Hoàn thành Thuyền trưởng và đại úy - V. Ca-vê-rin

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi hanhdb, 21/5/15.

  1. hanhdb

    hanhdb Sinh viên năm II

    VÀI LỜI PHI LỘ
    Công việc số hóa trước đây phần lớn đến từ nỗ lực của một số ít cá nhân nhiệt huyết. Bên cạnh lý tưởng cao đẹp, chúng ta còn phải mưu sinh kiếm ăn, mỗi người đều có công việc - cuộc sống riêng. Chính vì vậy Thư viện cần sự chung tay của toàn bộ cộng đồng trong việc số hóa.
    Làm thế nào để ăn hết một con voi? Mỗi người ăn từng miếng một cute_smiley20
    Diễn đàn TVE-4U hiện đã có thêm tính năng Wiki. Nói nôm na mỗi thành viên đều có quyền sửa bài viết trong box. Điều này sẽ tạo ra một cuộc cách mạng nho nhỏ trong công cuộc số hóa. Ước mơ lớn khôi phục lại kho tàng sách cũ, sử liệu quý của tiền nhân sẽ sớm thành hiện thực. Rất mong các bạn thành viên giúp đỡ thư viện bằng cách tham gia vào việc soát lỗi. Mỗi sự thiện nguyện dù nhỏ bé của bạn sẽ giúp ích cho nhiều thế hệ người Việt có cơ hội đọc thêm một cuốn sách. cute_smiley81
    Nghĩa vụ, trách nhiệm của một thành viên khi tham gia vào TVE-4U, thư viện không chỉ dừng lại ở For U cho cá nhân bạn mà còn cho tất cả chúng ta - For Us. 100 người dù chỉ dành 5 phút mỗi ngày để soát lỗi 1-2 trang cũng tạo nên sức mạnh đám đông phi thường. Các dự án của Happiness Project sẽ được chuyển dần sang thực hiện trên Wiki.
    PHẦN VIỆC SOÁT LỖI
    Dự án đầu tiên trên nền Web sẽ còn nhiều bất cập, hi vọng các bạn tuân thủ quy định văn minh lịch sự của loài người (không xóa nội dung hay chèn nội dung nhảm).
    Cách sửa nội dung bài viết khi soát lỗi
    Bạn nhấn nút "Sửa" phía cuối nội dung mỗi bài post, bấm vào nút "Thêm tùy chọn..." để mở Khung soạn thảo đầy đủ. Khi sửa xong thì lưu lại như bài viết bình thường. Soát đến đâu bạn cắm một nhành hoa :rose: vô đó cho người khác biết (ý kiến của Ra phà). Lần sau bạn có thể soát tiếp hoặc người khác sẽ làm giúp bạn.
    Khi soát lỗi bạn đối chiếu với bản scan sách gốc, chỗ nào cần in đậm in nghiêng.
    Đóng ghim cửa sổ đọc pdf
     
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    0001.jpg
    THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY Tập I

    V.CA-VÊ-RIN

    THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY

    (Giải thưởng văn học Xta-lin 1946) Tái bản

    Ngọc Kỳ và Trần Luận Kim dịch

    NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN - 2004

    Dịch theo bản Nga văn của Nhà xuất bản “Văn nghệ” Mát-xcơ-va 1964 và bản Trung văn của Nhà xuất bản “Nhân dân văn học” Bắc Kinh 1959. :rose:

    Nguồn sách: Bạn Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 29/5/15
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    PHÂN CHIA
    Không có Deadline cho dự án này, nhanh hay chậm tùy thuộc vào các bạn.
    Trước khi soát lỗi, bạn cập nhật tên mình vào phần đảm nhận ngay dưới đây để chúng tôi tiện theo dõi. Mỗi phần có thể một hoặc nhiều người soát. Nhưng để tránh tình trạng nhiều người cùng soát một post tại cùng một thời điểm thì bạn nên cập nhật tình trạng soát lỗi (đang soát, tạm dừng) của mình bên cạnh tên của bạn tại post đăng ký. Điều này bảo đảm tại một thời điểm chỉ có một người đang soát tại một post. Ví dụ:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Deathshine (đang soát)
    hoặc:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Deathshine (tạm dừng), lichan (đang soát)
    Đầu mỗi phần chúng tôi trồng một :rose:Nhiệm vụ của người nông dân là nhặt sâu (lỗi) và đưa đóa hoa đó tiến lên, mỗi ngày thêm một chút. Đến cuối bài post là bạn đã về đích, bạn đặt nhành hoa ở vị trí cuối cùng, cập nhật trạng thái soát của bạn thành (done). Chúng tôi biết ơn bạn vì sự cố gắng tuyệt vời đó.
    Phần chú thích chúng tôi sẽ làm riêng, trong nội dung sách đến note nào bạn ghi đúng như sách in là được. Và bạn nên tô màu tại các vị trí note. Điều này giúp cho người làm e-book dễ dàng nhận thấy hơn. Ví dụ: (1), (2), (3), và ở phần ghi chú thích 1..., 2..., 3...


    Bảng đăng ký thực hiện:

    Tập I

    Phần 1:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: langtu (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Deathshine, antigone (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Cải (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)

    Phần 2:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Rafa (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Rafa (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Rafa (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: langtu (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: bichdinh (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)

    Phần 3:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: langtu (tới trang 266), antigone(từ trang 266 đến hết) (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery2110 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: antigone (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: AsuraZ (done)

    Phần 4:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Kem (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Kem (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Kem (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Kem (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Kem ---> @Mot_sach09(done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Kem ---> @Mot_sach09(done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li (done)

    Phần 5:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Lemontree123 (done)

    Tập II

    Phần 6:

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: langtu, ?? (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:hhongxuan (done)

    Phần 7:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li
    (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Li, Rafa (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: hero229 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery2110 (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Donquixote (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Chi (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Chi (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Chi (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Chi (done)

    Phần 8:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: minhtrang (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery2110
    (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: antigone - done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery
    (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Mystery
    (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: langtu (done)
    Phần 9:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang (
    done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Ban Tang
    (done)
    Phần 10:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: antigone (done)
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: done
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: antigone - done

    Hết:rose:
     
    Last edited by a moderator: 9/6/15
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    LỜI GIỚI THIỆU

    Có những cuốn sách mà ngay từ thời còn nhỏ nó đã trở thành người bạn thân thiết của ta và sau đó nó cứ tồn tại trong suốt cả đời mình. Cuốn tiểu thuyết “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY" của Vê-ni-a-min A-lếch-xan-đrơ-vích Ca-vê-rin, một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Liên Xô là một cuốn sách như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà từ Nhà xuất bản Văn học Thiếu nhi, đến Nhà xuất bản Đội Cận Vệ thanh niên, Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và hàng chục Nhà xuất bản khác ở Liên Xô đã in đi in lại cuốn tiểu thuyết này tới bốn, năm chục lần, mỗi lần hàng chục vạn bản (1).
    (1) Tác phẩm này in lần đầu tiên trên tạp chí "Ngọn lửa" năm 1938 - 1939. Nhà xuất bản Văn học Thiếu nhi thuộc Bộ Giáo dục nước Cộng hòa liên bang Nga in thành sách năm 1940.
    Ca-vê-rin sinh năm 1902. Từ ngày còn theo học ở trường trung học, ông đã say mê văn học và bắt đầu làm thơ. Năm 1919 ông học ở trường Đại học Tổng hợp Mát-xcơ-va; Năm 1920 chuyển sang học ở trường Đại học Tổng hợp Lê-nin-grát và đồng thời còn tham gia nghiên cứu tiếng Ả-rập trong Học viện Ngôn ngữ Phương Đông. Giữa lúc đó "Câu lạc bộ văn học" Lê-nin-grát tổ chức cuộc thi văn cho các cây bút thanh niên, Ca-vê-rin đã tham gia với cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, cuốn “Cây số thứ 11”. Truyện này đã được Mác-xim Goóc-ki rất thích và khen ngợi. Từ đó trở đi Ca-vê-rin thường xuyên được sự chỉ đạo và giúp đỡ của nhà văn cách mạng vĩ đại đó.

    Trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, Ca-vê-rin đã công tác trên hạm đội Phương Bắc, đồng thời làm phóng viên cho tờ báo “Tin tức” và đã được tặng thưởng “Huy chương cờ đỏ”.

    Thời kỳ đầu, phần lớn những tác phẩm của Ca-vê- rin là những cuốn tiểu thuyết ảo tưởng; sau đó ông chuyển sang đề tài bộ mặt tinh thần và quá trình trưởng thành của thanh niên trong thời đại Xô Viết. Tiểu thuyết của ông khá nhiều, có hơn tám quyển lớn và nhiều cuốn đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.

    “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” là cuốn tiểu thuyết dài nổi tiếng nhất của Ca-vê-rin. Tác phẩm kể lại câu chuyện về chiếc tàu thám hiểm “Xanh Ma-ri” của nước Nga trước Cách mạng tháng Mười, về thuyền trưởng Ta-ta-ri-nốp và đội thám hiểm do ông lãnh đạo đã bị mất tích ở vùng Bắc Cực và về chuyện đại úy không quân Liên Xô A-Lếch-xan-đrơ Gri-gô-ri-ép sau ngày Cách mạng đã đi tìm đội thám hiểm đó. Câu chuyện kéo dài trong hơn ba mươi năm, qua những tình tiết phức tạp, tinh tế, tác giả đã biểu hiện vô cùng sắc nét ý chí kiên cường và tinh thần cao thượng của thanh niên Liên Xô. Sau khi xuất bản, cuốn tiểu thuyết đã lôi cuốn người đọc mãnh liệt. Năm 1946 "THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY" đã được tặng giải thưởng văn học Xta-lin. Hiện nay “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” vốn là một trong số tác phẩm được nhân dân và thanh thiếu niên Liên Xô yêu thích nhất.

    Về giá trị của tác phẩm, nhà phê bình văn học V. An-hen-cốp đã viết: "Gri-gô-ri-ép, nhân vật chính của “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã trở thành tấm gương cho nhiều người. Không phải ngẫu nhiên mà một thanh niên nước ngoài đã viết: “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã đặt vào tay anh một vũ khí sắc bén. Vũ khí ấy là "Đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng."

    Tính chất lãng mạn của lao động sáng tạo, của phát minh khoa học, tính chất lãng mạn của dũng cảm và chiến công là động cơ của tư tưởng và tình cảm trong những nhân vật tốt đẹp nhất của Ca-vê-rin”.

    Theo nhà phê bình văn học G.Trê-phi-lô-va thì “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” đã liên tiếp góp phần đào tạo thế hệ thanh niên cùng thời đại với nhân vật của nó... “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” được tính trong số những cuốn sách văn học Xô Viết đặc biệt được yêu thích, đặc biệt được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, những cuốn sách ấy xuất sắc ở điểm là mọi người đều mê.

    Và theo ý kiến của Viện văn học thế giới mang tên Lê-nin thì cuốn tiểu thuyết “THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI ÚY” của Ca-vê-rin đầy tinh thần dũng cảm, bền bỉ, dám nghĩ, dám làm. Nó đã trở thành một trong những cuốn sách được thanh thiếu niên Liên Xô yêu thích nhất”.

    Tóm lại đây là một tác phẩm văn học lớn, một cuốn tiểu thuyết có nội dung giáo dục rất cao, có sức hấp dẫn mãnh liệt.

    Hấp dẫn, không chỉ vì nó ly kỳ, dồn dập, cái gì cũng mới lạ, mà còn do nội dung tư tưởng, do số phận và cá tính của các nhân vật chính, do lời văn trong sáng, tươi mát và phong phú của nó.

    Xin trân trọng giới thiệu với toàn thể các bạn nam nữ thanh niên và các em thiếu niên lớn tuổi.

    Hà Nội, mùa xuân năm 1974 Ngọc Kỳ :rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần thứ nhất

    THỜI THƠ ẤU

    Chương 1

    Lá thư - đi câu tôm biếc

    Tôi còn nhớ mãi cái sân rộng thênh thang nhưng bẩn thỉu và những căn nhà thấp bé có hàng rào bao bọc ấy. Cái sân ở ngay cạnh một con sông và cứ mùa xuân đến khi băng tuyết tan, nước rút đi là trên sân lại đầy những củi rác và vỏ sò, đôi khi còn có cả những vật rất hiếm thấy. Chẳng hạn như có lần chúng tôi vớ được một cái túi chật ních những bì thư. Sau đó nước sông lại đưa đến và nhẹ nhàng đẩy luôn chính cái người đưa thư ấy vào bờ. Anh ta nằm ngửa, hai tay giơ lên như muốn che nắng. Người này còn trẻ lắm, tóc vàng hoe, những chiếc khuy đồng trên áo vét kín cổ sáng lóng lánh - có lẽ trước khi đi đưa chuyến thư cuối cùng này anh ta vừa mới đánh khuy bằng phấn.

    Người cảnh sát mang cái túi đi. Vứt lại bó thư bên trong đã bị nước ngấm ướt sững. Dì Đa-sa nhặt đem về nhà. Chắc là túi đựng thư còn mới lại làm bằng da và nắp đậy rất khít nên những bức thư bên trong vẫn còn xem được. Mỗi buổi tối dì Đa-sa lại đọc lên một bức thư, có khi dì chỉ đọc cho mình tôi nghe, có khi cả xóm cùng nghe. Việc đó thú vị đến nỗi cả các bà già thường đến nhà ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp chơi bài cũng bỏ đấy đến nhập bọn với chúng tôi. Trong số thư ấy có một bức được dì Đa-sa hay đọc nhất đến nỗi sau này tôi đã thuộc lòng. Từ đó đến nay bao nhiêu năm tháng đã trôi qua mà tôi vẫn còn thuộc từ đầu đến cuối.

    Bà Ma-ri-a Va-xi-li-ép-na kính mến!

    Trước hết xin báo tin để bà rõ là ông I-van Li-vô-vích hãy còn sống và khỏe mạnh. Cách đây bốn tháng, theo lệnh của ông, tôi đã rời khỏi chiếc tàu buồm cùng mười ba người nữa trong đội thủy thủ. Tôi hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ được gặp bà, nên tôi sẽ không viết tỉ mỉ về chuyến đi gian nan này của chúng tôi trên những núi băng trôi về đất Phơ-ran-xơ I-ô-xíp. Chúng tôi đã phải chịu đựng mọi nguy nan và gian khổ khôn lường. Tôi chỉ muốn nói với bà một điều là trong cả nhóm chỉ còn mình tôi đến được mũi Phơ-lo-ra một cách an toàn (nếu không kể đến đôi chân cứng dại vì băng giá). Chiếc tàu “Xanh Phô-ca” thuộc đội thám hiểm của trung úy Xê-đốp đã cứu tôi và đưa về Ác-khan-ghen-xcơ. Tôi được sống sót nhưng có lẽ phải lấy làm tiếc về điều đó vì một ngày gần đây tôi sẽ phải cưa chân và sau đó thì chỉ còn biết trông chờ ở lòng nhân từ của Chúa. Tôi không biết sẽ sống ra sao khi không còn chân nào nữa. Dưới đây tôi xin báo để bà biết: Chiếc tàu “Xanh Ma-ri” bị nghẽn băng ở ngoài biển Ca-ra và từ tháng Mười năm 1912 nó không ngừng di chuyển lên phía Bắc cùng với những tảng băng Bắc Cực. Khi chúng tôi rời khỏi chiếc tàu buồm thì nó ở vĩ độ 82”55'. Nó nằm nguyên giữa biển băng hay nói cho đúng hơn thì từ mùa thu năm 1912 nó còn nằm nguyên ở đó cho đến khi chúng tôi đi khỏi. Rất có thể nó sẽ đi được trong năm nay, nhưng theo ý tôi thì có lẽ phải đến sang năm, khi nó trôi đến gần chỗ mà chiếc tàu “Phơ-ram” đã được giải thoát, nó mới có khả năng thoát ra khỏi biển băng ấy. Lương thực còn cho những người ở lại trên tàu đủ dùng đến tháng mười hoặc tháng mười một sang năm. Dù thế nào đi nữa cũng xin bà tin cho rằng chúng tôi rời khỏi tàu không phải vì nó ở vào tình thế tuyệt vọng. Tất nhiên tôi phải chấp hành lệnh của Thuyền trưởng, song cũng xin thú thật rằng lệnh đó cúa ông rất phù hợp với nguyện vọng riêng của tôi. Khi tôi cùng với mười ba thủy thủ rời khỏi tàu thì ông I-van Li-vô-vích có nhờ tôi chuyển một gói niêm phong cho Ngài Cục trưởng Cục Địa lý thủy văn hiện đã quá cố và một phong thư cho bà. Tôi không dám mạo hiểm gửi bưu điện những thứ ấy bởi vì hiện nay chỉ mình tôi còn sống, tôi phải thận trọng tất cả những gì làm bằng chứng cho hành vi chính trực của mình. Do đó xin bà phái người hoặc bà đích thân đến Ác-khan-ghen-xcơ để nhận các thứ trên, bởi vì tôi còn phải nằm ở nhà thương này ít nhất cũng là ba tháng nữa. Tôi mong thư trả lời của bà.

    Xin gửi bà lời chào kính trọng và luôn luôn sẵn sàng hầu bà.

    Hoa tiêu tàu viễn hành I. Cơ-li-mốp”


    Địa chỉ đề thư đã bị nước thấm nhòe nhưng vẫn còn có thể thấy được, địa chỉ ấy cũng viết bằng nét chữ cứng cáp, thẳng tắp trên chiếc phong bì giấy dày đã ngả màu vàng.

    Đôi với tôi, bức thư ấy cứ như một thứ kinh cầu nguyện - tối nào tôi cũng nhẩm đi nhẩm lại trong lúc chờ cha tôi đi làm về.

    Cha tôi ở bến tàu về rất khuya. Giờ đây tàu thủy ra vào hàng ngày và không chở đay gai, bột mì như trước nữa mà toàn chở những hòm đạn và phụ tùng súng ống nặng trình trịch.

    Cha tôi người đẫy đà, vạm vỡ, ria mép rậm, đầu đội chiếc mũ dạ con và mặc quần vải bạt. Mẹ tôi nói luôn mồm còn cha thì cứ lặng thinh ngồi ăn, thỉnh thoảng ho vài tiếng và vuốt bộ ria. Sau
    đó cha dắt các con - tôi và em gái tôi - lên giường đi ngủ. Từ người cha tỏa ra mùi bao tải, khi thì mùi táo, mùi bột mì, có khi lại là mùi hôi của dầu máy. Tôi còn nhớ cái mùi đó đã làm cho tôi phát ngán.

    Có lẽ chính trong cái đêm bất hạnh ấy khi nằm cạnh cha tôi, lần đầu tiên tôi đã nhận xét một cách có ý thức về tất cả mọi vật chung quanh. Một căn phòng nhỏ hẹp với cái trần thấp lè tè dán giấy báo. Bên dưới cửa sổ có một khe hở lớn và qua đó gió từ ngoài sông lùa vào. Đó là ngôi nhà của chúng tôi. Một người đàn bà xinh đẹp, da ngăm đen để xõa tóc đang nằm ngủ trên hai chiếc bao tải nhét đầy rơm đặt dưới đất, đó là mẹ tôi. Đôi bàn chân trẻ con nhỏ bé thò ra ngoài cái chăn rách tả tơi, đó là chân em gái tôi. Một thằng bé gày gò đen đủi, mặc chiếc quần rộng thùng thình, run rẩy bò từ trên giường xuống và rón rén đi ra sân - đó là tôi.

    *

    * *

    Địa điểm thích hợp đã được chọn sẵn. Dây dợ chuẩn bị đầy đủ rồi, đến cả củi khô cũng đã chất đống sẵn ở cạnh Prô-lôm, chỉ còn thiếu có miếng thịt thiu nữa là có thể đi câu tôm biếc được thôi. Đáy con sông ở chỗ chúng tôi màu sắc sặc sỡ cho nên tôm ở đây cũng lắm màu nhiều vẻ. Con thì đen, con thì xanh màu lá cây, con thì vàng. Những loại tôm này cứ đốt lửa lên là chúng sẽ đến và dùng nhái con con làm mồi mà câu cũng được. Nhưng con tôm biếc thì chỉ có thịt thiu mới câu được, về điểm này, tất cả bọn trẻ con đều khẳng định như vậy. Mãi hôm qua mới gặp may: tôi xoáy được của mẹ tôi một miếng thịt, đem ra phơi nắng suốt một ngày. Bây giờ nó đã thối rữa ra rồi, chẳng cần phải cầm cũng đã thấy rõ.

    Tôi chạy thật nhanh dọc theo bờ sông đến Prô-lôm. Ở đây đã chất sẵn củi để đốt lửa. Từ xa đã có thể nhìn thấy hai cái tháp: bờ bên này là tháp Pô-crốp-xcai-a, còn bờ bên kia là tháp Xpát-xcai-a. Sau khi nổ ra chiến tranh, tháp Xpát-xcai-a được dùng làm kho chứa da của quân đội. Pê-chi-a Xcô-vô-rốt-ni-cốp quả quyết rằng ngày xưa trong tháp Xpát-xcai-a có ma và chính mắt cậu ta đã nhìn thấy lũ ma bơi từ bờ bên kia sông sang bờ bên này của chúng tôi. Sau khi sang sông, lũ ma đánh đắm thuyền đi và kéo nhau vào sống ở trong tháp Pô-crốp-xcai-a. Cậu ấy còn cam đoan rằng lũ ma rất thích hút thuốc lá và uống rượu. Đầu chúng nhọn hoắc và trong bọn chúng có nhiều đứa thọt chân bởi vì chúng rơi từ trên trời xuống. Lũ ma ở trong tháp Pô-crốp-xcai-a ngày càng sinh sôi nảy nở và mỗi khi đẹp trời là chúng lại lẻn vào bờ ăn cắp thuốc lá của những ngươi đánh cá buộc vào lưới để cúng thủy thần.

    Tóm lại là khi tôi nhìn thấy một bóng đen gày gò ở chỗ bức tường hổng trong lúc đang thổi lửa thì tôi cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên cả.

    - Nhóc con, mày làm gì ở đây! - Con ma hỏi tôi у như người vậy.

    Nếu lúc đó tôi nói được tôi cũng không trả lời nó. Tôi cứ nhìn nó trừng trừng và run bắn người lên.

    Đúng vào lúc đó mặt trăng ló ra khỏi đám mây nên có thể nhìn thấy người lính canh đang đi lại chung quanh kho chứa da của quân đội ở bờ sông bên kia, dáng to lớn, đẫy đà, lưng đeo khẩu súng trường chĩa nòng lên trời.

    - Câu tôm à?

    “Con ma” nhẹ nhàng nhảy xuống và đến ngồi bên đống lửa.

    - Sao cứ câm như hến thế, thằng ngốc? - Nó hỏi lại, giọng cục cằn.

    Không, đó không phải là ma! Đó chính là một người gày còm hốc hác, đầu không mũ, gã cầm cái gậy con, luôn tay đập gậy vào chân mình. Tôi không nhìn kỹ mặt gã, nhưng tôi cũng nhận ra ngay là gã mặc có mỗi chiếc áo vét lên mình trần và dùng một chiếc khăn choàng thay cho áo sơ-mi.

    - Sao, mày không muốn nói chuyện với tao à, thằng khốn? - Gã lấy gậy chọc chọc vào người tôi mấy cái. - Thế nào, trả lời đi! Trả lời đi! Không thì...

    Không đứng dậy, gã nắm luôn lấy chân tôi kéo tới chỗ gã. Tôi
    ú ớ.

    - À, thì ra mày vừa câm vừa điếc!

    Gã bỏ tôi ra và cứ ngồi mãi, tay cầm gậy chọc vào đống than.

    - Cái thành phố hay thật, - gã nói vẻ chán chường. - Nhà nào cũng có chó; bọn cảnh sát như bầy thú dũ. Một lũ ăn tôm khốn kiếp!

    Gã bắt đầu chửi rủa.

    Nếu tôi biết sau đó một tiếng đồng hồ việc gì sẽ xảy ra thì dù tôi không thể nói lại với người khác một lời nào, tôi cũng sẽ cố gắng nhớ lấy tất cả những lời gã nói. Gã chửi rủa mãi, thậm chí nghiến răng nghiến lợi lại mà nhổ một bãi nước bọt vào đống lửa. Sau đó gã im lặng ngửa đầu lên ngồi bó gối. Tôi liếc nhìn và nếu gã không đáng ghét như vậy thì có lẽ tôi cũng đã thương hại gã.

    Bỗng gã đứng phắt dậy. Vài phút sau gã đã ở trên chiếc cầu phao - chiếc cầu này do quân lính mới bắc - sau đó thoáng thấy bóng gã bên bờ bên kia rồi mất hút.

    Đống lửa của tôi tắt ngấm. Nhưng dù không có ánh lửa tôi vẫn thấy rõ là tôi đã câu được rất nhiều tôm, nhưng trong đó không có con tôm biếc nào cả. Toàn là những con tôm đen thông thường chẳng lấy gì làm to lắm. Đem những con tôm này đến bán ở quán rượu chỉ được một cô-pếch (1) một đôi.
    (1) Một rúp có 100 cô-pếch. - ND.
    Gió lạnh từ đâu phía sau thổi tới cứ lùa vào ống quần của tôi, tôi bắt đầu thấy lạnh cóng. Phải về thôi! Lần cuối cùng tôi quăng dây câu có sẵn mồi thịt thiu xuống nước thì thấy người lính gác ở bờ sông bên kia đang chạy xuống dốc. Tháp Xpát-xcai-a đứng sừng sững trên con sông. Từ tháp đến bờ sông là một cái dốc rải đá. Trăng sáng vằng vặc, trên dốc chẳng có một bóng người nào cả. Vậy mà không hiểu tại sao người lính gác lại vừa chạy vừa bỏ súng ra khỏi vai.

    - Đứng lại!

    Người lính không bắn mà chỉ lên đạn. Ngay lúc đó tôi nhìn thấy rõ người đang bị rượt theo trên cầu phao, sở dĩ tôi phải viết thận trọng như thế là vì cho đến giờ tôi cũng không dám khẳng định rằng đó chính là người trước đây một tiếng đồng hồ đã ngồi bên cạnh đống lửa của tôi. Song hình như giờ đây tôi vẫn còn nhìn thấy cái cảnh thế này: bờ sông tĩnh mịch, con đường sáng ánh trăng như rộng thêm ra chạy thẳng từ chỗ tôi đến những chiếc xà-lan đầu cầu phao và hai cái bóng đen dài của những người đang chạy trên cầu.

    Người lính gác chạy nặng nề và có một lần phải đứng lại để thở. Song người chạy trước rõ ràng lại còn nhọc nhằn hơn, bởi vì có lúc bỗng nhiên gã ngồi thụp xuống bên thành cầu. Người lính gác chạy tới chỗ gã, thình lình kêu lên một tiếng rồi ngã vật ra đằng sau - có lẽ bị đánh bất ngờ từ dưới lên. Người lính nằm vắt trên thành cầu rồi từ từ tuột xuõng. Lúc đó tên hung thủ đã biến mất sau bức tường pháo đài.

    Không hiểu tại sao đêm hôm đó lại không có ai canh gác cầu phao: trong chòi gác trống không mà chung quanh cũng chẳng có người nào. Chỉ có mỗi mình người lính gác nằm nghiêng ở đó, hai tay vươn ra phía trước. Một miếng da bỗng to tướng văng ra bên cạnh. Lúc tôi sợ quá run bắn người lên đi đến gần thì thấy người lính ngáp một cách chậm chạp. Sau nhiều năm tôi mới biết rằng có nhiều người cũng ngáp trước khi chết. Đoạn người lính thở một hơi rõ dài, dường như khoan khoái, rồi tất cả lại trở nên tĩnh mịch.

    Chẳng biết làm gì hơn, tôi cúi xuống nhìn rồi chạy đến chòi gác хem - lúc đó tôi mới biết trong chòi gác không có người, thế là tôi lại quay về chỗ người lính. Tôi không kêu lên được không phải vì hồi ấy tôi bị câm mà chính là vì sợ quá. Đúng lúc ấy từ trên bờ có tiếng người nói, tôi cắm đầu chạy về chỗ câu tôm vừa rồi. Sau này tôi cũng chẳng bao giờ lại chạy nhanh đến thế, thở không ra hơi, đau tức cả ngực. Tôi cũng chẳng kịp lấy cỏ đậy giỏ tôm vì khi về đến nhà thì tôm rơi mất một nửa. Lúc đó còn chú ý gì đến tôm nữa!

    Tôi lẳng lặng hé cửa, tim đập thình thịch. Trong gian phòng duy nhất của chúng tôi tối om om, mọi người đang ngủ ngon lành chẳng ai biết tôi lén ra đi rồi lại trở về. Một phút sau tôi lại nằm lên chỗ cũ cạnh cha tôi. Nhưng mãi tôi vẫn không tài nào chợp mắt được. Trước mắt tôi, lại hiện ra chiếc cầu phao dưới ánh trăng vằng vặc và hai cái bóng đen dài đang chạy. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 5/6/15
    Rafa thích bài này.
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 2

    Cha

    Sáng hôm sau có hai chuyện làm cho tôi rất buồn.

    Chuyện thứ nhất là mẹ tôi đã phát hiện thấy tôm và đã đem luộc hết. Thế là hai mươi cô-pếch của tôi coi như đi tong, hy vọng mua lưỡi câu và con cá mồi (1) mới cũng tiêu tan. Chuyện thứ hai là tôi đánh mất con dao nhíp. Thực ra thì con dao này là của cha tôi, vì lưỡi dao bị gãy nên cha mới cho tôi. Tôi đã đi tìm khắp trong nhà, ngoài sân mà chẳng thấy, tựa như nó đã chui tọt xuống đất mất tăm.

    Tôi loay hoay như thế cho đến tận mười hai giờ là lúc tôi phải mang cơm trưa ra bến tàu cho cha tôi. Đem cơm trưa cho cha là nhiệm vụ của tôi và tôi rất tự hào về nhiệm vụ này.

    Hiện nay bến tàu ở bờ sông bên kia, còn bờ bên này là con đường phố lớn hai bên trồng bồ đề. Cho đến nay những cây bồ đề này vẫn được cả thành phố chúng tôi yêu thích. Hôm đó, khi tôi xách cái túi đựng hộp canh đỗ và khoai tây mang đến cho cha tôi thì thấy trên đại lộ này có rất nhiều lán cho công nhân, dọc theo tường pháo dài có những bao tải và túi vải đựng bột mì chất cao từng đống; những tấm gỗ to rộng bắc từ xà lan lên bờ, những người công nhân khuân vác luôn miệng hét: “Tránh ra này”! - Họ đẩy những chiếc xe gỗ chất đầy hàng chạy từ xà lan xuống. Tôi còn nhớ nước sông ở bến tàu nổi váng ánh lên nhiều màu sặc sỡ, những cái cọc gỗ để buộc tàu đã bị mòn vẹt, mùi cá tanh, mùi hắc ín, mùi bao tải lẫn lộn với nhau nồng nặc.

