. Tôi nhìn nó thấy thú vị.


    - Nhưng theo mình biết, - nó lại bắt đầu nén giọng nói, - cô ấy cùng đi với cậu.


    - Hoàn toàn đúng. Thậm chí mình còn giúp cô ấp sắp xếp đồ đạc.


    - Thế à, - nó nói giọng khàn khàn. Một mắt nó gần như nhắm lại, còn mắt kia xếch lên - trông thật đến kinh. Lần đầu tiên tôi nom thấy nó như vậy.


    - Thế à, - nó lại nhắc lại.


    - Ừ, như thế đấy.


    - Phải.


    Chúng tôi im lặng.


    - Này, - nó lại bắt đầu nói. - Lần trước tại buổi lễ kỷ niệm của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp, chúng mình nói chuyện với nhau nhưng chưa nói hết. Mình phải nói với cậu rằng, trên những nét chung mình có biết ít nhiều về câu chuyện đội thám hiểm của tàu “Xanh Ma-ri”. Cũng như cậu, mình cũng rất quan tâm đến đội thám hiểm này, có điều quan điểm của mình có lẽ hơi khác quan điểm của cậu.


    Tôi không trả lời gì. Tôi thừa biết quan điểm này của nó.


    - Ngoài ra hình như cậu rất muốn biết ông Ni-cô-lai An-tô- nứt đã đóng vai trò gì trong cuộc thám hiểm này. Hay ít nhất mình cũng có thể phán đoán được qua cuộc nói chuyện này.


    Không phải chỉ có thể phán đoán qua câu chuyện của chúng tôi. Nhưng tôi không bác lại nó. Tôi vẫn chưa hiểu, hiện nay nó ngả về phía nào.


    - Mình nghĩ, về vấn đề này mình có thể giúp cậu được nhiều.


    - Thật, không?


    - Thật.


    Nó bỗng nhảy bổ đến chỗ tôi. Theo bản năng tôi nhảy lên nấp vào đằng sau ghế bành.


    - Cậu nghe mình đây, cậu nghe mình nói đây - nó lắp bắp, - mình biết những điều đó của lão! Mình biết cái trò ấy! Mình có tang chứng đây, nếu biết cách làm thì lão ta sẽ lôi thôi. Cậu cho rằng lão là người như thế nào?


    Nó đã nhắc lại câu này đến ba lần, xích lại sát người tôi, đến nỗi tôi phải nắm lấy vai nó, khẽ đẩy nó lùi lại phía sau. Nhưng nó lại không nhận thấy như vậy.


    - Những trò mà chính lão ta đã quên rồi, - Rô-ma-sốp nói tiếp, - thì lại có giấy trắng mực đen.


    Tất nhiên nó nói về những giấy tờ mà nó lấy được của Vư-si-mia-xki.


    - Mình biết, vì sao các ngài cãi nhau. Cậu nói rằng lão ta ăn cắp của đội thám hiểm, và lão ta đã đuổi cậu ra. Nhưng điều đó là sự thật. Cậu đã đúng.


    Lần thứ hai tôi nghe thấy nó thừa nhận như vậy, nhưng hiện nay nó không làm cho tôi hài lòng lắm. Tôi chỉ làm ra vẻ ngạc nhiên nói:


    - Cậu làm sao thế?


    - Chính lão ta! - Rô-ma-sca nhắc lại với vẻ say mê đê tiện. - Mình sẽ giúp cậu. Mình sẽ đưa cho cậu tất cả, tất cả bằng chứng. Rồi lão ta sẽ phải ba chân bốn cẳng chạy khỏi nơi đây.


    Đáng lẽ cần phải im lặng, nhưng tôi không kìm được nên đã hỏi:


    - Cậu cần bao nhiêu tiền?


    Nó nghĩ lại, và nói:


    - Tùy ý cậu, thế nào cũng được. Nhưng mình chỉ đề nghị cậu có một điều: đề nghị cậu đi khỏi nơi đây.


    - Đi một mình?


    - Ừ.


    - Hay thật. Nghĩa là nói một cách khác là cậu đề nghị mình từ bỏ cô ấy?


    - Mình yêu cô ấy! - nó nói gần như ngạo mạn.


    - À, cậu yêu cô ấy! Điều đó thú vị thật. Cậu còn mong chúng mình từ nay về sau không trao đổi thư từ gì với nhau nữa, có đúng thế không?


    Nó im lặng.


    - Cậu chờ một lát, mình quay lại ngay, - tôi nói và đi ra.


    Bà quản lý tầng góc đang ngồi bên cạnh cái bàn con ở phòng ngoài; tôi để nghị bà cho tôi gọi dây nói. Trong khi nói chuyện, tôi luôn luôn nhìn sang hành lang, xem Rô-ma-sca có đi ra không. Nhưng nó không đi ra - có lẽ nó không ngờ tôi đang gọi dây nói cho một người nào đó.


    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt? Tôi là Gri-gô-ép đây. - Ông ta hỏi lại. Có lẽ ông ấy tưởng nghe lầm. - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt, - tôi nói lịch sự, - xin lỗi, khuya khoắt thế này tôi còn làm phiền ông. Có một vấn đề tôi rất cần gặp ông.


    Ông ta im lặng.


    - Thế thì mời anh đến nhà tôi, - cuối cùng ông ta nói.


    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt! Lần này chúng ta không nên nói ai đến thăm ai. Ông hãy tin tôi, đây là việc rất quan trọng không phải quan trọng đối với tôi, mà là đối với ông.


    Ông ta im lặng và tôi nghe thấy tiếng ông ta thở.


    - Khi nào? Hôm nay tôi không đi được.


    - Không, chính là hôm nay. Ngay bây giờ. Ông Ni-cô-lai An- tô-nứt, - tôi nói to, - ông hãy tin tôi, dù chỉ một lần này trong đời thôi cũng được. Ông hãy đến ngay đi. - Tôi bỏ máy xuống.


    Ông ta không hỏi tôi ở buồng số mấy. Nhân tiện cũng xin nói một điều, qua việc này cũng có thể chứng minh thêm được một bước, tờ báo có đăng bài “Để bảo vệ một nhà bác học” chính là do lão ta gửi cho tôi. Nhưng giờ đây tôi cũng chẳng cần để ý đến việc vặt ấy nữa. Tôi quay lại chỗ Rô-ma-sca.


    Tôi không nhớ rõ có bao giờ tôi lại nói dối và tháo vát như hai mươi phút trước khi Ni-cô-lai An-tô-nứt đến, như thế hay không. Tôi giả vờ tỏ ra rằng trước kia tôi hoàn toàn không thích Ni-cô-lai An-tô-nứt, cố ý thăm dò xem đó là những giấy tờ gì và nói bằng giọng mũi một cách ranh mãnh rằng tôi không thể đi đâu không có Ca-chi-a đi cùng. Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa, tôi nói to:


    - Mời vào!


    Ni-cô-lai An-tô-nứt đi vào, không chào hỏi, dừng lại bên cạnh cửa.


    - Xin chào ông Ni-cô-lai An-tô-nứt; - tôi nói.


    Tôi không nhìn Rô-ma-sca, sau đó tôi nhìn nó: nó ngồi ở tận góc ghế, rụt đầu xuống hai vai, lo lắng nghe ngóng, đúng là con cú mèo, nhưng còn đáng sợ hơn cả cú mèo.


    - Đây, ông Ni-cô-lai An-tô-nứt. - tôi nói tiếp rất bình tĩnh, - không còn nghi ngờ gì nữa, ông chắc biết vị công dân này. Đây là Rô-ma-sốp, người học trò yêu quí và người trợ lý của ông, và nếu tôi không lầm thì chỉ kém mấy phút nữa các người sẽ trở thành những người thân thích của nhau. Mục đích tôi mời ông đến là để chuyển tới ông một cách khái quát nội dung cuộc nói chuyện của chúng tôi.


    Ni-cô-lai An-tô-nứt vẫn đứng bên cạnh của - đứng rất thẳng, thẳng một cách lạ lùng, mình mặc áo bành tô, tay cầm mũ. Sau đó ông đánh rơi cả mũ.


    - Vị Rô-ma-sốp này. - tôi nói tiếp, - đến chỗ tôi cách đây một giờ rưỡi, có đề nghị những điểm như sau: anh ta đề nghị tôi sử dụng những chứng từ để chứng minh, thứ nhất ông đã cướp đoạt của cải của đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp. Thứ hai, trước kia ông còn những hành vị khách mà ông chưa nhắc đến trong bản kiểm tra.


    Đó chính là lúc ông ta đánh rơi cái mũ khỏi tay.


    - Tôi có ấn tượng như thế này, - tôi tiếp tục nói, - món hàng này hắn bán không phải lần đầu. Tôi không biết, có thể là tôi lầm.


    - Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt! - Rô-ma-sca bỗng hét lèn. - Đó toàn là nói láo. Đừng có tin nó. Nó nói láo.


    Tôi chờ một lát, chờ cho nó ngừng hò hét rồi mới nói.


    - Tất nhiên, bây giờ việc này không còn giá trị nữa, - tôi nói tiếp, - bây giờ việc này chỉ là mối quan hệ của các vị. Nhưng ông có ý thức...


    Tôi cảm thấy từ lâu, trên mặt mình đang có một dòng máu đang nhảy nhót, nhưng tôi không thích cái đó, bởi vì tôi đã thầm hứa với mình là nói chuyện với họ phải hết sức bình tĩnh.


    - Nhưng ông đã có ý thức muốn cho con người này trở thành người chồng của Ca-chi-a. Ông đã khuyên nhủ cô ấy - tất nhiên là từ tư tưởng đê tiện - bởi vì ông đã sợ hắn. Nhưng giờ đây hắn đã đến chỗ tôi và nói: “Lão ta sẽ vắt chân lên cổ mà chạy khỏi nơi đây”.


    Hình như bỗng tỉnh người ra, Ni-cô-lai An-tô-nứt bước lên một bước và nhìn chằm chằm vào Rô-ma-sca. Ông ta nhìn nó lâu, rất lâu đến nỗi tôi cảm thấy khó mà chịu đựng nổi cảnh im lặng căng thẳng này.


    - Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt. - Rô-ma-sốp lại lắp bắp nói khẽ.


    Ni-cô-lai An-tô-nứt vẫn cứ nhìn. Nhưng sau ông ta cũng nói khiến tôi rất đỗi ngạc nhiên là giọng ông ta rất đau khổ, rất bi ai.


    - Anh mời tôi đến đây để làm gì? - Ông ta hỏi. - Tôi đang ốm, nói cũng khó khăn. Anh muốn để tôi tin rằng nó là một thằng đê tiện. Đối với tôi, đây không phải là điều gì mới mẻ, Anh lại muốn giết tôi, nhưng anh không có đủ sức để làm hơn những gì anh đã làm và cũng không sửa chữa được nữa đâu. - Ông ta thở dốc. Quả thật tôi thấy ông ta nói rất khó khăn.


    - Hãy để cho lương tâm cô ta phán xử. - ông ta tiếp tục nói khẽ, nhưng với thái độ hung ác, khác thường, - vì cô ấy tin ở những lời vu khống đê tiện, bức hại cả đời tôi, ra đi mà chẳng nói với tôi một lời.


    Tôi im lặng. Rô-ma-sca tay run run rót cốc nước đem ra cho ông ta.


    - Thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt, - nó nói lắp bắp, - thầy không nên xúc động.


    Nhưng Ni-cô-lai An-tô-nứt gạt tay nó ra một cái rất mạnh; nước sóng hết cả xuống thảm.


    - Tôi không nhận, - ông nói và bỗng dưng bỏ kính ra, bóp chặt trong tay. - Tôi không nhận những lời chê trách cũng không tiếp nhận lòng thương hại. Đây là công việc của cô ấy. Đấy là số phận riêng của cô ấy. Tôi chỉ cần mong cho cô ấy một điều duy nhất là hạnh phúc. Nhưng còn sự tưởng nhớ của tôi đối với em tôi thì tôi không trao cho ai hết, - ông nói giọng khàn khàn, cái mặt cau có, phù sũng với đôi môi dày. - Tôi đành cam chịu sự giày vò này dù cho đến chết cũng được, bởi vì đã từ lâu tôi không cần cuộc sống này nữa rồi. Nhưng đã không có chuyện như vậy thì tôi kiên quyết phủ nhận những lời buộc tội đáng sợ, nhục nhã này. Nếu cho rằng một nhân chứng không đủ, anh có thể mang hàng nghìn nhân chứng giả tạo nữa đến cũng không sao, dù sao cũng không có ai có thể tin được rằng chính tôi đã giết con người đó cùng với những tư tưởng vĩ đại, cùng với tâm hồn vĩ đại của ông ta.


    Tôi định nhắc Ni-cô-lai An-tô-nứt rằng xưa nay ông vẫn đánh giá cao người em trai của ông như vậy, nhưng ông không cho tôi nói.


    - Tôi chỉ thừa nhận có một nhân chứng, - ông ta nói tiếp, - đó chính là bản thân ông ta, ông I-van. Chỉ có mình ông ấy có thể kết tội được tôi, và nếu như tôi có tội, thì chỉ có mình ông ấy có cái quyền này.


    Ni-cô-lai An-tô-nứt khóc. Ngón tay ông bị mảnh kính cứa làm toạc ra, ông rút mãi cái khăn tay. Rô-ma-sca nhảy bổ đến giúp ông nhưng Ni-cô-lai An-tô-nứt lại gạt tay nó ra.


    - Ngay đến người chết cũng phải lên tiếng, - ông nói và thở dốc một cách yếu ớt, thò tay xuống nhặt cái mũ.


    - Ông Ni-cô-lai An-tô-nứt, - tôi nói rất bình tĩnh, - ông đừng nghĩ rằng tôi định hy sinh cả tính mạng để chứng minh cho toàn nhân loại biết về sai lầm của ông. Đối với tôi, việc này đã rõ từ lâu rồi, còn bây giờ thì không phải chỉ mình tôi rõ. Tôi mời ông đến không phải để nói chuyện này. Chẳng qua tôi cho rằng mình có trách nhiệm phải vạch cái bộ mặt thật của tên đểu cáng này ra trước mặt ông thế thôi. Tôi không cần nó phải báo cáo với tôi về những công việc của ông, hơn nữa tất cả những việc này tôi đã biết từ lâu rồi, ông có còn muốn nói với nó điều gì nữa không?


    Ni-cô-lai An-tô-nứt im lặng.


    - Thôi, thế thì hãy cút đi! - Tôi nói với thằng Rô-ma-sca.


    Nó nhảy bổ đến trước mặt Ni-cô-lai An-tô-nứt và thì thào gì đó với ông ta. Nhưng Ni-cô-lai An-tô-nứt cứ đứng đực ra như người mất hồn, mắt nhìn thẳng về phía trước. Mãi đến lúc này tôi mới nhận thấy những ngày qua ông ta già đi nhiều thật, trông ông ta ỉu xìu và thật đáng thương... Nhưng tôi không thương, - mới chỉ như thế này chưa đủ.


    - Cút đi! - tôi lại nói với Rô-ma-sca.


    Nó không ra, vẫn thì thào. Sau đó nó dìu tay Ni-cô-lai An-tô- nứt dẫn ông ta ra cửa. Đó thật là điều không ngờ, bởi vì tôi chỉ muốn đuổi thằng Rô-ma-sca chứ không phải đuổi Ni-cô-lai An- tô-nứt mà chính tôi đã mời đến. Tôi còn muốn hỏi ông ta xem ai viết bài báo “Để bảo vệ một nhà bác học”. I. Crư-lốp có phải là con cháu của nhà ngụ ngôn nổi tiếng hay không? Nhưng đã chậm - họ đã đi ra.


    Xem ra hình như tôi vẫn chưa làm cho quan hệ giữa họ bị tan vỡ. Họ dìu nhau đi chầm chậm trong hành lang dài, Ni-cô-lai An-tô-nứt chỉ dừng lại một phút để vuốt lại mái tóc. Đầu ông ta không còn tóc, ông ta sửng sốt đau đớn nhìn thấy mấy sợi tóc tơ giữa những ngón tay mình. Rô-ma-sca đỡ tay ông ta, phủi áo bành tô cho ông ta, rồi họ lại chậm rãi bước tiếp cho đến khi khuất vào lối rẽ.


    Một ngay trước hôm ra đi, đồng chí TR. Gọi điện thoại cho tôi báo là ông đã nói chuyện với Tổng cục trưởng Tổng cục đường Hàng không Bắc cực, và chính ông đã đọc bản báo cáo của tôi cho ông ấy nghe. Ông ấy trả lời rất tốt. Năm nay cử đội thám hiểm đi thì muộn rồi, nhưng sang năm chắc chắn sẽ có. Bản đề án nêu ra rất có sức thuyết phục, đổi đôi chút cho cụ thể hơn. Phần lịch sử rất có ý nghĩa. Họ sẽ cho gọi tôi lên gặp, thông tri sẽ gửi sau.


    Suốt cả ngày hôm đó tôi lang thang ở các cửa hiệu: tôi muốn tặng cái gì đó cho Ca-chi-a, chúng tôi lại chia tay nhau rồi. Đó là một việc không dễ dàng, tặng bộ đồ trà ư? Nhưng cô không có ấm pha trà. Hay áo dài? Nhưng xưa nay tôi có phân biệt được thế nào là kếp và lụa đâu. Hay máy ảnh? Đúng là cô rất cần máy ảnh thật, nhưng tôi làm sao có đủ tiền mua máy ảnh Lây-ca.


    Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nếu tôi không gặp Va-li-a ở A-rơ-bát, có lẽ tôi chẳng mua được gì hết. Nó đứng cạnh cửa sổ một hiệu sách và đang suy nghĩ điều gì - nếu là trước đây thì tôi đã khẳng định không sai nó đang nghĩ về loài động vật. Nhưng hiện nay nó cũng đang có một đối tượng buộc nó phải suy nghĩ.


    - Va-li-a, - tôi gọi. - Này cậu có tiền không?


    - Có.


    - Có bao nhiêu?


    - Năm trăm rúp.


    - Cho mình vay tất.


    Nó cười.


    - Thế nào, cậu lại định đi En-xcơ tìm Ca-chi-a à?


    Chúng tôi đi đến gian hàng bán máy ảnh và mua chiếc máy ảnh Lây-ca...


    Đối với mọi người thì tôi đi lúc một giờ đêm, nhưng với Ca- chi-a mãi đến sáng chúng tôi mới chia tay. Lúc thì tôi đến nhà cô, lúc thì cô đến cơ quan làm việc. Lần này chúng tôi xa nhau không lâu lắm: đến tháng Tám cô sẽ lên Da-pô-li-a-ri-e với tôi, nhưng tôi lại mong cấp trên gọi tôi về sớm hơn, có lẽ vào tháng Bảy. Nhưng dù sao tôi cũng hơi sợ - làm sao đừng có xa nhau lâu nữa...


    Va-li-a mang ra ga tờ báo “Sự thật” có bài của tôi. Bài báo đã đăng toàn bộ những vấn đề tôi viết ra. Chỉ có một chỗ sửa chữa đôi chút về văn chương. Toàn văn rút gọn lại gần một nửa. Nhưng phần trích nhật ký thì đăng tất cả: “Tôi mãi mãi sẽ không quên lần từ biệt ấy, sẽ không bao giờ quên gương mặt xanh xao nhưng phấn chấn và cái nhìn xa vời ấy. Tất cả những cái đó chẳng còn giống chút nào với con người trước kia có bộ mặt hồng hào, tràn đầy sức sống, lúc nào cũng có thể nghĩ được ra những chuyện khôi hài và giai thoại, thần tượng của toàn đội chúng tôi, con người nào cũng cười đùa trước mọi khó khăn gian khổ nhất. Ông nói xong rồi mà chẳng ai muốn rời đi. Ông đứng đấy, mắt nhắm lại, hình như ông đang chuẩn bị tinh thần để nói ra lời từ biệt. Nhưng thay cho lời từ biệt là một tiếng thở dài yếu ớt và ở đuôi mắt có những giọt lệ long lanh...”


    Tôi và Ca-chi-a đọc đoạn này trên lối đi trong toa tàu, tôi cảm thấy những sợi tóc của cô chạm vào mặt tôi. Tôi còn cảm thấy cô đang cố gắng nuốt những giọt nước mắt để nó khỏi chảy ra ngoài.


    Hết tập 1


    (1) Một rúp có 100 cô-pếch. - N.D.


    (1) Cá mồi là con cá làm bằng kim loại sáng lóng lánh bên dưới mắc lưới câu dử cá đến ăn mồi sẽ mắc lưới câu. - N.D.


    (1) Ngày lễ E-go-ri vào ngày mồng bẩy tháng Năm hàng năm, theo tập quán người Nga hôm đó mọi người đi dong chơi ở ngoài trời gần giống như tết Thanh minh của ta trước đây. - N.D,


    (1) Lê-vi-tan (1861 - 1900) họa sĩ nổi tiếng của nước Nga. N -D.


    (1) Crít-xtốp Cô-lông (1451 - 1506) nhà hàng hải người Ý, phát hiện châu Mỹ năm 1492, - N.D.


    (4) Va-xcô Nu-nhi-ốt Ban-boa (1475 - 1517) nhà hàng hải người Tây- ban-nha. - N.D.


    (1) Thường là những căn nhà ở ngoại thành chỉ để ở tạm vào những ngày nghỉ - N.D.


    (1) Ma-sa, Ma-sen-ca, Ma-nhi-a, Ma-ru-xi-a, Ma-ru-xen-ca. Ma-nét-sca, cũng là Ma-ri-a - N.D.
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  4. Rafa

    Rafa SV

    THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY Tập II

    V. CA-VÊ-RIN​

    (Giải thưởng văn học Xta-lin 1946) Tái bản

    Ngọc Kỳ và Trần Luân Kim dịch​

    NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN - 2004​

    Dịch theo bản Nga văn của Nhà xuất bản “Văn nghệ” Mát-xcơ-va 1964 và bản Trung văn của Nhà xuất bản “Nhân dân văn học” Bắc-kinh 1959.

    Phần thứ sáu

    TUỔI XUÂN ĐANG TIẾP TỤC

    (LỜI KỂ CỦA CA-CHI-A TA-TA-RI-NÔ-VA)​

    Chương 1

    “Cô chưa hiểu cậu ta đâu”

    I-van Pa-vơ-lứt đã thận trọng bước ra khỏi toa tàu mà Va-li-a vẫn còn nán lại nhờ Xa-nhi-a chuyển lời hỏi thăm bác Pa-ven Pê-trô-vích nào đó ở nông trường chăn nuôi quốc doanh: “Chà, khỉ thật! Và cả bác sĩ nữa! Tí nữa thì quên mất” - mãi cho tới khi Ki-ra quay lại khoác tay cậu ta lôi đi mới thôi. Chúng tôi còn lại hai người. Ôi, tôi thật chẳng muốn để Xa-nhi-a ra đi chút nào!

    Nom Xa-nhi-a lúc này đẹp vô cùng. Tôi muốn khắc sâu vào lòng chẳng những đôi mắt tôi đang nhìn, mà còn tất cả: anh đứng đó đầu không đội mũ, trông như trẻ hẳn ra, ngay đến tôi cũng phải nghĩ, lúc này mà anh cưới vợ thì hãy còn sớm quá. Khi anh mặc lễ phục, người có vẻ cao lên, nhưng dù sao anh vẫn thuộc cỡ người nhỏ bé. Có lẽ chính vì thế mà đôi khi anh cứ vô tình kiễng chân lên. Lúc này đây, khi tôi quay lại nhìn cũng thấy anh đang kiễng chân lên như thế. Lúc nào anh cũng gọn gàng, chu đáo. Nhưng cái mớ tóc cứ dựng ngược lên ở trên chỏm, nom anh rất kỳ, đặc biệt là lúc anh cười. Sau một hồi thắm thiết ôm nhau, lúc tôi quay lại nhìn anh lần cuối cùng ở bậc lên xuống, anh cười giống hệt chàng Xa-nhi-a đáng yêu, cương nghị và đen thui hồi tôi mới bắt đầu yêu anh.

    Người trên sân ga rất đông, song hầu như tôi chẳng nhìn thấy ai cả và suýt nữa thì bị ngã khi tôi từ trên bậc toa tàu bước xuống. Ôi, tôi thật chẳng muốn để anh ra đi chút nào!

    Tàu bắt đầu chuyển bánh, anh cầm mũ vẫy rối rít. Tôi vừa chạy theo toa tàu, vừa luôn miệng đáp lời anh: “Vâng, vâng”.

    - Viết thư cho anh nhé?

    - Vâng, vâng!

    - Ngày nào cũng viết nhé?

    - Vâng!

    - Lên thăm anh nhé?

    - Vâng, vâng!

    - Em yêu anh nhé?

    Anh hỏi câu này rất khẽ, nhưng từ đôi môi của anh, tôi đã đoán ra.

    - Vâng, vâng!

    Tiễn anh đi rồi, chúng tôi bước ra khỏi ga đưa chân bác I-van Ра-vơ-lứt. Trên đường về bác chỉ nói đến mỗi Xa-nhi-a.

    - Cái chủ yếu là đừng có hiểu cậu ta là người quá phức tạp, - bác nói. - Cô lại là người hay tự ái, cho nên trong thời kỳ đầu, hai cô cậu rất dễ va chạm nhau. Ca-chi-a này, nói chung hầu như cô chưa hiểu cậu ta lắm đâu.

    - Sao bác lại nói thế ạ?

    - Cô có biết đặc điểm chính của cậu ta là cái gì không? Cậu ta sẽ mãi mãi là một người trẻ trung, bởi vì đây là một con người sôi nổi, nhiệt tình, một con người có lý tưởng.

    Bác nghiêm nghị nhìn tôi và nhắc lại:

    - Một con người có lý tưởng... Còn cô thì kiêu căng... Nhưng thôi, cô chớ nên bận tâm đến điều đó làm gì.

    Tôi cười.

    - Có gì mà đáng cười. Tất nhiên là kiêu từ bé, nhưng hồi đó hoàn toàn khác. Xa-nhi-a là người nóng tính. Nói tóm lại, Ca- chi-a ạ, cô hãy suy nghĩ về cậu ta đi.

    Tôi đáp lại bác là tôi đã nghĩ về Xa-nhi-a quá nhiều rồi, vả lại anh ta cũng chẳng phải là nhân vật gì vĩ đại đến nỗi khiến người ta phải suốt ngày nghĩ đến.

    Nhưng ngay tối hôm đó tôi đã làm như thế: vừa ngồi xuống ghế là đã nghĩ về Xa-nhi-a. Mọi người đều đi vắng hết. Va-li-a và Kara rủ nhau đi xem phim. Bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na đi đến câu lạc bộ gì đó để kể chuyện “Yêu say đắm cái mồm loe” phỏng theo Goóc-ki. Chuyện này do bà tự soạn nên bà rất lấy làm tự hào. Còn tôi, tôi cứ ngồi mãi, vẽ tiếp tấm bản đồ của mình, nhưng rồi cũng quẳng đấy mà suy nghĩ miên man.

    Phải, bác I-van Pa-vơ-lứt đã nói đúng, quả là tôi chưa hiểu hết Xa-nhi-a. Lúc nào tôi cũng cứ hình dung anh là một cậu bé mặc áo cánh. Cậu bé đã từng đợi tôi trong vườn hoa giữa phố Tri-um-phan-nai-a, luôn chân đi đi lại lại với vẻ rất sốt ruột, cho mãi tới khi đèn phố "bật sáng và tôi đột ngột quyết định băng qua quảng trường để đi lại phía cậu. Cậu bé mà tôi đã ôm hôn, mặc dù ở đó các bạn học sinh cùng trường tôi, cũng như học sinh của hai trường trung học số 143 và số 28 có thể nhìn thấy chúng tôi hôn nhau như thế nào! Cậu bé ấy ngày nay chỉ còn sống trong trí tưởng tượng của tôi, nó hoàn toàn không giống Xa-nhi-a ngày nay, cũng tựa như cái hôn đầu tiên của chúng tôi khác xa với những cái hôn bây giờ vậy.

    Song tôi không hề nhìn anh bằng con mắt quá phức tạp! Chẳng qua tôi nhìn thấy ở anh ngoài thế giới hoàn chỉnh và khác lạ mà tôi chưa hề hiểu biết tí gì. Đó là thế giới nằm trong phạm vi nghề nghiệp của anh. Thế giới của những tuyến đường đơn điệu và đầy hiểm nguy trên Bắc cực, thế giới của những cuộc gặp gỡ bất ngờ với những phi công quen thuộc ở trong Câu lạc bộ phi công, thế giới của những tình cảm sôi động khi nhìn thấy một loại máy bay mới được ra đời. Không có cái thế giới ấy, chừng như anh không thể sống nổi lấy một tuần lễ! Nhưng với tôi, trong thế giới ấy, hiện nay tôi tạm thời chưa tìm thấy cho mình một chỗ đứng nào. Có lần anh kể cho tôi nghe về một chuyến bay nguy hiểm, tôi thấy mình có một cảm giác lạ lùng - cứ như tôi đang nghe anh kể về một người nào ấy. Tôi không thể nào hình dung nổi cảnh anh bị bão tuyết tấn công, khi hạ cánh phải kỳ diệu lắm mới có thể thoát chết, và sau đó anh lại ngồi trong máy bay suốt ba ngày ba đêm liền, cố gắng không ngủ và dần dần bị lạnh cóng. Đây là một câu nói khá ngớ ngẩn, song tôi đã lỡ mồm nói ra:

    - Thế anh không có cách nào để những trường hợp như thế không xảy ra nữa được ư?

    Trên nét mặt anh chợt lộ vẻ bối rối, anh nói giọng nửa đùa nửa thật:

    - Được, từ nay về sau anh sẽ không để những chuyện như thế xảy ra nữa!

    ... Cố nhiên là anh hoàn toàn có thể trực tiếp kể cho tôi nghe nội dung câu chuyện trao đổi giữa anh với Vư-si-mia-xki. Thế nhưng anh lại nhờ bác I-van Pa-vơ-lứt nói lại với tôi. Anh cảm thấy rằng vấn đề không phải ở cá nhân anh đúng hay sai. Đây không phải là vấn đề chân lý của cá nhân, mà là một vấn đề khác hẳn. Tôi sẽ nghe bác I-van Pa-vơ-lứt nói về cái chân lý ấy, vì bác là người đã từng yêu mẹ tôi và mãi tới bây giờ bác vẫn sống một cuộc sống độc thân đầy bất hạnh. Tôi biết tối hôm đó Xa-nhi-a sẽ chờ tôi trên phố, vì vậy khi trông thấy anh đứng trước cửa công viên cạnh góc đường Vô-rốt-ni-cốp-xki và Xa-đô-vai-a, tôi không ngạc nhiên chút nào. Nhưng anh cũng không ra đón tôi, mặc dù tôi biết anh đi theo sau tôi cho đến tận nhà. Anh hiểu rằng lúc này tôi cần được yên tĩnh một mình. Trong giây phút ấy tôi ở ngay bên cạnh anh, nhưng lại xa nhau một cách kinh khủng, bởi vì hình như anh đã đúng, còn tôi thì sai và tôi đã bực mình là tôi lại biết việc đó qua bác Cô-ra-bơ-li-ốp...

    Trong thời gian Xa-nhi-a ở Mát-xcơ-va, chúng tôi chỉ ở gần nhau có một buổi tốì. Khi đến chỗ tôi, anh có vẻ rất mệt mỏi. Lúc ấy bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na đang định kể cho chúng tôi nghe những khó khăn trước lúc ra biểu diễn trước công chúng và những yêu cầu về mặt thể hiện tình cảm để đạt tới hiệu quả diễn xuất cao; song vừa trông thấy Xa-nhi-a đến bà liền đi luôn.

    Mặt trời đã ngả về tây, ánh nắng tràn ngập cái ngõ Xíp-xép Vra-giéc chật hẹp, tuồng như ông mặt trời cố thu hết ánh nắng ở các nơi về và quyết định lưu lại vĩnh viễn trên dãy phố quanh co này. Tôi rót chè cho Xa-nhi-a uống - anh thích uống nước chè đặc - mắt nhìn anh không rời xem anh ăn và uống, cuối cùng anh một mực bắt tôi ngồi xuống bên cạnh, cùng uống trà với anh.

    Chợt anh nhớ tới một chuyến đi trượt băng trước kia của hai chúng tôi và bịa chuyện rằng có một lần trên sân băng anh đã hôn lên má tôi. Anh còn nói lần ấy “mặt em cứng như đanh, lông tua tủa và lạnh như tiền”. Trong lúc anh nói những điều ấy thì tôi lại mải nghĩ đến cảnh anh luận tội Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin. Khi nói anh vẫn âm thầm nhìn tôi, và sau đó trong lời kết luận anh gọi Gri-sca Pha-be là thằng “tốt mã”.

    - Em còn nhớ câu "Gri-gô-ri-ép là một nhân tài kiệt xuất, đến nỗi ngay cả tác phẩm của Đích-ken cũng chưa đọc" không?

    - Sao lại không, thế về sau anh đã đọc chưa?

    - Chưa. - Xa-nhi-a nói giọng buồn buồn. - Bận quá không sao tranh thủ được. Anh vừa đọc xong quyển "Trinh nữ Oóc-lê-ăng” của Von-te. Không hiểu vì lẽ gì thư viện ở Da-pô-li-a-ri-e lại có rất nhiều tác phẩm của Von-te.

    Trong ánh hoàng hôn đôi mắt anh càng đen lay láy. Trong giây lát tôi có cảm giác như tất cả đều chìm lặn, chỉ còn lại đôi mắt ấy. Tôi định nói rằng ở Da-pô-li-a-ri-e mà lại có nhiều Von-te thì cũng thật là lạ; nhưng chưa kịp nói ra thì hai đứa đã ôm nhau hôn liên hồi kỳ trận rồi. Giữa lúc đó, chuông điện thoại réo ầm lên. Tôi chạy ra cầm lấy ống nghe, nói chuyện với cô giáo cũ có đến nửa tiếng đồng hồ. Bà vẫn gọi tôi là “Cô bé” và muốn biết tất cả mọi việc về tôi, ngay cả đến việc buổi trưa tôi ăn cơm ở đâu, tôi đã mua được chiếc chụp đèn xinh xắn của công ty “Miu-rơ” chưa, vân vân. Khi tôi quay lại thì Xa-nhi-a đã ngủ say. Tôi cất tiếng gọi anh, nhưng sau đó liền thôi ngay vì không nỡ làm mất giấc ngủ của anh. Tôi ngồi xuống cạnh anh và ngắm nhìn anh rất gần rất kỹ.

    Tối hôm ấy Xa-nhi-а trao cho tôi quyển nhật ký của người hoa tiêu và tất cả những giấy tờ và ảnh. Quyển nhật ký đặt trong một chiếc cặp đặc biệt có khóa cẩn thận. Sau khi Xa-nhi-a đi rồi, tôi đem mớ giấy tờ nhàu nát ra ngắm nghía nhìn một lúc rất lâu, tờ nào cũng thấy dày đặc những dòng chữ ngoằn ngoèo. Có lúc, những dòng chữ ấy như bị đuối sức, bàn tay của người viết như không còn tự chủ được nữa, tuy vẫn viết đấv nhưng tâm trí đã đi đằng nào mất rồi. Phải kiên trì biết bao, phải có nghị lực biết nhường nào mới có thể đọc được hết quyển nhật ký này!

    Chiếc câu liêm cũ bằng đồng thau có khắc chữ “tàu Xanh Ma-ri” đang để ở thành phố Da-pô-li-a-ri-e, nhưng Xa-nhi-a đã mang tấm ảnh của nó về đây. Có lẽ không có chiếc câu liêm nào trên thế giới được chụp rõ như thế này!

    Tất cả những thứ này tựa như muôn vàn mảnh vụn của một bộ sử lớn, nó phân tán rải rác khắp nơi trên thế giới, và giờ đây Xa-nhi-a nhặt nhanh chúng lại để viết nên hoặc là còn đang viết tiếp bộ sử ấy. Còn tôi thì sao? Tôi chẳng làm nên trò trống gì cả. Nếu không có Xa-nhi-a, tôi cũng chẳng biết gì về cha mình nữa. Tôi chỉ còn nhớ cái cảnh chia tay ở ga tàu hỏa Em-xcơ thôi. Lúc ấy ông bế tôi trong tay và tung lên cao lần cuối cùng rồi đỡ bằng đôi tay khổng lồ nhân đức của mình. Ngoài ra tôi không còn nhớ gì nữa.

    Tôi đã hứa ngày nào cũng viết thư cho Xa-nhi-a. Nhưng thực ra nếu ngày nào cũng viết thì chẳng có gì để viết cả. Tôi vẫn ở nhờ nhà Ki-ra. Lúc này học tập và công tác đều rất bận, mà ở đấy thì lại chẳng thuận tiện chút nào, bởi vì những hòm xiểng đựng những mẫu quặng đều phải để ở phòng ngoài. Khi vẽ bản đồ thì chỉ có cách là trải giấy lên trên mặt chiếc đàn dương cầm mà vẽ...

    Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên tôi không đi chơi xa, vì cần phải chỉnh lý gấp tài liệu nên Cục địa chất Ba-skia, nơi tôi đang làm việc, cho phép tôi nghỉ hè ngay tại Mát-xcơ-va.

    Ngày nào bà tôi cũng đến thăm tôi. Tóm lại mọi việc đều rất tốt đẹp... Dạo này Va-li-a và Ki-ra đột nhiên có vẻ lạnh lùng, nghiêm nghị khác thường, lúc nào cùng ngồi ở “nhà bếp’’ rì rầm trò chuyện. Ngoài chỗ đó ra không còn chỗ nào yên tĩnh để họ có thể nói chuyện riêng với nhau được. Ngôi nhà này vốn là một nhà bếp cũ rộng lớn được chia thành hai buồng: buồng “bếp chung” và buồng “bếp riêng”. Va-li-a cùng Ki-ra ngồi ở bên kia bức phên tức là buồng “bếp riêng”, vì thế bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na đành phải làm cơm tối ở buồng “bếp chung”.

    Về sau không thấy Va-li-a đem tặng hoa nữa. Có lẽ cậu ta không còn tiền. Nhưng bỗng một hôm, cậu ta mang đến một con chuột cống lông trắng tinh. Ki-ra thấy chuột hãi quá, nhảy vội lên bàn kêu thất thanh, khiến Va-li-a rất lấy làm khoái trá. Cậu ta cố gắng giải thích cho Кi-rа hiểu rằng đó là loại chuột cống bị bệnh bạch hóa rất khó tìm thấy trong bộ sưu tập. Song Ki-ra vẫn không hết sợ, miệng vẫn kêu thất thanh và không dám nhảy xuống. Cuối cùng Va-li-a đành phải lấy khăn tay ra gói con chuột lại rồi đem để trên chiếc bàn đặt ở phòng ngoài. Nửa đêm bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na từ nhà hát trở về thấy con chuột trên bàn cũng kêu toáng lên. Thế là Va-li-a đành phải mang món quà đặc biệt ấy ra khỏi nhà.

    Đêm đến, sau những câu chuyện tâm sự kéo dài, tôi và Ki-ra cứ phải thay nhau nhắc “Thôi, ngủ đi” và thế là Ki-ra ngủ ngay. Trong giấc mơ đẹp đẽ, nét mặt cô nàng lộ rõ vẻ hứng thú đầy hạnh phúc. Lúc này chỉ còn lại một mình, tôi suy nghĩ miên man. Tôi nghĩ đến mối tình thơ đẹp, trọn vẹn của hai người. Đó là thời kỳ tốt đẹp nhất trong đời. Cuộc sống của họ khác xa chúng tôi! Họ lúc nào cũng sống bên nhau, ngày nào cũng trông thấy nhau. Còn chúng tôi thì cách biệt nhau hàng vạn dặm!

