01. Superlazy (done)

18/7/15
01. Superlazy (done)
  • CHƯƠNG I

    NƯỚC MỸ VÀ TRIẾT HỌC MỸ

    1. THỜI KỲ THUỘC ĐỊA

    Lịch sử nước Mỹ là tiếp tục của lịch sử Châu Âu ở một lục địa khác. Kể từ khi những thổ dân Indien có mặt ở vùng đất này cho đến ngày nay, lịch sử đó đã kéo dài hơn bốn thế kỷ. Trong hai thế kỷ đầu, về cơ bản, lịch sử đó được qui định bởi quá khứ và hiện tại của thế giới cũ. Nhưng trong hai thế kỷ sau, nó có một vai trò to lớn trong sự biến đổi của phương Tây.

    Những thổ dân Indien là những người Mỹ đầu tiên. Cho đến những năm 1970 - 1980, những người từng bị gọi là “những con cái của Babel, bọn satan hung ác, con cháu của Israel...” đã được thừa nhận là những người bản địa. Sự khẳng định tính cổ xưa tuyệt đối của những cư dân sống ở thế giới mới này đã củng cố thêm quyền của những thổ dân đối với quê cha đất tổ của họ.

    Từ thế kỷ XVII, tiếp theo những người Tây Ban Nha là những người Pháp, người Anh, tạo nên những làn sóng di dân ồ ạt kéo đến nước Mỹ. Việc di dân tới Bắc Mỹ và Nam Mỹ được thúc đẩy bởi những mơ ước gồm hai mặt: cuộc săn đuổi, đi tìm vàng và ý muốn truyền đạo cho những “kẻ man rợ” và tìm nơi ẩn náu cho tự do tôn giáo.

    NGƯỜI MỸ MỚI

    Từ năm 1700 đã có 12 trong số 13 vùng di dân sau này trở thành liên bang Mỹ. Đáng chú ý vùng di dân ở Plymouth (New England), những người sáng lập là những người bất đồng với giáo lý của Thanh giáo do đó đã cắt đứt quan hệ với Giáo hội Anh. Họ có tham vọng xây dựng ở miền đất mới này cả một lâu đài Cơ Đốc giáo tuyệt đối trung thành với Phúc âm.

    Trước khi bước chân xuống bờ biển Mỹ, một bản khế ước (May flower) đã được ký kết nói lên sự trung thành đối với vua, và với các luật lệ địa phương. Bản tuyên bố đó được nhiều vùng di dân khác kế tục. Và hơn một trăm năm mươi năm, nó mang trong lòng nó mầm mống nền độc lập của Hiến pháp liên bang và của nước cộng hòa Mỹ.

    Trong những vùng di dân, người ta thấy xuất hiện những lối sống được tổ chức theo những nguyên tắc chưa hề có ở Châu Âu. Những cộng đồng này đương nhiên chưa gọi được là “dân chủ” vì đây cũng đã có những tầng lớp trên như nhà buôn, chủ tàu, giáo sĩ, địa chủ nhưng những quan hệ đó không quá gay gắt như ở quê cũ Châu Âu. Người ta thấy ở đó tính năng động xã hội khá rõ với việc thừa nhận giá trị nhân, ở những vùng biên giới do những điều kiện sinh hoạt khá khắc khổ, ý thức sâu sắc về bình đẳng, kể cả bình đẳng của phụ nữ cũng đã được thừa nhận.

    Một sự phồn vinh tương đối đã xuất hiện ở các vùng di dân. Ở đó ít thấy cảnh thất nghiệp của người nghèo mà cũng không thấy những thói ăn không ngồi rồi của kẻ giàu sang. Những vùng di dân đó được xem là của người Anh nhưng không còn là của nước Anh. Trong Những bức thư của những người nông trại Mỹ, J. Hector St. John de Crevecoeur, một người lập nghiệp ở tỉnh New York từ năm 1759, đã viết rằng sau khi đã trải qua nhanh chóng số phận của người Indien và người da đen, “người Mỹ đã là một con người mới”.

    WILLIAM PENN - NHỮNG CỘNG ĐỒNG KHÔNG TƯỞNG

    Bây giờ chúng ta thử đi vào một cộng đồng của những con người Mỹ mới đó đã ra đời từ thế kỷ XVII và từ đó tạo thành một truyền thống. William Penn đã lập ở Pennsylvania một cộng đồng làm nơi ẩn náu chống lại sự cố chấp tôn giáo và thiết lập một hình thức chính phủ dân chủ. Ở đây người ta bắt gặp tính cởi mở và tinh thần khoan dung trái với sự cuồng tín của tín đồ Thanh giáo. Tổ chức của ông như một yếu tố quá độ giữa tư tưởng cách mạng Anh và chủ nghĩa cộng đồng tôn giáo Mỹ. Trong công cuộc chinh phục biên giới mới, những tư tưởng về thiên đường trên trái đất đã hòa trộn với những động cơ trần tục.

    Cần dừng lại lâu hơn ở sáng kiến này của William Penn, bởi vì hơn bất cứ nước nào trên thế giới, Mỹ là nơi thích hợp cho những loại thí nghiệm về những cộng đồng không tưởng rất đa dạng.

    Từ sáng kiến do W. Penn mở đường trong lịch sử phong trào cộng đồng mang bản sắc Mỹ cho tới thời kỳ hiện đại, người ta sẽ thấy có hai khuynh hướng sau đây:

    Một khuynh hướng tôn giáo muốn tìm kiếm một Jerusalem trên trời, hoặc muốn thiết lập một vương quốc của Chúa ngay trên đất này. Lý tưởng pha trộn thần thoại và không tưởng.

    Hai khuynh hướng trần thế thuộc những nhóm Shaker (hiện nay không còn nữa), nhóm Rappite và Amish hay phong trào Phản văn hóa chống đối sự bóc lột của công nghiệp và bác bỏ sự sùng bái kỹ thuật và những tiện nghi do nó tạo ra.

    Trong khuôn khổ của tôn giáo, tư tưởng Mỹ ở thời kỳ này là thần thoại và siêu hình học Calvin.

    COTTON MATHER VÀ QUỶ THẦN HỌC

    Những người đại diện cho chủ nghĩa Thanh giáo Anh trong thời kỳ này là ba thế hệ của mục sư Cotton Mather. Họ chỉ sợ quỷ thần và họ tố cáo chúng. Chủ nghĩa cơ đốc của họ là một học thuyết về thảm họa hơn là một sự cứu rỗi.

    Richard (1596 - 1669) đến Mỹ năm 1635, ông cho rằng sao chổi là dấu hiệu của thảm họa. Bản dịch những thánh thi là cuốn sách đầu tiên được in ở New England nhằm loại bỏ những “mưu đồ vô bổ và đơn giản” của sách kinh ở Anh.

    Con ông là Increase Mather (1639 - 1723) đã nhân danh sự thần trị chống lại những xu hướng tự do đương thời. Ông tin vào những người phù thủy, ông là chủ tịch đầu tiên của trường Harvard và người ta coi ông - là người Mỹ đáng kính trọng nhất ở thời kỳ thuộc địa.

    Người tiếp theo là Cotton Mather con của Increase (1663 - 1728) là người viết cuốn sách kinh điển về tai họa “Wonders of Invisible World” (1693) (Kì tích của thế giới vô hình). Cuốn sách cũng muốn chứng minh cho cuộc đàn áp nổi tiếng những người phù thủy ở Salem (1692). Những kỳ tích mà Cotton Mather miêu tả, ví như những sao chổi là “những đuôi của Satan đen tối”. Tác giả cho rằng phải đặc biệt chống lại nó bởi vì không ở nơi nào như ở New England bị quỷ quấy rối nhất. Ông coi triết học như là “sự khôn ngoan của kẻ điên rồ”, đạo đức học như “đồ vặt vãnh làm mất thì giờ”. Ông khuyên sinh viên ở Harvard và ở Yale rằng “chớ có nghe cái ông Aristote đầu đầy bùn ấy, cái người làm ra xà phòng chỉ bán có khói”.

    Ý kiến của ông về đời sống trên trái đất cũng đối lập với khoa học. Ông dạy người ta rằng ếch nhái sinh ra từ bùn, từ nước, chim chóc mọc ra từ cây... Người ta còn giữ bốn trăm bài viết của ông. Dù sao ông được coi là một trong những “nhà tư tưởng” có nhiều ảnh hưởng đương thời. Những nhà sử học đánh giá ông rằng trong lịch sử Mỹ, ông là một sự pha trộn nổi bật nhất giữa tri thức khoa học và những điều lầm lạc, những “điều nhảm nhí'”.