    Lúc tôi tới bên tàu, mọi người vẫn còn đang làm việc. Có một chiếc xe đẩy bị kẹt bánh giữa khe ván cầu, làm cho việc đi lại từ xà lan lên bờ bị gián đoạn. Những người đằng sau chửi mắng ầm ĩ. Hai người đẩy xe nằm đè lên chiếc xà beng, ra sức đẩy chiếc xe bị kẹt bánh lên để đặt vào đường xe đi. Lúc đó cha tôi đủng đỉnh vòng qua người họ. Ông nói câu gì đó rồi cúi xuống... Tôi cứ nhớ mãi dáng điệu của cha lúc đó: khuôn mặt to tròn có ria rậm, đôi vai to rộng, cha nhấc chiếc xe đẩy chở đầy hàng rất nặng ấy lên một cách nhẹ nhàng. Sau này không bao giờ tôi còn được thấy cha tôi như thế nữa.

    Cha vừa ăn cơm vừa nhìn tôi - “Thế nào, Xa-nhi-a?” - Lúc đó trên bến tàu hiện ra viên cảnh sát trưởng béo phị và ba tên cảnh sát nữa. Một tên gọi “ông bác” đến - mọi người đều gọi bác trùm phường bốc vác ở đây như vậy - và nói với bác điều gì đó. “Ông bác” hốt hoảng kêu lên một tiếng; làm dấu thánh giá rồi cả mấy người cùng đến chỗ chúng tôi.

    - Anh là I-van Gri-gô-ri-ép? - Tên cảnh sát trưởng hỏi và đưa thanh kiếm ra sau lưng.

    - Chính tôi.

    - Bắt lấy hắn! - Tên cảnh sát trưởng hét lên, mặt tím bầm. - Hắn bị bắt!

    Mọỉ người xôn xao. Cha tôi đứng dậy. Tất cả lặng im.

    - Vì sao?

    - Tội gì thì đến chỗ tao mày sẽ rõ! Bắt hắn đi!

    Bọn cảnh sát đi đến chỗ cha tôi và túm lấy hai tay. Cha tôi khẽ lắc vai một cái - bọn chúng nhảy lùi lại mấy bước, một tên cảnh sát vội vàng rút kiếm.

    - Bẩm quan lớn, thế này là thế nào ạ? - Cha hỏi. - Vì sao lại bắt tôi? Tôi chẳng phải là ai xa lạ, mọi người đều biết tôi.

    - Không đâu, chú mày ạ, mọi người còn chưa biết hết về chú mày đâu. - tên cảnh sát trưởng bác lời. - Mày là quân ăn cướp. Giải hắn đi!

    Bọn cảnh sát lại vây lấy cha tôi.

    - Này thằng ngốc, đừng có ngoe nguẩy cái con cá mòi ấy, - cha khẽ nói qua kẽ răng với tên cảnh sát vừa rút kiếm ra. - Bẩm quan, tôi là người có nhà có cửa, tôi làm việc ở bến tàu này đã hai mươi năm nay. Tôi đã làm điều gì xấu xin ngài nói hết cả ra để cho mọi người đều biết, rốt cuộc tôi đã phạm tội gì mà bị bắt. Nếu không mọi người sẽ cho tôi là kẻ cướp thật!

    - Hừ, mày còn giả vờ hả, làm như ông thánh ấy! - Tên cảnh sát trưởng hét lên. - Tao còn lạ gì chúng mày! Nào! Hừ!

    Bọn cảnh sát có vẻ còn lưỡng lự.

    - Nào!

    - Thưa quan, hãy chờ cho một tí, tôi sẽ tự đi được, - cha nói. - Xa-nhi-a... - Cha cúi xuống bảo tôi, - Xa-nhi-a, chạy mau về nhà báo cho mẹ... À, tao quên mất, mày là...

    Cha tôi muốn nói rằng tôi bị câm, nhưng Người lại im. Từ xưa đến nay chưa bao giờ cha nói đến tiếng này. Như thể cha tôi vẫn còn hy vọng rằng có một ngày nào đó tôi sẽ nói được. Ông nín lặng và nhìn chung quanh.

    - Tôi sẽ dẫn nó về. ông I-van ạ, - bác trùm phường nói. - Ông cứ yên tâm.

    - Bác Mi-sa, bác đi hộ nhé. À, còn... - Cha tôi rút ra ba rúp đưa cho bác trùm phường. - Nhờ bác chuyển cho nhà tôi. Thôi, xin từ biệt!

    Mọi ngươi đồng thanh chào lại cha tôi.

    Ông xoa đầu tôi và nói:

    - Đừng khóc, Xa-nhi-a!

    Thế mà tôi không biết là mình đang khóc.

    Giờ đây tôi nhớ lại cảnh khi mẹ tôi biết tin cha tôi bị bắt mà rùng mình. Mẹ không khóc, nhưng khi bác trùm phường vừa đi khỏi, mẹ liền ngồi lên giường, nghiến chặt răng mà đập mạnh đầu vào tường. Tôi và em gái khóc rống lên mà mẹ tôi cũng không ngoái cổ lại. Bà lắp bắp nói gì đó và cứ đập đầu vào tường. Sau đó mẹ tôi đứng dậy, chùm khăn lên đầu rồi đi ra ngoài.

    Dì Đa-sa lo liệu cho chúng tôi suốt ngày hôm đó. Chúng tôi đi ngủ. Thực ra chỉ có em gái tôi ngủ thôi, còn tôi nằm đấy, hai mắt mở thao láo và suy nghĩ... Trước hết là nghĩ về cha tôi, nhớ lại lúc ông chào từ biệt mọi người. Rồi tôi lại nghĩ đến tên cảnh sát trưởng béo phị, nghĩ đến thằng con trai nó mặc quần áo lính thủy. Tôi đã nhìn thấy thằng bé ấy ở trong vườn nhà tỉnh trưởng. Rồi tôi lại nghĩ đến chiếc xe đạp ba bánh của nó. Thằng bé này thường đi chiếc xe đạp ấy, - giá tôi mà có được chiếc xe đạp con ấy! - Cuối cùng khi mẹ tôi về thì tôi chẳng nghĩ gì nữa. Mẹ tôi bước vào nhà, người đen xạm, gầy tọp đi và dì Đa-sa chạy đến chỗ mẹ...

    Không hiểu sao tự nhiên tôi lại cảm thấy hình như cha tôi đã bị cảnh sát chém chết. Tôi nằm yên bất động như vậy hồi lâu, đau đớn lặng người đi và chẳng nghe thấy gì nữa. Sau đó tôi mới rõ là cha còn sống, nhưng bọn cảnh sát không cho mẹ tôi vào gặp ông. Mẹ nhắc đi nhắc lại ba lần rằng cha bị bắt vì tội giết người, - ban đêm người lính gác bị giết trên chiếc cầu phao. - Bây giờ tôi mới đoán rằng cái đêm mà mẹ nói chính là đêm vừa qua, còn người lính gác là người lính gác ấy và cái cầu phao cũng chính là cái cầu phao mà người lính gác nằm duỗi hai tay ra. Tôi vùng bật dậy chạy bổ đến chỗ mẹ và hét ầm lên. Mẹ ôm chặt lấy tôi: có lẽ mẹ tưởng là tôi sợ quá. Nhưng đấy chính là tôi đang “nói” đấy...

    Trời, giá mà lúc đó tôi không bị câm!

    Tôi rất muốn nói lại toàn bộ câu chuyện. Tôi đã lén chạy ra câu tôm ở sông Pét-trin-ca như thế nào, đã nhìn thấy một con người bất chính tay cầm cây gậy từ chỗ lỗ hổng của bức tường quanh pháo đài đi ra và hắn đã nghiến răng nghiến lợi chửi bới như thế nào, sau đó hắn nhổ một bãi nước bọt như thế nào vào đống lửa rồi chuồn ra sao. Song đối với một đứa trẻ lên tám tuổi bập bẹ chỉ biết nói được đôi ba tiếng ú ớ thì việc kể lại những điều đó thật là một việc làm quá khó khăn.

    - Bọn trẻ sợ hết hồn rồi! - dì Đa-sa thở dài.

    Khi đó tôi im tiếng và nhìn mẹ tôi, tưởng rằng bây giờ thì tất cả đã rõ ràng.

    - Không, hình như nó muốn nói gì. Con có biết chuyện gì không, hở Xa-nhi-a?

    Ôi, giá như tôi không bị câm! Tôi bắt đầu thuật lại, dùng tay ra hiệu... Mẹ là người hiểu tôi hơn ai hết thế mà lần này tôi lại hoàn toàn thất vọng vì thấy rằng chính mẹ cũng không hiểu được tí gì cả. Hiểu thế nào được! Sự việc xảy ra trên cầu phao làm sao mà giống được cái cảnh một thằng bé gày còm đen đủi, trên mình chỉ mặc mỗi chiếc sơ-mi đang lồng lộn chạy quanh nhà, khi thì nằm lăn ra giường ý muốn nói rằng đêm ấy cha đã ngủ say như thế nào, khi lại nhảy lên ghế, giơ hai nắm tay lên trước mặt dì Đa-sa đang chẳng hiểu đầu đuôi ra sao.

    Cuối cùng dì Đa-sa làm dấu thánh cho tôi.

    - Tụi trẻ con đã đánh nó.

    Tôi lắc đầu.

    - Nó đang kể lại chuyện cha nó bị bắt đấy, - mẹ nói. - Kể lại chuyện bọn cảnh sát đã xông vào đánh cha nó. Có đúng không, Xa-nhi-a?

    Tôi không nhịn được nữa, gục đầu lên đùi mẹ khóc òa lên. Mẹ bế tôi lên giường, tôi nằm mãi lắng nghe xem hai người nói những gì và suy nghĩ xem làm thế nào có thể nói lên được điều bí mật phi thường này của tôi.

    (1) Cá mồi là con cá làm bằng kim loại sáng lóng lánh bên dưới mắc lưới câu dử cá đến ăn mồi sẽ mắc lưỡi câu. - N.D. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
    Rafa thích bài này.
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 3

    Chạy chọt

    Nếu sáng hôm sau mẹ tôi không ốm thì chắc chắn tôi sẽ tìm được cách trình bày cho ra sự việc này. Xưa nay mẹ tôi vốn là người thất thường, nhưng kỳ lạ như lần này thì tôi chưa bao giờ thấy.

    Trước đây khi nào mẹ đột nhiên đứng cạnh cửa sổ hàng tiếng đồng hồ hoặc đang đêm mà mẹ nhảy từ trên giường xuống, mình mặc mỗi chiếc áo cánh ngồi cạnh bàn suốt đêm là cha phải đưa mẹ về nhà quê nghỉ mấy ngày và lúc mẹ trở lại là sức khỏe bình thường rồi. Giờ đây không có cha ở nhà, vả lại vị tất những chuyến đi như thế còn ích lợi gì cho mẹ tôi nữa.

    Mẹ đứng ở cửa, tóc buông xõa, chân đi đất, dù có người đi bên cạnh mẹ tôi vào nhà, bà cũng chẳng ngoảnh lại. Mẹ tôi cứ nín thinh, thỉnh thoảng mới ngơ ngác nói dăm ba tiếng.

    Hình như mẹ sợ tôi. Mỗi khi tôi “nói chuyện” là mẹ lại bịt chặt lấy tai. Vẻ mặt đau đớn. Có khi mẹ lấy tay dụi mắt, day trán, hình như cố nhớ lại điều gì. Khi dì Đa-sa khuyên dỗ, mẹ quay mặt lại, lặng thinh gườm gườm nhìn dì bằng đôi mắt đen nháy đáng sợ làm cho dì Đa-sa phải kín đáo làm dấu thánh...

    Phải đến hai tuần lễ mẹ mới hoàn hồn. Tuy còn ngơ ngác nhưng mẹ đã bắt đầu nói chuyện, đi ra khỏi nhà và đã làm việc. Giờ đây càng ngày mẹ càng hay nói đến chữ “phải chạy chọt”. Đầu tiên ông Xcô-vô-rôVni-cốp nói câu đó, rồi dì Đa-sa cũng nói. Sau đó thì mọi người trong cả xóm đều nói như vậy: "phải chạy chọt". Tôi mơ màng cảm thấy cái từ này có liên quan gì đó với hiệu bán đồ chơi “ơ-ri-ca” ở phố Xéc-ghi-ép-xcai-a có treo những bánh pháo trên các cửa sổ.

    Nhưng chẳng bao lâu tôi hiểu được nghĩa những chữ đó lại khác hẳn.

    Hôm đó, mẹ dẫn chúng tôi - tôi và em gái - đi theo. Chúng tôi mang đơn kêu lên “tòa”. “Tòa” là một ngôi nhà lán tối om ở đằng sau quảng trường Ba-da-rơ-nai-a, bên trong hàng rào sắt rất cao.

    Tôi đã mấy lần nhìn thấy những viên chức sáng sáng đến làm ở tòa. Tôi không biết tại sao lại nảy ra ý nghĩ kỳ quặc thế này: tôi cứ cho rằng họ sẽ ở lại trong tòa, rồi sáng hôm sau lại có những viên chức khác đến làm việc, và ngày thứ ba lại có những viên chức mới nữa, cứ thế mà tái diễn hàng ngày.

    Tôi và em gái ngồi mãi trên chiếc ghế sắt ở ngoài hành lang cao tít và tối mò. Những người tùy phái của tòa tay cầm công văn chạy đi chạy lại, ra vào sập cửa thình thình. Sau đó mẹ quay ra dắt tay em gái và chúng tôi tất cả chạy vào. Ba mẹ con vào một căn phòng ngăn đôi. Tuy tôi không nom thấy mẹ đang nói chuyện với ai và cúi rạp đầu xuống chào ai, nhưng tôi nghe thấy một giọng nói khô khan, lạnh nhạt của người nào đó. Thật đáng sợ là người đó nói đến những điều mà cả thế giới này chỉ mình tôi có thể giải đáp đến nơi đến chốn.

    - Gri-gô-ri-ép I-van... Tiếng giở những trang giấy sột soạt. - Điều 1454 về tội hình. Giết người một cách có ý thức. Thế nào bà, bà còn muốn nói gì nữa?

    - Bẩm quan lớn, - mẹ nói giọng lạc đi, căng thẳng, - nhà tôi không có tội, không bao giờ ông ấy giết người.

    - Tòa sẽ xét xử.

    Tôi đứng kiễng chân từ lâu, nghển cổ lên cao đến nỗi đầu muốn rơi ra, nhưng chỉ nhìn thấy qua bức vách gỗ một bàn tay có những ngón tay dài ngoẵng và gày đét đang cầm kính đung đưa.

    - Bẩm quan lớn, - me lại nói, - con muốn đệ lên tòa một lá đơn. Cả xóm con đều đã ký vào đây.

    - Đơn thì có thể đưa được, nhưng phải nộp một rúp tiền tem.

    - Đã nộp rồi đấy ạ. Bẩm quan lớn, con dao họ tìm thấy không phải của ông ấy.

    Con dao? Tôi cứ tưởng mình nghe nhầm.

    - Về việc này thì đã có lời khai của bị cáo.

    - Có lẽ ông ấy đã đánh rơi con dao ấy từ trước đó một tuần.

    Tôi nhìn lên thấy môi mẹ tôi run run.

    - Nếu thế thì người ta đã nhặt mất từ lâu rồi, thưa bà! Song lẽ, tòa sẽ xét xử.

    Từ lúc ấy tôi không còn nghe thấy gì nữa. Đến phút này tôi mới hiểu tại sao cha bị bắt. Không phải cha mà chính tôi đã đánh mất con dao ấy.

    Con dao chuôi gỗ của thợ điện đã cũ. Con dao mà tôi đã tìm suốt cả buổi sáng sau vụ giết người. Con dao có thể rơi ở túi tôi ra khi tôi cúi xuống người lính gác ở trên cầu phao. Con dao mà thằng Pê-chi-a Xcô-vô-rốt-ni-côp đã dùng kính lúp để khắc tên tôi vào đó.

    Giờ đây nhớ lại chuyện đó, tôi mới hiểu là dẫu tôi có kể ra được thì các viên chức nhà nước ngồi sau những cái vách gỗ cao trong tòa nhà lớn âm u ở tòa án En-xcơ lúc đó cũng chẳng thể nào tin ở lời tôi nói. Nhưng khi đó tôi lại không biết như thế. Tôi càng nghĩ lòng càng nặng trĩu. Như vậy có nghĩa là vì lỗi của tôi mà cha bị bắt; vì lỗi của tôi mà hiện nay cả nhà tôi bị đói; vì lỗi của tôi mà mẹ phải bán chiếc áo bành tô dạ mới mà mẹ đã ky cóp dành dụm suốt một năm trời mới mua được; vì lỗi của tôi mà mẹ phải đi đến tòa án, phải rạp đầu chào và nói chuyện giọng lạc hẳn đi với cái người mà tôi không thấy mặt có những ngón tay dài ngoẵng, gày đét và đáng sợ cầm cái kính đung đưa...

    Chưa bao giờ tôi lại cảm thấy đau khổ ghê gớm về tật câm của mình đến như thế.

    Chương 4

    Về nông thôn

    Những cái bè cuối cùng đã trôi xuôi hết. Đêm đêm mỗi khi tỉnh dậy tôi không còn nom thấy ánh đèn thấp thoáng trong những căn nhà nhỏ từ từ di động trên mặt sông nữa. Dòng sông trống trải, trong xóm trống trải, trong nhà cũng trống trải.

    Sáng sớm khi chúng tôi còn đang ngủ, mẹ đã đi giặt thuê cho nhà thương. Tôi thường đến nhà Xcô-vô-rốt-ni-cốp và nghe ông già làu bàu chửi rửa.

    Ông cụ đeo chiếc kính giọng sắt, tóc bạc trắng và rối bù. Ông ngồi khâu giày trên chiếc ghế da thấp ở trong gian bếp tối tăm bé nhỏ. Khi thì ông khâu giày, khi lại đan lưới, hoặc đẽo gọt những con chim, con ngựa con bằng gỗ hoàn diệp liễu để đem bán. Ông mang cái nghề thủ công đó - người ta gọi nó là nghề “đẽo ngựa giống” - từ quê ông ở vùng sông Von-ga tới.

    Ông rất mến tôi - có lẽ là vì tôi là đối tượng duy nhất tiếp chuyện ông mà không bao giờ phản đối lại ông điều gì cả. Ông rủa các bác sĩ, bọn quan chức và lũ nhà buôn. Nhưng bị ông rủa thậm tệ nhất là các cha cố.

    - Phàm là người thì sẽ chết, nhưng người đó có dám vì thế mà than phiền Chúa không? Cha cố nói rằng không. Nhưng tao nói rằng dám! Thế nào gọi là than phiền?

    Tôi không biết thế nào là than phiền.

    - Than phiền tức là bất mãn. Nhưng thế nào là bất mãn? Tức là mong muốn đạt được nhiều hơn là người ta dành cho mình. Cha cố nói: Như vậy không được. Tại sao?

    Tôi không hiểu tại sao cả.

    - BởI vì “Đất cho các con ăn và các con lại đi vào đất”.

    Ông cười cay đắng.

    - Nhưng đất thì cần cái gì? Đất chẳng cần nhiều hơn những gì người ta dành cho nó.

    Tôi cứ suốt ngày ngồi chơi ở nhà ông. Cái gì ở đây tôi cũng thích. Cả những điều ông nói thật khó hiểu, cả tiếng cười đinh tai nhức óc đáng sợ của ông, làm cho tôi cứ phải đớ người ra mà nhìn ông.

    Thế là đã mùa thu rồi. Thời gian gần đây lũ tôm cũng là một khoản thu nhập quan trọng trong kinh tế gia đình của chúng tôi, giờ đây chúng đã ẩn nấp vào hang cả rồi và những con nhái mồi câu của tôi không còn nhử chúng ra được nữa.

    Chúng tôi bị đói và cuối cùng mẹ quyết định đưa tôi và em gái về quê.

    Tôi không còn nhớ rõ lắm chuyến đi này chính vì cái tật cứ đớ người ra như tôi mới nói ở trên. Hồi bé tôi thường hay ngắm nghía, nghe ngóng và rất nhiều cái chẳng hiểu gì cả. Có những điều đơn giản nhất cũng làm tôi ngạc nhiên. Tôi cứ há hốc mồm ra mà tìm hiểu cái thế giới dần dần mở ra trước mắt tôi...

    Giờ đây tôi đang chăm chú nhìn thằng bé đi soát vé ở trên tàu thủy. Cách đây hai tuần lễ người ta còn gọi nó là Min-ca và nó vẫn chơi khăng với thằng Pê-chi-a Xcô-vô-rốt-ni-cốp trong sân khu nhà chúng tôi. Đương nhiên là nó không nhận ra tôi. Nó mặc chiếc áo xanh có bộ cúc áo lính thủy, trên mũ lưỡi trai của nó có thêu chữ “Nép-tuyn” - tên chiếc tàu thủy - nó đứng trên thang tàu, nhìn hành khách một cách dửng dưng. Thế là không còn cái gì khác làm tôi quan tâm nữa. Ngay cả vị thuyền trưởng thần bí - cũng là người lái con tàu, có thể nhìn thấy khuôn mặt đầy râu quai nón của ông ta ở gian buồng lái, ngay cả tiếng máy nổ ầm ầm cũng chẳng làm cho tôi chú ý. Thằng Min-ca đã thu hút tôi. Suốt đọc đường tôi không rời mắt khỏi hắn. “Nép-tuyn” là chiếc tàu thủy nổi tiếng mà tôi vẫn hằng ao ước đi một chuyến. Biết bao lần chúng tôi chờ đợi nó trong khi tắm trên sông để lao người vào những đợt sóng. Giờ đây mọi chuyện đó chấm hết cả rồi. Tôi cứ mê mẩn nhìn thằng Min-ca cho đến xẩm tối, khi người thuyền trưởng râu quai nón kiêm lái tàu ra lệnh qua ống loa giọng khàn khàn: “Dừng lại, chạy lùi?” Phía dưới đuôi tàu nước sông nổi sóng cuồn cuộn, một thủy thủ khéo léo bắt lấy sợi dây chào ném tới.

    Tôi chưa bao giờ sống ở nông thôn, nhưng tôi biết rằng cha tôi có nhà riêng ở làng và cạnh nhà có một khu vườn! Nhưng khi tôi biết đó chỉ là một cái vườn bỏ hoang rậm cỏ ở giữa có mấy cây táo già cỗi thì tôi thất vọng.

    Khi cha tôi thừa kế tài sản này, ông mới có mười tám tuổi. Nhưng cha tôi không sống ở làng nên từ đó nhà bỏ hoang. Tóm lại ngôi nhà là của cha tôi nên tôi cứ tưởng nó cũng phải giống như ông, nghĩa là cũng phải rộng và chắc đậm như cha tôi. Tôi đã lầm to!


    Đây là một ngôi nhà bé tí tẹo đã bị xiêu vẹo từ bao giờ và cho đến nay cứ ở tình trạng chênh vênh như thế. Nóc ngôi nhà bị võng xuống, cửa sổ vỡ toang, khung cửa bị gãy. Cái lò kiểu Nga trông bề ngoài khi chưa đốt lửa thì có vẻ tốt. Mấy chiếc ghế dài ám khói đen xì nằm dọc tường. Trong một góc nhà có treo tượng thánh và trên những mảnh gỗ tạc mình thánh bị ám khói lờ mờ khuôn mặt nào đó.

    Dù sao thì đây cũng là ngôi nhà của chúng tôi. Thế là chúng tôi mở các khăn gói ra, nhồi rơm làm đệm giường, lắp lại kính cửa và bắt đầu sống ở đây.

    Nhưng mẹ chỉ ở vài chúng tôi độ ba tuần rồi lại về thành phố. Người thay mẹ trông nom chúng tôi là bà Pê-trốp-na, cô bố tôi và là “bà trẻ” chúng tôi. Bà rất tốt bụng mặc dù bà có râu ria bạc trắng khó mà queo mắt được. Có điều là chính bà lại cần có người trông nom. Thật vậy, suốt cả mùa đông tôi và em gái tôi đã trông nom bà, xách nước, đốt lò cho bà. Cũng may là căn nhà gỗ nhỏ của bà - tốt hơn ngôi nhà chúng tôi chút ít - ở ngay gần đấy.

    Mùa đông này tôi và em gái rất gắn bó với nhau. Nó chưa đầy tám tuổi. Cả nhà tôi đều có tóc đen và nước da ngăm đen, nhưng em gái tôi lại rất trắng, có mái tóc quen tết thành đuôi sam và cặp mắt xanh biếc, cả nhà tôi đều ít nói, nhất là mẹ tôi, song em gái tôi thì lại nói rất nhiều, nó cứ mở mắt là mở mồm. Tôi chưa bao giờ nom thấy em tôi khóc, song làm cho nó cười thì rất dễ. Cũng như tôi, tên tắt của nó là Xa-nhi-a, tôi là A-lếch-xan-đrơ, còn nó là A-lếch-xan-đra. Trước đây dì Đa-sa đã dạy nó học hát, thế là tối nào nó cũng hát những bài hát rất dài, giọng the thé nhưng rất nghiêm chỉnh nên nghe nó hát không tài nào nín cười được.

    Mới hơn bảy tuổi mà em tôi rất đảm đang việc nhà. Kể ra thì công việc trong nhà chúng tôi cùng rất giản đơn: trên gác xép thì góc bên này là khoai tây, góc kia để củ cải, cải bắp, hành và muối. Còn bánh mì thì lấy ở nhà bếp Pê-trôp-na.

    Hai đứa trẻ chúng tôi sống như vậy trong một ngôi nhà gỗ nhỏ bé trống trải ở một làng quê hẻo lánh ngập tuyết. Sáng sáng chúng tôi dẫm lên tuyết làm thành một con đường nhỏ đến nhà bà Pê-trôp-na. Chỉ buổi tối là đáng sợ: sao mà im lặng thế, tưởng chừng như có the nghe thấy cả tiếng tuyết rơi rất nhẹ, và trong cảnh tĩnh mịch ấy bỗng có tiếng rít lên trong ống khói.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 1/6/15
    hanhdb thích bài này.
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 5

    Ông bác sĩ l-van l-va-nút Tôi học nói

    Một hôm chúng tôi vừa đi nằm và em tôi cũng vừa mới im mồm - bao giờ nó cũng ngủ đi ngay sau khi vừa nói dứt lời - thì cái tĩnh mịch thê lương lại ập đến, kế đó có tiếng gió rít trong ống khói rồi tôi bỗng nghe tiếng có ai gõ vào cửa sổ.

    Đó là một người thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm, mình mặc chiếc áo bơ-lu-dông da, đầu đội mũ bịt tai, ông ta bị rét cóng đến nỗi khi tôi châm đèn và mở cửa cho ông vào thì ông không còn đủ sức để đóng cửa lại nữa. Tôi lấy tay che ánh đèn và nhìn thấy mũi ông bị cóng trắng bệch ra. Ông cúi lưng định tháo ba-lô ra nhưng bỗng ngồi thụp xuống sàn.

    Lần đầu tiên người này xuất hiện trước mặt tôi là như vậy, giờ đây tôi có thể ngồi viết cuốn truyện này cũng là nhờ ơn người đó. Ông bị rét cóng đến gần chết, hầu như đã phải bò lê đến nhà tôi. Ông ngồi trên sàn, thở phì phò và cố nhét những ngón tay run rẩy vào mồm. Tôi bèn nhấc áo ông ra. Ông nói lắp bắp mấy câu gì rồi ngả nghiêng ra bất tỉnh nhân sự.

    Có lần tôi đã thấy mẹ tôi bị ngất và dì Đa-sa thổi vào mồm mẹ tôi. Thế là lần này tôi cũng làm y như vậy. Vị khách của tôi nằm bên cạnh chiếc lò ấm và không rõ rốt cuộc cái gì đã trợ lực cho ông, mặc dù tôi ra sức hà hơi đến nỗi hoa cả mắt lên. Nhưng dù sao thì ông đã tỉnh lại, ngồi dậy và áp vào lò mà sưởi lửa. Mũi ông trở lại bình thường. Khi tôi rót cho ông một cốc nước nóng, ông đã cố nhếch mép cười.

    - Chỉ có hai anh em ở đây với nhau thôi à?

    Xa-nhi-a vừa nói xong câu “chỉ có hai chúng cháu” thì ông ấy đã ngủ mất rồi. Ông ta ngủ nhanh như vậy làm cho tôi không khỏi kinh hãi: hay là chết rồi? Nhưng hình như để trả lời điều thắc mắc của tôi, ông bắt đầu ngáy.

    Đến hôm sau thì ông thật sự tỉnh táo. Lúc tôi thức dậy, ông đã ngồi trên bệ lò sưởi bên cạnh em gái và hai người đang nói chuyện với nhau. Em tôi đã biết tên ông là I-van I-va-nứt, biết rằng ông bị lạc đường và không được nói chuyện về ông với bất cứ ai, nếu không thì ông ấy sẽ bị người ta bắt đi “xu-gun-đe”. Thật thà mà nói, cho đến nay cũng chưa biết ý nghĩa rõ ràng của câu nói này. Song tôi nhớ kỹ, hai anh em tôi hiểu ngay rằng vị khách của chúng tôi đang có nguy hiểm gì đe dọa. Chúng tôi không bàn với nhau nhưng cùng có quyết định chung là không đời nào nói một lời với bất cứ ai về ông ấy cả. Dĩ nhiên việc tôi không nói dễ hơn đối với bé Xa-nhi-a nhiều,

    I-van I-va-nứt thường ngồi trên bệ lò, tay lót xuống dưới đùi lắng nghe bé Xa-nhi-a nói huyên thuyên. Nó đã kể ra tất cả: chuyện cha bị bắt vào tù, chuyện chúng tôi đệ đơn kêu; mẹ đưa chúng tôi về quê rồi mẹ lại ra tỉnh; tôi bị câm; chuyện bà Pê- trốp-na sống ở ngôi nhà thứ hai tính từ cái giếng trở đi, bà cũng có râu, nhưng ít hơn một chút và đã bạc.

    - Ồ, hai cháu thân yêu của ta, - ông I-van I-va-nứt nói và nhẹ nhàng nhảy xuống khỏi bệ lò.

    Ông có đôi mắt sáng, bộ râu đen nhánh và xén phẳng. Lúc đầu tôi lấy làm lạ là sao ông cứ động đậy, tay luôn luôn có những động tác thừa làm cho người ta cảm thấy như ông sắp giơ tay vòng qua đầu để sờ tai mình hay là gãi gan bàn chân. Song chẳng bao lâu tôi cũng quen đi. Trong khi nói chuyện, ông thường bất thình lình nắm trong tay một vật gì đó rồi lại làm trò tung hứng trên tay như là những nhà ảo thuật vậy.

