Đăng nhập
THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U)
Trang chủ
Wiki
>
DỰ ÁN DO THÀNH VIÊN TỰ TIẾN HÀNH
>
4. Dự Án Đã Hoàn Thành
>
Triết Học Mỹ - Bùi Đăng Duy & Nguyễn Tiến Dũng (đã có eBook)
>
08. Superlazy (done)
>
Mời tham gia cuộc thi "CHIA SẺ KỶ NIỆM ĐÁNG NHỚ" nhân dịp TVE-4U 10 tuổi
Hướng dẫn chuyển đổi các định dạng eBook
Hướng dẫn xử lý lỗi không 'download - viết bài - xem link' được trên diễn đàn
08. Superlazy (done) - Sửa
Tiêu đề:
Link URL:
Data Type:
BB Codes
<p>CHỦ NGHĨA CÔNG CỤ</p><p><br /></p><p>Dewey ra sức hoàn thiện chủ nghĩa thực dụng bằng chủ nghĩa công cụ. Dewey định nghĩa về chủ nghĩa công cụ của mình như sau: “Những lý thuyết không phải là những câu trả lời của những câu đố, từ đó phân phát hòa bình mà đó là những kết cấu được sử dụng như những công cụ”. Dewey dùng khái niệm “công cụ” và bằng khái niệm đó, ông tước bỏ khỏi lý luận những tính chất chứa sẵn của những tư tưởng. Công cụ không thể ăn được. Không có khái niệm nào có thể giảm giá trị cái vương quốc ấy được coi như người sản sinh ra một cái kho vĩnh cửu.</p><p><br /></p><p>Dewey chống lại chủ nghĩa duy lý cho rằng chân lý là khái niệm, là lý tính có sẵn. Theo ông bất cứ tư tưởng, khái niệm nào không thể là thực tại tinh thần tồn tại độc lập. Chỉ có thể coi chúng là giả thiết ứng dụng và giả thiết được nêu lên theo ý nguyện của con người. Nó giống như công cụ của con người để chế tác sản phẩm nào đó, nó hoàn toàn do người sử dụng công cụ thuận lợi cho mình. Tư tưởng, khái niệm, lý luận chẳng qua là công cụ của con người nhằm đạt mục đích dự định. Nếu chúng có tác dụng làm cho con người đạt tới mục đích dự định, đến thành công thì đó là chân lý, nếu không là hoang đườ<i>ng</i>.</p><p><br /></p><p>Với tư cách là nhà thực dụng, Dewey còn là một nhà cải cách, ông muốn phục hồi tính <i>chất</i> nguyên sơ của phương pháp do Peirce sáng tạo. Ông không lập ra học thuyết mà chỉ đưa lại uy tín cho nó và chống lại những lý giải sai lầm về nó.</p><p><br /></p><p><br /></p><p>Trước hết giải thoát những lầm lẫn đẻ ra từ chữ “thực tiễn” chỉ nhằm thỏa mãn đói khát của những cá nhân. Theo Dewey, đây phải là những giá trị phổ quát và cho đại chúng.</p><p><br /></p><p>Trong <i>Cải tạo của</i> <i>triết</i> <i>học</i>, Dewey nói về tình trạng chủ nghĩa thực dụng bị một số người ghét bỏ, bởi vì người ta nghĩ sai lạc rằng chân lý chỉ là một sự thỏa mãn mà thỏa mãn đó lại chỉ dành riêng cho cá nhân, rằng hiệu quả cũng được xem là hiệu quả của mục đích thuần túy cá nhân. Không, đây là thỏa mãn lợi ích, hiệu quả cho con người, cho đại chúng.</p><p><br /></p><p>Mặc dù chủ nghĩa công cụ thừa nhận chân lý không nhằm thỏa mãn yêu cầu của cá nhân mà có tính phổ quát, đại chúng. Nhưng chân lý đó lại chỉ là tương đối. Tuyệt đối không có chân lý tuyệt đối, chân lý đều là tạm thời, là giả thiết.</p><p><br /></p><p>Bác bỏ mọi chủ nghĩa thực dụng tầm thường, Dewey khẳng định rằng “chủ nghĩa thực dụng là một ý tưởng giải thích mà suy nghĩ theo những hiệu quả của nó, bất kể hiệu quả ấy mang tính thẩm mỹ, luân lý, chính trị hay tôn giáo”.</p><p><br /></p><p>Cả ba người Peirce, James, Dewey trong khuôn khổ của chủ nghĩa thực dụng đều gặp nhau <i>ở</i> chỗ họ cho con đường tuyệt vời của họ là nhìn học thuyết của họ như là một phương pháp xác định những khái niệm và những lý luận trong sự phát triển của những hiệu quả của chúng.</p><p><br /></p><p>TỪ CƯƠNG LĨNH TRIẾT HỌC ĐẾN CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ</p><p><br /></p><p>Dewey đã viết rằng: “Nhiệm vụ của triết học về tương lai là khai sáng những tư tưởng của con người trong chừng mực mà họ đặt thành vấn đề những mục tiêu và những xung đột tinh thần và xã hội của thời đại họ”.</p><p><br /></p><p>Cương lĩnh triết học quan trọng nhất của Dewey chính là cương lĩnh chính trị của ông. Như đã thấy, Dewey không tìm đến những phạm trù xa xôi nào đó; lý luận gần nhất của ông có thể tìm thấy qua luân lý, sư phạm và chính trị (ba từ đó có khi đều nói về một vấn đề). Lý luận đó được gọi là “chủ nghĩa tự do triệt để".</p><p><br /></p><p>Tính triệt để của chủ nghĩa tự do của Dewey là ở chỗ, như ông viết: một triết học lịch sử ở Mỹ phải là triết học về tương lai chứ không phải về quá khứ. Theo hướng đó, triết học của Dewey có thể tóm lược như sau. Chủ nghĩa tự do triệt để nhằm loại trừ những yếu tố chưa được tự do đã bị làm méo mó và không giao phó cho thần thánh mà chỉ cho những gì được thiết lập bởi con người. Nó không muốn dựa vào những ý muốn tốt nào mà là tìm “một biến đổi cơ bản của những thiết chế”. Nó không muốn điều đó bằng bạo lực. Vậy thì làm sao đây? “Chủ nghĩa tự do triệt để” trước hết là một chủ nghĩa chống chung chạ, đồng thời cũng biết tới những nguy hiểm của sự cạnh tranh man rợ.</p><p><br /></p><p>Bây giờ chúng ta lần lượt đi vào từng vấn đề.</p><p><br /></p><p>Trước hết là vấn đề cải tạo triết học xã hội.</p><p><br /></p><p>Dưới khẩu hiệu “cải tạo triết học”, Dewey muốn cải tạo căn bản mọi lý luận chính trị trong truyền thống. Từ phương pháp thăm dò thực nghiệm có hiệu quả trong khoa học tự nhiên, Dewey áp dụng phương pháp thăm dò hành vi trong những vấn đề chính trị xã hội và lịch sử.</p><p><br /></p><p>Theo Dewey, nguyên nhân của sự phá sản triết học xã hội trước đây và tình trạng lún sâu vào những khủng hoảng trong lĩnh vực chính trị xã hội hiện nay ở đâu? Phương pháp thăm dò kinh nghiệm phải được thực nghiệm nhằm không chỉ khắc phục khủng hoảng mà còn mở đường cho chính trị xã hội đi tới “cuộc cách mạng Copemic thực sự”.</p><p><br /></p><p>Về quan hệ giữa xã hội và cá nhân thường có ba xu hướng sau đây: 1. Chủ trương đặt cá nhân lên trên hết xã hội phải phục tùng cá nhân; 2. Ngược lại với chủ trương trên, chủ trương thứ hai coi xã hội trên hết, cá nhân phục tùng mọi mục đích và cách sống do xã hội quy định; 3. Xã hội và cá nhân có liên quan với nhau, là một thể hữu cơ, xã hội cần có những hiệu quả ở sự phụ thuộc của cá nhân. Nói chung các quan điểm trên đều xuất phát từ khái niệm, dùng khái niệm chung để khái quát hoàn cảnh đặc thù, đó là những thiếu sót chung của những xu hướng trên. Loại lý luận chính trị xã hội được cấu thành từ khái niệm, không nhằm vào con người cụ thể, tổ chức và xã hội cụ thể. Cái cần cho việc chỉ đạo đời sống và hành vi xã hội là cái đặc thù.</p><p><br /></p><p>Lý luận chính trị xã hội của Hegel tiêu biểu cho quan điểm xuất phát từ khái niệm chung cần phải vượt qua.</p><p><br /></p><p>Cuối cùng Dewey dùng phương pháp thăm dò kinh nghiệm để phát hiện ra những nhu cầu của con người và những hiệu quả của họ để đi tới thành công.</p><p><br /></p><p>Một mặt quan trọng khác của “cải tạo triết học” về xã hội của Dewey là bác bỏ chủ nghĩa nhất nguyên lịch sử và khẳng định chủ nghĩa đa nguyên lịch sử. Đối với lịch sử xã hội, phải căn cứ vào các hiện tượng lịch sử cụ thể, khác nhau để có sự giải thích khác nhau. Những khái niệm về xã hội, lịch sử, chính trị, đạo đức đều không có ý nghĩa cố định, đều không thể là điểm xuất phát. Người ta có thể từ những điểm xuất phát khác nhau để đi <i>tới</i> những luận đề khác nhau, mang những ý tưởng khác nhau.