    Khi ông đi theo một phương pháp coi Kinh thánh là nguồn gốc lớn của mọi tri thức thì ông đã tương hợp với nhiều nhà trí thức đương thời. Đến cuối thế kỷ XVIII mà Charles Chauney, hiệu trưởng trường Harvard vẫn dạy sinh viên rằng vật lý học, thiên văn học và chính trị “với nghĩa chân chính đều là kiến thức thần học, kiến thức nảy sinh từ Kinh thánh”. Và cả nhà triết học Ethan Alien cũng tự hào nói rằng nguồn gốc duy nhất triết học của mình là Phúc âm, Phúc âm là một cuốn từ điển.

    JONATHAN EDWARD - ĐỐI MẶT VỚI THỜI ĐẠI ÁNH SÁNG, TỰ DO

    J. Edward (1702 - 1758) ngày nay vẫn được kể là nhân vật nổi tiếng của nước Mỹ. Tác phẩm của ông mang tên Freedom of the Will (1754) (Tự do ý chí) nói về sự khác biệt giữa cưỡng bức và động cơ. Trong những năm 20, người chủ nhiệm một khoa thần học đã viết về vấn đề nói trên của ông như sau: “Sai lầm lớn mà Edward đã mắc phải là ở chỗ ông đã theo đuổi như một mơ tưởng không đúng thể hiện qua các bài viết, đó là lập trường đối với Chúa đối lập sự hy sinh của loài người. Ngày nay thời kỳ của chủ nghĩa Tin lành mới, của nhà thần học và nhà triết học Mỹ Niebuhr, chủ nghĩa chống tự do và chủ nghĩa chống hiện đại của Jonathan còn nhiều tính thời sự. Nhà xuất bản những tác phẩm của ông gọi ông là “nhà triết học và thần học lớn nhất có nhiều tác dụng”. Còn có một nhà sử học đã coi ông “có lẽ là nhà triết học Mỹ lớn nhất”. Jonathan Edward đã xây dựng một hệ thống rộng lớn và lôgic từ những chủ đề của chủ nghĩa Catholic Calvin đã thống trị tư duy Mỹ cho tới thế kỷ XIX và ngày nay vẫn tiếp tục giữ địa vị đó.

    Người ta bắt gặp những từ có chất thơ thể hiện cái đẹp của thế giới ẩn nấp đằng sau cái đẹp, đó là Chúa Trời mà uy quyền gợi lên sự khiếp sợ. Thường thường tôi ngồi ngắm nhìn vầng trăng và trong nhiều ngày, tôi dành nhiều thì giờ nhìn mây, nhìn trời để cuối cùng nhìn thấy vinh quang ngọt ngào của Chúa Trời, tôi khẽ ca hát những sự chiêm ngưỡng Chúa của tôi, người sáng tạo và cứu rỗi. Và trong những hình thức của tự nhiên, không có gì dịu dàng đối với tôi như sấm chớp. Tôi lắng nghe giữa sấm sét tiếng oai nghiêm và rất sợ của Chúa”. Cũng trong thời kỳ này, Franklin đã khám phá ra thu lôi. Nhà sử học Gustav Mueller đã bình luận về sự việc này.

    Ở Jonathan Edward, Chúa Trời đã trở thành rất cụ thể như trong câu sau đây: “Chúa cầm người trên hầm địa ngục như người ta cầm con nhện hay một con côn trùng tởm lợm nào đó trên ngọn lửa. Chúa khinh khi người, bất chấp người một cách dữ dội, sự thịnh nộ của người cháy lên như ngọn lửa”. Như vậy là Chúa không thể hiểu được, người ta không thể làm người nguôi giận được. Sự an toàn không thể có mà chỉ có một mong đợi là được cứu vớt. “Chúng ta là những đứa trẻ trong một căn nhà lửa cháy, không một ai trong chúng ta cảm thấy an toàn nhờ có được những đức hạnh trần thế hay những niềm tin chính thống”.

