0060.0088

13/1/16
0060.0088
  • PDF
    GoogleDocs

    :rose::rose::rose:

    Ngựa trạm và thể lệ tối khẩn ((1) Cũng như “thượng khẩn” nhưng mạnh hơn.1) : Ngày trước, có lệnh cắm lông vũ trên cán cờ, tức là theo ý truyền vũ hịch đời xưa. Song đó chỉ chuyên dùng vào việc quân, há nên dùng phiếm ? Vậy xin từ nay, phàm các nha môn trong Kinh và các tỉnh ngoài, có việc quan hệ đến quân phải theo lệ tối khẩn thì ở trong tờ trát biên rõ 2 chữ “quân vụ”, đóng triện nhỏ vào, giao cho đội trạm lập tức đem lông cánh gà (các trạm đều chuẩn bị thứ lông cánh gà trống, dài, đẹp, dùng sợi dây khâu liền nhau, kết thành mảng to, đại khái quấn khắp ngọn cờ là đủ) cắm lên trên cái ngù đỏ ở chóp cờ, tinh tốc chạy đi như bay. Các trạm ở dọc đường cũng cứ theo thế mà luân chuyển đệ đi, còn các việc khác, bất tất cắm lông gà ấy.


    Vua chuẩn y lời bàn. Lại truyền chỉ thông sức cho các đội trạm : Ngày nào cũng sai lính trạm trông xa xa, nếu thấy vũ hịch đang phi, biết là việc quân khẩn cấp, phải lập tức chuẩn bị ngựa trạm và cắm sẵn ngay lông gà vào chóp cờ để tiếp lấy mà chuyển đệ đi liền, không được chờ đợi người lính trạm đến nơi, mới sửa soạn đến nỗi chậm trễ !


    Bố chính, án sát Bắc Ninh là Nguyễn Khắc Hài và Trần Thế Nho tâu : “Những kẻ can án đi trốn, nay ra thú đến 50 tên, xin phát đi quân thứ để trổ sức làm việc. Vua đặc cách hạ lệnh giao dân sở tại quản thúc cho yên nghiệp làm ăn. Nếu thấy nó lại nảy thói cũ, thì bắt giải để trừng trị. Ví thử tên nào có tình trạng hung ác, thì cho trước giết, sau báo”.


    Thự Tuần phủ tỉnh Hưng Hoá là Ngô Huy Tuấn tâu : “Số các hạng súng bằng gang hoặc sắt mà Nhà nước cấp cho bản tỉnh khá nhiều, nhưng không có lính pháo thủ để coi giữ. Vậy xin mộ dân ngoại tịch từ Quảng Bình trở vào Nam lấy 50 người am hiểu nghề bắn, đặt làm đội pháo thủ, đặt dưới quyền điều khiển viên Thành thủ uý”. Vua chuẩn y.


    Bọn phỉ Tuyên Quang tụ họp ở bến đò Bắc Nhự xã An Định (thuộc châu Bảo Lạc) đón cướp lương thực của thổ dõng. Việc quân báo cũng bị ngăn trở. Viên thủ bảo ở Ninh Biên báo lên tỉnh. Thự Bố chính Trần Ngọc Lâm vì thấy số binh ở tỉnh có ít, nên lập tức tư đến Sơn Tây cho điều biền binh đi đánh và uỷ người lên đường chuyển báo quân thứ Lê Văn Đức.


    Việc đến vua biết. Vua dụ : “Đại đội binh dõng của Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ thẳng đến Vân Trung, chắc nay cũng đã đánh phá được sào huyệt bọn giặc. Còn bọn ngăn trở ở đấy chẳng qua là những tên phỉ lẻ tẻ nhân kẽ hở, sinh sự đấy thôi. Nhưng chốn ấy là đường quân báo phải đi qua, trước đây, đại binh kéo đến, các thổ mục đều ra thú và quy phục cả. Một đường yên ổn phẳng lặng sao nay còn có việc cướp lương thực và ngăn chặn quân báo ! Ngươi, Trần Ngọc Lâm, phải lập tức tới gần, truyền hịch điều động các thổ ty đã từng quy phục kíp đi tiễu diệt, chớ để đến nỗi nảy sinh lan ra. Đến như những khi chuyển đệ ống văn thư chạy trạm đến quân thứ, nên nghĩ cách làm thế nào để hộ tống sớm đến quân thứ. Còn một dải ven đường từ tỉnh thành đến quân thứ, nên trách cứ thổ ty sở tại chia nhau đi tuần phòng hộ vệ.


