Thảo luận Một số " tiểu luận" của các cụ nhà ta thế kỉ XIX- XX

Thảo luận trong 'Tác phẩm và nhận định' bắt đầu bởi Sách triết học kinh điển, 26/7/18.

Moderators: Cát Cát
  1. 1) Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa
    Đây là bài diễn văn của cụ Phan Châu Trinh (1872-1926) năm 1925 tại Sài Gòn, sau khi Pháp thấy cụ gần chết vì lao phổi nên đưa cụ từ Pháp về Sài Gòn (để chết). Đến lúc gần chết cụ vẫn đau đáu về tương lai của Việt Nam.
    ***

    Thưa các anh em, chị em, đồng bào!

    Từ khi tôi biết cái học mới đến bây giờ, thì trong trí tôi bực tức, ngẫm nghĩ lấy làm lạ quá. Lạ vì trong xứ Á Đông này có bốn nước đồng văn, mà đều sùng bái cái chính thể quân chủ, đều sùng thượng Nho Giáo.

    Vậy làm sao mà từ hồi cái văn minh bên Châu Âu tràn sang cõi Á Đông đến nay thì chỉ có người Nhật Bản bỏ ngay cái học cũ mà theo lối mới, thì sự giàu mạnh trông thấy liền trước mắt, chừng trong bốn năm mươi năm mà đã sánh vai với liệt cường? Còn nước Xiêm [Thái Lan] ở gần bên ta, thì nó chẳng có đạo Nho gì hết, nó chỉ có đạo Phật mà thôi, mà nay nó cũng đứng vào hàng Vạn quốc bình đẳng. Tại làm sao mà được như thế?

    Chẳng có sự gì thế, hễ người Anh lại nó cũng cho vào, người Pháp lại nó cũng cho vào, người Mỹ, người Đức lại nó cũng đãi tử tế, để nó theo học cái hay của mấy nước đó. Chỉ chừa ra có ba nước là nước Tàu, nước Cao Ly [Triều Tiên] và nước ta, dân thì nghèo, nước thì yếu, cái phần người dốt nát thì chiếm đến 80%. Còn gọi là thượng lưu, chẳng qua là trong bọn "bát cổ" đã chiếm hai phần ba trong nước; thật chẳng biết biết cái Nho Học là gì, mà cũng nhắm mắt lại chê càn cái văn minh mới là mọi rợ! (đây tôi nói Cao Ly và Tàu, còn Việt Nam ta để tôi nói lại sau).

    Nhưng mà nay cái phong trào trong thế giới nó mãnh liệt lắm: ai thuận theo nó mà đi thì thuận buồm xuôi gió, ai không thuận theo nó thì cũng bị xô đẩy mà đổ lướt đi như cỏ rác.

    Vậy cho nên bọn thiếu niên Cao Ly họ đã tỉnh dậy, mới có cái hồi vận động năm 1919, làm cho Nhật Bản phải bỏ lòng hổ lang đi, mà trả cái tự do lại cho họ; nước Tàu thì có sự vận động bọn thanh niên năm 1925, làm cho liệt cường thể nào cũng phải lấy sự công bình mà đối xử lại với họ.

    Khốn nạn thay cho cái dân tộc nước Việt Nam ta, đến bây giờ trong dân tộc mà gọi là các ông Nho học tức là các ông có học được ít chữ Tàu, mà nhất là các ông đã đậu được Cử Nhân, Tiến Sĩ; các ông đó tôi dám chắc rằng không hiểu Nho Giáo là gì hết; vậy mà mở miệng ra là cứ đem Nho Giáo ra để làm chỗ dựa, để bài bát cái văn minh kim thời, tức là cái văn minh mà các ông tuyệt nhiên không hiểu được một chút nào cả.


    Còn nói về các anh thiếu niên tân học, trừ ra có đôi anh tự cái sức thông minh của mình mà tìm kiếm ra thấy được nhiều ít, kỳ dư thì chỉ theo cách học cũ; mong kiếm lấy cái chức phẩm gì, hay là coi cho rộng để viết lách khoe khoang mà thôi. Không có ông nào chịu đem cái sự học của Âu Tây để so sánh lại với cái cũ của ta, xem điều gì hay, điều gì dở cho người ta xét đoán mà tìm lấy đường tiến tới về sau này.
    *

    * *

    Tôi xin lỗi các anh chị em đồng bào, cái đề mà tôi lựa diễn thuyết bữa nay, Quân trị chủ nghĩa (tức nhân trị chủ nghĩa), Dân trị chủ nghĩa (tức là pháp trị chủ nghĩa), cái đề mục đó thật là lớn lao quá, không phải là sức tôi có giải quyết ra cho minh bạch được. Muốn giải quyết ra cho minh bạch thì phải tìm về Âu Á lịch sử chính học và chính trị triết học, mới có thể nói ra cho tinh tường được.

    Các anh em chị em có lạ gì tôi: cái học về đường lịch sử chính trị Tàu thì tôi cũng hiểu được ít nhiều, còn về đường Tây học thì thật là kém lắm. Nhưng mà tôi cũng ráng hết sức, đem cái việc mà tôi đã biết xin nói ra cho anh em nghe, còn cái việc gì cao xa không thấu, thì để phần ông nào hiểu hơn tôi diễn giải ra cho anh chị em rõ.
    [1] NÓI VỀ CÁI LỊCH SỬ QUÂN TRỊ CHỦ NGHĨA
    Cuộc quân chủ đến ngày nay thì cũng như một cái hoa tàn lá héo phất phơ trong đời bây giờ.

    Xem như trong một cõi Á Đông này, không kể những ông vua mất nước rồi mà những nước mạnh họ chỉ để làm con nộm, con bồ nhìn để đè dân bổn xứ, thì chỉ có Vua Xiêm và Vua Nhật đủ quyền phép đáng xưng là Ông Vua mà thôi. Âu Châu bây giờ dân chủ đã đến 14 nước mà quân chủ chỉ xót lại có 12 nước. Còn bên Mỹ Châu thì chẳng có một nước nào quân chủ. Vậy thì ta có thể nói rằng: trong trái đất này chỉ có 8.000 triệu người, mà số dân có vua thì không được một phần trong số mười.

    Vẻ vang thay cái oai quyền dân chủ! Gớm ghê thay cái dục vọng của quân chủ! Đang hồi Thượng cổ, Trung cổ, dân chúng còn hèn yếu ngu dốt, cho nên bất câu loài dân nào cũng phải có cái quyền quân chủ để bao bọc cho dân, dạy dỗ cho dân, che chở cho dân; đang cái thời đó thì quân chủ thật là một vị thuốc hay cho loài người hồi đó.

    Khốn nạn thay cái tính loài người; thấy người ta tôn trọng mình bao nhiêu thì mình lại thêm kiêu hãnh bấy nhiêu; thấy người ta kính nể mình bao nhiêu thì mình lại càng tự thần tự thánh bấy nhiêu; thấy người ta chiều chuộng mình thì mình lại muốn ngồi lên đầu người ta! Không những thế lại muốn truyền cho con cháu từ đời này qua đời khác, như cái gia tài riêng của mình. Đất muốn cho ai thì cho như là bán ruộng, còn dân thì làm như bọn mọi vậy.

    Ta thử xem từ xưa đến nay, bất cứ vua nào, hễ cướp được nước lên làm vua thì tìm đủ cách để truyền cho con cháu cho lâu dài, mà rốt cuộc lại họ nào lâu lắm là ba trăm năm, còn mấy họ vắn thì năm mười năm thôi. Cái cuộc đó thì ở Á ở Âu gì cũng như thế cả. Nhưng mà ở Âu Châu thì đến thế kỷ mười bảy, mười tám, các bậc hiền triết ra xướng lên cái chủ nghĩa dân quyền. Mấy ông vua nào hung dữ chuyên chế, phản đối lại cái phong trào dân chủ thì bị nhào cả; còn anh nào điều hòa với dân thì còn ngoắc ngoải đến bây giờ.

    Về cái vấn đề này thì tôi cốt chỉ cho rõ cái quân trị chủ nghĩa bên Á Đông này thật không phải là gốc tự Nho giáo. Tôi xin chỉ vẽ rõ ràng cái tư tưởng sai lầm từ xưa đến nay cho anh chị em đều hiểu.

    Cứ theo các ông triết học Âu Châu bàn về lịch sử nhân loại: kể từ loài người mới sinh, rồi làm sao mà có tù trưởng, làm sao rồi thành vua thành chúa; cứ nói như thế thì mất hết thì giờ, mà các Ngài nghe cũng vô ích. Vậy nên tôi cứ sử Tàu mà cắt nghĩa để các Ngài dễ hiểu hơn.[...]
    Bây giờ tôi xin nói tóm lại: Khổng, Mạnh, và Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ tức là những ông đã làm ra cái gương để cho các vua đời sau gọi là Nho Giáo đó. Ta phải xem xét cái thời thế phong tục của các vua đời sau so lại với Nho Giáo thì có giống chút nào không?[...]
    Ông Tần Thủy Hoàng khi mới lên làm vua thì ông làm cái gì? Ông đặt ông là ông vua đầu; ông truyền cho đến muôn nghìn đời về sau; ông sợ dân khôn nên ông đốt sách; ông sợ học trò chống cãi lại nên ông chôn sống học trò; sợ để gươm giáo trong dân gian nhiều thì dân nó nổi giặc; nên ông phá ra đúc làm tượng để chơi! Phá mấy cái thành cao, lấp mấy cái ao sâu, không cho dân dựa đó mà chống lại nhà nước. Lại tin cái câu sấm "Vong Tần dã Hồ" mà bắt cả dân già trẻ đi đắp Vạn Lý Trường Thành, khổ não biết bao nhiêu. Cái mối loạn phát ra từ đó.