    Tôi ngỡ như mình đang từ trong toa tàu hỏa nhìn qua cửa sổ ra ngoài, những cánh đồng và rừng thẳm, rồi lại những cánh đồng, sau đó đến những cánh rừng nguyên thủy và những dải sông miền bắc lạnh lẽo, những bình nguyên rồi lại bình nguyên phủ tuyết dày đặc, thật là cả một không gian vô tận nằm giữa, ngăn cách chúng tôi. 

    “Tất nhiên, rồi thế nào chúng tôi cũng sẽ được gặp nhau, - tôi tự tin như vậy. - Tôi sẽ lên với anh ấy, và tất cả sẽ lại tốt đẹp. Hai năm nay tôi chưa nghỉ phép. Tôi sẽ xin nghỉ phép để lên với anh ấy. Hoặc là anh ấy sẽ lại về. Rất có thể trong tháng bảy anh ấy đã về...”

    Nhưng đầu óc tôi vẫn nặng trĩu những ý nghĩ rối bời...

    Tấm bản đồ này làm tôi vất vả, vì trên những bản đồ tương tự vẽ trước đây có nhiều chỗ sai. Bây giờ đành phải vẽ lại từ đầu. Trong những ngày đầu sau khi Xa-nhi-a ra đi, công việc càng bề bộn, tôi càng phải gắng sức cáng đáng cho xong. Cho dù trong những đêm này có bị dằn vặt, khổ tâm đến thế nào chăng nữa, tôi vẫn cảm thấy một cách mơ hồ rằng, tất cả mọi nỗi đau khổ, cô đơn và bất hạnh đều sẽ lùi vào dĩ vãng. Trước mắt giờ đây chỉ có những điều mới lạ đầy lý thú. Nghĩ thế, lòng tôi rộn lên, cảm thấy trong người nhẹ nhõm khoan khoái vô cùng, và hình như trong đó cũng có pha chút ít sợ hãi.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  5. Rafa

    Rafa SV

    Chương 2
    Trên quảng trường Xô-ba-tri

    Trong ngày cuối cùng trước khi lên đường ra đi, Xa-nhi-a đến Tổng cục đường hàng không Bắc cực và tòa soạn báo “Sự thật”. Ở đâu anh cũng lưu lại số điện thoại riêng của tôi. Khi anh nói cho tôi biết việc ấy, tôi phát hoảng lên.

    - Sao anh lại làm thế? Nếu họ gọi điện hỏi em là ai thì em biết trả lời thế nào?

    - Em cứ trả lời rằng tôi là Ca-tê-ri-na I-va-li-a-nốp-na Ta-ta- ri-nô-va Gri-gô-ri-e-va, - Xa-nhi-a nói giọng nghiêm trang.

    Tôi ngỡ rằng anh đùa. Nhưng sau khi anh đi chưa được ba ngày đã có người gọi điện đoạn đến hỏi Ca-tê-ri-na I-va-li-a-nốp- na Ta-ta-ri-nô-va Gri-gô-ri-e-va thật.

    - Vâng, tôi đây!

    - Chúng tôi ở tòa báo “Sự thật”.

    Một nhà báo tôi thường gặp trên tờ “Sự thật” nói rằng bài báo của Xa-nhi-a đã gây một tiếng vang khá lớn, thậm chí cả Viện nghiên cứu Bắc cực cũng cử người đến tìm hiểu bài báo và tác giả của nó.

    - Chị hãy chúc mừng thành công của chồng chị đi! 

    Tôi muốn cải chính rằng anh ấy chưa phải là chồng của tôi. Nhưng không hiểu sao cuối cùng tôi lại chẳng nói được lời nào.

    - Nghe nói chị là con gái của thuyền trưởng Та-ta-ri-nốp phải không?

    - Đúng thế ạ.

    - Chị còn giữ được những tài liệu về cuộc đời và hoạt động của ba chị không?

    Tôi trả lời rằng có, nhưng rất tiếc là nếu chưa được sự đồng ý của А-lếch-xan-đrơ I-va-nô-vích - lần đầu tiên trong đời tôi gọi Xa-nhi-a bằng tên cúng cơm và tên đệm - thì tôi không thể sử dụng những tài liệu ấy được.

    - Thế thì chúng tôi sẽ viết thư cho anh ấy vậy...

    Tạp chí “Hàng không dân dụng” cũng gọi điện thoại cho tôi, hỏi số tạp chí có đăng bài “Làm thế nào để ổn định máy bay trong khi có bão tuyết?” của Xa-nhi-a sẽ gửi về đâu cho tác giả - tôi chưa hề biết việc anh ấy viết bài báo này. Tôi nói địa chỉ cho tạp chí và yêu cầu gửi đến hai quyển, một quyển tôi sẽ giữ lại xem, còn quyển kia gửi cho Xa-nhi-a. Về sau báo “Văn học” cũng gọi điện thoại hỏi tôi: Gri-gô-ri-ép là ai, có phải là một nhà văn không?

    Song quan trọng nhất vẫn là cuộc nói chuyên với đồng chí TR. Tôi không biết Xa-nhi-a đã nói với ông ấy những gì về tôi, nhưng qua dây nói, ông ấy bắt chuyện với tôi rất thân mật và tựa hồ như đôi bạn cũ vậy.

    - Đã lĩnh tiền tử tuất chưa?

    - Tôi không hiểu.

    - Tiền tử tuất của ba cô ấy mà!

    - Chưa ạ.

    - Cần phải viết một cái đơn!

    Sau đó ông ta cười, bảo rằng ở Tổng cục đường hàng không Bắc cực người ta đang phát hoảng lên vì chính bố tôi là người đã phát hiện ra vùng đất Bắc địa, thế mà ở đó người ta lại ghi là do người khác phát hiện.

    - Nói tóm lại là tôi có cảm giác như bị nhầm lẫn... Tôi không thích nhũng cuộc nói chuyện như thế.

    - Tôi tưởng công việc của đội thám hiểm đã được quyết định rồi!

    - Chính ra là đã quyết định đâu vào đấy cả rồi, nhưng bây giờ thình lình lại bảo là chưa quyết định xong. Tôi có nói với họ rằng cái chính là hãy để anh ấy đi cùng với con tàu “Pa-khơ-tu-xốp”. Nhưng họ trả lời là ở đó đã có người lái rồi. Thôi thì có rồi cùng được, chả lo. Xa-nhi-a của chị vốn là con người có ý chí và bản lĩnh.

    Khi nói đến mấy chữ “Xa-nhi-a của chị”, giọng ông ta trầm hẳn xuống, nhưng lại đặc biệt rõ ràng.

    - Thôi nhé, tôi vẫn ở nguyên chỗ cũ. Khi nào rảnh mời chị đến chỗ chúng tôi chơi nhé.

    Tôi đáp rằng tôi sẽ rất vui sướng được đến thăm ông và rồi chúng tôi chào nhau tạm biệt.

    Hầu như ngày nào tôi cũng nhận được một bức thư của Rô- ma-sốp gửi đến, có khi đến hai bức. Trên phong bì có ghi dòng chữ “Đội thăm dò địa chất số 2,Cục địa chất Ba-skia”, tựa như công văn gửi cho một cơ quan nào vậy. Mà thực ra cũng đúng là như thế, mấy năm ấy bản thân tôi cũng giống như một cơ quan, nếu không thì tôi chẳng có lý do gì để lưu lại Mát-xcơ-va làm việc cả. Nhưng dùng địa chỉ công tác của tôi để gửi thư rõ ràng là một việc rất nực cười, vậy mà ngày nào anh ta cũng lặp đi lặp lại cái trò cười ấy!

    Lúc đầu tôi còn bóc ra xem, nhưng về sau cứ để nguyên như thế gửi trả, sau nữa thì chẳng xem mà cùng chẳng gửi trả nữa. Không hiểu cớ sao tôi rất sợ phải đốt nhũng bức thư ấy, nên dần dà chúng bị vứt bừa bãi khắp nơi trong nhà. Có lúc vô tình chạm phải chúng, tôi vội vàng giật phắt tay lại.

    Khi gặp tác giả những bức thư ấy, tôi cũng có một cảm giác hệt như thế. Trước kia, lúc nào anh ta cũng kêu om lên là bận, nhưng bây giờ, lần nào tôi bước chân ra khỏi nhà cũng bắt gặp anh ta trên đường phố. Đến nỗi tôi không thể hiểu nổi là anh ta lấy đâu ra lắm thì giờ như vậy. Trong các cửa hàng và rạp hát tôi cũng thường gặp anh ta. Những lúc ấy thật là khó chịu vì anh ta cứ chào, còn tôi cứ lờ đi. Anh ta có vẻ muốn tiến đến gần, còn tôi thì chỉ chực lẩn đi cho nhanh.

    Có lần anh ta đến gặp Va-li-a kể lể khóc lóc rất thương tâm; nhưng khi Va-li-a đem chuyện tuyệt giao giữa mối tình của những con khỉ đen ra kể để trêu anh ta, thì anh ta nổi khùng lên, chửi rủa ầm ĩ.

    Nói tóm lại anh ta đã chiếm một vị trí khá lớn trong cuộc sống của tôi. Nhất là về sau này, tôi như bị sa vào tình trạng ốm dở, mỗi khi tôi nhắm mắt lại là hình ảnh anh ta lập tức hiện ra trước mắt. Anh ta đóng bộ lễ phục màu tro mới tinh tươm, đầu đội chiếc mũ dạ rất nghiêm chỉnh. Có một lần anh ta nói với tôi rằng anh ta đội chiếc mũ ấy là dành riêng cho tôi.
    Đương nhiên việc đến nhà Rô-ma-sốp để lấy những tài liệu do Vư-si-mia-xki giao cho anh ta trước đây, đối với tôi là một ý nghĩ kỳ lạ. Đó là một ý nghĩ tàn nhẫn, đến với anh ta sau khi đem trả lại cho anh ta tất cả thư từ và hoa mà anh ta đã có lòng tặng tôi. Song bây giờ càng nghĩ tôi càng lấy làm thú vị về một chuyến đi như thế. Tôi tưởng tượng mình sẽ mở cửa bước vào tòa nhà anh ta ở như thế nào. rồi anh ta sẽ cuống quít lên, chẳng nói được lời nào, chỉ biết trố mắt nhìn tôi: và sau đó mặt anh ta sẽ tái đi, anh ta sẽ lật đật chạy theo dọc hành lang, mở cửa phòng của mình ra như thế nào... Còn tôi sẽ lạnh lùng nói:

    - Mi-sa, tôi có chút việc muốn phiền anh.

    Điều hết sức lý thú là mọi việc đã diễn ra trong thực tế đúng hệt như tôi tưởng tượng.

    Lúc ấy anh ta đang mặc bộ quần áo ngủ ấm áp, màu xanh nhạt. Hình như anh ta vừa từ trong nhà tắm ra nên tóc chưa kịp chải, rủ từng mớ tóc ướt vàng hoe xuống trán. Mặt anh ta tái mét, người ngẩn ra im lặng, mãi khi tôi cởi chiếc áo khoác ngoài ra, anh ta mới sực tỉnh, chạy vội lại phía tôi:

    - Ca-chi-a!

    - Mi-sa, tôi có chút việc muốn phiền anh, - tôi vẫn giữ cái giọng lạnh lùng ban đầu. - Anh mặc quần áo và chải tóc đi. Tôi sẽ chờ anh ở đâu?

    - Vâng, đúng là nên như thế, mời...

    Anh ta chạy dọc hành lang và mở rộng cửa phòng của anh ta ra. Anh ta nói:

    - Xin chờ ở đây. Tha lỗi nhé...

    - Sao lại thế, xin anh tha lỗi cho tôi thì có.

    Năm ngoái ba người chúng tôi đến thăm anh ta: Ni-cô-lai An- tô-nứt, bà tôi và tôi. Suốt cả buổi tối đến chơi, bà tôi luôn tìm cách nhắc khéo rằng anh ta vay của bà tôi bốn chục rúp đến bây giờ vẫn chưa trả.

    Lần ấy tôi đã rất ưa căn phòng của anh ta. Lần này, khi bước vào, tôi càng cảm thấy nó xinh xắn vô cùng. Đấy là một căn phòng được trang trí lịch sự, gây cho người ta cảm giác nhẹ nhõm: tường quét vôi ve, cửa và tủ trong tường sơn màu xanh nhạt. Các thứ dụng cụ trong nhà đều trang nhã, đẹp đẽ. Nói tóm lại mọi thứ đều được bày biện đúng chỗ, nom rất thuận mắt. Qua cửa sổ có thể nhìn thấy toàn bộ quảng trường Xô-ba-tri. Đó là một nơi tôi yêu thích ở Mát-xcơ-va. Không hiểu vì sao từ thuở bé tôi đã rất gắn bó với cái quảng trường này. Từ đó tôi yêu lây cả tấm bia kỷ niệm những con chó đã hy sinh trên quảng trường cùng những con đường đổ về đó.

    - Anh Mi-sa. - khi anh ta bước vào phòng với cái đầu chải bóng mượt, bộ quần áo mới màu xanh tôi chưa thấy bao giờ và mùi nước hoa thơm gắt, tôi lên tiếng. - Hôm nay tôi đến đây để đáp lại tất cả những bức thư anh gửi cho tôi. Sao anh lại dám viết bậy bạ rằng nếu không lấy anh thì suốt đời tôi sẽ phải hối hận! Thật là đồ trẻ con, anh có biết rằng, ngày nào anh cũng viết cho tôi nhưng tôi không buồn nhìn tới những bức thư ấy không. Chính anh cũng biết rõ rằng, từ xưa đến nay chưa bao giờ tôi có ý định lấy anh, vì vậy hoàn toàn không có căn cứ để viết rằng tôi đánh lừa anh.

    Sắc mặt anh ta thay đổi thật ghê gớm. Khi mới bước vào phòng, anh ta có vẻ rất phấn chấn, nôn nóng, để lộ một mềm hy vọng sôi nổi, nhưng chưa dám tự tin hoàn toàn. Còn giờ đây, theo từng lời, từng câu tôi nói ra, niềm hy vọng đó đương tắt dần và người anh ta rũ xuống như cái xác không hồn. Anh ta quay đi, mắt nhìn dán xuống sàn.

    - Nếu muốn nói rõ tại sao trước kia tôi cho phép anh nói đến chuyện ấy thì phải mất rất nhiều thời gian. Trong đó có rất nhiều lý do. Nhưng anh cũng là một con người thông minh! Anh vẫn biết rõ rằng tôi không hề yêu anh!

    - Nhưng sống với cậu ấy em sẽ không có hạnh phúc!

    - Tại sao anh lại gọi tôi là “em”? - Tôi hỏi giọng lãnh đạm. - Tôi sẽ đi ngay bây giờ.

    - Nhưng sống với cậu ấy em sẽ không có hạnh phúc, - Rô-ma- sốp lắp lại.Hai đầu gối anh ta run lên, mấy lần nhắm mắt lại một cách kỳ lạ. Tôi bỗng nhớ có lần Xa-nhi-a nói rằng anh ta ngủ mở mắt.

    - Tôi sẽ giết chết các người và giết chết cả tôi! – Cuối cùng anh ta lắp bắp.

    - Nếu quả thực anh tự giết mình thì đấy là việc tốt thôi, - tôi nói giọng hết sức bình tĩnh. - Tôi không định tranh cãi với anh đâu. Song có điều tôi muốn hỏi anh, anh có quyền gì nói ra những lời đó? Anh đã giở đủ mọi thứ trò ma quái, làm như trong thời đại của chúng ta có thể dùng trò gian giảo ngu xuẩn ấy mà lấy được vợ! Anh là con người đã mất hết phẩm đức, nếu
    không hằng ngày anh đã không lẵng nhẵng bám theo tôi từng bước như một con chó. Anh hãy im mồm mà nghe tôi nói, bởi vì tôi đã biết tỏng tất cả những gì anh định nói rồi. Bây giờ tôi hỏi anh: anh đã lấy những tài liệu gì ở nhà Vư-si-mia-xki?

    - Tài liệu gì kia?

    - Mi-sa, đừng có giả vờ như thế. Anh thừa biết là tôi đang nói vấn đề gì. Đấy là những giấy tờ anh dùng để dọa dẫm Ni-cô-lai An-tô-nứt rằng trước kia ông ta là con buôn, sau này anh lại dùng những giấy tờ ấy để gây sức ép với Xa-nhi-a, buộc anh ấy phải rời bỏ tôi và đi khỏi nơi này. Hãy đưa ngay các thứ giấy tờ ấy ra đây, có nghe rõ không? Đưa ngay ra đây!

    Anh ta nhiều lần nhắm mắt lại và thở dài. Sau đó anh ta định quì xuống. Nhưng tôi đã nói rất to: 

    - Mi-sa,tôi đố anh! Anh có nghe tôi nói gì không?

    Anh ta cố ghìm mình, hai hàm răng nghiến chặt, vẻ tuyệt

    vọng cùng cực hiện trên nét mặt anh ta khiến tôi động lòng.

    Chẳng phải vì tôi thương xót gì anh ta đâu! Nhưng tôi có cảm giác, hình như tôi cũng có sai vì đã làm cho anh ta đau khổ như thế, thậm chí không nói lên được câu nào nữa. Nếu anh ta mắng cho tôi một trận có lẽ tôi lại khoái hơn. Song anh ta lại cứ im thin thít, chẳng mở miệng nói được câu nào.

    - Mi-sa, - tôi nói tiếp và bắt đầu xúc động, - anh nên biết rằng tất cả những giấy tờ ấy bây giờ đối với anh hoàn toàn không cần thiết nữa. Dẫu sao sự việc cũng đã qua rồi không có cách nào thay đổi được. Có điều là tôi cảm thấy rất hổ thẹn, khi tất cả các báo chí đều nói đến bố tôi thì tôi hầu như chẳng biết một tí gì về bố tôi cả. Những tài liệu ấy rất cần cho tôi, cho chính tôi chứ không phải cho một ai khác!

    Khi tôi nói đến mấy chữ “tài liệu ấy rất cần cho tôi”, không biết anh ta nghĩ những gì mà mắt anh ta long lên. Anh ta ngửng phắt đầu, đi lại nhẹ nhàng trong phòng. Có lẽ anh ta đã nghĩ đến Xa-nhi-a.

    - Tôi chẳng đưa cái gì hết, - anh ta nói giọng bướng bỉnh.

    - Không, anh phải đưa! Nếu anh không đưa tôi sẽ cho rằng tất cả những lời anh viết trong thư cho tôi trước đây đều là những lời giả dối.

    Đột nhiên anh ta chạy ra khỏi phòng, để lại một mình tôi. Lúc này chung quanh im ắng khác thường, chỉ có tiếng trẻ con nô đùa và một đôi lần tiếng còi ô tô từ dưới đường phố vọng lên. Mãi hồi lâu anh ta vẫn không quay lại khiến tôi rất sốt ruột. Giả thử anh ta liều lĩnh giở trò gì đó thật thì làm thế nào? Tôi chợt rùng mình và liền bước ra hành lang nghe ngóng. Không có gì khác thường cả - chỉ có tiếng nước máy chảy róc rách ở đâu đó.

    - Mi-sa!

    Cánh cửa buồng tắm hé mở, tôi nhìn vào và thấy anh ta đang đứng cúi lom khom xuống bể nước tắm. Ngay lúc ấy tôi không hiểu anh ta đang làm gì, trong phòng tắm tranh tối tranh sáng, anh ta không bật đèn.

    - Tôi ra ngay bây giờ, - anh ta nói rất mạch lạc, không quay đầu lại.

    Anh ta đứng, người cúi gập, thò đầu vào vòi nước. Nước chảy xuống mặt, xuống vai, và bộ cánh mới bị ướt đầm đìa.

    - Anh làm cái gì thế? Anh điên đấy à!
    - Cô đi ra đi, tôi sẽ ra ngay bây giờ! - Anh ta nhắc lại, giọng cáu kỉnh.

    Mấy phút sau, anh ta quay lại thật. Anh ta mặc áo không có cổ, mắt đỏ ngầu, mang ra bốn quyển vở học sinh màu xanh.

    - Giấy tờ đây, - anh ta nói, - tôi không còn giữ tí gì nữa đâu đấy. Cầm lấy.

    Có thể đây là một trò lừa dối nữa. Bởi vì tôi giở một quyển vở ra xem, hình như trong đó có chữ in - đúng là một trang xé trong sách ra, - nhưng lúc này không còn gì có thể nói với anh ta được nữa. Tôi đành phải cảm ơn anh ta một cách khách sáo:
    - Cảm ơn, Mi-sa!

    Tôi trở về nhà và để ra mấy tiếng đồng hồ, thậm chí cả một buổi chiều dài đằng đẵng để đọc những quyển vở màu xanh và ép mình phải quên đi cái bộ mặt ghê tởm ấy, quên đi cái dáng điệu rũ rượi, tả tơi như con chim bị đạn ấy, khi anh ta bước vào phòng với bộ quần áo ướt sũng.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  6. Rafa

    Rafa SV

    Chương 3

    Chúc cuộc hành trình thành công và hạnh phúc!

    Trước mặt tôi có bốn quyển vở học sinh màu xanh rất dày và cũ kỹ. Đó là loại vở thường thấy hồi trước cách mạng, bởi vì trên bìa in đầy những dòng chữ quảng cáo cho hãng “Phơ-ri-đơ-rích Can”. Trên trang đầu tiên của quyển vở thứ nhất có viết dòng chữ “GHI CHÉP CỦA KẺ MỤC KÍCH” bằng một thứ chữ kiểu cách và có ghi ngày tháng của năm 1916. Đấy chính là một quyển hồi ký! Nhưng ở những trang tiếp theo thì lại chỉ thấy dán toàn những mẩu báo cũ được cắt ra, trong đó có những tên báo mà chưa bao giờ tôi được nghe đến như “Công báo sở giao dịch”, “Báo Dân chúng”, “Báo Cô-pây-ca”. Các mẩu báo ấy được dán dọc theo trang giấy. Nhưng cũng có đôi chỗ dán ngang như ở chỗ dán bài “Đội thám hiểm Ta-ta-ri-nốp. Hãy mua bưu ảnh!

    1. Lời cầu trước khi xuất phát.

    2. Chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri tại vũng tàu”.

    Tôi xem xong quyển thứ nhất rất nhanh, sau đó xem tiếp quyển thứ hai, rồi quyển thứ ba. Chẳng có “giấy tờ” gì như tôi đã hiểu cái từ này trong buổi nói chuyện với bác I-van Pa-vơ-lứt. Chỉ có những bài và những mẩu tin về đội thám hiểm đi từ Pê-téc-bua dọc theo bờ biển Xi-bê-ri lên Vla-đi-vô-xtốc.

    Những bài báo này là những cái gì? Tôi bắt đầu đọc những bài báo ấy và không sao dứt ra được nữa. Toàn bộ cuộc sống trước kia như bày cả ra trước mắt tôi. Tôi đọc với một tâm trạng đau khổ uất ức và tiếc thương da diết. Sở dĩ tôi tiếc thương vì chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” đã bị nạn ngay từ trước khi rời khỏi bến. Đấy là điều tôi tin chắc sau khi đọc những bài báo này. Còn đau khổ uất ức chính là vì bây giờ tôi mới biết những kẻ vô lương ấy đã lừa gạt, hãm hại bố tôi như thế nào. Cái tính nhẹ dạ dễ tin người và tâm hồn ngay thẳng của ông đã hại ông như thế đấy.

    Dưới đây là tình cảnh xuất phát của chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” do một “kẻ được mục kích” viết lại:

    Trên cột buồm của con tàu sắp ra khơi giăng dãy cờ đượm vẻ buồn ảm đạm. Giờ nhổ neo đến gần. Sau khi làm lễ cầu nguyện lần cuối cùng cho các thuyền viên và hành khách, sau khi nói những lời chúc tụng cuối cùng, chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” từ từ rời khỏi bến. Bờ biển xa khuất dần, nhà cửa và đám người đi tiễn nhòe đi, nhập vào thành một khối kéo dài. Giờ phút này sao mà trang nghiêm long trọng thế! Đây là giờ phút chia lìa với đất liền, với quê hương thân thuộc. Nhưng chúng tôi lại cảm thấy buồn lòng và xấu hổ trước cuộc tiễn đưa lạnh nhạt và trước những bộ mặt ngạo nghễ khinh đời ấy. Chiều tà buông xuống. Chiếc tàu “Xanh Ma-ri” dừng lại ở cửa sông Đơ-vi-na. Những người đi tiễn đã uống cạn những cốc rượu sâm banh đê chúc đội thám hiểm thành công... Lại một lần nữa diễn lại cảnh bắt chặt tay nhau và cảnh ôm nhau thắm thiết. Họ sắp phải trở lại thuyền ‘‘Thiên Nga” để trở về thành phố. Kìa những người đàn bà đang đứng trên thành thiếc tàu thủy nhỏ vẫy tay không ngớt. Họ lau nước mắt rồi lại vẫv tay. Từ trên chiếc tàu mỗi lúc một xa dần vẳng lại tiếng chó sủa cáu kỉnh. Chiếc tàu bé dần và cuối cùng biến thành một chấm nhỏ trên đường chân trời lúc nhá nhem tối... Ôi những con người dũng cảm, những gì đang chờ đón các bạn ở phía trước?"

    Chiếc tàu buồm ra đi làm cuộc viễn hành như thế đấy. Từ tháp đèn hải đăng Ác-khan-ghen-xcơ phát ra những tín hiệu tiễn biệt con tàu: ‘‘Chúc cuộc hành trình thành công và hạnh phúc!” Nhưng lạy chúa, giữa lúc ấy ở trên bờ đã xảy ra những gì! Giữa các con buôn cung cấp vật tư cho chiếc tàu buồm đã nổ ra cuộc tranh cãi bỉ ổi, những cuộc kiện cáo và những cuộc bán đấu giá phần vật tư và lương thực thực phẩm bị buộc phải để lại trên bờ. Tất cả những cái đó đã phải đem bán đấu giá. Và còn biết bao lời trách móc, đặc biệt là đối với bố tôi. Chiếc tàu khởi hành chưa được một tuần lễ, người ta đã kết tội bố tôi rằng không làm hợp đồng bảo hiểm cho bản thân và những người cùng đi, rằng ông đã xuất phát chậm mất ba tuần lễ so với yêu cầu của những chuyến đi Bắc cực, rằng ông không chờ nhân viên vô tuyến điện đã vội vã nhổ neo. Họ kết tội ông là người hấp tấp, nông cạn, không biết cách lựa chọn thuyền viên, trong số thuyên viên của ông “không có một người nào biết sử dụng buồm”. Chúng chế giễu ông và khẳng định rằng trong “chuyến đi mạo hiểm ngu xuẩn này, cũng như trong một giọt nước, phản ánh cái cuộc sống đần độn, phô trương của thời đại chúng ta”.

    Sau khi chiếc tàu buồm “Xanh Ma-ri” ra đi được ít hôm, trên biển Ca-ra nổi lên một trận bão rất lớn. Thế là ngay lập tức khắp nơi nhao lên những lời đồn đại rằng đoàn thám hiểm đã gặp tai nạn ở ven bờ vùng “Đất mới”. Đọc xong những bài báo “Sai lầm của ai?”, “Số phận của tàu Xanh Ma-ri”. “Tìm Ta-ta-ri-nốp ở đâu?” đã gợi lại cho tôi những ấn tượng khủng khiếp đầu tiên của thời niên thiếu. Hồi ấy ở En-xcơ, mẹ tôi mặc chiếc áo váy màu đen mới tinh rất đẹp, tay cầm tờ báo, hốt hoảng chạy bổ vào gian phòng nhỏ bé của tôi. Mẹ chẳng thèm nhìn tôi, mặc dù tôi đang nói với mẹ và nhảy từ trên giường xuống, chân đi đất, mình mặc mỗi chiếc áo cánh chạy tới chỗ mẹ. Sàn nhà giá lạnh, nhưng mẹ không bảo tôi lên giường, cùng chẳng bế tôi. Bà cứ cầm tờ báo trong tay đứng sững bên cửa sổ. Tôi cũng cố kiễng chân nhìn ra ngoài cửa sổ theo bà, nhưng tôi không nhìn thấy gì khác, ngoài mảnh vườn trồng hoa nhỏ bé của chúng tôi. Khắp cả mảnh vườn như bị phủ kín bởi một lớp lá phong vàng úa ướt đẫm. Đàng xa kia là mấy rãnh nước và lối đi mòn ướt át. Những giọt nước mưa cuối cùng vẫn lộp bộp rơi xuống mặt đất. “Mẹ ơi, mẹ nhìn cái gì thế?” Mẹ im lặng, tôi hỏi lại lần nữa và rất muốn được mẹ bế. Sự im lặng kéo dài của mẹ làm tôi rất khiếp sợ. “Mẹ ơi!” Tôi khóc gào lên, lúc này mẹ mới quay lại, cúi xuống định bế tôi lên. Nhưng không biết vì sao mẹ không bế nữa mà ngồi bệt xuống sàn rồi ngã vật ra. Mẹ nằm lặng đi người rất thẳng, mình mặc chiếc áo váy màu đen mới tinh rất đẹp. Bỗng một nỗi lo sợ khủng khiếp và không rõ ràng vây chặt lấy tôi. Tôi gào lên nhưng lại chỉ nghe thấy tiếng gào sợ hãi của mình thôi. Tôi có cảm giác như mình đang đấm đá một cái gì. Rồi tôi nghe tiếng nói sợ hãi của mẹ, tôi lại gào lên và không sao ngừng được nữa. Sau đó tôi ngủ thiếp đi và trong cơn mơ tôi nghe thấy văng vẳng tiếng mẹ và bà tôi nói chuyện với nhau. Mẹ nói:

    - Con bé nó sợ con đấy.

    Tôi im lặng và giả vờ đang ngủ bởi vì dù sao đó cũng là mẹ, cũng bởi vì mẹ đang nói và đang khóc, như mẹ…

    Chỉ đến bây giờ, khi đọc lại những bài báo nàv, tôi mới vỡ lẽ, tại sao lúc ấy mẹ tôi lại như thế. 

    Nhưng hình như đó chỉ là những tin đồn nhảm. Qua đội thám hiểm ‘‘Bưu điện” ở lu-go-rơ-xki Sa-rơ, thuyền trưởng Ta-ta-ri- nốp đã gửi về "Lời chào mừng nhiệt liệt và những lời chúc tốt lành nhất tới tất cả những người đã ủng hộ và đồng tình với sự nghiệp của đội thám hiểm”.

    Bức thư này được in lại bằng cách chụp lại bản viết tay của ba tôi lên mặt báo và trên đó còn có một tấm ảnh của ba tôi mà tôi chưa thấy bao giờ. Ba mặc bộ quân phục hải quân. Trên áo cổ dứng có đeo lon màu nhũ trắng: một sĩ quan duyên dáng với bộ ria vểnh ngược trông rất cổ lỗ sĩ.

    Không phải ngẫu nhiên mà ba gửi “những lời chúc tốt lành tới tất cả những người đã ủng hộ”. Ba hy vọng rằng "Hội đồng nghiên cứu của các nước về miền Вắс cực nước Nga” sẽ dùng món tiền quyên góp được đó vào việc cứu trợ cho các gia đình thuyền viên, về việc này, ba đã viết rõ trong bản báo cáo của mình gửi về qua đội thám hiểm Iu-go-rơ-xki và đã được đăng trên tờ báo “Thời Mới” như sau:

    “Tôi tin chắc rằng Hội đồng sẽ không bao giờ để cho gia đình của những người hy sinh thân mình vì sự nghiệp chung của dân tộc phải sống cảnh long đong vất vả”.

    Niềm hy vọng đó đã trở thành vô ích! Cũng trên tờ báo ấy, ngày hai bẩy tháng Sáu, tôi đọc được bản báo cáo về một cuộc họp của Hội đồng: “Theo lời của vị thư ký Hội đồng là N. A. Ta-ta-ri-nốp, thì kết quả cuộc quyên góp mới này hoàn toàn không đáng kể. Đã dùng nhiều hình thức khác nhau và cả nhiều biện pháp khác như tổ chức những trò giải trí vân vân cũng không thu được những món tiền lời như dự định. Vì vậy kế hoạch tổ chức trò chơi để thu một nghìn rúp trợ giúp các gia đình thuyền viên của Hội đồng không thể thực hiện được nữa”.

    Khi đọc đến những chữ “tổ chức trò chơi để thu tiền'' này tôi cảm thấy buồn cười và mỉa mai hết chỗ nói... Làm như mẹ con tôi đã sống như những người rất nghèo khổ, sống nhờ vào của bố thí thu góp bằng con đường cứu tế ấy!

    Song những ý nghĩ ấy cũng chỉ lướt qua trong đầu óc tôi. Nó không bắt tôi phải đặc biệt nghiền ngẫm mối hận mà có lẽ nó cũng lớn bằng tuổi tôi. Trên các tờ báo cũ này còn có một giọng điệu khác khiến tôi chú ý và làm cho tôi vô cùng kinh ngạc: một số người đồng thanh đoán rằng việc chiếc tàu buồm “Xanh Ma- ri” bị nạn là một việc không thể tránh khỏi. Có những kẻ cầm bút chì trong tay tính đi tính lại nhiều lần và đoán chắc rằng nó sẽ không thể đi đến vùng “Đất mới” được. Một số kẻ khác cho rằng con tàu thế nào cũng sẽ bị lớp băng đầu tiên vây hãm và chỉ sau đó ít lâu sẽ bị tiêu diệt trong khi đi dọc theo vùng đảo Phơ- ran-xơ I-ô-xíp và trở thành “tù binh của Bắc băng dương”.

    Chỉ có một nhà thơ nào đó viết một bài thơ đăng trên báo ở Ác-khan-ghen-xcơ là có thể nhận xét ông ta có quan điểm hoàn toàn khác. Bài thơ nhan đề “Tặng I. L. Ta-ta-ri-nốp”:

    Anh cừ lắm! Giữ được số phận mình!

    Nghị lực của anh và những rủi ro

    Đã cắt đứt vành Bắc cực

    Và những khối băng vững chắc đã phải cúi đầu...

    Trước đây tôi cũng đã biết khá nhiều. Trong bức thư Xa-nhi-a tìm thấy ở En-xcơ, ba có viết rằng “Trong sáu mươi con chó thì phần lớn đã phải bắn chết ngay từ vùng “Đất mới””. Trong bản ghi chép mà Xa-nhi-a ghi lại lời Vư-si-mia-xki có nói về những bộ quần áo mục, về những thanh kẹo sô-cô-la bị ngấm dầu hỏa. Trên tờ báo “Ác-khan-ghen-xcơ" tôi đọc được bức thư của một tên nhà buôn E. V. Đê-mi-đốp. Lão ta viết rằng: “việc buôn thịt muối và quần áo may sẵn không phải là nghiệp chính của lão ta. Hồi đó lão ta chỉ là một người mở hiệu cầm đồ. Lão ta không thể cáng đáng nổi những việc buôn bán lớn như thế - tất nhiên đó là việc theo dõi từng miếng thịt và từng con cá xếp lên tàu. Lúc nào cũng nhận được những bức điện như thế này của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp: “Xin ngừng việc mua vào vì hiện giờ không có tiền”. Hoặc là: “Hãy bán lại những vật phẩm đã mua lỡ - tiền hết”, vân vân và vân vân. Đã không có tiền sao còn đi trang bị cho đội thám hiểm vậy?... Nếu quả thực trong việc làm gấp gáp này có xảy ra vấn đề gì thì chớ có đi tìm kẻ phạm sai lầm trong đám người đi buôn, mà hãy đi tìm nó trong những người thuộc tầng lớp trên”...

    Thế mà trước đây tôi chẳng biết chút gì, cả Xa-nhi-a cũng vậy. Tôi cũng không hiểu tại sao mẹ tôi không bao giờ nói đến chuyện ấy cả. Ba ngày trước khi tàu “Xanh Ma-ri” nhổ neo, người ta phát hiện có vết nứt nguy hiểm và nhiều vết búa ở phần sâu dưới nước của hai sườn tàu. Những vết nứt ấy đã được đo đạc và chụp ảnh cẩn thận, vết to nhất có bề rộng mười hai đi-um(1) và bề dài hai phút(2) bốn đi-um. Còn những vết khác thì bé hơn.

    Nguyên nhân những vết nứt ấy rất phức tạp. Song dẫu sao nó vẫn khiến cho người ta nghĩ đến cái việc là nếu chẳng may chiếc tàu bị nạn thì người chủ mới của nó có thể nhận được một món tiền bảo hiểm rất khả quan.

    Đương nhiên, bây giờ không cần phải có nhiều bằng cứ mới để chứng minh rằng ba tôi đã bị nạn và vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa. Thực ra thì ông không thể không gặp nạn. Ba đã bị đẩy vào con đường chết không tránh khỏi và ba đã hy sinh.

    (1) 1 đi-um = 25 mi-li-mét

    (2) 1 phút – 30,5 cen-ti-mét


    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  7. Rafa

    Rafa SV

    Chương 4

    Chúng ta hãy cạn cốc vì Xa-nhi-a

    Như tôi đã nói, mùa hè năm ấy tôi có rất nhiều công việc phải làm. Cô sinh viên năm thứ ba được phân công giúp việc cho tôi là một người quá chậm chạp, ngù ngờ. Tôi chẳng những phải làm thay tất cả mọi việc cho cô mà còn phải an ủi cô nữa, bởi vì chính cô cũng hết sức buồn phiền về cái nỗi chậm chạp, ngù ngờ của mình. Bản thân tôi cũng có nhiều vấn đề không thể hiểu nổi cho nên cứ hai ba ngày tôi lại phải chạy đến bà giáo sư già của tôi để hỏi. Bà này bao giờ cũng gọi tôi là “cô bé” và lúc nào cũng lo lắng cho tôi, bảo tôi gầy quá. Quả thực dạo này tôi gầy sút đi nhiều và xanh xao hơn: bởi vì hình như chưa bao giờ tôi lại phải suy nghĩ và xúc động như những ngày này. Đọc một bài báo tôi cũng bị xúc động; chậm nhận được thư của Xa-nhi-a tôi cũng xúc động; khi bà giận tôi, tôi cũng xúc động, thậm chí bà không đến chơi tôi cũng xúc động. Ngoài ra, chuyện của Va-li-a và Ki-ra cũng khiến tôi băn khoăn mãi...

    Cuộc sống của họ vẫn rất tốt đẹp. Hai người vẫn thường ngồi trong "buồng bếp”'khe khẽ nói chuyện với nhau như thường lệ, sau đó cùng uống trà với một vẻ nghiêm trang, đầy hạnh phúc và hơi thộn. Nhưng có một lần, cuộc nói chuyện thầm thì giữa hai người bỗng dừng lại nửa chừng, sau đó là một hồi im lặng rồi họ bắt đầu lớn tiếng cãi nhau. Tôi sợ quá và cũng gắt lên. Nhưng ngay lúc đó Va-li-a đi ra, mặt đỏ gay và chui vào trong cái tủ làm ở trong tường. Có lẽ anh ta tưởng lầm đó là cái cửa ra vào. Tôi đưa cho anh ta cái mũ và rụt rè hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Anh ta trả lời:

    - Hỏi bà bạn của chị xem đã xảy ra chuyện gì.

    Tôi không còn nhớ rõ lần cuối cùng trông thấy Ki-ra khóc là vào khi nào. Hình như hồi ở lớp năm, cô ta khóc vì bị “điểm kém” về môn vẽ kỹ thuật. Giờ đây cô ta lại khóc và khóc sướt mướt, hai tay lau nước mắt y như một đứa trẻ con.

    - Ki-ra, có chuvện gì xảy ra thế?

    - Chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Chúng mình quyết định đi đăng ký, nhưng anh ấy không chịu dọn nhà. Chỉ có thế thôi.

    - Vì mình ở đây nên chật quá chứ gì?