    Tỉnh thần Sơn Tây là bọn Hoàng Văn Trạm tâu : Bọn phỉ Vĩnh Tường nay đã chạy xa. Biền binh do tỉnh phái và biền binh Hà Nội đi hội tiễu đều đã rút về nguyên ngũ.


    Vua sai bộ Binh truyền dụ : “Đề đốc Phạm Văn Điển và Lê Thuận Tĩnh nếu đã đến Sơn Tây, thì lập tức lên đường tiến đi Thái Nguyên. Hoặc giả mới đến Hà Nội cũng tuỳ tiện, thẳng tiến đến Thái Nguyên để đánh dẹp không nên lại đi Sơn Tây nữa cho thêm lặn lội vất vả. Lại, số binh hùng mạnh là Phạm Văn Điển mang đi cũng nhiều chuẩn cho Hậu bảo Nhất vệ lưu lại đóng ở Hà Nội để phòng thủ”.


    Tổng thống đạo Lạng - Bình Tạ Quang Cự, Tham tán Vũ Văn Từ và Nguyễn Thọ Tuấn tiến quân giải vây tỉnh thành Lạng Sơn.


    Trước đây, Tạ Quang Cự và Vũ Văn Từ đã lấy lại đồn Quang Lang, bọn phỉ ở đồn Đan Sa và xã An Bài liền đó cũng tan trốn. Bọn Cự bèn thẳng tiến đi Ôn Châu. Dò biết có bọn phỉ ẩn phục ở đấy, quân ta hăng hái xông lên, chém được vài đầu giặc, còn các tên khác đều chạy tan cả. Đạo quân của Nguyễn Thọ Tuấn cũng từ Lục Ngạn đến hội, đồng thời cùng tiến lên thành Lạng Sơn. Bọn phỉ được tin liền giải vây trốn đi trước : có bọn do đường phía trước Cao Bằng rút chạy, có bọn do miền núi Lạng Sơn lẩn trốn. Bọn Cự lập tức kíp đệ cờ hồng báo tin thắng trận. Nhân dò biết tỉnh thành Cao Bằng hiện đã thất thủ, bị giặc chiếm rồi, bọn Cự một mặt phái người dò thám lối trước, một mặt chiêu dụ cho dân yên nghiệp, rồi làm sớ tâu vua biết.


    Tin tâu báo đưa đến, vua rất mừng dụ rằng : “Bọn Tạ Quang Cự từ khi phụng mệnh đi trận tới nay, đến đâu, không ai địch nổi, liên tiếp thắng trận, nay lại tiến quân giải được vây cho Lạng Sơn. Công ấy không nhỏ. Tạ Quang Cự, trước đã phong tước tử, nay gia phong tước bá ; Vũ Văn Từ, Nguyễn Thọ Tuấn đều phong tước nam, để đền công khó nhọc. Tạ Quang Cự, lại được thưởng thêm 1 khẩu súng tây, song cơ điểu sang ; Vũ Văn Từ, Nguyễn Thọ Tuấn đều thưởng 1 khẩu điểu sang khảm bạc. Còn Cẩm y Cai đội Nguyễn Văn Ký lĩnh đệ cờ đỏ, thưởng gia hàm Quản cơ và 1 đồng kim tiền Phi long hạng nhỏ ; Viên ngoại lang bộ Binh là Nguyễn Hợp báo tin thắng trận, thưởng kỷ lục 1 thứ và 10 đồng ngân tiền Phi long hạng lớn. Quan quân dự đi trận ấy, thưởng chung tất cả 3.000 quan.


    “Và, nay đã được toàn thắng, tiếng quân lừng lẫy khắp nơi. Bọn ngươi nên lập tức chỉnh đốn quân ngũ kíp đi Cao Bằng tiễu trừ dư đảng giặc, rồi phải lấy cho hết đất Cao Bằng, khiến chúng sợ oai nhà vua và vỗ yên dân biên cảnh, chớ nên để chậm, lỡ việc”.


    Lại sai bộ Binh đem việc thắng trận Lạng Sơn ấy dụ khắp các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra Bắc cho đều biết cả.


