11.25 - Kimduyen (type done)
-
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
biển đều đến gõ cửa quan mà xin thần-phục, trong ngoài đều một thể.
Nước An-nam cung-thuận hơn hết, vì thế mà cuẩ quan ải đã lâu không được tu-bổ, ngày càng đổ nát.
Các sứ-giả sang dâng cống mỗi năm đều đến gõ cửa quan ải, qua lại chỉ có con đường ấy. Tuy đặt nơi hiểm-yếu không phải việc gần gấp của một đời thánh-quân, nhưng cũng để xem cho nghiêm-chỉnh và cho thấy là quan-trọng việc ngăn phòng nơi biên-giới.
Vả lại e ngại dân bất-lương trong nội-địa lén ra ngoài bờ cõi quấy nhiễu nước ngoài. Đó cũng không phải là tâm địa của quốc gia chúng ta ( Trung-quốc ) muốn vỗ yên người ở xa. Vậy thì phải tu-bổ cửa quan ải cho gấp.
Do đó ; các quan văn võ đến trấn nhậm ở đất này đều lo liệu gỗ đá thích-nghi để lo công việc này.
Nay quan Án-sát-sứ ổ Quảng-tây là Cam-quân ( ông họ Cam), lúc ấy vừa trấn-thủ phủ Thái-bình vừa kiêm nhiếp công việc ở Nam-ninh, thấy ở Nam-ninh có món thuế mọn về cau ngoài ngạch thuế chính, được số tiền dư là 1.800 lượng, bèn khảng-khái nói : " Cửa Trấn-nam quan vốn là thuộc đất phủ Thái-bình, các quan quận thú nghèo kiết cho nên không sửa-sang nổi. Nay ta đã [39b] có món tiền dư này, nguyện một mình đảm-đương công việc ấy".
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
Ông bèn viết sớ tâu xin và được cho phép, liền tụ tập phu thợ khởi công từ tháng 2 mùa xuân niên-hiệu Ung-chính thứ 3 (1725) đến mùa d0ong6 năm ấy thì xong việc.
Quan ải này có tường cao, có lầu che kín, chòi canh, doanh trại đều tề-chỉnh nghiêm-trang, ngó về nam trông sang đồng trụ, hai bên cao ngất ngang nhau, thật là một mỹ-quan hùng-vĩ ở trời nam.
Công việc của quốc-gia, chỉ ngại không có người thật tâm gánh vác.
Không có thật tâm ấy thì dẫu nhiều người cùng lo một việc cũng không đủ khả-năng.
Còn thật tâm dẫu chỉ có một người nhiệm-lãnh mà cũng thừa khả-năng.
Cam-quân thật là người hiền tài !
Cam-quân tên là Nhữ-Lai, người huyện Phụng-tân, tỉnh Giang-tây, xuất thân đỗ Tiến-sĩ, đi trấn nhậm đến đâu cũng có tiếng thanh-liêm năng-cán. Với chức Chủ-sự bộ Lại, ông đến trấn-thủ phủ Thái-bình. Chẳng bao lau ông thăng Phó-sứ đạo Tả-giang, trải đến chức ngày nay ( lá Án-sát-sứ) đều được Thánh Thiên-tử đặc-biệt tuyển-chọn. Trong tương-lai, ông được triều-đình trọng dụng, hẳn chưa có thể lượng biết đến bậc nào.
[40a] Nay tôi vừa sửa-sang hành-trang đi lên Bắc thì Cam-quân đến xin bài ký, tôi bèn gạn hỏi sự thật và khen ngợi Cam-
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
quân để khuyến khích người đời sau ngỏ hầu không bỏ thành-tích này.
Các quan cùng lo công việc ở đây lúc bấy giờ là Tổng-đốc Lưỡng-Quảng khổng-Dục-Tuân, Đề-đốc Quảng-tây Hàn-Lương-phụ, Tổng-trấn Tả-giang Lương-Vĩnh-Hy, theo lẽ phải cũng ghi chép đầy-đủ.
Bài ký Tuần duyệt biên ải giáp nước An-nam.