    Ông làm như thế thì ông tưởng có cái gì mà sợ nữa. Ông làm ra cái cung điện A Phòng, bỏ vài ba nghìn con gái đẹp vào để chơi. Ông làm ra cái lăng Ly Sơn dài ba bốn dặm, có đàng cách đạo, trùng thành; còn nhiều cái sang đẹp nữa. Ông lấy chữ "Trẫm" để cho mình ông Hoàng Đế xưng mà thôi.

    Đời xưng hễ xưng "hoàng" là "hoàng", xưng "đế" là "đế", khi trước đạo Nho lấy "vương" là quý, ông chỉ phong cho đầy tớ mình mà thôi.

    Sung sướng đặng bao nhiêu, chưa đầy 13 năm đã bị thằng Triệu Cao nó giết, rồi thiên hạ lại vào tay nhà Hán, quân chủ lại vào tay nhà chuyên chế khác nữa.

    Đó! Xin các ngài nghe rõ một khúc này nữa. Nay những ông Nho học ở nước ta, các ông yêu mến đạo Nho mà các ông ghét nhà Tần biết bao nhiêu; vì các ông thấy nhà Tần bội đạo Nho. Nhưng mà ông vua của các ông có xấu thế nào các ông cũng cứ vì với Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Võ chớ không khi nào các ông ví với vua Tần. Như mà các anh em thử nghĩ xem, vua mà xưng "Trẫm" là theo đạo Nho hay là theo Tần? Vua mà xưng là "Hoàng Đế" thì theo đâu! Vua mà có luật giết ba họ người thì có phải theo họ Tần không? Vậy mà ông vua nói mình theo đạo Nho; tự ông nói vậy là phải; các quan nịnh theo vua thì họ nói theo cũng phải đi, bọn đó không kể; còn các ông đồ già cũng rán gân cổ lên mà cãi rằng:


    Vua mình theo đạo Nho!

    Triều đình mình sùng đạo Nho!

    Nước nhà mình theo đạo Nho!

    Dân mình theo đạo Nho!

    Vậy thì đạo Nho ở đâu?

    Do nhà Hán đến nhà Đường, do nhà Đường đến nhà Tống, do nhà Tống đến nhà Nguyên, do nhà Nguyên đến nhà Minh, do nhà Minh đến nhà Thanh, nghĩa là trong độ 2.200 năm đó, cách chính trị của Hán cũng không có gì rộng rãi công bình; nhưng Hán cũng còn hơn Đường, Đường cũng còn hơn Tống,Tống cũng còn hơn Nguyên, Nguyên cũng còn hơn Minh, Minh cũng còn hơn Thanh. Xét cái lịch sử quân chủ ở Á Đông này thì chúng ta biết rằng từ Tần Thủy Hoàng về sau, các nước nói theo đạo Nho đó kỳ thật trong nước không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ còn xót lại một hai điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén Dân.[...]
    Nói tóm lại cách chuyên chế ở Á Đông này tôn lên mấy lời tà thuyết, như là câu "lọt lòng mẹ ra đã phải chịu cái nghĩa vua tôi". Nhưng mà ta có biết rằng "quân thần dĩ nghĩa hiệp" là nghĩa làm sao? Vậy cho nên có người họ chán, họ bỏ đi ẩn thì bọn chuyên chế nó lại lập ra cái luật "hữu tài bất di quân dụng" nghĩa là có tài mà không cho vua dùng, nó lập ra cái luật "yêu quân", nghĩa là nũng vua, để mà phạt bọn người ấy. Nó sợ rằng dân biết chính trị nhiều thì dân nổi lên cách mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được nói đến chính trị. Hết thảy những cách chuyên chế đó, nghĩa là họ bảo dặn rằng: "Mày muốn làm gì làm, nhưng đừng động đến cái ngôi vua của con cháu tao".

    Có hay đâu giữ khéo thì dân trong nước không động đến ngôi vua của con cháu họ thật, nhưng mà ngoại quốc đến lấy thì dễ như chơi, bởi vì dân nó ngu! Nó không biết nước là cái gì cả. Ta thử xem cái gương nhà Tống trước thì mất với Liêu, rồi sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông Cổ. Còn nhà Minh thì mất với Mãn Châu, Cao Ly thì mất với Nhật, Việt Nam thì mất với Tây.

    Thương hại thay trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó chi đến lợi hại dân tộc, chỉ lo tính toán để đè nén cái trí dân, để mà giữ chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên Tử cho con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu thì nước phải yếu, vua quan lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. Nếu dân ngu quá, yếu quá không đủ dấy loạn được, thì các nước khác nó tràn vào, ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái ngôi vua thay đổi luôn, cũng như cái ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.
    CÁI QUÂN CHỦ LỢI HẠI THẾ NÀO?

    Vậy bây giờ ta tóm lại để coi cái lợi hại về quân chủ như thế nào, thì ta thấy bất kể là Á là Âu, ở xứ nào, dân tộc nào mà lập thành nước để đến bây giờ, đều là nhờ những anh hùng hào kiệt đời xưa, họ ra cầm đầu cho dân, ngoài thì đối phó với các dân tộc khác, trong thì sửa sang lại việc hòa bình ở trong nước. Những cái công đức của các ông đó ta cũng nên khen ngợi, đáng nghi nhớ, chớ không phải không. Còn cũng có dòng dân, trước còn đứng được, sau lại không có anh hùng hào kiệt đứng ra chống chỏi, thì lại bị nước khác nuốt mất. Xem vậy thì cái lợi của quân chủ ở đời thượng cổ quý không gì bằng. Tuy các ông cũng có mưu về lợi riêng, nhưng chúng ta cũng có thể tha thứ được. Còn cũng có một cái dịp dùng cái quyền quân chủ rất tốt, như nước Nhật nước Xiêm, khi người Âu Châu mới qua thì dân còn ngơ ngác không biết gì, thế mà nhờ trên có vua anh hùng, dưới có các quan tài trí, đem đường chỉ lối cho dân tấn tới lại càng mau. Vậy thì cũng là một sự hay. Còn từ đó sắp sau, chỗ nào dân không thể nhờ được dịp đó thì cái quân chủ là một đồ vô dụng.

    Ta xem bên Tàu 30 năm trước, vua Quang Tự đã hạ chiếu duy tân, vì có một người thiếp của cha, mê trai, tham của, không chịu thay đổi chính trị, chẳng những làm cho dòng vua Mãn Châu mất, mà làm cho Tàu đến nay hãy còn khốn đốn. Vua Cao Ly, bên vợ thì duy tân, bên cha thì thủ cựu, đánh nhau mãi, giết nhau mãi, rút cuộc lại cha mẹ thì bị ở tù, vợ thì bị giết, mình thì hai tay bưng nước đưa cho Nhật, rồi bị cách chức.

    Nhắc đến ông vua nước ta là ông Tự Đức mà đến bây giờ mấy ông quan già và mấy ông đồ già còn ca tụng là "Thánh Quân", khi người Tây mới qua, quan binh thì cũng có như ông Nguyễn Tri Phương, như ông Võ Trọng Bình xin đánh, mà nói có muốn đánh thì phải xuất tiền đi ngoại quốc mua súng ống về mới có thể đánh được. Nhưng mà ông vua ấy có tính thương tiền tiếc bạc, cứ muốn chôn dưới đất, chẳng muốn đem mua cái gì cả, ông trả lời với các quan binh rằng: "Các anh muốn đánh thì đánh, nhưng mà nếu các anh đánh không hơn thì các anh mới để mẹ con trẫm vào đâu?" Làm ép cho mấy quan võ như Võ Trọng Bình bỏ về, còn ông Nguyễn Tri Phương để cho Tây bắt, rồi không ăn mà chết. Cũng có người học thức như ông Nguyễn Trường Tộ, khuyên vua dạo qua bên Tây, xem xét cái văn minh của họ rồi cho người qua học, các quan văn cũng có nhiều người xin thế, mà ông vua trả lời rằng: "Nhật nó là dòng Mọi, Xiêm nó là dòng Mọi; Mọi thì nó học với Mọi được, chớ như ta là con Thần cháu Thánh, lẽ nào ta lại đi học với Mọi hay sao?"

    Thôi! Tôi không đoán cái hay cái dở của ông vua đó, để các Ngài nghe rồi các Ngài sẽ đoán xét các ông vua đó là ông vua gì. Mẹ con ông chết thì có chỗ chôn, còn mẹ con hai mươi triệu bơ vơ đến bây giờ đó thì sao? Bọn mà ông cho là mọi rợ thì bây giờ nó đã tấn tới hết cả. Hai mươi triệu khi xưa không đến mọi rợ mà bây giờ chẳng những hóa ra mọi rợ, mà lại hóa ra tôi đòi hèn hạ nữa!

    QUÂN TRỊ TỨC LÀ NHÂN TRỊ

    Đây hãy nói tóm lại quân trị tức là nhân trị. Quân trị chủ nghĩa, tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng pháp luật cứ tự tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì không hay biết gì hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông minh anh hùng, hiểu được cái sự quan hệ giữa dân với nước là thế nào, mà trừng trị lũ quan tham lại nhũng, để cho dân được yên lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh, mà cái thì giờ của vua sống được bao nhiêu thì nước còn được thái bình bấy nhiêu.