</p><p><br /></p><p>Ví như khái niệm xã hội, có người cho đó là những quan hệ kinh tế xã hội, coi xã hội là một cộng đồng kinh tế. Có người lại cho đó là một cộng đồng văn hóa, đạo đức, tôn giáo, giáo dục. Xã hội như thế không thể là nhất nguyên mà là đa nguyên. Nó không định hình mà biến đổi không ngừng do người quan sát nó, kinh nghiệm <i>về</i> nó. Người ta bắt gặp ở đây nhiều phương thức liên kết với nhau để theo đuổi những mục tiêu khác nhau: một đảng phái, một giới công chức, một công ty cổ phần, một đồng minh quốc tế...</p><p><br /></p><p>Chủ nghĩa đa nguyên gắn liền với chủ nghĩa tiến hóa xã hội, bởi vì mỗi lợi ích của con người tuy có phát triển, nhưng tiến hóa đó “chỉ <i>có</i> thể là bán lẻ, chứ không thể là bán buôn”, chỉ có thể là “thu gom” chứ không thể đóng từng bao.</p><p><br /></p><p><br /></p><p>Người ta cho rằng chủ nghĩa tiến hóa của Dewey in đậm nét chủ nghĩa tiến hóa sinh vật. Nó thể hiện đầy đủ phương pháp thăm dò kinh nghiệm của Dewey mưu cầu sự thành công trong cuộc sống hàng ngày. Ông viết: “Mỗi ngày lo cho mình là đủ rồi, chúng ta có thể uốn nắn động lực và hành động và ra sức làm cho cuộc đấu tranh trở nên hài hòa, cuộc sống <i>muôn</i> <i>màu</i> muôn vẻ trở nên bức tranh đẹp, biến cái có hạn thành cái mở rộng, thế là đủ rồi. Cải tiến tức là tiến bộ và cũng là tiến bộ duy nhất mà người ta có thể nghĩ đến và đạt được”.</p><p><br /></p><p>Lý luận về dân chủ và tự do là phần quan trọng nhất của lý luận chính trị xã hội của Dewey. Ông gọi xã hội mà ông khẳng định là xã hội dân chủ chủ nghĩa, gọi Nhà nước theo lý tưởng ông vạch ra là Nhà nước dân chủ tự do.</p><p><br /></p><p>Tư tưởng cơ bản trong triết học chính trị của Dewey như sau: trường phái công cụ tự nhận là đầy đủ về dân chủ bởi vì trong trật tự thực tại cũng như trong trật tự xã hội, nó đối lập với cái tuyệt đối vững mạnh bằng sự tiến hóa không ngừng mà mỗi công dân bằng nỗ lực trí tuệ có thể hướng mọi lúc về sự tiến bộ.</p><p><br /></p><p>Như vậy, mỗi công dân là chủ của Nhà nước, của xã hội. Dewey viết: “Khái niệm dân chủ trái ngược với chính trị quý tộc ở chỗ nó phải tích cực thăm dò ý kiến mỗi người, làm cho mỗi người trở thành một bộ phận của quá trình thực hiện quyền uy và quá trình chi phối xã hội. Cần phải làm cho nhu cầu và ham muốn của mỗi người được ghi lại, làm cho họ có vai trò quyết định trong mọi chính sách. Dewey cho rằng mục đích và kết quả thực hiện dân chủ là “mở một thời đại không chỉ về vật chất giàu có mà còn là thời đại của cơ hội văn hóa, bình đẳng là thời đại mà mỗi người có cơ hội bình đẳng trong việc phát huy năng lực của mình”.</p><p><br /></p><p>Khái niệm tự do của Dewey là sự phát triển khái niệm dân chủ, vì dân chủ bao gồm việc đưa lại cho dân quyền, bình đẳng và tự do. Một xã hội dân chủ là xã hội mà ở đó người người đều có quyền tự do, bình đẳng. Lý tưởng của chủ nghĩa dân chủ là kết hợp bình đẳng và tự do. Dewey đã lần lượt lên án mọi chế độ chuyên quyền như chủ nghĩa phát xít và đồng loại.</p><p><br /></p><p>Thực hiện con đường tự do, dân chủ ra sao? Dewey cho rằng biện pháp căn bản của xã hội là loại trừ chế độ thế tập, thực hiện chế độ dân cử.</p><p><br /></p><p>Theo Dewey, bản chất của nhà nước, của cơ quan phục vụ đại chúng là ở chỗ cơ quan do toàn dân có một đạo lý chung, điều hòa mọi tranh chấp xảy ra trong xã hội.</p><p><br /></p><p>Quyền lực của Nhà nước thường bị sử dụng sai, bị lạm dụng, trở thành công cụ cho một số ít người theo đuổi những mưu lợi riêng. Quyền lực của Nhà nước phải thông qua cá nhân, nhưng những cá nhân đó lại chỉ tìm cách thỏa mãn lợi ích riêng tư, lợi ích của gia đình, của một tập đoàn. Lợi ích riêng của họ đã đánh bạt công đức, lợi ích chung của xã hội.</p><p><br /></p><p>Nguyên nhân của tình hình là đâu? Các thể chế độc tài chuyên chế không qua bầu cử, không chịu ràng buộc của cử tri, đã dễ dàng quên đi trách nhiệm bảo đảm quyền lợi, tự do, dân chủ cho đại chúng. Không có con đường nào khác là bầu cử, “hòm phiếu sẽ trở thành ngày phán quyết số phận của người cầm quyền. Nhiệm kỳ của các quan chức phải ngắn, không bao giờ thực hiện quyền lực suốt đời, phải bãi miễn những người không làm được việc”.</p><p><br /></p><p>Dewey nêu lên các mối đe dọa nền dân chủ: chủ nghĩa phát xít, các tập đoàn lũng đoạn, chiến tranh khủng hoảng kinh tế... Làm sao bảo đảm được dân chủ tự do? Cần cải tạo dân chủ tự do, vứt bỏ quan niệm cũ, chấp nhận quan niệm mới gồm hai điểm chủ chốt sau đây:</p><p><br /></p><p><i>Một</i> <i>là</i> quyền dân chủ, tự do cá nhân phải phục tùng sự điều khiển xã hội. Ông không tán thành trường phái tự do ở thế kỷ XVIII - XIX đã tuyệt đối hóa quyền tự do của cá nhân, đã không thúc đẩy sự hài hòa và nương tựa lẫn nhau giữa con người, mà còn gây ra xung đột, phân biệt và cuối cùng là sự áp đặt của số ít đối với số đông. Theo ý nghĩa đó, Dewey và các người theo ông gọi chủ nghĩa dân chủ của mình là “chủ nghĩa tập thể dân chủ”, hay "chủ nghĩa xã hội dân chủ”.</p><p><br /></p><p>Cần xem xét rõ hơn về việc Dewey nêu lên <i>chủ</i> <i>nghĩa</i> <i>cá</i> <i>nhân</i>.</p><p><br /></p><p>Đương thời ở Mỹ, người ta nói <i>tới</i> từ ngữ rugged individualism, ở đây cá nhân đi <i>tới</i> cũng bằng sự tàn bạo. Người ta không thể không thấy trong lĩnh vực kinh tế có một yếu tố chống lại chủ nghĩa tự do: ấy là các tổ chức kinh tế khổng lồ. Cho nên không thể không chống lại cái chủ nghĩa cá nhân tàn bạo đó.</p><p><br /></p><p>Nhưng, cũng tại thời điểm đó, chủ nghĩa quốc xã và đồng loại uy hiếp hơn bao giờ hết số phận của cá nhân, người ta lại thấy Dewey càng tôn vinh chủ nghĩa cá nhân hơn. Ông viết trong những năm 30 rằng “hơn bao giờ hết giờ đây tôi cần nhấn mạnh rằng những cá nhân là những yếu tố cơ bản trong cuộc sống của xã hội”, họ luôn luôn sẽ là “trung tâm”, chỉ họ mới đưa lại những kinh nghiệm. Ông nêu lên hai chủ nghĩa tập thể lớn đe dọa nghiêm trọng đối với cá nhân: “Chủ nghĩa tập thể riêng, chủ nghĩa tập thể Nhà nước”.</p><p><br /></p><p>Ông đưa ra một con đường khác mà ông gọi là “chủ nghĩa xã hội chức năng” không do những con vật kinh tế khổng lồ, cũng không do Nhà nước lập nên mà do những cá nhân tạo thành “một cách tự phát”. Dewey dùng khái niệm “một cách tự phát” để ví cá nhân trong thế giới hiện đại muốn tự do thì nên sống như người buôn bán xưa kia sống dưới chân các lâu đài phong kiến. Họ đã chiếm lĩnh thế giới này bằng những công việc khá là khiêm tốn.</p><p><br /></p><p><i>Hai</i> <i>là</i> Dân chủ, Tự do chỉ có thể bền vững khi lấy đạo đức làm nền tảng. Phải làm cho dân chủ tự do trở thành bản tính của con người, trở thành một bộ phận tố chất của nhân dân, trở thành cách sống của mọi con người.</p><p><br /></p><p>Nói đến vấn đề chủ nghĩa dân chủ là vấn đề quyền tối cao của nhân dân và là một giá trị đạo đức.