05. TVTPM-vancuong7975(xong)Wiki
-
Link PDF
Link Google Docs
Link Word Online
gô cất cánh. Tên lính hoảng sợ. Nhận thấy thế, vị anh hùng của chúng ta không cưỡng lại được cái thú thử đóng vai trò ky binh trong giây lát. Anh thét:
- Một trong ba con ngựa kia là của tao, mẹ kiếp! Nhưng mà tao sẵn lòng cho mày năm frăng vì mày đã cất công giắt nó đến đây cho tao.
- Đằng ấy coi tớ là rác đấy à? Tên lính đáp.
- Bỏ con ngựa ra không tao nổ!
- Mày mà cựa một cái thì coi như chết rồi đó.
- Thế thì hãy đưa năm frăng đây mà bắt một con ngựa. Tên lính tiu nghỉu nói vậy, sau khi nuối tiếc trông ra con
- Xuống ngựa ngay không thì chết... Thắng cương cho con ngựa ô rồi cút đi với hai con kia... Tao sẻ bắn ngay nếu động đậy.
tầm rồi .
Con ngựa anh vừa mua đẹp quá, nhưng có vẻ đói gần chết. Fabrixơ trở lại đường cái vẫn không có bóng người. Anh vượt
qua đường, cho ngựa đi nước kiệu để tới một nếp trũng về bên trái mà anh hy vọng sẽ gặp lại chị hàng căng tin. Nhưng khi lên tới đầu dốc, anh thấy cách hơn một dặm đường, chỉ có một tên lính lẻ loi. Anh thở dài than: "Số mệnh đã định cho ta không gặp lại người đàn bà đôn hậu, nhân từ ấy nữa". Anh đi đến một nông trại nhìn thấy ở xa, về bên phải con đường. Cứ ngồi trên lưng ngựa anh trả tiền trước mua lúa mạch cho ngựa ăn, con ngựa tội nghiệp đói quá gặm luôn cả máng. Một giờ sau, Fabrixơ lại cho ngựa kiệu trên đường cái, với hy vọng lờ mờ được gặp lại chị hàng căng tin hoặc ít nữa là anh hạ sĩ Ôbry.
Vừa đi vừa nhìn ra tứ phía, anh đến một con sông lầy lội có một chiếc cầu gỗ hẹp bắc ngang. Trước khi đến cầu, về bên phải đường cái, có một cái nhà lẻ loi mang bảng hiệu Bạch mã. "Ta ăn ở đây thôi", Fabrixơ nghĩ thầm. Một sĩ quan ky binh cánh tay băng bó treo trước ngực đang ngồi trên lưng ngựa ở đầu cầu, vẻ mặt buồn bã. Cách ông mươi bước, ba ky sĩ đứng dưới đất đang nhét thuốc lá vào tẩu.
Fabrixơ thầm nghĩ: Những người này có vẻ muốn mua lại con ngựa của ta rẻ hơn giá ta mua đây. Viên sĩ quan bị thương và ba người đi đất nhìn anh đi tới với dáng như chờ đợi. "Tốt hơn hết là ta không đi qua cái cầu mà đi dọc bờ của con sông, đó hẳn là con đường mà chị bán hàng căng tin khuyên ta đi để tránh rắc rối... Đúng như thế. Nhưng ta bỏ chạy thì ngày mai ta xấu hổ chịu sao nổi. Vả lại con ngựa ta chân khỏe lắm còn ngựa viên sĩ quan chừng như mệt mỏi. Nếu ý muốn bốc ta xuống thì ta phóng ngựa chạy bay đi chứ". Fabrixơ nghĩ thế rồi soạn sửa thế ngựa và cho đi từng bước hết sức ngắn.
Viên sĩ quan gọi, giọng bề trên: "Đi lên đi, anh ky binh kia".
Fabrixơ tiến lên mấy bước rồi dừng lại, nói to:
- Ông muốn bắt ngựa tôi sao?
- Không đời nào. Cứ đi lên đi.
Anh nghĩ thế nhưng đến khi nhìn gần thì thấy nhữngngười này cũng bị thương.
Viên sĩ quan mang cầu vai đại tá. Ông bảo:
- Vì danh dự, anh hãy đứng gác ở đây. Thấy có long ky truy ky, hoặc khinh ky binh đi qua thì anh hãy nói với họ là đại tá Lơ Barông đang ở trong quán và ra lệnh cho họ đến gặp ông.
- Thưa ông tôi còn non trẻ quá, e họ không nghe tôi. Cần có một tờ quân lệnh do ông viết.
- Chú bé nói có lý! Anh hãy viết lệnh đi. La Rôzơ, anh còn bàn tay phải. Không nói gì, La Rôzơ rút túi lấy ra một cuốn sổ tay nhỏ, viết mấy dòng rồi xé tờ giấy đưa cho Fabrixơ. Đại tá lặp lại cái lệnh với Fabrixơ và nói thêm là hai giờ sau, anh sẽ được một trong ba ky sĩ bị thương thay phiên gác cho đúng lệ. Xong, ông đi vào quán với những người tùy tùng. Fabrixơ nhìn họ bước đi, còn anh đứng im lìm ở đầu cầu vì xúc động bởi dáng đau buồn, lặng lẽ của họ. "Trông như những thần linh bị phù phép", anh tự nhủ. Rồi anh mở quân lệnh ra đọc, thấy viết:
binh phải tập hợp dưới quyền đại tá ở quán Bạch mã gần cầu, là nơi hành dinh của đại tá.
Làm tại hành dinh, gần cầu Nữ Thánh, ngày mười chín tháng sáu năm 1815.
Viết thay đại tá Lơ Barông bị thương ở cánh tay phải, và thừa lệnh đại tá.
Trung sĩ La Rôdơ".
Đứng gác ở đầu cầu vừa được nửa giờ, Fabrixơ trông thấy chín lính truy ky đi tới, trong đó sáu cưỡi ngựa, ba đi bộ. Anh đưa cho họ xem lệnh của đại tá.
Bốn tên cưỡi ngựa nói: "Chúng tôi sẽ trở lại" rồi cho ngựa đi nước kiệu lớn qua cầu. Fabrixơ bèn nói chuyện vớì hai tên kia. Trong khi họ tranh cãi hăng với nhau, ba tên đi bộ cũng vượt qua cầu. Cuối cùng một trong hai lính ky còn lại bảo cho xem lại tờ quân lệnh, rồi mang luôn nó đi và nói:
- Ta đem đến cho các bạn ta, thế nào họ cũng quay trở lại. Cứ ở đó mà đợi họ. Rồi hắn phóng ngựa chạy bay, bạn nó cũng theo nó. Tất cả những sự việc trên diễn ra trong chớp mất.
