Nếu bác nào đã đọc qua Lord of Scoundrels thì biết tác giả này viết chuyện lôi cuốn thế nào rùi đúng không? Dạo này mình vừa nghỉ việc ở chỗ làm và với niềm yêu thích tác giả này, mình dịch tặng mọi người nhân dịp cuối năm nha. Mình sẽ cố gắng dịch hết trong tháng 12 này hi, mong các bác sẽ thích nó. A Duke in Shining Armor Loretta Chase Không phải tất cả các công tước đều như nhau. Phần lớn là những thành viên đáng kính của xã hội. Và sau đó, có bộ ba được biết đến với cái tên là "Những Kẻ Bất Hảo". Hugh Philemon Ancaster, công tước đời thứ bảy của Ripley, chắc chắn không phải là hình mẫu của đức hạnh. Nhưng ngay cả anh cũng có giới hạn, và việc bỏ trốn cùng cô dâu của bạn thân không nằm trong kế hoạch. Tất cả những gì anh cố làm là bắt lại Tiểu thư Olympia Hightower, người hơi say rượu, và đưa cô trở về với vị hôn phu mà cô đã được định sẵn. Về phần mình, Olympia, một tiểu thư mọt sách với cặp kính tròn, không hiểu nổi tại sao cô lại phải cưới một công tước hào hoa nhưng nổi tiếng là lăng nhăng. Giới thượng lưu bàng hoàng. Gia đình cô thì mừng rỡ. Còn Olympia? Cô đang trèo ra ngoài cửa sổ, quyết tâm bỏ trốn. Nhưng Ripley, người đàn ông cao lớn, tóc đen và luôn khiến cô bực mình, đang ráo riết đuổi theo, quyết tâm đưa cô trở lại với bạn của mình. Lần này, chàng công tước khét tiếng muốn làm điều đúng đắn. Nhưng tại sao Olympia lại làm cho nhiệm vụ đó trở nên khó khăn đến thế… và đầy mê hoặc đối với anh? MỤC LỤC Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link)
Mở đầu Dịch: thuylinhh London Sáng sớm ngày 11 tháng 6 năm 1833 Công tước xứ Ashmont không phải là một công tước tốt – thực ra, cậu ta là một công tước khá tệ. Vì vậy, không ai có thể ngạc nhiên khi thấy cậu ta, say xỉn như một hoàng đế – nghĩa là say gấp mười lần một quý tộc bình thường—loạng choạng bước xuống bậc thang của Câu lạc bộ Crockford, được dìu bởi một trong hai người bạn thân nhất của mình. Người bạn đó là Hugh Philemon Ancaster, công tước đời thứ bảy xứ Ripley. Trong khi Ashmont có mái tóc sáng, đôi mắt xanh, và vẻ ngoài như một thiên thần, thì Ripley lại hoàn toàn trái ngược. Anh không mang dáng vẻ mơ màng như sương mù, và phụ nữ không dõi theo từng cử động của anh với ánh mắt si mê như họ thường dành cho Công Tước có Gương Mặt Thiên Thần. Vào một ngày đẹp trời, có người từng nói rằng, khuôn mặt của Ripley giống như của một con sói đã trải qua quá nhiều trận đánh. Hơn nữa, mặc dù tước hiệu của anh, được ban trước Ashmont một chút, xếp anh cao hơn vài bậc về thứ bậc, Ripley chỉ say ở mức như một quý tộc. Anh vẫn còn phân biệt được đâu là trên, đâu là dưới. Vì vậy, khi Công tước xứ Ashmont tỏ vẻ muốn loạng choạng đi xuống phía dưới, về hướng Cung điện St. James, Ripley liền kéo cậu ta lại. “Lối này,” anh nói. “Chỗ xe ngựa Hackney ở ngay phía trước.” “Đúng rồi,” Ashmont nói. “Không thể bỏ lỡ đám cưới. Không phải lần này. Là đám cưới của tôi. Tôi và Olympia. Phải có mặt. Đã hứa rồi.” “Cậu sẽ đến đó,” Ripley nói khi dẫn bạn mình băng qua đường. Đám cưới này là tin mới đối với anh, còn sự lựa chọn cô dâu thì đúng là cú sốc: Tiểu thư Olympia Hightower, trong tất cả các cô gái. Cô ấy là người cuối cùng mà Ripley nghĩ sẽ kết hôn với Ashmont—hay với bất kỳ ai trong số họ, thật lòng là thế. Không phải vì Ripley quen biết cô gái đó quá nhiều. Hay nói đúng hơn, không hề quen biết. Họ đã từng được giới thiệu, phải, nhưng đó là nhiều năm trước. Đó là khi những người đáng kính vẫn còn giới thiệu Ripley và hai người bạn của anh với các quý cô ngây thơ. Nhưng những cô gái như vậy không phải là kiểu họ mong muốn. Những thiếu nữ được nuôi dạy kỹ lưỡng là để cưới, và hôn nhân lúc đó vẫn còn là một điều xa xôi, thuộc về một tương lai mờ mịt nào đó. Dường như, tương lai đã đến trong khi Ripley không để ý. Đầu tiên là Công tước Blackwood, người bạn còn lại trong bộ ba, đã cưới em gái của Ripley hơn một năm trước, vài ngày trước khi Ripley lên đường sang lục địa. Giờ thì đến lượt Ashmont. Ripley mới chỉ nghe tin vui này vài giờ sau khi anh trở lại London ngày hôm qua. Không, đúng ra là anh đã trở về vào ngày hôm kia, vì hôm nay đã là ngày hôm qua. Anh đến Crockford’s vì muốn một bữa ăn tử tế, và Ude của Crockford là lựa chọn tốt nhất sau đầu bếp riêng của Ripley, Chardot, người bị cảm nặng trong chuyến vượt eo biển Manche. Chardot đi cùng anh khắp nơi vì anh được trả hậu hĩnh để làm vậy, và Ripley thích sự thoải mái. Sau khi bị buộc, không vì lý do hợp lý nào, phải sống như một kẻ nghèo khó trong thời thơ ấu, giờ đây anh sống như một vị vua. Ripley đang tự hỏi liệu ở lại nước ngoài có phải là lựa chọn tốt hơn, thì bốn người đàn ông bất ngờ bước ra từ một con ngõ hẹp, một trong số đó đâm sầm vào Ashmont đủ mạnh để hất cậu ta khỏi tay Ripley và bị đẩy vào cửa hàng gần đó. Ashmont bật lại với năng lượng đáng ngạc nhiên. “Đồ vụng về, khốn kiếp, ngu ngốc! Ta phải đi cưới vợ, đồ khốn nạn!” Và cùng lúc đó, cậu ta tung một cú đấm thẳng vào mặt gã kia. Một trong những người bạn của gã cố chen vào. Ripley thở dài, túm lấy cổ áo gã đó. Gã kia vung tay, buộc Ripley phải quật gã xuống rãnh nước. Và rồi mọi thứ diễn ra như thường lệ khi có mặt Ashmont: rất nhiều lời chửi rủa tục tĩu, những trận ẩu đả bẩn thỉu, đàn ông túa ra từ các câu lạc bộ, la hét đặt cược, và đâu đó có tiếng hét của một hoặc hai phụ nữ. Rồi mọi chuyện kết thúc. Những kẻ đối đầu nằm la liệt trên vỉa hè. Ripley không buồn đếm hay nhận dạng họ. Anh đỡ Ashmont khỏi lan can nơi cậu ấy tựa vào và kéo đến góc đường. Anh ra hiệu, và chiếc xe ngựa Hackney đầu tiên trong hàng lăn bánh về phía họ. Anh ném Ashmont vào chiếc xe cũ kỹ và chỉ đạo người đánh xe đến Dinh thự Ashmont. Đám gia nhân vẫn thức chờ, như họ thường làm, để đón Ashmont. Họ đỡ cậu ấy lên cầu thang vào phòng ngủ và giúp thay đồ, rửa ráy mà không chút phàn nàn. Họ đã quá quen với những "thú vui nho nhỏ" của chủ nhân mình. Sau khi thấy Công tước yên vị trên giường, Ripley rời đi. Anh cần một bồn tắm, một giấc ngủ ngắn, và một bộ đồ để thay. Vì chỉ vài giờ nữa, anh phải đi dự đám cưới.
Chương 1 Dịch: thuylinhh Dinh thự Newland, Kensington Sáng muộn ngày 11 tháng 6 năm 1833 Nếu cô dâu có say rượu – mà thực ra không phải – thì đó cũng là vì ăn mừng. Chỉ trong một thời gian rất ngắn nữa thôi, Tiểu thư Olympia Hightower sẽ biến mọi giấc mơ của gia đình mình trở thành hiện thực. Cả của cô nữa, hầu hết là vậy. Cô sẽ trở thành Nữ Công tước xứ Ashmont. Trên bờ vực của tuổi 26, cô phải cảm ơn những vì sao may mắn của mình vì đã chinh phục được trái tim... sự ngưỡng mộ... hay gì đó... ... của một trong ba tay phóng túng khét tiếng nhất nước Anh, bộ ba công tước được gọi là Những Kẻ Bất Hảo. Đằng sau cặp kính gọng vàng là đôi mắt xám-xanh-lục không rõ ràng, mất vài giây để tập trung vào hình ảnh phản chiếu. Đó là sự lộng lẫy, là cô. Những lọn tóc uốn tỉ mỉ màu nâu thông thường bao quanh gương mặt hình trái tim của cô. Một kiểu tóc phức tạp với những bím tóc xếp lớp, trên cùng là bông ren xếp ly lớn trang trí với hoa cam, như một chiếc vương miện. Một tấm mạng che mặt bằng ren màu vàng nhạt rũ xuống đôi vai trần, phủ qua những ống tay áo ren phồng và kéo dài xuống eo. Cô cúi xuống nhìn bản thân. Bốn chiếc nơ xếp thành hàng, kết thúc ở phần eo hình chữ V. Phía dưới là lớp váy phồng bằng lụa gấm. Thật là một sự lãng phí lớn. Số tiền đó nên dành cho Clarence đi học ở Eton, hoặc cho Andrew vào quân đội, hoặc làm gì đó cho các cậu em trai. Ngoài người thừa kế chính thức – Stephen, Quý ngài Ludford – Bá tước xứ Gonerby còn phải nuôi năm người con trai khác, một vấn đề mà ông chưa từng nghĩ đến. Tâm trí ông, không giống như con gái mình, chẳng thực tế chút nào. Vậy nên mới có tình huống hiện tại. Mà thật ra, cũng chẳng phải là “tình huống" gì cả. Ai cũng nói như vậy. Là nữ công tước thì có gì phải lo chứ. Dù sao đi nữa, chiếc váy cưới xa hoa này chẳng liên quan gì đến thực tế hết. Số tiền ấy nhất định phải tiêu cho Olympia, cho một chiếc váy, bởi vì, theo dì Lavinia, đó là khoản đầu tư cho mai sau. Một nữ công tước tương lai không thể mặc một bộ đồ cũ kỹ nào đó vào ngày cưới của mình. Bộ lễ phục cô dâu phải đắt tiền và hợp thời trang, nhưng không được quá lòe loẹt, bởi vì một nữ công tước tương lai cần phải trông thật đắt giá và thời thượng, nhưng không thể lòe loẹt. Sau đám cưới thì lại là chuyện khác. Một nữ công tước có thể đeo hết tất cả số trang sức trong tủ của mình lên người mà vẫn không bị coi là quá lố. Chỉ cần chỉnh sửa chút xíu, đổi kiểu tóc, thêm kim cương hay ngọc trai, hoặc cả hai, Olympia có thể mặc lại chiếc váy này trong buổi tiếp khiến tiếp theo, khi mẹ cô, hoặc có lẽ là dì Lavinia, Nữ Hầu tước xứ Newland, giới thiệu Nữ Công tước xứ Ashmont mới với Nữ hoàng. Nhưng đó không phải là tất cả những gì sẽ diễn ra sau đám cưới. Còn có đêm tân hôn, điều mà theo lời mẹ cô, sẽ không khó chịu, mặc dù bà nói rất mơ hồ về các chi tiết. Nhưng sau đêm tân hôn là hôn nhân, kéo dài từ năm này qua năm khác. Với Ashmont. Người sắp trở thành Nữ Công tước xứ Ashmont nhấc tách trà pha rượu brandy mà Phu nhân Newland mang đến để xoa dịu thần kinh cô dâu. Tách trà không còn gì. “Đừng có nghĩ đến chuyện bỏ trốn,” dì cô đã nói khi mang tách trà chứa cồn vào. Dĩ nhiên là không. Đã quá muộn rồi, ngay cả nếu Olympia thuộc dạng con gái hay rút lui hoặc bỏ trốn, huống hồ là từ chối cơ hội của cả một đời người. Cô có sáu người em trai. Là đứa con thứ hai chẳng có giá trị gì trước một đám con trai. Phải mạnh mẽ hoặc bị áp đảo. Có người nói cô hơi quá mạnh mẽ, so với một cô gái. Nhưng điều đó sẽ không thành vấn đề khi cô trở thành một nữ công tước. Cô cúi xuống và lấy ra từ dưới bàn trang điểm chiếc bình rượu brandy mà cô lấy trộm từ Stephen. Cô mở nút, đưa lên miệng, và nhấp một chút ước chừng là một ngụm. Sau đó, đậy nắp lại, đặt nó lên bàn trang điểm, và tự nhủ rằng mình đang làm điều đúng đắn. Lựa chọn khác là gì? Làm bẽ mặt chú rể, người không làm gì cả – ít nhất là với Olympia – để đáng phải chịu điều đó? Bôi nhọ gia đình mình? Đối mặt với sự sụp đổ hoàn toàn về mặt xã hội? Và tất cả chỉ vì cái gì? Cảm giác buồn nôn ở sâu trong dạ dày, chắc chắn không phải gì khác ngoài sự lo lắng thường thấy trong ngày cưới. Chỉ có một kẻ điên mới chạy trốn khỏi cơ hội trở thành cô dâu của một trong những người đàn ông đẹp trai, giàu có và quyền lực nhất vương quốc, cô tự nhủ. Tất nhiên, Ashmont có thể quyền lực, nếu anh ta chịu quan tâm đến điều đó, nhưng anh ta thì… Dòng suy nghĩ của cô bị đứt đoạn khi có người gõ cửa. “Làm ơn,” cô nói. “Con đang cầu nguyện.” Cô đã khăng khăng xin có không gian riêng. Cô cần tự tập trung và chuẩn bị cho sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời mình, cô nói với mẹ và dì. Họ nhìn nhau, rồi rời đi. Không lâu sau, dì Lavinia quay lại với tách trà đã pha thêm rượu. “Mười phút nữa thôi, con yêu,” giọng mẹ cô vọng vào từ hành lang. Đã mười phút rồi sao? Olympia lại mở nắp bình rượu và nhấp thêm một ngụm nhỏ. Sắp hai mươi sáu rồi, cô tự nhắc mình. Cô sẽ không bao giờ nhận được lời đề nghị nào như thế này nữa, không bao giờ. Thật kỳ diệu khi cô lại có được cơ hội này. Và cô biết mình đang làm gì khi nói đồng ý. Đúng là Lucius Wilmot Beckingham, Công tước đời thứ sáu xứ Ashmont, có hơi khốn nạn, thậm chí còn trẻ con đến mức làm Clarence, đứa em chín tuổi của cô, trông giống như vua Solomon. Và đúng rồi, khỏi phải bàn cãi rằng Đức ngài chắc chắn sẽ không chung thủy. Nhưng Ashmont rất đẹp trai, và khi đã quyết tâm quyến rũ ai đó, anh ta có thể làm người ta mất hết lý trí. Rõ ràng anh ta đã dồn toàn bộ sự chú ý để chinh phục cô. Có vẻ như anh ta thích cô. Và cũng không phải cô đang chờ đợi điều gì bất ngờ. Nhân cách của anh ta đã được viết rõ ràng trong mọi tạp chí thời thượng với các phần tin đồn đầy hấp dẫn. Điều quan trọng nhất là, anh ta đã hỏi cưới cô. Và cô thì đang tuyệt vọng. “Một nữ công tước,” cô nói với hình ảnh của mình trong gương. “Mày có thể thay đổi thế giới, hoặc ít nhất là một phần của nó. Đó là điều gần nhất mà một người phụ nữ có thể đạt được để giống như một người đàn ông, trừ khi cô ấy trở thành nữ hoàng—và không chỉ là vợ của nhà vua, mà là nữ hoàng thực sự. Nhưng ngay cả khi thế… Thôi, không cần bận tâm nữa. Chuyện đó sẽ không xảy ra với mày đâu, cô gái ạ.” Từ đâu đó trong đầu, trái tim, hoặc có lẽ là trong dạ dày của Olympia, một giọng nói mỉa mai, hệt như giọng của cô em họ Edwina, vang lên: “Tình Yêu đích thực của Đời chị chẳng bao giờ đến đâu. Sẽ không có Hoàng Tử Quyến Rũ nào cưỡi bạch mã đến tìm chị. Thậm chí một quý tộc nồng nhiệt cũng không. Hay một anh nhân viên bán hàng, cho tiện thể.” Cô bóp nghẹt giọng nói ấy, giống như cách cô từng nhiều lần muốn bóp nghẹt chính Edwina. Olympia từng mơ mộng về những chàng hoàng tử và quý ông nồng nhiệt – một cô gái ngây thơ, đầu óc tràn ngập những mộng tưởng lãng mạn từ tiểu thuyết, khi cô bắt đầu Mùa vũ hội đầu tiên của mình ở London. Suốt bảy năm, cô được bình chọn là Cô Gái Buồn Tẻ Nhất của Mùa vũ hội. Và trong bảy năm đó, cô không nhận được một lời cầu hôn nào. Hoặc đúng hơn là, không có lời cầu hôn nào mà một cô gái tỉnh táo, dù tuyệt vọng đến đâu, lại có thể chấp nhận được. Ngoại trừ có một lần, khi một người đàn ông lớn tuổi ngỏ ý, nhưng gia đình cô đã ngăn không cho cô nói có. Vậy nên, khi Ashmont ngỏ lời, cô còn có thể nói gì hơn? Nói không, rồi đối mặt với tương lai trở thành một bà cô già neo đơn, phụ thuộc vào những người anh em trai vốn còn chật vật nuôi sống bản thân và gia đình họ. Hoặc cô có thể nói có, và giải quyết một loạt vấn đề cùng lúc. Mọi chuyện đơn giản là thế. Không cần phải làm cho nó phức tạp. Cô nhấp thêm một ngụm brandy. Rồi một ngụm nữa. Có tiếng gõ cửa lớn hơn, thúc giục hơn. “Đây là điều đúng đắn và mình sẽ làm điều đó,” cô thì thầm với hình ảnh mình trong gương. “Vì ai đó phải làm thôi.” Cô uống thêm một ngụm nữa. *** “Quỷ tha ma bắt, cô ấy làm gì mà lâu vậy chứ?” Ashmont càu nhàu. Khách khứa trong phòng xì xầm không ngớt. Mỗi khi có tiếng động từ bên ngoài phòng khách, tất cả đều quay đầu về phía cánh cửa mà cô dâu dự kiến sẽ bước vào. Nhưng cô dâu vẫn chưa xuất hiện. Có lẽ đã hơn nửa tiếng trôi qua so với giờ hẹn. Ripley đã đi ra ngoài để hỏi mẹ cô dâu xem Tiểu thư Olympia có bị ốm hay không. Phu nhân Gonerby trông bối rối, chỉ lắc đầu. Còn chị bà, Phu nhân Newland, thì giải thích. “Liên quan đến cái váy,” Ripley nói khi trở lại. “Dì cô ấy đã lên phòng với một cô hầu và một hộp dụng cụ may vá.” “Một hộp dụng cụ may vá ư!” “Chắc có gì đó bị bung ra,” Ripley nói. “Tôi quan tâm làm quái gì?” Ashmont nói. “Dù sao thì lát nữa tôi cũng sẽ tháo nó ra thôi.” “Cậu cũng biết phụ nữ thế nào rồi đấy,” Ripley bình thản đáp. “Olympia không phải kiểu người để tâm mấy chuyện vụn vặt đó.” “Váy cưới không phải chuyện vụn vặt,” Ripley nói. “Tôi biết là vậy. Váy của em gái tôi còn đắt hơn con ngựa non tôi mua từ chỗ Pershore.” Em gái anh không có mặt ở đây. Theo lời Blackwood, Alice đã đến Cung điện Camberley, một trong những dinh thự của Ripley, để chăm sóc người dì mà họ yêu quý nhất. “Chán chết đi được,” Ashmont rên rỉ. “Tôi ghét mấy cái nghi lễ chết tiệt này.” Lúc đó,Bá tước Gonerby rời khỏi phòng khách. Ông ấy quay lại ngay sau đó và vui vẻ thông báo, “Xin lỗi vì sự chậm trễ. Có vẻ là chuyện liên quan đến viền váy hay mấy thứ ren đăng ten gì đó. Tôi đã cho người mang sâm-panh đến rồi. Chẳng lý gì mà lại để mọi người khát khô cổ trong khi mấy cây kim đang làm việc.” Ngay sau đó, quản gia bước vào cùng hai người hầu, tất cả đều mang theo khay đầy ly sâm-panh. Ashmont uống một ly, rồi một ly nữa, và thêm một ly nữa, liên tiếp không ngừng. Ripley cũng uống, nhưng không nhiều. Một phần vì anh vẫn chưa hồi phục hoàn toàn sau đêm qua. Có lẽ anh đã già, bởi anh rất cần thêm một giờ hoặc hơn nữa để ngủ bù sau cuộc chơi kéo dài với bài bạc, rượu chè, rồi một trận ẩu đả ngoài đường, tiếp theo đó là nhiệm vụ quen thuộc, kéo Ashmont ra khỏi cuộc hỗn chiến, đưa cậu ta về nhà và lên giường. Lý do khác khiến anh hạn chế uống là vì nhiệm vụ anh đã nhận hôm nay. Tối qua, tại Câu lạc bộ Crockford, Ashmont yêu cầu anh—hay đúng hơn là khăng khăng—rằng một trong hai người bạn của mình phải giám sát mọi việc trong buổi lễ này. “Một trong hai cậu phải đảm bảo tôi có mặt đúng giờ, mang theo nhẫn,” Ashmont nói. “Với cả giấy đăng ký cùng mấy thứ khác. Ai cũng nghĩ tôi sẽ làm hỏng chuyện này. Nhưng không đâu.” “Tôi đã làm vậy với đám cưới của mình rồi,” Blackwood nói. “Lần này, tôi chỉ muốn đứng ngoài và tận hưởng thôi, không phải có trách nhiệm gì.” Sau khi đẩy công việc đó cho Ripley, Blackwood nở nụ cười và tiễn họ đi, khuyên cả hai nên về nhà ngủ lấy sức. Nếu Blackwood biết thêm chi tiết về mong muốn cấp bách của Ashmont để đeo gông vào cổ, cậu ấy cũng không nói ra. Nhưng dường như cũng chẳng có thời gian để nói nhiều. Tối qua, Ashmont đã nói hết mọi chuyện, và câu chuyện của cậu ta thực sự khiến Ripley không khỏi ngạc nhiên. Trước hết, Ashmont giành được vị hôn thê của mình một cách đàng hoàng, theo cách truyền thống, tán tỉnh và cầu hôn. Nói cách khác, cô dâu không mang thai. Thứ hai, điều này cũng không kém phần bất ngờ, Ashmont đã thuyết phục được một cô gái xinh đẹp, đủ tư cách và hoàn toàn tỉnh táo chấp nhận lời cầu hôn của mình. Ripley sẵn sàng đặt cược một khoản lớn rằng trên khắp nước Anh này, không có một tiểu thư danh giá nào tuyệt vọng đến mức chấp nhận Ashmont—hay gia đình họ sẽ cho phép điều đó, ngay cả khi vẻ ngoài điển trai và sự quyến rũ của cậu ta làm họ mất hết lý trí. Như cậu ta từng khoe trong những lá thư hiếm hoi, các bà chủ tại Almack's đã cấm cửa Ashmont khỏi các buổi tụ họp, nhà vua thì báo rằng Đức ngài không được chào đón tại các buổi lễ hoàng gia, và phần lớn các bà chủ nhà ở London đã xóa tên cậu ta khỏi danh sách khách mời. Với một công tước đẹp trai và giàu có, đạt được những "thành tích" như vậy quả là một nỗ lực không hề nhỏ. Tuy nhiên, dường như đường đi của Ashmont và Tiểu thư Olympia lại giao nhau gần khách sạn Clarendon cách đây vài tuần. Một con chó tính khí cáu bẳn, ngay lập tức không ưa Đức ngài, đã lao vào cắn rách chiếc ủng của anh. Ashmont, đang trong tình trạng lâng lâng như thường lệ, loạng choạng khi cố đá con chó ra, suýt chút nữa ngã ra đường—ngay vào luồng xe của một chiếc cabriolet (xe ngựa cao cấp thời đó) lao đến với tốc độ cao, như chúng vẫn thường làm. “Nhưng có một chiếc ô,” Ashmont kể với Ripley. “Cán ô móc vào tay tôi, kéo tôi lại. Và chỉ trong tích tắc, tôi đã loạng choạng trở lại vỉa hè, cố gắng lấy lại thăng bằng. Trong khi đó, con chó cứ sủa điên cuồng. Rồi cô ấy nói, ‘Suỵt,’ hay gì đó đại loại thế, sau đó đặt đầu ô xuống vỉa hè, mũi ô chạm đất kêu cái cạch. Và cậu biết không, con chó im bặt và lẩn mất!” Ashmont bật cười khi nhớ lại. “Rồi cô ấy nói, ‘Ngài có sao không, thưa công tước?’ Cô hầu của cô ấy lẩm bẩm điều gì đó, chắc là cố kéo cô ấy rời khỏi tôi. Tôi là nghĩ mình ổn, nhưng Olympia nhìn xuống và bảo rằng chiếc ủng của tôi bị rách toạc. Tôi nhìn xuống. Đúng là thế thật. Cô ấy bảo tôi không thể lang thang khắp London với cái ủng như vậy—trời mới biết thứ gì có thể lọt vào và dính vào chân ngài, cô ấy nói. Rồi, thật không thể tin nổi, cô ấy nói tiếp, ‘Xe ngựa của tôi sẽ đến trong chốc lát. Chúng tôi sẽ đưa ngài về nhà.’ Và cô ấy làm thế thật, dù cô hầu rõ ràng không thích một chút nào. Người đánh xe và người hầu cũng thế, nhưng chẳng ai làm gì được. Tiểu thư Olympia Hightower đấy! Cậu tin nổi không? Tôi không thể tin nổi. Chúng ta đã thấy cô ấy bao nhiêu lần ở các buổi tiệc, buổi tụ họp nọ rồi nhỉ?” Ripley nghĩ thầm, Không đếm nổi. Cô gái cao ráo, đeo kính, nhưng không đến nỗi xấu xí. Dáng người khá ổn. Không, phải nói là rất ổn. Nhưng cô ấy là một tiểu thư xuất thân gia giáo, thuộc một gia đình rất tốt, lại có tiếng là mê sách. Cô ấy như thể dán hẳn cái nhãn ĐỘC DƯỢC với biểu tượng đầu lâu xương chéo trên bộ ngực đầy đặn của mình vậy. “Cô ấy tử tế lắm,” Ashmont nói. “Không phải cái kiểu giả vờ nhún nhường hay đa cảm đâu, mà rất thực tế, điềm tĩnh, như một người đồng chí vậy. Phải nói là, tôi thực sự ấn tượng. Nhưng vô ích thôi, khi tôi kể với bác Fred về cô ấy, ông ta bảo tôi không xứng, rằng tôi không đủ trình độ với cái đầu thông minh của cô ấy, rồi còn chê bai đủ điều. ‘Cái đó thì để cô ấy quyết định, phải không?’ Tôi nói thế. Rồi tôi bắt đầu tán tỉnh. Tôi bảo này, vất vả phết đấy. Nhưng cuối cùng cô ấy cũng đồng ý rồi, đúng không nào? Và bác Fred kinh ngạc thế nào khi tôi kể cho ông ta. Ông ta thậm chí còn vỗ vai tôi và bảo, ‘Hóa ra cháu cũng có tố chất nhỉ.’” Ashmont phấn khích vì cuối cùng cũng làm được một điều khiến người bác quỷ quyệt của mình bất ngờ. Tuy nhiên, theo Ripley, Quý ông Frederick Beckingham có lẽ đã nhìn thấy cơ hội và tận dụng triệt để. Nói với Ashmont rằng cậu ta không thể có hay làm được gì luôn là cách chắc chắn để khiến cậu ta quyết tâm mà thực hiện. Không phải là điều đó quan trọng, miễn là Ashmont hài lòng và cô gái biết rõ mình đang dấn thân vào cái gì. Mà cô ấy chắc chắn phải biết, nếu cô thật sự thông minh như mọi người vẫn đồn. Vấn đề là, đám cưới có vẻ không diễn ra suôn sẻ như mong đợi, Ashmont thì chán ngán do phải chờ đợi, và một Ashmont chán nản là một vấn đề nguy hiểm. Ripley liếc nhìn em rể mình. Blackwood—cũng tóc đen như Ripley nhưng mượt và đẹp trai hơn nhiều—nhướng một bên mày như hỏi ý. Ripley chỉ nhún vai. Blackwood thong thả bước tới gần. “Không hiểu người ta làm gì với cái gấu váy nữa,” Ashmont nói. “Nó ở dưới gấu, đúng không? Vậy thì có vấn đề gì chứ?” “Nếu cô ấy vấp vào nó rồi ngã sấp mặt thì sao?” “Tôi sẽ đỡ cô ấy,” Ashmont nói. Ripley nhìn Blackwood. Cả hai cùng nhìn Ashmont. Cậu ta đã say túy lúy, không nghi ngờ gì nữa. Để đứng vững thôi cũng khó khăn rồi. Nếu cô dâu không xuất hiện sớm, một trong hai điều sẽ xảy ra, tốt nhất là chú rể sẽ gục xuống vì say, nằm dài ra sàn một cách mất mặt; tệ nhất là, anh ta sẽ gây sự với ai đó. “Không thể chờ nữa,” Ashmont nói. “Tôi lên tìm cô ấy đây.” Cậu ta bước về phía cửa, nhưng có phần loạng choạng. Blackwood kịp giữ vai lại. “Ý hay đấy,” Blackwood nói. “Đứng đây chờ cũng chẳng ích gì.” Cậu ấy bắt gặp ánh mắt của Ripley. Ripley hiểu ý, bước đến bên kia, và cả hai dìu bạn mình ra khỏi phòng khách. Với những vị khách đang bận rộn quanh các khay sâm-panh, họ chỉ gặp một vài người hầu ở hành lang. “Đi đâu bây giờ?” Blackwood hỏi. “Xuống dưới,” Ripley đáp. “Không phải dưới,” Ashmont nói. “Cô ấy ở trên. Đó.” Cậu ta chỉ tay, ngón tay vẽ những đường ngoằn ngoèo lơ lửng trong không khí. “Xui lắm,” Ripley nói. “Rât xui nếu gặp cô dâu trước lễ cưới.” “Tôi mong được gặp cô ấy ở lễ cưới cơ mà,” Ashmont đáp. Họ dẫn cậu ta tới cầu thang, rồi rất khó nhọc, dìu xuống dưới. "Lối này." Ripley nói. Mặc dù đã từng đến Dinh thự Newland trước đây, nhưng đó là chuyện từ lâu lắm rồi. Ashmont không còn nhớ rõ cách bố trí tầng trệt nữa. Trong một ngôi nhà cổ kiểu này, cậu ta sẽ nghĩ đến một phòng ăn sáng hoặc phòng ăn chính, và có thể là một thư viện. Dù sao thì, phòng gì không quan trọng. Họ cần đưa Ashmont ra khỏi chỗ rượu và tránh xa những người mà cậu ấy có thể gây gổ—gần như là tất cả mọi người. Ripley và Blackwood dẫn bạn mình về phía một cánh cửa đứng cách xa cầu thang chính. Ripley mở cửa ra. Điều đầu tiên anh thấy là màu trắng, một không gian bao la như thể một đám mây đã trôi vào cái phòng mà anh mơ hồ nhận ra là thư viện. Nhưng mây đâu có mang giày satin trắng hay bít tất, và cũng không đứng trên thang bộ thư viện. “Ôi không,” Blackwood nói. “Chết tiệt, Olympia,” Ashmont nói. “Cô đang làm cái quái gì vậy?” Cậu ta cố gắng thoát khỏi tay bạn mình. Ripley nói, “Đưa cậu ấy ra khỏi đây.” “Không, mấy cậu không làm được thế, chết tiệt,” Ashmont nói. “Phải nói chuyện với cô ấy. Không thể làm hỏng chuyện này được.” Trong tình trạng hiện tại đó, chính xác là điều cậu ta sẽ làm. Ripley liếc nhìn Blackwood với ánh mắt quen thuộc, Giờ chúng ta phải làm gì? “Xui xẻo,” Blackwood bảo Ashmont. “Rât xui lắm nếu gặp cô dâu trước lễ cưới.” Khi kéo Ashmont đang phản đối ra khỏi hành lang, cậu ta nói với Ripley qua vai, “Ashmont giao cho cậu lo mấy chuyện đám cưới này. Làm gì đi.” “Nhẫn cưới,” Ripley nói. “Giấy đăng ký kết hôn. Tiền sẵn sàng khi cần. Nhưng không phải cô dâu.” “Làm gì đi,” Blackwood nói. *** Ripley lại mở cửa. Những bậc thang thư viện gần đó không có ai. Một âm thanh thu hút ánh mắt anh về phía cửa sổ. Anh thấy một đám mây trắng. Cô dâu của Ashmont đang vất vả với khóa cửa sổ. Ripley bước nhanh về phía đó. “Thật kỳ lạ,” anh nói. “Không phải cô đang ở trong lễ cưới sao?” “Đúng, tôi biết,” cô đáp. “Anh có thể giúp cô dâu một chút được không? Khóa cửa đang bị kẹt.” Anh ngửi thấy một làn hương pha trộn giữa rượu brandy và một mùi hoa nhẹ. Dù đầu óc anh không thật sự minh mẫn lúc này, anh cũng dễ dàng hiểu ra tình huống, cô dâu say rượu đứng bên cửa sổ và có ý định trốn đi. Có vấn đề rồi đây. “Tại sao?” anh hỏi. “Làm sao tôi biết khóa bị kẹt vì cài gì hả?” cô đáp, vẻ bực bội. “Trông tôi có giống thợ sửa ống nước không? Hay là gì đó... thợ kính. Người sửa cửa sổ.” Cô gật đầu tự hào. “Đúng rồi, là người sửa cửa sổ.” “Không phải người sửa cửa sổ, tôi có thể không đủ trình độ để giúp về chuyện này,” anh nói. “Vượt lên chính mình đi,” cô nói. “Tôi là cô gái gặp nạn. Còn anh—” Cô quay đầu nhìn anh. Cô nhìn chằm chằm vào cái nơ thắt cổ áo của anh, khoảng ở ngang tầm mắt của cô. Rồi ánh mắt cô hạ xuống rồi lại ngước lên. Sau cặp kính, đôi mắt xám của cô đỏ hoe. Cô đã khóc. Hiển nhiên Ashmont đã nói hoặc làm điều gì đó khiến cô buồn. Không có gì mới mẻ trong chuyện đó. Lưỡi cậu ta thường đi nhanh hơn bộ não. Mà mấy ai trong bọn họ có tài ăn nói khéo léo. “Trời ơi,” cô nói. “Anh. Anh lại quay lại.” “À, cô nhận ra rồi.” Anh cảm thấy khá vui. Nhưng rượu sâm-panh thường có tác dụng như vậy, ngay cả với một lượng nhỏ. “Anh cao hơn sáu feet (hơn 1m8),” cô nói, ngước đầu lên. “Anh đang đứng ngay trước mặt tôi. Tôi bị cận, không phải bị mù. Dù không có kính, tôi cũng không thể không nhận ra anh, dù ở khoảng cách xa… mà tôi mong anh đứng cách xa hơn chút.” Cô vẫy tay ra hiệu. “Đi đi. Tôi chỉ muốn chút gió. Trong… à… Vườn Kensington.” “Trong bộ váy cưới của cô,” anh nói. “Tôi không thể tháo ra rồi mặc lại như một chiếc áo choàng,” cô nói, với vẻ kiên nhẫn cực kỳ, kiểu kiên nhẫn mà người ta thường dùng với những đứa trẻ chậm hiểu. “Nó phức tạp lắm.” “Trời đang mưa,” anh nói, với vẻ kiên nhẫn tương đương. Cô quay đầu nhìn ra cửa sổ. Những giọt mưa lăn trên kính cửa, tạo thành vệt dài. Cô vung tay một cách hùng hồn. “Đừng bận tâm—nếu anh cứ lo lắng về mọi thứ nhỏ nhặt như vậy.” Cô quay lại và tiếp tục vật lộn với cái khóa. Lần này, nó chịu thua. Cô mở cửa sổ. “Tạm biệt,” cô nói. Và trèo qua cửa sổ, trong một làn váy satin và ren. *** Ripley đứng yên một lúc, suy nghĩ. Cô muốn bỏ đi, và anh nghĩ rằng thật không đẹp đẽ khi giữ phụ nữ lại khi họ không muốn. Anh có thể quay lại và báo cho Ashmont biết cô dâu của cậu ấy đang bỏ trốn. Anh có thể quay lại và báo cho một trong những người trong gia đình cô. Cô không phải là vấn đề của Ripley. Cô là vấn đề của Ashmont. Đúng là Ashmont giao cho Ripley trách nhiệm về đám cưới. Đúng là Ashmont dường như đặc biệt quan tâm đến việc mọi thứ phải diễn ra suôn sẻ. Và đúng là Ripley đã hứa sẽ lo liệu mọi việc, giữ nhẫn, chuẩn bị tiền như cần thiết, đảm bảo Ashmont làm đúng bổn phận của mình. Việc đưa cô dâu về không nằm trong thỏa thuận. Cô không đáng lẽ phải cần được mang về. Chỉ vì cô đã say và khóc... “Chết tiệt,” anh nói. Anh leo qua cửa sổ. Ripley nhìn thấy đám mây trắng satin và ren ngay trước khi cô biến mất vào một bụi cây và khu rừng cao. Anh tăng tốc, đồng thời liếc nhìn lên các cửa sổ của ngôi nhà. Không có dấu hiệu ai đang nhìn ra ngoài. Tiệc cưới được tổ chức ở phía bên kia ngôi nhà. Điều đó thật tốt. Nếu anh đưa cô trở lại nhanh chóng, họ có thể giải quyết mọi chuyện và không ai phát hiện ra. Một cái nhìn quanh khu vườn không thấy dấu hiệu của những người làm vườn. Người phục vụ ngoài trời có lẽ đang vui chơi cùng đồng nghiệp hoặc trú mưa. Ripley nhận thức được cơn mưa, nhưng nó chỉ là phần nền. Dù nghe thấy âm thanh mưa rơi trên lá cây, cỏ và lối đi, anh vẫn tập trung vào cô dâu, người đang di chuyển với tốc độ khá nhanh, mặc dù bộ váy satin và ren cùng với tay áo phồng to và tất cả những chi tiết khác. Anh không hô lên vì cô chưa chạy trốn, ít nhất là chưa chạy hết tốc độ, và anh không muốn làm cô hoảng sợ hoặc khiến cô làm điều gì đó còn ngớ ngẩn hơn, mặc dù hiện giờ anh không thể đoán ra được điều đó sẽ là gì. Cô không mặc đồ để có thể chạy nhanh—mà phụ nữ thì luôn như vậy—thêm vào đó khu vườn này giống như một cuộc đua vượt chướng ngại vật. Các khu vườn trong Dinh thự Newland có nhiều cây cối dày đặc và đã trưởng thành. Một số cây còn vươn cành ra ngoài vườn. Trên mặt đất trơn, mặc bộ đồ ấy, lại hơi say xỉn, cô dâu rất dễ bị vướng vào bụi cây hoặc vấp ngã vì váy hay chính đôi chân của mình. Dù sao, Ripley cũng đang tiến gần dần. Anh đủ gần để thấy cô trượt chân, tay vung vẩy loạng choạng khi cố gắng giữ thăng bằng. Anh chỉ chậm một chút để kịp đỡ cô trước khi cô mất thăng bằng và ngã xuống đất. Anh nắm lấy cô dưới cánh tay và kéo cô đứng dậy. Cô vặn vẹo qua lại. Qua vài lớp váy và đồ lót, anh cảm nhận được phần mông cô chạm vào bụng anh, điều này khiến anh phân tâm trong giây lát. Anh là đàn ông. Đây là một phần mông tuyệt vời, anh nghĩ. Không sao, anh tự nhủ. Làm việc rồi đưa cô ấy về thôi. “Xin lỗi,” anh nói. “Tôi đã làm gì sai sao? Cô muốn tôi để cô nằm trong bùn à?” “Anh làm hỏng tay áo của tôi rồi!” Mưa rơi xuống đầu anh. Mũ của anh để trong nhà. Anh cảm thấy trần trụi mà không có nó. Thực sự là trần trụi hơn cả khi anh không mặc gì. Anh cũng cảm thấy ướt. Anh buông cô ra. “Cô làm hỏng váy,” anh nói. “Có vết bùn và vết cỏ lên lưng. Trông như cô vừa có cuộc vui với ai đó trong bụi cây vậy. Điều đó chắc chắn sẽ khiến mọi người xôn xao. Chắc chắn là Ashmont sẽ rất kích động. Và vì tôi là người đàn ông duy nhất xung quanh cô, cậu ta sẽ gọi tôi ra. Lúc đó tôi lại phải chữa trị vết thương đấu tay đôi của cậu ta. Một lần nữa.” “Thế thì đấm vào mặt anh ta đi,” cô nói. “Anh ta sẽ đánh lại. Lúc đó anh ta không thể gọi anh ra đấu, vì anh ta không phải là người bị thương.” Chiếc khăn voan dài dính ướt vào đầu và vai cô. Những lọn tóc bên cạnh tai bắt đầu tuột ra, và cái mũ đội đầu của cô bị lệch sang một bên. Khuôn mặt cô co giật, và Ripley nghĩ cô sắp bật khóc, nhưng cô siết chặt hàm và ngẩng đầu lên. “Anh có thể đi bây giờ,” cô nói. “Tôi hoàn toàn ổn. Tôi chỉ muốn một chút thời gian để... à... cầu nguyện... trong dịp trọng đại này, sẽ thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi và làm nó tốt đẹp hơn. Vậy... tạm biệt.” Anh nhìn về phía ngôi nhà. Ashmont đã làm gì? Nó tồi tệ hay ngu ngốc đến mức nào? Liệu có nên để cô đi đến nơi cô định đến không? Không, đó không phải là phần việc của anh. Việc của Ripley là đảm bảo đám cưới của bạn mình diễn ra suôn sẻ. Điều đó nghĩa là phải đưa cô dâu trở lại. Ripley quay lại với cô, kịp thấy cô chạy đi, vào một con đường nhỏ giữa đám đỗ quyên dày đặc. Chỉ trong một khoảnh khắc, cô đã khuất tầm nhìn, chỉ còn lại những đốm trắng thỉnh thoảng xuất hiện. Cô đợi cho anh quay lưng—à, là quay đầu—rồi mới trốn đi. Điều đó... thật là mưu trí của cô. Tuy vậy, cô không thể cứ đi như thế. Nếu cô không muốn Ashmont, cô sẽ phải đối mặt trực tiếp với cậu ấy. Dĩ nhiên, sau khi họ đã tỉnh rượu. Ripley chạy theo cô. *** Mặc dù tiệc cưới và các khách mời đã tụ tập quanh khu vực có sâm-panh, phía trước tòa nhà ở phía tây, anh trai cả của cô dâu, Quý ông Ludford, đang tìm kiếm em gái mình. Dinh thự Newland được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII và đã được mở rộng rồi nâng cấp từ đó. Tòa nhà, trải dài trên một phần lớn khu đất, giống như một mê cung không có trật tự. Các gia đình rất gần gũi, các quý bà là chị em. Con cái của họ đã chơi đùa tự do trong các ngôi nhà của nhau, và mọi người cảm thấy thoải mái ở đây như ở chính nhà mình. Vì Ashmont nóng lòng muốn kết hôn, trong khi Dinh thự Gonerby đang trong quá trình cải tạo, các quý bà đã đồng ý tổ chức lễ cưới ở đây. Ludford nghi ngờ, họ sợ rằng nếu Ashmont chờ quá lâu, anh ta sẽ thay đổi ý định. Cá nhân Ludford thì lại mong điều đó xảy ra. Anh cho rằng Ashmont không thực sự xứng đáng với Olympia. Nếu con bé bỏ trốn, Ludford không trách được. Ngược lại, điều đó với anh có vẻ như một quyết định sáng suốt. Tuy nhiên, nó cũng khiến anh lo lắng. Những cô gái đàng hoàng như Olympia không thể tự mình bỏ đi. Nhiều điều điều khủng khiếp có thể xảy ra với họ. Anh hy vọng, thay vào đó, rằng con bé đang trốn trong nhà. Olympia, người đôi khi dành hàng tuần liền ở đây cùng các cô em họ, có một số nơi bí mật mà nó thường đến để nghiên cứu mấy cuốn sách cổ nào đó hoặc ghi nhớ các danh mục bán sách. Anh nghĩ con bé sẽ làm như vậy vào hôm nay, dù anh không biết vì lý do gì. Giống như cha mình, Ludford không phải là một người suy nghĩ phức tạp. Khi anh nhận thấy bình rượu của mình biến mất, anh lập tức nghi ngờ mất đứa em trai của mình. Một trận lắc mạnh, khiến răng va vào nhau, thường là đủ để ép chúng thú nhận. Nhưng lần này, chúng dường như thật sự bối rối. Clarence, đứa em nhỏ nhất, có vẻ như biết hoặc nghi ngờ điều gì đó, nhưng dù là gì, nó cũng không chịu nói ra, và nó cũng bướng bỉnh hệt như Olympia. Ludford giờ đây đang tìm Clarence trong phòng trẻ, nơi thằng bé bị đày đến sau khi đùa nghịch khiến mấy ly sâm-panh bị vỡ. Andrew, bạn đồng phạm của nó, thì bị tách ra và bị giam ở phòng học. Ludford mở cửa phòng trẻ ra. “Em biết cái gì rồi, nhóc con,” anh nói. “Và tốt nhất là em nên khai ra, nếu không anh sẽ—” Anh dừng lại, vì Clarence quay đi khỏi cửa sổ mà thằng bé đang nhìn ra ngoài, khuôn mặt đỏ bừng. Đúng, thằng bé lẽ ra phải sợ khi Ludford xông vào như vậy. Đó là mục đích của việc này. Nhưng Clarence nhảy tránh khỏi cửa sổ như thể nó vừa bị cháy, và la lên, “Không, em không biết gì hết! Không, em không biết gì hết! Và anh không thể ép em nói được!” Ludford lao đến cửa sổ để kịp thấy một đám trắng trong bụi cây và Công tước xứ Ripley đang tiến về phía đó, không phải là đang chạy, nhưng cũng không phải là đi với tốc độ lười biếng như thường lệ. Ludford vội vã chạy ra khỏi phòng trẻ. *** Vào một đêm trăng sáng, Ripley có lẽ sẽ thích thú khi đuổi theo một góa phụ vui vẻ dọc theo con đường trong vườn với những khúc quanh uốn lượn, những bụi cây cao làm cho cuộc rượt đuổi thêm phần thử thách. Nhưng đây không phải là một đêm trăng sáng, và Tiểu thư Olympia Hightower cũng không phải là một góa phụ vui vẻ. Những tia sáng trắng cứ tiến về phía trước một cách đều đặn và nhanh chóng ở khoảng cách xa. Khi anh tiếp tục lao xuống một con đường khác, những tia sáng ấy biến mất hoàn toàn. Rồi, qua tiếng mưa rơi, anh nghe thấy một âm thanh leng keng nhẹ. Anh tiếp tục đi, và khi những bụi cây rậm rạp mở ra, anh đến một khoảng trống nhỏ dẫn đến một cánh cổng sắt nằm trong bức tường cao. Một cánh cổng mà cô đang cố gắng mở ra. Chỉ với vài bước ướt sũng, anh đã đến bên cô. Cô ngừng lại công việc và nhìn qua vai về phía anh. "Ôi," cô nói. "Lại là anh." Cô thở hổn hển vì những nỗ lực của mình, ngực cô phập phồng lên xuống. "Cái thứ quái quỷ này bị khóa rồi." "Đương nhiên là bị khóa," anh nói. "Không thể để đám người vô lại đi lang thang trong vườn rồi hái trộm hoa đỗ quyên được." "Kệ hoa đỗ quyên đi! Làm sao để ra ngoài đây?" "Có lẽ là không thể ra ngoài?" anh gợi ý. Cô lắc đầu. "Chúng ta phải tìm cách ra ngoài khác." "Chúng ta?" anh nói. "Không. Tôi và cô không phải là chúng ta." Cô cứng người lại, mắt mở to. Anh cũng nghe thấy rồi. Những tiếng nói, từ hướng mà anh đoán là con đường mà anh vừa đi qua. "Không sao đâu," cô nói. "Muộn rồi. Anh phải giúp tôi trèo qua tường." "Không," anh nói. "Tôi không thể làm vậy." "Anh có thể," cô nói. "Anh ở đây rồi, và anh còn phải làm gì khác nữa? Làm ơn có ích một lần trong đời và giúp tôi trèo qua tường đi. Bây giờ là thời điểm tốt nhất." Cô giậm chân. "Bây giờ!" Mái tóc cô rối bù, những lọn tóc ướt bết trên mặt cô. Cái thứ trên đầu cô giờ đây đã nghiêng sang một bên, mấy chiếc lá đỗ quyên rụng cùng những bông hoa héo mắc vào tóc cô. Mạng che vòng vo quấn quanh cổ. Một vệt bùn dính trên đầu mũi thon nhọn của cô. "Trèo qua tường," anh nói, cố kéo dài thời gian. "Đúng, đúng rồi. Tôi không thể trèo qua đám thường xuân đó trong bộ váy này được—và chắc chắn là không thể trong đôi giày này. Nhanh lên! Anh không nghe thấy họ sao?" Anh đang cố nghĩ ra một kế sách để trì hoãn, nhưng đầu óc anh không nhanh nhạy. Sau đó, anh nghe thấy tiếng la hét hỗn loạn, và nó gợi nhớ đến tiếng chó săn sủa và đám đông giận dữ. Vào lúc đó, có điều gì đó trong đầu anh đã thay đổi. Kể từ những ngày ở Eton, Ripley và hai người bạn đồng phạm của anh đã luôn tránh né sự truy đuổi của các thế lực quyền lực, cùng với những nông dân giận dữ, các vị linh mục, thợ thủ công, và nói chung là mọi tầng lớp người đàng hoàng, chưa kể đến mấy tên buôn người, kẻ móc túi, bọn đầu trộm đuôi cướp, và những kẻ không được tôn trọng khác. “Nhanh lên!” cô nói. Anh đan tay vào nhau và cúi xuống. Cô đặt một chân đầy bùn, đôi guốc ướt, lên tay anh, một tay cáu bẩn dựa vào tường để giữ thăng bằng, và đẩy người lên. Sau đó, với sự dễ dàng mà lẽ ra sẽ khiến anh ngạc nhiên nếu anh còn đủ sức ngạc nhiên, cô leo lên vai anh và với tay ra tường. Ít nhất thì đó là điều anh nghĩ cô đang làm. Cảnh tượng mà anh thấy—và quả thật là một cảnh tượng đáng chú ý, dù chỉ thoáng qua—là chiếc chân mang tất và dây tất trắng. Sau đó là satin trắng và những chiếc váy lót, và mùi hương của một người phụ nữ bao quanh đầu anh. Anh chỉ vừa kịp giữ vững lý trí để nắm lấy mắt cá chân cô nhằm giữ vững cô. “Nữa đi,” cô nói. “Vẫn còn quá cao để tôi có thể leo qua. Lên nữa, lên nữa! Nhanh lên!” Tiếng nói gần hơn. Nắm lấy chân cô, anh đẩy cô lên, qua đầu anh. Anh cảm nhận được trọng lượng của cô rời khỏi người khi cô tìm được chỗ bám trên đỉnh tường. Anh nhìn thấy phần sau của đôi chân khi cô nhanh chóng trèo lên đỉnh tường và ngồi xuống. Chỉ một khoảnh khắc sau, cô biến mất khỏi tầm nhìn. Tiếng nói gần đến mức gần như ngay bên cạnh. Anh không dừng lại để suy nghĩ một chút trước đó và giờ cũng vậy. Khi cô biến mất qua tường, anh túm lấy một đoạn dây thường xuân và leo lên. Anh nhìn sang phải, rồi sang trái. Cô gái mặc váy trắng đang di chuyển nhanh chóng xuống Phố Horton. Anh đuổi theo cô.
Chương 2 Dịch: thuylinhh Ripley bắt kịp cô dâu trên đường Kensington's High Street. Cô đã đi chậm lại, nhưng vẫn không dừng bước. “Hackney,” cô nói, gật đầu về phía bến xe ngựa phía trước. “Anh có tiền không?” “Lúc đầu là nhờ giúp trèo qua tường,” anh đáp. “Giờ lại là tiền.” “Và anh vẫn đang ở đây,” cô nói. “Vẫn như vậy. Một lần nữa.” “Phải. Bởi vì—” “Tôi,” cô kéo dài từng âm tiết. “Cần. Tiền. Để. Đi. Hackney.” Cô vẫy tay về phía những chiếc xe và gọi, “Ở đây!” Người lái chiếc xe ngựa đầu tiên trong hàng nhìn cô với vẻ quan tâm nhưng không có dấu hiệu gì là sẽ di chuyển. Sao ông ta phải đi đến chứ? Nhìn cô chẳng khác nào một kẻ mới trốn thoát khỏi Bedlam (nhà thương điên). Không phải Ripley trông bớt kỳ quặc hơn, với bộ dạng chẳng có mũ, găng tay hay gậy đi bộ. Dù vậy, anh là một công tước, và là một trong những quý tộc tai tiếng, dễ nhận ra nhất nước Anh. Hơn nữa, anh đang ở đây, như cô vừa nói. Lẽ ra Ashmont mới là người làmv, nhưng rõ ràng là không, và ai đó phải trông chừng cô. Người ta không thể để một cô gái trẻ được nuôi dạy cẩn thận đi lang thang một mình, đặc biệt là khi cô ấy thuộc về một trong những gã bạn ngốc nghếch của anh, những kẻ không thể giữ nổi cô. Hoang dã và liều lĩnh, không quan tâm tới xã hội thì cũng được thôi. Nhưng khi một gã đàn ông cầu hôn một cô gái, hắn không nên khiến cô ấy có lý do để không xuất hiện trong lễ cưới. Đó là sự bất cẩn chết tiệt, đúng là như vậy. Nhưng vấn đề ở chỗ Ashmont quá được nuông chiều. Cậu ta chưa bao giờ phải nỗ lực gì với phụ nữ cả. Đã quá muộn để cậu ta thay đổi rồi. Ripley đặt mạnh tay lên vai cô. “Dừng lại và suy nghĩ một chút nào.” “Tôi đang suy nghĩ đây,” cô nói. “Điều tôi đang nghĩ là, cái hackney chết tiệt ở đâu rồi? Sao chúng lại không đến đây?” “Hãy thử nghĩ xem cô đang trông thế nào đã,” anh nói. “Cô biết đấy, váy cưới, khăn voan, tất cả mọi thứ. Không gây chút ấn tượng kỳ lạ nào sao?” “Tôi không quan tâm,” cô đáp. “Đương nhiên là không,” anh nói. “Nhưng hãy cố gắng tỏ ra bình tĩnh và tỉnh táo một chút đi.” “Tôi hoàn toàn tỉnh táo.” Cô siết chặt tay. “Và rất bình tĩnh.” “Tốt. Rất tốt. Bây giờ, hãy làm mọi thứ từng bước một. Cô định đi đâu?” Cô phẩy tay một vòng rộng. “Đi xa.” “Đi xa,” anh lặp lại. Cô gật đầu, và búi tóc cùng đống ren trên đầu cô nghiêng thêm sang một bên. “Rất tốt,” anh nói. “Coi như một khởi đầu.” Có lẽ anh sẽ phải suy nghĩ thay cho cả hai người, một nhiệm vụ không mấy dễ chịu. Đến nghĩ cho chính mình anh còn chẳng mấy thích. Anh giơ tay ra hiệu. Chiếc xe hackney đầu tiên trong hàng chầm chậm tiến về phía họ, trong khi cô gần như nhảy dựng lên vì sốt ruột. Khi xe dừng lại bên cạnh, Ripley mở cửa. Cô bước lên bậc thang, loạng choạng tìm thăng bằng, rồi bắt đầu ngã ngửa ra sau. Anh đẩy nhẹ cô về phía trước, và cô ngã nhào xuống lớp rơm trên sàn xe ngựa. Anh quan sát cô cố gắng tự nâng người dậy—với tư thế vòng ba hướng lên trên, một khoảnh khắc khó mà rời mắt—rồi loạng choạng ngồi xuống ghế. Cô vuốt lại váy, chỉnh lại kính, rồi trừng mắt nhìn anh. Vì lý do nào đó, tâm trạng anh bỗng chốc phấn chấn hơn. “Đi đâu, thưa Ngài?” người đánh xe hỏi. “thưa Đức ngài,” cô chỉnh lại. “Ông không nhận ra sự kiêu ngạo quen thuộc của giới quý tộc sao? Chẳng lẽ không rõ ràng rằng anh ta là một công tước à?” Tâm trạng Ripley lại càng tốt hơn. Nếu người đánh xe nghe thấy cô nói, ông ta cũng chẳng tỏ vẻ gì. “Cầu Battersea,” Ripley nói rồi trèo vào xe. Chiếc cầu nằm cách đó khá xa về phía nam. Điều này sẽ cho anh thời gian. Thời gian để quyết định xem mình muốn làm gì. Nhưng khoảng cách cũng không quá xa để ngăn anh đưa cô trở lại trong một khoảng thời gian hợp lý, nếu đó là điều anh chọn. Ưu điểm là, cầu Battersea không phải nơi đầu tiên bạn bè anh sẽ nghĩ đến để tìm họ. “Hay cô đã có một nơi ‘xa’ cụ thể nào trong đầu rồi?” anh hỏi. “Đừng nói gì cả,” cô đáp. “Tôi đang suy nghĩ.” Chiếc xe ngựa bắt đầu lăn bánh, tiếng bánh xe vang rền trên đường. “Thật lạ,” Ripley nói. “Dù sao thì, những cuộc trò chuyện giữa chúng ta khá ngắn ngủi, nhưng theo những gì tôi thấy, suy nghĩ và cô giống như hai quốc gia khác nhau. Đang có chiến tranh.” Cô lắc đầu, vẫy ngón tay vào anh theo kiểu thường thấy ở những người say xỉn khắp mọi nơi. “Điều đó sẽ không ngăn tôi nói,” anh nói. “Nếu cô phải suy nghĩ, có lẽ cô nên làm ơn nghĩ đến việc giải thích đu.” “Giải thích cái gì mới được?” Anh ra hiệu về bộ váy cưới lấm lem của cô và nội thất bẩn thỉu của chiếc xe. “Tất cả chuyện này. Chạy trốn. Vì tôi vẫn còn hơi bối rối và hoàn toàn không chắc đây là ý tưởng hay nhất. Tôi đang cân nhắc việc bảo người đánh xe đưa chúng ta quay lại.” “Không,” cô nói. “Nhưng cô cũng hiểu được ý tưởng đó hấp dẫn ra sao mà,” anh nói. “Không,” cô đáp. “Vấn đề là thế này,” anh nói. “Tôi đã có một buổi sáng khá khó chịu, cô thấy đấy.” “Anh á!” “Đúng. Chuyện không diễn ra như dự kiến.” “Anh cùng hội với tôi đấy,” cô nói. “Nhìn này, tôi không hề mong đợi mình sẽ di chuyển với tốc độ của một con ốc sên trong chiếc xe hackney tồi tàn để đến cầu Battersea,” anh nói. “Hay bất kỳ cây cầu nào cả. Tôi cảm thấy khá chắc chắn rằng mình không nên giúp một cô dâu say khướt, người chọn đúng vào phút chót để bỏ trốn khỏi lễ cưới của chính mình.” “Tôi không say,” cô nói. “Và anh không phải là người duy nhất có một buổi sáng kinh khủng. Nếu anh không muốn giúp tôi, anh có quyền dừng xe và xuống đi bộ.” “Tôi không có quyền đó,” anh nói. “Tôi là—là cái gì nhỉ. Đặc phái viên của chú rể. Hoặc là người trông nom cậu ta. Ai mà biết, có khi tôi còn là phù dâu ý. Điểm mấu chốt ở đây là, cậu ta giao cho tôi việc này, và có lẽ cậu ta phải chấp nhận rủi ro là tôi làm hỏng bét. Nhưng có một điều tôi biết chắc, đó là cô không thể được phép đi lung tung một mình. Nếu có thể, tôi đã quay lại lấy mũ của mình. Hoặc không. Có lẽ tôi đã đơn giản là quay lại và để mặc cô cho ai đó khác. Nhưng tôi không thể, như tôi giải thích đấy, vì cái nhiệm vụ chết tiệt này. Không có ích gì khi mang theo nhẫn, giấy tờ, tiền và tất cả những thứ liên quan khi cô dâu đã biến mất không biết đi đâu.” Ánh mắt cô ngước lên nhìn đầu anh. “Tóc anh ướt rồi.” Anh chẳng hề bận tâm. Anh quá quen với mấy câu nói lạc đề của kẻ say. “Mọi thứ đều ướt,” anh nói. “Đúng vậy,” cô đáp. “Đừng lo,” anh nói. “Tôi không bị tan ra đâu.” “Đó không phải là điều tôi bận tâm,” cô nói. “Chuyện là…” Cô nhắm mắt lại một lúc, nhưng có vẻ việc tập trung suy nghĩ quá sức với cô, vì ngay sau đó cô mở mắt và nói, “Khi anh thả tôi xuống ở cây cầu—” “Một người đàn ông khác, người đã mong đợi cho buổi lễ cưới êm đẹp, chút sâm-panh ngon và một bữa tiệc cưới thịnh soạn—gia đình Newlands có đầu bếp rất tuyệt, cô biết đấy,” anh ngắt lời. Cô nhìn anh, ánh mắt lạnh như băng. “Người đàn ông đó,” anh tiếp tục, “sau khi bỏ lỡ bữa tiệc anh ta chờ đợi và thiếu ngủ nghiêm trọng, có thể sẽ bị cám dỗ mà thả cô xuống cầu. Ý tôi là, xuống sông. Nhưng tôi thì—” “Được rồi, anh là phù dâu,” cô chen ngang. “Tôi định nói rằng tôi thì hiếm khi dìm phụ nữ xuống sông.” “Tôi sẽ thuê một chiếc thuyền,” cô tuyên bố, như thể ban hành một sắc lệnh hay tuyên án tử hình. “Đến chỗ dì Delia. Ở Twickenham.” Anh chớp mắt. “Thật đáng kinh ngạc. Cô có kế hoạch à.” “Phải. Tôi chỉ cần sự kích thích từ sự đồng hành đầy khích lệ của anh.” “Liệu có cơ hội nào tôi kích thích được cô nói ra chính xác điều cô đang chạy trốn không?” anh hỏi. “Hoặc tốt hơn nữa, có cơ hội nào cô đổi ý, làm một cô gái ngoan, và quay về không? Hay có chút cơ hội nào, ồ, cô biết đấy, một điều gì đó gần với sự hợp lý? “Ván đã đóng thuyền, (“The die is cast” nghĩa là một quyết định không thể thay đổi đã được đưa ra) “cô nói với giọng như ban sắc lệnh hoặc tuyên án tử hình của mình. “Làm ơn tháo con quái vật này khỏi đầu tôi.” Vì anh không đủ say—hoặc đúng hơn là anh dường như đột ngột tỉnh táo trở lại—anh phải mất một lúc để hiểu ra yêu cầu đó. Mệnh lệnh. “Tóc cô á?” anh hỏi. “Không phải nó bị gắn chặt rồi à?” “Nhìn có vẻ gì là chặt không? Nó đang trượt xuống và kéo luôn cả tóc thật của tôi đây. Thật khó chịu, và chẳng giống tôi chút nào hết. Anh không thể làm ra cái túi lợn từ cái tai của chúng được (You can’t make a sow’s purse from a pig’s ear.). Tôi đã cố nói với mọi người rồi, nhưng chẳng ai chịu nghe cả.” “Tôi nghĩ cô muốn nói túi lụa—” (câu gốc: “You can’t make a silk purse out of a sow’s ear”: không thể tạo túi lụa từ tai của lợn, nghĩa là bạn không thể biến một vật kém chất lượng, không có giá trị thành một vật tốt đẹp. Thành ngữ này nhấn mạnh rằng có những điều không thể thay đổi hoặc cải thiện dù cố gắng đến đâu.) Cô bỗng nhiên òa khóc. Ôi trời. *** Nước mắt khiến một số người đàn ông trở nên hoảng loạn. Ripley không phải là một trong số đó. Nếu cô gái đang khóc này là em gái anh, anh sẽ để cô khóc trên vai mình, làm hỏng áo khoác và khăn quàng cổ, để cô dính phấn má lên khăn tay của anh. Sau đó, anh sẽ đưa cô tiền và bảo cô ta đi mua cái gì đó cho bản thân. Nếu cô là tình nhân của anh, anh sẽ hứa tặng cô một chiếc vòng cổ hồng ngọc hoặc kim cương, tùy vào mức độ và tốc độ của những giọt nước mắt. Cô gái đang khóc này không phải là em gái anh, cũng không phải là tình nhân hay mẹ anh. Cô thuộc một danh mục hoàn toàn khác. Trong nhiều điều, cô là vợ sắp cưới của Ashmont. Ashmont chưa bao giờ có một người như thế. Đây là một tình huống hoàn toàn mới mẻ với Ripley khi phải đối phó với một Cô gái Đang Khóc, vì vậy anh cần một chút thời gian để xác định hướng cách giải quyết. Anh quyết định sẽ dùng cách tiếp cận nhanh chóng. “Cứng rắn lên nào,” anh nói. “Cô đã đủ can đảm để trèo qua tường rồi mà. Cô cứ như thể chưa bao giờ bỏ trốn trước đây vậy. Đây không phải là ngày tận thế.” “Có đấy,” cô nức nở. “Tôi vừa làm hỏng tất cả mọi thứ. Clarence sẽ không bao giờ vào được Eton, Andrew sẽ không có được chức quan sỹ, tôi chẳng làm được gì có ích cho ai cả, và tôi thậm chí còn không có nổi một cái thư viện nữa!” Ripley không hiểu cô đang nói gì và thấy chẳng có lý do gì để làm mệt não nghĩ ngợi. Phụ nữ bao giờ cũng nói những điều vô lý. Xác xuất để họ nói chuyện có lý là bao nhiêu chứ? Anh nói, với cách động viên như đang nói với một người cưỡi ngựa trước cuộc đua, “Chưa phải là ván đã đóng thuyền. Cô có thể quay lại. Ashmont say đến nỗi sẽ tin bất cứ điều gì chúng ta nói. Rồi ngày mai, cậu ta sẽ chỉ nhớ được những điểm chính thôi. Tôi sẽ nói rằng cô say rượu một cách tình cờ và—” “Tôi không s-say,” cô nức nở. “Tin tôi đi, tôi nhận ra tình trạng này,” anh nói. “Cô còn hơn cả say. Cô thậm chí còn không đứng vững trên bậc lên xuống xe. Đây là điều chúng ta sẽ nói. Chúng ta sẽ bảo cậu ta rằng cô vô tình uống phải rượu mạnh, nghĩ rằng đó là… hừm… cái quái gì mà có thể nhầm lẫn với rượu mạnh nhỉ?” “T-trà,” cô nức nở. “Nó có trong trà. T-từ đầu.” “T-từ đầu,” anh nói. Cô gật đầu. Cô lấy từ trong tay áo khổng lồ của mình một mảnh vải lụa nhỏ, tinh xảo, tháo kính ra và lau mắt, mũi bằng mảnh vải đó. Cô đeo lại kính, dùng ngón tay đẩy nhẹ kính trên mũi để nó vào đúng vị trí. “Nhưng tôi đã uống cái đó. Phần còn lại là từ bình rượu của Stephen.” Cô cuộn mảnh khăn vào tay, giả vờ đó là một cái khăn tay. “Tôi đã lấy trộm nó tối qua. Sau khi mẹ nói với tôi về đám cưới, bà ấy… ít nói cho tôi. Có một số điều trong chuyện này không rõ ràng. Nhưng tôi nghĩ rượu mạnh sẽ giúp tôi củng cố quyết tâm. Cho cái điều… không thể tránh khỏi.” “Bà ấy đáng lẽ phải nói rõ hơn với cô,” Ripley nói. “Cái mà cậu ta là Ashmont, chứ không phải một gã đần thiếu kinh nghiệm.” “Phải, anh ta là một gã đần có kinh nghiệm,” cô nói. “Dù thế nào đi nữa, chuyện đó cũng không có gì phải sợ,” anh nói. “Mọi người làm chuyện đó suốt. Hậu quả hầu như chẳng bao giờ chết người.” “Hậu quả là trẻ con,” cô nói với vẻ u ám. “Lẽ ra tôi nên tự tìm hiểu vấn đề thay vì trông cậy vào Mẹ. Tôi không chắc bà hiểu rõ mối liên hệ. Giữa việc… vợ chồng và trẻ con. Bà ấy có quá nhiều con. Nếu là tôi, tôi đã dừng lại sau ba đứa. Hoặc sau ba đứa con trai. Đó là một con số tốt và an toàn, đúng không?” Anh không nghĩ việc để tâm trí mình tập trung vào chuyện vợ chồng là một ý kiến hay. Đã một thời gian dài bất thường kể từ lần cuối một người phụ nữ bên cạnh anh, và hiện tại anh không ở trong hoàn cảnh để làm điều gì đó về vấn đề này. Tuy nhiên, tâm trí anh, vốn dễ bị cám dỗ bởi “bộ não nhỏ” bên dưới, lại háo hức tưởng tượng ra cách để bù đắp sự thiếu hụt đó trong thời gian ngắn. Anh buộc bản thân phải tập trung vào những gì cô đang nói. May mắn thay, cô đã chuyển sang một chủ đề khác. “Tôi không thể hiểu tại sao anh ta lại cầu hôn tôi,” cô nói. “Tôi không tin anh ta lại tuyệt vọng đến mức đấy. Anh sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu cô gái sẵn sàng bỏ qua khuyết điểm của một người đàn ông khi anh ta là một công tước. Hoặc anh cũng chẳng không ngạc nhiên.” Có thể có rất nhiều cô gái như thế, nhưng họ không phải loại người phù hợp để trở thành nữ công tước của Ashmont. Mặc dù nhiều thiếu sót, cậu ta vẫn có lòng tự tôn—thậm chí là hơi thừa. Ngay cả khi say mèm, cậu ta cũng không cưới một cô gái không xinh đẹp, không xuất thân cao quý, hoặc không có đầy đủ lý trí. Cậu ta sẽ không chọn một cô nàng ngớ ngẩn, nhạt nhẽo, hay chua ngoa. Tóm lại là phải hoàn hảo. Còn việc có xứng đáng hay không thì chẳng quan trọng lắm. “Tôi tự nhủ mình không nên ‘Chê của cho’,” cô nói. “ ‘Của’gì?” Ripley hỏi. “Cậu ta thích cô. Thế chưa đủ sao?’ Cô lắc đầu. “Điều đó không hợp lý.” Có lẽ cô cực kỳ thiển cận. Nếu cô không mang cái nhãn ĐỘC DƯỢC trên người, Ripley chắc đã theo đuổi cô từ nhiều năm trước rồi. “Điều đó hoàn toàn hợp lý,” anh nói. “Nếu cô là đàn ông, cô sẽ hiểu. Nhưng vì cô là phụ nữ—“ “Hôm nay tôi đã đến thư viện để tìm hiểu về chuyện này—“ “Cô đợi đến tận ngày cưới,” anh nói. “Không, không chỉ ngày cưới, mà ngay lúc cô lẽ ra phải nói ‘Con đồng ý.’ Cô chờ đến khoảnh khắc mà cô hoàn toàn say xỉn, một trạng thái mà rõ ràng là không quen thuộc với cô. “Tôi đã cố không nghĩ về nó rồi, nhưng nó làm tôi rất khó chịu,” cô nói. “Anh đã bao giờ cố không nghĩ về điều gì đó chưa?” “Tôi hiếm khi phải cố gắng.” “Anh chỉ đơn giản làm nó biến mất?” “Đúng thế.” “Làm một công tước thích thật,” cô nói. “Phải,” anh nói. Làm một công tước quả thực tốt hơn nhiều so với việc làm con trai của một công tước, theo kinh nghiệm của anh và bạn bè. Anh không chắc liệu ba người cha của họ có phải là những ông bố tệ nhất quý tộc Anh hay không, nhưng chắc chắn họ nằm đâu đó trong số những ứng cử viên hàng đầu cho danh hiệu này. “Tôi không thể làm vậy,” cô nói. “Điều đó giống như cố gắng xua một con muỗi vo ve quanh đầu. Và những thứ không hợp lý lại là những con muỗi dai dẳng nhất. Nhưng tất cả những gì tôi tìm thấy đều đưa đến một phép tính: hai cộng hai. Hoặc hai cộng hai cộng hai cộng một. Bảy người chúng tôi, và chỉ có một cô gái. Và họ—bất kể ai đã nói hay lừa anh ta kết hôn—chắc hẳn đã bảo là, ‘Ồ, có con gái nhà Gonerby đó. Không thể đòi hỏi nguồn giống tốt hơn đâu. Cơ hội tuyệt vời để có một người thừa kế và vài người dự phòng trong trường hợp bất trắc.’ ” “Biết tính Ashmont, tôi thấy lý thuyết đó khó mà tin nổi.” Tất nhiên, vấn đề huyết thống sẽ có phần liên quan, vì đó thường là kết quả của việc ăn nằm với nhau, trừ khi người ta cực kỳ cẩn thận. “Cô đang đánh giá quá cao khả năng tư duy của cậu ta đấy. Cậu ta chú ý đến cô chỉ vì cô tử tế với cậu ta một lần, nếu tôi không nhầm.” “Tử tế!” Cô nói. “Chẳng lẽ đứng nhìn anh ta bị xe ngựa cán qua à?” “Thế là nhanh nhạy đấy. Và còn rất khéo léo nữa.” “Tôi có một ông anh trai và năm thằng em! Họ lúc nào chẳng ngã nhào chỗ này chỗ nọ. Tôi chỉ phản ứng theo bản năng thôi.” “Nhưng Ashmont lại thấy đó là hành động cao cả, đặc biệt khi cô còn đưa cậu ta về nhà. Trên đường đi, có vẻ cậu ta đã có dịp quan sát kỹ lưỡng, và thế là cô lọt vào mắt xanh. Vì cô là một tiểu thư đàng hoàng, kết hôn là lẽ dĩ nhiên,” Và có vẻ tiểu thư đàng hoàng này hứa hẹn mang lại cho Ashmont một cuộc sống sôi động hơn mong đợi. Cô lắc đầu. “Tôi biết có gì đó mờ ám hơn. Tôi không phải kiểu phụ nữ khiến đàn ông mê mẩn đến mức mất trí.” Rất có thể cô đúng. Nếu không nhờ mánh khóe của bác Fred, Ashmont có lẽ đã quên bẵng cô từ lâu. Nhưng Ripley không định nói ra điều đó. Anh cân nhắc việc gợi ý vài chiêu giúp cô đối phó với Ashmont… nhưng rồi lại thôi. Cô thông minh. Chắc cô sẽ tự tìm cách. Cô sẽ bất ngờ đấy,’ Ripley nhún vai. “Tôi là kiểu người cưới vì lý do thực tế,’ cô nói, giọng. “Để quán xuyến một gia đình lộn xộn, đảm đương mọi thứ, sinh con nối dõi, và thêm vài đứa phòng khi có chuyện.” “Ashmont không nghĩ xa thế đâu,” Ripley đáp. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ. “Nhưng anh biết đấy…” Nước mắt lại bắt đầu chảy xuống sống mũi cô. “Chúng tôi cũng gặp phải những bi kịch của mình, vì đáng lẽ phải có chín anh chị em, nhưng không được. Điều đó thực sự rất khó khăn cho cả Mẹ và Cha. Tôi không tin về việc Ashmont có thể là nguồn an ủi trong mấy tình huống như thế. Và tôi biết mọi người sẽ nói gì với Ashmont. Họ sẽ nói, ‘Không cần lo lắng về con chim cúc cu trong tổ’ (ám chỉ sự chắc chắn về con cái trong gia đình là con ruột của người chồng.). Không có chút nghi ngờ nào rằng chưa ai từng… đ-đụng vào c-cô ấy.” Cô bắt đầu nức nở to hơn. Ripley gõ ngón trỏ lên đầu gối mình. Cơn khóc lóc vẫn tiếp diễn. Điều này thật sự làm anh không thoải mái. “Có vẻ chúng ta đã bước vào giai đoạn bi lụy,” anh nói. “Đúng, tôi nghĩ anh biết điều đó.” Cô dùng mảnh ren vô dụng để lau mặt. “Không phải tôi mong đợi sự đồng cảm hay thậm chí là chút hiểu biết nào từ anh đâu.” “Tôi đang cố hết sức,” anh nói. “Nhưng mà, cô biết đấy, não tôi...” “Phải, tôi biết,” cô nói. “Y hệt của anh ta, ít nhiều—mặc dù ít hơn thì thật khó mà tưởng tượng. Dù sao thì, tôi nghĩ mình đã sẵn sàng để hy sinh rồi—tôi biết hầu hết mọi người sẽ nói coi việc trở thành một nữ công tước là sự hy sinh đúng là nực cười thật sự.” “Tôi chính là một trong số họ,” anh nói. “Cứ như thể tôi quan tâm anh nghĩ gì ý,” cô đáp. “Tôi suy sụp rồi,” anh đáp lại. “Không hiểu sao tôi lại đang cố giải thích nữa,” cô nói. “Chắc chắn anh ta đã nói hết những gì cần nói, và anh ta có sức thuyết phục đến đáng sợ, tôi cũng có lý do để đồng ý. Tôi tưởng mình sẵn sàng rồi. Nhưng hôn nhân là một Dấu Hỏi Lớn. Bạn nghĩ bạn đã hiểu người khác, đặc biệt là kiểu người như anh ta, người mà luôn là chủ đề bàn tán khắp nơi, nhưng làm sao có thể hiểu hết được? Tôi biết anh định nói gì.” “Tôi rất nghi ngờ điều đó,” anh đáp. Anh vẫn không hiểu cô đang muốn nói về cái gì. “Anh sẽ nói rằng tôi lẽ ra phải hỏi anh ta tại sao lại chọn tôi—và đừng bảo là vì anh ta thích tôi, vì chẳng ai thích tôi cả.” Anh chắc chắn rằng rất nhiều người đàn ông đã phải lòng cô. Nhưng điều anh không hiểu là tại sao không ai chiếm lấy cô cho đến bây giờ. Không phải tất cả đàn ông đều giống “Những Kẻ Bất Hảo”. Có rất nhiều người thực sự muốn kết hôn và dành cả đời để tìm ra cô gái phù hợp. Anh rút chiếc khăn tay trong túi và đưa cho cô. “Đúng vậy, cậu ta không giống những gã khác,” anh nói. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ xe. Trời vẫn đang mưa. Lo âu trước ngày cưới, anh tự nhủ. Thật ra, tất cả chỉ có vậy thôi. Anh nhìn chiếc váy dính đầy bùn của cô và những ngón chân lấm lem trong đôi dép. Anh tính toán quãng đường qua sông đến Twickenham và thời gian sẽ mất, trừ khi có sự cố, điều mà anh biết rõ là không thể tránh khỏi. Sau khi xem xét mọi yếu tố, kế hoạch của cô có thể thực hiện được. Anh đánh giá xác suất rất cao là sẽ đưa cô an toàn đến tay người dì trong vài giờ, trước khi trời tối. Danh tiếng của cô sẽ được giữ gìn. Thực tế, việc chạy trốn khỏi Ashmont có thể còn làm tăng thêm danh tiếng đó. Cũng như việc Ashmont đuổi theo cô, điều mà cậu ta chắc chắn sẽ làm. Với tính cách chiếm hữu và bướng bỉnh, cậu ta sẽ làm mọi cách để đưa cô trở lại. Và xã hội sẽ vô cùng hào hứng khi thấy một quý cô cuối cùng cũng khiến cậu ta phải chịu trách nhiệm. Hẳn Quý ngài Frederick sẽ rất thích đây. Vốn quen với những người phụ nữ có tiếng xấu, Ashmont đã làm hỏng những việc đơn giản nhất. Cậu ta chưa bao giờ phải nỗ lực, như Ripley và Blackwood thường phải làm. Thật ra, họ chẳng mấy khi liên quan đến phụ nữ đoan chính, những người dường như khó khăn hơn nhiều. Càng tốt, đến lúc một người phụ nữ khiến Lucius Luscious phải nỗ lực rồi. Cô gái này đã khiến cậu ta phải cố gắng trong việc tán tỉnh, rõ ràng là thế. Trong cả đám cưới. Và cô ấy sẽ tiếp tục khiến cậu ta phải cố gắng trong cuộc hôn nhân sau này nữa. Về phần lấy lại cô dâu, Đức ngài sẽ cần một chút chỉ dẫn, nhưng chắc chắn là không khó khăn gì. Tiểu thư Olympia dường như không hoàn toàn phản đối việc kết hôn với cậu ta. Nếu không phải vì rượu brandy, cô ấy có thể đồng ý rồi. Nhưng rượu mạnh có thể ảnh hưởng đến một số người theo cách này, những vấn đề nhỏ trở nên phóng đại đến mức không tưởng. Và những giải pháp ngu ngốc lại trông có vẻ như là ý tưởng tuyệt vời. Trong số tất cả những người, Ashmont hiểu rõ điều này nhất. Và thử nghĩ mà xem, sẽ thú vị thế nào khi thấy anh ta cố gắng quản lý cô dâu này? “Dì cô là người đàng hoàng, phải không?” Ripley hỏi. “Không phải kiểu kỳ quặc hay quá táo bạo? Không có thói quen đốt gối vào những lúc kỳ lạ, hoặc lén lút qua lại với hầu cận hay kỵ sĩ, kiểu đó?” Cô lau mắt và mũi. “Dì tôi cũng có chút táo bạo—ít nhất là theo lời dì Lavinia và mẹ tôi. Tuy vậy, dì Delia vẫn đủ đàng hoàng để thỉnh thoảng tiếp đón Nữ hoàng.” “Vậy sao bà ấy không đến dự đám cưới?” “Bà ấy bị ốm nhẹ nên không thể đi lại được. Đó là những gì bà viết cho mẹ tôi, ít nhất là vậy. Tôi không chắc bà có thực sự muốn đến không. Bà thấy Dinh thự Newland quá ồn ào với lũ trẻ cứ chạy qua chạy lại suốt ngày. Bà cũng cảm thấy như vậy về Dinh thự Gonerby —nơi hiện giờ còn hỗn loạn hơn nữa, vì công trình sửa chữa.” “Nhưng bà ấy thực sự có mặt ở nhà khi chúng ta đến đó chứ?” “Cô gật đầu, và chiếc mũ đội đầu trượt xuống thấp hơn. Cô nhăn mặt. “Anh không thể mong tôi trả lời mấy câu tò mò đó trong khi tóc tôi đang bị giật ra từng sợi. Trừ khi anh thích áp dụng các phương pháp của Tòa án Dị giáo. Nếu anh không giúp tôi tháo thứ này ra khỏi đầu—ngay lập tức—thì tôi không thể chịu trách nhiệm cho hậu quả đâu.” “Cô vừa đe dọa tôi à?” anh nói. “Bởi vì trông cô chẳng đáng sợ chút nào, đến mức tôi có thể chết vì cười quá nhiều.” Cô đẩy lại cặp kính, vốn chỉ trượt xuống một khoảng nhỏ trong cơn bão nước mắt. Cô nhìn anh chằm chằm, hoặc ít nhất là cố gắng làm vậy trong trạng thái chếnh choáng của mình. “Thôi khỏi đi,” cô nói. “Nếu việc này quá khó với anh, tôi sẽ tự xử lý. Nhưng nếu có gì bay ra và đập vào mặt, thì đừng có mà trách tôi.” “Đó là lý do khiến cô không tự làm à?” anh nói. “Vì sợ kiểu tóc của cô phát nổ sao?” “Tôi không có gương,” cô nói. “Tôi không thể nhìn thấy đỉnh đầu—hay bất cứ phần nào của đầu mình. Nhưng thôi, anh cứ tiếp tục việc của anh đu, đừng để ý đến tôi nữa.” Cô giơ tay lên, bắt đầu lần mò vào phần đỉnh của chiếc mũ. Động tác đó khiến cơ thể cô chuyển động một cách rất đặc biệt, làm anh nhớ đến những vũ công Ai Cập trong một buổi biểu diễn nào đó mà anh từng xem ở một nhà hát nào đó. Cuối cùng, cô cũng tháo được một chiếc ghim cài tóc, nhưng nó trượt khỏi tay và rơi xuống đống rơm. Cô lẩm bẩm gì đó. Mất một chiếc ghim cài tóc không phải là chuyện lớn. Dì của cô chắc chắn có cả đống. Nhưng những chuyển động kia khiến anh nhớ lại cách cô quằn quại khi anh bế cô lên khỏi vũng bùn—gợi nhắc bản năng giống nòi trong anh, một cách sống động đến khó chịu, nhất là sau khoảng thời gian dài thế này… Đúng rồi. Anh sẽ để chuyện sống trong cảnh cô đơn suốt mấy tháng qua lại giải quyết sau. Tối nay, thật ra là vậy. Sau khi vấn đề về cô dâu được xử lý xong. Ripley sẽ để cô an toàn bên cạnh bà dì. Chỉ cần chút thúc đẩy và vài gợi ý rõ ràng, Ashmont sẽ quay lại đón cô. Đây là một trò đùa thú vị, kiểu mà Ashmont rất thích thú—sau khi cậu ta bình tĩnh lại. Dù gì thì cậu ta cũng đã từng bày không ít trò tương tự. “Tôi quyết định sẽ giúp cô,” Ripley nói. “Tôi muốn chợp mắt một lát, nhưng điều đó là không thể khi cô cứ nhảy nhót và lẩm bẩm chửi rủa như thế.” “Tôi không—” “Tôi hiểu tiếng Pháp, cô biết đấy. Đến một mức độ nhất định. Tất cả những từ chửi thề đều nằm trong giới hạn đó.” *** Nhờ cơn mưa và lớp bụi bẩn tích tụ hàng thập kỷ trên cửa sổ, bên trong xe ngựa tối tăm chẳng khác nào một hầm mộ. Dù vậy, Olympia vẫn có thể nhìn thấy Công tước xứ Ripley rõ ràng. Khó mà không nhận ra anh, khi anh chiếm gần hết không gian trong xe. Cô nhận thức rõ hơn mức mình muốn về đôi chân dài của anh, duỗi thẳng ra, chỉ cách chân cô vài inch. Cô rời tay khỏi chiếc mũ chùm đầu và nhìn về phía anh. Dù khuôn mặt anh chìm trong bóng tối, cô vẫn có thể nhận ra sống mũi dài, cao đầy uy nghiêm cùng những đường nét góc cạnh trên gò má và quai hàm. Cô biết đôi mắt anh màu xanh lục. Cô đã nhận ra nó ngay từ Mùa vũ hội đầu tiên của mình, khi họ được giới thiệu với nhau, và cô cảm thấy vô cùng lúng túng. Một phần là vì anh quá… choáng ngợp. Cô biết anh không cao lớn hơn Ashmont. Tất cả ba Kẻ Bất Hảo đều là những người đàn ông cao ráo, cường tráng. Và tất cả, chắc chắn, đều chẳng hề cư xử đúng mực. Nhưng ánh nhìn của Ripley mới là thứ khiến cô có cảm giác như mình chưa mặc đủ quần áo. Nụ cười như sói của anh là thứ khiến cô cứng họng. Nhưng đó là khi cô còn non nớt và thiếu tự tin. Hồi đó, ba vị công tước được coi là khá ngông cuồng nhưng vẫn vô cùng đáng khao khát. Tuy nhiên, họ luôn tránh xa Chợ Hôn nhân. Hiếm khi nào họ xuất hiện gần những tiểu thư xinh đẹp và nổi bật. Vì lý do đó, những lần Olympia nhìn thấy Ripley qua nhiều năm hầu như chỉ là từ xa. Qua một phòng khiêu vũ đông đúc. Trên lưng ngựa hoặc xe ngựa ở Hyde Park. Trong các sự kiện công cộng như đua thuyền hoặc đua ngựa. Suốt năm vừa qua, cô không gặp anh lần nào, vì anh đang ở nước ngoài. Dựa trên quan sát hiện tại, cô nhận thấy anh chẳng thay đổi gì. Anh vẫn giữ ánh mắt lười biếng khiến cô cảm thấy gai người. Ánh mắt đó lẽ ra chẳng nên khiến cô có cảm giác như vậy, vì nó không tiết lộ bất cứ điều gì. Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong trường hợp của anh, cửa sổ ấy đã đóng kín. Mà có lẽ thế lại tốt hơn. Dù có để lộ cửa sổ tâm hồn đi nữa, cô cũng chẳng thể nào đoán được tâm trạng của anh. Hiện tại, đầu óc cô hoàn toàn không đáng tin cậy. Mỗi khi cố gắng suy nghĩ, những ý nghĩ ấy cứ nhảy múa, trốn chạy khỏi tầm với của cô. Thêm nữa, chiếc mũ chùm đầu khiến việc suy nghĩ trở thành một điều đau đớn. Cứ từ từ giải quyết từng việc một, cô tự nhủ. Khi đến cầu Battersea, cô sẽ đối mặt với chuyện tiếp theo, bất kể đó là gì. Lúc này, điều quan trọng nhất chỉ là rời đi. Khỏi tất cả mọi người. “Ngồi sát mép ghế và nghiêng người về phía tôi,” Ripley nói. Giữa sự lắc lư của xe ngựa và ảnh hưởng của rượu brandy, cô không chắc mình có thể giữ thăng bằng. Nhưng cô nhất định sẽ không thừa nhận điều đó với anh. Như hiện giờ, cô chắc rằng anh đang cười nhạo mình. Dẫu sao thì, anh cũng chẳng nổi tiếng vì sự nghiêm túc. Và, công bằng mà nói, trông cô lúc này cũng chẳng ra dáng đoan trang chút nào. Quan trọng hơn, cô cần tháo bỏ cái thứ kinh khủng trên đầu mình ra. Nó khiến cô cảm thấy như đang đội một cái tháp đồng hồ. Cô ngồi sát mép ghế và nghiêng người về phía anh. Rồi cô suýt bật dậy khỏi ghế, bởi những ngón tay dài của anh luồn vào tóc cô, chạm đến da đầu khi anh thăm dò. Những nếp viền ở cổ tay áo của anh khẽ chạm vào mặt cô, gợi nên cảm giác ngưa ngứa. Cô nhận ra mùi vải ẩm và một mùi khác—nước hoa hay xà phòng cạo râu gì đó, mang một nét nam tính nồng nàn. Ngay lúc đó, cô nhớ lại—và cảm giác cũng trở lại—cảnh tượng khi anh dùng tay nâng cô lên khỏi đống bùn lầy… Kích thước bàn tay anh, cảm giác từ sức mạnh của anh… thân hình to lớn của anh… lưng cô tựa vào một lồng ngực cứng như đá. Ấm áp. Rồi đôi tay dài đó lại lồng vào nhau để cô bước lên… và sau đó là nắm lấy cổ chân cô. Anh không phải anh em trai cô. Cô từng được các anh em trai giúp trèo qua tường rào, nhưng anh thì hoàn toàn khác. Anh là người mà chỉ cần nhìn vào một cô gái thôi cũng khiến cô có cảm giác như quên mặc quần áo. Anh chẳng có gì giống một người anh—và việc nhớ lại lời giải thích lộn xộn của mẹ về chuyện xảy ra trong đêm tân hôn càng không giúp cô giữ được sự bình tĩnh lúc này. Olympia chỉ muốn thoát xác. Nhưng không. Cô không cho phép bản thân nghĩ về việc Công tước xứ Ripley có thể đã nhìn thấy gì khi cô đứng trên vai anh. Chỉ mới nghĩ đến chuyện nghĩ về điều đó thôi đã khiến cô chóng mặt. Càng chóng mặt hơn. Và vô cùng bất an. “Đừng cựa quậy nữa,” anh nói. “Tôi đâu có,” cô đáp. “Cô ngồi yên không được à,” anh nói. “Tôi phải lần mò bằng tay vì trong này quá tối, chẳng thể nhìn thấy gì. Tôi không làm được nếu cô cứ nhúc nhích như thế.” “Tôi có kiểm soát được việc xe ngựa cứ lắc lư đâu,” cô nói. “Với lại, tôi thấy cực kì khó chịu.” Đó vẫn còn là nói giảm nói tránh. Cô cảm thấy như có gai đâm khắp người. Nóng bức. Và rối bời. “Tôi đang cố làm nhanh nhất có thể rồi, nhưng người hầu gái hay thợ làm tóc của cô giấu đám ghim ở chỗ quái quỷ nào vậy. Cái thứ này được dán chặt lại à?” “Không, chỉ là hàng ngàn cái ghim và một chút keo pomatum thôi.” “Đưa tay ra đi, tôi sẽ đưa ghim cho cô,” anh nói. “Chắc là không cần giữ lại đám cành lá đỗ quyên này chứ? Hiện tại, cô làm tôi nhớ đến Ophelia sau khi rơi xuống nước.” “Mạn che mặt bị vướng vào mọi thứ,” cô nói. Rồi cô nhận ra điều anh vừa nói. “Anh biết Hamlet à?” “Tôi thích tất cả các vở kịch của Shakespeare,” anh nói. “Nhiều cảnh bạo lực và những trò đùa tục tĩu.” Chẳng có gì ngạc nhiên cả. Cô đưa tay ra. Ngón tay anh chạm nhẹ vào tay cô khi anh thả vài chiếc ghim xuống, để chúng lăn trên da. Cô ước gì mình đã đeo găng tay trước khi rời đi. Nhưng vấn đề là, cô phải quay lại phòng để lấy chúng, mà chắc chắn sẽ có người chờ sẵn ở đó: mẹ cô, dì Lavinia. Olympia sẽ bị mắc kẹt. Lúc đó thì đúng là không còn đường lùi. Và phải. Cô đáng lẽ không nên chờ đến phút cuối mới thay đổi ý định. Cô đáng lẽ không nên đổi ý. Có chuyện gì không ổn với cô vậy? Cô nhìn những cánh hoa—một vài cánh đỏ thẫm, số khác nhạt như màu hồng phấn—rơi xuống đống rơm. Những mảnh lá xanh bóng cũng khẽ khàng bay theo sau. Cô đã làm gì thế này? Không sao, không sao. Cứ từ từ giải quyết từng chuyện một. *** Cô đã nhầm về số lượng ghim cài tóc. Ripley ước chừng phải có ít nhất mười ngàn cái. Nhưng một khi anh xác định được kiểu sắp xếp của chúng, anh bắt đầu tháo gỡ hiệu quả hơn. Từ mái tóc dày, óng ả của cô tỏa ra mùi hương hoa oải hương thoang thoảng, điểm thêm chút hương hương anh thảo. Đó là một mùi hương bất ngờ thuần khiết. Anh vốn quen với những mùi thơm đậm đà mà các nữ diễn viên, kỹ nữ, và những quý bà lừng lẫy của giới quý tộc thường dùng cho tóc mình. Anh chợt nhận ra mình đang cúi đầu xuống gần hơn và lập tức ngửa ra sau. Ngay cả khi làm một cách khéo léo, quá trình này vẫn rất lâu, không chỉ là việc tháo ghim cài tóc mà còn phải gỡ các bông hoa cam và lớp ren phức tạp mà không làm rối tung mái tóc của cô. Một người phụ nữ mặc váy cưới chạy lung tung ngoài đường đã đủ tệ. Dù trong bất kỳ loại váy nào, nếu để tóc xõa, cô ấy sẽ bị xem là một kỹ nữ hoặc một kẻ điên. Một quý cô không bao giờ để tóc xõa trừ khi chuẩn bị lên giường. Tóc xõa đồng nghĩa với phụ nữ phóng túng. Nói cách khác, cô sẽ trở thành mục tiêu để giải trí, dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng không phải với anh. Dù sao thì anh cũng chỉ là phù dâu bất đắc dĩ. Anh không thể để cô đi bất cứ đâu mà không có anh. Không phải việc đó hoàn toàn tệ. Cô khá thú vị. Và anh đang mong chờ giúp cô khiến Ashmont phát điên. Tuy vậy, Ripley vẫn ước gì mình có cái mũ. Ngay cả kẻ ăn mày thảm hại nhất cũng xoay xở được thứ gì đó để che đầu, dù có rách nát đến đâu. Nên không có gì ngạc nhiên khi Công tước xứ Ripley, người coi các quy tắc của Xã Hội như một cuốn sách hài, lại cảm thấy nhấp nhổm bên trong vì phải ra đường mà không đội mũ. Tốt nhất là đừng nghĩ về cái đầu trần của mình. Cũng đừng để tâm quá nhiều đến mùi hương tỏa ra từ tóc cô và cách nó gợi lên hình ảnh anh lười nhác trong một khu vườn đầy nắng ở Tuscany. Nhưng chẳng có biệt thự nào ở Tuscany gần đây cả. Cũng không có bá tước phóng đãng nào ở đây. Chỉ có cô dâu sắp cưới của Ashmont. Và đây không phải Tuscany hay bất cứ thứ gì giống Tuscany. Đây là London, nơi mưa rơi như một thói quen, còn Công tước xứ Ripley thì đang đóng vai thợ làm tóc trong một chiếc xe ngựa cũ kỹ, bẩn thỉu, lê lết về phía cầu Battersea. Dù sao thì đây cũng là một trải nghiệm mới. Cuối cùng, anh cũng tháo được chiếc mũ chùm đầu khỏi tóc cô mà không quá nhiều tiếng hét—từ phía cô hay phía anh. Nhưng hóa ra một vài lọn tóc tết là của cô, và phần tóc cuộn ở hai bên đã bung ra, nói chung thì, mọi thứ dường như bị rối hết lên. Anh vội vàng chộp lấy những chiếc ghim từ lòng bàn tay cô và chỉnh lại những lọn tóc lủng lẳng, không đẹp đẽ cho lắm, nhưng chí ít là được cố định lại Cuối cùng, anh thả chiếc mũ và tấm mạn che lên đùi cô, rồi ngả người ra sau. Cô nhìn xuống đống ren và hoa cam trên đùi mình. “Đây là ren màu vàng, đắt lắm đấy,” cô nói. “Chắc chắn sẽ bán được gì đó ở tiệm cầm đồ. Đủ để trả tiền cho người chèo thuyền.” “Tôi không mang chiếc mạn cưới của cô đi cầm đồ đâu,” anh nói. “Tôi có yêu cầu anh làm vậy à? Tôi hoàn toàn có thể—” “Hôm qua cô có thể làm được nhiều thứ,” anh nói. “Nhưng hôm nay không phải là hôm qua. Hôm nay cô say rượu. Cô đang mặc váy cưới. Nếu cô đi được một bước mà không có tôi, cô sẽ bị tấn công. Dù chuyện gì xảy ra, đó sẽ là lỗi của tôi, và không có từ nào đủ mạnh, cũng không có từ nào đủ để diễn tả sự chán chường của tôi khi phải nói về các cuộc đấu khẩu.” Cô mở miệng—chắc chắn là để phản bác. Nhưng rồ lại khép miệng lại và nhìn xuống đống đồ trang sức đầu tóc đã được tháo dỡ. Cô đang thay đổi suy nghĩ à? Anh có thể làm việc với điều đó, mặc dù— “Anh mang đủ tiền để trả cho người chèo thuyền không?” cô hỏi. “Sau khi trả cho người lái xe ngựa? Dù anh là công tước, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, các quý ông không mang nhiều tiền theo mình.” Anh nhìn cô một lúc, nhìn những vết bẩn trên mũi cô và những vết ố trên kính mắt cô từ nước mắt hoặc mưa, và cả cách anh đã làm tóc cô rối tung. Kể từ khi còn nhỏ, chưa bao giờ có người phụ nữ nào hỏi anh liệu anh có đủ tiền không. Để làm gì. Điều đó khá là cảm động. Nhưng đó không phải là nhiệm vụ của anh. Nhiệm vụ của anh là quản lý mọi chuyện để chúng kết thúc theo cách đúng đắn. Cũng đơn giản thôi. Đưa cô đến chỗ dì cô, khiến Ashmont tìm lại cô, và làm mọi người tin rằng đó chỉ là một trò đùa tinh quái đặc trưng của các công tước nhà họ. “Thực ra, tôi mang theo tiền mặt sẵn cho tiền boa, hối lộ, và những thứ linh tinh khác,” anh nói. “Ashmont rõ ràng là quá… hào hứng… với việc kết hôn nên không nghĩ đến những chuyện tầm thường.” “Hào hứng,” cô nói. “Đó là cách anh gọi sao? Tôi thì nghĩ anh ta đã say khướt khi ba người các anh xông vào tôi.” “Chó chê mèo lắm lông,” anh nói. Chiếc xe hackey dừng lại với một tiếng rầm, như đã làm nhiều lần trong suốt chuyến đi dài đằng đẵng. Ripley nhìn ra ngoài cửa sổ bẩn thỉu. Nhờ vào những vết trầy cáu bẩn, cảnh vật bên ngoài có thể là bất cứ thứ gì. Anh hạ cửa sổ xuống. Mưa đã giảm thành mưa phùn. Người lái xe gọi lớn: “Cầu Battersea, thưa Đức ngài.” “Chúng ta vẫn có thể quay lại,” Ripley nói. “Không.” cô nói.
Chương 3 Dịch: thuylinhh Những giọng nói mà Tiểu thư Olympia và Công tước xứ Ripley nghe thấy trong khu vườn thuộc về các anh em trai của cô, hai người nhỏ tuổi nhất đang tìm cách ngăn cản người anh cả. Âm mưu này diễn ra như sau: Khi Ngài Ludford rời khỏi phòng trẻ, Clarence hét lên, “Drew, nhanh lên! Mau cản anh ấy lại!” Andrew lao ra khỏi phòng học và chạy nhanh về phía cầu thang, Clarence chạy sát phía sau người anh cả. “Để chị ấy đi đi!” Clarence hét. “Anh đừng có bắt nạt chị ấy nữa, anh là đồ hống hách!” Điều này thực sự không công bằng với Ludford. Không chỉ vì anh không hống hách hơn bất kỳ người anh cả nào mà còn bởi anh đã nhiều lần nhận trách nhiệm và thậm chí là chịu phạt thay cho những trò nghịch ngợm của các em mình. Khi Ludford quay lại trừng mắt nhìn Clarence, Andrew chớp ngay cơ hội, phóng lên cầu thang trước họ. Thằng bé lao xuống cầu thang, băng qua một hành lang, qua một cánh cửa, rồi tiếp tục chạy xuống một trong vô số cầu thang phụ của ngôi nhà cổ. Thề rằng sẽ xử lý đám em sau, Ludford đuổi theo, hoặc cố gắng làm vậy. Clarence, người đang đuổi theo Ludford xuống cầu thang chính, vượt qua anh ở tầng một trước khi phóng về phía hành lang của người hầu. Thấy có khách đang đứng gần cửa phòng khách và không muốn gây chú ý thêm cho những lời đồn vốn đã lan xa, Ludford chọn con đường thận trọng và đi theo cậu em trai. Họ đi ngang qua một vài người hầu trên đường xuống tầng trệt, nhưng chẳng ai bất ngờ. Đám người hầu đã quen với cảnh những đứa trẻ hiếu động chạy nhảy khắp nơi. Khi Ludford đến khu vườn, Andrew đã dẫn trước một khoảng khá xa, còn Clarence chỉ chậm hơn chút đỉnh. “Cẩn thận, Olympia!” Andrew hét lên. “Bầy chó săn đang đuổi theo chị đấy!” Clarence tiếp tục la hét, theo kiểu như vậy, hét vang như thể những kẻ thù nham hiểm đang truy lùng chị gái mình, thay vì chính anh trai họ, người chỉ muốn hỏi xem chuyện gì đang xảy ra. Vấn đề của Ludford lúc này là cô em gái đã đọc quá nhiều tiểu thuyết phiêu lưu lãng mạn cho mấy cậu nhóc trong phòng trẻ. Giờ đây, bọn trẻ tự đọc và nghĩ ra những kế hoạch phức tạp với các pha hành động rùng rợn và những tình huống thoát chết trong gang tấc giữa các hiệp sĩ quả cảm, người Viking, hải tặc, kẻ cướp đường, và vân vân. Phải mất một lúc Ludford mới nhận ra các em mình đã dẫn anh đi lòng vòng. Anh chẳng nhớ rõ đường trong khu vườn trong Dinh thự Newland, còn bọn trẻ thì thuộc nằm lòng vì mỗi lần đại gia đình ghé thăm, chúng lại được thả tự do. Khi anh đến được cổng sau của khu vườn, hai thằng “tiểu quỷ” đang bám lấy cánh cổng sắt chạm khắc, nhìn chằm chằm ra con phố phía ngoài. Ludford cũng nhìn theo. Cả em gái anh lẫn Ripley đều không thấy đâu. Sau khi thốt ra một loạt lời nguyền rủa dành cho các em mình, và bất chấp việc quần áo sang trọng trong ngày cưới bị hư hại, Ngài Ludford trèo qua bức tường và lao nhanh xuống Phố Horton. *** “Không phải tàu hơi nước,” Ripley nói. “Hiện tại, hành khách đang mải chen lấn, la hét, tranh giành lên tàu, chẳng ai thèm để ý đến chúng ta. Nhưng khi họ đã ổn định, họ sẽ tìm thứ gì đó để làm trò tiêu khiển, và chúng ta sẽ trở thành tâm điểm, với cô là ngôi sao chính.” Anh nắm tay Tiểu thư Olympia, kéo cô về phía những người chèo thuyền đang tụ tập bên bậc thang cầu Battersea. Chiếc khăn quàng cổ từng hoàn hảo và những đường xếp nếp tinh tế trên áo sơ mi anh giờ đã xộc xệch. Áo khoác và quần đều lấm lem bùn đất và vệt mưa. Đôi giày vốn không được thiết kế để dầm mưa dãi nắng giờ đầy vết xước và bùn đấy. Dẫu vậy, anh vẫn là một người đàn ông, và hơn thế, là một công tước. Suy nghĩ của người khác chẳng mấy quan trọng... dù anh thực sự ghét việc mình không có mũ. Còn cô thì không phải đàn ông, càng không phải công tước. Chiếc váy cưới của cô lấm đầy bùn đất, vương cỏ xanh và ướt sũng mưa. Đôi giày nhỏ xinh giờ đã cáu bẩn. Tấm mạng che mặt rách nát, nhàu nhĩ buông thõng trên tay cô. Cô còn để đầu trần, bất chấp lớp keo vuốt tóc, mái tóc ẩm ướt của cô bắt đầu xoăn tít lên, rối bời như thể cố tình gây sự chú ý. Rồi còn đôi kính kia – nằm ngay ngắn trên sống mũi nhỏ nhắ, trông nghiêm nghị đến kỳ lạ giữa “mớ đổ nát” của bộ trang phục cưới. “Đúng vậy, dĩ nhiên rồi,” cô nói, chỉnh lại gọng kính dù nó chẳng hề lệch. “Như thế này, chúng ta chỉ làm phiền những người chèo thuyền. Có thể nói với họ rằng chúng ta bị cướp đường chặn lại trên đường đến lễ cưới.” “Chúng ta không nói gì cả,” anh đáp. “Nhiệm vụ của họ là đưa chúng ta đến nơi cần đến, nhiệm vụ của chúng ta là trả tiền.” Ánh mắt anh quét qua những con thuyền đang neo đậu dọc bờ, và dừng lại ở một chiếc nhỏ có bốn mái chèo. Những người chèo thuyền đã căng một tấm bạt che mưa. Anh dẫn cô tiến về phía đó. “Nhưng nếu có người đuổi theo thì sao?” cô hỏi. ““Nếu nhận được sự đồng cảm từ người chèo thuyền, họ sẽ ít có khả năng phản bội chúng ta hơn.” “Tiền bao giờ cũng nói to hơn,” anh đáp. Việc bị phản bội không làm anh bận tâm. Phân nửa thế giới này nhận ra anh, và khó ai không chú ý đến cô. Người ta sẽ bàn tán. Nhưng miễn là cô an toàn ở Twickenham trước khi trời tối, Ripley hoàn toàn có thể xử lý phần còn lại. Đúng là lần này không phải trò chơi khăm đơn giản nhất anh từng làm. Có quá nhiều yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát, mà Ashmont chính là vấn đề lớn nhất. Ai biết được liệu cậu ta đang uống say hơn hay đã chìm vào cơn mê mệt. Điều đó tăng khả năng gia đình cô đang trên đường truy lùng, một tình huống thật kém thú vị. Ripley không thích nghe những lời cáo buộc hay yêu cầu giải thích. Anh chưa bao giờ thấy cần phải giải thích bất cứ điều gì, kể cả với bản thân. Họ đến chiếc thuyền mà anh đã chọn. Nhờ tiền mặt sẵn có và phong thái của một công tước khiến chẳng ai dám hỏi han, anh nhanh chóng thu xếp mọi việc. Rồi anh phải đưa cô lên thuyền. Việc này lẽ ra không khó. Những chiếc thuyền của dân chèo trên sông Thames đều có phần mũi dài và hẹp, giúp hành khách bước lên mà không bị ướt. Ripley đã chọn một chiếc thuyền lớn, dành cho nhiều hơn hai người, với những tay chèo trông vừa khỏe mạnh vừa đáng tin nhất trong số những người đang chờ khách. Cô nhìn chằm chằm vào chiếc thuyền nhỏ và hỏi, “Là nó sao?” “Chiếc thuyền của Ngài Thị trưởng đang bận, không tiện phục vụ,” anh đáp. Du thuyền của tôi, lần cuối cùng tôi nghe, thì là đang ở Worthing. Đây chính là thuyền của chúng ta.”” Hai tay chèo nhìn họ đầy hứng thú. Việc họ im lặng chứng tỏ số tiền Ripley đưa ra đủ lớn để đổi lấy sự nhanh chóng và kín tiếng. Thuyền chèo sông Thames vốn không nổi tiếng với sự rụt rè. “Trông nó có vẻ thấp sát mặt nước,” cô nói. “Đó là thiết kế của nó,” anh trả lời. “Để tăng độ ổn định và… Thôi, để tôi giải thích về khoa học đóng thuyền sau. Bây giờ, cứ bước lên đi. Và cố đừng ngã trước khi đến chỗ ngồi. Nếu cô có ngã, cô cũng không chết đuối đâu, vì nước ở đây không sâu. Nhưng sẽ có người phải vớt cô lên, và mặc dù tôi không nghĩ mình có thể ướt thêm nữa, tôi cũng chẳng muốn lội vào đống bùn kia.” Tất nhiên, anh sẽ làm nếu cần. Anh không thể để hai gã chèo thuyền thô kệch này động vào cô được. “Tôi thấy hơi chóng mặt,” cô nói. “Có phải cô đang định quay lại và nằm nghỉ cho thoải mái không?” “Mơ đi.” “Chắc chứ?” Nếu cô không chắc, anh sẽ đưa cô quay lại. Anh có thể nói tất cả chỉ là một trò đùa tai tiếng khác của đám "Những Kẻ Bất Hảo" rồi để mọi chuyện kết thúc ở đó. Điều đó chắc chắn không thú vị bằng việc để Ashmont đuổi theo cô đến tận Twickenham. Nhưng ngay cả Ripley cũng không đi xa đến mức làm cô bất tỉnh chỉ để thực hiện một trò đùa công phu hơn. “Đến giờ mà quay lại thì thật ngớ ngẩn,” cô nói. “Đúng thế,” anh đáp. “Và cô không nghĩ việc mình đứng đây thay vì—giả dụ nhé – đang dự tiệc cưới, là điều hơi thiếu khôn ngoan sao?” Cô ngước lên nhìn anh. “Anh nghĩ vậy à? Anh không thấy gì bất thường khi mình đang cũng đứng đây với tôi sao?” “Hoàn toàn bình thường,” anh đáp. “Thật ư?” “Chẳng phải cô đã bảo tôi cô là một tiểu thư gặp nạn sao?” anh nói. “Tôi là hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng ngời của cô đây.” Cô nhướn mày. “Một sự thay đổi thú vị,” anh nói. “Tôi không gọi đó là thay đổi,” cô đáp. “Với anh, tôi gọi đó là…” Cặp lông mày hạ xuống, nhưng đôi mắt cô lóe lên tia hài hước. “Ngày tận thế.” “Cô định bước lên thuyền, hay muốn tôi làm điều mà một kẻ đói khát, chẳng mấy lịch thiệp, có thể làm, đó là quẳng cô xuống dưới nước?” anh nói. Cô liếc nhìn cây cầu gỗ, thứ đã đứng vững bất chấp mọi định luật vật lý – và thẩm mỹ – suốt sáu mươi năm qua. Nó được xây ở một góc nghiêng khó chịu với dòng chảy của sông và có tới mười tám cột trụ hẹp. Thuyền bè thường xuyên va vào nó. Như nhiều người đã nhận xét, cầu Battersea được xây để tiện lợi cho người đi trên cầu và gây bất tiện cho kẻ đi dưới cầu. Cây cầu duy nhất trên sông Thames có thể sánh ngang về sự bất tiện và ngớ ngẩn là cây cầu tiếp theo, ở Putney. “Hoặc chúng ta cứ đứng đây chờ,” Ripley nói. “Nếu chờ đủ lâu, Ashmont có thể xuất hiện để cứu cô khỏi tay tôi.” Anh nhìn lại đám đông đang đợi tàu hơi nước. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy bị truy đuổi. Nhưng thời gian không chờ đợi. Họ đã đi xe ngựa bao lâu? Nếu cưỡi ngựa hoặc dùng xe riêng, Ashmont có thể đi nhanh hơn – nếu (a) anh ta còn tỉnh táo, (b) anh ta ráp nối được vài manh mối, và (c) anh ta rút ra được kết luận hiển nhiên. Nói cách khác, khả năng không cao lắm. Khi Ripley quay lại nhìn cô dâu, anh thấy cô đang chăm chú quan sát mình. Đôi mắt cô giờ trông xanh thẳm. “Không,” cô nói. “Con xúc xắc đã lăn. Định mệnh của tôi đã định. Hôm nay tôi sẽ không cưới ai và thế là xong.” Tốt. Không còn đường lui nữa. Tuyệt. Không quay lại hứa hẹn sẽ thú vị hơn rất nhiều. “Anh sẽ giúp tôi lên chứ?” cô hỏi. “Hay anh muốn đứng nhìn tôi ngã vào thuyền?” “Nhìn cô ngã chắc chắn sẽ vui hơn,” anh nói. “Vấn đề là, điều đó sẽ khiến mấy tay chèo và người đứng xem thích thú, mà chúng ta đã gây đủ sự chú ý rồi.” “Chẳng phải đó là điều anh luôn theo đuổi sao,” cô nói, “thu hút sự chú ý? Hay điều đó chỉ là vô tình? Vì nếu không, điều đó có nghĩa là anh thực sự nghĩ về nó và... ” Cô nhíu mày. “Thôi, tốt hơn là không nên tưởng tượng xem chuyện gì diễn ra trong đầu anh. Dù sao thì, tôi cũng không muốn suy nghĩ quá nhiều vì suy nghĩ quá nhiều khiến tôi mệt. Có phải đó là một nghịch lý không nhỉ?” “Đừng tưởng tượng. Cũng đừng suy nghĩ gì nữa. Chỉ cần—” “Nó cũng giải thích khá nhiều về hành vi của một số quý ông mà tôi sẽ không tiện nêu tên. Tác động của các loại đồ uống có cồn—” “Lên thuyền ngay,” anh cắt ngang. Ripley nắm lấy khuỷu tay cô và dẫn cô tới phần mũi thuyền. Phần này thì dễ. Nhưng sau đó là những bước đi loạng choạng, những câu lầm bầm bằng tiếng Pháp, chiếc khăn voan lòa xòa bay tứ tung, lớp váy quấn lấy chân anh, và vài lần va chạm chẳng mấy tao nhã giữa cô dâu và phù rể. Trong vài phút hỗn loạn, anh phải dồn hết sức để không ngã khỏi thuyền, không bật cười, hoặc – tệ hơn – không làm gì đó quá đỗi thiếu đứng đắn. Rốt cuộc, anh không chỉ là một người đàn ông, mà còn là người ít khi chịu hành xử đúng mực. Cuối cùng, anh cũng giúp cô ngồi vào chỗ dưới mái che thô kệch. Chiếc bạt phía trên, có lẽ từng được dùng để đựng cá hay nạo vét sông, vẫn còn ám mùi không mấy dễ chịu. Váy cô phồng lên quanh người anh, và một cơn gió mạnh thổi tung chiếc khăn voan, làm nó quấn lên mặt anh. Anh gạt nó ra đúng lúc cô cũng kéo nó đi, khiến ngón tay họ khẽ chạm vào nhau. Cô bối rối, quay mặt đi, nhìn chăm chăm vào dòng nước. Tâm trí anh vẫn quanh quẩn khoảnh khắc cô loạng choạng ngã vào rồi rời khỏi vòng tay mình khi leo lên thuyền. Và cả mùi hương thoang thoảng từ mái tóc cô nữa. Đúng là một dòng suy nghĩ vớ vẩn. Ngay khi chuyện này kết thúc, anh sẽ tìm đến một góa phụ vui tính hay một cô nhân tình để chữa trị thứ đang ám ảnh mình. Anh cố nghĩ đến… mũ. Anh ước gì mình có một chiếc, và tự hỏi liệu có thể tìm được thứ gì đó tạm dùng được trong thời gian ngắn hay không. Cuối cùng, con thuyền cũng rời bến, và mọi suy nghĩ rời rạc trong đầu anh tan biến theo làn gió sông. Lúc này đây, điều Công tước xứ Ripley cảm nhận – không mấy bất ngờ – là một sự nhẹ nhõm. *** Dinh thự Newland Ngài Ludford phát hiện Công tước xứ Ashmont ở trong phòng ăn, cúi đầu trên một chậu nước lớn, trong khi Công tước xứ Blackwood thì đang dội nước lạnh lên đầu anh ta. “Khỉ thật, lạnh quá,” Ashmont càu nhàu. Blackwood dừng tay. “Đừng dừng lại,” Ashmont nói. “Phải làm cais đầu tôi tỉnh táo đã.” “Nhưng không cần làm thế vì đám cưới đâu,” Ludford chen vào. “Vì có vẻ như sẽ chẳng có đám cưới nào cả. Olympia đã bỏ trốn cùng bạn anh rồi.” Cái đầu tóc vàng của Ashmont ngẩng lên đột ngột, làm nước bắn tung tóe lên Blackwood, người lập tức bước lùi lại và buông một câu chửi không mấy nhã nhặn. “Cái quái gì thế?” Ashmont thốt lên. “Con bé đã bỏ trốn, và Ripley đi cùng nó. Họ lên một chiếc xe ngựa trên High Street, nhưng chẳng ai biết họ đi đâu hết.” Những chiếc xe ngựa thuê thường có thể quay ngược hoặc đi vòng để tránh những đoạn đường thường xuyên bị tắc nghẽn. Không biết Ripley đã chỉ thị cho người đánh xe đi hướng nào nên không thể đoán được họ đang ở đâu. “Tôi nghĩ anh biết Ripley định đi đâu,” Ludford nói. “Hoặc anh ta sẽ làm gì.” Ashmont và Blackwood nhìn anh, rồi nhìn nhau. Lúc đó, một người đàn ông cao, tóc vàng sáng, trung niên bước vào phòng. Khuôn mặt điển trai, thanh tú của ông ta thể hiện rõ sự thuộc dòng họ Beckingham. “Bác Fred,” Ashmont lên tiếng. “Có chuyện rất buồn cười vừa xảy ra.” Ngài Frederick Beckingham nhướng một bên mày. “Thật vậy sao. Lẽ ra giờ này cháu phải cưới vợ rồi chứ.” Ludford kể lại những gì anh vừa chứng kiến. Ngài Frederick nhìn cháu mình. “Đừng nói đây là một trò đùa của cháu nhé.” “Không phải cháu,” Ashmont nói. “Là của Ripley.” “Rõ ràng là,” Blackwood nói. “Như tôi định nói với Ludford, không cần phải lo. Họ sẽ không đi xa. Họ chỉ biến mất đủ lâu để gây náo động thôi.” “Thật vậy không?” Ngài Frederick hỏi. “Ta phải thú nhận là ta rất bối rối không hiểu tại sao Tiểu thư Olympia lại đồng tình với chuyện đó.” “Phải đấy, tại sao chứ?” Ludford nói. “Con bé từng nói rằng cả ba anh chẳng đáng giá gì cả.” “Cô ấy chắc chắn phải nghĩ tôi có chút giá trị,” Ashmont nói. “Cô ấy đã đồng ý lấy tôi mà, đúng không?” “Như cháu nói vậy,” Ngài Frederick đáp. “Nhưng giờ nó bỏ đi rồi,” Ludford nói. “Cô ấy không bỏ đi,” Ashmont nói. “Ripley dụ cô ấy tham gia trò đùa. Anh không nhận ra à?” “Tôi cứ tưởng anh mới là người nghĩ ra những trò đùa,” Ludford nói. “Không phải lúc nào cũng vậy,” Blackwood nói. “Ripley đã nghĩ ra vài trò khá hay. Vấn đề là, như Ludford thông minh hỏi, Ripley sẽ đưa cô ấy đi đâu? Chắc chắn là ở gần đây. Cậu ta sẽ không muốn tạo ra… ờm… những rắc rối lớn.” “Nếu anh ta phá hỏng danh tiếng của em gái tôi, tôi sẽ giết anh ta đấy,” Ludford nói. “Đó chắc chắn là một rắc rối lớn.” “Anh phải xếp sau Ashmont,” Blackwood nói. “Chết tiệt, đúng rồi,” Ashmont gầm lên. “Tôi đã làm tất cả mọi việc, tán tỉnh các thứ, và tôi xứng đáng có được cô dâu của mình. Tên khốn đó. Cứ làm bộ như vô can—và tôi lại còn nhờ cậu ta lo liệu mọi thứ nữa chứ.” “Cậu có nhờ đâu,” Blackwood nói. “Cậu ra lệnh cho cậu ta.” “Cậu mới ra lệnh ý,” Ashmont đáp. “Cậu nói . . .” Anh dừng lại, cau mày. “Tôi quên rồi. Nhưng nếu cậu ta không muốn làm, thì nên nói thẳng, thay vì đi cướp cô dâu của tôi.” “Ta có thể tưởng tượng ra nhiều thứ,” Ngài Frederick nói. “Nhưng việc Ripley cướp Tiểu thư Olympia thì không nằm trong số đó.” “Nếu anh ta cướp con bé, thì sao lại đuổi theo nó trong vườn làm gì?” Ludford hỏi. “Nếu anh ta muốn cướp nó đi, thì sao không vác con bé qua vai, đại loại vậy?” Đôi mày tuyệt đẹp của Ashmont nhíu lại. “Tôi phải thừa nhận, chuyện đó làm tôi rất bối rối.” “Chắc chắn là vậy rồi,” Ngài Frederick nói. “Thay vì bắt bộ não phải làm việc quá sức vì câu đố này, ta khuyên cháu nên đưa cô gái đó trở lại, càng sớm càng tốt.” “Trong lúc đó, chúng ta phải nói gì với bố mẹ tôi đây?” Ludford hỏi. “Và cả các khách mời đám cưới nữa?” “Ta sẽ nói chuyện với bố mẹ cậu,” Ngài Frederick đáp. “Ta sẽ đảm bảo với họ rằng Ashmont đã nắm rõ tình hình và sẽ giải quyết ổn thỏa. Chúng ta sẽ bảo với các khách mời rằng Tiểu thư Olympia không được khỏe. Giờ thì, nếu tất cả có thể để ta nói chuyện riêng với cháu ta.” Những người khác rời đi. Ngài Frederick hạ giọng, hỏi, “Cháu đã làm gì?” “Cháu chẳng làm gì cả, chết tiệt. Cháu không hiểu vì sao cô ấy lại hoảng lên. Nếu đúng là cô ấy bị hoảng loạn. Chứ không phải vì Ripley bày trò.” “Ta đã nói với cháu—” “Bác không cần nói đâu, thưa bác. Cháu đã gặp cô ấy rồi, tự mình thấy rõ. Một cô gái tuyệt vời. Chính xác là người cháu muốn, nên cháu đã nói với bác như vậy. Và không một lời nhận xét hay tiên đoán chẳng hay ho nào của bác ngăn được cháu, đúng không?” “Ta ước rằng lời nói của ta có thể khiến cháu suy nghĩ lại về hành vi của mình.” “Cháu không làm gì cả!” “Ta chỉ có thể hy vọng rằng đó là sự thật, và vấn đề này chỉ nhỏ nhặt như cháu nghĩ—vì nếu cháu để mất cô gái này, Lucius, cháu có thể sẽ không bao giờ có cơ hội khác,” Ngài Frederick nói. “Cháu có thể không nghĩ vậy bây giờ, nhưng vài tuần, vài tháng, hay vài năm nữa, cháu sẽ nhận ra mình hối tiếc—” “Cháu sẽ không hối tiếc gì hết. Cháu sẽ đưa cô ấy về và sửa chữa mọi thứ—bất kể cái gì đang sai—và càng ở đây nghe bác giáo huấn, cô ấy càng đi xa hơn.” “Với Ripley.” “Cô ấy an toàn với cậu ta,” Ashmont nói. “Ta mong là thế, vì lợi ích của cháu.” “Cậu ta là bạn cháu,” Ashmont nói. “Một tên quỷ láu cá, nhưng là bạn cháu—và chúng cháu sẽ sớm giải quyết mọi chuyện xong xuôi, và chuyện này rồi sẽ thành một trò cười, cháu cược bất cứ thứ gì.” *** Khi chiếc thuyền rời khỏi cầu Battersea, mưa phùn đã chuyển thành sương mù nhẹ. Bờ sông trông dịu dàng hơn, và có thể, một số người—không phải Ripley—sẽ cho rằng nó trông thật lãng mạn. London như đang tan ra rồi tái hình thành, những tòa nhà lẽ ra phải quen thuộc lại mờ ảo, đầy bí ẩn. Hoặc có lẽ sự bí ẩn là, chúng không còn bẩn thỉu như thường lệ, nhờ vào lớp sương mỏng manh. Dù vậy, anh không gặp khó khăn gì trong việc nhận ra những đứa trẻ lang thang lội xuống bờ sông bùn lầy, lục lọi. Dẫu sao thì, London cũng không khác biệt mấy, về nghèo đói và ô uế, so với bất kỳ thành phố lớn nào khác. Sự thật là, anh đã rất nhớ nó. Anh gần như chưa kịp đặt chân vào thành phố thì lại phải lên thuyền. Hiện tại, điều đó chẳng phải là ý tưởng tồi. Một phần vì ngày cưới của Ashmont hóa ra không nhàm chán như anh nghĩ. Một phần vì Ripley có được cô dâu, mà anh chưa từng nghĩ đến việc cướp đoạt cô. Nhưng giờ thì cô ở đây, và lời hứa về một cuộc phiêu lưu, và họ đang ở trên sông, xa rời với mọi người. Tất cả những gì anh phải làm là đưa cô đến Twickenham an toàn. Đi bằng thuyền sẽ mất từ hai đến ba giờ. Tuyến đường trên bộ có quãng đường ngắn hơn, nhưng giao thông tắc nghẽn có thể làm họ chậm lại. “Đây là nhà thờ Battersea,” cô nói. “Mọi thứ trông thật khác biệt khi nhìn từ góc này. Tôi chỉ từng đi sông bằng tàu hơi nước hoặc du thuyền, chưa bao giờ ở gần mặt nước đến vậy.” Như thể những lời cô vừa nói đã gọi nó tới, một tàu hơi nước lao qua, vung vẩy sóng mạnh. Khi anh vươn tay ra để giữ cô lại, sóng mạnh làm thuyền rung lắc dữ dội, và anh suýt nữa đã ngã xuống. Anh nguyền rủa một câu, sau đó đứng vững lại và nắm lấy tay cô, nhưng không, đó không phải tay cô. Đó là cái phồng trong tay áo cô. Cô dường như không nhận ra. Cô đang bám chặt vào thành thuyền. Khuôn mặt thì trắng bệch như chính bộ váy cưới. Khi chiếc thuyền ổn định trở lại, anh lấy lại nhịp thở, mặc dù tim vẫn đập rất mạnh. Nếu cô ngã xuống sông... Nhưng cô đã không ngã. Không ai cả ngã cả. “Ít nhất thì chuyến đi trên sông này cũng không nhàm chán,” anh nói. “Thật khác biệt khi ta ở gần mặt nước như này,” cô nói trong trạng thái run rẩy. “Đừng ngồi sát mép quá,” anh nói. “Và đừng bị say sóng.” Cô nhìn lên anh. Đôi mắt cô dường như đã mất đi màu sắc và trở nên xám, giống như sương mù. “Sao không ai nghĩ ra việc đó nhỉ? Chỉ cần ra lệnh cho một người đừng bị say sóng. Vậy là có tác dụng luôn.” Cô nói bình thản, nhưng vẫn giữ chặt tay vào thành thuyền. “Tôi quyết định rồi,” anh nói. “Lúc đầu tôi còn tự hỏi Ashmont đang làm gì. Nhưng giờ thì rõ ràng cậu ta thật may mắn khi tìm được đúng thứ cậu ta cần.” Màu sắc trở lại trên mặt cô. “Tôi không quan tâm liệu tôi có phải là thứ anh ta cần không. Câu hỏi là liệu anh ta có phải là thứ tôi cần hay không.” “Cậu ta là một công tước,” anh nói. “Đó là tất cả những gì một người phụ nữ mong muốn.” Từng ngón tay cô từ từ rời khỏi thành thuyền. “Tôi nói với bản thân điều đó ít nhất một trăm lần rồi,” cô nói. “Kỳ lạ là nó chẳng thể làm tôi bớt lo lắng đi.” "Thật tiếc là cô không uống thêm chút rượu brandy," anh nói. "Chắc là cái đó sẽ giúp cô. Cô chỉ mới đến giai đoạn liều lĩnh thôi. Thêm một chút nữa, cô có thể đã vào giai đoạn dễ bảo và hài lòng rồi. Cũng may là tôi nhớ ra một điều: Về giai đoạn... tính toán lại tất cả những gì đã qua—" "Tôi đâu biết có quy tắc gì về việc say rượu đâu," cô đáp. "Vậy thì nghe người có kinh nghiệm nói đây," anh nói. "Nếu cô vẫn muốn say mặc dù tôi đã bảo cô đừng làm vậy, thì ít nhất cô cũng phải làm điều đó ra ngoài thành thuyền. Nhưng phải giữ chặt lấy, nếu không cô sẽ rơi xuống và chết đuối mất. Và tôi sẽ phải giải thích dài dòng, thay vì làm theo kế hoạch đơn giản nhưng rất thông minh của mình để cứu vãn tình thế." "Anh có kế hoạch à?" "Tôi có vài kế hoạch. Một trong số đó là đi vòng qua Portsmouth rồi ra biển." "Ah, kế hoạch chuồn đi thật khéo," cô nói. "Tôi đã cân nhắc và bỏ qua nó," anh nói. "Tôi vừa mới trở lại. Không có thời gian để hồi phục sau khi phải đối mặt với những người ngoại quốc." "Tôi muốn gặp người ngoại quốc," cô nói. "Tôi chỉ muốn gặp toàn những người ngoại quốc thôi." "Vậy thì lấy Ashmont đi rồi bắt cậu ta đưa cô ra nước ngoài," anh nói. Anh hình dung cô sẽ leo lên những bậc thang ở Vườn Boboli tại Florence và ngắm nhìn toàn cảnh thành phố. Anh tự hỏi mắt cô sẽ đổi màu như thế nào khi lần đầu tiên nhìn thấy những tòa palazzi ven kênh đào Venice. Anh cũng tưởng tượng cô ngồi trong gondola (thuyền đi lại ở Venice), trong chiếc felze (một loại thuyền khác) sang trọng, kín đáo… và anh nghĩ tốt nhất là không nên tưởng tượng những chuyện có thể xảy ra trong những chiếc thuyền nhỏ đó. "Tôi nghĩ đến chuyện đó rồi," cô nói. "Tôi còn cân nhắc các ưu điểm. Lặp đi lặp lại. Thư viện ở nhà anh ta tại Nottinghamshire, tôi phải thừa nhận, là một điểm mạnh trong tính toán của tôi. Và nếu tôi có bỏ sót điều gì, thì dì Lavinia sẵn sàng bổ sung thêm. Dì ấy bảo tôi sẽ có mọi thứ tôi muốn, mặc dù tôi nghĩ điều đó còn tùy vào những gì người ta muốn. Dù sao thì tôi cũng không hiểu làm sao mà Ashmont vẫn chưa bị ngập trong nợ nần. Nhưng cha tôi và chú Henry đã kiểm tra kỹ lưỡng những chuyện đó. Chú Henry thực hiện điều đó, chứ cha tôi thì chẳng hiểu gì về số học, trừ khi đó là con số trong bảng đua ngựa." Cô thở dài. "Ashmont không tiêu hết gia tài của mình. Anh ta còn làm tăng thêm nữa." Cô đưa tay lên trán. "Thế giới này chắc sẽ nghĩ tôi phát điên rồi." Nếu Ripley hiểu gì về thế giới, chắc chắn mọi người sẽ đổ lỗi cho Ashmont. Quỷ tha ma bắt, Ripley cũng đổ lỗi cho Ashmont. Cậu ta là một công tước giàu có, đẹp trai. Cậu ta sinh ra đã quyến rũ, trong khi người khác phải học để có được sự quyến rũ ấy. Lẽ ra cậu ta phải khiến cô mềm nhũn. Cô đáng ra phải vui sướng ngất ngây trong ngày cưới của mình, chứ không phải tìm cách trốn tránh nỗi lo bằng rượu brandy. Ngốc nghếch. “Suy nghĩ lại chưa?” Anh nói. “Chúng ta có thể về Dinh thự Newland ngay trong nháy mắt.” “Không, tôi vừa vượt qua sông Rubicon rồi (ám chỉ không thể quay đầu). Và nhìn xem ta đã đi xa cỡ nào này.” Cô đưa một ngón tay run rẩy lên. “Kia là cầu Putney. Tôi có thể nhận ra nó từ bất cứ đâu.” "Ừ, ở đó có một quán—" Anh ngừng lại. Anh đã đi vắng hơn một năm nay rồi. "Gần đây có động đất gì không?" anh hỏi những người lái thuyền. "Không, thưa Đức Ngài," một người trả lời, trong khi người còn lại chỉ nhìn anh mà không nói gì. "Vậy tôi cho là quán Sư tử Bạc ở Putney vẫn còn hoạt động chứ?" Ripley hỏi. "Vẫn còn đấy, thưa Đức Ngài," người nói chuyện nhiều hơn đáp lại. "Chúng tôi sẽ dừng lại ăn ở đó," Ripley nói. Chuyến đi này sẽ phải rẽ vào High Street, lâu hơn một chút so với việc ghé vào quán ven sông, nhưng người ta không thể dẫn phụ nữ vào những quán rượu tầm thường. "Dừng lại ư?" cô nói. "Chúng ta không có thời gian để anh làm vấy bẩn mấy cô phục vụ quán trọ vô tội đâu. Tôi tưởng anh đang rất muốn tống khứ tôi đi mà." "Cô không thể mong tôi đi cùng cô đến Twickenham với cái bụng đói meo được," anh nói. "Vậy tôi có thể để anh ở lại và tiếp tục một mình không?" cô hỏi. "Tôi không có tâm trạng tham gia vào việc làm vấy bẩn những người chủ quán ngây thơ hôm nay, và tôi cần có việc gì đó để làm trong khi anh lãng phí thời gian với các cô hầu gái." "Chúng ta sẽ ăn gì đó," anh nói. "Cả hai chúng ta. Hoặc cô có thể nhìn tôi ăn." "Không phải anh đang vội à." "Có phải bữa tối trong lâu đài Windsor đâu mà," anh nói. "Chúng ta còn cần ít thời gian hơn chuyến xe thư cho phép hành khách ăn trưa. Cô nên ăn gì đó đi. Như vậy sẽ ít bị đau đầu hơn. Người có kinh nghiệm đang lên tiếng, nhớ không?" *** Olympia không nhớ lần cuối mình ăn là khi nào. Cô cũng không nhớ được nhiều thứ khác. Một loạt ý nghĩ thường ngày dường như không ở đúng chỗ trong đầu cô, và thế giới xung quanh cũng chẳng nằm ở vị trí đúng đắn của nó. Công tước có lẽ không đề nghị sai. Nếu cơ thể không được nuôi dưỡng, trí óc sẽ yếu đi. Hơn nữa—mặc dù có cho cô cả thế giới hay cả vương miện kim cương, cô cũng không dám thú nhận với anh ta—cô tin rằng mình đang hơi say. Đó là lời giải thích hợp lý duy nhất cho sự hỗn độn trong não cô. Đầu óc cô vốn được cho là có tổ chức và thực tế. Đến mức đáng chê trách, theo lời mọi người nói. Thế mà bây giờ, tâm trí cô lại hoàn toàn rối loạn và phi thực tế. Cô cần ăn. Việc đó sẽ không mất nhiều thời gian. Sau đó, họ có thể tiếp tục cuộc hành trình của mình, cơ thể tràn đầy năng lượng, và cô sẽ có thể suy nghĩ rõ ràng hơn về bước đi tiếp theo và xa hơn nữa. "Tôi muốn một chiếc bánh sandwich," cô nói. "Họ có bán sandwich không?" "Tôi là một công tước," anh trả lời. "Đúng vậy, chắc chắn là họ có sandwich," cô nói. Nếu không có, thì họ sẽ tìm cách kiếm được nó, dù thế nào đi nữa. Làm công tước thật tốt, đặc biệt là khi anh to lớn và trông đầy quyền lực. Không phải cô sợ hãi anh. Anh là một trong “Những Kẻ Bất Hảo" và vì thế, khá là ngốc. Nhưng anh là một gã ngốc quyền lực. Và là đàn ông. Ngay cả trên một chiếc thuyền đủ rộng cho nhiều hành khách, anh vẫn chiếm gần hết không gian. Anh ngồi với đôi chân duỗi dài, như thể đang nằm lười biếng trên một chiếc ghế sofa trong hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ. Tâm trí cô bỗng tưởng tượng anh trong bộ áo sơ mi rộng và chiếc quần vải... rồi cô chợt nghĩ đến những điều Mẹ đã nói về đêm tân hôn. Không phải là điều gì gây sốc. Olympia từng lén đi theo vài người anh em trai của mình và xem một con ngựa giống leo lên một con ngựa cái. Trông có vẻ khá khó chịu cho ngựa cái và đầy nỗ lực với ngựa đực, nhưng chắc chắn với con người thì sẽ khác... ... Và cô không muốn nghĩ về những điều như vậy, nhất là khi đang ở gần với người đàn ông to lớn, hơi thô lỗ này... hay nghĩ đến bất kỳ lúc nào... và thật sự, cô đang rất đói. Những người chèo thuyền cập bến. Cô sốt ruột nhìn họ cất mái chèo. Cô muốn nhảy ra khỏi thuyền ngay, nhưng Ripley đã giữ lấy khuỷu tay cô. Không mạnh. Anh không hề dùng sức. Nhưng dù vậy, cái nắm nhẹ nhàng đó vẫn giữ cô ngồi yên trên ghế. Cô không chắc anh đã làm thế nào, nhưng cô đoán rằng điều đó có liên quan đến việc anh là một công tước. "Đợi đã," anh nói. "Hãy để họ xuống trước và giữ cho thuyền ổn định." Cô đợi, nhận thức rõ ràng về bàn tay to lớn đang giữ lấy cánh tay mình, trong khi những người chèo thuyền từ từ rời xuống, rồi còn quay lại để giữ phần mũi thuyền. "Được rồi," Ripley nói, thả tay cô ra. "Cẩn thận đấy." "Thuyền đã lên đất liền rồi," cô nói. "Chính xác là đất ẩm." "Không phải toàn bộ con thuyền," anh nói. "Mũi thuyền vẫn—" "Vâng, vâng, tôi thấy rồi." Cô vội vàng thu lại khăn mạn mặt và đứng lên. Khi cô bước về phía trước, thuyền bắt đầu lắc lư. "Cẩn thận," Ripley nói. Cô quay lại nhìn anh. "Tôi không thể ngăn cái thuyền lắc lư được," cô nói. "Như anh vừa nói, thì một phần của nó vẫn ở dưới nước, mà nước thì—" "Đi ở giữa thuyền đi," anh nói. "Tôi đang ở giữa mà." Cô thở hắt ra, bực mình, quay người lại và bước về phía trước đúng lúc anh kêu lên, "Không!" Chiếc thuyền chao đảo dữ dội. Cô vung tay để giữ thăng bằng, còn Ripley lao về phía cô, hét lớn. Và rồi bàn tay anh đưa ra, cô cố nắm lấy, nhưng nó chỉ cách một chút xíu ngoài tầm với. Rồi cô ngã xuống, và tiếp theo là một cú té đầy bùn đất, kèm theo tiếng nước bắn tung tóe. *** Anh chửi thề và lại chửi. Anh nhảy ra khỏi thuyền, gạt những người chèo thuyền đang định bước tới. Anh lội vào lớp bùn nhão đến chỗ cô, nơi cô đang ngồi, trông vô cùng ngạc nhiên, trong khoảng một gang nước đục ngầu. “Cô nhất định phải ngã ra khỏi thuyền mới được à?” anh nói. “Tôi đâu có cố tình!” Cô cố đứng lên, nhưng chỉ càng trượt sâu hơn vào lớp bùn. “Tôi đã bảo rồi—” “Chính anh làm tôi phân tâm.” “Tôi chỉ đang cảnh báo cô.” “Thật khó chịu khi cứ bị người khác nói như thể mình chẳng có chút đầu óc nào. Thôi, khỏi phiền anh,” cô nói thêm khi anh chìa tay ra. “Tôi có thể tự leo ra khỏi cái vũng nước này.” Đám đông bắt đầu tụ tập. Chỉ một lát nữa thôi, những người hiếu kỳ sẽ kéo ra từ các quán rượu ven sông. “Cầm lấy tay tôi,” anh nói. “Tôi có thể vịn vào thuyền,” cô đáp. Anh nắm lấy tay cô và bắt đầu kéo cô lên, nhưng đúng lúc đó, cô giật tay ra, chân anh trượt, và cả hai ngã nhào xuống nước. Tiếng cười rộ lên từ bờ. Anh nhìn cô. Chiếc mạn che chết tiệt vẫn quấn quanh tay cô, kiểu tóc anh vừa sửa cho cô thì đang dần xổ tung. Cú ngã khiến nước bùn bắn lên mặt và kính cô. Cặp kính giờ thì chắc chắn đã lệch hẳn. Anh cảm thấy cơn cười đang trào lên, nhưng rồi nhận ra rằng cả hai đều đang ngồi trong nước. Nếu không làm gì, cô có thể bị cảm nặng, hoặc tệ hơn. Anh lẩm bẩm chửi thề, tự kéo mình dậy khỏi lớp nước lầy, rồi bước lại gần cô. Anh cúi xuống, túm lấy cô dưới cánh tay—hôm nay đã mấy lần rồi nhỉ?—và nhấc cô lên. Ngay khi cô vừa đứng thẳng, cô lại loạng choạng và suýt ngã lần nữa. Lần này, anh kéo cô sát vào người mình. “Cô định tự dìm mình chết đuối à?” anh nói. “Nếu vậy thì sẽ khôn ngoan và dễ dàng hơn nếu nhảy từ trên cầu xuống—nhớ là ở giữa sông, không phải gần bờ.” Cô đẩy anh ra. “Làm ơn tránh xa tôi ra!” Cô ướt nhẹp, dính đầy bùn và phảng phất mùi sông nước. Anh nhận ra điều này. Anh cũng nhận ra cơ thể mềm mại, đầy đặn của cô đang áp sát vào mình. Tâm trí anh bắt đầu làm điều mà tâm trí mọi đàn ông thường làm trong những tình huống như thế này: nhường chỗ cho một sức mạnh mạnh mẽ hơn, nằm thấp hơn trong cơ thể. “Không,” anh nói. Chỉ với một từ đó, chút lý trí trở lại, và hình ảnh Ashmont hiện lên trong đầu anh—đang đợi cô dâu với vị mục sư. Cô là cô dâu của Ashmont. Ashmont đã chọn cô và cậu ta xứng đáng có được cô. Cô là người hoàn hảo cho cậu ấy. Khi cô còn đang vùng vẫy, Ripley đổi trọng tâm, bế thốc cô lên. Một cô dâu chạy trốn, ướt nhẹp, lấm lem bùn đất, đang hét toáng trong tay anh. Những người xem bên bờ vỗ tay hò reo. Anh đã quen với khán giả rồi. Anh chỉ gật đầu đáp lại. “Ôi,” cô nói. “Anh đúng thật là nực cười.” “Cô vừa ngã chổng mông xuống sông xong mà vẫn dám nói thế à.” Cô không phải kiểu người mảnh khảnh nhẹ tênh, như thể chỉ cần một làn gió nhẹ cũng làm gãy xương. Cô là một phụ nữ đầy đặn, với những đường cong nữ tính được phân bố tuyệt hảo. Nhưng anh đã từng đối phó với những con ngựa bất kham và kéo người bạn to lớn, nặng nề hơn nhiều ra khỏi các quán rượu, nhà thổ, thuyền, xe ngựa, chuồng ngựa, vân vân. Hơn nữa, anh là kiểu người thiên về hành động hơn là suy nghĩ. Bế cô lên con dốc thoai thoải và bước vào con phố chính không phải là việc gì quá khó khăn. Cô vừa nói vừa cằn nhằn hoặc gì đó suốt chặng đường. Anh không nghe. Anh cũng chẳng bận tâm. Anh phải giữ tâm trí mình không nghĩ đến trọng lượng của cô hay hình dáng cô, vì từ đó mọi chuyện sẽ dẫn đến việc anh có những ý tưởng không hay trong cái “đầu nhỏ” vốn thích làm chủ tình hình khi có phụ nữ ở gần. Anh tập trung vào điều duy nhất mình cần làm. Anh phải đưa cô đến Twickenham—còn sống, nếu có thể—và khiến Ashmont đến đó cưới cô. Mọi chuyện không thể đơn giản hơn, anh tự nhủ.