    - Chẳng vì cái gì cả. Anh ấy bảo tớ phải tự suy nghĩ và đoán lấy. Nhưng thực tình mà nói, tớ chẳng đoán được gì cả. Anh ấy muốn tớ dọn đến ở nhà anh ấy. Nhưng tớ thì lại không muốn. Đến ở nhà anh ấy thì cái gì cũng phải lo sắm sửa. Vậy bao giờ tớ mới sắm sửa được hết? Còn ở đây, nói chung cái gì cũng sẵn - nào bát đĩa, nào khăn giải bàn, nào chăn màn đều có đủ.

    - Lại còn có mẹ nữa.

    - Đúng thế, lại có cả mẹ nữa.

    Chúng tôi nói chuyện với nhau suốt cả buổi tối. Đến đêm khí Ki-ra đến chỗ tôi nói rằng cô ta đã đoán ra rồi - có gì đâu, chỉ là do anh chàng không yêu cô ta nữa. Tôi đã phải chứng minh cho cô ta rất lâu rằng Va-li-a vẫn rất yêu cô ta, nếu không yêu sao anh chàng lại tỏ ra xúc động đến như thế. Tôi nói mãi đến bảy giờ sáng ngày hôm sau. Không biết có phải là cuối cùng tôi đã thuyết phục được Ki-ra rồi hay không, nhưng bất ngờ nghe cô ta thốt lên rằng: cô ta biết rất rõ, cô là người không tốt, còn Va-li-a là một thanh niên hoàn hảo. Cô ta còn nói là sẽ viết thư cho Va- li-a để nói rằng cô không xứng đáng với anh ấy. Anh ấy không yêu cô cũng là phải thôi, vì cô quá ngu muội.

    - Có điều là trước khi gửi thư đi, cậu phải đưa cho mình xem đã, đồng ý không? - Tôi nói giọng ngái ngủ, và cảnh cuối cùng tôi nom thấy trước khi ngủ là cảnh Ка-ri mặc áo lót, ngồi bên bàn viết lia lịa...

    Sáng hôm sau, tôi và Ki-ra đem bức thư nhảm nhí mà Ki-ra đã viết ra đọc rồi lại xé đi. Sau đó tôi đến nhà Va-li-a. Anh ta đang làm việc ở Vườn bách thú. Tôi bỗng nhớ lại có lần chúng tôi và Xa-nhi-a đến chỗ anh và anh đã giới thiệu cho chúng tôi xem những loài gặm nhấm của anh như thế nào. Giờ đây, những ngôi nhà cũ không còn nữa, thay vào là cả một dãy nhà trắng xóa rực rỡ có nhiều hàng cột. Còn Va-li-a cũng không cần phải cam đoan với người gác cổng rằng anh là nhân viên phòng thực nghiệm sinh vật nữa. Nhưng trong dãy nhà trắng toát đẹp đẽ này vẫn xông lên mùi hôi của chuột. Còn Va-li-a cũng vẫn như thế, khác chăng là anh đã khoác áo choàng trắng và để râu tua tủa. Tôi thật nực cười, vì hồi đêm Ki-ra có kể cho tôi nghe rằng Va-li-a thôi không cạo râu nữa.

    Anh mời tôi ngồi rồi cũng buồn bã ngồi xuống bên cạnh.

    - Va-li-a, trước hết cần nói ngay rằng hôm nay tôi đến đây là do sáng kiến riêng của tôi. Anh đừng có nghĩ rằng tôi đến là do Ki-ra xui khiến, - tôi nói giọng cáu kỉnh.

    Anh nói giọng run run: “Thế à?” khiến cho tôi không khỏi có chút thương thương, Nhưng tôi vẫn nói giọng nghiêm trang.

    - Nếu anh có những lý do nghiêm túc để ở nhà mình, mặc dù anh dọn đến ngõ Xíp-xép Vra-giéc sẽ tiện lợi hơn gấp nghìn lần, anh cũng cần phải nói và giải thích cho Ki-ra rõ, chứ đừng có yêu cầu cô ta phải tự đoán ra.

    Anh ta im lặng.

    - Chị có biết không, vấn đề là... tôi không thể dọn đến ngõ Xíp-xép Vra-giéc ở được, mặc dù tôi cũng đồng ý rằng ở đó rất tốt. Ở đó có thể vừa có phòng làm việc, vừa có phòng ngủ, đặc biệt là nếu bỏ tấm phên ngăn đi thì cái nhà kho hiện nay có thể làm thành cái phòng thí nghiệm nhỏ được. Nhưng điều đó không thể được.

    - Tại sao?

    - Tại vì... Này, thế bà ta không nói với chị à? - Đột nhiên anh ta hỏi giọng thất vọng.

    - Ai cơ?

    - Bà mẹ của Kа-ri ấy.

    Tôi cười rũ người ra.

    - Chị cảm thấy buồn cười cũng phải thôi, - Va-li-a nói. - Tất nhiên là chị cảm thấy buồn cười. Nhưng tôi thì không thể. Tôi đã cảm thấy rất khó chịu. Có một lần bà ta cứ hỏi đi hỏi lại tôi rằng: “Sao trông mặt anh tái xanh tái xám thế kia?” Câu hỏi ấy suýt nữa làm tôi nổi khùng lên... Và lúc nào bà ta cũng lảm nhảm nhắc đến cái tên Vác-va-ra Ra-bi-nô-vích nào đó, hình như bà ta thế nào ấy... Không, chẳng bao giờ tôi chịu dọn đến đó ở đâu.

    - Té та là như thế đấy, hả Va-lia-a, - tôi nói giọng trang nghiêm.- Tôi thật không thể biết được trong hai người, anh hay là bà ta là người có lỗi. Nhưng có điều rõ ràng là anh đã cư xử với Ki-ra rất vô lý. Cả đêm qua Ki-ra không hề ngủ được chút nào, nó nằm khóc mãi cho đến sáng. Bất luận thế nào anh cũng phải thu xếp đến gặp và nói rõ mọi sự cho Ki-ra rõ.

    Vẻ đau khổ hiện lên trên nét mặt Va-li-a, anh chàng luôn chân đi đi lại lại trong phòng.

    - Tôi không đi đâu!

    - Va-li-a!

    Anh ta im lặng một cách bướng bỉnh. “Chà, không ngờ cái anh chàng này mà cũng cứng cỏi thế!” - Tồi thầm nghĩ, trong lòng có chút thán phục.

    - Thế thì từ nay về sau anh đừng có đến tìm tôi nữa đấy! - Tôi nói giọng bực tức và đứng dậy định ra về, nhưng anh ta cứ một mực giữ lại. Và chúng tôi lại nói chuyện với nhau thêm hai tiếng đồng hồ nữa, bàn cách làm thế nào để bà mẹ của Ki-ra không lắm lời nữa...

    Kể lại nguyên si câu chuyện này cho Ki-ra nghe là điều bất tiện, nhưng dù sao tôi cũng đã nói cho Ki-ra nghe đầu đuôi câu chuyện đã xảy ra. Ki-ra tỏ ra hết sức ngạc nhiên, sau đó có kể cho tôi biết rằng ngày nào bà mẹ của cô ta cũng kêu Va-li-a, trách аnh tа ba hoa lắm lời. Có một lần sau khi chàng con rể tương lai vừa ra khỏi nhà, bà nằm nhoài ra giường, đắp chiếc khăn ướt lên trán và tuyên bố là không thể tiếp tục nghe cái giọng huyên thuyên bát nháo của anh ta nữa. Bà còn tuyên bố Ki-ra là một con điên, nếu đi lấy những người như anh ta, vì lúc nào anh ta cũng thao thao bất tuyệt như cái máy phóng thanh, không còn để chỗ hở cho người khác nói xen vào.

    Loáng một cái, Ki-ra đã mặc xong quần áo và chạy phóng đi tìm Va-li-a, mặc dầu tôi đã cố ý nhấn mạnh rằng nếu ở địa vị ấy, nhất định không bao giờ tôi chịu hạ mình đi tìm Va-li-a trước. Và ngay tối hôm đó hai người đã lại ngồi trong nhà bếp thầm thì trò chuyện với nhau rồi. Cả hai đều nhất trí là bằng bất cứ giá nào cũng sẽ đến ở thử tại ngõ Xíp-xép Vra-giéc.

    Buổi tối hôm ấy vô cùng đẹp. Đó là một buổi tối đẹp nhất trong những ngày tôi xa cách Xa-nhi-a. Hôm trước tôi nhận được một bức thư của anh ấy gửi về - một bức thư vừa dài vừa hay vô kể. Qua thư, anh cho tôi biết anh đã đọc được rất nhiều sách và vừa bắt đầu học tiếng Anh. Chợt tôi nhớ lại cái bộ mặt ngơ ngác ngạc nhiên đến buồn cười của anh, khi anh đột ngột biết tôi đọc sách tiếng Anh đã khá thạo. Và sau đó có một lần anh nghe mọi người nói đến nhạc sĩ Sô-xta-cô-vích mà anh chưa hề biết đến tên bao giờ, khiến anh ngượng đến đỏ chín cả mặt. Nói tóm lại, đấy là bức thư tuyệt diệu đã đem đến cho tôi một niềm vui hân hoan và một nguồn an ủi bất tận.

    Tôi và bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na bí mật chuẩn bị một bữa cơm tối khá thịnh soạn có cả rượu nho để thết đôi “uyên ương” đang say đắm kia. Tuy món xà lách với tôm hùm mà Va-li-a rất thích ăn bị chúng tôi nhỡ tay cho quá nhiều muối - tôi đã cho rồi, sau đó bà Đi-mi-tri-ép-na lại cho nữa - nhưng cuối cùng món ấy cũng hết nhẵn. Thì ra từ tối hôm trước, chẳng những Va- li-a bỏ không cạo râu mà còn bỏ cả cơm, chẳng ăn uống gì.

    Chúng tôi cùng nâng cốc chúc mừng sức khỏe của Xa-nhi-a và sau đó chúc cho mọi sự nghiệp của anh thành công tốt đẹp.

    - Cạn cốc vì sự nghiệp vĩ đại của Xa-nhi-a! - Va-li-a nói. - Tôi tin rằng trong cuộc đời anh ấy, anh ấy sẽ có những sự nghiệp vĩ đại.

    Sau đó Va-li-a kể rằng năm 1925, khi anh ta làm việc trong Hội đồng những nhà khoa học tự nhiên trẻ tuổi, trực thuộc Ban chấp hành thành đoàn thanh niên cộng sản thành phố Mát-xcơ-va, có một lần anh đã khuyên Xa-nhi-a đi du ngoạn đến Xe-rơ-bri-an-nưi Во-rơ và Xa-nhi-a đã bỏ ra rất nhiều thì giờ để suy nghĩ хеm chuyến đi ấy sẽ thú vị như thế nào. Rồi chợt Xa-nhi-a thốt lên hai câu danh ngôn khiến cho mọi người phải sửng sốt trước cái tài nhớ dai của anh ấy:

    Phấn đấu, hãy phấn đâu đi, khi niềm hy vọng còn chưa bị tiêu vong.

    Trong cuộc sống còn có cái gì kỳ diệu hơn việc phấn đấu đi lên?

    Và anh ấy nói rằng đi bắt chuột đồng không phải là lĩnh vực của anh ấy.

    Bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na tỏ ý muốn nói một đôi câu. Tôi và Ki-ra đều lo là bà sẽ nói về bà Vác-va-ra Ra-bi-nô-vích. Nhưng may sao lần ấy bà chỉ ngâm cho chúng tôi nghe mấy câu thơ và nói rằng bà cũng có một sức nhớ đặc biệt đối với thơ ca.

    Chúng tôi cứ ngồi nói chuyện như thế và uống rượu cho đến tận mười hai giờ đêm. Bỗng có người bấm chuông ở ngoài cửa, lúc ấy A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na đương diễn trò nhại tiếng của người khác. Bà liền ngừng lại và cho biết bác công nhân đổ rác đã đến. Tôi liền chạy vào bếp xách thùng rác và nước bẩn ra mở cửa. Nhưng không ngờ, người vào nhà lại không phải là bác công nhân đổ rác mà là Rô-ma-sca. Khi tôi vội vã mở cửa bước ra, anh chàng lặng lẽ nhảy giật lùi mấy bước rất nhanh và bỏ mũ xuống.

    - Tôi có một việc rất gấp có liên quan đến chị, vì vậy mặc dù trời đã khuya, tôi vẫn quyết định đến đây...

    Anh ta nói giọng hết sức nghiêm trang, nên tôi cũng tin ngay rằng có một việc rất gấp thực và việc ấy có liên quan trực tiếp đến tôi. Tôi tin như thế là bởi vì thấy anh ta rất điềm tĩnh.

    - Được anh cứ nói đi!

    Hai chúng tôi cứ thế, mặt đối mặt đứng nhìn nhau; anh ta khép nép cầm mũ ở tay, còn tôi thì xách thùng rác và nước bẩn. Sau đó tôi chợt nhận thấy làm như thế không tốt, nên liền đem giấu thùng rác vào phía sau cánh cửa.

    - Tôi e nói ở đây không tiện, - anh ta nói rất lễ phép. - Hình như chị đang có khách?

    - Không đâu.

    - Có thể nói ngay ở đây, ở chỗ cầu thang này được không? Hay là chúng ta ra ngoài kia, ngoài đường phố. Tôi cần phải báo ngay cho chị biết...

    - Anh chờ một pbút, - tôi nói nhanh.

    Bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na đang réo gọi tôi. Tôi cài chốt cửa lại rồi đi về phía bà.

    - Ai ngoài đó thế?

    - Bác A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na ạ, cháu đi một lát sẽ về ngay, - tôi nói vội. - Nếu không thấy về, thôi thì thế này vậy... khoảng mười lăm phút nữa bác bảo Va-li-a xuống đường phố tìm cháu. Cháu sẽ ở ngoài đó.

    Bà ta còn đương nói gì, nhưng tôi đã lao ra ngoài và đóng sầm cửa lại.

    Tối hôm đó trời hơi lạnh mà tôi chỉ mặc có mỗi chiếc váy liền áo nên khi cùng bước xuống cầu thang, Rô-ma-sca nói “Chị cẩn thận kẻo bị cảm lạnh đấy”. Hình như anh chàng muốn đưa áo choàng cho tôi khoác, áo đã cởi cầm tay nhưng không dám đưa.

    Mãi khi hai người cùng ngồi xuống, anh chàng mới đánh bạo đặt chiếc áo xuống ghế cạnh tôi. Thật ra thì tôi không cảm thấy lạnh mấy. Vì uống nhiều rượu cho nên mặt tôi nóng phừng phừng và trong dạ cũng rất bồn chồn. Tôi có cảm giác anh ta đến lần này không phải là chuyện đơn giản chút nào.

    Đường phố vắng tanh, im ắng khác thường. Từ chỗ bức tượng Gô-gôn đến cuối dãy hàng rào sắt chỉ có mấy cụ già chống gậy ngồi trên những chiếc ghế dài - mỗi cụ ngồi một ghế. Phía sau dãy hàng rào, người ta đang mở rộng bến xe “Cung Xô Viết”.

    - Ca-nhi-a, tôi có câu chuyện muốn nói với chị, - Rô-ma-sca nói đắn đo từng chữ một.- Tôi biết rằng việc thành lập đội thám hiểm đối với chị là việc rất quan trọng, đồng thời đối với...

    Anh ta ngần ngừ một chút rồi nói luôn:

    - Đồng thời đối với Xa-nhi-a cũng vậy. Thực ra thì tôi không cho vấn đề này quan trọng đến thế, nghĩa là nó cũng chẳng làm thay đổi gì ghê gớm đối với cuộc sống. Đối với ông bố dượng của chị thì chắc chắn là ông ta rất sợ chuyện này. Nhưng câu chuyện có liên quan đến chị nên tôi cũng không thể nào bỏ lơ đi được.

    Anh ta nói bằng một giọng hết sức tự nhiên.

    - Tôi đến cốt để báo trước chị biết.

    - Báo tin gì cơ?

    - Đội thám hiểm sẽ không thành lập nữa.

    - Không đúng! Chính bác TR. đã báo cho tôi biết qua điện thoại cơ mà.

    - Vừa mới quyết định lại xong. Họ cho là không cần thiết phải cử một đội thám hiểm ra đi như thế. - Rô-ma-sca nói giọng rất điềm tĩnh.

    - Ai quyết định như vậy? Anh nghe tin ấy ở đâu?

    Anh chàng quay đi, rồi lại nhìn tôi mỉm cưòi.

    - Tôi không biết nên nói như thế nào. Lần này không khéo tôi lại trở thành một kẻ như chị vẫn gán cho tôi là tên đê tiện mất.

    - Anh muốn nói thế nào cũng được.

    Tôi cứ lo anh ta đứng dậy đi mất. Bởi vì anh ta rất bình tĩnh và hết sức tự tin, thật không còn giống cái anh chàng Rô-ma-sốp trước đây chút nào nữa. Nhưng anh ta không bỏ đi.

    - Ni-cô-lai An-tô-nô-vích nói với tôi rằng ông tổng cục phó Tổng cục đường hàng không Bắc cực có báo cáo về việc thành lập đội thám hiểm, nhưng bản thân ông ta thì lại phản đối chủ trương ấy. Ông cho rằng việc đi tìm kiếm người thuyền trưởng đã mất tích hơn hai mươi năm nay không phải là nhiệm vụ của Tổng cục đường hàng không Bắc cực. Nhưng, theo tôi thì... - Rô-ma-sốp hít một hơi dài, có lẽ anh ta cảm thấy nóng ngột ngạt nên bỏ mũ ra dặt lên đầu gối rồi nói tiếp, - đấy không phải là ý kiến của bản thân ông ta.

    - Thế thì là ý kiến của ai?

    - Của chính Ni-cô-lai An-tô-nô-vích, - Rô-ma-sốp nói vội. - Ông ta có phần ăn cánh với vị tổng cục phó kia, được tổng cục phó coi là một chuyên gia lớn về mặt nghiên cứu lịch sử Bắc cực. Và lại việc tìm kiếm thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp mà không bàn bạc với ông ấy thì còn biết bàn bạc với ai nữa! Đội thám hiểm trước kia là do ông ấy đích thân phụ trách trang bị, về sau ông ta có viết một số bài báo về đội thám hiểm ấy. Ông ta còn là ủy viên của Hội địa lý học, và lại là một ủy viên khá có uy tín.

    Tôi xúc động vô cùng. Trong khoảnh khắc này tôi không có đủ thì giờ để suy nghĩ kỹ xem tại sao Ni-cô-lai An-tô-nô-vích lại cứ cố tìm mọi cách để ngăn trở việc tìm kiếm, và cũng không đủ thì giờ để tìm ra nguyên nhân tại sao Rô-ma-sốp lại một lần nữa bán rẻ ông ta. Tôi cảm thấy bị xúc phạm, chẳng những vì cha tôi, mà còn vì Xa-nhi-a nữa.

    - Ông ta tên là gì?

    - Ai kia?

    - Cái người cho rằng không cần thiết phải đi tìm vị thuyền trưởng bị mất tích ấy.

    Rô-ma-sốp nói tên họ của người ấy ra.

    - Đương nhiên là tôi không có ý định đi tìm gặp để cãi lý với ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích, - tôi nói tiếp, cảm thấy hai lỗ mũi căng lên vì tức giận. Tôi cố giữ vẻ bình tĩnh bên ngoài, nhưng thực ra tôi không làm được như thế. - Nhưng thế nào tôi cũng sẽ đến văn phòng của Tổng cục đường hàng không Bắc cực để nói rõ sự việc cho mọi người biết về ông ta. Lần trước Xa-nhi-a không kịp tính nợ với ông ta, không biết có phải vì anh ấy thương hại ông ta không... Nhưng mà anh nói thật đấy chứ? -Tôi bỗng ngước nhìn Rô-ma-sốp, hỏi đột ngột. Trong lòng lúc ấy nghĩ rằng kẻ nói ra tin này vẫn chính là anh ta. Vì yêu tôi, có thể anh ta cố tìm mọi cách để làm hại Xa-nhi-a!

    - Không nói thật thì tôi bịa chuyện để làm gì? - Rô-ma-sốp thong thả nói. - Rồi chị sẽ biết rõ. Thế nào rồi họ cũng sẽ báo cho chị biết tin ấy. Theo tôi, chị cũng nên đi gặp mọi người nói cho rõ vấn đề. Nhưng chị chớ nên để lộ đã nghe tin này từ đâu, sẽ phiền ra, - ngừng một thoáng rồi anh ta lại nói tiếp. - Nếu để Ni-cô-lai An-tô-nô-vích biết việc này thì ông ta sẽ cho là tôi nói xấu ông ta...

    Nói xấu Ni-cô-lai An-tô-nô-vích là vì tôi - đấy là thâm ý của anh ta khi nói câu này. Anh ta nhìn tôi, chờ tôi nói.

    - Tôi không nhờ anh nói xấu bất cứ ai cả, nhưng lần này (tôi suýt nói: “lần đầu tiên trong đời anh”) anh đã làm một việc đúng với lương tâm và anh đã thực sự giúp đỡ tôi, tôi cho rằng việc làm ấy không có gì là đáng xấu hổ cả. Tôi không biết thái độ hiện nay của anh đối với Ni-cô-lai An-tô-nô-vích thế nào.

    - Khinh bỉ.

    - Thôi được, đó là chuyện của các anh, - tôi đứng phắt dậy, vì cảm thấy khó chịu trong lòng. - Dầu sao cũng nên cảm ơn anh, anh Rô-ma-sốp ạ. Chào anh...

    Tôi gặp cả ba người: bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na, Ki-ra và Va-li-a ở cạnh ngõ Xíp-xép Vra-giéc. Lúc ấy cả ba người đều đang hốt hoảng chạy đi tìm. Bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na vừa chạy vừa nói: “Trời ơi, tôi nào có ngờ thế này, cô ta chỉ bảo là nếu sau mười phút nữa mà không thấy trở về...”

    Đoàn tàu điện dừng lại giữa chúng tôi. Chờ khi đoàn tàu đã chạy đi rồi, cả ba người lại kéo nhau chạy hồng hộc sang con đường cái lớn.

    - Đứng lại!

    - À, chị ấy đây rồi! Bác A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na ơi! Chị ấy đây rồi! Ca-chi-a, chị làm sao thế?

    - Uống hết rượu nho chưa? - Tôi hỏi giọng trang nghiêm. - Nếu uống hết rồi thì mua nữa... Tôi rất muốn cạn chén để chúc mừng Xa-nhi-a.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  8. Rafa

    Rafa SV

    Chương 5

    Ở đây có viết dòng chữ “Tàu xanh Ma-ri””

    Hồi ấy ông tổng cục trưởng Tổng cục đường hàng không Bắc cực là một nhà nghiên cứu Bắc cực nổi tiếng. Trên tất cả các tấm bản đồ Bắc cực của nước Nga đều dễ dàng tìm thấy tên ông. Hình như muốn được gặp ông cũng không phải là chuyện đơn giản. Nhưng đồng chí TR. đã gọi điện trước cho ông cho nên tôi được ông tiếp ngay ngày hôm đó. Tất nhiên là tôi cũng phải ngồi chờ một lúc. Nhưng như thế lại càng thú vị, vì trong phòng đợi có khá nhiều thủy thủ và phi công vừa mới từ thành phố Da-pô-li- a-ri-e về. Có một người nét mặt hao hao giống Xa-nhi-a. Tôi bất giác nhìn ngắm anh ta hồi lâu và cố lắng tai nghe xem anh ta nói những gì. Nhưng anh chàng lại hiểu lầm ý tôi nên cố làm ra vẻ nghiêm trang điềm đạm, miệng mỉm cười duyên dáng. Mãi sau, mọi người đều đi hết, chỉ còn lại mỗi mình tôi...

    Tôi còn nhớ rất rõ cuộc nói chuyện hôm ấy giữa tôi với ông tổng cục trưởng Tổng cục đường hàng không Bắc cực, vì ngay tối hôm ấy tôi đã viết thư cho Xa-nhi-a, thuật lại đầy đủ từng câu từng lời của ông cho Xa-nhi-a biết.

    Thoạt tiên tôi có phần xúc động và cảm thấy mình đen đủi, nhưng khi nghe ông hỏi tôi bằng một giọng nhẹ nhàng, lịch thiệp: “Bác có thể giúp cháu được gì bây giờ nào?” – Thế là bao nhiêu sự xúc động của tôi đều biến mất. Sau đó tôi lại cảm thấy xúc động, nhưng là một thứ xúc động hoàn toàn khác trước, xúc động bởi niềm vui sướng đột ngột; nó có thể làm cho ta quên hẳn bản thân mình đi mà cảm thấy sự mát dịu dễ chịu vô cùng trong tâm hồn.

    - Có một phi công tên là Gri-gô-ri-ép trình lên bác một bản kế hoạch tìm kiếm đội thám hiểm bị mất tích, - tôi bắt đầu nói. - Nghe nói một đội thám hiểm mới đã được thành lập. Nhưng hôm qua...

    Ông chăm chú lắng nghe tôi nói. Trông ông giống hệt như hàng trăm hàng nghìn bức ảnh của ông đã đăng trên các báo và tạp chí. Chợt tôi nảy ra một cảm giác kỳ lạ rằng tuồng như không phải tôi đang ngồi nói chuyện với chính ông, mà là đang nói chuyện với bức ảnh của ông vậy.

    - Không, - khi nghe tôi hỏi có phải chính ông cũng cho rằng việc tìm kiếm vị thuyền trưởng mất tích là một việc làm vô ích không, thì ông trả lời dứt khoát. - Song, sau khi nghiên cứu tất cả hai luồng ý kiến “ủng hộ” và “phản đối” việc làm này thì chúng tôi thấy rằng công việc tìm kiếm theo kế hoạch cũ chắc chắn sẽ bị thất bại. Vì một là, địa điểm mà bản kế hoạch nêu ra, trong những năm gần đây đều đã ít nhiều được nghiên cứu, nhưng cho đến nay vẫn chưa hề tìm thấy dấu vết của đội thám hiểm tàu “Xanh Ma-ri”. Hai là từ Bắc địa đến cửa sông Pi-a-xin cách nhau có đến hơn một nghìn ki-lô-mét, nếu tổ chức tìm kiếm trong một khoảng xa như thế thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điểm cuối cùng cũng là điểm quan trọng nhất, là bác không tin tưởng vào lời đề nghị chỉ tiến hành tìm kiếm đội thám hiểm đã mất tích của bố cháu trên khu vực này.

    - Còn nghi ngờ gì nữa ạ? Chính là đoàn thám hiểm đã mất tích trong khu vực này! - Tôi nói giọng quả quyết.

    - Tại sao?

    - Tại vì... - Bỗng nhiên tôi quên mất tất cả mọi chứng cứ mà trước nay tôi vẫn thuộc lòng, hơn nữa vừa rồi lúc ngồi ngoài phòng đợi tôi còn nhẩm lại một lượt nữa và đã đếm chúng bằng đầu ngón tay. - Vì...

    Ông nhìn tôi chờ đợi. Đôi mắt ông sáng rực, bộ râu đen nhánh. Ông lặng lẽ nhìn tôi chờ tôi nói. Đấy là những giây khắc vô cùng đáng sợ.

    - Một là có thể khẳng định điều ấy qua cuốn nhật ký của người hoa tiêu, - tôi nói giọng hơi run run. - Bác có nhớ ông ấy ghi lại lời bố cháu nói trước kia: “Nếu hoàn cảnh bắt buộc phải rời bỏ tàu, thì tôi sẽ đổ bộ lên hòn đảo mà chúng ta đã phát hiện". Hai là... - tôi mở túi xách tay rút tấm ảnh Xa-nhi-a để lại đưa cho ông. - Bác xem đây... đằng sau có ghi rõ là hình ảnh của chiếc tàu “Xanh Ma-ri”. Chiếc câu liêm này được tìm thấy ở Tai-mưa.

    - Thì cứ cho là như vậy đi. Nhưng tại sao lại không thể cho rằng chiếc câu liêm này là của toán người do người hoa tiêu cầm đầu rời khỏi tàu trước đó hai tháng?

    - Vì ông hoa tiêu... Bản đồ của bác đâu? - Mặc dù phía trên bàn có treo một tấm bản đồ Bắc cực rất lớn và hai mắt tôi luôn nhìn chằm chằm vào nó; nhưng có lẽ vì quá xúc động, tôi lại không nhìn thấy nó. - Ông ta đi theo hướng trôi của núi băng và hướng đó ngược lại với hướng đi của con tàu. Lập luận như thế được chứ ạ? - Tôi cầm chiếc que và đứng trên mặt ghế vì đứng dưới sàn nhà tôi không thể nào với tới eo biển Phơ-lo-ra được. - Bác hãy theo dõi hướng đi của ông ta nhé. Ông ta đã cùng với đội thám hiểm của trung úy Xê-đốp về tới Ác-khan-ghen-xcơ. Chúng ta tiếp tục theo dõi, - tôi nói tiếp, cảm thấy toàn thân lạnh toát và mặt tái đi, nhưng tái vì quá xúc động. - Như bác vừa nói, từ Bắc địa đến cửa sông Pi-a-xin, tất cả mọi nơi đều đã được nghiên cứu mà cho đến nay vẫn chưa có ai bắt gặp được dấu vết của đội thám hiểm, dù là một trường hợp ngẫu nhiên đi nữa. Nhưng còn trường hợp Ru-xa-nốp thì sao? Từ ngày tìm thấy những thiết bị còn lại của ông ta đến khi tìm thấy ông ta phải mất đến bao nhiêu năm. Và đã tìm thấy ông ta ở một nơi như thế nào? Chẳng phải là ở nơi mà tàu bè thường qua lại, khách thập phương thường đi đến đấy ư? Còn hài cốt của người thủy thủ của A-mun-xen nữa, chẳng phải người ta đã tìm thấy ở Đích-xơn, nơi chỉ cách trạm thám hiểm có ba ki-lô-mét đó ư? Không phải như thế, vấn đề không phải là những nơi đó đều đã được chú ý nghiên cứu, mà vấn đề là ở chỗ từ trước tới nay chưa hề có ai đi tìm bố cháu cả. Tuyến hành trình của bố cháu như sau: từ vĩ độ bảy mươi chín độ ba mươi nhăm phút giữa vĩ tuyến tám mươi sáu và tám mươi bảy tiến thẳng ra đảo Nga-la-tư rồi ra quần đảo Noóc-đen-sen-lít. Sau đó có lẽ bị phiêu dạt một thời gian dài, rồi từ eo biển Xtéc-lê-gốp đi vào cửa sông Pi-a-xin. Ở đây có một cụ già người Nê-net đã tìm thấy một chiếc thuyền bằng da thú đặt trên xe trượt tuyết. Sau đó con tàu thám hiểm lại chạy về hướng sông Ê- ni-xây, vì sông Ê-ni-xây là nơi độc nhất có hy vọng gặp được người cứu giúp.

    Tôi nhảy xuống khỏi ghế. Ông già rê rê bộ râu, nhìn tôi đầy vẻ lý thú.

    - Cháu cầm chắc là như thế chứ?

    - Vâng ạ. Không thể có một tình huống khác ạ. Cháu không biết cuối cùng anh Gri-gô-ri-ép đã nêu lên những đề nghị gì? Tàu phá băng “Pa-khơ-tu-xốp” đi đến Bắc địa là để tiến hành nghiên cứu khoa học. Đó là đoàn thám hiểm về địa lý thủy văn, có phải không ạ?

    - Đúng.

    - Thế thì tốt quá. Dọc đường đi nó có thể xây đựng vài ba địa điểm làm nơi đặt chân cho các đội thăm dò sau này. Anh Gri-gô-ri-ép cho rằng chỉ cần tổ chức hai đội, mỗi đội ba người. Còn cháu thì cháu nghĩ rằng phải có đến ba đội. Đội thứ ba có thể thay bằng một chiếc xuồng máy. Các đội này làm việc dọc theo vùng biển ở ngoài các hòn đảo. Còn tàu “Ра-khơ-tu-xốp” sẽ làm việc ở một nơi gần đấy, như vậy các đội sẽ giữ được liên lạc thường xuyên với nhau.

    Nói đến đây tôi nín bặt vì ông Tổng cục trưởng chợt vừa cười vừa đứng dậy, đến ngồi bên cạnh tôi.

    - Khá lắm. Cháu rõ đúng là con gái của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, - ông nói giọng vui vẻ. - Cháu là nhà địa lý học phải không?

    - Không, cháu là nhà địa chất.

    - Năm thứ mấy rồi?

    Tôi trả lời rằng tôi đã tốt nghiệp đại học và đã công tác tại Cục địa chất ỏ Ba-skia được hai năm.

    - Cháu có anh chị em không?

    - Không ạ, cháu chỉ có một mình.

    - Thế mẹ cháu?

    - Mẹ cháu mất rồi.

    Ông im lặng hồi lâu đầy vẻ cảm thông. Sau đó ông liền trở lại với phương án của Xa-nhi-a.

    - Tất nhiên là toàn bộ công việc này không đơn giản chút nào,- ông trầm ngâm nói. - Nhưng không phải là không thể tiến hành được... Một chiếc xuồng máy, tất nhiên không phải là vấn đề lớn lao gì. Nhưng trước khi quyết định việc này cần phải gặp Gri-gô-ri-ép đã. Hiện giờ anh ấy ở đâu.

    - Anh ấy đang ở thành phố Da-pô-li-a-ri-e ạ.

    Tim tôi đập rộn lên, và không hiểu vì sao tôi lại nhắc lại một lần nữa:

    - Ở thành phố Da-pô-li-a-ri-e.

    Ông quay sang nhìn tôi, vẻ đầy ý vị.

    - Chúng ta sẽ mời anh ấy về ngay đây đi, mời về ngay, - ông nhắc lại với giọng hân hoan như con trẻ. Chỉ qua mấy câu nói và thái độ của ông, tôi đã vỡ nhẽ rằng đồng chí TR. đã để lộ cho ông biết quan hệ giữa tôi với Xa-nhi-a rồi.- Cháu nghĩ thế nào. Việc này cần đến sự có mặt của anh ta chứ?

    - Vâng, cần ạ, - tôi đánh bạo trả lời.

    - Thế này nhé. Hôm nay được làm quen với cháu, bác rất vui mừng, - ông đứng lên, nói giọng nghiêm trang. - Dầu rằng sau này đội thám hiểm có thành lập hay không cũng vậy; hôm nay cháu đến đây trình bày rất sôi nổi, rất nhiệt tình là việc rất có ích, rất tốt.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  9. Rafa

    Rafa SV

    Chương 6

    Ở nhà bà

    Như tôi đã kể, tối nào bà tôi cũng đến thăm tôi. Lần nào đến bà cũng giữ một vẻ quan trọng đặc biệt và lần nào bà cũng hãnh diện bắt chuyện rất chặt với bà mẹ của Ki-ra. Bà rất bình tĩnh về chuyện tôi đã rời bỏ “căn phòng đẹp nhất” của mình để đến ở “nhà người khác”. Và bà còn tỏ ý lo sợ một bà tên là Đô-ra A-bra-mốp-na, vì đã hai lần, bà ấy “mò đến đánh hơi căn phòng của tôi”.

    - Bà tuổi cao sức yếu rồi, - có một lần bà nói với tôi, nước mắt lưng tròng, - nhưng chưa bao giờ bà phải sống cảnh cô đơn buồn vắng như thế này cả.

    Nhưng bỗng có một hôm bà không đến chỗ tôi. Sáng hôm sau bà gọi điện thoại báo cho tôi biết tim bà làm sao ấy. Khi nghe tôi hỏi Ni-cô-lai An-tô-nô-vích có nhà không thì bà nổi cáu ầm lên:

    - Sao mày hỏi ngu thế? - Bà hét tướng lên. - Nó còn đi đâu nữa mà không có nhà? Có phải ai cũng như mày, chỉ toàn đi ăn nhờ ở vạ nhà người ta đâu.

    Một chặp sau dịu lại, bà bảo rằng Ni-cô-lai An-tô-nô-vích đã đi vắng rồi. Thế là tôi phải vội vã thu xếp các thứ để về thăm bà ngay.

    Bà nằm thượt trên ghế đi-văng, mình đắp chiếc áo khoác màu xanh đã cũ của bà. Một lọ thuốc nước đặt trên chiếc bàn con cạnh đi-văng. Đó là thứ thuốc duy nhất mà bà chịu dùng và khi tôi hỏi thăm tình hình sức khỏe của bà thì bà chỉ khoát tay.

    - Cô ấy là người hễ gặp chuyện rắc rối là co rụt lại ngay, - bà nói về người giúp việc cũ, giọng bực tức. - Bây giờ mới biết trước kia cô ta đã từng đi tu. Cô ta là một người rất ngoan đạo. Tao bèn hỏi cô ta “Thế sao cô còn đi làm việc làm gì?” và rồi tao cho cô ta thôi việc ngay.

    Bà đuổi chị giúp việc thật là một việc làm rất không hay. Vì dẫu chị là một người ngoan đạo, chị vẫn là một người rất tốt. Và trước đây thậm chí bà còn rất thích chị ấy chỉ vì chị ấy đã từng sống cuộc đời đi tu.

    - Bà ơi, sao bà lại làm như vậy? - Tôi hỏi. - Thế là cuối cùng bà ốm và chỉ có mỗi một mình! Cháu phải đưa bà sang ở bên cháu thôi.

    - Tao không đi đâu cả! Thật là càng ngày càng chẳng ra làm sao cả!

    Bà dứt khoát không chịu lên giường nằm lại và tự khẳng định rằng bà không mắc bệnh tim, chỉ vì chiều hôm qua không nấu thức ăn, chỉ ăn tạm một ít cải củ với thịt mỡ nên bị say đó thôi.

    - Nếu bà không đi nằm, cháu sẽ đi ngay bây giờ!

    - Ồ, mày lại đọa tao rồi!

    Nhưng rồi bà cũng chịu nằm lên giường và chỉ một lát đã ngủ say...

    Trong căn phòng của mẹ không biết tại sao hễ mở cửa sổ ra là gió lại lộng lên. Để cho mát tôi mở cả cánh cửa thông ra hành lang. Xong đâu đấy, tôi bước vào căn phòng riêng của mình. Tuy tôi có cảm giác rất khó chịu khi bước vào căn phòng trống trải này, song dẫu sao nó vẫn là nơi mà tôi đã sống qua bao nhiêu năm trời! Sau ngày tôi ra đi, căn phòng trở nên đẹp đẽ dễ trông hơn nhiều. Trên nệm giường được trải một tấm khăn ren cũ của bà, rèm che cửa sổ được giặt trắng tinh thậm chí còn được hồ bột nữa. Trên trang quyển từ điển đại bách khoa toàn thư tôi đang đọc dở trước ngày ra đi giờ vẫn nguyên chỗ cũ. Rõ ràng là mọi thứ ở đây đang chờ tôi trở về...

    Tôi tìm thấy một quyển nhật ký trong đống sách vở cũ xếp trên khung cửa sổ. Trong đó có chép một số câu trong những quyển sách tôi hằng yêu thích: “Trái tim con người vốn là một thứ kỳ lạ, trái tim người đàn bà càng kỳ lạ hơn. Léc-môn-tốp”.

    Toàn là những câu bay bướm mà buồn cười. Tôi đọc được từ đầu đến cuối một lượt. Tôi mơ màng như đang trong giấc mộng thấy mình đến chơi nhà cô bạn thân. Cô ta hình dung mọi việc trên đời đều vô cùng tốt đẹp, cả thế giới hiện ra dưới mắt cô với cảnh tượng hết sức huy hoàng tráng lệ.

    “Cuộc đời là sân khấu, mà mỗi con người là một diễn viên”.

    Khi tôi cầm quyển nhật ký từ trong phòng bước ra, tôi có cảm giác như có người nào đó đang vội vã đi lướt qua hành lang.