- Rút gươm ra chứ! Anh gác kia mà.
- Chúng nó mang tờ quân lệnh đi rồi.
- Chúng đang tức tối vì trận đánh hôm qua, viên trung sĩ đáp, vẻ chán chường - Tôi sẽ cho anh một khẩu súng ngắn. Nếu người ta vi phạm lệnh nữa thì anh bắn chỉ thiên, tôi sẽ đến, không chừng chính đại tá cũng sẽ ra. Khi báo cáo quân lệnh bị lấy đi, Fabrixơ nhận thấy viên trung sĩ đã có một cử chỉ ngạc nhiên. Anh hiểu rằng danh dự bản thân đã bị xúc phạm, và tự hứa sẽ không để cho bị lừa như thế nữa.
- Ái chà! Bọn lính ky la lớn - Cái thằng oắt con này muốn giết chúng ta. Làm như hôm qua chúng ta bị giết chưa đủ số! Cả bọn rút mã tấu xông vào Fabrixơ. Anh chắc chết. Nhưng anh nghĩ đến vẻ ngạc nhiên của viên trung sĩ và không muốn để bị khinh bỉ lần nữa. Vừa lùi trên cầu, anh vừa cố chĩa gươm đâm lại bọn ky mã. Sử dụng cây mã tấu đại kị quất thẳng, to, quá nặng đối với sức vóc anh, anh có vẻ mặt lạ lùng thế nào ấy, khiến bọn lính ky biết ngay đối thủ của mình. Bây giờ họ tìm cách không phải để đánh cho anh bị thương, mà để băm nát quần áo trên người anh. Vì vậy Fabrixơ nhận mấy nhát kiếm nhẹ trên hai cánh tay, về phía anh, luôn vung gươm ráo riết đâm nhiều nhát tới trước. Rủi làm sao, một nhát đâm phải tay một tên, làm hắn bị thương. Tức giận vì bị một tên lính non choẹt đánh trúng, hắn ta trả lời bằng một nhát kiếm đâm thẳng cánh, tin vào phần trên đùi Fabrixơ. Sở dĩ miếng kiếm đó trúng đích là vì con ngựa của Fabrixơ không những chạy tránh cuộc xung đột, lại có vẻ thích thú và cứ muốn xông vào bọn tấn công. Bọn này thấy máu chảy dọc theo cánh tay phải Fabrixơ, đâm ngại là trò đùa nghịch của họ đã vượt giới hạn quá xa, bèn tấn chàng thanh niên vào thành cầu bên trái, rồi phóng ngựa chạy đi. Vừa rảnh tay Fabrixơ bắn phát súng chỉ thiên để báo với đại tá.
Khi súng nổ thì có bốn ky binh cưỡi ngựa, hai đi bộ, cùng một trung đoàn với mấy tên kia, đang tiến về phía cầu và còn cách vài trăm bước. Chúng chăm chú nhìn sự việc xảy ra trên cầu và tưởng Fabrixơ bắn vào bọn đồng ngũ của họ, bốn tên đi ngựa lao tới Fabrixơ, gươm trần vung cao, một cuộc xung phong thực sự! Đại tá Lơ Barông nghe súng, mở cửa ra và chạy lên cầu, vừa đúng lúc bọn kia phi ngựa tới. Tự ông ra lệnh bảo chúng dừng lại.
- Ở đây làm gì có đại tá! Một tên trong bọn thét và thúc ngựa tiến lên. Đại tá phẫn nộ bỏ dở những lời khiển trách và dùng bàn tay phải bị thương nắm cương ngựa của tên đó. Ông thét:
- Đứng lại! Đồ lính tồi. Tao biết mày, mày ở đại đội của đại úy Hăngriet.
- Ừ! Đã vậy thì để chính đại úy ra lệnh cho ta.
- Đại úy Hăngriet bị giết hôm qua, còn lão thì xéo đi, tìm chỗ mà rụi!
Một trong hai tên ky binh không ngựa thấy hai người bảo vệ cầu đều ngã, bèn chộp cơ hộí nhảy lên lưng ngựa Fabrixơ và phóng đi, định chiếm đoạt con ngựa.
Viên trung sĩ từ trong quán chạy ra thấy đại tá của mình ngã, tưởng ông bị trọng thương. Anh đuổi theo ngựa Fabrixơ đâm mũi kiếm của mình vào hông tên ky binh. Tên này đổ xuống. Những đứa khác thấy trên cầu chỉ còn viên trung sĩ đi đất, liền phi ngựa vượt qua cầu và chạy đi nhanh chóng. Tên đi bộ chạy trốn về phía đông.
Viên trung sĩ đến bên cạnh những người bị thương. Fabrixơ đã đứng lên, anh ta không đau lắm nhưng mất nhiều máu. Ông đại tá đứng dậy chậm hơn, choáng vì ngã chứ không mang thương tích gì. Ông nói với viên trung sĩ:
- Ta chỉ đau vì vết thương cũ ở bàn tay.
Tên ky binh bị trung sĩ đâm chỉ còn ngắc ngoải. Đại tá kêu: Quỉ sứ bắt nó đi! Rồi ông nói với viên trung sĩ và hai người lính ky vừa mới chạy đến. Hãy săn sóc chú thanh niên bé bỏng này, ta đưa chú vào chỗ nguy hiểm không phải lúc. Tôi ở lại trên cầu để tự mình cố chặn những tên điên cuồng đó lại. Các anh hãy đưa chú bé về quán và băng bó cánh tay cho chú. Lấy một chiếc sơ mi của tôi mà băng".
Chương thứ năm
Tất cả sự biến đó xảy ra trong không đầy một phút. Những thương tích của Fabrixơ không có gì nghiêm trọng, người ta buộc cánh tay anh với những băng xé từ áo sơ mi của đại tá ra. Người ta muốn dọn cho anh một cái giường ở tầng gác một tại quán. Nhưng Fabrixơ nói với viên trung sĩ:
- Thế thì trong khi tôi ở đây, được nâng niu trên tầng một, con ngựa tôi ở trong tàu sẽ buồn chán vì lẻ loi và đi theo một ông chủ khác mất.
- Tân binh mà thế thì khá thật! Viên trung sĩ nói. Thế là các người tùy tùng của đại tá soạn một ổ rơm mới cho Fabrixơ nằm ở ngay cái máng buộc ngựa của anh.
