Thể loại khác Đôi cách phân biệt trong cách dùng y và I

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi Ban Tang Du Tử, 29/8/17.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Việc dùng y hay i thường gây khó khăn lúng túng cho người viết.
    Nay gặp được mấy bài viết về chủ đề này. Có giá trị tham khảo, học hỏi, nên đăng đây để bạn nào quan tâm thì đọc biết.

    ***************

    1.

    Vấn đề phân biệt viết i (ngắn) và y (dài)
    Cùng với việc tổng kết 15 năm hoạt động NCKH sinh viên, bài viết đã đưa ra được các bài học kinh nghiệm, giải pháp cũng như các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động này trong Nhà trường.


    [​IMG]

    Hiện nay, trong chính tả tiếng Việt (chữ Quốc ngữ), người ta vẫn còn lúng túng trong việc chọn i ngắn y dài trong một số trường hợp. Cụ thể là khi âm /i/ đứng làm âm chính trong âm tiết mở (không có âm cuối vần) sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/. Và do đó vẫn tồn tại hai cách viết.



    hi vọng/ hy vọng
    kĩ thuật/ kỹ thuật lí luận/ lý luận
    mĩ thuật/ mỹ thuật công ti/ công ty
    sĩ quan/ sỹ quan
    Thực ra muốn bàn vấn đề này một cách thấu đáo, phải đề cập một phạm vi rộng hơn, đó là vấn đề chính tả của chữ Quốc ngữ nói chung. Nhưng như thế, bài viết sẽ quá dài, do đó chúng tôi chỉ đề cập vấn đề chung một cách ngắn gọn, chủ yếu là những gì liên quan đến cách viết i ngắn/ y dài, xoay quanh nguyên tắc ghi âm hay ghi ý.

    Những người thiên về góc nhìn ngữ âm học cho rằng cả hai chữ i ngắny dài trong các trường hợp trên đều ghi âm /i/ nên bản chất không có gì khác nhau cả, vậy nên tốt nhất là nhập hai cách viết đó làm một cho nhất quán và giản tiện. Giáo trình Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt viết: “Trong chính tả hiện nay đang có những trường hợp cùng một âm vị nhưng được viết tùy tiện theo hai cách khác nhau. Đó là cách viết lung tung i/y và d/gi” (1). Và tác giả đề nghị: “Thống nhất viết nguyên âm – âm chính /i/ bằng chữ cái “i”, ví dụ: lí luận, kĩ thuật, mĩ thuật,…” (2). Không chỉ tác giả của giáo trình trên mà xu hướng chung của giới ngôn ngữ học nhiều năm qua là như vậy.

    Nhưng xã hội cũng không dễ gì chấp nhận những đề nghị nói trên, dù có những lý do hợp lý nhất định. Tuy đại đa số không có lý thuyết về ngôn ngữ học, nhưng bằng ngữ cảm bản ngữ, người ta cũng nhận thấy viết nhất loạt i ngắn như mất mát, thiếu hụt cái gì đó, cho nên cách viết y dài vẫn được duy trì ở chỗ này chỗ khác. Chẳng hạn:

    – Tại số nhà 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội có hai viện “chữ nghĩa” lớn nhất nước ta – Viện Văn học (với cơ quan ngôn luận là tạp chí Văn học) và Viện Ngôn ngữ (với tạp chí Ngôn ngữ) – thì trong khi bên Ngôn ngữ viết i ngắn, bên Văn học vẫn viết y dài.

    – Nhà xuất bản Giáo dục quy định những trường hợp trên phải nhất loạt viết i ngắn. Tuy nhiên, khi các công ty con của nhà xuất bản ra đời, ban đầu tên công ty đều viết là ti (i ngắn), nhưng rồi càng ngày người ta càng nhận thấy bất tiện, nên đã dần dần đổi sang viết ty (y dài).

    – Một số tác giả viết sách cho Nhà xuất bản Giáo dục, trong khi chấp nhận viết nhất loạt i ngắn cho sách giáo khoa, thì các sách khác vẫn đề nghị viết phân biệt i ngắn/ y dài.

    Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Trần Ngọc Thêm, lúc đầu cũng ủng hộ nhất loạt viết i ngắn, nhưng về sau chính ông đã nhận thấy, chỉ xét riêng về mặt văn hóa, đã không ổn. Góp ý cho sách giáo khoa lớp 4 mới (2005), ông chỉ ra việc nhất loạt viết i ngắn là một chủ chương cực đoan và không thích hợp, nhất là khi gặp tên riêng, vì ở đó phải tôn trọng truyền thống và tự do cá nhân. Và năm sau, NXB Giáo dục đã sửa cách viết tên riêng theo hướng này. (Viết Chương Mỹ, Lý Tự Trọng thay cho Chương Mĩ, Lí Tự Trọng)

    Đặc biệt, học giả Cao Xuân Hạo, trong một giai đoạn dài đã đơn thương độc mã chống lại chủ trương sáp nhập i ngắny dài, cũng như chủ trương cải tiến chữ Quốc ngữ nói chung. Cái mà đa số giới ngôn ngữ học cho hệ thống ghi âm 1 đối 1 (1 âm – 1 chữ và ngược lại) là ưu điểm của chữ Quốc ngữ – thì ông đánh giá ngược lại: “Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như da gia, lí (trong lí nhí). v.v.. Đáng tiếc là những chỗ như thế không lấy gì làm nhiều” (3).

    Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích thêm những bất cập của chủ trương nhất loạt viết i ngắn và sự có lý của chủ trương bảo tồn sự phân biệt i ngắn/y dài.

    Nếu vận dụng triệt để nguyên tắc ngữ âm học theo kiểu 1 – 1 giữa âm và chữ, thì ngoài i ngắn/ y dài trong âm tiết mở nói trên, sẽ còn phải xử lý “nhất quán” hàng loạt trường hợp khác. Ví dụ:

    • i/y độc lập làm âm tiết: y tế, chuẩn y, ý nghĩa, ỷ thế, yêu cầu, yếu thế yểu điệu,… i tế, chuẩn i, í nghĩa, iêu cầu,… Và i/y trong tổ hợp làm vần: uyên bác, khuyên bảo, quyên góp, thuyết minh,… uiên bác, khuiên bảo, quiên góp, thuiết minh,…
    • c/k/q (cùng ghi âm “cờ”): quốc ca, cứu quốc, con đường quanh co,… → kuốc ka, kứu kuốc, kon đường kuanh ko,…
    • d/gi (cùng ghi âm “dờ”): giáo dục gia đình → dáo dục da đình hoặc záo zục za đình
    • g/gh (cùng ghi âm “gờ”): gồ ghề, ghen ghét → gồ gề, gen gét
    • ng/ngh (cùng ghi âm “ngờ”): ngấp nghé, ngông ghênh → ngấp ngé, ngông ngênh
    Ngoài ra còn nhiều trường hợp “bất hợp lý” khác: viết u và o khi cùng ghi âm đệm /u/: quanh/ khoanh; viết u và o khi cùng ghi âm cuối /u/: báu/ báo; viết ă và a khi cùng ghi âm chính /a/ ngắn: săn/ sau (trẻ con vẫn đánh vần “á-u-au, sờ-au-sau”. v.v..

    Nếu sửa tất cả cho nhất quán, để chữ Quốc ngữ thành một “hệ thống ghi âm hoàn hảo, không chê vào đâu được”, hẳn sẽ có một thứ chữ Quốc ngữ “hiện đại” khác xa thứ chữ hiện hành. Hậu quả là khoảng vài chục năm sau nữa, con cháu sẽ không đọc nổi chữ Quốc ngữ kể từ thời chúng ta trở về trước!

    Nhưng điều quan trọng hơn, nếu triệt để vận dụng nguyên tắc ngữ âm học như trên, tuy được một vài cái tiện nhất định thì lại mất rất nhiều cái lợi khác.

    Thứ nhất, nó mất đi sự trong sáng. Ví dụ, nếu đồng nhất viết gia đình cũng như da thịt, lý sự cũng như lí nhí sẽ mất sự phân biệt nghĩa và mất cả sự đánh dấu về từ nguyên.

    Thứ hai, nó mất đi sự phong phú. Chẳng hạn trong tên riêng, người ta có quyền lựa chọn để biểu đạt một ý nghĩa nào đó. Giữa tên là với nghĩa là “bé” khác với với nghĩa là “năm Tý, năm Chuột”. Hầu hết tên riêng người ta chọn y dài (gốc Hán) để thể hiện sắc thái trang trọng: chọn Hy (hy vọng), không chọn Hi (cười hi hi), chọn Kỳ (kỳ vọng), không chọn (kì kèo), v.v..