    Còn mấy ông vua hôn ám thì ông sống với đàn bà con gái, với bọn hoạn quan, còn biết gì đến nước trao chính quyền vào trong tay mấy đứa nịnh thần, người đã hư thì nước cũng đổ thôi. Cho nên ông Khổng Tử có nói rằng: "Văn võ chi chính bố tại phương sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chính tức", nghĩa là cái chính trị vua Văn vua Võ còn chép ở trong sách, có người chính trị giỏi thì cái chính trị trong sách đó mới thi hành ra, nếu không có người giỏi thì cái chính trị ấy mất. Tuân Tử thì nói rằng: "Hữu trị nhân, vô trị pháp" nghĩa là có người hay làm hay chứ không có cái pháp luật nào hay được. Ông Mạnh thì kiêm cả hai ông mà nói rằng: "Đồ thiện bất túc dĩ vi chính, đồ pháp năng dĩ tự hành", nghĩa là có người giỏi mà không có pháp luật thì cũng không làm chính trị được; có pháp luật mà không có người giỏi thì pháp luật cũng không tự làm lấy được.

    Mấy nghìn năm nay, mấy ông vua giỏi, tướng giỏi hết sức mà tránh cho khỏi cái chữ quân trị là nhân trị, nhưng mà không được, vì là lập phép này phép kia cũng tự tay vua, đến khi đạp đổ đi cũng tự tay vua.

    Ấy tôi nói những ông vua biết lo mà chữa cho khỏi chữ nhân trị là từ đời Tống, đời Đường sắp lên, những ông vua hiền minh thì thế. Còn từ đó sắp xuống thì chuyên chế quá lắm. Xem như ông Minh Thái Tổ đặt ra cái luật "hữu tài bất vi quân dụng". Nghĩa là đặt ra cái luật hễ ai mà không ra cho vua dùng thì có tội. Ấy là để bắt người ta phải ra cho mình áp chế hết cả, chớ không cho ai ở ẩn nữa. Về đời Càn Long lại đặt ra luật "yêu quân" nghĩa là có tài mà buộc vua cầu cạnh mình thì có tội. Những cái luật đó thì còn có ích gì cho dân tộc, cho nhà nước đâu, chỉ làm sướng cái óc kiêu ngạo, làm cho sướng cái xác thịt của ông "Hoàng Đế" đó thôi. Vua đời xưa thì còn cầu hạ sĩ, chứ còn vua đời sau thì cứ nằm ngửa đó, thằng nào có tài mà không cho ra cho tao dùng thì tao bỏ tù, thì còn gì sang trọng hơn nữa.

    Từ nãy đến giờ tôi nói về cái lịch sử và triết học quân trị là nhân trị. Đây tôi xin kể thêm vài cái chứng thật cho anh em dễ hiểu. Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tùy theo lòng vui, buồn, thương ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.

    Thí dụ như ông Gia Long lấy cái luật của đời Càn Long nước Tàu để trị dân Việt Nam; trong cái luật đó nói rằng: "phí công quân bất hầu", nghĩa là không có công đánh được giặc thì không phong tước hầu. Vậy thì ông Nguyễn Văn Thành phong tước hầu, và làm đến trung quân, chẳng qua là ông Gia Long có tấm lòng công bình mà xét cho cái công trạng của ông ấy theo đánh giặc từ nhỏ đến lớn. Sao tôi dám nói vậy? Bởi vì sau đó con ông Thành có làm một bài thơ chơi, nghĩ cũng chẳng tội lỗi gì, mà ông Gia Long giết tới ba họ. Như vậy chẳng qua là khi cơn giận ông lên thì ông giết, chớ có pháp luật gì đâu.

    Tôi nhắc qua một cái tích của ông Tự Đức mà tôi đã nói trên kia. Năm ông Tự Đức thứ 25, dân Trung phần chết đói, nhà nước đã lo phát chẩn được một ít rồi, các quan lại xin trích tiền thuế trong các tỉnh, các chủ huyện để trữ lại trong xã thương các làng, phòng năm các dân có đói chăng, thì ông ta cho phép dân được đem tiền đem lúa ra nạp quyên mà lấy chức Bá Hộ, Bát phẩm, Cửu phẩm. Nhưng mà ông nói đói quá có lúa có tiền đâu mà quyên. Ông xuống dụ các quan cho đàn quyên chịu đã, chừng nào đóng đủ số tiền đó thì sẽ phong sắc cho. Còn tiền đóng thì cứ để lại cho đàn ấy. Cái dụ xuống nói rõ ràng như thế. Cách một năm thì thấy cái dụ khác kể hết tiền chưa đóng và đã đóng rồi, bắt phải đem hết ra tỉnh để cấp cho lính đánh giặc. Tỉnh sức xuống phủ huyện, phủ huyện sức xuống các làng. Dân trả lời rằng vua cho quyên chịu, chớ không bắt đóng ngay, năm này mất mùa dân không chịu đóng, mà gì nó cũng không có mà đóng. Quan tỉnh tư Bộ, bộ tâu Vua, Vua phải phải làm tội hết những quan ấy. Nhưng mà trong luật Việt Nam những cái luật tiền bạc thuộc về dân qua qua lại với nhà nước thì ít thấy lắm các quan không biết theo mặt luật gì mà làm án, phải tâu lên vua hỏi phải làm án gì, nhà vua bắt làm theo luật "thượng thư bất dĩ thiệt" nghĩa là chiếu theo luật các quan dâng thư cho vua nói về chính trị mà không thật. Quan Bộ cứ đó mà làm tội. Đến khi tư về các tỉnh, người thì sáu năm, người thì tám năm, người thì mười hai năm tù. Gia dĩ đang khi đói khát, cha xa con, vợ bỏ chồng, tưởng quyên cái Bát, Cửu Phẩm để lấy làm vui, hay đâu không được vui mà lại phải ở tù. Thế nên cả nhà, cả họ ai cũng lấy làm đau lòng xót ruột. May đâu cái án đó đi đến Quảng Ngãi, gặp một ông Ấn Sát, ông ấy thì giỏi luật lệ mà có lòng thương dân, lo việc nước. Ông ấy là người Bến Tre về tỉnh Vĩnh Long tên là Nguyễn Thông hiệu Kỳ Xuyên, sau lục tỉnh mất thì ông chạy ra Phan Thiết. Ông ấy cứ từ câu mà bẻ hết cái án, rồi ông gởi trả lại cho Bộ, ông nói rằng: "cái vụ này là chỉ có vua và quan nói dối dân, chứ dân không nói dối ai chút nào cả". Còn chiếu theo luật "thượng thư bất dĩ thật" thì không đúng vào đâu cả. Ông Tự Đức biết mình lỗi, nhưng mà mắc cỡ xui cho người khác kiện ông Nguyễn Thông rồi cách chức ông đi, muốn trị tội nặng. Nhưng dân Quảng Ngãi và dân các tỉnh hết sức bênh vực cho ông ta, cho nên cũng chẳng làm hại cho ông được, chỉ đuổi ông ta đi mà thôi. Đây nói lược qua một hai điều cho các Ngài nghe, chứ tôi kể hết cái sử Tàu và Việt Nam thì mấy ngày cũng không hết. [còn nữa]
     
    Chỉnh sửa cuối: 30/7/18
    cfcbk and tiendungtmv like this.
  2. (Tiếp & Hết)
    CÁCH CHUYÊN CHẾ Á ĐÔNG KHÉO HƠN ÂU CHÂU THẾ NÀO?

    Vua Âu Châu ở xứ thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng mà ngay thật, cho đến sự độc ác cũng vậy. Lúc trước muốn đè nén dân thì phải thông đồng với Giáo hội, bày đặt ra nói ông vua là ông Thần Trời, thay mặt cho Thần Trời, hay Thần Trời hóa thành ra; nghĩa là ông vua không phải một loài với dân thì dân phải tôn kính ông vua. Nhưng mà những cái đó là cạn cùng giả dối, chỉ có phỉnh dân ngu được một lúc mà thôi, cho nên sau rồi ở Âu Châu cái dân quyền càng mạnh chừng nào thì quân quyền càng xếp lại chừng nấy.

    Vua Á Đông thì họ không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông Khổng ông Mạnh, hoặc ở trong sách cổ có những câu nói có nhiều ý nghĩa để họ dựa vào đó; họ lập ra pháp luật để bó buộc cai trị dân; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra cái ngoài hàng bà con của dân mà họ lại đứng ra vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói "quân, sư, phụ", lại thường nói "Vua, Cha, Chồng". Dù ở chốn hương thơm rách nát không biết ông vua thế nào, nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng thì họ cũng đứng vào đám thân thiết. Dân ngu thì họ cứ kính cứ yêu, chứ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người ta, chớ có khi nào làm hại làm ác như thế. Còn khi cha mẹ đẻ ta ra, thì, đói, no, sống, chết, thế nào cũng ở trong tay mẹ ta, nào ông vua có biết đến đâu. Thế mà đến hồi tuổi ta lồng lộng lớn lên thì đánh một tiếng là "Tôi trời con vua". Ông vua muốn cho sống thì được sống, ông vua muốn cho chết thì phải chết, ta không có thể chối cãi lại được, là nghĩa lý gì?