    Cũng trong ngày đầu tiên đó, ông đã biểu diễn cho chúng tôi xem nhiều trò thú vị: ông lấy những que diêm, vỏ cây và củ hành làm thành một con vật ngộ nghĩnh giống như con mèo, lấy ruột bánh mì làm thành chú chuột con. Con mèo con kêu meo meo đi bắt chuột giống у như mèo thật. Ông còn biểu diễn trò ảo thuật: ông nuốt cái đồng hồ đeo tay rồi móc nó ra từ trong tay áo. Ông còn dạy chúng tôi xiên khoai tây đem nướng. Tóm lại trong mấy ngày ông ở trong nhà chúng tôi, hai anh em tôi không thấy buồn.

    - Các cháu này, ta là bác sĩ đấy, - có một lần ông nói như vậy.

    - Có cháu nào đau ốm gì không, ta sẽ chữa khỏi ngay.

    Chúng tôi đều rất khỏe. Đứa con gái ông trưởng thôn bị ốm, nhưng không hiểu sao ông lại không chịu đến chữa.

    - “Tình thế này ta vừa lo vừa sợ.

    Tu sĩ kia đừng tố pháp đình...”

    Ông đọc xong câu ca ấy rồi cười.

    Ông là người đầu tiên đọc thơ cho tôi nghe. Ông thường ngồi xếp bằng trước lò sưởi giương đôi lông mày lên mà nói thơ, thậm chí lại ngâm nga hay lẩm bẩm những gì đó.

    Thoạt đầu có lẽ ông rất thích là tôi không thể hỏi ông điều gì cả, nhất là ban đêm. Mỗi khi có tiếng chân người đi bên ngoài cửa sổ làm ông tỉnh giấc và ông cứ nằm mãi, chống khuỷu tay nghe ngóng. Hoặc là khi ông trốn trên trần nhà ngồi đến lúc trời tối. Tôi còn nhớ hôm đó là ngày lễ E-go-ri-o ông ấy đã ngồi như vậy suốt một ngày. Hay như khi ông từ chối không muốn đến làm quen với bà Pê-trốp-na.

    Nhưng hai ba ngày trôi qua, ông lại quan tâm đến cái tật câm của tôi.

    - Sao cháu không nói? Cháu không thích nói à?

    Tôi im lặng nhìn ông.

    - Nhưng bác bảo cháu là cháu cần phải nói. Cháu đã nghe được thì cháu phải nói được. Này anh bạn ạ, đây là một “ca” rất ít thấy. Câm nhưng nghe được tất. Hay là vừa câm vừa điếc?

    Tôi lắc đầu.

    - Đây, nghĩa là cháu sẽ nói được.

    Ông lấy trong ba-lô ra mấy thứ dụng cụ. Hôm đó tuy trời rất đẹp, có ánh nắng, thế mà ông vẫn than vãn là ít ánh sáng quá và khám ông tai tôi.

    - Tai bình thường, - ông rất hài lòng nói thế. - Tai rất bình thường.

    Ông đi đến một góc nhà và nói khẽ: “Đồ ngốc”.

    - Nghe thấy không?

    Tôi cười.

    - Nghe rất rõ, như tai chó vậy. - Ông nháy mắt với bé Xa-nhi- a đang há hốc mồm nhìn ông và tôi. - Nghe tốt lắm. Cháu thân yêu, thế sao cháu không nói?

    Ông lấy hai ngón tay cầm lưỡi tôi kéo ra rõ dài làm cho tôi sợ quá thở khò khè.

    - Họng tốt lắm! Hệt như cổ họng của Sa-li-a-pm . Đúng thế!

    Ông nhìn tôi một lát.

    - Phải học cháu ạ, - ông nói rất nghiêm chỉnh. - Cháu có thể nói trong ý nghĩ của mình được câu gì không, nói trong óc ấy?

    Ông gõ vào trán tôi.

    - Nghĩa là nói trong đầu ấy, hiểu không?

    Tôi ầm ừ, tỏ ra hiểu.

    - Nào, thế nói ra tiếng đi? Nói được những gì thì nói ra hết đi. Nào, nói “có”.

    Hầu như tôi không hiểu nói được gì cả. Nhưng dầu sao cũng cứ nói ra:

    - Có.

    - Hay lắm! Nói lại lần nữa nào!

    Tôi nói lại một lần nữa.

    - Bây giờ huýt sáo.

    Tôi huýt sáo.

    - Bây giờ nói “Ừ”.

    Tôi nói “Ừ"

    - Chẳng qua chỉ là đồ lười thôi! Nào! Nào theo nhé...

    Ông không biết rằng xưa nay tôi vẫn nói mọi điều trong óc. Không nghi ngờ gì nữa, chính vì thế tôi mới có thể nhớ được những năm còn bé một cách rõ ràng như vậy. Nhưng từ chỗ nói không thành tiếng đến chỗ phát ra các âm “e”, “u”, “ư”, đến chỗ làm được những động tác không quen thuộc của môi, lưỡi, họng như thế này thì còn rất xa. Thậm chí những tiếng đơn giản nhất cũng tắc nghẽn trong cổ họng tôi. Tôi có thể nhắc lại theo ông một số âm cá biệt, chủ yếu là những mẫu âm. Nhưng còn ghép những âm đó lại rồi phát ra một cách trơn tru theo như ông dặn, chứ không phải là “sủa”, - đó mới thật là gay go.

    Chỉ có ba tiếng “tai”, “mẹ”, “bép” là tôi nói được ngay, tựa như có hồi nào đó tôi đã từng nói những tiếng này, bây giờ chỉ cần nhớ lại thôi. Sự thực cũng chính là như vậy. Mẹ thường nói là khi mới hai tuổi tôi đã bắt đầu học nói, nhưng sau bị một trận ốm gì đó, tôi bỗng nhiên không nói nữa.

    Ông thầy dạy tôi nằm ngủ trên sàn, mình đắp chiếc áo ngắn, trước khi đi ngủ ông nhét một vật gì bằng sắt sáng loáng xuống dưới đệm rơm. Còn tôi cứ trằn trọc mãi, tôi dậy uống nước rồi ngồi trên giường nhìn ra cửa sổ bảng đóng lại loang lổ. Tôi đang nghĩ xem bao giờ về nhà sẽ nói chuyện với mẹ tôi và dì Đa-sa như thế nào. Tôi nhớ lại những giây phút đầu tiên khi tôi hiểu rằng tôi đã bị câm không thể nói năng được: đó là một buổi tối, mẹ tưởng tôi đã ngủ say rồi, bà đứng thẳng người, mặt tái nhợt, hai bím tóc đen vắt trước ngực, cứ nhìn tôi mãi. Lúc đó lần đầu tiên trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ cay đắng luôn luôn day dứt tôi nhũng năm trước đây: “Tôi hèn hơn mọi người và mẹ phải xấu hổ vì tôi”.

    Tôi cứ nhắc đi nhắc lại những âm “e”, “u”, “ư” và một cảm giác sung sướng làm cho tôi không sao ngủ được cho đến tận gần sáng. Lúc bé Xa-nhi-a đánh thức tôi dậy thì đã trưa rồi.

    - Em đã sang bên bà về rồi mà anh vẫn còn ngủ. - em gái nói rất nhanh. - Con mèo con nhà bà đi mất rồi. Thế bác I-van I-va- nứt đâu?

    Chiếc đệm rơm vẫn nằm trên sàn, vẫn còn những vết hằn ở chỗ đầu, vai và chân. Nhưng còn ông I-van I-va-nứt thì không thấy nữa. Chiếc ba-lô ông vẫn kê dưới đầu bây giờ cũng không còn.

    - Bác I-van I-va-nứt!

    Chúng tôi leo lên trần nhà - chẳng có ai cả.

    - Lạ chưa, lúc đi sang bên bà, bác ấy vẫn đang ngủ. Em còn nhìn bác ấy, thấy rõ là bác ấy đang ngủ, em nghĩ thế thì hãy sang bên bà tí đã. Xa-nhi-a, anh xem kìa!

    Trên bàn có cái ống màu đen, hai đầu loe ra: một đầu nông, hơi to, đầu kia nhỏ hơn và sâu hơn. Chúng tôi nhớ ra là bác I-van I-van-nứt đã lấy nó trong ba-lô ra cùng với những dụng cụ khác để khám tai cho tôi.

    - Bác ở đâu rồi? Bác I-van I-va-nứt?...

    Từ đó đã bao nhiêu năm qua. Tôi đã bay qua các biển Bê-rinh và Ba-ren-xê. Tôi đã từng ở Tây-ban-nha. Tôi đã nghiên cứu địa hình lưu vực giữa sông Lê-na và sông Ê-ni-xây. Lúc nào tôi cũng đem theo cái ông màu đen mà ông đã bỏ quên ở nhà chúng tôi hay cũng có thể là ông để lại để làm kỷ niệm. Đó không phải là mê tín mà là để nhớ ơn người đó. Chẳng bao lâu tôi được biết đó là một cái ông nghe, một dụng cụ rất thông thường để người thầy thuốc nghe tim, nghe phổi. Nhưng hồi đó tôi cảm thấy cái ông nghe này đầy vẻ bí hiểm và đáng yêu, cũng như chính bản thân ông I-van I-va-nửt, cũng như tất cả những điều ông nói, nhũng việc ông làm.

    - Bác I-van I-va-nứt!

    Ông đã biến mất tăm, đã ra đi mà chẳng nói với ai!

    Tôi buồn bã bước ra sân và đi xung quanh nhà. Dấu chân! Trên dấu chân của ông đã bị lớp tuyết mỏng phủ lên. Những dấu chân này không đi qua đường cái ở phía bên kia nhà mà đi thẳng ra cánh đồng. Dấu chân mỗi lúc càng thưa, đến bên bờ một cái đầm thì mất hút trên lối mòn mà các bà già vẫn đi giặt quần áo ở những hố băng.

    Chương 6

    Cha tôi chết. Tôi không muốn nói nữa

    Tôi học nói suốt cả mùa đông. Sáng sớm vừa tỉnh dậy tôi đã đọc váng lên sáu tiếng mà ông I-van I-va-nứt dặn tôi phải đọc hàng ngày: “gà”, “yên”, “hòm”, “bão”, “uống”, “A-bram”. Thật khó biết bao! Em tôi nó nói những tiếng ấy hay biết chừng nào và khác hẳn tôi nói.

    Song tôi có nghị lực. Ngày nào tôi cũng đọc mấy từ ấy hàng nghìn lần như đọc những câu thần chú có thể chữa cho tôi khỏi câm. Trong giấc mơ tôi cũng thấy chúng. Tôi tưởng tượng ra một ông A-bram bí ẩn nào đó đem bỏ con gà mái vào trong hòm, hoặc là đội mũ từ trong nhà đi ra, vai vác cái yên ngựa. Bão tuyết, uống rượu!

    Cái lưỡi tôi nó rất bướng bỉnh, đôi môi cũng chỉ hơi động đậy được. Mấy lần tôi định đánh bé Xa-nhi-a vì nó vô tình cười tôi. Đêm đêm tôi thường thức giấc, buồn rầu và cảm thấy tôi sẽ không bao giờ biết nói nữa, vĩnh viễn là một kẻ tàn phế như có lần mẹ đã rủa tôi. Song cũng chính ở giây phút đó, tôi lại thử cố nói cái tiếng “tàn tật” này. Tôi còn nhớ, cuối cùng tôi cũng nói được, thế là tôi sung sướng ngủ thiếp đi. Ông I-van I-va-nứt dặn tôi là khi tập nói không được ra hiệu bằng tay, như thế mới có thể sửa được cái thói quen của người câm đã ăn nhập vào người tôi. Tôi đút hai tay vào trong túi, đưa mắt nhìn một vật gì đó, như cái của sổ, cái lò sưởi, thùng nước và nói to lên tiếng đó từng âm tiết một. Không hiểu tại sao tôi không đọc được đúng trọng âm, cho đến tận bây giờ tôi cũng vẫn nhấn sai trọng âm.

    Có một hôm, sau khi tỉnh giấc, tôi không đọc sáu tiếng thiêng liêng này, đó là một trong những ngày đau khổ nhất của đời tôi.

    Hôm đó bà Pê-trốp-na đánh thức chúng tôi dậy sớm. Chỉ một việc đó tôi cũng đã lạ lắm rồi, bởi vì thông thường mọi sáng không phải bà sang gọi chúng tôi mà là chúng tôi sang bên bà đốt lò, đặt ấm nước cho bà. Bà chống gậy lọc cọc bước vào và làm dấu thánh, đoạn gọi bé gái dậy, bảo nó đốt đèn lên...

    Nhiều năm sau khi đã trưởng thành, tôi nhìn thấy tranh vẽ mụ yêu tinh trong một cuốn sách nhi đồng, giống hệt như bà Pê- trốp-na: cũng có râu, lưng còng, chống hèo. Song bà Pê-trôp-na nếu có giống thế thì lại là một yêu tinh tốt bụng. Nhưng cái ngày hôm đó... Hôm đó bà ngồi trên ghế đẩu, thở rất khó nhọc, thậm chí tôi còn cảm thấy như những giọt nước mắt đang chảy ròng ròng xuống bộ râu của bà.

    - Xuống đi, Xa-nhi-a! - Bà nói. - Đến đây với bà!

    Tôi đi đến.

    - Cháu lớn rồi, Xa-nhi-a. - Bà Pê-trôp-na xoa đầu tôi. - Hôm qua mẹ có thư đến nói rằng I-van bị ốm.

    Bà khóc.

    - Bố ốm rất nặng ở trong tù. Đầu và chân bị phù. Mẹ cháu viết rằng không biết hiện nay bố có còn sống không.

    Bé gái khóc òa lên.

    - Làm sao được, đó là ý của Chúa, - bà Pê-trốp-na nói. - Ý Chúa, - bà dằn tiếng nhắc lại rồi lại ngước mắt nhìn tượng Chúa.

    Bà chỉ nói là bố tôi bị ốm, nhưng buổi chiều khi đến nhà thờ thì tôi hiểu là ông đã chết rồi. Chiều hôm đó bà Pê-trốp-na đưa chúng tôi đến nhà thờ, nói là để chúng tôi đi “cầu phúc”.

    Kể cũng lạ là tuy tôi đã sống ở làng ba tháng nay, nhưng ngoài mấy đứa trẻ cùng trượt tuyết với tôi ra, tôi hầu như chắng quen ai cả. Tôi ngại mình bị câm nên chắng đi đâu cả. Bây giờ đến nhà thờ tôi mới nhìn thấy rất nhiều người trong thôn - một đám đàn bà và cụ già cũng ăn mặc quần áo lam lũ, nét mặt rầu rĩ, chẳng nói chẳng rằng у như chúng tôi vậy. Họ đứng ở trong chỗ tôi - chỉ ở phía trên chỗ ông cố đạo đang ê a đọc kinh là có thắp nến. Nhiều người thở dài và làm dấu thánh.

    “Lạy Chúa từ bi!” - Ông cố đạo luôn mồm nói câu ấy. Miệng ông phả hơi nóng, tay ông cầm cái đỉnh rung rinh, một làn khói xanh từ trong ấy bốc lên. Tôi cảm thấy tất cả mọi người, cũng như tôi, không cầu khấn mà chỉ nhìn theo làn khói ấy, xem nó bay lên từng vệt, cuộn tròn lại rồi bốc lên cao, bay ra chỗ cửa sổ màu xanh đã bị đóng băng. Có lẽ lúc đó tôi đã quên không nghĩ đến cha tôi nữa. Bỗng nhiên bà Pê-trốp-na cáu kỉnh dúi vào lưng tôi một cái - cho đến giờ tôi cũng không hiểu vì sao bà lại làm thế - lúc ấy tôi mới nghĩ đến cha và hiểu rằng ông đã chết.

    Vì cha tôi đã chết nên mọi người thở dài và làm dấu thánh. Vì cha đã chết nên tôi và em gái mới đứng tại đây, trong chỗ tôi ở nhà thờ này. Vì cha đã chết nên bà Pê-trốp-na cáu kỉnh dúi tôi. Vì cha chết cho nên chúng tôi mới đi “cầu phúc” ở đây.

    Bà Pê-trốp-na dắt em gái tôi về nhà bà. Còn tôi trở về nhà tôi một mình và ngồi mãi không thắp đèn. Những con gián đen bà Pê-trốp-na đã cố ý đem đến nhà chúng tôi để lấy “điềm lành” bay vè vè trên chiếc lò sưởi lạnh lẽo. Tôi vừa ngồi ăn khoai tây vừa khóc.

    Cha chết rồi, không bao giờ tôi còn được nhìn thấy cha nữa!

    Người ta đang khiêng cha từ trong tòa ra, từ căn phòng mà tôi và mẹ đến đưa đơn ấy ra... Khi nhớ tới cái giọng nói lạnh lùng và cái bàn tay có những ngón dài ngoẵng, gày đét đang đung đưa cái kính thì tôi ngừng ăn và nghiến chặt hai hàm răng. Cứ chờ đấy! Tao sẽ tính món nợ này! Thế nào cũng có ngày mày phải cúi rạp xuống chào tao và lúc đó tao cũng sẽ trả lời thế này: “Tòa án sẽ xét xử...” Người ta khiêng chiếc quan tài đi dọc hành lang, những nhân viên tùy phái của tòa án cầm công văn chạy đi chạy lại bên cạnh, không ai nhìn, không ai muốn nhìn xem người ta khiêng cha tôi ra nữa. Chỉ có dì Đa-sa đội chiếc khăn dài đen như một nữ tu sĩ đi ngược lại. Dì vừa đi vừa khóc và làm dấu thánh. Chúng tôi dừng lại, có ai đang đứng ở cạnh cửa, chiếc quan tài lắc lư trên tay mọi người rồi được đặt xuống đất... Mẹ tôi cúi xuống, tôi nhìn từ dưới lên thấy môi mẹ đang run.

    Tôi nghe thấy tiếng mình nói và bừng tỉnh dậy. Chắc là tôi bị sốt, bởi vì tôi đã nói những câu lảm nhảm, tôi tự mắng mình và chẳng hiểu sao lại gắt cả mẹ, chuyện trò với ông I-van I-va-nứt mặc dù tôi biết rất rõ là ông đã ra đi từ lâu và thậm chí đến dấu chân của ông cũng chỉ lưu lại trên cánh đồng được có hai ngày, sau đó liền bị tuyết phủ đi.

    Nhưng tôi đã nói được - nói rất to và rõ! Tôi đã nói được, giờ đây tôi có thể kể lại sự việc xảy ra trên chiếc cầu phao đêm hôm nào, tôi sẽ chứng minh rằng cái con dao ấy là của tôi. Khi tôi cúi xuống nhìn người bị giết thì con dao ấy rơi ra. Muộn rồi! Tôi để lỡ một việc mà suốt đời không còn làm được nữa. Giờ đây chẳng còn gì có thể giúp ích cho cha tôi!

    Hai tay ôm đầu, tôi nằm trong bóng tối. Trong nhà giá lạnh, hai chân tê cóng, nhưng tôi cứ nằm yên như thế cho đến sáng hôm sau. Tôi quyết định là sẽ không nói nữa. Nói để làm gì? Dẫu sao cha tôi cũng đã chết rồi. Còn tôi thì không bao giờ được nhìn thấy cha nữa. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 1/6/15
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 7

    Mẹ

    Tôi không nhớ rõ lắm cảnh tượng của cuộc Cách mạng tháng Hai. Trước khi trở về thành phố tôi cũng không hiểu cả cái từ này. Nhưng tôi còn nhớ lúc đó tôi đã liên hệ sự xao động bí ẩn và các câu chuvện khó hiểu với người khách đến nhà chúng tôi đêm nọ và đã dạy tôi học nói.

    Mỗi buổi tối khi tôi xiên khoai tây để nướng là tôi lại nhớ đến ông và đối với tôi càng ngày ông càng trở nên thần bí, càng thêm hấp dẫn. Tại sao ông lại biến mất đột ngột như vậy? Tại sao ông lại không muốn chữa bệnh cho Man-ca, con gái lão trưởng thôn và thậm chí không sang cả bên bà Pê-trốp-na nữa? Giờ đây ông đang ở đâu? Có quay lại nữa không? Đêm đêm mỗi khi tỉnh dậy là tôi lại chăm chú lắng nghe: có tiếng gõ ngoài cửa sổ không? Có phải ông không? Chẳng có ai gõ cửa. chỉ có tuyết nhẹ nhàng êm ả rơi xuống mái nhà, rồi thình lình có tiếng gió rít lên trong ống khói.

    Chẳng ai hỏi chúng tôi về ông ấy. Nhưng không biết tại sao tôi lại tin rằng nếu bây giờ ông ấy về đây thì mọi sự sẽ khác hẳn, không giống như lần trước. Có lẽ ông sẽ không phải trốn lên trần nhà nữa! Có lẽ ông ấy sẽ không từ chối việc làm quen với bà Pê- trốp-na nữa!

    Tôi không để ý thấy mùa xuân đi qua lúc nào, nhưng mùa hè đã bắt đầu bằng một ngày khi mẹ và hai anh em tôi ra bến tàu đợi từ sáng sớm tinh mơ, mãi sau chiếc tàu thủy “Nép tuyn” mới rúc còi oai vệ lùi lại rồi cập bến.

    Thằng Min-ca đội chiếc mũ lưỡi trai có hàng chữ vàng, mặc chiếc áo vét màu xanh đã nhàu nát cũng đứng trên bậc thang như lần trước, khinh khỉnh nhìn hành khách. Người thuyền trưởng kiêm bẻ lái râu quai nón nói khàn khàn trong ống loa: “Thôi! Chạy lèn!” và “Thôi, lùi lại!” Boong tàu rung rinh một cách bí ẩn. Chúng tôi trở lại thành phố. Mẹ đón chúng tôi về. Mẹ gày đi, nom như trẻ ra trong chiếc áo khoác mới.và chiếc khăn hoa mới.

    Suốt mùa đông vừa qua tôi vẫn thường nghĩ là mẹ sẽ ngạc nhiên thế nào khi nghe thấy tôi nói. Song mẹ chỉ ôm chặc lấy tôi mà cười. Qua một mùa đông, mẹ đã thay đổi khác hẳn. Lúc nào mẹ cũng suy nghĩ điều gì đó - tôi nhận ra ngay qua nét mặt sinh động của mẹ - khi thì mẹ trầm ngâm bực bội, lúc lại tươi cười. Bà Pê-trốp-na cho rằng mẹ bị ngố ngẩn. Có một lần bà hỏi mẹ điều đó. Mẹ cười và nói rằng không phải. Có lần chúng tôi vào rừng tuớc vỏ cây cho bà Pê-trốp-na đan dép đem bán. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh của mẹ tôi trong ngày hôm đó: mái tóc đen, thân hình chắc nịch, răng trắng muốt, quàng chiếc khăn hoa tết chữ thập trước ngực. Mẹ cúi xuống chặt những cây con một cách nhanh nhẹn, tước bỏ các cành con; cắn đầu gốc rồi tước phăng vỏ cây. Mẹ muốn dạy cho tôi cách làm như vậy, nhưng chẳng kết quả gì, tôi chỉ biết làm đứt tay chứ chẳng được tích sự gì.

    Sau đó tôi nấp vào bụi cây, ngồi tư lự mãi mà nghe lũ chim thi nhau hót và ngắm nhìn mẹ tôi đang bước đi mỗi lúc một xa hơn. Bỗng mẹ tôi cất tiếng hát:

    Cổng sau một lũ lái buôn. Cần tiền mua phấn em bán luôn ngựa này,

    Mua son - bò bán liền tay. Mua thuốc nhuộm tóc - bán ngay chiếc thùng

    Ánh nắng chiếu vào bụi cây, mẹ đứng lên, hai má đỏ ửng. mắt long lanh. Đúng là mẹ có chuyện gì thật!

    Trước mặt chúng tôi ít khi mẹ nhắc tới cha. Song mỗi lần mẹ chuyện trò âu yếm với tôi là tôi biết rằng mẹ đang nghĩ đến cha. Bao giờ mẹ cũng rất yêu em gái...

    Ngồi trên tàu thủy mẹ toàn nghĩ ngợi điều gì - mẹ nhướng mày lên, lắc đầu - có lẽ trong óc mẹ đang cãi cọ gì với ai. Tôi càng suy nghĩ lan man: tôi tưởng tượng mình đang đi dạo ngoài sân và bỗng nhiên nói bừa ra một câu. làm như xưa nay tôi vẫn biết nói vậy. Tôi mê mải nhìn dòng nước nên chợp ngủ đi và trong lúc mơ màng tôi giật thót mình lên: tôi mơ thấy mình lại bị câm.

    - Mọ ơi! - Tôi khẽ gọi.

    Mẹ lặng im.

    - Mẹ ơi! - Tôi sợ quá hét lên.

    Lúc đó mẹ mới quay lại...

    Khi trở về, tôi cảm thấy cái sân chung của xóm sao mà hoang tàn. thê thảm thế! Hàng năm nay chưa ai chịu thông công cả, dưới thềm nhà nào cũng có nước bẩn đọng lại, rác rưởi nổi lềnh bềnh. Sau một mùa đông, những gian nhà xép chứa đồ càng xiêu vẹo hơn. Dãy hàng rào có những chổ hổng to đến nỗi có thể ngồi trên xe ngựa mà đi qua được. Đằng sau nhà ông Xcô-vô-rốt-ni- cốp có một đống xương xẩu. chân móng, những mảnh da sống thối hoắc.

    Ông già đang nấu hồ. Ông vẫn ngồi trên chiếc ghế da thấp như trước, thắt tạp dể, đeo kính. Cái bếp dầu đặt trên bệ lò, trên bếp có cái thùng sắt, từ chiếc thùng tỏa ra cái mùi thật nồng nặc làm tôi cứ buồn nôn suốt lúc ngồi ở đây.

    - Mọi người cứ tưởng đây là thứ hồ thông thường, - ông nói sau khi tôi đã ngồi đấy nửa tiếng đồng hồ và tỏ ý muốn ra ngoài cho thoáng, - nhưng đây là một thứ hồ vạn năng. Cái gì nó cũng có thể dán được, cả sắt thép, cả kính, và nếu như có thằng ngu nào đó muốn dán gạch thì cả gạch cũng dán được. Tao đã phát minh ra đấy. Một loại keo da do Xcô-vô-rốt-ni-cốp đặc chế. Càng thối thì càng dính.

    Ông ngước mắt nghi ngờ nhìn tôi qua phía trên gọng kính.

    - Keo da do Xcô-vô-rốt-ni-cốp đặc chế, - ông nhắc lại lần nữa rồi thở dài. - Già vay ai được bảy rúp để quảng cáo, thì sẽ có khối khách mua. Nông dân mua hồ dán gỗ ở ngoài chợ bốn mươi cô- pếch một phun . Thế là thế nào? Là ăn cuớp. Nào, mày nói chuyện gì đi!

    Tôi nói. Ông gật đầu tán thưởng.

    - Chà! Thật thương cho ông I-van quá! - Ông nói.

    Dì Đa-sa đi vắng, độ hai tuần sau dì mới về. Tôi đã làm cho dì vừa mừng vừa phát hoảng. Tối hôm ấy tôi và dì ngồi trong bếp. Dì hỏi tôi luôn mồm: nào là chúng tôi sống ở làng ra sao, - dì cứ hỏi rồi lại tự trả lời.

    - Các cháu sống thế nào, tội nghiệp. Quanh ra quanh vào vẫn chỉ có hai đứa. Chắc buồn lắm đấy nhỉ. Ai nấu cơm cho các cháu ăn? Bà Pê-trôp-na hả? Đúng là bà Pê-trốp-na.

    - Không, không phải bà Pê-trôp-na đâu, - tôi đột nhiên nói, - chúng cháu nấu lấy.

    Không bao giò tôi quên được nét mặt dì Đa-sa khi tôi nói những lời này. Dì há hốc mồm, lắc đầu lia lịa và nấc lên.

    - Cũng chẳng buồn đâu, - tôi cười hô hô nói tiếp. - Chỉ có nhớ dì thôi, dì Đa-sa ạ. Thế sao dì không về thăm chúng cháu?

    Dì ôm tôi vào lòng.

    - Cháu yêu quí của dì, thế này là thế nào? Nói được rồi ư? Cháu yêu quý, cháu biết nói rồi! Thế mà cứ im mãi để giả vờ nữa chứ, hừ, cái thằng này! Nào, nói đi!

    Thế là tôi kể cho dì nghe về người thầy thuốc bị rét cóng đến gõ cửa nhà tôi, chuyện chúng tôi đã giấu ông ấy ba ngày ba đêm trên trần nhà như thế nào, chuyện ông ấy dạy tôi phát âm mấy tiếng “e”, “u”, V’ và bắt tôi phải nói chữ “cái tai” như thế nào.

    - Xa-nhi-a, cháu phải cầu nguyện cho ông ấy, - dì Đa-sa trịnh trọng nói. - Ông ấy tên là gì?

    - I-van I-va-nứt.

    - Phải cầu nguyện cho ông ấy. Tối nào cũng phải cầu nguyện cho ông ấy.

    ♦ THUYỀN TRƯỞNG VÀ ĐẠI UÝ

    Chương 8

    Pê-chi-a Xcô-vô-rốt-nì-cốp

    Dì Đa-sa nói rằng từ sau khi biết nói, tôi thay đổi nhiều. Chính tự tôi cũng cảm thấy như vậy. Mùa hè năm ngoái tôi cứ tránh bạn bè, cảm giác nặng nề về sự tàn tật của mình làm tôi bị gò bó. Tôi rất rụt rè, suốt ngày cau có, rầu rĩ. Giờ đây có lẽ chẳng thể nào tin được là tôi đã như vậy .

    Sau hai ba tháng tôi đã đuổi kịp các bạn cùng lứa tuổi. Pê- chi-a Xcô-vô-rốt-ni-cốp mười hai tuổi, rất thân với tôi. Đó là một thằng cao lêu nghêu, tóc vàng, đã nói là làm.

    Những cuốn sách đầu tiên tôi nhìn thấy trong đời là ở nhà thằng Pê-chi-a. Đó là “Tập truyện về hành động của những người đi săn trong chiến tranh cổ đại”. “I-u-ri Mi-lô-xláp-xki” và “Sách dạy viết thư”. Ngoài bìa cuốn “Viết thư” có vẽ một chàng trai ria rậm mặc áo sơ-mi đỏ, tay cầm bút lông ngỗng, trên đầu có vẽ một cô gái trong khung hình bầu dục màu xanh.

    Chúng tôi đã thân nhau khi cùng đọc cuốn “Viết thư” này. Trong những câu mở đầu thư: “Bạn thân yêu” hay “Ngài A.Ph. kính mến” có một vẻ gì thần bí. Tôi lại nhớ đến bức thư của người hoa tiêu tàu biển viễn hành. Và đó là lần đầu tiên tôi đọc ra bức thư ấy thành tiếng.

