Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. Rafa

    Rafa SV

    Chương 2

    Bà kể chuyện gì

    Cần phải nói rõ một điểm là gần đây một số’ nét trong tính tình của bà làm tôi rất khó hiểu.Trước kia bà luôn mồm chế giễu những người đi bói bài tây, thế mà bà giờ lại rất thích đi bói, thậm chí trong túi của bà còn có một bộ bài tây nữa.

    Có khi bà kêu nhà không có việc gì làm buồn quá, nhưng chỉ sau đó một lát, trong lúc nói chuyện vui chơi thì bà lại cứ nằng nặc đòi về để “làm việc nhà”.

    - Thôi, phải về đây, - bà sợ hãi nói. - Không thể ở lại được nữa đâu. Dứt khoát là phải về thôi!

    Bà vốn rất thích xem phim, nhưng bây giờ tôi mời bà đi xem thì bà lại tỏ ra kinh ngạc.

    - Việc đến rạp chiếu bóng, - bà nói giọng uể oải, - là hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của phim.

    “Hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của phim” - trước kia có bao giờ bà tôi nói súc tích như thế đâu.

    Tôi chợt đoán biết hết tâm trạng của bà. Tại sao tự dưng bà thích хem bói bài tây? Tại sao bà đột ngột đòi trở về? Những câu nói dài dòng có góc cạnh kia là từ đâu ra? Thủ phạm của tất cả các thứ đó là Ni-cô-lai An-tô-nô-vích. Chính ông ta là người chi phối những hoạt động tư tưởng của bà tôi.

    Đó là phạm vi thế lực của ông ta, là ảnh hưỏng kinh người mà ông ta có thể gây nên!

    Tôi đã nhiều lần khuyên bà hãy ở lại với chúng tôi một thời gian nữa, ít nhất là thời gian tôi và Xa-nhi-a lưu lại ở Mát-xcơ-va. Nhưng dầu có nói thế nào đi nữa, bà cũng vẫn không để lọt vào tai.

    - Tao vừa đi vắng là ông ấy đến tìm ngay, - bà nói giọng thần bí. - Không được đâu, xem ra thì số mệnh nó như vậy rồi.

    - Ông ấy tìm bà đe làm gì? Bà nhầm đấy thôi! Ông ấy sẽ không đi tìm bà đâu!

    Bà ngồi lặng im chẳng nói chẳng rằng.

    - Không, ông ấy tìm đấy chứ ! Đây là việc rất quan trọng đối với ông ấy.

    - Vì sao thế ạ?

    - Vì tao ở nhờ nhà ông ấy. Tao phải làm theo ý thích của ông ấy, chứ không phải làm theo ý thích của chúng mày. Đừng có sốt ruột, hãy bình tĩnh mà nghe, tối nào ông ấy cũng đọc sách cho tao nghe đấy.

    Vậy là tối nào Ni-cô-lai An-tô-nô-vích cũng đem sách của mình ra đọc cho bà nghe...

    Khi chúng tôi quyết định xây dựng cơ sở gia đình ở Lê-nin-grát, tôi nghĩ là sẽ mời bà về ở chung với chúng tôi. Nhưng sau mỗi lần gặp bà, tôi lại càng vỡ lẽ rằng điều đó khó có thể thực hiện được. Số lần bà la chửi Ni-cô-lai An-tô-nô-vích mỗi ngày một giảm đi, mà cái tâm lý sợ hãi, sùng tín mỗi khi nhắc tới tên ông ta thì lại ngày càng rõ rệt. Rõ ràng là bà chắc mẩm rằng ông ta có một sức mạnh hết sức phi thường.

    - Tao vừa mới nghĩ đến, thế mà ông ta đã hiểu ngay, - có một lần bà nói như thế. - Mấy hôm trước tao định làm thức ăn điểm tâm, thì ông ta nói: “Xin chớ có dùng bột mì, không tiêu đâu!”

    Thế mà giờ đây đột nhiên bà xuất hiện trên sân ga Lê-nin-grát, một tay cầm ô, một tay xách túi vải bạt, và hăm hở đi lại phía chúng tôi. Có việc gì xảy ra chăng?

    Trên dọc đường đi, bà hỏi chúng tôi rằng ở chỗ chúng tôi có phải đăng ký tạm trú không.

    - Có thể không phải đăng ký đâu ạ, - tôi trả lời. - Nhưng tại sao bà lại quan tâm đến chuyện ấy?

    - Chẳng có gì đâu! Có phải đăng ký cũng được chứ chẳng sao, - bà khoát tay nói. - Bây giờ tao chẳng cần gì sất.

    Tôi đã viết thư kể lại hàng nghìn lần cho bà nghe về tình hình hai bố con Pê-chi-a và về cái chết của Xa-sa. Hồi tôi còn là một thiếu nữ và ngụ ở phố Tve-rơ-xcai-a I-am-xcai-a số hai, Pê- chi-a có đến nhà tôi, bà tôi có biết mặt anh ta. Nhưng bây giờ bà vẫn hỏi chuyện anh ta rất khách sáo, tuồng như mới gặp anh ta lần đầu vậy. Bà lơ đãng hôn cháu Pê-chi-a, còn đối vối bà bảo mẫu, bà chỉ phát biểu mỗi một câu lạnh lùng là bà ta có bộ mặt trông rất dữ.

    Bà bị phật ý, điều đó đã rõ ràng, nhưng vì cớ gì phật ý thì còn là điều bí mật.

    Chúng tôi thuê hai phòng có cả gác xép ở trên tầng thượng. Căn gác hình như đặc biệt làm riêng cho bà, nó cũng bé nhỏ như cơ thể bà tôi. Trước hết bà đi kiểm tra xem cửa sổ có chốt cài không và cửa chính có khóa được không.

    - Thôi bà ơi, cháu không thích như thế đâu, - tôi nói giọng kiên quyết. - Đây cháu đóng cửa lại, thế là chẳng ai nghe trộm nữa đâu. Thôi bà nói nhanh đi, có việc gì xảy ra không ạ?

    Bà im lặng một lúc lâu.

    - Rồi tao sẽ nói, mày đừng có giục!

    ... Bà ngủ một giấc, dậy rửa mặt, thay chiếc váy liền áo vai bồng, mang đôi giày dài mũi bước đến bên bàn. Khi ăn mặc thích hợp, bà cũng có vẻ trẻ ra đôi chút...

    - Ni-cô-lai An-tô-nô-vích đã tìm được một bà quản gia, - bà nói chẳng cần mào đầu. - Nhưng ông ấy bảo rằng bà ta là thư ký chứ không phải quản gia. Bà ấy sẽ giúp đỡ được nhiều việc. Thế mà cái bà thư ký ấy đem giày bẩn đặt lên bếp lò. Đấy bà ta bắt đầu giúp đỡ rồi đấy!

    Người đặt đôi giày bẩn lên bếp lò ấy tên là A-lép-ti-na Xéc- ghê-ép-na. Câu chuyện thật là thú vị. Chúng tôi ngồi trong vườn hoa, bà kể với vẻ đầy hãnh diện, nhưng kết cục chẳng ai hiểu ra thế nào cả. Tôi nhận thấy Pê-chi-a rất muốn tìm cách vẽ bà, tôi liền ngăn anh ta lại. Tôi cũng tìm cách hăm dọa Xa-nhi-a vì anh đã để tiếng cười bật ra ngoài. Chỉ có một mình cháu Pê-chi-a là nằm lắng nghe một cách nghiêm túc.

    - Nếu quả thực bà ta là thư ký thì tại sao bà ta lại đặt giày bẩn lên bêp lò, nơi tao làm cơm? Không bao giờ tao cho phép ai được làm như thế. Nếu như hôm nay tao nhóm lò thì sao?

    - Kết quả thế nào ạ?

    - Tao đi nhóm lò thật.

    - Thế rồi sao nữa ạ?

    - Đôi giày bị cháy, - bà nói giọng đầy tự hào. - Từ đó bà ta không dám đặt giày lên bếp lò nữa.

    Chúng tôi bất giác cùng bật lên tiếng cười.

    Nói tóm lại là bà quản gia bị mất không một đôi giày và sự kiện đó khiến Ni-cô-lai An-tô-nô-vích phải mời bà ra chỗ riêng để nói chuyện một cách rất nghiêm túc.

    - “Tôi thế này, tôi thế kia!” - Bà cụ phồng mồm lên nhại lại Ni-cô-lai An-tô-nô-vích nói về mình. - Nếu quả thực ông là người tài giỏi thì hãy để cha người khác nói chứ đừng có bô bô lên như thế.

    Ni-cô-lai An-tô-nô-vích được phân phối một ô nhà trong dãy nhà mới ở phố Goóc-ki, và người bà xấu số đáng thương của tôi được tùy ý lựa chọn một phòng trong ô nhà hoa lệ đó. Ông ta đã chạy khắp Mát-xcơ-va suốt một tháng trời để mua sắm đồ đạc trong nhà. Theo cách nghĩ của Ni-cô-lai An-tô-nô-vích thì ô nhà ở phố Tve-rơ-xcai-a I-am-xcai-a sô hai ấy nên để làm “Viện bảo tàng thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp”. Rõ ràng là ông ta quyết định như thế cũng chẳng ngượng ngùng gì vì thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp chưa hề bước chân qua cửa gian nhà này bao giờ.

    - Tao chào ông ấy và nói: “Xin cám ơn ông, tôi chưa quen ở nhà người khác!”

    Chính sau cuộc nói chuyện ấy, bà mới nảy ra ý rời xa Ni-cô- lai An-tô-nô-vích và dọn đến ở với chúng tôi. Nhưng bà sợ xảy ra chuyện lôi thôi nên không dám công khai thu dọn đồ đạc mà trước hết là cố hòa giải với ông ta, thậm chí còn cố gần gũi lấy lòng bà quản gia. Bà tự đặt ra một kế hoạch hành động trong đó phản ánh rất rõ trạng thái tâm lý vô cùng phức tạp của bà. Kế hoạch đó đặt rất nhiều hy vọng vào thời cơ Ní-cô-lai An-tô-nô- vích đi nghỉ ở trại an dưỡng của các nhà bác học ở Bôn-sê-vô. Trong hai mươi năm nay, đây là lần đầu tiên bà xa nhà, một tay cầm ô, một tay xách túi vải bạt, rón rén rời khỏi Mát-xcơ-va.

    ... Xa-nhi-a bao giờ cũng ngủ dậy vào lúc bảy giờ sáng. Chúng tôi thường đi tắm trước khi ăn sáng. Sáng hôm nay cũng theo đúng thói quen ấy. Buổi sáng sớm hôm nay cũng giống hệt như bất cứ một buổi sáng chủ nhật nào khác ở đây.

    Tất nhiên là chẳng có gì đặc biệt. Nhưng tại sao tôi lại ghi nhớ rõ ràng đến thế nhỉ? Tựa như việc vừa xảy ra hôm qua thôi. Xa-nhi-a và tôi cầm tay nhau trượt từ trên dốc núi xuống, anh nghiêng người để giữ lấy thăng bằng rồi lướt qua cạnh một cây bạch dương mọc bên bờ sông, còn tôi thì cởi giày cầm tay chạy theo. Tôi có cảm giác như lớp cát dưới chân bị rẽ ra thành một cái rãnh cạn. Không hiểu sao những cảnh tượng của ngày qua ấy hiện lên trong trí nhớ của tôi rõ ràng đến như thế? Tại sao đến bây giờ tôi vẫn có thể nhắc lại từng câu nói một mà hồi ấy chúng tôi đã từng nói với nhau? Tại sao mãi đến nay tôi vẫn còn cảm giác được cái đẹp mê hồn của cảnh sắc buổi chiều mỗi khi ánh dương rọi chiếu xuống mặt hồ. Tại sao tôi có thể nhớ lại tất cả mọi chi tiết nhỏ nhặt đã xảy ra trong buổi sáng hôm ấy với một tình cảm mặn nồng đến như thế? Khi Xa-nhi-a tắm xong, hai tay bó gối ngồi sóng đôi với tôi, nước vẫn chảy ròng ròng từ trên đầu anh xuống mặt, xuống vai và bộ ngực đỏ hồng lên vì nắng của anh. Tất cả những cái đó tôi đều còn nhớ rất rõ ràng. Tại sao tôi vẫn cứ nhớ rõ mồn một những lời bàn giữa Xa-nhi-a với một chú bé đang xắn quần thả lưới tự đan về cách câu tôm biếc - bằng cách đốt lửa hay là bằng thịt thiu?

    Vì sau ba bốn tiếng đồng hồ, tất cả những thứ đó - những phút bơi lội vui vẻ của hai chúng tôi, những tia ánh sáng mờ ảo trên mặt hồ, hình ảnh bò sông in lộn ngược trên mặt hồ, chú bé với tấm lưới và hàng trăm hàng nghìn những tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ, ấn tượng khác - tất cả những thứ đó đều bay vút lên chín tầng mây, hồ như nhìn qua lỗ kính ống nhòm đặt lộn ngược, tất cả đều bé nhỏ, mong manh và xa tít mù tắp...
    :rose:
     
    Chỉnh sửa cuối: 6/6/15
  2. Rafa

    Rafa SV

    Chương 3

    “Phải nhớ đấy, em phải tin tưởng”

    Khi tôi vào thành phố thì không tìm thấy Xa-nhi-a đâu nữa. Tôi xuống tàu điện ở phố Nê-va, tôi dừng lại trước cửa hiệu “Gát- xtrô-nôm” (cửa hàng thực phẩm) đọc bản thông báo đầu tiên của Bộ tổng chỉ huy dán trên cái cửa sổ lớn ở đấy. Nếu có thể bắt thời gian dừng lại thì tôi sẽ bắt dừng lại ở khoảnh khắc này. Tôi dán sát mắt vào kính cửa sổ đọc một mạch hết tờ thông báo chiến sự, khi quay lại bất ngờ bắt gặp một bộ mặt nghiêm nghị, căng thẳng đang nhìn tôi. Một cảm giác kỳ lạ bao trùm lấy tôi: hồ như việc tôi đọc bản thông báo chiến sự lần này xảy ra trong một cuộc sống khác trước không ai biết được. Trong cái cuộc sống thần bí không có người biết này chính là buổi tối hôm đó, một buổi tối ấm áp đầu tiên của một mùa hè, là cái bóng người trắng bệch kia lẫn vào dòng người đang cuốn đi trên hè phố và mặt trời chưa lặn hẳn, nhưng mảnh trăng non đã gác trên đỉnh tòa nhà lầu của Bộ Hải quân. Trong cuộc sống này, những lời nói đầu tiên được viết bằng những chữ đậm kéo dài suốt chiều ngang của sổ. Có rất nhiều người nối tiếp nhau tới tìm đọc những dòng chữ ấy. Dù rằng người ta hết sức ngăn chặn không để sự việc xảy ra như thế, nhưng việc đã xảy ra rồi và không chút đổi thay.

    Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na trao cho tôi mảnh giấy Xa-nhi-a viết để lại. Cứ cách một lúc tôi lại móc từ trong túi xách tay ra xem lại một lượt. Anh ấy đã xé một tờ giấy màu xanh da trời trong sổ công tác ra và viết rất vội vàng:

    “Em Pi-ra Pô-lây-kin thân yêu! Hãy cho anh ôm hôn em. Nhớ rằng, em phải tin tưởng”.

    Khi chúng tôi sống ở Cri-mê, chúng tôi có nuôi một con chó đặt tên là Pi-rát . Lần nào tôi đi tưới nước cho hoa nó cũng chạy theo sau, Xa-nhi-a vừa cười vừa gọi gộp cả tôi và con chó là “Pi-ra Pô-lây-kin “Nhớ rằng, em phải tin tưởng”, - đó là những lời của anh. Có lần tôi đã nói với anh rằng tôi tin tưởng ở cuộc đời của anh. Lúc đó anh hết sức vui vẻ, thỏa mãn. Chúng tôi không kịp từ biệt nhau, Đúng lúc mười một giờ, anh ra đi. Khi tôi phóng vào đến thành phố thì anh đã đi mất rồi. Trong mảnh giấy viết để lại, anh không hề nói đến một chữ từ biệt, song điều đó hoàn toàn không quan trọng.

    Không hiểu do cái gì xúi giục, tối hôm đó tôi quay trở về tòa biệt thự để ngủ. Hầu như tôi chẳng chợp mắt được phút nào, nhưng sau đó hình như tôi có thiếp đi được một lúc vì tôi có giật mình tỉnh dậy một lần và cảm thấy bàng hoàng cả người, tim lồng lên không sao kìm lại nổi: “Bọn phát xít đã gây ra chiến tranh rồi!”

    Tôi trở dậy và đánh thức bà bảo mẫu.

    - Thu dọn đồ đạc đi thôi. Sáng mai chúng ta phải đi khỏi nơi đây, bà ạ.

    - Bảy ngày thứ sáu trong một tuần . - bà bảo mẫu vừa ngáp vừa nói giọng bực tức.

    Bà ta mặc chiếc ầo ngủ màu trắng, ngái ngủ ngồi trên giường, miệng không ngớt lầm bầm trách móc. Tôi cứ đi đi lại lại trong phòng suy nghĩ, mặc kệ bà ta lảm nhảm. Lúc sau tôi mở tung cửa số ra, vườn cây ngoài kia im ắng khác thường.

    Bà tôi nghe tiếng nói chuyện liền gọi tôi lại.

    - Ca-chi-a, có việc gì thế? - Bà hỏi giọng nghiêm nghị.

    - Bà ạ, vợ chồng chúng cháu chẳng kịp chia tay nhau! Sao lại có thể như thế được nhỉ? Ngay cả việc chia tay nhau mà cũng không có thì giờ.

    Bà nhìn tôi, hôn lên trán tôi rồi kín đáo làm dấu thánh. “Không chào nhau cũng chẳng sao cháu ạ. Thằng Xa-nhi-a nó cũng sắp về rồi đấy thôi”, - bà nói. Tôi cảm thấy mình đang khóc, tôi cảm thấy từ nay về sau bản thân không thể. không thể... nhưng không thể cái gì, ngay chính tôi cũng không rõ.

    Pê-chi-a đi tàu đêm đã trở về tới nhà. Anh có vẻ rất mệt mỏi, có vẻ đang chứa đựng một bầu tâm sự, nhưng ý chí thì lại rất, kiên định. Đó là điều khác hẳn với con người bình thường của anh.

    Lần đầu tiên tôi nghe anh đích thân nói rằng cần phải đưa con ra khỏi Lê-nin-grát. Tòa biệt thự của chúng tôi đẹp đẽ quá. Tôi và bà bảo mẫu đã trồng rất nhiều hoa trong vườn. Nhiều cây hoa đã nứt mầm trổ lá. Thế mà bây giờ phẳi xa lìa tất cả. Tôi cảm thấy vô cùng luyến tiếc. Suốt cả tháng sáu rất lạnh, nhưng mấy hôm nay chợt ấm hẳn lên.

    Thật không thể tưởng tượng được nếu phải nhét bé Pê-chi-a lên toa tàu hỏa nóng nực, chật chội, bẩn thỉu để đi đến một nơi xa lạ chưa hề biết đến bao giờ!

    Pê-chi-a cho biết là Hội họa sĩ quyết định đưa các cháu đến tỉnh I-a-rô-xláp-xcai-a. Anh đã ghi tên cho bé Pê-chi-a và bà Ni-na Ca-pi-tô-nôp-na đi. Vấn đề bà bảo mẫu khá phức tạp, đành phải để sau này suy nghĩ tìm cách giải quyết.

    Anh thu dọn đồ đạc rất nhanh chóng rồi chạy ra ngoài gọi một cỗ xe ngựa chở hàng, sau đó anh chạy phóng lên gác tìm bà Ni-na, vì bà đã nói trước rằng bà không muốn đến tỉnh I-a-rô- xláp-xcai-a. Tôi không được biết bà và Pê-chi-a đã nói những gì với nhau, cũng không rõ bởi cớ gì mà bà không thích vùng I-a-rô- xláp-xcai-a đến như thế. Nhưng chỉ sau đó nửa tiếng đồng hồ cả bà lẫn Pê-chi-a đều bước xuống cầu thang và cả hai người đều có vẻ rất bằng lòng. Bà đi khâu ngay chiếc túi đựng đồ đạc đồng thời phê bình gay gắt những động tác chậm chạp của bà bảo mẫu khoa học.

    Ngoài tôi ra, mọi người đều bận bịu thu dọn, ngay đến cả bé Pê-chi-a cũng vội vã nhét đồ chơi vào cái hộp gỗ riêng của cháu.

    Người tôi mệt mỏi rã rời, tôi ngồi giữa căn nhà đang bị bới tung cả lên. Mãi về sau Pê-chi-a mới bước lại cạnh tôi nói giọng dịu dàng:

    - Ca-chi-a, chị mệt lắm phải không?

    ... Chúng tôi về đến Lê-nin-grát, Pê-chi-a dẫn tôi đến Hội họa sĩ, giới thiệu với một người nào đó rằng việc gì tôi cũng làm được. Thế là tôi lập tức được giao làm những danh sách dài vô tận. về những công việc này tôi không định kể nhiều.

    Lệnh sơ tán qui định không để các bà mẹ và bảo mẫu đi theo các cháu. Vì vậy việc chính là vật lộn với sự phản ứng của các bà ấy. Vừa mới gạt tên họ ra khỏi danh sách ấy, thế mà chỉ một lát sau không biết bằng cách nào họ đã lại ghi được tên của mình vào danh sách đi theo con rồi.

    Tôi làm việc này không được tốt lắm. Một bà họa sĩ người thấp bé giận dữ giật lấy bảng danh sách trong tay tôi. Có thể đoán rằng từ đó về sau sẽ không có một bà mẹ hoặc một bà bảo mẫu nào có thể được bà ta thông cảm chiếu cố. Bà bảo mẫu của chúng tôi bị gạt tên ra khỏi danh sách từ đợt đầu tiên.

    Muốn đến được I-a-rô-xláp-xcai-a còn cần phải tìm đến thương lượng ở cơ quan Xô Viết thành phố". Chẳng hạn như việc muốn đi xe khách chứ không đi xe hàng cùng với hàng nghìn hàng vạn việc bất ngờ khác, đều cần phải có ý kiến giải quyết của Xô Viết thành phố. Tất cả mọi chuyện xảy ra trong những ngày vừa qua đều hết sức lạ lẫm, từ trước đến nay tôi chưa hề gặp.

    Chúng tôi tìm đến cơ quan Xô Viết thành phố, rồi sau đó kéo đến nhà ông hiệu trưởng Học viện Mỹ thuật, nhờ ông ta gọi điện thoại thuyết phục Xô Viết thành phố. Chúng tôi nhận thức ăn và đồ dùng cần thiết trên dọc đường đi sau này, đồng thời đính các mảnh vải có ghi số hiệu vào tay áo. Thế là vô cớ tôi đã trở thành một người cái gì cũng biết và ai cần gì cũng tìm tới hỏi.

    Lúc đầu qui định ngày tàu chạy là ngày mồng năm tháng bảy, về sau đổi lại là ngày mồng sáu. Bây giờ nhìn lại tâm trạng nôn nóng trước những giờ phút khẩn cấp hồi ấy, những tình trạng lộn xộn hấp tấp thu xếp hành lý, những nỗi đau khổ khi phải lìa xa con cái... mà cảm thấy hết sức lạ lùng.

    ... Giờ tàu chạy bị xê dịch. Các cháu phải đứng chờ trong phòng đợi rất lâu. Chúng đứng giữa những hàng người lớn. Bố trí đứng như thế để bố mẹ chúng không thể gây khó khăn cho việc lên tàu được. Song các hàng được xếp ngay ngắn đã bị rối loạn. Các bà mẹ mệt mỏi đã len được đến sát con mình. Trời rất bức, đám trẻ con nhao lên đòi uống nước. Chúng tôi chỉ biết khuyên nhủ, bảo các cháu cố gắng chịu đựng chút nữa. Bụi đất và sự nóng bức của tháng bảy tuồng như cũng phải chịu đựng nỗi đau khổ trước giờ xa biệt của con người.

    Dòng người đã bắt đầu nhích động. Đầu tiên là các em học sinh lớn tuổi, sau đó đến học sinh nhỏ và sau cùng đến các em bé sáu - bảy tuổi. Chúng cầm chắc tay nhau cùng bước đi. Nhìn thấy cảnh những đứa trẻ bé bỏng đã phải mang vác đồ đạc ra đi, nhiều người không sao cầm lòng được. Chúng sẽ được đưa đến một nơi nào đó. nhưng đó là nơi nào? Trong những giây phút còn ở nhà, hễ trông thấy chiếc ba-lô sắp sửa lên đường của Pê-chi-a là tôi lại buồn vô kể. Mỗi người đều nối theo sau con trẻ của mình. Tôi cũng đi theo sau cháu Pê-chi-a. Cháu nó đi sóng đôi với một bé gái béo múp và trông rất sạch sẽ tươm tất. Tôi bị cuộn vào dòng người, và khi đến lượt mình cũng phải dừng lại cạnh cửa ra vào như mọi người - bố mẹ đi tiễn không được phép lọt qua cửa ra vào. Và rồi cũng như tất cả mọi người, để khỏi bật ra tiếng khóc, tôi phải cắn chặt môi, đưa mắt tiễn cháu bước đi. Sau đó tôi chạy đến trạm hàng hóa để trông coi hành lý, không để cho đồ đạc của trẻ con lẫn vào của người lớn.

    Đúng bốn giờ tàu sẽ xuất phát. Giờ giấc tàu chạy được qui định rất chính xác. Mãi đến phút cuối cùng Pê-chi-a mới hộc tốc chạy ra ga. về sau tôi được biết anh phải cùng đi với ông hiệu trưởng đến cung điện Xmôn-nưi. Một người không quen biết bế cháu đưa qua của sổ cho anh. Anh bế lấy con, áp sát cái đầu nhỏ có mái tóc đen nhánh của nó vào mặt mình và đứng im hồi lâu. Bà tôi trông thấy cảnh tượng ấy không thể nào cầm lòng được. Biết bà quá xúc động. Pê-chi-a liên vội vã hôn con rồi đưa trả vào toa tàu...

    Mãi đến nay mỗi khi nhớ lại cảnh bọn trẻ ra đi hôm ấy, lòng tôi vẫn còn thắt lại. Trong những năm chiến tranh sau đó, nỗi gian nan vất cả thực là vô cùng. Biết bao nhiêu ấn tượng mãnh liệt, kỳ lạ làm tôi không bao giờ quên lãng. Song những cảnh chia tay các cháu bé vẫn chiếm giữ một vị trí nổi bật trong trái tim tôi... :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  3. Rafa

    Rafa SV

    Chương 4

    “Nhất định chúng tôi sẽ gặp lại nhau, nhưng không phải trong ngày một ngày hai”

    Những người công tác ở Sở tàng trữ vật phẩm nghệ thuật quý cho biết rằng đoàn tàu đã đến I-a-rô-xláp-xcai-a an toàn, nhiều người mang hoa tươi ra đón các cháu. Thế mà mãi tôi vẫn không nhận được điện báo của bà gửi đến để báo tin. Hơn nữa các cháu còn phải từ I-a-rô-xláp đến một nơi gọi là làng Gơ-ni-lôi I-a-rơ nữa. Không hiểu sao tôi cứ mường tượng rằng bọn trẻ trú ngụ trong cái làng có tên không lấy gì làm đẹp đẽ ấy sẽ sống chẳng ra gì. Tôi nhận được một bức thư hết sức bi quan của Ki-ra. Cô ta cũng đã đưa con và bà mẹ đi sơ tán ở một nơi nào đó rồi. Va-li-a vẫn ở tại Mát-xcơ-va. Đây là lần phân tán đầu tiên của cặp vợ chồng ấy. Có một điều khiến tôi ngạc nhiên hết sức là cô ta không hề sợ bom của bọn phát xít dội xuống Xíp-xép Vra-giéc, mà lại đi sợ một cô gái có tên là Giê-ni-a Côn-pắc-tra, vì cô này đang cố ý tấn công Va-li-a. Ki-ra đáng thương đã viết bức thư này trong lúc đang khóc nức nở vì cả bức thư đều bị ướt nhòe nhoẹt. Tôi thương cô ta tự trong đáy lòng.

    Điều đáng lo nhất là tình hình của Xa-nhi-a và những cơn ác mộng mà tôi gặp phải. Tôi nằm mê thấy tôi giận anh ấy, vì sao kia chứ? Anh có vẻ rất mệt mỏi, mặt mày tái nhợt, ngồi cúi đầu nghe tôi nói...

    Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na lập một trạm điều trị ngay trong văn phòng của rạp chiếu bóng Ê-lít trước kia. Bà cho rằng tôi là ngưòi “có kinh nghiệm chăm sóc người bệnh rất phong phú”, nên tổ tự vệ gồm có ba ngưòi của Xô Viết quận liền đến đề nghị tôi ra làm у tá.

    - Đồng chí Ta-ta-ri-nô-va, Gvi-gô-ri-e-va, đồng chí nên biết rằng, - vị ủy viên của tổ tự vệ ba người, một bác sĩ hiền lành, tóc đã hoa râm nói với tôi giọng bí mật. - Nếu đồng chí từ chối làm у tá thì chúng tôi sẽ phân công đồng chí đi đào công sự...

    Đi đào công sự hay làm việc trong các "chiến hào”, theo kiểu người Lê-nin-grát thường nói, cố nhiên là gian khổ hơn làm у tá nhiều. Nhưng tôi vẫn khước từ nhã ý của ông ta, không nhận làm у tá.

    Cứ tối đến là chúng tôi xuất phát đến Rô-gát-ca-a Trung đào hào chống xe tăng. Đất ở đây toàn là đất sét nên rất cứng. Trước hết phải dùng cuốc chim làm cho lỏng đất, sau đó mới dùng xẻng xúc. Tôi được xếp vào đội lao động của một nhà xuất bản ở Lê-nin-grát. Mọi người đều gọi đùa đó là đội lao động cao cấp "đào mồ chôn Hít-le”. Đội lao động này hầu như toàn là phụ nữ: cô đánh máy, cô sửa bông, cô làm biên tập. Điều làm tôi ngạc nhiên là hầu hết các đội viên đều ăn mặc rất tươm tất. Tôi tò mò hỏi một cô biên tập khá xinh đẹp có làn da bánh mật tại sao mọi người lại mặc loại váy liền áo đẹp đẽ như thế để đi đào chiến hào.

    Cô ta cười đáp, vì không ai có quần áo xấu hơn. Đời sống của số người này nằm trong thế giới của những người làm công tác biểu diễn, văn học và nghệ thuật. Tất cả số người này đều làm cho tôi rất có cảm tình. Giờ đây tất cả các cô gái xinh đẹp và có kiến thức kia đều cầm lấy cuốc chim, xẻng, ra sức đào xúc khối đất màu nâu rắn như đá, thỉnh thoảng mới nói dăm ba câu liên quan tới nghệ thuật. Họ đang cố gắng hoàn thành công việc theo đúng quy định.

    Tôi được ghép vào đội cùng với cô biên tập có nước da bánh mật. Cô ta nói rằng ngày hôm qua chồng cô cùng người anh và đứa em trai đã ra mặt trận. Cô rất lo cho đứa em vì cậu ta rất yếu và còn non nớt quá, thật đúng là còn trẻ con. Chồng cô cũng hết sức khuyên nhủ chú ấy khoan đi, nhưng không sao khuyên nổi. Tôi kể cho cô ta nghe về tình hình của Xa-nhi-a. Chúng tôi lặng lẽ đào xúc một lúc lâu. Hai chúng tôi đặt chiếc cáng xuống chỗ sâu nhất của chiến hào, các cô gái khác xúc đất vào đấy, chúng tôi lại khiêng chiếc cáng lên, để đất xuống chân dốc. Tôi không nói cho cô ta biết rằng từ ngày nổ ra chiến tranh đến nay, tôi chưa hề nhận được bức thư nào của Xa-nhi-a. Hôm qua tôi có gọi điện thoại cho mẹ một phi công cùng đại đội với Xa-nhi-a. Bà bảo là bà vừa nhận được một bức thư từ Rư-bin-xcơ gửi tới. Hay là Xa-nhi-a cũng có mặt ở Rư-bin-xcơ? Chắc là ở đó đang tổ chức các đại đội bay. Nếu giả thuyết này là đúng thì tôi hoàn toàn có thể nêu tên một thành phố khác nữa trong lãnh thổ Liên Xô. Tôi không được quyền biết rõ anh ở đâu và tình hình của anh ra sao. Nếu anh đã hy sinh thì tôi cũng không biết rõ anh hy sinh vào lúc nào và anh đã hy sinh ra sao. Có thể nói lúc anh hy sinh là lúc tôi đang xem hát, hoặc lúc tôi đang ngủ, hoặc, lúc tôi đang trò chuyện với ai đó. Cũng giống như bây giờ đây, đội trưởng yêu cầu chúng tôi phải làm việc hết sức, giữa lúc trong lòng đang nghĩ tới những chuyện khác, cô gái biên tập có nước da bánh mật chợt nhìn tôi và hai đứa cùng cười. Đây là một đề nghị rất hay - chúng ta cần phải suy nghĩ đến một việc gì đó.

    Màn đêm loãng dần. Trong vừng ánh sáng màu chì lờ mờ, bất động giữa trời và đất của buổi ban mai, đột nhiên tỏa ra hơi thở mới mẻ của phút rạng đông. Những cơn gió lướt qua đồng ruộng, lay động đám cây che khuất các khẩu cao xạ như cùng tỏa ra một thứ mùi vị mới, khác hẳn đêm qua. Trên bầu trời của thành phố phía xa xa, hàng loạt quả khí cầu phòng không màu trắng được thả lên, trông như những con cá khổng lồ lẩn khuất trong ánh nắng mặt trời le lói của buổi sáng.