    Tất nhiên ngay lúc ấy tôi không hề nghĩ rằng người đó chính là người bà đang ốm của tôi. Song rõ ràng là có người vừa đi lướt qua ngoài hành lang và người ấy choàng chiếc áo khoác màu xanh. Nhưng ai chạy, lại khoác chính cái áo khoác màu xanh. Sau đó tôi biết đích xác rằng chính là bà tôi vì khi tôi quay trở lại phòng, tuy bà đã lại nằm lên giường như cũ, nhưng là cái dáng vừa mới nằm xuống, thậm chí còn chưa kịp kéo áo đắp kín người.

    Thật là buồn cười, bà còn cố nhắm nghiền hai mắt làm ra bộ đương ngủ say và không hề nghĩ đến chuyện chạy ra hành lang. Tất nhiên đó là bà bí mật thăm dò tôi, xem tôi có thay đổi ý định, có chịu dọn về ở nhà không?

    - Bác sĩ đã đến chưa hở bà? - Chờ khi bà mở mắt ra và giả vờ ngáp dài, tôi liền hỏi.

    - Bác sĩ không hề đến. Bà nào có đi mời bác sĩ. Bà biết chắc rằng căn bệnh của bà là do củ cải gây nên.

    - Nhưng bà gọi điện thoại bảo cháu là tim bà bị làm sao cơ mà.

    - Tim làm sao cũng là do củ cải gây nên thôi.

    - Không thể như thế được! Cháu đi mời bác sĩ ngay đây.

    Thế là bà nổi cáu ngay lên. Bà tuyên bố rằng nếu tôi cứ mời bác sĩ đến thì bà sẽ lập tức thay quần áo và đến nhà chị láng giềng tên là Ma-ri-a Ni-ki-tit-sna.

    Nếu muốn mời bác sĩ thì chắc chắn là sẽ phải cãi nhau với bà một trận ra trò, nên tôi thôi không giữ ý định của mình nữa; hơn nữa bà cũng có vẻ mỗi lúc một tỉnh táo hơn. Cuối cùng bà đã cảm thấy dễ chịu hoàn toàn, vì lúc ấy bà đột nhiên ngửi thấy mùi lạ, liền hét lên: “Bị cháy rồi!” Bà vùng dậy, ba chân bốn cẳng chạy bổ xuống bếp.

    Những chiếc bánh nướng nhân thịt đặt trong lò hơi bị cháy khét, tỏa ra mùi thơm ngào ngạt. Bà nói ngay rằng nếu tôi không ở lại ăn bánh thì bệnh của bà sẽ càng nặng lên.

    Tất cả các mưu kế này là do bà bày ra, đặc biệt là việc bà làm món bánh nướng nhân thịt mà tôi hằng ưa thích, bà không hề tiếc mỡ để làm món đó. Món bánh nướng ấy cần được khẳng định rằng, món ăn ở nhà mình hơn hẳn món ăn ở nhà “người khác”. Nhưng sau khi ăn mấy miếng, tôi ôm hôn bà và chỉ nói một câu là bánh rất ngon thôi.

    Về việc Ni-cô-lai An-tô-nô-vích, thoạt đầu không ai nhắc đến. Nhưng về sau bà làm ra vẻ đắn đo suy nghĩ khiến tôi đoán ngay rằng câu chuyện sắp sửa mở đầu. Bà bắt đầu bằng những lời rất xa xôi, bóng gió.

    - Tao vừa nhận được thư của Ô-lét-trơ-ca và La-ra, - bà nghiêm giọng nói. - Họ khuyên tao chớ cố quản việc nhà. Mà thực, dạo này tao hay mệt lắm, không thể quản nổi nữa.

    Ô-lét-trơ-ca và La-ra là hai bà dì đã có tuổi của tôi. Đó chính là hai bà già họ Bu-ben-tri-cốp đang sống ở En-xcơ.

    - Nhưng không quản việc nhà làm sao được, cả hai người đều chẳng hiểu tao chút nào cả. Con bé giúp việc ấy nó sống theo sự xếp đặt tỉ mỉ của cha cố, - giọng bà có vẻ hào hứng. - Nó chỉ nhìn thấy có Chúa, ngoài ra chẳng nhìn thấy ai nữa. Cha cố viết thư cho nó nói: “Hãy im lặng, chịu đựng và khóc lóc!” và nó đã làm đúng như thế. Nó đóng mấy cây đinh vào trong tủ áo, treo ảnh thánh lên và rì rầm khấn: “Con xin nghe lời Chúa!” Tao là chúa ghét hạng người như thế.

    - Bà đã đuổi người ta đi rồi còn nói gì nữa.

    Bà ngồi lặng im một lúc lâu.

    - Nhà tao bây giờ khảng tảng quá lắm, - bà thở dài nói. - Mày bỏ nhà đi ở chỗ khác. Còn thằng ấy thì thế nào? Nó bây giờ cũng trở thành thằng bây bửa, chẳng thiết gì. Ăn uống thì bữa có bữa không, có ăn cũng được, không cũng chẳng sao. 

    Hai chữ “Thằng ấy” mà bà vừa nói đến là chỉ Ni-cô-lai An-tô-nô-vích.

    - Lúc nào nó cũng viết, viết không biết chán. - bà tiếp tục nói.

    - Không hiểu làm sao nó viết suốt ngày suốt đêm. Sáng ngủ dậy vừa uống xong cốc nước chè là quấn ngay cái khăn quàng của tao rồi bám vào bàn viết luôn. Có lần nó nói: “bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ạ, viết lách sẽ là nghề lao động suốt đời của tôi. Quyết định này sai hay đúng hãy để cho bạn bè và kẻ thù của tôi phán đoán”. Bây giờ nó gầy đi nhiều rồi, tâm thần có vẻ không ổn định, - bà nói lầm bầm. - mấy hôm gần đây cứ đội mũ trong khi ăn. Chắc thế nào nó cũng lên cơn điên mất.

    Giữa lúc ấy chợt có tiếng mở cửa, một bóng người bước vào và dừng lại ở phòng treo áo. Tôi quay nhìn bà, bà giật mình nhìn đi nơi khác. Thế là tôi biết ngay Ni-cô-lai An-tô-nô-vích đã về.

    - Bà ạ, cháu đi đây.

    - Không, chưa đi được đâu. Cháu đã ăn hết bánh nướng đâu nào.

    Ni-cô-lai An-tô-nô-vích gõ nhẹ lên cửa buồng và không đợi trả lời đã đẩy nhẹ cửa, bước vào.

    Tôi quay lại, khẽ gật đầu chào. Không biết tại sao lúc ấy tôi cảm thấy rất vui lòng là mình đã có thể gật đầu chào một cách mạnh dạn và phớt lờ như thế.

    - Công tác ra sao, Ca-chiu-sa?

    - Cám ơn, cũng bình thường.

    Kể cũng lạ, ông ta bây giờ đối với tôi chỉ còn là một con người xa lạ với sắc mặt trắng bệch, hai cánh tay ngắn cũn cỡn, những ngón tay mũm mĩm lúc nào cũng động đậy, lúc thì sờ lên cổ áo, lúc lại sờ lên túi áo gi-lê, cứ như muốn giấu đi vậy. Ông ta có vẻ giống như một diễn viên gầy yếu. Sự quen biết giữa tôi và ông giờ đây xa xôi như chuyện xảy ra hàng trăm năm về trước. Giờ đây cho dù sắc mặt ông ta có nhợt nhạt như thế nào, cổ ông ta có gầy khẳng đến đâu, và tay ông ta có run rẩy mấy đi nữa khi đưa ra để xê dịch chiếc ghế tựa, tôi vẫn không mảy may cảm thấy động lòng.

    Những phút ngỡ ngàng ban đầu đã đi qua. Ông ta hỏi đùa tôi về việc vẽ bản đồ, có còn vẽ nhầm dãy núi Din-me-đác-xcai-a với A-sin-scai-a nữa không. Hồi còn học ở trường đại học Tổng hợp đã có lần tôi vẽ nhầm như thế. Sau đó tôi liền đứng dậy ra về.

    - Thôi, cháu về bà ạ.

    - Tôi có thể ra khỏi đây, - Ni-cô-lai An-tô-nô-vích nói khẽ.

    Ông ta ngồi trong chiếc ghế bành, người co rúm lại, mắt chăm chú nhìn tôi vẻ chân thành. Từ sau ngày mẹ tôi chết, những khi ngồi nói chuyện lâu với nhau, ông ta đều ngồi theo cái dáng ấy. Song đối với tôi giờ đây những hình ảnh ấy cũng đã trở thành xa xôi.

    - Nếu cháu vội đi thì lần sau bà sẽ nói chuyện vậy.

    - Bà ạ, nói thực là có người đang chờ cháu, - tôi nói vội khi bà đưa tay níu lấy tay áo tôi.

    - Không, chẳng có ai chờ cháu cả. Sao lại có thể như thế được? Dầu sao An-tô-nô-vích cũng là bác cháu kia mà.

    - Thôi, bà Ni-ca Ca-pi-tô-nốp-na ạ, - Ni-cô-lai An-tô-nô-vích nói vẻ hiền từ. - Tôi là bác nó hay không thì cũng thế thôi. Ca-chiu-sa, thế ra cô dứt khoát không muốn nghe tôi nói chuyện phải không?

    - Không.

    - Thật là mù quáng, - bà giận dữ nói.

    Tôi bật cười.

    - Tôi không thể nói chuyện được với cô về bất cứ chuyện gì. Tôi thật đau lòng khi cô ra đi, thậm chí cũng không buồn chào tôi lấy một tiếng, - Ni-cô-lai An-tô-nô-vích nói giọng vội vã, tuy vẫn giữ được vẻ hiền từ. - Thật tôi chẳng có cách nào nói chuyện với cô. Cô và Xa-nhi-a đã quá tin vào một lão già vừa từ trong nhà thương điên ra mà mụ mẫm hết cả.

    Ông liếc nhìn tôi qua phía trên cặp kính. Một lão già vừa từ trong nhà thương điên ra! Lại bịa chuyện nữa rồi. Cũng có thể là ông nói đúng, nhưng những chuyện đó đối với tôi giờ đây chẳng có nghĩa gì. Chỉ có một ý nghĩ nhẹ nhàng nhói vào lòng tôi, đó là việc người ta lại nói động đến Xa-nhi-a.

    - Lạy Chúa, tôi thật chẳng còn nghĩ ngợi được gì nữa. Nếu bảo rằng tôi đã giở mọi thủ đoạn để làm cho chú ấy khuynh gia bại sản, bảo rằng tôi cố ý không trang bị tốt cho đội thám hiểm, thì cô thử nghĩ xem để vì cái gì cơ chứ, có phải là để giết hại I-van chăng?

    Ni-cô-lai An-tô-nô-vích bật lên tiếng cười một cách chân thành.

    - Vì ghen! Lạy Chúa! Tôi yêu mẹ cô, vì ghen nên tôi phải hại I-van!

    Ông ta lại cười rộ lên, nhưng rồi đột nhiên ông ta bỏ kính ra và lau nước mắt.

    - Đúng, tôi đã từng yêu chị ấy, - ông nói qua tiếng khóc. - Có Chúa biết, lẽ ra mọi việc đều có thể khác hẳn. Nếu quả thật là tôi đã sai lầm thì ngoài chị ấy ra còn có ai trừng phạt tôi nữa? Tôi đã phải chịu một sự trừng phạt mà từ xưa đến nay không thể nào nghĩ tới nổi.

    Tôi ngồi nghe ông ta nói như qua một cơn mộng. Tôi có cảm giác như cái cảnh này đã có một lần nào đó xảy ra trong đời tôi rồi. Cũng cái đỉnh đầu hói đó, cũng những lời trần tình ai oán như thế, và cũng cùng cái cảm giáckhó chịu khi phải nghe tiếng khóc trầm trầm của một người đàn ông đã có tuổi.

    - Thế nào? - Bà tôi giận dữ hỏi.

    - Bánh ngon lắm, bà cho cháu một cái nữa đi, - tôi vui vẻ nói,- Ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích, ông nói nữa đi.

    - Ca-chi-a, Ca-chi-a!

    - Mọi người đều biết đấy, - tôi nói và cảm thấy hình như mình đang phấn khởi vì giận dữ. - Tôi không còn là trẻ con nữa, năm nay tôi đã hai mươi bốn tuổi đầu. Tôi có thể làm mọi việc theo ý nguyện của mình. Tôi không muốn tiếp tục ở đây nữa, các người có biết không? Tôi sắp lấy chồng rồi. Rất có thể rồi tôi sẽ cùng chồng tôi ra ở ngoài Bắc cực, vì anh ấy là phi công Bắc cực, ở đây anh ấy chẳng có việc gì để làm. Còn về ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích thì tôi đã trông thấy ông khóc nhiều lần rồi, và như thế cũng đã đủ lắm rồi. Tôi chỉ có thể nói rằng, nếu quả là ông không có sai trái gì thì chắc là ông cũng chẳng tốn công để đi làm cái việc xấu xa ấy làm gì. Ví như ông không cần phải đến Tổng cục đường hàng không Bắc cực để chạy vạy tìm cách ngăn trở đội thám hiểm của Xa-nhi-a làm gì.

    Có lẽ lúc này thái độ của tôi đã thay đổi hẳn, không còn vui vẻ như trước nữa, nên bà tôi mới nhìn tôi bằng cặp mắt hoảng hốt như thế, và bà đã lén làm dấu thánh. Ni-cô-lai An-tô-nô-vích ngồi lặng im, những đường gân trên cổ nổi rõ lên và giật rất dữ.

    - Xin hãy để cho tôi được yên tĩnh, - tôi nói nhanh như người phát cuồng. - Xin mãi mãi đừng có quấy rầy tôi!

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  10. Rafa

    Rafa SV

    Chương 7

    Mùa đông

    Tháng mười một, tôi được phân phối một căn buồng trong một ngôi nhà ở vùng ngoại ô trên bờ sông Mát-xcơ-va. Mặc cho Va-li-a và Ki-ra đều đồng thanh nói rằng cuộc sống gia đình của họ rất cần đến sự có mặt của tôi; mặc cho bà A-lếch-xan-đra Đi-mi-tri-ép-na kéo tôi sang một bên nói rằng trước nay tôi luôn luôn có tác dụng như một lá chắn rất tốt che chở cho bà tránh khỏi móng vuốt của Va-li-a, nếu bây giờ tôi đi thì bà cũng sẽ đi khỏi nhà này để khỏi bị Va-li-a làm cho điêu đứng; cuối cùng tôi vẫn nhất quyết ra đi.

    Căn phòng của tôi nằm trong một tòa nhà gác mới xây. Tòa nhà năm tầng ấy nằm thoi loi trên bờ sông rộng và trống trải. Nó chẳng lấy gì làm đẹp lắm. Công nhân xây nhà vừa mới ra đi, họ còn đang dọn dẹp các thứ vôi vữa bày bừa bộn trong sân nhà, thu cất những thùng đựng sơn và những cái máng gỗ để la liệt trên cầu thang.

    Trước đây đi tàu điện ra ngoại ô phải mất hẳn một tiếng đồng hồ, nhưng bây giờ đi tàu điện ngầm, chỉ cần mười phút là đến nơi. Trước kia vùng ven thành phố rất buồn tẻ nhưng giờ đây nó náo nhiệt chẳng khác gì nội thành. Tòa nhà to lớn của chúng tôi nằm song song với tòa nhà xây dựng khá cầu kỳ với những cột chống thon nhỏ, với hàng lan can có chạm trổ hình mỹ thuật kia càng nổi bật lên.

    Chẳng những cả tòa nhà mà riêng căn phòng tôi ở, tôi cũng không dám tự khoe. Căn phòng ấy chỉ có một ưu điểm là ngảnh mặt về phía sông Mát-xcơ-va có cảnh sắc vô cùng đẹp đẽ. Ngay cả mùa đông, dòng sông Mát-xcơ-va cũng rất đẹp, nhất là những phút hoàng hôn. Những tia mặt trời yếu ớt đã nhạt màu từ nơi xa xôi rọi đến. Phía sau những đống tuyết gồ ghề hiện ra những vùng tối trong trẻo hình bầu dục. Cảnh tượng đó khiến tôi liên tưởng đến một thành phố cảng nho nhỏ ngoài Bắc cực, mà trên đường phố lát gỗ không ngớt chạy qua chạy lại những cỗ xe trượt tuyết do hươu kéo. “Nhưng bên cạnh đó, cùng chạy thi với hươu kéo xe”, - Xa-nhi-a viết trong thư gửi cho tôi, “trên đường phố bây giờ có rất nhiều xe chở gỗ, xe tải loại lớn, xe ngựa và xe chó kéo. Và như vậy, hầu như toàn bộ lịch sử của nhân loại, từ chế độ thị tộc đến nền văn minh của chế độ xã hội chủ nghĩa đều đang bày ra trước mắt bọn anh. Hiện nay bọn anh đang xây dựng một thành phố mới, khắp nơi ngổn ngang xe cải tiến, gỗ xẻ xếp ngập phố. Nhà ga của sân bay đã được chuyển vào một tòa nhà ba tầng hoa lệ mới xây dựng xong. Mỗi khi mặt trời ngả về tây, bọn anh lại tập trung ở đây đọc tác phẩm của Von-te. Thật là thú vị, nhà văn “hiện đại” này được dân chúng ở đây hết sức hâm mộ, nhiều tờ báo tường trích dẫn các danh ngôn trong các tác phẩm của ông để trang hoàng cho báo. Anh nghĩ về em nhiều quá, đến nỗi có lúc anh lấy làm lạ là tại sao còn có thì giờ để làm những việc khác! Như vậy có lẽ là những việc khác, với chừng mực nhất định cũng lại là em... Đặc biệt trong lúc này, mỗi khi nghĩ đến chuyện gì hoặc hát lên mấy câu ca yêu thích thì trong óc anh lại hiện ra hình ảnh của em...”

    Mùa đông năm ấy tình hình kinh tế của tôi hết sức khó khăn, vì Cục địa chất Ba-skia gửi tiền lương từ U-pha đến luôn luôn bị chậm trễ. Có lúc bắt buộc tôi phải đánh điện đến để hỏi. Ngoài việc đó ra, tôi không có nơi ăn cố định mà tự nấu thì tôi lại lười. Nói chung lại, hồi ấy tôi như trở thành người rừng, có một lần tôi lấy chiếc váy liền áo kiểu lễ phục may bằng lụa ở trong va-li ra để mặc đi dự lễ, nhưng khi xem kỹ chiếc váy thì thất vọng đến phát khóc lên.

    Lần đầu tiên trong mùa đông ấy tôi chuẩn bị đi nhà hát Va-khơ-tan-gốp để xem buổi biểu diễn ra mắt vở “Hài kịch người dơi”. Chiếc váy “có đuôi tôm” ấy bây giờ không còn hợp thời trang nữa, có đến hàng thế kỷ nay nó đã bị mọi người lãng quên rồi. Sau đó tôi và Ki-ra đem nó ra cắt ngắn và chữa lại; nhưng cái hứng thú đi xem hát đã tan biến mất.

    Đó là mùa đông mà tôi đã phải sống qua bằng những ngày cô đơn lạnh lẽo, cô đơn đến nỗi hầu như chỉ có một mình Rô-ma-sốp là khách đến chơi. Giờ đây thật khó tưởng tượng được rằng đây chính là anh chàng Rô-ma-sốp đã từng tuyên bố sẽ giết chết tôi và giết luôn cả anh ta. Lần nào đến anh ta cũng rất lễ phép, điềm tĩnh, bao giờ cũng diện rất đẹp, có thể nói là hào hoa nữa. Anh ta nói chuyện với tôi bằng một giọng đều đều như cái giọng anh ta vẫn dùng để giảng bài ở trường đại học của anh ta...

    Một lần anh ta đến với một vẻ mệt mỏi và đói mèm. Tôi hỏi anh ta:

    - Mi-sa, anh muôn uống nước chè không?

    Anh ta lạnh lùng cám ơn và từ chối. Rõ ràng là anh ta có ý muốn biểu lộ rằng ngoài quan hệ công việc ra, anh ta không hề định đặt một thứ quan hệ nào khác đối với tôi. Cái công việc vừa nói ở trên là chỉ đội thám hiểm và tất cả những gì có liên quan đến đội thám hiểm.

    Tại sao anh ta bận tâm đến công việc của đội thám hiểm như vậy? Rõ ràng là việc ấy có quan hệ trực tiếp đến tôi nên “anh ta không thể làm ngơ được”. Song trong đó cùng có chút ít kiêu căng, dường như anh ta muốn mượn cơ hội này để tỏ cho tôi biết rằng anh ta không chút nào oán hận khi bị tôi cự tuyệt. Và cũng rõ ràng là anh ta đang có một mưu đồ - vẫn cái mưu đồ cũ ấy - là dùng những ngón bịp bợp tinh vi để cuối cùng có thể kết hôn cùng tôi. Trong con người của anh ta, trong thái độ của anh ta, trên bộ mặt có đôi tai vểnh chưa hoàn toàn phát triển của anh ta chứa đựng một cái gì đó vừa tinh vi vừa phức tạp, có lúc còn ánh lên một sắc thái đáng sợ. Chả trách đã có lần bác I-van Pa-vơ-lứt nhận xét rằng anh ta là một con người vô cùng phức tạp, hoặc ít ra cũng là một con người tính tình thay đổi bất thường.

    Song chuyện tính tình của anh ta thì chẳng có liên quan gì đến tôi. Tất nhiên là tôi cũng không viết thư cho Xa-nhi-a biết việc anh ta thường đến thăm tôi. Nếu biết việc ấy, chắc chắn là Xa-nhi-a sẽ tức điên lên, hơn nữa không biết bởi cớ gì gần đây thư tôi viết cho anh cứ bằng một giọng khô khan và lạnh lùng...

    Việc rắc rối thình lình xảy ra. Tổng cục đường hàng không Bắc cực tỏ ý không yên tâm trong việc ủy thác cho Xa-nhi-a nhiệm vụ tìm kiếm lần này. Tuy anh đã ra công tác được nhiều năm, nhưng dẫu sao vẫn còn rất trẻ, và thời gian anh công tác ở Bắc cực vẫn chưa được là bao. Mọi người tuy đều biết rằng anh là một tay lái ưu tú đáng tin cậy, song liệu anh có đủ sức gánh vác nổi cái nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi có trình độ tổ chức nhất định đó không? Nói tóm lại, anh là một con người như thế nào? Tôi chợt nhớ có lần có một tờ tạp chí đã từng chỉ trích anh là vu khống cho người khác, hình như là vu khống cho người anh họ của thuyền trưởng, nhà hoạt động Bắc cực nổi tiếng Ni-cô-lai An-tô-nô-vích Ta-ta-ri-nốp.

    Thế là tôi viết thư yêu cầu tạp chí đính chính lại, tôi nói với họ rằng việc tổ chức một đội tìm kiếm sáu người chẳng phải là chuyện quá ư ghê gớm, phức tạp đến nỗi không làm được. Tôi yêu cầu không giao nhiệm vụ tìm kiếm thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp cho một người nào khác ngoài người mà ngay từ nhỏ đã nuôi ước vọng ấy.

    Rô-ma-sốp biết hết những chuyện ấy. Tóm lại hắn đang suy nghĩ những gì, đang hy vọng những gì? Tôi chưa hỏi hắn và hắn cũng chưa thổ lộ bao giờ. Nhưng rồi sẽ có ngày tôi đoán được ra rất nhiều việc.

    Nếu đội thám hiểm được thành lập thì tôi sẽ không chút do dự cùng ra bắc địa với Xa-nhi-a. Tôi viết thư cho ông Tổng cục trưởng Tổng cục đường hàng không Bắc cực, cho ông biết ý định ấy của tôi và tỏ ý sẵn sàng nhận nhiệm vụ thăm dò địa chất ở đấy. Tôi đã được cán bộ chuyên trách trả lời rất nhanh chóng, nhưng đáng tiếc là kết quả hoàn toàn không giống như dự kiến của tôi. Họ đề nghị tôi đến công tác tại một trạm nào đó (do tôi tự lựa chọn) ở Bắc cực và hẹn tôi đến trao đổi tại trụ sở của Tổng cục đường hàng không Bắc cực.

    Hôm ấy tôi về đến nhà rất muộn. Lần nào về “nội thành” cũng đều như thế, mãi khi bước lên cầu thang tôi mới sực nhớ ra là chưa cài cửa. Đúng vào lúc ấy có ai cứ luôn chân đi đi lại lại trong căn buồng của tôi. Mới đầu tôi ngỡ là kẻ trộm. Nhưng kết quả thì không phải là kẻ trộm mà là Rô-ma-sốp. Tôi vừa bước vào cửa thì hắn đứng im lại và tôi lập tức thấy ngay cái dáng căng thăng của hắn.

    - Tôi đã đọc bức thư này, - hắn nói mà chẳng chào hỏi tôi gì cả. - Chị định tham gia vào đội thám hiếm, ra là như thế đấy!

    Tôi ngước nhìn hắn và bất giác nhớ đến thời gian ở trường, mọi người đều gọi đùa hắn là “cú mèo”. Đôi mắt tròn và hơi lồi của hắn, trông lúc này sao mà giống con cú mèo đến thế. Nhưng là một con cú mèo rất lớn, nó kêu lên “ra là như thế đấy!” rồi thở một cách khó nhọc.

    - Tại sao anh lại xem trộm thư của người khác? - Tôi hỏi giọng khá là nhã nhặn. - Không nên như thế đâu, Mi-sa ạ.

    - Chị giấu tôi... Chị tìm con đường đi riêng mà không cho tôi biết.

    - Mi-sa, anh mụ mẫm đầu óc rồi hay sao? Chẳng lẽ những việc ấy tôi phải xin ý kiến anh nữa hay sao?

    Đột nhiên hắn phát ra một thứ âm thanh quái gở, không ra tiếng cười cũng không ra tiếng khóc.

    - Nếu chị bằng lòng thì tôi sẽ gánh vác việc này cho chị, - hắn cao giọng nói. - Thôi, thế thì chị cứ đi đi.

    Tôi im lặng. Tôi cùng chẳng hiểu vì sao lúc này tôi không nỡ làm khôt hắn hơn nữa.

    - Sao chị lại im lặng mãi thế?

    - Vì tôi không muốn trả lời những câu hỏi vớ vẩn của anh.

    - Ca-chi-a, Ca-chi-a!

    - Anh hãy nghe tôi nói, - tôi trấn tĩnh lại nói. - Anh có biết anh cần cái gì không? cần được nghỉ. Anh bị mệt rồi. Anh căn cứ vào đâu mà nói rằng tôi sẽ ở lại Mát-xcơ-va?

    - Đúng thế, chị sẽ phải ở lại Mát-xcơ-va.

    Tôi muốn cười, nhưng hắn đã tiến tới sát bên tôi, sắc mặt thay đổi khác thường, tuồng như chỉ một giây nữa là hắn sẽ đánh tôi.

    - Thôi, thế này vậy, - tôi vẫn nói giọng rất bình tĩnh, nhưng cũng không được như ý muốn của tôi nữa, - Mũ và áo bành tô của anh để ở đâu?

    - Ca-chi-a! - Hắn lại rền rĩ giọng tuyệt vọng.

    - Ca-chi-a cái gì? Tôi biết anh muốn gì rồi. Nếu ở lại tôi sẽ xem anh dám làm gì tôi? Hình như anh bị mất trí rồi, song việc đó chẳng có quan hệ gì đến tôi. Thế nào?

    Hắn chẳng nói chẳng rằng, mặc áo bành tô, đội mũ rồi bước ra ngoài.

    Mùa xuân năm 1936, công việc của đội thám hiểm cuối cùng rồi cũng được định đoạt. Giáo sư V., nhà nghiên cứu Bắc cực nổi tiếng viết báo khẳng định rằng, căn cứ vào nhật ký của người hoa tiêu Cơ-li-mốp mà phán đoán “nếu tìm được tài liệu của đội thám hiểm Ta-ta-ri-nốp thì sẽ có ý nghĩa đối với cả công tác nghiên cứu Bắc cực hiện đại nữa”. Quan niệm của ông thật là quá táo bạo. Nhiều người hầu như bị bất ngờ khi tiếp thu quan điểm ấy. Tình hình mới này thúc đẩy mọi người thừa nhận sự đúng đắn trong phương án của Xa-nhi-a. Sau khi nghiên cứu bản đồ hành trình của con tàu “Xanh Ma-ri” từ tháng Mười năm 1912 đến tháng Tư năm 1914, giáo sư V. đi đến một suy luận cho rằng ở vùng vĩ độ 78°02, và kinh độ 64° phải có một hòn đảo chưa bị con người phát hiện. Kết quả cái hòn đảo mà giáo sư V. đã tìm ra trong phòng làm việc, đến năm 1935 đã được thực sự phát hiện trong một cuộc hành trình khó khăn, cố nhiên nó không phải là hòn đảo to tát gì, nó chỉ là một hòn đảo nhỏ trong số quần đảo hoang vắng của Bắc cực. Song dẫu sao trên tấm bản đồ Bắc cực của đất nước Xô Viết lại đánh dấu thêm một “điểm trắng” nữa. Có được như vậy cũng chính là nhờ có bản đồ hành trình của con tàu “Xanh Ma-ri”.

    Tôi không biết rõ những luận cứ mới này có giúp ích gì cho phương án của Xa-nhi-a không. Song có giúp ích hay không cũng chẳng hệ trọng gì. Thế là rút cục kế hoạch hành trình của đội tìm kiếm trực thuộc đội thám hiểm nghiên cứu Bắc cực đã được ghi vào chương trình của năm sau. Đến mùa xuân Xa-nhi-a sẽ phải có mặt ở Lê-nin-grát, vì vậy chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau ở Lê-nin-grát. thành phố tôi chưa hề đặt chân tới đó bao giờ.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  11. Rafa

    Rafa SV

    Chương 8

    Thành phố Lê-nin

    Sáng sớm ngày 10 tháng Năm năm 1936 tôi đáp tàu hỏa đến Lê-nin-grát. Chỉ ngày mai thôi là tôi đã được gặp mặt Xa-nhi-a ở đây rồi! Đầu óc tôi suy nghĩ miên man, tôi hình dung ra hết việc này đến việc khác. Hình như tôi ngồi trên một toa xe đã cũ, suốt dọc đường nó rung lên dữ dội. Nhưng cả đêm hôm ấy tôi ngủ rất ngon, rất say. Và khi thức giấc trở dậy, tôi lại bắt đầu mơ tưởng miên man. Tôi cảm thấy rất rõ rệt vị ngọt ngào đặc biệt của những dòng suy nghĩ ấy. Tiếng bánh xe đều đều đơn điệu cùng tiếng ngáy của người bạn đường nằm bên cạnh như vẳng lại từ nơi xa nghìn dặm. Tôi tỉ mẩn sắp xếp lại tất cả mọi việc trong cuộc sống của mình,- bất kể là việc có khả năng làm được hay không, thành một chuỗi dài lý tưởng. Tôi cảm thấy như tất cả mọi việc lạ đời, kể cả việc nếu bố tôi còn sống, chúng tôi nhất định sẽ tìm ra và đưa được ông về nhà! Tất nhiên đó là những ý nghĩ mông muội, không thể nào có được. Song lúc này lòng tôi vô cùng thanh thản, dễ chịu nên tôi cũng tự cho mình được phép tưởng tượng mênh mang như thế. Hình như tôi đã tự ra lệnh cho mình là phải tìm cho ra ông. Ông tuồng như đang đứng kia, mái tóc bạc phơ, thân thể gầy yếu, bây giờ hãy để cho ông được ngủ, được thực sự yên tĩnh, nếu không ông rất có thể sẽ phát điên lên vì bị kích động quá mạnh trong niềm vui sướng...

    Toa xe lắc lư, vang lên những âm thanh đều đều như một khúc nhạc tiết tấu đều đặn, thanh âm vang lừng, song kéo dài không bao giờ dứt. Tôi lắng tai nghe, cố ý chờ đợi, xem đoạn sau sẽ có những gì, nhưng khúc nhạc đó lại trở lại đoạn đầu như những lần trước. Bây giờ suy nghĩ gì nữa đây, tự ra lệnh cho mình làm cái gì nữa đây? Tôi tưởng tượng đến quang cảnh khi chúng tôi thành công trở về, mọi người chào đón chúng tôi như đã từng chào đón các phi công anh hùng hồi năm 1934. Những người anh hùng được dân chúng hâm mộ yêu thích ấy ngồi ô-tô phủ đầy hoa tươi tiến vào thành phố, cả Mát-xcơ-va như biến thành màu trắng với những hoa, những truyền đơn và màu áo tinh khiết của phụ nữ đi đón chào anh hùng. Những ý nghĩ trên đây của tôi thực ra không phải vì bản thân mà là vì Xa-nhi-a và bố tôi. Chỉ có lúc này, những phút sống giữa mộng tưởng trong toa tàu hẹp, với khúc nhạc quen thuộc, đơn điệu từ bánh sắt phát ra, tôi mới có thể tự thả mình trong hoang tưởng xa xôi và không thể nào thực hiện được.

    Đoàn “tàu nhanh đặc biệt” đến Lê-nin-grát lúc mười giờ hai mươi phút. Các bạn đường của tôi đều đã ra đầu toa hút thuốc lá và có lẽ họ đang chờ tôi mặc quần áo ra cùng. Nhưng tôi vẫn nằm im không động đậy. Tôi như đang sợ phải xa rời và không biết đến bao giờ mới có thể trở lại những phút giây suy tưởng đầy say mê ấm áp thơ ngây này.

    Chúng tôi hẹn trước với nhau là em gái của Xa-nhi-a (để phân biệt với tên của Xa-nhi-a, trong các thư tôi đều gọi cô em là Xa-sa)(1) sẽ ra ga đón tôi. “Nếu hôm ấy em bị mệt, - cô ta viết trong thư gửi cho tôi, - thì Pê-chi-a sẽ ra đón chị”. Nhiều lần viết thư cho tôi cô đều nhắc đến chuyện yếu mệt, nhưng trong bức thư nào cô cũng viết với một giọng hết sức vui vẻ, lại còn kèm theo một số tranh ảnh, nên tôi không để ý mấy đến tình hình sức khỏe của cô ta. Song từ trong thâm tâm, tôi cũng có đôi chút nghi ngờ về việc này. Trong một bức thư nọ, có một tấm tranh vẽ Pê-chi-a một tay cầm quyển sách, còn tay kia thì ôm một đứa bé, có điều lạ là Pê-chi-а và đứa bé hết sức giống nhau.

    Mọi người đều đã mặc xong áo ngoài, đội mũ và đứng lên khỏi ghế. Người khách ngồi bên cạnh giúp tôi lấy chiếc va-li từ trên giá xuống. Chiếc va-li khá nặng vì tôi mang theo đủ thứ, cả đến những tảng đá mẫu rất thú vị. Hình như tôi cũng cảm thấy rằng còn lâu nữa tôi mới có dịp trở về lại Mát-xcơ-va. Lòng tôi hết sức xúc động. Lê-nin-grát kia rồi! Tôi bắt đầu đưa mắt tìm kiếm người nhà Xcô-vô-rốt-ni-cốp. Nhưng mãi khi các bậc tam cấp của sân ga đã lùi lại phía sau, tôi vẫn không tìm thấy ai cả. Tôi ân hận là trong điện báo quên không nói cho họ biết số toa tàu của tôi.

    Người công nhân khuân vác đã xách va-li của tôi ra khỏi tàu. Tôi đứng bên cạnh anh ta, chờ mãi đến lúc trên sân ga đã vắng bóng người mà vẫn không thấy bóng dáng người nhà Xcô-vô-rốt-ni-cốp đâu cả.

    (1) Ở Liên-xô, tùy theo quan hệ và tình cảm của người nói chuyện, tên người có nhiều cách gọi khác nhau. Ví dụ: A-lếch-xan-đrơ (Nam) còn gọi là Xa-sa, Xa-nhi-a, Su-ra, Ka-sen-ca, Su-rốt-xca, Su-rich, A-lếch-xa-sa, và A-lếch-xan-đra (Nữ) còn gọi là Xa-sa, Xa-nhi-a, Su-ra, Xa-len-ca, Su-rốt-sca.

    Ở đây Xa-nhi-a và cô em gái trùng tên. - N.D.


    - Hay là anh ấy đang chờ ở cửa ra vào, - người công nhân khuân vác nói.

    Chúng tôi cùng đi đến chỗ cửa ra vào và lại chờ trọn nửa tiếng đồng nữa. Cuối cùng tôi khẳng định rằng họ đã thất hứa. Sao lại có thể như thế này được nhỉ? Mời bạn đến mà rồi chẳng đi đón. Hơn nữa họ cũng biết rằng tôi đến Lê-nin-grát lần này là lần đầu.

    Tôi lưỡng lự một lúc, suy tính xem có nên đến nghỉ ở khách sạn không. Song trong lòng vẫn không yên. Việc đã xảy ra như thế này thì tôi phải đến tận nhà Xcô-vô-rốt-ni-cốp xem sao đã chứ.

    Thực ra thì tôi cũng chưa quen thuộc nhà ấy lắm. Trước đây đã lâu tôi quen Xa-sa ở En-xcơ, sau đó hình như chỉ gặp mặt nhau được ba bốn lần thôi. Nhưng chúng tôi viết thư cho nhau rất đều, nhất là những ngày sau khi mẹ tôi chết. Sống những ngày đau buồn cô đơn ở Mát-xcơ-va, tôi đã viết khá nhiều cho Xa-sa và cũng nhận được không ít thư của cô. Cô ta viết cho tôi rất tỉ mỉ tình hình của Xa-nhi-a và luôn luôn có ý vun vào. Ngay cả thời gian ở Ba-la-sốp và sau đó trong thời gian ở Da-pô-li-a-ri-e, Xa-nhi-a đã từng lãng quên tôi, cô ta vẫn một mực cam đoan với tôi rằng anh ấy vẫn yêu tôi như cũ.

    Xa-sa là bạn cũ của tôi, tôi cầm chắc là cuộc gặp gỡ sắp xảy ra sẽ rất thắm thiết. Thắm thiết là bởi vì không những cô là bạn của tôi mà còn là vì cô là em gái của Xa-nhi-a.

    Tôi cũng ít khi gặp mặt Pê-chi-a. Trong thời gian ở En-xcơ, anh ta còn là một cậu thiếu niên kỳ dị, đầu tóc lúc nào cũng rối bù, người cao lêu nghêu. Anh ta thường đến nhà người khác một cách đột ngột, không hẹn trước. Và sau đó ra đi cũng đột ngột như thế. Anh ta theo một đoàn kịch nói Lê-nin-grát đến Mát- xcơ-va mấy lần, lần nào cũng tìm đến thăm tôi. Anh ta tuy có to lớn hơn chút ít, song tựu trung vẫn là một con người lúc nào cũng hấp tấp, đầu tóc vẫn rối bù và luôn luôn làm những việc bất ngờ.

    Trong một bức thư trước đây, Xa-sa có kể tỉ mỉ đoạn đường đi từ ga tàu hỏa về nhà cô ấy ở phố Các Líp-nếch, thậm chí còn kèm theo một bản sơ đồ hướng dẫn đường đi. Song tôi đã quên biến tất cả. Tôi đến đại lộ Nép-xki, hỏi thăm một người Lê-nin-grát chính cống, đeo kính kẹp mũi và có vẻ rất lịch sự:

    - Ông làm ơn cho biết đến đại lộ Nép-xki đi đường nào ạ?

    Đây là một việc rất đáng xấu hổ, tôi giấu kín chẳng cho ai biết cả.

    Sau đó tôi nhảy lên tàu điện và điều duy nhất có thể nhận ra lúc này là đường phố ở đây vắng vẻ hơn nhiều so với Mát-xcơ-va. Tôi xuống tàu điện, xách va-li đi từng bước một trên một dãy phố cũng hết sức vắng vẻ. À, đây chẳng phải là nhà số 79, nhà của nghệ sĩ nhiếp ảnh Be-ren-stanh đó sao?