    Chúng tôi ngồi trong vườn Nhà thờ. Từ đây có thể nom thấy những ngôi nhà và cái sân xóm chúng tôi ở bên kia sông, trông bé tí tẹo, bé hơn thực tế nhiều. Kia là dì Đa-sa nhỏ nhắn đang bước xuống thềm và ngồi đánh vẩy cá. Tôi cảm thấy như nom thấy cả những cái vẩy cá trắng bạc rơi xuống chân dì lấp lánh. Kia là Ca-rơ-lu-sa, một kẻ điên lang thang trong thành phố, lúc thì cau mày, lúc lại cuời cợt đi ở bên kia bờ và dừng lại chỗ cổng nhà chúng tôi- chắc là hỏi chuyện dì Đa-sa.

    Trong khi đọc lại bức thư, tôi cứ nhìn họ. Pê-chi-a chăm chú lắng nghe.

    - Tuyệt! - hắn nói. - Trước kia mình cũng biết chuyện này nhưng quên đi mất. Thế sau ra sao?

    - Chỉ có thế thôi.

    - Thú vị thật, không biết sau đó, chiếc tàu buồm ra sao? Có khi đã kịp cứu ứng rồi. Cậu đọc truyện Ni-ca Các-te chưa?

    - Chưa.

    - Trong truyện cũng có một trường hợp như thế. Một tay triệu phú bị ném vào bể chứa nước. Hắn đã nghĩ ra và đóng vòi nước lại. Lúc người làm vườn đi tưới nước nghĩ bụng: tại sao nước không chảy? Thế là đến phút cuối cùng người ta kịp thời đến cứu. Nếu không thì hắn đã bị chết trong đó. Cậu thuộc làu ghê quá nhỉ. Học có lâu không?

    - Mình không biết.

    - Bây giờ mình đọc một đoạn gì đó, cậu nhắc lại được không?

    Nó đọc:

    Thư trả lời cự tuyệt.

    Thưa X.N. tiên sinh.

    Sự biểu lộ tình cảm của Ngài làm tôi vô cùng cảm kích. Song tôi không thể chấp nhận được vì nhiều nguyên nhân không tiện nói ở đây, chúng cũng không có liên quan đến Ngài.

    Xin chúc đại an.

    Chú thích: Thư trả lời cự tuyệt bao giờ cũng viết bằng những lời khái quát, đơn giản, không nên viết ý gì khác, ngoài sự lễ độ.

    *

    * *

    Tôi nhắc lại đúng nguyên văn bức thư trên cùng với câu chú thích. Pê-chi-a khịt mũi có vẻ không tin.

    - Khá đấy, nó nói. - Thế còn đoạn này?

    Nó lại đọc luôn một mạch:

    “Thư gửi chàng hoặc gửi nàng.

    Xin mở đầu thư này bằng lời của người xưa đã viết: “Em muốn quên hết những chuyện đã qua, song còn luyến tiếc quá khứ: trong đó là cả nguồn hạnh phúc đã từng hé ra trong giây lát, cả niềm vui và sầu muộn của em’\ Anh biết câu ấy không? Em đã thấy ở anh những gì em yêu quí nhất (nên nói ra nó là cái gì). Không thể có ai tốt hơn, đáng yêu hơn, đáng quí hơn anh, anh thân thiết với em, như (viết tiếp là như cái gì). Em nhớ lại những giọt nước mắt đầu tiên và cái hôn đầu tiên của anh trên, tay em. Đã hai ngày nay em sống thiếu anh (nên nói rõ là vui, buồn, bình yên hay nói về công việc gia đình).

    Từ biệt.

    Hôn anh.

    *

    * *

    Tôi nhắc lại cả bức thư nàv chỉ hơi ngắc ngứ một chút.

    - Giỏi! - Pê-chi-a nói vẻ thán phục. - Trí nhớ cậu tuyệt lắm!

    Có điều đáng tiếc là chúng tôi ít khi được chơi với nhau như thế này. Pê-chi-a rất bận, nó “bán thuốc lá thuê cho người Trung Quốc”. Trong thành phố chúng tôi người ta gọi cái nghề vất vả này như vậy. Hồi đó những người Trung Quốc sống ở thôn Pô- crôp-xki chuyên cuộn thuôc lá rồi thuê trẻ con đem bán. Ngay lúc này đây tôi còn nhớ rất rõ là một trong những người Trung Quốc đó tên là Lý. Ông là một người bé nhỏ, nước da vàng sẫm trên mặt có nhiều nếp nhăn, nhưng lại rất tốt. Mọi người đều cho rằng tiền “chào mời” ông Lý này trả có hậu hơn những người Trung Quốc khác. Tiền “chào mời” - chính là tiền công của chúng tôi (sau này cả tôi cũng đi bán thuốc lá) bởi vì đúng là chúng tôi đi chào mời mọi người: “Xin mời Ngài hút thuốc!” Có điều là kẻ nào khờ khạo nhận thuốc mời thì cứ đếm tiền ra mà trả. Đó là tiền của chúng tôi. Mỗi hộp thuốc lá có hai trăm năm mươi điếu, các loại thuốc lá mang nhãn hiệu “Ca-tức”, “A-lếch-xăng đệ tam”. Chúng tôi đem thuốc lá ra bán ở ga, trên xe lửa hoặc trên các đại lộ.

    Đã sắp đến mùa thu năm 1917. Song nếu tôi nói rằng, tôi đã nhận biết, cảm thấy hoặc là hiểu được chút ít những ý nghĩa sâu xa của thời kỳ này đối với tôi, đối với cả nước, thậm chí đối với toàn thế giới nữa thì đó chỉ là nói khoác. Tôi chẳng nhìn thấy gì và chẳng hiểu gì cả. Thậm chí tôi còn quên cả những cảm xúc mơ hồ mà tôi thể nghiệm thấy ở nông thôn hồi mùa xuân. Tôi cứ sống hết ngày này qua ngày khác bán thuốc lá, bắt tôm hùm các loại tôm vàng, tôm xanh, tôm xám, chỉ có loại tôm biếc là chẳng vớ được lần nào.

    Song cuộc sống tự do của tôi sắp kết thúc rồi.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 9

    Một gạch, một gạch, gạch nữa, gạch thứ năm, thứ hai mươi, thứ một trăm.

    Có lẽ ngay từ khi chúng tôi chưa trở về thành phố hắn đã thường đến nhà tôi rồi. Mọi người trong xóm đều biết hắn. Ông Xcô-vô-rô -Vni-cốp và dì Đa-sa đã tỏ ra một thái độ mập mờ có phần giễu cợt đối với hắn. Nhưng bây giờ hầu như ngày nào hắn cũng đến, đôi khi hắn mang thứ gì đó đến, song thật thà mà nói, tôi không hề ăn của hắn một quả mận, một cái kẹo sữa nào.

    Tóc hắn quăn, ria vểnh, mặt phị, khổ người khá cân đối. Cái giọng âm âm- của hắn theo tôi chỉ làm cho người ta phát ngán. Hắn đang chữa những nốt trứng cá nổi rõ trên nước da đen của hắn. Nhưng dẫu hắn có những nốt trứng cá, mớ tóc quăn và giọng nói âm âm khó chịu ấy, rất tiếc là mẹ tôi đã thích hắn, nếu không thì hầu như ngày nào hắn cũng đến nhà tôi để làm gì? Thật vậy, mẹ tôi đã thích hắn. Trước mặt hắn, mẹ tôi đổi khác hẳn, cười đùa và cũng nói dài dòng văn tự như hắn.
    Có một lần tôi nhìn thấy mẹ ngồi cười tủm tỉm một mình. Qua nét mặt tôi đoán ngay là mẹ đang nghĩ đến hắn. Một lần khác trong khi nói chuyện với dì Đa-sa về một người nào đó, mẹ nói: “Hết sức bất bình thường”. Đó là câu hắn thường nói.

    Họ của hắn là Ti-mô-skin, nhưng không hiểu sao, hắn lại bảo gọi hắn là Gai-e(1) Cu-li. - cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu dụng ý của hắn. Tôi chỉ nhớ hắn rất thích nói với mẹ rằng: “Trong cuộc sống hắn là một vai hề đáng thương” và “Cuộc sông quăng quật hắn như củi rác”.

    Lúc nói những câu này, hắn làm ra bộ mặt quan trọng, nhìn mẹ ra vẻ ưu tư một cách đần độn.

    Và thế là lão Gai-e này chiều nào cũng đến nhà tôi. Thường tối nào cũng diễn ra như thế này:

    Chiếc đèn nhà bếp treo ở trên tường, bóng mái tóc rối bù trên đầu tôi che lấp cả quyển vở làm bài, lọ mực và cái bàn tay đang bất lực đưa đi trên mặt giấy, ngòi bút kêu soàn soạt.

    Tôi ngồi ở bàn phỗng mồm ra mà cố vẽ những nét gạch - một gạch, một gạch nữa, ba gạch, một trăm gạch, một nghìn gạch! Tôi đã viết không dưới một triệu nét gạch, bởi vì ông thầy của tôi đã quả quyết rằng, nếu nét bút chưa “thẳng cứng”(2) thì nhất định không thể học tiếp được. Hắn ngồi cạnh tôi và dạy tôi, đôi lúc hắn dạy tôi viết mà hắn còn dạy tôi cách sống nữa. Hắn tuôn ra hàng tràng luận điệu ngu xuẩn làm cho đầu óc tôi quay cuồng lên, thế là những nét chữ của tôi cứ lòng khòng lèo khoèo đủ các kiểu, chỉ tội là không thẳng, không được “thẳng cứng”.

    (1) Gai-e tức là vai hề trong kịch. - N. D.

    (2) Đáng lẽ nói nét bút “thẳng đứng” thì Gai-e lại nói nhầm là “thẳng cứng”. - N. D.

    - Mỗi người đều muốn kiếm được miếng béo bở, - hắn nói, - theo bản năng ai cũng phải nhằm mục đích ấy. Nhưng có thể gọi miếng béo bở như thế là một hiện tượng đảm bảo hay không thì lại là vấn đề khác.

    Một gạch, một gạch, một gạch, năm gạch, hai mươi gạch, một trăm gạch...

    - Ví dụ như tao đây chẳng hạn, ngay từ nhỏ tao đã lâm vào tình cảnh khó khăn và tao không hề được dựa dẫm tí nào vào sức lao động của mẹ tao. Trái lại, khi gia đình bị sa sút và bố tao bị bỏ tù vì tội ăn cắp ngựa thì chính tao là kẻ phải đi kiếm cơm chứ không phải ai khác.

    Từng nét, từng nét, nét đậm, nét nhạt, xiên xẹo, cong queo, năm nét, hai mươi nét, một trăm nét...

    - Đáng buồn là khi ở tù ra bố tao bắt đầu nghiện rượu. Uống càng nhiều thì tài sản càng sa sút. Rồi ông ấy chết, đương nhiên là chết rất nhanh, chẳng qua chỉ là lột da một con ngựa đã chết.

    Tôi biết rất rõ tình hình xảy ra sau khi bố ông thầy của tôi chết đi: cái xác trương to gấp ba lần lúc còn sống, cho nên cỗ quan tài vừa mới bắt đầu đóng liền phải vội vàng đóng lại. Có một lần tôi còn nằm mê thấy cái chết ghê tởm ấy...

    Một gạch, một gạch, một gạch... tiếng ngòi bút kêu sột soạt, một gạch, một vết mực...

    - Ngôi nhà tao trở nên hoang vắng. Hồi đó tao mới mười một tuổi, nhưng không hề bi quan thất vọng, và cũng không ăn bám vào mẹ.

    Ông thầy nhìn tôi. Hồi đó tôi mới lên mười nhưng tôi cũng không thể ngồi yên trên chiếc ghế đẩu được nữa. 

    - Tao đi ở cho một hiệu ăn, làm bồi bàn, nhưng không ăn bám vào tiền mẹ kiếm ra nữa.

    Không nghi ngờ gì cả, chính vì cái kiểu ăn nói lạ lùng này của hắn đã gây cho mẹ tôi một ấn tượng mạnh mẽ. Nếu lão Gai-e chỉ nói đơn giản thì mẹ đã đoán ra ngay chẳng qua hắn cũng chỉ là một kẻ bình thường, ngu ngốc, lười biếng và phũ phàng. Tuy vậy về cái tính phũ phàng của hắn thì chẳng bao lâu tự mẹ cũng đã biết.

    Mẹ tôi cũng ngồi bên cạnh cái bàn ấy và say sưa nghe hắn. Mẹ đang vá áo sơ-mi - chiếc áo sơ-mi của cha tôi - và tôi hiểu rằng mẹ vá chiếc áo này cho ai mặc. Tôi linh cảm thấy một tai họa sẽ xảy ra nên ngước mắt nhìn khuôn mặt tái nhợt của mẹ, mái tóc đen nhánh có đường ngôi ở giữa, hai bàn tay mảnh khảnh của mẹ. Tôi lại quay về với những nét gạch của mình. Tôi rất muốn thêm vào dù chỉ một đường thật dài lên trên những dãy nét gạch này thì nó sẽ thành cái hàng rào tuyệt diệu. - Nhưng không được! Nét gạch cứ phải “thẳng cứng”.

    - Song mẹ tao, - Gai-e tiếp tục nói, - rõ ràng là thiên vê phía của bố thí. Tao phải đối phó thế nào? Tao nhận thức thấy rằng như vậy đối với tiền đồ và sự phát triển của tao quả là bất lợi. Tao bèn nói với ông cậu là Ni-ki-ta Đu-e-vơ mà suốt đời tao không quên để cậu khuyên nhủ mẹ.

    Tôi được nghe về người cậu suốt đời không quên này có tôi hàng trăm lần. Trong trí tưởng tượng của tôi đó là một lão già béo ụt ịt, mặt cũng đầy trứng cá từ nhà quê đi xe trượt tuyết ra, lão bỏ chiếc áo khoác ngoài màu vàng, bước vào phòng, rũ tuyết bám trên người, làm dấu thánh trước tượng Chúa. Lão đánh cho mẹ Gai-e một trận, còn thằng bé Gai-e Cu-li đứng bên cạnh thản nhiên nhìn mẹ hắn bị đánh.

    Một gạch, lại một gạch... cái hàng rào đã được vẽ xong từ lâu và tuy tôi biết rất rõ là sẽ bị tai vạ đến nơi, song tôi vẫn vẽ rất nhanh lên phía trên cái hàng rào một ông mặt trời, mấy con chim và đám mây. Gai-e vừa tiếp tục nói vừa liếc nhìn tôi, tôi vội vàng lấy ống tay áo che lấp ông mặt trời và những con chim đi. Song không kịp nữa rồi! Hắn cầm lấy quyển vở của tôi. Hắn trợn mắt. Tôi đứng dậy.

    - Bà Ac-si-ní-a Phê - đô-rốp-a, bây giờ xin bà hãy nhìn xem, cậu con giai quí của bà đang làm gì đây này.

    Khi cha tôi còn sống, mẹ tôi không bao giờ đánh trẻ con, thế mà lần nàv mẹ lại túm lấy tai tôi mà đập đầu xuống bàn.

    Rồi lại những buổi tối khác, vì bố dượng tương lai của tôi cũng có lúc đọc thơ, song thật khác lần tôi và Pê-chi-a Xcô-vô- rốt-ni-cốp đọc với nhau trong vườn Nhà thờ, Lần nào Gai-e cũng chỉ đọc mỗi một quyển sách: “Trích nhật ký của một người hào kiệt”. Ngoài bìa cuôn sách có in một đoạn thơ như thế này:

    Nay đại trượng phu xả thân không tiếc
    Phò Sa hoàng gìn giữ non sông
    Đòn đau hai bận mình năm vết thương
    Nhưng đã trị cho lũ giặc kinh hoàng.


    Hắn đọc quyển sách này với vẻ mặt nạt nộ hung hãn, làm như mọi sự bất hạnh của vị hào kiệt anh dũng này đều tại tôi cả.

    Việc học hành bị chấm dứt từ cái hôm Gai-e Cu-li dọn đến nhà tôi ở. Lễ cưới đã tổ chức tối hôm trước. Dì Đa-sa cáo ốm không đến dự. Tôi còn nhớ hôm cưới ấy mẹ tôi ăn mặc rất diêm dúa. Mẹ mặc chiếc áo măng-tô bằng nhung trắng - đó là quà tặng của chú rể, tóc chải у như một thiếu nữ, tết đuôi sam quấn trên đầu. Mẹ cũng chuyện trò, uống rượu, cười đùa, song thỉnh thoảng lại đưa tay xoa trán một cách lạ lùng. Gai-e Cu-li đứng lên phát biểu, hắn kể ra những công lao đối vối cái gia đình khốn khó này “thế nào cũng đi đến chỗ tan vỡ vì người chủ gia đình trước đây đã để lại một cơ đồ tàn tạ”. Hắn còn nói cả đến việc đã mở mang cho tôi được “giáo dục phổ thông”. Rõ ràng là sự hiểu biết của hắn về cái danh từ này không ngoài những nét chữ “thẳng cứng”.

    Vị tất mẹ tôi đã nghe thấy những lời hắn nói. Mẹ ngồi bên cạnh người chồng mới, mắt nhìn xuống đất, bỗng mẹ cau mày ngơ ngác nhìn về phía trước.

    Ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp sau khi đã uống say đi đến bên cạnh mẹ, vỗ vào vai và nói:

    - Chà, Ác-si-ni-a, bà đã đổi lấy cái thằng...

    Mẹ tôi vội gượng cười.

    Sau khi cưới độ hai tháng lão bố dượng của tôi làm việc ở văn phòng bến tàu. Và mặc dù rất đau lòng khi nhìn thấy hắn ta đi về ngồi vào chỗ mà cha tôi trước kia vẫn ngồi, dùng cái thìa, cái dĩa, cái đĩa trước kia cha tôi vẫn ăn cơm, tôi vẫn có thể sống được bằng cách lẩn tránh lão ta, giả câm giả điếc, hoặc là chờ lão ta đi ngủ rồi mới về. Nhưng chẳng bao lâu lão ta bị đuổi ra khỏi văn phòng bến tàu vì những việc ám muội nào đó và cuộc sống liền trở nên căng thẳng gay gắt. Trong cái đầu mít đặc của lão ta bỗng sinh ra một ý nghĩ bất hạnh là phải ra sức giáo dục chúng tôi - tôi và em gái. Từ đó trở đi tôi không còn lấy một phút tự do.

    Giờ đây tôi đoán rằng chắc hồi còn trẻ lão đã từng đi làm đầy tớ cho người ta nên thấy những cái trò lạ lùng và nực cười mà nay lão ta bắt tôi và em gái phải làm.

    Trước hết lão ta bắt chúng tôi cứ sáng sớm dậy là phải đến chào lão, mặc dù chúng tôi ngủ ngay dưới đất, cách giường lão có hai bước chân. Và chúng tôi đành phải đến. Song chẳng sức mạnh nào có thể ép tôi nói câu “Chào bố buổi sáng tốt lành” được. Buổi sáng chẳng tốt lành gì, mà bố cũng không phải là bố. Chúng tôi không được phép ngồi vào bàn ăn trước lão, và khi chưa được phép của lão thì không được đứng dậy. Ăn xong chúng tôi phải cám ơn lão mặc dù mẹ tôi vẫn phải đến giặt thuê cho nhà thương như trước, bữa cơm do tiền của mẹ tôi và của tôi kiếm ra lại do em gái tôi thổi nấu. Tôi còn nhớ tôi đã điên tiết lên lúc em Xa- nhi-a tội nghiệp theo lời dạy của lão, lần đầu tiên đứng lên khỏi bàn ăn phải gò gập người xuông chào và nói “Xin cám ơn ba”. Lúc đó tôi chỉ muốn ném ngay cả đĩa cháo đang ăn dở vào cái mặt béo phị của lão. Tôi đã không làm việc đó nên đến tận bây giờ vẫn còn ân hận...

    Tôi căm thù lão biết nhường nào! Tôi căm ghét cả đến cái dáng đi, tiếng ngáy, bộ tóc, thậm chí đến cả đôi ủng của lão mà sáng nào lão cũng hì hục đánh bóng lộn. Ban đêm mỗi khi tỉnh dậy là tôi lại căm thù nhìn mãi cái mặt béo phị đang ngủ say tít ấy... Lão không thể ngờ rằng lão đang ở vào tình cảnh nguy hiểm biết bao. Nếu như không có dì Đa-sa thì chắc tôi đã giết chết lão ta.

    Chương 10

    Dì Đa-sa

    Nếu như không có cái hình tượng vô cùng đáng yêu của dì Đa-sa hiện lên trước mắt thì có lẽ tôi cũng chẳng buồn nhớ lại quãng thời gian này làm gì. Dì Đa-sa ỉà người đầu tiên tôi tôn trọng và kính yêu một cách có ý thức.

    Tôi thường đến chơi nhà dì và cứ nín thinh chẳng nói lời nào mà dì cũng hiểu cả. Để an ủi tôi, dì hay kể cho tôi nghe chuyện cuộc đời dì. Tôi rất ngạc nhiên khi biết dì còn chưa đầy bốn chục tuổi! Thế mà tôi cứ tưởng dì đã đáng được gọi là bà nội rồi, nhất là buổi tối, khi dì đeo kính vào để đọc những bức thư của thiên hạ mà nước lũ đã trôi dạt vào sân nhà chúng tôi (đến lúc này dì vẫn cứ mang ra đọc). Dì góa chồng từ nám hai mươi lăm tuổi. Chồng dì hy sinh ngay từ những năm đầu của cuộc chiến tranh Nga - Nhật. Trên chiếc tủ phủ khăn đăng-ten có tấm ảnh của chồng dì đặt giữa hai lọ hoa bằng thủy tinh cuốn màu xanh. Đằng sau tấm ảnh có một bức thư mà tôi cũng đã thuộc lòng. Văn phòng dã chiến Trung đoàn bộ binh số hai mươi sáu thuộc miền Đông Xi-bê-ri gửi giấy cho dì Đa-sa báo tin rằng chồng dì, binh nhì Phê-đo A-lếch-xan-đrô-vích Phẻ-đô-rốp được thưởng huân chương Nhà binh hạng ba và hạng tư về những chiến công xuất sắc đã hy sinh một cách anh hùng trong cuộc chiến đấu với bọn Nhật. Anh hùng! Mãi về sau này hễ mỗi lần nhắc đến hai tiếng đó là tôi lại hình dung thấy một người đàn ông tóc cắt ngắn, râu ria dài rậm ngồi trong chiếc ghế mây trên nền những ngọn núi phủ tuyết.

    Mỗi buổi tôi dì Đa-sa-đọc một bức thư. Đối với dì việc đó hình như đã thành thói quen. Thoạt đầu dì căn cứ vào phong bì và địa chỉ của bức thư mà đoán xem nội dung như thế nào. Song phần lớn các địa chỉ đề trên bì thư đã bị nước làm nhòe mất.

    Sau đó dì đọc thư. đúng ra là “bình" lên từng cái thư, dì đọc chậm rãi, thở dài, gặp chỗ nào mờ quá không đọc nổi thì dì lại ậm ừ bực tức. Dì vui niềm vui của người trong thư, đau buồn nỗi cảm thương của họ, cũng có kẻ bị dì trách móc và cũng có người được dì khen. Tóm lại dì làm như những bức thư đó đều gửi cho mình. Dì đọc sách cũng у như vậy. Trong tập sách nhỏ phụ bản của tờ tạp chí “Tổ quốc” có đăng những chuyện về các vương công quí tộc. Đôi với những chuyện riêng về gia đình hoặc việc yêu đương của những người này dì đều điểm ra у như đó là người hàng xóm láng giềng của mình vậy.

    - Còn cái lão Nam tước! - Dì nói sôi nổi, - tôi biết thừa là lão ta sẽ bỏ phu nhân Đơ Xan-xu. Hễ mở mồm là “Mình thân yêu, thân yêu”. Thế mà cuối cùng thì thế đấy! Người đã tốt chưa!

    Nhiều tối tôi lẩn tránh Gai-e Cu-li đến nhà dì chơi thì dì đã đọc gần xong tập thư, thường chỉ còn lại không đầy mười lăm chiếc. Trong đó có một bức thư tôi muốn dẫn ra đây. Dì Đa-sa không hiểu nội dung của bức thư này... Nhưng ngay hồi ấy tôi dã cảm thấy bức thư nàv có vẻ liên quan đến bức thư của viên hoa tiêu viễn dương.

    Sau đây là bức thư đó (mấy dòng đầu dì Đa-sa không đọc ra được):

    "...Anh chỉ tha thiết xin em một điều: đừng có tin ở con người ấy! Có thể mạnh dạn mà nói rằng tất cả mọi thất bại của bọn anh đều do hắn ta gây ra cả. Chỉ cần nói một việc như sau cũng đủ rõ: trong số sáu mươi con chó mà hắn mang đến Ac-khan- ghen-xcơ bán cho bọn anh, phần lớn đã phải bắn chết ngay từ vùng “Đất mới” rồi. Bọn anh đã phải trả một giá quá đắt cho sự giúp đỡ thân tình của hắn như thế đấy. Không phải chỉ mình anh mà cả đội thám hiểm đều nguyền rủa hắn. Bọn anh biết rằng đi vào nơi nguy kiểm thì nhất định gặp hiểm nguy, song không ai ngờ lại bị một vố đau như vậy. Giờ đây chỉ còn mỗi một cách là gắng hết sức mình. Anh có thể kể cho em nghe rất nhiều về chuyến đi thám hiểm của bọn anh. Những chuyện ấy đủ để kể cho Ca-chiu-sca nghe suốt cả mùa đông. Nhưng lạy chúa, việc này đã phải trả một giá quá đắt! Anh không muốn khiến em nghĩ rằng hoàn cảnh bọn anh đã tuyệt vọng. Nhưng dù sao ở nhà cũng đừng nên mong ngóng quá...”

    Dì Đa-sa đọc ngắc ngứ, thỉnh thoảng liếc nhìn tôi qua cặp kính ra vẻ răn bảo. Tôi nghe dì đọc. Lúc đó tôi không ngờ rằng sau này ít năm tôi sẽ phải đau khổ mà nhớ lại từng chữ trong thư.

    Bức thư rất dài, có tới bảy tám trang, kể lại tỉ mỉ số phận của con tàu sau khi bị băng tuyết vây kín từ từ di chuyển lên phía bắc như thế nào. Điều làm cho tôi rất ngạc nhiên là ngay trong khoang tàu cũng bị đóng băng nên cứ sáng ra là họ phải lấy rìu ra đập.

    Tôi có thể dùng lời lẽ của mình để kể lại câu chuyện anh thủy thủ Xcát-scốp đi săn gấu ngã xuống vực bị chết, hay chuyện mọi người đã phải khổ công chăm sóc anh thợ máy Ti-xa bị ốm ra sao. Nhưng thuộc lòng từng chữ thì tôi chỉ có thể nhớ được khoảng mươi dòng nói trên.

    Dì Đa-sa vẫn đang đọc, vừa đọc vừa thở dài. Hình như có một bức tranh mờ ảo hiện lên trước mắt tôi: những căn lều trắng dựng trên mặt tuyết trắng xóa, một đàn chó thở hồng hộc kéo chiếc xe tuyết nặng nề. Một người to lớn đi đôi ủng lông, đầu đội mũ lông, у như ông cố đạo mặc áo lễ bằng da lông đang tiến lại phía chiếc xe tuyết.

    Một hôm tôi đến nhà dì Đa-sa thì thấy dì đang khóc. Dì ngồi khóc trước cái tủ có tấm ảnh chồng dì - người anh hùng trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật. Nhìn thấy tôi, dì giật chiếc khăn ở trên đầu xuống.

    - Đấy, người ta dám đốỉ xử với tôi như thế đấy, quân khát máu, cái giống chỉ biết đi chửi người ta. - vẻ giận dữ trong giọng nói của dì làm tôi kinh ngạc. - Lăng nhục đến như thế đấy! Cứ tưởng người ta là cô nhi quả phụ thì không có ai che chở cho nữa hay sao? Rồi sẽ có!

    - Dì Đa-sa!

    - Rồi sẽ có! - Dì nói lần nữa rồi lại khóc. - Tôi không thể chịu được nữa đâu. Tôi sẽ bỏ đi, thế là hết chuyện. Đừng hòng thấy mặt nữa!

    Dì ngồi lên giường, tháo giày ra và ném xuống đất.

    - Quỉ tha ma bắt mày đi! - Dì trịnh trọng nói - Mà chính mày cũng là đồ ma quỉ, biết không! Xứng đôi vừa lứa thế nào được. Không đời nào có chuyện ấy!

    Tôi hiểu ra là dì Đa-sa đang nhiếc móc ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp nên hỏi dì xem ông ta đã làm gì. Song dì chỉ khoát tay chẳng buồn nói.

    Ngay từ lúc đó tôi đã cảm thấy rằng, chính bản thân dì cũng chưa thật rõ là ông ta có làm nhục dì hay không. Dẫu sao thì ông ta cũng đã nói với dì điều gì rất đặc biệt nên buổi tối dì Đa-sa đã đội lên đầu chiếc khăn đen viền ren và đi đến nhà mụ thầy bói di-gan ở khu nhà bên cạnh.

    Lúc trở về dì có vẻ trầm tư, lặng lẽ và không nhiếc móc ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp nữa. Trái lại, tự nhiên dì bỗng lẩm bẩm: “Mà cũng không ham mê rượu chè!”

    Thái độ kỳ lạ ấy kéo dài sang cả ngày hôm sau. Dì Đa-sa ngồi đan ở ngoài sân. Lúc đó ở ngoài ngõ xuất hiện một người lạ, mặt đỏ gay, mình mặc chiếc áo bành tô bằng vải thô bẩn thỉu, chân đi đôi ủng da dày. Anh ta ngó qua một lượt rồi tiến đến chỗ ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp đang đun xoong hồ vạn năng của ông ở trên thềm.

    - Có phải ông muốn bán nhà không?

    Ông Xcô-vô-rốt-ni-côp nhìn anh ta, rồi nhìn sang dì Đa-sa.

    - Vâng, - ông trả lời, - tôi muốn bán ngôi nhà này cùng với tất cả đồ đạc để đi nơi khác.

    Dì Đa-sa xúc động lẩm bẩm gì trong miệng một lúc rồi đứng phắt dậy làm đổ cả cái ghế và cũng như hôm qua, dì giật cái khàn trên đầu xuống.

    - Có cả đất chứ?

    - Có cả đất, trong phạm vi cái hàng rào kia.

    Tiếng lẩm bẩm của dì Đa-sa mỗi lúc càng to.

    - Không bán! - Dì bỗng quát lên. - Cái nhà này không bán. Xin ông đi đi!

    Ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp láu lỉnh nheo một mắt lại.