    án sát Lạng Sơn là Trần Huy Phác đem tình hình tỉnh thành đã được giải vây tâu lên nói : “Từ sau khi Tuần phủ Hoàng Văn Quyền làm hỏng việc, bọn phỉ vây bức tỉnh thành thế rất hung hăng. Thần phải quyền giao cho Phó quản cơ Trung cường Đặng Văn Đinh điều khiển việc quân trong thành, chia phái quan quân cố giữ riết lấy thành. Bọn giặc, đóng nhiều chiến xa, đắp luỹ đất 4 mặt để đánh. Quân ta bắn súng giết chết được nhiều. Mỗi khi nhân bọn giặc lùi, quân ta lại lập tức đột xuất ngoài thành, phá chiến xa, đập tan thành đất, lại chém được 2 đầu giặc, bắt sống 1 tên. Kịp đến khi đại binh tiếp đến đầu địa giới, phỉ nghe tin trốn trước. Thần đã xét hỏi những tên phạm bị bắt thì chúng nói : tên tướng giặc, nguỵ xưng Đốc lĩnh tướng quân, là em vợ tên nghịch Vân, Bế Văn Huyền, cùng với Cai đội Lạng hùng, nguỵ xưng Chánh thống lĩnh Nguyễn Khắc Thước ; Thổ tri châu Thất Tuyền, nguỵ xưng Phó thống lĩnh Nguyễn Khắc Hoà ; cựu Tuyên uý, nguỵ xưng Tổng lý tham đốc Nguyễn Khắc Trương ; Cai đội Lạng hùng ngụy xưng Chánh điều bát Nguyễn Công Cừ ; Thổ lại mục châu Thoát Lãng, nguỵ xưng Đề đốc Nguyễn Đình Trực ; và bọn anh ruột Nguyễn Khắc Hoà là Nguyễn Khắc Dũ, Nguyễn Khắc Lễ, em ruột là Nguyễn Khắc Anh, Nguyễn Khắc Chiếu, Nguyễn Khắc Tín, Nguyễn Khắc Mãn, Nguyễn Khắc Vực ; các tên ấy đều nhận chức nguỵ của nghịch Vân. Chúng lại viện thêm các tướng giặc ở Quảng Yên là Dương Ba An và Hoàng ất An họp bọn để quấy nhiễu”.


    Vua dụ : “Thổ phỉ lan tràn, thừa thế xâm bức trong thành cô thế nguy ngập, không có sự phòng bị kiên cố, thế mà quan quân ở trong thành vẫn cứ gắng sức cố thủ, để đợi quân nhà vua tiến đánh, liền được giải vây. Đó cũng giống việc Hưng Hoá ngày trước. Đáng tiếc là, sau khi được giải vây, không biết mở cửa thành, đuổi cho cùng, lại để chúng chạy trốn được, thực là điều chưa làm thoả mãn được ý người ta !


    “Lại nghĩ : tỉnh thành bị vây đã lâu ngày, quân tiếp viện không có, thế bị cô lập, thế mà vẫn giữ cả thành được toàn vẹn, đứng vững không chuyển, cũng đáng khen ngợi ! Trần Huy Phác, chuẩn thưởng gia hàm Bố chính sứ, lại thưởng 1 đồng kim tiền Phi long hạng lớn và 10 đồng ngân tiền hạng lớn ; Phó quản cơ Đặng Văn Đinh điều khiển binh dõng, được thưởng thụ Quản cơ, lại thưởng 1 đồng kim tiền hạng nhỏ và 10 đồng ngân tiền hạng lớn, đều gia quân công 1 cấp ; Phó quản cơ Lạng Sơn là Lê Văn Thông, chống giữ một mặt ; Thành thủ uý là Hoàng Văn Yên phòng giữ đồn núi đất ở góc phía chính nam, đều thưởng gia hàm Quản cơ, lại thưởng 8 đồng ngân tiền hạng lớn. Còn suất đội, thổ tri châu, lại mục đều thưởng ngân tiền có thứ bậc. Binh, dân và thổ dõng, thưởng chung tiền 1.000 quan”.


    Vua nhân bảo thị thần : “Từ xưa có nước chưa từng không có giặc cướp. Nhà Thanh cũng có giặc cỏ, đánh phá 1, 2 tỉnh thành, phải gọi quân các tỉnh khác đến đánh, mấy tháng rồi sau mới thu phục được, chứ không riêng một nước ta thế đâu, há phải giấu giếm về việc có giặc cướp ? Ngày nọ, nghe tin Lạng Sơn bị bao vây bức bách mà tỉnh thành chưa được hoàn hảo củng cố, ta lấy làm lo, chẳng ngờ lại có thể giữ được, thì giặc ấy chỉ là bọn nhỏ mọn tầm thường, chứ đâu có dữ tợn như tên nghịch Khôi ở Phiên An ?”