</p><p><br /></p><p>Vì là những giá trị đạo đức cho nên phải có giáo dục. Dewey đã có những đóng góp quan trọng về giáo dục.</p><p><br /></p><p>Theo Dewey chính trong những “tổ hợp tự phát” mà cần có một yếu tố cuối cùng là xây dựng nhà trường.</p><p><br /></p><p>Dưới con mắt của Dewey, nhà trường là phòng thí nghiệm, ở đó người ta thực hiện những kinh nghiệm quyết định để phát triển, tổ chức con người dù nó rộng lớn đến đâu. Cho nên Dewey coi giáo dục như tổng hành dinh triết học. Xin đọc câu sau đây: định nghĩa có ý nghĩa nhất về triết học là: “Triết học là lý luận về giáo dục ở giai đoạn tổng quát nhất”. Điều này có nghĩa là triết học phải định hướng cho cá nhân và cho xã hội.</p><p><br /></p><p>Trụ cột là nền tảng cho ngôi nhà, nhà trường của Dewey là như sau: người ta không thể phân biệt lề thói cũ có ích với một nền văn hóa cao, một thực tiễn thấp với một tinh thần cao. Sự cắt đứt đó quy về “sự tách biệt có điều kiện trên bình diện xã hội” giữa những người tư duy và những người hành động. Dewey đặt cho mình nhiệm vụ phục hồi lại cái có ích và hành động.</p><p><br /></p><p>Cải cách giáo dục của Dewey gặp phải những lời chỉ trích từ phía giáo dục truyền thông.</p><p><br /></p><p>Thực ra giáo dục của Dewey vẫn mang sức sống của truyền thống Mỹ. Người ta vẫn thấy nó mang dấu tích của Emerson và có thể nói rộng ra cả những dấu tích của Nietzsche, bởi vì nhà triết học Đức cũng cho rằng nguồn gốc của nền văn hóa Hy Lạp không ở trong truyền thống mà là trong tự nhiên.</p><p><br /></p><p>Những đối thủ của Dewey thường kết án giáo dục của ông là thấp lè tè mặt đất. Đáp lại, năm 1949, một nhà công nghiệp phàn nàn về tính chất thấp bé của nhà trường của Dewey, người ta trả lời ông ta rằng nhà trường của Dewey không dạy người ta đi tìm lợi nhuận mà là một <i>training</i> <i>for</i> <i>living</i> <i>training</i> <i>to</i> <i>make</i> <i>a</i> <i>living</i> có nghĩa là nhà trường ấy dạy nghệ thuật để sống.</p><p><br /></p><p>CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN</p><p><br /></p><p>Peirce, James, Dewey đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng xong chủ nghĩa thực dụng làm ý thức hệ cho nước Mỹ.</p><p><br /></p><p>Kể từ nửa cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dụng không còn hoạt động sôi nổi, nhưng không phải nó bị bỏ lại ở sân sau. Mỗi trào lưu triết học một khi đã đi vào cuộc sống, thành cái hồn của một dân tộc thì nó chẳng còn cần náo nhiệt như lúc nó ra đời với 13 loại chủ nghĩa thực dụng.</p><p><br /></p><p>Nói như trên không có nghĩa là chủ nghĩa thực dụng chấm dứt với ba nhân vật nói trên: nó đã đi hết vào mọi lĩnh vực tinh thần và xã hội của nước Mỹ. Còn có những tìm tòi khác về chủ nghĩa thực dụng.</p><p><br /></p><p>Ngay trong những năm 20 của thế kỷ trước C.I. Lewis cũng đề xướng một “chủ nghĩa thực dụng khái niệm”.</p><p><br /></p><p>Chịu ảnh hưởng của triết học phân tích (từ Rudolf Camap, Charles Morris, E. Nagel, W. Quine), Lewis muốn khái niệm hóa kinh nghiệm. Vì vậy người ta bảo Lewis gần nhà triết học logic Pierce hơn <i>James</i> và Dewey.</p><p><br /></p><p>Lewis nhấn mạnh vào vai trò của trí óc như một khả <i>năng</i> tổ chức và giải thích kinh nghiệm cảm giác chứ không quan niệm trí óc như một khả năng gồm những nguyên tắc và phạm trù tiên thiên (theo khuynh hướng chủ nghĩa khái niệm).</p><p><br /></p><p>Thay vào những nguyên tắc và những phạm trù tiên thiên, Lewis đề ra những nguyên tắc, những phạm trù có tính tiên quyết thực tiễn. Nhưng tất cả những quyết định công nhận hay phủ nhận những nguyên tắc, những khái niệm tiên thiên kia xét tới cùng lại lệ thuộc vào những nhu cầu và những mục tiêu do xã hội đặt ra. Do đó ta mới am hiểu và kiểm soát được những hành động của ta tùy theo lợi ích đã cho.</p><p><br /></p><p>Trong cuốn <i>Trí</i> <i>óc</i> <i>và</i> <i>trật</i> <i>tự</i> <i>thế</i> <i>giới</i>, Lewis đã đưa ra một định nghĩa về lý luận của ông rằng: “Công việc giải thích kinh nghiệm của ta luôn luôn phải theo những phạm trù và những khái niệm mà trí óc ta đã xác định. Những phạm trù và khái <i>niệm</i> <i>ấy</i> <i>có</i> <i>thể</i> là một hệ thống khái niệm song song làm khởi phát những miêu tả của kinh nghiệm sống”.</p><p><br /></p><p>Như vậy, bao giờ vô tình hay hữu ý tức một cách khách quan, công việc lựa chọn cũng sẽ căn cứ trên những căn bản thực dụng chủ nghĩa, bao giờ cũng được khích lệ, được biện hộ do những nhu cầu thực tiễn của con người và sự thỏa mãn hữu hiệu những nhu cầu ấy.</p><p><br /></p><p>Triết học của Lewis là một sắc thái của chủ nghĩa thực dụng, chứng tỏ những luận đề thực dụng của nó có sức mạnh chinh phục đến mức độ nào. Chủ nghĩa thực dụng khái niệm của Lewis chỉ có thể dừng ảnh hưởng tại đây, bởi vì chủ nghĩa khái niệm của nó xét cùng kỳ lý không thể nào có sức mạnh chinh phục bằng chủ nghĩa kinh nghiệm mà các nhà sáng lập chủ nghĩa thực dụng trước hết là James đã thu lượm được trong mùa gặt tâm hồn Mỹ.</p><p><br /></p><p>CHƯƠNG III</p><p><br /></p><p>NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN KHÁC</p><p><br /></p><p>1. CHỦ NGHĨA FREUD Ở MỸ</p><p><br /></p><p>Sau khi Freud qua đời, để tránh sự đàn áp của chủ nghĩa phát xít Đức, một số nhà phân tâm học trẻ tuổi đã di cư sang Mỹ và cho ra đời chủ nghĩa Freud mới.</p><p><br /></p><p>Học thuyết của Freud chưa hoàn toàn thoát khỏi những dấu tích của khoa học cổ điển, tính duy lý, tính cơ giới và quyết định luận, vì vậy Adler (1870 - 1937), Jung (1875 - 1961) và bây giờ đến lượt các nhà phân tâm học Mỹ đã muốn đổi mới nó thực hiện sự chuyển biến từ “cổ điển” sang “hiện đại” của phân tâm học.</p><p><br /></p><p>Những người dựng lá cờ của chủ nghĩa Freud mới ở Mỹ ngoài Karen Horney, Erich Fromm, còn có các nhà phân tâm học khác như P. S. Sullivan, A. Kardiner, E. N. Eriksan... Những nhà phân tâm học trên tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng họ đều chú trọng <i>tới</i> nhân tố xã hội trong bệnh học tâm thần, nhấn mạnh nhân tố văn hóa trong sự hình thành và phát triển của nhân cách, họ phủ định tính cơ giới của libido, của giới tính và muốn thay bằng nhân tố văn hóa và hoàn cảnh xã hội. Vì lẽ đó chủ nghĩa Freud mới <i>ở </i>Mỹ thường được gọi là trường phái “văn hóa tâm lý” hay trường phái “tâm lý học xã hội”.</p><p><br /></p><p>Chủ nghĩa Freud ở Mỹ còn đổi mới ở việc lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện một mưu đồ muốn “dung hợp” chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Mác. Có hai người đã thực hiện xu hướng này; Winhelm Reich và Herbert Marcuse.</p><p><br /></p><p>CHỦ NGHĨA FREUD MỚI Karen Horney (1885 -152)</p><p><br /></p><p>Bà là một nhà bệnh lý học tâm thần và một nhà phân tâm học người Đức, quốc tịch Mỹ. Bà là đại biểu chính của chủ nghĩa Freud mới. Bà đã từng được huấn luyện về phân tâm học ở Viện nghiên cứu phân tâm học Berlin. Năm 1932, bà di cư sang Mỹ và sáng lập Viện nghiên cứu phân tâm học Mỹ.