Đăng nhập
THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U)
Trang chủ
Wiki
>
DỰ ÁN DO THÀNH VIÊN TỰ TIẾN HÀNH
>
4. Dự Án Đã Hoàn Thành
>
Triết Học Mỹ - Bùi Đăng Duy & Nguyễn Tiến Dũng (đã có eBook)
>
16. @hhanhh(done)
>
Mời tham gia cuộc thi "CHIA SẺ KỶ NIỆM ĐÁNG NHỚ" nhân dịp TVE-4U 10 tuổi
Hướng dẫn chuyển đổi các định dạng eBook
Hướng dẫn xử lý lỗi không 'download - viết bài - xem link' được trên diễn đàn
16. @hhanhh(done) - Sửa
Tiêu đề:
Link URL:
Data Type:
BB Codes
<p>Truyền thống nghiên cứu và lý luận kết hợp với nhau, nhưng vai trò quyết định vẫn là truyền thống nghiên cứu. Bởi vì mỗi loại lý luận đều trình bày, đều chứng minh bản thể học và phương pháp học của truyền thống nghiên cứu. Nói rõ hơn, bản thể học và phương pháp học của truyền thống nghiên cứu đều có đầy đủ sức mạnh để ảnh hưởng tới lý luận của nó. Nó có thể đưa ra phương pháp và con đường giải quyết những vấn đề lý luận. Đồng thời, truyền thống nghiên cứu cũng có thể nói rõ lý luận. Ngoài ra trong quá trình cấu tạo lý luận khoa học, truyền thống nghiên cứu cũng gây tác dụng gợi ý cực kỳ quan trọng, hơn nữa còn sản sinh ra phần lớn những vấn đề khái niệm cho việc cấu tạo lý luận của nó.</p><p><br /></p><p>Truyền thống nghiên cứu mà Laudan xác định như vậy là một quá trình không ngừng tiến hóa và phát triển, là một quá trình có thịnh, có suy.</p><p><br /></p><p>Nó có một lịch sử hình thành, có phồn vinh và có phần diệt vong. Khi nó chết, nó cũng mất tác dụng thúc đẩy khoa học phát triển. Con đường rõ ràng nhất của sự thay đổi phát triển của một truyền thống nghiên cứu là: thứ nhất, nó sửa chữa những lý luận của nó; thứ hai, nó tạo nên sự thay đổi của một số yếu tố hạt nhân, cơ bản nhất đã cấu tạo nên nó.</p><p><br /></p><p>Làm thế nào phân biệt giữa tình huống có sự thay đổi trong nội bộ một truyền thống nghiên cứu và tình huống bị một truyền thống nghiên cứu khác thay thế?</p><p><br /></p><p>Laudan cho rằng trong một thời gian nhất định nào đó, nếu một số yếu tố của một truyền thống nghiên cứu ở vị trí hạt nhân cao hơn, vững chắc hơn thì chính những yếu tố hạt nhân ấy, lúc này đã trở thành đặc trưng cơ bản của truyền thống nghiên cứu. Nếu vứt bỏ chúng đi thì bản chất của truyền thống nghiên cứu sẽ thay đổi. Đây là nói về sự thay đổi nội bộ của truyền thống nghiên cứu.</p><p><br /></p><p>Xét theo thời gian, “bản chất” của một truyền thống nghiên cứu có thể chuyển biến. Trong một thời điểm, một yếu tố nào đó nằm ở địa vị hạt nhân của một truyền thống nghiên cứu, tiêu biểu cho bản chất của truyền thống nghiên cứu. Nhưng vào một thời điểm khác, nó có thể chuyển biến thành phần phi bản chất của truyền thống nghiên cứu. Dựa vào những truyền thống khác nhau này ta có cách giải thích tính liên tục và tính có hứa hẹn. Laudan nói rõ ràng trong mọi lĩnh vực có thể đồng thời mấy truyền thống nghiên cứu, nhưng người ta có thể điều hòa những mâu thuẫn khác nhau đó.</p><p><br /></p><p>Sau khi trình bày về nội dung của truyền thống nghiên cứu, Laudan tập trung vào việc đánh giá truyền thống: tiêu chuẩn, phương pháp, hình thức đánh giá. Toàn bộ sự đánh giá về truyền thống nghiên cứu hoặc lý luận phải tiến hành trong mối quan hệ so sánh. Tính có thể tiếp thu của một truyền thống nghiên cứu được quyết định bởi hiệu lực giải quyết vấn đề lý luận mới nhất của nó. Tính có thể theo đuổi của truyền thống nghiên cứu được quyết định bởi tỷ lệ tốc độ tiến bộ và tính hợp lý của lý luận khoa học mà nó thể hiện.</p><p><br /></p><p>Laudan chia khoa học thành hai loại lớn: loại kinh nghiệm và loại khái niệm. Loại kinh nghiệm chủ yếu đề cập tới kết cấu và quan hệ của đối tượng, tới lĩnh vực nghiên cứu. Loại khái niệm chủ yếu đề cập tới những vấn đề còn nghi ngờ trong thảo luận và tranh luận khoa học hoặc sự bất điều hòa giữa kết cấu lý luận và khoa học và tiền đề phương pháp của lĩnh vực đó. Laudan cho rằng phương tiện giải quyết vấn đề là lý luận, có hai loại: lý luận mang tính chất chuyên môn, cụ thể có thể dùng để dự đoán, giải thích hiện tượng tự nhiên và trực tiếp do thực nghiệm kiểm nghiệm đưa lại; một loại lý luận khác là lý luận chung mang tính phổ biến ở tầng cao hơn, không dễ dàng trực tiếp tiếp thu bằng kiểm nghiệm. Ví như chủ nghĩa tiến hóa, chủ nghĩa nguyên tử... chúng có thể phát triển thành lý luận cụ thể. Loại lý luận này chính là "truyền thống nghiên cứu”.</p><p><br /></p><p>Ngoài ra, Laudan còn trình bày vấn đề quan hệ giữa tiến bộ khoa học và lý tính. Ông cho rằng chủ nghĩa thực chứng logic chủ trương khoa học có tiến bộ hay không là do tiêu chuẩn lý trí quyết định, nhưng thực ra chỉ có truyền thống nghiên cứu tiến bộ mới là lý tính. Ông viết: tôi cho rằng tiến bộ lý luận và lý tính liên hệ với nhau vô cùng chặt chẽ. Mối liên hệ này không phải thông qua xác nhận, thông qua phủ nhận mà thông qua hiệu lực để giải quyết vấn đề. Nhưng trong sự phát triển tiến bộ và hợp lý của khoa học, những nhân tố phi kinh nghiệm, phi khoa học cũng có tác dụng vô cùng quan trọng.</p><p><br /></p><p>Để thực hiện, khoa học đã thông qua ba con đường sau đây: tăng con số giải quyết vấn đề kinh nghiệm; loại bỏ những bất bình thường; khôi phục lại sự nhất trí của khái niệm giữa những lý luận xung đột.</p><p><br /></p><p>Trên cơ sở của những kiến giải trên, Laudan trình bày phương thức diễn biến mà khoa học đã trải qua. Cách mạng khoa học, khoa học bình thường không phải như Kuhn miêu tả. Bất cứ một sự tranh luận về “hệ chuẩn” hoặc truyền thống khoa học nào đều là một quá trình tiếp diễn trong lịch sử. Thời kỳ khủng hoảng mà khoa học trải qua không phải là một hoạt động ngắn ngủi, nó liên tục không ngừng tiếp diễn trong một quá trình truyền thống nghiên cứu đầy sức sống.</p><p><br /></p><p>Trong thời kỳ “khoa học bình thường” mà Kuhn nói tới không phải trong mọi lĩnh vực chỉ có một “hệ chuẩn” chiếm địa vị thống trị mà thường là trong mọi lĩnh vực đều có hai hoặc ba “hệ chuẩn” hoặc truyền thống nghiên cứu trở lên chiếm địa vị thống trị. Trong thời kỳ “cách mạng khoa học” của Kuhn cũng không tồn tại tình trạng có một “hệ chuẩn” hoàn toàn lật đổ một “hệ chuẩn” khác để chiếm địa vị thống trị. Hơn nữa, chính sự hợp tác lâu dài giữa những truyền thống nghiên cứu và những xung đột đã thu hút sự chú ý về thời cách mạng.</p><p><br /></p><p>Ông tán thành kiến giải của Kuhn và Feyerabend rằng khi lý luận mới thay thế lý luận cũ, tuy có được một số vấn đề nhưng lại cũng mất đi một số vấn đề khác tương ứng. Cho nên tiến bộ khoa học không thể lý giải một cách đơn thuần là lý luận mới, "hệ chuẩn mới”, hoặc truyền thống nghiên cứu mới giải quyết nhiều vấn đề hơn những cái cũ. Ngược lại, tiến bộ khoa học luôn luôn là phương thức phi lũy tích, biểu hiện thành lý luận thành “hệ chuẩn”, “thành truyền thống nghiên cứu” có chức năng giải quyết những lĩnh vực khác nhau tức là biểu hiện thành việc giải quyết vấn đề kinh nghiệm trong những “hệ chuẩn” khác nhau.</p><p><br /></p><p>Tóm lại ý luận về truyền thống nghiên cứu của Laudan có tham vọng vừa muốn khắc phục những thiếu sót của chủ nghĩa phi lý tính và chủ nghĩa hỗn loạn của các người đi trước trong trường phái lịch sử, vừa muốn chống lại tính phiến diện của chủ nghĩa logic tách rời lý tính và tiến bộ, gán cho lý tính vai trò quyết định tiến bộ.