Chương 4 Dịch: thuylinhh Như Olympia có thể đoán trước, tất cả mọi người tại Sư tử Bạc đều nhận ra Công tước xứ Ripley. Họ sẽ nhận ra bất cứ ai trong nhóm “Những Kẻ Bất Hảo” ấy. Hình ảnh của họ đã xuất hiện trên khắp các báo lá cải. Họ xuất hiện gần như hàng ngày trên tờ Foxe’s Morning Spectacle, ấn phẩm bê bối được yêu thích nhất London, và trong các tranh biếm họa trưng bày tại cửa sổ nhiều tiệm in. Cố giữ kín đáo khi đi cùng anh là chuyện không tưởng, Olympia nhận ra. Mà, giữ kín đáo trong bộ váy cưới nhếch nhác, trông không khác gì một con chuột chết đuối hay xác một con tàu đắm chính con chuột ấy không kịp thoát ra, cũng chẳng thể nào thực hiện được. Việc khiến Ngài Công tước làm bất kỳ điều gì ngoài ý muốn của anh cũng bất khả thi, cô nghĩ. Ví dụ như việc đứng trên đôi chân của chính mình, cô buộc phải đợi cho đến khi anh chịu để cô làm thế. Thật ra, cô không hoàn toàn khó chịu khi được anh nhấc ra khỏi bãi nước và bế lên cầu thang, lướt qua hàng trăm ánh mắt theo sau. Dù rằng cô sẽ cố giữ đầu ngẩng cao—dẫu cô là con gái của một bá tước—cô không hề tự tin mình có thể bước đi một cách duyên dáng. Mặc dù không thích lắm việc xuất hiện công khai trong tình trạng ướt nhẹp và lấm lem như thế này, điều sợ nhất là để người khác nhận ra rằng cô đang say. Cô lo rằng nếu cô tự bước đi, kéo theo cả "hàng tấn sông Thames" trên người, khán giả sẽ lập tức kết luận như vậy. Đây là lần đầu tiên từ khi còn bé, một người đàn ông bế cô trong vòng tay. Nhưng cô không cảm thấy mình nhỏ bé như một đứa trẻ, và cảm giác này khác hẳn khi được cha, chú hay ông của mình bế. Ý thức về sức mạnh, kích thước, và hơi ấm từ cơ thể anh đánh mạnh vào giác quan của cô. Cô muốn vô cùng được nép đầu vào lồng ngực anh. Chắc chắn là do rượu brandy, cô tự nhủ. Tưởng rằng bị sóng của thuyền hơi hất tung vào dòng Thames sẽ đủ để tỉnh rượu, nhưng rõ ràng là không. Cuối cùng, anh đặt cô xuống trong sảnh tiếp đón của quán trọ. Đôi chân cô run rẩy vô lý trong khi anh nói chuyện với ông chủ quán, yêu cầu hai phòng, cả hai đều có lò sưởi, nước nóng để tắm, và quần áo khô. Phải mất một lúc tâm trí cô mới bình tĩnh lại để hiểu chuyện đang diễn ra. “Lò sưởi?” cô hỏi khi ông chủ quán đã rời đi. “Vào thời điểm này trong năm á?” “Cô muốn bị viêm phổi à?” anh nói. “Đến lúc họ nhóm lò xong, chúng ta cũng đã tắm rửa và thay đồ rồi,” cô nói. “Đấy là nếu họ tìm được quần áo. Anh nghĩ họ sẽ tìm quần áo cho chúng ta bằng cách nào hả?” “Cũng như cách họ sẽ nhóm lò thôi,” anh nói. “Họ làm cách nào thì cũng không phải việc của tôi.” “Thật khó hiểu tại sao chưa ai tìm cách giết anh trước đây,” cô nói. “Anh luôn cư xử kiểu này à?” “Không,” anh đáp. “Cô là cô dâu đầu tiên bắt cóc tôi. Tất nhiên, người ta sẽ nghĩ là tôi đã đưa cô đi. Điều này chính ra lại thuận lợi cho chúng ta đấy.” “Không thuận lợi cho tôi,” cô nói. “Tôi không thể—” Cô định nói Tôi không thể bị mang tiếng là bị đưa đi, nhưng câu đó nghe thật vô lý. Trên thực tế, cô đã cùng Công tước xứ Ripley bỏ trốn, và đó sẽ là những gì báo chí sẽ viết, vụ bê bối sẽ lan rộng, và những bức tranh biếm họa về sự kiện này sẽ được nhiều họa sĩ vẽ theo trí tưởng tượng của họ. Những bức tranh đó sẽ rất lòe loẹt. Cô cố nhìn theo hướng tích cực. Chưa bao giờ trong những giấc mơ hoang đường nhất, cô nghĩ mình sẽ xuất hiện trong cửa sổ các tiệm in. Trong bất kỳ giấc mơ nào khác của ai đó, cô cũng chưa từng nghĩ đến điều này. Theo cô biết, chưa từng có ai được bầu chọn là Cô Gái Buồn Tẻ Nhất của Mùa vũ hội nhiều lần như Tiểu thư Olympia Hightower. Nhưng mặt khác, cô đã làm bẽ mặt gia đình mình. Bôi nhọ họ. Bôi nhọ chính mình. Khiến bản thân không còn khả năng kết hôn. Nhưng không, cô không thể nghĩ đến hậu quả ngay lúc này, kẻo phát điên mất. Tâm trí cô hiện giờ vốn đã không ổn định rồi. Từng chuyện một. Một cô hầu gái xuất hiện để đưa họ đến phòng. *** Ripley theo sau Tiểu thư Olympia lên cầu thang, tự nhủ rằng cảnh tượng cô dâu rơi khỏi thuyền là kiểu việc mà một người có thể mong đợi xảy ra trong một chuyến phiêu lưu. Không phải rằng đó là dạng "giải trí" anh sẽ mong chờ với một phụ nữ đoan trang—nhưng thật ra, anh cũng chẳng có nhiều kinh nghiệm với kiểu người đó. May mắn thay, sự cố xảy ra sớm trong chuyến đi, gần một quán trọ mà anh từng lui tới nhiều lần. Đúng là anh và bạn bè thường hành xử không mấy tốt đẹp ở đây, cũng như tại nhiều nơi khác. Nhưng họ vẫn luôn thanh toán mọi thiệt hại. Quán Sư tử Bạc có một tài khoản riêng dành cho anh. Điều này không có gì lạ đối với một quý ông thường xuyên rong ruổi trên những con đường của nhà vua để tìm kiếm các cuộc vui: các trận đấu quyền anh, đô vật, đua ngựa, đua thuyền, và mọi trò cá cược khác. Điều lạ thường là đại diện của công tước luôn thanh toán các khoản nợ—không phải vào các ngày theo quý, hoặc nửa năm, hoặc hàng năm, hay theo truyền thống hào phóng của giới quý tộc… không bao giờ thanh toán—mà là hàng tháng. Tất cả các khoản nợ đều được thanh toán đầy đủ mỗi tháng. Sự "lập dị" nho nhỏ này khiến mọi người giữ im lặng và hợp tác. Thay vì đóng chặt cửa và cửa sổ lại, treo biển Đi câu cá hay Đóng cửa cho đến khi có thông báo mới khi nghe tin anh sắp tới, tất cả các thương gia đều mở rộng cửa, chạy ra chào đón anh với vòng tay rộng mở, và đôi khi, với cả các cô con gái của họ. Làm công tước thật tuyệt, nhưng làm một công tước giàu có thì càng tuyệt hơn. Tiền bạc thường giải quyết được mọi vấn đề. Nó sẽ sớm giải quyết được cả vấn đề hiện tại, và Ripley sẽ đưa cô dâu của Ashmont đến Twickenham đúng giờ. Cô sẽ không bị cảm lạnh hay viêm phổi. Dù sao thì cũng đang là tháng Sáu, không phải tháng Mười Một. Thời tiết ôn hòa, và cô chỉ rơi vào nước sâu chưa đến hai feet (~60cm). Anh bắt đầu nhận ra nước đang nhỏ giọt trên cầu thang khi cô leo lên. Tâm trí anh trở về hiện tại, và anh nhận ra cô bị ướt từ đầu đến chân. Chắc chắn cả váy lót cũng đều ướt sũng. Nếu không, váy ngoài của cô không thể dính chặt vào phần mông và đùi như vậy. Anh nhớ lại cảm giác thân thể cô áp sát vào mình, và cảm giác khi bế cô lên quán trọ. Dĩ nhiên là anh nhớ. Anh là đàn ông, và cô là một phụ nữ trẻ với thân hình đầy đặn. Và dĩ nhiên cô đầy đặn. Ashmont sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện theo đuổi kiểu phụ nữ khác. Và bởi vì Ashmont đã theo đuổi và gần như chinh phục được cô, sự đầy đặn đó thuộc về cậu ta. Điều đó là hợp lý. Không còn nghi ngờ gì nữa, cô là chính xác những gì cậu ta cần. Tiểu thư Olympia sẽ không bao giờ để cậu ta chà đạp lên mình. Ngược lại, có khi cô lại chà đạp lên cậu ta, mà chắc hẳn là cực kì thú vị... Nhưng thôi nghĩ việc đó sẽ thú vị thế ra sao đi, Ripley tự nhắc nhở khi trí tưởng tượng của anh bắt đầu lạc lối. Đó không phải là suy nghĩ hữu ích trong lúc này. Hiện tại, điều anh cần, trước tiên, là một lần tắm rửa sạch sẽ, thứ hai là một cái mũ—và họ tốt nhất nên tìm được thứ phù hợp. Thứ ba, anh cần—một cách hoàn toàn hợp lý và tự nhiên sau nhiều tháng kiêng cữ không tự nhiên—một phụ nữ đầy đặn, và người đó không phải thuộc về một trong những người bạn thân nhất của anh. Hai điều đầu sẽ được giải quyết sớm, và điều thứ ba sẽ được lo vào tối nay, anh tự hứa với bản thân. Trong khi chờ đợi, là một người đàn ông và chắc chắn không phải một vị thánh, anh không tự nhủ rằng phải ngừng nhìn vào những mắt cá chân lấm bùn của Tiểu thư Olympia. *** Ripley chờ đến khi Tiểu thư Olympia an toàn trong phòng, với hai người hầu của quán trọ, Molly và Jane, canh giữ bên trong. Anh đã dặn dò họ trước rằng quý cô vừa trải qua một buổi sáng đầy thử thách và không được tỉnh táo như mong muốn. Do đó, anh mong họ phải giữ tỉnh táo và cẩn trọng thay cho cô ấy. Nhiệm vụ của họ là ngăn chặn bất kỳ nỗ lực nào của quý cô nhằm trèo ra cửa sổ hoặc đột ngột thay đổi kế hoạch của hành trình. Họ phải lo cho cô sạch sẽ, khô ráo, ăn uống đầy đủ, và mặc quần áo mới. Dưới bất kỳ tình huống nào, họ cũng không được để cô khuất khỏi tầm mắt. Nếu chẳng may cô thoát khỏi họ, họ phải báo cho anh ngay lập tức. Anh sẽ ở phòng kế bên. Sau khi xử lý mọi khả năng có thể xảy ra, Ripley đợi đến khi cánh cửa đóng lại sau lưng bộ ba, rồi gọi bà chủ quán trọ. "Gửi ai đó đến chỗ thợ may bà Thorne," anh nói. "Hãy đảm bảo bà ấy hiểu rằng quý cô vừa gặp tai nạn và cần quần áo mới ngay, thật nhanh. Chúng tôi không có thời gian để lãng phí." Bà chủ quán vội vã rời đi. Rồi anh khoanh tay tựa vào khung cửa phòng mình. Đây là một chiêu anh học được qua kinh nghiệm: Người ta sẽ làm việc nhanh hơn khi có một quý tộc to lớn và đáng sợ đứng chờ họ hoàn thành nhiệm vụ. Những người hầu lục đục mang củi và xô than vào. Thêm người nữa mang theo bình nước nóng. Dẫu vậy, anh vẫn chờ. Thời gian trôi qua. Quần áo của anh từ ướt sũng chuyển sang thành một lớp da thứ hai dính sát vào người. Anh bước ra hành lang nhìn xuống sân quán trọ. Dựa vào một cột chống, anh quan sát hoạt động bên dưới. Trong không khí ẩm ướt, quần áo anh dần từ sũng nước chuyển sang ẩm ướt. Cơn chán nản và sốt ruột của anh càng lúc càng tăng thì thấy ba phụ nữ cuối cùng vội vã bước vào sân. Người sang trọng nhất trong cả ba ngước lên nhìn anh đầy lo lắng. Anh gật đầu. Bà ấy bắt đầu leo lên cầu thang, hai người đi cùng theo sát phía sau, mang theo những bọc lớn được quấn trong vải muslin. Chỉ đến lúc đó anh mới bước vào phòng mình. *** Trong căn phòng rộng lớn của Olympia, một ngọn lửa bùng cháy trong lò sưởi. Vào tháng Sáu. Hai bình lớn đầy nước nóng được mang đến gần như cùng lúc khi ngọn lửa bắt đầu nhảy múa trên những cục than. Mặc dù quán trọ Sư tử Bạc là một nơi bận rộn, hai cô hầu gái làm việc quá sức vẫn được phân công chăm sóc cho một quý cô lôi thôi lếch thếch. Rất nhiều người hầu khác—gần như tất cả nhân viên của quán trọ và có lẽ cả những người hàng xóm—chạy tới chạy lui để phục vụ yêu cầu của Đức Ngài. Thật vậy, làm công tước quả là điều tuyệt vời. Hoặc, chính xác hơn—và Olympia là một người thường rất cẩn thận—nếu bạn định rơi xuống sông trong bộ váy cưới của mình, thì tốt nhất là nên ở cạnh một công tước khi điều đó xảy ra. Cô tự trách mình vì đã ngã khỏi thuyền. Cô cũng bực mình vì đã để anh khiến cô mất bình tĩnh theo bất kỳ cách nào. Cô lẽ ra không nên đấu khẩu với anh. Điều cô nên làm là tập trung vào việc mình đang làm và để ý đến đường đi khi có thể rời khỏi thuyền một cách duyên dáng. Nhưng thay vào đó, cô lại làm một điều ngu ngốc và cuối cùng bị một trong những công tước tai tiếng nhất khắp Vương quốc Anh bế dọc phố High Street của Putney—trước toàn bộ người dân, những người chèo thuyền, phu xe, khách lữ hành, những đứa trẻ lang thang và cả lũ chó—nói ngắn gọn là tất cả mọi người—và vào khách sạn. Cô cảm thấy nóng bừng khắp người, thậm chí là cả trong đầu. Hy vọng đó là do ngọn lửa vô lý—vào tháng Sáu!—và những nỗ lực của các cô hầu, những người đang kỳ cọ cho cô từ đầu đến chân. Để tâm trí khỏi mường tượng ra những bức tranh biếm họa về sự việc vừa qua, cô cố gắng tập trung, hết sức có thể, vào bước tiếp theo. Mặc dù tác dụng của rượu brandy dường như đã giảm cũng như đầu óc cô không còn mờ mịt như trước, nhưng cô phải mất một lúc mới xác định được bước tiếp theo nên là gì. Cô sẽ nói gì với dì Delia đây? Trời ơi, phải bắt đầu từ đâu mới được? Nhưng Olympia phải bắt đầu từ đâu đó. Nhìn vào mặt tích cực, việc soạn thảo một lời giải thích thỏa đáng—nhất định phải có—sẽ giúp cô giữ đầu óc bận rộn và có ích. Cô cố gắng giải quyết vấn đề này trong khi Molly và Jane lau người cho cô bằng khăn ấm và giúp cô mặc áo choàng. Olympia vẫn tiếp tục thử và loại bỏ các lời giải thích khi họ đặt cô ngồi xuống một chiếc bàn trang điểm nhỏ và bắt đầu chải tóc cho cô. Họ kiên nhẫn gỡ rối từng nút tóc thì người thợ may xuất hiện. Phải, một người thợ may thực sự, mang theo hai cô thợ phụ, cùng một đống quần áo trông như cả cửa hàng di động. Tất cả họ cúi chào rất sâu. Người thanh lịch nhất trong nhóm tự giới thiệu là bà Thorne, trong khi hai người phụ tá bận bịu mở các gói đồ và trải quần áo ra giường. “Chúng tôi rất đau lòng khi nghe về tai nạn của quý cô!” thợ may nói. “Dù thế nào tôi cũng đã vội vã đến đây để xem có thể giúp được gì, ngay cả trước khi nhận được tin nhắn của Đức Ngài. Thật may mắn là chúng tôi có sẵn một vài bộ quần áo gần hoàn thiện và hai bộ trưng bày. Việc điều chỉnh kích cỡ là chuyện nhỏ, tôi xin đảm bảo với quý cô. Chúng tôi sẽ giúp quý cô sẵn sàng trong chớp mắt, và tôi tin rằng quý cô sẽ không thất vọng. Dù nơi đây không phải là London, nhưng mẫu mã của chúng tôi đều đến từ Paris, và tôi chắc rằng các thợ phụ của tôi—Ồ, tôi xin lỗi, thưa cô. Để tôi giới thiệu cô Ames và cô Oxley. Tôi tin rằng quý cô sẽ thấy họ không thua kém bất kỳ ai ở London.” Olympia thường xuyên tranh cãi kịch liệt với mẹ về tủ quần áo của mình, để mặc cho thợ may phải đứng ra thương lượng. Cô hoàn toàn có thể hình dung được những giờ làm việc miệt mài mà các thợ may phải bỏ ra để làm hài lòng những khách hàng quá mức giàu có và khó tính. Cô cũng không tin rằng bất kỳ thợ may nào ở đây có thể sánh kịp những người thợ ở London về sự bền bỉ và khả năng chịu đựng áp lực, chưa kể đến việc bị đối xử tệ bạc. Về trình độ kỹ năng của những người hiện tại: lúc này, mối bận tâm chính của cô chỉ là mặc một bộ váy không thấm đầy bùn. Cô không quan tâm nếu các đường khâu có bị lệch đi chăng nữa. Tuy nhiên, nếu nói ra điều đó, cô sẽ làm tổn thương cảm xúc của thợ may. Cô nói: “Cảm ơn bà đã đến đây nhanh như vậy.” Ripley đã búng tay và ra lệnh chuẩn bị quần áo, và đây là kết quả. Một trong những người hầu của quán trọ đã chạy ra ngoài Putney và đến tiệm may của bà Thorne. Và bà đã bỏ dở mọi việc để làm theo lệnh của Đức Ngài. Điều này hoàn toàn không có gì kỳ lạ, Olympia tự nhủ. Được tuyên bố rằng cửa hàng của mình được một công tước lui tới là một vinh dự lớn. Phần lớn các chủ tiệm, đặc biệt là ở những ngôi làng, sẽ làm điều giống như bà Thorne. Nhưng thực sự, liệu anh có cần được nuông chiều thêm nữa không, khi hắn đã quá quen với việc được chiều chuộng rồi? “Tôi hy vọng bà không phải đóng cửa tiệm của mình,” Olympia nói. “‘Không hề, thưa cô,” bà Thorne đáp. “Thật tử tế khi quý cô nghĩ đến điều đó, nhưng mọi thứ đã được sắp xếp ổn thỏa, và tiệm của tôi sẽ được chăm sóc cho đến khi chúng tôi quay về. Không phải là tôi không sẵn sàng đóng cửa, nếu cần thiết. Nhưng nếu quý cô không phiền bị gián đoạn—chỉ một chút thôi, mong cô có thể đứng lên để chúng tôi lấy số đo.” Olympia đứng dậy, và ngay lập tức bị bao quanh. Trong lúc những người phụ nữ nâng cái này, cái kia lên so với cô, Olympia tự hỏi quần áo họ mang đến là của ai. Phải, có thể một hoặc hai món là hàng trưng bày, mặc dù thường thì trong tiệm chỉ có các bản vẽ thời trang hoặc những mảnh vải được xếp khéo léo để trưng bày ở cửa sổ. Một thợ may khó lòng giữ sẵn một kho quần áo, chờ khách hàng đến. Quần áo thường được may theo yêu cầu. Mặt khác, nếu, chẳng hạn, một số khách hàng có tài khoản lớn và nổi tiếng về việc trả tiền đúng hạn—hoặc các công tước—yêu cầu thứ gì đó gấp rút, thì thợ may có thể sẽ sửa lại quần áo vốn dành cho một khách hàng khác. Bà Thorne bày ra một chiếc áo lót chemise và một chiếc corset. Chúng đẹp đến mức đáng kinh ngạc, khác hoàn toàn với bất cứ thứ gì Olympia từng thấy trước đây. Chiếc áo chemise, làm từ loại vải lanh tốt nhất, được thêu bằng chỉ lụa màu sắc và viền ren dọc theo cổ áo và mép tay áo. Chiếc corset, làm từ loại vải đắt tiền không kém, thậm chí còn gây sốc hơn. Nó được may bằng màu hồng và đen. Viền hồng được thêu dọc theo phần xương sống ở mặt trước. Có dây buộc màu hồng để điều chỉnh khu vực ngực, được thắt thành những chiếc nơ hồng nhỏ xinh. Ngay cả dây buộc phía sau cũng màu hồng! Olympia chưa từng mặc—hoặc thậm chí nhìn thấy—bất kỳ loại đồ lót nào ngoài màu trắng suốt cả cuộc đời mình. Cô hẳn đã tỏ vẻ kinh ngạc như đúng cảm xúc của mình, vì bà Thorne nhanh chóng nói, “Một số khách hàng của chúng tôi là các quý cô London.” “‘Thật vậy,” Olympia đáp. Cô tự hỏi loại quý cô London nào lại đặt đồ lót quá mức kiểu cách và rất Pháp như vậy. Cô tự nhủ rằng điều đó không quan trọng. Cô cần quần áo sạch, khô, và nếu đồ lót trông phù hợp hơn cho một nhà thổ, thì điều đó cũng không đáng ngạc nhiên, xét đến ai là người đặt chúng. Tâm trí luôn quá năng động của cô vẽ ra hình ảnh một nhà thổ, theo phong cách hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ. Ở đó, những phụ nữ có thân hình giống như trong các bức tượng Hy Lạp và La Mã, hoặc có lẽ như trong các bức tranh của Rubens, nằm dài trên đệm và thảm trong bộ đồ lót ren thêu đầy màu sắc. Những người đàn ông như Ripley sẽ thong thả bước vào và… Tốt nhất là không nên tưởng tượng điều đó. Tốt hơn là nên dàng điều đó cho các nhà biếm họa. Chắc chắn họ sẽ vẽ con gái duy nhất của ngài Gonerby trong chiếc corset đỏ tươi và váy lót màu rượu vang. Trời đất, vẻ mặt của cha cô khi ông thấy những bức tranh ấy— Không, cô không được nghĩ về điều đó nữa. Cô nhìn vào mặt tích cực. Luôn luôn có mặt tích cực, dù đôi khi phải tìm thật kỹ và dùng đến kính lúp hoặc kính hiển vi. Và mặt tích cực là… Danh hiệu Cô Gái Buồn Tẻ Nhất của Mùa vũ hội sẽ biến mất. Trong khi cô suy nghĩ về nhà thổ và hình ảnh mới của mình trong mắt công chúng, các cô gái đã giúp cô cởi áo choàng, mặc áo chemise và quần lót. Họ buộc ruy băng, xếp bèo nhún, và làm phẳng vải với sự cẩn thận như thể những món đồ lót này được làm bằng lụa và kim cương.” Dây đai của chiếc corset cần được chỉnh sửa, nhưng cô Oxley nhanh chóng bắt tay vào việc, tháo chỉ và khâu lại một cách điêu luyện. Trong khi đó, bà Thorne giao cho cô Ames nhiệm vụ sửa lại chiếc váy lót. Olympia bị cuốn hút. Ở London, các thợ may chuyên nghiệp thường bị giấu kín trong một phần khác của cửa hàng. Khi họ xuất hiện, đó chỉ là để trưng bày một món đồ hoặc hỗ trợ người thợ may chính. Cô chưa từng thấy họ thực sự làm việc. Tốc độ mà kim của họ bay lượn, tạo ra những đường khâu nhỏ xíu, trông thật phi thường với cô. Cô luôn thấy sách thú vị hơn việc may vá. Tuy nhiên, cô không có nhiều thời gian để quan sát, vì họ cần phải nhanh chóng mặc đồ cho cô. Các cô hầu giúp cô mang vớ và buộc dây nịt, vừa làm vừa xin lỗi vì vội vàng: “Nhưng Đức Ngài bảo chúng tôi phải nhanh lên, và ngài tốt bụng lắm, thưa cô, nên chúng tôi—” “Tốt bụng!” Olympia nói. “Ồ, đúng vậy!” Molly đáp. “Tôi sẽ xấu hổ nếu làm ngài ấy thất vọng.” “Tốt bụng!” Olympia nhắc lại. “Lần đầu tiên tôi nghe thấy điều này. Ngài ấy đã làm gì? Đừng nói với tôi là nhặt những chú chim bị thương và chăm sóc chúng. Hoặc cứu mèo con khỏi chết đuối? Đúng là thế, phải không?” “Nhưng thực sự, thưa cô—” “Tốt bụng,” cô nhắc lại. “Ripley. Tôi thề, thật khó chịu khi gắn từ đó cho anh ta.. Và cả hai tên công tước ngớ ngẩn kia nữa. Không, vô ích thôi. Tôi không thể nào dung hòa ý nghĩ đó được.” Các cô hầu mỉm cười, và một trong các thợ may cười khúc khích. Bà Thorne lườm cô, và cô gái lại cúi đầu vào công việc của mình. “Tôi biết người ta nói Đức Ngài là một kẻ hoang dã, thưa cô, và đúng là như vậy,” Jane nói. “Những trò quậy phá,” bà Thorne nói, lắc đầu. Tuy vậy, Olympia thoáng thấy một nụ cười bao dung. “Nhưng khi cha tôi bị ốm, Đức Ngài đã gửi bác sĩ đến, thưa cô,” Molly nói. “Và ngài còn trả tiền phí nữa.” “Người ta có thể nói bất cứ điều gì về các Đức Ngài—và những trò quậy phá của họ!” Jane nói. “Nhưng bất cứ thứ gì bị phá vỡ, cháy rụi, hoặc rơi xuống sông—hoặc bất cứ ai bị liên luỵ—họ đều trả tiền.” “Chăn ga giường lần đó,” Molly nói. “Toàn máu, tôi thề. Dù vậy, chúng tôi nghĩ mình có thể giặt sạch—” “Toàn máu?” Olympia hỏi. “Các cuộc đấu súng,” cô Ames nói. “Im ngay,” bà thợ may ngắt lời. “Đức Ngài có nhắc đến đấu súng,” Olympia nói. “Cánh đồng Battersea, cô biết đấy,” cô Ames nói. “Thỉnh thoảng là Putney Heath.” “Nhưng thường thì các quý ông đi xuôi dòng một chút,” Jane nói. “Để được vá víu lặng lẽ.” “Thường không quá đẫm máu, nhưng lần đó thì—” “Công tước Ashmont—” “Khi tôi nhìn thấy máu, tôi nghĩ Ngài Stewkley đã bắn văng tai ngài ấy!” “Nhưng chỉ là một vết cắt trên đầu thôi, Đức Ngài nói, và ngài ấy cười phá lên! Như thể chẳng có gì.” “Và Đức Ngài Ripley nói rằng vết thương ở đầu chảy máu như lợn—” “Chảy máu như quỷ, là lời của Đức Ngài,” Jane sửa lại. “Giữ mồm giữ miệng đi,” bà Thorne nói. “Không phải vì tôi đâu,” Olympia nói. “Tôi có sáu anh em trai.” “Con trai thì vẫn là con trai, chúng ta đều biết mà,” bà Thorne nói. “Chính xác hơn là những cậu nhóc nhỏ hoang dại,” Olympia nói. “Tôi không chắc họ có bao giờ thực sự văn minh không. Tôi chỉ ngạc nhiên vì họ sống đủ lâu để trưởng thành. Còn cuộc đấu súng nào khiến Ngài Stewkley suýt thổi bay tai Công tước xứ Ashmont?” “Chuyện đó lâu lắm rồi,” bà Thorne trả lời với vẻ nghiêm khắc khi những người khác định mở miệng. “Gần mười năm trước, tôi nghĩ thế.” “Lâu thế rồi cơ á?” Jane hỏi. “Dù sao đi nữa, họ khi ấy còn rất trẻ, gần như chỉ là những cậu học sinh,” bà Thorne nói. “Tôi chắc chắn chẳng ai nhớ được chuyện đó xảy ra vì lý do gì. Và tôi cũng chắc chắn rằng chúng ta còn nhiều việc phải làm hơn là lãng phí thời gian buôn chuyện về quá khứ xa xưa.” Bà nhìn mọi người phụ nữ khác với ánh mắt cảnh báo. Chủ đề này nhanh chóng khép lại, và mọi người tập trung vào công việc trong khi Olympia nghiền ngẫm những thông tin mới thu thập được. Người ta luôn cố gắng che giấu các cuộc đấu súng vì chúng bất hợp pháp, nhưng hoàn toàn che giấu là điều gần như không thể. Tuy nhiên, Olympia không thể nhớ được điều gì cụ thể về Ashmont và Ngài Stewkley. Điều đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Bộ ba “Những Kẻ Bất Hảo” đã tạo ra vô số vụ bê bối đến nỗi việc lôi ra một vụ—từ cả một thập kỷ trước—cũng giống như gỡ mật đường ra khỏi tóc một cậu bé. Ý nghĩ về mật đường khiến Olympia nhận ra rằng mình đang đói. “Tôi tự hỏi liệu ai đó có thể mang cho tôi chút đồ ăn không,” cô nói. “Chắc chắn rồi, thưa cô,” Jane đáp. Cô vội vã rời khỏi phòng. Những người còn lại mặc cho Olympia chiếc corset nghịch ngợm, chỉnh sửa lần cuối, và buộc dây chặt lại. Tiếp đến là váy lót, phù hợp với các món đồ còn lại. Rồi cuối cùng là chiếc váy. Olympia chỉ lơ đãng nhận thức được rằng mình đang mặc một khối lụa màu hồng với nơ và ren, nhưng tâm trí cô lúc này chỉ nghĩ đến thức ăn, mong rằng cô hầu sẽ nhanh chóng quay lại. Một mẩu bánh mì, phô mai, hoặc một cái bánh quy cũng được. Nhưng không, Olympia đã đến cùng với Công tước xứ Ripley, người mà dường như được phong thánh ở nơi này, và anh là đầu bếp đang chuẩn bị rùa, tôm hùm, và cả một con bê béo. Mãi đến khi bà Thorne khoác lên vai cô một chiếc áo choàng đen, Olympia mới thực sự chú ý. Cô nhìn xuống phần thân áo và váy. Cô bước ra khỏi vòng tay của các người phụ nữ và tiến thẳng đến gương. Những người còn lại đi theo, đứng quanh bóng phản chiếu của cô như một khung hình với những gương mặt đang cười. “Hoàn hảo!” bà Thorne thốt lên. “Hoàn hảo,” những phụ tá đồng thanh. “Hoàn hảo,” Molly thở hổn hển. “Ồ, tôi chưa từng thấy thế này bao giờ.” “Cá là cô chưa,” Olympia đáp. Cô chỉnh lại kính, bước mạnh mẽ đến cửa, và mở toang ra. Mặc kệ tiếng kêu thất vọng từ phía sau, cô tiếp tục bước thẳng đến căn phòng bên cạnh. Cô không gõ cửa, cũng không dừng lại để suy nghĩ. Cô đẩy cửa ra, bước vào, và đóng sầm cửa lại phía sau. “Đây có phải là trò đùa của ngài không?” cô nói. “Bởi vì…” Cô bất chợt đối diện với một tấm lưng cơ bắp, phần hông rắn chắc, và đôi chân dài, lực lưỡng của một người đàn ông cao hơn sáu feet, hoàn toàn trần truồng, đang đứng trong một chiếc chậu lớn trước lò sưởi. Anh bất động, và Olympia lẽ ra nên quay đầu—hoặc tốt hơn, nên bước ra khỏi phòng với một chút phẩm giá. Rõ ràng là cô vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, vì tất cả những gì cô có thể nghĩ đến là sự khác biệt giữa một người đàn ông trưởng thành không mặc gì—nghĩa là thật sự không mặc gì—và một cậu bé trần trụi. Cổ của anh, bờ vai của anh và... cơ bắp, dường như là vô tận. Trời ơi, đôi tay anh. Đôi tay đã bế cô lên khỏi dòng sông. Cô đã từng thấy tượng đá cẩm thạch của những người đàn ông khỏa thân. Ai mà chưa từng cơ chứ? Cô đã thấy những bức vẽ nữa. Nhưng anh thì sống động, rất sống động. Dù đứng im như vậy, anh vẫn thở, và cô có thể thấy chuyển động nhẹ nhàng của cơ vai và cơ lưng. Làn da không phải là đá cẩm thạch hay trắng bệch như giấy mà là màu vàng óng trong ánh lửa trong phòng. Ánh sáng hổ phách lấp lánh trên lớp lông tối màu dọc theo tay và chân dưới của anh, và tất cả mọi thứ đó—anh—hoàn toàn không giống như một bức tượng... và hơi nóng đang tràn ngập khắp người cô, khiến việc hít thở trở nên khó khăn hơn bình thường. "Tôi đáng lẽ phải biết," anh nói. Anh bắt đầu quay lại. Cô cũng định quay lại, hướng về phía cửa, nhưng tay chân cô từ chối hợp tác, và cô không thể rời khỏi phòng một cách trang nghiêm trước khi anh với lấy chiếc khăn được treo trên ghế gần đó và quấn quanh người mình. Không phải hoàn toàn. Đôi vai rộng, phần lớn lưng, và phần dưới chân của anh vẫn còn hiện rõ. Anh bước ra khỏi chậu và đứng, nước nhỏ giọt xuống tấm thảm. Cô ngẩng cằm lên và giả vờ giữ vẻ bình tĩnh mà cô hoàn toàn không cảm thấy. "Anh có thể lắm," cô nói. Cô tự nhủ rằng mình đã hai mươi sáu tuổi, không còn là một cô nữ sinh—đã bảy năm dài trôi qua—và... và... điều gì đã khiến cô xông vào đây cơ chứ? Chiếc váy. "Nó là kiểu Pháp," cô nói. "Gì cơ?" Anh quay lại, và giờ cô được nhìn toàn cảnh phía trước của chiếc cổ khỏe khoắn, bờ vai và phần thân trên. Sự ấm áp ùa đến cô từng đợt, và cô cảm thấy quai hàm mình bắt đầu hạ xuống. Trời đất ơi, anh ấy... vóc dáng đó... thật... lực lưỡng. Cô vẫn còn đang cố gắng phục hồi sau cảnh phía sau. Phía trước... xương quai xanh của anh... lồng ngực... Ngừng trố mắt đi, đồ ngốc. Cô tự ép mình nhìn chằm chằm xuống bộ trang phục của mình, mặc dù thực tế đây là bộ váy ban ngày đẹp nhất, nổi bật nhất mà cô từng mặc. "Nó là kiểu Pháp," cô nói, vẫy tay một cách hơi run rẩy về phía chiếc váy. "Và tôi sẽ không nói với anh về thứ ở bên dưới vì chắc chắn anh đã biết rồi, nhưng tôi muốn anh biết rằng tôi hoàn toàn nhận thức được chính xác nó là gì." "Đồ lót sao?" anh nói. "Vì nhìn chiếc váy này có vẻ quá—" Anh ra hiệu bằng tay còn lại không giữ khăn. "Quá nhiều so với một chiếc váy, với cái dáng rõ ràng không thể nào là dáng tự nhiên của cô. Với tất cả phần váy phồng lên và tay áo như thùng rượu thế này? Rõ ràng là thứ cô đang mặc bên dưới là một lượng lớn khung sườn kim loại." "Tâm trí đàn ông thật là kỳ diệu," cô nói. "Nhưng đó không phải là vấn đề." "Tôi biết sẽ có một vấn đề," anh nói. "Và là một người khiêm tốn, tôi không tin dù chỉ một giây rằng cô xông vào đây với mong muốn cuồng nhiệt được kỳ cọ lưng cho tôi." Cơn nóng bừng lan khắp mặt, cổ, và những nơi khác trên cơ thể cô mà đáng lẽ không được phép thu hút sự chú ý. "Tư duy xuất sắc," cô nói. Cô vung nhẹ chiếc áo choàng tuyệt đẹp được khoác trên vai mình. "Là thế này đây. Vàng đồng. Đen vàng đồng. Ít nhất thì phù hợp với một phụ nữ đã có chồng—không phải tôi nghi ngờ lớn rằng bất kỳ bà nội trợ nào mà tôi biết lại mặc đồ lót thêu đen và hồng. Và những chiếc nơ hồng! Tôi hỏi anh đấy." Đôi mắt anh cụp xuống, nhưng cô không cần nhìn. Cô cảm nhận được ánh nhìn của anh đang từ trên xuống dưới và lại từ dưới lên trên. Da cô râm ran, giống như lần đầu tiên cô gặp anh, nhưng lần này mạnh mẽ hơn, mặc dù cô đã lớn hơn bảy tuổi và từng chứng kiến không ít những tay chơi lả lướt hành động. Dù chưa bao giờ những hành động đó liên quan đến cô. “Nếu cô đang hỏi liệu tôi có thể thấy đồ lót của cô hay không, thì câu trả lời là không,” anh nói, giọng trầm hơn chút so với trước. “Và vì tôi không thể thấy gì khi cô dường như được che đậy rất kín—phải nói là kín hơn trước nữa—’ “Thôi quên đi,” cô nói. “Tôi không biết mình nghĩ gì khi cho rằng anh sẽ hiểu. Tôi sẽ cố gắng làm quen và tự nhủ rằng ít ra tôi cũng gây được chút thú vị, và có lẽ tôi đang quá đói để suy nghĩ một cách mạch lạc. Tôi là một người rõ ràng, anh biết đấy. Và nhàm chán. Tôi chưa từng mặc đồ đen vàng trong đời bao giờ!” Cô bắt đầu quay đi, hướng về phía cửa ra mà đáng lẽ cô nên đi từ lâu. “Đến lúc cô bắt đầu rồi đấy,” anh nói. “Màu đó hợp với cô.” Cô quay lại. “Nó chẳng hợp với tôi chút nào. Nó quá nổi bật. Tôi không phải là người nổi bật.” “Thật khó tin,” anh nói. “Bỏ trốn khỏi đám cưới và mọi thứ. Leo qua tường. Ngã khỏi thuyền. Dù người ta có thể nói gì về cô—và thú thật là tôi chưa chắc là nói gì—nhưng nhàm chán không nằm trong danh sách.” Cô phẩy tay. “Đó không thực sự phải là tôi. Đó là Olympia trong những phút giây điên rồ.” Anh nhướn một bên lông mày đen. “Phút giây điên rồ?” “Điều tôi muốn nói là, tôi không còn hơi men nữa—” “Theo tôi đánh giá, nó nhiều hơn một chút hơi men, và tôi là chuyên gia, nhớ chứ.” “Nói chung thì, đó là một hành động ngu ngốc, và mặc dù tôi đã suy nghĩ rất nhiều, tôi không thể đưa ra bất kỳ lý do nào thông minh hay thậm chí có lý hơn.” Nỗi hoảng loạn không phải là một lý do chính đáng. Đúng là thời gian giữa lúc tán tỉnh, chấp nhận lời cầu hôn, và đám cưới không nhiều. Đúng là cô đã để bản thân bị cuốn theo sự phấn khích của mẹ và dì. Nhưng những điều đó cũng không phải là lý do chính đáng. Có điều gì đó đã xảy ra với cô sáng nay, ngay cả trước khi uống rượu brandy, nếu không cô đã đụng đến nó. Có thể brandy đẩy cô đi xa hơn, nhưng trong sự hiện diện của anh, hiệu ứng đó dường như vẫn còn tiếp tục, ngay cả khi rượu đã tan bớt. Không, trong sự hiện diện của anh, mọi thứ đang trở nên tệ hơn. Cô liếc nhìn chiếc váy và cố nén một cảm giác tiếc nuối. “Chúng ta nên quay về thôi.” Có một khoảng lặng, và cô chờ đợi câu nói Tôi đã nói mà. Chẳng phải anh đã hỏi cô, vài lần, rằng cô có chắc muốn tiếp tục không? Chẳng phải anh đã chỉ ra rằng sẽ dễ dàng thế nào nếu quay lại sao? “Quay về cái khỉ gió ý,” anh nói.