</p><p><br /></p><p>Horney đề xướng khái niệm “lo âu cơ bản” trong phân tâm học. Bà tán thành luận điểm của Freud về sự xung động của vô thức quyết định hành vi của con <i>người</i>, nhưng kiên quyết bác bỏ việc lý giải sự xung đột vô thức của con <i>người</i> từ sự xung động của bản năng về tính dục: con người không phải bị thống trị của "nguyên tắc khoái lạc” mà bởi nhu cầu an toàn. Động cơ chủ yếu của mỗi con người khi sinh ra ở đời chính là sự tìm tòi an toàn, tránh được sự đe dọa và sợ hãi. Do con người sinh ra trong một thế giới đầy âm mưu thù địch mà lại không nhìn thấy, bởi vậy họ tràn ngập nỗi lo sợ, không an toàn. Loại cảm giác không an toàn này dẫn tới lo âu. Bởi vậy, tìm kiếm an toàn xóa bỏ lo âu đã trở thành sự xung động vô thức chủ yếu của con người, trở thành lực đẩy bên trong chủ yếu của hành vi con người ( người ta bắt gặp chủ đề lo âu trong chủ nghĩa hiện sinh và trong văn học ở Châu Âu và cả ở Mỹ).</p><p><br /></p><p>Xóa bỏ xung động của lo âu đi liền với sự phát triển của nhân cách. Cũng như Freud, Horney khẳng định rằng nhân cách phát triển từ thời ấu thơ, nhưng nhân cách đó phát triển không phải từ giai đoạn phát triển libido, tức từ giai đoạn phát triển tính dục nguyên thủy. Bà cho rằng đó chính là tác dụng của hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là hoàn cảnh gia đình. Trẻ em tìm tòi an toàn, xóa bỏ lo âu chủ yếu được tiến hành trong phạm vi gia đình, chúng được thỏa mãn về sự an toàn đến đâu là phụ thuộc vào thái độ ứng xử của các người trong gia đình đối với chúng...</p><p><br /></p><p>Nếu trẻ em thiếu sự đùm bọc, thiếu tình yêu thương của gia đình thì sẽ có thể nảy sinh những lo lắng không hiện thực. Và nếu những lo lắng này không được loại trừ kịp thời thì có thể phát triển thành lo âu mang tính thần kinh.</p><p><br /></p><p>Trong giai đoạn này, trẻ em bắt đầu có những phản ứng đối với ảnh hưởng của gia đình. Những phản ứng được lặp đi lặp lại và hình thành nhân cách.</p><p><br /></p><p>Nhân cách trẻ em khác nhau, vì chúng xuất hiện trong những gia đình khác nhau.</p><p><br /></p><p>Freud chia nhân cách thành ba bộ phận hợp thành: “Cái đó”, ’'Tôi” và “Siêu tôi”. Horney cho rằng kết cấu của nhân cách là tổ hợp của “chân tôi”, “thực tôi” và “Tôi lý tưởng”. “Chân tôi” là bộ phận thuộc tiềm năng “Trời cho”. Nó rất sống động, là trung tâm sinh mạng thực sự của mỗi con người. “Thực tôi” là do “chân tôi” chịu sự tôi luyện, hun đúc của hoàn cảnh gia đình mà thành, tình huống mà nó biểu hiện là thực tế, là hiện thực. “Tôi lý tưởng” cũng hình thành từ ảnh hưởng của hoàn cảnh, nhưng khác “thực tôi” ở chỗ nó tồn tại trong ý niệm.</p><p><br /></p><p>Horney phân tích tính hạn chế của thuyết Freud. Cũng như Adler và Jung, Horney nhấn mạnh hơn tác dụng của nhân tố văn hóa và xã hội trong sự hình thành của nhân cách. Thay đổi hoàn cảnh xã hội là then chốt của việc điều trị bệnh tâm thần.</p><p><br /></p><p>Bằng những đóng góp mới của các nhà phân tâm học trên, phải chăng tính cơ giới quyết định chủ nghĩa trong lý thuyết về tình dục của Freud đã được khắc phục trong chừng mực nào đó.</p><p><br /></p><p>Erich Fromm (1900 -1980) là nhà lý luận quan trọng nhất của chủ nghĩa Freud mới.</p><p><br /></p><p>Ông là thành viên chủ chốt của trường phái Frankfurt. Năm 1922, ông đạt được học vị tiến sĩ triết học và từ 1929, ông làm việc tại Viện nghiên cứu phân tâm học Frankfurt. Đầu những năm 1929, ông được Max Hockheimer (1895 - 1973), giám đốc Viện nghiên cứu xã hội Frankfurt mời tham gia nghiên cứu “Lý luận phê phán xã hội”. Ông là tác giả soạn thảo văn bản quan trọng này của tạp chí thư viện của trường phái đó. Năm 1934, ông di cư sang Mỹ và lần lượt làm việc tại Viện nghiên cứu xã hội New York và trường đại học Colombia. Từ sau những năm 1940, ông chia tay với trường phái Frankfurt và lao vào công việc xây dựng chủ nghĩa Freud mới. Ông cùng với Horney lập ra học hội chủ nghĩa Freud mới ở Mỹ. Ông cũng là hội viên học hội phân tâm học Washington và hội viên Hội tâm lý học Mỹ.</p><p><br /></p><p>Các tác phẩm chính của Fromm: <i>Chạy</i> <i>trốn</i> <i>khỏi</i> <i>tự</i> <i>do</i>, <i>Sứ</i> <i>mệnh</i> <i>của</i> <i>Sigmund</i> <i>Freud</i>, <i>Quan</i> <i>niệm</i> <i>của</i> <i>Mác</i> <i>về</i> <i>con</i> <i>người</i>, <i>Con</i> <i>người</i> <i>nó</i> <i>là</i> <i>như</i> <i>thế</i>, <i>Sự</i> <i>nghiên</i> <i>cứu</i> <i>mang</i> <i>tính</i> <i>phá</i> <i>hoại</i> đ<i>ối với</i> <i>con</i> <i>người</i>.</p>
CHỦ NGHĨA CÔNG CỤ Dewey ra sức hoàn thiện chủ nghĩa thực dụng bằng chủ nghĩa công cụ. Dewey định nghĩa về chủ nghĩa công cụ của mình như sau: “Những lý thuyết không phải là những câu trả lời của những câu đố, từ đó phân phát hòa bình mà đó là những kết cấu được sử dụng như những công cụ”. Dewey dùng khái niệm “công cụ” và bằng khái niệm đó, ông tước bỏ khỏi lý luận những tính chất chứa sẵn của những tư tưởng. Công cụ không thể ăn được. Không có khái niệm nào có thể giảm giá trị cái vương quốc ấy được coi như người sản sinh ra một cái kho vĩnh cửu. Dewey chống lại chủ nghĩa duy lý cho rằng chân lý là khái niệm, là lý tính có sẵn. Theo ông bất cứ tư tưởng, khái niệm nào không thể là thực tại tinh thần tồn tại độc lập. Chỉ có thể coi chúng là giả thiết ứng dụng và giả thiết được nêu lên theo ý nguyện của con người. Nó giống như công cụ của con người để chế tác sản phẩm nào đó, nó hoàn toàn do người sử dụng công cụ thuận lợi cho mình. Tư tưởng, khái niệm, lý luận chẳng qua là công cụ của con người nhằm đạt mục đích dự định. Nếu chúng có tác dụng làm cho con người đạt tới mục đích dự định, đến thành công thì đó là chân lý, nếu không là hoang đườ[I]ng[/I]. Với tư cách là nhà thực dụng, Dewey còn là một nhà cải cách, ông muốn phục hồi tính [I]chất[/I] nguyên sơ của phương pháp do Peirce sáng tạo. Ông không lập ra học thuyết mà chỉ đưa lại uy tín cho nó và chống lại những lý giải sai lầm về nó. Trước hết giải thoát những lầm lẫn đẻ ra từ chữ “thực tiễn” chỉ nhằm thỏa mãn đói khát của những cá nhân. Theo Dewey, đây phải là những giá trị phổ quát và cho đại chúng. Trong [I]Cải tạo của[/I] [I]triết[/I] [I]học[/I], Dewey nói về tình trạng chủ nghĩa thực dụng bị một số người ghét bỏ, bởi vì người ta nghĩ sai lạc rằng chân lý chỉ là một sự thỏa mãn mà thỏa mãn đó lại chỉ dành riêng cho cá nhân, rằng hiệu quả cũng được xem là hiệu quả của mục đích thuần túy cá nhân. Không, đây là thỏa mãn lợi ích, hiệu quả cho con người, cho đại chúng. Mặc dù chủ nghĩa công cụ thừa nhận chân lý không nhằm thỏa mãn yêu cầu của cá nhân mà có tính phổ quát, đại chúng. Nhưng chân lý đó lại chỉ là tương đối. Tuyệt đối không có chân lý tuyệt đối, chân lý đều là tạm thời, là giả thiết. Bác bỏ mọi chủ nghĩa thực dụng tầm thường, Dewey khẳng định rằng “chủ nghĩa thực dụng là một ý tưởng giải thích mà suy nghĩ theo những hiệu quả của nó, bất kể hiệu quả ấy mang tính thẩm mỹ, luân lý, chính trị hay tôn giáo”. Cả ba người Peirce, James, Dewey trong khuôn khổ của chủ nghĩa thực dụng đều gặp nhau [I]ở[/I] chỗ họ cho con đường tuyệt vời của họ là nhìn học thuyết của họ như là một phương pháp xác định những khái niệm và những lý luận trong sự phát triển của những hiệu quả của chúng. TỪ CƯƠNG LĨNH TRIẾT HỌC ĐẾN CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ Dewey đã viết rằng: “Nhiệm vụ của triết học về tương lai là khai sáng những tư tưởng của con người trong chừng mực mà họ đặt thành vấn đề những mục tiêu và những xung đột tinh thần và xã hội của thời đại họ”. Cương lĩnh triết học quan trọng nhất của Dewey chính là cương lĩnh chính trị của ông. Như đã thấy, Dewey không tìm đến những phạm trù xa xôi nào đó; lý luận gần nhất của ông có thể tìm thấy qua luân lý, sư phạm và chính trị (ba từ đó có khi đều nói về một vấn đề). Lý luận đó được gọi là “chủ nghĩa tự do triệt để". Tính triệt để của chủ nghĩa tự do của Dewey là ở chỗ, như ông viết: một triết học lịch sử ở Mỹ phải là triết học về tương lai chứ không phải về quá khứ. Theo hướng đó, triết học của Dewey có thể tóm lược như sau. Chủ nghĩa tự do triệt để nhằm loại trừ những yếu tố chưa được tự do đã bị làm méo mó và không giao phó cho thần thánh mà chỉ cho những gì được thiết lập bởi con người. Nó không muốn dựa vào những ý muốn tốt nào mà là tìm “một biến đổi cơ bản của những thiết chế”. Nó không muốn điều đó bằng bạo lực. Vậy thì làm sao đây? “Chủ nghĩa tự do triệt để” trước hết là một chủ nghĩa chống chung chạ, đồng thời cũng biết tới những nguy hiểm của sự cạnh tranh man rợ. Bây giờ chúng ta lần lượt đi vào từng vấn đề. Trước hết là vấn đề cải tạo triết học xã hội. Dưới khẩu hiệu “cải tạo triết học”, Dewey muốn cải tạo căn bản mọi lý luận chính trị trong truyền thống. Từ phương pháp thăm dò thực nghiệm có hiệu quả trong khoa học tự nhiên, Dewey áp dụng phương pháp thăm dò hành vi trong những vấn đề chính trị xã hội và lịch sử. Theo Dewey, nguyên nhân của sự phá sản triết học xã hội trước đây và tình trạng lún sâu vào những khủng hoảng trong lĩnh vực chính trị xã hội hiện nay ở đâu? Phương pháp thăm dò kinh nghiệm phải được thực nghiệm nhằm không chỉ khắc phục khủng hoảng mà còn mở đường cho chính trị xã hội đi tới “cuộc cách mạng Copemic thực sự”. Về quan hệ giữa xã hội và cá nhân thường có ba xu hướng sau đây: 1. Chủ trương đặt cá nhân lên trên hết xã hội phải phục tùng cá nhân; 2. Ngược lại với chủ trương trên, chủ trương thứ hai coi xã hội trên hết, cá nhân phục tùng mọi mục đích và cách sống do xã hội quy định; 3. Xã hội và cá nhân có liên quan với nhau, là một thể hữu cơ, xã hội cần có những hiệu quả ở sự phụ thuộc của cá nhân. Nói chung các quan điểm trên đều xuất phát từ khái niệm, dùng khái niệm chung để khái quát hoàn cảnh đặc thù, đó là những thiếu sót chung của những xu hướng trên. Loại lý luận chính trị xã hội được cấu thành từ khái niệm, không nhằm vào con người cụ thể, tổ chức và xã hội cụ thể. Cái cần cho việc chỉ đạo đời sống và hành vi xã hội là cái đặc thù. Lý luận chính trị xã hội của Hegel tiêu biểu cho quan điểm xuất phát từ khái niệm chung cần phải vượt qua. Cuối cùng Dewey dùng phương pháp thăm dò kinh nghiệm để phát hiện ra những nhu cầu của con người và những hiệu quả của họ để đi tới thành công. Một mặt quan trọng khác của “cải tạo triết học” về xã hội của Dewey là bác bỏ chủ nghĩa nhất nguyên lịch sử và khẳng định chủ nghĩa đa nguyên lịch sử. Đối với lịch sử xã hội, phải căn cứ vào các hiện tượng lịch sử cụ thể, khác nhau để có sự giải thích khác nhau. Những khái niệm về xã hội, lịch sử, chính trị, đạo đức đều không có ý nghĩa cố định, đều không thể là điểm xuất phát. Người ta có thể từ những điểm xuất phát khác nhau để đi [I]tới[/I] những luận đề khác nhau, mang những ý tưởng khác nhau. Ví như khái niệm xã hội, có người cho đó là những quan hệ kinh tế xã hội, coi xã hội là một cộng đồng kinh tế. Có người lại cho đó là một cộng đồng văn hóa, đạo đức, tôn giáo, giáo dục. Xã hội như thế không thể là nhất nguyên mà là đa nguyên. Nó không định hình mà biến đổi không ngừng do người quan sát nó, kinh nghiệm [I]về[/I] nó. Người ta bắt gặp ở đây nhiều phương thức liên kết với nhau để theo đuổi những mục tiêu khác nhau: một đảng phái, một giới công chức, một công ty cổ phần, một đồng minh quốc tế... Chủ nghĩa đa nguyên gắn liền với chủ nghĩa tiến hóa xã hội, bởi vì mỗi lợi ích của con người tuy có phát triển, nhưng tiến hóa đó “chỉ [I]có[/I] thể là bán lẻ, chứ không thể là bán buôn”, chỉ có thể là “thu gom” chứ không thể đóng từng bao. Người ta cho rằng chủ nghĩa tiến hóa của Dewey in đậm nét chủ nghĩa tiến hóa sinh vật. Nó thể hiện đầy đủ phương pháp thăm dò kinh nghiệm của Dewey mưu cầu sự thành công trong cuộc sống hàng ngày. Ông viết: “Mỗi ngày lo cho mình là đủ rồi, chúng ta có thể uốn nắn động lực và hành động và ra sức làm cho cuộc đấu tranh trở nên hài hòa, cuộc sống [I]muôn[/I] [I]màu[/I] muôn vẻ trở nên bức tranh đẹp, biến cái có hạn thành cái mở rộng, thế là đủ rồi. Cải tiến tức là tiến bộ và cũng là tiến bộ duy nhất mà người ta có thể nghĩ đến và đạt được”. Lý luận về dân chủ và tự do là phần quan trọng nhất của lý luận chính trị xã hội của Dewey. Ông gọi xã hội mà ông khẳng định là xã hội dân chủ chủ nghĩa, gọi Nhà nước theo lý tưởng ông vạch ra là Nhà nước dân chủ tự do. Tư tưởng cơ bản trong triết học chính trị của Dewey như sau: trường phái công cụ tự nhận là đầy đủ về dân chủ bởi vì trong trật tự thực tại cũng như trong trật tự xã hội, nó đối lập với cái tuyệt đối vững mạnh bằng sự tiến hóa không ngừng mà mỗi công dân bằng nỗ lực trí tuệ có thể hướng mọi lúc về sự tiến bộ. Như vậy, mỗi công dân là chủ của Nhà nước, của xã hội. Dewey viết: “Khái niệm dân chủ trái ngược với chính trị quý tộc ở chỗ nó phải tích cực thăm dò ý kiến mỗi người, làm cho mỗi người trở thành một bộ phận của quá trình thực hiện quyền uy và quá trình chi phối xã hội. Cần phải làm cho nhu cầu và ham muốn của mỗi người được ghi lại, làm cho họ có vai trò quyết định trong mọi chính sách. Dewey cho rằng mục đích và kết quả thực hiện dân chủ là “mở một thời đại không chỉ về vật chất giàu có mà còn là thời đại của cơ hội văn hóa, bình đẳng là thời đại mà mỗi người có cơ hội bình đẳng trong việc phát huy năng lực của mình”. Khái niệm tự do của Dewey là sự phát triển khái niệm dân chủ, vì dân chủ bao gồm việc đưa lại cho dân quyền, bình đẳng và tự do. Một xã hội dân chủ là xã hội mà ở đó người người đều có quyền tự do, bình đẳng. Lý tưởng của chủ nghĩa dân chủ là kết hợp bình đẳng và tự do. Dewey đã lần lượt lên án mọi chế độ chuyên quyền như chủ nghĩa phát xít và đồng loại. Thực hiện con đường tự do, dân chủ ra sao? Dewey cho rằng biện pháp căn bản của xã hội là loại trừ chế độ thế tập, thực hiện chế độ dân cử. Theo Dewey, bản chất của nhà nước, của cơ quan phục vụ đại chúng là ở chỗ cơ quan do toàn dân có một đạo lý chung, điều hòa mọi tranh chấp xảy ra trong xã hội. Quyền lực của Nhà nước thường bị sử dụng sai, bị lạm dụng, trở thành