    Ngoài ra, trong một số trường hợp, nó mất đi vẻ đẹp văn hóa. Ví dụ giữa “công ti” và “công ty”, người ta thấy viết “công ty” hay hơn. Vì sao vậy? Vì chữ “ti” được viết trong “ti trôn”, rồi “ti” còn có nghĩa là “vú” (sờ ti). Viết “công ty” sẽ trang trọng hơn “công ti” là vì thế.

    Đấy là điều giải thích vì sao cả nửa thế kỷ qua, với rất nhiều lời kêu gọi của nhiều nhà ngôn ngữ học, với hàng loạt giáo trình, sách giáo khoa chỉ ra sự “bất hợp lý” mà sự “bất hợp lý” vẫn tồn tại! Cuộc sống bao giờ cũng có sự lựa chọn khôn ngoan, chống lại những giáo điều, duy ý chí.

    Sự duy ý chí ấy bắt nguồn từ đâu? Theo tôi, đó là việc việc vận dụng máy móc lý thuyết về chữ ghi âm, coi chữ chỉ là ký hiệu của âm: “Chữ ghi âm không quan tâm đến nội dung, ý nghĩa của từ mà chỉ ghi lại chuỗi âm thanh của từ đó. Chữ viết ghi âm là đại diện của ngữ âm chứ không phải ý nghĩa. Quan hệ giữa chữ ý ở đây là một quan hệ gián tiếp mà âm là trung gian: chữ – âm – ý” (4) (Người trích nhấn mạnh).

    Nhận định trên thực ra chỉ đúng trên nguyên tắc chung của loại hình chữ ghi âm, trong tương quan với phạm trù đối lập là chữ ghi ý. Nguyên tắc có giá trị lý thuyết, giúp cho nhận thức khái quát, đi vào những sự vật hiện tượng cụ thể lại phải xem xét một cách cụ thể. Thực tế bao giờ cũng phong phú hơn lý thuyết. Thực tế trên thế giới, theo nhiều nhà ngôn ngữ học, không có một thứ chữ nào thuần túy ghi âm, cũng như không có một thứ chữ nào thuần túy ghi ý. Theo chúng tôi, đành rằng chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, nhưng đấy là trên nguyên tắc chung, phần còn lại, tính chất ghi ý của nó cũng chẳng phải là nhỏ. Ngoài những ký hiệu và chữ viết tắt như m, m2, m3, kg, kw, kb, D, ^, %, <, >, &, @, v.v, XHCN, UBNN,… hiển nhiên đấy là chữ ghi ý thì hình thức chính tả “siêu phương ngữ” hiện hành là biểu hiện sinh động của tính chất ghi ý. Hình thức chính tả hiện nay được gọi là “siêu phương ngữ” vì nó không “trung thành” hẳn với phát âm của một vùng phương ngữ nào. Miền Bắc không phân biệt các âm đầu /ch – tr/, /x – s/, /d/gi – r/ khi nói nhưng khi viết vẫn phân biệt, cho nên hình thức (quả) chanh – (đấu) tranh, xinh(đẹp) – sinh (sống),… là những hình thức ghi ý; miền Nam không phân biệt các âm cuối /n – ng/, t – c/, các thanh hỏi – ngã, âm đầu /v – d/,… cho nên (ánh) trăng – (con) trăn, bắt (tay) – bắc (cầu), rủ (bóng) – (xuống),… là những hình thức ghi ý. Vậy nên dù có sáp nhập các hình thức i ngắn/ y dài, d/ gi thì cũng chẳng thêm được bao nhiêu, thì cũng không sao đưa chữ Quốc ngữ thành chữ ghi âm hoàn toàn được. Nếu bây giờ trung thành với nguyên tắc “ngữ âm học” (nói sao viết vậy) thì tiếng Việt sẽ vỡ ra ít nhất thành hai mảng: tiếng miền Nam và tiếng miền Bắc. Nhưng người Việt Nam từ Móng Cái đến Hà Tiên chẳng mấy khó khăn khi viết chính tả, dù rằng rất nhiều chữ nói một đằng viết một nẻo, nói giống nhau mà viết khác nhau. Vì sao vậy? Thứ nhất vì chữ viết là một hệ thống, độc lập tương đối với hệ thống ngữ âm. Trong buổi đầu hình thành chữ Quốc ngữ, có thể đó là một hệ thống ký tự 1 đối 1 đối với hệ thống ngữ âm, nghĩa là khá “hợp lý”. Nhưng trong quá trình phát triển, ngữ âm và chữ viết đã biến đổi theo những con đường riêng, không hoàn toàn phụ thuộc vào nhau, cuối cùng tiến tới một hình thức như ngày nay. Thứ hai, do tính độc lập tương đối đó, chữ viết trở thành một kênh giao tiếp khác. Ngôn ngữ nói được tiếp nhận bằng thính giác, còn ngôn ngữ viết được tiếp nhận bằng thị giác. Theo Cao Xuân Hạo: “Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hoá. Mỗi từ ngữ dần dần có một diện mạo riêng. Một gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó người đọc phân biệt các từ đồng âm mặc dù không có sự giúp đỡ của các tình huống đối thoại hay của sự hiện diện của người đối thoại…” (5)

    Gestalt là một thuyết tâm lý học. Nghĩa của từ này trong tiếng Việt tuơng đương các từ “hình thể”, “hình dạng”, “phom”, “diện mạo tổng quát”. Thuyết gestalt được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Riêng về nhận thức, nó cho rằng sự tri giác của con người không phải là sự đơn lẻ, lần lượt mà có tính tổng hợp, toàn bộ, tức thời (cho nên có người dịch là thuyết “hoàn hình”). Ví như ta nhận ra một người quen không phải lần lượt bằng từng nét riêng rẽ (mắt, mũi, dáng điệu,… ) rồi cộng lại, mà nhận ra toàn bộ diện mạo một cách đồng thời. Trong việc đọc cũng vậy, không phải bằng “đánh vần” từng âm, ghép các âm lại rồi mới luận ra nghĩa, mà cái nghĩa đến ngay khi tri giác toàn bộ “mặt chữ”, cũng không cần “vang lên” bất kỳ một âm thanh nào. Nói cách khác, từ chữ, cái ý (nghĩa) đến thẳng, không cần qua “cầu” trung gian là âm.

    Tóm lại việc duy trì hai hình thức i ngắn/ y dài có lý do sâu xa trên nhiều phương diện. Còn về việc khó khăn khi viết thì hoàn toàn có thể khắc phục được. Thực ra thì hầu hết đã có quy tắc (6), chỉ còn lại trường hợp khi chúng làm âm tiết mở sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/ sẽ nói dưới đây.

    Trường hợp đứng sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/, về cơ bản, cũng đã hình thành một thói quen: viết i ngắn khi là từ thuần Việt; viết y dài khi là từ Hán Việt. Bây giờ chỉ cần chuẩn hóa thói quen đó. Bảng dưới đây liệt kê một số trường hợp trong đối sánh các từ đồng âm (trường hợp không có từ đồng âm, dùng ký hiệu X; các yếu tố Hán Việt đồng nghĩa chỉ nêu 1, 2 trường hợp, ví dụ: ly – “lìa ra”: ly hôn).