Chương 5 Dịch: thuylinhh Mặc dù Ripley chỉ quấn mỗi chiếc khăn tắm, nhưng việc gần như trần truồng cũng chẳng đủ làm anh bối rối. Trái lại, anh sẵn sàng trả một trăm bảng chỉ để thấy lại biểu cảm trên khuôn mặt cô khi cô xông vào phòng anh. Anh đã bị cám dỗ khủng khiếp muốn quay người lại, không cần khăn tắm. Anh sẵn sàng trả hai trăm bảng để thấy phản ứng của cô khi đối diện trực tiếp. May mắn thay, anh nhớ ra kịp lúc rằng cô là người đã được chọn của Ashmont. Dù là đùa hay không, một người đàn ông không thể tùy tiện khoe toàn bộ phía trước trần trụi trước mặt vị hôn thê của bạn thân. Dù sao thì, cảnh tượng một người phụ nữ trong chiếc váy nổi bật, tóc bung xõa, thở hổn hển khi ngực phập phồng như biển động—và anh thì mới vừa tắm xong trong tình trạng không mặc gì—có thể khiến cậu nhóc nhạy cảm phía dưới anh nuôi hy vọng hão huyền, điều mà Ripley không muốn phải chịu đựng thêm phiền toái. Có một điều trọng không kém: Như những lúc bình thường, Ashmont có thể sẽ coi một cảnh như thế này là trò đùa thú vị. Nhưng đây không phải là hoàn cảnh bình thường. Dù Ripley chưa từng có kinh nghiệm đối mặt với những tình huống kỳ lạ với vị hôn thê của bạn mình, anh nghi ngờ rằng ngay cả Ashmont cũng sẽ khó chịu khi vị hôn thê của mình nhìn thấy bạn thân cậu ta trong trạng thái lõa thể hoàn toàn. “Con tàu đó đã rời bến rồi,” anh nói. “Chúng ta sẽ không quay lại.” “Đừng có nói vớ vẩn,” cô nói. “Anh đã hỏi tôi vài lần liệu tôi có muốn—” “Đó là trước đây,” anh nói. “Nhưng cô đi qua sông Tiber—” “Là sông Rubicon, đừng có gây sự với tôi!” “Con lắc đã được gieo,” anh nói. “Tôi sẽ đưa cô đến gặp bà dì, như chúng ta đã thỏa thuận, và cô ngừng thay đổi ý định mỗi năm phút đi.” “Tôi không thay đổi ý định mỗi năm phút! Tôi chưa từng thay đổi nó. Cho đến bây giờ.” “Chúng ta đã có kế hoạch—” “Đó là kế hoạch của anh, và ai cũng biết kế hoạch của anh chẳng bao giờ hay ho gì.” “Tôi đã khô ráo hoàn toàn rồi,” anh nói. “Có lẽ cô sẽ vui lòng giúp tôi giữ chút kín đáo và đưa áo choàng cho tôi?” “Người hầu đâu rồi?” cô nói. “Không phải anh nên có cả tá người chạy lăng xăng làm theo lệnh mình sao?” “Chỉ vài phút trước khi cô xông vào phòng này,” anh nói, “tôi sai họ ra ngoài xem chuyện gì xảy ra với bữa ăn và quần áo tôi mà đã đặt từ lâu. Thần thánh ơi, ngay cả khi đang dỗi, đầu bếp Chardot của tôi vẫn có thể làm ra một bữa tiệc trong một nửa thời gian họ lề mề. Còn có vài việc khác cần làm nữa. Có vẻ tôi đã đuổi họ đi đúng lúc. Người hầu quán trọ thì không thể giữ bí mật, dù mình có trả tiền hay dọa nạt bao nhiêu. Tôi nghi ngờ rằng tin tức về cảnh tượng hiện tại sẽ không được gia đình cô đón nhận tốt, và như tôi đã nói, tôi chán ngấy các cuộc đấu súng rồi.” Mấy người may vá và các cô hầu sẽ nói chuyện, nhưng vì họ không tận mắt chứng kiến, anh có thể tận dụng lời đồn của họ. Anh cũng không lo ngại quá nhiều về việc Tiểu thư Olympia sẽ buột miệng. Anh cho rằng xác suất cô kể lể với đám người lạ rằng mình từng xông vào phòng một người đàn ông trong lúc anh ta đang tắm, chưa nói đến việc đó là Công tước xứ Ripley tai tiếng, là rất thấp. Cô đỏ mặt. “Thế thì càng có lý do để chúng ta quay về, càng sớm càng tốt.” “Không,” anh nói. “Áo choàng? Nếu quý cô có thể làm ơn. Thôi không sao, tôi tự lấy được.” Cô ưỡn cằm lên, bước đến giường, giật lấy áo choàng mà đám người hầu đã đặt rất cung kính ở đó, quay lại và, với cánh tay duỗi thẳng, đưa nó ra cho anh. Khi anh cầm lấy áo choàng, cô quay lưng lại. “Bây giờ tâm trí tôi tỉnh táo hơn nhiều rồi,” cô nói, “ý tưởng để mọi việc trong tay anh thật sự là một hành động tự hủy hoại.” Anh nhìn ngắm phía sau lưng cô. Bà Thorne đã chọn rất khéo. Chiếc áo choàng ren đen phủ qua vai Tiểu thư Olympia cực kì vừa vặn, không quá rộng cũng không quá hẹp, cân đối hoàn hảo với phần còn lại của dáng vóc cô. Quả thật, cô có một tấm lưng đẹp. Anh đã chú ý điều đó hơn một lần trong quá khứ, cách cô đi lại, sự thiếu kiên nhẫn trong bước chân khiến một người đàn ông muốn chậm lại và giành trọn sự chú ý từ cô. Có lẽ đó chính là điều cuối cùng khiến Ashmont không thể cưỡng lại: lời thách thức mà cô mang đến—Tôi thách anh sở hữu được tôi. Hiện tại, tấm lưng ấy thẳng băng và bất khuất. Ồ, cô sẽ khiến Ashmont phải chú ý. Nhưng chưa phải lúc này. Ripley không thể đưa cô trở lại Ashmont ngay bây giờ. Thật ra anh có thể, nhưng điều đó sẽ khiến mọi thứ trở nên quá dễ dàng. Công Tước có Gương Mặt Thiên Thần cần phải nỗ lực thực sự, nhiều hơn những gì được cho là tán tỉnh. Bằng một tai nạn may mắn, cậu ta đã tìm thấy một Nữ Công tước xứ Ashmont hoàn hảo. Nhưng cậu ta sẽ không đánh giá đúng giá trị của cô nếu không phải cố gắng nhiều hơn. “Cô làm tôi đau lòng đấy,” Ripley nói khi anh khoác chiếc áo choàng vào. “Tôi nổi tiếng với các kế hoạch của mình.” “Tôi sẽ không phủ nhận phần nổi tiếng,” cô nói. “Báo chí chẳng thích gì hơn là viết về các kế hoạch của anh. Chi tiết từng chút một. Để tôi xem nào. Có bữa tiệc tối khi anh thay tất cả gương trong phòng ăn và phòng khách bằng những chiếc gương méo mó.” “Thật tiếc là cô không thấy,” anh nói. “Buồn cười lắm, nhìn khách khứa lảo đảo từ chỗ này sang chỗ khác, dù còn chưa uống giọt rượu nào.” Những chiếc gương đó đã khiến một số vị khách say rượu ói mửa khắp nơi, nhưng niềm vui đó hoàn toàn đáng giá so với việc phải thay thảm và vài chiếc ghế. Ripley đã cười đến mức phát ốm. Cũng như hai người bạn của anh. “Rồi còn bữa tiệc tối anh tổ chức cho những người nói lắp,” cô nói. “Không phải ý tôi,” anh đáp. “Đó là ý tưởng của Blackwood. Nhưng tôi đã giúp cậu ta tìm và tập hợp họ lại một chỗ. Không phải việc dễ dàng đâu. Nhưng cuộc trò chuyện hôm đó thật đáng giá.” “Thật tàn nhẫn,” cô nói. “Nói để cô biết nhé, những vị khách đều thấy nó buồn cười,” anh đáp. “Họ cười đến rớt khỏi ghế, và càng cười thì họ càng khó nói chuyện hơn. Một khái niệm mà cô sẽ không hiểu—không nói chuyện.” “Tôi không nghi ngờ gì việc rượu đã giúp sức cho họ.” “Tất nhiên rồi. Chúng tôi không bao giờ phục vụ rượu kém chất lượng.” “Dù sao thì, tôi đang rất tỉnh táo, và sẽ không ngoan ngoãn làm theo những gì Công tước xứ Ripley nói chỉ vì ngài bảo vậy,” cô nói. “Thực tế, hành động ngược lại có vẻ hợp lý hơn nhiều.” “Sau tất cả chuyện này, cô sẵn sàng quay về với vẻ mặt rũ rượi và đuôi cụp giữa hai chân, như một kẻ bỏ trốn hối lỗi à?” anh nói. Điều đó hoàn toàn không ổn chút nào. Ashmont cần cô phải táo bạo, thách thức và, nói chung, phải khó chiều. “Điều này thật sai trái, sai ở nhiều cấp độ đến mức tôi nhức đầu khi cố đếm chúng,” cô nói. “Nhức đầu là một tác dụng phụ được biết đến của việc uống quá nhiều rượu brandy,” Ripley nói. “Tôi đã làm bẽ mặt gia đình mình,” cô nói. “Và dù tôi biết sự từ chối của mình sẽ chẳng làm tổn thương Ashmont, nhưng tôi đã làm anh ta mất mặt trước công chúng. Lòng tự tôn của anh ta sẽ bị tổn thương, và đó là điều bất công mà anh ta chẳng làm gì—đối với tôi—phải hứng chịu.” Nhưng kế hoạch Ripley nghĩ ra quả là rất tốt. Một kế hoạch hoàn hảo. Cho Ashmont. Cho cô. Vậy mà... Cô ấy tử tế lắm, Ashmont đã nói tối qua, giọng cậu ta ngập ngừng như không tin vào điều mình đang nói. Mọi người không tử tế với Những Kẻ Bất Hảo. Người ta làm những gì được yêu cầu hoặc trả tiền để làm. Người ta tâng bốc, cố quyến rũ, phớt lờ, chịu đựng, hoặc thuyết giảng. Không ai nghĩ rằng một công tước nổi tiếng là tên phóng đãng lại cần đến hay trân trọng sự tử tế. Ripley nhớ lại tối qua—hay đúng hơn là sáng sớm nay—khi Ashmont vui vẻ nói về chuyện kết hôn, giao phó cho Ripley nhiệm vụ đảm bảo mọi việc diễn ra suôn sẻ. Bắt cóc cô dâu—đó chính là điều sẽ xảy ra bây giờ, khi cô muốn quay về—rốt cuộc không phải là cách để mọi chuyện diễn ra suôn sẻ. "Tốt thôi," anh nói. "Tôi sẽ đưa cô trở lại." Nhưng trên đường quay về, anh sẽ gợi ý một vài điều về việc chăm sóc và quản lý Đức ngài Ashmont. "Cảm ơn," cô nói, rồi bắt đầu bước ra cửa. "Nhưng chúng ta sẽ không dùng con thuyền chết tiệt đó," anh nói với theo lưng cô. Lưng thẳng, đầy quyến rũ của cô. Cô nhún vai, đôi vai cũng không kém phần quyến rũ, rồi bước ra ngoài. *** Thời gian ngắn sau Olympia ngồi đó, cố gắng ăn một chiếc sandwich, trong khi Molly và Jane chỉnh sửa tóc cho cô. Từ chỗ ngồi, cô có thể thấy chiếc váy cưới và mạng che mặt phản chiếu trong gương trang điểm. Những người hầu đã trải chúng ra để hong khô trước lò sưởi. Đó là nơi những bộ đồ bị rách nát và lấm bẩn nằm lăn lóc, như xác chết cho cơ hội duy nhất để kết hôn một cách vẻ vang và cứu lấy các anh em trai khỏi hai vị phụ huynh đang ngày càng sa sút tài chính. Cô chẳng muốn nghĩ ngợi thêm về những gì mình đã làm sáng nay, nhưng cô đâu phải một công tước. Không như Ripley, cô không thể gạt những chủ đề khó chịu ra khỏi tâm trí theo ý muốn. Anh dường như tin rằng vẫn còn cơ hội thứ hai, và anh hẳn biết rõ cách xoay xở trong những vụ bê bối. Nhưng ngược lại, chẳng công tước nào trong nhóm "bộ ba tai tiếng" được xếp vào danh sách Những Bộ Óc Vĩ Đại Nhất Thế Giới. Và nếu xét thêm khả năng, Ashmont lại càng không thể đoán trước được. Người ta chẳng bao giờ biết khi nào trò đùa thực tế tiếp theo hay cuộc ẩu đả mới sẽ xảy ra. Tước vị, vẻ ngoài, và sự duyên dáng đã giúp anh ta tồn tại cho đến một hay hai năm nay, nhưng các bà chủ tiệc ở London cuối cùng cũng chán ngấy hành vi xấu của anh ta và bắt đầu gạch tên khỏi các danh sách khách mời. Nhỡ đâu anh ta không cho cô cơ hội thứ hai thì sao? Không phải là cô chắc chắn mình muốn cơ hội đó... nhưng nếu nhìn vào mặt sáng của việc anh ta từ chối, vẫn còn Ngài Mends. Ở thời điểm này, Ngài Mends có thể dường như bớt đáng sợ hơn trong mắt cha mẹ cô. Đó là nếu ông vẫn còn muốn cầu hôn. Biết đâu, ông ta đã tìm được một phụ nữ khác sẵn sàng trở thành thủ thư của mình. Đúng là ông ta già và hay dạy đời. Đúng là cha mẹ cô đã giận dữ đến mức gần như phát điên khi nghĩ đến việc gả cô con gái duy nhất, quý giá của họ cho một người gần như đủ tuổi làm ông nội cô. Nếu Olympia thực sự yêu ông ta, có lẽ cô đã cố thuyết phục họ. Nhưng cô chỉ yêu sách của ông ta thôi. Dù cha mẹ cô từ chối lời mời đến thăm thư viện của Ngài Mends, cô cảm giác như đã quen thuộc với nó qua những gì cô đọc được và lời kể của ông. Dù ông ta buồn bã thừa nhận rằng nó không thể so sánh với thư viện của cố Công tước xứ Marlborough hay Roxburghe, một cuốn danh mục ông cho in riêng đã khiến cô gần như ngất lịm: Psalmorum Enchiridion (một loại sách kinh thánh), trong chiếc bìa tuyệt đẹp của Clovis Eve dành cho Marguerite De Valois, những tác phẩm từ thư viện của Maioli... Dẫu vậy, chỉ vài ngày sau khi cha mẹ cô từ chối Ngài Mends, Olympia đã có cuộc gặp định mệnh với Công tước xứ Ashmont. Và giờ đây... Một cuộc gặp định mệnh với cặp mông trần của Công tước xứ Ripley. Và những bộ phận khác... cùng nhận thức rằng Công tước xứ Ashmont chắc chắn cũng có những bộ phận trần trụi, và cả Ngài Mends nữa. Nhưng chỉ nghĩ đến sự thân mật hôn nhân với một trong hai người này đã khiến cô muốn bật khỏi ghế—thậm chí có thể lao ra khỏi cửa sổ. Đúng lúc đó, cánh cửa mở ra và Công tước xứ Ripley bước vào, dáng điệu nhàn nhã. Cô gạt hết những hình ảnh kia khỏi đầu và tập trung vào thực tại, vào người đối diện, bởi vì anh đang đứng đó, và cô không thể nhìn thấy gì khác. "Vẫn chưa xong à?" anh hỏi. "Chưa," cô đáp. "Và anh không được giục tôi. Tôi và cả đội quân phụ nữ này đã làm mọi thứ nhanh nhất có thể. Thật bất công khi đàn ông, những người không có quy trình ăn mặc phức tạp như thế này, lại phàn nàn về thời gian chúng tôi cần. Anh không nhớ phải mất bao lâu để gỡ cái thứ kia ra khỏi đầu tôi à?" Cô gật đầu về phía chiếc vương miện cô dâu và mạn che mặt bị bỏ quên. "Anh nghĩ việc khôi phục lại chút vẻ bình thường cho mái tóc của tôi có thể làm trong chớp mắt sao?" "Tôi thấy cô lại đến giai đoạn cáu kỉnh rồi," anh nhận xét. Đó là cách nói nhẹ nhàng nhất. "Ngài Công tước à, liệu có khả năng nào, hay tôi đòi hỏi quá nhiều, rằng Ngài có thể cố gắng bớt gây khó chịu hơn một chút—chỉ một phần rất nhỏ thôi được không?" "Quá nhiều đấy," anh đáp. "Cô nghĩ sao?" Anh làm một cử chỉ vuốt ve bộ đồ của mình, khiến hình ảnh mà cô không thể xóa khỏi tâm trí càng thêm rõ nét: hình ảnh anh không mặc gì cả. Nghiên cứu anh không tốt cho cô, chắc chắn là vậy. Cô đã làm điều đó quá chăm chú lúc nãy, và không chắc mình có thể hồi phục được không. Việc ăn uống dường như đã giúp cô tỉnh táo hơn, dù cô không dám chắc, vì không có cơ sở để so sánh. Với đầu óc tỉnh táo hơn đôi chút, cô càng nhận thức rõ hơn về sự hiện diện thể chất mạnh mẽ của anh. Hình ảnh chú ngựa đực mà cô từng xem trong một lần phối giống lại xuất hiện trong đầu. Ngừng lại, ngừng lại ngay. Hãy lý trí lên, cô tự nhủ. Hãy nhìn vào sự thật. Sự thật đơn giản là khó có thể làm ngơ trước sự hiện diện thể chất của một người đàn ông khi người ta đang ngồi và nhìn lên anh ấy. Cô hạ ánh nhìn và từ dưới hàng mi, lướt qua từ đầu đến chân anh: từ đôi vai rộng căng lên lớp áo khoác đen, xuống chiếc áo sơ mi xếp nếp và áo gi-lê sọc, rồi nhanh chóng lướt qua chiếc quần trắng đến đôi giày đen đã mòn. Anh cầm một chiếc mũ trong tay phải. Cô nhìn chằm chằm vào chiếc mũ và cố gắng giữ tâm trí bận rộn bằng cách nhớ tên các loại mũ của đàn ông và cố xác định xem đây là loại nào. "Đương nhiên là không vừa," anh nói. "Chuyện đó khỏi phải bàn, với thời gian gấp gáp như thế này, dù thợ may đã làm hết sức. Loại len này chắc chắn không phải thứ tôi chọn, và vải lanh thì ở mức xoàng xĩnh." Cô cố gắng hình dung anh như một ma-nơ-canh trong cửa hàng. Một ma-nơ-canh ăn mặc kỳ quặc. "Cũng không đến nỗi tệ," cô nói. "Tôi đồng ý là chẳng cái nào vừa vặn cả, nhưng ít nhất thì chiếc quần cũng che được mắt cá chân anh. Và nếu anh không phải nhấc phụ nữ lên rồi quăng vào thuyền hay sông, thì đường may của áo khoác chắc cũng sẽ chịu được." "Nhưng tuyệt tác ở đây," anh nói, bước tới gần, khiến những người phụ nữ khác phải lùi lại. Anh dừng trước tấm gương lớn và đội chiếc mũ lên đầu. Nhíu mày, anh nghiêng mũ qua bên này, rồi bên kia, cuối cùng thử đội thẳng. "Thảm họa," anh nói. "Trông tôi như một nhân viên ngân hàng. Nhưng nó là chiếc duy nhất gần như vừa đầu tôi. Làm thế nào mà người ta có thể mua được mấy thứ này mà không cần đặt may nhỉ?" "Anh không giống nhân viên ngân hàng chút nào," cô nói. "Kể cả khi anh đội mũ của người chèo thuyền, anh cũng không giống họ. Anh trông như một quý tộc… " Cô dừng lại một chút. "Đang cải trang. Dù là một màn cải trang không mấy thuyết phục." Cô phẩy tay, giọng có chút bông đùa. "Cũng tạm được. Anh có mặc gì đi chăng nữa thì vẫn sẽ cao lớn, bảnh bao, và—" "Bảnh bảo—" "Đàn ông lúc nào cũng được cho là vậy, ngay cả khi họ đã đứng tuổi và bắt đầu phát phì," cô tiếp tục. "Đàn ông có thể bạc tóc, có thể sập xệ thoải mái mà chẳng ai phàn nàn. Còn phụ nữ chúng tôi thì chỉ được phép trông tươi trẻ cho đến khoảng hai mươi tuổi là cùng. Sau đó, chúng tôi trở thành những bà già xấu xí." Những người phụ nữ xung quanh cô phản đối. "Qúy cô hôm nay hơi khó ở," Ripley nói với họ. "Các cô đã làm rất tốt. Quý cô trông không đến nỗi già cỗi như mọi ngày. Giờ thì, nếu mọi người có thể ngừng tỉ mẩn với tóc tai, chúng tôi thật sự cần phải đi ngay. Quý cô đang háo hức lên đường rồi." Cô quả thật muốn rời đi. Nhưng câu hỏi là, đi đâu bây giờ? "Đúng thế," cô nói. *** Bảnh bao. Chưa ai từng nói với Ripley như vậy trước đây. Chắc hẳn cô vẫn còn say. Vì không quen uống rượu, cô không tỉnh táo nhanh như những người có kinh nghiệm. Hơn nữa, cô là một tiểu thư, một trinh nữ. Nhưng cách cô nhìn Ripley qua hàng mi không giống với những gì người ta mong đợi từ một trinh nữ ngây thơ. Ai mà ngờ rằng cô tiểu thư mọt sách lại có thể dùng ánh mắt nửa che nửa đậynhư thế, khiến một người đàn ông cảm thấy bứt rứt khó chịu. Rõ ràng, Ripley còn nhiều điều phải học về những tiểu thư mọt sách. Tuy nhiên, anh không phải bứt rứt lâu. Cô hơi nghiêng đầu, ánh lửa lấp lánh trên cặp kính của cô, và anh không thể thấy đôi mắt đó nữa. Không phải anh cần nhìn thấy, anh tự nhủ. Cô đã thấy quá đủ ở anh rồi, và anh cũng không cần phải thấy thêm gì từ cô. Trong hoàn cảnh hiện tại, tốt nhất là không nên. Sau một thời gian dài sống như thầy tu mấy tháng qua, anh lại dễ dàng bị khuấy động hơn bao giờ hết. Anh sẽ giải quyết căn bệnh này ngay tối nay. Ngay khi anh đưa cô dâu trở về với chú rể. Cùng với những suy nghĩ không đứng đắn thường thấy ở một người đàn ông chẳng mấy đạo đức, những điều này cứ lởn vởn trong đầu anh khi anh kiên nhẫn đứng chờ, chân gõ nhịp, để các cô hầu đội chiếc mũ lên đầu Tiểu thư Olympia và buộc dây ruy băng cho ngay ngắn. Khi nghi lễ đội mũ cuối cùng cũng kết thúc, và bộ đồ cô dâu được gói lại trong vải lanh, anh vội vàng đưa cô ra khỏi phòng, rồi ra khỏi khách sạn, cuối cùng đến sân trọ nơi một chiếc xe ngựa đứng chờ sẵn. "Xe ngựa chở thư!" cô kêu lên. "Cô nghĩ tôi sẽ mua vé xe thư công cộng à?" anh đáp. "Vào giờ này sao?" "Nó sẽ đưa chúng ta đến Twickenham chứ?" cô hỏi. *** Ripley khoanh tay, nghiêng đầu sang một bên và chăm chú nhìn cô. Trong ánh sáng nhạt nhòa của buổi chiều, đôi mắt anh thẫm lại, mang màu xanh của một khu rừng tuyết tùng. Olympia chỉnh lại kính và ngẩng cao cằm. "Tôi quyết định là anh nói đúng." Đôi mắt xanh lục của anh híp lại. "Về việc quay lại với đuôi cụp giữa hai chân," cô nói. "Tôi không phải là kẻ hèn nhát." "Tôi cũng không nghĩ vậy," anh đáp. "Có thể chỉ là do thiếu quyết định thôi." "Tôi thừa nhận là tôi đã không suy nghĩ thấu đáo," cô nói. "Dẫu vậy, người ta cũng có thể lập luận rằng nên lắng nghe bản năng của mình. Tôi muốn nói chuyện với dì Delia trước khi trở về—nếu tôi có trở về. Tôi tin rằng dì là người thích hợp nhất để khuyên nhủ tôi. Tất cả những người khác chỉ nhìn thấy tiêu đề, OLYMPIA, CUỐI CÙNG CŨNG KẾT HÔN, VỚI MỘT CÔNG TƯỚC. Thành thật mà nói, tiêu đề đó cũng đã ám ảnh trong đầu tôi, làm ảnh hưởng đến sự sáng suốt này." Cô ngoảnh đi. Có quá nhiều thứ làm lu mờ suy nghĩ của cô. Tương lai của các anh em cô. Chính tương lai của cô nữa. Cả Ashmont nữa. Chưa từng có ai theo đuổi cô nhiệt tình như vậy. Thật ra, chưa từng có ai theo đuổi cô cả, nếu không tính việc Ngài Mends cứ thao thao bất tuyệt về mấy cuốn sách của ông ta. Khi Ashmont nhìn cô bằng ánh mắt xanh da trời chân thành đó, như thể anh ấy không thấy ai khác trên thế giới, và còn tăng hiệu ứng bằng cách nhắc đến bộ sưu tập sách đồ sộ của ông nội mình—một bộ sưu tập mà cô biết có thể sánh ngang với của các Công tước xứ Roxburghe và Marlborough—thì quả thật rất khó giữ được cái đầu lạnh. Không giống như trường hợp của Ngài Mends, Olympia tận mắt thấy thư viện của Ashmont ở trang viên tại Nottinghamshire rồi. Cha cô đã đưa cô đi cùng để xem ngựa. Khi đó, Ashmont đang học nội trú. Chính bác của anh, người giám hộ, Ngài Frederick Beckingham, đã ân cần đưa Olympia bé nhỏ—cô khi ấy không quá mười hai tuổi—đi tham quan ngôi nhà. Sau khi thấy thư viện, cô không còn hứng thú với phần còn lại của ngôi nhà nữa, khiến các quý ông không khỏi bật cười. "Twickenham," Ripley nói, kéo cô về hiện tại. "Phải," cô đáp. Anh im lặng trong một khoảng thời gian rất lâu. Olympia siết chặt tay—không phải cô nghĩ mình có cơ hội thắng trong bất kỳ cuộc chiến nào với anh—nhưng như một tín hiệu rằng cô luôn sẵn sàng đối đầu, dù cô biết mình có chút bướng bỉnh. Cô tự nhủ tốt nhất là không bao giờ uống rượu brandy nữa. "Được rồi," anh nói. "Lên xe đi." Cô thở phào nhẹ nhõm và tiến về phía xe. Người đánh xe đang hạ bậc thang và mở cửa xe thì một tiếng kêu đau đớn vang lên, tiếp theo đó là tiếng hét khác, vọng khắp sân trọ. Quay về phía âm thanh, Olympia thấy gần lối vào sân, một người đàn ông gầy gò, mặt đỏ gay, đang giơ roi lên trước một con chó run rẩy, có vẻ là một chú chó săn sói hoặc tương tự. Một làn sương đỏ bừng lên trước mắt cô. Cô quên mất Ripley. Cô quên luôn cả Twickenham. Trước khi kịp suy nghĩ, cô đã bước nhanh về phía cảnh tượng đó, giọng nói vang lên đầy kiên quyết, tay chỉ thẳng vào người đàn ông, rồi xuống đất. "Anh. Bỏ nó xuống. Ngay lập tức." *** Tên ác ôn khựng lại. Con chó thu mình xuống, nằm bẹp xuống đất. Trong giây lát, Ripley cũng khựng lại, ngẩn người. "Bây giờ," quý cô nói. Cô đang tiến về phía kẻ cầm roi, không chạy nhưng bước đi nhanh và không thể cản được, giống như—Ripley không biết phải so sánh với gì. Một thứ không thể ngăn lại, không lay chuyển như Định mệnh. Thật nực cười. Cô, trong chiếc mũ với những bông hoa rực rỡ trên đỉnh, một chiếc áo choàng ren đen bay phấp phới trên vai, và những dải ruy băng tung bay khi cô tiến tới. Một món bánh ngọt trang trí, có lẽ vậy. Một kẻ thù không đội trời chung, hoàn toàn không. Ấy vậy mà mọi người đàn ông trong sân trọ đều ngừng lại khi nghe giọng nói của cô. Tất cả bọn họ, bao gồm cả Ripley, đều phản ứng với âm thanh đó. Đơn giản, đó là Giọng nói của Quyền lực, dù anh không chắc mình từng nghe người phụ nữ nào sử dụng nó hiệu quả như vậy. Có lẽ là chị gái anh. Hoặc Dì Julia. Mặc dù kẻ chịu sự bất mãn của cô trông có vẻ lì lợm và ngang bướng như bất kỳ tên côn đồ say xỉn nào Ripley từng biết, gã vẫn hạ tay cầm roi xuống. Tuy nhiên, gã không di chuyển, chỉ đứng đó, cảnh giác nhìn quý cô đang tiến tới. "Đưa cho tôi," cô nói. Cô chìa ra bàn tay đeo găng thanh mảnh. "Ý tôi là," gã lắp bắp. Tiểu thư Olympia không cử động, không nói thêm một lời, chỉ đứng đó với bàn tay giơ ra, chờ đợi. Gã trao roi cho cô. Ripley suýt reo lên, nhưng bản năng bảo rằng tình hình này rất mong manh. Mọi chuyện có thể trở nên nguy hiểm trong nháy mắt. Khi Ripley tiến lại gần hơn, cố gắng kín đáo nhất có thể với một người cao hơn sáu feet đang ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu, gã kia lên tiếng, và một làn hơi rượu nồng nặc bốc ra. "Ý tôi là, đó là con chó của tôi, đồ quỷ quái," gã nói. "Và nó đã khiến tôi tốn cả đống tiền, cái con vật đáng nguyền rủa đó. Họ bảo nó ngoan ngoãn. Được huấn luyện để—để săn bắn. Đúng là ba hoa xằng bậy." "Anh đã đánh một con vật dễ thương," cô nói. "Bằng roi. Anh có muốn thử cảm giác đó không?" Cô giơ roi lên như thể sắp quất. Gã kia đưa tay lên phòng vệ. "Ê! Tôi đâu có—" Gã lảo đảo nhưng kịp đứng vững vào phút cuối. "Tôi thực sự bị cám dỗ để cho anh một bài học," cô nói. "Cho anh nhớ đời. Nhưng như vậy thì thật bất lịch sự." Cô nhìn con chó. "Lại đây," cô nói. Con chó đứng lên. "Đồ quỷ quái!" gã hét. "Cô không thể—đó là con chó của tôi!" Cô khẽ ra hiệu và con chó đi theo cô. "Sam!" gã chủ hét. "Mày lại đây, nếu không tao sẽ—" "Anh sẽ không làm gì cả," Tiểu thư Olympia nói. "Anh không xứng đáng để nuôi một con chó." "Cô không được lấy chó của tôi! Tôi sẽ kiện các người!" Gã nhìn quanh. "Có ai gọi cảnh sát đi! Đó là con chó của tôi, và khi nó không nghe lời, tôi phải dạy dỗ nó. Không phải chuyện của ai khác." Gã bảo hành động vật gào thét về những tên trộm, kẻ phá rối, cảnh sát và đủ thứ trên đời. Mọi người đổ ra khỏi phòng cà phê ở tầng trệt. Khán giả tràn ra hành lang nhìn xuống sân trọ. "E hèm," Ripley lên tiếng. Đang tiến tới chiếc xe ngựa, với con chó bên cạnh, Tiểu thư Olympia dừng lại và ngẩng lên nhìn anh, vẻ ngạc nhiên. "Ồ," cô nói. "Anh đây rồi." "Chúng ta sẽ không mang theo nó," anh nói. "Không thể để nó lại với kẻ đó," cô nói. "Đánh một con vật dễ thương! Bằng roi! Và đó không phải là một cú quất nhẹ để cảnh cáo, hay quất xuống đất để gây chú ý. Gã khiến con chó kêu lên—anh nghe thấy mà—và đây là một con chó săn sói. Chúng là loài chó vô cùng yên lặng." Ripley có thể nhận ra đó là giống gì. Một con chó của thợ săn trộm. Một kẻ săn mồi thầm lặng. Nó đứng sát cô, bên cạnh bàn tay cầm ro. Con vật run rẩy. "Họ đang lấy trộm chó của tôi!" gã chủ la lên. "Ai đó ngăn họ lại đi!" "Đừng cư xử ngu ngốc nữa, Bullard," ai đó hét lên. "Đó là Công tước xứ Ripley. Một công tước, đồ ngu. Ngài ấy có thể làm bất cứ điều gì ngài ấy muốn." "Ngài ấy không được lấy con chó của tôi! Để tình nhân của ngài ấy làm bẩn tay hộ. Tôi muốn con chó của tôi!" Ripley thở dài. Dĩ nhiên rồi. Lúc nào cũng phải có một gã bợm rượu lắm lời, nói sai điều cần nói. Lúc nào cũng phải có một tên ngốc phát ngôn những lời mà không thể bỏ qua. Anh quay lại phía Bullard và cất lời, giọng điềm tĩnh, dễ chịu, mà tất cả những ai quen biết anh đều nhận ra ngay đó là Giọng Nói của Cái Chết—hoặc ít nhất là Giọng Nói của Nỗi Đau Trầm Trọng, "Anh vừa nói cái gì?" *** Ripley nói một cách lười biếng, thờ ơ. Dù vậy, những sợi lông ở gáy Olympia dựng đứng lên và cô cảm nhận được, với sự chắc chắn của một cô gái lớn lên trong môi trường toàn đàn ông, những xung động của bản năng nam giới muốn tiêu diệt những người đàn ông khác. Mặc dù là phái nữ, cô cũng cảm thấy những xung động tương tự. Cô khao khát đẩy Ripley ra khỏi đường và quất cho tên Bullard kia đến khi hắn khóc như một đứa trẻ. Vì sự an toàn của con chó, cô tự nhắc nhở mình phải bình tĩnh lại. Nhẹ nhàng, cô đặt tay lên đầu nó và nó tiến lại gần hơn. “Anh nghe tôi nói chưa!” chủ của con chó quát lên. “Anh và cô nàng lộng lẫy của anh, cứ đi xung quanh bắt nạt mấy tên đàn ông quá lịch sự để đánh phụ nữ, rồi lại cướp chó của tôi. Anh không thể cứ đi mà mang nó đi như thể anh sở hữu cả thế giới này.” “Đó là lần thứ hai anh xúc phạm cô ấy,” Ripley nói bằng giọng nhẹ nhàng, như mọi khi. “Cô ấy là cô ta! Và còn lấy cả cây roi của tôi nữa cứ!” “Đó là lần thứ ba,” Ripley nói. “Đây là cái giá tôi phải trả cho sự kiên nhẫn và nhẫn nại. Không còn cơ hội nữa. Anh sẽ gọi cô ấy là ‘quý cô’ và xin lỗi ngay lập tức.” “Xin lỗi? Cô ta á? Nằm mơ đi! Tôi muốn chó của tôi!” Ripley đánh hắn. Cú đánh cực kỳ nhanh và chính xác, thẳng vào bụng. Bullard gập người lại và ngã quỵ xuống. “Xin lỗi,” Ripley nói. “Nhanh lên. Trong khi đôi găng tay này không lý tưởng lắm, tôi không muốn chúng dính máu đâu.” Anh dừng một chút, chờ Bullard lấy lại hơi thở. “Cái này làm tôi bất ngờ đấy, tên trộm chó (nabber) khốn kiếp,” gã say nói, nhìn xung quanh. “Mọi người đều thấy anh làm thế rồi.” Nhờ từ điển Lexicon Balatronicum của ông Grose, Olympia biết “trộm chó” là tên mà gã Bullard vừa dùng để mắng Ripley. “Có vẻ như lời cảnh cáo của tôi không đến được tai anh nhỉ,” Ripley nói. “Vậy tôi sẽ nói rõ hơn. Nếu lời tiếp theo không phải là ‘Xin lỗi quý cô,’ anh sẽ khiến tôi phải làm tổn thương anh.” “Thử đi!” Bullard giơ nắm đấm lên. “Thử xem, đồ bẩn thỉu—” Hắn tiếp tục mắng chửi bằng những lời rất thô tục. Ripley đánh bay tay của gã, đủ mạnh để làm hắn mất thăng bằng, nhưng trước khi hắn kịp ngã, Ripley đã túm lấy cổ hắn, dùng đôi tay lớn của mình nhấc hắn lên khỏi mặt đất. Bullard vùng vẫy, cố gắng tóm lấy tay Ripley, nhưng vô ích, chỉ còn lại những lời khó nghe, chảy ra từ cổ họng nghẹt thở. Giọng Ripley, bình tĩnh và dễ dàng truyền qua khoảng không tĩnh lặng của sân quán trọ, “Anh sẽ gọi cô ấy là quý cô và nói xin lỗi, hoặc tôi sẽ làm cuộc sống của anh trở nên không thể chịu nổi.” “Điều đó thì sao? Anh giết tôi đi,” gã cộc lưỡi nói. “Anh sẽ bị treo cổ, và tôi sẽ gặp anh ở địa ngục.” “Tôi sẽ không bao giờ giết anh,” Ripley nói. “Quá nhanh. Chẳng thú vị chút nào. Không, tôi nghĩ tôi sẽ bắt đầu với việc bẻ vài cái xương, rồi một vài cái nữa, cho đến khi có quá nhiều để bác sĩ có thể chữa được.” Mặt Bullard chuyển sang tím, nhưng hắn vẫn kịp rên rỉ về sở thích của Ripley với những hành động bất thường với động vật. “Thật là một tên phiền phức,” Ripley nói. “Có lẽ tôi sẽ thả anh xuống và xem chuyện gì sẽ xảy ra. Hy vọng tôi không vô tình dẫm lên đầu anh.” “Cứ thử đi,” gã rên rỉ. Ripley thả hắn xuống. Bullard ngã xuống nền đá. Olympia dự đoán rằng hắn sẽ bật dậy ngay lập tức. Một số người đàn ông không biết khi nào là lúc mình đã thua. Có vẻ như việc rơi xuống đá cứng đã khiến hắn thức tỉnh. Bullard ôm cổ, nhưng không cử động gì thêm. Hắn nằm đó, mắt mở trừng trừng nhìn Ripley. “Xong chưa?” Ripley hỏi. Bullard gật đầu. “Vậy thì xin lỗi đi.” “Xin lỗi,” Bullard thều thào. “Không phải xin lỗi tôi, tên ngu ngốc. Xin lỗi quý cô.” “Xin lỗi... quý cô.” “Rất tốt. Giờ thì biến đi.” Bullard loạng choạng đứng lên. Hắn gọi con chó. Đuôi rũ xuống, đầu cúi thấp, con vật tiến gần về phía Olympia. “Không,” Olympia nói. “Anh đã mất con chó rồi.” “Sam là tài sản của tôi,” Bullard gào lên. “Nó phải đi với tôi!” Olympia nhìn Ripley. “Chúng ta sẽ không mang con chó đi,” anh nói. “Chúng ta không thể bỏ nó lại,” cô nói. “Nó bị thương và sợ hãi.” “Nó là chó của tôi! Tôi đã trả một món tiền khổng lồ cho con chó quái quỷ này! Các người không có quyền gì hết!” “Anh không có quyền gì với nó,” cô nói. “Anh đã đánh mất nó khi tấn công một sinh vật vô tội. Anh mất nó rồi.” “Lên xe đi,” Ripley nói. “Tôi sẽ không bỏ lại con vật này cho hắn,” cô nói. “Ngay khi chúng ta đi, hắn sẽ trừng phạt nó vì những gì anh đã làm với hắn.” “Đó là con chó của tôi, đồ khốn!” “Chúng ta sẽ không mang con chó đi,” Ripley nói với Olympia. “Nếu cô không nhận thấy, con vật này không phải là một con chó Bắc Kinh. Nó không thể ngồi trong lòng cô được. Cái xe ngựa chỉ đủ chỗ cho hai người, vừa vặn thôi.” “Nó có thể ngồi trong thùng xe,” cô nói. “Trong cái lồng.” “Đồ cưới của cô đang ở trong cái lồng đó,” anh nói. “Con chó có thể dùng nó làm đệm. Chẳng phải tôi sẽ không mặc lại bộ đồ đó nữa sao?” “Đó là con chó của tôi, đồ khốn!” “Im đi,” Ripley nói với Bullard. “Cô ấy và tôi đang thương thảo.” “Các người không thể mang chó của tôi đi! Nó đã tốn của tôi—” “Anh là một tên phiền phức vô cùng,” Ripley nói. Anh nhìn quanh sân quán trọ. “Ai đó làm cho hắn biến đi đi.” Anh làm động tác xua xua về phía Bullard. “Đó là con chó của tôi—” Tất cả những gì Bullard định nói bị cắt ngang khi hai người xem mạnh mẽ kéo hắn về một góc sân xa. Ripley quay lại với Olympia. “Nếu chúng ta mang con chó đi, thì đó là con chó của cô,” anh nói. “Khi tôi để cô lại với dì của cô, tôi sẽ để nó lại. Rõ chưa? Một khi chúng ta mang nó đi, sẽ không có thay đổi gì đâu, vì tôi không định bỏ nó dọc đường hay tìm cho nó một ngôi nhà khác hay nhận nuôi nó. Cô hiểu chứ?” “Rồi,” cô nói, tim đập mạnh. “Cảm ơn anh đã giải thích dễ hiểu, phòng khi bộ óc của tôi không đủ sáng suốt để hiểu được điều đó.” “Tốt,” anh nói. Anh rời đi để nói chuyện với Bullard, người đang vật lộn với hai người cố giữ hắn ta lại. Một cuộc tranh luận dài tiếp theo, với giọng Bullard vang lên đầy phẫn nộ rồi từ từ chìm xuống thành những lời lầm bầm. Không lâu sau, một người hầu từ trong quán trọ đi ra với vài chiếc chăn. Anh ta mang chúng đến thùng xe và phủ lên gói đồ cưới của cô, được gói gọn gàng. “Cái đó có ổn không, hay là chúng ta thuê một chiếc xe ngựa riêng cho thú cưng mới của cô?” Ripley nói. “Và có cần vài người hầu để chăm sóc nó không?” “Cái đó ổn rồi,” Olympia nói. Ripley bật lưỡi và con chó săn nhìn anh, tai dựng đứng. Ripley chỉ vào chiếc lồng. Con chó nhảy vào đó. Nó dùng chân đẩy các chiếc chăn và xoay vài vòng cho đến khi mọi thứ được sắp xếp vừa ý. Sau đó, nó nằm xuống. Con chó được huấn luyện rất tốt. Rõ ràng vấn đề không phải ở con vật. Cô liếc nhìn Bullard, người đứng đó, miệng há hốc, nhìn từ con chó sang cô rồi lại sang Ripley. “Lên xe đi,” Ripley nói. “Ngay bây giờ.” *** Ripley quan sát khi cô bước lên xe ngựa, dáng vẻ yểu điệu ẩn trong một cơn lốc nhẹ nhàng của ren, ruy băng, và những bông hoa khẽ đung đưa. Anh liếc nhìn lại sân quán trọ lần cuối, chỉ để đảm bảo rằng Bullard không bất thình lình lao ra gây thêm rắc rối. Quá nhiều phiền phức cho một ngày rồi. Sau đó, Ripley tiến đến phía sau xe để kiểm tra con chó. Anh phát hiện vài vết hằn trên da, nhưng may mắn là không có máu. Tên đê tiện ấy chưa kịp gây thương tích nghiêm trọng. Ripley cúi xuống, vuốt ve con chó và thì thầm vài lời an ủi vu vơ. Dưới bàn tay anh, sự run rẩy của nó dần dịu lại. “Mày may mắn lắm đấy, biết không?” Ripley nói, giọng trầm đều. “Thời điểm của mày quá hoàn hảo.” Con chó liếm vào găng tay anh. “Không nhỏ dãi,” Ripley nói, rụt tay lại. “Ngay cả trên cái găng tay đáng ghét này. Và tuyệt đối không được nôn dọc đường.” Đã xong. Con chó giờ đã yên. Cô dâu tương lai của Ashmont thì an toàn và nguyên vẹn. Không ai mất mạng. Không giọt máu nào bị đổ. Dẫu vậy, Ripley chắc chắn rằng Bullard sẽ có một loạt vết bầm đau nhức nhớ đời. Dù cảm giác hài lòng len lỏi, Ripley biết mình cần chút thời gian để thật sự trấn tĩnh, để không phải hối tiếc vì đã không đập gã Bullard thành cám. Anh hít sâu một hơi, rời con chó, bước lên xe ngựa, và ra hiệu cho người đánh xe khởi hành. Chiếc xe vừa lăn bánh, Ripley còn chưa kịp yên chỗ thì Tiểu thư Olympia đã bật dậy, quàng tay qua cổ anh. “Ôi, anh thật là tuyệt!” cô thốt lên đầy hào hứng. Rồi cô hôn anh.