Xong, vì Fabrixơ tỏ ra yếu sức quá viên trung sĩ mang cho anh một cốc rượu vang nóng và trao đổi đôi lời với anh. Mấy lời khen tặng chen lẫn trong cuộc chuyện trò đó đã khiến chàng thanh niên sung sướng như lên chín tầng mây.
Đen tờ mờ sáng hôm sau, Fabrixơ mới thức giấc dậy. Ngựa hí dài và làm huyên náo kinh khủng, chuồng ngựa đầy những khói. Lúc đầu Fabrixơ không hiểu vì sao mà ồn ào như thế và cũng không nhớ mình đang ở đâu. Về sau, suýt ngạt thở vì khói, anh đoán là cái nhà quán cháy. Trong chớp mắt, anh đã ra khỏi chuồng và lên lưng ngựa. Anh ngẩng đầu, khói tuôn ùn ùn qua hai cửa sổ bên trên tàu ngựa, còn mái nhà thì bao phủ một lớp khói đen cuồn cuộn. Khoảng một trăm lính bại tẩu đã đến quán Bạch mã trong đêm. Tất cả đều la lối và nguyền rủa. Năm sáu đứa Fabrixơ được trông thấy gần như say mềm. Một tên định tóm anh, hét: Mày mang ngựa tao đi đâu đấy?
Fabrixơ cho ngựa chạy đi được một phần tư dặm thì ngoái cổ trông lại. Không ai đi theo anh cả, nhà quán đang bốc lửa. Anh nhận ra cái cầu, nghĩ đến vết thương, cảm thấy cánh tay bó chặt trong băng và rất nóng. "Còn ông đại tá già, ông ra sao rồi nhỉ? Ông đã cho chiếc áo để người ta băng bó mình!" Sáng hôm đó, Fabrixơ bình tĩnh lại. Lượng máu chảy khỏi người anh cũng cuốn luôn theo phần phiêu lưu lãng mạn trong tính tình anh.
"Rẽ phải! và... dông!” anh tự nhủ và bình tĩnh đi xuôi theo dòng nước con sông, sau khi đi qua dưới cầu, chảy về bên phải đường cái. Anh nhớ lại những lời khuyên bảo của chị hàng quà tốt bụng. "Cái tình bạn mới quý làm sao! Tính tình mới cởi mở làm sao!".
Đi được một giờ anh cảm thấy yếu sức đi quá. Ái chà! Mình sắp ngất chăng? Nếu mình ngất, người ta sẽ bắt mất con ngựa, không chừng còn lấy áo quần nghĩa là luôn cả cái gia tài của mình trong đó. Anh không còn sức khiến ngựa và đang cố lấy thăng bằng trên yên thì một anh nông dân trông thấy. Anh ta đang cuốc ruộng bên đường cái, nhìn thấy vẻ mặt tái nhợt của Fabrixơ, bèn chạy đến mời anh một cốc bia và một miếng bánh mì.
Người nông dân bảo: "Thấy anh xanh xao, tôi nghĩ là một thương binh trong trận kịch chiến!" Sự giúp đỡ ấy quả đúng lúc. Khi Fabrixơ bắt đầu nhai mẩu bánh đen thì cũng là lúc mắt anh bắt đầu nhức nhối khi nhìn tới trước. Khỏe lại được một tí, anh cảm ơn người nông dân và hỏi: "Vùng này là vùng nào?" Người nông dân bảo cứ đi ba phần tư dặm nữa thì đến thị trấn Đôngđe, ở đấy anh sẽ được chăm sóc chu đáo. Fabrixơ đi bừa đến thị trấn ấy, mà tự mình cũng không hiểu mình làm gì, chỉ mỗi bước mỗi lo sao cho khỏi ngã ngựa. Anh thấy một cổng lớn rộng mở, anh đi vào, đó là quán Êtơri. Liền đó, một người đàn bà đồ sộ chạy ra, đó là chị chủ quán. Giọng lạc đi vì thương hại, chị kêu cứu. Hai cô con gái đến giúp Fabrixơ xuống ngựa. Vừa xuống đất thì anh ngất lịm đi. Người ta mời một thầy thuốc giải phẫu đến, ông này chích máu cho anh.
Ngày hôm đó và những ngày sau, Fabrixơ chẳng biết người ta đã làm gì cho mình. Hầu như anh ngủ suốt. Nhát đâm ở đùi đe dọa sưng to.
Những khi tỉnh, Fabrixơ dặn bảo chăm sóc ngựa cho anh và lặp lại nhiều lần là anh sẽ chi tiền rộng rãi, khiến bà chủ quán và hai cô con gái phật lòng. Anh được chăm sóc vô cùng chu đáo mười lăm hôm và bắt đầu tỉnh người lại. Bỗng một tối, anh nhận thấy những phụ nữ trong nhà có vẻ hết sức bối rối. Không lâu sau đó, một sĩ quan Đức vào buồng anh, người trong nhà đối đáp với hắn bằng một thứ tiếng mà anh không hiểu, tuy vậy anh cũng thấy rõ là họ nói về anh cho nên vờ ngủ. Lát sau, đoán rằng tên sĩ quan Đức đã đi rồi, anh gọi bà chủ và các cô gái hỏi:
- Có phải viên sĩ quan ấy đến ghi tên tôi vào một danh sách để bắt tôi bỏ tù hay không?
- Thế thì có tiền ở trong áo tôi đó! Fabrixơ vùng dậy nói.- Bà ạ, bà mua hộ tôi một bộ quần áo thị dân và nội đêm nay tôi sẽ rời nơi đây. Bà đã cứu sống tôi một lần khi đón nhận tôi trong lúc tôi sắp ngã chết giữa đường. Hãy cứu tôi lần nữa bằng cách giúp phương tiện cho tôi trở về với mẹ tôi.
Một người Do Thái địa phương cung cấp cho anh đủ bộ sậu quần áo. Vào khoảng mười giờ đêm, hắn đem tới hai cô gái đo áo ngoài lên cái áo lính Fabrixơ thì thấy cần phải thu hẹp lại bao nhiêu. Tức thời họ bắt tay vào việc vì không còn thì giờ nữa. Fabrixơ chỉ mấy đồng Napôlêông giấu trong áo, nhờ họ khâu vào quần áo mới mua. Cùng với quần áo có một đôi giầy mới rất đẹp. Anh không ngần ngại nhờ các cô gái đôn hậu đó rạch đôi giầy mới theo kiểu ky binh ở một chỗ mà anh chỉ, và cất giấu những hạt kim cương nhỏ vào lần vải lót.