    - Ông là chủ ngôi nhà này? - Người mặc chiếc áo vải thô bỗng hỏi ngay.

    - Vâng!

    - Thế thì ông có bán hay không?

    - Đấy người ta nói là không bán mà, - ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp đắc chí nói và cười ha hả.

    Pê-chi-a cũng có mặt ở đấy. Nó đứng ở cửa bếp và cười khẩy. Tôi chẳng hiểu tí gì cả. Nhưng chẳng bao lâu mọi sự đã rõ ràng.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 4/6/15
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 11

    Cuộc nói chuyện với Pê-chi-a

    Từ hồi còn ngồi vẽ những nét gạch “thẳng cứng” tôi đã có ý định chuồn. Không phải bỗng dưng mà tôi vẽ lên bên trên cái hàng rào ông mặt trời, mấy con chim và những đám mây! Sau đó tôi lại quên bẵng mất ý nghĩ này. Nhưng càng ngày mỗi khi trở về nhà tôi càng cảm thấy nặng nề hơn.

    Tôi hầu như không gặp mẹ tôi lúc nào nữa. Buổi sáng mẹ tôi đi lúc tôi còn đang ngủ. Đôi khi ban đêm tỉnh dậy tôi nhìn thấy mẹ ngồi cạnh bàn. Vì quá mệt mỏi, sắc mặt mẹ tôi trắng bệch ra. Mẹ thong thả ăn bữa cơm tối. Ngay đến Gai-e khi nhìn thấy đôi mắt thâm quầng của mẹ cũng phải nhụt bớt đi.

    Tôi rất yêu em gái tôi. Nhưng thà tôi đừng thương em lại đỡ khổ tâm hơn. Tôi nhớ có lần tên Gai-e khốn kiếp đã đánh em một trận chí chết chỉ vi nó đánh đổ một ly dầu ăn. Hắn đuổi em ra khỏi bàn ăn nhưng tôi đã lén đem cho em một ít khoai tây. Nó vừa ăn vừa khóc, bỗng nó sực nhớ ra không hiểu lúc bị đòn, những mảnh thủy tinh màu có bị rơi mất không. Khi thấy những mảnh thủy tinh thì nó cười và ăn nốt chỗ khoai tây rồi lại khóc.

    Dạo ấy đã sắp đến mùa thu, tôi và Pê-chi-a dạo chơi trong vườn Nhà thờ, chân đi đất hất tung những đám lá rơi. Pê-chi-a nói khoác rằng dưới cái quả đồi mà chúng tôi đang ngồi có một con đường ngầm từ ngày xưa chạy từ vườn bên này xuyên qua đáy sông sang bờ bên kia và chính nó cũng đã có lần đi được một nửa đường ngầm rồi.

    - Tớ đi suốt cả đêm, - Pê-chi-a nói bừa, - bước đến đâu cũng dẫm phải xương người.

    Từ quả đồi đất nhỏ này có thể nhìn thấy nhà thờ Pô-crốp-xki quét vôi trắng lừng lững, trên bờ sông cao. Những bức tường thấp vây kín chung quanh. Đằng sau tường là bãi cỏ. Một làn gió nhẹ lướt qua làm cho bãi cỏ luôn thay đổi màu sắc lúc thì xanh nhạt, lúc lại vàng hoe у như mặt biển đổi màu.

    Nhưng lúc đó tôi và Pê-chi-a rất ít chú ý đến cảnh đẹp thiên nhiên. Chúng tôi nằm trên đỉnh đồi và mút cái thứ cỏ gì đắng ngắt mà Pê-chi-a vẫn bảo là cỏ ngọt.

    Tôi còn nhớ câu chuyện hôm ấy bắt đầu từ những con chuột: trong đường ngầm có chuột hay không? Pê-chi-a nói là có. Chính mắt nó đã nom thấy và cũng như ong, có một con chuột chúa.

    - Hễ cứ đến năm nhuận là chúng chết sạch, - nó nói thêm, - rồi con chuột chúa lại đẻ ra rất nhiều con. Con chuột chúa to bằng con thỏ cái ấy.

    - Mày chỉ nói láo!

    - Thề đấy! - Pê-chi-a nói giọng phớt tỉnh.

    Giữa chúng tôi như có một uớc lệ với nhau là việc gì thì có thể nói láo, việc gì không được nói láo. Hồi đó tuy còn là trẻ con, song chúng tôi cũng đã biết tôn trọng nhau.

    - Ở Tuyếc-két-xtan không có chuột như ở đây, - Pê-chi-a tư lự nói thêm. - ở đó chỉ có chuột nhảy, trên thảo nguyên thì có chuột đồng. Những giống chuột ấy khác hẳn, bởi vì chúng chỉ ăn cỏ non thôi.

    Nó thường nói đến Tuyếc-két-xtan, theo lời nó, thi đây là một thành phố. Trong thành phố này lê, táo, cam mọc ngay trên đường phố. Mọi người có thể tùy ý muốn hái bao nhiêu thì hái chẳng bị ai đuổi theo chửi bới như những lão gác các vườn quả ở đây. Người ta có tnể trải thảm ngủ ngay trên bãi cỏ ngoài trời, bởi vì ở đó không có mùa đông, quanh năm chỉ mặc một chiếc áo choàng thôi cũng đủ, chẳng cần gì ủng da với áo bành tô.

    - Những người Thổ-nhĩ-kỳ sống ở đó. Người nào cũng đều có vũ khí. Những thanh kiếm cong mạ bạc, lưng giắt dao găm, trước ngực thì đeo dây đạn. Chúng mình đi đến đấy nhé!

    Tôi cho rằng nó nói đùa. Song nó không đùa. Mặt nó hơi tái. Nó bỗng quay đi rồi đứng dậy hồi hộp nhìn sang phía bờ xa xa. Bên ấy ông lão đánh cá quen thuộc đang ngủ bên nhũng chiếc cần câu cắm xuổng khe đá sát ngay mặt nước. Chúng tôi im lặng.

    - Thế còn bố cậu? Ông ấy có cho đi không?

    - Tớ lại đi hỏi ông ấy à! Bây giờ ông ấy còn đầu óc nào nghĩ đến tớ nữa.

    - Sao vậy?

    - Vì ông ấy lấy vợ, - Pê-chi-a khinh khỉnh nói

    Tôi rất đỗi ngạc nhiên.

    - Lấy ai thế?

    - Dì Đa-sa.

    - Nói láo! .

    - Ông ấy bảo dì Đa-sa là nếu dì không bằng lòng thì ông ấy sẽ bán nhà rồi đi các làng hàn nồi rong. Lúc đầu dì Đa-sa làm ầm lên nhưng sau lại bằng lòng. Chắc là cũng thương yêu ông ấy rồi.

    - Pê-chi-a lại khinh khỉnh nói và nhổ toẹt.

    Tôi vẫn chưa tin. Dì Đa-sa! Lấy chồng! Dì lấy ông già Xcô-vô- rốt-ni-côp ư? Lấy người mà dì đã nhiếc móc như thế?

    - Thế thì việc gì đến cậu?

    - Chẳng việc gì cả, - Pê-chi-a nói vậy.

    Nó nhăn mặt và nói sang chuyện khác. Mẹ nó chết cách đây hai năm, nó khóc thảm thiết rồi cứ thế bước ra khỏi nhà đi chẳng biết giời đất gì nữa. Sau đó người ta phải đi tìm mãi mới thấy. Tôi còn nhớ bọn trẻ con đã chê nó về cái chuyện ấy.

    Chúng tôi chuyện trò thêm một lúc nữa rồi nằm ngửa người, dang tay ra nhìn lên trời. Pê-chi-a quả quyết rằng nếu cứ nằm như vậy khoảng hai mươi phút mà không chớp mắt thì có thể nhìn thấy những ngôi sao và mặt trăng ngay giữa ban ngày. Thế là chúng tôi cứ nằm nhìn. Trời xanh trong vắt mênh mông. Đâu đó tít trên cao những đám mây trắng xô đuổi nhau. Mắt tôi đã căng mọng đầy nước, song tôi vẫn cố gượng không chớp mắt. Mãi cũng chẳng thấy mặt trăng đâu cả, còn những vì sao thì tôi đã hiểu ngay là thằng Pê-chi-a nói láo.

    Đâu đó vang lên tiếng động cơ. Lúc đầu tôi cứ tưởng đó là chiếc xe tải nhà binh chở hàng trên bến cảng (bến cảng ở ngay phía dưới chân tường pháo đài). Song tiếng động cơ càng ngày càng gần.

    - Máy bay! - Pê-chi-a nói.

    Chiếc máy bay màu xám lấp lánh duới ánh mặt trời у như một con cá tuyết đẹp có cánh. Nó bay ngược chiều gió lao tới những đám mây đang trôi theo gió. Lần đầu tiên tôi phải kinh ngạc khi thấy chiếc máy bay nhẹ nhàng vượt qua những đám mây. Kìa nó đã bay qua nhà thờ Pô-cốp-xki rồi. Cái bóng hình chữ thập cứ chạy theo nó mãi trên đồng cỏ bên kia sông. Chiếc máy bay đã biến mất từ lâu, song tôi có cảm giác như vẫn nhìn thấy hai chiếc cánh xám nhỏ xíu ở xa tít.

    Chương 12

    Gai-e Cu-li trong tiểu đoàn cảm tử

    Pê-chi-a có một người chú ruột sống ở Mát-xcơ-va, do đó mọi kế hoạch của chúng tôi đều trông cậy ở ông ấy. Ông chú làm việc ở Ngành đường sắt. Pê-chi-a quả quyết rằng ông chú làm lái tàu, nhưng tôi nghĩ, chắc là thợ đốt lò. Bởi vì trước đây Pê-chi-a vẫn bảo chú làm thợ đốt lò. Chú lái tàu kiêm đốt lò này cách đây năm năm làm việc trên tàu chạy đường Mát-xcơ-va - Ta-sken. Tôi nói một cách chính xác là năm năm bởi vì đã năm năm nay không có thư từ gì của ông ấy cả. Nhưng Pê-chi-a lại nói rằng điều đó chẳng đáng ngại gì bởi vì xưa nay chú ấy rất ít viết thư. Hiện nay chú vẫn làm việc trên tàu chạy tuyến đường ấy và bức thư cuối cùng của chú gửi từ Xa-ma-ra. Chúng tôi cùng đi xem bản đồ, quả nhiên Xa-ma-ra nằm giũa Mát-xcơ-va và Ta-sken thật.

    Tóm lại là chỉ cần tìm được ông chú này thôi. Pê-chi-a biết địa chỉ của chú, - mà nếu không biết địa chỉ thì cũng vẫn theo tên họ tìm được ra người. Còn như họ của ông chú là gì thì khỏi phải nghi ngờ gì nữa, tất nhiên cũng là họ Xcô-vô-rốt-ni-cốp, đúng như họ của Pê-chi-a.

    Chúng tôi hình dung phần thứ hai của cuộc hành trình như sau: chỉ cần ông chú cho chúng tôi lên toa đầu máy đi từ Mát- xcơ-va đến Ta-sken là được. Song làm cách nào mà đến được Mát-xcơ-va?

    Pê-chi-a chẳng cần thuyết phục tôi. Nó chỉ lạnh lùng nghe tôi rụt rè phản đối, chẳng buồn trả lời tôi - đối với nó thì mọi sự đều đã rõ ràng. Còn tôi thì chỉ rõ có một điều: nếu không vì lão Gai- e thì tôi chẳng đi đâu cả. Thế rồi bỗng nhiên hóa ra là lão ta lại đi ra, còn tôi thì ở lại.

    Đó là một ngày đáng ghi nhớ. Lão ta mặc quần áo nhà binh, chân đi đôi ủng da mới, bóng nhoáng, mỗi bước đi lại kêu cọt kẹt, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai lệch sang một bên, mớ tóc quăn lượn sóng thò ra ngoài mũ. Lão ta về nhà, đặt lên mặt bàn hai trăm rúp.

    Vào thời kỳ đó thì đây là một khoản tiền ít ai có, và mẹ tôi bất giác dùng hai bàn tay đậy kín đồng tiền lại như sợ bị người ta lấy mất.

    Song điều làm cho tôi và Pê-chi-a cũng như tất cả bọn trẻ con trong xóm ngạc nhiên lại không phải là món tiền ấy, mà là một cái khác. Đó là trên ống tay áo quân phục của lão ta có thêu một chiếc đầu lâu và hai cái xương bắt chéo. Lão bố dượng của tôi đã gia nhập tiểu đoàn cảm tử.

    Hồi đó ở bất kỳ ndì nào có người hội họp hay chơi bời, nghĩa là hễ cứ có đám đông là bỗng nhiên xuất hiện một người đeo trống. Hắn ta đánh trống, thế là mọi người im bặt. Lúc đó có một người nữa, thông thường là một sĩ quan cũng ăn mặc giống như lão bố dượng tôi, trên tay áo cũng thêu chiếc đầu lâu với hai cái xương, đứng ra nói chuyện. Nhân danh chính phủ lâm thời kêu gọi mọi người gia nhập tiểu đoàn cảm tử. Song mặc dù họ hứa hẹn rằng ai ghi tên gia nhập thì được lĩnh sáu mươi rúp mỗi tháng, chưa kể quân trang sĩ quan và phụ cấp, song chẳng có ai muốn chết cho chính phủ lâm thời cả. Chỉ có những tên vô lại như lão bố dượng tôi mới ghi tên gia nhập tiểu đoàn cảm tử ấy mà thôi.

    Nhưng hôm đó, cái hôm mà lão ta mặc bộ quân phục mới với bộ mặt trang nghiêm đem hai trăm rúp về nhà thì chẳng còn ai cảm thấy lão là một tên vô lại nữa. Thậm chí đến dì Đa-sa xưa nay vẫn ghét cay ghét đắng lão thì hôm nay cũng chạy sang và gượng gạo cúi chào.

    Buổi tối lão ta mời khách đến rồi phát biểu ý kiến:

    - Tất cả những quy trình mà cấp trên hằng qui định, - lão ta nói, - đều là để hạn chế bọn dân nghèo tự db làm cách mạng, bởi vì trong đám dân nghèo này tuyệt đại bộ phận là bọn Do-thái. Bọn chúng cùng với bọn Bôn-sê-vích đang tiến hành những hoạt động phiêu lưu đê tiện và đương nhiên sẽ rất tai hại đối với mọi thành quả của chế độ hiện thời. Đối với chúng tôi, những người bảo vệ tự do, tấn thảm cảnh này được giải quyết rất giản đơn. Chúng tôi cầm lấy vũ khí và kẻ nào vì danh vị cá nhân làm tổn hại đến cách mạng và tự do thì kẻ đó sẽ khốn! Tự do vô cùng quí giá! Chúng ta quyết không bán rẻ tự do. Tinh hình thời cuộc trưóc mắt nói chung là như thế đó!

    Tối hôm đó mẹ tôi rất vui. Mẹ mặc chiếc áo nhung trắng cộc tay rất hợp với mẹ, tay cầm chai rượu nho đi rót cho các vị khách, cứ sau mỗi lần nâng cốc là mẹ lại rót thêm. Bạn của bố dượng tôi, một gã béo lùn, ăn nói có vẻ lịch thiệp và cũng là người trong tiểu đoàn cảm tử đứng dậy kính cẩn đề nghị mọi người cạn chén chúc sức khỏe mẹ tôi. Lúc nghe bố dượng tôi phát biểu thì gã cười bò ra, nhưng bây giờ lại có vẻ nghiêm túc. Gã giơ cao cái cốc đầy rượu, chạm cốc với mẹ tôi rồi nói một câu cụt lủn: “U-ra!”

    Mọi người hô theo “U-ra!” Mẹ tôi ngượng nghịu đỏ mặt lên, bước ra giữa phòng cúi rạp người xuống chào mọi người theo lối cũ.

    - Thật là một giai nhân!... - Gã béo lùn nói.

    Tiếp theo đó, ông Xcô-vô-rổt-ni-cốp đọc đáp từ. Ông đã uống say nên cứ dừng lại từng quãng khá lâu, nhưng lúc ấy mọi người vẫn im lặng lắng nghe.

    - Mỗi người đều phải hiểu ý nghĩa của cái chết, - ông nói giọng nặng nề. - Nhất là những kẻ chỉ biết ăn hại. Đối với họ chỉ có một con đường là gia nhập tiểu đoàn của các ông thôi, Nhưng những người như tôi thì đừng có hòng đem mồi ra mà nhử. Tại sao? Bởi vì tôi không muốn chết vì cái tự do của các ông. Tự do của các ông là món hàng buôn bán. Cái tiểu đoàn của các ông cũng là món hàng buôn bán. Bán trước tính mạng của mình lấy hai trăm rúp. Xin phép các vị, thế nhỡ tôi không chết thì có phải trả tiền không?

    Ông còn nói gì về những ngài bộ trưởng tư sản nữa rồi ngồi xuống. Lão bố dượng tôi nắm chặt hai quả đấm đi lại gần ông. Suýt nữa thì tối vui này kết thúc không được hay lắm... Nhưng gả béo lùn (trong lúc nghe lời đáp từ, gã cũng cười bò ra như lúc nãy) vội vàng đứng dậy chạy ra đứng giữa hai người. Trong lúc lão khuyên giải lão bố dượng tôi thì ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp đi ra, chân cố ý nện mạnh gót ủng.

    Song dù sao thì buổi liên hoan cũng đã kết thúc chẳng hay gì.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
    thichankem thích bài này.
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 13

    Buổi đưa đám mẹ

    Chắc lúc ấy đã phải đến ba giờ sáng, tôi đã đi ngủ từ lâu, bỗng nhiên có tiếng kêu làm tôi tỉnh giấc. Khói thuốc lá vẫn đọng lại lơ lửng phía trên mặt bàn. Mọi người đã ra về cả từ lâu. Lão bố dượng tôi nằm trên sàn, dạng hai chân hai tay ra. Lại có tiếng kêu. Tôi nhận ra là tiếng dì Đa-sa nên bước lại bên cửa sổ. Có một người phụ nữ nằm ở ngoài sân và dì Đa-sa đang thổi phù phù vào mồm bà ta.

    - Dì Đa-sa!

    Hình như dì không nghe thấy tiếng tôi gọi nên dì lại đứng bật dậy, không hiểu sao lại chạy chung quanh ngôi nhà chúng tôi rồi gõ vào cửa sổ.

    - Mang nước ra đây, anh Pi-ốt I-va-nứt! Chị Ác-si-ni-a nằm ngoài sân đây này!

    Tôi vội vàng mở cửa ra, dì bước vào nhà và lay gọi bố dượng tôi.

    - Anh Pi-ốt I-va-nứt! Tròi ơi, cái anh này!

    Bố dượng tôi chỉ ậm ừ vài tiếng.

    - Xa-nhi-a, phải mang mẹ cháu vào đây. Có lẽ mẹ cháu vấp ngã bị thương ở ngoài sân đây. Anh Pi-ốt I-va-nứt đâu rồi!

    Lão bố dượng tôi ngồi dậy, mắt vẫn nhắm, nhưng rồi lại nằm xuống. Và thế là chúng tôi đành chịu không gọi lão ta dậy được.

    Tôi và dì Đa-sa loay hoay chăm sóc mẹ tôi suốt đêm, mãi đến gần sáng mẹ mới tỉnh lại, Tuy đây chỉ là một cơn ngất bình thường nhưng lúc ngã, đầu mẹ bị đập vào đá và rủi thay là mãi đến chiều hôm sau chúng tôi mới được bác sĩ cho biết điều đó. Bác sĩ dặn phải chườm nước đá. Nhưng mọi người đều cảm thấy rằng bỏ tiền ra đi mua nước đá là một điều kỳ lạ, nên dì Đa-sa quyết định lấy khăn mặt ướt đắp lên thay nước đá.

    Tôi còn nhớ lúc đó bé Xa-nhi-a vừa khóc vừa chạy ra sân nhúng khăn mặt vào thùng nước rồi quay vào, tay gạt nuớc mắt. Mẹ nằm im không nhúc nhích, mặt tái nhợt như mọi khi. Mẹ không hề hỏi đến lão bố dượng tôi một lần nào - ngay hôm sau lão ta đã về tiểu đoàn cảm tử của lão, nhưng mẹ lại không cho chúng tôi - tôi và em gái - rời khỏi mẹ một bước! Mẹ tôi buồn nôn luôn và cứ hay nheo mắt lại như đang cố ngắm nhìn một vật gì đó. Không hiểu sao dì Đa-sa lại rất lo lắng về cử chỉ đó của mẹ. Mẹ ốm mất ba tuần, rồi tưởng đã bắt đầu bình phục, nhưng không ngờ bỗng nhiên bệnh lại “ám”.

    Có lần tôi tỉnh giấc lúc sắp sáng và thấy mẹ đang ngồi trên giường, chân để trần buông xuống đất.

    - Mẹ!

    Mẹ lại nheo mắt nhìn tôi, nhưng tôi bỗng hiểu rằng mẹ không trông thấy tôi nữa.

    - Mẹ ơi! Mẹ!

    Tôi muốn đặt mẹ nằm xuống, nhưng mẹ vẫn giữ cái vẻ trang nghiêm chăm chú mà gạt tay tôi ra...

    Bắt đầu từ hôm đó, mẹ không ăn uống gì cả. Bác sĩ dặn phải bắt mẹ ăn trứng và bơ. Ý kiến đó của bác sĩ tất nhiên là rất tốt. Song chúng tôi không có tiền, vả lại trong phố chẳng có trứng mà cũng chẳng làm gì có bơ.

    Dì Đa-sa vừa gắt mẹ vừa khóc. Còn mẹ thì cứ nằm đấy, hai cái bím tóc đen nhánh vắt chéo trước ngực, nét mặt ngơ ngác buồn rầu chẳng nói một lời nào. Chỉ có một lần khi dì Đa-sa bực quá bảo rằng dì biết tại sao mẹ lại không ăn, vì mẹ không muốn sống nữa nên mẹ mới không ăn. Lúc đó mẹ mới lẩm bẩm mấy tiếng gì ấy, cau mày lại rồi quay người đi.

    Từ ngày bị ốm, mẹ rất thương yêu tôì, có lẽ không kém gì thương yêu em Xa-nhi-a. Mẹ thường nhìn tôi rất lâu, rất chăm chú, hình như có vẻ ngỡ ngàng. Truớc khi ốm không bao giờ mẹ khóc, thế mà giờ đây mẹ lại khóc suốt ngày và tôi hiểu tại sao mẹ lại khóc. Mẹ rất hối hận vì trước đây mẹ không thương yêu tôi, vì mẹ đã quên mất cha tôi, và cũng có thể mẹ muốn chúng tôi tha lỗi cho mẹ đã lấy lão Gai-e, tha lỗi cho mẹ về tất cả những điều mà lão ta đã hành hạ chúng tôi. Song tôi thì cũng cứ như nguời mất hồn, tay chân đờ đẫn, chẳng làm gì và cũng chẳng nghĩ gì. Cuộc nói chuyện cuối cùng của tôi và mẹ tôi là thế này: cả tôi và mẹ chẳng ai nói lấy một lời, mẹ gọi tôi đến bên cạnh, nắm lấy tay tôi rồi lắc đầu và cố gắng sức mím đôi môi đang run... Tôi hiếu rằng mẹ muốn vĩnh biệt tôi, nhưng tôi thi lại cứ cúi đầu xuống đứng ngây ra như khúc gỗ, nhìn chăm chăm xuống sàn nhà.

    Ngày hôm sau thì mẹ mất...

    Lão bố dượng tôi mặc quân phục dã chiến, vai đeo súng trường, thắt lưng gài lựu đạn, đứng ở ngoài cửa mà khóc, nhưng chẳng hiểu tại sao mọi người chẳng ai để ý đến lão.

    Tôi và em gái ngồi ngoài sân, bất cứ ai đến nhà tôi cũng dừng lại bên chúng-tôi và đều nói những câu như nhau là “các cháu thương mẹ lắm phải không?” hoặc “Thế là còn hai đứa mồ côi không cha không mẹ”. Lúc ấy người ta đang làm một cái nghi thức đáng sợ nào đó, kể cả việc các bà cụ hay đến nhà Xcô-vô-rôt- m-cốp chơi bài - đang đóng chặt cửa làm gì trong nhà tôi, lát sau họ xách những thùng nước ra, váy vén lên và tay áo xắn cao như mới cọ nhà xong, cả việc dì Đa-sa chạy đi lấy cái “cành phan!” Tôi cho rằng chúng tôi phải ngồi ngoài sân chờ cái nghi thức ấy kết thúc. Thế là chúng tôi cứ ngồi chờ.

    Rất nhiều năm sau khi tôi đọc câu sau đây của Ban-đắc “Đau thương có thể làm cho năng lực quan sát nhạy bén hơn”, tôi liền hồi tưởng lại những ngày họ thay quần áo, làm lễ chiêu hồn và đưa đám mẹ tôi. Bất kỳ một câu nói, một cử chỉ của tôi hay của người khác tôi cũng đều ghi lại sâu sắc trong trí nhớ của tôi. Tôi hiểu tại sao ngày đầu tiên khi mẹ nằm ở trên bàn, hai tay bắt chéo ôm tượng thánh thì mọi ngươi đều chỉ nói thì thào, rồi sau đó càng ngày tiếng càng to hơn và cuối cùng thì cứ nói như thường. Họ đã quen đi, cả ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp, cả lão bố dượng tôi và cả dì Đa-sa đều đã quen đi với cái chết của mẹ. Tôi rất kinh ngạc khi thấy ngay bản thân tôi bỗng nhiên cũng đã nghĩ sang chuyện khác.

    Chẳng lẽ tôi cũng đã quen đi rồi hay sao, chẳng lẽ tôi lại đang nghĩ đến hòn cái đáo có gắn chì mà thằng Pê-chia-a cho tôi từ lâu lắm, nhưng vì mẹ chết nên tôi chưa định đem thử hòn cái đáo ấy! Thế là tôi liền hối hận ngay lập tức và buộc mình phải nghĩ đến mẹ.

    Cả hôm đưa ma cũng vậy.

    Bé Xa-nhi-a bị nhức đầu nên người ta để nó ở nhà. Bố dượng tôi bị gọi về doanh trại từ sáng sớm nên không kịp về đưa đám. Chúng tôi chờ lão ta suốt hai tiếng đồng hồ vẫn không thấy mới đưa linh cữu đi. Chỉ có ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp, dì Đa-sa và tôi.

    Hai người đi bộ sau xe, dì Đa-sa nắm lấy một cái móc ở xe để khỏi bị tụt lại, còn tôi thì được ngồi lên xe.

    Thật xấu hổ khi nhớ lại rằng tôi đã cảm thấy vinh hạnh khi những đứa trẻ con quen tôi dừng lại đưa mắt nhìn theo đám ma đi qua hoặc là có người đi nối vào theo chúng tôi mấy phút để hỏi xem ai chết. Song tôi đã tự trách mình ngay. Chúng tôi cứ đi xa mãi. Người xà ích với thái độ dửng dưng của người ngoài cuộc, đầu đội mũ kê-pi mình mặc chiếc áo dài bẩn thỉu, giọng ngái ngủ thúc con ngựa gày nhom. Lúc đó thật có trời biết được ý nghĩ của tôi lại bay đi tận đâu đâu rất xa cái quan tài có tấm vải trắng rách phủ chưa kín ấy.

    Chân tường thành kia rồi. Những lỗ hổng trên tường thành đều được bịt kín bằng gỗ để những người không có vé không vào chơi trong vườn Mùa Hè được. Ngoài tôi và Pê-chi-a ra không ai biết rằng chỉ cần xê dịch tấm ván sát tấm cuối cùng ra là chui vào vườn hoa được. Muốn nghe ca nhạc thì nghe, nếu muốn thì cũng có thể đến khu trồng hoa ngắt trộm hoa thập tự, chổ diễn kịch xong có thể bán cho khán giả năm cô-pếch một chùm.

    Đã đến khu nhà của truờng sĩ quan, có nhiều xe chở những tấm đệm giường đỗ trong sân, rất nhiều người không biết là sĩ quan hay học viên mặc áo ca-pốt màu sáng đang vội vàng khiêng những tấm đệm lên bịt kín cửa sổ tầng gác thứ hai. Kia là đồi A- phô-nin mà trong thành phố người ta truyền tụng rằng đó là một cái nhà thờ bị lấp đi và cứ đến đêm lễ Phục sinh, vẫn văng vẳng có tiếng hát từ dưới đất vọng lên. Có người đi lại trên đỉnh đồi A- phô-nin. Tôi chăm chú nhìn và thấy đó cũng là những người mặc áo са-pôt màu sáng đang ẩn hiện giữa những đông cành cây.

    Và bỗng nhiên tôi tỉnh hẳn. Tôi nhận ra vừa rồi lúc đi qua quảng trường Chợ nom thấy một người lính gác ở cửa Viện Tư pháp, trong vườn hoa phía sau hàng rào sắt có một số người mặc quần áo thường dân đang hấp tấp chạy đi chạy lại, một người đang kéo khẩu súng máy. Các hiệu buôn đều đóng cửa, phố xá vắng ngắt, đi hết cả dãy phố Xéc-ghi-ép-xcai-a chúng tôi cũng không gặp một người nào, Chuyện gì xảy ra vậy?

    Người xà ích trong bộ quần áo bẩn thỉu luôn tay quất roi vào con ngựa để chạy cho mau. Dì Đa-sa và ông Xcô-vô-rô-ni-cốp cố gắng lắm mới theo kịp xe. Chúng tôi đi ra bãi đất hoang Pô-xát- xcai-a, đó là tên gọi khoảng đất trống bẩn thỉu nằm giữa thành phố và khu chợ Pô-xát, ở đấy có một cái dốc chạy xuống bờ sông và cái cầu Men-nít-si... Có tiếng gì vang lên ngắn gọn ở phía xa. Người xà ích hốt hoảng ngó quanh rồi do dự giơ cái roi ngựa lên. Dì Đa-sa đuổi kịp chúng tôi và gắt ầm lên:

    - Bác này điên đấy à? Có phải là chở củi đâu mà đánh xe như thế!

    - Họ bắn đấy! - Người xà ích sầm mặt nói.

    Cái dốc bờ sông chạy xuống giữa hai vách đất cao nên chúng tôi đi trên con đường đó mấy phút mà chẳng nhìn thấy gì ở hai bên. Có tiếng súng nổ ở đâu đó, nhưng mỗi lúc một thưa. Đã nhìn thấy cái cầu Men-nít-si mà tôi đã từng câu cá ở đấy nhiều lần. Bỗng người xà ích nhổm hẳn lên vung cái roi ngựa... Con ngựa co chân vùng chạy, và xe chúng tôi phóng dọc theo bờ sông, bỏ lại ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp và dì Đa-sa tụt xa ở phía sau.