Tôi thường đọc thiên Đế-điển (1) có câu " Trạch Nam-giao" (ở Nam-giao) mà biết được cái tên Giao-chỉ đã thấy có trong kinh truyện từ lâu rồi.
Đời nhà Hán, vua Vũ-đế sai Phục-ba Tướng-quân Mã-Viện đi đánh phương Nam. Tuy chiến-công ở hồ Lãng-bạc rất cao, nhưng địa-phương này, ở trên thì sương mù, ở dưới thì nước lụt, diều bay không được phải rớt tòm xuống nước (2).
số 1&2 thật ra không phải nằm trong dấu( ) , mà là số viết nhỏ ở phía trên, bên phải của chữ cần ghi chú. do mình không biết đánh chữ đó thế nào nên mình để như vậy. ai đó chỉnh sửa dùm mình nha. thanks
Sau khi dẹp yên Trưng-vương, Mã-Viện dựng cây trụ đồng làm ranh-giới đất nhà Hán.
Hồi đầu nhà Minh đã từng đặt ra [40b] quận huyện. Rồi chẳng bao lâu dân-chúng phản-loạn, quân Thiên-triều phải bỏ đất Giao-chỉ rút về.
1. Đế-điển tức thiên Nghieu-điển trong kinh thư.
2. Nguyên văn câu này trong phần Mã-viện truyện ở sách Hậu Hán-thư là : Ngưỡng thị phi diên thiếp thiếp doạ thuỷ trung = Ngẩng lên trông diều bay rơi tòm xuống nước.
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
Triều ta ( Trung-quốc) dựng nước, thanh-uy và giáo-hoá truyền khắp bốn phương. Ở những vùng người nhuộm răng đen và xăm trán không ai là chẳng đến triều-phục.
Con cháu nhà Lê sớm đã vâng mệnh làm phiên-thần ở cõi phương Nam.
Nhà vua lên ngôi được 9 năm nhớ nghĩ đến dân ta đi buôn bán ở ngoài cõi xa-xôi phải xa lìa trôi nổi nơi đất khách, lại lo ngại đến những nơi rừng sâu sào huyệt của những tội tù trốn tránh, mới đặc-biệt sai quan đại-thần coi giữ bờ cõi ở Việt-tây (1) đi kinh-lý vùng ấy.
Tháng giêng mùa xuân năm sau, tôi vừa quan-sát ở Hữu-giang thì nhận được tờ hịch của quan Phủ-quân họ kim dạy đến tỉnh để trao cho tận mặt các cơ-nghi làm việc.
Ngày 11 tháng 2 tiến phát từ Liễu-châu, tôi trộm nghĩ các thổ-ty ở chung quanh nửa bên phía tây-nam sợ chưa hiểu ý của sứ-giả, nên mới truyền hịch cho họ cứ trông giữ lãnh-vực của họ chớ có kinh động quấy rầy.
Tôi lại giúp đỡ hành-lý cho những người đi theo khiến cho họ không có thiếu sót điều gì, rồi căn-dặn năm ba lượt mới khởi-hành.
1. Việt-tây tức Quảng-tây.
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
Ngày 23 tháng 2 [41a] đến Điền-châu cách Bạch-ấp không đầy trăm dặm.
Tôi nhớ lại trong niên-hiệu Khang-hy thứ 19 ( 1680, đời vua Thanh Thánh-tổ) tiên tổ của tôi làm chức Liêm-phóng ở Việt-tây ( Quảng-tây) đã từng đóng ở đất ấy, đốc suất lương-hướng cho quân-đội đi đánh Điền-châu, trải muôn dặm chở chuyên, ba quân được no đủ, tấu khúc khải hoàn mà trở về. Năm ấy người có dự phần công-lao.
Tôi bèn đến bên dòng nước mà than rằng : " Đây là đất mà đời trước tổ tiên ta đã lập công" . Tôi bồi-hồi ở đấy khá lâu rồi qua sông trọ ở Phụng-nghị châu.
Hôm sau tôi lên núi Liên-hoa sơn, chỏm núi chập-chùng, cây-cối âm-u, một đám mây che, người đi không phân biệt được đâu là hướng đông đâu là hướng tây như vào phải nẻo lầm lạc.