Do hậu quả lạ lùng của việc mất máu và trạng thái suy yếu sau đó, Fabrixơ hầu như quên hết tiếng Pháp. Anh nói tiếng Ý với những người chủ nhà, họ lại nói với anh bằng một thứ thổ âm Ilamăng, thành thử hai bên hiểu nhau hầu như chỉ qua những dấu hiệu. Khi hai cô thiếu nữ, họ tuyệt đối không vụ lợi, thấy kim cương, lòng mến phục của họ với Fabrixơ tăng lên không hạn độ, họ cho anh là một hoàng tử cải trang... Aniken, cô em và là người ngây thơ nhất, ôm anh hôn đại, không kiểu cách, về phần mình, Fabrixơ cũng thấy họ rất dễ ưa. Vào giữa đêm, khi thầy thuốc cho phép anh uống chút ít rượu vang để đủ sức đi đoạn đường dài sắp tới, anh gần như không muốn ra đi nữa. Còn ở đâu hơn đây chứ! anh nói. Tuy nhiên vào lúc hai giờ sáng, anh mặc quần áo ở trong buồng
1. Vùng này trên đất Bỉ. Người Bỉ một nửa nói tiếng Pháp, một nửa nói tiếng flamăng như người Hà Lan. Thời Napôlêông, đất Bỉ thuộc Pháp, nhưng vào lúc nói ở trên liên quân Anh, Đức, đã tiến vào kiểm soát rồi. Bước ra, anh được bà chủ cho biết con ngựa đã bị tên sĩ quan giắt đi, tên sĩ quan đã đến xét nhà mấy tiếng đồng hồ trước đây. Fabrixơ thét lên và văng tục:
- Lũ chó chết! Làm thế đối với một thương binh thì quá
lắm.
Cái chàng người Ý trai trẻ đó chưa phải là một triết gia, nếu không anh hẳn phải nhớ chính anh tậu con ngựa đó như thế nào!
Aniken vừa khóc vừa nói cho anh biết người ta đã thuê cho anh một con ngựa khác. Cô muốn ở lại. Cảnh chia tay diễn ra trong tình quyến luyến vô hạn. Hai thanh niên cao lớn, có họ với chị chủ quán đỡ Fabrixơ lên yên. Dọc đường họ dìu đỡ anh ta, trong khi một người thứ ba đi trước mấy trăm bước quan sát xem có đoàn tuần tiễu khả nghi nào trên đường không. Đi được hai tiếng đồng hồ thì họ dừng lại ở nhà một người chị em họ của chị chủ quán ở Êtơri. Fabrixơ nói thế nào hai anh thanh niên dìu dắt anh cũng không chịu rời bỏ anh, họ bảo là họ biết đường lối trong rừng rõ hơn ai hết.
- "Nhưng sáng mai! Fabrixơ nói -khi người ta biết tôi đi trốn và thấy các anh vắng mặt thì thế nào các anh cũng bị rầy rà .
Hành trình còn lại không có gì lạ. Đến Amiêng, anh thấy đau nhiều ở nhát kiếm đâm vào đùi, viên y sĩ nông thôn trước đấy không nghĩ đến việc nói cho nên mặc dù, nhiều lần chích máu, vết thương vẫn sưng phù, Fabrixơ ở lại quán Amiêng mười lăm hôm, do một gia đình nịnh hót và tham lam làm chủ. Trong lúc đó, quân đồng minh xâm chiếm đất Pháp. Còn Fabrixơ thì trở thành như không phải chính mình nữa, chỉ vì anh có những suy nghĩ sâu sắc về những sự việc xảy đến cho anh. Anh chỉ còn trẻ con ở một điểm: "cái mà mình nhìn thấy có phải là một trận đánh không? Thứ nữa, trận đánh đó có phải là trận Oatéclô không?" Lần đầu tiên trong đời anh biết cái thú đọc sách báo. Anh luôn hy vọng tìm thấy trong báo chí, trong các bài tường thuật chiến trận một đoạn văn tả cảnh nào giúp anh xác định được những nơi anh đã đi qua với thống chế Nê, và sau đó với một tướng khác.
Những ngày trú ở Amiêng, hầu như ngày nào anh cũng cố viết thư cho những người bạn tốt của anh ở Êtơri. Một khi bình phục, anh đi Pari ngay. Anh tìm thấy ở khách sạn cũ hai mươi bức thư của mẹ và cô anh van anh mau chóng trở về. Cái thư sau cùng của bà bá tước Pietranơra có một cái gì bí mật khiến anh rất lo ngại và không còn những mơ mộng tình tứ. Tính anh là thế, chỉ cần một tiếng là đủ cho anh dễ dàng dự kiến những tai họa lớn nhất, sau đó thì trí tưởng tượng của anh lại vẽ vời những tai họa ấy với nghìn chi tiết ghê gớm.
Bá tước phu nhân viết: "Chớ ký tên vào những bức thư anh viết để báo tin sức khỏe. Khi về, chớ vội về ngay hồ Com, hãy dừng lại ở Luyganô, trên đất Thụy Sĩ". Fabrixơ phải đổi tên Cavi mà đến thị trấn nhỏ đó, anh sẽ tìm gặp ở cái quán lớn nhất người bồi phòng của nữ bá tước, người này sẽ báo cho anh biết phải làm gì. Bà cô chấm dứt bức thư bằng mấy câu sau đây:
"Hãy tìm hết cách giấu cái việc ngông cuồng anh đã làm, và cần nhất là chớ giữ trên người một giấy tờ gì in hay viết tay. Ở Thụy Sĩ anh sẽ có những người bạn của Xanhtơ Mácgơrít đi kèm. Nếu cô có đủ tiền, ở khách Balăngxơ, và anh sẽ có được những chi tiết cô không thể viết ra giấy, nhưng mà anh cần biết trước khi bước chân lên đất nước nhà. Tôi van anh, không nên ở Pari thêm một ngày nào nữa, ở lại đó, anh sẽ bị bọn mật thám bên ta phát hiện mất".
Trí tưởng tượng của Fabrixơ hình dung ra những điều lạ lùng nhất và anh không còn tìm thấy thú vui gì khác hơn là thú thử đoán xem cái việc ly kỳ cô anh nói đến đó là việc gì. Vượt sang đất nước Pháp, anh bị bắt hai lần, nhưng anh cũng biết cách thoát. Có sự phiền não đó là do anh mang giấy thông hành Ý và vì anh tự xưng là một người buôn hàn thử biểu, điều đó không khớp chút nào với gương mặt trẻ măng và cánh tay treo buộc của anh. Bởi vì khi vào quán, Fabrixơ đã đảo con mắt giận dữ nhìn quanh rồi lóng ngóng làm đổ cốc cà phê lên quần. Trong cuộc gây gổ này, cử chỉ đầu tiên của Fabrixơ là một cử chỉ đặc sệt thế kỷ XVI. Rút dao găm xông đến để đâm anh kia chứ không nói đấu gươm, đấu súng gì cả. Trong cơn cuồng nộ, Fabrixơ quên hết những nguyên tắc danh dự đã học, và quay trở về với bản năng, nói cho đúng, với những thói cũ của tuổi thơ.