</p><p><br /></p><p>Trong trường phái lịch sử, người ta còn có thể kể tới những nhân vật sau nữa:</p><p><br /></p><p><i>S</i>. <i>Toulmin</i> bác bỏ chủ nghĩa thực chứng ở chỗ đã coi tính duy lý có sức mạnh vạn năng. Ông cho rằng việc mô tả quá trình khoa học phải mang tính đa dạng và mềm dẻo, không thể bỏ qua các thông số xã hội học, tâm lý học. Không thể có giới hạn rạch ròi giữa giả thuyết khoa học, cái duy lý và cái phi duy lý (cho nên khó có thể bác bỏ đơn giản “cận tâm lý học”).</p><p><br /></p><p><i>M</i>. <i>Wartofski</i> là người tích cực nhất trong trường phái lịch sử, ở việc phục hồi siêu hình học để phát triển khoa học. Ông đặc biệt làm sống lại phạm trù lương tri (bon sens) trong siêu hình học cổ điển: đó là năng lực phân biệt cái đúng, cái sai, cái thực, cái giả tồn tại một cách tự nhiên ở mỗi con người, từ đó làm rõ nhiều chức năng siêu hình học trong khoa học nhằm gợi mở (euristique) cho khoa học phê phán các luận cứ cơ bản của khoa học.</p><p><br /></p><p>Trường phái lịch sử nổi tiếng đã qua đi, nhưng vấn đề mà nó đặt ra cho phương pháp học vẫn còn đó: khoa học hiện đại đang cần tìm tới “tính duy lý bội” như một “liên minh mới” giữa nó và triết học.</p><p><br /></p><p>4. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC KHOA HỌC</p><p><br /></p><p>Chủ nghĩa hiện thực khoa học là sự tiếp tục, kế thừa truyền thống chủ nghĩa hiện thực cổ đại, đồng thời là hình thức đối lập với chủ nghĩa thực chứng logic và cả với chủ nghĩa duy lý mới của K. Popper, lý luận về “hệ chuẩn" của Kuhn và chủ nghĩa phi duy lý, chủ nghĩa hỗn loạn của Feyerabend. Chính trong quá trình phê phán này mà chủ nghĩa hiện thực khoa học được giới triết học thế giới biết tới.</p><p><br /></p><p>Người sáng lập chủ nghĩa hiện thực khoa học Mỹ là <i>Wilfred</i> <i>Sellars</i> (1912 - ). Ông lần lượt là giảng viên ở nhiều trường Đại học. Năm 1977, ông được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Siêu hình học Mỹ.</p><p><br /></p><p>Những tác phẩm chính của ông <i>Khoa</i> <i>học</i> <i>tri</i> <i>giác</i> <i>và</i> <i>hiện</i> <i>thực</i>, <i>Tiền</i> <i>đồ</i> <i>của</i> <i>triết</i> <i>học</i>, <i>Khoa</i> <i>học</i> <i>và</i> <i>Siêu</i> <i>hình</i> <i>học</i>, <i>Tập</i> <i>luận</i> <i>văn</i> <i>triết</i> <i>học</i> <i>và</i> <i>lịch</i> <i>sử</i>. Còn có thể kể tới mấy đại biểu nữa của chủ nghĩa hiện thực khoa học.</p><p><br /></p><p><i>Hilary</i> <i>Putnam</i> (1920 -) bảo vệ luận án tiến sĩ triết học tại Đại học California ở Los Angeles, năm 1961, tiếp tục dạy học ở Princeton, ở MIT (Montana) và ở Harvard. Là học trò của Carnap và Reichenbach, ông còn được xem là một học trò xuất sắc của W. Quine và người quan tâm nhiều tới toán học. Tác phẩm chính của ông: <i>Triết</i> <i>học</i> <i>của</i> <i>toán</i> <i>học</i>, <i>Triết</i> <i>học</i> <i>của</i> <i>logic</i> <i>học</i>.</p><p><br /></p><p><i>Duley</i> <i>Shapere</i> (1928 - ) có học vị tiến sĩ triết học, giảng dạy triết học ở Ohio, Chicago, Maryland. Năm 1983, ông làm chủ nhiệm Ủy ban lịch sử khoa học và triết học khoa học ở Đại học Maryland, ông là viện sĩ viện văn học và khoa học Mỹ. Tác phẩm chính của ông: <i>Vấn</i> <i>đề</i> <i>triết</i> <i>học</i> <i>của</i> <i>khoa</i> <i>học</i> <i>tự</i> <i>nhiên</i>, <i>Nghiên</i> <i>cứu</i> <i>triết</i> <i>học</i> <i>của</i> <i>Galilée</i>.</p><p><br /></p><p><i>Mario</i> <i>Bunge</i> là nhà logic học, nhà triết học khoa học mang quốc tịch Canada. Tác phẩm chính của ông: <i>Lý</i> <i>thuyết</i> <i>triết</i> <i>học</i> <i>cơ</i> <i>sở</i>.</p><p><br /></p><p>Chủ nghĩa hiện thực khoa học có ba chủ đề chính: khoa học, hiện thực, chân lý được triển khai theo các vấn đề sau đây: cách nhìn khoa học, bản thể học và nhận thức học.</p><p><br /></p><p><b>CÁCH NHÌN KHOA HỌC</b></p><p><br /></p><p>Quy tắc logic và các khái niệm khoa học của chủ nghĩa thực chứng logic thực chất đã xuất phát từ lập trường chủ nghĩa tiên nghiệm và chủ nghĩa bản chất. Trái lại chủ nghĩa hiện thực cho rằng dù là tiền đề phương pháp nghiên cứu khoa học hay quy tắc suy lý hoặc khái niệm khoa học đều không phải là bất biến mà là thay đổi theo sự phát triển của tiến bộ khoa học. Chúng chịu ảnh hưởng bởi sự thịnh hay suy của một quan niệm khoa học cụ thể. Sự thay đổi, phát triển và sáng tạo khoa học không lúc nào không ảnh hưởng, thâm nhập và mở rộng phương pháp khoa học.</p><p><br /></p><p>Về kiểu mẫu phát triển khoa học, chủ nghĩa hiện thực khoa học vừa phản đối kiểu mẫu phát triển của những người theo chủ nghĩa thực chứng đã dựa trên cơ sở của chủ nghĩa bất biến và “lý luận ý nghĩa” của chủ nghĩa truyền thống. Nó cho rằng khoa học thông qua việc loại bỏ dần dần sai lầm, không ngừng tích lũy tri thức và mở rộng lĩnh vực phát triển. Nó cũng phản đối kiểu mẫu phát triển của người theo chủ nghĩa lịch sử, chủ trương rằng khoa học phát triển trên cơ sở của lý thuyết khả biến, tức quan điểm khoa học trải qua sự thay thế cách mạng, đột biến, nhảy vọt.</p><p><br /></p><p>Putnam phản đối lý luận cách mạng khoa học của Kuhn, ông cho rằng tri thức khoa học phát triển thông qua phương thức dần dần tích lũy đã được xây dựng trên cơ sở lý luận truyền thống về “ý nghĩa”.</p><p><br /></p><p>Shapere xem xét lý luận "ý nghĩa" khác với truyền thống. Ông cho rằng muốn nói rõ tính liên tục, tính có thể so sánh giữa lý luận khoa học trước sau kế tiếp nhau thì không nhất thiết phải giả thiết một ý nghĩa chung. Trong khoa học tính liên tục không phải là ý nghĩa giống nhau mà là quan điểm kế tiếp của những tư tưởng. Xét về lịch sử diễn biến của lý luận khoa học, tính liên tục được hoàn thành bởi “mối liên hệ suy lý móc xích”.</p><p><br /></p><p>Putnam bộc lộ rõ thái độ phản đối quan điểm của trường phái chủ nghĩa lịch sử của Kuhn và các người khác. Ông nói rằng sự tiến bộ của khoa học là sự thực không thể hoài nghi so với lý luận khoa học cũ. Lý luận khoa học mới luôn luôn có thể đưa ra những dự đoán chính xác hơn, phương pháp khống chế thế giới tự nhiên tốt hơn và gần với chân lý khoa học hơn.</p><p><br /></p><p>Shapere xuất phát từ lý luận “vực tin tức” để trình bày về tiến bộ khoa học. Theo ông, sự phát triển và tiến hóa của khoa học trên thực tế chính là sự phát triển và tiến hóa của “vực tin tức”. Trong quá trình hình thành và phát triển khoa học, một loạt tin tức bình thường dần dần được tập hợp thành một vực tin tức. Tin tức mà nhân loại có được luôn luôn thay đổi và trở thành phong phú hơn, hơn nữa không ngừng có những vực tin tức mới sản sinh xuất hiện.</p><p><br /></p><p><b>VỀ BẢN THỂ HỌC</b></p><p><br /></p><p>W. Sellars nói về bản thể học như sau: “Khoa học là thước đo của muôn vật, là mẫu mực định ra bản thể và phi bản thể của mọi sự vật”.</p><p><br /></p><p>Putnam cho rằng có ba loại hình cơ bản về quan niệm hiện thực: 1) Chủ nghĩa hiện thực duy tâm chủ nghĩa; 2) Chủ nghĩa hiện thực siêu hình học; 3) Chủ nghĩa hiện thực theo xu hướng đồng nhất.</p><p><br /></p><p>Chủ nghĩa hiện thực duy tâm chủ nghĩa chủ trương rằng mọi đặc tính của hiện thực đều là đặc tính vật lý, đặc tính “có ý hướng” hoặc "ngữ nghĩa” cũng có thể quy giải thành đặc tính vật lý.</p><p><br /></p><p>Chủ nghĩa hiện thực siêu hình chủ trương: thế giới là do tổng hòa cố định của bản thể, không do ý thức chuyển dịch thành. Chủ nghĩa hiện thực mà Putnam khẳng định là hiện thực khoa học mang xu hướng đồng nhất, có nghĩa là trong bất cứ ý nghĩa nào sự tồn tại của cái ghế, của cảm giác hay của điện tử đều tồn tại.