    Chắc là có những viên đạn bắn trúng xe, bởi vì những mảnh gỗ ở bánh xe bay ra tung tóe, một mảnh bắn trúng vào mặt tôi. Tay tôi nắm chặc một cái cột trạm trổ trên xe, nó xiêu đi, kêu răng rắc, chúng tôi bị lắc mạnh và rơi tuột xuống đường. Tôi nghe thấy tiếng ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp đang la hét và tiếng dì Đa-sa kêu khóc chửi rủa ở phía sau.

    Người xà ích kéo sụp mũ xuống hoa ngọn roi trên đầu, thúc ngựa chạy thẳng lên cầu, tựa như không nhìn thấy đầu cầu đã bị những đống xà ván gỗ, gạch ngói chắn ngang. Con ngựa bị tắc nghẽn quay sang phải, lách sang trái rồi đứng lại.

    Một đám người từ đằng sau vật chướng ngại chạy ra; trong đó tôi nhận ra ông thợ sắp chữ mùa hè năm ngoái đã thuê một phòng của bà đoán số ở cạnh nhà chúng tôi. Tay ông cầm súng trường, một khẩu súng sáu giắt trên chiếc thắt lưng da nom rất lạ thắt ngoài chiếc áo bành tô thường dân. Người nào cũng có vũ khí. Có người còn đeo cả kiếm.

    Người xà ích xuổng xe, phanh áo ra, nhét cái roi ngựa vào trong ủng rồi gắt ầm lên:

    - Các người không nom thấy đây là đám ma à? Tí nữa thì bắn chết cả ngựa của người ta!

    - Chúng tôi không bắn đâu, đó là anh bị bọn sĩ quan bắn đấy, - người thợ sắp chữ bác lại, - Thế anh không nhìn thấy những cái chướng ngại vật à, anh chàng ngốc?

    - Tên anh là gì? - Người xà ích hỏi. - Anh sẽ chịu trách nhiệm! Ai sẽ trả tiền sửa chữa cái này? - Bác ta đi vòng quanh xe, lấy tay sờ những chỗ bị bắn gãy. - Các anh bắn gãy mất cả nan, hoa bánh xe rồi!

    - Đồ ngốc! - người thợ sắp chữ lại nói. - Tôi đã nói với anh rằng không phải chúng tôi bắn. Chúng tôi bắn vào quan tài để làm gì? Đồ ngốc!

    - Đám ma ai thế? Chú bé? - Một người đàn ông đứng tuổi đầu đội mũ da lông, trên mũ có sợi băng đỏ thay cho phù hiệu hỏi nhỏ tôi.

    - Mẹ cháu, - tôi trả lời khó nhọc.

    Ông này bỏ mũ xuống.

    - Các đồng chí, khẽ chứ! - ông nói. - Đây là đám tang. Cháu bé này đang đưa ma mẹ. Dầu sao thì thế này cũng không tốt.

    Mọi người nhìn tôi. Chắc lúc ấy nom tôi cũng chẳng ra hồn người, bởi vì khi mọi việc đâu vào đấy và dì Đa-sa vừa gào vừa khóc đuổi kịp chúng tôi; chúng tôi chui qua cái cối xay đi lên cầu thì tôi phát hiện thấy trong túi áo có hai viên đuờng và một khoanh bánh khô bằng mì trắng.

    Sau khi chôn cất xong, chúng tôi mệt mỏi lại đi dọc theo bờ sông Pét-trin-ca về nhà.

    Bầu trời trên thành phố rực hồng - trại lính của trung đoàn Cơ-rát-xnô-i-a-xki bị cháy. Đến cầu phao, ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp gọi người lính gác ông quen lại và nói chuyện rất lâu. Họ nói những gì tôi không hiểu: một con đường nào đó bị ai phá hoại, binh đoàn kỵ binh tiến vào Pê-trô-grát, tiểu đoàn cảm tử chiếm nhà ga. Cái tên “Kê-ren-xki” được nhắc đến nhiều lần. Tôi đứng không vững nữa, còn dì Đa-sa thì vừa kêu lên ngạc nhiên vừa thở dài.

    Lúc về đến nhà thì em tôi đã ngủ. Tôi chẳng cởi áo, ngồi lên giường ngay bên cạnh nó. Không hiểu tại sao đêm đó, cái đêm đầu tiên chúng tôi còn lại một mình ấy, dì Đa-sa lại không đến ngủ với chúng tôi. Dì mang cháo đến nhưng tôi không muốn ăn nên dì đặt cái đĩa lên cửa sổ. Để trên cửa sổ chứ không phải để trên cái bàn mà sáng nay mẹ tôi đã nằm. Đó là lúc sáng, còn bây giờ là nửa đêm. Xa-nhi-a ngủ trên giường của mẹ, chính cái giường mà mẹ đã nằm trên đầu có vòng hoa nhỏ và tay cầm cành phan. Lúc đó tôi không biêt cái giấy cuộn tròn thành hình ông ấy lại gọi là cành phan.

    Tôi đứng dậy và đi đến cửa sổ. Ngoài sân trời đã tối, nhưng phía trên sông ánh lửa rực hồng, những luồng khói đen kèm theo lửa đỏ bay lên rồi tắt ngấm.

    Trại lính vẫn còn đang cháy, nhưng ở tận phía bên kia đường sắt cách chỗ chúng tôi rất xa, Tôi nhớ lại mẹ tôi đã nắm tay tôi, mẹ lắc đầu và cố không khóc, Tại sao tôi lại không nói với mẹ câu nào? Lúc đó mẹ rất mong đợi ở tôi dù chỉ là một lời thôi.

    Hình như bên ngoài trời nổi gió, cát sỏi dưới sông cứ dội lên bờ ào ào, trời đổ mưa. Tôi ngồi rất lâu chẳng nghĩ ngợi gì mà chỉ nhìn những giọt nước mưa nặng hạt chảy theo cửa kính, lúc đầu còn từ từ, sau cứ chảy nhanh dần lên.

    Tôi mơ màng thấy có ai đó đẩy cửa đi vào buồng cởi chiếc áo ca-pốt ướt ra ném xuống sàn. Tôi không nhận ra ngay rằng đó chẳng phải là trong giấc mơ. Lão bố dượng tôi đang cuống cuồng chạy khắp nhà, cởi chiếc áo lính ra. Lão ta nghiến răng, lôi chiếc áo qua đầu, song cái áo cứ vuớng mãi ở lưng. Lão cởi trần chạy đến chiếc hòm đồ đạc của lão và lấy cái ba-lô ra.

    - Chú Pi-ốt I-va-nứt!

    Lão liếc nhanh nhìn tôi và chẳng trả lời gì. Người lão đầm đìa mồ hôi, mình đầy lông lá, lão hối hả lấy quần áo trong hòm ra nhét vào ba-lô. Lão cuộn cái chăn lại, lấy đầu gối đè lên rồi cột vào dây da. Hai môi lão động đậy nom rất thâm thiểm, lộ rõ hai hàm răng nghiến chặt vừa dài vừa to đúng như răng chó sói.

    Lão mặc vào người ba cái áo, còn cái thứ tư nhét vào ba-lô.

    Chắc hẳn lão đã quên rằng tôi không ngủ, nếu không thì lúc lão ta giật cái áo nhung cộc tay của mẹ tôi treo trên cái đinh xuống bỏ vào ba-lô, lão cũng thấy nhục chứ!

    - Chú Pi-ốt I-va-nứt.

    - Câm đi! - Lão ngẩng đầu lên quát. - Quỉ tha ma bắt cả đi!

    Lão ta thay giày xong, mặc áo са-pốt vào, bỗng lão nhìn thấy trên tay áo có cái phù hiệu đầu lâu và hai cái xương. Lão chửi một tiếng lại cởi áo rồi dùng răng xé cái phù hiệu đầu lâu và hai cái xương ra. Lão khoác ba-lô lên vai rồi ra đi suốt mươi năm trời tôi không gặp lại con người ấy nữa. Lão ta chỉ còn để lại trên sàn nhà những dấu chân nhơ nhớp và một cái hộp thuốc lá bằng sắt nhãn hiệu “Ca-tức” lão vẫn đựng cúc gài tay áo và kim găm đủ màu.

    Đến hôm sau thì mọi việc đã rõ ràng, ủy ban quân sự cách mạng tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết trong thành phố. Tiểu đoàn cảm tử và những kẻ tự nguyện gia nhập nó chống cự lại chính quyền Xô Viết đã bị đánh tan.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 14

    Bỏ trốn, tôi không ngủ. Tôi chỉ giả vờ ngủ


    Không biết thằng Pê-chi-a nghe ở đâu cái tin nói rằng hiện nay trên mọi tuyến đường sắt đi tàu đều không mất tiền. Chắc là cái tin đồn đi tàu điện không mất tiền truyền đến tai nó, được phóng đại lên như vậy.

    - Người lớn thì phải có giấy thông hành, - nó nói dứt khoát như thế. - Còn chúng mình thì chẳng cần gì.

    Nó không lầm lì nữa. Nó dỗ dành, nói khích tôi, trách tôi là nhát gan, khinh thị cười tôi. Bất kỳ trên trời đất xảy ra những sự kiện gì cũng chỉ làm cho nó càng thêm tin tưởng rằng chúng tôi không được trù trừ gì nữa, phải lập tức tẩu đến Tuyếc-két-xtan. Xcô-vô-rốt-ni-cốp công khai tuyên bố rằng ông là Bôn-sê-vích và bắt dì Đa-sa phải bỏ bức tượng thánh đi. Pê-chi-a liền giải thích cái sự kiện ấy có lợi cho nó và chứng minh rằng dẫu sao thì bây giờ trong xóm này cũng không ai còn có thể yên ổn mà sống được nữa.

    - Các bà trong xóm sẽ xé xác ông ấy ra, - nó buồn bã nói. - Từ nay tao không chịu trách nhiệm về ông ấy nữa.

    Ủy ban quân sự cách mạng ra lệnh phá những cái hầm chứa rượu, và đổ hết rượu xuống sông Pét-trin-ca. Xem ra sự kiện đó cũng có lợi cho kế hoạch của chúng tôi.

    - Cá sẽ chết hết, - thằng Pé-chi-a nói như người lớn. - Thế nào rồi người ta cũng sẽ nấu rượu lậu. Không được! Phải đi thôi!

    Tôi không biết rằng rút cục liệu Pê-chi-a có thuyết phục được tôi hay không nếu trong cuộc họp gia đình dì Đa-sa và ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp không đưa ra quyết định cho tôi và em gái Xa-nhi-a vào trại trẻ mồ côi. Dì Đa-sa là người khéo tay, dì may áo sơ-mi, làm chụp đèn, việc gì cũng thành thạo. Nhưng bây giờ thì ai cần đến những cái chụp đèn ấy của dì. Có lẽ khi dì Đa-sa lấy ông Xcô-vô-rốt-ni-cốp đã hy vọng rằng sẽ cải thiện được hoàn cảnh kinh tế khó khăn của mình. Nhưng hiện nay ông ấy lại say mê hoạt động chính trị, vứt bỏ cả thứ hồ dán vạn năng của ông, do đó chẳng còn lấy gì mà sống được nữa.

    Dì vừa khóc vừa tuyên bố rằng dì sẽ đến trại thăm chúng tôi hàng ngày, rằng chỉ gửi chúng tôi vào đó hết mùa đông, đên mùa hè nhất định chúng tôi lại được về. Đến trại, chúng tôi sẽ được ăn, mặc, học hành. Chúng tôi sẽ được phát mỗi đứa một đôi giày da mới, hai chiếc áo sơ-mi, một cái áo bành tô có liền cả mũ, bít tất và quần lót. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã hỏi dì:

    - Quần lót là cái gì ạ?

    Chúng tôi có biết bọn trẻ trong trại mồ côi. Mặt đứa nào cũng xanh bủng, mặc áo chẽn màu xám và cái quần nhàu nát cũng màu xám. Chúng nó bắn chim bằng súng cao su rất cừ, sau đó đem nướng chim ngay ở trong vườn của trại rồi chia nhau ăn. Đấy người ta nuôi chúng nó ở trong trại như thế đấy. Tóm lại chúng nó đều là những tên “tiểu phạm nhân”, chúng tôi đã đánh nhau với chúng và thế là giờ đây chúng tôi cũng trở thành những tên tội phạm.

    Ngay hôm đó tôi đến bảo thằng Pê-chi-a là tôi đồng ý. Tiền thì chúng tôi không có nhiều - chỉ có mười rúp. Chúng tôi bán đôi giày da của mẹ tôi ở chợ giời được mười rúp nữa. Tổng cộng là hai mươi rúp. Chúng tôi hết sức thận trọng lấy cắp cái chăn ở nhà mang đi, và cũng lại phải rất thận trọng mang cái chăn ấy về như thế, bởi vì mặc dù chúng tôi đòi giá rất rẻ, chỉ có bốn rúp rưỡi, mà cũng chẳng ai thèm mua chăn cả. Trong khi chúng tôi tha cái chăn đi khắp chợ thì đã ăn quà mất đúng bốn rúp rưỡi. Như vậy tổng cộng số tiền còn mười lăm rúp rưỡi.

    Thằng Pê-chi-a còn định bán sổ sách cũ của nó đi nữa. Rất may là chẳng có ai mua. Sở dĩ tôi nói “rất may” là vì hiện nay những quyển sách này đều để ở chỗ trang trọng nhất trong tủ sách của tôi. Song có một cuốn hình như là cuốn “I-u-ri Mi-lô-xláp-xki” đã bán được. Do đó tổng cộng có mười sáu rúp.

    Chúng tôi cho rằng với số tiền này có thể đủ để đi đến chỗ ông chú. Ở đó sẽ mở đầu cuộc sống đầy hấp dẫn tuyệt vời trên đầu máy xe lửa. Tôi còn nhớ lúc ấy vấn đề làm cho chúng tôi quan tâm nhất và tranh cãi nhiều nhất, đó là vấn đề vũ khí. Thằng Pê-chi-a có con dao Phần-lan. Nó gọi con dao đó là con dao găm. Chúng tôi khâu cho nó cái bao da cắt từ chiếc ủng cũ ra. Song lên đường mà chỉ có một thứ vũ khí lạnh như vậy thôi thì cũng chẳng thú vị gì. Kiếm đâu được khẩu súng lục bây giờ?

    Có một hồi chúng tôi hy vọng rằng ủy ban quân sự cách mạng sẽ phân phát cho mỗi người một khẩu súng lục. Sau đó chúng tôi cho rằng người ta sẽ chẳng phát đâu nên rủ nhau ra chợ giời xem có anh chàng lính đào ngũ nào đó bán súng đi chăng.

    Sau khi tìm kiếm rất lâu, chúng tôi đã vớ được cái thứ mà chúng tôi đang cần.

    Đó là một khẩu súng ngắn năm nòng rất lớn có tay cầm bằng gỗ trạm trổ. Đúng là năm nòng đạn, tôi không nói sai. Năm nòng có thể cùng nạp đạn một lúc nhưng cứ bắn xong một phát thì phải dùng tay xoay đi một nấc. Thật chẳng còn nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những khẩu súng ngắn nguyên thủy nhất trên trái đất này. Sau này tôi cũng nhìn thấy những khẩu súng như thế ở trong Viện Bảo tàng. Thế nhưng chúng tôi lại rất thích khẩu súng này. Chính là năm cái nòng đã chinh phục chúng tôi. Bắn từ cái súng này ra thì phải biết!... Người bán khẩu súng này không phải là một anh lính đào ngũ mà lại là một mụ già vợ tướng, điều đó càng làm cho chúng tôi kiêng nể. Tóm lại một câu là nếu trong khi chúng tôi đi lấy tiền mà mụ vợ tướng cùng với khẩu súng ngắn không biến đi đâu mất thì số tiền mười sáu rúp của chúng tôi chẳng còn được quá ba rúp rưỡi.

    Giờ đây tôi mới thấy rằng dù sao thì khi ấy chúng tôi cũng còn gặp may. Nếu như chúng tôi mua vũ khí đó thật và lại mang nó ra mà bắn thử (chúng tôi cũng đã chuẩn bị thuốc súng) thì có lẽ cuộc hành trình của chúng tôi không phải là En-xcơ Mát-xcơ-va - Ta-sken nữa mà là cuộc hành trình từ nhà đi thẳng ra nghĩa địa Xpa-xcôe rồi.

    Thế là chúng tôi quyết định chỉ dùng tạm vũ khí lạnh.

    Mọi việc còn lại chúng tôi đều chuẩn bị chu đáo: giày da còn bền, áo bành tô lành lặn, áo của thằng Pê-chi-a còn có cả cổ lông nữa, mỗi đứa hai cái quần.

    Ngày hôm đó tôi vô cùng buồn bã. dì Đa-sa cứ an ủi tôi mấy lần. Dì Đa-sa tội nghiệp! Nếu dì biết rằng sở dĩ chúng tôi hoãn thời gian lên đường chẳng qua chỉ vì còn tính toán chờ bánh của dì đấy thôi! Ngày mai dì sẽ đưa tôi và bé Xa-nhi-a vào trại mồ côi, do đó mà dì ngồi nướng bánh suốt một ngày và cứ luôn tay nhấc kính ra và hỉ mũi.

    Dì bắt tôi phải trịnh trọng hứa rằng sẽ không ăn cắp, không hút thuốc lá, không nói tục, không lười biếng, không rượu chè, không chửi nhau, đánh nhau, nghĩa là nhiều điều khuyên răn hơn cả trong kinh thánh. Em tôi cũng rất buồn, dì tặng cho nó một cái dải buộc tóc rất cổ tuyệt đẹp.

    Thật ra thì chúng tôi có thể cứ từ nhà ra khỏi cửa mà đi có trời tìm! Song Pê-chi-a lại cho rằng như vậy không thú nên có bày ra một kế hoạch phức tạp rất ly kỳ làm tôi phải bái phục.

    Thứ nhất là chúng tôi phải “thề máu” với nhau. Lời thề đó như sau:

    “Nếu kẻ nào phản bội lời thề thiêng liêng này thì kẻ ấy sẽ không được tha thứ cho đến khi đếm được dưới biển có bao nhiêu hạt cát, rừng có bao nhiêu lá cây và trên trời có bao nhiêu hạt mưa rơi xuống. Muốn tiến lên thì lùi lại. Muốn sang trái thì sang phải. Kẻ nào phá bỏ lời thề thiêng liêng này thì sẽ bị sét đánh như tôi ném cái mũ của tôi xuống đất. Đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng”.

    Chúng tôi lần lượt đọc xong lời thề rồi bắt tay nhau, sau đó thì cầm cái mũ ném xuống đất. Chúng tôi đã tổ chức buổi lễ ăn thề đó tại vườn Nhà thờ trước ngày ra đi. Tôi đọc thuộc lòng những lời thề, còn thằng Pê-chi-a phải cầm giấy đọc. Sau đó nó lấy kim băng đâm vào ngón tay rồi lấy máu viết lên giấy hai chữ “P.X” tức là Pi-ốt(1) Xcô-vô-rốt-ni-cốp. Còn tôi phải khó nhọc lắm mới bôi lem nhem được hai chữ “A.G” tức là A-lếc-xan-đrơ Gri-gô-ri-ép.

    Thứ hai là đến mười giờ tối tôi phải đi nằm và giả vờ ngủ. Thực ra thì chẳng ai chú ý gì cái việc tôi ngủ thật hay ngủ vờ. Đến ba giờ sáng thằng Pê-chi-a phải đến chỗ cửa sổ huýt ba tiếng sáo. Đó là mật hiệu quy định mọi việc đều ổn, đường đi không trở ngại gì, có thể trốn đi được.

    Cái trò ấy thật ra nguy hiểm hơn là trốn đi ban ngày, bởi vì ban ngày mọi việc mới thật yêu ổn, đường đi mới thật dễ dàng và chẳng ai phát hiện ra là chúng tôi đi trốn cả. Đi ban đêm chúng tôi rất có thể bị đội tuần tra bắt giữ vì thành phố đang có lệnh giới nghiêm và ban đêm suốt dọc bờ sông người ta thả chó ra. Nhưng thằng Pê-chi-a đã ra lệnh như vậy và tôi phải tuân theo. Cái đêm ấy đã đến. Đó là đêm cuối cùng tôi được ở trong ngôi nhà thân yêu của mình.

    Dì Đa-sa ngồi cạnh bàn vá cho tôi chiếc áo sơ-mi. Tuy trại mồ côi cũng có phát quần áo, nhưng cứ mang thêm đi một cái để để phòng. Trước mặt dì có một ngọn đèn dầu bên trên che chiếc chao đèn màu xanh lam, đó là tặng phẩm của dì Đa-sa tặng trước khi mẹ tôi đi lấy chồng. Giờ đây ngay đến cả cái chao đèn này cũng lộ rõ cái vẻ bất an, hình như nó cũng cảm thấy khó chịu trong căn nhà trống trải của chúng tôi. Phía góc nhà tối om. Cái siêu nước treo trên bếp lò, thế nhưng cái bóng in lên tường lại không giống cái siêu mà lại giống như một cái mũ khổng lồ đặt ngược của ai đó. Một luồng không khí mát lạnh lọt qua kẽ hở dưới cửa sổ vào trong nhà thoảng mùi nước sông. Dì Đa-sa vừa khâu vừa nói chuyện. Dì thò tay lên bàn lấy một vật gì và cái vòng ánh sáng trên trần nhà bắt đầu lay động. Mười giờ đêm. Tôi giả vờ ngủ.

    - Xa-nhi-a! Mọi việc cháu phải nghe lời anh nhé, - dì Đa-sa nói vói em gái tôi. - Cháu là con gái thì phải dựa vào anh. Từ xưa đến nay phụ nữ đều dựa vào sức mạnh của đàn ông. Anh cháu không bao giờ để cháu bị bắt nạt đâu.

    Tôi rất đau lòng, song tôi cố gắng không nghĩ đến Xa-nhi-a nữa. Tôi nghĩ đến khi chúng tôi tới Mát-xcơ-va! Chú thằng Pê-chi-a ra đón chúng tôi ở ga. Trông chú rất giống ông Xcô-vô-rốt- ni-сốр nhưng trẻ hơn và vui tính hơn. Chiếc đầu tàu đỗ trên một đoạn đường rất xa. Một người đen thui thủi đang xúc than đổ vào lò, những chấm lửa phụt lên qua ống khói rồi tắt ngấm. Chúng tôi chạy vùn vụt lên phía trước, cây cối lấp loáng bên cạnh, những sợi dây điện thoại nhấp nhô. Giờ đây tôi và Pê-chi-a lại đang xúc than đổ vào lò, nóng bừng bừng, khoái vô cùng, ngó ra ngoài thì gió thổi vù bên tai.

    - Còn cháu, Xa-nhi-a ạ, - dì Đa-sa bảo tôi và tôi nhìn thấy nước mắt dì chảy sau mắt kính và rơi xuống chiếc áo sơ-mi của tôi, - phải trông nom em đấy nhé. Các cháu sẽ ở các đội khác nhau nhưng dì sẽ đề nghị người ta cho cháu mỗi ngày đến thăm em một lần.

    - Thôi được rồi, dì Đa-sa ạ.

    - Trời, lạy Chúa tôi, nếu như chị Ác-si-ni-a còn sống...

    Dì vặn bấc đèn, sâu chỉ vào kim rồi thở dài và lại khâu.

    Mười giờ ba mươi phút. Tôi vẫn chưa ngủ, tôi giả vờ đang ngủ. Tôi thấy những hàng cây đầy hoa trắng và dưới bóng cây, bên dưới những cành hoa ấy là những tấm thảm màu lam, màu xanh và màu da trời. Chúng tôi đã đến Tuyếc-két-xtan. Những cây cam mọc ngay ngoài đường phố. Chúng tôi thò tay hái quả, lúc đầu rụt rè sau cứ mạnh dạn dần. Không còn chỗ nào mà nhét được nữa. Thằng Pê-chi-a lôi cái quần dự trữ ở trong ba-lô ra. Nó buộc túm hai ổng quần lại rồi vứt cam vào ống quần. Một cụ già râu dài dẫn chúng tôi đến một ngôi nhà trắng nhỏ. Vũ khí treo đầy tường: nào dao găm, nào súng ngắn năm nòng, nào những
    thanh kiếm mạ bạc. “Tốt không!” ông cụ hỏi chúng tôi rồi đề nghị mỗi đứa chúng tôi chọn một con dao găm, một khẩu súng ngắn và một thanh kiếm.

    - Họ sẽ dạy các cháu học đọc, học viết, - tôi đang mơ màng thì nghe thấy tiếng dì Đa-sa nói, tôi nghĩ: Tại sao dì Đa-sa có thể ở đây được? - Chưa biết chừng rồi cháu sẽ làm nên nghiệp lớn. Lúc ấy cháu sẽ phải cám ơn dì.

    Tôi không ngủ. Tôi chỉ giả vờ ngủ. Mười một giờ rưỡi, rồi mười hai giờ. Dì Đa-sa đứng dậy. Đây là lần cuối cùng, lần chót cùng tôi được nhìn nét mặt hiền từ của dì sáng ánh đèn chiếu từ dưới lên. Dì lấy tay che cái chao đèn rồi thổi tắt đèn và trong nhà tối sầm lại. Trong bóng tối dày đặc, dì làm dấu thánh cầu nguyện cho chúng tôi rồi nằm xuống. Đêm nay dì Đa-sa ngủ ở nhà chúng tôi.

    Chỉ lúc nào không buồn ngủ thì mới giả vờ ngủ được. Tôi cố mở mắt ra. Mấy giờ rồi nhỉ? Còn lâu mới đến ba giờ. Từ dưới sông vẳng lên tiếng hát say lè nhè, sỏi đá dưới sông không ngừng xô lên bờ. vẫn chưa hề nghe thấy ám hiệu gì cả, mà chỉ có tiếng tích tắc đều đều của cái đồng hồ quả lắc cùng tiếng thở dài và tiếng trằn trọc giở mình của dì Đa-sa.

    Tôi ngồi dậy để khỏi ngủ đi mất, đầu gục xuống gối chân. Tôi giả vờ ngủ nhưng khi nghe thấy tiếng huýt sáo thì tôi không tài nào tỉnh dậy được nữa.

    Về sau thằng Pê-chi-a bảo tôi rằng nó đã phải huýt sáo đến khàn đặc cổ như giọng người hát rong thì tôi mới nghe thấy. Nhưng trong lúc tôi đi giày, mặc áo bành tô và nhét những chiếc bánh vào túi, nó vẫn cứ huýt sáo liên hồi. Nó rất cáu kỉnh, tự nhiên bắt tôi phải dựng cổ áo bành tô lên, thế là chúng tôi đi trốn.

    Mọi việc trôi qua đều rất tuyệt, chẳng ai quấy rầy chúng tôi cả. Chúng tôi chẳng gặp chó mà cũng chảng gặp người. Có điều là để đề phòng sự bất trắc xảy ra, chúng tôi đã phải đi vòng dọc theo tường thành xa thêm mất ba Véc-xtơ(2). Trên đường đi tôi hỏi dò thằng Pê-chi-a xem nó có biết chắc rằng hiện nay tất cả các tuyến đường sắt đều cho đi tàu không mất tiền hay không. Nó trả lời là nó nắm rất vững, vạn nhất không được thì chúng tôi sẽ trốn ở dưới gầm ghế cho đến tận Mát-xcơ-va. Ngồi hai đêm là đã đến Mát-xcơ-va, tàu tốc hành bắt đầu chạy từ đây lúc năm giờ bốn mươi phút.

    Chúng tôi đi vòng qua trạm gác, đến cách ga chừng nửa véc-xtơ thì nhảy qua hàng rào, nhưng chẳng có chuyến tàu nào vào lúc năm giờ bốn mươi phút cả. Những thanh ray đen ướt đẫm ánh lên ảm đạm. Ánh đèn vàng nhạt trên cột bẻ ghi cũng le lói buồn bã. Làm sao bây giờ? Chờ ở ga này cho đến sáng? Không được. Các đội tuần tra sẽ tóm cổ. Trở về nhà ư?

    Giữa lúc đó một bác công nhân nối toa tàu râu ria xồm xoàm khắp người đầy dầu mõ, chui từ dưới gầm một đoàn tàu chở hàng ra đi trên nhũng thanh tà vẹt về phía chúng tôi.

    - Chào bác, - thằng Pê-chi-a mạnh dạn hỏi, - đi về Mát-xcơ-va phía nào hả bác, bên phải hay bên trái?

    Người công nhân nối toa xe nhìn nó từ đầu đến chân rồi quay sang nhìn tôi. Tôi sợ lạnh toát người, nghĩ bụng: “Thật xúi quẩy, bầy giờ ông ấy sẽ đưa chúng mình đến sở chỉ huy mất”.

    - Các ông nhóc ơi, từ đây đến Mát-xcơ-va năm trăm véc-xtơ.

    - Bác ơi, bác chỉ cần cho biết đi về phía bên phải hay bên trái?

    Người công nhân nối toa xe cười, nói:

    - Bên trái.

    - Xin cám ơn bác. Xan-ca đi về phía bên trái!


    (1) Ở Nga, một tên có rất nhiều cách gọi tùy theo quan hệ và tình cảm người nói. Ví dụ: Pi-ôt - Pê-chi-a - Pét-ca - Pê-ten-ca - Pê-tơ-ru-sa, vân vân. Hoặc như: A-lếch-xan-đrơ - Xa-sa - Xa-nhi-a- Su-ru - Xa-sen-ca - Su-rô-sca - Su-rích - Xan-ca - A-lếch-xa-sa vân vân - N.D.
    (2) Mỗi véc-xtơ dài bằng l,067km - N.D.

    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 31/5/15
    Cải thích bài này.
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 15

    Đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng

    Tất cả những cuộc lữ hành của các nhà du lịch tí hon mười một, mười hai tuổi đã từng trải qua, dù cho chúng có ngồi dưới gầm ghế trong toa xe lửa hàng tháng trời không rửa mặt chăng nữa thì nói chung cũng giống nhau cả. Bạn chỉ cần xem một vài quyển sách tả cuộc sống của những đứa trẻ lưu lạc thì bạn sẽ tin ngay điều đó. Vì thế tôi sẽ không tả lại tình hình chuyến đi của chúng tôi từ En-xcơ đến Mát-xcơ-va.

    Chẳng bao lâu bảy điều khuyên răn của dì Đa-sa đã bị quên bẵng đi mất. Chúng tôi cãi nhau, đánh nhau, hút thuốc lá - đôi khi hít cả khói phân khô đốt cho ấm người. Chúng tôi còn bịa đặt ra những chuyện như là cô chúng tôi đi Ô-ren-bua mua muối, dọc đường để lạc chúng tôi. Có lúc chúng tôi lại nói là đi tản cư, lên Mát-xcơ-va ở với bà. Chúng tôi giả vờ là hai anh em ruột, điều này làm cho mọi người mủi lòng. Chúng tôi không biết hát nhưng trên nhiều chuyến xe lửa tôi đã đọc bức thư của viên hoa tiêu tàu viễn dương. Tôi nhớ có một lần đến ga Vu-sni Vô-lô-trôc có một người lính thủy tóc đã bạc, nhưng khuôn mặt lại rất trẻ bắt tôi phải đọc lại bức thư đó hai lần.