Người tâm phúc gặp ở Luygano càng làm cho anh tức giận hơn nữa bởi những chi tiết mới mà người ấy tiết lộ. ở Griăngta, mọi người đều mến Fabrixơ, không ai phát giác anh và nếu không có thủ đoạn đáng yêu của người anh thì ai cũng vờ tin rằng anh đang ở Milăng, bọn an ninh sẽ không bao giờ chú ý đến sự vắng mặt của anh.
Người của bà cô phái đến nói: "Chắc chắn là bọn thuế quan nắm được nhận dạng của công tử, nếu chúng ta theo đường cái mà đi thì đến biên giới vương quốc Lôngba Vênixi, cậu sẽ bị bắt thôi”.
Fabrixơ và bọn thủ hạ biết tất cả những đường cong nẻo tắt trong cụm núi nằm giữa Luyganô và hồ Com, họ cải trang thành những ngưòi đi săn, tức là những người buôn lậu và vì họ là ba người có vẻ mặt kiên quyết, cho nên những nhân viên thuế quan gặp họ chỉ còn nghĩ đến chào họ mà thôi, Fabrixơ xếp đặt thì giờ để đến lâu đài vào nửa đêm, vào giờ ấy bố anh và tất cả những kẻ hầu hạ dùng phấn đều đi ngủ đã lâu. Anh leo xuống cái hồ sâu không khó nhọc gì và vào lâu đài qua một cửa sổ con ở tầng hầm. Mẹ anh và cô anh đợi anh ở đó và lát sau, chị anh và em anh cũng chạy đến. Vuốt ve âu yếm, và khóc lóc xúc động lần lượt diễn ra khá lâu, khi họ bắt đầu nói chuyện với nhau tỉnh táo thì những tia sáng đầu tiên của bình minh cũng đến nhắc cho những người tưởng mình khổ đó là thì giờ đi nhanh như bay biến.
- Cô hy vọng là anh cả không biết anh đã về! Bà Pietranơra nói. - Cô không thèm nói gì với nó từ khi nó có hành động đẹp đẽ đó, cho nên nó lấy làm nhục lắm. Tối hôm qua, cô hạ cố nói chuyện với nó vì cô cần tìm cách giấu niềm vui mừng cuồng nhiệt của cô để cho nó khỏi nghi ngờ, rồi thấy nó đắc ý vì cái việc gọi là làm lành đó, cô lợi dụng sự vui mừng của nó để ép nó uống rượu vô tội vạ và chắc là nó không nghĩ đến việc rình mò mai phục, làm nốt cái nghề mật thám của nó.
- Cần giấu chú ky binh của chúng ta trong buồng cô! Bà hầu tước bảo - Chú không thể đi ngay đâu, vào lúc ban đầu này* chúng ta không đủ tự chủ để tính toán, thế mà ta lại cần chọn cách tốt nhất để lừa cái sở an ninh Milăng ghê gớm kia".
Đoàn đi chiếc xuồng mà gia đình thường dùng để đi Com, nếu làm khác thì sẽ xảy ra trăm sự nghi ngờ. Nhưng đến bến Com thì bà hầu tước sực nhớ bà đã để quên ở Griăngta nhiều giấy tờ quan trọng bậc nhất, bà vội vàng cho bọn chèo thuyền trở về nơi đó, cho nên họ không thể nhận xét gì về cách hai bà lớn dùng thì giờ ở Com. Vừa đến nơi, các phu nhân thuê hú họa một trong những chiếc xe đỗ chờ khách bên cạnh ngôi tháp cao thời Trung cổ đứng sừng sững ở cổng Milăng. Họ lên đường tức khắc, người đánh xe không có thì giờ chuyện vãn với ai. Còn cách thành phố một phần tư dặm, các bà ấy gặp một người đi săn trẻ tuổi quen biết, người ấy có nhã ý làm ky sĩ cho các phu nhân cho đến cửa ô Milăng, nơi anh nhằm đi tới trong khi săn bắn, vì các bà không có đàn ông đi hộ vệ.
Mọi việc diễn ra êm thấm, hai phu nhân nói chuyện vui vẻ với người bạn đường thanh niên cho đến một khúc ngoặt để vòng cái đồi thơ mộng và khu rừng Xăng Giôvanni, ở đây ba viên sen đầm cải trang xông tới nắm cương ngựa. "Chao ôi! Ông chồng tôi đã phản chúng ta!" bà hầu tước thét lớn rồi ngất đi. Một trung sĩ sen đầm đi sau tiến lên, bước lảo đảo đến bên cỗ xe và nói với giọng của người ở quán ra:
"Tôi lấy làm tiếc phải thi hành nhiệm vụ. Tôi cần phải bắt ngài tướng quân Fabrixơ Côngti ạ".
Fabrixơ tưởng viên trung sĩ gọi anh là tướng để chế diễu anh. Anh đe thầm: "Rồi mày coi tao!" Anh nom chừng bọn sen đầm cải trang và rình cơ hội để nhảy xuống xe băng dồng chạy trốn.
Nữ bá tước cười bâng quơ rồi nói với viên trung sĩ:
- Này ông trung sĩ thân mến, ông tưởng chú bé mười sáu này là tướng Côngti đó chăng?
- Cô không phải con gái ông tướng là gì?
- Ông nhìn cha tôi kia! Bà bá tước nói và chỉ Fabrixơ.
Viên trung sĩ phật ý về tiếng cười cợt nói:
- Các người hãy đưa giấy thông hành tôi xem, không lý sự gì cả.
- Quý vị phu nhân đây chả bao giờ lấy giấy thông hành để đi Milăng cả! Anh đánh xe mới, vẻ thản nhiên và hiền triết.
Viên trung sĩ tiu nghỉu đi ra phía trước đầu ngựa bàn bạc với lính của y. Cuộc hội đàm diễn ra được năm phút thì bà bá tước Pietranơra yêu cầu các viên chức ấy để cho xe ngựa tiến lên mấy bước, đỗ dưới bóng cây, nắng gay gắt dù mới mười một giờ sáng. Fabrixơ chăm chú nhìn quanh tứ phía để tìm cách chạy trốn, sực thấy một thiếu nữ từ một lối mòn băng qua đồng đi ra con đường cái đầy bụi bặm. Thiếu nữ khoảng mười bốn mười lăm đang cầm khăn tay che miệng khóc thút thít. Cô đi tới giữa hai tên sen đầm mặc binh phục. Đi sau, cách ba bước là một người cao lớn, gầy guộc, cũng có hai sen đầm kèm hai bên, ông này lấy dáng hộ vệ của một quan quân trưởng đi trong đám rước. Viên trung sĩ bấy giờ ngấm rượu say mềm hỏi:
- Lũ bay tìm thấy họ ở đâu đó?