    Phụ âm Từ thuần Việt Từ Hán Việt
    h (cười) hi hi
    (mắt) ti hí, hí hoáy
    hỉ mũi, hủ hỉ, hỉ hả hy vọng
    du hý, hý trường, hý viện
    hiếu hỷ, hỷ xả, song hỷ
    k kì cọ, kì kèo
    kí cóp, kí (kilôgam)
    X
    X
    kĩ tính, kĩ càng kỳ vọng, kỳ thi, ly kỳ, quốc kỳ
    du ký, chữ ký, ký âm, ký giả; ký sinh
    đố kỵ, kỵ binh, ngày kỵ (giỗ)
    kỷ luật, kỷ yếu, kỷ niệm, thế kỷ
    kỹ nữ, kỹ thuật, tạp kỹ
    l li (milimét), li (cốc), (giấy) ô li, li (quần), li bì, li ti
    lì lợm, nhẵn lì, lì xì
    (điệu) lí, (nói) lí nhí
    (đã bảo mà) lị (quẻ) ly, ly hôn
    X
    lý thuyết, hương lý, hải lý
    tỉnh lỵ, kiết lỵ
    m (bọn) mi, mi ca, nốt mi
    mì (sắn), bột mì, mì chính
    mụ mị
    X tu my
    nhu mỳ
    mỵ dân
    mỹ thuật, mỹ tửu, mỹ mãn
    s cây si, nốt si
    đen sì, sì sụp
    mua sỉ
    X ngu sy, sy tình
    X
    sỷ nhục
    sỹ tử, sỹ phu, sỹ diện
    t đinh ti, ti trôn, (bé) ti ti, ti toe
    tì (tay), tì vết, (uống) tì tì
    tí hon, tí tách, tí toáy
    tỉ tê, tỉ mỉ, (khóc) tỉ ti
    tị nạnh ty (sở), tự ty, công ty
    tỳ (lá lách), tỳ bà, tỳ thiếp, tỳ tướng
    (năm) tý
    tỷ lệ, tỷ dụ, tỷ thí
    tỵ nạn, (năm) tỵ
    Sẽ có người băn khoăn: làm thế nào để nhận biết từ Hán Việt, từ thuần Việt? Thực ra bằng ngữ cảm bản ngữ, nói chung mỗi người đều có thể nhận ra, cũng giống như biết rằng khi nào dùng từ phu nhân, khi nào dùng từ vợ, khi nào dùng phụ nữ, khi nào dùng đàn bà. Về cách phân biệt Hán Việt/thuần Việt, chúng tôi sẽ đề cập vào một dịp khác, ở đây chỉ nêu một quy tắc thông dụng nhất: Yếu tố thuần Việt có thể dùng độc lập, còn đa số yếu tố Hán Việt thì không. Ví dụ nói hai nước chứ không nói hai quốc.

    Nhưng vấn đề nhận biết Hán Việt/ thuần Việt cũng không quan trọng lắm. Nếu đã chuẩn hóa và các sách báo làm gương thực hiện thì cách viết i hay y dần dần sẽ trở thành những gestalt trong đầu óc mỗi người, và việc viết đúng đã được tự động hoá, cũng giống như xưa nay mọi người vẫn viết đúng y tế/ (lớp) i tờ, ỷ thế/ ỉ eo, ý nghĩa/ í ới mà không cần phải suy nghĩ gì.

    Đối với các thuật ngữ gốc nước ngoài và tên riêng nước ngoài thì nên để chữ này như trong nguyên ngữ. Ví dụ: hydrogenium -> hy-đrô; histamine -> hi-xta-min; Myamar -> My-an-ma; Midway -> Mít-guây.

    Đối với một dân tộc, trong vài ba thế kỷ, mỗi từ ngữ sẽ dần dần có một diện mạo riêng, một gestalt, thì với một con người, nhiều nhất cũng chỉ dăm bảy năm (cứ cho là học hết lớp 9), cũng đủ hình thành cái gestalt thị giác cho mỗi chữ – nghĩa, và việc viết đúng chính tả i/y là không mấy khó khăn.

    Cần sớm chuẩn hóa vấn đề này. Vì nếu i ngắn được “nhất loạt hóa” như một số cơ quan báo chí, xuất bản hiện nay sẽ tạo điều kiện lối viết tùy tiện, bất chấp nghĩa. Lâu ngày cái gestalt ấy được định hình, muốn quay trở lại để phân biệt (nghĩa) cũng không được nữa.

    _____________

    (1) Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, 2003, tr.123.

    (2) Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Sđd, tr.123.

    (3) Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt – văn Việt – người Việt. Nxb Trẻ, 2003, tr.113.

    (4) Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Sđd, tr.120.

    (5) Cao Xuân Hạo. Sđd, tr.110.

    Bài viết này được tác giả trình bày tại Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Trường ĐHKHXH&NV, ngày 18/4/2010 và đăng trên tạp chí Thế giới trong ta số chuyên đề 3 + 4 (2010).

    Link: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    2.

    Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh: Phân biệt i và y trong chính tả tiếng Việt
    Chủ Nhật, 14/9/2014 01:23




    Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

    Bởi vì chưa ai đặt vấn đề tìm câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao trong vần tiếng Việt lại có cả i và y?”. Điều làm người ta bất ngờ là vấn đề chính tả của chữ quốc ngữ Latin này lại có nguồn gốc từ cách đọc chữ Hán tức có liên quan với âm vận học Hán ngữ. Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh (ảnh) với công trình “I và y trong chính tả tiếng Việt” (NXB Văn hóa - Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2014) đã làm rõ điều đó.



    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    * PV: Xin anh cho biết tổng quát về cuốn sách?

    * Nhà nghiên cứu CAO TỰ THANH: Cách đây gần 30 năm, tôi nhận ra ngoài vài trường hợp viết sai trong chính tả tiếng Việt, những từ thuần Việt đều được viết với i như trái bí con khỉ, củ mì, gà ri, ngựa hí, hỉ mũi… chỉ những từ Việt Hán mới được viết với cả i và y, nên đã nghĩ tới việc tìm nguyên nhân trong mảng từ Việt Hán. Đến nay có điều kiện khảo sát toàn bộ những chữ Hán có phần vần là i/y thì quả nhiên đúng thế. Âm vận học Hán ngữ chia các chữ Hán có phần vần là i/y làm hai loại theo đẳng hô tức bộ vị và đặc điểm phát âm là Tam đẳng Khai khẩu và Tam đẳng Hợp khẩu, trong đó khi chuyển qua ghi bằng chữ quốc ngữ Latin thì những từ có phụ âm đầu là zéro như y (áo), y (chữa bệnh), ý (ý nghĩ), ỷ (dựa cậy) thường viết với y đều thuộc Tam đẳng Khai khẩu. Tóm lại theo logic thì những từ Tam đẳng Khai khẩu ở đây phải được viết với y, những từ Tam đẳng Hợp khẩu phải được viết với i, dĩ nhiên nếu có nguyên âm tròn môi đi trước như huy, truy, thủy thì bất kể là Khai khẩu hay Hợp khẩu cũng phải viết với y. Nhưng từ thế kỷ XVII trở đi thì dòng chính tả ngoại nhập vốn không chấp nhận lối viết kỹ, lý, mỹ giống hệt quy định chính tả hiện nay, còn ở dòng chính tả Việt hóa điều đó lại không được thể hiện nhất quán và liên tục, đây là do lịch sử của chữ quốc ngữ ở Việt Nam dẫn tới. Tuy nhiên, trong lời nói đầu quyển sách, tôi có nói là chỉ nhằm làm sáng tỏ việc tại sao trong vần tiếng Việt lại có cả i và y và tôi nghĩ đã làm sáng tỏ được rồi.

    * Nghĩa là nhiều năm qua chính tả tiếng Việt không có nguyên tắc trong việc chuẩn hóa cách viết i/y? * Chữ quốc ngữ là loại chữ ghi âm, nhưng âm đọc và cách đọc là hai chuyện khác nhau. Người Việt ai cũng hiểu/viết từ ăn như nhau, nhưng người miền Bắc thường nói/đọc là ăn, người miền Trung thường nói/đọc là eng, người miền Nam thường nói/đọc là ăng. Cách đọc mới là quy chuẩn, chứ âm đọc không thể coi là quy chuẩn. Hiện nay nhiều người viết khúc chiết là khúc triết, bánh chưng là bánh trưng chính vì đồng nhất âm đọc với cách đọc đấy. Chữ quốc ngữ được sáng tạo ra từ thế kỷ XVII và chỉ phổ biến trong cộng đồng Thiên Chúa giáo, lúc người Việt Nam đang dùng chữ viết Hán Nôm, khi đó Dòng Sai có viết khác Dòng Tên cũng không hề gì. Nhu cầu chuẩn hóa chính tả ở đây chỉ được đặt ra sau khi người Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam, chữ quốc ngữ từng bước được dùng làm chữ viết chính thức từ Nam tới Bắc. Nhưng lực lượng nòng cốt trong việc phổ biến và chuẩn hóa chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không bao giờ là những nhà nho học hành có bài bản, các trí thức tân học thế kỷ XX thì căn bản không biết về âm vận học Hán ngữ để hiểu được sự khác biệt về âm trị giữa i và y trong mảng từ Việt Hán, cho dù biên soạn từ điển cũng chỉ ghi nhận âm đọc chứ không ghi nhận cách đọc, chuyện sai đúng do đó phần nhiều là ngẫu nhiên. Sự khác biệt giữa i và y trong mảng từ Việt Hán là khác biệt về âm trị, do cách đọc. Trong thực tế ai cũng nhận ra sự khác biệt ấy trong các trường hợp loại mai - may, thủi – thủy vì y trong may, thủy được phát âm dài hơn i trong mai, thủi. Nhưng theo tập quán phát âm của người Việt thì lý lẽ không khác gì lí lẽ, sự khác biệt nói trên bị xóa nhòa, khó nhận ra hơn.