    Đúng là ở đây rồi.

    Tôi đứng trên bậc tam cấp của tầng thứ ba, nắn bóp những ngón tay bị chiếc va-li nặng trịch kia làm cho tê dại. Bỗng lúc ấy cánh cửa ở phía dưới kêu lên một tiếng rồi mở ra, tiếp đó một người đàn ông cao gầy, mặc áo mưa, tay cầm mũ lướt qua người tôi, nhảy phóng lên thang gác.

    - Có phải anh Pê-chi-a đó không?

    Có lẽ lúc ấy anh ta không ngờ có tôi ở đây nên chỉ dừng lại một chút, nhìn lướt qua người tôi nhưng không nhận ra là ai nên lại định lao tiếp lên cầu thang. Nhưng một ký ức mơ hồ cuối cùng đã đủ sức giữ chân anh ta lại.

    - Không nhận ra à?

    - Ô kìa, tôi nhận ra rồi! Ca-chi-a, tôi vừa từ bệnh viện chạy về đây, - anh ta nói giọng đầy lo âu. - Xa-sa phải vào bệnh viện từ tối hôm qua rồi.

    - Anh nói cái gì thế?

    - Đúng thế, cô ấy đã vào viện rồi. Bây giờ chị hãy đến nhà chúng tôi đi. Vì việc ấy mà chúng tôi không ra ga đón chị được.

    - Xa-sa bị bệnh gì thế?

    - Chẳng lẽ cô ấy không viết thư nói rõ với chị ư?

    - Không.

    - Thôi, ta đi đi. Tôi sẽ kể hết cho chị nghe...

    *

    Rõ ràng là người trong gia đình nghệ sĩ nhiếp ảnh Be-ren-stanh rất quan tâm đến chuyện của Ха-sa và Pê-chi-a, nên khi gặp Pê-chi-a ở trước cửa nhà, mọi người đều châu lại lắng hỏi:

    - Thế nào rồi?

    Pê-chi-a đáp rằng anh ta chẳng biết tí gì cả và người ta không cho anh ta vào. Vừa đúng lúc ấy thì lại có một người đàn bà thon nhỏ, ăn mặc rất sang trọng từ ngoài chạy vào, người này cũng hỏi bằng một giọng đầy lo lắng:

    - Thế nào rồi?

    Pê-chi-a lại lặp lại một lần nữa rằng anh ta chẳng biết tí gì hết và người ta không cho anh ta vào.

    Xa-sa dở dạ đẻ. Đó là lý do cô ta vào bệnh viện.

    - Pê-chi-a, việc gì mà anh cuống lên thế? Tôi tin là mọi việc sẽ đâu vào đấy cả.

    Trong căn phòng của anh ta, lúc này chỉ có hai chúng tôi: Anh ngồi trên chiếc ghế bành ngay trước mặt tôi, cổ dài ra, đôi vai gầy rũ xuống, mặt ngó ra đầy vẻ lo lắng. Khi nghe tôi nói mọi việc rồi đâu vào đấy cả, anh ta cắn chặt môi, vẻ đầy đau khổ.

    - Chị chưa biết... Cô ấy bị ốm liểng xiểng, bị cảm cúm nặng, lại thêm chứng ho. Cô ấy cũng nói là mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy cả.

    Bỗng anh ta đứng phắt dậy.

    - Tôi cần phải đến nhà Ga-bri-trép-xki đây. Tôi có gọi điện cho ông ấy, nhưng ông ấy trả lời rằng ông ấy đến không tiện lắm vì Xa-sa nằm ở bệnh viện khác mà ông ấy làm việc ở một bệnh viện khác. Hiện nay Xa-sa nằm ở bệnh viện Sơ-re-đe-rơ.

    Bây giờ tôi mới biết rằng thường ngày Ga-bri-trép-xki là bác sĩ theo dõi chữa bệnh cho Xa-sa.

    - Không, hãy đến thăm Xa-sa trước đã. Anh cứ nghĩ xem, bệnh cảm cúm thì rồi sẽ qua đi thôi mà!

    Anh ta nhìn tôi phân vân.

    - Thế nào, cần phải bình tĩnh, anh Pê-chi-a ạ! - Tôi nói vẻ hờn giận.

    Suốt dọc đường đi, tôi không ngớt lời khuyên giải, cuối cùng anh ta cũng nghe ra. Khi tôi cố ý vẽ ra một cảnh tượng vui vẻ - Xa-sa sinh nở mẹ tròn con vuông, bế đứa con gái hoặc con trai trở về nhà... Pê-chi-а bất ngờ cười lên khanh khách.

    - Chắc là anh mong được chú con trai chứ gì?

    - Chỉ cần đẻ nhanh nhanh ra thôi, còn nó ra cái gì cũng được!

    Tôi không biết bệnh viện này ra sao. Pê-chi-a nói là rất tốt.

    Nhưng tôi cảm thấy rất lạ là tại sao một cái bệnh viện mà ngay đến phòng tiếp đón cũng không có. Mọi người đều đứng dồn cục trước cửa cầu thang đã bị chấn lại bởi một cây gỗ dài. Có một vài người bố trẻ tuổi cũng đang băn khoăn lo lắng như Pê-chi-a ngồi thành hàng dài trên ghế băng, hoặc sốt ruột đi đi lại lại không ngớt chạm vào nhau... Pê-chi-a cũng định ngồi xuống ghế, nhưng liền bị tôi cầm tay kéo lên gác. Một cô у tá rất dễ thương bày cho chúng tôi rằng chờ khi nào giáo sư bác sĩ khám xong buồng thứ nhất, đang trên đường sang buồng thứ hai thì hãy đến gặp hỏi thăm ông ấy.

    Rốt cuộc chúng tôi đã “chộp” được vị giáo sư bác sĩ ấy. Khi Pê-chi-a luống cuống chạy đâm sầm đến trước mặt, ông ta chỉ nheo mắt cười dễ dãi.

    Ông đưa chúng tôi vào phòng làm việc của ông. Nói của đáng tội, chúng tôi hỏi chuyện dây dưa ông mất đến nửa tiếng đồng hồ, và qua cuộc nói chuyện tôi cảm thấy rất mến ông ta. Ông có đôi mắt hiền lành, xanh thẳm như màu da trời. Ông nắm chặt tay Pê-chi-a, giải thích cặn kẽ cho anh ta hiểu trong trường hợp nào đáng lo lắng và trong trưòng hợp nào không nên hốt hoảng. Ông có vẻ rất dễ gây cảm tình với người khác. Tất cả những lời ông nói tuy không hoàn toàn làm cho người ta yên tâm, song chẳng hiểu vì sao những lời nói ấy làm chúng tôi rất thỏa mãn. Nói chung lại, bác sĩ tin tưởng rằng mọi việc sẽ trôi qua êm thấm. Khi nhắc đến Xa-sa, ông nói rằng cô ấy là một cô gái dũng cảm mà ông rất ít được gặp.

    Chúng tôi trở về nhà trong lòng rất lấy làm khoan khoái. Lúc này Pê-chi-a mới nhớ ra là tôi vừa xuống tàu hỏa, chưa kịp uống một ngụm nước chè. Tiếng cửa kẹt mở, tôi nghe có tiếng người nói ngoài hành lang:

    - Thôi anh Pê-chi-a, nước trong “ấm” còn nóng đấy.

    Nhưng anh ta không cầm ấm nước nóng về. Anh kéo ngăn kéo bàn ra, lấy tiền rồi chạy phóng ra ngoài, mặc dù tôi đã nhắc đi nhắc lại rằng tôi ăn ở trên tàu rồi, bây giờ không còn thiết ăn gì nữa.

    Đây đúng là căn phòng của các nhà nghệ sĩ. Ấn tượng đầu tiên của người mới đến là như vậy. Thậm chí còn có thể đoán biết rằng ở đây có hai nghệ sĩ, họ ở khá chật, mỗi người một góc.

    Chiếc bàn đặt bên cửa sổ là chiếc bàn vẽ được chữa lại, tuy đơn giản, nhưng sạch sẽ dễ coi, và rõ ràng đó là bàn của Xa-sa. Một chiếc bàn khác rất bẩn và bừa bộn, trên đó có bày một chiếc mô hình, vứt la liệt những bút chì bút mực, giấy má. Không nghi ngờ gì nữa, đó là bàn của Pê-chi-ạ.

    Từ nhiều mặt có thể thấy rằng cuộc sống của họ hoàn toàn khác xa cuộc sống của tôi. Đột nhiên tôi cảm thấy cuộc sống vừa qua của tôi ở Mát-xcơ-va, nhất là những ngày sau này quá ư đơn điệu tẻ nhạt. Nhưng họ là nghệ sĩ, là những người có tài năng. Còn tôi là kẻ chẳng có tài cán gì. Tất nhiên là những ý nghĩ này của tôi chỉ tổ đem lại phiền muộn và chỉ mất thì giờ một cách vô ích. Bỗng Pê-chi-a trở về.

    Anh ta tỏ ý xin lỗi là căn phòng quá bừa bộn, không ngờ Xa- sa phải đi nằm viện đột ngột như thế. Tôi đâm ngượng, tự nghĩ vừa rồi không tranh thủ dọn dẹp qua hộ anh ta.

    - Tôi đói lắm rồi, đói không thể tả được! - Pê-chi-a nói.

    Thế là chúng tôi ngồi xuống, vừa ăn điểm tâm, uống nước chè, vừa nói chuyện về Xa-sa.

    Tôi quên chưa kể rằng trước khi ra khỏi bệnh viện, chúng tôi có nhờ một cô hộ lý cứ cách một tiếng đồng hồ gọi điện thoại đến cho chúng tôi một lần, nói rõ tình hình sức khỏe của Xa-sa. Để trả ơn, Pê-chi-a đã đưa cho cô ta tất cả số tiền anh có trong người, làm cho cô ta phát hoảng lên và gạt trả lại. Bây giờ là hai giờ chiều, cô ta gọi điện thoại đến, báo rằng mọi việc đều yên ổn cả.

    - Yên ổn ư? - Pê-chi-a gào lên hỏi.

    - Vâng, yên ổn cả.

    - Cô ấy cảm thấy thế nào?

    - Bình thường.

    Một tiếng đồng hồ sau, cô hộ lý lại gọi điện thoại đến và lại cho biết là mọi việc vẫn yên ổn.

    - Có rên khẽ đôi tiếng. - cô ta ngừng lại suy nghĩ giây lát rồi nói thêm.

    Tôi nghe thấy tiếng giận dữ của người vừa rồi bảo Pê-chi-a dùng ấm nước chè nóng:

    - Anh Pê-chi-a, anh đừng có loạn trí. Rên là thế nào anh có biết không? Anh hãy thử nghĩ xem. Chẳng lẽ bản thân anh chưa từng rên lần nào hay sao!

    Cả ngày hôm ấy trôi qua bằng những chuyện vặt vãnh như vậy. Đến tối, tôi rụt rè tỏ ý nếu được đi ra ngoài xem thành phố Lê-nin-grát thì hay quá. Nhưng khi trông thấy bộ mặt nhăn nhó thiểu não của Pê-chi-a, tôi đành phải thôi không đi nữa.

    - Chúng ta nói chuyện cho đỡ buồn đi.

    Thế là anh ta mang tác phẩm gần đây nhất - phác thảo bức tượng Pu-skin nhân dịp kỷ niệm một trăm năm ngày sinh nhà đại thi hào đưa cho tôi xem. Trên bản phác thảo, Pu-skin đương dấn bước trên bờ sông Nê-va, gió cuộn vạt áo khoác lên cao, nét mặt ông đầy vẻ kiên nghị và hào hứng. Tâm tư ông như đang chìm đắm trong những suy tưởng miên man ngọt ngào, để lộ ra một tia sung sướng hiếm có.

    - Chị có thích không?

    - Rất thích. Tôi chưa hiếu vì sao anh chọn nghề điêu khắc.

    Anh bắt đầu giải thích cho tôi nghe lý do anh chọn nghề điêu khắc. Sau đó đột nhiên anh ta chuyển đề tài câu chuyện, nói cả đến cuộc thi cờ tướng có La-xke-rơ và Ca-pa-bơ-lan-ca tham gia ở Mát-xcơ-va. Cuối cùng anh đề cập tới tình hình thời sự quốc tế. Miệng nói nhưng tai anh ta vẫn dỏng lên để nghe xem có tiếng chuông điện thoại reo không. Bất cứ nói chuyện gì, cả khi nói về cuộc chiến tranh giữa Ý và A-bít-xin - Xcai-a, anh ta cũng không ngớt nhắc đến cái tên Xa-sa, Xa-sa...

    Vào lúc: tám giờ, không hiểu vì sao cô hộ lý không gọi điện thoại đến, vì thế chúng tôi phải vội vã chạy đến bệnh viện. Gặp người у tá trước đây đã bày cho chúng tôi đón gặp giáo sư bác sĩ điều trị, chị ta cho biết mọi việc đều rất tốt đẹp. Còn việc tại sao cô hộ lý không gọi điện đến thì chị ta giải thích rằng cô ấy sợ quấy rầy chúng tôi nhiều quá trong lúc không có tình hình gì đặc biệt.

    Sau khi trở về nhà, Pê-chi-a giới thiệu tôi với gia đình nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh. Tôi nói chuyện với bà vợ thấp lùn, hòa nhã, tóc pha bạc của nhà nghệ sĩ cùng bà em vợ cũng bé lùn, hòa nhã và có mái tóc pha bạс của ông ta. Vì một lý do nào đó, ông chủ thường sống riêng ở Mát-xcơ-va, nhưng hai bà đã đem ảnh chụp của ông ra cho tôi xem. Ông ta là một người đàn ông chắc khỏe và nghiêm nghị. Ông ta mặc chiếc áo khoác ngắn màu thanh thiên, nếu gọi ông ta là nhà nghệ thuật có lẽ còn đúng hơn gọi là nhà nhiếp ảnh.

    Đến hơn một giờ khuya, mọi người bảo tôi lên giường của Xa- sa ngủ. Pê-chi-a nói rằng anh ta chưa buồn ngủ và cầm một quyển sách đến ngồi bên máy điện thoại. Từ chập tối đến giờ, cô hộ lý gọi điện đến rất đúng giờ. Có điều là lần nào trước khi nói cô ta cũng xin lỗi là đã vô phép quấy rầy. Tôi nằm nghe Pê-chi-a nói chuyện với cô ta một lần rồi ngủ thiếp đi. Tôi ngủ hình như được một lúc thì đột nhiên có tiếng gõ cửa buồng rất vội vã. Tôi hốt hoảng vùng dậy, không biết mình đang ở đâu và có việc gì xảy ra. Trên hành lang có ánh sáng và từ một góc nào đó có tiếng nói phát ra. Hình như có mấy người đang tranh nhau nói. Lúc này tôi mới hoàn toàn tỉnh ngủ và nhìn thấy Pê-chi-a chạy phóng vào buồng như một bóng ma, anh ta vừa chạy vừa huơ tay như múa...

    Sau đó Pê-chi-a tựa bụng vào bàn, cố vươn người qua phía bên kia để lấy một cái gì đó đang treo trên tường.

    - Pê-chi-a, anh định đi đâu bây giờ? Có việc gì xảy ra thế?

    - Con trai! - Anh ta hầu như hét lên. - Con trai!

    Té ra anh ta cố lấy tấm ảnh lồng trong chiếc khung nặng nề đang treo trên tường.

    - Còn Xa-sa? Xa-sa ra sao? Anh loạn trí à? Anh lấy tấm ảnh ấy xuống để làm gì?

    - Tôi đã hứa với bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na là nếu mọi việc đều bình yên vô sự thì tôi sẽ tặng bà ấy tấm ảnh này.

    Anh ta rời khỏi bàn, đến hôn khẽ tôi, xúc động đến trào cả nước mắt.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  12. Rafa

    Rafa SV

    Chương 9

    Gặp gỡ

    Sự việc xảy ra còn tốt đẹp gần trăm nghìn lần so với điều mong đợi. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi gửi vào cho Xa-sa nào thư, nào hoa quả và một lẵng hoa to nhất có thể tìm thấy được ở cửa hàng bán hoa. Khi chúng tôi đưa các thứ ấy vào bệnh viện, các nhân viên phục vụ kinh ngạc kêu lên: “Ái chà!” và chị у tá trực cũng phải nói: “Ái chà!”

    Mọi việc đều trôi qua rất yên ổn, duy có vị giáo sư mà hôm qua tôi đã đem lòng yên mến có vẻ không hài lòng lắm. Song điều đó cũng chỉ nằm trong cảm giác của tôi mà thôi. Không hiểu tại sao họ chưa cho chuyển Xa-sa vào buồng nghỉ. Nhưng cuối cùng việc đó cũng đã được thực hiện ngay trước mặt chúng tôi. Chúng tôi nhờ cô hộ lý trước đây gọi điện cho chúng tôi theo sát trông nom giúp Xa-sa. Cô hộ lý này về sau có chuyển ra cho chúng tôi một mảnh giấy của Xa-sa viết như sau:

    Anh Pê-chi-a thân yêu, thằng bé giống anh quá chừng, cái mũi cũng to bự hệt như thế. Em đã chẳng bảo mọi việc sẽ tốt lành cả đó sao? Chị Ca-chi-a thân yêu, em xin hôn chị nhiều lần. Cám ơn anh và chị Ca-chi-a đã đem đến lẵng hoa đẹp tuyệt vời. Không cần phải đem vào nhiều thứ quá như thế. Cho em gửi lời hỏi thăm gia đình ông bà Be-ren-stanh. Xa-sa của anh và của chị Ca-chi-a”

    Đọc xong mảnh giấy tôi muốn khóc òa lên. Và hình như tôi đã khóc thật. Giữa lúc ấy ở phòng khách có người hỏi thăm mấy giờ. Thì ra chỉ còn kém 15 phút nữa là đến 10 giờ.

    Thế là tôi chào Pê-chi-a rồi một mình đi ra ga xe lửa, vì đúng 10 giờ 40 phút tàu hỏa từ Muốc-man-xcơ sẽ về đến đây.

    Tôi chợt nhớ lại rằng trước đây mỗi khi gặp lại Xa-nhi-a sau một thời gian dài cách biệt, tôi có cái cảm giác thất vọng rất kỳ quặc. Tôi đã tưởng tượng đến hàng trăm lần về cuộc gặp gỡ sắp tới đây giữa hai đứa và đã cảm thấy trước vị ngọt ngào đặc biệt của nó. Lần trước ở Mát-xcơ-va, Xa-nhi-a từ Bắc cực trở về, chúng tôi gặp mặt nhau trước cửa nhà Hát lớn, tôi cũng có một cảm giác у hệt như thế này. Trong lần gặp gỡ ấy tôi mường tượng sẽ xảy ra một việc phi thường, sẽ có một sự thay đổi kinh thiên động địa. Vậy mà trong thực tế chẳng có điều gì xảy ra cả ngoài nỗi luyến tiếc của hai đứa.

    Bây giờ, trong lúc đi ra ga, tôi bỗng sợ hãi cái cảm giác ấy. Xung quanh tôi có rất nhiều người. Có người cũng đi đón khách như tôi. Có người làm nhiệm vụ phục vụ trên sân ga. Một ông già soát vé có bộ ria bẩn thỉu đốm bạc đang nhăn nhó quở trách một nhân viên phục vụ trên đoàn tàu.

    Song tôi biết chắc rằng cái cảm giác ấy rồi sẽ tiêu tan ngay, vì cuộc gặp gỡ lần này của chúng tôi hoàn toàn khác trước...

    Đoàn tàu tiến vào sân ga, cả sân ga nhộn nhạo hẳn lên. Người đi đón khá đông, tôi cố ý đứng tách riêng ra một mình để anh ấy dễ nhận ra. Bề ngoài tôi có vẻ rất bình tĩnh, song trong bụng thì nóng như lửa đốt, cảm thấy cái gì cũng chậm chạp: đoàn tàu chậm chạp bò vào sân ga, những hành khách đầu tiên chậm chạp bước xuống bậc cửa toa tàu rồi chậm chạp đi lại phía tôi. Hết toán người này đến toán người khác đi lướt qua trước mặt tôi, mà sao mãi không thấy bóng Xa-nhi-a đâu cả. Hành khách vẫn còn rải rác đi ra, nhưng vì không có anh, tôi chán nản vô cùng. Rõ ràng là anh không về rồi.

    - Ca-chi-a!

    Tôi quay phắt người lại, Xa-nhi-a đang đứng bên cạnh toa tàu thứ nhất. Tôi vội vàng chạy lại phía anh, trong lòng dạt dào niềm xúc động và hạnh phúc.

    Chúng tôi cùng chậm rãi đi dọc theo bậc tam cấp sân ga và luôn luôn dừng chân lại để được nhìn nhau thật nhiều. Tôi không còn nhớ rõ trong phút gặp mặt đầu tiên, chúng tôi đã nói với nhau những gì. Sau đó Xa-nhi-a bắt đầu hỏi tôi liên hồi kỳ trận, tôi chưa nghe rõ câu hỏi đã vội vã đáp lời. Về sau tôi nói đến Xa- sa, và chúng tôi lại dừng lại nhìn nhau. Lần này chúng tôi đứng lại ở chỗ không thuận tiện chút nào nên bị khách qua đường xô lấn dạt ra hai bên. Chúng tôi nói với nhau rất nhiều về Xa-sa.

    - Còn Pê-chi-a thế nào? Chắc là anh chàng làm náo động cả thành phố Lê-nin-grát lên chứ gì? Thật hệt như một người loạn trí! Đã lâu lắm anh không được gặp chúng nó.

    Xa-nhi-a bảo rằng anh ở khách sạn tiện hơn, nên chúng tôi liền tìm đến khách sạn “A-xtô-ri-a”, rồi từ đó gọi điện thoại cho Pê-chi-a. Thoạt đầu chúng tôi gọi về nhà riêng, không gặp, chúng tôi lại gọi đến bệnh viện. Mọi người ở bệnh viện đều đã biết anh ta và cho biết rằng anh ta đang đi ra ngoài muа bánh bích qui.

    - Cái gì ạ?

    - Đi mua bánh bích qui rồi.

    - Đi mua bánh bích qui rồi, - tôi nhắc lại và gác ống nghe lên máy.

    Xa-nhi-a cười rộ lên.

    - Chắc là anh chàng chợt nhớ ra Xa-sa thích ăn bánh bích qui, - anh giải thích. - Xa-sa vốn rất thích ăn bánh bích qui. Ồ, thú vị thật! Anh chàng ấy là chúa hay dùng chữ “đồ quỉ ngốc” và “thật buồn cười”. Em đang nghĩ gì đấy?

    Tôi đang nhìn anh vì tôi rất thích anh, rất yêu anh, thực tình là tôi quá yêu anh, yêu một cách kinh khủng. Chúng tôi đã cách xa nhau ròng rã suốt một năm trời, nhưng thực là lạ, giờ đây, tôi lại cảm thấy gần gũi anh gấp trăm ngàn lần so với những ngày còn xa cách nhau. Chẳng hiểu vì sao tôi lại cảm thấy trong một năm qua anh cao lớn hẳn lên, ngực nở ra và vai cũng rộng ra. Dáng vẻ bên ngoài của anh đã được xác định. Bộ mặt, đặc biệt là cằm và đường viền trên môi đã trở nên đậm vẻ kiên quyết và đầy sức mạnh. Anh không còn là một đứa trẻ nữa và bây giờ không thể nói rằng anh cưới vợ là còn sớm nữa. Tuy anh đã cố ý chải tóc rất mượt, nhưng vẫn như trước kia, mấy mớ tóc cứ dựng đứng lên nom rất ngộ.

    - Anh hầu như quên mất vẻ đẹp tuyệt trần của em rồi, - anh nói. - Rất lạ, nhưng không biết bởi cớ gì, trong những ngày ở ngoài kia, anh cứ có cảm giác thiếu thốn thế nào ấy.

    - Thế còn ở đây?

    Anh hôn tôi và chúng tôi lại gọi điện thoại cho Pê-chi-a.

    Lần này anh chàng có mặt ở nhà. Khi nghe tôi nói Xa-nhi-a đang đứng cạnh tôi và sắp sửa nói chuyện trực tiếp với anh, anh chàng reo ầm lên trong ông nói, cả Xa-nhi-a và Pê-chi-a thi nhau gào lên: “Ê, đồ quỉ ngốc, thế nào? A ha!” Sau đó Xa-nhi-a hỏi Pê-chi-a đã mua được bánh bích qui chưa và cười sặc lên. Anh đưa tay ra hiệu cho tôi biết rằng anh chàng chẳng mua được gì cả. Cuối cùng hai người hẹn nhau để Xa-nhi-a vào bệnh viện, may ra thì sẽ được gặp Xa-sa.

    - Còn em thì sao?

    Anh lại ôm chặt lấy tôi.

    - Anh đi đâu mà lại có thể không có em bên cạnh? - Anh nói.

    Anh lại hỏi tôi, giọng hết sức khẽ khàng, giống như hôm tôi

    tiễn anh đi ở ga tàu hỏa dạo nào.

    - Em có yêu anh không?

    - Có, có.

    Tất nhiên là bệnh viện vẫn chưa cho phép chúng tôi gặp Xa sa. Chúng tôi liền gửi một mẩu giấy vào cho cô ấy và sau đó nhận được thư trả lời ngay. Trong thư Xa-sa yêu cầu chúng tôi “quản thúc” Pê-chi-a, đừng để anh ta chạy ra chạy vào bệnh viện suốt cả ngày, khiến ai cũng phải bàn tán đến. Cô ta còn tỏ ý muốn được cùng đi bách bộ với chúng tôi. Cuối cùng cô hỏi chúng tôi đã ăn cơm chưa, nếu chưa thì hãy kéo chồng cô cùng đi ăn một thể, vì “nếu không có ai nhắc nhở, anh ấy có thể nhịn suốt hai ngày hai đêm liền”.

    Bữa cơm hôm ấy không thành. Xa-nhi-a cần phải đến Viện nghiên cứu Bắc cực, tôi đi theo tiễn anh. Chẳng những vì tôi thích đi theo tiễn anh, mà còn vì chúng tôi cũng cần có một cơ hội để tâm sự với nhau về những việc đã thúc đẩy chúng tôi đến Lê-nin-grát để gặp mặt nhau. Những bức thư sau cùng tôi gửi đi anh chưa nhận được, nên anh không biết tin tàu “Pa-khơ-tu-xốp” sẽ đi qua Ma-tô-skin Sa-rơ, sau đó sẽ đi vòng qua Bắc địa tiến thẳng ra đảo Li-a-khốp-xki. Quyết định này vừa mới đưa ra.

    - Như thế càng tốt. Chúng ta sẽ có nhiều thời gian chuẩn bị hơn. - Xa-nhi-a nói. - Vấn đề khiến anh lo lắng nhất là ít thời gian quá.

    Chúng tôi lại bàn đến việc chọn người vào đội thám hiểm. Xa- nhi-a cho biết anh đã giới thiệu một nhân viên điện đài ở Đích-xơn cùng bản thân bác sĩ I-van I-va-nô-vích là Lu-ri, thợ sửa chửa máy bay của anh. Trước đây trong các bức thư từ thành phố Da-pô-li-a-ri-e gửi về cho tôi, anh cũng thường nhắc đến cái tên Lu-ri này.

    - Có một nhân viên điện đài rất tốt. Em có biết anh ấy là ai không?

    - Em không biết.

    - Co-rơ-din-kin đấy, - Xa-nhi-a trịnh trọng nói. - Chính là anh ấy đấy.

    Tôi công nhận lần đầu tiên nghe đến cái tên này, thế là Xa- nhi-a giải thích rằng Co-rơ-din-kin là một trong số hai người Nga cùng A-mum-xen đặt bước chân lên Nam cực và A-mum-xen có nói đến anh ấy trong các quyển sách của mình.

    - Thế là hay quá rồi, phải không em? Người thứ năm là anh. Còn người thứ sáu sẽ là em. Anh giới thiệu em tham gia đoàn với tư cách là “con gái” của vị thuyền trưởng.

    - Thật thế ư? Em tưởng em có đủ quyền tham gia đoàn không kể có phải là con gái của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp hay không. Sao anh lại có thể gọi chức nghiệp của em là “con gái của thuyền trưởng” được?

    Xa-nhi-a có vẻ hơi ngượng.

    - Thế thì sao? - anh lầm bầm. - Điều đó có gì là kỳ lạ đâu. Việc này anh xử lý không được cao tay lắm, phải không?

    - Rất dở.

    - Nhưng nếu không đặt vấn đề như thế thì anh có vẻ thiên lệch nhiều quá đối với vợ. Thực là khó xử.

    - Anh Xa-nhi-a, chưa bao giờ em cầu xin anh chạy chọt cho đâu, - tôi bình tĩnh nói. - Anh cứ mở miệng là lại nói “con gái thuyền trưởng”, “vợ tôi”! Rồi còn cháu của cô bác nọ cháu của ông bà kia nữa. Anh chớ quên rằng em là một người làm công tác địa chất, vì vậy em đã đề nghị ông Tổng cục trưởng Tổng cục đường hàng không Bắc cực đưa em vào đoàn thám hiểm với tư cách là nhà địa chất chứ không phải là vợ của chàng Xa-nhi-a nào đó. Hơn nữa hiện nay em chưa phải là vợ của anh. Nếu sau này anh còn nói cái giọng ấy nữa thì em sẽ đi lấy người khác đấy. Anh quên rằng, chúng ta chưa hề đăng ký kết hôn hay sao?

    Xa-nhi-a chớp chớp hai mắt, gượng cười một cách ngượng nghịu, sau đó anh lấy mũ xuống, xoa tay lên gáy. Lúc này tôi bỗng cảm thấy thương anh vô cùng.

    - Ca-chi-a, em thứ lỗi cho anh. - anh nói giọng lúng búng. - Anh nói thật đấy.

    Tuy lúc này hai chúng tôi đã đứng giữa sân của trụ sở Viện nghiên cứu Bắc cực, nhưng tôi vẫn cố hôn nhanh anh một cái rồi nói:

    - Chúc anh thuận buồm xuôi gió!

    Anh hẹn trước sáu giờ sẽ gọi điện thoại cho tôi và nếu còn kịp sẽ đến nhà Pê-chi-a một chuyến.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  13. Rafa

    Rafa SV

    Chương 10

    Đêm

    Anh về đến nhà không phải là sáu giờ mà đã gần mười một giờ. Nơi anh đến không phải là nhà Pê-chi-a mà là khách sạn “A- xtô-ri-a”. Anh yêu cầu chúng tôi đến khách sạn ngay để cùng ăn cơm tối với anh vì anh không ăn cơm trưa nên bây giờ đói lắm, mà ăn một mình thì rất chán.

    Nhưng Pê-chi-a đã mệt nhoài sau một ngày căng thẳng. Hơn nữa vì muốn để cho người tỉnh táo, anh chàng đi uống một ít vốt-ca, bây giờ đang nằm trượt trên ghế đi-văng, đôi mắt lờ đờ nửa thức nửa ngủ, lại thêm chiếc mũi khoặm to tướng cùng hai chân hai tay dài ngoằng, trông anh chàng giống hệt như chàng Pê-tru-sca(1) .

    (1)Một vai chính trong các nhân vật múa rối dân gian của nước Nga.-N.D.

    ... Tôi nhớ hết cả ngày giờ mỗi lần gặp Xa-nhi-a, và chẳng những ngày giờ của các lần gặp mặt mà cả đến ngày giờ gửi và nhận thư anh, tôi cũng nhớ rất rõ. Cuộc gặp gỡ trong vườn hoa bên đường phố Tri-um-phan-nai-a ấy là ngày mồng hai tháng Tư. Cuộc gặp gỡ trước cửa nhà Hát lớn ấy là vào ngày mười ba tháng Sáu. Lần này sau khi từ Viện nghiên cứu Bắc cực trở về, Xa-nhi-a liền gọi điện cho tôi và buổi tối tôi đến gặp anh ấy tôi sẽ ghi nhớ suốt đời, đó là buổi tối ngày hai mươi mốt tháng Năm.

    Chúng tôi quen biết nhau từ thuở ấu thơ, vì vậy tôi luôn luôn có cảm giác rằng tôi hiểu anh còn rõ hơn cả anh hiểu bản thân anh. Song buổi tối hôm nay anh bỗng trở nên khó hiểu khác thường. Đến nỗi ngay trong bữa ăn tối tôi đã phải nói thẳng với anh điều đó.

    Toàn bộ phương án tìm kiếm đã được thông qua. Tại Viện nghiên cứu người ta bàn tán sôi nổi về bản phương án đó và nói với anh những lời đẹp đẽ. Điều đó rõ ràng là không phải không có căn cứ. Anh đã được gặp giáo sư V., người đã dựa vào tuyến hành trình của con tàu “Xanh Ma-ri” mà tìm ra được một hòn đảo. Anh được giáo sư tiếp chuyện rất nhiệt tình. Trước kia anh đã từng trú ngụ ở thành phố Lê-nin-grát mỹ lệ này, và trong thời kỳ học tập ở Trường Hàng không, anh đã gắn bó sâu sắc với thành phố to lớn này. Giờ đây sau một thời gian sống yên tĩnh ở Bắc cực, anh lại trở về Lê-nin-grát! Mọi việc đều rất thuận buồm xuôi gió.

    Nét mặt anh, trong mỗi cử chỉ của anh, thậm chí cả trong lúc anh đang ăn, anh cũng để lộ niềm hạnh phúc cao độ. Đôi mắt anh ngời sáng, động tác dứt khoát tự nhiên. Nếu như trước đây tôi chưa hề yêu anh, thì ngay trong bữa tối hôm nay tôi cũng sẽ mãi mãi yêu anh.

    Chúng tôi ăn mãi không xong, về sau tôi nói rằng tôi chưa được đi xem phố xá của Lê-nin-grát thì anh có vẻ hoạt bát hẳn lên. Anh tuyên bố một cách hào hứng rằng anh sẽ “đích thân dẫn tôi đi thưởng ngoạn thành phố, sẽ chứng minh cho tôi biết thành phố này là thành phố như thế nào”. Và thế là chúng tôi cùng ra đi.

    Lúc này đã quá hai giờ sáng. Lẽ ra lúc này là lúc trời tối nhất, nhưng khi chúng tôi bước ra khỏi khách sạn “A-xtô-ri-a” thì trời lại rất sáng, tôi cố ý đứng lại giữa đường phố Gô-gôn và giở tờ báo ra đọc.

    Một đêm trắng tuyệt diệu! Thế nhưng Xa-nhi-a lại cho rằng đêm trắng chẳng có gì đặc biệt, sở dĩ đêm trắng ở Lê-nin-grát đầy hấp dẫn và đẹp là bởi vì nó không kéo dài quá nửa năm.

    Chúng tôi đi qua trước cửa Bộ Tổng tham mưu, một quảng trường rộng lớn, hùng vĩ của thành phố hiện ra trước mắt chúng tôi. Quảng trường này không thật là rộng lắm, nhưng lại phẳng phiu trống trải, không mông mênh như một số quảng trường ở Mát-xcơ-va. Nhưng rất bực là tôi không biết quảng trường này là quảng trường gì, Xa-nhi-a đành phải giảng cho tôi nghe một bài học ngắn về lịch sử nước Nga ngày mồng bảy tháng Mười một năm một nghìn chín trăm mười bảy.

    Sau đó chúng tôi đi dọc theo phố Khan-tu-rin. Tôi đọc được tên dãy phố này qua ánh đèn từ một căn nhà hắt ra. Rồi chúng tôi dừng lại khá lâu trước những bức tượng đồ sộ đắp hình người dùng vai đỡ khung cửa lớn của Viện bảo tàng E-rơ-mi-ta-giơ. Không biết lúc ấy Xa-nhi-a nghĩ gì, riêng tôi thì dạt dào một thứ tình cảm chân thành như đối với những người còn sống vậy - Họ lộ rõ vẻ mệt nhọc nhưng tư thế lại rất đẹp.

    Sau đó, chúng tôi đi ra bờ sông, ở đây mới thực sự được nhìn thấy đêm trắng. Bầu trời không sáng tỏ cũng chẳng mịt mù, không phải lúc bình minh mà cũng chẳng là buổi hoàng hôn. Trên nóc tòa lâu đài của Trường đại học Quân у hiện ra những quầng màu xanh thẫm, màu xanh lơ, màu vàng, màu hồng da cam... tựa như toàn bộ các loại màu sắc trên trái đất đều tập trung lại ở đây. Nhưng trên bầu trời của thành phố ở phía nào đó đã có mặt trời. Còn trên pháo đài Pê-trô-páp-lốp-xcai-a lại tỏa ra một màu chì mờ đục. Màu sắc không gian ở hai nơi khác xa nhau một trời một vực, đến nỗi khiến cho người ta khó mà tin rằng chúng đều ở trong một vùng trời. Chúng tôi đưa mắt chăm chú nhìn về phía pháo đài và bầu trời phía ấy rồi lại quay nhìn về Trường đại học Quân у và khoảng trời trên đó. Tôi có cảm giác như tầm mắt của mình vừa vượt qua biên giới của quốc gia này để sang một quốc gia khác, từ một đất nước tĩnh lặng, nặng màu xám đục sang một đất nước lộng lẫy, huy hoàng vô cùng.

    Tôi mặc ít nên cảm thấy hơi thấm lạnh. Xa-nhi-a mở rộng chiếc áo mưa choàng qua vai tôi, thế là hai đứa cùng co rụt ở trong đó, lặng lẽ ôm nhau ngồi rất lâu.

    Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế đá hình bán nguyệt đặt sát bờ nước bên dòng sông Nê-va, nghe rõ tiếng sóng nước đập vào bờ đá.

    Tôi thực không thể nào nói được hết nỗi niềm hạnh phúc và những cảm giác dễ chịu trong buổi tối hôm ấy. Thế là cuối cùng chúng tôi đã ở bên nhau và sẽ không bao giờ chia lìa nữa. Giờ đây không còn cần phải cãi vã, tranh luận nhau để tỏ rõ lòng mình cho nhau hiểu nữa. Tôi cầm lấy bàn tay anh và đặt lên bàn tay chắc khỏe, to rộng, đáng yêu ấy những chiếc hôn thắm thiết. Và anh cũng hôn lên bàn tay tôi.

    Tôi không nhớ rõ đêm hôm ấy chúng tôi đã đi qua những nơi nào, chỉ còn nhớ rằng chúng tôi rất lưu luyến, không muốn rời xa bờ sông Nê-va. Hai đỉnh tháp, một cao một thấp màu thiên thanh luôn luôn hiện ra sừng sững trước mặt chúng tôi. Chúng tôi hướng về phía nó đi mãi nhưng mãi vẫn không đến, như một ảo ảnh không bao giờ bắt gặp được vậy.

    Các bác công nhân vệ sinh đã bắt đầu quét đường phố. Vừng mặt trời to tướng, vàng rực treo lơ lửng trên bầu trời phía nhà thờ Vu-bo-xcai-a, mỗi lúc một lên cao hơn. Tuy chúng tôi vẫn còn lưu luyến với trời đêm hôm nay, nhưng đêm trắng đã tàn dần. Chợt Xa-nhi-a đột ngột quyết định phải gọi điện thoại ngay cho Pê-chi-a.

    - Chúng ta sẽ hỏi cậu ấy xem tối hôm qua cậu ấy sống như thế nào, - Xa-nhi-a nói giọng vui vẻ và cười vang.

    Nhưng tôi khuyên anh không nên gọi, vì điện thoại của Pê-chi-a đặt ở phòng ngoài, sẽ làm mất giấc ngủ của cả nhà bác nghệ sĩ nhiếp ảnh Be-ren-stanh.