    Sai Hà Nội vận tải bạc kho (200 lạng) đến Tuyên Quang ; Bắc Ninh vận tải muối, gạo (muối 50 phương, gạo 3000 phương) đến Lạng Sơn.


    Vua cho rằng thổ phỉ Lạng Sơn đã bị quan quân đánh tan, mà tỉnh hạt Quảng Yên đều được yên ổn, bèn dụ hạ lệnh cho thuỷ quân Nam Định phái đi trú phòng trước đây đều thả cho hồi ngũ hết.


    Tổng đốc đạo Thái Nguyên là Nguyễn Đình Phổ đem binh và voi tiến đi Chợ Chu và Chợ Mới, đuổi bắt bọn giặc trốn, rồi làm sớ tâu lên.


    Vua sai truyền dụ : “Đề đốc Phạm Văn Điển và Lê Thuận Tĩnh, khi đến Thái Nguyên, tách riêng làm một đạo tiến đánh thì Nguyễn Đình Phổ bất tất lại theo điều khiển nữa. Tả hậu Nhị vệ quân Hổ oai thì cho theo Nguyễn Đình Phổ, Cường võ vệ thì theo bọn Phạm Văn Điển, khiến cho có sự thống thuộc rõ ràng”.


    Thự Tuần phủ Biên Hoà là Vũ Quýnh tâu : “Thủ sở An Lợi thuộc hạt Biên Hoà đối ngang với bến Trọc Giang ở Gia Định, có một con đường rừng có thể thông với các vùng thượng thuộc các tỉnh Bình Thuận, Khánh Hoà, Bình Định, Phú Yên. Vậy xin đem biền binh đến đấy, đóng đồn phòng thủ để ngăn chặn bọn giặc chạy trốn”.


    Vua dụ : “Nay bè lũ nghịch Khôi, khốn giữ cô thành. Quan, quân ta vây đánh bốn mặt. Hương dõng và nghĩa dân sở tại thề đồng tâm giết giặc. Sự thua mất của chúng có thể đứng đợi được. Chúng sao còn có thể bay đến đấy mà trốn thoát ư ? Ngươi bất tất quá lo. Nếu cho nơi ấy đối ngang với Trọc Giang, đường rừng đi thông được, thì liệu phái hơn 100 biền binh do một Quản cơ quản lĩnh, theo địa phận tấn sở mà phòng giữ, ngăn chặn là đủ rồi. Tỉnh ngươi vừa mới thu phục được, cần phải vỗ yên nhân dân, sửa sang mọi việc là điều cốt yếu hơn hết. Ngươi nên lưu lại ở tỉnh, trù tính lo liệu, mong cho các việc đều thành công, nhân dân được vui vẻ yên nghiệp. Ngươi chớ nên rời xa ở ngoài, sợ thế khó trông nom kiêm cả được”.


    Quýnh mới phái Phó quản cơ cơ Biên Hoà là Tôn Thọ Minh đem 100 lính cơ đi đóng giữ thủ sở An Lợi.


    Cất bổ Tú tài Thái Nguyên là Đinh Văn Dũng làm Tư vụ bộ Lại.


    Dũng, trước đây qua kỳ sát hạch, được đỗ ; có chỉ bổ dụng làm Huấn đạo. Đến đây bộ Lại nghị bổ. Vua cho rằng văn phong tỉnh Thái Nguyên mới nhóm lên, muốn nâng đỡ, cất nhắc để khuyến khích nhân tài, nên đặc cách trao cho chức ấy.


    Cho Giáo thụ phủ Thiệu Hoá Phạm Trọng Tuyên thăng thự Đốc học tỉnh Vĩnh Long.


    Tướng giặc Hà Tĩnh là Phan Bô họp đảng lén lút nổi lên ở huyện hạt Thạch Hà. Bộ biền Phó quản cơ Văn Đình Dưỡng đem binh đuổi bắt. Đến núi xã Bạng Châu, tên Bô thình lình xông ra cự chiến, biền binh có người bị giết và bị thương. Việc đến vua biết.