    - Thật lạ lùng, - ông ta nhìn tôi vối đôi mắt màu xám nghiêm nghị và nói. - Đội thám hiểm của trung úy Xê-đốp à? Thật lạ lùng!

    Nhưng dẫu sao chúng tôi cũng không phải như bọn trẻ lang thang. Chúng tôi không ngừng tiến lên у như thuyền trưởng Gát-te-rát (thằng Pê-chi-a kể cho tôi nghe câu chuyện về thuyền trưởng Gát-te-rát tỉ mỉ mà chính Giuyn Vét-nơ(1) cũng không ngờ đến). Chúng tôi tiến lên không phải chỉ vì ở Tuyếc-két-xtan có bánh mì mà ở đây không có. Chúng tôi tiến lên để phát hiện ra một nước mới- những thành phố đầy ánh nắng mặt trời, những vườn cây bao la. Chúng tôi đã thề với nhau như vậy.

    Lời thề đó đã có tác dụng lớn biết bao đối với chúng tôi!

    Một lần sắp đến thành phố Rút-xơ cổ thì chúng tôi đi nhầm đường và lạc trong rừng. Tôi lăn ra tuyết và nhắm mắt lại. Thằng Pê-chi-a đem chuyện chó sói ra dọa tôi, mắng tôi, thậm chí còn đánh tôi nữa, song cũng chẳng ăn thua gì. Tôi không bước nổi một bước. Nó bèn giật mũ ra và ném xuống tuyết.

    - Mày đã thề rồi cơ mà, Xa-ca, - nó nói, - đấu tranh và tìm tòi, quyết đạt mục đích chứ không đầu hàng. Thế nghĩa là giờ đây mày cam tâm làm một kẻ phản bội lời thề chứ gì? Chính mày đã nói rằng kẻ phản bội lời thề sẽ không bao giờ được dung thứ cơ mà.

    Tôi khóc, nhưng đứng lên. Đến tận nửa đêm chúng tôi mới đến một làng cựu giáo, nhưng rồi cũng có một bà cụ cho chúng tôi vào ở nhờ, cho ăn cơm, thậm chí còn cho chúng tôi tắm rửa nữa.

    Cứ thế, từ làng nọ sang làng kia, hết ga này đến ga khác và cuối cùng chúng tôi cũng đến được Mát-xcơ-va.

    (1)Giuyn Véc-nơ (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng chuyên viết truyện phiêu lưu và viễn tưỡng. Gát-te-rát là nhân vật chính trong cuốn “Cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Gát-te-rát” của ông. - N. D.

    Trên đường đi chúng tôi hầu như bán hết, đổi hết và ăn hết tất cả những gì mang theo từ En-xcơ đi. Thậm chí đến cả cái bao dao găm mà thằng Pê-chi-a khâu bằng da chiếc ủng cũ cũng đổi nốt, tôi còn nhớ là chỉ đổi được có hai miếng thịt đông.

    Chỉ còn có tờ giấy viết lời thề mà bên dưới ký bằng máu những chữ “P.X” và “A.G” và cái địa chỉ của ông chú thằng Pê-chi-a là không bị bán đi mà thôi.

    Chú! Tôi và thằng Pê-chi-a chuyện trò về ông chú ấy rất nhiều! Cuối cùng trong trí tưởng tượng của chúng tôi, ông ấy trỏ thành một vị thần lái xe: bộ râu bay phất phơ theo gió, luồng khói đặc phụt qua ông khói, hơi nước phi ra từ nồi hơi.

    Và thế là cuối cùng đã đến Mát-xcơ-va! Vào một đêm tháng Hai băng giá, chúng tôi ngồi trong chuồng xí của toa xe để chờ qua một chặng ga cuối cùng rồi trèo qua cửa số chuồng xí chui ra ngoài, nhảy xuống đường ray. Trời tối đen như mực, chảng nhìn thấy Mát-xcơ-va đâu cả, vả lại chúng tôi cũng chả thiết gì đến nó, vì đây chỉ là thành phố Mát-xcơ-va, còn ông chú thì ở xưởng sửa chữa toa xe thuộc đề-pô số bảy ở ga hàng hóa Mát-xcơ-va cơ. Chúng tôi lạc loanh quanh trên những thanh tà vẹt mất hai tiếng đồng hồ. Những đường ray lúc thì rẽ ra lúc thì nhập vào. Khi trời gần sáng chúng tôi mới thấy đề-pô số bảy. Đó là một tòa nhà ảm đạm có những cửa sổ hình bầu dục tối om, cửa ra vào rất cao cũng hình bầu dục, bên ngoài có mắc cái khóa, Ông chú không có nhà. Thậm chí cũng không có người nào để mà hỏi thăm nữa. Buổi sáng chúng tôi hỏi thăm ban phụ trách đề-pô thì được biết ông chú đã ra mặt trận rồi.

    Thế là hết! Chúng tôi đi ra và ngồi trên đống than.

    Xin vĩnh biệt những phố xá mọc đầy cam quít. Vĩnh biệt những đêm ngủ ngoài trời! Vĩnh biệt con dao găm bên sườn và thanh kiếm cong mạ bạc.

    Để vớt vát, thằng Pê-chi-a quay lại chỗ ban phụ trách đề-pô số bảy hỏi xem có phải chú nó đã cưới vợ chưa? Không! Chú nó vẫn độc thân. Ông ấy vẫn sống trên cái toa xe mà sau này đi luôn trên toa xe ấy ra tiền tuyến.

    Trời đã sáng hẳn. Giờ đây có thể nhìn thấy rất rõ thành phố Mat-xcơ-va: toàn nhà là nhà (tôi cứ tưởng những toa nhà ấy đều là các ga). Những đống tuyết khổng lồ, chỉ lác đác vài ba chiếc tàu điện. Lại nhà và nhà.

    Làm gì bây giờ?

    Nhũng ngày đen tối nhất bắt đầu. Trong thời gian đó còn thiếu việc gì mà chúng tôi không làm! Chúng tôi đi xếp hàng thuê. Lúc đó nhà nước có ban bố sắc lệnh “cưỡng bức lao động” cho nên những nhà tư sản thuê chúng tôi quét tuyết trên vỉa hè trước cửa nhà của họ. Chúng tôi đi dọn phân trong chuồng ngựa của rạp xiếc. Chúng tôi đã ngủ ở thềm cửa nhà người ta, ngoài nghĩa địa, trên trần nhà.

    Bỗng nhiên tất cả đều đảo lộn hết.

    Tôi còn nhớ lần đó chúng tôi đang đi trên phố Nhà thờ, trong óc chỉ mơ tưởng có một điều: tìm thấy ở đâu đó một đám lửa, lúc đó ngay cả ở trên cầu Cu-dơ-nét người ta cũng hay đốt lửa lên. Nhưng chẳng thấy gì cả! Tuyết, bóng đêm và yên lặng! Một đêm lạnh lẽo. Nhìn khắp bốn phương nhà nào nhà ấy cửa đóng then cài. Chúng tôi lặng lẽ bước đi rét run cầm cập. Tôi chỉ sợ thằng Pê-chi-a lại giật cái mũ ở trên đầu ra và ném xuống đất, nhưng đúng lúc đó có những tiếng lè nhè say rượu vọng ra từ cái khe bên dưới cánh cổng mà chúng tôi vừa đi qua, Thằng Pê-chi-a vào trong sân, tôi ngồi lên cái bệ xây cạnh cổng. Rét quá, hai hàm răng đập vào nhau cầm cập. Tôi đút những ngón tay lạnh cóng vào mồm hả hơi cho ấm. Thằng Pê-chi-a quay lại.

    - Vào đây! - Nó mừng rổ nói. - Người ta cho vào rồi! :rose:
     
    Last edited by a moderator: 29/5/15
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 16

    Chuyến bay đầu tiên

    Thú vị biết bao khi ngủ dưới một mái nhà! Hạnh phúc biết bao khi trời lạnh hai mươi độ dưới số không mà được ngồi bên cạnh lò sưởi, chẻ củi chất thêm lửa cho đến khi ống khói réo lên vù vù! Song thật tuyệt hơn cả là khi ngồi cân muối hoặc bột mì mà nghĩ rằng chúng tôi được người ta hứa là để trả công họ sẽ cho đi đến Tuyếc-két-xtan. Lần này chúng tôi sa vào một ổ đầu cơ gồm toàn những kẻ thương tật. Trùm ổ là một người Ba-lan thọt chân, mặt đầy sẹo. Hắn nhận lời cho chúng tôi theo hắn đi Tuyếc-két-xtan. Thì ra đó không phải là một thành phố mà là một nước, thủ đô là Ta-sken, chính cái thủ đô Ta-sken mà bọn đầu cơ nàỵ cứ hai ba tuần lễ lại đi một lần.

    Chúng tôi bị bọn lưu manh này thuê về làm công việc đóng gói thực phẩm. Không có tiền công, chỉ được ăn ở. Nhưng chỉ thế thôi chúng tôi cũng đã mừng rồi.

    Nếu không có mụ vợ lão trùm thọt chân thì cuộc sống của chúng tôi cũng không đến nỗi tồi! Mụ ấy làm chúng tôi chán ngấy.

    Mụ to béo, hai mắt lồi ra, cái bụng béo bước đi cứ núng nính. Mụ thường chạy vào căn nhà xép chỗ chúng tôi đóng gói thực phẩm để xem mọi thứ có nguyên vẹn không.

    - Ái chà chà! Sao chúng mày dám làm thế này!

    Bất kể dám hay không dám, nhưng thật quả làm những việc này cũng không đơn giản. Ví dụ như khi cân mỡ lợn mà lại không cấu ra một miếng. Còn đường miếng thì cứ tự nó chui vào ống tay áo và túi áo... Nhưng chúng tôi cố nhịn. Chà, giá chúng tôi sớm biết rằng đằng nào thì chúng tôi cũng không hòng nhìn thấy Tuyếc-két-xtan, giống như người ta không thể nhìn thấy đôi tai của mình, tôi chắc mụ phù thủy già kia đã phải thấy thiếu khối thứ.

    Có một lần (chứng tôi làm ở cái ở lưu manh này đã hơn hai tháng) mụ ta chạy vào phòng chúng tôi mà chỉ mặc mỗi chiếc váy lót. Tay mụ cầm cái khóa mọi khi vẫn dùng để khóa nhà kho ban đêm. Mụ trợn mắt lên và dừng lại ngoài cửa ngó quanh, mặt tái nhợt.

    - Không được đập, không được gõ cửa, - mụ thì thào và lấy tay ôm đầu. - Không được kêu! Phải im!

    Chúng tôi chưa kịp trấn tĩnh lại đã thấy mụ hổn hển, kéo chốt, khóa cửa lại rồi bỏ đi.

    Việc đó thật là bất ngờ cho nên lúc đầu chúng tôi chẳng nói năng gì được. Sau đó Pê-chi-a chửi đổng rồi nằm xuống sàn. Tôi cũng nằm xuống và nhìn ra ngoài qua một cái khe hẹp bên dưới cánh cửa. Lúc đầu mọi vật đều im lặng, ngoài sân trống không, trên mặt tuyết đã chớm tan có những vết chân vàng vàng đọng nước. Sau đó thì xuất hiện rất nhiều những ống chân lạ đi ủng đen: một đôi, hai đôi, ba đôi. Những cái chân đi qua sân về phía chái nhà. Hai đôi chân biến đi đâu mất, đôi chân thứ ba dừng lại trên thềm nhà. Bên cạnh chân là cái báng súng.

    - Họ vây bắt! - Pê-chi-a thì thào và nhỏm dậy.

    Trong bóng tối, hắn va vào đầu tôi một cái làm tôi cắn phải lưỡi. Nhưng lúc này còn nghĩ gì đến cái lưỡi nữa.

    - Phải chuồn thôi!...

    Nếu lúc bấy giờ chúng tôi giắt theo người mấy sợi dây thì chưa biết chừng cuộc đời tôi đã hoàn toàn diễn biến theo con đường khác rồi. Trong kho có bao nhiêu dây. Nhưng sau khi chúng tôi trèo lên trần nhà kho rồi mới nhớ ra chuyện ấy. Nhà kho xây bằng đá, bên trên có trần gác, nóc chỉ có một mái, phía tường sau có một cái lỗ hổng tròn thông ra sân nhà bên cạnh.

    Pê-chi-a thò đầu ra ngoài lỗ hổng ngó chung quanh, Nó đã bị xước một bên má trong khi chúng tôi mò mẫm trong bóng tối để cậy tấm ván trên trần nhà và bây giờ nó cứ phải đưa mu bàn tay lên chùi máu luôn.

    - Nhảy xuống chứ?

    Nhưng nhảy từ trên cao năm sáu thước qua cái lỗ hổng không to lắm trên bức tường nhẵn thín không phải là chuyện dễ, họa chăng chỉ có cách lao đầu ra trước у như khi nhảy xuống nước.

    Bây giờ phải thò hai chân ra trước, ngồi gập người lại rồi toài cả người ra mà rơi xuống. Pê-chi-a đã làm như thế. Trong khi tôi còn đang nghĩ xem có nên trở lại lấy dây thừng không thì Pê-chi- a đã ngồi trên cái lỗ hổng rồi. Nó không quay người lại được nữa mà chỉ nói:

    - Không sao đâu Xa-nhi-a ạ, mạnh dạn lên nào!

    Thê là nó mất hút. Tôi rụng rời nhìn theo nó. Chẳng làm sao cả, chiếc hàng rào ở chỗ này gần sát ngay nhà kho, nó rất may là rơi ngay xuống một đóng tuyết mềm ở bên kia hàng rào.

    - Nhảy đi!

    Tôi bò lên cái lỗ hổng và ngồi co đầu gối lên. Bây giờ nom rõ cả cái sân nhà hàng xóm - một em bé gái đang chơi chiếc xe trượt tuyết kiểu Phần -lan dọc theo ngôi nhà cổ kính có xây cột, một con quạ ngồi trên ống thoát nước. Cò bé dừng lại nhìn chúng tôi vẻ tò mò. Con quạ cũng nhìn chúng tôi, song nó lại quay đi chẳng thèm để ý, đoạn rúc đầu vào cánh.

    - Nhảy đi!

    Ngoài cô bé và con quạ ra, ở trong sân còn có một người mặc áo bành tô da nữa. Ông ta đứng ở chỗ cạnh đầu hồi giữa nhà chúng tôi với cái sân nhà hảng xóm. Tôi nhìn thấy ông ta hút hết điếu thuốc lá, vứt đầu mẩu đi và thư thả đi về phía chúng tôi.

    - Nhảy xuống đi! - Pê-chi-a sốt ruột kêu lên.

    Tôi đưa hai tay ra phía sau khe khẽ tụt xuống, thế là mọi vật xung quanh vụt chuyển động. Con quạ khoang vỗ cánh bay lên, cô bé sợ hãi lùi lại đằng sau mấy bước. Pê-chi-a cắm đầu chạy ra cổng, người đàn ông mặc áo bành tô da đuổi theo nó. Trong giây lát đó tôi đã hiểu cả. Nhưng muộn rồi, tôi rơi xuống như bay.

    Đó chính là chuyến bay đầu tiên của tôi - rơi thẳng từ trên cao năm thước xuống mà không có dù. Tôi không thể nói rằng chuyến bay này đã thành công. Ngực tôi đập vào hàng rào, vừa nhổm dậy thì lại ngã. Cái quang cảnh cuối cùng mà tôi nom thấy là thằng Pê-chi-a đã nhảy ra phố và nó sập cánh cổng lại ngay trước mũi cái người mặc áo bành tô da. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 29/5/15
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 17

    Những con giống

    Tất nhiên việc chúng tôi bỏ chạy trong khi chẳng có tội tình gì thì thật là ngu xuẩn. Bản thân chúng tôi chẳng đầu cơ trục lợi mà chỉ làm cho bọn đầu cơ thôi. Người ta sẽ chẳng làm gì chúng tôi cả, mà chỉ hỏi mấy câu rồi sẽ thả ra. Song giờ đây hối hận thì đã muộn. Người mặc áo bành tô da nắm chặt tay tôi đưa đi, chắc là vào nhà giam. Tôi bị tóm, còn Pê-chi-a đã chuồn được. Giờ đây tôi trơ trọi một mình. Trời đã về chiều, mặt trời xế bóng, đàn quạ đang đủng đỉnh bay trên những hàng cây dọc theo đại lộ Xtơ-ra-xnưi. Tuy tôi không khóc nhưng nét mặt chắc là thảm bại lắm nên cái người mặc áo bành tô da ngắm tôi một hồi rồi nói tay tôi ra: ông ta biết rằng tôi sẽ không chạy trốn được.

    Ông ta dẫn tôi đến một gian nhà rộng rãi, sáng sủa trên tầng thứ sáu của một tòa nhà đồ sộ ở cổng Ni-kít-xki. Đây là phòng thu nhận của Bộ Giáo dục nhân dân. Tôi đã ở đây ba ngày đáng ghi nhớ... Tim tôi se lại khi nhìn thấy ở trong gian phòng này những cái mặt đỏ quạch. Một bọn đang ngồi xổm sát phạt nhau trong ván bài quanh cái bếp lò bằng đất, bọn khác đang rút gỗ riềm trên những cái cửa sổ rất cao, rút được thanh nào là ném ngay vào lò thanh ấy, một số nữa nằm ngủ còn nhóm thứ tư thì đang lấy những cái khung cũ và những tấm tranh xếp bừa lại làm “nhà” ở một góc. Ban đêm trong phòng thu nhận này lạnh hơn ở ngoài đường, bọn chủ những ngôi “nhà” này liền đốt một cái bếp đèn dầu hỏa rồi thu nhập nhũng kẻ muốn vào ngủ trong “nhà” - đứa thì trả vài điếu thuốc lá, đứa thì trả một mẩu bánh mì... Và giữa cái cảnh điêu tàn hoang dại này có những pho tượng thần Hi-lạp bằng thạch cao như A-pô-lôn, Đi-a-na, Héc-quyn dặt trên các bệ cao lãnh đạm nhìn xuống bằng những con mắt trắng dại.

    Chỉ có những khuôn mặt của những vị thần này là còn có vẻ mặt người. Lúc tang tảng sáng, tôi tỉnh dậy vì trời lạnh quá, hai hàm răng đánh nhau cầm cập, tôi rụt rè nhìn lén những vị thần. Có lẽ các vị ấy đang nghĩ: “Đồ ngu, mày là thằng ngu! Sao mày lại bỏ nhà mà đi? Mày cứ tưởng phải đến trại mồ côi là ghê lắm à? Đến mùa xuân thì có thể trở về, có thể giúp đỡ hai ông bà già và sẽ tìm được công việc! Còn bây giờ mày chỉ có một mình, mày có chết cũng chẳng ai nhớ đến. Chỉ có thằng Pê-chi-a chạy khắp thành phố Mát-xcơ-va đi tìm mày và có dì Đa-sa thở dài não nuột mà thôi! Cậu em ạ, hay là xin lấy một bộ quần áo rồi chuồn mau về nhà!” Lúc đó ở trong Bộ Giáo dục nhân dân đang đổi quần áo, họ đốt hết quần áo cũ và phát quần dài, áo sơ-mi. Có rất nhiều đứa lêu lổng cố tình cho người ta bắt vào để nhân cơ hội này đổi bộ quần áo rách bươm của chúng lấy quần áo mới.

    Suốt ba ngày trời tôi không nói một câu. Việc này đối với một đứa trẻ vừa mới học nói chưa được bao lâu thì chẳng có gì là khó cả. Vả lại nói với ai mới được chứ? Cứ mỗi lần người ta đưa thêm bọn trẻ lêu lổng vào trại là tôi lại bất giác nhìn xem trong đó có thằng Pê-chi-a của tôi không. Không có. Không có càng tốt! Tôi cứ ngồi một bên và chẳng nói câu nào.

    Vì đói, rét và buồn quá, tôi bèn nặn chơi. Trong cái xưởng hội họa và điêu khắc cũ này có rất nhiều đất sét để nặn tượng. Có lần tôi vào véo một cục đất sét đúng vào nước sôi rồi lấy tay nặn nghịch, tự nhiên lại thành một con cóc. Tôi khoét cho nó hai cái lỗ mũi to tướng và hai con mắt lồi ra. Sau đó tôi nặn thử một con thỏ. Tất nhiên là còn rất xấu. Nhưng đã có một cái gì thức tỉnh trong tâm hồn tôi khi tôi bất chợt nhìn thấy dáng cái đầu tách đôi trong một cục đất sét chẳng ra hình thù gì. Tôi cứ nhớ mãi cái giây phút ấy: lúc đó chẳng có ai nhìn thấy tôi nặn đất, một tên bợm già không biết run rủi làm sao lại rơi vào cái phòng thu nhận trẻ lêu lổng này đang kể chuyện bọn chúng đã “hoạt động từng cặp” ở ngoài ga thế nào. Tôi đứng riêng ra một chỗ bên cạnh cửa sổ và nín thở nhìn cục đất sét nhỏ có hai cái tai thỏ nhỏ lên. Không hiểu tại sao tôi lại xúc động đến thế...

    Sau đó tôi nặn một con ngựa có bờm to chải mượt. “Những con giống!” Con ngựa của ông già Xcô-vô-rốt-ni-cốp cũng giống hệt như thế này! Đây cũng là những con giống, có điều là không phải đẽo bằng gỗ mà nặn bằng đất sét.

    Tôi không biết tại sao, nhưng sự khám phá này làm tôi mừng rỡ. Tôi vui sướng ngủ thiếp đi. Tựa như tôi đang hy vọng rằng nhũng “con giống” ấy sẽ cứu tôi. Chúng sẽ giúp tôi rời khỏi nơi này giúp tôi tìm thấy Pê-chi-a, giúp tôi về được đến nhà, còn Pê-chi-a thì đến được Tuyếc-két'Xtan. Chúng sẽ giúp em gái tôi đang ở trại mồ côi, giúp đỡ ông chú của Pê-chi-a ở ngoài mặt trận, giúp đỡ tất cả những kẻ lang thang ban đêm trên những con đường trong thành phố Mát-xcơ-va đói và lạnh này. Tôi đã cầu nguyện như vậy, nhưng không phải là cầu Chúa! Tôi cầu xin con cóc, con ngựa và con thỏ đang phơi ở trên cửa sổ che bằng một mảnh giấy báo.

    Nêu là một đứa trẻ con khác, không phải là kẻ vô thần như tôi có lẽ nó sẽ trở thành người sùng bái thần tượng và mãi mãi tin vào con cóc. con ngựa và con thỏ. Bởi vì chúng đã giúp đỡ tôi thật!

    Ngày hôm sau có một tổ công tác của Bộ Giáo dục nhân dân đến phòng thu nhận, thế là từ đó trở đi cái phòng thu nhận này giải tán vĩnh viễn.

    Những tên ăn cắp được đưa vào nhà giam, bọn lêu lổng được đưa vào các trại, còn những kẻ đi ăn xin thì đuổi về nhà. Trong gian phòng điêu khắc hội họa rộng thênh thang này chỉ còn lại những tượng thần Hi-lạp A-pô-lôn, Héc-quyn và Đi-a-na.

    - Còn cái gì đây? - Một ủy viên trong tổ công tác hỏi. Đó là một thanh niên đầu óc bù xù, râu không cạo. Mọi người chỉ gọi anh là Su-ra. - Bác I-van An-đrê-ê-vích xem này, nặn tuyệt chưa!

    I-van An-đrê-ê-vích cũng đầu bù, râu không cạo, nhưng già rồi. Ông đeo cái kính kẹp mũi lên và bắt đầu nghiên cứu những con giống.

    - Những thứ đồ chơi Nga điển hình của thị trấn Xe-rơ-ghi-ép* xki, - ông nói. - Thú vị thật. Ai làm đấy? Chú này à?

    - Tôi đấy!

    - Tên là gì?

    - Gri-gô-ri-ép A-lếch-xan-đrơ.

    - Có muốn học không?

    Tôi nhìn ông và im lặng. Cuộc sống đói rét đầu đường xó chợ mấy tháng qua đã giày vò tôi cho nên lúc này mặt tôi bỗng mếu xệch đi, nước mắt nước mũi chảy ra giàn giụa.

    - Nó muốn đấy, - vị ủy viên tên là Su-ra nói. - Chúng ta gửi nó đi đâu bây giờ, bác I-van An-đrê-ê-vích?

    - Theo tôi thì nên gửi nó cho Ni-cô-lai Ạn-tô-nứt, - người kia trả lời và thận trọng đặt con thỏ của tôi lên bệ cửa sổ.

    - Đúng đấy! Ni-cô-lai An-tô-nứt vôn có khuynh hướng nghệ thuật. Thế nào, Gri-gô-ri-ép A-lếch-xan-đrơ, có muốn đến với bác Ni-cô-lai An-tô-nứt không?

    - Cậu Su-ra, nó có biết ông ấỵ là ai đâu. Tốt nhất là hãy ghi lại, Gri-gô-ri-ép A-lếch-xan-đrơ... Em bao nhiêu tuổi?

    - Mười một.

    Tôi tăng lên nửa năm.

    - Mười một tuổi. Viết xong chưa? Gửi đến Ta-ta-ri-nốp, cho vào Trường Công xã số Bốn. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 29/5/15
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 18

    Ni-cô-lai An-tô-nứt

    Chị con gái đẫy đà ở Bộ Giáo dục nhân dân nom có phần giống dì Đa-sa để tôi đứng một mình trong căn phòng dài vốn là hành lang tranh tối tranh sáng rồi bỏ đi, dặn sẽ quay lại ngay. Đây là phòng treo mũ và áo ngoài. Những cái mắc áo trống không, trông giống như những anh chàng gày gò có sừng mọc ở trên đầu, đặt trong những chiếc tủ để ngỏ. Dọc tường toàn cửa. Trong đó có một cái là cửa kính. Kể từ khi rời khỏi En-xcơ, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mình. Hình dáng như thế đây! Một thằng bé mặt trắng bệch, cái đầu tròn cắt tóc ngắn, đang buồn bã nhìn tôi. Trông nó nhỏ bé quá, gày còm hơn là tôi tưởng tượng rất nhiều. Cái mũi nhọn, mồm mím chặt. Người ta đã cọ mình tôi bằng đá kỳ ở nhà tắm của Bộ Giáo dục thế mà trên người tôi vẫn còn những chỗ cáu ghét. Chiếc áo đồng phục dài rộng thùng thình có thể quấn thêm một vòng nữa quanh người tôi, hai ống quần dài trùm ra ngoài ủng da.

    Chị con gái béo đã trỏ lại, thế là chúng tôi đến gặp Ni-cô-lai An-tô-nứt. Ông là một người đẫy đà nhưng nét mặt hơi xanh. Một ít tóc lơ thơ trên cái đầu hói chải lật về phía sau. Trong mồm có một chiếc răng vàng lấp lánh. Còn tôi, do cái thói quen ngu xuẩn, khi vừa nhìn thấy chiếc răng vàng này là tôi cứ nhìn chằm chằm vào đấy.

    Chúng tôi phải chờ khá lâu: Ni-cô-lai An-tô-nứt đang bận. Ông đang nói chuyện với đám trẻ khoảng mười sáu tuổi vây quanh ông, tranh nhau nói những chuyện gì ấy. Ông nghe chúng nói và rung rung những ngón tay mẫm mạp, trông giống như những con sâu róm. Ông có vẻ khoan thai, từ tốn và trang trọng.

    - Trật tự, các em, đừng nói nhao nhao cả lên như vậy, - Ni-cô-lai An-tô-nứt nói. - Nào, I-gô, em nói trước đi.

    Ông đứng dậy ôm lấy vai cậu bé đeo kính da ngăm đen, tóc quăn, hai má hồng hồng, trên má và dưới mũi cậu ta có những sợi lông tơ đen.

    - Thưa thầy Ni-cô-lai An-tô-nứt! - I-gô trịnh trọng nói, mặt đỏ lên. - Chúng tôi phản đối Trường trung học thực hành Li-a-đốp. Chúng tôi quyết định tham gia Liên hợp xã thứ mười ba, đồng thời cũng tỏ lời phản đối nếu tiêu chuẩn thực phẩm không thay đổi mà thành viên cứ tăng lên thì còn gọi là công xã làm sao được? Thầy Cô-ra-bơ-li-ốp nói rằng đó là một cuộc đấu tranh vì bát cháo... Còn chúng tôi thì cho rằng dây là vấn đề nguyên tắc. Nếu chúng tôi là công xã, thế thì chúng tôi phải tự quyết định xem có kết nạp xã viên mới nữa hay không? Chúng tôi không kết nạp Trường trung học thực hành Li-a-đôp. Nếu cùng lắm thì chúng tôi sẽ kết nạp Trường nữ trung học Brơ-giô-dốp-xcai-a.

    Cậu ta nói rất hăng, và chỉ khi mọi người cười ầm lên mới chịu ngừng lại trong giây lát.

    - Tóm lại chúng tôi kiên quyết phản đối sự xúc phạm của thầy Cô-ra-bơ-li-ốp và yêu cầu nêu vấn đề này ra trước Hội đồng nhà trường.

    - Và sẽ chỉ là thiểu số thôi. - Ni-cô-lai An-tó-nứt bác lại và gật đầu với chúng tôi.

    Chúng tôi tiến lại.

    - Trẻ lêu lổng à?

    - Không phải.

    - Ở Bộ Giáo dục nhân dân gửi sang, - chị con gái béo giải thích rồi đặt giấy giới thiệu lên bàn.

    - Em ở đâu đến, Gri-gô-ri-ép? - Ni-cô-lai An-tô-nứt đọc giấy giới thiệu và dõng dạc hỏi tôi.

    - Từ En-xcơ.

    - Thê làm sao lại đến đây, đến Mát-xcơ-va?

    - Trên đường đi qua, - tôi đáp.

    - Ra thế đấy, chú bé thân yêu! Vậy thì chú em định đi đâu?

    Tôi hít một hơi đầy lồng ngực và chẳng nói năng gì nữa. Người ta đã từng hỏi tôi bàng trăm câu như thế này rồi. Em là ai? Em đi đâu?

    - Thôi được, sau này chúng ta sẽ nói chuyện tiếp, - Ni-cô-lai An-tô-nứt viết mấy chữ vào đằng sau tờ giấy giới thiệu của Bộ Giáo dục nhân dân. - Chú em không chạy trốn chứ?

    Tôi tin rằng tôi sẽ trốn. Nhưng tôi cũng cứ nói:

    - Không.