</p><p><br /></p><p>Với danh nghĩa “chủ nghĩa duy vật khoa học”, chủ nghĩa hiện thực khoa học của Bunge cho rằng khoa học là bản thể học cục bộ, nhưng bản thể học lại là khoa học tổng thể. Giữa siêu hình học tốt và khoa học sâu sắc không có khoảng cách. Mỗi loại lý luận mang tính sâu rộng đều có thể coi là khoa học và mỗi lý luận về bản thể học mang thành quả khoa học và được tiến hành khái quát hóa, hoặc được xuất hiện trong bối cảnh lý luận khoa học hợp lý hóa đều có thể gọi là khoa học.</p><p><br /></p><p>Như vậy tính hệ thống và tính chính xác của khoa học được kết hợp với nhau tạo thành đặc trưng cơ bản của bản thể học của Bunge.</p><p><br /></p><p>Để làm cho bản thể học và siêu hình học liên hệ với nhau, Bunge cho rằng bản thể học và siêu hình học là sự kéo dài khoa học. Ông cho rằng những phạm trù, những giả thuyết bản thể học và siêu hình học với những khái niệm cơ bản khoa học và những nguyên lý phổ biến là ngang nhau.</p><p><br /></p><p>Tiến lên một bước nữa, ông nêu lên những suy tư của ông về hệ thống bản thể học. Cái gọi là hệ thống bản thể học có đặc tính là sự hình thức hóa. Đó là một loại hệ thống diễn dịch - giả thiết. Trong hệ thống này có giả thiết đã được công nhận, có những định nghĩa, những định lý suy luận. Chúng lần lượt tạo thành những tầng nấc khác nhau. Trong một hệ thống, các loại thành phần đều có mối liên hệ hữu cơ. Đối với hệ thống khái niệm, mối liên hệ này thông qua phương thức, phương pháp logic toán lý và toán học để thực hiện.</p><p><br /></p><p>Cùng với phương pháp tính chính xác tạo thành hệ thống chính xác, là ngôn ngữ chính xác được sử dụng để biểu đạt: đó là kế hoạch to lớn mà Bunge đề xướng để giải quyết vấn đề siêu hình học và bản thể học.</p><p><br /></p><p>Bunge khẳng định rằng những người theo bản thể học phải miêu tả bộ mặt của thế giới hiện thực giống như khoa học đã nhận thức và phải tiến hành với một phương pháp rõ ràng và có hệ thống hơn.</p><p><br /></p><p>Bản thể học phải đưa ra nguyên tắc và phương pháp cơ bản nhất để chỉ đạo việc nghiên cứu khoa học. Mối liên hệ lẫn nhau, tác động lẫn nhau của các bộ phận thế giới chiếm địa vị vô cùng quan trọng trong nghiên cứu khoa học.</p><p><br /></p><p>Tư tưởng “hệ thống bản thể học” của Bunge đã bảo vệ một đường lối triết học căn bản tức khái niệm vật chất thích ứng với các tầng cấp của hiện thực. Bunge tin tưởng thế giới là một hệ thống vật chất. Sự thực tiến hóa mà khoa học đặt ra đều phát sinh ở trong hệ thống đó. Theo tầng cấp thì vật thể vật lý là nền tảng, sau đó là hệ thống hóa học và hệ thống sinh vật. Ở tầng bậc hệ thống sinh vật, sự tồn tại của khách thể vật chất sản sinh ra tinh thần. Tinh thần không hình thành tầng cấp, nhưng hệ thống tâm lý đã là một tầng cấp, tức là sinh lý, tâm lý, xã hội. Trong lý luận của Bunge, sự diễn dịch bản thể học chứng tỏ sự biến hóa liên tục của hiện thực. Bởi vì, nếu có “phi sự vật” (non - things) thực tại sẽ không thể biến hóa liên tục. Ngược lại nếu có thực tại không biến hóa liên tục thì sẽ có “phi sự vật” của hiện thực. Vì thế, Bunge cho rằng xây dựng bản thể học thành một hệ thống diễn dịch - giả thiết là có căn cứ khoa học. Một trong những nguyên tắc của phương pháp nghiên cứu bản thể học là phải kiểm nghiệm giả thiết bản thể học sao cho nó nhất trí với thành tựu khoa học.</p><p><br /></p><p><b>VỀ NHẬN THỨC HỌC</b></p><p><br /></p><p>Về nhận thức học, W. Sellars chia hình ảnh phản ảnh thành hai loại: “Hình ảnh phản ảnh bình thường” và “hình ảnh phản ảnh khoa học”. Hình ảnh phản ảnh bình thường là tri thức về thế giới bên ngoài, do giác quan của con người trực tiếp thu nhận được, chúng là sự trực tiếp quan sát và khái quát từ kinh nghiệm của con người. “Hình ảnh phản ảnh khoa học” là kết quả của sự vận dụng tư duy logic và sự tưởng tượng phức tạp trên cơ sở tri thức nói trên. Đó là tri thức tư duy đã lý tưởng hóa. Hình ảnh phản ảnh khoa học ưu việt hơn hình ảnh phản ảnh bình thường, bởi vì hình ảnh khoa học chân thật hơn. Do vậy, chỉ có những bản thể giả thiết trong lý luận khoa học (như nguyên tử, các hạt cơ bản...) mới được xác nhận là thành phần tạo thành thế giới.</p><p><br /></p><p>Putnam đề xướng “lý thuyết phù hợp chân lý” và căn cứ vào đó tiến hành phê phán các trường phái được gọi là duy tâm (như chủ nghĩa thực chứng logic, trường phái lịch sử) đã không biết tới thuyết phù hợp chân lý nên rơi vào chủ nghĩa quy ước, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa bất khả tri.</p><p><br /></p><p>Giải quyết tính khách quan của khoa học thế nào? Shapere đưa ra hai con đường trước tình hình: một cho rằng tính khách quan đó của khoa học là huyền thoại, là ảo tưởng; hai là thống nhất tính khách quan và lý tính với tiền đề giả thuyết trước và tri thức bối cảnh. Con đường thứ hai là con đường cần lựa chọn. Ông gọi đó là “niềm tin bối cảnh” tức quan niệm toàn bộ hoạt động nghiên cứu khoa học đều phải dựa vào tín nhiệm của những giả thuvết đã đặt ra. Niềm tin bối cảnh không phải tùy ý mà phải phù hợp với ba điều kiện sau đây: 1) Những tri thức trong nghiên cứu khoa học trước đây đã chứng minh là thành công; 2) Những tri thức khiến con người tin phục mà không thể hoài nghi; 3) Tri thức có liên hệ mật thiết với bài học, vấn đề đang nghiên cứu.</p><p><br /></p><p>Shapere cho rằng một khi niềm tin bối cảnh thỏa mãn những điều kiện trên đây thì trong niềm tin bối cảnh đó, tri thức khoa học đạt được chân lý. Thế nào là chân lý? Shapere đưa ra ba cách nhìn chân lý đã có trong lịch sử: 1) Thuyết phù hợp tức là một tín niệm hoặc mệnh đề khi nó phù hợp với bản thể; 2) Thuyết nhất trí cho rằng là chân lý, khi một tín niệm hoặc mệnh đề nhất trí với nhau; 3) Theo chủ nghĩa thực dụng là chân lý khi tín niệm, mệnh đề đưa ra là “hữu dụng”.</p><p><br /></p><p>Shapere cho rằng ba cách nhìn chân lý này tuy đều có chỗ sai, nhưng cũng có chỗ hợp lý vì chúng phù hợp với ba điều kiện hay ba yêu cầu: “Tính thành công”, “tính không hoài nghi”, "tính tương quan”. Tính thành công thể hiện thành phần hợp lý của chủ nghĩa thực dụng, “tính không hoài nghi” thể hiện thành phần hợp lý của thuyết phù hợp và “tính tương quan” thể hiện tính hợp lý của thuyết nhất trí.</p><p><br /></p><p>Nhưng chân lý mà Shapere nói không phải là chân lý tuyệt đối, bởi vì, theo ông, khoa học chỉ có khả năng thu được tri thức, đạt tới chân lý chứ không thể bảo đảm phải đạt được chân lý. Vì vậy chủ nghĩa hiện thực của Kripke và Putnam chủ trương khoa học mang "bản chất bất biến” trong sự phát hiện sự vật là quan điểm cứng nhắc và quá giáo điều.</p><p><br /></p><p>Bunge đưa ra một hình thức về nhận thức học. Ông dồn hết sức lực để làm cho triết học trở nên chính xác, chính xác hóa nhận thức của con người. Đó là thành tích của ông trong việc hình thức hóa, định lượng hóa và toán học hóa. Bunge chủ trương rằng nhà triết học phải thông qua con đường logic toán lý, và toán học để đạt mục đích này, bởi vì logic toán lý và toán học có thể bổ sung cho nhau: chúng vừa là phương pháp chính xác, vừa có thể dùng làm ngôn ngữ chính xác.</p><p><br /></p><p>Vì theo đuổi tìm tòi sự chính xác của khoa học trong sự hướng về hệ thống hóa, hình thức hóa và toán học hóa, cho nên đương nhiên là ông một mực bài bác phép biện chứng, coi đó là thứ không phù hợp với sự chính xác của khoa học.</p><p><br /></p><p>M. Bunge nói thế, còn N. Marcuse thì chế giễu triết học phân tích rằng nó không đủ biện chứng và không đủ tính lật đổ.</p><p><br /></p><p>Như các nhà triết học của trường phái chủ nghĩa hiện thực khoa học nói: để xây dựng lý luận của mình, họ đã phải đương đầu với hai trường phái triết học đã có tiếng vang một thời, đó là chủ nghĩa thực chứng logic và chủ nghĩa lịch sử.