    * Như vậy, anh không tán thành quy định lối viết i/y hiện nay?* Tôi nghĩ chắc đến nay những người đề xuất các quy định ấy vẫn chưa biết tại sao vần tiếng Việt lại có cả i lẫn y, nên các quy định ấy cho dù có giá trị pháp lý cũng không thể có cơ sở khoa học và giá trị thực tiễn. Không biết nguyên nhân, không rõ quá trình mà cứ can thiệp thì dễ cảm tính hay tùy tiện lắm. Họ quy định những từ có phần vần là i/y không có phụ âm đầu phải viết là y, trẻ con viết đúng những từ Việt Hán như y tế, ý thức thì lại viết sai những từ thuần Việt như béo ị, ầm ì thành béo ỵ, ầm ỳ. Đối với ngôn ngữ đâu có thể cào bằng bừa bãi như thế được.

    * Vậy trở đi anh có định viết i/y theo đúng với đẳng hô của âm vận học Hán ngữ không?* Khi số đông thừa nhận cái sai thì cái vốn đúng sẽ bị coi là sai, nên tôi không thể viết trý thức, by ai cho đúng âm vận học Hán ngữ để trở thành dị dạng về chính tả trước mắt số đông. Nhưng trong giới hạn chấp nhận được như my mục, kẻ sỹ thì tôi sẽ theo nguyên tắc ấy, vì nó nhắc nhở tôi về lòng tự trọng nghề nghiệp.

    TƯỜNG VY (thực hiện)


    Link: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link'

    3.

    BÀN TIẾP VỀ CHUYỆN I NGẮN Y DÀI


    ThS. Đào Tiến Thi
    (NXB Giáo dục Việt Nam)
    Trong một số bài viết trước đâyVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, chúng tôi đã đưa ý kiến về 2 hình thức chính tả ghi âm /i/ khi âm này đi sau 6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/ trong vần mở (không có âm cuối); ở đây hiện có hai quan điểm: tất cả đều viết i và quan điểm phân biệt i/y (từ đây quy ước cách gọi: nhất thể i phân biệt i/y). Chúng tôi không nhất trí quan điểm nhất thể i vì:
     Nhất thể i dẫn đến lợi bất cập hại. Vì mất đi sự phân biệt nghĩa các yếu tố đồng âm: cọ/ kỳ vọng, ti trôn/ công ty,… và mất sắc thái văn hoá: viết khác viết trong tên riêng,...
    ‚ Về chính tả, viết phân biệt i/y không phải là khó khăn không thể vượt qua, vì ngoài thói quen, có thể phân biệt bằng bằng tiêu chí từ thuần ViệtHán Việt.

    Trong bài này, chúng tôi xin nhấn mạnh và bàn tiếp một số điểm cho thấu đáo hơn.
    1. Việc nhất thể i và sự lộn xộn i/y bắt đầu từ bao giờ?
    1.1.
    Xem lại các sách báo, chúng tôi thấy rải rác từ lâu, đã có hiện tượng viết lẫn lộn i/y nhưng rất ít. Nhìn chung, sách báo trước năm 1980 – tức là trước khi có quy định của Bộ Giáo dục nhất loạt i thì việc viết phân biệt i/y khá phân minh. Việc nhất thể i cũng như hiện tượng viết lộn xộn i/y bắt đầu từ khi có Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục ban hành ngày 30-11-1980 (gọi tắt là Quy định 1980), do Thứ trưởng Bộ Giáo dục Võ Thuần Nho và Phó Chủ nhiệm UBKHXH Phạm Huy Thông ký. Văn bản này (không ghi số) quy định như sau:
    “Riêng trường hợp các âm tiết có nguyên âm i ở cuối thì viết thống nhất bằng i, trừ uy, như duy, tuy, quy,...; thí dụ: kì dị, lí trí, mĩ vị.
    Chú ý: i hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, thí dụ: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, im, yêu”.
    .
    Ngày 5-3-1984, Bộ Giáo dục lại có Quyết định số 240/QĐ Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt (Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình ký, gọi tắt là Quy định 1984). Quy định này không đề cập cụ thể trường hợp i/y mà viết chung như sau:
    “Về những từ tiếng Việt mà chuẩn chính tả hiện nay chưa rõ, có thể nhận thấy những trường hợp chủ yếu sau đây, và đối với mỗi trường hợp, nên dùng tiêu chí thích hợp. Cụ thể là:
    a) Dùng tiêu chí thói quen phát âm của đa số người trong xã hội, mặc dù thói quen này khác với từ nguyên (gốc Việt hay gốc Hán). Thí dụ:

    chỏng gọng (tuy là chổng gọng theo từ nguyên); đại bàng (tuy là đại bằng theo từ nguyên)
    b) Dùng tiêu chí từ nguyên khi thói quen phát âm chưa làm rõ một hình thức ngữ âm ổn định. Thí dụ: trí mạng (tuy cũng có gặp hình thức phát âm chí mạng)
    c) Khi trong thực tế đang tồn tại hai hình thức chính tả mà chưa xác định được một chuẩn duy nhất, thì có thể tạm thời chấp nhận cả hai hình thức ấy, cho đến khi nào thói quen sử dụng nghiêng hẳn về một hình thức. Thí dụ: eo sèoeo xèo; sứ mạngsứ mệnh.