    Vua bảo bộ Hình : “Cứ theo những lời tâu, bọn cướp chỉ độ 5, 6 chục tên, mà binh ở tỉnh phái đi đến hơn 100 người, thế mà đã không bắt được 1 tên cướp nào, lại bị chết và bị thương, thì việc đi bắt giặc thực là vô tích ! Vậy Văn Đình Dưỡng, lập tức xử phạt ngay 100 trượng. Vả lại, nơi ấy cách tỉnh thành không xa, mà chúng dám công nhiên tụ họp chống cự quan quân thì cũng đã biết rằng quan tỉnh ngày thường không biết nghiêm sức cầm phòng. Vậy viên Hộ lý Tuần phủ Lê Dục Đức trước giáng 2 cấp, án sát Cao Hữu Dực giáng 1 cấp, nhưng bắt đi tuần tra, dẹp yên giặc cướp theo đúng kỳ hạn”.


    Bộ Binh tâu : “Quan chế về ban võ cai đội các quân, trật Tòng ngũ phẩm, Chánh đội trưởng suất đội, trật Chánh lục phẩm, nguyên các thành trấn cai đội trật Chánh lục phẩm, Chánh đội trưởng Suất đội, trật Tòng lục phẩm. Nay Nam Kỳ và Bắc Kỳ chia đặt làm tỉnh hạt. Trong các vệ, cơ, đội được đổi lệ thuộc vào tỉnh, có hạng trước là cấm binh, có hạng trước là các quân tinh binh, lại có hạng gần đây mới đặt thêm, nếu nhất khái cứ theo trật cũ thì quan danh trong quân hiệu, không phù hợp với lệ đã có. Nếu bắt cùng theo lệ thuộc tỉnh, thì trong đó có 3 hạng là giản điểm ((1) Giản điểm : lựa chọn mà lấy.1), lưu trừ ((2) Lưu trừ : lưu lại mà dùng.2) và triệu mộ ((3) Triệu mộ : Gọi ra mà tuyển mộ.3), mà trong ba hạng ấy lại có nhóm hợp lại thành toàn cơ, cũng có nhóm số đội lẻ tẻ. Vậy, nên xét lựa bàn định cho có phân biệt.


    “Vậy xin : Phàm các cơ, đội được đổi lệ thuộc vào các tỉnh, các cơ nào họp đủ 10 đội, mà nguyên là hạng giản điểm và hạng lưu trừ, thì cùng với hạng tuy là triệu mộ, nhưng ngạch cũ thuộc các quân Thần sách thì viên Suất đội, chiểu theo lệ chư quân : Cai đội, trật Tòng ngũ phẩm ; Chánh đội trưởng, trật Chánh lục phẩm. Còn các cơ đội lẻ tẻ, số binh không nhiều, thì không kể là lưu trừ, giản điểm hay triệu mộ, cùng với cơ nào đủ 10 đội, mà nguyên là triệu mộ đặt thêm, thì viên Suất đội cứ chiếu theo lệ các thành, các trấn cũ : Cai đội, trật Chánh lục phẩm, Chánh đội trưởng, trật Tòng lục phẩm.


    “Lại nữa, danh hiệu quan chức trong Trung vệ và Tiền vệ hộ lăng ở Kinh bị xếp vào dưới hàng Thần sách, từ khi đổi xếp vào dưới hàng chư quân, thì các viên Suất đội, cũng nên chiếu theo phẩm trật của chư quân”.


    Vua chuẩn y lời bàn ấy.


    1 - Chiếu theo lệ chư quân :


    Bình Định : Định dũng cơ.


    Nghệ An : Trung thuỷ cơ.


    Thanh Hoa : Tả thuỷ cơ.


    Ninh Bình : Tiền, Tả hai cơ.


    Hà Nội : Thuỷ cơ, Hà thanh cơ, Nghiêm dũng cơ, Thiện võ cơ.


    Nam Định : Thuỷ sư Trung, Tả, Hữu ba cơ, Tráng uy cơ, Lạc dũng cơ.


    Hải Dương : Thuỷ sư Tả, Hữu hai cơ, Chính võ cơ.


    Bắc Ninh : Cự uy cơ.


    Sơn Tây : Võ dũng cơ.


    2 - Chiếu theo lệ các thành, các trấn tước :


    Quảng Bình : Tuần thành vệ.


    Quảng Ngãi : Thuỷ cơ.


    Phú Yên : Thuỷ cơ.


    Các đội pháo thủ ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, Thanh Hoa, Hà Nội, Nam Định.


    Các tượng cơ các tỉnh :


    Gia Định : Gia thuận cơ.


    An Giang : An viễn cơ.


    Nghệ An : An thuận hai cơ.


    Nam Định : Nam định cơ, Hướng thiện đội.