Tôi ngồi nghỉ ở trên bờ núi đá, chợt thấy ánh mặt trời. Người đi theo giục đi. Đi nửa bộ nửa xe, khi lên khi xuống độ 30 dặm mới đến đồng bằng. Quay đầu trông lại thấy mấy ngọn núi đều mất hút trong mây.
Đi ba ngày đến phủ Trấn-an. Phủ này thống-lãnh hai châu là Quy-thuận và Tiểu Trấn-an đều liền đất với cõi Nam-giao.
Đất ấy lồi ra thụt vào như răng [41b] chó. những ải cũ chưa
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
đặt khắp, có chen những ải mới chia ranh đất mà giữ, cõi trong và chốn ngoài riêng hẳn.
Tôi bèn đến phủ Thái-bình, đi từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 6 tháng 3 thì đến quận. Tôi cùng quan Thái-thú họ Đồ trước hết đi duyệt cửa Trấn-nam quan ở Bằng-tường.
Trấn-nam quan cách phủ-trị 4 ngày đường. Ở trong ấy có Mạc phủ doanh và Thụ hàng thành . Đó là con đường mà các cống-sứ An-nam phải đi ngang.
Những châu Thượng-thạch, Tây-châu, Tư-minh, Tư-lăng vây bọc ở phía đông-nam.
Thượng Long-ty và Hạ Long-ty, Thượng Đống-châu và Hạ Đống-châu với phủ An-bình tiếp giáp ở phía tây-bắc.
Vả lại ở cửa Tây-bình quan thuộc Hạ Long-ty có một dòng nước đục rộng hơn trăm trượng từ châu Thất-nguyên đất Giao-chỉ chảy tới.
Ở cửa Thuỷ-khẩu quan có một dòng nước trong rộng mấy mươi trượng từ phủ Cao-bằng chảy đến.
Ba dòng sông gặp nhau ở phía trước ty-trị rồi chảy xuống phủ Thái-bình.
Một dãy núi sông trong ngoài được bao bọc hộ-vệ. người xưa kinh- [42a] lý đất này đã dựng hai doanh là Long-bằng và Quỳ-đạo.
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
Nhưng đất-đai quá rộng, mà binh-lính lại ít-oi.
Tôi khảo-xét hình-thế đất này, lấy ba cửa quan ải làm đất trọng yếu, xin tăng binh đóng giữ. Còn những chỗ khác thì lượng xét chỗ náo xung-yếu, chỗ nào hẻo-lánh, tuỳ nơi khinh-trọng mà bố-phòng, cốt cho chỗ thưa chỗ mật xen nhau, nơi xa nơi gần thích-hợp để củng-cố việc phòng thủ biên-giới.
Ngày 24 tháng 3 tôi đi đến châu Thượng-tứ, động Thiên-phong thuộc phủ nam-ninh thấy một hòn núi Thạch-phàm chạy dài mấy dặm làm bức rào giậu cho Thiên-triều.
Lên ngọn núi ấy, lội qua khe ấy tuỳ theo chỗ hiểm trở mà phân bày quân-sĩ để thu lấy những hiệu-quả về địa-lợi và nhân-hoà.
Tôi đến trại Hồ-nhuận ở châu hạ-lôi, nơi này theo danh nghĩa thì thuộc Nam-ninh nhưng sự thật thì tiếp giáp với Trấn-an, bèn xin đổi cho thuộc về Trấn-an khiến cho được gần mà tiện bề khống-chế.
Tôi cũng đặt chỗ xung-yếu mà phòng giữ.
Mọi việc xong xuôi, tôi trở về Liễu-châu vào ngày 11 tháng 4.
Về thời-gian thì trải qua 60 ngày. về đất đai thì trải qua ba quận, phía tây đến [42b] Phú-châu thuộc Điền-nam, phía đông đến Khâm-châu thuộc Việt-đông, phía nam đến Giao-chỉ.
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
Khảo-xét cương-vực trong ngoài, đại để Thượng Đống-châu và Hạ Đống-châu, phía đông tiếp giáp phủ Lạng-sơn, phía tây tiếp giáp phủ Cao-bằng.