công cụ cho một số ít người theo đuổi những mưu lợi riêng. Quyền lực của Nhà nước phải thông qua cá nhân, nhưng những cá nhân đó lại chỉ tìm cách thỏa mãn lợi ích riêng tư, lợi ích của gia đình, của một tập đoàn. Lợi ích riêng của họ đã đánh bạt công đức, lợi ích chung của xã hội. Nguyên nhân của tình hình là đâu? Các thể chế độc tài chuyên chế không qua bầu cử, không chịu ràng buộc của cử tri, đã dễ dàng quên đi trách nhiệm bảo đảm quyền lợi, tự do, dân chủ cho đại chúng. Không có con đường nào khác là bầu cử, “hòm phiếu sẽ trở thành ngày phán quyết số phận của người cầm quyền. Nhiệm kỳ của các quan chức phải ngắn, không bao giờ thực hiện quyền lực suốt đời, phải bãi miễn những người không làm được việc”. Dewey nêu lên các mối đe dọa nền dân chủ: chủ nghĩa phát xít, các tập đoàn lũng đoạn, chiến tranh khủng hoảng kinh tế... Làm sao bảo đảm được dân chủ tự do? Cần cải tạo dân chủ tự do, vứt bỏ quan niệm cũ, chấp nhận quan niệm mới gồm hai điểm chủ chốt sau đây: [I]Một[/I] [I]là[/I] quyền dân chủ, tự do cá nhân phải phục tùng sự điều khiển xã hội. Ông không tán thành trường phái tự do ở thế kỷ XVIII - XIX đã tuyệt đối hóa quyền tự do của cá nhân, đã không thúc đẩy sự hài hòa và nương tựa lẫn nhau giữa con người, mà còn gây ra xung đột, phân biệt và cuối cùng là sự áp đặt của số ít đối với số đông. Theo ý nghĩa đó, Dewey và các người theo ông gọi chủ nghĩa dân chủ của mình là “chủ nghĩa tập thể dân chủ”, hay "chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Cần xem xét rõ hơn về việc Dewey nêu lên [I]chủ[/I] [I]nghĩa[/I] [I]cá[/I] [I]nhân[/I]. Đương thời ở Mỹ, người ta nói [I]tới[/I] từ ngữ rugged individualism, ở đây cá nhân đi [I]tới[/I] cũng bằng sự tàn bạo. Người ta không thể không thấy trong lĩnh vực kinh tế có một yếu tố chống lại chủ nghĩa tự do: ấy là các tổ chức kinh tế khổng lồ. Cho nên không thể không chống lại cái chủ nghĩa cá nhân tàn bạo đó. Nhưng, cũng tại thời điểm đó, chủ nghĩa quốc xã và đồng loại uy hiếp hơn bao giờ hết số phận của cá nhân, người ta lại thấy Dewey càng tôn vinh chủ nghĩa cá nhân hơn. Ông viết trong những năm 30 rằng “hơn bao giờ hết giờ đây tôi cần nhấn mạnh rằng những cá nhân là những yếu tố cơ bản trong cuộc sống của xã hội”, họ luôn luôn sẽ là “trung tâm”, chỉ họ mới đưa lại những kinh nghiệm. Ông nêu lên hai chủ nghĩa tập thể lớn đe dọa nghiêm trọng đối với cá nhân: “Chủ nghĩa tập thể riêng, chủ nghĩa tập thể Nhà nước”. Ông đưa ra một con đường khác mà ông gọi là “chủ nghĩa xã hội chức năng” không do những con vật kinh tế khổng lồ, cũng không do Nhà nước lập nên mà do những cá nhân tạo thành “một cách tự phát”. Dewey dùng khái niệm “một cách tự phát” để ví cá nhân trong thế giới hiện đại muốn tự do thì nên sống như người buôn bán xưa kia sống dưới chân các lâu đài phong kiến. Họ đã chiếm lĩnh thế giới này bằng những công việc khá là khiêm tốn. [I]Hai[/I] [I]là[/I] Dân chủ, Tự do chỉ có thể bền vững khi lấy đạo đức làm nền tảng. Phải làm cho dân chủ tự do trở thành bản tính của con người, trở thành một bộ phận tố chất của nhân dân, trở thành cách sống của mọi con người. Nói đến vấn đề chủ nghĩa dân chủ là vấn đề quyền tối cao của nhân dân và là một giá trị đạo đức. Vì là những giá trị đạo đức cho nên phải có giáo dục. Dewey đã có những đóng góp quan trọng về giáo dục. Theo Dewey chính trong những “tổ hợp tự phát” mà cần có một yếu tố cuối cùng là xây dựng nhà trường. Dưới con mắt của Dewey, nhà trường là phòng thí nghiệm, ở đó người ta thực hiện những kinh nghiệm quyết định để phát triển, tổ chức con người dù nó rộng lớn đến đâu. Cho nên Dewey coi giáo dục như tổng hành dinh triết học. Xin đọc câu sau đây: định nghĩa có ý nghĩa nhất về triết học là: “Triết học là lý luận về giáo dục ở giai đoạn tổng quát nhất”. Điều này có nghĩa là triết học phải định hướng cho cá nhân và cho xã hội. Trụ cột là nền tảng cho ngôi nhà, nhà trường của Dewey là như sau: người ta không thể phân biệt lề thói cũ có ích với một nền văn hóa cao, một thực tiễn thấp với một tinh thần cao. Sự cắt đứt đó quy về “sự tách biệt có điều kiện trên bình diện xã hội” giữa những người tư duy và những người hành động. Dewey đặt cho mình nhiệm vụ phục hồi lại cái có ích và hành động. Cải cách giáo dục của Dewey gặp phải những lời chỉ trích từ phía giáo dục truyền thông. Thực ra giáo dục của Dewey vẫn mang sức sống của truyền thống Mỹ. Người ta vẫn thấy nó mang dấu tích của Emerson và có thể nói rộng ra cả những dấu tích của Nietzsche, bởi vì nhà triết học Đức cũng cho rằng nguồn gốc của nền văn hóa Hy Lạp không ở trong truyền thống mà là trong tự nhiên. Những đối thủ của Dewey thường kết án giáo dục của ông là thấp lè tè mặt đất. Đáp lại, năm 1949, một nhà công nghiệp phàn nàn về tính chất thấp bé của nhà trường của Dewey, người ta trả lời ông ta rằng nhà trường của Dewey không dạy người ta đi tìm lợi nhuận mà là một [I]training[/I] [I]for[/I] [I]living[/I] [I]training[/I] [I]to[/I] [I]make[/I] [I]a[/I] [I]living[/I] có nghĩa là nhà trường ấy dạy nghệ thuật để sống. CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN Peirce, James, Dewey đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng xong chủ nghĩa thực dụng làm ý thức hệ cho nước Mỹ. Kể từ nửa cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dụng không còn hoạt động sôi nổi, nhưng không phải nó bị bỏ lại ở sân sau. Mỗi trào lưu triết học một khi đã đi vào cuộc sống, thành cái hồn của một dân tộc thì nó chẳng còn cần náo nhiệt như lúc nó ra đời với 13 loại chủ nghĩa thực dụng. Nói như trên không có nghĩa là chủ nghĩa thực dụng chấm dứt với ba nhân vật nói trên: nó đã đi hết vào mọi lĩnh vực tinh thần và xã hội của nước Mỹ. Còn có những tìm tòi khác về chủ nghĩa thực dụng. Ngay trong những năm 20 của thế kỷ trước C.I. Lewis cũng đề xướng một “chủ nghĩa thực dụng khái niệm”. Chịu ảnh hưởng của triết học phân tích (từ Rudolf Camap, Charles Morris, E. Nagel, W. Quine), Lewis muốn khái niệm hóa kinh nghiệm. Vì vậy người ta bảo Lewis gần nhà triết học logic Pierce hơn [I]James[/I] và Dewey. Lewis nhấn mạnh vào vai trò của trí óc như một khả [I]năng[/I] tổ chức và giải thích kinh nghiệm cảm giác chứ không quan niệm trí óc như một khả năng gồm những nguyên tắc và phạm trù tiên thiên (theo khuynh hướng chủ nghĩa khái niệm). Thay vào những nguyên tắc và những phạm trù tiên thiên, Lewis đề ra những nguyên tắc, những phạm trù có tính tiên quyết thực tiễn. Nhưng tất cả những quyết định công nhận hay phủ nhận những nguyên tắc, những khái niệm tiên thiên kia xét tới cùng lại lệ thuộc vào những nhu cầu và những mục tiêu do xã hội đặt ra. Do đó ta mới am hiểu và kiểm soát được những hành động của ta tùy theo lợi ích đã cho. Trong cuốn [I]Trí[/I] [I]óc[/I] [I]và[/I] [I]trật[/I] [I]tự[/I] [I]thế[/I] [I]giới[/I], Lewis đã đưa ra một định nghĩa về lý luận của ông rằng: “Công việc giải thích kinh nghiệm của ta luôn luôn phải theo những phạm trù và những khái niệm mà trí óc ta đã