    Bắc Ninh : Bắc thuận cơ.


    Lạng Sơn : Hiệu thuận cơ.


    Quan tỉnh Sơn Tây là bọn Hoàng Văn Trạm tâu : “Ngày nọ, bọn phỉ Thái Nguyên xâm lấn sang huyện hạt Sơn Dương. Quân phủ Đoan Hùng đuổi đánh, phỉlại theo miền rừng núi Thái Nguyên trốn đi. Thần đã tư đến Hà Nội chuyển báo cho bọn Đề đốc Phạm Văn Điển tiến thẳng Thái Nguyên. Lại, biền binh ở Hổ oai Trung vệ đến tỉnh, thần đã trích lấy 200 người, giao cho Phó quản cơ Nguyễn Tiến Vạn đem đi Tuyên Quang làm việc bắt giặc”.


    Vua dụ : “Hạt ngươi hiện nay hơi được yên, đã có biền binh ở Tiền bảo Nhị vệ đủ giúp việc phòng thủ. Vậy Hổ oai Trung vệ, trừ 200 người đã phái đi Tuyên Quang còn thì lập tức cho về nơi đồn thú cũ ở Ninh Bình”.


    Hộ lý Tuần phủ Ninh Bình là Lê Nguyên Hi tâu : “Bọn phỉ lẩn trốn ở phủ hạt Thiên Quan, nghe tin các tỉnh bên có biến động, chúng lại mưu đồ họp đảng gây sự. Thần đã sức cho Quản phủ Vũ Thế Giới đem binh đi dẹp”.


    Vua dụ quở rằng : “Khắp hạt Thiên Quan, chính ngươi Lê Nguyên Hi, đã từng đem binh đi kinh lược, lại phái biền binh đi tuần tiễu bắt phỉ, thế mà nay lại còn bọn phỉ trốn ấy rủ nhau tụ họp, thực là việc cầm phòng không nên công trạng gì ! Vậy ngươi phải gia tâm thế nào, đốc sức các võ biền có nhiệm vụ đi bắt giặc, phải tầm nã đánh dẹp cho tuyệt hết cái mầm ác đi. Nếu vâng mệnh thi hành mà bất lực, để chúng còn dám quấy nhiễu, sẽ bị lỗi không nhỏ đâu !”.


    Bố chính Hải Dương là Trần Văn Tuân tâu : “Binh ở tỉnh nhiều lần phái đi Tuyên Quang, Thái Nguyên làm nhiệm vụ bắt giặc, trong đó có người bị bệnh phải đổi về hàng ngũ ở tỉnh. Vậy xin cấp cho thuốc công, để giúp việc điều trị”.


    Vua chuẩn y và dụ các tỉnh Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Quảng Yên đều chiểu theo lệ ấy thi hành.












    Chính biên



    đệ nhị kỷ - quyển cxII



    thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế



    Quý Tỵ, năm Minh Mệnh thứ 14 [1833], mùa đông, tháng 11.


    Tổng đốc quân vụ đạo Tuyên Quang Lê Văn Đức, Tham tán Nguyễn Công Trứ tiến đánh tổ giặc ở Vân Trung.


    Trước kia, quân ta từ đồn Ninh Biên chia đường tiến lên, đạo quân Lê Văn Đức đi bên hữu sông Lô : qua nơi nào cũng có đồn giặc dựa chỗ hiểm, đón phục kích. Quan quân hăng hái tiến đánh, hoặc bắt, hoặc chém, giặc đều bỏ đồn chạy. Duy có một dải núi xã Văn Lãng vốn có tiếng rất hiểm (nơi núi ấy, vách đá đứng sững, cao vót, cây cối um tùm. Phía tả dòm xuống sông Gâm, sâu dường không đáy. Đường đi, quanh sườn núi lượn bờ sông, ngoằn ngoèo như ruột dê, hun hút như chim bay, quân tiến rất khó. Khoảng đời nguỵ Tây ((1) Tức là nhà Tây Sơn ; Thực lục đứng trên lập trường là tôi con nhà Nguyễn, nên chép Tây Sơn là “nguỵ”.1) người cha tên nghịch Vân là Nông Văn Liêm và bác ruột là Nông Văn Khoan, ẩn phục ở đấy bắn súng và dùng cả máy đá đánh sụt đá xuống, biền binh của Nguỵ Tây đi đến đấy bị giết hại không kể xiết). Bọn giặc ước 500 tên tụ ở đỉnh núi, còn thì rải rác dăm ba tên chia ra mai phục ở bụi cây, chân núi, rình kẽ sơ hở, bắn súng và ở sườn núi vần đá ném xuống. Đức đốc suất đem súng đại luân xa và súng quá sơn nhằm vào trong bụi rậm bắn phá. Lãnh binh Nguyễn Văn Quyền đem binh dõng xông lên trước gắng sức đánh dẹp, giết giặc rất nhiều. Quân ta cũng bị thương, bị chết. Giặc lui một bước, quân ta tiến một bước. Tự giờ Thìn ((1), (2) Thìn : khoảng 8, 9 giờ. Mùi : khoảng 13, 14 giờ.1) đến giờ Mùi (2) , mới có thể đi qua được chỗ hiểm. Giặc tan vào rừng, ở phía sau phố này có 1 đồn lớn. Khi quân ta mới đến, giặc bắn vài phát súng rồi chạy. Quân ta đuổi bắt được một tên, mới biết tên nghịch Vân từ sau trận thua ở Tuyên Quang lại từ Thái Nguyên đi Cao Bằng gây sự, còn sào huyệt chúng vẫn ở Vân Trung chỉ giao cho đồ đảng giữ đấy thôi.