Trong khoảng đất ấy có non cao núi hiểm làm ranh-giới thiên-nhiên, có đồng bằng nội rộng, làng xóm gần nhau, chận những mối đường trọng yếu cả thuỷ lẫn bộ mà cho quân lính người Hán người thổ đóng giữ.
Tính hết những cửa quan ải vừa mới vừa cũ được 116 chỗ, quan binh đóng giữ được 1.935 người, thổ binh được 1.170 người, canh phòng nghiêm mật, tuần la cẩn-thận dọc theo biên-thuỳ dài 1.700 dặm, thật là một dãy trường thành cao ngất.
Kẻ nào dám vượt qua thì giết chết không tha. Từ đấy lương dân không dám dễ-dàng bỏ làng quê, còn tội-nhân thì cũng không được trốn tránh ra ngoài.
Đó là tuân theo đúng chỉ dụ của vua.
Ngày 13 tháng 4 tôi đến tỉnh báo-cáo công việc đã hoàn-thành, được quan Phủ-quân bảo vẽ [43a] bản-đồ để dâng về triều, lại viết sớ, trong ấy kể những điều chưa đề-nghị để dâng lên vua.
Ngày mùng 9 tháng 5 nhuần, tôi trở về Liễu-châu vẽ một bản-đồ và làm một bài ký để ghi việc ấy.
Nước Giao-chỉ ở về phía đông Ung-châu, phía tây kinh-
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
châu, phía nam Dương-châu, về thiên-văn thuộc phân-dã 3 vì sao Tỉnh-quỷ, Dực-chẩn và Ngưu-đẩu, đất-đai thì tiếp giáp với núi khe, phong-tục thí pha trộn với của Âu-lạc.
Trong đời Tam-đại ( hạ, Thượng, Chu) nước Giao-chỉ thường chưa được liệt váo các nước văn-vật.
Đến đời Hán đời Tấn rừng rậm được khai phá, đường lộ được giao-thông, nhân-dân nước Giao-chỉ mới thấm-nhuần lễ nghĩa, học tập thi thư. Những tục cũ được biến đổi lớn-lao. phong-tục đẹp-đẽ, nhân-tài dồi-dào thấm thoát đã bằng với của Trung-quốc, không còn sánh với nước bỉ-lậu với đất hẻo-lánh nữa.
Hồi đầu bản-triều, sử-thần Ngô-Sĩ-Liên soạn phần Ngoại-kỷ của Việt-sử có chép :
Hùng-vương dựng nước, gọi là nước Văn-lang đóng đô ở Phong-châu.
Đất ấy phía đông-nam [43b] giáp biển, phía tây giáp đất Ba-thục, phía bắc đến hồ Động-đình, phía nam đến nước Hồ-tôn, chia trong nước làm 15 bộ là :
1. Giao-chỉ.
2. Chu-diên.
3. Vũ-ninh.
4. Phúc-lộc.
5. Việt- thường.
VÂN-ĐÀI LOẠI-NGỮ QUYỂN 3
6. Ninh-hải.
7. Dương-tuyền.
8. Lục-hải.
9. Vũ-định.
10. Hoài-hoan.
11. Cửu-chân.
12. Bình-văn.
13. Tân-hưng.
14. Cửu-đức.
Mười bốn bộ này là thần-thuộc. Bộ thứ 15 nước Văn-lang là nơi vua đóng đô.
Lúc bấy giờ phong-tục thuần-hậu chất-phác, tên chức quan còn bỉ-lậu, quan hữu-ty gọi là Bố-chính.
Đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo.
Ngoài 15 bộ, mỗi bộ còn có chức trưởng và chức phó.
Các con dòng thứ thì theo thứ-tự chia ra mà chế-trị, cho nên về sau dòng dõi có danh-hiệu Nam-phụ đạo.
Huyện ấp hương lý được sắp đặt theo xưa hay đổi mới không thể nào rõ được.
Tôi nhận xét đời Hùng-vương, trên nối theo đời Hồng-bàng, văn-tự ( chữ viết) không có truyền lại, 15 bộ đặt ra thấy lẫn lộn với những danh-hiệu quận huyện mới lập ra vào thời