</p><p><br /></p><p>Đối với chủ nghĩa thực chứng logic, hiệu quả phê phán của họ chẳng đáng là bao, bởi vì họ chỉ đi men rìa chứ chưa thể đánh trúng thẳng vào những nguyên tắc rường cột của nó. Nó vẫn mang sắc thái của chủ nghĩa thực chứng logic: cả hai vẫn đi theo một chủ nghĩa duy khoa học, đều khẳng định rằng mục tiêu của phân tích triết học là làm sáng tỏ ngôn ngữ của khoa học, bởi vì sự phân tích “cổ điển” dường như là vô bổ... Như vậy đối với trường phái này triết học chỉ còn quy về điều tra ngôn ngữ.</p><p><br /></p><p>Đối với chủ nghĩa lịch sử, phê phán của họ càng bộc lộ chỗ thua kém của mình. Một chủ nghĩa khoa học đều hụt hẫng trong việc tìm một giải đáp vấn đề trọng đại của thời đại đang đặt ra, đó là vấn đề con người, thân phận của con người. Đóng góp còn lại của họ chỉ là những kết quả thuần túy phương pháp học. Trường phái lịch sử và nhiều nhà triết học Mỹ đã tránh được thiếu sót này: trong thời đại khoa học hiện đại, triết học không thể chối bỏ siêu hình học mới, cũng tức là chối bỏ vấn đề con người. Con người giờ đây đã ở trung tâm của khoa học.</p><p><br /></p><p>Nhiều nhà triết học trên thế giới đã nom thấy điểm sáng đó ở trong triết học Mỹ, trong khi chủ nghĩa hiện thực khoa học vẫn một mực quay lưng với con người.</p><p><br /></p><p>Nhân bàn về một hồ sơ mang tên "Khoa học ở ngoài bản thân nó chăng?" Các học giả người Pháp Jean - Michel Besnier và Dominique Bourg đã lấy ý tưởng của Rorty và Feyerabend để kết luận về vấn đề được đặt ra.</p><p><br /></p><p>Họ viết về hai nhà triết học Mỹ đó như sau: “Công chúng tin rằng các nhà khoa học, các nhà triết học bảo đảm cho sự khẳng định tưng bừng của Feyerabend rằng: cũng như những truyền thống khác, khoa học là một truyền thống, hay rằng trong chủ nghĩa thực dụng thanh lãng của Rorty: khoa học không có nền tảng nào khác ngoài sự đồng tình của các nhà nghiên cứu về những dữ kiện nào đó, sự đồng tình đạt được bằng con đường của “những đàm đạo" đơn giản.</p><p><br /></p><p><b>KẾT LUẬN</b></p><p><br /></p><p>Triết học Mỹ trên dưới bốn thế kỷ đã tạm thời chấm hết ở đây.</p><p><br /></p><p>Còn một câu hỏi muốn đặt ra: triết học Mỹ hiện nay và nhất là mai sau sẽ như thế nào?</p><p><br /></p><p>Trước hết cái gì có một thời sôi nổi mà bây giờ không còn như thế thì không phải vì nó đã hết thời, nó đã đi về sân sau. Bởi lẽ cái gì nằm gọn trong chiều sâu của lịch sử thì còn cần gì phải ồn ào, sôi động như khi nó mới ra chào đời.</p><p><br /></p><p>Dừng lại ở đây không trình bày thêm nữa có nghĩa là nó không còn định hình như trước, nhưng giữa sự bộn bề đó, người ta vẫn có thể thấy lóe lên một xu hướng nào đó của tình hình.</p><p><br /></p><p>Tôi xin mượn ý kiến của các học giả Mỹ để trả lời cho câu hỏi đặt ra. Câu trả lời về một xu hướng đương nhiên chỉ có thể là những nét chấm phá của một bức toàn cảnh mới trong tương lai.</p><p><br /></p><p>Francis Fukuyama trong cuốn <i>Kết</i> <i>thúc</i> <i>lịch</i> <i>sử</i> cho rằng sau khi “kết thúc lịch sử” và chủ nghĩa tự do thắng thế như quan niệm tiến hóa của Hegel, thì phép biện chứng của Hegel sẽ đạt tới đỉnh cao, tức đạt tới hình thức duy lý. Như vậy là người ta chỉ còn bận tâm với “việc duy trì trật tự” và nếu thế thì nguy cơ con người cùng với hai sản phẩm mang tính nhân bản nhất là nghệ thuật và triết học bị đe dọa.</p><p><br /></p><p>Nói rõ về con người hơn. D. Yankelovich trong cuốn <i>Những</i> <i>nguyên</i> <i>tắc</i> <i>nghiên</i> <i>cứu</i> <i>mới</i> <i>về</i> <i>sự</i> <i>tự</i> <i>thực</i> <i>hiện</i> <i>trong</i> <i>một</i> <i>thế</i> <i>giới</i> <i>lộn</i> <i>ngược</i> cho rằng trong xã hội Mỹ, những giá trị của “self - fulfilment” (tự thực hiện) phải được xuất hiện để phát triển cá nhân tạo ra một xung lực mới cho xã hội.</p><p><br /></p><p>Trong nền đạo đức mới ấy, những giá trị của nó sẽ kết hợp với những giá trị cao đẹp trong quá khứ của nước Mỹ như tự do chính trị, phúc lợi, sự hài hòa của gia đình.</p><p><br /></p><p>Ông cho rằng đây là “một cuộc cách mạng đích thực mở màn cho lịch sử mới của loài người”.</p><p><br /></p><p>Paul Kennedy, một nhà sử học nổi tiếng của Mỹ trong cuốn <i>Chuẩn</i> <i>bị</i> <i>cho</i> <i>thế kỷ</i> XXI cho rằng nước Mỹ muốn tránh được sự suy vong - không xuống dốc để bước sang thế kỷ XXI thì vấn đề đặt ra là không được tìm "hậu thuẫn ở bên ngoài” mà phải tìm tới “sức mạnh bên trong” tức ở những phẩm chất của con người.</p><p><br /></p><p>Những học giả Mỹ tuy ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở chỗ tôn vinh những giá trị tinh thần của con người, coi giá trị cao nhất là ở nhân vị của con người.</p>
Truyền thống nghiên cứu và lý luận kết hợp với nhau, nhưng vai trò quyết định vẫn là truyền thống nghiên cứu. Bởi vì mỗi loại lý luận đều trình bày, đều chứng minh bản thể học và phương pháp học của truyền thống nghiên cứu. Nói rõ hơn, bản thể học và phương pháp học của truyền thống nghiên cứu đều có đầy đủ sức mạnh để ảnh hưởng tới lý luận của nó. Nó có thể đưa ra phương pháp và con đường giải quyết những vấn đề lý luận. Đồng thời, truyền thống nghiên cứu cũng có thể nói rõ lý luận. Ngoài ra trong quá trình cấu tạo lý luận khoa học, truyền thống nghiên cứu cũng gây tác dụng gợi ý cực kỳ quan trọng, hơn nữa còn sản sinh ra phần lớn những vấn đề khái niệm cho việc cấu tạo lý luận của nó. Truyền thống nghiên cứu mà Laudan xác định như vậy là một quá trình không ngừng tiến hóa và phát triển, là một quá trình có thịnh, có suy. Nó có một lịch sử hình thành, có phồn vinh và có phần diệt vong. Khi nó chết, nó cũng mất tác dụng thúc đẩy khoa học phát triển. Con đường rõ ràng nhất của sự thay đổi phát triển của một truyền thống nghiên cứu là: thứ nhất, nó sửa chữa những lý luận của nó; thứ hai, nó tạo nên sự thay đổi của một số yếu tố hạt nhân, cơ bản nhất đã cấu tạo nên nó. Làm thế nào phân biệt giữa tình huống có sự thay đổi trong nội bộ một truyền thống nghiên cứu và tình huống bị một truyền thống nghiên cứu khác thay thế? Laudan cho rằng trong một thời gian nhất định nào đó, nếu một số yếu tố của một truyền thống nghiên cứu ở vị trí hạt nhân cao hơn, vững chắc hơn thì chính những yếu tố hạt nhân ấy, lúc này đã trở thành đặc trưng cơ bản của truyền thống nghiên cứu. Nếu vứt bỏ chúng đi thì bản chất của truyền thống nghiên cứu sẽ thay đổi. Đây là nói về sự thay đổi nội bộ của truyền thống nghiên cứu. Xét theo thời gian, “bản chất” của một truyền thống nghiên cứu có thể chuyển biến. Trong một thời điểm, một yếu tố nào đó nằm ở địa vị hạt nhân của một truyền thống nghiên cứu, tiêu biểu cho bản chất của truyền thống nghiên cứu. Nhưng vào một thời điểm khác, nó có thể chuyển biến thành phần phi bản chất của truyền thống nghiên cứu. Dựa vào những truyền thống khác nhau này ta có cách giải thích tính liên tục và tính có hứa hẹn. Laudan nói rõ ràng trong mọi lĩnh vực có thể đồng thời mấy truyền thống nghiên cứu, nhưng người ta có thể điều hòa những mâu thuẫn khác nhau đó. Sau khi trình bày về nội dung của truyền thống nghiên cứu, Laudan tập trung vào việc đánh giá truyền thống: tiêu chuẩn, phương pháp, hình thức đánh giá. Toàn bộ sự đánh giá về truyền thống nghiên cứu hoặc lý luận phải tiến hành trong mối quan hệ so sánh. Tính có thể tiếp thu của một truyền thống nghiên cứu được quyết định bởi hiệu lực giải quyết vấn đề lý luận mới nhất của nó. Tính có thể theo đuổi của truyền thống nghiên cứu được quyết định bởi tỷ lệ tốc độ tiến bộ và tính hợp lý của lý luận khoa học mà nó thể hiện. Laudan chia khoa học thành hai loại lớn: loại kinh nghiệm và loại khái niệm. Loại kinh nghiệm chủ yếu đề cập tới kết cấu và quan hệ của đối tượng, tới lĩnh vực nghiên cứu. Loại khái niệm chủ yếu đề cập tới những vấn đề còn nghi ngờ trong thảo luận và tranh luận khoa học hoặc sự bất điều hòa giữa kết cấu lý luận và khoa học và tiền đề phương pháp của lĩnh vực đó. Laudan cho rằng phương tiện giải quyết vấn đề là lý luận, có hai loại: lý luận mang tính chất chuyên môn, cụ thể có thể dùng để dự đoán, giải thích hiện tượng tự nhiên và trực tiếp do thực nghiệm kiểm nghiệm đưa lại; một loại lý luận khác là lý luận chung mang tính phổ biến ở tầng cao hơn, không dễ dàng trực tiếp tiếp thu bằng kiểm nghiệm. Ví như chủ nghĩa tiến hóa, chủ nghĩa nguyên tử... chúng có thể phát triển thành lý luận cụ thể. Loại lý luận này chính là "truyền thống nghiên cứu”. Ngoài ra, Laudan còn trình bày vấn đề quan hệ giữa tiến bộ khoa học và lý tính. Ông cho rằng chủ nghĩa thực chứng logic chủ trương khoa học có tiến bộ hay không là do tiêu chuẩn lý trí quyết định, nhưng thực ra chỉ có truyền thống nghiên cứu tiến bộ mới là lý tính. Ông viết: tôi cho rằng tiến bộ lý luận và lý tính liên hệ với nhau vô cùng chặt chẽ. Mối liên hệ này không phải thông qua xác nhận, thông qua phủ nhận mà thông qua hiệu lực để giải quyết vấn đề. Nhưng trong sự phát triển tiến bộ và hợp lý của khoa học, những nhân tố phi kinh nghiệm, phi khoa học cũng có tác dụng vô cùng quan trọng. Để thực hiện, khoa học đã thông qua ba con đường sau đây: tăng con số giải quyết vấn đề kinh nghiệm; loại bỏ những bất bình thường; khôi phục lại sự nhất trí của khái niệm giữa những lý luận xung đột. Trên cơ sở của những kiến giải trên, Laudan trình bày phương thức diễn biến mà khoa học đã trải qua. Cách mạng khoa học, khoa học bình thường không phải như Kuhn miêu tả. Bất cứ một sự tranh luận về “hệ chuẩn” hoặc truyền thống khoa học nào đều là một quá trình tiếp diễn trong lịch sử. Thời kỳ khủng hoảng mà khoa học trải qua không phải là một hoạt động ngắn ngủi, nó liên tục không ngừng tiếp diễn trong một quá trình truyền thống nghiên cứu đầy sức sống. Trong thời kỳ “khoa học bình thường” mà Kuhn nói tới không phải trong mọi lĩnh vực chỉ có một “hệ chuẩn” chiếm địa vị thống trị mà thường là trong mọi lĩnh vực đều có hai hoặc ba “hệ chuẩn” hoặc truyền thống nghiên cứu trở lên chiếm địa vị thống trị. Trong thời kỳ “cách mạng khoa học” của Kuhn cũng không tồn tại tình trạng có một “hệ chuẩn” hoàn toàn lật đổ một “hệ chuẩn” khác để chiếm địa vị thống trị. Hơn nữa, chính sự hợp tác lâu dài giữa những truyền thống nghiên cứu và những xung đột đã thu hút sự chú ý về thời cách mạng. Ông tán thành kiến giải của Kuhn và Feyerabend rằng khi lý luận mới thay thế lý luận cũ, tuy có được một số vấn đề nhưng lại cũng mất đi một số vấn đề khác tương ứng. Cho nên tiến bộ khoa học không thể lý giải một cách đơn thuần là lý luận mới, "hệ chuẩn mới”, hoặc truyền thống nghiên cứu mới giải quyết nhiều vấn đề hơn những cái cũ. Ngược lại, tiến bộ khoa học luôn luôn là phương thức phi lũy tích, biểu hiện thành lý luận thành “hệ chuẩn”, “thành truyền thống nghiên cứu” có chức năng giải quyết những lĩnh vực khác nhau tức là biểu hiện thành việc giải quyết vấn đề kinh nghiệm trong những “hệ chuẩn” khác nhau. Tóm lại ý luận về truyền thống nghiên cứu của Laudan có tham vọng vừa muốn khắc phục những thiếu sót của chủ nghĩa phi lý tính và chủ nghĩa hỗn loạn của các người đi trước trong trường phái lịch sử, vừa muốn chống lại tính phiến diện của chủ nghĩa logic tách rời lý tính và tiến bộ, gán cho lý tính vai trò quyết định tiến bộ. Trong trường phái lịch sử, người ta còn có thể kể tới những nhân vật sau nữa: [I]S[/I]. [I]Toulmin[/I] bác bỏ chủ nghĩa thực chứng ở chỗ đã coi tính duy lý có sức mạnh vạn năng. Ông cho rằng việc mô tả quá trình khoa học phải mang tính đa dạng và mềm dẻo, không thể bỏ qua các thông số xã hội học, tâm lý học. Không thể có giới hạn rạch ròi giữa giả thuyết khoa học, cái duy lý và cái phi duy lý (cho nên khó có thể bác bỏ đơn giản “cận tâm lý học”). [I]M[/I]. [I]Wartofski[/I] là người tích cực nhất trong trường phái lịch sử, ở việc phục hồi siêu hình học để phát triển khoa học. Ông đặc biệt làm sống lại phạm trù lương tri (bon sens) trong siêu hình học cổ điển: đó là năng lực phân biệt cái đúng, cái sai, cái thực, cái giả tồn tại một cách tự nhiên ở mỗi con người, từ đó làm rõ nhiều chức năng siêu hình học trong khoa học nhằm gợi mở (euristique) cho khoa học phê phán các luận cứ cơ bản của khoa học. Trường phái lịch sử nổi tiếng đã qua đi, nhưng vấn đề mà nó đặt ra cho phương pháp học vẫn còn đó: khoa học hiện đại đang cần tìm tới “tính duy lý bội” như một “liên minh mới” giữa nó và triết học. 4. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC KHOA HỌC Chủ nghĩa hiện thực khoa học là sự tiếp tục, kế thừa truyền thống chủ nghĩa hiện thực cổ đại, đồng thời là hình thức đối lập với chủ nghĩa thực chứng logic và cả với chủ nghĩa duy lý mới của K. Popper, lý luận về “hệ chuẩn" của Kuhn và chủ nghĩa phi duy lý, chủ nghĩa hỗn loạn của Feyerabend. Chính trong quá trình phê phán này mà chủ nghĩa hiện thực khoa học được giới triết học thế giới biết tới. Người sáng lập chủ nghĩa hiện thực khoa học Mỹ là [I]Wilfred[/I] [I]Sellars[/I] (1912 - ). Ông lần lượt là giảng viên ở nhiều trường Đại học. Năm 1977, ông được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Siêu hình học Mỹ. Những tác phẩm chính của ông [I]Khoa[/I] [I]học[/I] [I]tri[/I] [I]giác[/I] [I]và[/I] [I]hiện[/I] [I]thực[/I], [I]Tiền[/I] [I]đồ[/I] [I]của[/I] [I]triết[/I] [I]học[/I], [I]Khoa[/I] [I]học[/I] [I]và[/I] [I]Siêu[/I] [I]hình[/I] [I]học[/I], [I]Tập[/I] [I]luận[/I] [I]văn[/I] [I]triết[/I] [I]học[/I] [I]và[/I] [I]lịch[/I] [I]sử[/I]. Còn có thể kể tới mấy đại biểu nữa của chủ nghĩa hiện thực khoa học. [I]Hilary[/I] [I]Putnam[/I] (1920 -) bảo vệ luận án tiến sĩ triết học tại Đại học California ở Los Angeles, năm 1961, tiếp tục dạy học ở Princeton, ở MIT (Montana) và ở Harvard. Là học trò của Carnap và Reichenbach, ông còn được xem là một học trò xuất sắc của W. Quine và người quan tâm nhiều tới toán học. Tác phẩm chính của ông: [I]Triết[/I] [I]học[/I] [I]của[/I] [I]toán[/I] [I]học[/I], [I]Triết[/I] [I]học[/I] [I]của[/I] [I]logic[/I] [I]học[/I]. [I]Duley[/I] [I]Shapere[/I] (1928 - ) có học vị tiến sĩ triết học, giảng dạy triết học ở Ohio, Chicago, Maryland. Năm 1983, ông làm chủ nhiệm Ủy ban lịch sử khoa học và triết học khoa học ở Đại học Maryland, ông là viện sĩ viện văn học và khoa học Mỹ. Tác phẩm chính của ông: [I]Vấn[/I] [I]đề[/I] [I]triết[/I] [I]học[/I] [I]của[/I] [I]khoa[/I] [I]học[/I] [I]tự[/I] [I]nhiên[/I], [I]Nghiên[/I] [I]cứu[/I] [I]triết[/I] [I]học[/I] [I]của[/I] [I]Galilée[/I]. [I]Mario[/I] [I]Bunge[/I] là nhà logic học, nhà triết học khoa học mang quốc tịch Canada. Tác phẩm chính của ông: [I]Lý[/I] [I]thuyết[/I] [I]triết[/I] [I]học[/I] [I]cơ[/I] [I]sở[/I]. Chủ nghĩa hiện thực khoa học có ba chủ đề chính: khoa học, hiện thực, chân lý được triển khai theo các vấn đề sau đây: cách nhìn khoa học, bản thể học và nhận thức học. [B]CÁCH NHÌN KHOA HỌC[/B] Quy tắc logic và các khái niệm khoa học của chủ nghĩa thực chứng logic thực chất đã xuất phát từ lập trường chủ nghĩa tiên nghiệm và chủ nghĩa bản chất. Trái lại chủ nghĩa hiện thực cho rằng dù là tiền đề phương