    Làm mãi cho tới khi trời sáng, mọi người đều mệt nhoài, mặt mày tái nhợt, một cô gái mệt quá bị ốm, nhưng đội lao động của chúng tôi vẫn giành được năng suất cao nhất, vẫn kết thúc “bài học” của mình sớm hơn tất cả những đội khác. Tôi khát nước quá, một cô bạn mới dẫn tôi di xếp hàng mua nưđc cờ-vát(1). Quầy bán nước dựng lên cạnh một nhà thờ cũ đã bị bỏ hoang. Trong lúc chúng tôi đã xếp hàng chờ mua thì cô biên tập da bánh mật lại đến đề nghị tôi leo lên gác chuông nhà thờ.

    Đây là một đề nghị dại dột, tôi đang mệt mỏi vô cùng tận, thế nhưng tôi lại đi nhận lời không cân nhắc.

    Tôi đi dọc theo chiến hào, đến chỗ có dán tờ báo tường thì tìm ra đoạn của mình. Ở đây hiện nay đã có những người mới đến. Chẳng lẽ chúng tôi chỉ mới đào được một đoạn ngắn như thế này thôi ư? Chiến hào nối tiếp đoạn này với đoạn khác, kéo dài ra vô tận. Các cô các bà đứng trong chiến hào sâu ba mét để đào dất.

    Một bờ hào dựng đứng, còn bờ kia thì thoai thoải. Có người dùng cuốc kéo đất ra ngoài, có người dùng xe cải tiến để chở đất đi đổ ra xa. Nếu trước đây một tháng có ai đó nói với các cô gái rằng rồi đây họ sẽ phải rời bỏ gia đĩnh, gác công tác sang một bên, đêm đêm kéo nhau ra ngoại ô, đến bên cánh đồng vắng để đào đất chữa hầm hào, đồn lũy... thì e rằng trong bọn họ chẳng có ai chịu nghe. Nhưng bây giờ họ đã thực sự đến đây lao động và chính mắt họ đã trông thấy con hào sâu rộng bao quanh thành phố như một cái dây lưng khổng lồ chỉ đứt đoạn ở những nơi có đường sắt đi qua, đến nay đã sắp hoàn thành.

    Tôi thực không biết thuật lại như thế nào tâm tình của mình khi nhìn thấy cánh đồng bị xẻ nát nàỵ. Cánh đồng bị rất nhiều đường hầm lớn hình bán nguyệt chia cắt ra. Ánh mặt trời ảm đạm của Lê-nin-grát lười biếng chiếu xuống mặt đất. Tôi cảm thấy vô cùng hãi sợ vì dường như đang đứng trước một cơn bão tố không sao tránh dược. Bên cạnh đó đồng thời trỗi dậy trong lòng tôi một thứ tình cảm dũng cảm trẻ trung và lạc quan.

    Buổi trưa tôi về đến nhà, Vừa bước vào cửa đã gặp ngay bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na. Bà vui vẻ kể lại rằng vừa rồi chính mắt bà trông thấy một tên gián điệp bị bắt trên đại lộ Nép-xki.

    - Một thằng béo mầm với bộ râu khá dài, Đúng là một thằng đặc vụ điển hình! - Bà vừa nói vừa nhổ nước bọt phù phù. - May mà Béc-ta chưa ở chung với tôi, nếu không thì bà ấy cũng đến phát điên lên vì sợ mất.

    Bà Béc-ta là một phụ nữ rất nhút nhát.

    Chúng tôi dừng lại giữa cầu thang gác thứ hai, bơi vì bà Rô- da-li-a Na-u-mốp-na bắt đầu miêu tả lại quá trình xảy ra câu chuyện này. Giữa lúc ấy có một anh bộ đội từ trên gác đi xuống, gót giày đóng đế sắt làm vang lên những tiếng kêu ồn ĩ. Khi còn cách chúng tôi một quãng, anh ta cúi người nhìn xuống dưới cầu thang, tôi chợt nhận ra anh ta là Lu-ri.

    Lu-ri là bạn cũ của Xa-nhi-a, làm nghề hoa tiêu máy bay. Trước đây hai người đã từng làm việc chung với nhau ở miền Bắc, về sau lại tách ra. Xa-nhi-a lúc nào cũng nói rằng nếu không có Lu-ri thì anh sẽ cảm thấy rất buồn. “Suốc-ca đến đây thì hay biết bao nhiêu!” - Trong thư gửi từ Tây Ban Nha về cho tôi anh đã viết như thế. Trước đây, Lu-ri thường xuyên đến chơi nhà tôi, anh là người rất hoạt bát vui tươi, bộ râu để dài nom giống như một người nước ngoài.

    - Chị Ca-tê-ri-na I-va-nốp-na! - Anh ta hớn hở đưa tay lên tai chào tôi. - Tôi gõ của có đến nửa ngày, sau đó bấm chuông, cuối cùng không có cách nào khác, tôi đành nhét bức thư vào thùng thư.

    - Thư của anh Xa-nhi-a có phải không?

    - Chính thế!

    Lu-ri cũng cúi chào bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na rất nhiệt tình.

    Anh tỏ ý rất tiếc là chỉ có mười lăm phút ở lại. Khi có mặt anh tôi không đọc kỹ thư Xa-nhi-a mà chỉ nhìn lướt qua, những dòng cuối cùng của bức thư viết: “Nhất định chúng ta sẽ gặp lại nhau, nhưng không phải chỉ ngày một ngày hai”.

    - Anh từ đâu đến đây thế? Anh ở trong quân đội à? Anh ở Lê-nin-grát phải không? Xa-nhi-a bây giờ ở đâu, anh có biết không?

    Lu-ri đã gia nhập bộ đội và đóng quân ở Lê-nin-grát. Anh trả lời hai vấn đề trên khá thoải mái. Tôi vẫn một mực hỏi dồn:

    - Xa-nhi-a ở đâu?

    Anh suy nghĩ một lúc rồi trả lời cho qua chuyện.

    - Anh ấy ở lại trung đoàn.

    - Hình như anh không muốn cho tôi biết Xa-nhi-a đang ở đâu, phải không ạ? Thôi thì xin anh cho biết anh ấy có được khỏe không?

    - Khoản ấy thì không chê vào đâu được. - anh ta cười nói.

    Mặc dù Lu-ri nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng anh không có thời gian, chỉ có thể ở lại mười lăm phút, nhưng bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na vẫn kiên quyết đi đun cà phê. Lúc này chỉ còn lại anh với tôi, tôi mói moi được một ít tin tức từ miệng anh ta. Thì ra tại một nơi nào đó tôi không được biết, đang tổ chức một đoàn không quân đặc biệt. Các phi công được tuyển vào đoàn này là các phi công dân dụng đã bay từ một nghìn năm trăm đến hai nghìn giờ. Hiện nay họ đang được huấn luyện lái một loại máy bay mới.

    Khi nghe đến mấy chữ “Trung đoàn phi công đặc biệt”, người tôi lạnh toát. Song tôi không hỏi rõ nhiệm vụ của đoàn phi ciing đặc biệt ấy, vì biết rằng dẫu có hỏi, Lu-ri cũng sẽ không trả Lài. Tôi chỉ hỏi một câu rằng Xa-nhì-a có phải học tập lâu lắm không? Lu-ri lại suy nghĩ một lúc mới trả lời là không lâu. Trong giọng nói của anh, lộ rõ vẻ ngần ngại.

    Tôi viết vội mấy chữ gửi cho Xa-nhi-a. Khi Lu-ri vừa bước ra cửa thì gặp lúc bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đi vào. Anh đành phải hứa rằng “nếu sau này có thể” thì sẽ rẽ vào chơi. Chúng tôi dừng lại bên cửa đến mấy phút và khi chia tay nhau chúng tôi đã ôm nhau hôn thắm thiết...

    Xa-nhi-a viết bức thư này rất lâm ly. Mặc dù bức thư lâm ly như vậy nhưng cũng chỉ có mình tôi là đoán được ra điều đó.

    Xa-nhi-a hỏi thăm hai bố con Pê-chi-a, dặn chúng tôi đưa ngay cháu ra khỏi thành phố Lê-nin-grát.

    “Sơ tán về En-xcơ với ông bà thì tốt biết bao nhiêu!” Viết đến đây anh lại tỏ ý lo lắng thay cho ông chú Chánh án và dì Đa-sa. Từ một câu viết có vẻ rất thận trọng của anh có thể hiểu được rằng, tuy En-xcơ cách khá xa mặt trận nhưng đã bị máy bay giặc đến oanh tạc. Nói chung thì Xa-nhi-a biết trước là tình hình không được tốt lắm nên mới viết câu: “Nhất định chúng ta sẽ gặp lại nhau, nhưng không phải chỉ trong ngày một ngày hai”.

    Đúng thế, sẽ không thể nhanh chóng được. Những ngày gian khố đã bắt đầu đến. Tôi đi đi lại lại luôn chân trong phòng ngủ. Khi tôi bước ra phía cửa sổ, có một nửa tấm ván lót hình ô vuông bị che tối. Khi tôi quay trở lại, nửa kia lại bị tối. Tôi cố chỉ giẫm lên trên những ô vuông bị che tối này mà bước.

    Trung đoàn phi công đặc biệt - “việc này có ý nghĩa gì nhỉ? Có đáng sợ không nhỉ?" Tôi miên man suy nghĩ trong bụng như thế. Thế nhưng khi tôi nói to ý nghĩ ấy lên, thì trong lòng rất đau đớn. “Chẳng phải lần trước anh ấy đi Tây Ban Nha, cuối cùng cũng an toàn trở về đây sao. Dù thế nào cũng phải viết nhiều thư, bảo anh ấy biết rằng mình vẫn rất tin yêu anh ấy”.

    Đến lúc này tôi mới cảm thấy mệt mỏi quá chừng. Tói nằm xuống và khép hai mắt lại, lập tức bao nhiêu hình ảnh hiện lên: các cô gái khiêng những chiếc cáng đất sét rắn như đá, nặng trịch; hàng đoàn xe cải tiến chạy chậm rãi trên ván lót, ánh mặt trời le lói trên khung cửa sổ sơn màu nâu sẫm.

    Về sau, không biết từ đâu rọi đến những luồng ánh sáng ấm áp, tiếp nối theo đêm trắng. Tất cả mọi vật đều dần dần biến thành màu bạc. Lúc này tôi cảm thấy mình buồn ngủ vô cùng. Mọi thứ đều tốt, đều hay, chỉ có điều khổ là phải nghe những tiếng hát kéo dài liên miên từ căn phòng bên cạnh lọt sang...

    - Ca-chi-a, báo động!

    Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na lắc mạnh vai tôi.

    - Dậy nhanh lên, báo động rồi!

    ... Cuối tháng bảy, tôi chợt gặp chị Va-li-a Trô-phi-mô-va trên đại lộ Nép-xki. Chồng chị cũng là phi công trong trung đoàn đặc biệt và là Anh hùng Liên Xô. Xa-nhi-a cùng đang ở trong trung đoàn này. Trước đây tôi đã từng cùng đi với chị Va-ri-a này đến Xa-ra-tốp để thăm chồng. Còn nhớ, hồi ấy khi biết chị là một bác sĩ nha khoa, tôi hết sức ngạc nhiên.

    Chị là một người đàn bà kiên cường, dáng người cao lớn, sắc mặt đỏ hồng, bước đi vững chắc. Mỗi khi chị cười rộ lên lại lộ ra hai hàm răng đều đặn, đẹp đẽ, khiến tôi bất giác nhớ đến Ki-ra.

    - Gri-sa của mình đang oanh tạc Béc-lanh đấy, Ca-chi-a có đọc báo không? - Chị thở dài nói.

    Chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu, chị khuyên tôi hãy xin vào công tác tại bệnh viện thực hành Răng Hàm Mặt thuộc Học viện Quân y.

    Thấy tôi suy nghĩ, chị Va-ri-a liền nói: “Trước hết hãy xét xem công tác này như thế nào đã”, nếu không thì sẽ như một bà trước đây cũng được chị giới thiệu “chỉ làm việc được vài ngày là bỏ đi vì bà ấy không thích các mùi vị ở trong bệnh viện”.

    Va-ri-a rất ghét “các hạng bà”, ngay trong chuyến đi Xa-ra- tốp cùng với chị trước đây, tôi đã nhận ra đặc điểm ấy của chị.

    Quả là cái mùi vị của bệnh viện rất khó chịu. Khi tôi vừa bước vào dãy hành lang hai bên toàn là những phòng bệnh nhân, tôi liền cảm thấy ngay điều đó. Cái mùi ấy khiến tôi lập tức buồn nôn. Trong lúc chị Va-ri-a giới thiệu tôi với các chị у tá, với bác sĩ phòng điện quang, với bà vợ của bác sĩ trưởng cùng nhũng người khác thì tôi chỉ chực nôn thốc ra.

    Ở đây toàn là những bệnh nhân bị thương ở mặt. Sau khi tôi đến một lúc liền thấy đưa đến một thanh niên bị mìn làm cho nát cả mặt.

    Sau hai ba ngày đầu làm việc, tôi học được cách chăm sóc loại bệnh nhân này. Cần phải luôn luôn củng cố lòng tin cho họ, khuyên họ chớ suy nghĩ buồn phiền. Dầu có vết sẹo thì cũng chẳng có gì là ghê gớm, chỉ càn chịu dựng một thời gian vết sẹo sẽ mất dần. Sau này tôi chuyến sang công tác tại một bệnh viện ngoại khoa dã chiến. Ở đây không tồn tại cái tâm lý u uất trên kia mà mọi người chỉ lo lắng một điều là sẽ bị tàn phế...

    Có khi chúng tôi phải dùng câu "sau này sẽ mất hết vết tích” để an ủi họ. Từ trước tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có người sẽ phải làm mũi mới, hoặc phải ghép da lên mặt. Có những thương binh lúc đến bệnh viện bị băng bó trông rất dễ sợ, nhưng sau hai ba tháng điều trị, khi anh ta xuất viện trở về đơn vị, những vết thương tưởng chừng sẽ làm anh ta đau khổ suốt đời đã biến mất.

    Trong thời gian công tác tại bệnh viện Răng Hàm Mặt, nhất là trong thời gian đầu, tôi gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng chính vì công tác trong điều kiện khó khăn như thế, nói mỗi câu mỗi chữ đều phải đắn đo suy nghĩ, nên tôi lại cảm thấy rất thích thú.

    Đơn vị của Pê-chi-a đóng trên phố Đại học bờ sông. Sau khi tiễn con đi rồi, anh liền ghi tên tham gia vào đội tự vệ thành. Hễ lúc nào rỗi rãi là tôi chạy lại thăm Pê-chi-a. Chúng tôi hoặc ngồi trên đống gỗ tròn cạnh tường nhà hoặc đi bách bộ từ Học viện Ngôn ngữ đến chân tượng mặt người thân sư tử. Tất cả những kỷ niệm có tính chất văn hóa đều đã được đưa đi giấu hoặc được vùi dưới nhiều lớp bao cát. Thế mà không biết vì sao những tượng mặt người thân sư tử qúy giá này lại vẫn còn trơ trơ ở đây như hồi còn hòa bình trước ngày hai hai tháng Sáu năm 1941. Chúng nằm phục trên bờ sông Nê-va nhìn thế sự xoay vần. Chúng mở to hai mắt, giương móng vuốt ra ngoài. Khi nhìn kỹ pho tượng, sắc mặt Pê-chi-a phút chốc bỗng trở nên hết sức dịu dàng, tuồng như mải theo đuổi những suy tư riêng.

    - Nặn được một chiếc vuốt như thế này có chết cũng không tiếc, - có một lần Pê-chi-a nói với tôi như thế, sau đó anh ta thao thao bất tuyệt giải thích cho tôi hiểu rằng tại sao nói chiếc vuốt này là một tuyệt tác.

    Tôi và Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đem tất cả quần áo lót của Pê-chi-a ra khâu lại, nhưng anh chẳng lấy cái nào cả, mặc dù những quần áo lót mà anh lĩnh ở tiểu đoàn xấu hơn rất nhiều. Xem ra anh ta rất mong muốn được sớm trở thành một chiến sĩ thực thụ. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  4. Rafa

    Rafa SV

    Chương 5

    Anh em

    Ngày hôm qua tôi đến thăm Pê-chi-a, anh ta chẳng nói năng gì cả, rõ ràng là anh ta đã nhận được lệnh hồi đêm. Tôi đang trực ban. Rô-da-li-a Na-u-mốp-na gọi tôi ra khỏi phòng báo cho biết là Pê-chi-a vừa gọi điện thoại về nhà, nhắn tôi phải đến ngay trước buổi trưa. Giờ trực ban của tôi phải đến buổi trưa mới hết, nhưng tôi đã xin được phép và chị Va-ri-a Trô-phi-mô-va đã trực giúp thay tôi. Chưa đến mười giờ tôi đã có mặt ở trước cửa Học viện Ngôn ngữ. Một chiến sĩ quen biết trong tiểu đoàn của Pê- chi-a thoáng hiện ra ở cửa sổ, tôi gọi anh lại.

    - Chị muốn gặp Xcô-vô-rốt-ni-cốp phải không? Tôi sẽ giúp chị ngay...

    Pê-chi-a lật đật từ trong cổng đi ra. Chúng tôi chào hỏi nhau rồi cùng đi dọc theo phố bờ sông đến bức tượng mặt người thân sư tử.

    - Chị Ca-chi-a, hôm nay chúng tôi đi rồi, - anh nói. Tôi rất phấn khởi khi biết tin này.

    Anh im lặng một lúc lâu. Anh đang xúc động.

    - Thực chẳng ai ngờ tới. Đáng lẽ trong những ngày này chúng tôi sẽ phải tổ chức một cuộc hành quân luyện tập, nhưng xem chừng tình hình bây giờ đã thay đổi rồi.

    Tôi gật đầu. Trong những ngày gần đây có nhiều thương binh không ngừng được đưa từ Lu-ga đến, vì thế không khó đoán ra rằng tình hình có nhiều thay đổi.

    - Tôi đã viết xong thư gửi đi các nơi. - Pê-chi-a tiêp tục nói và bắt đầu lục sắc-cốt. - Tôi muốn nhờ chị... Riêng lá thư này đừng gửi đi.

    Anh ta lấy trong sắc-cốt ra một phong bì không dán và không ghi chữ ở ngoài đưa cho tôi.

    - Lá thư này tôi để lại cho cháu Pê-chi-a. Nhờ chị sau này đưa cho cháu, nếu như tôi...

    Anh định nói đến hai chữ “hy sinh”, đôi môi anh đã làm động tác đê thốt ra hai chữ ấy, nhưng đột nhiên anh lại nở một nụ cười rất ngây thơ.

    - Tất nhiên là không phải nhờ chị đưa ngay bây giờ mà phải chờ đến khoảng mười năm sau.

    - Với Xa-nhi-a không bao giờ anh ấy viết loại thư như thế này.

    - Vì anh ấy đã có con đâu.

    Hình như các cơ trên mặt tôi thoáng bị co lại. Pê-chi-a giật mình lo lắng, ngỡ câu nói của mình đã làm tôi đau lòng. Chúng tôi cùng dừng bước, Pê-chi-a nắm chặt lấy bàn tay tôi.

    - Hiện nay anh Xa-nhi-a thế nào? Anh ấy ở đâu?

    - Tôi không biết tin tức gì cả.

    - Tôi có gửi thư cho anh ấy qua trạm quân bưu dã chiến, nhưng mãi vẫn không nhận được thư trả lời. Nhưng dẫu sao anh ấy cùng sống rất đàng hoàng, chẳng có gì đáng lo ngại cả.

    - Sao anh lại khẳng định như thế?

    Anh ta im lặng.

    - Tôi tin tưởng như vậy. Sẽ chẳng có gì xảy ra đâu. Chi có nhớ câu anh ấy nói: "Ở trên trời thì tôi không lo, nhưng khi ở dưới mặt đất tôi không dám chắc như thế" không?

    Quả là Xa-nhi-a có nói một câu như thế thực. Nhưng đó là việc xảy ra đã lâu, nay lại là thời chiến, câu ấy đã trở nên không có ý nghĩa thực tế nữa.

    - Còn lá thư này tôi gửi cho ông cụ nhà tôi, - Pê-chi-a rút ra lá thứ thứ hai. - Nhờ chị chuyển giúp, nếu như ông cụ còn sống. Đấy chị xem tôi chỉ toàn viết một loại thư như thế, thực là không có cách nào gửi đi được qua đường bưu diện, - anh ta nói thêm giọng cay đắng. - Tôi cũng đã thương lượng xong, người ta đã nhận đưa những tác phẩm của tôi vào Viện bảo tàng Nga.

    Tôi vỗ hai tay vào nhau tỏ ý sốt ruột.

    - Không, đấy chỉ là phòng xa thôi, - Pê-chi-a vội vàng thanh minh. - không phải vì có thể bị hy sinh, mà nói chung nên phòng trước. Cả Cô-xtô-skin, cả Líp-sít, cả Na-da-rốp cũng đều Làm như thế hết.

    Những ngưòi Pê-chi-a nhắc đến tên đều là họa sĩ.

    - Việc gì rồi cũng có thể xảy ra... Nhưng chưa chắc là bản thân tôi phải chịu những biến cố đó, cái đó có trời mà biết được, - anh ta nói vẻ sốt ruột. - Hay là chị cho rằng kẻ thù chỉ oanh tạc Mát-xcơ-va, còn Lê-nin-grát thì sẽ không đụng đến?

    Tôi chưa bao giờ suy nghĩ như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng anh ta sắp xếp mọi việc của bản thân như thế thì tự trong thâm tâm chắc là anh ta chẳng hy vọng có ngày trở vể.

    - Hình như chúng ta còn cho rằng mình là một việc, mà chiến tranh là một việc khác. - giọng anh ta nặng nề vẻ suy tư. - Nhưng trong thực tế...

    Cuối cùng anh ta cởi đồng hồ trao cho tôi. Đến hành động này thì tôi phát cáu lên. Tôi mắng anh ta một trận nên thân, mắng đến nỗi anh ta phải bật cười và cất đồng hồ vào túi.

    - Chị kỳ lắm, tôi vừa mới được lĩnh một chiếc đồng hồ có kim chỉ nam mới tinh, - anh ta nói. - Này chị Ca-chi-a, chị có biết tôi bây giờ là cấp gì không? Đường đường là một thiếu úy rồi đấy, chị chớ có trêu vào.

    Anh ta nhập ngũ mới vẻn vẹn có một tháng, tôi thực không hiểu nổi anh ta đã được thăng cấp thiếu úy lúc nào. Nhưng theo lời anh ta kể thì trong thời gian học ở viện, anh ta đã được huấn luyện sĩ quan dự bị trong một thời gian ngắn.

    Chúng tôi đến bên bức tượng mặt người thân sư tử và rồi như thường lệ, cả hai cùng dừng lại cạnh dãy lan can sắt bị gãy mất mấy thanh ngang. Pê-chi-a ngước nhìn bức tượng và thở dài. Có phải anh la muốn nhìn để từ biệt bức tượng không? Anh ta vốn người đã cao to, bây giờ đứng thẳng, đầu ngẩng lên nên càng lồ lộ một thân hình to lớn. Sau này có một lần tiểu đoàn trưởng của anh nói với tôi rằng "Pê-chi-a rất coi thường cái chết”. Đúng là cái hôm chia tay Pê-chi-a trước bức tượng mặt người thân sư tử ấy, tôi đã cảm thấy rõ rệt niềm kiêu hãnh cùng sự khinh thường cái chết của anh.

    Mặc dầu Pê-chi-a biết rõ rằng lâu nay tôi coi sóc cháu như con đẻ của minh, nhưng trong giờ phút này cũng nên chính thức nói với anh đôi lời về vấn đề này. Trong phút chia tay, cần phải nói hết toàn bộ những ý nghĩ của mình, tôi cũng biết là phải làm như thế, nhưng chẳng hiểu sao lúc đó tôi chẳng nói được gì với anh ta cả. Mãi sau này khi đã trở về đến nhà tôi mới cảm thấy ân hận vô cùng.

    Pê-chi-a lại cầm lấy tay tôi và hôn nhẹ lên đó... Chúng tôi ôm nhau và giọng anh khe khẽ vang lên:

    - Chị...

    Tôi tiễn anh đến trước cửa Học viện Ngôn ngữ. Tuy qua một đêm không ngủ, tôi thấy trong người rất mệt, nhưng tôi vẫn cố đi về phố Pê-trô-grát-xcai-a.

    Hôm ấy trời rất oi bức. Lớp nhựa đường mới rải trên đoạn đường gần Rô-xtơ-ran-nai-a Cô-lon-na đã bị chảy ra và hễ giẫm lên là bị lún xuống. Từ trên một chiếc xà-lan chở hàng đậu gần cầu Biếc-gie-vưi thoảng đưa lại mùi hắc ín nhẹ nhõm. Dòng sông Nê-va mênh mông hùng vĩ dường như không phải cuộn chảy mà là đương náo nức ca khúc khải hoàn tiến lên. Chính ngay đoạn sông đẹp đẽ nhất đã tách ra thành hai nhánh Nê-va cũng đẹp đẽ và hùng vĩ như đoạn sông chính. Nghĩ cũng thực là lạ, ngay trong lúc này, ở một nơi cách đây mấy trăm cây số lại có thể có một lũ lính Đức, mồ hôi mồ kê nhễ nhại đương cố dùng sức mạnh dã man của chúng để tiến về phía có những ngôi nhà nguy nga đồ sộ đây của chúng ta, tiến về phía có dòng sông Nê-va đang chìm đắm trong bầu không khí tưng bừng như ngày hội của mùa hè và những vườn hoa xanh tươi mới được sửa sang lại ở giữa trung tâm thành phố giữa cầu Biếc-gie-vưi và Đơ-vo-xô-vưi.

    Nhưng giờ đây xung quanh hãy còn tạm thời yên tĩnh, chìm lắng, một toán trẻ con nô đùa thoải mái trong vườn hoa. Một ông già gác cửa cầm chiếc dây xích trên tay, vừa đi vừa thỉnh thoảng cúi xuống nhặt những mảnh giấy vụn bị các em vứt tung trên con đường hẻm đi vào vườn hoa. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  5. Rafa

    Rafa SV

    Chương 6

    Bây giờ chúng ta đều bình đẳng

    Cũng như trước kia tôi đã nhớ tất cả những lần gặp mặt Xa-nhi-a, giờ đây hình như tôi cũng nhớ mãi từng ngày tháng tôi nhận được thư của anh gửi đến. Tỉ dụ như nếu không tính mảnh giấy nhỏ anh viết để lại gọi tôi là “Pi-ra Pô-lây-kin”, thì bức thư thứ hai tôi nhận được của anh là vào ngày mồng bẩy tháng Tám. Một thời gian dài về sau tôi thường nằm chiêm bao thấy ngày hôm ấy và không hiểu bởi cớ gì toàn thấy những cảnh rùng rợn lo âu, đến nỗi tôi đâm ra cáu bẳn với ngay bản thân mình.

    Tôi không ngủ lại bệnh viện mà hôm nào cũng về nhà. Vì nhà có một mình nên sáng nào tôi cũng dậy sớm và đi gọi bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na. Tôi gặp bà ở giữa sân, có ba chú bé đang đứng trước mặt bà và bà đang dạy chúng cách pha chất màu.

    - Đậm quá hoặc loãng quá cũng đều không tốt, - bà nói. - Tấm bảng đâu rồi? Vô-rô-bi-ốp, không được nghịch kìa. Hãy thử vẽ lên bảng xem nào. Cứ lần lượt từng đứa một.

    Theo quán tính bà nói với tôi cùng bằng cái giọng nghề nghiệp như vậy:

    - Việc sơn màu lên các bộ phận phía trên của các vật kiến trúc là một phương pháp phòng hỏa tốt. Nó sẽ trở thành những nguyên liệu chịu lửa. Tôi đang dạy các em cách sơn.

    - Chị Rô-da-li-a Na-u-mốp-na. - tôi rụt rè hỏi. - Chị chưa về nhà ngay bây giờ à? Lát nữa sẽ có người gọi điện thoại cho tôi đấy.

    Tôi đang chờ điện thoại từ Viện bào tàng Nga gọi đến. Tác phẩm của Pê-chi-a đã gói kỹ mà chẳng hiểu vì sao mãi vẫn không thấy họ cử người đến nhận.

    - Một tiếng đồng hồ nữa tôi sẽ về. Bây giờ tôi phải dẫn các cháu lên gác, chia việc cho chúng xong tôi mới rảnh được. Ca-chi-a, cô xem đấy, tôi có vất vả không nào! Bà khoát tay nói giọng hấp tấp. - Cô có thư đấy, một bức. Tay tôi bây giờ đầy cả nước màu. Cô lấy hộ tôi vậy.

    Tôi thọc tay vào túi áo bà lấy ra một phong thư của Xa-nhi-a vừa gửi tới.

    Như mọi lần, thoạt tiên tôi đọc lướt qua một lượt từ đầu đến cuối bức thư, để nhanh chóng xem Xa-nhi-a có bị chuyện gì không, rồi sau đó thong thả xem lại, đọc kỹ từng chữ một.

    “Em còn nhớ Gri-sa Trô-phi-mốp không? Trong những dòng ở cuối thư, anh viết. - Cậu ấy đã từng cùng anh phun màu xanh Pa-ri xuống mặt hồ. Hôm qua bọn anh đã làm lễ an táng cậu ấy”.

    Khi tôi đến Xa-ra-tôp, Gh-sa Trô-phi-mốp đã đi không còn ở đó nữa, nên tôi không nhớ rõ anh, càng không biết hiện nay anh ấy cùng phục vụ trong cùng một đoàn với Xa-nhi-a. Nhưng hình ảnh của Va-ri-a bất hạnh liền hiện lên trong ký ức của tôi. Bức thư trong tay tôi tuột khỏi tay rơi xuống đất.

    ... Đã đến giờ phải đến bệnh viện, nhưng tôi cứ lê bước đi về nhà, hoàn toàn quên rằng đã giao chìa khóa cửa cho bà Rô-đa-li-a Na-u-mốp-na. Tôi gặp bà “bảo mẫu khoa học" ngay trên cầu thang, bà ta lập tức túm lấy tôi kêu khổ là mãi vẫn không tìm được việc làm. Vì “lương thực thiếu” nên không ai chịu nhận bà vào làm cả. Tôi nghe bà nói, nghĩ bụng: “Va-ri-a ơi, chị thật đáng thương!”

    Trên đường đi đến bệnh viện, tôi lấy thư ra đọc lại một lần nữa. Đột nhiên tôi nhớ ra rằng từ trước đến nay chưa bao giờ Xa-nhi-a viết cho tôi những bức thư loại như thế này. Còn nhớ có một lần ở Cri-mê, khi về mặt anh tái nhợt và có vẻ mệt mỏi. Anh nói vì phải chịu nóng suốt ngày nên đầu rất đau. Ngày hôm sau chị vợ của một phi công hoa tiêu bảo với tôi rằng máy bay của họ bị cháy trong không trung và hai người đã cố lái để hạ cánh an toàn chiếc máy bay chở đầy bom ấy. Tôi liền chạy đi hỏi Xa-nhi-a, anh cười đáp:

    - Em nằm mê đấy à?

    Xa-nhi-a rất yêu tôi. Anh cố hết sức tránh không để tôi phải gánh lấy cái gánh nặng nguy hiểm trong nghề nghiệp của mình một cách có ý thức. Nay anh đột nhiên nói đến sự hy sinh của bạn anh một cách tỉ mỉ và bình tĩnh đến như thế, ngay đến cả ngôi mộ của Tri-phi-mốp cũng được anh tả rất kỹ. Xa-nhi-a mà cũng đi làm cái việc như thế!

    “Bọn anh đem xếp những quả đạn pháo không nổ vào giữa, chung quanh chất đầy những cánh bom trông tựa như một đóa hoa làm bằng sắt”.

    Tôi không biết nghĩ như thế có quá phức tạp không, đã có lần bác I-van Páp-vơ-lứt nói rằng tôi đánh giá Xa-nhi-a quá phức tạp, nói như thế không phải là không có cơ sở. Trong bức thư này không thấy nói rõ, nhưng sau khi đọc xong thì tôi hiểu ý anh muốn nói là: “bây giờ chúng ta bình đẳng rồi”. "Em phải chuẩn bị để đón hết mọi thứ, từ nay về sau anh sẽ không giấu giếm em bất cứ việc gì”.

    Tủ treo áo bơ-lu để ở khoa “Răng Hàm Mặt”, tôi mặc vội chiếc áo rồi vượt qua khoảng sân trống để vào nhà bệnh viện. Chưa bước vào tới phòng của mình, tôi liền nghe thấy tiếng nói của Va-ri-a.

    - Nếu bệnh nhân không biết thì chúng ta phải làm thôi, - chị ta nói giọng giận dữ.

    Chị đang gắt một cô у tá vì cô ấy chưa rửa mồm cho bệnh nhân bằng nước ô-xy già. Giọng nói của chị vẫn kiên quyết và bình thản như ngày hôm qua, hôm kia. Chị vẫn kiên cường, cương trực và có pha mấy phần nam giới. Chị vừa phân phối công việc vừa bước ra ngoài. Tôi nháy mắt chào chị. Chị vẫn là Va-ri-a xưa nay của chúng tôi. Chị còn là ngưòi rất vô tư, đối với chị, việc gì cũng chưa xảy ra cả!

    Tôi đi qua phòng làm việc của Va-ri-a, mắt không dám ngẩng ngước lên, tựa như tôi có tội với chị vậy. Tôi đã phạm sai lầm gì đối vối chị, bản thân tôi cũng không biết nữa.