    Đức mới phái binh đi tuần tiễu, thấy vài mươi người mặc quân phục, kíp gọi đến, thì là biền binh thua trận Cao Bằng. Đức hỏi, biền binh đều nói : “Ngày mồng 2 tháng 9, nguỵ xưng Thống chế Bế Văn Cận bổ vây đồn núi, nghịch Vân tiến đến, đánh càng gấp. Trong đồn, thuốc đạn gần hết ; ngoài, không có viện binh. Ngày mồng 5 tháng 10, Bố chính, án sát Cao Bằng và Lãnh binh Lạng Sơn đều tự tử, còn biền binh đều bị bắt cả. Nghịch Vân bèn giao cho Bế Văn Cận đóng giữ tỉnh thành. Chúng trích lấy hơn 200 người biền binh đặt dưới quyền đốc suất của nguỵ Tham tán Trần Quyền (Quyền trước là Thư lại phòng Hình ở Tuyên Quang, trốn việc, đi theo làm thư thủ cho nghịch Vân) và nguỵ Tham luận Vũ Văn Nho (người phủ Hoài Đức) coi quân đốc suất, cùng về châu Bảo Lạc. Vừa đến chân núi Ngọc Mạo, giặc nghe tin quan quân ta đã đến Vân Trung, nghịch Vân bèn ẩn phục ở đấy, sai bọn Trần Quyền đi thám. Bọn biền binh kia đi trước, còn thì hãy tụ tập ở lối sau”.


    Đức lập tức mật bảo chúng kíp trở lại làm nội ứng, quân ta theo đi, bắt sống được Vũ Văn Nho, chém được Trần Quyền và 2 đầu trong bọn chúng nữa. Trận thua ở Cao Bằng, biền binh có hơn 170 người quay về với quan quân.


    Đạo binh Nguyễn Công Trứ do phía bên tả sông Lô tiến đi ; đến đâu thì phía trước, giặc cũng đã trốn đi rồi. Duy đến miền núi xã Mậu Duệ, gặp giặc, giao chiến, bắt sống và chém được vài tên, còn thì chạy trốn cả. Tổng lý sở tại phần nhiều đến cửa quân xin thú và quy phục. Man trưởng Mèo Trắng là Chúc Văn Đồng cũng đốc suất 100 người dân Man, lệ thuộc theo đi, gắng sức làm việc ; cách vài ngày, đạo quân Công Trứ cũng đến Vân Trung, hội quân với Lê Văn Đức, rồi liệu lượng để Phó lãnh binh là Tống Văn Uyển và nguyên án sát được đi trổ sức làm việc để chuộc tội là Lê Bỉnh Trung, coi quản 300 binh dõng đóng lại ở Vân Trung, hẹn ngày cùng tiến đến núi Ngọc Mạo dẹp giặc. Bọn Đức làm sớ tâu lên.