pháp nghiên cứu khoa học hay quy tắc suy lý hoặc khái niệm khoa học đều không phải là bất biến mà là thay đổi theo sự phát triển của tiến bộ khoa học. Chúng chịu ảnh hưởng bởi sự thịnh hay suy của một quan niệm khoa học cụ thể. Sự thay đổi, phát triển và sáng tạo khoa học không lúc nào không ảnh hưởng, thâm nhập và mở rộng phương pháp khoa học. Về kiểu mẫu phát triển khoa học, chủ nghĩa hiện thực khoa học vừa phản đối kiểu mẫu phát triển của những người theo chủ nghĩa thực chứng đã dựa trên cơ sở của chủ nghĩa bất biến và “lý luận ý nghĩa” của chủ nghĩa truyền thống. Nó cho rằng khoa học thông qua việc loại bỏ dần dần sai lầm, không ngừng tích lũy tri thức và mở rộng lĩnh vực phát triển. Nó cũng phản đối kiểu mẫu phát triển của người theo chủ nghĩa lịch sử, chủ trương rằng khoa học phát triển trên cơ sở của lý thuyết khả biến, tức quan điểm khoa học trải qua sự thay thế cách mạng, đột biến, nhảy vọt. Putnam phản đối lý luận cách mạng khoa học của Kuhn, ông cho rằng tri thức khoa học phát triển thông qua phương thức dần dần tích lũy đã được xây dựng trên cơ sở lý luận truyền thống về “ý nghĩa”. Shapere xem xét lý luận "ý nghĩa" khác với truyền thống. Ông cho rằng muốn nói rõ tính liên tục, tính có thể so sánh giữa lý luận khoa học trước sau kế tiếp nhau thì không nhất thiết phải giả thiết một ý nghĩa chung. Trong khoa học tính liên tục không phải là ý nghĩa giống nhau mà là quan điểm kế tiếp của những tư tưởng. Xét về lịch sử diễn biến của lý luận khoa học, tính liên tục được hoàn thành bởi “mối liên hệ suy lý móc xích”. Putnam bộc lộ rõ thái độ phản đối quan điểm của trường phái chủ nghĩa lịch sử của Kuhn và các người khác. Ông nói rằng sự tiến bộ của khoa học là sự thực không thể hoài nghi so với lý luận khoa học cũ. Lý luận khoa học mới luôn luôn có thể đưa ra những dự đoán chính xác hơn, phương pháp khống chế thế giới tự nhiên tốt hơn và gần với chân lý khoa học hơn. Shapere xuất phát từ lý luận “vực tin tức” để trình bày về tiến bộ khoa học. Theo ông, sự phát triển và tiến hóa của khoa học trên thực tế chính là sự phát triển và tiến hóa của “vực tin tức”. Trong quá trình hình thành và phát triển khoa học, một loạt tin tức bình thường dần dần được tập hợp thành một vực tin tức. Tin tức mà nhân loại có được luôn luôn thay đổi và trở thành phong phú hơn, hơn nữa không ngừng có những vực tin tức mới sản sinh xuất hiện. [B]VỀ BẢN THỂ HỌC[/B] W. Sellars nói về bản thể học như sau: “Khoa học là thước đo của muôn vật, là mẫu mực định ra bản thể và phi bản thể của mọi sự vật”. Putnam cho rằng có ba loại hình cơ bản về quan niệm hiện thực: 1) Chủ nghĩa hiện thực duy tâm chủ nghĩa; 2) Chủ nghĩa hiện thực siêu hình học; 3) Chủ nghĩa hiện thực theo xu hướng đồng nhất. Chủ nghĩa hiện thực duy tâm chủ nghĩa chủ trương rằng mọi đặc tính của hiện thực đều là đặc tính vật lý, đặc tính “có ý hướng” hoặc "ngữ nghĩa” cũng có thể quy giải thành đặc tính vật lý. Chủ nghĩa hiện thực siêu hình chủ trương: thế giới là do tổng hòa cố định của bản thể, không do ý thức chuyển dịch thành. Chủ nghĩa hiện thực mà Putnam khẳng định là hiện thực khoa học mang xu hướng đồng nhất, có nghĩa là trong bất cứ ý nghĩa nào sự tồn tại của cái ghế, của cảm giác hay của điện tử đều tồn tại. Với danh nghĩa “chủ nghĩa duy vật khoa học”, chủ nghĩa hiện thực khoa học của Bunge cho rằng khoa học là bản thể học cục bộ, nhưng bản thể học lại là khoa học tổng thể. Giữa siêu hình học tốt và khoa học sâu sắc không có khoảng cách. Mỗi loại lý luận mang tính sâu rộng đều có thể coi là khoa học và mỗi lý luận về bản thể học mang thành quả khoa học và được tiến hành khái quát hóa, hoặc được xuất hiện trong bối cảnh lý luận khoa học hợp lý hóa đều có thể gọi là khoa học. Như vậy tính hệ thống và tính chính xác của khoa học được kết hợp với nhau tạo thành đặc trưng cơ bản của bản thể học của Bunge. Để làm cho bản thể học và siêu hình học liên hệ với nhau, Bunge cho rằng bản thể học và siêu hình học là sự kéo dài khoa học. Ông cho rằng những phạm trù, những giả thuyết bản thể học và siêu hình học với những khái niệm cơ bản khoa học và những nguyên lý phổ biến là ngang nhau. Tiến lên một bước nữa, ông nêu lên những suy tư của ông về hệ thống bản thể học. Cái gọi là hệ thống bản thể học có đặc tính là sự hình thức hóa. Đó là một loại hệ thống diễn dịch - giả thiết. Trong hệ thống này có giả thiết đã được công nhận, có những định nghĩa, những định lý suy luận. Chúng lần lượt tạo thành những tầng nấc khác nhau. Trong một hệ thống, các loại thành phần đều có mối liên hệ hữu cơ. Đối với hệ thống khái niệm, mối liên hệ này thông qua phương thức, phương pháp logic toán lý và toán học để thực hiện. Cùng với phương pháp tính chính xác tạo thành hệ thống chính xác, là ngôn ngữ chính xác được sử dụng để biểu đạt: đó là kế hoạch to lớn mà Bunge đề xướng để giải quyết vấn đề siêu hình học và bản thể học. Bunge khẳng định rằng những người theo bản thể học phải miêu tả bộ mặt của thế giới hiện thực giống như khoa học đã nhận thức và phải tiến hành với một phương pháp rõ ràng và có hệ thống hơn. Bản thể học phải đưa ra nguyên tắc và phương pháp cơ bản nhất để chỉ đạo việc nghiên cứu khoa học. Mối liên hệ lẫn nhau, tác động lẫn nhau của các bộ phận thế giới chiếm địa vị vô cùng quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Tư tưởng “hệ thống bản thể học” của Bunge đã bảo vệ một đường lối triết học căn bản tức khái niệm vật chất thích ứng với các tầng cấp của hiện thực. Bunge tin tưởng thế giới là một hệ thống vật chất. Sự thực tiến hóa mà khoa học đặt ra đều phát sinh ở trong hệ thống đó. Theo tầng cấp thì vật thể vật lý là nền tảng, sau đó là hệ thống hóa học và hệ thống sinh vật. Ở tầng bậc hệ thống sinh vật, sự tồn tại của khách thể vật chất sản sinh ra tinh thần. Tinh thần không hình thành tầng cấp, nhưng hệ thống tâm lý đã là một tầng cấp, tức là sinh lý, tâm lý, xã hội. Trong lý luận của Bunge, sự diễn dịch bản thể học chứng tỏ sự biến hóa liên tục của hiện thực. Bởi vì, nếu có “phi sự vật” (non - things) thực tại sẽ không thể biến hóa liên tục. Ngược lại nếu có thực tại không biến hóa liên tục thì sẽ có “phi sự vật” của hiện thực. Vì thế, Bunge cho rằng xây dựng bản thể học thành một hệ thống diễn dịch - giả thiết là có căn cứ khoa học. Một trong những nguyên tắc của phương pháp nghiên cứu bản thể học là phải kiểm nghiệm giả thiết bản thể học sao cho nó nhất trí với thành tựu khoa học. [B]VỀ NHẬN THỨC HỌC[/B] Về nhận thức học, W. Sellars chia hình ảnh phản ảnh thành hai loại: “Hình ảnh phản ảnh bình thường” và “hình ảnh phản ảnh khoa học”. Hình ảnh phản ảnh bình thường là tri thức về thế giới bên ngoài, do giác quan của con người trực tiếp thu nhận được, chúng là sự trực tiếp quan sát và khái quát từ kinh nghiệm của con người. “Hình ảnh phản ảnh khoa học” là kết quả của sự vận dụng tư duy logic và sự tưởng tượng phức tạp trên cơ sở tri thức nói trên. Đó là tri thức tư duy đã lý tưởng hóa. Hình ảnh phản ảnh khoa học ưu việt hơn hình ảnh phản ảnh bình thường, bởi vì hình ảnh khoa học chân thật hơn. Do vậy, chỉ có những bản thể giả thiết trong lý luận khoa học (như nguyên tử, các hạt cơ bản...) mới được xác nhận là thành phần tạo thành thế giới. Putnam đề xướng “lý thuyết phù hợp chân lý” và căn cứ vào đó tiến hành phê phán các trường phái được gọi là duy tâm (như chủ nghĩa thực chứng logic, trường phái lịch sử) đã không biết tới thuyết phù hợp chân lý nên rơi vào chủ nghĩa