    Dân bên Âu Châu thượng võ, cho nên dòng quý tộc chư hầu phải có võ công mới lên được, mà đã lên được thì khó mất lắm. Còn bên Á Đông này, cái cách quí tộc lại chuộng thi văn, mà trong thi văn đó ai đậu mới được làm quan, ai không đậu thì thôi, bên quan võ thì chỉ hồi có giặc hay là hồi khai quốc mới có người tài thật, kỳ dư thì võ chức chỉ là để thưởng cho những người dốt nát. Thí dụ như một người đi lính từ 20 tuổi đến 50 tuổi,thì thế nào cũng lên được chức Lãnh binh, Đề đốc hưởng được cái mùi phú quý ít năm, nghĩa là mình ăn ở miễn sao cho người ta đừng ghét là được. Ấy là cái mưu quân chủ rèn tập cái trí dân ở Á Đông là cho khờ khĩnh. Ta thí dụ nước ta đã mất nước mấy mươi năm rồi, mà đến kỳ thi ai cũng khí khủm lo cho đậu được một chút mới thôi. Hễ đậu được thì cho là mồ mả ông cha có phúc. Còn người có thế hay là có tiền thì cũng vác đi lo làm quan, cũng kiếm một cái hư hàm. Chừng chúng ta đi ra Hà Nội, ra Huế, ta thấy những bọn mang thẻ bài ngà nó đi đụng đầu với nhau, còn một bọn thì đang vác tiền đi lo, thì ta cho là bọn điên cuồng ngu dại, ta không biết cái óc chúng nó ra thế nào, nhưng mà ta biết rằng cái giống đó là giống đã gieo mầm từ các đời vua trước đã mấy nghìn năm rồi.

    Nói tóm lại cách chuyên chế ở Á Đông này tôn lên mấy lời tà thuyết, như là câu "lọt lòng mẹ ra đã phải chịu cái nghĩa vua tôi". Nhưng mà ta có biết rằng "quân thần dĩ nghĩa hiệp" là nghĩa làm sao? Vậy cho nên có người họ chán, họ bỏ đi ẩn thì bọn chuyên chế nó lại lập ra cái luật "hữu tài bất di quân dụng" nghĩa là có tài mà không cho vua dùng, nó lập ra cái luật "yêu quân", nghĩa là nũng vua, để mà phạt bọn người ấy. Nó sợ rằng dân biết chính trị nhiều thì dân nổi lên cách mạng, cho nên nó cấm học trò và dân không được nói đến chính trị. Hết thảy những cách chuyên chế đó, nghĩa là họ bảo dặn rằng: "Mày muốn làm gì làm, nhưng đừng động đến cái ngôi vua của con cháu tao".

    Có hay đâu giữ khéo thì dân trong nước không động đến ngôi vua của con cháu họ thật, nhưng mà ngoại quốc đến lấy thì dễ như chơi, bởi vì dân nó ngu! Nó không biết nước là cái gì cả. Ta thử xem cái gương nhà Tống trước thì mất với Liêu, rồi sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông Cổ. Còn nhà Minh thì mất với Mãn Châu, Cao Ly thì mất với Nhật, Việt Nam thì mất với Tây.

    Thương hại thay trong hai nghìn năm các nhà vua chẳng ngó chi đến lợi hại dân tộc, chỉ lo tính toán để đè nén cái trí dân, để mà giữ chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên Tử cho con cháu mình. Nhưng mà có hay đâu, dân đã ngu thì nước phải yếu, vua quan lại nghênh ngang tham nhũng nữa, như thế tất loạn, loạn thì ngôi vua mất. Nếu dân ngu quá, yếu quá không đủ dấy loạn được, thì các nước khác nó tràn vào, ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào cũng không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái ngôi vua thay đổi luôn, cũng như cái ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.

    CÁI QUÂN CHỦ LỢI HẠI THẾ NÀO?

    Vậy bây giờ ta tóm lại để coi cái lợi hại về quân chủ như thế nào, thì ta thấy bất kể là Á là Âu, ở xứ nào, dân tộc nào mà lập thành nước để đến bây giờ, đều là nhờ những anh hùng hào kiệt đời xưa, họ ra cầm đầu cho dân, ngoài thì đối phó với các dân tộc khác, trong thì sửa sang lại việc hòa bình ở trong nước. Những cái công đức của các ông đó ta cũng nên khen ngợi, đáng nghi nhớ, chớ không phải không. Còn cũng có dòng dân, trước còn đứng được, sau lại không có anh hùng hào kiệt đứng ra chống chỏi, thì lại bị nước khác nuốt mất. Xem vậy thì cái lợi của quân chủ ở đời thượng cổ quý không gì bằng. Tuy các ông cũng có mưu về lợi riêng, nhưng chúng ta cũng có thể tha thứ được. Còn cũng có một cái dịp dùng cái quyền quân chủ rất tốt, như nước Nhật nước Xiêm, khi người Âu Châu mới qua thì dân còn ngơ ngác không biết gì, thế mà nhờ trên có vua anh hùng, dưới có các quan tài trí, đem đường chỉ lối cho dân tấn tới lại càng mau. Vậy thì cũng là một sự hay. Còn từ đó sắp sau, chỗ nào dân không thể nhờ được dịp đó thì cái quân chủ là một đồ vô dụng.

    Ta xem bên Tàu 30 năm trước, vua Quang Tự đã hạ chiếu duy tân, vì có một người thiếp của cha, mê trai, tham của, không chịu thay đổi chính trị, chẳng những làm cho dòng vua Mãn Châu mất, mà làm cho Tàu đến nay hãy còn khốn đốn. Vua Cao Ly, bên vợ thì duy tân, bên cha thì thủ cựu, đánh nhau mãi, giết nhau mãi, rút cuộc lại cha mẹ thì bị ở tù, vợ thì bị giết, mình thì hai tay bưng nước đưa cho Nhật, rồi bị cách chức.

    Nhắc đến ông vua nước ta là ông Tự Đức mà đến bây giờ mấy ông quan già và mấy ông đồ già còn ca tụng là "Thánh Quân", khi người Tây mới qua, quan binh thì cũng có như ông Nguyễn Tri Phương, như ông Võ Trọng Bình xin đánh, mà nói có muốn đánh thì phải xuất tiền đi ngoại quốc mua súng ống về mới có thể đánh được. Nhưng mà ông vua ấy có tính thương tiền tiếc bạc, cứ muốn chôn dưới đất, chẳng muốn đem mua cái gì cả, ông trả lời với các quan binh rằng: "Các anh muốn đánh thì đánh, nhưng mà nếu các anh đánh không hơn thì các anh mới để mẹ con trẫm vào đâu?" Làm ép cho mấy quan võ như Võ Trọng Bình bỏ về, còn ông Nguyễn Tri Phương để cho Tây bắt, rồi không ăn mà chết. Cũng có người học thức như ông Nguyễn Trường Tộ, khuyên vua dạo qua bên Tây, xem xét cái văn minh của họ rồi cho người qua học, các quan văn cũng có nhiều người xin thế, mà ông vua trả lời rằng: "Nhật nó là dòng Mọi, Xiêm nó là dòng Mọi; Mọi thì nó học với Mọi được, chớ như ta là con Thần cháu Thánh, lẽ nào ta lại đi học với Mọi hay sao?"

    Thôi! Tôi không đoán cái hay cái dở của ông vua đó, để các Ngài nghe rồi các Ngài sẽ đoán xét các ông vua đó là ông vua gì. Mẹ con ông chết thì có chỗ chôn, còn mẹ con hai mươi triệu bơ vơ đến bây giờ đó thì sao? Bọn mà ông cho là mọi rợ thì bây giờ nó đã tấn tới hết cả. Hai mươi triệu khi xưa không đến mọi rợ mà bây giờ chẳng những hóa ra mọi rợ, mà lại hóa ra tôi đòi hèn hạ nữa!

    QUÂN TRỊ TỨC LÀ NHÂN TRỊ

    Đây hãy nói tóm lại quân trị tức là nhân trị. Quân trị chủ nghĩa, tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng pháp luật cứ tự tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì không hay biết gì hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông minh anh hùng, hiểu được cái sự quan hệ giữa dân với nước là thế nào, mà trừng trị lũ quan tham lại nhũng, để cho dân được yên lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh, mà cái thì giờ của vua sống được bao nhiêu thì nước còn được thái bình bấy nhiêu.

    Còn mấy ông vua hôn ám thì ông sống với đàn bà con gái, với bọn hoạn quan, còn biết gì đến nước trao chính quyền vào trong tay mấy đứa nịnh thần, người đã hư thì nước cũng đổ thôi. Cho nên ông Khổng Tử có nói rằng: "Văn võ chi chính bố tại phương sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chính tức", nghĩa là cái chính trị vua Văn vua Võ còn chép ở trong sách, có người chính trị giỏi thì cái chính trị trong sách đó mới thi hành ra, nếu không có người giỏi thì cái chính trị ấy mất. Tuân Tử thì nói rằng: "Hữu trị nhân, vô trị pháp" nghĩa là có người hay làm hay chứ không có cái pháp luật nào hay được. Ông Mạnh thì kiêm cả hai ông mà nói rằng: "Đồ thiện bất túc dĩ vi chính, đồ pháp năng dĩ tự hành", nghĩa là có người giỏi mà không có pháp luật thì cũng không làm chính trị được; có pháp luật mà không có người giỏi thì pháp luật cũng không tự làm lấy được.

    Mấy nghìn năm nay, mấy ông vua giỏi, tướng giỏi hết sức mà tránh cho khỏi cái chữ quân trị là nhân trị, nhưng mà không được, vì là lập phép này phép kia cũng tự tay vua, đến khi đạp đổ đi cũng tự tay vua.

    Ấy tôi nói những ông vua biết lo mà chữa cho khỏi chữ nhân trị là từ đời Tống, đời Đường sắp lên, những ông vua hiền minh thì thế. Còn từ đó sắp xuống thì chuyên chế quá lắm. Xem như ông Minh Thái Tổ đặt ra cái luật "hữu tài bất vi quân dụng". Nghĩa là đặt ra cái luật hễ ai mà không ra cho vua dùng thì có tội. Ấy là để bắt người ta phải ra cho mình áp chế hết cả, chớ không cho ai ở ẩn nữa. Về đời Càn Long lại đặt ra luật "yêu quân" nghĩa là có tài mà buộc vua cầu cạnh mình thì có tội. Những cái luật đó thì còn có ích gì cho dân tộc, cho nhà nước đâu, chỉ làm sướng cái óc kiêu ngạo, làm cho sướng cái xác thịt của ông "Hoàng Đế" đó thôi. Vua đời xưa thì còn cầu hạ sĩ, chứ còn vua đời sau thì cứ nằm ngửa đó, thằng nào có tài mà không cho ra cho tao dùng thì tao bỏ tù, thì còn gì sang trọng hơn nữa.

    Từ nãy đến giờ tôi nói về cái lịch sử và triết học quân trị là nhân trị. Đây tôi xin kể thêm vài cái chứng thật cho anh em dễ hiểu. Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tùy theo lòng vui, buồn, thương ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.

    Thí dụ như ông Gia Long lấy cái luật của đời Càn Long nước Tàu để trị dân Việt Nam; trong cái luật đó nói rằng: "phí công quân bất hầu", nghĩa là không có công đánh được giặc thì không phong tước hầu. Vậy thì ông Nguyễn Văn Thành phong tước hầu, và làm đến trung quân, chẳng qua là ông Gia Long có tấm lòng công bình mà xét cho cái công trạng của ông ấy theo đánh giặc từ nhỏ đến lớn. Sao tôi dám nói vậy? Bởi vì sau đó con ông Thành có làm một bài thơ chơi, nghĩ cũng chẳng tội lỗi gì, mà ông Gia Long giết tới ba họ. Như vậy chẳng qua là khi cơn giận ông lên thì ông giết, chớ có pháp luật gì đâu.

    Tôi nhắc qua một cái tích của ông Tự Đức mà tôi đã nói trên kia. Năm ông Tự Đức thứ 25, dân Trung phần chết đói, nhà nước đã lo phát chẩn được một ít rồi, các quan lại xin trích tiền thuế trong các tỉnh, các chủ huyện để trữ lại trong xã thương các làng, phòng năm các dân có đói chăng, thì ông ta cho phép dân được đem tiền đem lúa ra nạp quyên mà lấy chức Bá Hộ, Bát phẩm, Cửu phẩm. Nhưng mà ông nói đói quá có lúa có tiền đâu mà quyên. Ông xuống dụ các quan cho đàn quyên chịu đã, chừng nào đóng đủ số tiền đó thì sẽ phong sắc cho. Còn tiền đóng thì cứ để lại cho đàn ấy. Cái dụ xuống nói rõ ràng như thế. Cách một năm thì thấy cái dụ khác kể hết tiền chưa đóng và đã đóng rồi, bắt phải đem hết ra tỉnh để cấp cho lính đánh giặc. Tỉnh sức xuống phủ huyện, phủ huyện sức xuống các làng. Dân trả lời rằng vua cho quyên chịu, chớ không bắt đóng ngay, năm này mất mùa dân không chịu đóng, mà gì nó cũng không có mà đóng. Quan tỉnh tư Bộ, bộ tâu Vua, Vua phải phải làm tội hết những quan ấy. Nhưng mà trong luật Việt Nam những cái luật tiền bạc thuộc về dân qua qua lại với nhà nước thì ít thấy lắm các quan không biết theo mặt luật gì mà làm án, phải tâu lên vua hỏi phải làm án gì, nhà vua bắt làm theo luật "thượng thư bất dĩ thiệt" nghĩa là chiếu theo luật các quan dâng thư cho vua nói về chính trị mà không thật. Quan Bộ cứ đó mà làm tội. Đến khi tư về các tỉnh, người thì sáu năm, người thì tám năm, người thì mười hai năm tù. Gia dĩ đang khi đói khát, cha xa con, vợ bỏ chồng, tưởng quyên cái Bát, Cửu Phẩm để lấy làm vui, hay đâu không được vui mà lại phải ở tù. Thế nên cả nhà, cả họ ai cũng lấy làm đau lòng xót ruột. May đâu cái án đó đi đến Quảng Ngãi, gặp một ông Ấn Sát, ông ấy thì giỏi luật lệ mà có lòng thương dân, lo việc nước. Ông ấy là người Bến Tre về tỉnh Vĩnh Long tên là Nguyễn Thông hiệu Kỳ Xuyên, sau lục tỉnh mất thì ông chạy ra Phan Thiết. Ông ấy cứ từ câu mà bẻ hết cái án, rồi ông gởi trả lại cho Bộ, ông nói rằng: "cái vụ này là chỉ có vua và quan nói dối dân, chứ dân không nói dối ai chút nào cả". Còn chiếu theo luật "thượng thư bất dĩ thật" thì không đúng vào đâu cả. Ông Tự Đức biết mình lỗi, nhưng mà mắc cỡ xui cho người khác kiện ông Nguyễn Thông rồi cách chức ông đi, muốn trị tội nặng. Nhưng dân Quảng Ngãi và dân các tỉnh hết sức bênh vực cho ông ta, cho nên cũng chẳng làm hại cho ông được, chỉ đuổi ông ta đi mà thôi. Đây nói lược qua một hai điều cho các Ngài nghe, chứ tôi kể hết cái sử Tàu và Việt Nam thì mấy ngày cũng không hết.

    NÓI QUA DÂN TRỊ CHỦ NGHĨA

    Nay khắp cả thế giới những nước nào đã theo kịp được một ít văn minh Châu Âu, hay là hiểu được một ít tư tưởng tự do, thì ai cũng hiểu được cái tiếng dân chủ là thế nào, hay là dân trị là thế nào.

    Bên Âu châu có mấy nước quân chủ mặc lòng, nhưng nước nào cũng có đảng Dân chủ ở trong thượng, hạ nghị viện cả. Duy có nước ta thì như trong lục tỉnh này thuộc với Tây đã hơn sáu mươi năm, cái chữ "République" thì nói luôn trên miệng, nhưng mà chẳng tìm kiếm nghĩa lý như thế nào, so sánh với dân trị chính thể cũ của nước ta ra thế nào! Ấy là nói những người có ăn học, ý tôi xem hình như các Ngài đoán trước rằng có quân chủ là hơn. Còn nhất là dân nhà quê chẳng những là không biết dân chủ là gì, mà đối với vua thì thờ trên đầu như thờ Thần thờ Thánh; chẳng những không nghĩ đến sự "phải có hay là không" mà hình như có ai nghĩ đến việc đó thì phải bị sét đánh, đá dằn, voi chà, ngựa xé. Khi nào nghe nói bất luận là ông vua nào, nghe qua thì trong lòng đã vui mừng hớn hở, nghĩa là ông ấy chắc là mình trông cậy được, rất dở là mới đây việc Phan Xích Long còn xảy ra trong xứ này. Vậy mới biết rằng cái độc quân chủ vào óc dân ta sâu quá, mà cái trình độ của dân ta cũng thấp quá, chỉ có một người mà nói: "Mầy phải trung với người này phải kính với người này", thì nó mới hiểu. Mà nếu cứ nói ra cái tên nước Việt Nam mà rằng: "Ấy là nước ông cha mầy, mầy phải thương", thì tay nó không rờ được, mắt nó không trông thấy được thì nó không thể làm thế nào mà thương được. Vậy thì cứ trừ ra một cái nhà, một cái vườn, vài mẫu đất nội chỗ con mắt nó thấy đó thì nó thương được mà thôi. Đã mấy năm nay tôi thường thấy nhà báo hay nhà diễn thuyết, hễ mở miệng ra thì nói nước có hai mươi triệu quốc dân, trong cái giọng nói thì hình như có cái danh giá, có sự khoe khoang, có sự tin cậy. Nhưng mà tôi nghĩ trong hai mươi triệu ai cũng biết có nhà mà không biết có nước; như thấy trong cái nhà nào trong lúc rủi ro có ba, năm người con trai bị chết tuyệt tự, hay nhà nào ruộng đất mà bị kiện thưa, hay là bị con ham cờ bạc thì xúm lại nói ồn ào khắp dân gian, cho là việc quan hệ nhất ở trong xứ này. Còn đến việc "mất nước" thì chẳng ai mơ màng vào đâu. Một dân tộc mà đối với nước lơ láo lạt lẽo như thế cũng khốn nạn thật! Dân như vậy mà muốn bỏ vua đi mà lập ra dân quốc, chắc trong các Ngài có ông cũng lấy làm lạ. Nhưng mà tôi nghĩ rằng vì cái độc quân chủ giết hẳn cái lòng ái quốc của dân Việt Nam ta, bây giờ muốn cho dân Việt Nam ta biết nước là của chúng nó, thì phải đem cái tụi bù nhìn đó vất hết cả đi, thì nó mới có thể tìm kiếm cái nước đó là nước của ai? Mà nòi giống ta thông minh, có lẽ một ngày kia sẽ gặp thấy rằng ở trong cái miếng đất mấy nghìn năm lưu truyền lại đây, cái quyền lợi của nó hãy còn nhiều. Cái quyền phép của nó cũng có nhiều, rồi nó sẽ hiểu rằng xưa nay người mà gọi rằng vua quan đó, chẳng qua là người thay mặt làm việc cho nó, nếu làm không xong thì nó đuổi đi cũng không có lỗi gì.