    Ngày hôm ấy đi qua rất chậm. Thương binh được liên tiếp đưa đến, cuối cùng trong các phòng bệnh nhân hết cả chỗ nằm. Y tá trưởng cử tôi đi xin ý kiến bác sĩ trưởng xem có xếp thêm một số giường ở ngoài hành lang được không.

    Tôi gõ cửa buồng làm việc, lúc đầu gõ nhẹ, sau gõ mạnh dần. Không có ai trả lời. Tôi đẩy hé cửa, nhìn thấy Va-ri-a ở trong phòng.

    Bác sĩ trưởng không có nhà, hình như chị ấy cũng đang tìm bác sĩ. Chị đứng lom khom phía trước cửa sổ, lấy ngón tay lau đi lau lại rất mạnh và đều đều vào tấm kính. Chị không quay người lại, có lẽ chị không nghe bước chân của tôi đi vào và cũng không nhìn thấy tôi đứng ở ngay cửa. Chị bước dọc theo cửa số và mấy lần chị va mạnh đầu vào tường.

    Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy có người húc đầu vào tường như thế. Chị không đập trán vào tường mà đập hai bên đầu vào tường, có lẽ để cho đau hơn. Chị không khóc, trên bộ mặt đờ đẫn của chị lộ rõ vẻ nghiêm túc đặc biệt. Đầu chị rung lên và đột nhiên hai vai rũ xuống, mặt chị áp sát vào tường...

    Thê là chị đã biết tin rồi. Trong cái ngày mệt mỏi và đầy đau buồn này, vì nhân viên công tác không đủ, một số trường hợp phẫu thuật chưa gấp lắm bắt buộc phải hoãn lại. Trong lúc mọi người vô cùng lo lắng vì không có chỗ cho bệnh nhân nằm thì Va-ri-a vẫn làm việc rất hăng hái như chẳng có việc gì xảy ra cả. Chị dạy một người bị thụt lưỡi ở buồng số Một nói chuyện. Chính giũa lúc này chị đã biết được tin. Bởi chuvện khoai tây chưa được gọt sạch và ống nước bị tắc mà bác cấp dưỡng bị chị phê bình rất găng. Lúc này chị đã biết tin rồi, tất cả các phòng bệnh đều có thể nghe rõ giọng nói cáu giận nhưng rất tự tin của chị. Nhưng không có một người nào trên thế giới này có thể đoán biết được rằng chị đã biết được tin gì. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  6. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 7

    Gửi “Ê-ca-tê-ri-na l-va-nốp-na Ta-ta-ri-nô-va Gri-gô-ri-e-va”

    Số lần tôi ngủ lại bệnh viện càng về sau càng nhiều, có khi ở lại một mạch đến hai ba ngày liền và sau cùng tôi ở lại hẳn đấy, chỉ về nhà khi nào bà Rô-đa-li-a Na-u-mốp-na yêu cầu tôi phải về mà thôi.

    - Cô không ở nhà, tôi buồn không thể nào chịu được, Ca-chi-a ạ, - bà nói.

    "Buồn không thể chịu được", câu nói này có nghĩa là bà không biết cách đối phó với bà Béc-ta như thế nào. Vì bà này càng ngày càng tỏ ra nhát gan, càng ít muốn nói năng trò chuyện. Bà không đi làm, suốt ngày nằm trên chiếc ghế đi-văng trong nhà và hầu như là đã tuyệt thực hoàn toàn.

    Hoàn cảnh của bà ta rất gay go nên tôi có khuyên bà "Rô-da-li-a Na-u-mốp-na hãy đưa bà ta ra ngay khỏi Lê-nin-grát. Nhưng Rô-da-li-a Na-u-mốp-na không yên tâm để bà đi một mình và cũng không muốn chính mình đi theo.

    ... Trong phòng yên tĩnh khác thường. Ánh mặt trời chiếu xuyên qua khe cánh cửa sổ hé mớ. Từng luồng ánh sáng rọi chiếu lên các thứ đồ đạc trong nhà và sàn nhà. Tôi ngồi len vào sát bà Béc-ta và bắt đầu suy nghĩ, sau đó bừng tỉnh dậy từ sau những suy nghĩ đau buồn, chúng như muốn kéo tôi ra khỏi căn buồng này. Trong buồng bày biện khá nhiều dụng cụ gia đình, một bà già người gầy yếu mặc bộ quan áo ngủ sạch sẽ đương chăm chú cắt giấy lau bát đĩa, đây là việc mà gần đây bà rất thích làm.

    - Bà cứ như thế này mãi khéo không sẽ bị bệnh thần kinh mất.

    Tôi buột miệng nói câu này ra, bà Béc-ta liền đặt thếp giấy lau bát đĩa trên tay xuống, ngơ ngác nhìn tôi.

    - Ca-chi-a, có người đang chờ cô đấy. - bà ngừng lại một lúc rồi nói.

    - Ai thế ạ?

    - Nào tôi có biết!

    Tôi vội vàng chạy về phòng riêng của mình. Một ông già lạ mặt đang nằm ngủ ngay trong phòng, hai tay đặt trên bụng.

    Tôi nhón gót chân bước trở ra, quay ra chỗ bà Béc-ta.

    - Ông ấy bảo bà là quen cháu không ạ?

    - Rô-da-li-a Na-u-mốp-na có nói chuyện với ông ấy chứ tôi không biết. Có việc gì vậy?

    - Không có gì đâu ạ, chỉ có điều là từ thuở bé đến giờ đây là lần đầu tiên cháu trông thấy ông già này.

    - Cô nói cái gì vậy? - bà Béc-ta hoảng hốt kêu lên. - ông ấy nói rằng là người quen của cô kia mà!

    Tôi khuyên bà yên tâm. Song thực sự là từ xưa đến nay tôi không có một người quen nào có dáng cao lớn, rậm râu và đeo kính kẹp mũi như thế kia. Tôi cảm thấy nực cưòi. Làm sao lại có thế có một việc lạ lùng như thế này được nhỉ? Quân phục và mặt nạ của ông khách được treo trên lưng ghế. Ông ta có vẻ là một lính thủy.

    Cuối cùng ông khách đã tỉnh giấc. Ông ta vừa ngáp dài vừa ngồi bật dậy, ông ta mò mẫm xung quanh để tìm chiếc kính cận. Tôi ho lên một tiếng khiến ông giật nảy người.

    - Chị là Ê-ca-tê-ri-na I-va-nốp-na có phải không?

    - Vâng ạ.

    - Chị Ca-chi-a này, - ông ta nói giọng từ tốn. - Thực chẳng còn hiểu ra làm sao nữa, tôi vừa vào đến nơi là ngủ say.

    Tôi mỏ to hai mắt nhìn ông ta.

    - Cố nhiên là cô rất khó nhận ra tôi. Nhưng đối với Xa-nhi-a của cô là chỗ quen thuộc cũ... Trời, đã bao nhiêu năm rồi nhỉ?

    Ông ta lẩm bẩm tính.

    - Hai mươi nhăm năm rồi còn gì. Trời, hai mươi nhăm năm ròng, không hơn không kém.

    - Bác I-van I-va-nứt có phải không ạ?

    - Chính tôi đây.

    Đó chính là bác sĩ I-van I-va-nứt. Tôi đã nghe Xa-nhi-a nhắc đến tên bác có đến hàng nghìn lần. Bác là người dạy Xa-nhi-a nói những tiếng đầu tiên rất buồn cười: “A-bram, gà, hòm”. Bác đã từng cùng Xa-nhi-a đáp máy bay đến Vô-nô-can, giữa dưòng gặp bão tuyết kéo dài ròng rã ba ngày ba đêm. Hai người không có cách nào khác ngoài cách ngồi chờ chết, nếu không nhờ nghị lực đặc biệt kiên cường của bác sĩ thì chắc chắn tai nạn đã xảy ra rồi. Tôi có cảm giác rằng mỗi khi kể về bác sĩ, giọng nói và cử chỉ của anh đều trở nên rất ngây thơ, bé bỏng. Anh có vẻ như kể một mẩu chuyện thần thoại lạ lùng. Quả thật, nom ông rất giống bác sĩ Ai-bô-lít, có một bộ mặt đỏ hồng đầy vết nhăn, một chiếc mũi to cùng chiếc kính kẹp mũi, một đôi tay thô dài và khi ông nói, có vẻ như muốn ném một vật gì đó vào mặt người nghe.

    - Cháu đang vắt óc để nhớ lại xem bác là ai. Xin bác sĩ cho biết là bác từ đâu đến, có phải từ xa không?

    - Không, không xa lắm đâu. Tôi ở vĩ độ 69.

    - Bác ở trong hải quân phải không?

    - Tôi là người lính thủy Hồng hải, vừa xinh đẹp vừa trẻ trung(1), - bác sĩ nói. - Tôi sẽ kể cho cô nghe tất cả ngay bây giờ. Hãy cho tôi một cốc nước chè đã chứ!

    Ông ta ghé bộ mặt đầy râu lại hôn lên mặt tôi. Tôi chạy đi đun nước chè rồi trở lại nói với ông rằng cho đến bây giờ Xa-nhi-a vẫn đem theo mình chiếc ống nghe bằng gỗ mà hồi xưa ông đã bỏ quên trong một ngôi nhà nhỏ hầu như đã bị tuyết lấp kín ở một làng quê hẻo lánh ở En-xcơ.

    Ông cười vang lên. Mấy phút sau chúng tôi ngồi cạnh nhau và bắt đầu nói chuyện, thân mật như đã từng quen biết nhau cách đây hàng nghìn năm. Sự thực cũng đúng như thế, tuy không lâu đến hàng nghìn năm song cũng đã từ lâu lắm, tôi như đã quen biết ông ngay sau lần đầu tiên Xa-nhi-a nói về ông.

    Việc bác sĩ ra phục vụ ở hạm đội là việc mới xảy ra đây, từ sau ngày nổ ra chiến tranh. Đó là ý nguyện của bác sĩ. Mặc cho khu tự trị của dân tộc Nê-nét không đồng ý, một cán bộ tên là Lét-cốp nói chuyện với ông suốt một buổi tối, khuyên ông hãy lưu lại vì tuổi già. Nhưng ông vẫn nhất quyết giữ ý kiến của mình. Con trai bác sĩ tên là Vô-lô-đi-a hiện đang tham gia chiến đấu trong các đơn vị ở mặt trận Lê-nin-grát. Bác sĩ cho rằng cần phải trực tiếp tham gia chiến đấu chứ không nên ngồi lại ở một nơi cách mặt trận hàng mười vạn tám ngàn dặm. Sau đó ít lâu ông được điều đến công tác lại các đơn vị tàu ngầm ở thành phố Bắc cực. Đây là thành phố Pô-li-a-rơ-nô-e chứ không phải là thành phô Da-pô-li-a-ri-e. Đấy là một thành phố quân sự ở eo biển Côn-xki cách Da-pô-li-a-ri-e hai nghìn cây số. Các phi công hải quân ở thành phố Pô-li-a-rơ-nô-e nói với ông rằng Xa-nhi-a phục vụ trong đơn vị không quân bay đường dài, thường bay đến Kê- ních-xbéc, và còn nghe nói rằng một trung đoàn của đơn vị này sẽ được bay lên phương bắc.

    - Tại sao lại bay đến Kê-ních-xbéc ạ? Cháu chẳng hay biết gì cả.

    - Đấy cô xem, - bác sĩ nói giọng không hài lòng. - Nếu cô không biết thì còn ai biết nữa?

    - Biết từ nguồn tin nào ạ? Viết thư cho cháu, không bao giờ Xa-nhi-a cho biết những tin ấy.

    - Thôi cứ cho là như thế, - bác sĩ đồng tình. - Nhưng dẫu sao cũng cần phải biết, cần phải biết.

    Tôi bưng nước chè lên, ông uống một hơi cạn cốc rồi nói: “Khá lắm!”

    - Hiện nay ở ngoài mặt trận rất gian khổ, - ông nói, - Tôi có gặp Vô-lô-di-a, anh ta cũng nói là rất gian khổ. Ngay ở vùng ngoại vi Lê-nin-grát của chúng ta đây, tình hình cũng khá căng thẳng. Xin lỗi, tôi có mang đến cho cô một bức thư đây.

    - Thưa bác, của ai thế ạ?

    - Của một người bạn cũ. - bác sĩ nói giọng đầy vẻ bí mật, vừa loay hoay tìm chiếc mặt nạ, trong lúc chiếc mặt nạ treo ngay trước mặt ông. - Anh ta ở cùng một đơn vị với Vô-lô-đi-a. Chính anh ta cho tôi biết cô đang ở Lê-nin-grát. Khi tôi sắp đi anh ta có nhờ cầm theo một bức thư.

    Trên phong bì bức thư viết: “Gửi Ê-ca-tê-ri-na I-va-nốp-na Ta-ta-ri-nô-va Gri-gô-ri-e-va” cùng với địa chỉ tỉ mỉ. Đề phòng khi bác sĩ không tìm gặp được tôi ở nhà, trên phong bì còn ghi cả địa chỉ của bệnh viện, nét bút rõ ràng, sắc nhọn và có phần là lạ. Tôi hồi hộp đọc kỹ phong bì. Không, đây là của người quen. Đó là bức thư của Rô-ma-sốp.

    - Thế nào? - bác sĩ hỏi giọng trịnh trọng. - Đã nhận được ra chưa đấy?

    - Nhận ra rồi ạ, - tôi quẳng bức thư ra bàn. - Bác quen anh này à?

    - Chúng tôi mới quen nhau ở chỗ Vô-lô-đi-a. Anh ấy là một con người rất tốt. Anh ta đang phụ trách công tác hành chính kinh tế. Vô-lô-đi-a nói rằng đơn vị không có anh ấy thì chẳng khác nào cụt mất tay. Một con người rất đáng yêu. Rất tiếc là phải xa nhau.

    Tôi đối đáp mấy câu cho qua chuyện.

    - Đúng, anh ta thật đáng yêu, - bác sĩ nói tiếp. - Quả là có lúc anh ta uống rựợu chút ít.

    - Cũng lạ. Không biết anh ấy làm sao biết được địa chỉ của cháu? Sao anh ấy biết hiện nay cháu đang ở Lê-nin-grát?

    - Sao lại thế? Lẽ nào anh ấy chưa đến đây bao giờ sao?

    Tôi lặng im.

    - Ừ..., - bác sĩ nhìn tôi chăm chăm qua phía trên của cặp kính kẹp mũi rồi nói tiếp: - tôi tưởng anh ấy là bạn của cô. Anh ấy kể cho tôi nghe cả quá trình sống trước đây của cô, nhất là những năm gần đây. Những điều này tôi lại biết rất ít.

    - Bác sĩ ạ, anh ta là một con người rất đáng sợ.

    - Ra là như vậy đấy!

    - Thôi cứ mặc xác anh ta. Bác uống nước chè nữa không?

    Bác sĩ lại uống hết một cốc nữa, cũng uống từng hớp một. Sau đó bác sĩ rút ra từng thỏi sô-cô-la và ca-cao mời tôi ăn.

    - Thực là lạ, - ông trầm ngâm nói. - Thế nào, cô không định đọc bức thư này hay sao?

    - Không, cháu sẽ đọc.

    Tôi bóc phong thư.

    "Ca-chi-a, mong Ca-chí-a hãy rời khỏi Lê-nin-grát ngay, - anh ta viết chữ rất to, rất ngoáy. - Tôi cầu xin Ca-chi-a. Lúc này một phút cũng không được chần chừ. Tôi không thể nói hết những điều tôi biết được với Ca-chi-a. Cầu mong tình yêu của tôi che chở được Ca-chi-a thân yêu của tôi! Ấy Ca-chi-a xem, tôi lại ăn nói lung tung rồi. Nếu không vì cảnh sống cô đơn hiện nay của Ca-chi-a ở Lê-nin-grát làm cho đau lòng thì tôi không sao dám viết bức thư này. Đến Tích-vin có thể đi ô-tô. Nhưng nếu tàu hỏa còn chạy thì nên đi tàu hỏa hơn. Ôi lạy chúa, không biết rồi tôi có còn dịp gặp lại Ca-chi-a nữa không. Ca-chi-a thân yêu, Ca-chi-a là niềm hạnh phúc, là sức sống của tôi..." :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  7. Rafa

    Rafa SV

    Chương 8

    Đây là thành tích của bác sĩ

    Buổi tối nào chúng tôi cũng tụ họp tại phố Pê-trô-grát-xki. Có một lần tôi mời chị Va-ri-a Trô-phi-mô-va đến dự. Trong cuộc họp này, lần đầu tiên chị nói chuyện với bác sĩ về chồng chị. Bác sĩ hỏi một số câu đơn giản, chị trả lời từng câu một. Lúc này có thể thấy rõ rằng cái chết của chồng chị là quá ư lớn lao đối với chị và việc che giấu nỗi đau khổ lớn lao ấy là điều hết sức khó khăn. Ngày hôm sau chị đem tất cả thư và ảnh của chồng đến. Chúng tôi nhớ lại chuyến đi đến Xa-ra-tốp mà không cầm được nước mắt. Chuyện ấy như đã lùi vào dĩ vãng xa xăm. Từ cái hồi chúng tôi còn là những cô gái ngây thơ. Khi tôi tiễn chị ra về. đôi mắt chị đã ráo hoảnh, trong lòng dường như đã thanh thản chút ít.
    Đó là thành tích của bác sĩ.
    Trong tuần lễ ông ở lại nhà chúng tôi. tình hình ở mặt trận Lê-nin-grát trở nên căng thẳng. Bọn Đức đưa đến nhiều lính mới. bắt đầu từ mờ sáng đã phải xuống hầm trú ẩn vì có báo động. Dạo này tôi ngủ rất kém. lúc nào cũng canh cánh lo cho Xa-nhi-a. Một lần tôi vừa nằm xuống giường chưa kịp thay quần áo thì bác sĩ gõ cửa rồi bước vào. Ông nhét một con gấu trắng bé tí vào tay tôi.
    - Đây là tác phẩm của Pan-cốp, - ông nói. - Pan-cốp là một người làm đồ mỹ nghệ nổi tiếng của dân tộc Nê-nét. Cô hãy giữ lấy làm kỷ niệm. Con gấu trắng này là của bác sĩ I-van I-va-nứt tặng cô, nó sẽ nói với cô rằng Xa-nhi-a sẽ trở về.
    Đương nhiên đó chỉ là những lời nói không có căn cứ. Song lúc này, giữa lúc trong lòng đang rối bời, tôi cầm lấy con gấu và cảm thấy đó là những lời an ủi sâu sắc. Thỉnh thoảng tôi lại lấy nó từ trong xắc ra xem và thật tình mà nói tôi cũng thấy người vui vẻ. nhẹ nhõm hơn nhiều.
    Sáng nào cũng nghe bác sĩ hát hoặc ngâm mấy câu thơ quen thuộc, có lẽ đó là sáng tác của ông. Sau đó ông đi tắm rất lâu. Ông nói rằng giữa cuộc oanh tạc của giặc Đức với cuộc đi tắm của ông như có một mối liên quan thần bí, hễ ông vừa vào nhà tắm là у như còi báo động phòng không lại rú lên. Những trường hợp như thế đã xảy ra khá nhiều lần. Khi ông đến ăn sáng, bộ râu nom rất dễ có cảm tình của ông vẫn còn ướt sũng. Việc đầu tiên của ông là ném cho tôi chiếc ghế, thế là tôi bắt buộc phải bắt lấy chân ghế và ném trả lại cho ông. Ông là người rất hài hước. Ông thích làm cho người khác ngạc nhiên.
    Thật vậy, tuần lễ ông bác sĩ ở lại nhà chúng tôi thực đẹp vô cùng, nó tựa như trong một đêm giông tố mịt mù, chợt nghe thấy một giọng nói hiền hòa cất lên.
    Nhưng phút chia tay đã đến. Ông thu dọn các thứ vào ba-lô. Ông buộc chật số sách vừa mua được ở Lê-nin-grát.
    Tôi tiễn ông đi...
    Tưởng như chưa bao giờ người trên phố Nép-xki lại đông đến như thế. Các bà đẩy những chiếc xe con. trên đó chất đầy những túi, những hòm xiểng, chậu giặt quần áo... luôn luôn quay đầu lại nhìn đàn con mệt mỏi, bản thỉu đang lẽo đẽo chạy theo sau. Những cụ già da rám rắng, từ nông thôn lên đi len vào giữa dòng người đông đúc. Họ là những người ở thị trấn Côn-pin, ở làng “Nhi đồng”... Dân ngoại ô đang ồ ạt chen chúc nhau kéo vào thành phố.
    Chúng tôi đi liền hai tiếng đồng hồ mới ra đến ga xe lửa đi Mát-xcơ-va. Tôi không để bác sĩ xách hành lý đi qua quảng trường. Tôi xách một số hành lý của ông đi dọc theo phố Nép-xki cũ và dừng lại ở góc phố để đổi tay. I-van I-va-nứt vượt lên phía trước. Đằng trước sân ga không một bóng người, tôi cảm thấy hết sức lạ lùng.
    “Có lẽ lên tàu ở ga Li-gốp-ca”. - tôi suy nghĩ và thốt lên.
    Thực là lạ. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ cái giờ phút xảy ra lúc ấy: trong phút chốc, ánh mặt trời rọi chiếu chan hòa xuống quảng trường Khởi Nghĩa, ông bác sĩ với dáng hình cao lớn, mặc quân phục hải quân, đang dấn từng bước một lên bậc tam cấp. Cái bóng đen, gẫy khúc do các bậc tam cấp tạo nên theo bước chân của ông cũng lên cao dần. Phía cửa nhà ga đằng kia tịnh không một bóng người, gây một nỗi xao xuyến trong lòng người...
    Cánh cửa nhà ga đóng im ỉm. Bác sĩ gõ cửa. Một bà béo phì đầu đội mũ cát-két của ngành đường sắt thò đầu ra ngoài, không biết nói với ông những gì. Ông đứng im một hồi lâu rồi uể oải bước lại phía tôi. Nét mặt ông rất nghiêm nghị.
    - Này, Ca-chi-a. hãy mang hành lý lại đằng này. - ông nói to.
    - Đành về thôi. Đoạn đường sắt cuối cùng đã bị cắt đứt rồi. Tàu hỏa không chạy được' nữa...
    Mấy hôm sau. bác sĩ đáp máy bay ra đi.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  8. Rafa

    Rafa SV

    Chương 9

    Rút lui

    Người tài xế của chúng tôi lần đầu tiên lái xe trên đoạn đường này của mặt trận. Chúng tôi phải dừng lại nhiều lần ở những chỗ đường rẽ để xem bản đồ. Chúng tôi đã đi được hơn một tiếng đồng hồ. Điều khiến tôi ngạc nhiên là quân Đức hãy còn cách khá xa Lê-nin-grát. Đằng sau Ô-ra-ni-en-ba-um, đoạn giữa Gốt-ti-lít và Cô-po-ri là một đoạn nhô hẳn ra ngoài, hải quân dùng hỏa lực của pháo tầm xa để khống chế đoạn này.
    Chúng tôi cho ô-tô chạy về hướng sư đoàn tự vệ thành, tôi hết sức để ý tìm kiếm Pê-chi-a vì anh ấy có mặt ngay trong sư đoàn này, thậm chí tôi còn biết cả tên của đồng chí chính ủy trung đoàn.
    ... Một chiếc ô-tô lớn kéo một khẩu pháo bị hỏng chạy ngược về phía chúng tôi. Hàng đoàn ô-tô nối đuôi nhau chạy trên con đường lớn, trống trải và đầy bụi. Cô cứu thương tên là Pi-ni-a dáng người thấp bé nhưng chắc nịch, đôi má bầu bĩnh như trẻ con nói với tôi trên một đoạn đường ở phía trước hai bên đang bắn nhau dữ dội. Cô gái quấn chiếc đuôi sam lên đầu. Mỗi khi ô-tô bị xóc mạnh cô đều cười phá lên.
    Chúng tôi đã vượt qua khu vực bị bắn phá, thỉnh thoảng một vài quả đạn đại bác của bọn Đức bắn tới nổ ở phía sau ô-tô. Tôi mở cửa sau ra nhìn, thấy những cột khói và bụi đất đang bốc lên cao. Chúng tôi mở hết tốc lực lao vào làng. Người lái xe phanh xe lại, ngoái đầu ra ngoài nhìn cái chắn bùn bị mảnh đạn làm hư hỏng, chửi um lên. Tôi cùng với Pa-ni-a lợi dụng thời cơ này chạy đi tìm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn cứu thương.
    Đây là một làng rất bình thường, cảnh vật xung quanh cũng hết sức bình dị: những dãy hàng rào kết bằng cành liễu, những hàng cây vừa nảy lộc, những chiếc lò xây ở góc sân, những nhà kho chứa ngũ cốc dùng dây thừng buộc cửa... Bên trong luôn luôn gây một cảm giác yên tĩnh và sặc mùi cỏ khô. Bộ tư lệnh sư đoàn đóng ngay ở đây, cách tiền duyên khoảng hai ba cây số. Một chị cứu thương mặc quần dài, đeo súng lục kiểu Na-gan, chỉ dãy rừng thưa ở phía bên kia cánh đồng cỏ nói với tôi: “chúng nó ở đằng ấy đấy, ngay trong khu rừng thưa kia”. Đằng sau cánh rừng thưa là cánh rừng bạch dương loang loáng ánh mặt trời.
    Lệnh trên quy định trời vừa tối là bắt đầu chuyển thương binh. Vì vậy hễ có giờ rảnh là tôi tranh thủ đi tìm Pê-chi-a ngay. Tôi hỏi thăm khắp lượt các thương binh, hộ lý, liên lạc của chính ủy sư đoàn. Người ta nói với tôi rằng anh liên lạc này quen tất cả các sĩ quan. Vị chính ủy của trung đoàn Pê-chi-a, chính người mà tôi đã biết tên, hôm qua đã hy sinh mất rồi. Bộ chính trị mặt trận vừa cho tôi biết tin này.
    - Xcoóc-ni-a-cốp cũng hy sinh rồi, - một sĩ quan chính trị cấp tá của bộ chính trị có thân hình to khỏe nói với tôi.
    Tôi tìm được vị sĩ quan này trong lúc ông ta đang ăn cơm trưa. Có lẽ vì thấy mặt tôi tái đi vì quá sợ hãi, ông phải ngừng ăn món xúp, nhìn ra xung quanh rồi hỏi một sĩ quan đang trùm áo khoác nằm trên chiếc ghế dài.
    - Ru-ben, Xcoóc-ni-a-cốp hy sinh rồi à?
    Người sĩ quan trùm áo khoác trả lời là đã hy sinh rồi.
    - Xcô-vô-rốt-ni-cốp, - tôi nói chữa lại, giọng lạc đi. - Sao lại Xcoóc-ni-a-cốp? Thiếu úy Xcô-vô-rốt-ni-cốp!
    - Xcô-vô-rốt-ni-cốp à? Tôi không quen một người nào như thế cả. Chị ăn cơm chưa?
    - Cám ơn, ăn rồi ạ.
    Khi tôi từ trụ sở Ban chính trị đi ra, hai chân run lập cập.
    Một chiếc máy bay quần đảo trên bầu trời làng. Các cô cứu thương từ sân sau vội vàng chạy ra, hét thất thanh: “Ma-ru-xi-a ơi, có máy bay đấy!” Đạn bắn xuống đường phố mỗi lúc một dày. Bây giờ có thể thấy rõ rằng giặc Đức không phải chỉ đánh vào trận địa pháo binh mà đánh cả vào làng mạc. Bộ đội của chúng ta đang rút lui. Khắp các thôn xóm tràn ngập những người mặc quân phục dính đầy bùn đất, sau đó một lúc lại kéo đi hết. Một em bé có đôi lông mày xếch, môi mím chặt, mũi cao chạy vào trụ sở của tiểu đoàn cứu thương, xin nước uống. Pa-ni-a đưa nước cho em uống, tôi nhìn em uống nước bằng một thứ tình cảm hết sức mãnh liệt, thuần khiết và mặn mà. Cái yết hầu của em cứ lên lên xuống xuống, em vừa uống vừa đưa mắt nhìn ra đoạn đường bộ đội đang rút lui với ánh mắt giận dữ.
    Chúng tôi xuất phát vào lúc chín giờ. Cả tiểu đoàn cứu thương cũng cùng rút với chúng tôi. Những cánh rừng bạch dương mới đây còn xanh tốt, óng ánh dưới ánh mặt trời, giờ đây đang bốc cháy. Những cột khói đen sẫm bị gió cuốn đang xô phủ về phía chúng tôi. Như thế càng hay, chúng tôi lợi dụng màn khói vượt qua cổng làng đang bắn nhau một cách dễ dàng. Bây già người ngồi trên xe chật ních nên chạy có vẻ đằm hơn trước, nhưng mỗi khi gặp ổ ga, ô-tô xóc mạnh là lại vang lên những tiếng rên khe khẽ. Tôi và Pa-ni a lo chăm sóc thương binh, sợ đầu họ bị chạm vào thùng xe, nên hai người mệt nhoài.
    Hôm ấy là ngày mồng tám tháng Chín, ngày giặc Đức chuẩn bị mở cuộc tấn công quyết liệt. Chúng cho máy bay mở đợt oanh tạc đầu tiên xuống Lê-nin-grát. Những ngọn lửa hung dữ cứ như muốn trùm xuống ô-tô. Ô-tô của chúng tôi tiến ra đại lộ Quốc Tế, nhìn lại thấy hình như cả thành phố bị chìm trong biển lửa. Các thương binh bàn luận xôn xao. Qua ánh phản chiếu hồng rực, tôi nhìn thấy một anh lính thủy vai rộng, đầu quấn băng trắng xóa đang mệt nhọc bước tới.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  9. Rafa