    Cuộc đời của Edward là một con đường kỳ lạ. Trong hơn hai mươi năm, ông đứng đầu một cộng đồng ở New England gồm hai trăm gia đình. Họ đoàn kết thương yêu nhau cho đến lúc chán nhau. Một hội những nhà truyền đạo cử ông tới biên giới miền Tây Massachusetts để giảng Phúc âm cho người Indien. Ông là một nhà truyền đạo nhiệt thành, ông gặp Cotton Mather ở chỗ cho rằng quỷ hoạt động dữ dội tại vùng này. Lo sợ trước tiến bộ của đạo Cơ Đốc trong thời Constantin, quỷ đã phải tìm nơi ẩn náu ở Mỹ. Những hình ảnh đen tối về Mỹ do Cotton Mather và Jonathan Edward vẽ ra đã trở thành những tiền nhân của nhiều hình ảnh của Mỹ chỉ là hợp lý ở bề ngoài. Trước khi mất, ông là chủ tịch trường New Jersey (sau này là đại học Princeton). Ở ông, người ta thấy sự pha trộn một chủ nghĩa duy lý cứng rắn với những chuyện ngô nghê. Mới mười hai tuổi, giống như Voltaire, ông đã biết mỉa mai về việc người ta nói rằng linh hồn có thể sờ mó được. Ông hỏi: vậy nó là ba cạnh hay là có hình chữ nhật? Mười bốn tuổi, ông đã say sưa đọc John Locke, nhà triết học Anh, người khởi xướng quyền tự nhiên của con người, ý tưởng lớn mà sau này Jefferson đưa vào Tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Đọc Locke và thấy rằng “con người hà tiện nhất là khi anh ta nhặt được một nắm vàng bạc trong một cái kho mà anh vừa tìm ra”. Ông đã đọc và là người đương thời của Aufklarung (Khai sáng) do Jefferson, Franklin, và Paine khởi xướng. Ông đã tìm thấy đó nhiều yếu tố để xây dựng triết học Calvin của mình. Đến cuối đời, ông cảm thấy quan điểm của mình đã hết thời”. Trong thời đại tưng bừng của ánh sáng và tự do này, ông chào đón “một lớp người mà tầm tri thức rộng mở và tự do”. Ta không quên ông là một trong những tín đồ cơ đốc kỳ cựu nhất.

    2. THỜI KỲ DỰNG NƯỚC

    Tới thế kỷ XVIII, cuộc chiến tranh nổ ra giữa Anh và Pháp. Năm 1763, Pháp bại trận. Chính quyền Anh càng tăng cường áp bức nhân dân các vùng di dân. Các cuộc chống đối nổi loạn diễn ra, đàn áp, bắn giết. Cuộc đấu tranh gian khổ đã kết thúc thắng lợi. Năm 1783, nền độc lập và nước cộng hòa của các bang hợp nhất Mỹ xuất hiện ở thế giới mới.

    Sự cổ vũ, dọn đường đi tới độc lập, tự do thuộc về những người mà Jonathan Edward gọi là những người của “thời đại của ánh sáng và tự do”.

    AUFKLARUNG MỸ

    Những nhà tư tưởng Mỹ nói trên không phải là những nhà triết học theo nghĩa kỹ thuật của từ ngữ. Họ không xây dựng bản thể học, vũ trụ quan như Cotton Mather và Jonathan Edward. Họ đọc Locke và Hume, Shaftesbury và Condorcet và trong khuôn khổ của thế giới tinh thần đó họ không thực hiện những nghiên cứu, những tiểu luận, những công trình hệ thống mà làm ra những luật lệ, những văn bản nhà nước, những thiết chế.

    Jefferson đã từng làm đại sứ ở Paris trong thời kỳ nổ ra cách mạng Pháp. Đối với các nhà Aufklarer (Khai sáng) cần loại bỏ lập trường cứng rắn giữa tôn giáo và luân lý, coi luân lý là sự vui sướng của đời sống không thể hòa trộn với nhau. Ở ông đó là một người “duy vật”, theo cách nói của người Mỹ, là một người “tự nhiên chủ nghĩa”. Ông cho rằng luân lý là một bản năng do tự nhiên đưa lại. Ông là một người hữu thần, thấy ở Jesus là một người bạn của con người được Chúa phú cho một cách tuyệt vời. Ông là một người epicurean (theo chủ nghĩa Epicure) và đã đưa quyền sung sướng vào văn kiện mà ông khởi thảo năm 1776 và trở thành nền tảng của hiến pháp và Phúc âm mà sau đó được bao người phân tích trong hàng ngàn chuyên luận về luân lý: Đó là Tuyên ngôn độc lập.