    Khi nào dân đã hiểu như thế thì nó mới biết thương nước. Mà nó có biết thương nước thì một ngày kia mới mong tự do độc lập được, chứ không thế thì cứ đời đời làm tôi mọi mãi.

    SAO GỌI LÀ DÂN CHỦ?

    Câu này ở Châu Âu thì không cần phải cắt nghĩa cho nhiều, nhưng mà ở trong xứ mình thì tôi cắt nghĩa mau mau để cho người ta hiểu cái đại lược.

    Lịch sử – bất cứ là dân nước nào số người học thức cũng là phần ít cả, thường thường nhờ cái đảng thượng lưu, trung lưu dìu dắt nó đi ấy lẽ thường. Nhưng mà duy có dân châu Âu khác với dân ta có một việc; là từ khi bắt đầu mới khởi ra thì họ cũng sùng trọng quân chủ. Nhưng không biết thế nào hồi nước Hy Lạp họ lại có cái hộ gọi là Trưởng giả hội nghị, thì do ông vua nhóm họp lại những bậc quí tộc mà lập pháp luật ban cho dân. Lại có một cái hội tên là Quốc dân hội nghị, phàm những luật lệ mà ông vua cùng những người quí tộc đã đặt ra thì phải giao cho hội ấy xem có bằng lòng thì mới được làm. Sau đến nước La Mã thì có hội nghị "một trăm người" thì lấy trong quân lính mà sắp đặt ra hội ấy, phàm xứ ấy có việc gì lôi thôi thì hội ấy bàn. Còn sau đến hồi dòng vua La Mã đã mất, thì có một cái hội "La Mã nguyên lão viện", lại một hội "La Mã bình dân viện". Cho nên sau khi La Mã đổi làm đế quốc chuyên chế mà cái phép La Mã cũng phát đạt luôn luôn. Bây giờ các nước đâu đâu cũng bắt chước La Mã cả.

    Trong một lối từ khi mọi Nhật Nhĩ Man tràn xuống phá La Mã đế quốc, các nước châu Âu được độc lập hết cả, thì cái chính thể hội nghị ấy đã mất đi đến mấy trăm năm.

    Lạ lùng thay người nước anh còn giữ lại được gọi rằng "Nhân dân hội nghị", "Hiền giả hội nghị", hai hội ấy đều là vua nhóm những kẻ tài trí trong dân gian để giao cho cái quyền "lập pháp". Đến nay thành ra cái Hạ Nghị Viện của Anh bây giờ, mà đến thế kỷ 17-18 lại truyền bá ra cả lục địa châu Âu. Ấy là nói lược qua cả lịch sử dân quyền châu Âu.

    ĐÂY TÔI XIN NÓI QUA CHÍNH THỂ DÂN CHỦ LÀ THẾ NÀO?

    Bây giờ bên châu Âu trừ nước nào dân còn ngu dại, còn thì theo chính thể dân chủ. Đây tôi nói về cái chính thể bên Pháp - ở trong nước có một Hạ Nghị Viện quan hệ nhất. Số nghị viện thì trên dưới sáu trăm, dân đúng hai mươi mốt tuổi trở lên thì ra bầu cử. Dân hai mươi lăm tuổi trở lên thì được ra ứng cử. Được cử rồi thì gọi là Hạ Nghị Viện. Số phận của nước Pháp cầm ở trong tay cái hội ấy, hội ấy thì chủ quyền để lập pháp luật. Thứ nữa có một Nguyên Lão Nghị Viện. Cái viện ấy lại không phải dân cử. Các hội đồng ở các tỉnh các hội nào mà nhà nước đã nhận có cái nhân cách, và những người làm việc nhà nước thì lại ra ứng cử. Hội ấy thì để coi về việc tiền bạc.

    Khi nào bắt đầu đặt Tổng Thống, hay là thiếu mà đặt lại, thì hợp số người trong hai viện ấy lại làm bỏ thăm. Người ta ứng cử cũng là ở trong hai viện ấy. Ai được nhiều thăm thì làm Tổng thống. Khi Tổng thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước mặt hai viện ấy rằng: "Cứ giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy thì dân cứ trục xuất ngay". Trước thì có Mac Mahon, sau thì có Millerand bị cách chức, cũng vi phạm hiến pháp.

    Còn chính phủ thì cũng bởi trong hai viện ấy mà ra. Nhưng mà giao quyền cho đảng nào chiếm số nhiều ở trong hai viện ấy thì được tổ chức Quốc vụ viện (tức là chính phủ, tòa nội các). Theo Quốc vụ viện bây giờ chừng đâu cũng đến vài chục bộ, nhưng không phải ăn rồi ngồi không, vênh râu lên đó như mấy ông Thượng thư ta đâu. Ông nào cũng có trách nhiệm ông ấy cả. Nếu cái gì mà làm không bằng lòng dân, thế nào cũng có người chỉ trích. Bởi vì ở trong hạ nghị viện thế nào cũng có hai đảng, một đảng tả một đảng hữu; nếu cái đảng tả chiếm số nhiều mà cầm quyền trong nước thì đảng hữu xem xét chỉ trích; cho nên có muốn làm bậy cũng không được.

    Trong nước đã hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng hiến pháp. Cái quyền chính phủ cũng bởi hiến pháp qui định cho, lười biếng không được, mà dẫu muốn áp chế cũng không chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có điều gì phạm đến pháp luật, thì người nào cũng như người nào, từ ông Tổng Thống cho đến một người nhà quê cũng đều chịu theo một pháp luật như nhau.

    Các quan chức về việc cai trị chỉ có quyền hành chính mà thôi, còn quyền xử đoán thì giao cho các quan án là những người đã học giỏi luật lệ, có bằng cấp. Các quan ấy thì chỉ coi về việc xử đoán, có độc quyền độc lập, cứ theo lương tâm công bình, chiếu theo pháp luật mà xử, xử chính phủ cũng như xử một người dân. Các quan án ở về một viện riêng gọi là Viện Tư Pháp.

    Quyền tư pháp cũng như quyền hành chính của chính phủ, và quyền lập pháp của nghị viện, đều đứng riêng ra không họp lại trong tay một người nào. Đây là nói sơ lược mà thôi, muốn hiểu kỹ cái chính thể dân trị thì phải chuyên môn mới được.

    Xem vậy thì biết dân trị tức là pháp trị (lấy phép mà trị người). Vì quyền lợi và bổn phận của mọi người trong nước đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi tự do. Muốn bước tới bao nhiêu cũng không ai ngăn trở, chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền lợi của người khác thì không được. Vì đối với pháp luật thì mọi người đều bình đẳng không có ai là quan, ai là dân cả.

    *

    * *

    So sánh hai chính phủ quân trị và dân trị, ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay là của một triều đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không khác nào một đàn dê, được ấm no vui vẻ là phải đói rét khổ sở chỉ tùy theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nỗi phải đè đầu khốn nạn làm tôi mọi một người, một nhà, một họ nào.

    Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân nào ngu dại cứ ngồi yên mà nhờ trời mà mong đợi mà trông cậy ở vua, ở quan, giao phó tất cả những quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay là một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường.

    Anh em chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ, thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước, mới mong có ngày cất đầu lên nổi!
     
  3. Nguyễn Trường Tộ
    --------

    (Thiên hạ đại thế luận)

    (Tháng 2-3 năm Tự Đức 16 tức tháng 3-4 năm 1863)

    Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm.

    Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có “thế” mà thôi. Chữ “thế” là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ “thế” thì không trái trời, không mất thời, không hại người, không hỏng việc.

    Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà Đồ [1] thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thuỷ thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là kẻ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy.

    Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được?

    Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương [2] nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải [3], là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể chịu bỏ mà đi.

    Mới đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ ràng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi, hơn nữa cảng Đà Nẵng cách các doanh trại [4] ta chẳng bao xa thế tại sao họ không thừa thế chẻ tre, xua quân tinh nhuệ tiến tới mà lại thôi? Sao cứ thong dong nhàn hạ không cần lợi dụng thế tốc chiến? Hay vì họ nghĩ rằng ta phòng bị chưa kiên cố. Bởi lẽ ta càng phòng bị kiên cố chừng nào thì càng tỏ rõ được cái năng lực công phá của họ chừng ấy. Họ không cần thừa chỗ sơ hở mà đánh xuất kỳ bất ý như đối với nước địch có thế lực ngang ngửa với họ. Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý định cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng ra như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản.

    Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp luỹ trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.

    Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Hơn nữa ở Châu Âu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt. Tuy dụng binh nhưng cũng biết trọng nghĩa giữ lời, không như các nước chỉ chuyên thủ lợi. Khi kéo quân đi đánh thì khí thế hiên ngang, thái độ hân hoan. Khi lâm trận thì xông pha tới trước, không chịu tụt lùi. Khi thắng trận thì cả nước hoan hô, dù tổn thất nghìn muôn người cũng chẳng tiếc, chỉ sao cho uy danh hùng tráng, quốc thể được bảo toàn làm trọng. Các tướng thì gan dạ, nhiều mưu trí, thạo binh pháp, thuỷ chiến, lục chiến đều rất giỏi. Thật đúng như sách DOANH HOÀN CHÍ LƯỢC đã chép vậy.

    Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tự núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thuỷ binh của ta sẽ trở thành vô dụng. Bộ binh thì đại lộ không thông. Chỉ còn đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Ninh và đất Cao Miên thì lại hiểm trở khó đi mất nhiều ngày tháng đầu đuôi không liên lạc được với nhau. Nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy [5]. Dù cho có trí dũng cũng không kịp ra mưu. Đại thế đã mất, lòng quân sĩ đã lìa thì còn ai đánh giặc nữa? Địa lợi như thế thì không thể trông cậy vào đâu được.

    Quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh cài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho những tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước sông chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi.

    Hơn nữa, họ đã lão luyện chiến trận những phương pháp của Đông phương như dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc họ đều biết cả, dù có người trí xảo đến mấy cũng không nhử được họ. Huống chi việc thắng bại lại do ở nhuệ khí. Họ từ xa đến, dấn thân vào chỗ chết với khí thế một ra đi là không trở về [6]. Còn quân lính ta xưa nay vốn nhát gan, lại chưa quen đánh trận với nước khác, một ngày kia gặp phải quân địch mạnh mẽ, tuy có lòng dũng cảm nhưng khí thế đã suy, lại đánh đâu thua đó, vừa mới nghe bóng nghe gió đã mất hết hồn vía, tham sống sợ chết là lẽ thường tình. Chỉ trước khi ra trận mà có lòng quyết thắng địch thì mới khỏi chết. Nay đã biết họ có thể tất thắng, ta có cơ dễ thua, lại không biết phép ra quân của họ biến hóa như thế nào mà đem quân nhút nhát của mình ra đánh lại quân vô địch của họ thật chẳng khác nào như bắt muỗi đội núi, đem dê đấu hổ, rõ ràng là lối tấn công như vậy không dùng được nữa.

    Theo binh pháp, muốn cố thủ phải có hai điều kiện: một là thành trì, hai là nhân tâm. Lúc địch mới đến thì phải gấp rút chặn những chỗ xung yếu mà đuổi nó đi. Nếu kẻ địch đã thọc sâu vào cứ điểm, thì phải có thành cao hào sâu để hãm kẻ địch mệt mỏi. Đó là thượng sách. Ngày nay quân Pháp có hoả thuyền để vận tải thì việc vượt muôn dặm cũng bằng chèo một mái chèo mà thôi. Nếu ta muốn ngăn bể để tuyệt lương của họ cũng không thể được. Họ muốn tăng thêm quân sang ta thì theo đường Biển Đỏ chỉ độ bốn năm tuần là đến nơi. Nếu cần lắm thì gởi giấy xin quân Anh đóng ở Ấn Độ, Tức Lực, Hương Cảng, Thượng Hải… thì sớm chiều là có thể đến nơi để giúp. Lại có quân của Y Pha Nho ở Lữ Tống, đến dồn sức tấn công.

    Quân Pháp đánh thành không cần dùng những phương pháp bắc thang đường hầm, xe kiếm, bao đất [7], mà đại pháo bắn ra thì núi lở gò sập, thành đã vỡ, thì ta tuy có lương tiền nhiều, gươm giáo sắc và có phương pháp giữ thành cũng trở nên vô dụng. Hơn nữa, người Pháp đánh ta, trèo thành như lên đệm gối, sở dĩ lâu nay họ chưa dùng đến là vì cắt cổ gà cần gì phải dùng dao mổ trâu. Nếu gặp đối thủ thì như trận đánh ở Biển Đen năm trước, Tây Ba Sĩ Đa Bốc Lỗ là một thành kiên cố nhất thiên hạ, Ngà là một nước cường địch bậc nhất trong thiên hạ có trăm vạn quân, đã giữ vững trong hai năm, thế mà rồi cũng bị hãm. Lấy ta so sánh với Nga cũng như lấy Đằng, Tiết mà so sánh với Tần, Sở [8]. Nga như thế mà chống không được còn bị đánh tan tành, ta đâu có đủ sự hiểm yếu nào có thể mong cậy được!

    Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thao dã, chính là lúc Thắng, Quảng [9] sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây”. Thật đúng như câu nói: “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới bị sâu đục; nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy.

    Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. Lòng người đã rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó chịu chết mà giữ cho!

    Sự thế hiện nay chỉ có hòa. Hòa thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không thể kể xiết. Còn việc binh đao thì thật là tai họa nó là cho vợ goá con côi, tổn thương hòa khí của trời đất, sinh ra hạn hán lụt lội. Thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dụng binh dẹp loạn. Nếu không đánh mà khuất phục được binh lính người mới là đánh giỏi. Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ. Như thế là tiếc một hai mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ, họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được; chi bằng hòa mà chịu mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không? Nếu bảo quân ta mạnh, lúa gạo ta nhiều, chưa chi đã vội hòa sợ thiên hạ cười chê chăng? Nói như thế tức là không nhịn nhục việc nhỏ để làm việc lớn vậy [10]. Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất cầu hòa. Lại nữa, như Thái vương bỏ đất Mân [11], Câu Tiễn thờ vua Ngô, việc hỏa thân của Hán [12], việc cống nạp của Tống [13], tất cả đều lấy việc không đánh là hơn, mà còn trọng sinh mệnh nữa. Luận việc này có ai cho là thất sách đâu?

    Hoặc giả có người nói đất đai tổ tiên để lại không được đưa gang tấc nào cho kẻ khác. Như vậy là quá câu chấp mà để hỏng việc nước. Sao không xem xưa nay có ai là chủ giang sơn mãi đâu. Nhà Tấn bị Hồ [14] gây loạn, Tống mất vào tay Nguyên, Minh mất vào tay Thanh, họ này thay thế họ kia chẳng phải do số trời sắp đặt đó sao? (…) Từ xưa, các bậc đế vương, mỗi khi thay họ đổi ngôi thì con cháu không có đất cắm dùi, đều do tiếc cái ít để mất cái nhiều.

    Hơn nữa, thiên hạ là của chung của thiên hạ, các bậc đế vương dĩ nhiên không thể đem thiên hạ mà cho ai, chỉ có điều là biết không thể cho được rồi sau mới có thể cho được. Nếu không tuỳ thời liệu đình, cho để mà giữ, chẳng may thế sự chuyển dần thì rõ ràng là phải đưa hết tất cả cho người ta. Thế nên, Câu Tiễn chịu nhẫn nhục để được còn nước Việt, vua Văn Hoàng mượn binh để lập cơ nghiệp, đều là muốn bảo toàn thiên hạ cả. Xưa nay, chưa có ai không ẩn nhẫn việc nhỏ mà làm nên việc lớn bao giờ.

    Theo cách ngày nay thì nên để quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổ cắt Quang Trung cho Hạng Võ ngay xưa để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới. Thế nhượng một tấc đất mà nhân dân lợi vô cùng. Như thế chẳng phải là làm việc chung cho thiên hạ đó sao? Người xưa cũng làm như thế thôi, không thể bỏ cách đó mà theo mưu khác được. Thế là xoay chuyển một cái mà kẻ sống người chết đều chịu ơn, thật là sáng rõ, rõ như ánh lửa rọi chẳng còn hình tích gì đáng nghị nữa cả. Dân đã yên sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển, sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy lại ở phía Tây, cũng chưa muộn gì. [15]

    Vả lại, những điều mà nước Pháp xin, chẳng qua là để mở bến tàu; lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, lập nhà thờ để giảng đạo mà thôi. Lẽ thường những nơi có buôn bán, thế tất không thể mở thương trường, lập cơ xưởng. Như người Trung Hoa ở nước ta cũng vậy. Lấy có đổi không, khiến Nam Bắc hòa hợp, của cải hàng hóa lưu thông, tiêu dùng tiện lợi, cuộc sống đầy đủ đều nhờ ở đó cả. Xưa nay chưa có ai buôn bán mà âm mưu chiếm nước ngừơi ta bao giờ. Còn như giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất cả. Sở dĩ họ xin bỏ việc cấm đạo chẳng qua là để có sự truyền đạo được dễ dàng mà thôi. Nếu nói họ có âm mưu gì khác thì Đức Thế Tổ Cao hoàng đế [16] đã ở với giáo sĩ lâu ngày tưởng cũng đã biết ít nhiều hành động của họ. Nếu quả như người ta nói, tại sao không đề phòng ngăn cấm trước để chi đến nay mới cấm, khiến người Pháp mượn cứ trách ta? Nếu nói họ dụ dỗ giáo dân trước rồi mới gây hấn với ta, thì sao họ không thừa cơ khi ta mới bắt đầu dựng cơ nghiệp mà đem quân cả nước đánh lấy cả Nam Bắc phải đợi đến hàng chục năm dài về sau mới tính mưu? Phải chăng vì họ chưa được thông thương cho nên chưa lập mưu lấy nước ta, thế thì ngày nay họ đã thông thương được với nước ta đâu mà có thể thắng được ta? Nếu họ quyết ý chiến thắng thì dễ như lấy vật trong túi, đời nào lại chịu giảng hòa với ta. Những việc đó đã quá rõ, không đợi phải nói mới biết được. Còn ta nếu không chịu hòa, thì họ xưa nay vốn hiếu thắng, đời nào lại chịu thôi. Cho nên tôi nói hòa với họ là tiện lợi, là một việc rất tốt phù hợp với lẽ trời đất. Trời đất hòa mới có mưa móc tưới nhuần. Bốn mùa hoà vạn vật mới sinh nở. Hai nước hòa bờ cõi mới an ninh. Triều đình hòa trăm việc mới chỉnh đốn. Xưa nay chưa có khi nào bất hòa mà làm xong việc được.

    Vậy kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ [17]. Cho họ một miếng đất thì chẳng những các sĩ phu trong thiên hạ muốn làm quan ở Triều đình mình, người buôn trong thiên hạ đua nhau đến buôn bán trong nước mình, mà nước nhà sẽ được vững như bàn thạch, là dân sẽ tránh được khổ lầm than, để giữ vững cơ nghiệp.