    Rafa SV

    Chương 10

    Cuộc Sống đương đi lên

    Những tấm lá chắn bằng gỗ trước cửa sổ những cửa hàng đã cũ nát, có nhiều vết nứt, lớp sơn đã tróc gần hết. Trong các hầm hào của công viên và vườn hoa đều mọc đầy cỏ dại. Do báo động liên miên, cửa sổ các nhà vừa mở ra đã phải đóng lại ngay, nên hầu hết các nhà đều đóng kín cửa suốt ngày, không có lấy một chút ánh sáng mặt trời. Một số “chiến hào” mà hồi tháng Bảy tôi đã có dịp đi qua, giờ đây đã biến thành những điểm hỏa lực tạm thời khá kiên cố và vững mạnh. Các điểm hỏa lực này được xây dựng bằng khung sắt chế tạo sẵn từ nhà máy đưa ra.
    Hình như trong suốt cả đời mình, chưa bao giờ tôi làm việc căng thẳng như mùa thu năm ấy ở Lê-nin-grát. Tôi vừa theo học lớp hàm thụ của Hội chữ thập đỏ Nga, vừa phải thường xuyên đi ra mặt trận. Vì tôi đã nhiều lần vượt qua bom đạn ác liệt để cứu thương binh nên được khen thưởng.
    Đã lâu tôi chẳng nhận được thư từ gì, đành thỉnh thoảng lấy con gấu trắng bằng đá ra để tự an ủi. Không nhận được thư Xa-nhi-a, tôi đành phải đi làm một việc hết sức vô ích là tìm tên Xa- nhi-a trong danh sách những phi công được tuyên dương công trạng qua các cuộc ném bom Béc-lanh, Ke-ních-xbéc, Plô-ét-sti.
    Tôi làm việc với một tốc độ phi thường, như đoàn tàu hỏa lao nhanh về phía trước, bất chấp cả đèn tín hiệu, đến những ngọn gió rét buốt của đêm thu cũng phải né tránh sang một bên.
    Một ngày như thế cuối cùng đã đến, đoàn tàu ầm ầm lướt qua, để lại một mình tôi nằm dưới vệ đường, vừa cô đơn, vừa mệt mỏi vô vàn.
    Không hiểu vì sao từ nhỏ tôi đã ngượng khi phải kể lại những cảnh xảy ra trong giấc chiêm bao. Tôi chừng như đã gửi gắm tất cả những điều bí ẩn trong lòng cho chính mình. Nếu tôi đem những chuyện mà trên thế giới này chỉ có một mình tôi biết kể ra thì khác nào tôi đã làm lộ hết những bí mật của mình. Nhưng tôi sẽ xin kể giấc chiêm bao này.
    Sau giờ trực ban tôi lưu lại bệnh viện và chợp mắt được chừng mười phút, nằm mê thấy mình ngồi trước cửa sổ học tiếng Tây Ban Nha. Hồi còn ở Cri-mê, vì tôi bỏ dở lớp học ngoại ngữ mà đã từng bị Xa-nhi-a giận dỗi, nên bây giờ tôi lại tiếp tục học tiếng Tây Ban Nha. Chẳng lẽ bên ngoài cửa sổ kia là Cri-mê ư? Ngoài đó còn giống như ở thiên đường, những cành mận trĩu quả, những quả đào trơn bóng, vàng hườm, óng ánh như sắp sửa bị ánh mặt trời làm cho chảy ra, khắp nơi rực rỡ màu hoa: cây thuốc lá, cây hoa thập tự, cây hoa hồng. Thực sự là nơi trăm hoa đua nở. Giữa lúc im ắng, tịch mịch bỗng vang lên một tiếng nổ đinh tai, tiếng cánh quạt chạy ào ạt, thực là khủng khiếp. Tôi quăng sách, nhảy qua bàn, vượt qua cửa sổ, chạy thẳng ra vườn hoa. Có việc gì thế nhỉ? Không biết là diều hâu hay là quạ, chỉ thấy một con chim rất lớn có mỏ quặp đang đỗ trên cành cây ngô đồng nước Pháp, dang đôi cánh nhọn. Con chim lớn này quắp trong cái mỏ nhọn hoắt của nó một con chim ưng non. Con chim ưng bị quắp chặt không thể kêu được nữa, chỉ còn biết dùng đôi mắt như mắt người nhìn tôi cầu cứu. Tôi cảm thấy trái tim tôi thắt lại, tôi gào thét và muốn tìm một cây gậy, nhưng con chim diều hâu đã thong thả rời khỏi cành bay từ từ lên cao.
    - Như thế đấy, bác Lu-ke-ri-a I-li-nít-sna ạ, bác hãy giải thích cơn mê này xem, - tôi nói với một bà giúp việc đã có tuổi và thường làm cho tôi nhớ tới dì Đa-sa.
    - Chồng cô sắp về rồi đấy.
    - Tại sao thế ạ? Chẳng phải con chim đã bay mất rồi sao? Mà nó còn quắp cả con chim ưng non bay đi nữa.
    Bà có vẻ suy nghĩ.
    - Nói gì thì nói, anh ấy cũng sắp về rồi đấy.
    Cả ngày hôm đó tôi không tài nào thoát ra khỏi ảnh hưởng của giấc chiêm bao đáng sợ và hoang đường ấy. Buổi tối tôi hẹn chị Va-ri-a đến ngủ với tôi.
    Như mọi ngày, bắt đầu từ bảy giờ rưỡi là có báo động phòng không. Khi báo động lần thứ nhất, mặc dù bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na gọi điện thoại đến lấy danh nghĩa là đội bảo vệ ra lệnh cho chúng tôi xuống hầm, nhưng chúng tôi vẫn ngồi nguyên trong nhà. Lần báo động thứ hai chúng tôi vẫn ngồi trong nhà. Tôi vốn không chịu được không khí ẩm ướt và ngột ngạt trong hầm.
    Lần báo động thứ ba bắt đầu. Bom rơi khá gần. Nhà cửa bị rung lên dữ dội, cứ như bước lên rồi lại lùi lại. Nồi niêu trong chạn bếp đều rơi lông lốc xuống sàn nhà. Va-ri-a mặc cho tôi phản đối, vẫn cố lôi tuột tôi xuống. Nhiều phụ nữ đứng ở cửa hầm tối mịt, bàn tán xôn xao. Tôi nhận ra tiếng nói quen thuộc của bà vợ bác quét sân người tác-ta, tên bà là Guyn I-giơ-béc-đe-e-va nhưng không hiểu vì lẽ gì tất cả mọi người trong nhà đều gọi bà là Ma-sa.
    - Nhà số chín bị trúng bom rồi, - bà nói. - Tan tành hết cả rồi! Ông quản lý đương phân công người đi đào bới!...
    “Nhà số chín!” đó là ngôi nhà mà cửa hàng thực phẩm đang bán ở đấy.
    - Mọi người hãy cầm lấy cuốc xẻng, đi mau! Tất cả đều phải đi! Ai không có thì vào kho lĩnh ngay. Nhanh lên các bà ơi! Nhanh lên...!
    Trong bóng tối, bà cầm chiếc xẻng gõ toáng lên. Bà ấn cho tôi một chiếc, sau đó đưa cho Va-ri-a một chiếc khác. Trước đây khi khoa Thần kinh trong bệnh viện của trường Đại học Quân у bị đánh phá, tôi đã được huy động đi đào bới một lần. Toán phụ nữ đứng trước cửa hầm bàn tán một lúc rồi kéo nhau đi, chúng tôi liền đi theo họ.
    Đêm hôm nay trời rất đẹp, như người Lê-nin-grát nói là đêm trong trẻo rất “thích hợp cho các cuộc oanh kích từ trên không”. Vừng trăng tròn vành vạnh như một quả bóng phòng không màu vàng treo lơ lửng trên bầu trời thành phố. Nước bắt đầu đóng băng, không khí trong lành, dễ chịu vô cùng. Lúc này mà được đi tản bộ: được cùng bạn thân ngồi tâm sự bên bờ sông cùng choàng một chiếc áo mưa và nghe tiếng sóng vỗ vào bờ đá dưới chân thì còn gì thích thú bằng!
    Nhưng chúng tôi lại phải vác cuốc, xẻng, lặng lẽ tiến về phía những ngôi nhà bị đổ nát mà đào bới cứu người bị sập.
    Ngôi nhà “số chín” bị xẻ ra làm đôi. Quả bom đã xuyên suốt ngôi nhà đồ sộ năm tầng. Trong bóng tối, ngay trong đống vôi gạch tan hoang, hiện ra một góc sân kiểu Lê-nin-grát với những bóng gãy khúc rất lạ kỳ. Ngôi nhà đổ về phía trước, làm tắc cả đường. Trong đống gạch vụn và dụng cụ gia đình ngổn ngang, hiện lên một mảnh ván bị vỡ ra của chiếc đàn dương cầm. Có thể nhìn thấy chiếc tủ đựng thức ăn chỏng chơ trên gác ba cùng chiếc áo ba-đừ-xuy và chiếc mũ đàn bà còn treo trên tường.
    Ớ đây cũng vắng lặng như khu bệnh viện bị bom hôm nọ. Mọi ngưòi lặng lẽ và bình tĩnh tiến đến gần ngôi nhà bị bom. Chợt một người phụ nữ kêu rú lên một tiếng, rồi ngã xỉu xuống. Mấy người khiêng chị ra ngoài và sự yên lặng lại trở lại như trước. Một ông già bị tử thương nằm sõng soài bên đường. Ông mặc chiếc áo trắng dính đầy vôi bụi. Chiếc áo ba-đờ-xuy văng lên vỉa hè. Mọi người khi đi qua bên cạnh xác ông đều cúi xuống nhìn mặt rồi đi tránh sang một bên.
    Căn nhà hầm sũng nước. Trước hết phải nghĩ cách tát nước ra ngoài. Đồng chí trung sĩ công an, người gầy gò và khéo léo chịu trách nhiệm phân phối công tác cứu sập cử tôi và Va-ri-a đi bơm nước.
    Mặt đất dưới chân chúng tôi rung lên rồi lại im lặng. Trên đầu chúng tôi, pháo tín hiệu màu vàng nối tiếp nhau bay lên. Những luồng ánh sáng cực mạnh của đèn phòng không đan chéo nhau trên bầu trời, lúc co lại, lúc vươn dài ra. Tôi nhận ra một chiếc máy bay nhỏ xíu qua điểm giao nhau của hai luồng ánh sáng ấy.
    Pháo cao xạ bắt đầu lên tiếng. Lúc đầu còn xa. Sau cứ gần lại dần. Tựa như có một người khổng lồ bước qua khu phố, cứ mỗi phút lại bắn lên không trung hàng ngàn phát súng lục. Tôi vừa đào bới vừa ngước đầu lên nhìn bầu trời và không khỏi ngạc nhiên trước một cảnh tượng đầy sự so sánh: một bên là cảnh rọi chiếu loạn xạ của ánh đèn pha, một bên là cảnh ánh trăng chan hòa tràn ngập khắp mọi nơi. Tiếng súng máy nổ giòn từng tràng ngắn, pháo tín hiệu đủ màu sắc bay nhằng nhịt trong không trung. Bức tranh chiến tranh này vừa sợ lại vừa thanh lịch làm sao!
    Chiếc xe cứu thương đỗ bên cạnh sợi dây đội cảnh sát căng để ngăn cách khu nhà bị đánh phá. Mọi công tác cấp cứu được tiến hành khẩn trương. Tiếng ồn ào huyên náo, tiếng nói chuyện râm ran vọng lên từ dưới căn nhà hầm. Những người từ dưới căn nhà hầm đi ra mặt mày trắng nhợt, ướt sũng đến tận thắt lưng. Xem ra thì số người bị hy sinh không nhiều lắm.
    Mặt chị Va-ri-a đỏ hồng, trông đẹp hẳn ra. Chị bận bịu tíu tít, vừa lục lọi tìm từ trong đống gạch vụn ra những mảnh chăn gối, sắp xếp cho những người bị thương được lần lượt đưa đến trạm điều trị, tiến hành hô hấp nhân tạo cho một số người, đồng thời giao việc cho các cô cứu thương. Hai bác sĩ được xe chữ thập đỏ đưa đến phục tùng từng mệnh lệnh của chị, chạy đi chạy lại luôn chân.
    Chị vén cao váy, đi xuống nhà hầm cõng một người bị ướt sũng ra ngoài. Một anh cảnh sát người bé nhỏ vội vàng chạy lại giúp chị. Mấy cô cứu thương mang cáng lại ngay.
    - Đặt lên cáng ! - Chị ra lệnh.
    Đấy là một chiến sĩ hồng quân, hoặc một sĩ quan gì đó. Anh ta mặc bộ quân phục bị nước ngấm ướt làm cho đen sẫm, đầu không đội mũ. Mọi người khiêng anh đặt lên cáng. Đầu anh gục xuống ngực. Va-ri-a nâng cằm anh lên, cái đầu lại ngửa ra sau, có vẻ lỏng lẻo như con búp-bê. Trên bộ mặt có vầng trán bị những mớ tóc vàng hoe che kín của anh, tôi chợt nhận ra một nét gì đó khá quen thuộc. Trong mấy phút đồng hồ, tôi vừa làm việc vừa cố nhớ lại con người này là ai.
    - Tốt rồi, anh ấy sống rồi! - Va-ri-a khẽ nói, cáu kỉnh.
    Chị vạch mồm anh ta ra rồi đút ngón tay vào. Cái đầu của anh ta khẽ động đậy trên tay chị rồi thình lình ho lên một tiếng, sau đó là tiếng thở khò khè. mệt nhọc.
    - A, lại cắn vào tay người ta nữa kia à, ghê thật! - Va-ri-a lại nói, nhưng lần này như reo lên.
    Cần máy bơm bật lên bật xuống đều đặn, tôi cố gắng theo dõi những động tác cấp cứu của Va-ri-a. Bây giờ người sĩ quan đã ngồi dậy được. Anh ta nhắm nghiền, hai mắt và thở rất khó khăn. Mặt anh ta trắng bệch dưới ánh trăng. Chiếc mũi tẹt và chiếc cằm vuông như dùng phấn vẽ nên kia nhắc tôi nhớ đến một nét mặt quen thuộc mà tôi đã từng nhìn thấy hàng trăm nghìn lần. Bây giờ tôi thật không dám tin vào mắt mình nữa, tôi không nhận ra...
    Cho đên nay tôi vẫn chưa rõ tại sao lúc đó tôi không để cho mọi người đưa Rô-ma-sốp, chính người sĩ quan ấy là Rô-ma-sốp, vào bệnh viện. Anh ta vẫn mặc bộ quân phục ngồi trên mặt đất. Anh ta ngước mắt lên, ánh mắt lộ rõ vẻ ngơ ngác, bần thần nhìn chúng tôi, rồi kêu lên giọng khản đặc: “Ca-chi-a”. Nói ra cũng lạ, khi thấy anh ta nói được, tôi bất giác mừng rỡ vô cùng. Khi nhận ra tôi đang đứng trước mặt, tay cầm chiếc bình khí cho anh ta thở, anh ta không chút lộ vẻ ngạc nhiên. Nhưng khi tôi cầm tay anh ta để bắt mạch thì anh ta cắn chặt răng, người rung lên và cố gọi to một lần nữa: “Ca-chi-a! Ca-chi-a!”
    Trời sắp sáng chúng tôi mới về đến nhà. Chúng tôi lảo đảo bước đi. Tuy chúng tôi không bị bom vùi xuống hầm nước song cũng mệt chẳng kém Rô-ma-sốp. Chung tôi đi trước, Ma-sa cùng một cô gái khác cáng Rô-ma-sca đi theo sau. Anh ta cứ lo bị rơi mất ba-lô, đến nỗi Ma-sa phải phát cáu lên ấn chiếc ba-lô vào trước mặt anh và nói:
    - Anh nên nghĩ đến Chúa nhiều hơn nghĩ đến chiếc ba-lô này. Thế mà không biết ngượng. Anh hãy tụng kinh cám ơn Chúa đã cứu sống anh đi!
    Chúng tôi đi mãi mới về đến nhà. Cà-phê lúc này là thứ được hoan nghênh nhất. Mấy đứa chúng tôi người bẩn thỉu như quỉ, đầu tóc rối bù, sau khi giao Rô-ma-sốp cho bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na, chúng tôi liền cùng một lúc nằm vật xuống chiếc giường trống trong nhà bếp.
    - Mình thực sự không thể hiểu nổi lão ta là một người như thế nào? - Va-ri-a nói.
    - Lão ta là một con người tồi tệ nhất trên thế giới này, - tôi trả lời giọng mệt mỏi.
    - Đồ ngu, thế sao còn đưa hắn ta về đây mà nuôi?
    - Người quen cũ, biết làm thế nào được.
    Tôi uống cà-phê đến phát nóng người lên, phải cởi chiếc áo liền váy ra, trong đầu lộn xộn những ý nghĩ không đầu không đũa. Cuối cùng trước mắt tôi hiện lên một bộ mặt trắng nhợt, trong giấc mơ, tôi cố khoát tay gạt nó đi.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  10. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 11

    Bữa ăn tối. “Không phải nói về tôi đâu”

    Rô-da-li-a Na-u-mốp-na kê giường của Rô-ma-sốp vào trong nhà ăn. Khi chúng tôi đi ra khỏi nhà thì anh ta vẫn còn đang ngủ say. Chiếc chăn bị tụt sang một bên. Anh ta mặc bộ quần lót sạch sẽ. Va-ri-a đi qua, cúi xuống kéo chăn đắp lại cho anh ta bằng một động tác quen thuộc. Anh ta cắn chặt răng, thở phì phò hai mắt mở trừng trừng để lộ hai lòng mắt trắng dã. Giờ đây cái gã Rô-ma-sốp này không thể nào lẫn lộn với bất cứ một Rô-ma-sốp nào khác trên trái đất!

    - Có thực hắn ta tồi tệ nhất trên đời này không? - Va-ri-a hỏi khẽ.

    - Đúng thế.

    - Nhưng mình thấy hắn ta có gì đâu.

    - Chị sắp điên rồi đấy!

    - Thật thà mà nói, mình thấy lão ta cũng chắng có gì. Cô có biết tại sao lão ta lại ngủ như thế không? Chỉ vì cái mặt của lão ta ngắn quá đấy thôi.

    Tại sao tôi lại cứ nghĩ rằng hễ tối đến là Ttô-ma-sốp nên tan biến đi như một ảo ảnh? Nhưng trong thực tế thì anh ta vẫn cứ tồn tại như thường. Tôi gọi điện thoại về nhà, ngưòi nghe điện thoại không phải là bà Rô-da-li-a Na-u-môp-na mà lại là anh ta.

    - Ca-chi-a, tôi rất cần nói chuyện với cô, - anh ta nói bằng một giọng tôn kính và chắc nịch. - Lúc nào cô sẽ về nhà? Nếu cô không về thì tôi xin đến chỗ cô, được chứ?

    - Anh đến đây.

    - Tôi e rằng ở bệnh viện không tiện lắm.

    - Thế thì thôi vậy. Nhưng phải đến mấy hôm nữa tôi mới về nhà được.

    Anh ta im lặng một lúc lâu.

    - Tôi biết là cô chẳng muốn gặp mặt tôi chút nào. Nhưng việc xảy ra đã lâu rồi... Nguyên nhân cô không muốn gặp tôi...

    - Không, chưa lâu lắm đâu...

    - Cô muốn nói việc tôi nhờ bác sĩ I-van Pa-vơ-lốp đưa giúp bức thư đến phải không? - Anh ta sôi nổi hỏi. - Cô nhận được bức thư ấy rồi à:

    Tôi không trả lời.

    - Hãy tha lỗi cho tôi.

    Lại một hồi im lặng.

    - Chúng ta gặp nhau ở đây không phải ngẫu nhiên đâu. Tôi đến đây là chỉ cốt để tìm cô thôi. Khi đi qua nhà hầm, vì nghe có người thét lên rằng trong đó có các em nhỏ nên tôi lao vào và bị nạn. Nhưng cái đó chẳng có quan hệ gì. Tôi cần được gặp cô vì việc tôi muốn nói có liên quan đến cô.

    - Việc gì?

    - Một việc rất quan trọng. Tôi muốn nói lại với cô toàn bộ tình hình.

    Tim tôi rộn lên, tựa như tôi không biết ai đang nói chuyện với tôi vậy.

    - Anh nói đi.

    Lần này anh ta im lặng rất lâu, đến nỗi tý nữa thì tôi đặt ống nghe xuống.

    - Thôi, không cần nói nữa. Tôi sẽ đi đâv. Sau này cô chẳng bao giờ trông thấy tôi nữa đâu. Tôi thề như vậy đấy.

    Anh ta còn lẩm bẩm mấy câu gì nữa mà tôi không nghe rõ. Tôi mường tượng thấy anh ta đứng đó, hai hàm răng nghiến chặt, mắt nhắm nghìền, tay cầm ống nói mà thở hổn hển. Nhưng những lời nói đầy vẻ kiên quyết vừa rồi của anh ta khiến tôi tin; nên tôi báo cho anh ta biết rằng tôi sẽ về ngay rồi đặt ống nói lên máy.

    Tôi dùng chìa khóa riêng mở cửa nhà, đi thẳng đến phòng ăn, tôi nhìn thấy trên bàn có phó-mát và bơ. Thực khó có thể tin được rằng có thể có phó-mát và bơ thật sự, phó-mát Hà Lan, đỏ rực, chính cống và bơ cũng chính cống vào lúc này. Thậm chí còn có cả kem để trong một cái đĩa tráng men to. Một chiếc bánh mì rất hiếm thấy, không sản xuất ở Lê-nin-grát được cắt ra thành nhiều miếng. Khi tôi bước vào, Rô-ma-sốp đang dùng dao nhà bếp để mở đồ hộp. Trong cái ba-lô để trên mặt bàn còn thò ra một chai...

    Bà Rô da-li-a Na-u-mốp-na từ trong buồng ngủ đi ra, đầu tóc rối bù nhưng nét mặt tràn ngập hân hoan.

    - Ca-chi-a, chị xem thế nào, bà hỏi khẽ. - Tôi đi gọi bà Béc-ta nhé?

    - Tôi không biết.

    - Ôi lạy Chúa, cô giận rồi sao? Chẳng qua là tôi muốn hỏi...

    - Mi-sa. - tôi nói lớn, - bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na muốn nhờ tôi hỏi là có được mời bà chị của bà ấy đến cùng ăn không?

    - Sao lại không? Bà ấy ở đâu để tôi đi mời cho.

    - E bà ấy sẽ sợ anh đấy.

    Anh ta cười gượng.

    - Cứ mời đi, cứ mời đi.

    Bữa cơm tối hôm ấy thực là vui. Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đáng thương khi quệt bơ vào bánh mì hai tay cứ run bắn lên. Bà ngồi ăn với vẻ nghiêm trang và sùng kính như tín đồ tôn giảo. Bà Béc-ta, chị của bà Rô-đa-li-a Na-u-mốp-na với tấm thân thấp bé, tóc bạc trắng, mũi nhọn, ánh mắt dịu dàng, mỗi khi ăn một tiếng bánh mì lại lầm rầm khấn mấy câu. Rô-ma-sốp ngồi dằm xé thức ăn liền tay, vừa ăn vừa uống rượu,

    Lúc này tôi mới ngắm nghía anh ta kỹ một chút!

    Đã có đến mấy năm chúng tôi không gặp nhau. Trước kia anh ta khá béo tốt. Trên bộ mặt và trong dáng đứng của anh ta đương bắt đầu hình thành những nét đặc biệt của kẻ phát phì. Cũng giống như tất cả bọn người ăn chơi, trơ tráo, lúc nào anh ta cũng mặc những bộ quần áo hết sức sặc sỡ, khác kiểu.

    Bây giờ anh ta gầy tọp đi, hai lưỡng quyền nhô hẳn lên. Anh ta mặc áo sĩ quan có đính quân hàm mang hai gạch đỏ, bên ngoài thắt thắt lưng da. Chẳng lẽ anh ta đã lên đến chức thiếu tá rồi ư? Trong đôi mắt luôn luôn mở to của anh ta như có một cái gì khác lạ, phải chăng đó là một sự mệt mỏi?

    - Tôi thay đổi nhiều lắm rồi phải không? - Anh ta thấy tôi ngắm nghía mãi, bèn hỏi. - Chiến tranh đã làm tôi thay đổi nhiều. Tâm hồn, cơ thể... tất tần tật!

    Nếu đích thực mọi thứ trong con người anh ta đã thay đổi thì chắc chắn là anh ta đã không đến đây để thanh minh với tôi nữa.

    - Mi-sa, anh lấy những thứ ngon lành này ở đâu ra thế? Ăn trộm à?

    Rõ ràng là anh ta không nghe rõ câu hỏi cuối cùng của tôi.

    - Xin mời, xin mời! Tôi còn có thể kiếm được nữa. Ở đây cái gì cũng có thể kiếm được. Chỉ vì các vị không biết cửa mà vào đấy thôi.

    - Thật thế ư?

    - Cố nhiên rồi. Chỉ cần có người là được.

    Tôi không hiểu hết ý nghĩa những lời anh ta nói, nhưng tôi bất giác đặt vội miếng bánh vừa quết bơ xuống đĩa.

    - Anh đến Lê-nin-grát lâu chưa?

    - Hôm nay là ngày thứ ba, ở Mát-xcơ-va tôi được điều đến công tác trong một cửa hàng ăn của quân nhân. Thoạt tiên tôi ở mặt trận phía nam. Có một lần bị bọn Đức vây chặt, may mà phá được vòng vây chạy thoát ra ngoài.

    Đấy là sự thực mà tôi rất ghê sợ. Tôi ngồi nghe anh ta kể với cái cảm giác đã quên lãng từ lâu là bao giờ anh ta cũng phục tùng mọi đòi hỏi của tôi.

    - Chúng tôi rút về hướng Ki-ép. Lúc ấy chúng tôi không được biết là Ki-ép đã bị vỡ tung mặt trận rồi, - anh ta nói. - Chúng tôi nghĩ bụng, có quỉ mớì biết được là bọn Đức ở đâu, nào ngờ chúng nằm ngay bên cạnh vùng Khơ-rít-xti-nốp-ca. Chúng tôi đã chạm trán với bọn chúng ở một nơi cách mặt trận chừng hai trăm ki-lô-mét. Thực là thảm hại. - anh ta dừng lại cười rồi nói thêm. - Nhưng thôi, những chuyện ấy để sau bữa ăn hẵng kể. Bây giờ tôi muốn báo cho cô biết rằng tôi có gặp Ni-cô-lai An-tô-nô-vích ở Mát-xcơ-va. Thực lạ, ông ta chẳng đi đâu cả.

    - Thực ư? Tỏi hỏi giọng lơ đãng.

    Rồi chúng tôi im lặng một lúc.

    - Mi-sa, hình như anh có câu chuyện gì định nói với tôi phải không? Xin mời anh vào phòng tôi vậy.

    Anh ta đứng lên, vặn lưng, ngáp dài một cái rồi sửa lại chiếc thắt lưng da.

    - Được, thì đi. Cho phép tôi mang rượu theo chứ?

    - Tùy anh.

    - Loại nào nhỉ?

    - Tùy anh. Tôi không uống.

    Anh ta cầm chai rượu và chiếc cốc để trên bàn, xin phép bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na rồi đi theo sau tôi. Chúng tôi cùng ngồi xuống. Tôi ngồi vào đi văng, còn anh ta ngồi bên cạnh bàn. Đấy là chiếc bàn riêng của Xa-sa trước kia. Trên bàn còn đặt một chiếc cốc cao chân, trong đó có cắm chiếc bút vẽ của cô ấy. Từ trước tới nay không ai chạm đến.

    - Câu chuyện này nói ra thì dài lắm...

    Anh ta có vẻ rất xúc động. Tôi thì lại hết sức bình tĩnh.

    - Dài lắm đấy. Cô có hút thuốc không?

    - Không.

    - Nhiều bà nhiều cô trong thời kỳ chiến tranh này đều đâm ra nghiện thuốc lá cả.

    - Đúng thế. Ở bệnh viện người ta đang chờ tôi đấy. Tôi dành cho anh hai chục phút để nói.

    - Được, - Rô-ma-sốp chậm rãi nói. - Cô biết đấy, tôi rời khỏi mặt trận Lê-nin-grát hồi tháng Tám. Thực ra lúc ấy tôi chưa muốn đi vì còn muốn gặp mặt cô một lần nữa. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh!

    Xa-nhi-a thường hay dùng câu này nên khi nghe câu ấy phát ra từ mồm Rô-ma-sốp, tôi cảm thấy khó chịu.

    - Tôi không định kể tỉ mỉ tôi đã đến mặt trận phía nam như thế nào. Chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ vùng Ki-ép, nhưng sau ở đó bị vỡ mặt trận.

    Anh ta dùng hai chữ "chúng tôi".

    - Tại Kđ-ri-xti-nốp-са, tôi gặp một đoàn cứu thương của quân đội đi qua Ki-ép, liền xin đi nhờ đến Ư-man. Đoàn tàu gồm mấy toa thông thường có thiết bị sưởi ấm, nhiều thương binh phải nằm trên sàn tàu, trong đó có nhiều thương binh nặng. Đoàn tàu chạy liền trong hai, ba, bốn rồi năm ngày giữa bụi, khói và hơi nóng không sao chịu nổi.

    Tiếng bà Béc-ta rì rầm tụng kinh ở phòng bên cạnh vọng sang.

    Rô-ma-sốp khó chịu, đứng dậy đóng cửa phòng lại.

    - Trước khi lên tàu hai ngày tôi bị một vết thương ở bên trong. Vết thương nhẹ thôi, chỉ thỉnh thoảng mới cảm thấy đau nhói ở phía trái cơ thể. Cả vùng thịt ấy đã biến thành một màu nâu xám xịt, - Rô-ma-sốp gượng cười nói tiếp. - Đến bây giờ nó cũng vẫn như thế thôi.

    Tối hôm nọ, chị Va-ri-a thay quần áo cho Rô-ma-sốp, chị có nói rằng hông bên trái của anh ta bị thương. Có lẽ đó là vết thương mà anh ta gọi là đã biến thành một màu nâu xám xịt.

    - Tôi buộc phải ra tay gánh vác những công việc có tính chất sự vụ trên toàn tàu chở thương binh ấy. Trước hết phải lo cho tốt khẩu ăn uống. Tôi có thể nói một cách tự hào rằng, trong suốt tuần lễ ấy - chúng tôi đi mất tất cả là hai tuần lễ - không có một người nào bị chết vi đói. Killing саг; chuyện hôm nay không phải để nói về tôi.

    - Thế anh định nói ai?

    - Cùng đi với chúng tôi có hai cô gái, họ là sinh viên trường Đại học Sư phạm ở Xta-ni-xláp. Hai cô mang cơm, thay băng cho các thương binh và làm tất cả mọi việc có thể làm được. Một lần, một trong hai cô rủ tôi đến thăm một phi công bị thương đang nằm ở toa trước.

    Rô-ma-sốp rót rượu vào cốc.

    - Tôi hỏi cô gái có xảy ra việc gì không - “Anh định nói chuyện với anh ấy chứ?” - “Nói chuyện gì bây giờ nhỉ?” - “Anh ấy muốn tự sát, lúc nào cũng khóc”. Thế là chúng tôi tìm đến chỗ người phi công nọ. Anh ta đang ngồi gục đầu xuống ngực, chân băng qua loa. Các cô gái ngồi vây quanh anh ta.

    Rô-ma-sốp ngừng lại một lúc.

    - Ca-chi-a, cô không uống một chút à? - Anh ta hỏi giọng khản đặc. - Tôi uống một mình mãi, nếu say thì làm thế nào?

    - Thì tôi sẽ tống anh ra khỏi nhà ngay. Thôi hãy kể nốt câu chuyện của anh đi.

    Anh ta uống từng ngụm hết cốc rượu rồi đứng dậy đi một vòng rồi lại ngồi xuống. Tôi cũng tợp vài hớp, trong bụng nghĩ: phi công trên thế giới này nhiều biết bao nhiêu mà kể!
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  11. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 12

    Tôi tin tưởng

    Sau đây là câu chuyện do Rô-ma-sốp kể lại:

    Khi hai người gặp nhau, mặt và chân Xa-nhi-a đầy vết thương, những vết thương ở trên mặt đã bắt đầu lên da non, về cái tin anh bị thương thì Rô-ma-sốp đã biết trước đó ít lâu, do một hôm anh tình cờ đọc được một mẩu tin trên tờ báo nội bộ “Chim ưng đỏ”. Mẩu tin chỉ nói chung chung nên anh ta không rõ Xa-nhi-a bị thương trong trường hợp cụ thể nào. Anh ta nói rằng có mang số báo ấy theo định đưa cho tôi xem. Nếu không xảy ra sự kiện đô nhà vừa rồi thì chắc chắn là tờ báo ấy sẽ đến tay tôi. Nhưng không sao, Rô-ma-sốp đã gần như thuộc lòng bản tin đó: “Đại úy Gri-gô-ri-ép sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, trên đường bay trở về bị bốn máy bay tiêm kích của địch đuổi theo. Gri-gô- ri-ép bắn rơi một chiếc, ba chiếc còn lại hốt hoảng bỏ chạy. Tuy bị thương, Gri-gô-ri-ép vẫn cố gắng lái máy bay về. Tại một nơi cách mặt trận không xa, anh lại bị hai chiếc “gioong-ke” khác của địch bất thần tiến công. Gri-gô-ri-ép đã lái chiếc máy bay bị bốc cháy của mình đâm trúng một chiếc “gioong-ke” của địch. Toàn thể phi công Đoàn N. sẽ mãi mãi ghi nhớ những con chim ưng quang vinh của mình là: đại úy, đảng viên đảng cộng sản Gri-gô-ri-ép, phi công hoa tiêu Lu-ri, báo vụ viên kiêm xạ kích Các-pen-cô, và xạ thủ trên máy bay Éc-sốp, đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho Tổ quốc!”.

    Có thể toàn văn bản tin đó không được nhớ chính xác, lời lẽ có thể bị sai lạc; nhưng Rô-ma-sốp cương quyết bảo đảm rằng nội dung mà anh ta đã diễn đạt là hoàn toàn chính xác. Anh ta cất tờ báo này cùng với một số tài liệu quan trọng khác vào trong chiếc cặp đựng bản đồ. Cả chiếc cặp ấy bị rơi xuống nước trong căn nhà hầm khi anh ta bị tai nạn. Toàn bộ báo chí và giấy tờ trong đó đều bị ướt và dính chặt vào nhau. Sau này chúng đã biến đâu mất hết cả trong khi anh ta đem ra phơi. Nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng.

    Thế là Xa-nhi-a coi như đã bị báo tử. Nhưng trong thực tế thì vẫn còn sống, tuy mặt và chân đều đầy vết thương... Và vết thương ở trên mặt nhẹ thôi, chỉ có chân mới bị nặng, khó có thể đi lại được.

    - Xa-nhi-a làm thế nào lên tàu quân sự được?

    - Tôi không rõ, - Rô-ma-sốp nói. - Chúng tôi không nói với nhau chuyện ấy.

    - Vì sao vậy?

    - Bởi vì một giờ sau khi chúng tôi gặp nhau, ở một nơi cách Khơ-ri-xti-nốp-ca hai mươi cây số, xe tăng của bọn Đức đã tấn công bắn vào đoàn tàu chở chúng tôi. - Anh ta nói là “đã bắn” vào đoàn tàu.

    Đây là một việc rất bất ngờ, vì ngay trong hậu phương của ta đã thấy xuất hiện xe tăng của bọn Đức. Phát đạn dầu tiên từ xe tăng của bọn chúng bắn ra làm hỏng đầu máy, thế là cả đoàn tàu nằm chết gí tại chỗ. Các thương binh nhảy xuống tàu tháo chạy tán loạn, bọn Đức dùng súng phóng lựu bắn xả vào đám thương binh.

    Rô-ma-sốp lao ngay về phía Xa-nhi-a. Phải vượt qua lưới lửa của giặc xông vào đoàn tàu lúc này là việc rất khó khăn, nhưng Rô-ma-sốp đã xông vào và cứu được Xa-nhi-a ra ngoài. Hai người nằm nấp sau bánh xe. Nhũng người bị thương nặng kêu gào trên toa tàu: “Các đồng chí ơí, cứu chúng tôi với!”. Lúc này bọn Đức đã tiến đến gần và bắn rất rát. Thấy không thể nấp ở đây được nữa, Xa-nhi-a nói: “Cậu chạy đi! Tớ có súng lục đây rồi, tớ nhất định không để chúng bắt sống được đâu!” Nhưng Rô-ma-sốp vẫn không bỏ Xa-nhi-a. Anh ta tìm cách cõng Xa-nhi-a vượt qua rãnh nước ra ngoài. Về sau nhờ một trung úy trẻ tuổi giúp sức, hai người đưa Xa-nhi-a vượt qua vùng đầm lầy. Cuối cùng Rô-ma-sốp và Xa-nhi-a nghỉ lại trong một cánh rừng bạch dương ẩm ướt.

    Thực là gay go. Một toán quân đổ bộ khá đông của bọn Đức đương chiếm giữ một ga tàu hỏa gần đây. Bốn xung quanh đang diễn ra những cuộc chiến đấu ác liệt. Bất cứ lúc nào bọn Đức cũng có thể xuất hiện trong cánh rừng bạch dương này, vì đấy là nơi duy nhất ở vùng này có thể dùng làm căn cứ phòng ngự, cần phải nhanh chóng rời khỏi đây. Nhưng lúc ấy vết thương trên mặt Xa-nhi-a lại tấy lên, thân nhiệt tăng lên rất cao. Anh ấy luôn miệng nói với Rô-ma-sốp: “Hãy bỏ lá lại đây, không thì cậu cũng sẽ bị vạ lây đấy!” Có một lần anh ấy nói rằng: “Tình hình của mình, minh rất lo cho cậu!” Khi anh ấy bỏ chân xuống, máu từ vết thương chảy ra đầm đìa khiến anh đau suýt ngất đi. Rô-ma-sốp kiếm cho anh một chiếc gậy bằng một cành cây thẳng.