    - Gia đình ấy rất tốt, trời chưa sáng mà đã đánh thức cả nhà người ta dậy là điều không nên đâu!

    Chúng tôi dẫn nhau đến nhà thờ, và ở đó Xa-nhi-a gọi một chiếc xe tắc-xi. Khi ngồi trong xe tắc-xi, chúng tôi chợt cảm thấy rất thoải mái, thế là Xa-nhi-a đề nghị tôi hãy ra đảo chơi một lúc rồi trở về nhà Pê-chi-a. Song sáng nay anh còn có nhiều việc phải hoàn thành nên tôi muốn anh về sớm và tranh thủ ngủ được phút nào hay phút ấy.

    Chúng tôi trở về khách sạn “A-xtô-ri-a” và nổi lửa đun cà-phê. Hầu như lúc nào Xa-nhi-a cũng không rời bộ phin pha cà-phê và cái bếp đèn cồn. Anh bắt đầu nghiện cà-phê từ ngày lên Bắc cực.

    - Đời sống đẹp đến như thế này, cũng thực đáng sợ, em nhỉ? - Anh nói rồi ôm chặt tôi vào lòng. - Sao tim em đập dữ dội đến thế! Mà tim của anh... em sờ xem.

    Anh cầm tay tôi đặt vào chỗ trái tim anh.

    - Chúng ta hồi hộp quá, thực là buồn cười, em nhỉ?

    Hình như bản thân anh cũng không biết anh nói những gì. Vì quá xúc động, giọng anh lạc hẳn đi...

    Mãi đến gần một giờ chiều, chúng tôi mới đến thăm Pê-chi-a. Bà chủ nhà đã có tuổi, vóc người bé nhỏ, lịch thiệp ra mở cửa và cho biết Pê-chi-a không có ở nhà.

    - Anh ấy vào bệnh viện rồi.

    - Đi sớm thế kia ạ?

    - Phải.

    Trên nét mặt bà lộ vẻ lúng túng.

    - Có xảy ra việc gì không ạ?

    - Không, không. Chẳng có chuyện gì đâu. Anh ấy gọi điện thoại vào bệnh viện, trong ấy người ta trả lời chị A-lếch-xan-đra I-va-nốp-na hơi khó ở.



    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  14. Rafa

    Rafa SV

    Chương 11

    Cô em

    Mãi đến bây giờ, mỗi khi nhớ lại những ngày ấy là trong tôi lại tràn ngập một thứ tình cảm đau đớn đầy bất lực và nặng nề. Ngày nào chúng tôi cũng đến bệnh viện Sơ-re-đe-rơ ba lần và lần nào cũng đứng rất lâu trước bảng theo dõi nhiệt độ có che một lớp mi-ca: “Xcô-vô-rốt-ni-cô-va - 37; 37,3; 38,2; 39.9”. Song bệnh của Xa-sa không giống như bệnh viêm phổi mà tôi đã từng bị khi còn học ở trường. Qua ngày thứ chín, nhiệt độ của Xa-sa bắt đầu giảm xuống... Theo lời giáo sư nói thì Xa-sa bị bệnh “cúm biến chứng”. Có mấy hôm thân nhiệt của cô ấy tương đối ổn định, những ngày ấy chúng tôi vui như mở hội và bắt đầu bàn tới chuyện chuẩn bị đón Xa-sa về nhà. Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na, vợ của nhà nhiếp ảnh nói rằng bà cũng đã từng bị viêm phổi, nhưng bệnh này nếu đem so sánh với bệnh viêm màng phổi có mủ mà chị của bà là bà Béc-ta đã mắc phải thì chẳng thấm vào đâu. Pê-chi-a có lúc hứng khởi nói về nghề điêu khắc của mình. Có một lần tôi đã thuyết phục được để anh chàng dẫn tôi đi xem Viện bảo tàng E-rơ-mi-ta-giơ. Nhưng đến sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại buồn bã đứng trước tấm bảng theo dõi nhiệt độ đọc đi đọc lại mãi mà vẫn không thể nào tin nổi... Tôi bắt gặp có một lúc Pê-chi-а nhắm nghiền hai mắt lại, rồi lại mở to ra, tuồng như làm như thế là có thể nhìn thấy những kết quả khác hẳn mà anh ta mong chờ, như hồi còn bé anh vẫn thường làm. Nhưng những gì mà anh nhìn thấy vẫn không hề thay đổi, vẫn là những con số mà chúng tôi rất không muốn đọc: “Xcô-vô-rốt-ni-cô-va - 38.1: Xcô-vô-rốt-ni-cô-va - 39.3; Xcô-vô-rốt-ni-cô-va - 40”.

    Có đến ba ngày liền nhiệt độ của Xa-sa vẫn ở mức 40 độ, sau đó hạ xuống một cách dữ dội rồi lại lên cao...Lần này cao đến 40o5. Tôi khẳng định rằng đấy không phải là bệnh viêm phổi, nên vội vã đến nhà riêng tìm giáo sư mà không nói cho Xa-nhi-a biết. Nhưng ông tỏ ý rất tin tưởng vào kết quả chẩn đoán. Tiếng bệnh lý của phổi rất rõ, không phải chỉ có ở một số chỗ mà ở nhiều chỗ, cả hai bên phổi đều có. Ông còn cho biết rằng loại bệnh này không nằm trong phạm vi điều trị của ông, Xa-sa đã được đưa sang khoa Nội để theo dõi điều trị.

    - Rút cục lại là thế nào ạ?

    - Cô ấy bị cúm biến chứng vào phổi nên bệnh tình có phức tạp thêm.

    Tôi biết rằng hằng ngày ông đi lại thăm bệnh cho Xa-sa có đến hàng trăm lần. Tóm lại là các thầy thuốc trong bệnh viện đều rất tận tâm đối với Xa-sa. Nhưng tôi vẫn hỏi thêm ông rằng có cần mời một bác sĩ nội khoa nữa đến giúp sức bệnh viện không?

    - Hay là mời bác sĩ Ga-bri-trép-xki?

    - Được, để tôi gọi điện thẳng đến ông ấy xem.

    Nhưng sau khi được bác sĩ Ga-bri-trép-xki theo dõi điều trị, nhiệt độ của Xa-sa vẫn không chịu thuyên giảm.

    Trong những ngày này hầu như tôi không được trông thấy Xa-nhi-a. Chỉ thỉnh thoảng anh mới gọi điện cho tôi một lần vào ban đêm và tôi có đến Viện nghiên cứu về việc trang bị cho đội tìm kiếm Bắc cực để tìm anh. Anh ngồi trước chiếc bàn vuông. Trên bàn chất đầy vũ khí, máy chụp ảnh, găng tay, bít tất bằng da có lông. Một người đàn ông mặc áo khoác bằng da, râu ria đầy mặt, có vẻ nghiêm nghị đang cầm khẩu súng hai nòng trên bàn, miệng càu nhàu không ngớt rằng nòng súng không lắp khớp vào báng súng.

    - Cô ấy thế nào rồi? Em có trông thấy cô ấy không? Các bác sĩ nói thế nào?

    Chốc chốc lại có tiếng chuông điện thoại réo. Anh cầm ống nghe lên một lát rồi ném lên bàn.

    - Vẫn một giọng ấy.

    - Nhiệt độ bao nhiêu?

    - Sáng sớm hôm nay là bốn mươi độ hai.

    - Khỉ thật, chẳng lẽ không còn cách nào nữa hay sao?

    Mấy hôm nay trông anh gầy sút hẳn đi. Anh có vẻ mệt mỏi, dễ cáu bẳn. Tóm lại, anh chẳng còn giống anh chút nào, nhất là với ngày đầu khi hai chúng tôi gặp nhau.

    - Trông em gầy xọp đi, em không ngủ được à? --Anh cất tiếng hỏi. - Anh thật không biết rồi mọi việc sẽ ra sao?

    - Không có gì nguy hiểm trực tiếp đâu anh ạ.

    - Cái gì?

    - Bác sĩ Ga-bri-trép-xki nói rằng không có gì nguy hiểm trực tiếp đâu.

    - Thôi mặc kệ họ! - Xa-nhi-a hét lên. - Bệnh chỉ có thế mà cũng không trị được! Cô ấy vốn là người khỏe mạnh, có bệnh gì đâu!

    Tôi nói cho anh biết rằng bắt đầu từ hôm nay tôi sẽ phải xa anh một thời gian, vì mọi người đã bằng lòng để tôi được vào bệnh viện chăm sóc Xa-sa. Ngay tối hôm nay tôi sẽ dọn vào bệnh viện. Anh nắm chặt tay tôi và nhìn tôi đầy biết ơn. Sau đó anh tiễn tôi ra cửa và chúng tôi chia tay nhau...

    Xa-sa nằm trên giường bệnh, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà, chốc chốc lại liếm lưỡi vào đôi môi khô bỏng. Cô không nhận ra tôi ngay, có lẽ vì tôi mặc áo bơ-lu và mang khẩu trang che kín cả mặt. Nhưng tôi biết là cô đã nhận ra tôi là một người mới đến.

    Rõ ràng là đã rất lâu rồi cô không ngủ. Mọi việc đối với cô đều rối cả lên, buổi sáng buổi tối cũng không phân biệt rõ. Đối với cô hầu như thời gian là vô nghĩa.

    Bộ mặt rám hồng kiểu người tác-ta của cô trước kia giờ đây trở nên trắng nhợt, đôi mắt thụt sâu vào trong. Mắt cô trước đây vốn hơi lé, rất hợp với cô, nó làm cho cô có cái nhìn tự nhiên đáng yêu. Nhưng bây giờ không biết vì sao, đặc biệt là vào buổi tối, ánh mắt nhìn nghiêng của cô khiến tôi rất sợ. Cô ngồi thẳng lưng trên giường, sắc mặt luôn luôn thay đổi, hai chiếc đuôi sam lủng lẳng trước ngực, chẳng hề mở miệng nói một lời nào. Tôi hết sức khuyên bảo mà vẫn không tài nào làm cho cô nằm xuống được. Một lần Xa-nhi-a cũng có mặt ở đấy, dáng vẻ của Xa-sa khiến anh nhớ tới mẹ và thế là anh cứ ngẩn ngơ mãi.

    Hầu như chưa bao giờ tôi làm hộ lý chăm sóc người bệnh, nhất là đôi với những người bị bệnh trầm trọng như Xa-sa. Nhưng bây giờ tôi đã học được cách rồi. Công việc này thực là khó nhọc vì hầu như chẳng lúc nào Xa-sa ngủ được, mà nếu có ngủ thì cũng chỉ rất ngắn ngủi rồi tỉnh giấc ngay. Đồng thời lại phải thường xuyên theo dõi nhịp thở của cô.

    Cũng có được mấy ngày, sức sống tràn trề bỗng trở lại với Xa-sa. Tôi còn nhớ có một ngày như thế, đó là ngày thứ tư sau khi tôi dọn vào ở hẳn trong bệnh viện. Tối hôm ấy cô ngủ rất say và sáng hôm sau, vừa tờ mờ đã đòi ăn. Tôi cho cô ăn một quả trứng gà và uống một cốc sữa. Khi tôi đắp chăn thật kỹ cho cô để tránh gió, đột nhiên cô hỏi:

    - Ca-chi-a, chị ở bên cạnh em mãi thế này ư? Tối chị ngủ ở đây ư?

    Hình như lúc ấy da mặt tôi giật lên mấy cái? cô ngạc nhiên nhìn tôi.

    - Chị làm sao thế? Em ốm nặng lắm phải không? Có đúng thế không?

    - Xa-sen-ca, bây giờ chúng ta sẽ mở cửa sổ ra cho thoáng, cô hãy chịu khó nằm im, đừng nói, đồng ý không? Mấy hôm trước cô mệt nhiều, nhưng hôm nay khá rồi. Mọi việc rồi sẽ qua cả thôi.

    Cô nghe lời tôi, không nói nữa. Chỉ đến khi tôi xoa kem thơm lên mặt và tay cô thì cô cầm chặt lấy tay tôi hồi lâu. Sau đó một lúc cháu bé được đưa đến, chúng tôi chăm chú nhìn cháu bú sữa. Cháu mở to đôi mắt, bú ngon lành.

    - Giống anh ấy quá phải không chị? - Xa-sa hỏi qua khẩu trang.

    Cô tỏ vẻ rất vui mừng thấy con rất giống Pê-chi-a. Tuy mới ra đời có hơn mười ngày mà cháu đã có một vẻ mặt riêng khiến ai cũng nhận ra. Nhưng tôi thì lại thấy cháu giống hệt Xa-nhi-a, giống Xa-nhi-a của tôi chứ không giống mẹ cháu. Cái nết ăn của cháu đã có vẻ giống bác nó ở chỗ quả quyết và bất chấp tất cả.

    - Anh Pê-chi-a thế nào hả chị? Chắc là anh ấy lo lắng lắm phải không? Hôm nay em nằm chiêm bao thấy anh ấy đến đây, ngồi ngay trong phòng này này. Nhưng mọi người lại đem anh ấy giấu đi không cho em nhìn thấy. Rõ ràng là em đã trông thấy anh ấy mà Ma-ri-a Pê-trốp-na cứ bảo là anh ấy không hề đến đây.

    Ma-ri-a Pê-trốp-na là cô hộ lý mà tôi đã nói ở trên.

    - Anh ấy ngồi ngay ở cái chỗ hiện giờ chị đang ngồi đấy, ngồi im chứ không nói gì cả. Anh ấy chẳng làm sao nói chuyện được với em, vì mọi người đã cố ý đem giấu anh ấy đi, để em không nhìn thấy được. Trời ơi, nhưng em quên mất, chị hầu như chưa quen biết anh ấy kia mà!

    - Tôi cảm thấy tôi đã quen Pê-chi-a từ hàng trăm năm nay rồi.

    - Còn anh Xa-nhi-a thì sao? Chừng nào thì anh chị đi?

    - Khoảng hai tuần lễ nữa. Con tàu “Ра-khơ-tu-xốp” của chúng tôi đang sửa chữa. Đến cuối tháng Sáu này mới có thể ra ụ được.

    - Ụ là cái gì hở chị?

    - Mình cùng chẳng biết nữa.

    Xa-sa cười vang lên.

    - Anh chị hạnh phúc thật! Đáng yêu thật!

    Chúng tôi chuyện trò đến một tiếng đồng hồ, thuận miệng chúng tôi bàn cả đến bức tượng “Pu-skin” của Pê-chi-a. Xa-sa cũng nói rằng cô cảm thấy đó là một tác phẩm rất khá.

    - Tinh lực của anh ấy bị phân tán nhiều quá, - cô nói giọng buồn buồn. - Hiện nay anh ấy chuyển sang điêu khắc, thoạt đầu em không tán thành đâu. Nhưng về mặt hội họa anh ấy cũng chẳng tập trung được sức lực.

    Xa-sa hồi tưởng lại những ngày chúng tôi quen nhau ở En-xcơ. Lần ấy tôi đến nhà cô chơi. Dì Đa-sa nhận xét về tôi như sau: “Chà, dễ thương, xinh đẹp và khỏe mạnh. Có điều là trông hơi buồn buồn”.

    - Bây giờ dì Đa-sa ở đâu nhỉ? - Tôi hỏi. - Tại sao không thấy dì ấy đến thăm thằng cháu trai đầu tiên nhỉ? Đấy là một chuyện lớn chứ chơi à?

    - Chẳng lẽ chị không biết dì đang bị ốm nặng ư? Tim của dì ấy tồi lắm, trước đây ít lâu bác sĩ có khuyên dì ấy nghỉ ngơi khoảng nửa năm. Em và Pê-chi-a thường về En-xcơ. Hầu như mùa hè nào chúng em cũng đi một chuyến như thế cả.

    Cô nói còn có vẻ mệt nhọc lắm, trong khi đang nói thường phải ngừng lại để thở. Nhưng dù sao, tình trạng sức khỏe của cô cũng đã khá hơn nhiều so với mấy hôm trước đây.

    - Còn ông chánh án ở đâu?

    - Ông chánh án nào?

    - Chị kìa, ông chánh án nhà em ấy mà.

    Xa-sa cho tôi hay, ông chánh án Xcô-vô-rốt-ni-cốp - bố của Pê-chi-a vừa được thưởng huân chương “Quang vinh”.

    - En-xcơ là nơi rất đẹp, phải không chị?- Cô nói sau một hồi im lặng. - Ở En-xcơ, anh chị có về đấy không?

    - Tất nhiên là có chứ!

    Chở khi bác sĩ đã khám hết lượt, Pê-chi-a liền gọi tôi ra. Tôi chạy phóng ra ngoài, báo cho anh ta biết tình hình sức khỏe của Xa-sa đã khá lên nhiều. Giữa lúc ấy tại phòng đón tiếp xảy ra một chuyện: có một thanh niên mặt áo cổ bẻ xiên đầu đội mũ lưỡi trai đang cùng Pê-chi-a đứng chờ bác sĩ khám xong cho các người bệnh. Vì sáng nào anh ta cũng vào bệnh viện cùng một giờ với chúng tôi, nên tôi quen mặt anh ta. Tôi biết người mà anh đến thăm là A-lếch-xe-e-va, nhiệt độ của chị này cũng rất cao. Trong toàn bộ bản thông báo nhiệt độ của các người bệnh trong phòng chỉ có cô này và Xa-sa là cao hơn cả. Khi tôi tìm gặp được Pê-chi- a và hai người đang đứng trong phòng đón tiếp thì đột nhiên có một cô у tá đi ra, nói vội vói anh ta:

    - Có phải anh đến thăm chị A-lếch-xe-e-va không? Thôi đi đi, đi đi!

    Và cũng ngay lúc ấy chúng tôi nghe cái giọng hạ thấp hẳn xuống của cô nói với người trực ban ở phòng gửi áo:

    - Đem áo bơ-lu đến đây nhanh lên... Có thể anh ấy còn kịp gặp mặt...

    Thực đáng sợ, người thanh niên vội vã mặc áo bơ-lu, cố kiềm chế mình để mặc cho nhanh, nhưng mãi vẫn không xỏ được tay vào áo. Cuối cùng một chị hộ lý đã phải giật phắt lấy chiếc áo, choàng lên vai anh như khoác áo bành tô.

    Chúng tôi vẫn tiếp tục nói chuyện, nhưng bắt đầu từ đó Pê-chi-a chẳng còn tâm địa nào mà nghe tôi nói nữa. Mặt anh chàng bỗng tái nhợt đi khiến tôi giật mình cầm lấy tay anh.

    - Anh làm sao thế?

    - Không sao, không sao cả.

    Tôi để anh ngồi xuống rồi chạy đi tìm nước sôi. Nhưng anh đã bị ngất mất rồi.

    Ngày hôm đó tôi gặp ông giáo sư khoa Nội và nói chuyện với ông. Ông cho biết sẽ không dùng thuốc trợ tim loại mạnh nữa và nói thêm: “Chúng ta cho Xa-sa uống nhiều thuốc quá rồi”. Khi sắp sửa bước đi, ông nói rằng gần đây ông thấy có một loại thuốc mới chữa bệnh viêm phổi rất tốt, đó là thuốc xufiđine, một thứ thuốc vừa mới được các nhà bác học phát hiện ra.

    Đến tối bệnh trạng của Xa-sa có phần nặng hơn nhưng tôi không lo lắm, vi chiều tối cô ấy vẫn thường khó chịu hơn. Tôi cầm một quyển sách đứng tựa vào chiếc bàn kê ở đầu giường để đọc. Tôi lấy khăn quàng che ánh sáng đèn cho khỏi chói mắt người bệnh. Trước đấy mấy hôm Xa-nhi-a gửi vào cho tôi mấy quyển sách, đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ đó là quyển “Bắc cực hiếu khách” của Xtê-phan-xôn. Đã có quyết định cuối cùng về việc tôi tham gia vào đội thám hiểm, tôi sẽ tham gia với tư cách là một nhà địa chất. Giáo sư V. được chỉ định lãnh đạo các mặt nghiên cứu khoa học của cuộc thám hiểm. Chỉ vài hôm nữa tôi sẽ phải gặp ông ta. Dĩ nhiên là tôi không giấu giếm rằng hiện tại kiến thức của tôi về Bắc cực còn rất nông cạn. Toàn bộ những sách vở Xa-nhi-a gửi vào cho tôi đều là những tài liệu cơ bản, rõ ràng là phải đọc thật kỹ từ đầu đến cuối mới được.

    Khoảng hơn hai giờ sáng, tôi đứng dậy để xem Xa-sa ngủ thế nào, tôi thấy cô ấy đang nằm yên hai mắt mở trừng trừng.

    - Xa-sa, cô làm sao thế?

    Xa-sa im lặng một lúc.

    - Chị Ca-chi-a, em chết mất, - cô thì thào.

    - Xa-sa, cô sắp khỏi rồi đấy. Hôm nay khá lắm rồi.

    - Thực ra thì cái chết cũng chả có gì đáng sợ, chỉ có điều là mỗi khi nghĩ đến cháu bé, em cảm thấy khủng khiếp quá.

    Nước mắt giàn giụa trong hố mắt cô. Cô cố quay đầu đi chùi nước mắt vào gối.

    - Không biết sau này cháu có được vào đại học không nhỉ?

    - Xa-sa, chớ có nghĩ lẩn thẩn như thế, vào đại học nào?

    Tôi lau nước mắt cho cô rồi hôn lên trán cô. Trán cô nóng như một lò than đỏ.

    - Đến khi cháu vào đại học thì em không thể nào nhận ra cháu nữa, nó sẽ thay đổi nhiều lắm... Sao Pê-chi-a vẫn không vào thăm em chị nhỉ? Sao người ta không để cho anh ấy vào nhỉ? Họ có quyền gì ngăn cấm anh ấy? Ai cũng cho rằng em không được phép nhìn thấy anh ấy ư? Anh ấy kia kìa, kia kìa!

    Cô định vùng ngồi dậy, nhưng tôi đã kịp ngăn lại. Giữa lúc ấy cô hộ lý trực ban vào và tôi cho Xa-sa thở ô-xy...

    Từ buổi tôì hôm ấy, việc đáng sợ nhất bắt đầu xảy ra.

    Cứ cách một tiếng đồng hồ lại phải tiêm cho cô một mũi thuốc hồi sinh. Thời gian cô tự thở không tiếp ô-xy mỗi lúc một ngắn đi, nhiệt độ hạ dần xuống, cả thuốc hồi sinh, thuốc trợ tim loại mạnh cũng đều bất lực trước nhịp đập mỗi lúc một yếu đi của trái tim cô. Cô nằm thẳng người, các đầu ngón tay tím lại, sắc mặt vàng bệch như màu sáp. Mặc dù thế, các bác sĩ vẫn ra sức cứu chữa tấm thân đáng thương đã phải chịu đựng bao nỗi giày vò đau đớn của cô.

    Tôi không rõ tình trạng này kéo dài trong bao lâu, hình như lâu lắm thì phải, vì cho mãi đến tối ngày hôm sau công việc cấp cứu vẫn còn tiếp diễn. Một bác sĩ lạ tôi chưa gặp mặt bao giờ nhẹ nhàng từ trong phòng bệnh đi ra hành lang và tiến lại phía chúng tôi. Chúng tôi: Xa-nhi-a, Pê-chi-a và tôi đang đứng chờ tin tức giữa hành lang bệnh viện. Không hiểu bởi cớ gì trước đây ít lâu họ xua tất cả chúng tôi ra khỏi phòng bệnh. Người bác sĩ ấy thoáng dừng lại ở cửa phòng rồi chậm rãi đi tới trước mặt chúng tôi.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  15. Rafa

    Rafa SV

    Chương 12

    Vĩnh biệt

    Bạn sẽ biết rất nhiều về một con người khi người đó chết. Trong buổi lễ truy điệu ở Viện hàn lâm mỹ thuật, khi nghe những lời bàn của mọi người, tôi nghĩ bụng, những lời nói tốt đẹp của người đời đối với Xa-sa khi cô còn sống e rằng không bằng một nửa khi cô đã chết.

    Linh cữu đặt trên bục cao, xung quanh có rất nhiều hoa, đến nỗi bộ mặt trắng bệch của cô gần như bị lút vào giữa rừng hoa không nhìn thấy nữa. Không hiểu tại sao ai cũng gọi Ха-sa là “bạn”, họ gọi cô là “một nhà nghệ thuật ưu tú”, là “một người Xô Viết tuyệt vời” và “thần chết đáng nguyền rủa đã bất thình lình cướp đi cuộc sống của bạn" vân vân... Những lời văn điếu ấy thực quá cách xa với bộ mặt đau đớn kia của người xấu số!

    Tôi cảm thấy trong người rất mệt, phải cố gắng lắm mới đứng nổi cho đến khi buổi lễ kết thúc. Sau một thời gian đem hết sức lực, tâm can của mình làm việc căng thẳng từng giờ từng phút để mong cứu sống người thân của mình mà không thành; giờ đây tôi cảm thấy trống rỗng, chẳng có việc gì đáng làm nữa. Giờ đây tôi là người vô sự, tôi bàng hoàng đứng bên cạnh quan tài. Xa-nhi-a đứng cạnh tôi, nhưng không hiểu vì sao cứ một lúc tôi nhìn rõ anh, nhưng lúc sau lại chẳng nhìn thấy gì cả. Còn anh thì cứ nhìn người em gái không chớp mắt, sắc mặt của anh tái đi giận dữ, tuồng như cái chết của cô ấy làm anh giận dữ vậy.

    Xa-nhi-a tham gia vào tất cả mọi việc: đóng quan tài, thuê ô-tô, lo liệu các việc trong nhà, đến sở công an làm thủ tục, ra nghĩa trang và cuối cùng là tiễn tôi về khách sạn “A-xtô-ri-a”. Xong đâu đấy anh trở lại với Pê-chi-a suốt đêm. Giờ đây anh đứng bên cạnh tôi, chăm chăm nhìn cô em gái như thể để bù vào những năm tháng cách biệt về sau. Tôi hỏi anh về Pê-chi-a, anh lặng im không đáp lời, mà chỉ đưa tay trỏ một người đang đứng cạnh quan tài.

    Pê-chi-a còn giữ được vẻ bình tĩnh, song bộ mặt hốc hác khô rộc hẳn đi của anh khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Anh ta có vẻ hình như đang cố dằn mình để chờ cái phút kết thúc các thủ tục của buổi lễ đau khổ này, và sau đó Xa-sa sẽ lại trở lại đoàn tụ với anh và mọi việc rồi sẽ lại tốt đẹp như thường. Ông già Xcô-vô-rốt-ni-cốp đã đến đây ngày hôm trước để dự lễ an táng. Ông đứng sau lưng Pê-chi-a, hai dòng nước mắt chảy như xối qua má xuống bộ râu điểm bạc xén rất kỹ của ông, về sau mắt tôi mờ đi nên không nhìn thấy buổi lễ đã kết thúc như thế nào nữa.

    Hai hoặc ba ngày gì đó sau khi Xa-sa được chôn cất xong, trước khi trở về En-xcơ, ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp đã đặc biệt đến khách sạn “A-xtô-ri-a” để chia tay chúng tôi. Lúc ấy trong phòng của Xa-nhi-a đương có khách nào đó, hình như vị đại diện được cử đi Ác-khan-ghen-xcơ để chuẩn bị trang bị, nên chúng tôi phải vào phòng ngủ nói chuyện. Trong phòng này có rất nhiều áo bông, găng tay và những thứ cần thiết của đội thám hiểm sau này làm việc. Đó là những thứ chuyển từ Viện nghiên cứu Bắc cực đến.

    Tôi mời ông ngồi lên giường và mời ông uống cà phê.

    - Anh chị chuẩn bị đi rồi ư? - ông hỏi.

    - Vâng, chúng cháu cũng sắp đi rồi ạ.

    Chúng tôi im lặng hồi lâu.

    - Xin lỗi, tôi chưa được quen cô lắm, - ông cụ lại nói. - Nhưng tôi đã nghe nói về cô rất nhiều. Lâu nay tôi vẫn coi Xa-nhi-a như là con đẻ, tôi rất mừng được biết hai anh chị rất thương yêu nhau. Dĩ nhiên là lúc này việc của Xa-sa làm cho mọi người đều đau buồn... Nếu không thì chúng ta đã có thể vui vẻ chúc mừng nhau... Nhưng cái chết đối với người ta là chuyện thường tình, không sao tránh khỏi...

    Ông thở dài rồi nói tiếp:

    - Không ai tránh khỏi cái chết trong đời mình!... Pê-chi-a có nói với tôi rằng cô rất quan tâm đến Xa-sa, tôi xin hết lòng cám ơn cô.

    Tôi hỏi thăm tình hình sức khỏe bà Đa-sa.

    - Vấn đề chính là ở chỗ đó, sức khỏe của bà nhà tôi không được tốt lắm. Bác sĩ không cho bà ấy rời khỏi giường nằm. Hơi thở lúc nào cũng hộc tốc nặng nề. Nếu sức khỏe của bà ấy khá thì tôi đã bế ngay cháu bé về nhà nuôi rồi. Còn Pê-chi-a, nếu anh ấy chịu về nhà ăn nghỉ ít lâu cho lại sức thì càng tốt. Bây giờ tôi thật không tưởng tượng nổi sẽ về nói với bà lão nhà tôi thế nào đây. Nếu bà ấy biết chuyện Xa-sa thì chắc chắn là bà ấy không thể sống nổi. Bà ấy gửi gắm cả cuộc đời cho hai vợ chồng thằng Pê-chi-a.

    Ông mân mê trong tay chiếc bật lửa làm bằng vỏ đạn đồng đã cũ, có lẽ đó là vật kỷ niệm còn lại từ thời kỳ nội chiến. Tôi biết ông cụ đang suy nghĩ những gì. Sau khi đưa đám ma trở về phố Pê-trô-grát-xcai-a, bản thân tôi cũng đã từng có ý nghĩ như thế.

    ... Mặt bàn trắng chưa được đánh véc-ni, giờ đây trở nên trống trải vô cùng. Mấy cây bút vẽ nhỏ và một bức tranh phong cảnh cổ chưa được lên màu của Xa-sa bỏ lại để chỏng chơ trên mặt bàn. Bây giờ không có ai cần đến chúng nữa.

    “Thực ra cái chết cũng chẳng có gì đáng sợ, có điều là khi nghĩ đến cháu bé, em cảm thấy khủng khiếp quá”. Lời nói hồi nào của Xa-sa như có ý ủy thác cho tôi cuộc sống của đứa bé. Giá như lúc hấp hối mà còn tỉnh táo thì chắc là cô ấy đã nói hẳn với tôi những lời ấy rồi.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  16. Rafa

    Rafa SV

    Chương 13

    Pê-chi-a con

    Chúng tôi quyết định trung tuần tháng sau sẽ ra đi. Thời gian tôi được ở với cháu bé chỉ còn vẻn vẹn có hai tuần lễ nữa thôi. Nhưng hai tuần lễ, thời gian đó không phải là quá ngắn ngủi đối với một đứa trẻ mới ra đời dược có nửa tháng. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy buồn cười lúc tôi cùng với Pê-chi-a vào bệnh viện bế cháu về nhà, chẳng những tôi không dám bế cháu mà chỉ khẽ chạm vào một chút tôi cũng đã sợ rồi. Khi cô у tá giảng giải cách nuôi trẻ và sau đó nâng cao cháu lên, tôi sợ quá bất giác kêu lên. Cô ta dùng một cánh tay giữ chặt đứa bé trên cao, khiến nó khóc thét lên, nhưng giọng cô ta vẫn hết sức bình tĩnh:

    - Để cho nở phổi.

    Bình sữa phải luộc bằng nước sôi, cứ cách ba tiếng đồng hồ lại cho ăn một lần và cách một ngày tắm một lần,…bao nhiêu thể lệ qui tắc cô ta nêu ra khiến tôi đau cả đầu... Cuối cùng bất kể việc ấy đáng sợ như thế nào, tôi vẫn phải quấn kỹ cháu bé và bế lên tay. Động tác của tôi có lẽ quá thận trọng, nên cô у tá cười nói:

    - Mạnh dạn lên, mạnh dạn lên!

    Tôi bận bịu suốt ngày đêm; lúc phải thay tã, lúc phải cho ăn sữa, lúc lại phải tắm. Một ngày hai bận vào bệnh viện lấy sữa người... Nói tóm lại, bao nhiêu chuyện phiền phức, bận rộn đã đến với tôi.

    Mọi việc vẫn tiến hành bình thường không có gì thay đổi. Cục địa chất Ba-skia gửi công lệnh đến cho tôi, cho phép tôi công tác tại Viện nghiên cứu Bắc cực một năm. Giáo sư V. cũng gọi tôi đến, chúng tôi thảo luận khá tỉ mỉ nhiệm vụ công tác địa chất của đội thám hiểm, vì lúc ấy tôi chưa nắm được chút nào tình hình địa chất ở vùng Bắc cực, nên có phần lúng túng trong một số vấn đề.

    Tôi đã đọc xong quyển “Bắc cực hiếu khách”. Tôi đọc trong hoàn cảnh rất khó khăn: thì giờ rất hiếm và lúc nào cũng buồn ngủ. Còn nhớ, hồi ấy tôi không thể nào hiểu được tại sao lại nói Bắc cực hiếu khách. Theo tôi, thì Bắc cực chẳng lấy gì làm hiếu khách lắm.

    Mỗi lần tôi cầm đến sách là cháu bé lại khóc oa oa.

    Tuồng như cháu cũng dự cảm rằng tôi sắp xa lìa cháu.

    Đã đến lúc phải nghĩ đến chuyện sắp xếp việc nuôi nấng cháu bé sau khi tôi ra đi. Tôi đã bàn việc này nhiều lần với Pê-chi-a, nhưng lần nào anh ta cũng chỉ cúi đầu lặng nghe tôi nói chứ chẳng hé răng nói một lời nào. Anh ta có vẻ rất khó xử và hầu như không còn đủ minh mẫn trước cái tang lớn vừa qua.

    - Tìm bảo mẫu làm gì? - Có một lần Pê-chi-a đã thốt ra như thế. Ngay lúc ấy tôi chợt hiểu rõ, anh ta sẽ rất đau lòng khi xuất hiện một người lạ trong căn phòng này.

    Mặc cho tôi khuyên bảo thế nào, anh ta vẫn không chịu ăn một tí gì cả. Không hiểu anh ta vứt mũ ở đâu, chắc là đã đánh mất ở ngoài đường phố, nhưng lúc nào về nhà cũng lục lọi tìm kiếm. Anh ta chẳng chịu nhìn đến con, thái độ ấy khiến tôi hết sức kinh ngạc. Nhưng có một lần, khi trời sắp sáng, trong lúc tôi đương cố kìm chế giấc ngủ đế đánh vật với quyển sách thì đột nhiên có những tràng tiếng nói lạ tai từ phòng bên vẳng lại làm cho tôi tỉnh táo hẳn lên: Tôi nghe có tiếng ai nói: “Bé yêu quí, bé dễ thương!...”

    Pê-chi-a chỉ mặc độc chiếc quần đùi, ngực để trần, cơ thể gầy rạc đến phát khiếp, đang dứng trước chiếc giường con. Anh ta mỏ to hai mắt, mệt mỏi nhìn con đang ngủ say.

    Anh ta giật thót người, khi nghe tôi hỏi:

    - Pê-chi-a, anh làm gì thế?

    Anh ta vội vã rời khỏi giường con. Trong hố mắt của anh ta giàn giụa nước mắt: đôi môi run lên như bị cóng lạnh...

    Hầu như ngày nào Xa-nhi-a cũng đến đây. Chỉ cần thoáng nhìn qua anh, tôi cũng có thể biết được ngay công tác của anh có thuận lợi không và anh có mãn nguvện hay không. Trước tiên chúng tôi nói chuyện với nhau, sau đó anh đi ra hành lang hút thuốc. Để anh đỡ buồn tôi cũng theo ra cùng anh.

    Một lần, bé khóc, tôi bế cháu lên khỏi giường vừa đi lại trong phòng vừa ru hát khe khẽ thì tôi chợt nghe anh nói:

    - Trông em...

    - Làm sao?

    - Không, không sao cả đâu. Giống hệt như một bà mẹ thực sự vậy.

    Tôi cũng không rõ vì sao khi nghe câu nói này hai má tôi lại đỏ bừng lên. Anh cười vang và ôm cả tôi lẫn cháu bé mà hôn...

    - Anh thực chẳng biết làm thế nào nữa, - có một lần anh nói với vẻ suy nghĩ đặc biệt. - Mặc dù anh đã chạy ngược chạy xuôi rất nhiều mà số tiền được duyệt chi vẫn không nhiều. Tiền ít thì rồi thời gian cũng sẽ ít.

    - Tiền thì có liên quan gì đến thời gian hả anh?

    - Có mua áo ấm bằng lông súc vật hay không cũng phải đắn đo suy nghĩ hàng mấy tiếng đồng hồ. Việc gì cùng phải thông qua phòng tài vụ kế toán. Thực phiền toái!

    Hễ gặp chuyện bực mình là anh cắn chặt môi lại, động tác đó đã trở thành thói quen. Bây giờ đây anh cùng lại cắn chặt môi, hai mắt đen đầy nộ khí.

    - Em có thể giúp được anh không? - Ngập ngừng một chút rồi anh nói. - Anh biết em rất bận. Nhưng nếu em giúp anh sắp xếp lại các vật tư mang theo cũng là tốt rồi. Nói thực là anh lo có khi chưa kịp xuất phát đã bị lôi vào tù rồi cũng nên.

    Ngay hôm sau, tôi căn dặn bà Rô-di-li-a Na-u-mốp-na đến hàng nghìn điều cần chú ý, viết ra giấy những việc phải làm trong từng giờ: lúc nào cho bé ăn sữa, lúc nào đi lấy sữa vân vân, rồi vội vàng đến khách sạn “A-xtô-ri-a” tìm Xa-nhi-a. Tôi lưu lại chỗ anh một ngày một đêm, vì không có tôi rõ ràng là anh không đủ sức đối phó với công việc, thậm chí muốn đi ra khỏi phòng một lúc lâu cũng không được vì trung bình cứ cách năm phút lại có người gọi điện thoại đến.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  17. Rafa

    Rafa SV

    Chương 14

    Người khách trong đêm khuya

    Trong một lần nói chuyện với tôi, đồng chí TR. có một câu thành ngữ “Ốm miền Bắc”, mãi đến bây giờ, khi phụ trách công tác trang bị cho đội thám hiểm giúp Xa-nhi-a tôi mới hiểu hết hàm ý của câu nói đó. Ngày nào cũng có những người mắc cái căn bệnh nan у ấy đến tìm gặp Xa-nhi-a. Ông P. là một trong số những người như thế. Ông là một họa sĩ già, là bạn và đồng thời là đồng hành của Xê-đốp. Sau khi báo “Sự thật” đăng bài của Xa-nhi-a, ông liền hưởng ứng nhiệt liệt và có viết một bài hồi ký kể lại cảnh tượng gặp gỡ với người hoa tiêu tên là Cơ-li-mốp ở mũi Phơ-lo-ra khi con tàu “Xanh Phô-ca” quay trở về đại lục.

    Trong đám khách hay tìm đến, có một số chàng trai trẻ chưa từng có chút kinh nghiệm nào. Họ đến yêu cầu Xa-nhi-a bố trí cho họ hoặc làm thợ lò, hoặc làm chân xúc than trên tàu “Pa- khơ-tu-xốp”, nghĩa là việc gì cũng được.

    Trong số những người tìm đến cũng có những kẻ hám danh vụ lợi, họ muốn đi tìm danh vọng và quang vinh qua chuyến đi mạo hiểm. Cũng có những người không nuôi ảo vọng cá nhân, nhưng trong đầu óc họ Bắc cực luôn luôn hiện lên như một thiên đường hoang ảo kỳ lạ.