    Chúng tôi đi ra. Ra đến cửa tôi quay lại nhìn, I-gô với vẻ mặt sốt ruột và khinh miệt chờ cho cuộc nói chuyện của chúng tôi kết thúc rồi liến thoắng nói ngay câu gì đó, nhưng Ni-cô-lai An-tô- nứt không nghe mà chỉ trầm ngâm nhìn theo tôi. Ông ấy đang nghĩ gì vậy? Chắc hẳn là ông ấy không thể ngờ rằng chính ngày hôm ấy số mệnh đã đến với ông trong hình ảnh một chú bé còi cọc, đầu có những mảng cáu ghét, chân lê đôi ủng to tướng, cái cổ khẳng khiu thò ra ngoài chiếc áo đồng phục. :rose:
     
    Last edited by a moderator: 29/5/15
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Phần thứ hai

    CÓ NHỮNG ĐIỀU ĐỂ SUY NGHĨ



    Chương 1

    Tôi nghe kể chuyện hoang đường

    Tôi chỉ có mỗi một ý nghĩ là “chờ đến ngày đầu tiên trời ấm thì chuồn”. Khi mùa đông giá lạnh qua đi là tôi sẽ cao chạy xa bay, trại trẻ đừng hòng nhìn thấy bóng dáng tôi ở đây nữa. Nhưng cụ thể xảy ra khác hẳn. Tôi chẳng chuồn đi đâu. Việc học hành đã giữ chân tôi lại...

    Hàng ngày cứ sáng ra là chúng tôi đến lò để lấy bánh mì rồi về học tập. Trong chúng tôi tuy có những cậu tính tuổi ra thì phải học lớp sáu rồi, nhưng chúng tôi vẫn được gọi là lớp một.

    Một bà giáo già tên là Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-na dạy chúng tôi. Mỗi lần đến lớp bà đều đeo cái túi du lịch ở trên vai. Thật thà mà nói, khó lòng nói được là bà ta dạy chúng tôi những gì nữa. Tôi còn nhớ có một bài giảng về con vịt, bà ấy gộp luôn ba môn vào đó: địa lý, vạn vật học và tiếng Nga. Ở bài vạn vật thì con vịt được đem ra nghiên cứu như một con vịt: cánh nó thế nào, bàn chân nó ra sao, nó bơi thế nào, vân vân... Đến bài địa lý thì con vịt được coi là một loài sinh vật trên trái đất để nghiên cứu; phải chỉ trên bản đồ xem nơi nào có vịt, nơi nào không. Sang bài Nga văn thì bà Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-na dạy chúng tôi viết chữ “V-ị-t” và đọc tác phẩm nào đó viết về con vịt của Brêm. Nhân tiện bà còn nói cho chúng tôi biết chữ con vịt tiếng Đức nói thế nào, tiếp Pháp nói thế nào. Hình như kiểu này hồi đó được gọi là “phương pháp giáo dục tổng hợp”. Tóm lại tất cả đều là “nhân tiện”. Rất có thể bà Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-na đã lẫn lộn gì đó trong phương pháp này. Bà đã già, thường lấy kim băng cài ở ngực một cái đồng hồ nhỏ vỏ bằng xà cừ, vì thế khi chúng tôi trả lời câu hỏi là lại xem xem mấy giờ rồi.

    Nhưng buổi tối nào bà cũng đọc truyện cho chúng tôi nghe. Nhờ có bà mà lần đầu tiên tôi được nghe câu chuyện cổ tích về anh em I-van và A-lê-na.

    Mặt trời mọc cao
    Giếng nước thì xa
    Cái nóng rầy rà
    Mồ hôi nhễ nhại.
    Nơi móng chân dê
    Có đầy nước mát.​

    Câu chuyện “A-li Ba-ba và bốn mươi tên cướp” đã làm tôi mê mẩn. “Xê dam, mở cửa ra!” Sau đó nhiều năm tôi đọc bản dịch lại cuốn “Một nghìn một đêm lẻ” tôi rất buồn khi thấy không phải là Xê-dam. Mà phải đọc là “Xim Xim” và đó là một loại thực vật, hình như là cây gai thì phải. “Xê-dam” là một lời thần chú tuyệt vời. Khi tôi được biết đó chỉ là một loại cây gai thì tôi vô cùng thất vọng.

    Có thể không nói ngoa rằng những câu chuyện hoang đường này đã làm cho tôi hết sức xúc động. Lúc đó tôi không còn muốn gì hơn là đọc được như bà Xê-ra-phi-ma Pê-trốp-na.

    Nói tóm lại là tôi rất thích ở trại trẻ. Ở đây rất ấm áp, không bị gió dập mưa vùi, được ăn uống lại được học hành. Không buồn tẻ hay ít nhất cũng không buồn tẻ lắm. Các bạn đối xử với tôi rất tốt, - có lẽ vì tôi là người bé nhất.

    Ngay những ngày đầu tiên mới đến đây tôi đã kết bạn với hai cậu nhỏ cho nên chúng tôi không bao giờ để thì giờ trôi qua một cách vô ích.

    Một trong những người bạn mới của tôi tên là Rô-ma-sca. Nó là một đứa trẻ gày còm, đầu to, bộ tóc vàng như lông con mèo rừng, rối bù như mớ bòng bong. Mũi nó tẹt gí, đôi mắt nó tròn lạ thường, cằm vuông bè bè, quả là một khuôn mặt đáng sợ và chả có cảm tình chút nào. Tôi với nó thân nhau vì cùng chơi đoán ô chữ; tôi đoán ô chữ rất giỏi, nó phục tôi ở điểm này.

    Một bạn khác tên là Van-ca Giu-cốp. Nó là một thằng lười nhưng lại lắm dự định. Lúc thì nó muốn đến vườn bách thú học nghề dạy sư tử, lúc lại muốn làm lính cứu hỏa. Đến lò bánh mì thì nó muốn làm thợ nướng bánh, lúc đi xem hát về nó lại nhất quyết làm diễn viên. Nói chung là nó luôn có những ý nghĩ táo bạo.

    - Nếu như... - Nó đăm chiêu nói.

    - ... khoan thủng trái đất ra, và chui ra phía bên kia. - Rô- ma-sốp nói xỏ xiên.

    - Thế, nếu như...

    - ... nuốt chửng một con chuột sống...

    Van-ca rất thích chó. Tất cả lũ chó ở dọc đường Xa-đô-vô Tri-um-phan-nai-a đều có vẻ kính nể nó.

    Nhưng Van-ca rút cục vẫn chỉ là Van-ca, còn Rô-ma-sca là Rô-ma-sca, so với Pê-chi-a thì cả hai thằng đều kém xa.

    Phải xa Pê-chi-a tôi buồn chán không sao nói ra cho hết.

    Tôi đi tìm khắp những nơi mà trước kia tôi đã dạo qua, hỏi thăm những đứa lưu lạc хem có gặp nó không, thường xuyên đứng chực ở các trạm thu nhận và các trại trẻ. Nhưng chẳng tìm thấy nó đâu cả. Liệu nó có nấp vào trong một cái hòm nào đó của một toa xe lửa quốc tế để trốn đến Tuyếc-két-xtan hay không? Hay nó đã rời khỏi cái thành phố Mát-xcơ-va đói rét đi bộ về nhà? Nào ai biết được!

    Đến tận bây giờ, qua những buổi lang thang đi tìm thằng Pê-chi-a tôi biết rõ và thấy thích thành phố Mát-xcơ-va, một thành phố bí ẩn, rộng lớn, tuyết phủ dày đặc đã diễn ra nạn đói và chiến tranh. Trên các quảng trường có treo nhũng tấm bản đồ, ở chỗ giữa Cuốc-xcơ và Khác-cốp gần Mát-xcơ-va có một đường chỉ đỏ cắm những lá cờ con. Ngoài chợ còn những dãy nhà ghép bằng gỗ thấp lè tè sơn lòe loẹt. Các họa sĩ phái vị lai vẽ lên tường những bức tranh kỳ quặc - những con người mặt xanh màu lá cây, các nhà thờ sập nóc. Trên bức tường rào cao ở phố Tve-rơ- xcai-a cũng có những bức tranh tương tự như vậy. Trên kính cửa sổ các hiệu buôn có treo những tấm biểu ngữ của Thông tấn xã Nga:

    Chúng mày ăn dứa
    Chúng mày nhai chim
    Đến ngày tận số
    Bọn tư sản kia!​

    Đây là những vần thơ đầu tiên mà tôi đọc được.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 2

    Trường học

    Ở đoạn trên hình như tôi đã nói là theo ý kiến của Bộ Giáo dục nhân dân thì nhà trẻ của chúng tôi được coi như một nơi ươm những mầm non có năng khiếu. Bộ Giáo dục nhân dân cho rằng chúng tôi có năng khiếu về âm nhạc, mỹ thuật và văn học... Do đó sau buổi học chúng tôi được tự do muốn làm gì thì làm. Người ta cho rằng như vậy là chúng tôi được tự do phát triển năng khiếu. Mà chúng tôi cũng đang phát triển thiên tài của mình thật. Có đứa chạy ra sông Mát-xcơ-va giúp lính cứu hỏa bắt cá trong những hố băng. Đứa thì ra chen lấn ngoài chợ Xu-kha-rép-ca(1) để xem có cái gì để hớ hênh không?

    Còn tôi thì ngày càng hay ở lại nhà. Chúng tôi ở tầng bên dưới các lớp học. Do đó tất cả những diễn biến trong sinh hoạt nhà trường đều bày ra trước mắt tôi. Đó là một cuộc sống khó hiểu, bí ẩn và phức tạp. Tôi chen chúc trong đám học sinh lớn tuổi nghe họ nói chuyện. Tôi được tiếp xúc với những quan hệ mới, những tư tưởng mới và nhũng con người mới. Tất cả những cái đó không giống với Mát-xcơ-va. Trong một thời gian rất dài tôi chẳng hiểu một tí gì cả, chỉ biết ngạc nhiên với tất cả mọi sự. Đến nay thì tôi đã nắm được về cái Trường trung học lao động số Bốn như sau:

    Cách ít lâu Trường trung học Pê-xtốp vẫn ở tòa nhà lầu lớn màu đỏ ở đường Xa-đô-vô Tri-um-phan-nai-a. Có một nhà nuôi trẻ nhỏ trực thuộc trường này. Đó chính là trại trẻ của chúng tôi. Mùa đông năm 1919 Trường trung học Pê-xtốp sát nhập với Trường trung học thực hành Li-a-đốp và đến mùa xuân thì lại hợp nhất với trường nữ trung học Brơ-giô-đốp-xcai-a.

    Rất nhiều bạn đọc của tôi không đi học các trường trung học hồi trước cách mạng, do đó chắc các bạn đã quên mất tình trạng khinh rẻ lẫn nhau giữa học sinh các trường trung học và trường thực hành. Tôi không rõ căn nguyên sự thù hằn này từ đâu, nhưng hồi còn ở En-xcơ tôi có được nghe những lời đồn đại thú vị về những trận đánh nhau kịch liệt trên sân băng, học sinh trung học là những dũng sĩ cao quí và học sinh trường thực hành đê tiện dùng cả “nắm đấm chì” - một thứ trái với nguyên tắc về danh dự - để đánh nhau. Ngày nay ở Mát-xcơ-va tôi được chính mắt nhìn thấy tất cả những việc này.

    Học sinh Trường trung học Pê-xtốp là những đứa phá phách quá quắt nhất Mát-xcơ-va, - chả trách những đứa học sinh bị các trường trung học khác đuổi ra thì được nhận vào trường này không cần phải thi. Trái lại học sinh Trường thực hành Li-a-đốp, chủ yếu là những đứa con khuôn phép của các vị quan cao cấp, các kỹ sư, các nhà sư phạm. Do đó sự thù hằn ấy không những có tính chất nghề nghiệp mà còn có tính chất xã hội nữa. Sau khi Bộ Giáo dục nhân dân ra quyết định đặt Trường nữ trung học
    Brơ-giô-dốp-xcai-a vào giữa hai địch thủ kế truyền này thì sự thù hằn ấy lại càng tăng lên.

    Có biết bao nhiêu cớ cãi nhau, để bày mưu lập kế và dèm pha. Có biết bao nhiêu lời phát biểu ở các hội nghị, bao nhiêu thư thanh minh, bao nhiêu xung đột ngấm ngầm và công khai. Nhà trẻ chúng tôi đứng ngoài cuộc: chẳng ai chú ý đến chúng tôi cả. Nhưng có thể dễ dàng đoán được xem ai là kẻ chúng tôi hâm mộ. Đó chính là những học sinh Trường trung học Pê-xtốp! Thậm chí đến việc đội mũ chúng tôi cũng cố bắt chước đội như họ - hơi lệch về phía bên phải.

    Trường công xã số Bốn đã đào tạo ra rất nhiều người sau này trở nên những nhân vật nổi tiếng, được mọi người kính nể. Bản thân tôi cũng phải cám ơn cái công xã này rất nhiều. Nhưng khi đó vào cái năm một ngàn chín trăm hai mươi ấy thì mọi sự nát bét như cháo! Nhân chữ này tôi thấy phải nói thêm rằng món cháo ăn - có khi là cháo ngô, khi là cháo kê, ở một mức độ đáng kể, là quyền lợi thiết thân của cả học sinh Trường Li-a-đốp và Trường Pê-xtốp. Cháo được đựng vào một cái nồi to, ủ rất kỹ trông như một bà cụ già, đặt lên xe trượt tuyết chở đến, và họ cứ thế khiêng luôn cả cái xe trượt tuyết ấy lên giảng đường lớn. Đại diện ban kinh tế của trường là “cô Va-rí-a” - mọi người đều gọi cô gái mập mạp, má đỏ hồng tóc tết dày như vậy - tay cầm một cái muỗng to đi đi lại lại đằng sau cái quầy. Mọi người xếp thành hàng và không phân biệt là mặc đồng phục của trường nào, lớn hay bé và thành phần ra sao, mỗi người được một môi cháo ngon tuyệt trần còn nóng hổi.

    Hàng ngày phát cháo vào giờ giải lao dài nhất. Song vì muốn lên lớp hay không cũng được cho nên có thể coi cả một ngày học là một cuộc giải lao dài.

    Có lần tôi tình cờ lọt vào một cuộc họp của học sinh lớp năm. Họ đang thảo luận vấn đề có nên lên lớp hay không? Một học sinh trường Pê-xtốp đầu tóc rối bù đang phát biểu. Mọi người nhao nhao lên “Hoan hô, Cô-vư-sca!” Cậu ta đang lý luận rằng bất kể trong trường hợp nào cũng không đi học. Đi học là phải tự nguyện, còn điểm thì sẽ lấy theo biểu quyết của đa số

    - Hoan hô Cô-vư-sca!

    - Đúng lắm!

    - Và tóm lại là, các bạn ạ, vấn để là ở chỗ các giáo viên. Đối với các giáo viên mà chỉ có một số rất ít đến học thôi thì làm thế nào? Tồi đề nghị ấn định mức là năm người. Nếu số học sinh lên lớp dưới năm người thì không phát khẩu phần ăn cho giáo viên ngày hôm ấy.

    - Đúng!

    - Đồ ngu!

    - Đả đảo!

    - Hoan hô!

    Lời phát biểu đó chắc hẳn không phải nói về tất cả các giáo viên, mà chỉ nhằm có một người, bởi vì lúc đó mọi người đều nhìn ngang ngửa, thì thào bàn tán và hích tay nhau: ở ngoài cửa sổ có một người dong dỏng cao, tuổi chưa già lắm, bộ ria rậm, đang khoanh tay đứng nghe diễn giả vừa phát biểu.

    - Ai thế? - Tôi hỏi cô Va-ri-a. Cô đang cầm cái môi ở tay đi lại ngoài hành lang chờ người ta đem cháo đến.

    - Lão Ria đấy chú em ạ! - cô Va-ri-a đáp.

    - Tại sao lại gọi là lão Ria?

    - Chao, chú mày không biết à?

    Chẳng bao lâu tôi đã biết ở trong Trường số Bốn này người ta gọi ai là “lão Ria”.

    Đó là giáo viên địa lý Cô-ra-bơ-li-ốp mà cả trường ai cũng ghét. Bởi vì thứ nhất người ta không rõ ông ta là người ở đâu, không phải là giáo viên của trường Li-a-đốp, không phải của trường Brơ-giô-dốp-xcai-a, cũng không phải là giáo viên của trường Pê-xtốp. Thứ hai theo ý kiến mọi người thì ông ta là một tay đại ngốc, chẳng hiểu cái gì cả... Thứ ba, ngày nào ông ta cũng lên lớp và ngồi cho đến hết giờ, mặc dù trong lớp chỉ có ba người. Rõ ràng đó là nguyên nhân có tính chất quyết định khiến mọi người phẫn nộ...

    - Thưa các bạn, bây giờ như thế này, - Cô-vư-sca nói tiếp, hắn đang nói rất hăng và đang định làm điệu bộ của một nhà hùng biện, lấy tay cài cúc áo, song trên áo bành tô của hắn chẳng có chiếc cúc nào. - Trong hội đồng nhà trường, đại biểu cho lớp Năm chỉ có một mình tôi. Như vậy là không đúng. Một mình tôi rất khó có thể đấu tranh cho quyền lợi của cả lớp Năm này được. Người ta coi chúng ta là học sinh lớp dưới. Nhưng các bạn hãy thử xem, chủ tịch Hội học sinh trường số Một trăm bốn mười bốn là ai? Là Mu-khô-ve-rốp. Cậu ấy là người của lớp nào? Lớp Năm! Tóm lại. như tình hình hiện nay thì ta yêu cầu mọi người hãy cứ thử chứng minh xem chúng ta có phải là những học sinh lớp dưới không rồi sẽ nói chuyện. Là một lớp trên, chúng ta phải có hai đại biểu. Một là tôi, ngoài ra tôi đề nghị bạn Phi-rơ-cô-vích nữa.

    - Đề nghị bạn Gla-din-si-cốp!

    - Bạn Nê-đô-đa-ép!

    - Ga-lai.

    Tôi nhìn ông Cô-ra-bơ-li-ốp. Có lẽ vì mắt tôi trợn lên to quá, cho nên bỗng dưng ông cũng nhại lại cái điệu bộ ấy của tôi, chỉ thoáng qua thôi. Tôi cảm thấy hình như ông mỉm cười sau bộ ria. Nhưng Cô-vư-sca lại nói, thế là ông Cô-ra-bơ-li-ôp vói cặp mắt tinh nghịch nhìn đi chỗ khác và đặc biệt chú ý lắng nghe.

    (1) Hồi đó Xu-kha-rép là nơi họp chợ giời ở Mát-xcơ-va. -N.D.
    :rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Chương 3

    Bà cụ người ở En-xcơ

    Tôi còn nhớ rõ ngày hôm ấy - trời hửng nắng, chốc chốc lại có một trận mưa xuân. Đó là hôm tôi gặp một bà già gày nhom ở quảng trường Cu-đrin. Bà mặc cái áo măng-tô nhung kiểu cũ màu xanh lá cây. Bà xách một cái tay nải đựng đủ thứ: khoai tây, chua me, hành, tay kia bà cầm một cái dù to tướng. Rõ ràng là cái tay nải ấy đối với bà rất nặng, song bà vẫn cố rảo bước, nét mặt đăm chiêu luôn mồm lẩm bẩm. Tôi nghe thấy bà nói nửa phun nấm - năm trăm rúp; lơ bột - một trăm rưởi; củ cải đường - một trăm rưởi; một cốc sữa - một trăm rưởi; tiền đóng lễ cầu phúc - bảy trăm sáu mươi rúp; ba quả trứng - ba trăm rúp; tiền lễ xưng tội - nám trăm rúp. Đồng tiền lúc bấy giờ là như thế.

    Cuối cùng bà cụ khẽ thở dài, rồi đặt cái tay nải xuống một phiến đá khô để nghỉ.

    - Bà ơi, bà đưa cháu mang giúp cho, - tôi nói với bà cụ.

    - Cút đi đồ ăn hại! Tao biết chúng mày rồi! Tao bị mất ba lần ba quả chanh rồi đấy!

    Bà cụ giơ tay dọa tôi rồi cầm lấy tay nải.

    Tôi bỏ đi. Nhưng vì cùng đi về một hướng cho nên chỉ vài phút sau tôi và bà cụ lại đi cạnh nhau. Hẳn là bà cụ muốn tránh xa tôi nhưng vì xách cái tay nải nặng như thế nên bà có muốn làm việc ấy cũng khó.

    - Bà ơi, nếu bà cứ nghĩ rằng cháu muốn ăn cắp của bà thì tùy bà, - tôi nói, - nhưng cháu chỉ muốn giúp bà mà không tính công xá gì đâu, cháu xin thề như vậy. Cháu thấy bà vất vả mà thương.

    Bà cụ nổi cáu lên. Một tay cụ ôm chặt cái tay nải, tay kia vung cái dù lên xua tôi như xua ong.

    - Chính vì tao tin người, cho nên chúng nó mới lấy mất của tao quả chanh thứ ba rồi đây. Tao biết bọn chúng mày rồi!

    - Cái đó thì tùy bà. Bà bị tên lưu manh nó ăn cắp đấy, còn cháu ở trại trẻ cơ mà.

    - Chính nhũng đứa ở trại trẻ là nhũng đứa ăn cắp.

    Bà cụ nhìn tôi, và tôi cũng nhìn bà cụ. Cái mũi bà cụ hơi hếch lên trông có vẻ cương nghị lắm và cả con người bà cụ cũng có vẻ hiền từ nhưng kiên quyết. Có lẽ trông tôi cũng không đến nỗi đáng ghét, cho nên bà cụ bỗng thôi không xua dù nữa mà nghiêm nghị hỏi tôi.

    - Mày là con nhà ai?

    - Chẳng phải con nhà ai cả.

    - Thế mày ở đâu đến? Mày là người Mát-xcơ-va à?

    Tôi liền hiểu ngay rằng, nếu tôi trả lời tôi là người Mát-xcơ-va thì bà sẽ đuổi tôi đi ngay. Có lẽ bà cho rằng người Mát-xcơ-va đã lấy cắp chanh của bà.

    - Không, cháu là người En-xcơ.

    Thì ra bà cụ cũng ở En-xcơ đến. Cặp mắt bà cụ bỗng sáng lên, khuôn mặt càng trở lên hiền từ hơn.

    - Mày nói dối, cái thằng lừa lọc, - bà cụ nói cáu kỉnh. - Có một đứa cũng bảo với tao rằng nó không phải là người Mát-xcơ-va. Nhưng đến lúc tao nhìn lại thì đã mất quả chanh rồi. Nếu mày đúng là người En-xcơ, vậy thì mày ở chỗ nào?

    - Cháu ở ven sông Pét-trin-ca, đằng sau quảng trường chợ.

    - Hoàn toàn nói láo.

    Bà cụ đã thấy là tôi không nói dối.

    - Cái sông Pét-trin-ca thì có ít đâu. Rất có thể ở chỗ khác cũng có một con sông như thế. Tao không nhớ ra mày.

    - Có lẽ bà ra đi từ lâu rồi, lúc đó cháu hãy còn bé tí.

    - Không, không lâu đâu, tao mới ra đi gần đây thôi. Nào, mày xách với tao một bên quai túi, còn quai kia tao cầm. Không được giật đấy.

    Chúng tôi xách cái tay nải vừa đi vừa nói chuyên. Tôi kể cho bà nghe chuyện tôi và thằng Pê-chi-a định trốn đến Tuyếc-két- xtan, nhưng sau mắc kẹt lại Mát-xcơ-va. Bà cụ nghe rất thú vị.

    - Thế đấy! Khôn khéo nhỉ! Đi bộ cơ à? Đi giỏi nhỉ! Khéo nghĩ thật!

    Đến phố Tri-um-phan-nai-a, tôi chỉ trường học của tôi cho bà cụ xem.

    - Đúng là đồng hương, - bà cụ nói khó hiểu.

    Bà cụ ở trong ngôi nhà gạch xinh xắn à phố Tve-rơ l-am số Hai. Căn nhà này tôi rất quen thuộc.

    - Thầy hiệu trưởng của cháu ở đây đấy, - tôi nói. - Có lẽ bà cũng biết, thầy Ni-cô lai An-tô-nứt.

    - Ra thế đấy! - Bà cụ trả lời. - Thế nào, thầy ấy có tốt không?

    - Thầy ra thầy!

    Tôi không hiểu tại sao bà cụ lại cười. Chúng tôi lên gác hai, và dừng lại trước một cái cửa sạch sẽ có bọc vải sơn. Trên cửa có một tấm biển con, trên tấm biển đó có viết họ tên nhà này bằng thứ chữ cầu kỳ nhưng tôi không kịp đọc hết.

    Bà cụ lẩm bẩm câu gì, rồi rút ở trong túi áo ra chiếc chìa khóa. Tôi định đi về thì bà cụ giữ lại.

    - Bà ơi, cháu mang giúp thôi, không lấy công đâu,

    - Thì mày ngồi xuống đây một tí đã, tao cũng không tính tiền đâu.

    Không biết tại sao bà cụ lại kiễng chân lên đi vào cái phòng nhỏ bên ngoài và cũng chẳng bật đèn, bà cụ cởi áo măng-tô ra. Bà cụ cởi áo măng-tô, tháo cái khăn quàng có tua, chiếc áo ấm cộc tay, rồi lại một cái khăn san nữa nhỏ hơn, rồi khăn vuông vân vân. Sau đó bà mở cái tủ ra rồi biến mất. Ngay lúc đó có một cô gái mở cửa nhà bếp và hiện ra trên ngưỡng cửa. Tôi đã sẵn sàng tin rằng bà cụ vừa biến thành cô gái này. Nhưng đúng lúc đó thì bà cụ cũng lại hiện ra. Thì ra bà cụ đứng vào trong tủ để treo khăn và cái áo cộc tay.

    - Đây là Ca-tê-ri-na I-va-nốp-na, - bà cụ nói.

    Ca-tê-ri-na I-va-nôp-na khoảng độ mười hai tuổi chứ không hơn tôi. Nhưng tôi sánh thế nào được! Tôi cũng muốn làm được như cô ta, đầu hơi ngửa ra sau một cách kiêu hãnh, đôi mắt đen sinh động nhìn thẳng vào mặt người khác. Cô tết tóc đuôi sam thành hai vòng, trước trán cũng cặp vòng lại, má đỏ hồng nhưng cô có vẻ rất nghiêm nghị, mũi cũng hếch lên bướng bỉnh như bà cô vậy. Nói tóm lại cô nom cũng xinh nhưng cũng hết sức kiêu kỳ, mới thoạt nhìn đã thấy ngay.

    - Xin chúc mừng cháu, Ca-tê-ri-na I-va-nôp-na ạ, - bà cụ vẫn tiếp tục cởi bớt áo và nói. - Chúng nó lại ăn cắp mất chanh rồi.

    - Cháu đã bảo là phải để vào trong túi áo măng-tô cơ mà, - Ca-tê-ri-na I-va-nốp-na nói vẻ trách móc.

    - Ờ, chính vì để trong túi áo măng-tô nên chúng nó mới xoáy mất.

    - Chắc bà lại vừa đi vừa tính toán chứ gì?

    - Tao chẳng tính gì cả... Mày xem, đây có cậu bạn nhỏ đi cùng với tao về đây.

    Cô gái nhìn tôi, làm như từ nãy đến giờ cô ta chưa trông thấy tôi.

    - Cậu ấy mang hộ tao cái tay nải này đấy. Mẹ cháu thế nào?

    - Cháu lấy nhiệt độ bây giờ, - cô gái nói và bình thản ngắm tôi.

    - Chà, mày thế thì giỏi thật! - bà cụ tíu tít lên. - Sao lại muộn thế? Bác sĩ dặn là phải lấy nhiệt độ lúc mười hai giờ cơ mà.

    Bà cụ vội vàng đi ra, chỉ còn lại có tôi và cô gái. Chúng tôi im lặng khoảng vài ba phút. Sau đó cô chau mày lại, nghiêm nghị hỏi tôi:

    - Cậu đã đọc “Ê-lê-na Rô-bin-sơn” chưa?

    - Chưa.

    - Thế còn “Rô-bin-sơn phiêu lưu ký”?

    - Cũng chưa.

    - Tại sao?

    Tí nữa thì tôi buột miệng nói ra rằng tôi vừa mới biết đọc được nửa năm nay, nhưng may sao tôi lại kìm lại kịp.

    - Tôi không có những cuốn sách ấy.

    - Cậu học lớp mấy?

    - Chẳng học lớp nào cả.

    - Cậu ấy đi du lịch đấy, - bà cụ đã trở lại và nói. - Ba mươi bảy độ hai. Cậu ấy đi bộ đến Tuyếc-két-xtan. Mày đừng có làm cho cậu ấy giận, Ca-chi-a ạ(1).

    - Đi bộ thế nào?

    - Vung chân vung tay lên mà đi chứ còn thế nào nữa.

    Ở phòng ngoài có cái bàn con bên dưới cái gương. Ca-chi-a kéo ghế lại cạnh bàn, ngồi xuống, chống tay lên cằm rồi nói:

    - Nào, cậu kể đi!

    Tôi không muốn kể cho cô ta nghe, cô bé ra vẻ kiêu kỳ quá. Nếu chúng tôi đã đến Tuyếc-két-xtan thật, thì đó lại là chuyện khác. Vì thế tôi lấy giọng lễ độ nói:

    - Có gì đâu, tôi không thích kể. Để khi khác.

    Bà cụ đem miếng bánh mì phết mứt hoa quả ra bắt tôi ăn, nhưng tôi từ chối:

    - Đã bảo không lấy công là không lấy mà.

    Chính tôi cũng không biết tại sao mà tôi đâm ra bực mình. Tôi còn thấy khoái chí vì Ca-chi-a đỏ mặt lên khi thấy tôi không kể chuyện mà lại bước ra cửa.

    - Thôi được, cháu đừng cáu nữa, - bà cụ tiễn tôi ra cửa nói. - Cháu tên là gì?

    - Gri-gô-ri-ép A-lếch-xan-đrơ.

    - Cháu về nhé, A-lếch-xan-đrơ Gri-gô-ri-ép. Cám ơn cháu.

    Tôi đứng lại rất lâu trên hành lang, cố đọc mãi cái tên họ trên tấm biển treo trước cửa. Ca-da-ri-nốp à, không phải là Ca-da-ri-nốp...

    - N. A. Ta-ta-ri-nốp, - bỗng nhiên tôi đọc được.

    Thật là trớ trêu! Ta-ta-ri-nốp Ni-cô-lai An-tô-nứt. Thầy giáo hiệu trưởng của chúng tôi. Đây là nhà của thầy.

    (1) Ca-tê-ri-na, Ê-ca-tê-ri-na, Ca-ten-ca, Ca-tê-ri-nôt-sca, Ca-chiu-sa, Ca-chi-a, vẫn là một. - N. D.:rose:
     
    Last edited by a moderator: 30/5/15

Chia sẻ trang này