    Nhưng Ха-nhi-a vẫn không thể nào đi được. Thế là Rô-ma-sốp đành phải đi về phía trước, mà lại đi lùi về phía đoàn tàu hỏa khi nãy để tìm lại cô gái đã từng giúp làm cứu thương trên tàu. Nhưng từ phía bên kia đầm lầy bọn Đức cứ nhằm thẳng về phía Rô-ma-sốp mà bắn tới khiến anh ta không tài nào tiến lên được nữa. Cuối cùng đành phải quay trở lại chỗ Xa-nhi-a.

    - Khi tôi trở về đến chỗ cũ thì một tiếng đồng hồ đã trôi qua hoặc lâu hơn chút ít gì đó, - Rô-ma-sốp nói. - Lúc ấy không thấy Xa-nhi-a đâu nữa. Rừng cây bạch dương ở quãng này rất thấp, tôi chạy đi khắp nơi tìm kiếm. Tuy sợ động, nhưng cuối cùng tôi cũng phải gọi lớn lên mấy tiếng, mà vẫn không nghe một lời đáp lại. Suốt cả đêm hôm ấy, tôi mải miết đi tìm Xa-nhi-a, về sau mệt quá nằm lăn xuống một nơi nào đó ngủ thiếp luôn. Sáng sớm hôm sau, tôi tìm được địa điểm chúng tôi chia tay nhau hôm trước. Mặt cỏ ở chỗ ấy bị giẫm bét be và chiếc gậy tôi lấy cho Xa-nhi-a thì dựng dưới gốc một cây bạch dương...

    Về sau Rô-ma-sốp bị lọt vào giữa vòng vây của bọn Đức. Nhưng anh ta lại gặp được một tiểu đội lính thủy thuộc hạm đội Đnê- prốp-xcai-a và cùng họ đột phá vòng vây. Từ đó anh ta hoàn toàn không biết tin tức gì về Xa-nhi-a nữa...

    Đã có đến hàng trăm nghìn lần tôi tưởng tượng đến cái phút biết được tin này. Có thể chỉ là một bức thư thông thường không dán tem, tôi sẽ bóc ra xem và rồi tôi sẽ ngất đi. Cũng có thể là Va-ri-a, người đã từng được tôi an ủi nhiều lần sẽ đi lại phía tôi và chị bắt đầu nói: mới đầu rất thận trọng, rào trước đón sau mãi, sau đó mới hơi: “Giả dụ anh ấy hy sinh thật rồi thì cậu làm thế nào?” Tôi đã hình dung qua tất cả các cảnh tượng ấy. Song chưa bao giờ lại nghĩ rằng tin ấy sẽ do Rô-ma-sốp trực tiếp báo cho tôi hay.

    Rõ ràng đấy là những lời bịa đặt xấu xa, do anh ta tự nghĩ ra hoặc đọc trên báo chí nào đó. Đúng hơn là anh ta tự bịa ra. Bởi vì trong mỗi lời nói của anh ta tôi đều nhận thấy rõ những tính toán riêng tây. Thực đau buồn, cái trò quỉ quái quen thuộc mà anh ta vẫn thường giở ra, lần nàv lại rơi trúng vào đầu tôi! Tại sao anh ta lại mò đến Lê-nin-grát để hại tôi kia chứ? Thực đau buồn!

    - Mi-sa, - tôi nói giọng hết sức điềm tĩnh. - Anh viết thư cho tôi nói rằng “em là cuộc sống và nguồn hạnh phúc của anh” có thật đúng là như thế không?

    Anh ta im lặng nhìn tôi. Mặt anh ta vốn trắng bợt mà hai tai lại đỏ rần. Giờ đây khi nghe tôi hỏi “có thật đúng như thế không?” hai tai anh ta càng đỏ tía lên.

    - Thế thì tại sao anh cứ tìm đủ cách để quấy rầy tôi? Thú thực rằng cũng có lúc tôi cảm thấy thương hại anh. Không có người phụ nữ nào lại hoàn toàn dửng dưng không chút xúc động trước một người đàn ông tha thiết yêu mình trong một thời gian dài. Song tại sao anh lại có thể thiếu tự trọng đến mức không hiểu rõ rằng, giả dụ Xa-nhi-a có hy sinh rồi chăng nữa - nhưng mong sự thật không phải là như thế - thì tôi vẫn luôn luôn căm ghét anh. Mi-sa, anh hãy thú nhận những lời nói bịa đặt kia đi, và hãy xin lỗi tôi ngay; nếu không tôi sẽ đuổi anh ra khỏi nơi đây như đuổi một tên khốn khiếp. Anh hãy nhắc lại những việc anh vừa nói xảy ra vào lúc nào?

    - Hồi tháng chín.

    - Tháng Chín ư? Đấy anh xem, mãi đến ngày mồng mười tháng Mười tôi còn nhận được thư của anh ấy. Trong bức thư ấy, Xa-nhi-a cho biết rằng anh ấy rất khỏe mạnh và nếu được Cấp trên cho phép, anh ấy sẽ bay đến Lê-nin-grát chơi vài ngày kia mà. Mi-sa, anh giải thích việc này như thế nào?

    Tôi không hiểu sức mạnh nào đã thúc đẩy tôi bịa ra câu chuyện ấy giữa lúc trong dạ rối bời. Ngày mồng mười tháng Mười ấy, thực ra tôi chẳng nhận được bức thư nào cả. Đã ba tháng nay tôi không hề nhận được thư từ chữ nghĩa gì của Xa-nhi-a gửi đến.

    Rô-ma-sốp khẽ cười gằn,

    - Cô không tin lời tôi cũng tốt thôi, - anh ta lên tiếng. - Tôi sợ là sợ một tình huống khác đã xảy ra. Nhưng cầu mong cho mọi việc đều tốt đẹp cả.

    - Như thế có nghĩa là, tất cả những lời anh vừa nói đều là bịa đặt cả?

    - Đúng thế, Rô-ma-sốp đáp. - Đúng là bịa đặt cả đấy.

    Lẽ ra đứng trước mặt tôi anh ta phải nài nỉ, phải thanh minh, phải làm ra bộ giận dỗi, hai môi run bắn lên và chẳng thốt lên lời nào như cái lần ở trên quảng trường Xô-ba-tri kia mới phải. Nhưng bây giờ anh ta chỉ lạnh lùng đáp:

    “Đúng thế, đó toàn là những lời bịa đặt cả!”

    Trái tim tôi như bóp mạnh lại rồi như bị rơi hẫng xuống, trở nên trống rỗng.

    Hình như anh ta nhận ra điều đó, liền đứng lên, mạnh dạn cầm lấy bàn tay tôi. Tôi rút mạnh bàn tay ra khỏi tay anh ta.

    - Nếu muốn đánh lừa cô thì tôi chỉ cần đưa cho cô xem tờ báo có in tin Xa-nhi-a hy sinh là xong. Nhưng tôi đã kể cho cô nghe rất tỉ mỉ về cái việc mà trên thế giới này không ai ngoài tôi có thể biết được. Thực là nực cười - anh ta nói giọng ngạo nghễ - cô làm như tôi là kẻ hành động theo những tính toán cá nhân ti tiện, tìm cách tranh thủ tình cảm của cô bằng những tin tức đau buồn không bằng! Nhưng đúng là tôi không thể giấu giếm sự thực đối với cô được.

    Tôi vẫn ngồi im, nghiêm trang, ngay ngắn như cũ, song tất cả mọi thứ ở xung quanh - cái bàn con bên trên có đặt chiếc cốc có chân cắm bút vẽ của Xa-sa, và người đàn ông mặc quân phục tóc hung, ngồi bên cạnh bàn mà tôi đã quên mất tên - tất cả đều như đang từ từ rời khỏi tôi. Tôi im lặng chẳng nói câu nào và cảm thấy chẳng thiết một thứ gì hết. Rồi không biết bởi có gì người đàn ông mặc quân phục kia bỗng đứng ìên, vội vàng biến mất sau đó lại dẫn đến một bà già tóc trắng, dáng thấp bé và đoan trang. Vừa trông thấy tôi, bà già hốt hoảng kêu lên:

    - Kìa Ca-chi-a! Ôi lạy Chúa! Nước đâu, đem nước vào đây? Cháu làm sao thế hả Ca-chi-a?
     
    Last edited by a moderator: 6/6/15
  12. Rafa

    Rafa SV

    Chương 13

    Nguồn hy vọng

    - Va-ren-ca. mình bị làm sao thế này? Mình ốm ư?

    - Cậu chẳng bị ốm đau gì cả, vẫn khỏe như vâm đấy thôi! Chị xua tay khi có tiếng bước chân lộp cộp đi vào và một giọng hỏi khẽ khàng:

    - Tỉnh rồi hả?

    - Anh ta là ai thế nhỉ?

    - Vẫn cái lão tóc nâu của cậu đó thôi, - Va-ri-a nói giọng giận dữ.

    Tôi lại im lặng hồi lâu.

    - Ve-ren-ca, chị có biết tin tức gì không?

    - Lạy Chúa, vẫn chưa có chuyện gì xảy ra cả. Ừ, có bị thương nhưng vết thương xoàng thôi mà. Nằm yên, cô bạn yêu quí của tôi, - chị ấy ngồi nhích lại gần tôi, ôm chặc lấy tôi. - Sao cậu lại cả tin thế? Cậu buồn lắm phải không? Hay là anh ta vô ý nói nhầm chăng?

    - Không, anh ta nói rất thận trọng đấy. Nhưng mọi việc rồi sẽ qua đi thôi.

    - Tất nhiên là sẽ qua đi cả. Mà chẳng phải đã qua rồi đó sao. Cậu có uống cà-phê không?

    Tôi lại im lặng một lúc lâu.

    - Va-ren-ca này!

    - Có việc gì thế, Ca-chi-a?

    - Tôi vẫn nuôi hy vọng, chị ạ.

    - Cố nhiên, sao lại không nuôi hy vọng được. Cần phải hy vọng chứ? Mình đã nói với cậu, cậu hãy nhớ lấy lời mình là lúc nào cũng cần phải nuôi hy vọng. Xa-nhi-a của cậu chẳng làm sao cả đâu, không chóng thì chầy, nhất định anh ta cũng sẽ trở về thôi.

    Ở Lê-nin-grát rất khó tìm ra số báo “Chim ưng đỏ” có đưa tin về Xa-nhi-a ấy. Lúc đầu tôi dốc sức đi tìm và được một phóng viên quân sự cho biết đơn vị bộ đội phát hành ra tờ báo ấy. Nhưng về sau tôi không tìm nữa vì Pê-chi-a viết thư báo cho biết rằng anh ấy đã đọc được một mẩu tin nói về Xa-nhi-a rồi. Pê-chi-a viết trong thư: “Tôi suy nghĩ miên man, cuối cùng lại nghĩ đến chị. Xa-nhi-a hy sinh rất anh dũng, rất vẻ vang! Đối với tôi, anh ấy là ngưòi thân thiết nhất trên đời này, từ thuở nhỏ đã quấn quít bên nhau. Trong tâm hồn của anh ấy như có một thứ gì làm phát ra những âm thanh vang dội, và mỗi lần nghe thấy âm thanh ấy, tôi lại cảm thấy như cuộc đời đẹp đẽ. đáng yêu thêm. Đó là thời niên thiếu, là lý tưỏng của chúng tôi. Xa-nhi-a đã luôn luôn ghi nhớ lời thề với chúng ta. Giờ đây sao mà tôi muốn gặp chị đến thế, để chia sẻ cùng chị một phần nỗi đau buồn!”

    Trong thư trả lời cho Pê-chi-a, tôi thuật lại rất kỹ những lời của Rô-ma-sốp nói vói tôi, và cuối thư tôi không quên viết thêm rằng tôi vẫn nuôi hy vọng...

    Dạo này tôi ít về nhà hơn. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ tốt nghiệp lớp у tế do Hội chữ thập đỏ Nga mở và sẽ vào công tác ở một bệnh viện nào đó. Từ nay trở đi tôi sẽ trở thành một “y tá chuyên nghiệp” chứ không là một “người công tác xã hội nữa”. Những khó khăn do đói kém gây nên đối với tôi không kéo dài lắm, nhưng đối với chị Va-ri-a thì dai dẳng. Những khó khăn đó đến với tôi trong những ngày gian nan ở Lê-nin-grát, thực ra còn khiến tôi cảm thấy dễ chịu đôi phần ở Lê-nin-grát trong những ngày này, dầu ở đâu, cũng rất có thể bị trúng đạn từ trên trời trút xuống. Lớp tuyết đầu mùa đã phủ kín mặt đường phố, nhưng cửa sổ các văn phòng vẫn mở toang, vì từ những ngày còn nắng ấm, dân Lê-nin-grát đã phải đi sơ tán và từ đó chưa được trở về nhà lần nào.

    Sở dĩ tôi cảm thấy dễ chịu là vì đồng thời với việc bản thân phải khắc phục những khó khăn do kẻ thù phong tỏa thành phố gây nên, tôi còn phải chống cự với nỗi đau buồn riêng trong lòng. Cũng lạ, Rô-ma-sốp hiểu khá rõ nỗi niềm ấy của tôi. Chính vì thế mà anh ta thôi không mở mồm khuyên tôi rời khỏi Lê-nin-grát.

    Rô-ma-sốp lại tìm cách kể lại một lượt nữa câu chuyện cũ của anh ta. Đến lúc này tôi lại biết thêm nhiều chi tiết mới mà trong lần kể thứ nhất anh ta không hề nhắc tới. Anh ta đã cùng với đồng chí trung úy khiêng Xa-nhi-a qua đám lầy bằng cách cầm chéo hai tay nhau thành hình chữ thập, để Xa-nhi-a ngồi lên trên và bám lấy cổ hai ngưồi. Trong số hai cô gái trên tàu, có một cô cũng có tên là Ca-chi-a nên Xa-nhi-a rất thích, lúc nào anh cũng gọi tên cô ta ra: “Ca-chi-a, Ca-chi-a ơi!” Khi Xa-nhi-a nói rằng: “Mình nghĩ rằng, mình rất lo cho cậu!” thì Rô-ma-sốp chỉ trả lời bằng tiếng cười và quả là có buồn cuời thật, bất cứ lúc nào bọn Đức cũng có thể xuất hiện trong khu rừng này.

    Đấy là sự thực, anh ta nói dối đế làm gì? Nếu anh ta muốn đánh lừa tôi thì anh ta chỉ cần đưa tờ báo cho tôi xem là đủ rồi. Trên mặt báo rõ ràng là có đăng tin Xa-nhi-a hy sinh. Anh ta nói như vậy cũng hợp tình hợp lý thôi. "Nhưng dẫu sao anh ta vẫn là Rô-ma-sôp , - tôi tự nhủ. - vẫn là cái gã Rô-ma-sốp có đôi mắt không bao giờ chịu chớp và là kẻ mà Xa-nhi-a đã từng gọi là con cú mèo!”

    “Nhưng chiến tranh cũng có khả năng làm thay đổi con người- tôi tự cãi lại mình. - Anh ta đã nhìn thấy cái chết, có thể từ trong thâm tâm anh ta đã biết hổ thẹn đối với chuỗi ngàv sống bằng lừa đảo, ti tiện trước kia. Anh ta đã làm những việc có thể làm đối với Xa-nhi-a. Anh ta đã làm được một việc mà người khác rất khó tin rằng anh ta có thể làm”.

    Một lần tôi ngỏ ý với anh ta muốn gặp mặt Pê-chi-a.

    - Được thôi, - anh ta nói và mấy ngày sau anh ta báo cho tôi biết: - ngày mai Pê-chi-a sẽ đến.

    Tuy anh ta cố ý nhấn mạnh với tôi rằng anh ta đã nhờ ông hiệu trưởng học viện Mỹ thuật gọi Pê-chi-a đến, nhưng tôi cho rằng đây chỉ là chuvện trùng hợp ngẫu nhiên thôi. Mấy ngày sau. quả nhiên Pê-chi-a đến thật.

    Đã ba tháng rưỡi nay tôi không gặp mặt Pê-chi-a. Khi tôi tiễn anh ấy đi, tôi hết sức lo lắng trước vẻ thẫn thờ và nỗi bận rộn của kẻ phải lao đầu vào công việc căng thẳng như anh ấy. Bởi vì những đặc điểm ấy rất không có lợi cho anh trong trường hợp ở chiến trường. Thế mà bây giờ Pê-chi-a bước vào vỏi một vẻ khác hẳn, anh ta đã trở nên hết sức khỏe khoắn, da cháy nắng, lưng ưỡn thẳng chứ không khòm xuống như trước nữa, hai mắt long lanh nhìn thẳng đầy sức sống.

    Chúng tôi ôm chầm lấy nhau.

    - Ca-chi-a. bây giờ tôi cũng nghĩ rằng sẽ có ngày Xa-nhi-a trở về! - Anh nói ngay câu đầu tiên. - Trong lúc mọi người đều tưởng rằng anh ấy đã hy sinh thì anh ấy lại đang hồi phục sức khỏe. Bây giờ mọi việc đã qua rồi. Anh ấy vẫn sống, đây cũng là một thứ dự báo đối với tình hình chiến trường của chúng ta. Mọi người trong quân đội chúng ta đều đã biết tin Xa-nhi-a vẫn còn sống. Nếu không thì từ lâu người ta đã gửi giấy báo tử đến cho chị rồi! Sự việc đã rõ ràng quá rồi.

    Thực ra thì sự việc chưa rõ ràng lắm đâu, nhưng tôi vẫn muốn nghe Pê-chi-a nói vì tôi không đủ sức cưỡng lại điều tôi muốn tin...

    Ngày hôm sau Pê-chi-a lại đến chỗ tôi rất sớm. Sáu giờ đã có mặt. Chúng tôi cũng chờ Rô-ma-sốp đến tận trưa. Pê-chi-a nói, còn tôi thì chỉ nghe và cảm thấy anh ta không phải là Pê-chi-a nữa, mà là một chú bé màu da đỏ hồng đang vừa nói vừa ngúng nguẩy cái đầu. Anh ta mặc chiếc áo va-rơi bằng da. Những ngón tay ố vàng của anh ta vê vê điếu thuốc lá to sụ. Anh kể về tình hình của bản thân, về cả một giai đoạn có nhiều thay đổi đã qua. Một nhà họa sĩ, một con ngưòi nghệ sĩ như anh, những ngày đầu ra chiến trường, cái mà anh nhìn thây không phải là chiến tranh mà là bức tranh chiến tranh. Bản thân anh là một việc, còn chiến tranh lại là một việc khác. Tình hình ấy cứ kéo dài hết tuần này đến tuần khác. Và anh giết tên Đức đầu tiên.

    - Sao lại có cái việc ấy nhỉ? Tôi, họa sĩ Xcô-vô-rốt-ni-cốp lại đi giết người ư? Nhưng kẻ bị tôi giết kia không có quyền được tự xưng là người nữa. Tôi giết hắn ta để bảo vệ quyền làm người của tất cả những con người chân chính - Nhân dân.

    Thế là anh ta trở thành một “nguyên tử của chiến tranh”. Anh không còn nhìn chiến tranh bằng con mát của một nhà mỹ thuật nữa. Bây giờ anh là một chiến sĩ, những việc có thể làm được anh đều làm, tranh thủ trở thành một chiến sĩ thực thụ. - Trong thế giới cũ tôi có việc gì đáng làm đâu? - Anh nói giọng khảng khái sau một thoáng chần chừ.

    Chúng tôi không chờ Rô-ma-sốp nữa. Хеm chừng Pê-chi-a muốn ngồi một mình trong “thế giới cũ” của anh, nên tôi để anh ngồi đó, đi ra ngoài trước. Khi ra đến cửa, quay đầu lại tôi nhìn thấy anh rút ra một bức tranh trong cuộn tranh sơn dầu của anh và dùng đôi bàn tay đột nhiên run lẩy bẩy và trở nên thô kệch trải rộng nó ra.

    Tôi đến bệnh viện gọi điện thoại cho Rô-ma-sốp

    - Pê-chi-a đến rồi à? - Anh ta reo lên. - Đấy cô xem, thế mà cứ nghi ngờ mãi!

    - Vâng, anh ấy đã đến rồi. Mời anh tối đến chơi, Pê-chi-a muốn gặp anh.

    - Tối ư? Rất tiếc là tôi không thể đến được! Có một việc rất gấp đang chờ tôi.

    - Không, thế nào anh cũng phải đến!

    - Thực sự là tôi không thể nào đến được.

    - Nhất định phải đến! Mi-sa. anh nghe rõ chứ?

    Tôi gác ống nghe lên.

    Buổi tối hôm ấy anh ta đến thật. Chúng tôi đang ngồi trong phòng ăn, anh ta vừa bước vào, liền chìa tay ra và đi thẳng về phía Pê-chi-a.

    - Hay lắm, hay lắm. - anh ta nói. - Rất vui mừng. Thú thực là cần phải thừa nhận rằng tôi cũng không ngờ việc này có thể thành công được. Nhưng nhờ anh vốn là người nổi tiếng. Nếu anh là một kẻ vô danh nào đó thì chẳng có cách nào gọi anh đến đây được đâu.

    - Hết sức cám ơn đồng chí. đồng chí thiếu tá! - Pê-chi-a nói giọng khách sáo.

    - Thôi đi. thiếu tá với thiếu tung gì! Tôi chẳng qua chi là một viên sĩ quan quân nhu loại hai thôi. Tôi cũng không định leo cao hơn nữa đâu, làm đến cấp thiếu tá là đủ rồi.

    Pê-chi-a ngước nhìn anh ta rồi nhìn vào góc nhà. Rõ ràng là Rô-ma-sốp nghĩ rằng làm cho mọi người không coi anh như một thiếu tá là một việc dại dột.

    - Tình hình trên mặt trận thế nào. có nghe được tin tức gi mới không? Vừa có người nói với tôi rằng chúng ta đã chiếm lại được Li-gô-vô rồi phải không?

    - Theo tôi biết thì chưa đâu, - Pê-chi-a trả lời.

    - Chưa à? Thế mà vừa rồi tôi lại nghĩ: chuyện này sắp được ngồi tàu liên vận đi thẳng tuột về Mát-xcơ-va rồi. Nhưng bây giờ thế là còn phải chờ đợi nữa có phải không?

    Ở Lê-nin-grát không có ai dùng chữ “đi thẳng tuột” để nói chuyện này. Tôi cảm thấy rất khó chịu. Nhưng hầu như Pê-chi- a chẳng cảm thấy gì cả.

    Chúng tôi im lặng một lúc lâu.

    - Vấn đề đầu tiên, và duy nhất là vấn để về Xa-nhi-a. - Rô-ma- sốp nói.

    Tại sao anh ta có vẻ ma quái, kỳ quặc đến thế? Tại sao khi cười, lúc thì anh ta tỏ ra rụt rè, nhưng sau đó lại tỏ ra quá ư suồng sã, kiêu ngạo? Tại sao anh ta cứ lải nhải kể những câu chuyện về các đội viên đội phòng độc mặc quần áo ngụy trang, đào khoai tây dưới tầm pháo của địch? Tôi không sao biết được.

    Tất cả những việc đó chẳng có liên quan gì đến tôi cả, vì lúc này tôi chỉ nghĩ đến Xa-nhi-a...

    - Chỉ có một con đường thôi, - cuối cùng Rô-ma-sôp nói bằng một giọng đắc ý và có vẻ bí mật. - Vấn đề là cả vùng Ki-ép bâv giờ đều nằm trong tay du kích. Rõ ràng là du kích có liên lạc thường xuyên với bộ chỉ huv mặt trận, cần phải hiểu rõ mối quan hệ này. nghĩa là cần phải cử một người đi thu thập tất cả mọi tin tức về Xa-nhi-a.

    Pê-chi-a gác chéo chân, chống tay lên cằm, đưa mắt nhìn anh ta.

    - Làm việc này chúng ta sẽ gặp hai khó khăn, - Rô-ma-sốp nói tiếp. - Thứ nhất: chúng ta đang ở giữa Lê-nin-grát. Thứ hai: muốn tìm kiếm Xa-nhi-a hoặc thu thập tin tức về anh ấy thì phải do một cấp lãnh đạo cao thì mới ra lệnh được. Muốn làm được việc này không phải dễ dàng. Nhưng chẳng có việc gì trên đời mà khó đến nỗi không thể làm được. Đằng chỗ tôi ở, tức là chỗ bộ tư lệnh du kích Lê-nin-grát đóng có một số người tôi quen. Tôi sẽ nhận lãnh phần việc này, - mặt anh ta bỗng tái nhợt đi và anh ta nói thêm, - đương nhiên với điều kiện là không có những khó khăn khách quan cản trở...

    “Những khó khăn khách quan” lúc nào mà chẳng có. bản thân cuộc sống cũng là một loại “khó khăn khách quan” đấy thôi. Từ lâu, bên kia hồ La-đô-ga đã được gọi là “đại lục” , ngay cả liên lạc bằng điện báo thông thưòng cũng gặp khó khăn.

    - Pê-chi-a, sao anh chẳng nói năng gì cả thế?

    - Tôi đang mãi nghe, - Pê-chi-a như choàng dậy trong giấc mơ. - Đúng là như thế. Rất khó có thể nói rằng sẽ tập hợp được tin tức gì, nhất là trong tình hình này. Nhưng dứt khoát là phải bắt đầu tiến hành thôi, về mặt này, đồng chí Rô-ma-sôp nói rất đúng. Сa-chi-a ạ, nếu ở địa vị chị thì tôi sẽ viết ngay một bức thư gửi cho đơn vị của Xa-nhi-a.

    - Chị Ca-chi-a thân yêu, - sau khi Rô-ma-sôp đi rồi, Pê-chi-a nói với tôi. - Tôi nói với chị thế nào cho phải bây giờ nhỉ? Thực ra tôi vô cùng khinh ghét hắn ta, nhưng cái đó cũng chẳng để làm gì cả, có phải không chị? Trong con ngưòi hắn ta có một cái gì rất nguội lạnh, mờ ám và kinh tởm. Tất cả những cái đó lộ ra rất rõ trong từng lời nói, cử chỉ của hắn ta. Ngay lúc ấy sao mà tôi muốn vẽ hắn ta đến thế, cái đầu cứ vuông trằn trặn như một quả dưa bị bẹt ấy! Song đó chỉ là những cái vặt vãnh, rất vặt vãnh! Theo tôi cái quan trọng nhất ở hắn là hắn có thể làm được việc.

    - Đúng thế.

    - Và hắn ta luôn luôn quấn lấy chị.

    - Cái đó cũng rõ rồi.

    - Chị có thể cùng hắn đến bộ tư lệnh đội du kích không?

    - Tất nhiên là được.

    - Thế thì chị hãy đi một chuyến đi. Nhưng đồng thời cũng phải viết thư nữa, và phải thường xuyên nghe ngóng, cái đó quan trọng lắm đấy. Làm như vậy chị cũng sẽ cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hơn. Trông chị bây giờ gầy lắm, và có phần hốc hác nữa đấy, - anh cầm lấy tay tôi nói. - Tội nghiệp quá, chắc lại chẳng ngủ được chút nào phải không?

    - Không, tôi vẫn ngủ đấy chứ.

    - Nhất định Xa-nhi-a sẽ trở về. Nhất định sẽ như thế thôi, - tôi nhắm nghiền hai mắt và cố giữ đôi môi đang run bắn lên để nghe Pê-chi-a nói. - Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp hết, vì tình yêu của chị đối với Xa-nhi-a sâu nặng lắm. bất cứ nỗi đau khổ nào đứng trước mối tình ấy cũng phải cúi đầu lùi bước. Hầu như ngoài chị và Xa-nhi-a ra, không còn ai có thể yêu nhau mãnh liệt, gan góc, thủy chung như thế. Nếu có người yêu chị tới mức đó thì người ấy sẽ không bao giờ chết! Chị không được hủy hoại sức khỏe, không ai cho phép chị được làm như thế đâu. Trước hết là tôi. Và còn Xa-nhi-a nữa chứ. Chẳng lẽ chị cũng cho là anh ấy đã chết thật rồi sao?

    Tôi nghe Pê-chi-a nói, trong lòng cũng cảm thấy dễ chịu đôi phần. Một hồi ức mơ hồ, xa xôi chợt hiện ra trong óc tôi: Xa-nhi-a mặc quần áo ngủ nhìn tôi với dáng vẻ hết sức mệt mỏi. Lúc này tuy đã khuya nhưng trong phòng rất sáng. Tiếng hát của một chàng trai ởvphòng bên vọng sang. Tôi nằm trên sàn, lắng nghe, nghe mãi, hai tay ôm chặc thái dương. Lời bài hát đó như sau: ‘'Những ngày khổ ải sẽ qua, ngày vui sẽ đến, hết biệt ly là ngày gặp mặt. Mọi việc sẽ tốt đẹp như ý ta mong chờ. Vì những câu chuyện thần tiên mà chúng ta tin tưởng vẫn còn tồn tại trên trái đất này..."

    Có thể đi tàu điện tới mặt trận. Sư đoàn của Pê-chi-a hiện nay đang đóng ở Xla-vi-an-xcơ. Anh yêu cầu tôi đừng đi tiễn vì đi lại lúc này rất nguy hiểm. Hơn nữa không có giấy thông hành rất dễ bị giữ lại ở Rư-bát-xki. Nhưng tôi vẫn nhất quyết tiễn anh về.

    - Không sao, chỉ có anh mới sợ bị bắt giữ, chứ tôi thì quen cả đến tư lệnh bảo vệ thành phố kia.

    Tàu điện chật ních người và ồn ào như chợ vỡ. Nhưng tôi vẫn tranh thủ đọc cho hêt bức thư của bà tôi vừa gửi đến. Gần đâv Pê-chi-a cũng nhận được một lúc bốn bức thư và mười hai tấm bưu ảnh. Tình hình Lê-nin-grát trong những ngày gần đây là như thế đấy: có đến hai ba tuần lễ không ai nhận được một chữ nào từ “đất liền” gửi ra. nhưng rồi đùng một cái nhận được những một đống thư. Vừa rồi lúc còn ở nhà. tôi chỉ đọc tấm bưu ảnh. Trên tấm bưu ảnh ấy bé Pê-chi-a viết thêm vào phía dưới một dòng bằng những nét chữ ngoằn nghèo to tướng: “Bố ơi, bà và con nuôi được một con thỏ đấy'’. Cái dáng điệu hết sức đáng yêu của bé khi bé ngồi viết thư: đầu nghiêng nghiêng, lông mày chau lại giông hệt như mẹ bé lại hiện lên rõ mồn một trong ký ức tôi. Lúc này bé đang sống trong vùng an toàn. Được ăn no, khỏe mạnh, cả bà cũng vậy. Trong những ngày cực kỳ gian khổ này còn có thể mong mỏi được gì hơn thế nữa?

    - Có phải như thế không Pê-chi-a?

    - Đúng là như thế đấy. - anh nói giọng buồn buồn. - Chị không biết chứ, tôi nhớ cháu đến cháy cả ruột gan

    Tàu điện đã chạy qua phố Rư-bát-xki. Có người cho biết rằng đến ga cuối cùng hành khách sẽ bị kiểm tra giấy tờ rất gắt gao. Pê-chi-a tỏ ý lo lắng cho tôi, Thế là tôi quyết định quay về.

    - Thôi chúc anh mạnh khỏe luôn nhé, Pê-chi-a thân yêu!

    - Nhất định là tôi sẽ khỏe mạnh luôn rồi. - anh cười nói vui vẻ. Bé Pê-chi-a cũng thường trả lời như thế.

    Chúng tôi đưa cao tay vẫy chào nhau giữa những người lạ mặt đi trên tàu. Đến lúc này tôi chợt ân hận vô cùng vì từ lúc gặp nhau tôi chưa hề hỏi thăm chút nào về hình hình riêng của Pê- chi-a. “Nhưng đây không phải là lần gặp cuối cùng, sẽ còn nhiều dịp gặp anh ấy nữa". Tôi tự an ủi như vậy. Đơn vị của anh ấy đóng gần quá, chỉ cần xin phép bệnh viện nghỉ một buổi là có thể đến thăm được rồi!

    Nhưng tôi nào có biết rằng, sau đó phải qua biết bao nhiêu ngày gian nan khố ải chúng tôi mới lại được gặp nhau.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  13. Rafa

    Rafa SV

    Chương 14

    Hết nguồn hy vọng

    Bà Béc-ta chết đúng vào cái ngày thành phố bị oanh tạc dồn dập nhất giữa tháng mười hai, Trong thời kỳ này, các cuộc oanh tạc thường mở màn từ lúc mờ sáng hoặc nói một cách chính xác hơn là liên miên suốt cả ngày đêm. Bà ấy chết không phải vì đói đâu. Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đáng thương đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại như thế.

    Bà nhất quyết mai táng ngưòi chị xấu số ấy vào một ngày đã chọn. Nhưng đó là điều không thể nào thực hiện được. Vì thế bà đành phải mời một người đàn ông Do Thái gầy còm, mặt lúc nào cũng nhăn nhó đến đọc kinh thánh suốt một đêm. Người chết được choàng tấm áo liệm làm bằng hai chiếc chăn đơn không khâu dính vào nhau theo đúng như lễ nghi cũ và được nằm ngay trên sàn nhà. Bom nổ ì ầm rất gần. Đến tối hôm đó cả dãy phố Mác-xim Goóc-ki đều không có mảnh cửa kính nào còn nguyên vẹn nữa. Chóp lửa và ánh tuyết rọi sáng đuờng phố, tạo nên một cảnh tượng khủng khiếp. Nhưng người Do Thái nọ vẫn điềm tĩnh ngồi đọc kinh và sau đó ông ta đã ngủ thiếp đi một cách bình thản. Trời vừa sáng, tôi bước vào gian buồng ấy, thấy..ông ta gối đầu lên sách kinh và ngủ ngon lành.