    Giờ đây khi mọi thứ đều đã thay đổi, khi niềm phấn khích và những mối lo toan của ngày qua đã trở nên xa mờ không còn đáng kể nữa, thậm chí còn khiến cho người ta cảm thấy nực cười. Tôi nhớ lại những người khách ban đầu ấy và không sao tránh khỏi không nghĩ dến một người chỉ xuất hiện có một lần. Anh ta hiện ra như một ảo ảnh trong giấc mơ, lóe lên rồi tắt biến ngay, thậm chí sau một thời gian rất dài mà tôi vẫn không biết được tên anh ta và cũng không biết Xa-nhi-a đã làm quen với anh ta ở đâu. Nhưng trong giây khắc ấy, trong đầu óc tôi chợt hiện lên cảnh tượng của ngày mai, một ngày mai không xa nữa. Tôi như nắm chắc những việc của mấy năm về sau. Trái tim tôi co lại và run lên...

    Không chờ Xa-nhi-a về được, tôi nằm co chân trên chiếc ghế bành và ngủ thiếp đi. Đến khuya tôi thức dậy chợt thấy có một người lạ trong phòng, anh ta là một lính thủy, không biết mang cấp hàm gì. Xa-nhi-a khom người bên bàn chăm chú vẽ một đóa hoa, còn ngưòi khách lạ thì luôn chân đi đi lại lại trong phòng. Anh ta có vẻ đầy sức sống, động tác nhanh nhẹn, tóc cắt theo kiểu cô-dắc và có một đôi mắt đen đầy vẻ giễu cợt.

    Hai người đang thảo luận với nhau một vấn đề rất quan trọng, tôi vội vàng khép hai mắt lại, giả vờ ngủ. Như thế rất khoái - vừa được nghe câu chuyện của người khác, vừa gà gật ngủ hoặc giả vờ ngủ để tránh những thủ tục phiền phức như giới thiệu, chải đầu, thay quần áo.

    - Việc tìm kiếm thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp với nhiệm vụ cơ bản của Tổng cục đường hàng không Bắc cực hoàn toàn không dính líu gì với nhau. Vấn đề này đã rõ ràng lắm rồi. Chỉ cần nhớ lại một chút cuộc tìm kiếm Phơ-ra-cơ-lin trước đây thì biết, đó đúng là chuyện hoang đường. Nhưng nói chung lại thì việc tìm người là cần thiết và kết hợp vào đó có thể điều chỉnh lại bản đồ. Nhưng tôi muôn nói đến một vấn đề khác kia.

    “Một vấn đề khác” " chắc chắn đó là vấn đề chiến tranh, chiến tranh trên bờ biển Ba-ren-xép và biển Ca-ra ở Bắc cực. Tôi lắng nghe anh ta nói - câu chuyện này mới mẻ đây.

    Anh ta cầm trong tay một cây bút chì tính toán số lượng khoáng sản trên bán đảo Côn-xki - việc này có liên quan đến nghề nghiệp của tôi. Người khách đến trong đêm khuya ấy liệt toàn bộ số khoáng sản trong thời bình vào danh sách những “nguyên liệu chiến lược” khi chiến tranh xảy ra. Từ trong thâm tâm tôi có ý phản đối anh ta, vì tôi tin rằng chiến tranh sẽ không xảy ra.

    - Anh hãy tin rằng, - người lính thủy sôi nổi nói, - thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp hiểu rõ ý nghĩa quân sự là cơ sở của mỗi đội thám hiểm Bắc cực khi nó ra đi.

    “Tất nhiên là ông hiểu rõ như thế’, - tôi liền nghĩ bụng và vẫn giả vờ ngủ say. Ở trong trạng thái này vừa có thể tự do suy nghĩ, vừa có thể nói lên ý nghĩ của mình. - “Nhưng chiến tranh thì nhất định sẽ không xảy ra đâu!”

    - ... Đã từ lâu đáng lẽ phải xây dựng một số căn cứ quân sự có tính chất phòng ngự theo con đường vận hành của đoàn tàu hàng của chúng ta... Ví dụ như ở vùng Đất mới, khi nhìn thấy những dãy pháo tầm xa đặt nối tiếp nhau, tôi phấn chấn vô cùng...

    “Thôi đi!” - tiếng nói phản đối trong tôi lại vang lên. - Đặt súng để đánh nhau với ai? Với gấu trắng hay sao?

    Nhưng anh ta vẫn nói say sưa không dứt. Trong giây lát cơ hồ như tôi đã từ cái căn phòng yên tĩnh này của khách sạn - cũng tức là cái căn phòng mà tôi đang co chân nằm khoanh tròn trong ghế bành và Xa-nhi-a dùng một góc khăn bàn che ánh sáng đèn để khỏi chói vào mắt tôi đây chuyển sang một thành phố khác, xa lạ và bị tàn phá tan hoang bởi lửa đạn của chiến tranh. Cái yên lặng ở đây thật khủng khiếp, nó như căng người ta ra. Mọi người nói chuyện với nhau bằng một giọng khẽ khàng, rón rén như chờ đợi một cái gì nghiêm trọng sắp xảy ra. Mọi người đều mò mẫm trong bóng tối, lần theo bậc cầu thang ẩm ướt xuống gian nhà hầm. Nhưng tôi thì tôi không đi. Tôi đứng lại trên tam cấp của một ngôi nhà gỗ tối tăm không một bóng người, trên đầu tôi là bầu trời mênh mang thần bí. Xa-nhi-a ở đâu nhỉ? Trong bầu trời đầy sao và đáng sợ kia, hiện ra một chiếc máy bay ì ạch bay tới, từng giây từng phút, băng tuyết càng dày thêm trên đôi cánh mỏi mệt của nó. Một cảnh tượng khủng khiếp sắp sửa xảy ra không thể nào tránh khỏi. Tiếng động cơ lịm dần, chiếc máy bay bắt đầu chao đảo và không còn bắt được liên lạc với mặt đất nữa rồi...

    - Đúng, đó là một câu chuyện đã cũ, - người lính thủy bỗng hét lên làm tôi sực tỉnh. Tôi khoan khoái hít một hơi dài vì đã trút bỏ được cơn ác mộng. Một ngày gần đây hai chúng tôi sẽ cùng đi Bắc cực, hiện giờ chẳng phải anh ấy đang đứng trước mặt tôi và rất khỏe mạnh đó sao? Ôi anh Xa-nhi-a, Xa-nhi-a mà tôi yêu quí, Xa-nhi-a thông minh, đáng yêu và đã mệt lử ra rồi vì đã làm việc quá sức kia, từ giờ phút này tôi không bao giờ xa cách anh nữa.

    - Nhưng khốn nỗi là những người trong Tổng cục đường hàng không Bắc cực không tha thiết với lịch sử. Những thằng cha ấy mà chịu đọc một chút các quyển từ điển đại bách khoa toàn thư của Liên-xô thì cũng đã là khá rồi. Trong đó có một đoạn trích dẫn khá thú vị của Men-đê-lê-ép. Tôi có chép ra đây, cậu lắng nghe nhé, thật là một danh ngôn tuyệt vời!

    Thế là anh chàng lính thủy bắt đầu đọc câu danh ngôn của Men-đê-lê-ép, giọng ngây thơ như một em bé. Nhũng câu ấy tôi đã từng được xem trong số bút tích còn để lại của bố tôi “Nếu chúng ta dùng một phần mười số tổn thất ở vịnh Xu-xim để khai phá Bắc cực, thì có lẽ hạm đội của chúng ta sẽ có thể đi từ biển Nê-mét-xcô-e (biển Đức) và vịnh Xu-xim đến Vla-đi-vô-xtốc...”

    Có lần Xa-nhi-a nói với tôi rằng dì Đa-sa rất ưa hỏi anh câu như thế này:

    “Thế nào, Xa-nhi-a, cuộc hành trình trong cuộc đời của cháu ra sao rồi?”.

    Trong lúc co chân nằm giả vờ ngủ trong chiếc ghế bành, kín đáo theo dõi người khách lạ ban đêm đầy sức sống, phát âm chưa rõ và để bộ tóc kiểu cô-dắc rất ngộ nghĩnh ấy, làm sao tôi có thể tưởng tượng được rằng mấy năm về sau “cuộc hành trình trong cuộc đời” của tôi đã đưa Xa-nhi-a đến nhà anh ta? Nếu như có ai đó bảo với tôi rằng sau này sẽ có ngày trong tuổi già nua anh ta phải chịu muôn vàn khổ ải và da diết nhớ mong tôi, thì từ trong thâm tâm, tôi sẽ cười to lên phản đối.

    Song tốt nhất là chúng ta hãy khoan lục lọi đến những chuyện của tương lai. Giá như chúng ta dự đoán trước được hết “cuộc hành trình trong đời” về sau này thì thực cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì nữa.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  18. Rafa

    Rafa SV

    Chương 15

    Tuổi xuân đang được kéo dài thêm

    Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được một bà bảo mẫu rất tốt. Bà ấy được người khác giới thiệu, là một người béo khỏe, sạch sẽ và đã quá tuổi bốn mươi, cả nhà Be-ren-stanh vui vẻ nói với tôi rằng: "Bà này không phải là bảo mẫu mà là một giáo sư đại học”. Bà ta vừa đến nhà là lập tức chị công nhân quét sân mang theo vào một chiếc hòm cũ rất lớn. Bà mở hòm lấy ra một chiếc tạp dề trắng tinh, một chiếc mũ trắng và một tấm ảnh lâu đời. Trên tấm ảnh hiện lên lờ mờ hình ảnh của bố mẹ bà bảo mẫu và bộ mặt ngây ngô của một cô bé lên bảy, đó chính là bà ta.

    Bà quấn tạp dề, đội mũ và treo bức ảnh vào chỗ trước kia treo bức tranh mà Pê-chi-a đã tặng cho bà chủ nhà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na để kỷ niệm ngày sinh của con trai anh. Ngay từ giờ phút ấy mọi người đều hiểu rõ ai là chủ nhân thực sự của căn phòng này. Bà nói với tôi rằng theo yêu cầu của khoa học, trẻ con cần có dụng cụ ăn uống và các thứ dụng cụ khác riêng biệt (cố gắng dùng dụng cụ màu trắng) và nên có bác sĩ cố định theo dõi. Nhưng riêng bà thì nhờ trời, không có dụng cụ màu trắng, cũng không có bác sĩ riêng, bà vẫn nuôi trẻ con lớn như thổi, cả nhà Be-ren-stanh đều nghe bà nói với lòng khâm phục cao độ và có vẻ nể sợ. Song tôi thì tôi không thể. Bà ta là một người lương thiện, chân thành. Bà ta chắc mẩm rằng nghề của bà quan trọng hơn tất cả các nghề khác trên trái đất.

    Chúng tôi quyết định đến mùa thu sẽ quay lại chốn này, đem Pê-chi-a con và bà bảo mẫu tên là Đa-ri-a Ti-mô-phê-ép-na lên Mát-xcơ-va. Riêng vấn đề của Pê-chi-a bố thì có phức tạp hơn. Một hôm Xa-nhi-a kéo anh ta vào buồng riêng, xua tôi ra ngoài đoạn khóa trái cửa lại, hai người nói chuyện với nhau suốt buổi tối hôm ấy. Không biết hai người đã nói những gì với nhau mà mãi tới hơn một giờ khuya, khi tôi trở về thì thấy mắt hai người đều đỏ hoe - có lẽ vì khói thuốc. Cả căn phòng đầy những khói thuốc, trong lúc đó các cửa sổ đều đóng kín mít một cách hết sức vô lý.

    - Cậu bắt buộc phải sống... Khi vừa bước vào cửa, tôi chợt nghe giọng nói rủ rỉ của Xa-nhi-a. - Cậu bây giờ đã có con rồi. Cậu phải quên đi và bình tĩnh mà suy nghĩ.

    Pê-chi-a thở dài.

    - Tôi sẽ cố gắng, - anh ta nói. - Chẳng có gì đâu. Tôi biết là mọi việc rồi sẽ qua đi cả, anh chớ có quá lo lắng. Anh nói đúng, việc đã xảy ra rồi thì không có cách nào cứu vãn nổi...

    ... Một số đội viên chủ yếu trong đội thám hiểm chưa được trang bị đầy đủ nên ngày xuất phát phải kéo dài. Riêng chúng tôi thì đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ và đã đóng gói gửi trước đến Ác-khan-ghen-xcơ. Thế là đột nhiên tôi có được mấy ngày rỗi rãi. Tại sao lại chỉ nói tôi thôi, vì trong những ngày đó, Xa-nhi-a vẫn phải chạy đến làm việc ở Viện nghiên cứu Bắc cực suốt từ sáng đến tối mịt. Thế là tôi quyết định dùng những ngày ăn không ngồi rồi ấy vào việc đi dạo xem thành phố mang tên Lê-nin, dù chỉ là cưỡi ngựa xem hoa.

    Khi tôi nhìn thấy một đám trẻ em leo trèo đùa nghịch dưới chân bức tượng Người kỵ sĩ bằng đồng xanh và ngồi lên mình những con rắn, tôi liền nghĩ, nếu tôi sinh ra ở thành phô Lê-nin-grát này thì cuộc đời thơ ấu của tôi sẽ khác hẳn với bọn chúng. Tôi sẽ có một cuộc đời thơ ấu mang đầy màu sắc của biển cả, nặng tình với bờ biển Ban-tích. Rồi tôi chợt ân hận là không mang theo quyển “Những phát hiện trong vòng một thế kỷ” ra đây đọc. Ở đây mà đọc quyển sách ấy thì không còn gì thú bằng!

    Tôi vào thăm nhà ở của Pu-skin, tìm đến ngôi nhà nhỏ xây theo kiểu Phần-lan của Đại đế Pi-ốt, sau đó đảo qua khu Công viên Mùa Hè.

    Có rất nhiều chiến hạm thả neo bên bờ sông Nê-va. Tôi bắt gặp những toán lính thủy từ các chiến hạm kéo lên bờ cạnh trụ sở của Nghị viện. Một người lính tín hiệu đứng trên bức thành cao dùng cờ đuôi nheo đánh “moóc”. Trên tháp đài chiến hạm, qua bầu không khí dịu mát, qua lớp ánh sáng huy hoàng của mặt trời cùng lớp hơi mù bốc lên từ mặt sông Nê-va, một người lính thủy khác cũng đang dùng cờ “nói chuyện” với người lính trên bờ. Tất cả những cảnh tượng ấy sao mà êm đềm, dễ chịu quá, khiến hai mắt tôi chứa chan lệ vui.

    Quả là trong những ngày ở Lê-nin-grát tôi cứ rưng rưng muốn khóc. Nỗi buồn đau cùng niềm hoan lạc cứ dấy lên cùng một lúc trong tâm hồn tôi. Tôi đếm bước trên đường phố mỹ miều và rộng thênh thang này như một người say, như một người mê mẩn tâm thần. Và tôi cố rời xa cái ý nghĩ những ngày chứa chan hạnh phúc và cũng đầy thương đau ở Lê-nin-grát này rồi sẽ bị chấm dứt.

    Dĩ nhiên là Xa-nhi-a tìm thấy những diễn biến trong tâm hồn của tôi. Một hôm vì chuyện cô gái đưa cơm cho anh mà tôi bị một vố đau. Song tuồng như anh có vẻ thích thú trước những biểu hiện thất thường trong cuộc sống của tôi là đằng khác.

    Trong đầu óc tôi bỗng thường nảy ra những ý nghĩ rất dễ sợ. Lắm khi tôi vừa bước chân ra đường phố, tôi lại vội vàng quay về. Mỗi khi bước lên bậc thềm khách sạn “A-xtô-ri-a”, tôi lại ra sức suy đoán lúc này Xa-nhi-a có nhà không, mặc dù lúc ấy chỉ cần hỏi người gác cửa là có thể biết ngay.

    Rõ ràng đó là những việc lẩn thẩn chẳng đâu vào đâu, thế mà tôi vẫn không làm sao khắc phục được. Việc gì tôi cũng mong muốn có một kết quả toàn vẹn, và rõ ràng là nếu chỉ dựa vào nguyện vọng thiết tha sôi nổi chủ quan của tôi thôi, mà không có một sức mạnh siêu tự nhiên, một sức mạnh thần kỳ nào đấy giúp sức thì không thể nào thực hiện được.

    ... Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên được cái đêm hôm ấy - đêm cuối cùng trước khi ra đi ấy. Ngay tối hôm ấy tôi dạo một lượt qua phố Pê-trô-grát-xcai-a. Pê-chi-a con vừa được tắm rửa xong đang ngủ say, bà bảo mẫu đội mũ trắng, mặc áo tạp dề lộng lẫy ngồi trên hòm đang đan len.

    - Chúng ta đang nuôi lớn một vị bá tước. - bà đáp lại những lời dặn dò cuối cùng của tôi bằng một giọng tự phụ ra mặt.

    Tôi chợt thấy lo, một bà bảo mẫu kiểu cách như thế này liệu có chu toàn trong bao nhiêu công việc vô danh nhưng vô cùng cần thiết để nuôi sống đứa bé không? Nhưng nhìn sang đứa bé tôi lại yên tâm ngay. Cháu nằm đó, hết sức sạch sẽ trắng trẻo, mọi thứ xung quanh cháu cũng toát ra một thứ ánh sáng của sự sạch sẽ và tươm tất.

    Pê-chi-a bố cùng gia đình bác Be-ren-stanh chuẩn bị tiễn chúng tôi ra ga tàu hỏa.

    Khi tôi từ ngoài phố trở về. Xa-nhi-a đã tranh thủ đánh một giấc say sưa. Trên nền thảm, tiền rơi vung vãi. Tôi cúi xuống nhặt rồi đọc lướt qua mảnh giấy ghi công việc dài dằng dặc phải làm trong ngày hôm sau của Xa-nhi-a.

    Lúc này đã quá nửa đêm, nhưng trong phòng ánh đèn còn sáng trưng, thì ra Xa-nhi-a quên không bỏ rèm cửa xuống. Tôi cởi áo ngoài, rửa mặt rồi thay quần áo ngủ. Không hiểu sao hai má tôi cứ nóng ran lên và chẳng thấy buồn ngủ chút nào. Tôi mong Xa-nhi-a thức giấc dậy quá chừng.

    Chuông điện thoại reo vang. Tôi cầm lấy ống nghe:

    - Anh ấy đang ngủ.

    - Ngủ lâu chưa?

    - Vừa mới ngủ thôi.

    - Thôi không cần gọi anh ấy dậy đâu.

    Tất nhiên là tôi không gọi anh ấy dậy. Qua tiếng nói ở đầu dây bên kia, tôi nhận ra là tiếng giáo sư V... Chắc là có việc rất cần, nếu không thì ông không gọi điện vào lúc đêm hôm như thế này. Xa-nhi-a nằm ngủ rất say ngay trên ghế đi-văng, quần áo cứ để nguyên như thế. Hình như trong giấc mơ anh gặp điều gì không lành, một nét căng thẳng lướt qua mặt anh, đôi môi mím rất chặt.

    Ôi, sao mà tôi mong anh thức dậy đến thế! Tôi đi đi lại lại trong phòng, hai tay áp vào đôi má nóng bừng. Đây không phải là căn phòng của chúng tôi, ngày mai sẽ có những người khác đến ở. Căn phòng này cũng giống như trăm ngàn căn phòng khác, đều có bày những chiếc đi-văng lót vải màu xanh da trời, treo những tấm rèm che cửa sổ viền đăng ten, có một chiếc bàn con, trên mặt bàn đặt một tấm kính dày. Song dẫu sao, đây vẫn là căn phòng đầu tiên chúng tôi ở. Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ lấy nó.

    Ở gian phòng bên cạnh có ai đó đang kéo vi-ô-lông. Anh ta đã kéo một hồi khá lâu, song mãi đến bây giờ tôi mới chú ý đến tiếng đàn ấy. Anh ta là một nghệ sĩ chơi vi-ô-lông nổi tiếng, -cơ thể gầy yếu và có mớ tóc màu đỏ nhạt. Lúc ở phòng ngoài người ta có nói với tôi về anh và anh ở ngay phòng bên cạnh phòng của chúng tôi.

    Những bản nhạc anh chơi hoàn toàn xa lạ với lòng tôi lúc ấy. Lời nói của anh qua tiếng nhạc không đem lại cho tôi niềm hạnh phúc làm vợ Xa-nhi-a. Lời nhạc của anh như đang kể lại cuộc gặp mặt đầu tiên trong thời niên thiếu của chúng tôi. Hồ như anh ta đã từng trông thấy chúng tôi trong cuộc vũ hội khi còn học ở trường tiểu học số bốn. Cũng chính ngày hôm đó Xa-nhi-a hôn tôi cái hôn đầu tiên...

    “Tuổi xuân được kéo dài thêm". - anh chàng tóc hung chơi bản nhạc tôi không thích lắm. - "Khổ tận cam lai, xa biệt lâu ngày ắt sẽ lại gặp nhau. Em có nhớ không, em đã thầm ra lệnh, rồi em sẽ tìm thấy anh. Kìa anh đang đứng kia kìa. Tóc anh hoa râm, người anh vươn thẳng, anh đến phát điên lên vì đầy xúc động và chứa chan hạnh phúc. Ngày mai sẽ phải lên đường, mọi việc sẽ đều như ý em định đoạt. Mọi việc đều rất tốt lành, bởi vì những câu chuyện thần thoại mà chúng ta tin mê vẫn còn tồn tại trên trái đất này”.

    Tôi nằm xuống thảm ngay trên mặt sàn, vừa nghe mạch đập bên thái dương vừa khóc và tự trách mình sao lại quá mềm yếu để chảy ra những giọt nước mắt này. Đã rất lâu rồi tôi không hề khóc và lúc nào cũng cố làm ra vẻ cứng rắn không biết khóc là gì...

    Theo lời dặn của Xa-nhi-a, tôi gọi anh dậy vào lúc bảy giờ sáng và nói cho anh biết rằng đêm qua giáo sư V. có gọi điện thoại cho anh.

    - Anh có giận em không?

    - Giận gì?

    Anh vẫn ngồi trên đi-văng, hai mắt vui vẻ nhìn tôi, lúc bằng con mắt bên phải, lúc lại bằng con mắt bên trái.

    - Vì em không đánh thức anh dậy.

    - Anh giận lắm, - nói xong anh cười ngay. - Em có vẻ trẻ tệ. Hôm qua giáo sư V có hỏi anh rằng em bao nhiêu tuổi, anh trả lòi là em đã mười tám tuổi.

    Anh hôn nhẹ lên mặt tôi rồi chạy nhanh vào buồng tắm, sau đó anh chạy ra, mình mặc có chiếc quần đùi và làm mấy động tác thể dục. Anh cũng bắt tôi tập thể dục buổi sáng, tôi tập được mấy hôm rồi bỏ bẵng đi. Còn anh thì vẫn tập rất đều đặn, mỗi ngày hai lần vào buổi sáng và buổi tối.

    Người còn ướt đẫm, anh vừa dùng khăn tắm lau ngực vừa đi đến bên máy điện thoại và cầm lấy ống nói. Mặc dù tôi đã nói rằng gọi dây nói cho giáo sư V. lúc này còn sớm quá, nhưng anh vẫn không nghe. Lúc ấy hình như tôi đang lúi húi thắp bếp đèn cồn để pha cà-phê. Xa-nhi-a gọi giáo sư V. bằng cả cái tên ghép của bố ông ta. Bỗng anh hỏi giật giọng: “Cái gì ạ?” khiến tôi giật mình phải quay lại nhìn. Chiếc khăn tắm trên vai anh rơi xuống sàn anh cũng không để ý tới, và mặt tái hẳn đi.

    - Vâng, tôi sẽ thi hành ngay, - nói xong anh gác ống nghe lên máy.

    - Có việc gì thế anh?

    - À không, thực là tai quái, - Xa-nhi-a nhặt chiếc khăn tắm lên, chậm rãi nói. - Tối hôm qua giáo sư V. nhận được điện báo, thế là công việc của đội thám hiểm lại bị thay đổi. Cấp trên ra lệnh cho anh phải lập tức trở về Cục hàng không dân dụng Mát- xcơ-va để nhận nhiệm vụ mới.



    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  19. Rafa

    Rafa SV

    Chương 16

    “Anh trông thấy em bế con trong tay”

    Đã có lần Xa-nhi-a tâm sự rằng cuộc sống của anh cứ luôn luôn thế này: thoạt tiên mọi việc đều rất trôi chảy, nhưng rồi sau đó bất thần xảy ra những chuyện bất ngờ làm đổ sụp tất cả. Riêng lần này có thể nói là đã lọt vào đường xoắn trôn ốc.

    Giờ đây khi mà những niềm vui và nỗi buồn của chúng ta trước chiến tranh đã bị bao mối tình cảm mới che lấp và những mối tình cảm mới đó còn da diết, quyết liệt gấp trăm ngàn lần những niềm vui, nỗi buồn đã qua kia thì việc hồi nhớ lại cái sự kiện thất bại đã gây ấn tượng kỳ lạ đối với Xa-nhi-a trước đây ít lâu thực đáng buồn cười. Ấn tượng đó thậm chí đã làm thay đổi ít nhiều cách nhìn của Xa-nhi-a đối với cuộc sống.

    - Ca-chi-a, thế là sụp đổ cả rồi! - sau khi từ nhà giáo sư V. trở về, anh nói giọng quyết liệt. - Thôi, không Bắc cực, không đội thám hiểm, không tàu “Xanh Ma-ri” gì nữa cả. Anh không muốn nghe đến những cái tên ấy nữa! Tất cả những cái đó đều là chuyện huyền hoặc, trẻ con, đáng lẽ chúng ta phải quên sạch nó đi từ lâu rồi mới phải.

    Và tôi đã hứa với anh rằng hai chúng ta sẽ cùng quên các câu chuyện “huyền hoặc trẻ con” ấy đi, mặc dù tôi tin chắc rằng sẽ không bao giờ Xa-nhi-a có thể quên được nó. Tôi nuôi một hy vọng mong manh rằng trong thời gian trở lại Mát-xcơ-va, Xa- nhi-a có thể sẽ làm cho cấp trên thay đổi quyết định. Nhưng khi nhận được điện báo của anh thì tôi hoàn toàn thất vọng, vì nó không được phát đi từ Mát-xcơ-va, mà lại từ trên đường anh đi đến Xa-ra-tốp. Nhiệm vụ mới anh vừa được giao càng khẳng định sự sụp đổ tan tành của kế hoạch thám hiểm. Anh được điều đến công tác tại ngành Hàng không nông nghiệp, một ngành được gọi là đặc biệt trong công tác hàng không. Bây giờ thì ngoài việc gieo hạt giống và phun thuốc trừ sâu từ trên máy bay xuống, anh sẽ chẳng làm gì nữa. “Thế càng tốt, họ bảo làm gì anh sẽ làm việc ấy”, - trong bức thư đầu tiên gửi từ một nông trang tập thể về, anh viết như thế đấy. Để được nông trang tập thể sắp xếp công tác, Xa-nhi-a đã phải nằm chờ ở đấy hơn một tuần lễ. Hãy quên lãng đi những hoang tưởng của quá khứ, quả là những điều chúng ta mơ ước trước đây chỉ là những hoang tưởng không hơn không kém! Nhưng đồng chí TR. đã nói rất chí lý - đã làm người thì phải làm người giỏi nhất. Em đừng lầm tưởng rằng anh đã chịu thua. Tất cả còn đang ở phía trước”.

    “Chúng ta biết ơn giai đoạn lịch sử đã qua”, - trong một bức thư khác, anh viết, Ít ra nó cũng giúp chúng ta tìm thấy đối phương và xây dựng được mối quan hệ tình cảm. Anh tin rằng, trong một tương lai không xa, các kế hoạch cá nhân của những năm này sẽ trở thành một sự kiện quan trọng không những chỉ riêng đối với chúng ta thôi”.

    Anh viết thư cho tôi tuyền bằng một giọng khách sáo văn vẻ như thế. Và dần dần anh đã làm quen với cái nhiệm vụ vinh quang của “người trồng ngũ cốc" và làm “kẻ thù không đội trời chung của muôn loài sâu bọ”. Rõ ràng là anh đã yêu mến công tác mới của mình. Vì sau đó chẳng bao lâu tôi có nhận được một bức thư với giọng điệu hoàn toàn khác hẳn của anh.

    “Bà xã thân yêu”, - anh viết trong thư. Em hãy tưởng tượng rằng trên trái đất này có một giống tên là màu xanh pa-ri(1). Cần phải bay trên cao để phun thuốc xuống mặt hồ mười một cân thuốc một cây số. Em hãy thử tưởng tượng xem, muốn làm được việc này cần phải có một kỹ thuật bay cao cường như thế nào không. Nhũng mảnh hồ bé tí tẹo lại phân bố rải rác giữa rừng cây, trông cứ giống như đúc cả một lượt. Phải mở hết cửa dầu cho máy bay bay nhanh đến những cái hồ nước đó đoạn lao chúc xuống rồi lại cất lên thật nhanh. Như thế chẳng thú vị lắm sao? Cũng lạ, hễ mỗi lần anh bay trên những cái hồ như thế, hoặc bay ở tầm thấp đặc biệt để gieo hạt lúa mì là trong đầu óc anh lại dấy lên bao nhiêu ý nghĩ khác hẳn chứ không chỉ riêng công việc của nghề nông. Bây giờ mỗi ngày anh cất và hạ cánh đến một trăm hai mươi nhăm lượt. Nếu màu xanh pa-ri trên máy bay của anh thay bằng một thứ hàng thú vị khác thì việc cất và hạ cánh hằng ngày của anh sẽ trở thành cuộc tập luyện hết sức bổ ích. Mọi việc đều hướng về phía tốt đẹp, giờ đây anh chẳng cảm thấy ân hận một chút nào. Ôm em. Anh nhìn thấy em bế con trong tay, vừa đi vừa hát khe khẽ, tóc em không tết kỹ bị sổ tung ra, em đến trước mặt anh rồi quì xuống để anh quấn lại tóc cho em...”

    (1) Một loại thuốc sát trùng làm bằng thạch tín. - ND.


    Cái cảnh mà Xa-nhi-a tưởng tượng ra đó không phải là hoàn toàn không có căn cứ. Suốt cả ngày tôi để thời gian vào việc chăm sóc Pê-chi-a con. Hầu như bé thay đổi từng ngày. Quan sát quá trình bé nhận ra tôi, nhận ra bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na và bà bảo mẫu, quan sát trong đôi mắt thơ ngây không gợn một nét suy tư nào nhưng thỉnh thoảng lại hiện lên vẻ ngạc nhiên và chăm chú đặc biệt là một việc làm không có gì thú vị bằng. Nói ra thì có người sẽ không tin song đây là sự thật; tuy chưa đầy tháng song bé đã biết cười. Bé thích nhìn lên, hễ đèn tắt là bé khóc thét lên. Mới đầu, nhìn thấy bàn tay nhỏ của mình, bé hãi sợ, nhưng về sau bé ngắm nghía mãi cũng bàn tay ấy, và không còn sợ nữa. Những đứa bé đầy tháng khác mặt mũi đều nhăn nheo khó coi, nhưng mặt bé thì lại sởn sơ đầy vẻ vui thích, tựa như vì được ra đời mà vui thích vậy. Tôi cảm thấy bây giờ bé càng giống Xa-nhi-a. Vừa mới đẻ ra tóc bé đen nhánh và chỉ có ở chỏm đầu, nhưng bây giờ thì đã mọc kín cả gáy. Bé càng lớn càng hết sức dễ thương.

    Sự việc diễn biến cứ khác hẳn những điều mong mỏi trong lòng! Tôi đến Lê-nin-grát ở hai ba tuần lễ nay là để được gặp mặt và sống bên cạnh Xa-nhi-a, dầu cho anh ấy có đi đâu tôi cũng quyết không rời xa, thế mà bây giờ anh ấy đã lìa xa tôi hàng nghìn dặm. Và tôi có một gia đình mới hoàn toàn bất ngờ, đó là Pê-chi-a con, Pê-chi-a bố và bà bảo mẫu, cả ba người đều cần có người chăm sóc lo liệu mọi thứ, và ai cũng tin rằng trách nhiệm ấy sẽ do tôi đảm nhiệm.

    Tuy tôi đã bàn với Xa-nhi-a hãy quên chuyện nghiên cứu thám hiểm Bắc cực đi, nhưng bản thân thì lại cứ nghiên cứu tiếp tình hình địa chất Bắc cực. Vì tình hình kinh tế rất gay go, nên tôi phải nhận một số việc rất vô vị của Viện nghiên cứu địa chất.

    Nếu là thời gian trước đây thì rất có thể tôi sẽ khổ tâm, sẽ tự oán trách dằn vặt mình và suy nghĩ miên man. Nhưng bây giờ tôi lại trở nên hết sức bình thản. Lòng tự tôn, niềm tự hào và nỗi oán hận bởi không đạt được ý nguyện đã bị tôi chôn vùi cùng với những câu chuyện “huyền hoặc trẻ con” trên kia. “Anh yêu quí của em, chúng ta có cách nào hơn bây giờ!” - tôi viết thư trả lời Xa-nhi-a, nhân nhận được bức thư của anh tự trách mình là đã kéo tôi đến Lê-nin-grát rồi bỏ rơi tôi ở đó, lại còn đặt lên vai tôi mọi gánh nặng gia đình... Đúng như chú chánh án đã nói, đừng có “com-măng” gì trong cuộc sống cả”.

    Những thư tôi viết cho anh đều rất dài. Tôi kể về bà bảo mẫu nuôi trẻ rất khoa học, kể về sự đổi thay nhanh chóng của Pê-chi-a con, về việc Pê-chi-a bố đột nhiên lao vào công việc như điên như dại, về công tác thiết kế kỷ niệm Pu-skin được tiến hành tốt đẹp như thế nào.

    Nhưng có một việc tôi không hề nhắc đến. Ấy là có một lần trong khi tôi đang mua hàng trong hiệu “Ga-xtơ-rô-nôm”(1) trên đại lộ hai mươi nhăm tháng Mười, thì chợt nhìn thấy một hình bóng quen thuộc ở bên ngoài kính cửa sổ. Anh ta mặc áo bành tô màu tro và đội chiếc mũ mềm tôi hằng ưa thích. Chiếc mũ chụp lên cái đầu to vuông của anh ta trông chẳng tự nhiên chút nào...

    Lúc ấy trời đã tối mờ mờ, tôi có thể nhìn nhầm chăng. Nhưng không, người ấy đích xác là Rô-ma-sốp. Anh ta có vẻ rất bình tĩnh, sắc mặt trắng bệch, người hơi ngả về phía trước. Anh ta chậm rãi đi lướt qua tủ kính bày hàng và chẳng mấy chốc mất hút vào trong đám đông.

    (1) Cửa hàng bán thực phẩm. - ND.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  20. Rafa

    Rafa SV

    Phần thứ bảy

    PHÂN LY

    Chương 1

    Năm năm

    Tôi không còn nhớ rõ đã đọc bài thơ ấy ở đâu, bài thơ so sánh năm tháng như chiếc đèn lồng treo trên “sợ dây thời gian”.

    Có những chiếc đèn cháy rất sáng, tỏa ánh huy hoàng ra khắp chung quanh, nhưng cũng còn những chiếc đèn chỉ leo lét hun khói trong bóng tối.

    Chúng tôi đã sông qua ở Cri-mê và ở Viễn Đông. Tôi là vợ một phi công nên có rất nhiều bạn mới. Chị em cũng toàn là vợ của các phi công ở Cri-mê và ở Viễn Đông. Mỗi khi trong đơn vị có máy bay mới, tôi cũng hồi hộp chẳng khác gì chị em. Và mỗi lần Xa-nhi-a ra đi. đến giờ mà chưa trở về thì cũng như chị em, tôi luôn tay gọi điện thoại đến Ban tham mưu, khiến cho nhân viên trực ban đến phát bẳn lên. Tôi cũng như tất cả chị em đều nghĩ rằng sẽ không bao giờ mình có thể quen với nghề nghiệp của chồng. Nhưng rồi sau đó cũng như tất cả chị em, tôi quen dần với nghề nghiệp của Xa-nhi-a. Song tôi vẫn không rời bỏ công việc địa chất của tôi (điều này hầu như không thể nào tồn tại được).

    Tuy bà giáo già của tôi cho đến bâv giờ vẫn còn gọi tôi là “bé con”, nói một cách vũ đoán rằng “nếu tôi chưa lấy chồng- thì thế nào tôi cũng đoạt được bằng tiến sĩ từ lâu rồi”. Nhưng đến cuối mùa thu năm 1937, khi tôi mang bảng thành tích của tôi từ Viễn Đông về Mát-xcơ-va thì bà đành phải rút lui ý kiến cũ. Công tác của chúng tôi lúc này là khảo sát từ tính bằng máy bay. Từ trên máy bay chúng tôi đi tìm mỏ sắt.

    Bây giờ bác I-va Pa-vơ-lứt không thể nói rằng: “cô không hiểu cậu ấy” nữa rồi. Từ nơi sâu kín của tâm tư Xa-nhi-a, tôi nhìn thấy ánh sao rọi sáng thời niên thiếu của anh. Nó gần giống như một ngôi nhà bỏ hoang, không người trông coi, một luồng ánh sáng thần bí từ trong đó rọi qua cửa sổ ra ngoài.

    - Anh Xa-nhi-a, bây giờ thì em đã hiểu anh là một con người như thế nào rồi.

    Chúng tôi ngồi trên toa tàu Hên vận đi từ Vla-đi-vô-xtốc đến Mát-xcơ-va. Đây là việc khó tưỏng tượng được, song đúng sự thực là chúng tôi đã ở chung với nhau trong một toa tàu nhũng muời ngày mười đêm liền. Chúng tôi cùng ăn sáng, ăn trưa và ăn tối với nhau bên một bàn ăn. Ban ngày lúc nào chúng tôi cũng có thể nhìn thấy nhau. Nhiều phụ nữ không cảm thấy kỳ lạ trước một hạnh phúc tràn trề như thế.

    - Anh là người như thế nào nhỉ?

    - Anh là một nhà đi du lịch.

    - Đúng thế, từ Vla-đi-vô-xtốc đi Iếc-cút, cất cánh từ sân bay Pri-mo-rơ-xJđ chỉ mất bảy giờ bốn mươi tư phút,

    - Cái đó chẳng có nghĩa lý gì. Dù sao người ta cũng không nhả anh ra đâu. Chẳng gì anh cũng là một nhà du lịch chính cống kể cả mặt tài năng lẫn mặt yêu thích. Chỉ có nhà du hành mới có thể hỏi cá mấy tuổi trong khi đang ăn cá.

    Anh bật cười.

    - Chỉ có nhà du hành như anh mới ngượng ngùng khi được ngưòi ta tặng hoa. Chỉ có nhà du hành như anh mới sợ giấy tờ hành chính. Chỉ có nhà du hành như anh mới lúc nào cũng huýt sáo mồm và buổi sáng nào cũng đem bài thể dục gồm hai mươi bốn động tác ra hành hạ vợ.

    - Còn thiếu môn tắm nước lạnh đấy.

    - Đúng thế. Chỉ có nhà du hành mới trẻ lâu.

    - Nhưng anh đã già rồi.

    - Anh có biết không, em luôn luôn cảm thấy rằng mỗi ngưòi đều có đặc điểm tuổi tác riêng. Có ngưòi vừa đẻ ra đã như người bốn mươi. Nhưng lại cũng có người suốt đời lúc nào cũng như chàng thanh niên mười chín tuổi. Đồng chí Tr. là người thuộc loại ấy. Và anh cũng vậy. Nói chung lại thì hầu hết các phi công đều như vậy. Đặc biệt là những phi công thích bay qua trùng dương.

    - Em ghép anh vào loại phi công thích bay qua đại dương phải không?

    - Đúng thế. Sau khi vượt qua biển cả trở về, anh không bỏ rơi em chứ?