- Chạy trốn qua đồng, không có thông hành thông hiếc gì sất.
- Đừng đi, mọi việc sẽ dàn xếp ổn thỏa.
- Mặc! Nếu chúng không có thông hành thì cứ bắt lại.
Trong khi họ bàn bạc dai dẳng với nhau như vậy thì nữ bá tước bắt chuyện với cô thiếu nữ đứng dưới đường, trong bụi bặm, bên cạnh cỗ xe, bà lấy làm kinh dị về vẻ đẹp của cô ta. Bà nói: - Cô đứng giữa nắng sẽ mệt đấy, tiểu thư ạ. Bà lại hướng về tên sen đầm giữ ngựa, nói thêm: - Chú quyền giỏi giang kia chắc sẽ cho phép cô lên xe ngồi nghỉ tạm.
Đang đi lò dò quanh cỗ xe, Fabrixơ lại gần để giúp thiếu nữ leo lên xe. Được Fabrixơ nâng cánh tay, cô vừa bước lên bàn giậm thì con người bệ vệ ở sau xe hét, giọng cất cao để cho oai:
- Cứ ở dưới đường, đừng lên xe của người khác.
Viên trung sĩ sấn lại, oai vệ:
* Trong các bà đây ai là Clêlia Côngti?
- Tôi * thiếu nữ đáp.
- Còn tôi. Ông có tuổi nói - Tôi là tướng Phabiô Côngti, thị thần của ngài điện hạ quận vương thành Pácmơ. Tôi thấy một người như tôi mà bị lùng bắt như một tên cướp thì khiếm lễ quá.
- Hôm kia, lúc xuống thuyền ở bến Com, không phải ông đã xua đuổi viên thanh tra cảnh sát hỏi giấy thông hành ông là gì? Vậy hôm nay ông ấy không cho ông đi dạo chơi!
- Lúc ấy thuyền tôi đã xô ra rồi, tôi vội, trời sắp nổi giông. Một người không vận binh phục từ trong bờ thét lên đòi tôi trở lại, tôi nói tên và tiếp tục đi.
- Và buổi sớm hôm nay, ông bỏ Com trốn đi?
- Người như tôi không lấy giấy thông hành để đi từ Milăng đến xem hồ. Sáng nay ở Com, người ta nói với tôi rằng tôi sẽ bị bắt ở cổng Milăng, tôi ra đi, đi bộ với con gái tôi, tôi hy vọng tìm thấy một chiếc xe chở tôi đến Milăng, ở đó chắc chắn việc đầu tiên của tôi là đến thăm tướng trấn thủ để khiếu nại.
- Thế thì tướng quân bị bắt rồi đó, và tôi sẽ đưa ông về Milăng. Còn anh, anh là ai? Y hỏi Fabrixơ.
- Con tôi. Nữ bá tưốc nói- Axcanhơ, con trung tướng Pietranơra.
- Không thông hành sao, thưa phu nhân? Viên trung sĩ hỏi, giọng đã dịu đi nhiều.
- Với tuổi ấy, nó chả bao giờ lấy giấy thông hành. Nó có đi một mình bao giờ, nó luôn luôn đi với tôi.
- Thôi chớ nhiều lời. Ông bị bắt, thế là đủ.
- Chúng tôi đồng ý để cho ông thuê một con ngựa con một bác nhà quê nào đó, thế là phúc ba đòi nhà ông rồi! Viên trung sĩ nói. - Nếu không, dù bụi bặm và nắng nôi, và mặc cái chức thị thần Pácmơ, ông vẫn cứ phải đi đất như thường giữa mấy con ngựa của chúng tôi.
- Anh có câm cái mồm đi không? Nào quân phục cấp tướng của anh đâu chứ? Cha căng chú kiết nào lại không tự xưng là tướng được?
Viên tướng càng thấm giận. Trong lúc đó thì công việc trong xe ổn thỏa hơn nhiều.
Bà bá tước khiến bảo bọn sen đầm như người nhà của bà. Bà vừa cho một tên trong bọn một đồng êquy để đi kiếm rượu vang và nhất là nước trong ở một cái nhà nhỏ nhìn thấy cách vài trăm bước. Bà có đủ thì giờ để trấn tĩnh Fabrixơ, anh ta trước chỉ chực chạy trốn vào rừng cây trên đồi.-Tôi có những khẩu súng tốt mà! Anh nói. Bà xin được ông tướng giận dỗi cho phép con gái lên ngồi trên xe. Quan tướng vốn thích nói về mình và gia đình mình, bèn nhân cơ hội cho các bà biêt con gái quan sinh năm 1803, ngày hăm bảy tháng mười, thì mới có mười hai tuổi, nhưng ai cũng tưởng mười bốn mười lăm tuổi bởi vì nó khôn quá.
Một con ngựa quá tầm thường, đôi mắt nữ bá tước nói thế với hầu tước phu nhân.
Nhờ có bá tước phu nhân, mọi việc được dàn xếp ổn thỏa sau cuộc đàm thoại một tiếng đồng hồ. Một tên sen đầm bỗng thấy mình có việc cần phải vào làng lân cận, nên cho quan tướng mướn con ngựa, sau khi bá tước bảo:- Trả cho anh mười frăng. Chỉ có mỗi mình viên trung sĩ đi với quan tướng. Bốn tên kia ngồi quây quần dưới bóng cây, quanh bốn chai rượu vang to tướng mà tên sen đầm được phái đến cái nhà nhỏ kia mang về, có một bác nông dân theo giúp. Tiểu thư Clêlia Côngti được quan tướng thị thần cho phép ngồi trong xe của các phu nhân để trở về Milăng, và thế là không ai nghĩ đến việc bắt bớ con tướng Pietranơra bá tước đôn hậu. Sau những phút ban đầu dành cho xã giao và những bình luận về sự biến nhỏ vừa xảy ra. Clêlia để ý thấy sắc thái sôi nổi trong những lời một bà lớn xinh đẹp đến thế nói với Fabrixơ. Bà hẳn không phải là mẹ anh ta. Cô để ý nhất đến những lời thường lặp lại về một cái gì dũng cảm, táo tợn, nguy hiểm mà anh vừa mới làm gần đây. Dù rất thông minh, cô Clêlia non trẻ cũng không đoán ra đó là việc gì.