    Không biết Rô-ma-sôp xoay đâu ra được quan tài. Lúc này là vào tháng mười hai, còn có thể kiếm ra quan tài được.

    Anh ta vui vẻ chạy lên chạy xuống cầu thang, đi ra sân sau hàng chục lần, lúc thầm thì nói chuyện với người quản gia, lúc vỗ vỗ vào vai bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na, sau đó lại nổi khùng lên với bà ta vì bà ta nhất quyết cho người chết khoác theo hai chiếc chăn đơn.

    - Hãy đổi hai chiếc chăn đơn ấy đi. - anh ta hét lên. - Bà ấy không cần những cái của tốt ấy đâu!

    Tôi xua anh ta đi và nói với bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na rằng mọi việc sẽ được tiến hành theo như ý muốn của bà.

    Tờ mờ sáng, những bông tuyết cứng và nhỏ nhảy múa loạn xạ rồi rơi xuống mặt đất một cách vội vàng. Rô-ma-sốp cùng mấy người nâng chiếc quan tài lên, khó nhọc khiêng lách qua cầu thang đi ra sân sau, đoạn đặt lên trên một chiếc xe trượt tuyết chờ sẵn. Tôi vốn định cho mỗi người một ít tiền, nhưng Rô-ma- sốp nói rằng anh ta đã giao kèo với họ sẽ trả công bằng bánh mì.

    - Nào, bây giờ mỗi người lĩnh truớc một miếng bánh mì nhé?

    - Rô-ma-sốp nói giọng vui vẻ.

    Họ không nhìn anh ta, nhưng đều gật đầu đồng ý.

    - Ca-chi-a, cô có lên gác không? - Anh ta nói tiếp luôn. - Cô chịu khó lấy hộ gói bánh mì trong túi áo khoác của tôi xuống đây với.

    Tôi không rõ tại sao anh ta lại cất bánh mì vào trong túi áo khoác, có lẽ vì sợ Rô-da-li-a Na-u-mốp-na hoặc người đàn ông Do Thải kia trông thấy chăng? Chiếc áo khoác ấy anh ta mắc ở phòng trước cửa gác hai.

    Tôi leo lên gác và còn nhớ là lúc ấy tôi còn dừng lại một lúc đế suy nghĩ xem mình có nên mặc thêm áo ấm không? Từ tối hôm qua tôi cảm thấy trong người hơi lạnh. Có lẽ tôi không nên theo ra nghĩa trang, từ đây đến đó xa tới bảy cây số. Nhưng tôi lại chần chừ không quyết được vì sợ rằng nếu tôi không đi theo thì rất có thể bà Rô-da-li-a Na-u-môp-na sẽ bị ngã ngất dọc đường.

    Trong túi chiếc áo khoác của Rô-ma-sốp có một chiếc bánh mì gói bằng giấy. Khi thò tay vào túi áo đế lấy bánh mì ra. tay tôi chạm phải một vật gì mềm mềm nữa. Cái vật mềm ấy rơi xuống đất. Tại nơi đó rất tối nên tôi phải đi ra phía đầu cầu thang mở cửa sổ ra mới có thể tìm thấy được. Đây là một chiếc bao da đựng tẩu thuốc lá, một trong những vật phẩm trước đây chúng tôi gửi ra mặt trận biếu các chiến sĩ. Tôi do dự một chút rồi mở chiếc bao da ấy ra. Trong đó có một tấm ảnh và mấy chiếc nhẫn đeo tay. Tôi liền lấy làm khó chịu mà nghĩ rằng “không biết lão ấy lại xoáy ở đâu ra thế này”. Tấm ảnh đã cũ lắm rồi, bị nhàu hết cả, những dòng chữ ghi ở mặt sau đã bay màu nên rất khó nhận ra. Tôi vốn định cất tấm ảnh ấy vào lại bao da, nhưng một thứ cảm giác kỳ lạ đã ngăn tôi lại. Tôi nhớ mang máng như đã nhìn thấy tấm ảnh này ở đâu rồi thì phải. Phía đầu cầu thang sáng hơn. tôi bước ra đó và dò đọc từng chữ một: “Nếu đã là ngưòi...”. Như có một tia chớp sáng ngời chói lên trong tim tôi. Tôi đọc nốt dòng chữ trên tấm ảnh: “Nếu đã là người phải một người giỏi nhất".

    Tôi không rõ sau đó như thế nào. Hình như tôi kêu lên một tiếng thất thanh rồi ngồi bệt xuông đầu cầu thang, đưa tay mò tìm tấm ảnh vừa bị rơi xuống sàn. Tôi nhìn tấm ảnh qua màn nước mắt, nhận ra bộ mặt giống phụ nữ của đồng chí TR. Đồng chí đang đội chiếc mũ bay của phi công, bên dưới đôi lông mày rậm là một đôi mắt hiền lành dễ mến. Đấy là tấm ảnh mà lúc nào Xa-nhi-a cũng mang theo nguời. Mặc dù tôi đã nhiều lần nói với anh rằng không nên cất ảnh ở trong túi, vì như thế rất dễ bị hỏng, mà nên đặt bên dưới kính lót bàn. Nhưng anh vẫn cất tấm ảnh này vào ví da cùng với những giấy tờ khác, và luôn luôn mang theo người.

    Tôi lao bổ về gian phòng trước như một người loạn trí giật lấv chiếc áo khoác của Rô-ma-sốp từ trên mắc áo xuống; ném ra đầu cầu thang rồi vạch hết các túi ra tìm xem còn có thứ gì nữa không. Thế là Xa-nhi-a đã chết thật rồi, chết vì có kẻ làm hại anh. Lúc ấy tôi không rõ mình lục tìm cái gì nữa. Rô-ma-sốp đã giết chết anh ấy rồi! Trong một túi áo khác thấy có một ít tiền, tôi cuộn chúng lại thành một cuộn rồi vứt xuống chân cầu thang. Hắn đã giết anh ấy và đoạt lấy tấm ảnh này! Tôi không khóc. Hắn đã ăn cắp các thứ giấy tờ, tài liệu và tấm ảnh, cuỗm cả huân chương của anh ấy để không ai có thể nhận ra cái xác chết lẻ loi ở trong rừng. Trong tâm trí tôi chợt vang lên câu nói của ai đó: “Trong túi da của Xa-nhi-a còn đựng nhiều tài liệu rất quan trọng khác nữa” và tôi tuởng chừng như có người nào đó đã thắp lên ngọn nến sau từng lời nói của Rô-ma-sôp, làm cho nó sáng rõ lên.

    Tấm ảnh này Xa-nhi-a thường để trong túi da. Một số tài liệu khác và số báo “Chim ưng đỏ” anh cũng để trong chiếc túi da ấy, nhưng tất cả các thứ tài liệu kia đều đã bị uớt và mất hết rồi. Trước kia có lần Rô-ma-sốp than phiền rằng: “báo chí bị ướt nát ra cả”. Nhưng tấm ảnh này vẫn được anh giữ gìn cẩn thận, chắc là anh đã dùng giấy không thấm nước bọc ngoài và cất cẩn thận vào túi áo...

    Bên dưới cầu thang vọng lên tiếng bà Rô-da-li-a Na-u-mốp- na gọi tôi. Tôi giấu tấm ảnh vào người, bỏ chiếc bao da vào túi áo khoác của Rô-ma-sôp, móc trả nó lên chỗ cũ, đoạn bước: xuống cầu thang đưa bánh mì cho Rô-ma-sốp.

    Hắn hỏi tôi:

    - Cô làm sao thế? Trong người khó chịu à?

    Tôi đáp lại:

    - Không, tôi vẫn khỏe như thường.

    Mọi thứ đều như tiêu tan không còn tồn tại nữa. Dòng người tiến bước chậm rãi trên dãy phố trống trải. Thinh lặng không một tiếng động kia như đang diễn ra trong một giấc mộng, dần dần dãy phố ấy cũng tan biến mất trước mắt tôi. Toa tàu điện bị phủ đầy tuyết nằm giữa đường phố, nóc toa giống hệt như những mái nhà ở nông thôn. Toa tàu ấy dần dần rồi cũng tan biến mất! Một nguời thân hình bé nhỏ như trẻ con, quấn vải khắp mình mẩy nằm ườn trên xe trượt tuyết, chiếc xe bé nhỏ bỗng bắt đầu di động. Đến lúc này tôi mới sực nhớ ra là Rô-ma-sốp có bảo rằng không nên dùng quan tài nữa vì xe nhỏ quá không thể đặt lên được.

    - Không sợ lỗ đâu, sau này chúng ta sẽ bán cho nguời khác, - hắn nói.

    Hinh như bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na cũng đang phát khùng lên vì bà một mực đòi phải đặt nguời chết vào trong quan tài. Tôi vừa nghĩ đến những chuyện đó lại lập tức quên biến ngay. Con đường hẻm chạy dọc theo phố Pư-sca-rơ-xcai-a rất chật chội, hai nguời đi cũng khó lách nổi. Một cô gái khá phốp pháp phải giẫm vào đống tuyết bên đường để nhường chỗ cho chúng tôi đi qua. Lại gặp một người đàn ông đeo lủng lẳng trên lưng một gói hành lý buộc bằng dây thừng. Tôi nhìn họ rồi lập tức quên biến họ ngay. Cái gì tôi cũng nhìn thấy, dãy phố yên tĩnh bị tuyết phủ kín, cái xác chết quấn vải đặt trên xe trượt tuyết; bên kia đường- một người đàn bà đi theo đưa đám ma. bà ta đi đuợc mấy buớc lại dừng lại một chút, chập sau bị rớt lại đằng sau. Cả thành phố bị phủ một màu trắng chìm ngập trong băng tuyết hiện ra lung linh trước mắt tôi, tựa như một cái bóng khổng lồ lướt qua mặt kính một cách lặng lẽ và không hề để lại dấu vết gì.

    Tôi còn nhìn thấy một cảnh tượng đau lòng khác; Xa-nhi-a nằm xoài hai chân, mặt úp xuống đất, vết thương ở chân đầm đìa máu, và hung thủ đang đứng ngay bên cạnh anh. Trong khu rừng bạch dương ướt át này chỉ có Xa-nhi-a và Rô-ma-sốp!:rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  14. Rafa

    Rafa SV

    Chương 15

    Cầu mong mối tình của em cứu sống được anh

    Nghĩa trang Do Thái ở xa quá, không có cách nào hơn, nên bà Rô-đa-li-a Na-u-môp-na đành phải bằng lòng chôn cất người chị xấu số vào nghĩa trang công cộng Xmô-len-xki. Người đàn ông Do Thái có bộ mặt đăm chiêu được mời đến đọc kinh kia, sau khi nhận được sáu trăm gam bánh mì trả công liền đồng ý đi theo thi hài “khách hàng” của mình, như lão ta thường nói, tới nghĩa trang chính giáo.

    Những ngày tháng Mười hai rất chóng tối, việc an táng bận rộn suốt từ sáng đến tối, đến bây giờ tôi cũng không còn nhớ rõ cảnh tượng ngày hôm ấy ra sao nữa. Truớc mắt tôi giờ đây như đang mở ra một phim câm. Một thứ cảm giác xa mờ như trong mơ cứ lúc hiện ra. lúc lẩn khuất trên lớp tuyết của đảo Va-xi-li- ép-xkỉ.

    Chúng tôi bước đi, chẳng có cảm giác gì cả ngoài nỗi buốt lạnh, mệt mỏi cùng với cái xác đã bị khô cứng kia. Cứ hai đứa trẻ một thay phiên nhau kéo cái xác lên dốc. Khi xuống dốc, cái xác cứ lăn lông lốc rất nhanh, tuồng như nó muốn nhanh chóng giải phóng chúng tôi khỏi cái việc phiền phức mà bản thân nó không hề muốn gây ra này vậy.

    Những sợi dây thép buộc trên cái xác ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Không hiểu sao, khi nhìn thấy thứ ánh sáng này, tôi chợt nhớ đến cảnh sắc ở Cri-mê cùng với màu xanh của biển cả. Chúng tôi đã từng sống ở Cri-mê êm đẹp đến chừng nào! Hôm nào Xa-nhi-a cũng ngủ dậy từ năm giờ sáng. Nếu biết trước hôm ấy anh phải bay cao thì tôi dọn cho anh một bữa ăn sáng thật ngon. Chúng tôi mua một chiếc hoa sen tắm hiệu “tiêu chuẩn”, tôi chuẩn bị hết mọi thứ, Xa-nhi-a tắm xong, mặc bộ quần áo ngủ màu vàng vào là có thể ngồi ngay vào bàn ăn. Có một lần, chúng tôi cùng đến Xê-va-xtô-pôn chơi. Hôm ấy gió biển rất lộng, trời đất tối sầm, các phi công thường được nghỉ ngơi vào nhũng ngày thời tiết xâú. Tôi rất buồn chán, nhưng Xa-nhi-a lại bảo: “Em cứ yên trí, anh sẽ làm thay đổi thời tiết cho em”. Quả nhiền chiếc xuồng máy của chúng tôi vừa rời khỏi bờ thì trời bỗng quang quẻ hẳn ra.

    Tôi mặc chiếc váy liền áo màu trắng, cùng đứng trên một boong tàu sạch sẽ, đẹp đẽ với anh. Tôi vừa nói vừa cười, cố gắng làm cho mình đẹp thêm lên; vì tôi biết rằng anh thích người khác ngợi khen sắc đẹp của tôi. Những phút ấy sao mà tôi cảm thấy sung sướng, thư thái đến thế! Cho dù anh nhìn về hướng nào: hướng tay vịn bằng đồng trên buồng thuyền trưởng, hướng những con sóng bị gió thổi nghiêng ra sau, hay hướng những cánh chim hải âu bị ướt đẫm nước biển kia - anh đều bắt gặp những tia sáng rạng rỡ của ánh mặt tròi.

    Tôi thu nguời lại, mặt lạnh cóng, hai tay phải luôn luôn đỡ lấy Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đang khó nhọc tiến từng bước một theo sau chiếc xe trượt tuyết. Chiếc xe lúc cách xa chúng tôi, nhưng có lúc vì bọn trẻ mãi dừng lại hút thuốc nên rất gần chúng tôi. Tôi cũng đang cùng một tâm trạng với bà, rất thương tiếc người xấu số đã qua đời. hình như Rô-ma-sốp cũng đồng một tình cảm như vậy, nên khi đuổi theo kịp chúng tôi, anh ta nói:

    - Ca-chi-a, cônđi theo đến đây làm gì? Cô sẽ bị ốm mất. Cô hãy quay về đi thôi.

    Tôi ngước lên nhìn anh ta, con người này mà cũng có thể nói lên những lời âu yếm kia ư? Anh ta mặc chiếc áo da ngắn màu trắng, ngang lưng buộc chiếc thắt lưng da có đeo lủng lắng khẩu súng lục. Đấy là một con người sống hẳn hoi. Tôi há mồm để thở. Đây là một cơ thể lành lặn, khỏe mạnh. Tôi cúi xuống vốc một nắm tuyết cho vào mồm. Sợi dây thép buộc xác chết vẫn cứ ánh lên những tia làm lóa cả mắt, khiến tôi không thể không luôn luôn nhìn tới nó.

    Đã đến nghĩa trang. Chúng tôi phải chờ đợi khá lâu trong một căn phòng chật hẹp bẩn thỉu. Bốn bức tuờng của căn phòng có nhiều kẽ hở được bịt kín bằng dăm bào đã đóng đầy băng. Một bà nhân viên quản lý nghĩa trang ngồi bên bếp lò, hơ đôi chân béo múp quấn đầy giẻ rách bên ngọn lửa. Rô-ma-sốp hình như bị phật ý cái gì đó đang nổi cáu với bà ta. Một lúc sau có người báo cho chúng tôi biết rằng huyệt đã đào xong. Mấy đứa trẻ cầm cuốc xẻng đứng bên đông đất phủ đầy tuyết. Chúng nó không hề muốn đem chôn bà Béc-ta xuống sâu như thế. Rô-ma-scíp sai chúng đi
    khiêng cái xác lại. Người đàn ông Do Thái cao lêu nghêu, có bộ mặt lúc nào cũng nhăn nhó lại lẽo đẽo đi theo sau xe trượt tuyết, luôn mồm ra lệnh phải dừng lại để lão đọc kinh cầu nguyện. Rô- ma-sốp buộc dây vào cái xác, nâng lên một cách nhẹ nhàng rồi đạp ngã chiếc xe trượt tuyết sang một bên. Bây giờ bà Béc-ta đã hoàn toàn nằm trên mây đầu dây. Bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na hôn từ biệt lần cuối cùng ngưòi chị xấu số của mình. Lão Do Thái vẫn đọc kinh, lúc trầm trầm buồn thảm, lúc lại cất hẳn giọng lên khiến ai cũng phải đế ý đến.

    Chúng tôi quay về phòng đợi để sưởi ấm. chữ “chúng tôi” ở đây là để chỉ tôi và Rô-ma-sốp. Anh ta vỗ vỗ vào túi áo, ra hiệu ngầm cho tôi, chờ khi mọi người ra hết ngoài“ cổng, chúng tôi liền bước vào phòng.

    - Ta uống chút gì chứ?

    Ôi trái tim tôi bắt đầu cháy bùng lên, nó đập dồn dập như trống dồn, từng đợt máu nóng hổi dồn về tứ chi! Tôi cảm thấy trong người nóng bức khó chịu vô cùng, phải mở khuy áo và lấy khăn choàng trên đầu xuống. Tôi lê đôi chân nhẹ lâng, bàng hoàng đi đi lại lại trong phòng.

    - Cô uống thêm một cốc nữa chứ?

    Người đàn bà to béo kia nhìn tôi thèm thuồng, tôi bảo Rô-ma- sốp rót cho bà ta một cốc. Khi rót rượu cho bà ấy, chắc Rô-ma-sốp nghĩ trong bụng: “Mẹ kiếp, lại cấu xé của ông rồi!” Anh ta có vẻ rất phân chấn, mặt tái đi, tai đỏ dừ, chiếc mũ che tai hất ra sau gáy. Tôi cũng rất vui, tôi cầm một tấm bia màu đen để trên bàn đưa cho Rô-ma-sốp và nói đùa:

    - Cái này là để dành cho anh đấy.

    Anh ta cười hềnh hệch.

    - Bây giờ cô mới trở lại như Ca-chi-a trước kia!

    - Nhưng vẫn không phải là của anh đâu.

    Anh ta chồm đến truớc mặt tôi, kéo ghì lấy hai tay tôi. cằm anh ta rung lên, miệng há ra để lộ hai hàm răng bé nhỏ như răng trẻ con. Kể cũng lạ, từ trước đến nay chưa bao giờ tôi phát hiện được răng anh ta nhọn sắc và nhỏ đến như thế.

    - Không, của anh chứ! - Giọng anh ta gần như lạc đi.

    Tôi rút tay ra khỏi tay anh ta. Lúc này tôi chợt nhìn thấy trên khung cứa sổ có một chiếc búa. chắc là dùng để đóng tấm biển có viết chữ lên mặt kia. Tôi thong thả cầm chiếc búa thép lên, nó tuy không lớn lắm nhưng khá nặng...

    Nếu đánh trúng vào thái dương thì chuyến ấy Rô-ma-sôp đã bị chết vì tay tôi rồi. Nhưng anh ta đã kịp lùi lại một bước nên bị xướt da thôi. Người, đàn bà to béo kia hãi quá, vừa kêu toáng lên, vừa lao ra phía cửa phòng. Rô-ma-sốp đuổi theo, kéo bà ta lại và đóng kín cửa lại. Xong anh ta đi lại phía tôi.

    - Hãy buông thả tôi ra! Tôi hét lên giọng giận dữ. - Anh là kẻ giết ngưòi, anh đã sát hại Xa-nhi-a!

    Hắn ta im lặng, không nói một lời nào. Chỗ bị thương máu chảy đầm đìa. Hắn lấv tay chùi rồi vảy xuống sàn nhà, nhưng máu vẫn cứ túa ra giàn giụa, chảy giọt xuông vai, xuống ngực áo. Cả chiếc áo da ngắn đềư ướt đẫm máu.

    - Phải cầm máu lại ngay, hắn ta lẩm nhẩm mắt không nhìn tôi. - Ca-chi-a, cô có đi kiếm được một chiếc khăn tay sạch nào không?

    - Thôi được, cứ coi như tôi đã giết chết anh ấy đi, vậy thì tại sao tôi vẫn giữ tấm ảnh này lại? Chúng tôi vốn định đem chôn luôn cả các thứ tài liệu của Xa-nhi-a đi, vì lúc ấy Xa-nhi-a cầm trong tay số tài liệu này. Nhưng tấm ảnh thì hình như đã bị rơi mất. Tôi sợ cô không tin ỉời tôi nói, nên tôí không dám nói cho cô biết là tôi đã tìm được tấm ảnh ấy. Cô thật chẳng hiểu chút gì là chiến tranh cả! Tôi lại có thể giết chết một người của mình ư? Thật là một ý nghĩ điên loạn! Mặc dầu anh ấy là người như thế nào và có quan hệ gì với tôi đi nữa. Giết chết một người bị thương ư? Ca-chi-a! Đấy là những lời không ai có thể tin được!

    “Không ai có thể tin được”, Rô-ma-sốp lặp đi lặp lại câu này đến mấy lượt. Hắn sợ tôi đem điều nghi ngò của mình tố giác với tòa án quân sự hoặc viện kiểm soát. Hắn trút ra toàn bộ tiền và bánh mì mang theo cho nguời đàn bà quản lý nghĩa trang. Tôi nghe tiếng hắn bảo bà ta: “không được phép để lộ với ai câu nào đấy nhé”. Sau đó hắn không đi nhà thương. Bà Rô-da-li-a Na-U- mốp-na đã giúp hắn dán thuốc cao vào cái vết thương khá to ấy ở trên thái dương.

    - Đúng là tôi không ưa Xa-nhi-a, đó là sự thực mà tôi cũng chẳng giấu giếm làm gì. - Rô-ma-sôp nói tiếp. - Nhưng từ khi phát hiện ra anh ấy trên toa tàu chở thương binh, trông thấy vết thương trên chân anh ấy, trông thấy khẩu súng lục rơi ra bên đầu anh ấy thì tôi không nghĩ gì đến anh ấy nữa mà nghĩ ngay đến cô. Sau khi nhận ra tôi, anh ấy mừng vô cùng. Cái đó không phải là không có nguyên nhân. Chính vì anh ây biết rằng tôi sẽ là cứu tinh của anh ấy. Trong khi tôi đi tìm nguời đến khiêng anh ấy thì anh ấy đã tự biến đi đâu mất. Cái đó không thể là lỗi ở tôi được!

    Rô-ma-sốp đi đảo qua đảo lại trong căn phòng hẹp, vừa buớc vừa nói liên hồi... Anh ta đưa tay ôm đầu, lúc này cái bóng luôn luôn đi theo anh ta ở trên tường cũng dừng lại và dài ra giống một con quái vật có hai cái mũi rất to. Tôi muờng tượng nhớ đến những ngày xa xăm của thời thơ ấu, như nghe văng vẳng tiếng nói của mẹ tôi hồi nào: “Con xem kìa, một con bò già đấy”. - Tôi nằm trên chiếc giường con. mẹ tôi ngồi bên cạnh, đưa tay tới phía trước bức tường, bà cười, tôi không nhìn cái bóng kỳ dị trên tường mà cứ nhìn vào tay bà. “Kìa, một con sơn dương râu dài..." Hai mắt tôi ướt đẫm, nhưng tôi không lau nước mắt, vì lúc này rút tay từ trong đống chăn ra và áo ấm ra sẽ rất lạnh,

    - Quả thực là do số mệnh xui khiến đã đem tai bay vạ gió đến cho tôi. Tôi mà giết anh ấy ư? Mỗi ngày người ta khiêng ra khỏi toa tàu vài ba xác chết. Nếu như ngày hôm sau có người trông thấy xác một phi công bắn vào đầu tự sát, mà người phi công đó đã từng bị tuyên bố là mất tích ở một nơi nào đấy thì sẽ không có ai ngạc nhiên cả. Dù sao tôi cũng không thể là ngưòi giết anh ấy được, - Rô-ma-sốp nói như gào lên. - Cái ý nghĩ mong Xa-nhi-a chết để giành lấy hạnh phúc của anh ta là một ý nghĩ đê tiện, không thể tha thứ được. Vì vậy tôi đã quyết tâm vì cô mà ra sức cứu sống anh ấy. Thế mà bây giờ cô lại dám đổ tội cho tôi giết chết anh ta. Không hề! - Rô-ma-sốp nói giọng trịnh trọng. - Xin lấy cái thiêng liêng nhất trong đời tôi: mối tình của tôi đối với cô mà thề đấy! Nếu Xa-nhi-a đã hy sinh rồi thật thì về bất cứ phương diện nào, tôi cũng không có gì sai trái cả.

    Anh ta muốn cài cúc áo da lại, nhưng các ngón tay cứ run lẩy bẩy, không sao cài được.

    Nếu tôi có thể, nếu tôi còn dám tin lời anh ta nói một lần nữa thì hay biết bao nhiêu! Nhưng tôi vẫn lạnh lùng nhìn bộ mặt khô khan, nhìn đôi mắt lõm sâu một cách không tự nhiên, nhìn những món tóc vàng rối bời rũ trước trán, nhìn lớp kem xoa dày trên mặt làm cho hai bên má bị võng xuống mà mặt da thì lại căng ra khó coi kia của anh ta.

    - Cút đi!

    - Cô đang bị mệt, cô hãy để tôi ỏ lại đây với cô.

    - Cút ngay đi!

    Tôi không biết truớc kia có bao giờ hắn khóc chưa. Bây giờ hắn gục mặt xuống giường không chịu đứng lên, toàn thân rung lên dữ đội, và hắn nấc lên, nước mắt giàn giụa. “Xa-nhi-a chắc còn sống” đột nhiên tôi nghĩ như vậy. Một cảm giác hạnh phúc làm cho trái tim tôi đập rộn lên, rồi như dừng hẳn lại. “Cái thằng cha quì trước mặt mình đây không còn là người nữa rồi mà hắn đã trở thành một con quỉ dữ, không, không thể được, không thể bày trò giả mạo để đánh lừa ta được”.

    - Cút ra ngoài ngay đi!

    Tôi không biết đuổi hắn đi đâu nữa. Hắn ở trong nhà chúng tôi đã gần một tháng nay rồi. Cũng chắng hiểu vì sao những ngày trước bà Rô-da-li-a Na-u-mốp-na đã hăng hái đi đăng ký hộ khẩu cho hắn. Lúc này đang nửa đêm, lại là lúc đang thiết quân luật. Nhưng hắn ta vẫn phải ra đi và trong nhà chỉ còn lại mỗi mình tôi.

    Tiếng còi báo động rú lên Sau đó cửa kính bị tiếng nổ làm rung dữ dội, ngọn dèn dầu vàng lợt để trên bàn cũng run rẩy muốn tắt. Không biết trong cánh rừng bạnh dương ướt đẫm kia đang xảy ra chuyện gì?

    Tôi nằm co rụt trong mấy lớp chăn và áo khoác nên không nghe tiếng còì báo an. Báo an xong, lại báo động tiếp theo ngay. Tiếng còi rền vang nhức nhối. “Tin hay không tin hắn ta nhỉ?”

    Đêm đông, trong một thành phố đói rét, trong một căn phòng lạnh lẽo, dưới ngọn đèn dầu leo lét, phải luôn luôn vật lộn với bóng tối từ các góc nhà cứ chực xô ra. Trái tim tôi đang nguyện cầu, nguyện cho mối tình của tôi cứu vớt được anh, cầu cho niềm hy vọng của tôi nuôi dưỡng bảo vệ được anh. Hãy để cho mối tình của em bay đến bên anh, ngắm nhìn đôi mắt của anh, thổi sự sống vào đôi môi khô cứng của anh! Em sẽ áp bộ mặt nóng bỏng của em vào vết thương đầy máu của anh. Nói để anh biết: em đây, Ca-chi-a của anh đây! Cho dù anh ở chân trời góc biển, em cũng sẽ tìm đến bên anh. Cho dù anh có gặp bao điều không may, em cũng sẽ sát cánh cùng anh. Bất kể người nào đã từng giúp đỡ anh, cho anh uống nước, cho anh ăn cơm thì người đó cũng chính là em, là Ca-chi-a của anh đó. Nếu thần chết vồ xuống đầu anh. anh không còn đủ sức vật lộn với nó nữa, nếu lúc ấy trong trái tim anh. cho dù chỉ còn phảng phất một chút sức lực - thì đó cũng chính là em. Nhất định em sẽ cứu sống anh.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  15. Rafa

    Rafa SV

    Chương 16

    Xin chào - Lê-nin-grát

    Tháng Giêng năm 1942. tôi được đưa ra khỏi Lê-nin-grát. Cơ thể tôi bị suy nhược quá thể nên bác sĩ không cho phép đi tàu hỏa. Vì vậy chị Va-ri-a đã tìm đủ mọi cách để tôi được đi máy bay.

    Trước ngày tôi lên đường một hôm, Quân у viện phân loại gọi điện thoại cho tôi, cho biết trung úy Xcô-vô-rốt-rư-cốp bị thương phải vào điều trị và nhờ họ gọi điện hỏi thăm tôi.

    - Cô là chị của trung úy phải không?

    - Vâng, - giọng tôi run lên. - vết thương cậu ấy có nặng không?

    - Xoàng thôi. Anh ấy mong được gặp cô lắm đấy.

    Tôi định đi thăm cậu ấy, nhưng Va-ri-a cản lại không cho đi. Nếu không thì tôi cũng bị chết dọc đường rồi. Sức sống trên cơ thể tôi dường như chỉ còn thoi thóp, mà bệnh viện thì lại ở xa lắc, tận ngoài đảo Va-xi-li-ép-xki, tưởng chừng như ở tận đầu bên kia trái đất vậy! Va-ri-a hy vọng rằng trung úy Pê-chi-a sẽ được chuyển sang điều trị ở Học viện Quân y, tất nhiên không phải về khoa Răng Hàm Mặt, vì vết thương của cậu ấy ở ngực và ở tay trái, mà là về khoa Ngoại. Nhưng được cái khoa này ở rất gần Va-ri-a. Chị ấy có hứa với tôi là hằng ngày sẽ đến thăm Pê-chi-a, chăm sóc thường xuyên sức khỏe cậu ấy. Rõ ràng là lúc ấy Va-ri- a cũng không ngờ rằng lời hứa đó, về sau có tầm quan trọng biết chừng nào chẳng những đối với Pê-chi-a mà còn đối với bản thân chị ấy nữa.

    Tôi mơ hồ nhớ ra một công trình kiến trúc bằng gỗ, hình ảnh của nó xa mờ như trong giấc mơ. Có phải là kho chứa máy móc không nhỉ? Tôi cũng như rất nhiều người khác, lặng lẽ ngồi chen chúc nhau trên sàn cái công trình kiến trúc này. Sau đó chúng tôi được dẫn vượt qua một khoảng đất ngập tuyết trắng xóa, lại qua một đường truông hẹp đến một nơi nào đó. Hai bên đường đầy những hố bom sâu hoắm. Rải rác khắp đó đây, hiện lên những mảnh xác máy bay bị tan nát. Dọc bên đường còn có những bức thành thấp màu đỏ chưa bị tuyết phủ kín, ngay lúc ấy tôi không đoán ra được rằng đó chính là thịt bò ướp từ các nơi vừa được máy bay chở tới cho Lê-nin-grát. Cuối cùng, chúng tôi lần theo bậc thang leo lên máy bay. Trong ruột máy bay trống không, lạnh buốt, hai bên sườn đặt hai dãy ghế dài. Một khẩu súng máy đã bỏ áo bọc đặt chắc trên giá thép.

    Mọi thứ diễn ra là như vậy. Một phi công người thấp bé, mặt hằm hằm tức giận, mang giày bay bước vào khoang máy. Tiếng máy nổ dội lên. Cánh đồng rộng, không bao giờ quan tâm đến thế sự loang loáng lưót qua dưới cánh máy bay. Lúc này tôi đã tỉnh lại. Thôi xin chào Lê-nin-grát!

    Hiện giờ tôi đang bay trên mặt hồ La-đô-ga. Chỉ vài ngày nữa, đoàn ô-tô đầu tiên sẽ chở dân Lê-nin-grát tản cư ra ngoài, đi về phía “đại lục”, rồi sau đó sẽ chở bánh mì và bột mì trở về Lê- nin-grát. Dọc vùng này có rất nhiều biển chỉ đường, có tấm biển đề là “con đường sống”. Mọi người đang làm việc hết mình ở trong tuyết.

    Tôi bay bên trên tấm bản đồ chiến tranh vĩ đại. Người ngồi trước vòng lái bây giờ không phải là người phi công nhỏ bé hằm hằm giận dữ khi nãy nữa, mà là một “vị thần thời gian".

    Lúc nào thời gian cũng nhìn về phía trước, và trước mắt -nó đang mở ra một bức tranh hùng vĩ. rộng lớn vô cùng. Từng đoàn tàu chở phụ tùng đã bị tháo tung ra của các nhà máy nối tiếp nhau chạy về phía đông. Mặc dù tuyết chưa hề tan. nhưng ánh mặt trời mùa đông đã bắt đầu có lúc le lói. Trên những thảo nguyên không một bóng người ấy. nơi xưa kia chỉ thấy loáng thoáng đôi chiếc xe trượt do ngựa kéo chạy qua hết ngôi lều này đến ngôi lều khác; nơi nhũng người Ca-dắc chăn súc vật đã từng gãy đàn tung-bu-la, nay đã mọc lên những ngôi nhà cao lớn và mỗi ngày một được cao thêm. Đất nước của chúng ta bị kẻ thù đẩy lùi lại một buớc, nay đang ỉấy hơi chuẩn bị lao mạnh về phía trước...