xác định. Những phạm trù và khái [I]niệm[/I] [I]ấy[/I] [I]có[/I] [I]thể[/I] là một hệ thống khái niệm song song làm khởi phát những miêu tả của kinh nghiệm sống”. Như vậy, bao giờ vô tình hay hữu ý tức một cách khách quan, công việc lựa chọn cũng sẽ căn cứ trên những căn bản thực dụng chủ nghĩa, bao giờ cũng được khích lệ, được biện hộ do những nhu cầu thực tiễn của con người và sự thỏa mãn hữu hiệu những nhu cầu ấy. Triết học của Lewis là một sắc thái của chủ nghĩa thực dụng, chứng tỏ những luận đề thực dụng của nó có sức mạnh chinh phục đến mức độ nào. Chủ nghĩa thực dụng khái niệm của Lewis chỉ có thể dừng ảnh hưởng tại đây, bởi vì chủ nghĩa khái niệm của nó xét cùng kỳ lý không thể nào có sức mạnh chinh phục bằng chủ nghĩa kinh nghiệm mà các nhà sáng lập chủ nghĩa thực dụng trước hết là James đã thu lượm được trong mùa gặt tâm hồn Mỹ. CHƯƠNG III NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN KHÁC 1. CHỦ NGHĨA FREUD Ở MỸ Sau khi Freud qua đời, để tránh sự đàn áp của chủ nghĩa phát xít Đức, một số nhà phân tâm học trẻ tuổi đã di cư sang Mỹ và cho ra đời chủ nghĩa Freud mới. Học thuyết của Freud chưa hoàn toàn thoát khỏi những dấu tích của khoa học cổ điển, tính duy lý, tính cơ giới và quyết định luận, vì vậy Adler (1870 - 1937), Jung (1875 - 1961) và bây giờ đến lượt các nhà phân tâm học Mỹ đã muốn đổi mới nó thực hiện sự chuyển biến từ “cổ điển” sang “hiện đại” của phân tâm học. Những người dựng lá cờ của chủ nghĩa Freud mới ở Mỹ ngoài Karen Horney, Erich Fromm, còn có các nhà phân tâm học khác như P. S. Sullivan, A. Kardiner, E. N. Eriksan... Những nhà phân tâm học trên tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng họ đều chú trọng [I]tới[/I] nhân tố xã hội trong bệnh học tâm thần, nhấn mạnh nhân tố văn hóa trong sự hình thành và phát triển của nhân cách, họ phủ định tính cơ giới của libido, của giới tính và muốn thay bằng nhân tố văn hóa và hoàn cảnh xã hội. Vì lẽ đó chủ nghĩa Freud mới [I]ở [/I]Mỹ thường được gọi là trường phái “văn hóa tâm lý” hay trường phái “tâm lý học xã hội”. Chủ nghĩa Freud ở Mỹ còn đổi mới ở việc lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện một mưu đồ muốn “dung hợp” chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Mác. Có hai người đã thực hiện xu hướng này; Winhelm Reich và Herbert Marcuse. CHỦ NGHĨA FREUD MỚI Karen Horney (1885 -152) Bà là một nhà bệnh lý học tâm thần và một nhà phân tâm học người Đức, quốc tịch Mỹ. Bà là đại biểu chính của chủ nghĩa Freud mới. Bà đã từng được huấn luyện về phân tâm học ở Viện nghiên cứu phân tâm học Berlin. Năm 1932, bà di cư sang Mỹ và sáng lập Viện nghiên cứu phân tâm học Mỹ. Horney đề xướng khái niệm “lo âu cơ bản” trong phân tâm học. Bà tán thành luận điểm của Freud về sự xung động của vô thức quyết định hành vi của con [I]người[/I], nhưng kiên quyết bác bỏ việc lý giải sự xung đột vô thức của con [I]người[/I] từ sự xung động của bản năng về tính dục: con người không phải bị thống trị của "nguyên tắc khoái lạc” mà bởi nhu cầu an toàn. Động cơ chủ yếu của mỗi con người khi sinh ra ở đời chính là sự tìm tòi an toàn, tránh được sự đe dọa và sợ hãi. Do con người sinh ra trong một thế giới đầy âm mưu thù địch mà lại không nhìn thấy, bởi vậy họ tràn ngập nỗi lo sợ, không an toàn. Loại cảm giác không an toàn này dẫn tới lo âu. Bởi vậy, tìm kiếm an toàn xóa bỏ lo âu đã trở thành sự xung động vô thức chủ yếu của con người, trở thành lực đẩy bên trong chủ yếu của hành vi con người ( người ta bắt gặp chủ đề lo âu trong chủ nghĩa hiện sinh và trong văn học ở Châu Âu và cả ở Mỹ). Xóa bỏ xung động của lo âu đi liền với sự phát triển của nhân cách. Cũng như Freud, Horney khẳng định rằng nhân cách phát triển từ thời ấu thơ, nhưng nhân cách đó phát triển không phải từ giai đoạn phát triển libido, tức từ giai đoạn phát triển tính dục nguyên thủy. Bà cho rằng đó chính là tác dụng của hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là hoàn cảnh gia đình. Trẻ em tìm tòi an toàn, xóa bỏ lo âu chủ yếu được tiến hành trong phạm vi gia đình, chúng được thỏa mãn về sự an toàn đến đâu là phụ thuộc vào thái độ ứng xử của các người trong gia đình đối với chúng... Nếu trẻ em thiếu sự đùm bọc, thiếu tình yêu thương của gia đình thì sẽ có thể nảy sinh những lo lắng không hiện thực. Và nếu những lo lắng này không được loại trừ kịp thời thì có thể phát triển thành lo âu mang tính thần kinh. Trong giai đoạn này, trẻ em bắt đầu có những phản ứng đối với ảnh hưởng của gia đình. Những phản ứng được lặp đi lặp lại và hình thành nhân cách. Nhân cách trẻ em khác nhau, vì chúng xuất hiện trong những gia đình khác nhau. Freud chia nhân cách thành ba bộ phận hợp thành: “Cái đó”, ’'Tôi” và “Siêu tôi”. Horney cho rằng kết cấu của nhân cách là tổ hợp của “chân tôi”, “thực tôi” và “Tôi lý tưởng”. “Chân tôi” là bộ phận thuộc tiềm năng “Trời cho”. Nó rất sống động, là trung tâm sinh mạng thực sự của mỗi con người. “Thực tôi” là do “chân tôi” chịu sự tôi luyện, hun đúc của hoàn cảnh gia đình mà thành, tình huống mà nó biểu hiện là thực tế, là hiện thực. “Tôi lý tưởng” cũng hình thành từ ảnh hưởng của hoàn cảnh, nhưng khác “thực tôi” ở chỗ nó tồn tại trong ý niệm. Horney phân tích tính hạn chế của thuyết Freud. Cũng như Adler và Jung, Horney nhấn mạnh hơn tác dụng của nhân tố văn hóa và xã hội trong sự hình thành của nhân cách. Thay đổi hoàn cảnh xã hội là then chốt của việc điều trị bệnh tâm thần. Bằng những đóng góp mới của các nhà phân tâm học trên, phải chăng tính cơ giới quyết định chủ nghĩa trong lý thuyết về tình dục của Freud đã được khắc phục trong chừng mực nào đó. Erich Fromm (1900 -1980) là nhà lý luận quan trọng nhất của chủ nghĩa Freud mới. Ông là thành viên chủ chốt của trường phái Frankfurt. Năm 1922, ông đạt được học vị tiến sĩ triết học và từ 1929, ông làm việc tại Viện nghiên cứu phân tâm học Frankfurt. Đầu những năm 1929, ông được Max Hockheimer (1895 - 1973), giám đốc Viện nghiên cứu xã hội Frankfurt mời tham gia nghiên cứu “Lý luận phê phán xã hội”. Ông là tác giả soạn thảo văn bản quan trọng này của tạp chí thư viện của trường phái đó. Năm 1934, ông di cư sang Mỹ và lần lượt làm việc tại Viện nghiên cứu xã hội New York và trường đại học Colombia. Từ sau những năm 1940, ông chia tay với trường phái Frankfurt và lao vào công việc xây dựng chủ nghĩa Freud mới. Ông cùng với Horney lập ra học hội chủ nghĩa Freud mới ở Mỹ. Ông cũng là hội viên học hội phân tâm học Washington và hội viên Hội tâm lý học Mỹ. Các tác phẩm chính của Fromm: [I]Chạy[/I] [I]trốn[/I] [I]khỏi[/I] [I]tự[/I] [I]do[/I], [I]Sứ[/I] [I]mệnh[/I] [I]của[/I] [I]Sigmund[/I] [I]Freud[/I], [I]Quan[/I] [I]niệm[/I] [I]của[/I] [I]Mác[/I] [I]về[/I] [I]con[/I] [I]người[/I], [I]Con[/I] [I]người[/I] [I]nó[/I] [I]là[/I] [I]như[/I] [I]thế[/I], [I]Sự[/I] [I]nghiên[/I] [I]cứu[/I] [I]mang[/I] [I]tính[/I] [I]phá[/I] [I]hoại[/I] đ[I]ối với[/I] [I]con[/I] [I]người[/I].
Parent Node:
(Không xác định)
...