Cách Milăng một dặm đường, Fabrixơ bảo anh cần đi thăm ông chú và từ giã các bà. Anh nói với Clêlia:
- Vạn nhất tôi thoát nạn thì tôi sẽ đi xem những bức tranh đẹp của thành Pácmơ, và lúc đó cô có hạ cố nhớ đến cái tên Fabrixơ Đen Đônggô chăng?
- Tốt lắm! Bà bá tước nói - Anh biết giấu tên họ khá đấy! Tiểu thư ạ, tiểu thư hãy chịu khó nhớ cái anh con trai bất trị kia là con tôi và mang tên họ Pietranơra chứ không phải Đen Đônggô.
Hai bà được người ta quý mến và các bà quen biết hết mọi người trong thành phố. Những nhân vật quan trọng nhất trong cánh thân Áo và ngoan đạo can thiệp cho Fabrixơ với nam tước Banhđe, giám đốc an ninh. Họ nói họ không quan niệm được vì sao người ta quan trọng hóa trò ngông của một thằng nhãi mười sáu tuổi bỏ nhà ra đi sau khi gây gổ với người anh cả.
Nam tước Banhđe là một người khôn ngoan và buồn bã. Ông dịu dàng đáp:- Cái nghề của tôi nó bắt cái gì cũng phải cho là quan trọng cả! Thời ấy ông lo ổn định tổ chức an ninh khét tiếng của thành Milăng và nguyện ngăn ngừa một cuộc cách mạng như cuộc cách mạng 1740 đã đuổi người Áo ra khỏi
Giênơ. Cái cơ quan an ninh Milăng ấy lừng danh từ những hoạn nạn của các ông Penlicô và Angđrianơ, nó không hẳn là tàn bạo, nó thi hành đúng mức và không thương xót những luật pháp nghiêm khắc. Hoàng đế Frăngxoa đệ nhị muốn người ta làm cho những bộ óc tưởng tượng táo bạo của người Ý phải khiếp.
Nam tước Banhde nói đi nói lại với những người che chở cho Fabrixơ:
- Hãy cho tôi biết từng ngày một và có căn cứ tiểu hầu Đen Đônggô đã làm gì kể từ khi anh ta rời Griăngta ra đi, ngày 8 tháng ba, cho đến khi anh ta tới thành phố này tối hôm qua và trốn trong một buồng ở nhà mẹ. Xong, tôi sẵn sàng coi anh ta như một thanh niên đáng mến nhất và nghịch ngợm nhất trong thành phố này. Nếu ngài không thể báo cho tôi biết hành trình của anh thanh niên kia trong những ngày anh rời Griăngta, thì dù anh thuộc dòng dõi thế gia nào, dù tôi kính mến những bạn hữu của gia đình anh nhất, bổn phận tôi buộc tôi cứ phải bắt anh. Bổn phận tôi không phải là cứ giam giữ anh ta cho đến khi anh chứng minh được là anh không hề chuyển đến cho Napôlêông những lời tâu bày gì của bọn bất mãn có thể có ở Lôngbácđi trong đám thần dân của Hoàng đế hay sao? Các ngài nên chú ý thêm rằng nếu Đen Đônggô thanh minh được điều ấy, anh vẫn còn cái tội đi ra nước ngoài không có hộ chiếu hợp pháp và đã mang tên giả và cố tình dùng hộ chiếu cấp cho một người thợ bình thường, nghĩa là một người ở tầng lớp hết sức thấp so với tầng lớp anh.
Lời tuyên bố hợp lý một cách tàn nhẫn đó được kèm theo tất cả những cử chỉ lễ phép và trang trọng cùa một ông trùm an ninh đối với vị trí xã hội cao sang của hầu tước phu nhân Đen Đônggô và những nhân vật quan trọng can thiệp cho bà.
Hầu tước phu nhân lấy làm thất vọng khi nghe câu trả lời của nam tước Banhde. Bà khóc và kêu lên:
- Fabrixơ sẽ bị bắt và khi đã bị tù thì họa có trời biết chừng nào nó được tha ra! Cha nó sẽ từ bỏ nó!
- Nhưng mà chị cũng thấy nam tước Banhde biết Fabrixơ ở đây chứ! Nữ bá tước nói - Ông ấy không phải là người hiểm ác.
- Đúng, nhưng ông ta muốn được lòng hoàng đế Grăngxoa.
- Nếu ông thấy bỏ tù Fabrixơ mà được thăng quan tiến chức thì hẳn thằng bé đã ngồi tù rồi. Cho nó trốn đi tức là tỏ ra có lòng nghi ngờ làm bẽ mặt ông ta.
- Tôi lại nghĩ rằng khi ông ta thú nhận biết Fabrixơ ở đâu tức là ông bảo chúng ta cho nó trốn đi! Không, tôi không có thể sống được khi tôi còn có thể tự nhủ: Trong mấy phút nữa, có lẽ con ta sẽ bị nhốt giữa bốn bức tường! Dù nam tước Banhđe có tham vọng gì đi nữa! Bà hầu tước nói thêm - Thì ông cũng thấy rằng tỏ ý nể nang đối với một người có vị trí xã hội như ông nhà tôi là có lợi cho địa vị của ông ta. Cứ xem thái độ cởi mở của ông khi ông nói ông biết có thể bắt Fabrixơ ở đâu thì đủ rồi. Hơn thế nữa, nam tước đã chịu khó kể lể chi tiết hai tội trạng mà Fabrixơ bị tố cáo bởi thằng anh chẳng đáng làm anh của nó. Ông giải thích là hai tội trạng ấy buộc người phạm phải vào tù. Như thế, không phải ông muốn bảo chúng ta nếu chúng ta thấy lưu vong biệt xứ là hơn thì tùy chúng ta chọn hay sao?
- Nếu chỉ chọn lưu vong! Nữ bá tước luôn luôn lặp lại - Thì suốt đời chúng ta không gặp lại nó.
Chắc ai cũng tưởng tượng được khi ngồi ở buồng lô nhà hát Xcala hai phu nhân đã chú ý vở kịch như thế nào. Họ chỉ đến đó để hỏi ý kiến mấy ngưòi bạn trong phái tự do bởi vì việc lui tới của những người này ở lâu đài Đen Đônggô có thể gây nghi ngờ cho bọn an ninh mật vụ. Trong buồng lô, họ quyết định vận động một lần nữa với nam tước Banhđe. Dùng tiền bạc để mua chuộc không thành vấn đề đối với vị pháp quan lương thiện ấy, vả lại các bà cũng nghèo lắm, các bà đã ép Fabrixơ mang theo tất cả số tiền bán kim cương còn lại, khi anh ra đi.