    Khi được đưa vào phòng “Bệnh nhân Lê-nin-grát” ở I-a-rô- xláp thì tôi thực sự chỉ còn thoi thóp, ở đây có một số người rất thư sinh, họ luôn cố hãm mình lại, không nghĩ đến chuyện ăn uống. Các bác sĩ khuyên họ chớ nên thắt lưng buộc bụng quá và dẫn họ vào kho để xem lương thực thực phẩm còn rất nhiều như thế nào.

    Bà tôi tìm được tôi ngay trong bệnh viện. Bà đến đứng ởvcửa phòng bệnh nhân lưỡng lự nhìn vào. bà nhìn tôi nhưng không nhận ra tôi nữa. Tôi cảm thấy buồn cuời liền vẫy bà vào, trong lòng vừa vui vừa buồn thấm thía...

    Tiến lên. hãy tiến lên! Hết ngày lại đêm. Hết đêm lại ngày!

    Và rồi ngày đêm như nhập lại làm một, đến nỗi mặt trời không biết nên mọc lên vào lúc nào và ở đâu.

    Một tên lính Đức nằm gục trong tuyết, để ló ra ngoài đôi chân cứng đờ. Tay hắn vốc đầy đất. miệng hắn ngậm đầy đất, chừng như vì tham lam ăn nhiều quá mà hắn bị tắt thở vậy.

    Một người lính Nga vùng dậy, lao về đằng trước xung phong, trong tay anh lăm lăm quả lựu đạn, giữa lúc ấy một viên đạn đã xuyên qua tim anh. Anh tựa người vào một gốc tùng và sau đó bị chết cóng trong rét buốt khủng khiếp. Anh kiêu hãnh ngẩng cao đầu, lộ rõ vẻ hăng háinquên mình do lòng hăng say chiến đấu tạo nên. Anh đứng đó như một bức tượng đắp bằng tuyết trắng.

    Ấy là mùa đông năm 1941.

    Nhưng đây cũng là một mùa đông đáng ghi nhớ. Trên đất nước của Liên bang Xô Viết rộng lớn, sức mạnh mới bắt đầu trỗi đậy, như một luồng gió thổi vào phòng điều dưỡng “Lê-nin-grát”. Trái tim mọi nguời lại ngùn ngụt sức sống, khiến cho ta phải tự oán giận mình, oán giận cái cơ thể yếu nhược chẳng làm gì được của mình. Những tình cảm đó giày vò và khích động tâm hồn chúng tôi rất nhiều...

    Đến tháng Ba tôi được ra viện. Bà tôi dẫn tôi ra ga tàu hỏa. Dọc hai bên đường, tuyết tan chảy thành rãnh ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Bầu không khí trong lành mới mẻ, dòng người và xe cộ chảy trên đường phố.. Tất cả những cái đó làm cho tôi choáng ngợp lảo đảo. Chúng tôi đi về làng Gơ-ni-lôi I-a-rơ.

    Trước đây tôi cứ nghĩ rằng trẻ con sống trong cái làng không tên tuổi và bất tiện này chắc hẳn là không lấy gì làm tốt lắm. Nhưng bây giờ đến đây tôi mới hay rằng ý nghĩ ấy là không có căn cứ chút nào. Các cháu sống ở đây rất thoải mái. Bé Pê-chi-a lớn hẳn lên và trông chắc nịch đáo để, giống hệt như con nhà nông vậy. Đỉnh mũi cháu bị bóc một lớp da vì nắng hun. Trên đôi chân đen sạm của cháu đã mọc lên một lớp lông tơ màu vàng óng.

    Khi tôi hôn cháu truớc mặt các cháu khác, cháu đã biết ngượng. Cháu đang mải mê chơi tem. Và cháu đã biết coi khinh bạn Vít-ca Cô-tép-cốp vì bạn hay khóc và động một tí là đòi “mách” mẹ. Cháu thường xuyên liên lạc với bố bằng thư và trong bức thư nào bố cũng thay mặt cho một nguời nào đó gọi là dì Va-ri-a hỏi thăm và chúc sức khỏe cháu.

    - Dì ấy nhiều tuổi lắm phải không ạ?

    - Không, còn trẻ thôi.

    - Thế dì ấy hỏi thăm cháu để làm gì ạ? Có phải là đểvlàm quen với cháu không ạ?

    - Chắc là như thế đây...

    Nghĩa trang của làng nằm trên suờn đồi cao. Những ngày trời trong, từ xa có thể nhìn thấy các giá chữ thập và ngôi sao vàng ở trên đó. Chúng tôi dạo chơi trên vạt cỏ nằm giữa nghĩa trang với đưòng đi. Đằng sau vạt cỏ ấy là những cánh đồng cỏ mênh mông một màu xanh chỗ đậm chỗ nhạt.

    - Khi chết, mẹ cháu cũng còn rất trẻ phải không ạ?

    - Phải, mẹ cháu còn trẻ lắm.

    Cháu lại bứt đọt cỏ, một con rùa bò qua rãnh nước rồi biến mất. Cháu đang nghĩ gì nhỉ?

    - Bác Xa-nhi-a có giống mẹ cháu không ạ?

    - Giống như đúc ấy.

    Cháu nhìn tôi vẻ rụt rè, cháu mân mê bàn tay tôi rồi hôn lên đấy. Tôi òa khóc, nước mắt chảy xuống đỉnh mũi bị bóc da vì nắng hun của cháu. Hai bác cháu ôm nhau ngồi im lặng hồi lâu trên đám cỏ dại, Thần chết độc ác. tàn bạo đã cướp mất sinh mạng của Xa-sa như đang trố mắt ngồi quanh đâu đây.

    Tiến lên, hãy tiến lên! Chớ có quay đầu lại. cũng đừng luyến tiếc quá khứ mà chùn bước!...

    Ấy là mùa hè nàm 1942. Trại trẻ của Sổ bảo tàng nghệ thuật chuyển về tỉnh Nô-vô-xi-biếc. Tôi trở về thành phố Mát-xcơ-va buồn lặng, trên các nóc nhà đều có đặt pháo cao xạ và giữa các quảng trường lại vẽ đầy những nóc nhà giả.

    Qua một năm chiến tranh, đường tàu điện ngầm vẫn hết sức sạch sẽ. mới mẻ và không có chút gì thay đổi. Trên đại lộ Gô-gôn. vẫn thấy các toán trẻ em đi dạo chơi cùng các bà báo mẫu. Trong ngõ Xíp-xép Vra-giéc, có hai ngôi nhà vừa được sửa chữa, từ trên tầng cao có thể nhìn xuống thấy những ngôi nhà chung quanh đã mục nát, song đó vẫn là cái ngõ hẹp quanh co quen thuộc từ lâu đời của tôi. Chiếc cầu thang bẩn thỉu quen thuộc hiện ra trước mắt tôi. Dòng chữ viết trên tấm biển bằng đồng: “Giáo sư Va-len-tin Ni-cô-lai-ê-vích Giu-cốp”. A ha! Giáo sư, anh ấy trở thành giáo sư rồi! Một tin hoàn toàn mới mẻ đây. Tôi ấn nút chuông rồi gõ cửa. Cánh cửa mởcra. Một sĩ quan có râu, đeo kính hiện ra trước khung cửa.
    Tôi nhận ra anh ngay. Không phải anh ta thì còn ai mà cứ nhìn tôi bằng cái vẻ rụt rè khách sáo thế kia? Tôi hỏi anh:

    - Giáo sư Va-len-tin Ni-cô-lai-ê-vích Giu-cốp ở đây phải không ạ?

    Không phải anh ấy thì còn ai mà cứ nghiêng nghiêng cái đầu và chớp mắt lia lịa thế kia? Không phải anh ấy thi còn ai mà lại dám hét ầm lên, chạy bổ về phía tôi. vụng về hôn lên tai tôi và giẫm vào chân làm tôi đau điếng cả người như thế?

    - Ca-chi-a, ôi Ca-chi-a!. Mừng quá đi mất, thật không ngờ chị lại đến tìm tôi!

    Anh đỡ lấy va-li của tôi, hai chúng tôi cùng đi vào “nhà bếp chung” trước kia đã từng là phòng làm việc, phòng ăn kiêm phòng nuôi trẻ. Trời đất! Căn nhà bếp có đầy đủ tiện nghi đến thế kia mà nay đã trở nên thế này! Trên bàn đang để một chiếc làn, trong đó đựng một bát cháo, sàn nhà lâu nay không được lau, cửa sổ lõng thõng những mảnh giấyvxanh rách nát.

    Va-li-a bắt chặc tay tôi.

    - Tôi biết cả rồi, biết hết cả rồi, - các thớ thịt trên mặt anh khẽ động đậy, đôi mắt sau lần kính trắng khẽ nheo lại. - Xa-nhi-a thân yêu... nhưng dù sao vẫn còn hy vọng, Bác I-van Pa-vơ-lứt có đọc thư của chị cho tôi nghe, Tôi có nói chuyện với một đồng chí thượng tá, đồng chí ấy cũng cho biết rằng có rất nhiều binh sĩ của ta bị thất lạc nay đã trở về.

    Tôi đáp: “Vâng, có rất nhiểu binh sĩ như thế và anh ôm chầm lấy tôi.

    "Tôi sẽ không để cho chị đi đâu cả ", anh nói giọng quả quyết.

    - Ở đây có phòng trống. Chị ở lại đây sẽ cảm thấy dễ chịu ngay. Nghe bác I-van Pa-vơ-lứt nói chị sẽ về nên tôi đã chuẩn bị sẵn rồi. Bây giờ phải lau sàn nhà một chút nhỉ, - anh hỏi giọng lưỡng lự.

    Tôi không nén được cười. Anh ngồi trên giường cũng bật cười theo.

    - Thôi, bây giờ không có thì giờ đâu. Tôi sẽ không thường xuyên ở đây đâu, phải dành nhiều thời gian ra mặt trận chứ. Mùa đông mà được ở đây thì thực là tuyệt lắm. Ở Sở nghiên cứu lạnh quá nên tôi phải chuyển các vật thí nghiệm về đây.

    Cố nhiên là Va-li-a không thể chuyển hết tất cả các con vật hiện có về nhà, mà chỉ chuyển một số giống quý. Cũng lạ, những giống chuột bạch hiếm có của nước ngoài trước nay không chịu sinh đẻ, nhưng sau khi được chuyển về nhà Va-li-a ít lâu thì chúng liền sinh con đẻ cái. Thế mới biêt môi trưòng sống ảnh hưởng đến chúng như thế nào! Các thứ dụng cụ gia đình đều bị Va-li-a đốt phá, vứt đi hết. Thực ra làm như thế cũng tốt thôi, nếu không để Ki-ra trông thấy những thứ của quý ấy bị hư hỏng, gãy nát, cô ấy sẽ giận lắm.

    - Nhưng trong số đồ dùng cần thiết, tôi chỉ đốt có mỗi chiếc bàn trong nhà ăn thôi, - Va-li-a nói giọng đắn đo. - Nếu có thể nói rằng những thứ chủ yếu đã được giữ lại cả, Đấy chị xem, chiếc ghế này, chiếc tủ con được Ki-ra yêu thích nhất kia, và cả cái chốt cửa kia nữa...

    Đến mùa xuân các con vật thí nghiệm lại được chuyển trở về Sở nghiên cứu. Lúc này Va-li-a được phong hàm đại úy và về công tác tại Tổng cục quân y. Tôi hỏi anh rằng ở mặt trận có ai cần đến anh và đàn vật thí nghiệm của anh không. Anh trả lời một cách nghiêm túc:

    - Đấy là bí mật quân sự.

    Nói tóm lại cái gì củng tốt đẹp cả. Chỉ có một việc duy nhất không được như ý là hồi mùa đông năm ngoái anh đã dùng điện vượt quá ‘fmức nguy hiểm”, bị công ty quản lý điện cử ngưòi đến cắt điện, nên mãi đến bây giờ vẫn cứ phải chịu tối.

    Nhưng có điều may là lúc này ngày rất dài, ban đêm Va-li-a làm việc nhờ một chiếc đèn cồn.

    - Có thể nấu nước bằng chiếc đèn cồn này được không nhỉ?

    Va-li-a ngơ ngác nhìn tôi.

    - Trời ơi. thế mà tôi quên biến đi mất. Chị đi đường xa, mà tôi quên pha nước chè cho chị uống.

    - Không, tôi cần rất nhiều nước ấm cơ, - tôi nói. - cần nhiều kia anh có thùng không?

    Khi tôi cởi giầy, vén váy bắt đầu cầm bao tải lau sàn nhà thl Va-li-a cứ ngồi đờ người ra và thở rất ghê.

    Anh ta lấy tay vuốt vuốt sống mũi, ngạc nhiên nhìn tôi dồn hàng đống vỏ khoai tây từ dưới gầm giường ra, nhìn tôi xé những mảnh giấy xanh rách nát lòng thòng bên cửa sổ, rồi lại nhìn tôi dồn tất cả chúng lại thành một đống tuớng gồm có vả vụn bánh mì đã bị thiu thôi ngay giữa nhà.

    Tôi vén váy. đứng chân không trên bàn. dùng vải uớt lau mạng nhện trên tường. Giữa lúc đó, có tiếng gõ cửa. Va-li-a vội xách thùng nước bẩn đầy ắp chạy ra buồng trước.

    Tôi nghe tiếng anh nói khẽ với một ngưòi nào đó: “Khá lắm, chị ấy biết tự kiềm chế nên mọi việc đều ổn cả”. Những lờibsau đó tôi không nghe rõ nữa.

    Một bóng người cao lớn lướt qua truớc cửa. Ông lấy mũ xuống, rút bao tay ra rồi bước đến trước gương, lấy ]ược chải bộ ria đã bạc. Ngưòi khách ấy từ cửa ngoài buớc vào, rồi ông dừng lại sững sờ nhìn tôi.

    - Ôi. bác I-van Pa-vơ-lứt!

    Lâu nay tôi vẫn thường xuyên gửi thư cho bác, nên việc bác đến nhà Va-li-a để gặp tôi là việc có chủ định. Song riêng tôi thì tôi vẫn cảm thấy hết sức đột ngột. Cuộc gặp gỡ như diễn ra trong giấc chiêm bao vậy. Hai bác cháu ôm chầm lấy nhau, nghẹn ngào. Hai mắt rưng rưng, bác đưa tay vào túi rút khăn tay.

    - Sao không đến thẳng chổ bác? - Giọng bác có phần giận dỗi. Bác cầm khăn không ngớt lau nước mắt và lau râu.

    - Bác I-van Pa-vơ-lứt ạ, cháu định hôm nay đến đằng bác đây ạ.

    Tôi đứng sau cánh cửa tủ thay áo. Chúng tôi nói chuyện với nhau liên hồi kỳ trận. Tôi kể về chuyện tôi đáp máy bay đến đây, về bệnh tình của tôi về tình hình Lê-nin-grát bị phong tỏa, về cuộc tiến công của quân đội chúng ta ở ngoại ô Mát-xcơ-va... Bây giờ tôi mới chợt nhận ra bác I-van Pa-vơ-lứt đã già đi nhiều. Trên vầng trán rộng của bác nổi lên rất nhiều nếp nhăn và trên mặt có nhiều nốt đồi mồi mà những người có tuổi thuờng có. Song bác vẫn giữ được một vẻ ngoài hết sức đường hoàng nhanh nhẹn.

    Lần cuối cùng hai bác cháu gặp nhau là vào năm 1940. Nhưng sao tôi cảm thấy ngày ấy xa xôi đến thế! Hôm ấy. tôi và Xa-nhi- a đột nhiên rất nhớ bác. Thế là hai đứa liền mang trứng và rượu tìm đến ngôi nhà độc thân lạnh lẽo của bác. Hôm ấy bác rất vui, bác phấn chấn uống rượu nho và cùng Xa-nhi-a say sưa nhắc tới Gri-sa Pha-be cùng với vở bi kịch “Thời gian đã đến”. Trong vở kịch này. Gri-sa Pha-be đóng vai chính, đứa con nuôi của một ngươi Do Thái. Chúng tôi ngồi quanh lò sưởi đến tận khuya. Đấy là một thời đã qua. khác hẳn với bây giờ.

    - Trông bác già lắm phải không? - Thấy tôi cứ nhìn bác chăm chăm, bác liền hỏi.

    - Ai cũng già hơn trước cả, bác I-van Pa-vơ-lứt ạ. bác trông cháu thế nào?

    Bác im lặng một lúc lâu chẳng nói chẳng rằng. Mãi sau bác mới nói giọng buồn buồn:

    - Cháu ấy à, Ca-chi-a, cháu càng lớn lên càng giống hệt mẹ cháu...

    Lúc này trờivđã tối. Va-li-a thắp chiếc đèn cồn của anh lên nhưng liền bị chúng tôi thổi tắt ngay. Ánh hoàng hôn chan màu sáng mát dịu từ ngoài ngõ vào nhà. Được ngồi trước cửa sổ mở toang, không che màn phòng không mà nhìn ra ngoài vào lúc này thì không còn gì thú vị bằng! Ngoài ngõ vẫn còn sáng nhờ nhờ, nhưng trong nhà Va-li-a thì đã tối hẳn. Tôi không còn nhìn rõ bác I-van Pa-vơ-lứt nữa mà chỉ trông thấy chòm râu bạc của bác. Tôi cũng không nhìn rõ Va-li-a nữa mà chỉ trông thấy ánh kính đeo mắt loang loáng luôn luôn động đậy của anh. Trong giây phút im lặng này, tôi cảm thấy rất mãnh liệt rằng mình đangsống giữa những con nguời chân chính, trung thực và sống chết có nhau. Tôi tự nhủ: “Thời kỳ gian khổ nhất chắc đã qua rồi, nếu không sao những người này thương yêu mình đến thế? Nếu không, sao họ lại có thể mãi mãi- sống bên cạnh mình, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn?”:rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
  16. Rafa

    Rafa SV

    Phần thứ tám

    ĐẤU TRANH VÀ TÌM TÒI

    (LỜI KỂ CỦA XA-NHI-A GRI-GÔ-RI-ÉP)

    Chương 1

    Buổi sáng

    Ca-chi-a đang ngồi bên cạnh bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na ở ngoài ban công. Trong giấc chiêm bao tôi nghe rõ tiếng nói chuyện khe khẽ của hai người, vì cả hai đều sợ làm tôi tỉnh giấc. Cảnh tượng tối hôm qua lại hiện ra rất rõ trước mắt tôi.

    Vì bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na đến lần đầu tiên nên chúng tôi phải chuyển bàn ăn ra vườn hoa. Chúng tôi đã đợi bà mãi và cuối cùng bà cũng đến. Bà mặc chiếc váy liền áo mới vai bồng kiểu năm 1908, chân mang giày da loại có khuy cài và mũi giày rất dài, trông bà có vẻ rất trang trọng.

    Bà kể câu chuyện bà quản gia của ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích đem giày bẩn để lên lò sưởi nghe rất vui. Sau đó là chuyện ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích được phân phối một căn nhà mới gồm có bốn căn phòng có đầy đủ thiết bị sưởi ấm và bếp hơi đốt ở phố Goóc-ki. Sau khi nhận được giấy phân phối, ông ta liền đánh ô-tô riêng đến xem nhà. Lúc ấy trông nét mặt ông ta rạng rỡ vô cùng. Bà nhại theo giọng của ông Ni-cô-lai An-tô-nô-vích: “Này bà Ni-na Ca-pi-tô-nốp-na, bà hãy tùy ý chọn lấy một phòng mà ở”. Sau đó bà trở lại giọng bình thường của mình, trả lời một cách kiêu hãnh: “Xin cám ơn ông Nì-cô-lai An-tô-nô-vích, bây giờ tôi chỉ nghĩ đến chuyện xuống mồ thôi, còn những của lạ của người lạ ấy tôi chẳng cần gì cả".

    Tôi hình dung một ông già ngồi trong một căn phòng đẹp đẽ mới xây dựng ở Mát-xcơ-va, trong đó có đèn điện, có không khí trong lành, có cả thiết bị sưởi ấm và bếp hơi đốt cho ông tha hồ sử dụng, nhưng ông ta lại đi viết những điều trái ngược, tức là tất cả những điều trắng ông ấy nói là đen, tất cả những cái đen ông ấy biến thành trắng tuốt.

    Sáu giờ mười lăm phút, đã đến lúc dậy rồi. Nhưng cứ nằm im, nhắm mắt lại mà nghe tiếng bước chân của Ca-chi-a nhè nhẹ vang lên trên sàn ngôi nhà cũ kỹ này thì thực dễ chịu vô cùng. Nàng dừng lại bên cửa phòng giây lâu, hình như để xem tôi đã thức giấc chưa, sau đó có lẽ lại đắn đo không nỡ gọi tôi dậy. Nàng lại đi vào nhà ăn, nói với “bà bảo mẫu khoa học” rằng hôm nay không cần đi chợ vì đến mười giờ tôi đã phải đi xa rồi.

    Người vợ thân yêu của tôi! Nhiều năm ròng xa cách nhau tôi đã quen coi nàng như người trong mộng; bây giờ mặc dù đã có nàng bên cạnh, tôi vẫn đên với nàng bằng những tưởng tượng trong óc: nàng mặc chiếc áo dài bằng lụa, đầu vừa chải xong, hay nói cho đúng hơn, vừa dùng tay vuốt qua loa rồi dùng kẹp găm lại. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nàng với dáng dấp này, cái dáng mà tôi rất ưa thích, vì thế buổi sáng hôm ấy tôi hết sức phấn chấn. Chúng tôi thường phải sống xa nhau và sau mỗi lần như thế, mọi thứ tuồng như lại phải quay lại từ đầu.

    Sáu giờ ba mươi phút. Nàng đi nhón gót chân vào phòng và nhẹ nhàng cúi xuống hôn tôi.

    - Anh ngủ có đến một trăm năm rồi đây. Anh có muốn đi bơi không?

    - Có đẹp không?

    Ý tôi muốn hỏi thời tiết thế nào.

    - Trời đẹp lắm!

    - Thế thì đi!

    - Ra sông chứ?

    Phía dưới dốc núi một quãng không xa có một dòng sông nhỏ chảy qua, nhưng chúng tôi lại thích bơi ở hồ hơn, nên tuy đã muộn, hai chúng tôi vẫn dẫn nhau ra hồ.

    Hôm nay mà chỉ nói thời tiết tốt thôi thì chưa đủ, có thể nói rằng suốt cả mùa hè không có buổi sáng nào đẹp như sáng hôm nay. Ánh mặt trời như cố sức nhanh chóng biến vạn vật trở nên xán lạn, đẹp đẽ hơn lên. Hãy xem kìa; cảnh vật bên bờ hồ trước mặt đã trở nên hết sức hấp dẫn, bây giờ bên phía bờ hồ chúng tôi đứng cũng bắt đầu rạng lên nhũng tia sáng rực rỡ. Đám sương mù mờ trắng dồn lại trong dãy tùng non đương hốt hoảng tan biến đi.

    Chủ nhật tuần trước tôi đã cùng Pê-chi-a bắc chiếc cầu nhỏ qua con suối đi ra hồ. Chiếc cầu bây giờ chỉ còn lại mỗi một cây thông bắc qua. Tôi chạy qua thân cây thông, còn Ca-chi-a thì lội suối vượt qua. Ôi, chỉ một giây phút ấy thôi mà hình ảnh của nàng đã in rất đậm vào trí nhớ của tôi! Nàng khẽ kéo váy lên cao, đưa chân thận trọng vừa dò lòng suối vừa lội qua, chiếc khăn mặt vắt trên vai rơi xuống, nàng nhanh nhẹn chụp lấy trước khi nó rơi tới mặt nước...

    Chúng tôi trèo lên dốc núi rồi đi vòng ra phía nghĩa trang cũ của những người Thụy Điển, đằng sau đó là giáp với mặt hồ cuộn sóng. Bờ hồ cây cỏ mọc xanh rờn. Một chú bé đi chân đất rét run đang kéo lưới bắt tôm. Lạ thật, sao lại bắt tôm vào lúc tám giờ sáng thế này nhỉ?

    Tôi kéo chú bé cùng với chiếc lưới từ dưới nước lên, giảng cho chú nghe một bài thường thức về khoa bắt tôm, đặc biệt là loại tôm biếc. Muốn bắt được loại tôm này thì nhất định phải dùng thịt thiu. Ca-chi-a nghe tôi nói cứ cười rũ ra. Tôm ở đây bé lắm, chẳng bù ở En-xcơ, tôm to đáo để.

    Ánh mặt trời rọi qua cành liễu, hong khô mặt cát và làm chúng nóng lên. Bên dưới tán liễu là một vùng bóng râm mát dịu, nhưng cách đó mấy thước, mặt nước đang sáng lên ánh mặt trời chói chang. Như mọi lần, tôi và Ca-chi-a cứ hướng theo hướng mặt trời mà bơi, rồi gập hai tay ra sau gáy, nằm ngửa trên mặt nước mà “sưởi” nắng.

    Tại sao tôi lại kể câu chuyện của chúng tôi bắt đầu từ buổi sáng như hôm nay nhỉ? Thực ra nó chẳng có gì khác với những buổi sáng chủ nhật khác! Có lẽ vì cuộc sống cũ kết thúc vào ngay hôm nay chăng? Một cuộc sống khác, hoàn toàn mới mẻ đã bước vào thay thế nó và chi phối toàn bộ tư tưởng, tình cảm cùng ấn tượng của cả tôi lẫn Ca-chi-a...

    Cuộc sống khác ấy là chiến tranh. Nếu lịch sử của thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp cùng chiếc tàu thám hiểm “Xanh Ma-ri” của ông không chút gì dính dáng đến những thử thách hết sức ly kỳ của tôi trong chiến tranh thì tôi sẽ không viết những dòng chữ sau đây làm gì. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 8/6/15
  17. Rafa

    Rafa SV

    Chương 2

    Cậu ấy​

    Tôi chăm chú theo dõi tình hình xảy ra trong những ngày và những tuần đầu của cuộc chiến tranh, trong lòng vô cùng bứt rứt bởi không có cách nào thuật lại cho tất cả mọi người nghe những gì mà tôi đã trông thấy.

    Tôi nhìn thấy một ngôi nhà rất rộng lớn, nhưng tối tăm ở nông thôn, một chiếc bàn được chiếu sáng bởi một ngọn nến sắp tàn, một khung cửa sổ được che bằng mảnh áo đi mưa của lính. Cửa ngôi nhà mở ra, một quân nhân mặc quân phục mùa hè bước vào, anh ta cời thêm bếp lò rồi ngồi vào ăn một cách hấp tấp. Đó là Gri-sa Trô-phi-mốp. Một người khác từ giường đứng lên, đến ngồi cùng với anh trước bàn, đó là Lu-ri. Tôi nghe những câu trao đổi khe khẽ của hai người, trong lòng xao xuyến vô vàn.

    - Đến La-đô-ga chưa?

    Gri-sa vừa ăn vừa lặng lẽ gật đầu.

    - Này, thế nào?

    - Chẳng thế nào cả.

    - Còn ở Dơ-van-ca thì sao?

    Gri-sa cứ tiếp tục ăn, không đáp lời. Anh đã từng đến Dơ-van-ca.

    Hai người quê ở Lê-nin-grát ngẩng mặt nhìn nhau. Đấy là cái đêm đầu tiên sau khi Lê-nin-grát bị bao vây.

    Tôi lại trông thấy trên nóc buồng lái của chiếc máy bay của tôi nhô ra ngoài một cái cột cờ, và trên đó có một lá cờ đang tung bay. Chúng tôi đã dùng cách đó để làm yên lòng những người hoảng sợ đương nghĩ rằng mình bị bao vây quá chặt.

    Rồi tôi nhìn thấy ngôi mộ đầu tiên. Chúng tôi lấy mảnh đuôi đạn pháo trang trí chọ ngôi mộ đẹp lên. Sau mỗi lần bay chiến đấu trở về, chúng tôi đều cố bay thật thấp lướt qua trên ngôi mộ ấy.

    Hồ nước lại hiện ra trước mắt tôi. Cuộc sống trước đây như ném xuống mặt hồ buổi sáng mù sương hình ảnh cuối cùng của mình. Bây giờ nhìn mặt hồ ảm đạm quá. Mặt nước cao ngang bờ tỏa ra một màu sáng đục, nhũng cuộn khói đặc sánh từ trong cánh rừng bị bọn Đức đốt cháy tỏa ra, bay là là trên mặt hồ.

    Buổi tối, chúng tôi từ trong hầm trú ẩn ở sườn núi đi ra. Mấy chiếc xuồng máy đang dừng lại dưới gốc liễu. Chúng tôi lao đi vun vút trên mặt nước, trong tiếng máy nổ gầm gào và tiếng nước sôi réo. Mấy chiếc máy bay từ phía bên kia cánh rừng chợt hiện ra và bay về phía chúng tôi.

    Tôi đã chứng kiến rất nhiều sự kiện. Song tất cả những thứ mà tôi nhìn thấy đều như xảy ra ở trên bản đồ, ngày ngày chúng trải ra dưới cánh bay của tôi - những nét vẽ màu đen đậm biểu thị hướng tấn công của bọn Đức, đang ngày một mở rộng thêm ra.

    Ngày nào cũng có phi công mới được bổ sung đến đơn vị, và số phi công dân dụng ngày càng nhiều lên. Tôi có gặp một số phi công trước kia cùng công tác ở Phương Bắc hoặc ở Viễn Đông. Họ là những phi công có nhiều kinh nghiệm, nhiều người được phong là phi công cấp Một, cấp Hai. Trong đó có ba người đã từng bay trên một triệu ki-lô-mét. Thực là thú vị khi thấy những người như thế cũng được vào quân đội. Hầu như lúc nào chúng tôi cùng bàn tán về đề tài này. Tôi, Lu-ri và đồng chí phụ trách máy hễ gặp nhau bất kể ở đâu, trong nhà ăn hay nhà ngủ sĩ quan đều chỉ bàn tán đến mỗi một chuyện ấy. Sở dĩ chúng tôi chỉ bàn đến mỗi chuyện ấy vì giữa anh em chúng tôi có giao ước ngầm với nhau là sẽ không bàn đến "những chuyện khác". "Những chuyện khác" ấy đã có báo chí nói thay cho chúng tôi rồi.

    Giữa tháng Tám, tôi cùng với tổ tiếp vận trên không được điều đến công tác trong một đơn vị không quân ở mặt trận phía nam.

    Đêm hôm ấy trời tối đen như mực, đúng như lời Lu-ri nói là loại đêm đặc biệt chỉ có ở thành phố "Ra-men-xcai-a". Mưa bụi biến thành lớp mù dày đặc phủ lên mặt nước. Dù có cố mở to mắt ra cũng chẳng nhìn thấy gì ở trước mặt. Nếu đồng chí phụ trách máy không rọi đèn pin thì tôi không tài nào nhìn thấy chiếc xuồng máy.

    Đồng chí đại tá gọi tôi đến, chúng tôi đứng im lặng bên nhau một lúc lâu. Trong bóng tối tôi lờ mò nhận ra cái mũi khoằm và bộ mặt cương nghị, còn rất trẻ của ông. Thực ra lúc đó chẳng có gì cần nói với nhau, nhưng ông vẫn hỏi tôi có mang đạn pháo sáng theo không. Tôi trả lời có. Ông hỏi pháo sáng là để lấy lòng tôi, lần trước trong một cuộc họp thảo luận kỷ luật bay, tôi có phát biểu rằng ban đêm dùng pháo sáng sẽ oanh tạc chính xác hơn nhiều.

    Hình như hôm nay tư tưởng Lu-ri không được ổn định. Nếu không thì anh ta đã chẳng tìm làn sóng bắt bằng được cái đài Ru-ma-ni ảo não ấy làm gì. Tôi chợt nhớ đến bộ mặt ngớ ra ngạc nhiên của anh ta khi tôi đánh thức anh ta dậy. Lúc ấy anh ta có vẻ rất mệt mỏi, thường ngày anh ta hay nhắc đến một câu trong cuốn “Đôi cánh của bạn": “Nếu đã mệt mỏi thì tốt nhất là bạn hãy nghỉ ngơi đã, sau đó hẵng hay...” Hôm nay anh ta ngồi dậy nhưng không nhắc tới câu ấy nữa.

    Ánh đèn phòng không bên bờ hồ phóng một luồng ánh sáng qua đầu chúng tôi, chiếu vào góc tường tối mịt. Cũng chưa phải là hoàn toàn xúi quẩy. Chúng tôi bay trong tuyết, hoa tuyết bắt đầu chui vào cửa chắn.

    Lúc này Lu-ri đã tìm được đài "Côn-xtan-xa" rồi. Thật có quỉ mới biết được cái đài "Côn-xtan-xa" ấy truyền đi những tin gì! Chỉ trong giây lát, vừa khi tôi huýt sáo mồm, nghĩ đến những chuyện riêng tư trong lòng, bốn bên đã hiện lên những dãy núi cao xám xịt. Sau đó một loáng, trong những phút tiếp theo tôi lại nghĩ đến những chuyện riêng tư và huýt sáo mồm thì máy bay đã đến chỗ phải bay vòng qua đầu núi. Nhưng không thể bay qua bên dưới đám mây được, vì bay trong mưa tuyết, máy bay sẽ bị đóng băng. Lại huýt sáo mồm và nghĩ chuyện riêng: "Ca-chi-a, vậy mà em còn giận anh, trách anh sao trong thư không nói rõ tình hình các chuyến bay".