    Ngày nay, triết học của Jefferson dưới hình thức những luật lệ (code) vẫn mang tính thời sự. Mặc dù về mặt nào đó, nó chỉ là một sầu sử đã lắng sâu. Những thế hệ người Mỹ khó lòng chấp nhận mãi rằng Nhà nước được xây dựng theo hình ảnh của Chúa về con người mà một ngày kia lại không thể bị cải tạo. Năm 1859, Lincoln đã viết rằng: “Những nguyên tắc của Jefferson là những định nghĩa và những tiền đề của xã hội tự do”... ấy thế mà những điều đó lại bị từ chối thẳng thừng và bị coi là thiếu sức mạnh. Người ta nhìn chúng là “những dối trá rành rành”, hay hơn nữa người ta lập luận rằng: “Chúng chỉ hay đối với những loại người cấp cao”... Có lẽ kỷ nguyên suy đồi của lý trí ở Mỹ là một kinh nghiệm sống, khó quên hơn ở Châu Âu, bởi vì ở Mỹ nó có những gốc rễ sâu hơn.

    Jefferson là một nhà quý tộc ở nông thôn, còn Benjamin Franklin là người thân lập thân (self - made - man), một người thợ. Nhưng cả hai có cùng một lý tưởng khắc kỷ, (epicurean) của nhà hiền triết về thực thể của hạnh phúc: đó là ý thức về mình (soi), kỷ luật, sự khoan dung, sự không ham muốn. Năm 1725, Franklin cho ra mắt người đọc cuốn Đối thoại về cái khoái lạc thỏa mãn. Trong tiểu sử, ông lấy những đức tính của người tư sản nhiều tham vọng làm mẫu mực cho mình rằng: “Tôi coi tình yêu đối với chân lý, sự trung thực và sự liêm khiết có một tầm quan trọng cực kỳ đối với hạnh phúc của cuộc đời”. Trước đây ông không hề chống lại luân lý được coi là một bộ phận của thần học, bây giờ những cái đó không còn làm vui lòng ai nữa. Ông không cần dựa vào sự siêu việt, Aufklarung Mỹ không đối lập với tôn giáo, chỉ có thể nói đơn giản rằng nó không quan tâm nhiều tới mà thôi. Nó chú trọng đặc biệt tới những quy phạm đạo lý của đời sống cá nhân, tới những châm ngôn có ích của một chính phủ duy lý.

    Năm 1727, Franklin thành lập câu lạc bộ Junto, và năm 1743 đổi tên thành American Philosophical Society (Hội triết học Mỹ). Ông không phải là một nhà triết học theo nghĩa kỹ thuật của thuật ngữ này ở thời kỳ mà từ triết học còn bị coi là những phiêu lãng tinh thần nào đó.

    Aufklarung của Thomas Jefferson đi vào hiến pháp của đất nước, đi vào những văn bản của Nhà nước, vào hiến chương, thành những ý tưởng xây dựng nên trường đại học của ông. Còn sự khai sáng của Benjamin Franklin thể hiện nhiều nhất đời sống tư sản mẫu mực mà ông theo đuổi để miêu tả và để dạy học, Thomas Paine (1737 - 1800) đã công bố trong chiến tranh Mỹ - Anh (1776- 1783) 12 số báo Crisis, ông đã trở thành tác giả luận chiến và tác giả những bài tụng ca của Aufklarung. Ông không là người đại diện cho chính quyền như Jefferson hay Franklin, nhưng là một người chống đối, một chiến sĩ, một người bị bức hại, bị đày ải và sau đó được tha bởi vì nơi tù đày ông lại chính là nước Pháp mà ông từng ôm ấp và say mê sự nghiệp ở đó, đến lượt mình, nó lại là người săn đuổi ông. Ông tha thiết nói rằng: “Có người hỏi: vua nước Mỹ ở đâu? Tôi xin trả lời bạn rằng, ông ta cai trị ở trên kia kìa, ông ta không gieo rắc lộn xộn cho con người như con quái vật vương giả Anh. Nhưng để tránh đưa lại một ấn tượng về sự bất kính một ngày nào đó, chúng ta hãy công bố hiến pháp, hãy xây dựng nó trên luật của Chúa Trời, trên những lời của thần thánh, hãy tô điểm nó bằng một vương miện để mọi người thấy được rằng luật là Chúa Trời một khi người ta còn ở trong chế độ quân chủ” (Common sense: ý nghĩa chung). Tác phẩm The age of reason (kỷ nguyên của lý trí) rất giống với cái mà người ta gọi là một cuốn sách triết học, nó chứa đựng một chủ nghĩa hữu thần. Common sense được phát hành hơn nửa triệu bản. Trong cả đời ông, mọi bài viết của ông đều có số lượng lớn về phát hành như thế.