    Quyết định số 240/QĐ còn ghi rõ: “Những quy định trước đây trái với quyết định này đều bãi bỏ”. Có nghĩa là kể từ 5-3-1984, Quy định 1980, trong đó có việc nhất thể i, đã không còn giá trị. Không hiểu sao sau đó Quy định 1980 vẫn được in lại nhiều lần trong các giáo trình tiếng Việt (?).
    Quy định 1984 ra đời trên cơ sở Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả (GS. Phạm Huy Thông làm chủ tịch) và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ (GS. Nguyễn Cảnh Toàn làm chủ tịch). Hai hội đồng này thành lập từ 25-12-1982, qua xem xét nhiều góp ý và qua nhiều phiên thảo luận, cuối cùng đã ra Quyết nghị ngày 1-7-1983. Trong Hội đồng chuẩn hoá chính tả có GS. Hoàng Phê, về sau chủ biên Từ điển tiếng Việt, in lần đầu năm 1988, được tái bản nhiều lần. Trong tham luận, Hoàng Phê đề nghị nhất thể i trong 6 âm tiết mở (viết hi, ki, li, mi, si, ti) Nhưng như ta thấy, điều này không có trong Quy định 1984 cũng như trong Quyết nghị, chứng tỏ đó chỉ là ý kiến cá nhân. Và khi làm Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê vẫn chấp nhận cả cách viết hy, ky, ly, my, sy, ty, chỉ có điều ông chọn hình tức i ngắn để giải nghĩa, còn hình thức y dài thì chuyển chú. Chỗ này làm nhiều người lầm tưởng hình thức i ngắn là chuẩn duy nhất.
    1.2. Như vậy, có thể thấy sự tồn tại hai cách viết hiện nay là do:
     Việc nhất thể i trong Quy định 1980 được thực thi ở sách giáo khoa cải cách giáo dục, bắt đầu từ 1980 (lớp 1), hoàn tất 1992 (lớp 12). Trong khoảng thời gian đang thay sách thì có văn bản mới thay thế. Tuy nhiên NXB Giáo dục vẫn tiếp tục cách viết nhất thể i. Phải chăng để khỏi “tiền hậu bất nhất”, những người làm sách đã vận dụng phần “để ngỏ” trong Quy định 1984? Hoặc họ là những người ủng hộ quan điểm nhất thể i. Vì như ta thấy, trong đợt thay SGK mới đây (2002 – 2008), NXB Giáo dục và NXB Đại học Sư phạm (Hà Nội) vẫn tiếp tục nhất thể i. Cả một lớp người đông đảo đã được nhất thể i thông qua ghế nhà trường suốt 30 năm qua!
    ‚ Mặt khác, các cơ quan xuất bản và báo chí không thuộc Bộ Giáo dục không chịu sự tác động pháp lý của các văn bản trên vẫn tự lựa chọn chính tả theo quan niệm của mình, cho nên hầu hết họ vẫn duy trì việc phân biệt i/y như trước năm 1980. Tìm hiểu sách của 49/59 nhà xuất bản hiện nay chúng tôi thấy 46 nhà xuất bản vẫn phân biệt i/y. Khảo sát hơn 100 tờ báo và tạp chí (viết), cũng chỉ thấy mấy tạp chí chuyên ngành ngôn ngữ là nhất thể i, gồm Ngôn ngữ (Viện Ngôn ngữ học), Ngôn ngữ và đời sống (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam), Từ điển học và bách khoa thư (Viện Từ điển và Bách khoa thư Việt Nam), còn lại đều viết phân biệt i/y, kể cả một số báo và tạp chí của ngành giáo dục như Giáo dục và thời đại, Thế giới mới, Thế giới trong ta. Một số tác giả có sách ở NXB Giáo dục đã đề nghị phân biệt i/y trong một số sách nghiên cứu. Các tên riêng trong sách của NXB Giáo dục, trước áp lực của xã hội, cũng dần đổi từ i ngắn sang y dài.
    2. Những hệ luỵ của việc nhất thể i ngắn
    Những tác giả muốn nhất thể i để tránh “bất hợp lý” nhưng thực ra lại lâm vào những hệ luỵ khác.
    2.1. Việc nhất thể i chỉ giải quyết được mỗi một lý do về ngữ âm học: 1 âm chỉ ghi bằng 1 chữ. Nhưng chữ viết, dù là chữ ghi âm, đâu chỉ có mỗi việc là ghi lại phát âm. Ngoài ghi âm, trong nhiều trường hợp, nó còn ghi lại ý nghĩa hoặc thoả mãn một khía cạnh văn hoá, lịch sử. Lấy thí dụ đơn giản, những cách viết Bắc Kạn, Kon Tum (tên đất), Ba Cul, Hai Buôl (tên người) là “sai” chính tả, nhưng nó có lý do tồn tại (không đơn giản rằng đó chỉ là “chiều” theo sở thích của cá nhân). Ngay hình thức chính tả i/y cũng không thể nhất thể i trường hợp /i/ một mình làm âm tiết: (khóc) i ỉ/ y tế, ầm ì/ sức ỳ, ỉ eo/ ỷ lại, í ới/ ý nghĩa,…
    2.2. Sự không “ăn khớp” giữa âm và chữ của chữ QN là không nhỏVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Theo lý thuyết thì điều này gây khó khăn cho chính tả, nhưng thực tế cũng không khó khăn lắm, do khi viết có hiện tượng “nhớ mặt chữ” chứ không phụ thuộc tất cả vào phát âm. Cái sự “bất hợp lý” i/y là quá nhỏ so với hàng loạt trường hợp “bất hợp lý” khác.
    Giả sử tại thời điểm này, nếu sáng tạo ra một thứ chữ quốc ngữ mới, thì hoặc là dựa hẳn vào ngữ âm của một vùng (chọn làm chuẩn) và những vùng khác phải chấp nhận vênh lệch, hoặc là chấp nhận một chính tả “siêu phương ngữ” với những vênh lệch khác nhau của tất cả các vùng (như tình trạng hiện nay). Và như vậy, dù một thứ chữ mới tinh cũng vẫn “bất hợp lý” như thường.
    2.3. Có lập luận cho rằng chữ viết bị cố định trong khi ngữ âm luôn biến đổi, đến một lúc nào đó sẽ tạo ra “bất hợp lý”, do đó việc cải tiến chữ viết là cần thiết. Nhưng thử xem, chỉ cần cải tiến vài lần như vậy, đến một lúc nào đó, con cháu sẽ không đọc được chữ của ông cha nữa! Kinh nghiệm của người Anh, người Pháp cho thấy không cần và không nên sửa đổi chữ viết. Thực ra, họ đã từng có xu hướng muốn cải cách chữ viếtVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Nhưng họ đã mau chóng nhận ra sai lầm và đến nay “hoạ chăng chỉ những người không được bình thường may ra mới còn nghĩ đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp, mặc dù so với chữ QN, hai chính tả này còn xa cách phát âm gấp bộiVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Chúng tôi nghĩ bất cứ ai chỉ cần nghe giảng 30 phút cũng thấy ngay tất cả mọi “bất hợp lý” của chữ QN, chứ không chỉ i/y. Nhưng chữ QN với hình thức chính tả như hiện nay đã ổn định khoảng gần một trăm năm mà không gặp khó khăn gì đáng kể. Tóm lại, sự nhất thể i không đem lại sự sang giàu gì hơn cho chữ QN.
    2.4. Sẽ vẫn có người bảo sáp nhập i/y thì ít nhất cũng đỡ rắc rối về một trường hợp chính tả. Điều này cũng không chính xác. Hiện nay vẫn tồn tại nhiều “bất hợp lý” hơn thế mà không gây khó khăn đáng kể, ví dụ:
    – Trường hợpmột âm ghi bằng 2, 3 cách như g/gh, ng/ngh, c/k/q. Cả 3 trường hợp này tuy đều có quy tắc (đứng trước i, e, ê thì viết gh, ngh, k), nhưng thực tế đại đa số người viết không biết đến quy tắc mà vẫn viết đúng.
    –Loại chính tả d/gi không có cả quy tắc ngữ âmnhưng cũng không khó khăn lắm. Ngoại trừ vài trường hợp ít dùng, đại đa số người Việt viết đúng một cách rất tự nhiên do phân biệt nghĩa nhớ mặt chữ.Trường hợpi/y rất giống d/gi nhưng còn dễ hơn vì chúng có số lượng ít hơn và gần như hoàn toàn thuộc về hai lớp từ đối lập (Hán Việt và thuần Việt), có thể khái quát thành quy tắc (xem phần 3).
    2.5. Một vài nhà xuất bản chủ trương nhất thể i nhưng lại “chiếu cố” tên riêng cho phép viết y dài, sinh ra tiền hậu bất nhất trong một số trường hợp. Ví dụ, viết mĩ lệ, mĩ thuật, thẩm mĩ, còn tên riêng thì viết Mỹ Lệ, (Trương) Mỹ Hoa, Chương Mỹ, Phú Mỹ, trong khi các chữ “mỹ” này đều có nghĩa là “đẹp”.
    2.6. Đối với những từ ngữ và tên riêng nước ngoài chứa y, nếu biến thành i sẽ mâu thuẫn với chủ trương phiên chuyển (phiên âm kết hợp chuyển tự) là hình thức đang được số đông đề nghị hiện nayVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Ngược lại, nếu giữ y, sẽ giữ được hình thức sát nguyên ngữ hơn: hydrogenium ® hy-đrô; Myanmar ® My-an-ma.
    Nói tóm lại, việc nhất thể i cũng giống như đề xuất nhất thể nhiều trường hợp khác (d/gi; c/k/q,…) chỉ là lý tưởng “hoàn thiện” chữ QN, sao cho hệ thống chữ cái khớp một cách “chằn chặn” với hệ thống âm vịVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, nghĩa là chỉ để thoả mãn cái lý thuyết về loại hình chữ ghi âm của chữ QN, chứ không giải quyết được gì cả. Chưa kể, nó còn phá hoại một hệ thống đã ổn định, đã hợp lý. Điều này cũng phi lý như một số người chủ trương ngược lại: đặt ra một chuẩn chính âm theo sát hệ thống chữ viết hiện hành, mà nếu thực hiện được nó sẽ phá hỏng cả tiếng ViệtVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Còn bảo để giải quyết vấn đề lỗi chính tả thì đó chỉ là việc làm vô ích. Tình trạng viết sai chính tả do những nguyên nhân khácVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, không phải do những “bất hợp lý” của chữ viết hay do chưa có chuẩn chính âm.