    Vừa may đám mây đã tan mất ở cái chỗ mà nếu còn, nó sẽ gây nguy hiểm. Nhưng thực ra thì không phải nó tan mất, mà nó đã tách ra thành hai nửa. Phía trước mặt chúng tôi giờ đây mở ra một quãng hành lang rộng lớn, trên quãng hành lang đó chói lên một màu sáng rực rỡ. Cái bóng của chúng tôi rơi xuống lưng đám mây phía dưới và chiếu lên đám mây phía trên. Tôi hơi ngạc nhiên, và hình như cũng không kịp ngạc nhiên nữa, khi tôi nhận ra cái bóng thứ hai kia không phải là của máy bay chúng tôi, mà là bóng cúa một chiếc "gioong-ke" bay cao hơn chúng tôi. Nếu chúng chỉ có một chiếc thì chẳng sao. Nhưng đằng sau nó đã hiện ra chiếc thứ hai, rồi chiếc thứ ba.

    Lúc này, theo bất cứ điều lệnh nào, chúng tôi cũng chỉ nên nhanh chóng tránh xa chúng nó. Nhưng những đám mây dày màu xanh sẫm đã lùi xa ở phía sau. Chúng tôi không có chỗ nào có thể lẩn tránh được. Tiếng súng từ phía bên kia nổ ran lên, tôi có cảm giác như cánh máy bay bị ném đá, và sau đó cả khoang lái cũng bị rung lên.

    Đây là một cuộc chiến đấu rất bình thường, chẳng có gì đặc sắc và nó kết thúc rất nhanh, nên tôi không định kể tỉ mỉ làm gì nữa. Trong nháy mắt sau đó chúng tôi đã bắn rơi một chiếc "gioong-ke" khi nó bay vòng lại. Hai chiếc còn lại vọt lên cao, cố bám đuôi chúng tôi. Đương nhiên đó là một ý đồ thông minh, song không phải dễ thực hiện, vì chúng tôi không phải là kẻ non gan, chịu để cho chúng bám đuôi. Lần thứ nhất không được, chúng lao vào lần thứ hai. Lần này suýt nữa chúng bị tan xác dưới đường đạn của chúng tôi. Nói tóm lại, chúng tôi đã đem hết sức ra đánh trả lại chúng. Cuối cùng bọn chúng bị bỏ xa lại phía sau. Và thế là tôi cho máy bay bay theo đường thẳng đến mục tiêu, mặt trận cách đây không xa nữa.

    Nói rằng cho máy bay bay theo đường thẳng, mới nghe tưởng là việc đơn giản, nhưng thật ra là rất khó khăn vì máy bay của chúng tôi lúc này đã bị bắn gãy một phần tư cánh bên trái, két dầu bị đạn chọc thủng, chân và mặt tôi đều có vết đạn, máu chảy đầm đìa ra mắt.

    ... Tôi cảm thấy toàn thân mềm nhũn đi. Lúc này tôi chợt nhớ đến những giấc mộng hồi còn bé, tôi thấy mình bị người khác đâm chém, dìm xuống nước cho đến chết, nhưng khi tỉnh lại, biết mình vẫn còn sống, tôi sung sướng vô cùng.

    "Nhưng lần này, - ý nghĩ của tôi hết sức bình tĩnh. - Lần này thì chắc chắn là tôi sẽ không thể tỉnh trở lại được nữa rồi."

    Có thể tôi đã bị ngất, nhưng không lâu lắm, vì trước khi tỉnh dậy, tôi đã bắt đầu nói và chính tiếng nói ấy đã làm cho tôi tỉnh dậy. Tôi gào lên, ra lệnh cho tổ phục vụ máy bay nhảy dù. Đồng chí báo vụ viên và tay súng máy đã nhảy ra khỏi máy bay. Còn Lu-ri thì đáp lại bằng một giọng không hài lòng "Được rồi, được rồi!" làm như bị tôi ép đi bách bộ đến một nơi vô vị không bằng.

    ... Cái gay go nhất là vật lộn với sương mù dày dặc, nó làm cho anh không mở được mắt ra, nó làm cho anh mệt mỏi rã rời. Lúc này tôi mới rõ - tuy chưa phải rõ hoàn toàn - cái điều quan trọng nhất, cũng là cái điều cần phải lập tức thay đổi ngay. Thời gian trôi chậm quá, như phải qua hàng nghìn năm. Tôi phải bỏ ra rất nhiều sức lực để lái máy bay bay tiếp, lại phải qua một nghìn năm nữa. Tôi lại nhìn thấy bên dưới chúng tôi có hai chiếc "gioong-ke" khác đang bay thẳng lại như hai con trâu nước bơi trong biển mây. Chuyện này thì quả thực là đi đời nhà ma rồi. Nhưng sau đó tôi biết ngay rằng chúng chưa vội kết thúc chúng tôi.

    Lu-ri đã nhảy ra khỏi máy bay. Chúng liền vây lại bắn. Liệu cậu ấy có bị bắn chết không? Sau đó chúng quay đầu lại, cặp hai bên tôi và cùng bay song song.

    ... Lũ giặc Đức có những bộ mặt không biết giống hề hay giống quỉ sứ. Nhìn mặt chúng nó rất khó đoán ra chúng già hay trẻ. Nhưng tất cả những cái đó giờ đây đôi với tôi chẳng có quan hệ gì. Kẻ đang bay bên cạnh tôi kia không phải là một tên lính bình thường mà là một kẻ giết người, một tên tội phạm. Hắn nhoi đến phía trước mặt tôi, nghiêng cánh lướt qua một bên rồi lại áp đến gần, hắn thong thả, ung dung ngắm nhìn tôi, say sưa với chiến thắng đã nắm chắc trong tay.

    Tôi không biết giải thích như thế nào cho rõ, chỉ biết rằng trong khoảnh khắc ấy dường như tôi đã nhìn thấy rõ hình dạng của bản thân mình cũng như của thằng giặc ấy. Mặt đầy máu, hai tay gần như tê dại, tôi ngồi trên chiếc máy bay bị thương đang lao xuống thấp. Thằng Đức đẩy chiếc kính bay lên trán, nhìn tôi với một vẻ hết sức lạnh lùng và đắc thắng. Tôi quên rằng Lu-ri dã nhảy dù và có thể cậu ấy đã bị lũ giặc sát hại. Tôi nói lên mấy câu gì đó với Lu-ri. Một chiếc máy bay của bọn Đức sắp bay qua phía dưới tôi, dấu hiệu chữ thập ngoặc màu vàng sơn trên cánh loáng qua bên trái tôi. Tôi ấn mạnh cần lái, chiếc máy bay rung lên và lao thẳng vào cái dấu hiệu chữ thập ngoặc ấy.

    Chẳng hiểu máy bay của tôi đã đâm trúng vào chỗ nào, hình như là buồng lái của thằng Đức, khiến hắn không kịp ấn nút nhảy dù. Tôi đã giết được hắn. Thật sung sướng vô cùng!

    Một cảm giác vô cùng hào hứng chế ngự tôi. Tôi cần phải sống! Mặc dù vừa rồi thằng giặc Đức đẩy kính bay lên trán nhìn tôi với một vẻ hết sức lạnh lùng và đắc thắng và cầm chắc sẽ giết chết tôi; nhưng cuối cùng tôi đã chiến thắng nó. Tôi cần phải sống! Trước khi nhìn thấy thằng Đức này, tôi đã nghĩ rằng chuyến này chắc phải hy sinh, vì tôi bị thương nặng và tôi biết chúng nó sẽ bắt được tôi. Nhưng bây giờ thì khác hẳn rồi! Tôi cần phải sống! Tôi đã nhìn thấy mặt đất, nhìn thấy đồng ruộng và con đường bốc bụi trắng. Đã gần mặt đất lắm rồi..

    Quần áo bay và giày của tôi đã bị cháy nhưng tôi không thấy nóng. Nói ra thì rất lạ, khó có thể tin được. Nhưng sự thực là như vậy, chẳng hiểu vì sao lúc ấy tôi lại có thể bình tĩnh xoay chuyển được tình thế ở cái độ cao rất gần mặt đất như thế. Tôi cởi chiếc nịt da ra - Đó là việc cuối cùng mà tôi có thể làm được trong ngày, trong tuần, trong tháng ấy. Tạm thời tôi chỉ xin kể đến đây, cũng chẳng nên đi quá xa làm gì! :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  18. Rafa

    Rafa SV

    Chương 3

    Chúng tôi làm tất cả những gì có thể làm được​

    Tôi khát quá, suốt dọc đường người ta đưa tôi vào trong làng, tôi cứ đòi uống nước và hỏi thăm tin tức về Lu-ri. Vào đến làng, ngưòi ta đem đến cho tôi một xô nước. Tôi vục đầu vào xô nước, chẳng nói chẳng rằng, uống lấy uống để. Tôi chẳng hiểu vì cớ gì, các bà các chị đang vây quanh tôi bỗng khóc nấc lên. Tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng nghe thấy gì cả. Mặt tôi bị cháy, tóc dính bết lại, một chân bị gãy, trên lưng có hai vết thương miệng rất rộng và sâu. Trông tôi lúc này có lẽ đáng sợ lắm.

    ... Trong lòng tôi chợt nảy ra một cảm giác hạnh phúc, nó mỗi lúc một lớn lên, một da diết. Tôi nằm trên đồng cỏ ở giữa sân, cạnh nhà kho của một ngôi nhà nông dân. Tôi cảm thấy niềm hạnh phúc ấy như truyền đến từ tiếng cỏ khô kêu sột soạt, từ mùi thơm của cỏ và từ mặt đất, kẻ bảo vệ, không để tôi bị quân thù giết chết. Tôi được một chú ngựa trắng già kéo về đây, bây giờ nó được buộc bên hàng rào gần chỗ tôi nằm. Vừa trông thấy nó, dòng nước mắt hạnh phúc của tôi liền trào ra. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được. Tôi không có gì lo lắng cho đồng chí báo vụ viên và đồng chí xạ thủ trên không. Tôi chỉ có một yêu cầu là trước khi họ tìm được đến đây, chớ đưa tôi đi nơi khác. "Lu-ri cũng còn sống, - tôi sung sướng nghĩ, - trận đánh hôm nay ta thắng đẹp thế, cậu ấy không thể không sống được. Cậu ấy vẫn còn sống, mình sắp được gặp cậu ấy rồi".

    Và tôi đã gặp Lu-ri thật. Khi cậu ấy được đưa đến, con ngựa trắng cứ hí toáng lên và đá lung tung. Một bà cụ có vẻ rất nghiêm nghị - không biết vì sao trong số những người có mặt ở đấy tôi chỉ nhớ mỗi mình bà - bà đến bên con ngựa và lặng lẽ tát mạnh vào mõm nó.

    Nét mặt Lu-ri rất bình thản. Trên mặt cậu ấy cũng rất trơn tru, chỉ có một vết xước nhỏ, có lẽ bị dây dù gây nên. Hai mắt cậu ấy mở to. Thoạt đầu tôi không hiểu vì sao khi đặt cậu ấy xuống đất, mọi người lấy mũ của cậu ta ra. Bà cụ vừa rồi đến ngồi bên cạnh cậu ấy và đặt lại hai tay cho thẳng...

    Sau đó tôi được đưa lên một chiếc xe rộng, chở đến trạm cứu thương. Một người đàn bà không có vẻ là phụ nữ nông thôn đến cầm tay tôi bắt mạch, chị ta luôn miệng dặn tôi:

    - Phải cẩn thận, phải cẩn thận đấy!

    Tôi cảm thấy bức bối, trong bụng nghĩ: "Sao lại phải cẩn thận nhỉ? Chẳng lẽ mình sắp chết rồi ư?" Hình như tôi đã nói ra điều đó nên chị ta vừa mỉm cười vừa nói với tôi:

    - Anh sống rồi!

    Chiếc xe bị xóc dữ dội, tôi gối đầu lên đùi một người nào đấy. Tôi nhìn thấy Lu-ri, cậu ấy đang nằm trên bậc thềm, hai tay cứng đờ vắt chéo trên bụng. Tôi muốn vùng dậy chạy đến với cậu ấy, nhưng bị mọi người giữ lại.

    Mặt đất lúc hiện ra dưới cánh bên trái, lúc loang loáng dưới cánh bên phải. Trước mặt tôi đang tụ tập một đám đông người. Tôi đi tìm Ca-chi-a của tôi trong đám đông ấy. Tôi gọi nàng. Nhưng từ trong đám đông ồn ào náo nhiệt ấy bước ra không phải là nàng, không phải là Ca-chi-a yêu dấu đã từng làm nghiêm khi được tôi ôm vào lòng. Mà là hắn. Hắn quay đầu lại như một con chim lạ, hắn đẩy kính bay lên trán, nhìn tôi bằng đôi mắt lạnh lùng và đắc thắng.

    - Này, thế nào, - tôi nói với thằng giặc Đức. - Ai thua nào? Mày xem đây, tao vẫn còn sống đây này. Rồi đây tao sẽ bay trên khắp các cánh rừng, trên biển cả, trên thảo nguyên, trên toàn trái đất! Còn mày thì đã đi đời nhà ma rồi! Tao đã chiến thắng mày rồi! :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  19. Rafa

    Rafa SV

    Chương 4

    "Cậu đấy à, cú mèo"​

    Chúng tôi nằm trên toa tàu hàng có lò sưởi bằng than. Chỉ có hai toa tàu ở trên là toa hành khách. Một vị bác sĩ nhỏ nhắn, mặt mũi sáng sủa khôi ngô nhưng có vẻ rất mệt mỏi, sau lần khám đầu tiên liền ra lệnh chuyển tôi tới toa đầu. Từ việc ấy tôi biết rằng tình trạng của tôi rất tồi Lệ. Đầu, ngực, chân, tay của tôi đều quấn băng và lúc nào cũng phải nằm bất động như một con búp bê mẫm mạp, trắng toát. Mấy cô у tá chăm sóc chúng tôi dừng nói chuyện với nhau ở đầu toa: "Đến toa thương binh nặng mà lấy". Như vậy là tôi đã bị liệt vào loại thương binh nặng rồi. Nhưng không biết từ đâu, từ trong óc hay từ trong tim, có một thứ gì đó đương hoạt động, tôi có cảm giác đó chính là hoạt động của sự sống. Nó đang bận rộn, tuy rất yếu ớt, song vẫn luôn luôn muốn sáng tạo ra một cái gì đó.

    Tôi đã làm quen với những người xung quanh. Trong đó cũng có một cậu lái máy bay. Cậu ta còn trẻ lắm, trẻ hơn tôi nhiều. Tôi không muốn kể tỉ mỉ trường hợp bị thương của mình. Song cậu ta cứ nài nỉ mãi. Nhiều lần tôi nghe láng máng những lời kể của cậu ta qua những cơn mê ngắn:

    - Em vừa thôi công kích thì nhìn thấy một tốp máy bay tiếp dầu của chúng. "Phải diệt bọn này mới được!" Em nghĩ bụng và liều nhắm đúng mục tiêu, ấn nút điện. "Được rồi". Em lại nghĩ bụng "Mình không vọt lên cao thì sẽ bị thằng khác đến cắn trộm đây". Em vừa kéo cần vọt lên thì cảm thấy có một thứ gì rất nặng đập vào người. Khi đạp lái, em cảm thấy bị hẫng như không có chân nữa. Em lại nghĩ ngay: "Chà, chân mình bị gãy mất rồi!” Nhưng em không dám nhìn xuống vì em rất sợ...

    Máy bay cậu ấy lái là loại "Hải âu" và cậu ấy bị thương ở vùng trời huyện Bơ-ru-san. Lúc đầu tôi ngỡ cậu ấy bị nặng hơn tôi. Sau mới biết tôi bị nặng hơn cậu ấy nhiều.

    Người nằm bên cạnh tôi tên là Xi-ma-cốp. Tôi vừa nghe anh ta nói, vừa trông ra ngoài cửa toa tàu, nhìn những cánh đồng cỏ mùa thu, những ngôi nhà đất quét vôi trắng cùng những đám hướng dương trĩu bông bên cạnh đường sắt. Mọi việc trong toa tàu dường như rất nền nếp: cứ đến giờ là các cô у tá lại xách thùng canh rau ra, treo giữa toa. Chiếc thùng lắc lư, lắc lư chứng tỏ là đoàn tàu đang chạy. Mặc dù đoàn tàu của chúng tôi phải luôn luôn dừng lại để nhường đường cho các đoàn tàu chở vũ khí ra mặt trận, nhưng tuy chậm nó vẫn đang tiến về phía trước.

    Nhưng cũng có những cảnh tượng khác hắn. Đoàn tàu của chúng tôi không đơn thuần chỉ chở thương binh, mà đằng sau còn kéo theo nhiều toa trần chở máy móc. Nhà bếp trên tàu bị hỏng nên phải chờ đến ga mới mua được sữa và khoai. Đồng chí bác sĩ người thấp bé phải gào thét luôn mồm để giữ trật tự. Anh ta đang rút súng lục để dọa một người nào đấy. Trên toa tàu chở khách, các bà tản cư chen lấn nhau đứng chật ních ở cửa lên xuống và lối đi, tay ôm chặt gói đồ đạc của mình.

    Đoàn tàu của chúng tôi đỗ lại ở một ga khá lớn, đường sắt chằng chịt.

    ... Hàng đàn ruồi từ ngoài cửa sổ bay ùa vào. Khi tôi tỉnh dậy vì nóng nực và ngột ngạt thì thấy chúng bâu đen đặc vào chiếc băng của tôi, xua đuổi thế nào chúng cũng không chịu bay xa. Lúc này là vào giữa trưa. Từ cửa sổ toa tàu nhìn ra thấy trước mặt là những đám lúa mạch vuông vắn.

    ... Mới mấy ngày trước đây, tôi còn có thể từ trên máy bay quan sát những cảnh tượng rộng lớn mà những người chỉ tham gia chiến đấu ở dưới đất không thể nào nhìn thấy hết được. Lúc ấy tôi nghĩ như vậy. Lúc ấy cảnh rút lui của chúng ta, dưới con mắt của tôi, như những công thức đại số được khai triển. Còn bây giờ những công thức ấy đã biến thành vật có sức sống, trở thành hiện thực.

    Giờ đây tôi không còn được nhìn thấy cuộc rút lui của chúng ta từ trên độ cao sáu nghìn mét nữa. Ngay bây giờ tôi cũng đang rút lui. Tôi cảm thấy trong người rất khó chịu, vì vết thương tấy lên, vì khát, vì nóng bức, vì những ý nghĩ buồn phiền, vì đàn ruồi lì lợm cứ lao vào chỗ có vết thương.

    Chiều. Hình như lúc này đoàn tàu đã bắt đầu lăn bánh vì chiếc thùng đựng canh rau lại lắc lư rất nhịp nhàng. Ánh chiều chiếu từng tia chênh chếch vào của sổ toa tàu, qua ánh sáng hồng hồng của nó, có thể nhìn thấy những làn bụi bốc lên ở chung quanh. Có tiếng ai đó rên, tuy khẽ thôi, nhưng nghe rất xao xuyến. Tôi thử gọi người nằm bên cạnh. Không, không phải anh ta rên. Hình như tôi đã từng nghe tiếng rên này ở đâu rồi thì phải?

    Đột nhiên trước mặt tôi hiện ra rất nhiều bàn học và tôi nhìn thấy rất nhiều bộ mặt đang cười của trẻ em. Đây là một bài học rất lý thú, giảng về phong tục tập quán của người Trúc-tri. Nhưng cái cậu bé tóc đỏ có đôi mắt cách nhau rất xa ấy cứ lấy chiếc dao con cứa vào đầu ngón tay tôi thì tôi còn lòng dạ nào mà nghe giảng nữa!

    - Rô-ma-sca! - tôi hét lên.

    Anh ta giật mình và im bặt, tất nhiên vì ngạc nhiên.

    - Cậu đấy ư, cú mèo?

    Anh ta nằm lăn lóc trong đám thương binh nằm dưới sàn, đầu bị che lấp dưới những cánh tay quấn đầy băng.

    - Có việc gì thế? - Anh ta nhìn tôi nhưng chưa nhận ra tôi, nên hỏi giọng thận trọng.

    Tôi cảm thấy anh ta tuy vẫn "sống vì riêng mình" như dì Đa-sa nói, nhưng bây giờ anh ta có vẻ đã khá hơn trước. Ít nhất thì anh ta cũng đã hết cái thói kênh kiệu kiểu cách rất buồn cười. Bây giờ mặt anh ta có phần hốc hác, xanh xao, hai tai lúc nào cũng đỏ rần như một thứ đồ chơi và con mắt bên trái luôn luôn lén lút liếc nhìn người này người khác.

    - Không nhận ra mình nữa à?

    - Không.

    - Thế thì hãy nhớ lại đi.

    Anh ta vốn là người không biết che giấu tình cảm của mình, lần này cũng vậy. Nhìn các cử chỉ của anh ta, tôi hiểu hết tình cảm của anh ta lúc này. Thoạt tiên anh ta lúng túng rồi kinh ngạc, sau đó thì sợ hãi đến nỗi hai hàm răng va vào nhau lập cập, và cuối cùng, bị chìm trong men tuyệt vọng.

    - Xin lỗi, chẳng phải anh đã bị chết rồi sao? - Anh ta nói lúng búng trong miệng. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 7/6/15
  20. Rafa

    Rafa SV

    :rose:
    Chương 5 MỐI HẬN CŨ

    Trong những bài hát Nga cổ xưa thường nói đến vận mệnh. Tôi vốn không phải là người tin vào vận mệnh, song khi đọc những dòng tin nói về cái chết của tôi, đăng trên báo “Chim ưng đỏ”, trong đầu tôi cũng chợt bật ra cái chữ ấy. Mãi đến nay tôi vẫn còn thuộc mẩu tin ấy:

    "Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, trên đường lái máy bay trở về, đại úy Gri-gô-ri-ép đã bị bốn máy bay tiêm kích của địch đuổi theo. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt không cân sức này, đại úy Gri-gô-ri-ép đã hạ được một máy bay địch, ba chiếc còn lại hoảng sợ bay mất. Máy bay của đại úy tuy bị thương nặng, song vẫn cố gắng bay tiếp. Nhưng khi bay đến gần mặt trận, đại ủy lại bị hai chiếc “gioong-ke" của địch công kích. Đại úy Gri-gô-ri-ép đã lái chiếc máy bay bị thương bốc cháy của mình đâm vào một chiếc “gioong-ke” của địch. Toàn thể phi công đoàn N. sẽ mãi mãi ghi nhớ những con chim ưng dũng cảm đã chiến đấu đến phút cuối cùng cho tổ quốc: đại úy đảng viên cộng sản Gri-gô-ri-ép, phi công hoa tiêu Lu-ri, đồng chí vô tuyến điện viên Cúc-pen-nô và đồng chí xạ thủ trên không E-rơ-sốp".

    Mãi đến mùa hè năm 1943 tôi mới được biết rằng sau khi tôi được chuyển đi khỏi làng P. thì có một phóng viên quân sự đến đấy. Người phóng viên nọ đã gặp hỏi chuyện các nông trang viên mục kích cuộc không chiến, sau đó anh ta chụp ảnh xác máy bay bị rơi. Mọi người nói với anh ta rằng tôi coi như đã chết.

    Tại sao mẩu tin ấy lại làm cho tôi cảm thấy như bị lăng nhục? Vì tôi thoát chết lần này là một chuyện kỳ lạ, hay vì lần đầu tiên trong đời tôi được đọc bản cáo phó của chính mình? Ý nghĩ của tôi không còn tập trung được nữa. Đột nhiên hình ảnh Ca-chi-a xuất hiện trước mắt tôi. Nhưng không phải là Ca-chi-a thường ngủ dậy sớm, đi đi lại lại trong phòng và lúc nào nét mặt cũng đăm chiêu nhớ đến tôi, mà là một Ca-chi-a khác hẳn, tâm thần bất an, dung nhan Ca-chi-a mệt mỏi. Sau khi đọc xong mẩu tin này, nàng ném tờ báo lên bàn và có vẻ tĩnh lặng như không có gì xảy ra. Nhưng sau đó nàng như có điều gì sốt ruột, muốn tìm một việc gì làm cho khuây khỏa, nàng tết lại đuôi sam rồi chợt bỏ ra, đột nhiên ngã lăn xuống sàn nhà...

    - Cũng phải thôi, - tôi lẩm bẩm. - Đây là việc có thể xảy ra.

    Tôi vò tờ báo lại thành cục rồi ném ra ngoài cửa sổ. Rô-ma-sốp ngạc nhiên kêu lên một tiếng. Lúc này tàu hỏa đương dừng lại. Trong lúc nói chuyện với tôi, anh la luôn luôn nhìn ra ngoài cửa sổ. Sau đó anh ta đi nhặt tờ báo đã bị nhàu nát ấy vào. Bây giờ chính mắt nhìn thấy tôi còn sống, anh ta lại muốn xem mẩu tin báo tôi đã chết, như vậy anh ta cũng cảm thấy thỏa dạ đôi phần.

    - Vậy là cậu vẫn còn sống! Xa-nhi-a thân mến, tôi thực không dám tin ở mắt mình nữa!

    Anh ta còn dám ngang nhiên dùng cái chữ “thân mến” đối với
    tôi.

    - Có quỷ mới biết được là tôi sung sướng như thế nào! - Anh ta nói. - Vì rất có thể cô ấỵ cũng đã đọc mẩu tin này rồi.

    Tôi đáp: “Phải, rất có thể" và bắt đầu hỏi thăm anh ta về tin tức Mát-xcơ-va. Trong câu chuyện. Rô-ma-sốp cho biết rằng anh ta rời Mát-xcơ-va chưa đầy một tháng.

    Trong khi nói chuyện với anh ta, không những tôi phải tỏ ra hết sức hòa nhã mà từ đầu còn phái nói cho anh ta biết rằng quan hệ giữa hai người vẫn như trước, không có gì thay đổi. Và có lẽ đó là thái độ đúng đắn nhất của tôi lúc này. Song con người là một sinh vật kỳ dị - câu nói này không còn mới mẻ gì nữa. Tôi nhìn bộ mặt căng thảng, mất tự nhiên của anh ta, trong lòng không có gì khác ngoài cảm giác khó chịu và khinh bỉ. Tôi nghĩ rằng trước kia anh ta ti tiện như thế nào thì bây giờ anh ta vẫn ti liện như thế ấy, chẳng thay đổi chút nào. Song cái cảm giác mà lúc này anh ta đem lại cho tôi là anh ta là một người quen thuộc từ lâu, một kẻ ti tiện “của mình”.

    Anh ta cũng rõ điều đó, và rõ tất cả. Anh ta nhắc đên thầy Cô-va-bơ-li-ôp, hỏi tôi rằng có biết thầy đã sáu mươi ba tuổi mà vẫn ghi tên tham gia tự vệ thành, và báo “Mát-xcơ-va buôi chiều" đã đăng bài kể chuyện này không. Anh ta còn nói đến Ni-cô-lai An-tô-nô-vích bằng cái giọng mỉa mai, rằng ông ấy đã được phân phối nhà mới và được cấp bằng tiến sĩ. Tiến sĩ gì? Tiến sĩ địa lý mà không cần bảo vệ luận án. Mà theo ý kiến của Rô-ma-sốp thì như vậy không thể được.

    - Anh có biết ai đã làm cho ông ta đạt dược danh vọng như thế không? Chính anh đấy!

    - Tôi ấy ư?

    - Chính thế. Họ của ông ta là Ta-ta-ri-nốp. Chính anh đã làm cho cái họ ấy lừng danh.

    Anh ta muốn ám chỉ rằng việc tôi nghiên cứu đoàn thám hiểm của tàu "Xanh Ma-ri” trước đây đã làm cho mọi người chú ý đến thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp, và Ni-cô-lai An-tô-nô-vích đã được thơm lây vì họ của ông ta trùng với họ của thuyền trưởng. Khả năng diễn dạt của Rô-ma-sốp quả là không tồi, anh ta đã nói cái vấn đề ra hết sức ngắn gọn và rõ ràng.

    Nhưng tôi không muốn nói chuyện này với anh ta. Sau khi biết được điều đó, anh ta liền lái sang chuyện khác.

    - Anh có biết tôi đã gặp ai ở mặt trận Lê-nin-grát không? - anh ta nói. - Tôi đã gặp trung úy Páp-lốp!

    - Trung úy Páp-lốp là ai nhỉ?

    - Chán anh quá, trung úy bảo rằng từ thuở bé anh ta đã quen anh. Anh ta người cao to, lực lưỡng.

    Tôi thực sự không ngờ người trung úy cao to, lực lưỡng ấy lại chính là cậu Vô-lô-di-a, có đôi mắt xanh, đã từng chở tôi đi bằng xe trượt tuyết do chó kéo.

    - Ôi lạy Chúa tôi, có cả bố anh ta cũng đến, ông cụ là một bác sĩ già!

    - Bác I-van I-a-nứt!

    Được biết bác I-van I-va-nứt khỏe mạnh và hiện nay vẫn còn phục vụ trong hải quân, tuy tin này do Rô-ma-sốp nói, tôi vẫn cảm thấy rất mừng.

    Rô-ma-sốp nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng anh ta đã đến mặt trận Lê-nin-grát. Ca-chi-a trong thời gian đó cũng ở Lê-nin-grát. Tôi thật chẳng yên lòng chút nào. Nhưng bằng bất cứ giá nào tôi cũng nhất định không hỏi thăm tin tức Ca-chi-a qua anh ta.

    Tóm lại lúc này, khi đã quen với hiện tượng tôi còn sống, Rô- ma-sốp cố làm nổi bật mình lên. Anh ta có vẻ hãnh diện khi gặp tôi trên đoàn tàu chở thương binh, làm như mình là người có nhiều thành tích đặc biệt.

    Hồi chiến tranh mới nổ ra, anh ta giữ chức phó giám đốc hành chính Viện Nghiên cứu khoa học Lê-nin-grát. Chính ra thì anh ta có thể hoãn dịch, nhưng cũng như tất cả các cán bộ Viện nghiên cứu, anh tạ đã ghi tên xung vào đội tự vệ thành phố. Anh ta bị thương ở vùng ngoại ô Lê-nin-grát nhưng vẫn không chiu rời khỏi đội ngũ. Một người chỉ huy cũ của anh ta nay đã trở thành thủ trưởng quân sự cao cấp điều anh ta về Mát-xcơ-va. Anh ta được cất nhắc giữ một chức vụ mới, nhưng chưa kịp nhậm chức thi đoàn tàu hỏa chở anh ta bị nổ tung. Anh ta bị thương văng lên tận đầu cột điện, cho nên bây giờ anh ta luôn luôn cảm thấy cả nửa người bên trái “đau nhức không thể nào chịu nổi”.

    - Vua rồi tôi hét tướng lên trong lúc ngủ là bị nằm mê đấy, - anh ta giải thích. - Các bác sĩ đều bó tay, chẳng biết đối phó với bệnh của tôi như thế nào.

    - Này, cậu hãy thú thực đi, - tôi nghiêm giọng nói. - Những lời cậu nói vừa rồi, cái nào là đúng sự thật, và cái nào là bịa đặt ra?

    - Sự thật cả đấy thôi!

    - Không đúng!

    - Tôi xin cam đoan! Thời kỳ chúng ta chống đối nhau đã qua lâu rồi.

    Hắn lại dám dùng đến hai chữ "chúng ta”

    - Người anh em ạ, bây giờ mọi việc đều đã kết thúc cả rồi. Tôi có cuộc sống của tôi và anh có cuộc sống của anh. Lúc nàу chúng ta không có ý đồ tranh giành với nhau nữa. Nói ra thì anh không tin. Nhưng xin cứ nói thẳng, mỗi khi nghĩ lại chuyện xung đột giữa hai đứa chúng mình, tôi thực lấy làm ngạc nhiên. Việc đó nhỏ bé quá so với những sự kiện long trời lở đất đang diễn ra trước mắt chúng ta.

    - Cái đó dĩ nhiên rồi.

    - Vậy thì chúng ta hãy coi chuyện cũ đã kết thúc.

    Anh ra nhìn tôi bằng đôi mắt dò hỏi, rõ ràng là anh ta không dám tin rằng cuối cùng tôi có bằng lòng bỏ qua “cái chuyện cũ” kia không.

    Nhưng tôi đã bằng lòng. Trong những ngày như thế này, tôi làm sao có thể chỉ khư khư ôm lấy mối hiềm thù riêng của mình? Tôi đau lòng nghĩ đến cái bóng đen to lớn đang tiến đến gần, che phủ đất nước ta. Giờ đây cái bóng đen đó đương đuổi theo chúng tôi, ập xuống đoàn tàu đã rã rời. Một thương binh què chân như tôi, đứng trước cái bóng đen ấy sẽ đối phó ra sao? Tôi thường nhớ đến cái cảnh tượng quen thuộc ở bệnh viện trước đây: “ngày này nối tiếp ngày khác trôi qua, đơn điệu, buồn tẻ vô cùng, tuồng như không bao giò có chỗ kết thúc. Ngày ngày các cô у tá mang dép đế mềm mang hoa vào phòng đặt lên chiếc bàn cạnh giường tôi nằm. Lúc ấy tôi thực chẳng muốn nhìn thấy hoa, chẳng muốn sống trong cảnh tĩnh lặng đơn điệu của bệnh viện và chẳng muốn nghe những bước chân cố đặt thật nhẹ ấy chút nào.

    Trong lòng tôi nảy ra một ý nghĩ khủng khiếp mà tôi không thể tưởg tượng được. Ý nghĩ đó là: “Rồi đây tôi sẽ không còn được tiếp tục bay nữa”, cả người tôi run lên. Tôi phải há hốc mồm ra để thở. Ý nghĩ của tôi bay xa, xa quá, đến nỗi tưởng chừng sẽ không bao giờ nó còn có thể quay trở về được nữa.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15

Chia sẻ trang này