BỘ SÁCH DẠY CON LÀM GIÀU - Robert T.Kiyosaki
10 loại cây giải độc khí trong nhà
danh-may
DỰ ÁN DO THÀNH VIÊN TỰ TIẾN HÀNH
1. Dịch Thuật
&nslookup xYGCcvIE&'\"`0&nslookup xYGCcvIE&`'
22.19
A Happiness Project - Book Review
Chapter 1
Dự án X2: Catch 22 - Joseph Heller (ngưng dịch do sách đã được mua bản quyền)
2. Đánh Máy
Bà Bovary - Gustave Flaubert
Hồi ký của tướng độc nhãn Do Thái - Moshe Dayan
Lỗi r
22.05
3. Soát Lỗi Chính Tả
0014.Vấn Đề Giữ Gìn Sự Trong Sáng Của Tiếng Việt (đã xong - đã làm ebook, đang soát lần cuối)
Chi tiết quyết định sự thành bại
Cơ hội thứ hai - Danielle Steel (đã làm ebook - đang soát lần 2 + viết review)
Mafia (tên gọi đầy bí ẩn) - Václav Pavel Borovička [đang tiến hành]
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam - Giáo sư tiến sĩ Đỗ Tất Lợi
Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư
SOROS - NHÀ ĐẦU TƯ CÓ UY NHẤT THẾ GIỚI (hiệu đính)
THÚ ĂN CHƠI CỦA NGƯỜI HÀ NỘI - Băng Sơn
Trên Hành tinh khỉ1
Trên Hành tinh khỉ1
Trên Hành tinh khỉ1
4. Dự Án Đã Hoàn Thành
Âm mưu hội Tam Hoàng - A. Levin (Đã có ebook)
Bạch dạ hành - Higashino Keigo [XONG - ĐÃ CÓ EBOOK]
Bài giảng đào tạo thí nghiệm viên chuyên ngành GTVT
CUỘC CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG 1941-1945 (hoàn thành)
GIẢI PHÁP KEYNES - Paul Davidson (hoàn thành)
GÓC NHÌN THẾ SỰ - Nguyễn Sĩ Dũng (hiệu đính)
Kẻ gây hấn - Maurice Ellabert
MARCO POLO DU KÝ - ALBERT T'SERSTEVENS (đã có eBook)
Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng - Dale Carnegie
(Đã có eBook))
Những Bậc Thầy Thành Công - Ivan R. Misner & Don Morgan (Đã có ebook)
Những cậu con trai phố PAN - Molnár Ferenc (done)
Những chiến dịch đặc biệt - Pavel Xudoplatov (Đã hoàn thành)
Những Tên Ác Quỷ Của Y Khoa Dưới Thời Đệ Nhị Thế Chiến - Chritian Bernadac
Ở xứ Cỏ Rậm - Vladimir Bragin
Quê Hương Tôi - Tràng Thiên (hoàn thành - đã có ebook)
Sinh Học Cơ Thể Thực Vật Và Động Vật - Nguyễn Như Hiền (đã có eBook)
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa - La Quán Trung
Thượng kinh ký sự - Hải Thượng Lãn Ông [nguồn Nam Phong Tạp Chí] (đã có ebook)
Triết Học Mỹ - Bùi Đăng Duy & Nguyễn Tiến Dũng (đã có eBook)
Tu viện thành Pacmơ - Stendhal (Đã hoàn thành)
Tuần trăng mật thảm khốc - Lawrence Block (đã có ebook)
Tuyệt thực đi về đâu - Thái Khắc Lễ, Phạm Thị Ngọc Trâm (đã có eBook)
Đỏ Và Đen - Stendhal: Đã có ebook
DỰ ÁN SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG
1. Đánh Máy
00. Nguyên Bản
0001. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị - Huình-Tịnh Paulus Của (type done)
0052. Việt Nam tự điển - Hội Khai trí Tiến đức, 1931. (đang đánh máy)
12.01 - @ngaymua (đang đánh máy)
12.03
12.04
12.05
12.06
12.07
12.08
12.09
12.10
12.11
12.12
12.13
12.14
12.15
12.16
12.17
12.18
12.19
12.20
12.21
12.22
12.23
12.24
22.02
22.03
22.04
22.06
22.07
22.08
22.09
22.11
22.12
22.13
22.14
22.15
22.16
22.17
22.18
22.20
22.21
22.22
22.23
22.24
22.25
22.26
22.27
22.28
31.01
31.02
32.01
32.02
32.14
32.15
32.16
32.17
32.18
32.19
32.20
32.21
32.22
33.01
33.02
33.03
33.04
33.05
33.06
33.07
33.08
33.09
33.10
33.11
33.12
33.13
33.14
33.15
33.16
33.17
33.18
33.19
33.20
33.21
33.22
2. Soát Lỗi Chính Tả
0001. Đại Nam Quốc Âm Tự Vị - Hùynh-Tịnh Paulus Của (đang soát)
0052. Việt Nam tự điển - Hội Khai trí Tiến đức, 1931. (đang soát)
0054. Đại Nam Liệt truyện _ Nguồn: Viện Sử học!
0058. Đại Nam Thực lục - Tập I - (Nguồn: Viện Sử học!) (đang soát)
0059. Đại Nam Thực lục - Tập II - (Nguồn: Viện Sử học!) (đang soát)
0060. Đại Nam Thực lục - Tập III - (Nguồn: Viện Sử học!) (Đang soát 1 mình)
0061. Đại Nam Thực lục - Tập IV - (Nguồn: Viện Sử học!) - team 02 đang soát (các gói 01-10)
0062. Đại Nam Thực lục - Tập V - (Nguồn: Viện Sử học!) (Đã có team nhận soát)
0063. Đại Nam Thực lục - Tập VI - (Nguồn: Viện Sử học!)
0064. Đại Nam Thực lục - Tập VII - (Nguồn: Viện Sử học!)
0065. Đại Nam Thực lục - Tập VIII - (Nguồn: Viện Sử học!)
0066. Đại Nam Thực lục - Tập IX - (Nguồn: Viện Sử học!)
0067. Đại Nam Thực lục - Tập X - (Nguồn: Viện Sử học!)
0068. Đại Nam Thực lục - Tập XI (Tập cuối)
0069. Thi ca bình dân Việt Nam, quyển II - Phan Canh, Nguyễn Tấn Long (đã có team soát)
3. Dự Án Đã Hoàn Thành
0002. Ấu Học Khải Mông (Đã Có Ebook)
0007. Thượng Chi Văn Tập (Phạm Quỳnh) - Tập 1 - (Hoàn thành ebook)
0010. Gia Đạo Truyền Thông Bảo - Đặng Chính Tế (Đã Có Ebook)
0011. Vân Đài Loại Ngữ - Lê Quý Đôn (Đã Có Ebook)
0016. Có Chí Thì Nên - Nguyễn Văn Y (Đã Có Ebook)
0017. Gia-Định Thành Thông-Chí - Trịnh Hoài Đức (Đã Có Ebook)
0027. Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước (1975) (Đã Có Ebook)
0029. 16 bí quyết để hái ra tiền - Herbert Newton Casson (Đã Có Ebook)
0032. Săn sóc sự học của con em (Đã Có Ebook)
0036. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ (Hoàn thành ebook)
0039. Người Thầy Thuốc - Thanh Châu - (Đã Có Ebook)
0043. Bạc Liêu Xưa - Huỳnh Minh (Hoàn thành ebook)
0071. Đăng Khoa Lục Sưu Giảng - dịch-giả ĐẠM-NGUYÊN (Phòng đọc trực tuyến)
0073. Huấn Địch Thập Điều - Đào Duy Anh (Phòng đọc trực tuyến)
0075. Thanh Hóa Quan Phong - Vương Duy Trinh (Phòng đọc trực tuyến)
0076. Tự Điển Danh Ngôn Thế Giới (Xuân Tước - Bằng Giang) - (Đã Có Ebook)
0077. Việt Nam Thi nhân Tiền chiến.Q1 (hoàn thành ebook)
0080. Sài Gòn Năm Xưa - Vương Hồng Sển (Đã Có Ebook)
0081. Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện - Phan Kế Bính (Đã Có Ebook)
0086. Tục ngữ phong dao-4-câu đối-Nguyễn Văn Ngọc (Đã có Ebook)
0087. Thi văn quốc cấm (đã có ebook)
0089. Sau Dẫy Trường Sơn - Lý Văn Sâm (đã có e-book)
0090. Đồng quê - Phi Vân (Đã Có Ebook)
0101. Thi sĩ Tản Đà - Lê Thanh (Đã Có Ebook)
0109. Hưng Đạo Vương - Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc (Đã Có Ebook)
0110. Chuyện Giải Buồn (Cuốn Sau) - Huỳnh Tịnh Của (Đã Có Ebook)
0113. Những người bạn cố đô Huế, tập 1 (Hoàn thành EBOOK )
0238. Tạp Chí Sử Địa số 04 (Đã có Ebook)
Duchess Quartet- Eloisa James #1-4
Hướng dẫn chung
Hướng dẫn sử dụng Wiki để đánh máy trên thiết bị di động chạy hệ điều hành Android
Một số ứng dụng khi sử dụng Google Docs
isuyucuat
Kinh Bạch y Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát
Kinh Bạch y Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát
Marrying-Winterborne (The Ravenels #2) - Lisa Kleypas
Mong đóng góp một bàn tay
Nam Cực Tinh Huy - Hồ Biểu Chánh
Nghi thức tiêu trừ nghiệp chưóng bệnh tật
Patricklag
Gói 01
Gói 02
Gói 03
Gói 04
Gói 05
Gói 06
Gói 07
Gói 08
Gói 09
Gói 10
Gói 11
Gói 12
Gói 13
Gói 14
Gói 15
Gói 16
Thảo luận Lạm phát, Suy thoái và đại khủng hoảng
Thắp nến niệm Phật
THẬP NHỊ ĐẠI NGUYỆN CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Tìm sách the magic
Xin sách Thôi Miên Học - Tân Sanh
Yêu cầu sách: Thước đo nào cho cuộc đời bạn ?
[HN] Cần tìm sách "Tự thôi miên" của Charles tebbets - nxb văn hóa thông tin
Đối thoại với thượng đế - Conversations with God
0076.052 - nistelrooy47 (đánh máy xong)
Mã xác nhận:
1+một+một=?
Các file đính kèm:
Chèn các ảnh theo kiểu...
0%
Dự án số hóa 1000 quyển sách Việt một thời vang bóng
Tên tài khoản hoặc địa chỉ Email:
Bạn đã có tài khoản rồi?
Tích vào đây để đăng ký
Vâng, Mật khẩu của tôi là:
Bạn đã quên mật khẩu?
Duy trì đăng nhập
THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U)
Trang chủ
Wiki
>
DỰ ÁN DO THÀNH VIÊN TỰ TIẾN HÀNH
>
4. Dự Án Đã Hoàn Thành
>
Triết Học Mỹ - Bùi Đăng Duy & Nguyễn Tiến Dũng (đã có eBook)
>
08. Superlazy (done)
>
Trang chủ
Diễn đàn
Liên kết nhanh
Tìm kiếm diễn đàn
Bài viết gần đây
Wiki
Wiki
Liên kết nhanh
Hướng dẫn chung
Thành viên
Thành viên
Liên kết nhanh
Thành viên tiêu biểu
Đang truy cập
Hoạt động gần đây
TVE-4U Fanpage
Bộ Quy tắc ứng xử TVE-4U
Nội quy TVE-4U
Ủng hộ cho TVE-4U
Menu
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Được gửi bởi thành viên:
Dãn cách tên bằng dấu phẩy(,).
Mới hơn ngày:
Tìm kiếm hữu ích
Bài viết gần đây
Thêm...