Tuy nhiên rất cần nghe tiếng nói cuối cùng của nam tước. Bạn bè của nữ bá tước nhắc đến một viên sa noan nào đó tên là Boócda, một thanh niên đáng mến ngày xưa đã từng săn đón bà, săn đón một cách không đẹp đẽ lắm, không thành công, hắn đã tố giác với tướng Pietranơra mối cảm tình của bà với Mimecati và vì thế bị mời ra khỏi cửa như một người tồi. Ngày nay, ông sa noan đó tối nào cũng đánh bài với bà nam tước Banhđe cho nên cũng dĩ nhiên là bạn thân thiết của ông chồng. Bà bá tước quyết định làm cuộc vận động khó nhọc và đáng tởm là đến cầu cạnh viên sa noan ấy, sáng hôm sau, hãy còn rất sớm, bà đến nhà ông ta trước khi ông đi. Khi người giúp việc duy nhất của viên sa noan báo có bá tước Pietranơra phu nhân, thì vị cố đạo xúc động đến nói không ra tiếng, ông cũng không kịp chỉnh đốn quần áo xộc xệch.
- Mời bà vào rồi anh đi đi, ông bảo, giọng nghẹn lại.
- Thằng điên cuồng khốn khổ này xin quỳ gối mà nhận mệnh lệnh của nữ bá tước.
- Tôi muốn cứ quỳ như thế này mà nhận lệnh của phu nhân, vì rõ ràng là phu nhân cần tôi giúp một việc gì đây, nếu không thì phu nhân chẳng hạ cố ngự đến cái nhà tồi tàn của thằng điên dại khốn khổ này, ngày xưa, cuống cuồng lên vì say đắm, lại vì ghen tuông, hắn đã xử sự với phu nhân như một tên hèn mạt, khi hắn thấy không có hy vọng gì lọt vào đôi mắt xanh kia.
- Anh hôn tay tôi đi và hãy đứng lên. (Phải hiểu rằng ở Ý, gọi người ta bằng anh là tỏ tình bạn chân thành tin cậy
- Nghĩa là Giơnevơ, viên sa noan mỉm cười bảo:
- Cái gì thế gian có thể làm, tôi sẽ làm vì phu nhân. Tôi hoàn toàn vâng chịu sự sai khiến của phu nhân. Tôi sẽ làm những điều táo bạo nguy hiểm. Thưa phu nhân, phu nhân bảo cho tôi biết tôi phải làm gì sau khi cái phòng khách khổ này đã vắng bóng dáng thần tiên, đánh dấu một kỷ nguyên lịch sử trong đời tôi.
- Phải đến nam tước Đanhđe nói rằng ông yêu mến Fabrixơ từ khi nó mới sinh, rằng ông đã chứng kiến sự ra đời của nó khi ông đến chơi nơi chúng tôi, rằng nhân danh cái tình bạn mà nam tước ban cho ông, ông van xin nam tước dùng tất cả bọn thám tử của ông ấy để xác minh xem trước khi đi Thụy Sĩ, Fabrixơ có gặp gỡ cái bọn thuộc phái tự do mà ông ấy kiểm soát một lần nhỏ nào không. Nếu nam tước mà có những người tay chân ít nhiều mẫn cán, tất ông sẽ thấy đây chỉ là một trò dại dột của tuổi trẻ. Ông biết rằng trong gian phòng lịch sự của tôi ở điện Đuynhani, có những bức tranh vẽ các trận đánh của Napôlêông. Thằng cháu tôi tập đọc những lời chú giải các bức tranh ấy. Ông chồng đáng thương của tôi đã giải thích các trận đánh ấy cho nó từ khi nó lên năm. Chúng tôi chụp lên đầu nó cái mũ trận của chồng tôi và thằng bé kéo lê cây gươm lớn của ông. Ấy thế là một ngày kia, nghe tin vị thần thánh của chồng tôi. Hoàng đế, trở về Pháp, nó ra đi để theo ngài, như một đứa không suy nghĩ, nhưng rồi nó cũng không gặp được ngài. Ông hỏi nam tước của ông thử xem ông ấy định dùng hình phạt gì để trừng trị cái phút điên dại kia.
- Tôi quên một điều!- Ông sa noan kêu lên * phu nhân sẽ thấy là tôi cũng xứng đáng với sự tha thứ của phu nhân lắm.
Ông sa noan cùng đọc lá thư với nữ bá tước và họ giao hẹn nội nhật hôm đó, ông ta trao cho bà một bản sao do một người tin cẩn chép. Bà bá tước trở về lâu đài Đen Đônggô lòng dạ phơi phới. Bà nói với bà hầu tước:
- Cái tên đểu cáng ngày trước đó nay lịch sự đáo để, khó có ai bì. Tối hôm nay ở nhà hát Xcala, khi đồng hồ nhà hát chỉ mười giờ bốn mươi lăm thì chúng ta cho mọi người về, chúng ta tắt hết đèn đóm, đóng cửa và đến mười một giờ thì ông sa noan sẽ đến báo cho chúng ta biết ông ta đã làm được gì. Đó là cách ít rầy rà nhất cho ông ta. Viên sa noan ấy rất khôn ngoan, ông chẳng để sai hẹn. Trong buổi gặp gỡ, ông tỏ ra hoàn toàn tốt bụng và cởi mở không dè dặt, điều chỉ thấy có ở những xứ mà tính khoe khoang không át tất cả mọi tình cảm. Việc ông ta tố giác bà bá tước với tướng Pietranơra là niềm ân hận lớn trong đời ông và ngày nay ông đã tìm thấy cách thành toàn mối ân hận đó.
Chênh lệch tuổi tác... không nhiều lắm... Fabrixơ sinh sau lúc quân Pháp đến, vào 98, có lẽ nàng thì hăm bảy hoặc hăm tám, đẹp tuyệt trần, không thể có người xinh hơn, muôn phần đáng mê. Trong cái xứ sản sinh nhiều người đẹp này, nàng ăn đứt tất, sánh với nàng Marini, nàng Gherađi, nàng Ruyga, nàng Arơixi, nàng Pietragruya... nữ bá tước trội hơn cả... Họ - Một trong ba con ngựa kia là của tao, mẹ kiếp! Nhưng mà tao sẵn lòng cho mày năm frăng vì mày đã cất công giắt nó đến đây cho tao.