    Tháng giêng 1776, Common sense đã là tiếng kèn xung trận kêu gọi dân quân, lính tình nguyện, những người Anh “anh em” đứng lên lật đổ chế độ thuộc địa Anh, giải phóng đất nước với Bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của nước Mỹ.

    TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

    Nhà triết học Horace M. Karen trong tác phẩm "Về nguồn gốc nhân đạo của dân chủ" nói về bảy đề mục của Tuyên ngôn độc lập năm 1776. Có thể gọi đó là những đề mục Mỹ bởi vì những đề cương đó quy định sự lý giải về bản tính con người. Bảy đề cương đó là:

    1. Chúng ta cần phải củng cố những chân lý

    2. Rằng nguời ta sinh ra đều bình đẳng

    3. Tạo hóa đã cho họ những quyền mà không ai xâm phạm được.

    4. Trong những quyền đó có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.

    5. Rằng chính phủ bảo đảm các quyền đó.

    6. Các chính phủ lập ra các quyền đó từ sự thỏa thuận của những người mà nó cai trị.

    7. Khi chính phủ xóa bỏ mục đích thì nhân dân có quyền biến đổi hoặc giải tán nó và thành lập một chính phủ khác mà nền tảng được xây dựng trên nguyên tắc là tổ chức sao cho quyền lực bảo đảm tối đa an toàn và hạnh phúc.

    Ở đây Karen không xem xét những ý nghĩa khác nhau của những khái niệm chuyên chở những nguyên tắc và không đối chiếu với những thực tế ở Mỹ còn đang phát triển theo hướng ngược lại, ông đã đi trước về “bản tính” con người.

    Ông cũng đối lập tinh thần của bảy đề cương với biểu tượng về một dân tộc đã được lựa chọn, ví như nó đã hình thành ở những người Do Thái, người Hy Lạp, người Đức và các dân tộc khác, kể cả với những yêu nước đầu tiên của Mỹ. Khi khẳng định khái niệm sự lựa chọn đó bằng tinh thần dân chủ không những chúng ta thấy những người công bố nó không phải là những bọn độc tài bóc lột các dân tộc khác mà còn là những người (như những nhà tiên tri, như Jefferson và Fichte) đã đòi hỏi dân tộc mình phải được thử thách như dân tộc đã được lựa chọn.

    Rõ ràng là tư tưởng dân chủ của Tuyên ngôn đã để mắt tới những kẻ thù của Aufklarung của thế kỷ XVIII: đó là giáo hội và những bọn độc tài.

    Ngày nay trong những năm 30, năm 40, kẻ thù cũ, những tên độc tài lại tiếp tục được gợi lại, ví như chế độ của Hitler, của Mussolini từng được Gentil tâng bốc là “sức mạnh thần thánh” nhằm bảo vệ cho chân lý phát xít.

    Khẳng định bản tính con người trong bảy luận cương là khẳng định kẻ nào không ở trong khuôn khổ đó là chống lại bản tính ấy. Sự kết hợp triết học và chính trị đã tránh được sự tách biệt cứng nhắc. Giáo sư T.V. Smith trong tác phẩm Triết học dân chủ đã viết rằng: “Chính trị quan tâm tới những lý tưởng với tư cách là những người mang hành động, triết học quan tâm tới những lý tưởng với tư cách là đối tượng của một lễ hội bên trong”. Đối với nhà chính trị, chúng là người hướng đạo, đối với nhà triết học chúng phân phát hòa bình, “chúng tạo lập sự thanh thản bên trong”. Người ta nói tới "quy luật của tự nhiên” của Platon: “Hành động không bao giờ có được, khi chân lý chỉ như sự chiêm ngưỡng lý thuyết”. Nền dân chủ “bên trong” đó được tán thưởng như là “mỗi người có giáo hoàng của mình”, “mỗi người là một nhà lôgic của mình”.