    - Không bao giờ. Nhưng anh chắc là khi bay đến giữa đường anh đã bị người ta triệu về.

    Tôi im lặng. “Anh đã bị người ta triệu về” - anh đã nói đến một khía cạnh khác hẳn. Rõ ràng là anh muốn ám chỉ đến việc anh đã tốn rất nhiều công, sức thu thập các tin tức về bố tôi rải rác từ En-xcơ đến Tai-mưa. Nhưng giữa chừng lại bị lọt vào tay người khác. Ở Hội địa lý học và ở Viện nghiên cứu Bắc cực đều có treo ảnh thuyền trưỏng Ta-ta-ri-nốp. Nhiều nhà thơ viết bài ca ngợi ông, trong đó số lớn viết chẳng hay lắm. Trong từ điển Đại bách khoa toàn thư của Liên-xô có đăng bài bình luận về cuộc đời hoạt động của ông, bên dưới ký tên tắt bằng những chữ đầu là NT. Cuộc thám hiểm của ông được ghi vào lịch sử khai phá Bắc cực của người Nga cùng với những cuộc thám hiểm của Xê- đốp, Ru-xa-nốp, Tô-li v.v...

    Tiếng tăm của ông càng lừng lẫy thì người anh họ của ông, một người đã hy sinh toàn bộ tài sản của mình để tổ chức cuộc thám hiểm cho con tàu “Xanh Ma-ri”, lại càng hăng hái đem hết sức lực còn lại để nghiên cứu sâu hơn nữa sự nghiệp vĩ đại của con người đáng kính ấy, và qua đó tên tuổi của ông cũng được nhiều người nhắc đến.

    Với địa vị của mình, thành tích của Ni-cô-lai An-tô-nô-vích rất được trọng thị. Quyển sách “Trên mặt băng” hầu như năm nào cũng được tái bản một lần để thỏa mãn đòi hỏi của các độc giả tí hon và cả người lớn nữa. Các báo chí không ngớt đưa tin về cuộc “Hội nghị học thuật” do ông ta chủ trì. Ông thường xuyên phát biểu ở “Hội nghị học thuật”. Qua các bài phát biểu đó. tôi tìm thấy dấu vết những cuộc tranh luận đã qua. Các cuộc tranh luận đó đã bị đình lại khi có một người đàn bà mặt mày nhợt nhạt bị khiêng đặt lên mặt bàn đá lạnh buốt và sau đó bị mãi mãi khiêng ra khỏi ngôi nhà. Không, cuộc tranh luận đó chưa hề được kết thúc! Vị học giả đáng kính kia đã từng nhấn mạnh trong cuốn sách của mình rằng kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp là các “chủ xưởng”, và một phần do một người tên là Phôn Vư-si-mia-xki nào đó. Vị học giả đáng kính ấy đã từng dùng một số chứng cứ, mưu đồ quật lại một cậu học sinh đã phát giác ra điều bí mật của ông ta. Bây giờ ông ta bày các thứ chứng cứ ấy ra không phải là không có mục đích gì.

    Hiện nay cậu học sinh kia giữ thái độ im lặng, nhưng tất cả đều còn đang ở phía trước.

    Xa-nhi-a lặng im chẳng nói năng gì, anh làm việc suốt ngày đêm không mệt mỏi. Anh đang phun thuốc trừ sâu ở khu vực sông Von-ga. Anh đang vận chuyển bưu kiện trên tuyến đuờng Iếc-cút đi Vla-đi-vô-xtốc và thực sự cảm thấy hạnh phúc khi có thể tranh thủ vận chuyển báo chí ở Mát-xcơ-va đến Vla-đi-vô-xtốc trong hai ngày hai đêm. Anh đã giành được danh hiệu phi công cấp hai. Anh đã nhiều lần đưa đơn xin ra Bắc cực, nhưng lần nào cũng được trả lời là anh cần phải tiếp tục làm "phu xe trên không”. Lần này người ta lại điều động anh về tuyến Xim-phê-rô-pôn và Mát-xcơ-va. Bản thân anh chẳng có phản ứng gì, nhưng riêng tôi thì tôi hết sức bất bình trước quyết định đó. Tuồng như có một bóng đen thần bí luôn luôn chắn ngang trên con đường đi tới của Xa-nhi-a. Tôi không biết. Mà anh cũng không biết.

    Anh cặm cụi làm việc. Mọi người đều khen anh công tác rất tốt. Chỉ có riêng tôi mới biết được rằng anh rất mệt nhọc trên những tuyến bay giống hệt nhau, như hàng nghìn anh em...

    Tôi mặc chiếc váy liền áo trắng tinh, cùng đứng sánh vai với Xa-nhi-a trên boong một con tàu sơn trắng, sáng màu tinh khiết. Chuyến này Xa-nhi-a được đi phép. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc bởi chuyến đi phép này và bởi cái quyết định đột ngột đi Xê-va-xtô-pôn của chúng tôi. Còn sau đó sẽ đi đâu nữa, chính chúng tôi cũng chưa biết đến.

    - Con tàu của A-mum-xen được đặt tên là “Tiến lên”. Ông ta đặt cái tên ấy cho con tàu cũng là để tự nhắc nhở mình “tiến lên”... Đó là lời bình luận của Nan-xen đối với A-mum-xen... Đó là phương châm của anh hồi anh muời bốn tuổi. Hay quá có phải không? Thế mà bây giờ thì vừa tiến lên vừa quay lại. Lúc thì Mát-xcơ-va, lúc thì Xim-phê-rô-pôn.

    ... Chiếc đèn lồng khi tỏ khi mờ, dưới quầng sáng chao đảo của nó, khi là niềm hoan lạc, lúc là nỗi buồn đau. Thời gian cứ lao về phía trước không quay lại, chỉ có một buổi tối, đúng cái buổi tối Xa-nhi-a kể về cuộc đời mình (không phải kể cho tôi nghe) thời gian mới dừng lại đôi chút. Cuộc nói chuyện quan trọng này được tiến hành trong vuờn hoa của câu lạc bộ phi công ở một làng Tác-ta. Vườn hoa nằm trên một sườn dốc, con đuờng nhỏ giữa vườn hoa chạy xuyên qua đám hoa sặc sỡ đang độ nở rộ, đổ thẳng xuống bờ biển. Đá cuội kêu lên sào sạo dưới bước chân thận trọng của các phi công. Một cơn gió nhẹ chợt thoảng qua, mang theo hương hoa và vị ngọt ngào của hoa quả từ vưòn hoa Ai Va-xi-li, ở đây đang có một cuộc hội nghị công khai của Đảng, nói là công khai, một phần vì cuộc hội nghị đó được tiến hành trên quảng trường trước thềm nhà hát dưới bầu trời sập tối của phương nam.

    Xa-nhi-a phát biểu rất bình tĩnh, liên tục. Nhưng lần nào cũng vậy, hễ sắp sửa kết thúc là anh lại đột nhiên ngừng bặt lại. Chỉ có tôi mới hiểu hết ý nghĩa của động tác đặc biệt ấy. Anh đang xúc động. Chẳng phải thế đó sao!

    Tôi nghe Xa-nhi-a kể, trước mắt hiện lên một thời niên thiếu đã bị lãng quên. Tựa như chiếu phim, khi giọng một người nào đó nói thong thả rành rọt về mình thì trên màn ảnh hiện lên cảnh mây bay và một dòng sông trông tựa như một dải mây mù nằm trải xa xa trên cánh đồng bát ngát. Đó là cảnh êm đềm của một buổi sáng. Thời niên thiếu còn sống trong ký ức của tôi không phải là mây mù mà là cả một nguồn hạnh phúc.

    Tôi chợt nhớ đến người đoàn viên thanh niên cộng sản vừa đen vừa gầy có mớ tóc cứ dựng đứng lên đang kết án Ép-ghê-ni O-nê-ghin ở trường học số bốn. Lần đầu tiên anh ta nói với tôi ở trên sân trượt băng rằng anh sẽ đi học truờng hàng không. Tôi bắt gặp cảnh anh ta xúc động bàng hoàng như khi anh ta đọc lại những bức thư cũ trước kia trong vườn hoa Nhà thờ ở thành phố En-xcơ. Bất kể là ở Mát-xcơ-va, ở Bắc cực hoặc sau khi trở lại Mát-xcơ-va, lúc nào anh ta cũng chuẩn bị để bảo vệ sự đúng đắn của mình trước toàn thế giới.

    Nhưng hồi tưởng như thế đủ rồi! Hãy nghe xem người ta nói về anh như thế nào.

    Nhà trường đã đào tạo ra anh. Xã hội Xô Viết đã giáo dục anh nên người. Đấy người ta nói về anh như vậy đó. Đặc điểm của anh là tích cực học tập, tác phong đúng mức. Là một phi công ngay từ năm 1934 anh đã hoàn thành nhiều chuyến bay gian khổ ở Bắc cực và đã được khu dân tộc tự trị Nê-nét khen thưởng. Về sau anh đã tiến một bước rất dài trên con đường nắm vững kỹ thuật lái, kể cả kỹ thuật lái ban đêm. Tất nhiên anh cũng còn có nhược điểm, ví dụ như nôn nóng, dễ nổi khùng, thiếu kiên nhẫn. Nhưng khi trả lời câu hỏi: “Đồng chí Gri-gô-ri-ép có đạt được tiêu chuẩn đảng viên chưa” thì chúng tôi đều đáp: “Đạt rồi, đạt tốt rồi!”

    ... Mùa đông năm 1937, Xa-nhi-a được điều động đến Lê-nin- grát. Chúng tôi sống nhờ nhà ông bà Be-ren-stanh. Tôi cảm thấy mọi việc đều khá tốt lành, chỉ có điều là trong đêm khuya, lúc nào thức dậy, tôi cũng thấy Xa-nhi-a trằn trọc không ngủ, nằm đây nhưng hai mắt mở thao láo. Tuần nào chúng tôi cũng đến rạp chiếu phim tài liệu thời sự ở trên đại lộ Nép-xki để xem phim thời sự về cuộc chiến tranh ở Tây-ban-nha. Đây là cảnh những thanh niên tay cầm súng trường, mặc áo kẻ ô vuông đi lại lẩn quất, giữa cảnh đố nát của khu vực trường đại học Tổng hợp ở Ma-đrít. Kia họ đã vùng đứng lên đi tấn công. Đây là cảnh trung đoàn sốvNăm xếp hàng lĩnh súng. Đây là cảnh các cháu bé rút ra khỏi khu vực bị bao vây của Ma-đrít, các bà mẹ chạy theo sau đoàn xe ô-tô khóc lóc thảm thiết, còn các cháu thì vẫy tay chào lại. Những cảnh đó có thật không? Đúng là có thật như thế! Mong rằng những cảnh đau thương ấy sẽ không bao giờ diễn lại ở một nơi nào khác nữa.

    Hai tuần sau. tôi và Xa-nhi-a đứng trong phòng treo áo chật chội của gia đình Be-ren-stanh, giữa đống áo khoác da lông và mũ cũ. chúng tôi đứng lặng im. Đây là những phút cuối cùng của một lần từ biệt mới! Lần này anh ra đi với bộ quần áo thường. Chiếc áo bành tô rộng vai và chiếc mũ mềm làm thay đổi hẳn hình dạng của anh.

    - Xa-nhi-a, có phải anh đây không? Hay không phải là anh?

    Anh cuời nói:

    - Cứ coi như không phải là anh. Em đang khóc đấy à?

    - Không. Anh yêu quí. anh thân yêu, anh phải giữ gìn sức khỏe đấy.

    Anh nói “Nhất định anh sẽ trở về” cùng bao lời đẹp đẽ linh tinh khác. Tôi không nhớ rõ tôi đã nói với anh những gì lúc đó, chỉ biết tôi có nhắc đi nhắc lại là anh chớ coi thường tác dụng của dù vì anh rất ít khi mang dù theo chuyến bay.

    Anh đi đâu? Tôi chẳng biết gì cả. Anh thì anh nói là đi về Viễn đông. Nhưng tại sao anh lại ăn mặc thường phục? Và tại sao khi tôi hỏi một số chi tiết trong chuyến đi này anh không trả lời? Tại sao đêm khuya người ta gọi điện thoại từ Mát-xcơ-va về cho anh, anh chỉ trả lời cộc lốc “có” hoặc “không” thôi? Tại sao sau đó anh đi đi lại lại trong phòng rất lâu? Tại sao anh hút thuốc liên miên và có vẻ vô cùng xúc động, lại vô cùng vui sướng? Tại sao có lúc anh lại tỏ ra rất mãn nguyện? Anh mãn nguyện cái gì? tôi không biết và cũng không nên biết. Tại sao tôi không thể tiễn anh ra ga? Chẳng phải anh đi Viễn đông đó sao?

    - Như thế rất không tiện, - anh trả lời truớc yêu cầu đi tiễn của tôi. - Anh không phải chỉ đi có một mình. Cũng rất có thể là anh chưa đi xa đâu. Nếu không có gì trở ngại, khi đến ga anh sẽ gọi điện thoại cho em.

    Từ ga xe lửa anh đã gọi điện thoại về cho tôi, bảo là mười phút sau tàu sẽ chạy. Anh dặn tôi chớ có lo lắng, mọi việc rồi sẽ tốt đẹp cả. Ngày hôm sau anh gửi cho tôi một bức thư và hứa sau này sẽ không coi thường tác dụng của dù nữa...

    Tôi thường xuyên nhận được thư có đóng dấu bưu điện Mát- xcơ-va. Từ những bức thư đó, tôi đoán Xa-nhi-a cũng nhận được thư tôi rất đều đặn. Một số ngưòi tôi chưa hề quen biết thường gọi điện thoại đến hỏi thăm tình hình sức khỏe của tôi. Trên chiếc bàn nhỏ tôi dùng để đọc sách ban đêm trải rộng một tấm bản đồ có đính nhiều lá cờ nhỏ-. Đất nước Tây-ban-nha xa xôi và thần bí đột nhiên trở nên hết sức thân thiết, gần gũi như dãy phố tôi đã từng sống qua hồi niên thiếu.

    Một ngày tháng Ba dầm dề mưa xuân, hầu như toàn bộ máy bay của nước Cộng hòa, như ngưòi ta nói “tất cả những cái gì có cánh” đều xuất kích để oanh tạc quân phiến loạn, hòng cắt đứt mối liên lạc giữa Va-len-xi-a với Ma-đrít. Cuộc chiến đấu đã giành được thắng lợi dưới chân đồi Gua-đa-la-ha-ra. Xa-nhi-a của tôi cũng có mặt ở đấy ư?

    Tháng Bảy, quân đội của nước Cộng hòa đánh lui quân phiến loạn ra khỏi Bru-nét. Xa-nhi-a của tôi có mặt ở đấy không? Ba- xcô-ni-a đã bị cắt đứt, phải lái những chiếc máy bay dân dụng cũ kỷ vượt qua mây mù, qua các- khe núi để đến tiếp tế cho Bin-bao. Xa-nhi-a của tôi có mặt ở đó không?

    “Thời gian phục vụ bị kéo dài, - anh viết trong thư gửi cho tôi.- Chưa chừng sẽ có việc bất ngờ đến với anh. Em hãy nhớ lấv một điều là em hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi một nghĩa vụ nào hết”.

    Tôi mua được một quyển tự điển Nga - Tây-ban-nha in năm 1836 trong một hiệu sách cũ nằm trên phố Vô-lô-đa-rơ-xki. Vì quyển tự điển này đã rách nát, bìa bị long cả ra, nên tôi phải đưa đến cho thợ đóng sách đóng lại. Tốivnào tôi cũng cạy cục học từng câu Tây-ban-nha rất dài: ‘Phải, em là người tự do, em không có nghĩa vụ gì với anh hết.. Nếu anh không trở về được thì em nguyện sẽ chết cùng” hoặc là “Anh thân yêu, sao anh lại viết những bức thư đau lòng như vậy”.

    Tôi lẩm rẩm đọc các câu tiếng Tâv Ban Nha, có lẽ trong đêm tối, những câu đó nghe rất kỳ quái nên “bà bảo mẫu khoa học” ngỡ tôi nói mê phải vội vàng trởvdậy làm dấu thánh cho tôi.

    Một việc hầu như không thể có được đãvđột ngột xảy ra. Việc đó hếtbsức bình thường, nó làm cho vạn vật - thời tiết, cơ thể sống, công việc đều trở nên tốt đẹp gấp trăm ngàn lần...

    Nửa đêm hôm ấy bỗng có điện thoại từ Mát-xcơ-va gọi về báo tin Xa-nhi-a sẽ trở về nhà. Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na mừng quýnh lên, vội vàng chạy vào đánh thức tôi dậy. Tôi lật đật đến bên máy nói. Mấy hôm sau. quả nhiên anh đã hiện ra trước mặt tôi. Trông anh có vẻ gầy và đen hơn trước và hình như có cái gì đó giống người Tây Ban Nha. Tôi tự tay gắn tấm huân chương Cờ đỏ lên ngực áo anh.

    ... Mùa thu. hai chúng tôi cùng trở về thành phố En-xcơ. Năm nào Pê-chi-a cũng đưa con và bà bảo mẫu về En-xcơ nghỉ mát.

    Trong các bức thư gửi đến, lần nào dì Đa-sa cũng mời chúng tôi về chơi En-xcơ. Bây giờ chúng tôi đã thực sự ra đi. Buổi sáng quyết định xong, buổi tối tôi đã ngồi ở trong toa tàu trách móc Xa-nhi-a vì chỉ còn năm phút nữa tàu chạy mà anh cứ mải miết đi mua bánh làm tôi sốt cả ruột. Tàu chuyển bánh, anh mới chạy theo nhảy lên, miệng vừa cười vừa thở hồng hộc.

    - Loại bánh ngọt này ngon lắm, ở En-xcơ không có đâu

    - Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!

    - Kẹo ngon thế này mà không mua thì phí lắm!

    Quả là ở En-xcơ không có loại kẹo ngon như thế này, ngay cả hộp đựng cũng làm rất cầu kỳ, mới nhìn qua đố biết mở bằng cách nào. Trên chiếc huy hiệu nhỏ màu đỏ có ghi hàng chữ vàng “Chúc bạn mạnh khỏe, sống hạnh phúc!”

    Chúng tôi ngồi rất lâu trong toa có giường nằm tranh tối tranh sáng mà chẳng chịu bật đèn sáng.

    Hồi nào đã diễn ra một sự kiện tương tự như thếvnày nhỉ? Ây là cái lần hai chúng tôi cố làm ra vẻ như người lớn đi từ En-xcơ trở về Mát-xcơ-va. Mấy bà hư vô chủ nghĩa dùng sợi dây rất mảnh buộc đôi găng tay vừa to vừa lạ mắt đi tiễn chúng tôi. Một chàng trai để râu ria xồm xoàm ra sức đoán quan hệ giữa chúng tôi: anh em ư? Chẳng giống! Vợ chồng ư? Còn trẻ quá! Còn những quả táo mùa đông vừa đỏ vừa chắc kia nữa! Tại sao chỉ thời niên thiếu mới có thể được ăn những quả táo ngon như thế nhỉ?

    - Chính hôm ấy là ngày anh bắt đầu yêu em.

    - Không đúng. Anh còn nhớ cái hôm chúng ta từ sân trượt băng đi ra. anh mời em ăn hạt hướng dương, em từ chối, anh đành phải đem cho một em bé gái. Chính hôm đó mới là hôm anh bắt đầu yêu em.

    - Chính lúc ấy là lúc em bắt đầu yêu anh.

    - Không phải. Em biết chính anh bắt đầu yêu em vào lúc ấy. Nếu không thì anh chẳng đem hạt hướng dương cho người khác.

    Anh nghĩ ngợi có vẻ rất nghiêm túc.

    - Thế thì, em bắt đầu từ lúc nào?

    - Em không biết... Tất cả mọi lúc.

    Chúng tôi cùng đứng trên lối đi của toa tàu, và cũng như lần ấy, cùng đưa mắt nhìn dãy cột điện nốivnhau lao vút về phía sau. Mọi sự vật đều biến dời đổi thay, duy có niềm hạnh phúc là vẫn у nguyên như xưa. Một ông già rậm râu phục vụ trên tàu đưa mắt nhìn chúng tôi - hay là nhìn tôi chăng? - Rồi ông thở dài, lẩm bẩm rằng ông cũng có một ngưòi con gái đẹp...

    Thành phố En-xcơ. Trời còn sớm quá. Tàu điện chưa chạy nên chúng tôi dành phải cuốc bộ khắp thành phố. Một người rất lịch sự xách hộ chúng tôi đồ đạc. Chúng tôi tự giới thiệu chính quê hương chúng tôi là En-xcơ, nhưng hình như anh ta không buồn nghe mà cứ nói thao thao bất tuyệt. Hầu như ai anh ta cũng quen biết. Anh ta biết tất cả những ngưòí trong gia đình Bu-be-trì-cốp đã quá cố, biết dì Đa-sa, biết ông chánh án, đặc biệt là ông chánh án bởi vì chính anh ta đã đến gặp ông rất nhiều lần.

    - Ở đâu?

    - Ở tòa án quận Lê-nin.

    Trên quảng trường, bên cạnh một chiếc xe mà những người nông dân của nông trang tập thể đem bán táo và cải bắp, dì Đa- sa già nua, gầy gò cầm trên tay một cái bắp cải lớn và đang suy tính xem có nên mua hay không.

    Xa-nhi-a lên tiếng gọi dì. Dì đưa mắt nhìn chúng tôi qua cặp kính trắng với vẻ trang nghiêm đặc biệt của người già. Đột nhiên không kìm chế được nữa, dì buông tay làm rơi cây cải bắp xuống đất.

    - Xa-ne-sca! Các cháu thân yêu của dì! Sao lại thế này? Các cháu đi chợ đấy à?

    - Không đâu dì ạ. Chúng cháu đang đi về nhà đây. Dì Đa-sa, đây là nhà cháu đây ạ.

    Anh kéo tôi tới trước mặt dì Đa-sa. Thế là mọi việc buôn bán của chợ En-xcơ đều bị dừng lại. Ngay cả đến con ngựa ở góc chợ cũng rút mõm ra khỏi giỏ cỏ, thú vị nhìn tôi và dì Đa-sa hôn nhau...

    Đây là ngôi nhà của gia đình Mác-cút trên đại lộ Gô-gôn. Hai bên cửa ra vào đều có tượng sư tử. Bữa ăn sáng được tổ chức theo khẩu vị của dì Đa-sa. Sau một bữa ăn như thế mà nghĩ đến bữa ăn trưa và bữa ăn chiều có thể có trên thế giới là một việc đáng sợ. Chúng tôi đã nói chuyện với ông chánh án một lần qua dây nói. Lúc ấy ông đang dự một cuộc họp ở quận. Nghe giọng nói yếu ớt xa xôi của ông tưỏng như ông đang ở tận bên kia trái đất. Pê-chi-a con thế là đã được ba tuổi, lẽ nào những cuộc bàn cãi, những vấn đề chủ yếu như có nên cho bé ngậm vú cao su hay không và nên ru bé ngủ trên tay hay trên giường đã thành chuyện xa xưa và trôi vào quá khứ rồi ư?

    Chúng tôi tìm gặp được Pê-chi-a cha ngay trong vườn hoa Nhà thờ, ở nơi mà trước đây Xa-nhi-a và Pê-chi-a đã từng nằm chờ xem mặt trăng và các vì sao giữa ban ngày, ở đây hai ngưòi đã cùng đọc quyển “Những bức thư mẫu”. Và cũng ở nơi đây hai người đã từng “Trích máu ăn thề” với nhau.

    Pê-chi-a ngồi xếp hai chân như một nguời Thổ Nhĩ Kỳ chính cống, trên đùi để một quyển an-bom rất to. Anh ta đang vẽ cảnh Re-sét-ki, tức là chỗ mà hai con sông Pét-trm-ca và Chi-khai-a gặp nhau, và nhà thờ Pô-crốp-xki, sạch sẽ, trang nghiêm in hình lên bầu trời xanh mênh mông tràn ngập ánh nắng. Đằng sau nhà thờ, ở bờ sông bên kia là những cánh đồng nối tiếp nhau:

    - Xin lỗi, ông có trông thấy người thợ vẽ không?

    Anh ta quay đầu lại và sửng sốt nhìn chúng tôi.

    - Có một anh thợ vẽ đi qua đây, - Xa-nhi-a nói tiếp. - Anh ta mặc áo vét, mặt có nốt ruồi...

    Pê-chi-a lập tức nhảy chồm lên. Anh ta vừa gầy vừa cao, các cử chỉ đều hết sức vụng về.

    - Tròi ơi, đến rồi ư? Cả chị Ca-chi-a nữa kia à? Ôi, hay quá! Tôi mừng lắm! Này Xa-nhi-a, hãy kể chuyện đi, rốt cuộc anh từ đâu đến?

    - Mình từ nơi ấy đến.

    Chúng tôi ngồi bên cạnh tượng đài Mác-tưn chừng hai tiếng đồng hồ, sau đó đi ra phía bờ sông rồi cứ dọc theo các vườn hoa, đi khắp thành phố Thành phố trở nên xinh xắn vô cùng giữa những ngày thu. Lá cây phong trong vườn Bách thảo đỏ rực. Bên dưới vách đá, từng hàng cây ăn quả bị quét vôi trắng xóa ở dưới gốc để chống sâu, đóng thành từng hàng thẳng tắp. Đi dọc theo lối mòn mát mẻ đã bị nhiều người lãng quên này cũng là một điều thú vị.

    - Hồi nào chúng mình thường chui vào khu vườn này hái trộm táo. Cậu dọa mình là cây súng của bác gác vườn bắn ra toàn muối hạt.

    - Không phải dọa, mà đúng như thế thật. Quả là thú vị, lúc ấy chúng mình là những đứa trẻ như thế nào. chẳng hạn như cậu, cậu có nhớ không? Mình thì mình quên tiệt cả rồi.

    - Hồi ấy cậu là một ông oắt con thậl là đặc biệt. Cậu có nhớ, có lần cậu đã phịa ra câu chuyện là loài chuột cũng có một con chuột chúa không? Còn cái câu chuyện về nước Thổ Nhĩ Kỳ thì đúng là một câu chuyện hoang đường. Ngay hồi ấy cậu đã có vẻ là một nhà họa sĩ, ít ra thì cũng có thể gọi là một người làm nghệ thuật.

    - Nhưng mình thì lại cảm thấy rằng chính cậu sẽ trở thành nhà nghệ thuật. Chẳng phải cậu đã nặn những con giống rất đẹp đó sao? Tại sao nửa chừng cậu lại quăng đi thế?

    Tôi nhìn Xa-nhi-a, trong bụng phân vân không biết có nên vạch cái bí mật anh đang giấu kín ra không, nhưng như đã biết được ý nghĩ của tôi, anh lừ mắt đe dọa, thế là tôi đành lặng im. Cho đến bây giờ, những lúc rỗi rãi anh vẫn say mê nặn tượng - tất nhiên là nặn để chơi vui thôi.

    Mãi đến tối mịt ông chánh án mới trở về nhà. Tất nhiên đến giờ ấy thì chúng tôi đã đi nghỉ rồi. Đột nhiên từ bên ngoài vọng vào tiếng động cơ của ô-tô con, sau đó là tiếng bước chân của ông già thong thả nện ngoài hành lang. Ông đội chiếc mũ màu trắng, không vành, dính đầy bụi bẩn và ôm trên tay hai chiếc cặp da.

    - Này, những khách nào đến thế kia? Chờ tôi đi rửa mặt cái đã rồi sẽ vào hôn các vị sau nhé.

    Sau đó ông vào nhà bếp rửa ráy rất lâu. Dì Đa-sa kêu lên là ông làm nước tung tóe ướt cả sàn nhà, nhưng ông cứ rửa rất hăng, miệng không ngớt nói: ‘‘Khoái quá, dễ chịu quá!” Cuối cùng ông đã rửa xong, đầu tóc chải mượt, chân trần đi dép lê, mặc áo ngủ kiểu Tôn-xtôi đi ra khỏi nhà bếp. Ông lôi hai chúng tôi ra cửa ngắm nghía mãi, trước hết là ngắm tôi, sau đó tới lượt Xa- nhi-a rồi lại chăm chú ngắm tấm huân chương.

    - Khá lắm, - ông hài lòng nói. - Bốn sao à?

    - Vâng, bốn sao ạ.

    - Nghĩa là đã được thăng đến đại úy rồi?

    - Vâng, đại úy ạ.

    Ông bắt chặc tay Xa-nhi-a.

    Chúng tôi sống một đêm rất đẹp đẽ ở En-xcơ. Chúng tôi rất hiếmcó cơ hội đoàn tụ cả nhà nhưng chúng tôi đối với nhau vô cùng thân thiết. Bây giờ khi cả nhà đã được đoàn tụ, ai cùng lấy làm ngạc nhiên là tại sao mỗi người lại có thể ở một thành phố cách xa nhau đến như thế.

    Chúng tôi ngồi vây quanh bàn, nói với nhau tất cả những chuyện trên trời dưới biển cho mãi đến tận khuya. Chúng tôi cùng nhắc đến Ха-sa, bình phẩm một cách thoải mái tùy tiện về cô, tựa như cô ấy vẫn còn sống giữa chúng tôi vậy. Bé Pê-chi-a càng ngày càng lớn, càng giống mẹ như đúc: cũng đôi mắt kiểu ngưòi Mông Cổ ấy, cũng những mớ tóc đen mềm và rất dày ở hai bên thái dương ấy và mỗi khi bé cúi xuống, hai hàng mi cũng hiện ra dài và mảnh như thế...

    Xa-nhi-a bắt đầu kể về câu chuyện ở Tây Ban Nha. Một cảm giác kỳ lạ, hầu như đã bị lãng quên bao vây lấy tôi. Tôi nghe anh kể về anh mà tưởng như nghe sự tích của một người nào khác. Một lần anh cất cánh bay đi trinh sát, chợt gặp năm chiếc “gioong ke", anh liền lao vào phía chúng mà không chút ngập ngừng. Lẽ nào con người đó lại là anh thực ư? Khi anh lọt vào giữa lũ “gioong ke” kia, anh bắn tới tấp vì khoảng cách từ anh tới chúng đã quá ngắn. Lẽ nào con người đó cũng là anh thực ư? Áo kháng áp của anh đã bị bốc lửa, anh lấy găng tay che lấy mặt và lái chiếc máy bay đã bị thương hạ cánh an toàn. Sau đó một tiếng đồng hồ anh lại lái một chiếc khác đi làm nhiệm vụ. Lẽ nào con người đó là anh thực ư?

    Ông chánh án ngồi nghe anh kể rất chăm chú. Phía dưói đôi lông mày điểm bạc, hai mắt ông sáng lên với một vẻ hết sức hài lòng. Ông cầm cốc đứng lên và bắt đầu diễn thuyết - khi còn ngồi trên tàu hỏa, Xa-nhi-a đã bảo với tôi rằng thế nào ông chánh án cũng diễn thuyết.

    - Xa-nhi-a, chú không định tâng bốc cháu, mặc dù công tích của cháu rất đáng được đề cao. Cháu đã từng nói với chú rằng cháu thích làm một người lái máy bay giỏi. Lúc ấy chú có hỏi cháu: “Làm người lái máv bay quân sự phải không?” Thì cháu trả lời: “Cháu sẽ làm phi công lái máy bay Bắc cực. Và khi cần cũng có thể lái máy bay chiến đấu”. Đấy bây giờ chẳng phải cháu đã trở thành một phi công toàn diện rồi đó sao. Cháu hãy ngồi ngay trước mặt chú đây để chú nhớ lại chuỗi ngày đã qua với một niềm tự hào chính đáng của gia đình chúng ta. Chú hoàn toàn có quyền được coi cháu như con trai của chú. Nhưng mỗi khi trông thấy mặt cháu, trong đầu óc chú lại nảy ra những ý nghĩ khác nữa. Chú muốn nói đến cái lý tưởng cao cả của cháu khi cháu tự đặt cho mình nhiệm vụ đi tìm đội thám hiểm của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp. Chính cái lý tưỏng này đã sưởi ấm thời niên thiếu của cháu. Cháu đã tự đặt cho mình một nhiệm vụ cao cả là tác động vào lịch sử và sửa đổi nó theo khả năng của mình. Làm như vậy là rất đúng, chính vì vậy mà chúng ta mới là những người cách mạng Bôn-sê-vích. Bởi chú hiểu rõ cháu từ khi cháu còn bé xíu nên chú vững tin rằng không sớm thì muộn thế nào cháu cũng sẽ hoàn thành được nhiệm vụ to lớn ấy.

    Khi chúng tôi chạm cốc, Xa-nhi-a nói một câu bằng tiếng Tây Ban Nha:

    - Salud!(1)... “Cuộc du hành vào cuộc sống" coi như chỉ mới được bắt đầu. -.anh nói. - Bây giò mới biết hôm qua chiến hạm đã rời khỏi căn cứ. Tháp đèn ở phương xa hãy còn nhìn thấy rõ nó vừa đánh tín hiệu gửi lời chúc chiến hạm ra đi “Thuận buồm xuôi gió!” Trước kia tuy chúng cháu còn ít tuổi và bé bỏng nhưng đều dũng cảm. Chúng cháu đã từng bình thản bước trên những con đường tăm tối và tĩnh mịch của cái thành phố này. Vũ khí của hai chúng cháu chỉ là một con dao con kiểu Phần Lan, tức là con dao mà Pê-chi-a đã khâu cái bao dao bằng miếng da của chiếc ủng cũ ấy. Song chúng cháu có những thứ vũ khí bên trong tốt hơn nhiều. Chúng cháu tiến bước, bởi vì chúng cháu đã thề cùng nhau: “Đấu tranh và tìm tòi. quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng!”. Chúng cháu tiến bước bởi vì con đường chúng cháu đi còn chưa kết thúc.

    Xa-nhi-a nâng cao cốc, ngửa cổ uống một hơi hết sạch rồi ném mạnh chiếc cốc vào tường. Một tiếng “choang” vang lên, nhửng mảng thủy tinh văng ra tứ phía...

    Năm 1939 chúng tôi sống ở Mát-xcơ-va. Chúng tôi thường đến chơi nhà Va-li-a và Ki-ra ở ngõ Xíp-xép Vra-giéc. Căn nhà Xíp-xép Vra-giéc bây giờ đã trở nên chật chội.

    Một em bé gái béo trắng tốt tóc đuôi sam đang nằm ngủ ở gian “bếp chung”. Bé cũng có chiếc mũi to và thô cứng như của Ki-ra- mẹ bé. Trong gian nhà kho mà trước đây đã có dạo Va-li- a dùng làm phòng rửa ảnh, bây giờ đang phơi đầy quần áo trẻ con. Ở gian “bếp riêng” tí nữa thì Xa-nhi-a ngồi bên một cái bọc lớn trong đó có chú bé con có mái tóc đen rủ xuống trán. Một bộ mặt nhỏ xíu khá nghiêm trang và bệ vệ lộ ra ngoài. Xem chừng chỉ cần đeo vào cho chú bé một chiếc kính gọng đồi mồi là lập tức bé có thể đứng dậy đi nghe bài giảng về phương pháp lai giống cáo đen nâu xám.

    Cháu gái đã có thể ngâm thơ “thể hiện tình cảm”. Từ các cử chỉ và tư thái của cháu, ta cũng có thể thấy được kết quả giáo dục tận tâm của bà mẹ Ki-ra. Cách giáo dục của bà về nguyên tắc, hoàn toàn ngược lại với lối giáo dục mang nặng tính chất chủ quan tự phụ của bà Vác-va-ra Ra-bi-nô-vích.

    Những khi ở trong ngôi nhà đáng yêu ở ngõ Xíp-xép Vra-giéc, giữa các bạn nhỏ dễ thương ấy, hai kẻ lưu lạc và du hành chúng tôi đã suy nghĩ những gì?

    Tất nhiên là chúng tôỉ nghĩ đến hoàn cảnh không nhà cửa, chỉ chuyên đi sống nhờ của mình, ngay đến một gian phòng chật hẹp. chen chúc như của Va-li-a và Ki-ra đây cũng không có.

    Vì vậy, chúng tôi quyết định phải tìm cho được một chỗ ở trong thành phố Lê-nin-grát này...

    Ngọn đèn lồng lúc tỏ lúc mờ, dưới quầng sáng chao đảo của nó, lúc sung sướng, khi khổ đau.

    Một ngày mùa đông trong trẻo, chúng tôi đứng truớc một tảng đá hoa to tướng dưới chân tường điện Crem-Ianh, trên tảng đá hoa đó khắc tên một người chúng tôi hằng yêu mến. Xa-nhi-a nhớ lại một lần gặp ông ấy. Trên suốt đường đi anh suy nghĩ miên man và cố ghìm nỗi xúc động ở trong lòng. Khi đi tới chỗ trước kia anh đã có lần gặp ông, chợt anh nói bật ra như nói trong điện thoại:

    - Đồng chí TR. đây phải không? Tôi là Gri-gô-ri-ép đây.

    Tên ông được lấy đặt cho một thành phố lớn, trong đó có hàng trăm đường phố, nhà hát, vườn hoa đẹp đẽ. Việc làm ấy đã qua một năm rồi. Song tôi và Xa-nhi-a cứ cảm thấy lạ lùng thế nào ấy, lẽ nào mãi mãi chúng tôi không bao giờ còn được nghe giọng nói trầm lắng quen thuộc của ông nữa sao?

    Năm 1941, chúng tôi dọn đến Lê-nin-grát. Nếu có thể được, mong rằng đây là chuyến di chuyển cuối cùng. Chúng tôi thuê một biệt thự có ba phòng. Trong vườn nhà có giếng riêng. Ngoài ra còn có một ông già chủ nhà còn khá tráng kiện. Ông lão tự xưng là một xạ thủ cũ của nước Nga cổ xưa. Thế là Pê-chi-a liền mời ông lão ra ngồi để vẽ. Năm nay hai bốncon Pê-chi-a và bà bảo mẫu không về En-xcơ. Tất cả chúng tôi đều đến ở trong khu nhà mới này. Chúng tôi thường kéo nhau ra hồ bơi lội, dùng ấm xa- mô-va chính cống đúc bằng đồng để đun nuớc chè. Có một số phụ nữ không cảm thấy hết cái tuyệt diệu của cuộc sống yên tĩnh và đầy hạnh phúc như thế, thật tôi rất lấy làm lạ.

    Thứ bảy nào chúng tôi cũng đi đón Xa-nhi-a. cả nhà đều ra ga xe lửa chờ anh, trong đó cháu Pê-chi-a là ngưòi nóng ruột chờ gặp bác Xa-nhi-a nhất. Lần này cháu hy vọng sẽ được bác cho một chiếc thiết giáp làm bằng tôn hẳn hoi. Hy vọng của cháu đã đạt được. Xa-nhi-a cầm trên tay một chiếc chiến xa xinh xắn nhảy xuống sân ga khi con tàu chạy chậm qua trước mặt chúng tôi. Nhưng không hiểu vì sao anh vẫn cứ đi theo con tàu mãi. Đoàn tàu dừng lại, anh chìa tay ra đón một bà cụ gầy bé từ trên toa tàu bước xuống. Bà cụ có vẻ sợ sệt nhưng phong thái khá ung dung. Bà cụ cầm trong tay một chiếc ô, tay kia xách một chiếc túi du lịch nhỏ bằng vải bạt. Tôi thật không tin ở mắt mình nữa. Bà cụ ấy chính là bà tôi. Bà mặc chiếc áo vét bằng vải tuýt-xo, đầu đội chiếc mũ cói sặc sỡ. Xa-nhi-a cẩn thận và lễ phép đỡ bà, không để cho dòng người huyên náo đang cuồn cuộn chảy trên sân ga va phải...
    (1) Salud - cạn cốc. • ND.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15

Chia sẻ trang này