    Tôi ở nước ngoài đã lâu biết rõ sức của họ, tinh tường tình hình của họ. Xưa Hàn Dũ có nói: “Biết mà không nói là bất nhân; nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Vì vậy, tôi tuy thân giang hồ mà lòng vẫn ở nơi đế khuyết. Thật không nỡ lòng thấy đất nước bị chia cắt, trăm họ bị lìa tan, cho nên không nghĩ mình ở địa vị thấp hèn, dám cả gan nó ra. nếu như lời tôi nói là gian trá, hoặc có ai xui khiến tôi nói thì tôi xin nạp mình trước cửa đế đô, để làm chứng sau này. [18]

    Tôi xin gởi kèm theo đây một bản đồ để chú giải rõ những điều nói trên đây.

    Kính xin soi xét. Sau này nếu được yên, tôi xin đích thân đến để trình bày rõ nỗi lòng riêng bấy lâu ấp ủ của tôi.

    Nay bái bẩm

    Ngày tháng năm Tự Đức 16

    Nguyễn Trường Tộ ký

    Chú thích

    (*) Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 34-45; Hv 634/1 tờ 40-58; Hv 135 tờ 38-50; NAM PHONG, số 100 trang 47-58.

    - Về nội dung, bản NAM PHONG, trong chi tiết, có những lời lẽ dài dòng và không chính xác bằng ba bản kia.

    - Về ngày tháng năm, thì chỉ có Hv 189/1 là ghi “Tự Đức thập lục niên, nguyệt…. nhật….); còn ba bản kia thì không ghi ngày tháng. Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd, có trích nhiều đoạn của Thiên hạ đại thế và nói: “Không rõ ngày tháng”.

    - Về đầu đề, thi NAM PHONG ghi: “Nguyễn Trường Tộ điều trần Thiên hạ đại thế nguyên tập (nguyên danh quốc tế thượng giao thông chi chính sách)”. Hv 634/1 ghi: “Điều trần thỉnh hứa đại Pháp quốc khai phụ thông thương”, còn Hv 189/1 và Hv 135 không có đầu thề. Chính Nguyễn Trường Tộ, trong Trần tình, nói: “Thiên hạ phân hợp đại thế luận” và trong các bài viết sau này, nhiều lần nói đến “Luận phân hợp”. Ông Nguyễn Lân nói: “Thiên hạ đại thế”; ông Đào Duy Anh nói, “Thiên hạ đại thế luận”.

    Từ những dữ kiện nêu trên, chúng ta có thể tạm kết luận là Nguyễn Trường Tộ đã viết, để thuyết phục Triều đình Huế phải hoà với Pháp, vào hai thời điểm khác nhau:

    a. Theo bài Trần tình, thì năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã có gởi cho Nguyễn Bá Nghi một bài Bàn về việc hòa (Hòa từ), và trong Trần tình có trích một đoạn của Hòa từ, lời lẽ hoàn toàn giống như trong bản NAM PHONG và các bản Hv. Bản văn đăng trong NAM PHONG có thể là bài Bàn về việc hòa của năm 1861. Bởi vì bản NAM PHONG so với các bản Hv, lời lẽ không chỉnh và không khúc chiết bằng. Hơn nữa bài Bàn về việc hòa hình như được viết để cho nhà vua đọc, nên tác giả nói: “Phục vọng chuẩn thần sở kiến”: kính mong các ý kiến của thần được chấp thuận, trong lúc các bản Hv nói: “đại nhân cụ đề chuyển tấu”: kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ. Bản NAM PHONG lại có phụ đề: “Nguyên danh: Quốc tế thượng giao thông chi chính sách”.

    b. Cũng theo bài Trần tình, thì năm 1863, Nguyễn Trường Tộ còn có bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Để viết bài này, Nguyễn Trường Tộ chỉ lấy bài Hòa từ sửa chữa lại cho chỉnh và gọn gàng. Lúc đầu, hình như Nguyễn Trường Tộ định viết như một thư văn có mào đầu, có niên hiệu; nhưng sau có thể đã sửa chữa để gởi kèm theo bài Trần tình như một bài nghị luận, nên không có mào đề, không có niên hiệu. Đây là bản đã được sao chép lại trong Hv 135 và Hv 634/1 mà các tác giả như Nguyễn Lân, Đào Đăng Vĩ đều đã tham khảo và nói là “không rõ ngày tháng”. Bản được sao chép trong Hv 189/1 có lẽ là bản thảo ban đầu được sao chép lại gởi cho Phạm Phú Thứ. Ở đầu bài có ghi: “Giá tập ký dữ thần Phạm Phú Thứ (Bản này gởi thần Phạm Phú Thứ)”. Đây có thể là lời của Nội Các hay Viện Cơ Mật.

    [1] Hà đồ: Thời ông Phục Hy làm vua thiên hạ, có con Long mã đội bức “đồ” (tức là bức vẽ) hiện ra ở sông Hà, ông Phục Hy theo cái văn bản ở trong bức đồ ấy vạch ra 8 quẻ ứng với 5 điều thuỷ, hỏa, kim, mộc và thổ là ở giữa bức đồ.

    [2] NAM PHONG nói: 2/3 Á Đông, Nguyễn Lân sđd trang 129 cũng nói: “một phần ba Á Đông.

    [3] Nam Hải.

    [4] NAM PHONG nói: “Đà Nẵng đi kinh đô” (Đà Nẵng khứ Kinh). Nhưng nói như vậy là lúc Nguyễn Trường Tộ đánh giá chưa đúng lý do tại sao quân Pháp đầu năm 1858 không tiến đánh Huế mà lại hướng vào Nam bộ.

    [5] Những chữ xiên không có trong NAM PHONG.

    [6] Nguyên văn là Phá phủ trầm chu chi thế. Do tích: Ngày xưa Hạng Vũ đem quân đi đánh Tần, lúc đã đến gần chiến trường ông bắt đập vỡ hết cả nồi chảo nấu cơm, đánh đắm thuyền, chỉ mang lương thực vừa đủ ăn trong ba ngày, để tỏ ý cho quân sĩ biết rằng nhất định phải quyết chiến, nên ai nấy phải liều chết.

    [7] Xe kiếm: Là một loại xe đằng trước có mũi nhọn bằng sắt để húc cho thủng thành, bao đất; dịch chữ “thổ nang” tức là bao đựng đất để sắp đống mà trèo thành.

    [8] Đằng, Tiết là hai nước rất nhỏ. Tần, Sở là hai nước rất lớn thời Xuân Thu (Trung Quốc).

    [9] Thắng, Quảng: Trần Thắng, Ngô Quảng đã từng tụ tập nông dân, chống lại Tần Thuỷ Hoàng.

    [10] Ở đây bản NAM PHONG có một đoạn như sau: “Tôi trước đây ở Đại Thanh thấy nước Pháp ký hòa ước với Đại Thanh chỉ có 5 cửa biển mà thôi. Sau sự biến ở Quảng Đông, Pháp bèn cùng Anh chiếm Quảng Châu. Đại Thanh lại phải cho Pháp được tự ý từ Kinh Châu, Hán Khẩu xuống cửa sông Dương Tử chọn lấy một nơi tốt nhất. Đến năm Hàm Phong thứ 2, Tăng Vương huỷ bỏ hòa ước và gây sự, Pháp liền bỏ Đà Nẵng hợp cùng với Anh đánh Thiên Tân, Tăng Vương thua chạy lên phía Bắc, Pháp tiến lên Thông Châu đánh thẳng vào Hậu Uyển. Hàm Phong chạy sang Nhiệt Hà sai Cung Thân Vương giảng hòa, chịu bồi thường 800 vạn lạng bạc, lại phải nhượng thêm Thiên Tân, cửa sông Đại Cô và Lai Châu thuộc tỉnh Sơn Đông, Quỳnh Châu, Đài Loan thuộc tỉnh Quảng Đông. Chuyện Trung Quốc thật đúng như câu nói: “Giống lừa không chở nặng không chịu đi” thật là thất sách”.

    [11] Mân: tên cũ của một nước ở Trung Quốc, địa vực hoạt động đầu tiên của thời Chu nay là giáp tỉnh Thiểm Tây.

    [12] Hán hòa thân với Hung nô.

    [13] Nạp tiền và hàng hóa cho nước Liêu và nước Kim.

    [14] Loạn Ngũ Hồ.

    [15] Ở đây bản NAM PHONG có một đoạn như sau: “Việc ấy hiện có căn cứ sự thật. Tôi đã xét qua nhân tài các nước phương Đông thấy ít nước nào hơn nước mình. Người Pháp cũng phục người Nam có nhiều trí xảo. Tôi đã từng ở các nước xa về phía Tây nghe họ đều nói các môn Thiên văn, Địa lý, Cách vật, trí xảo, hỏa xa, hỏa thuyền, đồng hồ… người Nam học rất thông minh lanh lợi. Nhưng cái bệnh của người mình là câu nệ thủ cựu, chuộng văn chương, không ra khỏi nước nên thấy, nghe chưa rộng, khiến họ chê cười. Nếu các danh nho cao sĩ của ta được qua lại giao thiệp với các nước thì không đầy 10 năm sẽ như Đỗ Mục nói:

    Giang Đông còn làm người tài giỏi
    Cuốn đất tràn về lại có phen!

    [16] Vua Gia Long

    [17] NAM PHONG nói: Xin chấp nhận cho ý kiến của thần. (Chuẩn thần sở kiến).

    [18] Bản NAM PHONG chấm dứt ở đây.
     
Moderators: Cát Cát

Chia sẻ trang này