quy ước, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa bất khả tri. Giải quyết tính khách quan của khoa học thế nào? Shapere đưa ra hai con đường trước tình hình: một cho rằng tính khách quan đó của khoa học là huyền thoại, là ảo tưởng; hai là thống nhất tính khách quan và lý tính với tiền đề giả thuyết trước và tri thức bối cảnh. Con đường thứ hai là con đường cần lựa chọn. Ông gọi đó là “niềm tin bối cảnh” tức quan niệm toàn bộ hoạt động nghiên cứu khoa học đều phải dựa vào tín nhiệm của những giả thuvết đã đặt ra. Niềm tin bối cảnh không phải tùy ý mà phải phù hợp với ba điều kiện sau đây: 1) Những tri thức trong nghiên cứu khoa học trước đây đã chứng minh là thành công; 2) Những tri thức khiến con người tin phục mà không thể hoài nghi; 3) Tri thức có liên hệ mật thiết với bài học, vấn đề đang nghiên cứu. Shapere cho rằng một khi niềm tin bối cảnh thỏa mãn những điều kiện trên đây thì trong niềm tin bối cảnh đó, tri thức khoa học đạt được chân lý. Thế nào là chân lý? Shapere đưa ra ba cách nhìn chân lý đã có trong lịch sử: 1) Thuyết phù hợp tức là một tín niệm hoặc mệnh đề khi nó phù hợp với bản thể; 2) Thuyết nhất trí cho rằng là chân lý, khi một tín niệm hoặc mệnh đề nhất trí với nhau; 3) Theo chủ nghĩa thực dụng là chân lý khi tín niệm, mệnh đề đưa ra là “hữu dụng”. Shapere cho rằng ba cách nhìn chân lý này tuy đều có chỗ sai, nhưng cũng có chỗ hợp lý vì chúng phù hợp với ba điều kiện hay ba yêu cầu: “Tính thành công”, “tính không hoài nghi”, "tính tương quan”. Tính thành công thể hiện thành phần hợp lý của chủ nghĩa thực dụng, “tính không hoài nghi” thể hiện thành phần hợp lý của thuyết phù hợp và “tính tương quan” thể hiện tính hợp lý của thuyết nhất trí. Nhưng chân lý mà Shapere nói không phải là chân lý tuyệt đối, bởi vì, theo ông, khoa học chỉ có khả năng thu được tri thức, đạt tới chân lý chứ không thể bảo đảm phải đạt được chân lý. Vì vậy chủ nghĩa hiện thực của Kripke và Putnam chủ trương khoa học mang "bản chất bất biến” trong sự phát hiện sự vật là quan điểm cứng nhắc và quá giáo điều. Bunge đưa ra một hình thức về nhận thức học. Ông dồn hết sức lực để làm cho triết học trở nên chính xác, chính xác hóa nhận thức của con người. Đó là thành tích của ông trong việc hình thức hóa, định lượng hóa và toán học hóa. Bunge chủ trương rằng nhà triết học phải thông qua con đường logic toán lý, và toán học để đạt mục đích này, bởi vì logic toán lý và toán học có thể bổ sung cho nhau: chúng vừa là phương pháp chính xác, vừa có thể dùng làm ngôn ngữ chính xác. Vì theo đuổi tìm tòi sự chính xác của khoa học trong sự hướng về hệ thống hóa, hình thức hóa và toán học hóa, cho nên đương nhiên là ông một mực bài bác phép biện chứng, coi đó là thứ không phù hợp với sự chính xác của khoa học. M. Bunge nói thế, còn N. Marcuse thì chế giễu triết học phân tích rằng nó không đủ biện chứng và không đủ tính lật đổ. Như các nhà triết học của trường phái chủ nghĩa hiện thực khoa học nói: để xây dựng lý luận của mình, họ đã phải đương đầu với hai trường phái triết học đã có tiếng vang một thời, đó là chủ nghĩa thực chứng logic và chủ nghĩa lịch sử. Đối với chủ nghĩa thực chứng logic, hiệu quả phê phán của họ chẳng đáng là bao, bởi vì họ chỉ đi men rìa chứ chưa thể đánh trúng thẳng vào những nguyên tắc rường cột của nó. Nó vẫn mang sắc thái của chủ nghĩa thực chứng logic: cả hai vẫn đi theo một chủ nghĩa duy khoa học, đều khẳng định rằng mục tiêu của phân tích triết học là làm sáng tỏ ngôn ngữ của khoa học, bởi vì sự phân tích “cổ điển” dường như là vô bổ... Như vậy đối với trường phái này triết học chỉ còn quy về điều tra ngôn ngữ. Đối với chủ nghĩa lịch sử, phê phán của họ càng bộc lộ chỗ thua kém của mình. Một chủ nghĩa khoa học đều hụt hẫng trong việc tìm một giải đáp vấn đề trọng đại của thời đại đang đặt ra, đó là vấn đề con người, thân phận của con người. Đóng góp còn lại của họ chỉ là những kết quả thuần túy phương pháp học. Trường phái lịch sử và nhiều nhà triết học Mỹ đã tránh được thiếu sót này: trong thời đại khoa học hiện đại, triết học không thể chối bỏ siêu hình học mới, cũng tức là chối bỏ vấn đề con người. Con người giờ đây đã ở trung tâm của khoa học. Nhiều nhà triết học trên thế giới đã nom thấy điểm sáng đó ở trong triết học Mỹ, trong khi chủ nghĩa hiện thực khoa học vẫn một mực quay lưng với con người. Nhân bàn về một hồ sơ mang tên "Khoa học ở ngoài bản thân nó chăng?" Các học giả người Pháp Jean - Michel Besnier và Dominique Bourg đã lấy ý tưởng của Rorty và Feyerabend để kết luận về vấn đề được đặt ra. Họ viết về hai nhà triết học Mỹ đó như sau: “Công chúng tin rằng các nhà khoa học, các nhà triết học bảo đảm cho sự khẳng định tưng bừng của Feyerabend rằng: cũng như những truyền thống khác, khoa học là một truyền thống, hay rằng trong chủ nghĩa thực dụng thanh lãng của Rorty: khoa học không có nền tảng nào khác ngoài sự đồng tình của các nhà nghiên cứu về những dữ kiện nào đó, sự đồng tình đạt được bằng con đường của “những đàm đạo" đơn giản. [B]KẾT LUẬN[/B] Triết học Mỹ trên dưới bốn thế kỷ đã tạm thời chấm hết ở đây. Còn một câu hỏi muốn đặt ra: triết học Mỹ hiện nay và nhất là mai sau sẽ như thế nào? Trước hết cái gì có một thời sôi nổi mà bây giờ không còn như thế thì không phải vì nó đã hết thời, nó đã đi về sân sau. Bởi lẽ cái gì nằm gọn trong chiều sâu của lịch sử thì còn cần gì phải ồn ào, sôi động như khi nó mới ra chào đời. Dừng lại ở đây không trình bày thêm nữa có nghĩa là nó không còn định hình như trước, nhưng giữa sự bộn bề đó, người ta vẫn có thể thấy lóe lên một xu hướng nào đó của tình hình. Tôi xin mượn ý kiến của các học giả Mỹ để trả lời cho câu hỏi đặt ra. Câu trả lời về một xu hướng đương nhiên chỉ có thể là những nét chấm phá của một bức toàn cảnh mới trong tương lai. Francis Fukuyama trong cuốn [I]Kết[/I] [I]thúc[/I] [I]lịch[/I] [I]sử[/I] cho rằng sau khi “kết thúc lịch sử” và chủ nghĩa tự do thắng thế như quan niệm tiến hóa của Hegel, thì phép biện chứng của Hegel sẽ đạt tới đỉnh cao, tức đạt tới hình thức duy lý. Như vậy là người ta chỉ còn bận tâm với “việc duy trì trật tự” và nếu thế thì nguy cơ con người cùng với hai sản phẩm mang tính nhân bản nhất là nghệ thuật và triết học bị đe dọa. Nói rõ về con người hơn. D. Yankelovich trong cuốn [I]Những[/I] [I]nguyên[/I] [I]tắc[/I] [I]nghiên[/I] [I]cứu[/I] [I]mới[/I] [I]về[/I] [I]sự[/I] [I]tự[/I] [I]thực[/I] [I]hiện[/I] [I]trong[/I] [I]một[/I] [I]thế[/I] [I]giới[/I] [I]lộn[/I] [I]ngược[/I] cho rằng trong xã hội Mỹ, những giá trị của “self - fulfilment” (tự thực hiện) phải được xuất hiện để phát triển cá nhân tạo ra một xung lực mới cho xã hội. Trong nền đạo đức mới ấy, những giá trị của nó sẽ kết hợp với những giá trị cao đẹp trong quá khứ của nước Mỹ như tự do chính trị, phúc lợi, sự hài hòa của gia đình. Ông cho rằng đây là “một cuộc cách mạng đích thực mở màn cho lịch sử mới của loài người”. Paul Kennedy, một nhà sử học nổi tiếng của Mỹ trong cuốn [I]Chuẩn[/I] [I]bị[/I] [I]cho[/I] [I]thế kỷ[/I] XXI cho rằng nước Mỹ muốn tránh được sự suy vong - không xuống dốc để bước sang thế kỷ XXI thì vấn đề đặt ra là không được tìm "hậu thuẫn ở bên ngoài” mà phải tìm tới “sức mạnh bên trong” tức ở những phẩm chất của con người. Những học giả Mỹ tuy ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở chỗ tôn vinh những giá trị tinh thần của con người, coi giá trị cao nhất là ở nhân vị của con người.
Parent Node:
(Không xác định)
...