    3. Tiếp tục “cái lý y dài
    3.1
    Việc phân biệt i/y cho đến nay vẫn được duy trì ở nhiều khu vực, hẳn là có lý do của nó. Như trên đã nói, 46 nhà xuất bản và hầu hết báo chí vẫn viết phân biệt i/y, chỉ có 3 nhà xuất bản nhất thể i là Giáo dục, Đại học Sư phạm và Từ điển Bách khoa.
    3.2. Khảo sát sách của NXB Giáo dục xuất bản trước 1980 và của các nhà xuất bản viết phân biệt i/y hiện nay, chúng tôi thấy về cơ bản là viết đúng (chỉ trường hợp kĩ/ kỹ là có nhầm lẫn). Như vậy, không thể lấy lý do “khó viết” mà nhập i/y làm một. Trước khi có Quy định 1980, việc phân biệt i/y đã khá ổn định. Sự “nhiễu” i/y chỉ bắt đầu từ khi có Quy định 1980. Phát biểu tại Hội nghị về tình hình chính tả trong văn bản tiếng Việt ngày 28-7-2010, GSTS. Trần Trí Dõi cũng nhận xét như vậy: “Cách viết i y thống nhất thành i không có trong Quyết định 240/QĐ ngày 5-3-1984 của Bộ Giáo dục. Người ta chỉ thấy đó là cách dùng riêng trong sách giáo khoa của NXB Giáo dục sau khi “cải cách giáo dục và sách giáo khoa”. Vì thế, nó đã không được cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đồng thuận chấp nhận”.
    3.3. Trong chừng mực nhất định, chúng tôi cũng đã tìm hiểu dư luận xã hội. Các ý kiến phản hồi chúng tôi nhận được gần như không có ai coi nhất thể i là hay, nhất là trong các trường hợp ti trôn/ công ty, bé tí/ tuổi tý, kì cọ/ quốc kỳ, (cười) hi hi/ hy sinh, tức là khi cần phân biệt sắc thái khẩu ngữ với trang trọng, giữa tính gợi tả với tính trừu tượng.
    Về mặt mỹ thuật, dư luận chung đều cho rằng viết y “đẹp” hơn. Theo chúng tôi, hình thức y “đẹp mắt” hơn i vì trước hết do chính sắc thái nghĩa của từ ngữ khi viết y (từ Hán Việt) mang lại. Nhưng cũng có một phần lý do “hình thể”. Y có nét lượn, tạo sự uyển chuyển. Hơn nữa, khi đi với các chữ cái h, k, l, m, s, t (chữ thường) nó tạo ra sự hài hoà, cân đối do có cả nét đi lên và nét đi xuống (phía dưới dòng kẻ). Hãy so sánh: công ti/ công ty, hi vọng/ hy vọng, hí viện/ hý viện, quốc kì/ quốc kỳ, thư kí/ thư ký, nguyên lí/ nguyên lý, biệt li/ biệt ly, thẩm mĩ/ thẩm mỹ, hoạ sĩ/ hoạ sỹ,v.v.. Chính vì thế, trong tên riêng, gần như gần 100% người ta chọn y dài. Hầu hết các báo và tạp chí, các tên cơ quan, tổ chức, tên cửa hàng, cửa hiệu, các biển quảng cáo đều chọn y dài (tất nhiên là chỉ đối với từ Hán Việt).
    Khi tôi viết những dòng này, cả nước đang hướng về đại lễ một nghìn năm Thăng Long Hà Nội. Hàng ngàn biểu ngữ treo hai bên đường phố đều viết KỶ NIỆM, dòng chữ trang trọng nhất đặt vườn hoa Lý Thái Tổ cho khai mạc đại lễ viết:
    ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 1000 NĂM THĂNG LONG HÀ NỘI
    Trong trường hợp này không thể viết KỈ (i ngắn), dù KỈ là hình thức “chuẩn” ghi trong nhiều từ điển hiện nay.
    Đây là minh chứng cho cảm thức của số đông. Trong ngôn ngữ, cảm thức của số đông ít khi vô lý. Học giả Cao Xuân Hạo viết: “Bản thân nó (cảm thức ngôn ngữ của số đông - ĐTT) có thể không phải là một sự kiện ngôn ngữ chính danh, nhưng nó là cái phản ánh chân xác của một sự kiện khách quan của ngôn ngữ. Công việc của nhà ngữ học chính là phát hiện và trình bày ra một cách hiển ngôn những sự kiện khách quan được phản ánh trong cảm thức bất tự giác của người bản ngữ. Và xưa nay các nhà ngữ học, (...) mỗi khi thủ pháp của họ đưa tới một kết quả trái với cảm thức ấy, họ thường phải từ bỏ quan điểm ban đầu để tìm cách đi đến một kết quả phù hợp với cảm thức ấy hơn”Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Chúng tôi nghĩ chỉ riêng thực tế trên cũng đủ để các nhà ngữ học xem lại quan điểm nhất thể i.
    3.4. Tuy nhiên bây giờ đặt vấn đề viết phân biệt i/y vẫn khiến nhiều người băn khoăn. Quả thực, ở thời điểm hiện nay, viết phân biệt i/y gần như là “cái mới” (sự thực chỉ là trở lại), vì qua ba thập niên, thói quen nhất thể i đã hình thành ở không ít người. Cho nên băn khoăn nhiều nhất vẫn là tính khả thi. Thực ra chỗ này mới nghĩ thì tưởng khó nhưng xem xét kĩ thì thấy vấn đề đơn giản hơn nhiều. Hai thực tế sau đây rất đáng lưu ý:
    3.4.1. Chữ QN tuy là chữ ghi âm nhưng khác rất xa các chữ Ấn Âu. Trong các ngôn ngữ Ấn Âu, gần như phải phát âm đầy đủ từng âm vị, thì tiếng Việt phát âm thành từng âm tiết (tiếng), dù âm tiết đó gồm bao nhiêu âm vị thì cũng chỉ phát âm một lần, tiếng có nhiều âm vị cũng có độ dài như tiếng chỉ có một âm vị. Mỗi âm tiết là một khối “tròn vành rõ chữ”, không nối sang nhau (kiểu như Thank you cuả tiếng Anh). Cho nên trong khi các chữ viết Ấn Âu phải ghi từng âm vị thì chữ QN ghi lại âm tiết (tiếng).
    Điều này rất hiển nhiên nhưng khi vận dụng hệ quả của nó vào chính tả thì lại chỉ có một số ít tác giả nhận thấy. Đó là hiện tượng tiếng Việt chỉ có một số lượng âm tiết nhất định (theo một số thống kê, khoảng 6000). Trong phát biểu mới đây (28-7-2010, đd), GS. Trần Trí Dõi cũng khẳng định: “Theo nhận thức của chúng tôi, đúng như GS Hoàng Phê đã chỉ ra “chính tả tiếng Việt đơn thuần là chính tả âm tiết”. Thành thử khi chúng ta kiểm soát được số lượng âm tiết lưu hành trong thực tế tiếng Việt thì việc quy định chính tả cũng là một điều có thể làm được và hoàn toàn không khó khăn trong việc sử dụng”.Số âm tiết cần phân biệt về chính tả lại ít hơn nhiều so với tổng số âm tiết nói trên (theo một số tác giả, đối với người Bắc Bộ, cần khoảng 1950 ©m tiÕt – chiếm 29% tổng số ©m tiÕt). Thực tế lại ít hơn thế nữa. Ví dụ, khi viết ch/tr, d//gi, s/x, chỉ có một số trường hợp khó, chứ những trường hợp như quả chanh/ đấu tranh, da thịt/ gia đình,… thì hầu như chẳng mấy ai phải băn khoăn. Trường hợp i/y còn đơn giản hơn d/gi nhiều.
    Tình hình đó khiến ta yên tâm việc phải ghi nhớ: với một số lượng nhỏ những chữ “có vấn đề” về chính tả thì hoàn toàn có thể ghi nhớ được, dễ hơn nhiều so với việc phải sửa phát âm hay phải nhất thể chữ viết (i/y, d/gi,…).
    3.4.2. Mặt khác, việc ghi nhớ cũng không hoàn toàn là máy móc, nếu chúng ta biết đến hiện tượng gestalt(chúng tôi đã đề cập trong bài trước), đó là cách tri nhận tổng thể, toàn bộ của thần kinh thị giác giúp ta đọc chữ như tri giác những hình ảnh khác trong thế giới khách quan. Trẻ em bắt đầu học chữ có thể “đánh vần” (ghép từng âm vị) tương tự như cách đọc chữ Ấn Âu, nhưng khi quen rồi thì đọc thành từng tiếng - chữ,mỗi chữ đúng một tiếng, mỗi tiếng đúng một chữ. Do đặc thù này, nên mặc dù là chữ ghi âm nhưng theo chúng tôi, chữ QN ít nhiều có tính ghi ý hoặc chứa sẵn tiềm năng ghi ý. Điều này giải thích tại sao phương ngữ Nam Bộ có ngữ âm xa rời chữ viết khá lớn mà người Nam Bộ, chỉ trừ người học vấn quá thấp, ít đọc (chưa quen mặt chữ), còn thì việc viết đúng chính tả là chuyện không đến nỗi quá khó khăn.
    Có thể kiểm nghiệm tính ghi ý của chữ QN khiđọc các chữ tắt tiếng Việt, đó là đọc thẳng các chữ gốc hệt như khi viết đầy đủ: HS, GV, BS, GSTS, HTX, XHCN, TTXVN, TCN = học sinh, giáo viên, bác sỹ, giáo sư tiến sỹ, hợp tác xã, xã hội chủ nghĩa, thông tấn xã Việt Nam, trước công nguyên (chứ không đọc hát ét, giê vê, bê ét, giê ét tê ét, hát tê ích-xì, ích-xì hát xê en-nờ. tê tê ích-xì vê en-nờ). Trong khi tiếng Anh đọc từng chữ cái hoặc ráp vần: BBC /bi:bi:si:/ = British Broadcasting Corporation (Tập đoàn Truyền thanh Anh), NATO /neitou/ = North Atlantic Treaty Organization (Minh ước Bắc Đại Tây Dương).
    Hiện tượng trên cho thấy việc đọc chữ QN giống như đọc các “hình ảnh” (mỗi chữ - tiếng là một “hình ảnh”) mà số “hình ảnh” này là có hạn, cho nên “quen” đến nỗi nhìn cái là nhận ra, bỏ qua khâu “đánh vần”. Và do đó hoàn toàn có thể nhớ “mặt chữ”.
    3.5. Với đặc thù trên, ta có thể liệt kê một số lượng từ/ từ tố - chữ viết dùng i hoặc y để ghi nhớ theo quy tắc: từ thuần Việt viết i, từ Hán Việt viết y. Với đại đa số chỉ cần ghi nhớ, không cần biết đâu là thuần Việt, Hán Việt, nhưng muốn muốn xác định cũng không khó lắm, dựa vào các đặc trưng sau:


    Đặc trưng

    Thuần Việt
    Hán Việt
    Khả năng kết hợp của từ tố

    Dùng độc lập: hai con sông, ba quả núi, bốn nước,..
    Không dùng độc lập: không nói hai , ba sơn, bốn quốc,…
    Tính biểu cảm
    Có nghĩa cụ thể, hình tượng: con gái, đàn bà, con đĩ,..
    Có nghĩa khái quát, trừu tượng: thiếu nữ, phụ nữ, kỹ nữ,…
    Màu sắc phong cách
    Sắc thái thông tục, khẩu ngữ, bình dân: vợ, chồng, anh em,..
    Sắc thái chính quy, trang trọng, bác học: phu nhân, phu quân, huynh đệ,…


    Riêng đối với các từ chứa tiếng vần /i/ có phụ âm đầu /h, k, l, m, s, t/ đang bàn, ngoài đặc điểm trên, còn có hiện tượng này dễ nhận ra:
    – Các từ thuần Việt (viết i), hầu hết là từ đơn hoặc từ láy: hí hoáy, kì cạch, kì kèo, lì loà, lí nhí, sì sụp, ti hí, ti toe,…
    – Các từ Hán Việt (viết y) hầu hết là từ ghép: hy vọng, hiếu hỷ, hý khúc, kỳ dị, nguyên lý, tỷ lệ, tỵ địa, công ty,…
    Tất nhiên vẫn có một vài ngoại lệ, đó là chuyện bình thường trong ngôn ngữ. Bản liệt kê dưới đây cung cấp danh sách từ và từ tố thông dụng.
    H-: hi, hì, hí, hi hi, hì hì, hí hí (mô phỏng tiếng cười/ tiếng khóc), (ngựa) hí, hì hục, hì hụi, hỉ hả, hỉ mũi, hí hoáy, hí húi, hí hửng, hí hởn; hủ hỉ, hỉ hả (biến âm của hể hả) ; hậu hĩ*; hị hị (tiếng khóc); hy sinh (hy, sinh: những con vật để tế thần ® chỉ cái chết cao cả hoặc bỏ hết quyền lợi để làm việc nghĩa); hy vọng (hy: trông mong), hy hữu (hy: ít); hiếu hỷ, hoan hỷ, song hỷ, nhị hỷ, hỷ xả,… (hỷ: vui); du hý, hý kịch, hý khúc, hý trường, hý viện (: vui đùa), (cây) hy thiêm, (khí) hy-đrô.
    K-:ki bo, ki cóp, ki-lô-gam, ki-ốt, kì cạch, kì cọ, kì kèo, kì cùng, kì đà, kì giông, kí (ki-lô-gam), kí ninh (quinin); kĩ càng, cũ kĩ, cụ kị ; quốc kỳ, kỳ đài, cầm kỳ thi tửu (kỳ: cờ), học kỳ, kỳ thi, kỳ nghỉ, trường kỳ (kỳ: khoảng thời gian nhất định để làm một việc hay xảy ra một sự việc); kỳ ảo, kỳ lạ, ly kỳ, kỳ diệu, kỳ binh, kỳ dị, kỳ ngộ, kỳ quan, kỳ quái, kỳ tài, kỳ vĩ (kỳ: lạ), kỳ cựu, kỳ hào, kỳ mục (kỳ: già cả), kỳ lân (con vật tưởng tượng), kỳ thị (kỳ: không đều), kỳ vọng (kỳ: trông mong); kỷ cương, kỷ luật (kỷ: phéptắc), kỷ yếu, kỷ lục, kỷ niệm (kỷ: ghi chép), thế kỷ (kỷ: khoảng thời gian); ca kỹ, kỹ nữ (kỹ: múa/ mãi dâm; phụ nữ làm nghề hát xướng thường bị lợi dụng hành nghề mại dâm); kỹ năng, kỹ sư, kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ xảo (kỹ: khéo); ký âm, ký chú, du ký, chữ ký, ký giả, ký hiệu, ký hoạ, ký kết, ký sự, thư ký, ký ức (: ghi chép), ký gửi, ký sinh, ký thác, ký túc xá (: gửi); kỵ khí, đố kỵ (kỵ: ghét); kỵ binh, kỵ mã, kỵ sỹ (kỵ: ngựa); kỵ nhật (kỵ: cấm – ngày giỗ tức ngày chết của cha mẹ coi là ngày cấm).
    L-: (cái) li, li-e, chi li*, cu li, mi li (nói tắt của milimet/ miligam), (ngủ) li bì, (nhỏ) li ti, li-ti (tên một nguyên tố), lâm li*, va li, lì, phẳng lì, nhẵn lì, lì loà, lì lợm, lì xì, (nói) lí nhí, lũ lĩ, (mà, chứ) lị, kiết lị; ly (một quẻ trong bát quái), cách ly, ly cách, biệt ly, ly biệt, ly gián, ly hận, ly hôn, ly khai, ly tán, ly tâm (ly: lìa ra); địa lý, vật lý, nguyên lý, lý thuyết, lý do, lý giải, lý luận, lý sự, lý thú, lý tính, lý trí, lý tưởng (: lẽ, nguyên do), hương lý, hào lý, lý trưởng (: làng), hải lý, đường thiên lý (: dặm), lý lịch (: thực tiễn, làm việc); tỉnh lỵ, quận lỵ, lỵ sở (lỵ: sở, nơi chốn).
    M- (nốt) mi, (nhà) mi, mi-ca, mi-crô, mi mắt, cù mì, lúa mì, khoai mì, mì sợi, mì chính*, mí (lại), rễ mí,tỉ mỉ, mụ mị* ; tu my, nga my (my: lông mày), nhu mỳ (mỳ: biến âm của mỵ - “đẹp” (?); mỹ cảm, mỹ học, mỹ lệ, mỹ mãn, mỹ miều*, mỹ nhân, mỹ nữ, mỹ phẩm, mỹ quan, mỹ thuật, mỹ tục, mỹ từ, mỹ tửu (mỹ: đẹp); mỵ dân, ma mỵ (mỵ: làm cho người ta mê), uỷ mỵ, kiều mỵ, thuỳ mỵ, mỵ nương (mỵ: đẹp đẽ).
    S-:cây si, nốt si, si-lic, đen sì, hôi sì, hàn sì, sì sụp, mua sỉ (mua buôn) ; ngu sy, sy tình, sy mê (sy: ngu, ngốc), quốc sỷ, sỷ nhục (sỷ: hổ thẹn); quốc sỹ, sỹ diện, sỹ khí, kẻ sỹ, sỹ phu, sỹ số, sỹ tử (sỹ: trí thức, học trò); sỹ quan, tướng sỹ, sỹ tốt, tử sỹ (sỹ: lính).
    T-:ti (vú), ti hí, (hoa) ti gôn, ti-tan, ti toe, đinh ti, ti trôn, (bé) ti ti, (khóc) ti tỉ, ti tiện*, (uống) tì tì, tì vết, tì tay, (liền) tù tì, tí toáy, tí tách, tí teo, tí ti, tỉ (số đếm), tỉ mỉ, tỉ tê, bạc tỉ, tĩ (hậu môn loài chim), tị nạnh ; ty (sở ngày trước), công ty (ty: quản lý), trúc ty (ty: tơ); tự ty (ty: thấp hèn); tỳ vị (tỳ: lá lách), tỳ bà (một loại đàn), nô tỳ, tỳ thiếp (tỳ: đầy tớ), tỳ tướng (tỳ: nhỏ hơn; tỳ tướng: phó tướng), tỳ vị (tỳ: lá lách); tỷ giá, tỷ lệ, tỷ lệ thức, tỷ lệ xích, tỷ số, tỷ thí, (phương pháp) tỷ dụ (tỷ: so sánh); tỷ dụ, tỷ như (tỷ: ví dụ); ngọc tỷ (quả ấn); tý (tên 1 chi trong 12 chi/ chỉ năm), tỵ nạn, tỵ địa (tỵ: lánh, bỏ); tỵ (tên 1 chi trong 12 chi/ chỉ năm)
    Ghi chú:
    w Các từ gốc Ấn Âu được viết ihay ytuỳ theo nguyên ngữ.
    w Các hình thức Hán Việt không có là: hỳ, lỳ, lỷ, lỹ, mỷ, mý, sỳ, sý, sỵ, tỹ. Các hình thức thuần Việt không có là: kỉ, lỉ, mĩ, sí, sị. Các hình thức thuần Việt ít gặp là: kí (biến âm của cấy - cốc vào đầu), kị (biến âm của trong kì cọ); lĩ (lũ lĩ), mỉ (tỉ mỉ).
    w Một số từ ngoại lệ (đánh dấu sao), gồm:
    – Những từ Hán Việt có ngữ âm như từ láy nên người Việt đã cảm thức nó như từ láy (nhiều tác giả gọi các từ này là từ láy Hán Việt), chúng tôi coi là từ thuần Việt: chi li (chi: nhánh; li: tách ra); lâm li (lâm: nước nhỏ giọt; li: nước thấm vào); ti tiện (ti: thấp hèn; tiện: hèn). Tương tự còn có hậu hĩ, mụ mị (một yếu tố còn cảm nhận được nghĩa). Riêng mỹ miều thì mỹ vẫn rõ nghĩa gốc nên xếp vào từ Hán Việt.
    – Những từ mượn tiếng Hán hiện đại, chúng khác hẳn từ Hán Việt, nên coi như từ gốc Ấn Âu: mì chính. Kí ninh tuy mượn âm Hán Việt nhưng gốc Ấn Âu (quinin), nên tạm coi là mượn Ấn Âu.
    w Trường hợp (kĩ càng) và sỹ (kẻ sỹ), nhiều sách, kể cả sách viết trước 1980 (phân biệt i/y) viết ngược lại là kỹ, đó là hai trường hợp viết không chuẩn.
    Kết hợp sự ghi nhớ và phần nào sự phân biệt thuần Việt/ Hán Việt, ta thấy việc viết phân biệt i/y hoàn toàn khả thi vì: số lượng từ thuần Việt ít, có đặc điểm cấu trúc và ngữ âm dễ nhận ra, còn từ Hán Việt chỉ do một số ít từ tố gốc tạo thành, tất cả khoảng 25 từ tố gốc (ở đây gộp cả các từ tố đồng âm khác nghĩa, miễn nó là từ tố Hán Việt, viết y).
    Thay lời kết
    Viết đến đây chúng tôi thấy cần phải nói lời xin lỗi, vì chỉ có hai chữ i/y mà nói khá dài, làm mất thì giờ của độc giả. Nhưng biết làm sao được, nếu không đặt trong hệ thống tiếng Việt – chữ Việt, sẽ không thể nào “bào chữa” cho những “bất hợp lý” của i/y, nhất là trong bối cảnh đang có sự lộn xộn, nhiều người muốn nhập i/y làm một không chỉ vì sự “hợp lý” mà chỉ vì tránh sự “rắc rối”. Với giới chuyên môn, nếu chúng tôi có làm mếch lòng các bậc trí giả thì cũng chỉ vì tình yêu tiếng Việt. Chúng tôi cảm thấy nếu nhất thể i sẽ là đánh mất một phần gia tài tiếng Việt của cha ông, cho nên chúng tôi đành nhọc lòng và chịu mất lòng nữa để bảo vệ cho cách viết phân biệt i ngắny dài.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Xem Ngôn ngữ và đời sống số 6/2005, Xuất bản Việt Nam số 4/2010 và Tham luận tại Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc tháng 4/2010.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một vài ví dụ: g/gh cùng ghi âm /g/, ng/ngh cùng ghi âm /ng/, thậm chí 3 chữ cái c/k/q cùng ghi âm /k/. Âm đệm /u/ vừa viết là u vừa viết là o (huy hoàng), /a/ă/ đều viết a: sao/sau. Nguyên âm đôi /iê/ viết iê/ia: chiến/chia, /ươ/ viết ươ/ưa (thương/thưa),v.v.. Tiếng Bắc không phân biệt /tr/ch, s/x, d/gi/r/. Từ Thanh Hoá trở vào cho hết miền Nam không phân biệt hỏi/ ngã. Từ phía nam Quảng Bình trở vào bắt đầu không biệt âm cuối /c/t, n/ng/ và từ Thừa Thiên – Huế trở vào thì hoàn toàn mất sự phân biệt trên. Riêng Nam Bộ còn không phân biệt các phụ âm đầu /v/d/, không phân biệt /g/h/k/ khi có âm đệm (huế ® guế; quang ® goang), không phân biệt âm chính /i/iê/ (tim/tiêm), đánh mất âm đệm /u/ khi đi với các nguyên âm /ê, i/, trừ khi đi với /g/h/k/ (tuệ ® tệ; thuý ® thí), /ă ®a/ (cháu ® cháo, tay ® tai). Có những tiếng không một vùng nào phát âm “đúng”. Ví dụ sẵn, Bắc Bộ đọc xẵn; Thanh Hoá – Quảng Bình: sẳn/sặn; Huế trở vào: sặng/sẳng/xẳng.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Ví dụ trong tiếng Anh, /e/ khi đứng cuối từ, ngoại trừ “the”, không được phát âm: bite /bait/, distance /'distəns/, line /lain/. Một âm ghi bằng nhiều chữ, và một chữ ghi cho nhiều âm cũng là hiện tượng phổ biến.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, NXB Trẻ, 2001.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Xem Về bản dự thảo Quy định cách viết cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lý nhà nước, Ngôn ngữ và đời sống số 6/2006.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Có người đã thử viết sau khi chữ QN được cải tiến “hợp lý” như sau: Ôi! Cuốc gia tŭiệt vời, cuê hương iêu dấu, sau những chặng đường khúc khŭỉu của lịch sử, sau những loăi hoăi trong đêm hôm khŭia khoắt tưởng chừng tŭiệt vọng, ngằi năi dân ta đã có được một thứ chữ ŭiên bác, không tầi huầi cuê mùa như trước.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Có không ít người đề nghị dùng hệ thống chính tả hiện tại để “phiên” thành hệ thống chính âm, và ta có một hệ thống chính âm “hoàn hảo” 1 đối 1 với chính tả, nhưng than ôi, đó là một thứ chính âm nhân tạo, siêu thực, và nếu đạt được sẽ là một đại hoạ cho tiếng Việt.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Lâu nay nhiều người vẫn coi luyện chính âm là điều kiện tiên quyết cho chính tả, nhưng đã vấp phải một thực tế: không một phương ngữ nào có đủ khả năng để chọn chuẩn chính âm, mà dẫu có một vùng nào đó “chuẩn” thì cũng không cưỡng ép vùng khác nói theo được. Theo Nguyễn Đức Dương, dạy chính tả bằng con đường chính âm “là biện pháp thần tình nhất để viết sai chính tả một cách chắc chắn” (Linh hồn tiếng Việt, NXB Trẻ, 2003).
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Cao Xuân Hạo, Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, NXB Khoa học Xã hội, 2006.
    (Mùa thu 2010)

    Link: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

     
  2. Khó nhằn quá, bạn nào đọc rồi tóm tắt lại ý chính cái bài dài ngoằng ngoằng này được không?
     
  3. nhanjkl

    nhanjkl Moderator Thành viên BQT

    Đúng là bài này nên có một bản tóm tắt quy luật khi nào dùng "y" hay dùng "i", còn ai muốn tìm hiểu thêm lý lẽ sao dùng chữ đó thì đọc thêm bài dài này.
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này