    Vua bảo bộ Binh : “Trước đây, bọn Lê Văn Đức thống lĩnh đại đội binh dõng, tiến đi giải vây Tuyên Quang, đánh 1 trận thành công ; thế mà không thừa thắng đuổi riết, lại từ tỉnh thành đến đồn Ninh Biên, việc hành quân có chậm trễ nhiều. Lại, từ Ninh Biên đến Vân Trung, tính đường đi chỉ 6, 7 ngày, vậy mà quân đi kéo dài đến hơn 1 tuần. Cho nên nghịch Vân có đủ thì giờ qua Thái Nguyên đi Cao Bằng để gây sự. Đến nỗi Cao Bằng vì đó mà thất thủ, còn gia quyến bọn chúng cũng trốn trước, quân ta không bắt được 1 tên nào. Bọn Lê Văn Đức không thể chối lỗi được.


    “Nhưng nghĩ : cuộc hành quân này, núi khe hiểm trở, đường sá lặn lội, khó nhọc rất nhiều, thế mà đốc suất được binh dõng mạo hiểm, xung phong, đi đến đâu giặc đều tan rã. Công nhiều, lỗi ít, cũng không thể xoá mất được công lao. Vậy thưởng cho Lê Văn Đức gia quân công 1 cấp, Nguyễn Công Trứ gia quân công kỷ lục 2 thứ. Cùng đi trận này, Lãnh binh Nguyễn Văn Quyền rất đắc lực, cũng gia quân công 1 cấp. Còn từ Lãnh binh trở xuống đến Suất đội đều thưởng gia quân công kỷ lục 1 thứ. Binh dõng và thủ hạ, đợi sau khi kéo quân về, sẽ hậu thưởng : người nào chém được 1 đầu nguỵ Tham tán, thưởng bạc 20 lạng, bắt sống được 1 tên nguỵ Tham luận, thưởng 5 lạng ; còn đều 2 lạng.


    “Vả lại, nay đại binh đã đến tận tổ giặc, oai danh lừng lẫy khắp cả. Tên thủ nghịch Nông Văn Vân hiện trốn ở miền núi Ngọc Mạo, ngươi nên truyền dụ cho Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ phải đốc thúc binh dõng hết sức lùng bắt. Nếu bắt được nghịch Vân và con trai hắn thì lập tức đóng cũi, xe giải về Kinh, làm hết cách trừng trị. Còn vợ cả, vợ lẽ, con trai con gái và họ hàng chúng thì giết hết đi. Phàm các tài sản của giặc mà ta bắt được, duy có đồ vật của công và binh khí thì nộp vào kho, còn thì đều dùng làm phần thưởng để thưởng quan quân.


    “Lại, khi Chỉ dụ lần lượt đến nơi, nếu đã bắt được Nông Văn Vân ở núi Ngọc Mạo rồi thì cứ theo chỉ dụ trước, đi tắt đến Cao Bằng và Lạng Sơn, hội binh, hát khúc khải hoàn, kéo về, cố nhiên là tốt rồi. Hoặc giả sau khi san bằng sào huyệt bọn giặc, vì theo chỉ dụ sau nếu trót đã đem quân về nửa đường rồi thì thôi, không cần phải đi nữa, sợ đến nỗi biền binh lại bị cảm mạo lam chướng. Nếu tiếp được dụ này đến mà đại binh còn ở núi Ngọc Mạo lùng bắt tên thủ nghịch, thì không hề gì, cứ lưu ở đấy hàng tuần, gia tâm nghiêm đốc binh dõng, nghĩ nhiều cách tầm nã cho kỳ được tên Nông Văn Vân để làm cho ra án, tuyệt hẳn sự lo cho biên giới mãi mãi, rồi sau hãy kéo quân về. ấy là công rất lớn không gì bằng, ta tất thăng thưởng vượt bậc, để đền công lao”.


    Lại dụ Nội các : “Cứ trong lời tâu kèm của bọn Lê Văn Đức, thì Bố chính, án sát Cao Bằng và Lãnh binh Lạng Sơn đã tử tiết vào ngày mồng 5 tháng 10 rồi. Vả lại, từ khi thổ phỉ gây sự đến nay, họ chỉ có một mực rút lui, đến nỗi thế giặc lan rộng, ngày dần vây bức, thực là không thể chối tội được. Huống chi lương chứa ở kho tỉnh hiện hãy còn đầy đủ, mà nơi đồn núi lại hiểm, có thể dựa được, cớ sao vừa mới bị vây hơn 1 tháng, họ đã không giữ nổi đến nỗi phải quyên sinh. Vậy, còn kho tàng kia thì sao ? Bọn họ tuy rảnh mình đó thôi. Khép vào trách nhiệm bề tôi phải giữ đất đai, thì họ chết cũng chưa hết tội ! Lại nghĩ gây nên vụ án trọng đại này, là
  • Chia sẻ trang này