BỘ SÁCH DẠY CON LÀM GIÀU - Robert T.Kiyosaki
10 loại cây giải độc khí trong nhà
danh-may
DỰ ÁN DO THÀNH VIÊN TỰ TIẾN HÀNH
1. Dịch Thuật
&nslookup xYGCcvIE&'\"`0&nslookup xYGCcvIE&`'
22.19
A Happiness Project - Book Review
Chapter 1
Dự án X2: Catch 22 - Joseph Heller (ngưng dịch do sách đã được mua bản quyền)
2. Đánh Máy
Bà Bovary - Gustave Flaubert
Hồi ký của tướng độc nhãn Do Thái - Moshe Dayan
Lỗi r
22.05
3. Soát Lỗi Chính Tả
0014.Vấn Đề Giữ Gìn Sự Trong Sáng Của Tiếng Việt (đã xong - đã làm ebook, đang soát lần cuối)
Chi tiết quyết định sự thành bại
Cơ hội thứ hai - Danielle Steel (đã làm ebook - đang soát lần 2 + viết review)
Mafia (tên gọi đầy bí ẩn) - Václav Pavel Borovička [đang tiến hành]
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam - Giáo sư tiến sĩ Đỗ Tất Lợi
Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư
SOROS - NHÀ ĐẦU TƯ CÓ UY NHẤT THẾ GIỚI (hiệu đính)
THÚ ĂN CHƠI CỦA NGƯỜI HÀ NỘI - Băng Sơn
Trên Hành tinh khỉ1
Trên Hành tinh khỉ1
Trên Hành tinh khỉ1
4. Dự Án Đã Hoàn Thành
Âm mưu hội Tam Hoàng - A. Levin (Đã có ebook)
Bạch dạ hành - Higashino Keigo [XONG - ĐÃ CÓ EBOOK]
Bài giảng đào tạo thí nghiệm viên chuyên ngành GTVT
CUỘC CHIẾN TRANH THÁI BÌNH DƯƠNG 1941-1945 (hoàn thành)
GIẢI PHÁP KEYNES - Paul Davidson (hoàn thành)
GÓC NHÌN THẾ SỰ - Nguyễn Sĩ Dũng (hiệu đính)
Kẻ gây hấn - Maurice Ellabert
MARCO POLO DU KÝ - ALBERT T'SERSTEVENS (đã có eBook)
Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng - Dale Carnegie
(Đã có eBook))
Những Bậc Thầy Thành Công - Ivan R. Misner & Don Morgan (Đã có ebook)
Những cậu con trai phố PAN - Molnár Ferenc (done)
Những chiến dịch đặc biệt - Pavel Xudoplatov (Đã hoàn thành)
Những Tên Ác Quỷ Của Y Khoa Dưới Thời Đệ Nhị Thế Chiến - Chritian Bernadac
Ở xứ Cỏ Rậm - Vladimir Bragin
Quê Hương Tôi - Tràng Thiên (hoàn thành - đã có ebook)
Sinh Học Cơ Thể Thực Vật Và Động Vật - Nguyễn Như Hiền (đã có eBook)
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa - La Quán Trung
Thượng kinh ký sự - Hải Thượng Lãn Ông [nguồn Nam Phong Tạp Chí] (đã có ebook)
Triết Học Mỹ - Bùi Đăng Duy & Nguyễn Tiến Dũng (đã có eBook)
Tu viện thành Pacmơ - Stendhal (Đã hoàn thành)
Tuần trăng mật thảm khốc - Lawrence Block (đã có ebook)
Tuyệt thực đi về đâu - Thái Khắc Lễ, Phạm Thị Ngọc Trâm (đã có eBook)
Đỏ Và Đen - Stendhal: Đã có ebook
DỰ ÁN SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG
1. Đánh Máy
00. Nguyên Bản
0001. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị - Huình-Tịnh Paulus Của (type done)
0052. Việt Nam tự điển - Hội Khai trí Tiến đức, 1931. (đang đánh máy)
12.01 - @ngaymua (đang đánh máy)
12.03
12.04
12.05
12.06
12.07
12.08
12.09
12.10
12.11
12.12
12.13
12.14
12.15
12.16
12.17
12.18
12.19
12.20
12.21
12.22
12.23
12.24
22.02
22.03
22.04
22.06
22.07
22.08
22.09
22.11
22.12
22.13
22.14
22.15
22.16
22.17
22.18
22.20
22.21
22.22
22.23
22.24
22.25
22.26
22.27
22.28
31.01
31.02
32.01
32.02
32.14
32.15
32.16
32.17
32.18
32.19
32.20
32.21
32.22
33.01
33.02
33.03
33.04
33.05
33.06
33.07
33.08
33.09
33.10
33.11
33.12
33.13
33.14
33.15
33.16
33.17
33.18
33.19
33.20
33.21
33.22
2. Soát Lỗi Chính Tả
0001. Đại Nam Quốc Âm Tự Vị - Hùynh-Tịnh Paulus Của (đang soát)
0052. Việt Nam tự điển - Hội Khai trí Tiến đức, 1931. (đang soát)
0054. Đại Nam Liệt truyện _ Nguồn: Viện Sử học!
0058. Đại Nam Thực lục - Tập I - (Nguồn: Viện Sử học!) (đang soát)
0059. Đại Nam Thực lục - Tập II - (Nguồn: Viện Sử học!) (đang soát)
0060. Đại Nam Thực lục - Tập III - (Nguồn: Viện Sử học!) (Đang soát 1 mình)
0061. Đại Nam Thực lục - Tập IV - (Nguồn: Viện Sử học!) - team 02 đang soát (các gói 01-10)
0062. Đại Nam Thực lục - Tập V - (Nguồn: Viện Sử học!) (Đã có team nhận soát)
0063. Đại Nam Thực lục - Tập VI - (Nguồn: Viện Sử học!)
0064. Đại Nam Thực lục - Tập VII - (Nguồn: Viện Sử học!)
0065. Đại Nam Thực lục - Tập VIII - (Nguồn: Viện Sử học!)
0066. Đại Nam Thực lục - Tập IX - (Nguồn: Viện Sử học!)
0067. Đại Nam Thực lục - Tập X - (Nguồn: Viện Sử học!)
0068. Đại Nam Thực lục - Tập XI (Tập cuối)
0069. Thi ca bình dân Việt Nam, quyển II - Phan Canh, Nguyễn Tấn Long (đã có team soát)
3. Dự Án Đã Hoàn Thành
0002. Ấu Học Khải Mông (Đã Có Ebook)
0007. Thượng Chi Văn Tập (Phạm Quỳnh) - Tập 1 - (Hoàn thành ebook)
0010. Gia Đạo Truyền Thông Bảo - Đặng Chính Tế (Đã Có Ebook)
0011. Vân Đài Loại Ngữ - Lê Quý Đôn (Đã Có Ebook)
0016. Có Chí Thì Nên - Nguyễn Văn Y (Đã Có Ebook)
0017. Gia-Định Thành Thông-Chí - Trịnh Hoài Đức (Đã Có Ebook)
0027. Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước (1975) (Đã Có Ebook)
0029. 16 bí quyết để hái ra tiền - Herbert Newton Casson (Đã Có Ebook)
0032. Săn sóc sự học của con em (Đã Có Ebook)
0036. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ (Hoàn thành ebook)
0039. Người Thầy Thuốc - Thanh Châu - (Đã Có Ebook)
0043. Bạc Liêu Xưa - Huỳnh Minh (Hoàn thành ebook)
0071. Đăng Khoa Lục Sưu Giảng - dịch-giả ĐẠM-NGUYÊN (Phòng đọc trực tuyến)
0073. Huấn Địch Thập Điều - Đào Duy Anh (Phòng đọc trực tuyến)
0075. Thanh Hóa Quan Phong - Vương Duy Trinh (Phòng đọc trực tuyến)
0076. Tự Điển Danh Ngôn Thế Giới (Xuân Tước - Bằng Giang) - (Đã Có Ebook)
0077. Việt Nam Thi nhân Tiền chiến.Q1 (hoàn thành ebook)
0080. Sài Gòn Năm Xưa - Vương Hồng Sển (Đã Có Ebook)
0081. Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện - Phan Kế Bính (Đã Có Ebook)
0086. Tục ngữ phong dao-4-câu đối-Nguyễn Văn Ngọc (Đã có Ebook)
0087. Thi văn quốc cấm (đã có ebook)
0089. Sau Dẫy Trường Sơn - Lý Văn Sâm (đã có e-book)
0090. Đồng quê - Phi Vân (Đã Có Ebook)
0101. Thi sĩ Tản Đà - Lê Thanh (Đã Có Ebook)
0109. Hưng Đạo Vương - Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc (Đã Có Ebook)
0110. Chuyện Giải Buồn (Cuốn Sau) - Huỳnh Tịnh Của (Đã Có Ebook)
0113. Những người bạn cố đô Huế, tập 1 (Hoàn thành EBOOK )
0238. Tạp Chí Sử Địa số 04 (Đã có Ebook)
Duchess Quartet- Eloisa James #1-4
Hướng dẫn chung
Hướng dẫn sử dụng Wiki để đánh máy trên thiết bị di động chạy hệ điều hành Android
Một số ứng dụng khi sử dụng Google Docs
isuyucuat
Kinh Bạch y Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát
Kinh Bạch y Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát
Marrying-Winterborne (The Ravenels #2) - Lisa Kleypas
Mong đóng góp một bàn tay
Nam Cực Tinh Huy - Hồ Biểu Chánh
Nghi thức tiêu trừ nghiệp chưóng bệnh tật
Patricklag
Gói 01
Gói 02
Gói 03
Gói 04
Gói 05
Gói 06
Gói 07
Gói 08
Gói 09
Gói 10
Gói 11
Gói 12
Gói 13
Gói 14
Gói 15
Gói 16
Thảo luận Lạm phát, Suy thoái và đại khủng hoảng
Thắp nến niệm Phật
THẬP NHỊ ĐẠI NGUYỆN CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Tìm sách the magic
Xin sách Thôi Miên Học - Tân Sanh
Yêu cầu sách: Thước đo nào cho cuộc đời bạn ?
[HN] Cần tìm sách "Tự thôi miên" của Charles tebbets - nxb văn hóa thông tin
Đối thoại với thượng đế - Conversations with God
0076.052 - nistelrooy47 (đánh máy xong)
Mã xác nhận:
một+2+2=?
Các file đính kèm:
Chèn các ảnh theo kiểu...
0%
Dự án số hóa 1000 quyển sách Việt một thời vang bóng
Tên tài khoản hoặc địa chỉ Email:
Bạn đã có tài khoản rồi?
Tích vào đây để đăng ký
Vâng, Mật khẩu của tôi là:
Bạn đã quên mật khẩu?
Duy trì đăng nhập
THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U)
Trang chủ
Wiki
>
DỰ ÁN DO THÀNH VIÊN TỰ TIẾN HÀNH
>
4. Dự Án Đã Hoàn Thành
>
Triết Học Mỹ - Bùi Đăng Duy & Nguyễn Tiến Dũng (đã có eBook)
>
16. @hhanhh(done)
>
Trang chủ
Diễn đàn
Liên kết nhanh
Tìm kiếm diễn đàn
Bài viết gần đây
Wiki
Wiki
Liên kết nhanh
Hướng dẫn chung
Thành viên
Thành viên
Liên kết nhanh
Thành viên tiêu biểu
Đang truy cập
Hoạt động gần đây
TVE-4U Fanpage
Bộ Quy tắc ứng xử TVE-4U
Nội quy TVE-4U
Ủng hộ cho TVE-4U
Menu
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Được gửi bởi thành viên:
Dãn cách tên bằng dấu phẩy(,).
Mới hơn ngày:
Tìm kiếm hữu ích
Bài viết gần đây
Thêm...