    Ở Mỹ, đạo đức học, giá trị học tức lý thuyết về các giá trị, hay triết học xã hội đều quy về Tuyên ngôn độc lập với những luận cương của NÓ.

    Các nhà tâm lý học Mỹ nói rằng có một điều rất đặc biệt là đồng bào của mình, ai ai cũng tìm tới một cái gì làm điểm tựa. Tuyên ngôn độc lập chính là chỗ dựa lớn về ý thức hệ của dân tộc Mỹ. Người ta có thể xác định vị trí lịch sử của nó, nhưng những vấn đề nào đó gợi lên thì vẫn để mở cho nhiều thế hệ mai sau. Ở Châu Âu, những tư tưởng của năm 1789 đã nhận được nhiều sự phê phán, ví như từ phía Edmond Burkes kể cả của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Trong hơn thế kỷ qua, người ta đã tranh luận chung quanh vấn đề tạm thời của “lý trí”, vấn đề bền vững của những khái niệm trong “cuốn Phúc âm 1776” của Mỹ.

    16 năm sau, sau khi Hoa Kỳ đã đưa những đề cương này vào hiến pháp, cách mạng Pháp cũng nêu lên những điều về niềm tin đó. Chúng không mất tính thời sự của chúng, nhưng mang một sắc thái mới trong cuộc tranh luận về tự do, bình đẳng, bác ái.

    Sự quan tâm đặc biệt của Tuyên ngôn, cũng là của người Mỹ tới hạnh phúc đã cho người ta thấy các nhà tư tưởng của họ ít chú ý tới những ý thức hệ của tháp ngà, tới sự ẩn cư trong một phòng kín triết học. Đối với họ, kỳ vọng gửi vào tương lai có vai trò ít quan trọng hơn là củng cố nó trong hiện tại. Cho nên niềm tin của người Mỹ đặt vào bảy luận cương là một niềm tin không hề lay chuyển, đã trở thành một sự gắn bó với một thành tích đã được xây dựng, nhưng đó là một thành tích mà không ai chờ đợi ở đấy một kỳ tích nào.

    Mặc dù ngày nay có người muốn quay mặt với hạnh phúc cho rằng hạnh phúc chỉ là một “thứ nổi tiếng hão”, hạnh phúc đã mọc lên từ chủ nghĩa hoan lạc, leo lắt từ “kẻ cùng khổ của đạo đức". Nhưng Tuyên ngôn vẫn là một tượng đài của người bảo vệ chủ nghĩa hoan lạc, theo họ đó là “chân lý tuyệt đối” bởi vì chủ nghĩa hoan lạc chính là một chủ nghĩa vị tha. Các luận cương mang tính chất rất Mỹ ấy cứ sống động như một thách thức.

    Luận cương rất Mỹ đó ngày càng có một sức sống. Người ta thấy rằng việc đề cao và vun trồng đời sống nội tâm về sự tưởng tượng đó ở người Mỹ là xứ sở sang trọng của tinh thần làm cho người ta chiếm lĩnh được sự huy hoàng đầy đủ của nền dân chủ.

    Nhiều tôn giáo nói rằng con người tự hoàn thiện bằng cách từ bỏ cõi trần này. Có một nét rất Mỹ là họ không rút ra từ đó một hiệu quả lôgic: người khổ hạnh và người duy Mỹ không thực sự nẩy nở ở đây và những người thấp hèn, những người nghi ngờ, tuyệt vọng hay những kẻ vô sỉ ít xuất hiện trên “sân khấu triết học” Mỹ. Hệ tư tưởng về niềm tin vào tương lai rất mạnh dưới nhiều biến thể triết học về chủ đề 1776.

    Thomas Jefferson, tác giả Tuyên ngôn độc lập, sau khi hoàn thành sự nghiệp của tổng thống thứ ba (1801 - 1809) của Hoa Kỳ. Ông về vui thú điền viên của sự “thanh bình bên trong” ở Monticello và mất tại đó.