Chương 6 Dịch: thuylinhh Cô hôn anh lên má vì quá xúc động—hoặc là nếu bộ não của Ripley đang hoạt động, nó sẽ nói với anh điều này. Nếu bộ não của anh còn hoạt động, hẳn nó đã bảo anh đẩy cô ra và nói điều gì đó như, "Đừng có ngớ ngẩn." Nhưng bộ não của anh không hoạt động. Anh kéo cô vào lòng và hôn cô lên môi, không phải nhẹ nhàng. Anh hôn cô với tất cả sự lo lắng, thất vọng, tức giận và những cảm xúc phiền toái mà anh nghĩ mình đã bỏ lại sau lưng chỉ một giây trước đó. Và với sự ham muốn đơn giản mà anh đã cố gắng kiềm chế suốt một thời gian dài. Anh cảm nhận sự căng thẳng của cô, và anh định rút lui, nhưng đôi môi mềm mại của cô lại đáp lại, và hương vị của cô... khác biệt. Tươi mới, ngọt ngào và một cái gì đó nữa. Anh không biết đó là gì và cũng không quan tâm. Cô không biết cách hôn. Anh cũng không bận tâm chuyện đó. Đôi môi cô mềm mại, đầy đặn và có vị ngon. Dù sao, anh biết cách hôn, và anh không nghi ngờ cô đủ thông minh để tiếp thu. Cô tan chảy vào vòng tay anh và vừa vặn như thể cô phải ở đó, và trong giây lát, anh chỉ đơn giản là đánh mất mình trong sự cuồng nhiệt, nhẹ nhõm, khoái cảm và những cảm xúc khác, lạ lùng hơn. Rồi con chó sủa, và âm thanh đó khiến anh tỉnh lại khỏi trạng thái mơ màng mà anh đã rơi vào. Anh rút lui—cẩn thận, vì bộ não của anh cuối cùng bắt đầu hoạt động bình thường, anh biết mình vừa làm một điều ngu ngốc đến mức nào. Thật vô lý khi đẩy cô ra khi chính anh là người đã biến một nụ hôn ngây thơ trên má thành một điều mà cô chưa bao giờ có ý định thực hiện. "Chết tiệt," anh nói. "Không ai bảo cô đừng lại gần mấy gã vừa mới đánh nhau à?" "Anh hôn tôi!" cô nói, mắt mở to, có thể là xanh, mặc dù khó mà nói rõ trong không gian tối tăm của xe ngựa vào một ngày u ám. "Cô hôn tôi trước," anh nói. "Trên má!" "Trên má, trên môi. Đối với tôi chúng chả khác gì nhau. Phụ nữ hôn. Đàn ông kích động. Có cần tôi giải thích những sự thật đơn giản về cuộc sống cho cô không?" "Một vài thứ, có lẽ," cô nói. "Tôi có sáu anh trai, và tôi biết về việc đánh nhau. Nhưng tôi là—tôi không biết chuyện gì xảy ra. Anh cứu con chó! Và... và tên kia—Bullard, ý tôi là—hắn nghĩ tôi là một cô nàng hư hỏng!" "Tôi tin rằng hắn ta sẽ không bao giờ mắc sai lầm đó lần nữa," Ripley nói. Anh không thể hoàn toàn dập tắt sự bực bội đang dâng lên. Thật ra, đó không phải là một nụ hôn gì ghê gớm. Và anh cảm thấy có lẽ phải có nhiều hơn thế nữa, vì giờ đây còn rất nhiều chuyện phải nói và—Chúa ơi, sao anh lại ngu ngốc đến thế? Cô dâu của Ashmont, trong tất cả phụ nữ. "Chưa ai từng nghĩ vậy," cô nói. "Ai lại nghĩ một phụ nữ lẳng lơ đi đeo kính chứ?" "Tại sao lại không?" anh nói. "Chúng tạo ra vẻ bí ẩn lạ thường." Cô nhìn anh. Anh để cô nhìn. Anh đang cố gắng tuyệt vọng tìm ra lối thoát khỏi tình huống mà anh đã tự sa vào. "Chính là chiếc váy," cô nói sau một lúc. "Tôi đã bảo anh rồi. Bộ đồ này không dành cho một gái già (spinster: lớn tuổi mà chưa chồng)." "Cô không phải là gái già," anh nói. "Cô là cô dâu sắp cưới." "Đừng có cố thay đổi chủ đề," cô nói. "Đồ của ai mà anh lấy vậy?" "Làm sao tôi biết được?" "Chắc chắn là của một gái điếm hạng sang." Cô vuốt nhẹ váy. "Hoặc của một bà góa quyến rũ. Bà Thorpe hẳn đã rất sẵn lòng. Bà ấy nói chuyện thế nào tôi cũng đoán ra rồi, rằng đã nợ anh một ân huệ. Hoặc là cả trăm ân huệ." "Ân huệ không phải do tôi," anh nói. "Mà là do em gái tôi." Nếu Nữ công tước xứ Blackwood tham dự đám cưới như lẽ ra con bé phải làm, Ripley đã có thể nhờ nó giúp anh cứu Tiểu thư Olympia, và cô dâu bỏ trốn hẳn đã không ra khỏi cổng vườn. Nhưng không, Alice lại phải cách London cả ba mươi dặm với dì Julia vì lý do chưa được giải thích. Blackwood không cung cấp nhiều thông tin, nhưng rồi, anh và Ripley cũng không có nhiều cuộc trò chuyện lắm, phải không? Hầu hết mọi cuộc nói chuyện đều xoay quanh Ashmont và chuyện kết hôn. Với người phụ nữ mà Ripley vừa hôn một cách quá nhiệt tình. "Cô gặp con bé rồi, đúng không?" anh nói. "Nó có thể là người kỳ quái nhất—thôi bỏ đi. Nếu cô gặp con bé, chắc cô sẽ biết như nào rồi." "Mái tóc đen nhánh và đôi mắt xanh lá," Tiểu thư Olympia nói. "Tôi rất ngạc nhiên khi nghe nói cô ấy sẽ cưới Blackwood. Tôi cứ nghĩ cô ấy phải thông minh hơn cơ." Ripley cũng nghĩ thế. "Cô cũng chấp nhận Ashmont còn gì," anh nói. “Em gái anh không phải lo lắng về năm đứa em trai nhỏ tuổi hơn, hay những bậc phụ huynh thiếu thận trọng, hay phần tài sản cưới đang thu hẹp, hay bị bầu chọn là Cô Gái Buồn Tẻ Nhất Mùa vũ hội trong bảy mùa liên tiếp,” cô nói. “Tôi đã bắt đầu hoảng loạn. Và cha mẹ tôi cũng vậy.” “Cô còn vài năm tốt đẹp nữa,” anh nói. “Vẫn chưa hiểu về phần tẻ nhạt lắm.” “Anh không biết tôi thật sự là ai,” cô nói, giọng có phần u ám. “Tôi có thể nói dài dòng về những ấn bản đầu tiên, Thư viện Maioli, và những bản khắc đồng đầu tiên cho đến khi người nghe ngất xỉu vì chán. Tệ hơn, tôi có một Hệ thống, được lấy cảm hứng từ tổng thống Mỹ, ông Thomas Jefferson, người đã áp dụng bảng khoa học của Bacon vào việc tổ chức sách. Phương pháp của tôi phức tạp hơn nhiều, và tôi có thể nói về nó lâu hơn gấp đôi thời gian mà người nghe có thể chịu đựng.” Anh đã nhìn thẳng ra ngoài cửa sổ, hướng vào một cảnh không mấy thú vị—chủ yếu là lưng người đánh xe và đuôi ngựa. Bây giờ anh quay sang nhìn cô. Cô đang nhìn ra cửa sổ phía trước, miệng nhíu lại đầy vẻ nghiêm nghị. Cái miệng mà anh vừa đặt lên đó cách đây không lâu. Nhưng đó không phải là sai lầm đầu tiên, và cũng sẽ không phải là sai lầm cuối cùng anh phạm phải, anh tự nhủ. Anh và bạn bè mình không phải có danh hiệu "Những Kẻ Bất Hảo" vì hành động tốt. “Có thể cô mới là người thấy chán,” anh nói. “Trí óc cô quá lớn và năng động so với những người bạn cô hay tiếp xúc. Những cô gái ngoan ngoãn. Rất nhiều quy tắc về mọi thứ. Có lẽ cô cứ nói về sách vì thật ra cũng không ai hiểu cô, và ít nhất cũng vui khi thấy ánh mắt họ mờ đi vì buồn chán.” Chưa bao giờ anh nghĩ rằng cô là một người tẻ nhạt. Anh luôn nghĩ cô giống những cô gái đứng đắn khác, và cô sẽ hòa nhập. Giờ đây, sau khi chỉ mới biết cô—chắc hai giờ? Ba giờ?—anh ngạc nhiên khi thấy cô không vướng vào rắc rối sớm hơn. Cô chớp mắt mạnh, và anh thấy một giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống má cô. Cô lau nó đi. “Tôi không nghi ngờ gì khi anh nói từ kinh nghiệm của chính mình,” cô nói. “Không khó để nhận ra chán ngắt là vấn đề với anh và cư xử không đúng mực là giải pháp hoàn hảo. Nhưng phụ nữ chúng tôi phải hài lòng người khác.” “Mặc đồ táo bạo hơn, và cô được như vậy,” anh nói. “Đàn ông đơn giản lắm, như lẽ ra một người có quá nhiều anh trai như cô không cần phải giải thích. Cái váy cô đang mặc chẳng hạn. Nó tôn lên vóc dáng của cô. Lưới đen tạo ra một vẻ bí ẩn và nguy hiểm—” “Tôi! Nguy hiểm á!” “Cô không thấy tên Bullard kia thở phào nhẹ nhõm khi thấy chỉ có mình tôi để đấu không phải cô sao? Mặc như một người phụ nữ nguy hiểm, đàn ông sẽ không để ý đến những gì cô nói. Họ sẽ bận nghĩ đến những ý nghĩ không phù hợp.” “Tôi không thể tin mình đang nghe Công xứ tước Ripley đưa lời khuyên như một người anh trai,” cô nói. “Tôi có kinh nghiệm trong lĩnh vực này,” anh nói. “Tôi là một người anh trai.” “Người mà em gái có ảnh hưởng, có vẻ là vậy,” cô nói. “Và điều này, theo một cách chưa giải thích được, đã dẫn đến lòng biết ơn vô hạn từ một thợ may ở Putney.” “Con bé không phải lúc nào cũng ở Putney,” anh nói, cảm thấy vui vì câu chuyện quay lại chủ đề ban đầu. Anh muốn nghe thêm về Hệ thống của Tiểu thư Olympia và anh không muốn cô khóc vì những kẻ nhỏ mọn thấy cô nhàm chán. Những suy nghĩ này thật phiền phức, và anh muốn chúng ra khỏi đầu mình. Thợ may thì là một câu chuyện khác. “Bà Thorne, dưới một cái tên khác, là một thợ may thành công ở London trước khi kết hôn với ông Kefton,” anh nói. “Bà ấy làm việc và ông ta chi tiêu hết mọi thứ bà ấy kiếm được. Những người đòi nợ đến và lấy đi tất cả, từ khóa đến hàng hóa. Kefton, ông già dũng cảm, đã bỏ trốn. Em tôi, một khách hàng trung thành, kể cho tôi nghe câu chuyện buồn đó và nhất quyết bắt tôi phải Làm Gì Đó. Để ngừng sự phàn nàn, tôi đã giúp người thợ may mở tiệm ở Putney dưới cái tên Thorpe. Cái tên giả này cần thiết để lừa những người đòi nợ của người chồng phản bội, cũng như để phòng khi ông ta quay lại.” “Và bây giờ bà ấy làm ăn phát đạt với những gái điếm hạng sang và góa phụ vui tính?” Tiểu thư Olympia nói. “Chúng ta có thể nói bà ấy đã tìm được một ngách thị trường,” anh nói. “Nói cách khác, đó là nơi anh đưa nhân tình của mình đến,” cô nói. “Cả ba người, tôi không nghi ngờ gì. Tôi có thể tưởng tượng những bức tranh châm biếm rồi. Vòng một của tôi sẽ lộ ra khỏi corset, và những mảnh đồ lót màu hồng và đen sẽ lộ ra, rồi quần của tôi—” “Chúng ta hãy dừng nói về đồ lót của cô đi,” anh nói. Một hình ảnh đã hình thành trong đầu anh về việc bộ ngực cô thoát khỏi corset của chiếc váy. Đó là một suy nghĩ bình thường của đàn ông nhưng nghĩ về nó vào lúc này thì thật không khôn ngoan chút nào. Anh đưa nó ra khỏi đầu càng nhanh càng tốt—không phải dễ dàng khi cô ngồi cạnh anh và chiếc váy đó thì gần như trước mũi anh. Anh bắt buộc phải nhìn vào lưng người đánh xe, lên và xuống, lên và xuống, khi ngựa di chuyển, tưởng chừng như cực kỳ chậm chạp rời khỏi Putney. “Mọi người sẽ bàn tán về chuyện đó thôi,” cô nói. “Và tưởng tượng ra những điều tồi tệ nhất.” “Chúng ta sẽ đi cả nửa giờ hoặc hơn,” anh nói. “Sau khi lôi cô dâu mất thăng bằng ra khỏi sông Thames, hành hạ những kẻ bắt nạt chưa đủ, và cứu chó, tôi cần một giấc ngủ. Làm ơn hãy dùng trí óc để làm dịu lại. Ít hấp dẫn hơn một chút. Im lặng hơn.” Cô nhìn anh. “Có phải anh đang gợi ý tôi giải thích Hệ thống Sắp xếp Thư viện của mình phải?” “Chính xác. Kể tôi nghe tất cả về nó đi. Chi tiết từng chút một.” *** Thông thường, Những Kẻ Bất Hảo chẳng ngần ngại quét sạch mọi thứ cản đường. Vì đã quen với cách làm này, thế giới thường tránh xa họ càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, không thể cứ thế mà quét sạch cả gia đình vợ tương lai và khách mời trong đám cưới. Những khách mời thì dễ dàng bị khuất phục với những xô rượu sâm-panh và một câu chuyện về cô dâu bị ốm. Nhưng gia đình vợ tương lai lại là một vấn đề khác. Dù có sự giúp đỡ của Ngài Frederick, việc làm dịu những người có mặt không phải là điều dễ dàng, đặc biệt là Ngài Ludford, người đổ lỗi hoàn toàn cho Ashmont. Olympia là một cô gái tốt, đàng hoàng, Ludford nói. Cô ấy sẽ không bỏ trốn trừ khi bị lừa hoặc ép buộc. Anh ta không muốn để mọi người nghĩ xấu về cô ấy bởi vì Những Kẻ Bất Hảo không biết cách đối xử với một cô gái được nuôi dạyđàng hoàng, người đã ban cho anh ta một ân huệ lớn khi đồng ý kết hôn. May mắn thay, lần này Ashmont không gây gổ. Anh quá nóng vội để có thể chú ý đến những gì người khác nói. Cuối cùng, đám đông bị lừa dối và làm dịu theo sự hài lòng của Ngài Frederick. Sau đó, Blackwood, với sự chuẩn bị chu đáo, đã yêu cầu ngựa được mang ra từ rất sớm, trước khi mọi người kịp ổn định chỗ ngồi, và hai công tước lên đường. Họ nhanh chóng đến Phố Cao Kensington, mặc dù đối với Ashmont, quãng đường ngắn này vẫn chưa đủ nhanh, khi anh dành phần lớn thời gian chửi rủa bác của mình và tất cả những người khác đã làm mọi chuyện trở nên rối rắm và trì hoãn hơn. Rồi, vì không thể cứ thế mà quét sạch những nguồn tin khả dĩ, hai công tước phải đối phó với đám trai trẻ từ đâu xuất hiện, lao tới họ, đề nghị giữ ngựa giúp. “Ta tìm một cô dâu,” Ashmont nói. “Ai thấy cô ấy không? Cô ấy đi cùng một chàng trai cao cao, ăn mặc chuẩn bị cho đám cưới?” Các cậu bé nhìn nhau, rồi nhìn anh, mặt mũi ngơ ngác. Ashmont rút ra một đồng xu. “Nào, lại đây,” anh nói. “Cô dâu. Đội khăn voan và tất cả mọi thứ. Khó mà bỏ sót. Một shilling cho cậu bé đầu tiên có thông tin hữu ích.” Không có phản hồi. “Chúng cũng cứng đầu như ở London vậy,” anh lầm bầm với Blackwood khi rút thêm một shilling. “Hai,” Ashmont nói lớn hơn. “Cho cậu bé thông minh nào cho ta thông tin.” Anh thấy một cậu bé thì thầm với một cậu bé nhỏ hơn, người mặc một bộ trang phục kỳ lạ. Dưới lớp bẩn thỉu, cậu bé nhỏ hơn có vẻ sáng sủa, với vẻ mặt trong sáng. Nó lắc đầu với cậu bé lớn hơn, người sau đó lùi lại. Ashmont nheo mắt. “Cháu kia,” anh nói. “Ta nhận ra một người cầm đầu từ một dặm xa.” Cậu bé nhỏ mắt tròn xoe nhìn các cậu bé xung quanh mình. “Đừng để ý đến chúng,” Ashmont nói. “Tai đang nói với cháu, già rồi. Cháu đội mũ.” Vì khi nhìn kỹ hơn, anh nhận ra cậu bé đang mặc những mảnh vụn của một bộ đồ đua ngựa. Và cái mũ trên đầu là một chiếc mũ vàng, lớn hơn hai cỡ so với nó. “Chắc Ngày nói là cậu đó, Jonesy,” một trong các cậu bé nói. “Nếu tôi là một người đua ngựa, thì Ngài nghĩ tôi sẽ mặc cái này sao?” cậu bé nói. Blackwood, người giỏi âm điệu khu Đông hơn, đã dịch lại. Và vì anh là người thông thạo ngôn ngữ này, anh tiếp tục nói chuyện với cậu bé. “Đi nào, chúng ta nói chuyện.” “Tôi chả biết chi hết trọi,” Jonesy nói. Và tất cả những cậu bé khác đều nói: “Chúng tôi chả biết chi hết trọi.” Blackwood quay ngựa và đi cách xa một chút, nhưng không trước khi để lộ một đồng tiền vàng để chỉ riêng Jonesy nhìn thấy. Chỉ thoáng qua một giây trước khi Blackwood nhanh chóng làm nó biến mất. Cậu bé tiến đến gần, khoanh tay đứng trước mặt anh. “Đó là một mần chi mà hay ghê.” “Sở hữu đồng tiền đó còn hay hơn nữa, ta cá đấy,” Blackwood nói. “Nhưng chỉ khi cháu nói với ta những gì mình thấy và nghe được khi gã quý tộc và cô dâu có mặt ở đây.” “Chắc ông nớ từng ở đây, mà cũng có khi không,” cậu bé nói. “Nhưng mà nếu ông nớ có ở đây, tôi nghĩ tôi nhớ ông đã đưa cho tụi tôi chi đó sáng sáng.” Một đồng sovereign? Không phải là điều không thể. Trong khi chẳng ai trong bọn họ là kẻ hà tiện, Ripley là người có khả năng nhất để đưa cho một đám trẻ lang thang cả một bảng Anh để khiến chúng giữ im lặng. “Vậy tại sao cháu không ra ngoài ăn mừng số tiền đó?” Blackwood nói. “Vì không muốn bị thịt.” Cậu bé làm một cử chỉ minh họa động tác cắt cổ. “Tôi đã để nó ở một chỗ an toàn rồi.” Nếu cậu bé có một đồng tiền giá trị như vậy trong người, nó sẽ không an toàn, ngay cả ở Kensington. Chưa kể cậu bé trông chẳng giống người ở khu này. Cậu có vẻ là một đứa trẻ đường phố hơn là một đứa trẻ nông thôn—có lẽ đó là lý do các cậu bé khác đều nghe theo chỉ dẫn của một kẻ bé nhỏ như vậy. Tuổi của nó thì khó mà đoán được. Blackwood cân nhắc bộ trang phục rách nát của cậu bé, trông như của một tay đua ngựa. “Sẽ chẳng phải là phá vỡ lời thề thiêng liêng nếu cháu chỉ cho ta biết họ đi đâu. Ta không có đồng sovereign nào trên người lúc này, nhưng ta sẽ để cháu ngồi cùng trên ngựa, tin là cháu sẽ chỉ đúng đường, và ta sẽ tặng cháu đồng crown (xu Anh).” Anh đã đưa ra lời đề nghị đúng đắn. Đôi mắt cậu bé—một màu xanh rực rỡ đáng kinh ngạc—mở to và đầy vẻ khao khát. Nhưng ngay sau đó, nó liếc nhìn lại nhóm bạn của mình và lắc đầu. Blackwood vươn tay xuống, kéo cậu bé lên yên ngựa trước mặt mình. Mặc cho cậu bé la hét dữ dội, gào lên rằng mình bị bắt cóc, bị sát hại, và đủ thứ chuyện, nó không phản kháng quá mạnh mẽ. Blackwood cứ thế phi ngựa đi, Ashmont theo sau, và một nhóm trẻ con cũng chạy theo, la ó ầm ĩ. Nhưng những con ngựa tăng tốc, và một lúc sau bọn trẻ đành bỏ cuộc. Khi thấy tình hình đã an toàn, Blackwood giảm tốc độ và nói, “Làm tốt lắm, Jonesy. Bây giờ chỉ đường đi.” *** Có thứ gì đó chạm vào mũi Ripley. Anh mở mắt. Những bông hoa đung đưa trước mặt anh theo nhịp xóc nảy của chiếc xe ngựa. Chúng gắn trên một chiếc mũ. Mũ của một quý cô. Anh choàng tỉnh ngay lập tức và phát hiện ra vợ tương lai của Ashmont đang nằm trong vòng tay mình. Bất chấp sự rung lắc của chiếc xe ngựa, cô cũng đã ngủ thiếp đi—một giấc ngủ sâu, nếu xét theo nhịp điệu đều đặn của lồng ngực cô đang phập phồng. Điều này không có gì lạ, anh tự nhủ, với lượng rượu brandy cô uống, những sự kiện trong ngày, và khả năng cao rằng đêm trước cô đã không ngủ được nhiều, dù là vì lý do hoàn toàn khác với anh. Cũng không lạ khi cánh tay anh tự động vòng qua vai cô. Anh đã ngủ, hoặc ít nhất là trong trạng thái lơ mơ. Một cơ thể phụ nữ ấm áp tựa vào gần anh. Kéo cô lại gần hơn là một phản ứng bản năng. Những bản năng khác bắt đầu trỗi dậy lúc này, và anh bắt đầu có những ý tưởng trong đầu—và ở những nơi khác—những ý tưởng có thể rất thú vị trong hoàn cảnh khác. Nhưng lúc này chúng lại vô cùng bất tiện. Dù vậy, anh không nỡ đánh thức cô. Anh giữ nguyên vị trí và nhìn ra cửa sổ. Để ngăn tâm trí mình đi xa đến những nơi có thể khiến anh khó chịu, anh kéo những suy nghĩ về “Hệ thống” kỳ lạ của cô ra phía trước. Thay vì sắp xếp sách theo cách thông thường—theo thứ tự chữ cái hoặc kích thước—cô lại phân loại theo chủ đề, dưới các danh mục rộng như Lịch sử, Triết học, và Nghệ thuật. Trong cái danh mục rộng đó, cô lại chia nhỏ thành các nhóm cụ thể hơn. Điều cuối cùng anh nhớ được là cô đã miêu tả khó khăn trong việc quyết định liệu có nên chia nhỏ các bộ sách thuộc cùng một bộ sưu tập, chẳng hạn như của Diane de Poitiers, hay không. Khi anh cân nhắc những ưu và nhược điểm, một số đoạn trong giấc mơ xen vào: một người phụ nữ ngã khỏi bậc thang thư viện vào vòng tay anh... anh chạy điên cuồng qua những con phố London, đuổi theo chiếc váy cưới bay lơ lửng trên đầu mình như một cánh diều... những cuốn sách rơi từ cửa sổ khi anh chạy. Tâm trí anh trôi từ sách vở đến giấc mơ, nên anh chẳng để ý nhiều đến quang cảnh qua cửa sổ, cho đến khi chiếc xe ngựa chậm lại và dừng hẳn. Anh chớp mắt và nhìn quanh. Cầu Richmond trải dài phía trước. Họ đã đến trạm thu phí. Người bạn đồng hành của anh cựa mình, ngẩng đầu lên nhìn anh. Mắt cô mở to, và cô giật mình lùi lại. "Giờ thì đã quá muộn để ngượng ngùng rồi," anh nói. "Chúng ta đã ngủ cùng nhau." *** Olympia chắc chắn rằng mình làm dãi chảy lên khăn cổ của anh và khuôn mặt cô hẳn đã hằn đỏ vì tựa vào ve áo anh khi ngủ. Cô vừa ngủ thiếp đi trong vòng tay một trong Những Kẻ Bất Hảo, và đó lại không phải là người cô đáng lẽ phải cưới. Hơn nữa, cô đã cảm thấy quá thoải mái khi nép mình vào lồng ngực cứng rắn của anh, với cánh tay rắn chắc ôm lấy cô. Thật tốt vì trước đây chưa có người đàn ông nào cố quyến rũ cô, bởi xem ra cô rất dễ dàng buông xuôi. Cô nói, “Nếu tôi là anh, tôi sẽ không lấy đó làm niềm tự hào đâu. Anh chẳng phải là người đầu tiên. Clarence từng gào thét không ngừng trong những cơn bão cho đến khi được phép bò vào giường với tôi.” “Giờ thì tôi biết phải làm gì vào lần tới khi có bão rồi,” anh nói. “Mũ của cô bị lệch rồi.” Cô quay ra cửa sổ, nhưng tấm kính trầy xước hiện giờ lại phản chiếu Richmond nhiều hơn là khuôn mặt cô. “Tôi không nhìn thấy được,” cô nói. Rồi quay lại nhìn anh. “Làm ơn chỉnh lại giúp tôi. Dì tôi sẽ tò mò lắm về việc tại sao tôi lại ăn mặc thế này. Tôi không muốn trông còn lôi thôi hơn nữa.” “Cô sẽ đến nơi với chiếc váy cưới bẩn thỉu và khăn voan được gói trong tấm vải lanh, kèm theo một chú chó to mới. Tôi nghi ngờ rằng bà ấy sẽ bận tâm về một chuyện nhỏ nhặt như cái mũ lệch.” “Dì Delia là một người rất sành điệu,” cô nói. “Bà ấy sẽ bận tâm về cái mũ lệch nhiều hơn tất cả những thứ khác.” Anh kéo chiếc mũ lệch sang một bên, rồi nhìn chằm chằm vào khuôn mặt cô, cau mày, trong khi cô cố gắng không quay đi hay giận dữ với anh. Sau đó, anh lại thử kéo sang phía còn lại. Anh lặp lại quy trình này năm lần, rồi giơ tay lên ra vẻ đầu hàng. “Tôi không nghĩ là nó quan trọng,” anh nói. “Dù sao đi nữa, cô cũng không thể trông bừa bộn và điên rồ như lúc mặc chiếc váy cưới của mình.” Chiếc xe ngựa đi qua trạm thu phí. Từ giờ, cô cần phải chú ý. Người điều khiển ngựa sẽ cần chỉ dẫn cụ thể để đến biệt thự của dì cô. Cô truyền đạt chỉ dẫn qua Ripley. Chúng đủ đơn giản và quãng đường cũng không xa. “Chỉ khi chiếc xe ngựa đã qua cây cầu, cô mới nhớ ra rằng mình vẫn chưa nghĩ ra lời giải thích nào. Cô lẩm bẩm một câu chửi thề. ‘‘Lại chuyện gì nữa đây?” anh hỏi. ‘‘Tôi không định để ai nghe thấy câu đó,’’ cô nói. ‘‘Thỉnh thoảng tai tôi rất thính,’’ anh đáp. ‘‘Ý tôi là khi tôi thực sự chú ý. Với cô, đàn ông phải chú ý mọi lúc. Nếu Ashmont chịu chú ý hơn, chẳng hạn, cô đã không bỏ trốn rồi. Nếu tôi chú ý hơn, cô đã không ngã khỏi thuyền. Nhưng tôi cũng rút ra được bài học. Tôi sẽ để mắt sát sao đến cô cho đến khi đưa cô an toàn đến chỗ dì cô.’’ Sự chú ý sát sao của Ripley là một thứ nguy hiểm. Anh đã nói những lời đó và nhìn cô theo cách mà những người đàn ông khác không làm, và sự kết hợp đó bắt đầu khiến cô nghĩ rằng có lẽ mình không hoàn toàn là người phụ nữ mà cô luôn tin mình là. Cô biết những tên phóng đãng rất nguy hiểm, nhưng cô chưa hiểu rằng sự nguy hiểm ấy có thể tinh tế đến mức nào. Những ý tưởng của cô về rất nhiều điều dường như đang chực chờ một cuộc cách mạng. Thật may là dinh thự nhà dì Delia chỉ còn cách đó một quãng ngắn. Đúng, đúng rồi. Tập trung vào dì Delia. Đừng tập trung vào anh. “Tôi không biết phải nói gì với bà,” cô nói. ‘‘Không có lời nào tôi nghĩ ra nghe hợp lý cả.” Ý tưởng rằng mình bị xem như một món hàng để sinh sản, vốn có vẻ rất thuyết phục khi cô say, giờ lại trở nên nực cười. Và trong cơn say ngớ ngẩn đó, cô đã huyên thuyên về chủ đề này với Ripley, trong số tất cả mọi người! “Nếu tôi là cô, tôi sẽ không giải thích gì hết,” anh nói. “Không, ý anh là nếu tôi là anh,” cô đáp. “Đàn ông, nhất là những người có địa vị cao, làm gì cũng được, còn cả thế giới thì phải chấp nhận hoặc mặc kệ họ.” “Cô là một phụ nữ thuộc tầng lớp cao quý,’’ anh nói. “Cô cũng có thể làm những điều mình muốn.” “Không trừ khi tôi sẵn sàng hy sinh danh tiếng của mình. Điều mà tôi thừa nhận là mình vừa làm thế rồi.” “Điều đó có thể sửa chữa,” anh nói. “Cô biết không, tôi nghĩ rằng thật tốt khi chúng ta có chút thời gian bên nhau, bởi vì cô thật sự cần phải được dạy dỗ.” “Thật vậy, điều tôi cần tuyệt vọng chính là học hỏi về—về bất cứ thứ gì mà anh giỏi. Làm thế nào để trở nên tai tiếng. Anh biết không, tôi tin rằng thậm chí tôi cũng có thể tự suy ra cách làm điều đó.” “Tôi tin rằng cô đã bắt đầu đi trên con đường đó rồi,’’ anh nói. ‘‘Hãy nghĩ lại vài giờ vừa qua, Tiểu thư Olympia, và—’’ “Tôi nói với anh là điều đó dễ lắm mà,” cô nói. “Thậm chí tôi còn làm được.” Một chút thời gian nữa bên anh, và cô sẽ trở thành chuyên gia. “Tôi không dám phản đối đâu,” anh nói. “Trở nên tai tiếng không cần nhiều nỗ lực, và phần lớn sự nỗ lực đó đều đầy thú vị, đó chính là một trong những điểm hấp dẫn của nó. Nhưng về phần cô—và nếu cô có lòng tốt để tôi nói hết ý mà không ngắt lời—’’ “Tôi sẽ không dám ngắt lời.” “Cảm ơn cô. Nếu tôi có thể nói cụ thể hơn: Cô cần được học cách quản lý thế giới xung quanh mình.” “Để tôi giải thích điều này với anh,” cô nói. “Thu nhập thì có thể quản lý được, mặc dù điều đó dường như vượt quá khả năng của cha mẹ tôi. Một thư viện có thể quản lý được. Thế giới thì không. Chỉ có một công tước—và là một trong Những Kẻ Bê Bối—mới nghĩ rằng điều đó có thể.” Anh gạt đi bằng một cái vẫy tay. “Hãy hình dung cảnh tượng này. Cô xuất hiện ở cửa, theo sau là tôi và con chó, mà, nhân tiện, rõ ràng không phải là một con tên Sam. Hãy nghĩ đến việc đổi cho nó cái tên có phẩm giá hơn. Như… Cato chẳng hạn. Cato cũng ổn đấy.” “Cảm ơn vì đã để tôi đặt tên cho con chó.” “Nhưng cô lề mề quá,” anh đáp. “Giờ thì nghe tôi nói đây.” “Tôi có lựa chọn nào khác sao?” “Tôi có kinh nghiệm trong những tình huống đòi hỏi lời giải thích,” anh nói. “Với cả, tôi có một cô em gái.” Ánh mắt anh hướng ra cửa sổ trước. “Chúng ta không còn nhiều thời gian đâu.” Anh ra hiệu cho người đánh xe dừng lại. “Chờ chút,” anh nói rồi bước xuống. Cô thoáng nghĩ đến một lựa chọn khác: bỏ chạy. Nhưng lần trước chuyện đó chẳng đem lại kết quả gì, dù lúc ấy cảm giác thật nhẹ nhõm và hoàn toàn đúng đắn. Giờ đây, khi đầu óc đã tỉnh táo, ý nghĩ bỏ chạy vẫn rất hấp dẫn—một dấu hiệu rõ ràng rằng cô đã dành quá nhiều thời gian với người đàn ông này. Cô chờ, mắt dõi qua cửa sổ trước của xe. Anh bước tới cốp xe. Cato phấn khích nhìn lên. Ripley vẫy tay gọi và con chó lập tức nhảy xuống. Anh lôi ra một bọc vải lớn, để Cato quay lại ổ của nó, rồi mang theo xác chết bộ váy cưới trở vào xe. Sau đó, anh bảo người đánh xe đi tiếp, và chiếc xe lại lăn bánh. Ripley tháo găng tay và bắt đầu mở bọc vải. “Tôi sẽ không mặc thứ đó đâu,” cô nói. “Xin hãy tin tưởng tôi một chút thôi,” anh đáp. “Chỉ cần một chút là đủ. Chúng ta cần thứ này để tạo cảnh.” “Tôi yêu quý dì tôi,” cô nói. “Tôi sẽ không để anh biến bà ấy thành trò đùa trong một trong những trò nghịch ngợm của anh.” “Đây không phải trò đùa,” anh nói. “Đây là một màn biểu diễn. Một dạng kiểu câm kịch gì đó.” “Tôi chẳng biết anh đang nói đến cái gì.” “Như trò đố chữ ấy,” anh nói. “Nhưng là cái khác cơ.” “Một bức họa sống?” “Đúng rồi. Chính nó. Đợi một chút.” Cô nhìn anh mở bọc vải, đôi tay anh dài, khéo léo, và đầy sức hút. Cô chợt nhớ đến bàn tay ấy đã từng luồn vào tóc mình ra sao. Cô vội quay đi, nhưng tâm trí bướng bỉnh của cô lập tức vẽ nên một hình ảnh. Hơn một năm trước, có lẽ đã hai năm hoặc lâu hơn: buổi dạ hội của Phu nhân Nunsthorpe. Bà ấy thường được gọi một cách mỉa mai là Bà xơ (the Nun), theo Stephen kể lại, vì bà ấy rất thích sống mạo hiểm và đã mời cả ba tên Những Kẻ Bất Hảo tham dự buổi tiệc của mình. Trong lúc họ khiêu vũ, nữ chủ tiệc đã ra sức quyến rũ Ripley—không phải điều quá khó khăn, Olympia nghĩ vậy. Nhưng cô không thể rời mắt khỏi anh. Anh di chuyển với sức mạnh và sự thanh thoát của một con ngựa nòi, và cô đã tự hỏi sẽ ra sao nếu được khiêu vũ cùng anh. Người đàn ông đang đứng trong cỗ xe giờ đây cũng giống như một con ngựa nòi—tuyệt đẹp, cân đối và đầy sức mạnh. Nhưng cũng có thể thất thường và nguy hiểm, như cha cô đã từng nhận ra sau những chi phí đắt đỏ. Không phải rằng cha cô từng học được bài học nào từ kinh nghiệm của ông. Cô hy vọng mình không giống cha ở điểm đó. Nhưng cô chưa bao giờ được thử thách trước đây. Chưa bao giờ bị cám dỗ… Giọng nói của Ripley kéo cô ra khỏi những suy nghĩ mơ hồ và nguy hiểm ấy. “Như tôi đã nói trước đó, cô sẽ xuất hiện trước cửa nhà dì cô với đoàn tùy tùng của mình,” anh nói. “Bao gồm một chú chó và một công tước đầy tai tiếng, người sẽ mang theo bộ váy cưới và chiếc khăn voan.” “Như mang theo xác chết vậy,” cô nói. Xác chết của những hy vọng và giấc mơ của gia đình cô. Xác chết của tương lai các anh em trai cô. Cô bắt đầu thấy hoảng loạn. Dừng lại ngay, cô tự nhủ. “Chính xác. Ngay khi cô nhìn thấy dì mình, cô sẽ lao vào vòng tay bà ấy và khóc nức nở.” Mọi chuyện đơn giản và khéo léo hơn cô mong đợi. Cô có thể dễ dàng hình dung ra nó. Đứng trước cảnh tượng như vậy, dì Delia sẽ không mong chờ một lời giải thích mạch lạc nào. Dì sẽ ngay lập tức hiểu được tình cảnh rối rắm mà Olympia tự đưa mình vào. Nhưng. “Tôi không thể khóc theo yêu cầu,’’ cô nói. ‘‘Hãy nghĩ đến điều gì đó đau lòng, chẳng hạn như việc phải chia tay ta mãi mãi.’’ Nếu vẫn còn một phần nào đó tỉnh táo trong đầu, cô sẽ nhảy cẫng lên vì vui sướng và nhẹ nhõm. Thay vào đó, cô lại cảm thấy buồn bã và hoảng loạn. Cô nhìn anh. ‘‘Dường như cách đó không hiệu quả,’’ cô nói. Đôi lông mày đen của anh nhíu lại trên sống mũi. ‘‘Thật kỳ lạ. Điều đó thường khiến nước mắt tuôn như suối—cho đến khi tôi mang ra những viên hồng ngọc hoặc kim cương, hoặc thứ gì đó tương tự.’’ ‘‘Tôi đã nói với anh chiếc váy này là một vấn đề,’’ cô nói. ‘Vì nó mà anh nhầm tôi với một trong những tình nhân của anh kìa. Khóc để đòi trang sức, theo như tôi biết, không phải là phong cách của một thủ thư.’’ “Vậy thì hãy tưởng tượng một thư viện đang cháy. Hãy nghĩ đến thư viện yêu thích của cô bị thiêu rụi, những cuốn sách bị cháy thành tro đen. Hãy tưởng tượng đó là thư viện Alexandria. Hoặc… tôi biết rồi, thư viện thuộc về gì nhỉ Potter…?” “Diane de Poitiers.” ‘Không phải cháy, mà là đang vượt biển đến chỗ Tổng thống Jefferson của Mỹ, người đã mua toàn bộ số sách đó.” “Ông ta chết rồi,” cô nói. “Không quan trọng. Hãy hình dung con tàu bị kẹt trong một cơn bão, và toàn bộ những quyển sách đó chìm xuống đáy Đại Tây Dương.” “Giờ thì tôi đã hiểu nguồn gốc những trò đùa của anh,” cô nói. “Anh có trí tưởng tượng quá phong phú.” “Chắc là do đọc nhiều mấy vở kịch của Shakespeare,” anh nói. ‘‘Vậy mà đây tôi đang giết hàng ngàn cuốn sách, nhưng cô vẫn không chút động lòng.” “Tâm trí tôi thiên về phân tích,” cô nói. “‘Đến mức cực đoan.” “Và chỉ đến giới hạn nào đó,” anh nói. “Rồi điều gì đó buông lỏng, và cô loạn trí hết lên. Thật thú vị.” Có phải điều gì đó đã buông lỏng? Cô đã như vậy. Điều đó là không thể phủ nhận. Còn về phần còn lại… “Chưa ai từng gọi tôi như thế trước đây,” cô nói. “Loạn trí?” “Thú vị. Nhưng anh không nói rằng tôi thú vị. Đó là hành vi kỳ quặc của tôi. Khi tôi trở về với con người nhàm chán thường ngày, nói về Hệ Thống của mình, anh liền ngủ thiếp đi.” “Tôi không phải người duy nhất, tôi để ý thấy vậy.” “Tôi chỉ mệt thôi,” cô đáp. “Tôi cũng vậy,” anh nói. “Ashmont khiến tôi thức khuya hơn giờ ngủ thông thường của mình rất nhiều.” “Tôi không hiểu sao anh không thể thừa nhận rằng anh cảm thấy chán, giống như mọi người vẫn luôn như vậy.” “Ngược lại, tôi bị kích thích đến mức những cuốn sách của cô ám cả vào giấc mơ của tôi,” anh nói. “Nhưng chúng ta không còn nhiều thời gian. Chúng ta cần giải quyết vấn đề chính. Cô cần khóc nức nở trên ngực dì mình. Thử thế này xem: Hãy tưởng tượng tất cả các thư viện quý giá ở Anh bị bán để trả nợ, và toàn bộ đều rơi vào tay người Mỹ.” Anh mở to đôi mắt xanh lục, làm khuôn mặt méo mó như một diễn viên đang diễn cảnh kinh hoàng. Cô cố gắng nuốt cười vào trong. Cười sẽ chỉ làm anh được thể hơn, mà anh đã tự biến mình thành một người đáng mến hơn mức cần thiết đối với cô. “Miễn là người Mỹ chăm sóc chúng cẩn thận,” cô nói. “Thực ra, họ có thể làm tốt hơn đấy chứ.” “Vậy thì tốt hơn cô hãy nghĩ đến một cảnh đau lòng trong sách,” anh nói. “Cô thực sự đọc chúng, đúng không? Chứ không chỉ phân loại, sắp xếp, và đặt những cuốn lớn cạnh những cuốn nhỏ một cách chẳng hợp lý? Hay vuốt ve chúng như những món đồ quý giá?” “Tôi thừa nhận là có chút vuốt ve, nhưng chỉ với những cuốn in trước năm 1550. Còn lại, chủ yếu là tôi đọc chúng.” “Vậy thì hãy nghĩ đến một cảnh buồn. Nếu điều đó không hiệu quả, chúng ta đành hy vọng cô sẽ khóc vì nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng thoát được tôi và được nương tựa vào lòng thương xót của dì cô.” Cô ngờ rằng mình sẽ không cảm thấy nhẹ nhõm khi anh rời đi. Hai hoặc ba giờ đồng hồ, hoặc dù là bao lâu cô đã ở cạnh anh, trong cùng một cỗ xe hay bất kỳ phương tiện nào khác, là khoảng thời gian dài nhất cô từng ở gần gũi với một người đàn ông nào không thuộc gia đình mình. Cô đã quen với đàn ông, nhưng chưa từng quen với một Người Đàn Ông—theo đúng nghĩa mà anh đại diện. Anh cho cô những cái nhìn thoáng qua, nguy hiểm, về một thế giới mà cô bị cấm chạm tới. Không thể nào thoát khỏi anh và bầu không khí mà anh tạo ra. Anh chiếm lĩnh toàn bộ không gian trong cỗ xe. Cô nhận thức rõ từng nơi cơ thể mình chạm vào anh. Trong một cỗ xe thế này, việc không chạm vào là không thể. Nhưng anh không chỉ chạm vào cơ thể cô—anh còn chạm đến tâm trí cô, nơi riêng tư nhất, và khiến mọi thứ trong đó đảo lộn, phá vỡ trật tự mà cô đã dày công xây dựng. Những gì cô làm trong ngày hôm nay, hoàn toàn không giống với cô một chút nào. Nhưng cả ngày hôm nay thực sự không hề giống cô. Anh đánh nhau với một người đàn ông vì dám xúc phạm cô. Điều này chưa từng xảy ra trong suốt cuộc đời cô, vì đàn ông thường chẳng đủ chú ý đến cô mà làm thế. Và cô, vì quá phấn khích, quá vui mừng, đã hôn anh. Cô không hề mong đợi anh sẽ đáp lại. Thực ra, cô chẳng mong đợi gì cả. Cô chẳng suy nghĩ gì, hay nói đúng hơn là chẳng nghĩ chút nào. Nhưng anh đã hôn lại cô. Không chỉ đơn giản là đáp lại, mà là hơn thế nữa, nhiều hơn thế. Trên môi cô. Chỉ với đôi môi của anh, anh đã làm những điều mà cô không ngờ tới, khiến cô cảm nhận nụ hôn ấy lan tỏa đến tận hai mươi nơi trên cơ thể, nhưng đặc biệt nhất là ở ngay đáy bụng. Ashmont đã hôn cô khi cô nói đồng ý, và cô nghĩ đó là một nụ hôn khá dễ chịu. Nhưng giờ đây, cô nhận ra đó chỉ là một nụ hôn thân thiện. Cô sẽ không bao giờ nhận ra điều này nếu không trải qua một trải nghiệm khác. Những gì Ripley làm với đôi môi của anh không phải là sự thân mật. Đó là điều hoàn toàn khác biệt, mạnh mẽ hơn, mãnh liệt hơn, và chắc chắn là không đứng đắn. Cô ước gì chuyện này chưa từng xảy ra, bởi giờ cô biết được điều mà trước đây mình chưa bao giờ biết. Và cô cũng ước gì nó kéo dài thêm một chút, vì cô chưa kịp cảm nhận rõ ràng nó như thế nào, và phải làm gì, thì nó đã kết thúc. Rõ ràng là, chỉ việc gần anh đã làm hỏng tâm trí cô. Hoặc là, có thể là do sự cô độc lâu dài đã làm tổn hại đến nó. Dù lý do là gì đi nữa, Olympia của những giờ qua là một con người mà cô gần như không nhận ra. Cô nhìn thẳng về phía trước. Họ đã gần đến chòi gác cổng. Phần hèn nhát trong cô muốn nhảy ra khỏi xe ngựa và chạy vào nhà. Nếu cô có thể thoát khỏi anh và bầu không khí nóng bỏng mà anh tạo ra, cô có thể bình tĩnh lại. Nhưng điều đó vừa hèn nhát lại vừa ngớ ngẩn. Cô không thể cứ chạy trốn khỏi khó khăn mãi được. Chưa kể, cô sẽ làm hỏng cảnh tượng. Cảnh tượng của anh. Cô, Tiểu thư Olympia Hightower nhạt nhẽo, lại để Công tước xứ Ripley dựng lên một cảnh tượng lố bịch, trong đó cô đóng vai chính. Nhưng sau tất cả thời gian chuẩn bị để gặp dì, và cả suy nghĩ của cô về nó, Olympia lại không đưa ra được một phương án hợp lý, thậm chí là một phương án không hợp lý. “À, cổng đây rồi,” Ripley nói. “Và kia là người gác cổng, đến kiểm tra chúng ta. Tôi tin là ông ấy biết cô chứ?” “Vâng, vâng, tất nhiên rồi,” cô nói. Cô nhìn Fawcett tiến lại gần xe. Ripley hạ cửa sổ. “Tiểu thư Olympia đến thăm Phu nhân Pankridge,” anh nói. “Nhân Pankridge?” người gác cổng hỏi. “Đây chẳng phải là nhà của bà ấy sao?” Ripley hỏi. “Tất nhiên là nhà của bà ấy,” Olympia nói. Cô nghiêng người qua anh về phía người gác cổng. “Ông biết tôi mà, Fawcett. Tôi đến thăm dì tôi.” “Vâng, thưa cô. Dĩ nhiên tôi biết cô rồi. Nhưng hôm nay tôi không nghĩ là cô đến thăm bà ấy,” ông nói, rồi liếc nhìn Ripley, nét mặt ông đầy vẻ bối rối. Chắc hẳn không cần phải có năng lực kỳ diệu gì để hiểu được ông gác cổng đang nghĩ gì. Ông ấy biết hôm nay là ngày cưới của Olympia. Cả thế giới đều biết. Và đây là cô, cùng với một quý ông mà Fawcett chắc chắn nhận ra không phải là Ashmont. Người dân trong làng ở Madagascar chắc cũng biết Những Kẻ Bất Hảo rông như ra sao– và họ sẽ bỏ chạy nếu thấy họ đến. “Tôi hiểu là chuyến thăm này không được thông báo trước,” Olympia nói. “Phu nhân Pankridge rất vui khi đón tiếp Tiểu thư Olympia bất cứ khi nào,” ông nói. “Ý tôi là, bà ấy không có ở nhà.” “Nhưng bà ấy bị ốm,” Olympia nói. “Tôi không nghĩ vậy, thưa cô,” Fawcett nói. “Nhưng tôi biết một điều là, bà ấy không có nhà.” Đừng hoảng loạn, Olympia tự nhủ. “Chuyện này không quan trọng lắm,” cô nói. “Tôi đã đến tận đây rồi, tôi sẽ chờ bà quay lại.” “Xin lỗi, thưa cô,” ông gác cổng nói. “Tôi lẽ ra phải nói trước rằng bà ấy sẽ không về trong hôm nay. Cũng không phải ngày mai hay ngày kia. Tôi tưởng bà ấy đã gửi thư thông báo lý do bà ấy không thể đến dự đám cưới.” Ông dừng lại một chút và nhìn từ cô sang Ripley, rồi vội vã quay lại nhìn cô, mặt ông đỏ lên. “Tất cả đã được sắp xếp từ mấy tuần trước, và tôi được báo là sẽ đón tiếp họ. Quý ngài Clendower và cô em gái, Phu nhân Elspeth, họ đã đến hôm qua và đưa Phu nhân Pankridge đi Scotland cùng họ. Cho kỳ nghỉ mùa hè.”
Chương 7 Dịch: thuylinhh Công tước xứ Ashmont, Công tước xứ Blackwood, và cậu bé Jonesy ngồi trên lưng ngựa, nhìn chằm chằm về phía cầu Battersea. Đúng theo nguyên tắc của những băng nhóm đường phố, Jonesy không nói lời nào, chỉ ra hiệu hướng mà họ nên đi. Khi đến cầu Battersea, cậu bé chỉ tay vào cây cầu, rồi chìa tay ra đòi đồng xu như đã hứa. Dù giờ đây cậu bé đã nắm chặt nó trong bàn tay lấm lem, nó cũng không có dấu hiệu sẽ rời khỏi lưng ngựa của Blackwood. Nó khiến mình thoải mái ở đó—một điều mà Blackwood thì không hề thoải mái chút nào, vì cậu bé rõ ràng cần một trận tắm rửa. Hoặc, có lẽ, là cần cạo sạch và chà kỹ, bởi lớp bụi bẩn trên người dường như đã bám lâu ngày, và mùi hương đi kèm thì... rất chín muồi. Khi họ tới nơi, như thường lệ, một nhóm trẻ đường phố lao tới, đề nghị giữ ngựa. Chúng nhanh chóng lao vào một cuộc khẩu chiến sôi nổi với Jonesy trước khi Ashmont bắt đầu hô gọi để hỏi thông tin. Lũ trẻ lập tức "không biết gì cả" rồi biến mất vào những chỗ trú ẩn của mình. Những người khác trong khu vực thì hữu ích hơn. Một số người cho biết, một hoặc hai giờ trước đó, có một người đàn ông cao lớn, trông giống Công tước xứ Ripley, xuất hiện cùng một người phụ nữ luộm thuộm mặc váy trắng, đeo kính, và mang theo thứ gì đó trông như một mớ ren và hoa. Cặp đôi này được trông thấy lên một chiếc thuyền nhỏ, nhưng không ai biết họ đi đâu ngoài việc họ "đi ngược dòng." Một vài người chèo thuyền khác báo rằng hai người đã đưa cô dâu và người đi cùng vẫn chưa quay lại. “Ripley định làm cái quái gì vậy?” Ashmont nói. “Ngược dòng? Cậu ta định đưa cô ấy đi đâu?” “Cậu ta không thể đi xa được,” Blackwood nói. “Putney? Quán Bạch Sư tử?” “Đi bằng thuyền à? Sao lại đi thuyền đến một nơi gần như vậy? Xe hackey có thể đưa họ đến Putney, và kín đáo hơn nhiều.” “Có vẻ như họ không cố gắng tránh bị theo dõi,” Blackwood nói. “Họ không hề kín đáo.” “Tôi không biết kín đáo là cái chi,” Jonesy nói. “Kín đáo nghĩa là chẳng ai chú ý đến họ,” Blackwood giải thích. “Thế cháu nghĩ không kín đáo nghĩa là gì?” “Là có thể nhận ra họ từ xa cả dặm,” cậu bé nói. “Vì cái váy cưới. Và vì ngài ấy.” “Đúng vậy.” Blackwood nghe thấy cậu nhóc lẩm bẩm từ kín đáo vài lần. “Vấn đề là, mọi người đều quá bận nhìn Olympia mà không để ý họ đi đâu,” Ashmont nói. “Cậu nghĩ Ripley đã để lại một gợi ý chứ?” Blackwood nói. “Nếu có, tôi không hiểu nổi,” Ashmont nói. “Dẫu sao, nếu cậu ta định chứng minh mình thông minh hơn tôi, thì cậu ta nên nghĩ lại.” “Tôi nghi là cậu ta chẳng nghĩ gì đâu,” Blackwood nói. “Chúng ta sẽ phải theo họ bằng thuyền, chết tiệt thật,” Ashmont nói. “Và dừng lại ở mọi điểm dừng dọc đường để tìm xem họ xuống chỗ nào à?” Blackwood nói. “Cậu nói đúng. Cậu ta chắc đang cười nắc nẻ, nghĩ đến cảnh chúng ta theo sau như thế.” “Chúng ta có thể dừng ở quán Thiên nga,” Blackwood nói, gật đầu về phía quán trọ nằm trên bờ sông. “Và chờ những người chèo thuyền quay lại. Chúng ta có thể thuê Jonesy trông chừng giúp. Cậu bé có thể dò la xung quanh trong lúc đó. Hay là cậu có kế hoạch gì khác không, Jonesy? Thế nào?” “Tôi không biết,” Jonesy nói. “Biết ‘kế hoạch khác’ nghĩa là gì không?” Blackwood hỏi. Jonesy gật đầu. “Giống như hồi ông Truller không tới gặp tụi tôi được nữa vì ông nớ bận ‘kế hoạch’ với cái tàu chở tù.” Nhờ thời gian từng lăn lộn ở những nơi phức tạp, hai công tước biết rằng “tàu chở tù” là từ khác để chỉ những con tàu đưa tù nhân tới Botany Bay, Pine Island và các vùng đất xa xôi khác. “Thêm một đồng nữa liệu có làm cháu sắp xếp lại lịch trình bận rộn của mình không?” Blackwood nói. “Tôi nghĩ là được,” Jonesy nói. Cậu nhóc nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa, vỗ con ngựa một cái đầy thân thiện rồi bỏ đi. *** Twickenham Ripley và Tiểu thư Olympia nhìn nhau. “Tôi đáng lẽ phải biết trước,” cô nói. “Dì Delia không hề bị ốm, chỉ là không muốn đến London để bị gia đình tôi làm phiền, khi bà ấy có một lời mời tốt hơn từ Quý ngài Clendower và em gái ông ấy. Tôi dám cá bất cứ thứ gì rằng ông ấy sẽ cầu hôn bà lần nữa, và lần này bà ấy sẽ đồng ý. Ông ấy làm bà vui, và bà ấy thích em gái ông—mà tôi cũng phải thừa nhận là họ thú vị hơn nhiều so với một đám cưới nhàm chán.” “Đám cưới của cô không hề nhàm chán, như đây là chứng minh,” Ripley nói. Thực tế mà nói, đây là một trong những ngày thú vị nhất mà anh từng trải qua trong một thời gian rất dài. Anh tự hỏi liệu mình có làm Tiểu thư Olympia thấy thú vị hay không, và liệu cô ấy có thích em gái của anh không, nếu có dịp để họ làm quen. “Tiếc là bà ấy bỏ toàn bộ sự náo nhiệt,” Olympia nói. “Còn kế hoạch khéo léo của chúng ta, xem ra đã thất bại.” “Đợi một chút,” anh nói. "Cứ để tôi nghĩ xem sao," “Tôi không chắc đó là một ý hay,” cô nói. “Không phải anh là người đã nghĩ ra ý tưởng thiên tài rằng đăng quảng cáo giả mạo tên người khác sao? Kết quả nếu tôi nhớ không nhầm, bảy mươi lăm nhạc công kèn túi đổ đến nhà Quý ngài Eddingham lúc nửa đêm. Trong một lần khác, mười xe chở đầy cá ươn được giao đến nhà của Quý ngài Adderley. Và còn vụ một trăm hai mươi lăm người tóc đỏ xuất hiện vào bình minh ở nhà Phu nhân Igby." “Đó là công sức cả nhóm,” anh nói. “Tôi ngạc nhiên là chưa ai trả đũa anh theo cách tương tự,” cô nói. “Họ thiếu trí tưởng tượng,” anh đáp. "Tôi thấy cô theo sát hoạt động của bọn tôi nhỉ." “Một người phải điếc, câm, và mù mới không biết về chúng,” cô nói. "Từ khi tôi ra mắt trong giới thượng lưu—và thậm chí từ trước đó—ba người các anh đã luôn là tâm điểm chú ý.” Cô ngừng lại và nhìn ra cửa sổ về phía con chó. Ripley cũng hướng mắt theo. Cato đứng dậy để quan sát xung quanh. Ripley nhận thấy người gác cổng đã lùi lại một khoảng cách khá xa khỏi con chó săn. “Anh đã cứu con chó,” cô nói. “Tôi có sự lựa chọn sao?” anh nói. “Tôi là hiệp sĩ trong bộ giáp sáng lấp lánh, nhớ không?” Cô cắn môi. Đôi môi mà anh từng nếm qua, và nó ngọt ngào đến mức khiến anh không muốn nghĩ tiếp, vì chẳng ích gì. "Tôi phải thừa nhận, ý tưởng chơi khăm Ashmont khá hấp dẫn," cô nói. “Dù tôi rất muốn chơi khăm cả ba người các anh. Một bài học trả đũa.” “Còn sớm mà,” anh nói. “Rồi cô sẽ có cơ hội. Bắt đầu nhỏ thôi, với một trong ba chúng tôi. Rồi cô có thể tiến xa hơn. Còn bây giờ, điều quan trọng là đưa cô đến một nơi đáng tin cậy trước khi trời tối.” Và đừng để những người đàn ông trong gia đình cô có lý do để thách đấu ai đó. “Cô không thể ở đây hay bất cứ nơi nào khác một mình được. Cô còn người dì nào không?" “Tất cả dì của tôi, kể cả những dì lớn tuổi hơn và bà dì cố, đều đến đám cưới,” cô nói. “Mọi người đều đến. Trừ dì Delia.” “Và Alice,” anh nói. Cô quay khỏi cửa sổ để nhìn anh. “Theo lời Blackwood, em tôi buộc phải đến nhà chúng tôi gần Guildford,” anh nói. "Chuyện gì đó liên quan đến dì Julia bị một cơn—tôi không chắc đó là gì, và Blackwood dường như cũng mù tịt. Dù sao, đó là nơi cách đây hơn hai mươi dặm.” “Hai mươi dặm!” “Không xa lắm,” anh nói. “Chỉ vài giờ thôi. Nếu đi nhanh, chúng ta sẽ tới trước khi trời tối. Quan trọng hơn, Alice đang ở đó, và dù người ta nói gì về chồng của em ấy, nó vẫn là một phụ nữ đã có gia đình đáng kính. Không có sự không đứng đắn—hoặc những khái niệm ngớ ngẩn về sự không đứng đắn của xã hội chúng ta—khi cô ở lại với nó.” “Em gái anh,” cô nói. “Tôi không chắc đó là ý hay.” “Cô biết nó mà.” “Ai cũng biết cô ấy,” Tiểu thư Olympia nói. “Nhưng cô ấy có biết tôi không lại là chuyện khác.” “Ai cũng biết cô,” anh nói. Với vị hôn thê của Ashmont, anh dễ dàng nhớ mặt, cả dáng người. Nhưng rồi anh nhận ra rằng mình không thể làm điều tương tự về hầu hết các quý cô khác, kể cả bạn bè của Alice. Họ không thú vị. Họ không lẩn tránh giữa những người đi kèm, người lớn tuổi và cả mấy kẻ buồn tẻ ở mọi lứa tuổi. Và cũng không ai trong số họ có phong thái như cô. Sự kiên nhẫn vừa đủ trong mọi bước đi, như một lời thách thức. “Tôi nổi tiếng vì làm mọi người chán chết, tôi biết rồi,” cô nói. “Điều đó không hoàn toàn giống như việc quen biết ai đó để mà nhờ họ chứa chấp tôi.” “Khi Alice biết cô chạy trốn khỏi Ashmont, nó sẽ dang tay chào đón cô,” anh nói. “Tôi chỉ hy vọng nó không làm tổn thương đứa bé chưa chào đời khi ngã ra cười trước cảnh xác cô dâu của cô.” Anh bảo Cato nằm xuống và chỉ đường cho người lái xe đến Điện Camberley. *** Không còn lựa chọn nào khác. Olympia cần một nơi trú ẩn, và Nữ Công tước xứ Blackwood dường như là lựa chọn duy nhất trong phạm vi hợp lý. Mặc dù Công nương không phải hoàn toàn xa lạ, nhưng cũng gần như vậy. Họ chưa từng ở cùng một vòng tròn xã hội. Phần vì cô ấy đã sống ở nước ngoài cùng mẹ trong nhiều năm. Phần khác vì dù giới thượng lưu là một thế giới nhỏ bé đầy ràng buộc, nó lại chia thành nhiều nhóm nhỏ riêng biệt. Nhóm của Tiểu thư Alice Ancaster là nơi quy tụ những cô gái được săn đón nhất, còn Olympia lại sớm nhận ra mình thuộc về nhóm ngược lại. Xã hội không thiếu những cô gái xinh đẹp, nhưng không phải cô gái xinh đẹp nào cũng được yêu thích. Olympia vẫn không thể hiểu nổi tiêu chuẩn để được chấp nhận là gì. Theo kinh nghiệm của cô, nhiều cô gái nổi tiếng lại chẳng hề thú vị khi nói chuyện, thậm chí không dễ chịu. Mặc dù cô thích buôn chuyện không kém ai, nhưng cô cũng thích các chủ đề khác. Tuy nhiên, những cô gái thời thượng dường như chỉ có hai chủ đề: buôn chuyện và chính bản thân họ. Và khi Olympia cố gắng bắt đầu một chủ đề khác, chẳng ai trong số họ quan tâm. Các quý ông cũng vậy. Sau mùa vũ hội đầu tiên, cô dần rời xa họ, tìm đến những nhóm người già, trí thức, và không hợp mốt. Dù vậy, Tiểu thư Alice chưa bao giờ tỏ ra thô lỗ với cô như một số cô gái khác. Tiểu thư Alice cũng không thuộc nhóm em họ Edwina, những người từng bỏ phiếu bầu Olympia là Cô Gái Buồn Tẻ Nhất của Mùa vũ hội. Em gái của Ripley và Olympia hầu như chỉ trao đổi vài câu xã giao. Olympia biết rất ít về cô so với người anh trai tai tiếng của cô ấy. Dẫu vậy, Tiểu thư Alice đã làm kinh ngạc ngay cả những người am hiểu thời cuộc nhất khi kết hôn với Công tước xứ Blackwood. "Tôi không biết anh có một ngôi nhà gần Guildford," Olympia nói. "Là của bác Charles tôi," Ripley trả lời. "Alice, tôi, và bạn bè đã dành nhiều thời gian ở đó khi còn nhỏ. Ông để lại cho tôi, nhưng dì Julia vẫn được ở đó suốt đời bà. Một ngôi nhà cũ kỹ, cần hiện đại hóa khẩn cấp, nhưng trong việc này cần phải cẩn trọng." Cô ngước nhìn anh. "Tôi đang cố hình dung cảnh anh cẩn trọng. Nhưng hình ảnh đó chẳng hiện lên được." Anh bật cười. “Tôi rất quý bà dì lập dị của mình.” "Lập dị cỡ nào?" cô hỏi. “Có đốt gối vào lúc bất chợt không?” Anh cười rạng rỡ. Olympia biết anh là người dễ tính—với đạo đức dễ dãi và dễ bị làm cho vui. Nhưng cô vẫn không ngăn được phản ứng trước nụ cười ấy, như thể đó là một món quà. Anh khiến cô cảm thấy như mình vừa làm được điều gì đó, mặc dù tất cả những gì cô làm chỉ là lặp lại lời anh nói vài giờ trước. Đây là kiểu trò đùa đơn giản cô từng chia sẻ với anh em mình, nhưng cảm giác lại không giống. Nó mang một sự thân mật mà cô không quen thuộc. Chỉ là sự quyến rũ thôi, cô tự nhủ. Dù với tước vị và sự giàu có của mình, đáng lẽ anh và nhóm Những Kẻ Bất Hảo chắc hẳn đã bị xã hội thượng lưu đào thải từ lâu nếu họ không quyến rũ được quá nhiều phụ nữ và thu phục được quá nhiều đàn ông. Ngay cả Đức Vua, vốn là một thủy thủ với cách cư xử thô lỗ, cũng mất một thời gian dài mới hết chịu đựng được họ. Không nghi ngờ gì, bởi vì họ khiến ông cười. “Lập dị đến mức nào?” cô lặp lại. “Bà ấy nuôi khỉ à? Tôi sẽ từ chối nếu có khỉ.” “Không có khỉ,” anh nói. “Không có mèo, vì bà ấy thích chim. Và từ khi con chó cuối cùng qua đời, bà ấy do dự không muốn nuôi thêm con khác.” “Ồ, thật đáng tiếc.” Cô nhìn ra cửa sổ trước, nơi Cato đang ngồi, miệng há, lưỡi thè ra, háo hức ngắm nhìn và hít hà khung cảnh bên ngoài. “Bà ấy thích chó,” anh nói. “Chỉ là bà ấy đau lòng trước sự ra đi của chúng. Đừng lo. Bà ấy và em gái tôi sẽ dang rộng vòng tay đón Cato.” “Đó là nếu mọi việc ổn,” cô nói. “Nếu em gái anh không đến đám cưới vì bà dì của anh, tôi đoán rằng mọi chuyện không ổn.” “Điều đó chẳng ngăn ai chào đón Cato,” anh nói. “Một chú chó ngoan ngoãn và tốt tính. Không phải là con đẹp trai nhất, nhưng đủ ưa nhìn và thông minh. Nếu nó là một trong những con chó nhỏ xíu, cắn nhặng xị, thì tôi đã lôi cô đi—bằng vũ lực nếu cần—và để mặc nó tự lo liệu.” “Theo kinh nghiệm của tôi,” cô đáp, “chúng trở nên ồn ào như thế vì bị chủ nuông chiều. Nhưng không gì có thể biện minh cho việc đánh đập một con vật. Anh sẽ phải vất vả lắm nếu muốn kéo tôi đi, tôi thề đấy.” “Ồ, tôi biết rồi,” anh nói. “Chỉ nghĩ đến viễn cảnh đó thôi cũng khiến tôi rùng mình thú vị.” Không ai từng cảm thấy rùng mình thú vị chỉ vì Olympia, và cô cũng chẳng nên có cảm giác đó khi nghĩ đến việc gây ra nó ở anh. Cô đã dành quá nhiều thời gian bên cạnh anh, đó là vấn đề. Nhiều hơn cả thời gian cô từng dành cho bất kỳ người đàn ông nào không phải người thân. Anh đang xâm chiếm tâm trí cô, khiến nó trở nên ngớ ngẩn và đầy hy vọng, đánh thức những mong ước và giấc mơ cũ. Đã đến lúc quay lại với sự nhạt nhẽo quen thuộc. “Anh có biết điều gì khiến tôi rùng mình thú vị không?” cô hỏi. “Để tôi đoán nhé,” anh nhắm mắt lại. “Tôi nghi ngờ lắm—” “Cuốn Æsopi Fabulae(một tuyển tập truyện ngụ ngôn được cho là của Aesop, một người kể chuyện và nô lệ người Hy Lạp cổ đại sống từ năm 620 đến 564 trước Công nguyên) từ thư viện của Maioli,” anh nói. Cô cảm nhận được mình đang há hốc miệng, nhưng không kịp khép lại trước khi anh bật cười. “Bác Charles tôi là một nhà sưu tầm sách vĩ đại,” anh nói. “Tôi đã học được một vài điều.” “Bác anh sở hữu Æsopi Fabulae?” “Từ thư viện của Maioli. Tôi chú ý đến nó, cô biết đấy, vì đó là truyện ngụ ngôn của Aesop—một thứ quyến rũ với một cậu bé, như cô có thể hình dung, hơn là những quyển thánh kinh hay bản chép tay cổ.” “Tôi rất muốn được xem qua,” cô nói. “Cha tôi đã bán cuốn của chúng tôi—hoặc ít nhất tôi nghĩ đó là cuốn sách ấy. Ông không lưu giữ hồ sơ cẩn thận—hay bất kỳ hồ sơ nào—và giấy tờ của ông nội tôi thì không theo trật tự như tôi mong muốn. Nếu không phải đến London mỗi mùa vũ hội, tôi đã tiến xa hơn nhiều trong việc phân loại thư viện. Hy vọng luôn tràn đầy trong trái tim của những bậc phụ huynh, anh thấy đấy. Và cha tôi thì không giỏi tính toán xác suất. Nếu giỏi, ông chẳng cần phải bán cuốn Aesop, hay bất kỳ cuốn sách quý giá nào khác.” “Những cuốn sách đó không phải lúc nào cũng đáng giá như người ta nghĩ,” anh nói. “Bác tôi từng mua một số tác phẩm cổ với giá chẳng hơn mấy so với chi phí nửa năm đặt mua tạp chí The Library of Romance.” “Ý anh là,” cô nói. “Anh đang nói chung chung, chứ không phải cụ thể. Nói cách khác, anh không mua truyện lãng mạn.” “Nhưng tôi có mua,” anh nói. “Mỗi tháng.” “Cho em gái anh.” “Tại sao tôi phải làm vậy? Con bé tự mua được mà. Giờ nó còn có thể khiến Blackwood mua cho. Ngoài ra, chúng tôi không thích cùng loại sách. Con bé thích tiểu luận và những thứ khiến đầu óc nhức nhối. Trong thư mới nhất, nó nhắc đến Nước Anh và Người Anh của Bulwer. Chỉ cần đọc tiêu đề và tên tác giả thôi cũng đủ khiến tôi buồn ngủ rrooif.” “Vậy điều gì không làm anh buồn ngủ?” “Schinderhannes,Kẻ cướp vùng Rhine(Schinderhannes, hay còn gọi là Johannes Bückler (1779–1803), là một tên cướp khét tiếng hoạt động dọc theo vùng sông Rhine ở Đức vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Ông thường được gọi là Kẻ cướp vùng Rhine ‘The Robber of the Rhine’ và được xem như một nhân vật vừa bị căm ghét vừa được lãng mạn hóa trong văn hóa dân gian Đức). Tập hai sẽ ra mắt ngày mùng Một tháng Tám. Hoặc Vua Nô Lệ của Victor Hugo, tập sáu, cũng vào ngày đó. Những câu chuyện ly kỳ. Tôi rất háo hức chờ đợi. Các nhà sách gửi chúng cho tôi khi tôi ở nước ngoài, kèm theo danh sách các ấn phẩm sắp ra mắt. Smith, Elder, and Co., Cornhill, nếu cô có thể rời mắt khỏi các bản in của Gutenberg.” “Tôi hoàn toàn hiểu sức hấp dẫn của những cuốn sách đó,” cô nói. “Thật sao?” “Dĩ nhiên. Một câu chuyện cuốn hút luôn là điều tuyệt vời.” “Chính xác,” anh nói. “Nhưng anh không thấy một số cuốn quá sướt mướt hoặc bi lụy sao?” “Có chứ, nhưng tôi thực sự ngưỡng mộ những tác giả đủ tài năng để khiến một kẻ cứng rắn như tôi phải rơi nước mắt, ngay cả khi đáng lẽ tôi nên cười.” Cô vẫn khó mà tưởng tượng được Công tước xứ Ripley là một người yêu thích truyện lãng mạn. “Thật thú vị,” cô nói, “đây là một khía cạnh khác của anh.” “Tôi có nhiều khía cạnh thú vị,” anh nói. “Thực ra, tôi là một kẻ hấp dẫn.” Anh quả thật đang trở nên cuốn hút hơn mức an toàn với cô. “Tôi đoán phải như vậy, để anh có thể thoát khỏi mọi rắc rối suốt thời gian qua,” cô nói. “Một công tước quốc hưng thịnh và đầu óc giỏi quản lý tài chính cũng giúp ích,” anh nói. “Dù không phải để dành cho những lĩnh vực trí tuệ cao siêu.” “Tôi từng nghĩ,” cô nói chậm rãi, “sẽ thật tốt nếu cha tôi có đầu óc tài chính. Nhưng công bằng mà nói, ông là một người chồng tận tụy và một người cha yêu thương con cái. Còn nhiều điều tồi tệ hơn trong cuộc sống, nhiều kiểu gia đình tệ hơn.” “Đúng vậy,” anh nói. Cô thoáng cảm nhận được điều gì đó—một sự thay đổi trong cảm xúc? Hay chỉ là một khoảng lặng trước khi anh tiếp tục, “Nhưng công việc thư viện của cô làm tôi tò mò. Cô nói đã bán bớt sách, nhưng dường như vẫn còn nhiều việc để làm.” Anh ngả người ra ghế và duỗi dài đôi chân. “Sao tôi có cảm giác đó là một câu chuyện rất thú vị nhỉ?” “Với tôi thì đúng là như vậy,” cô nói. “Đôi khi còn quá thú vị.” Nhiều lần thoát khỏi tai ương trong gang tấc. “Với anh, thì hoàn toàn khác.” “Tôi là một người đàn ông có chiều sâu chưa ai đo lường được,” anh nói. “Chắc cô phải nhận ra điều đó rồi. Tôi đã làm cô ngạc nhiên không chỉ một lần trong quãng thời gian ngắn ngủi này. Tôi muốn nghe về những cuốn sách đó.” “Để giúp anh ngủ à?” Anh nhún vai. “Có quan trọng không? Chúng ta còn nhiều giờ đồng hành với nhau mà.” *** Mười lăm dặm sau đó Quả thật, Ashmont sẽ có cả hai tay bận rộn. Tiểu thư Olympia Hightower có vẻ là một người yêu sách, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng cô chẳng giống chút nào với định nghĩa mọt sách mà Ripley quen thuộc. Đúng là cô dường như đã ghi nhớ hầu hết các cuộc bán đấu giá sách lớn trong hai mươi năm qua, và thường quên mất người nghe, vô tình sử dụng những thuật ngữ chỉ người sưu tầm sách mới hiểu. Nhưng với cô, việc sở hữu sách không đơn thuần chỉ là sưu tầm. Đó là một mối quan hệ đầy đam mê, và niềm đam mê ấy đã thúc đẩy cô làm những điều... “Nghịch ngợm,” anh nói. “Cô là một cô con gái nghịch ngợm,thao túng.” “Có những người cần được cứu khỏi chính mình,” cô đáp. “Cha tôi thực sự là người tốt bụng. Ông không cố ý phá hủy di sản quý giá của mình.” Cụ cố nội của cô đã mua phần lớn bộ sưu tập. Nhưng Bá tước xứ Gonerby hiện tại lại chẳng biết gì về cách đóng sách kiểu Grolier (thường ám chỉ những ấn bản sách cao cấp, đẹp và được thiết kế tinh xảo), cũng giống như chú chó biết chơi cờ vua. Trước khi Olympia đủ lớn để hiểu được giá trị của bộ sưu tập, một số món đồ quý đã được bán với mức giá rẻ mạt tương tự như cái cách bác Charles thỉnh thoảng chi trả. “Sẽ còn tệ hơn nếu tôi cố giáo dục ông ấy,” cô nói. “Ông sẽ hủy diệt thư viện trong chớp mắt. Lúc ấy, ông sẽ không chỉ ghé qua mỗi khi cần tiền nhanh chóng mà sẽ tổ chức một cuộc tàn sát quy mô lớn.” Không giống như nhiều khoản nợ khác, những món nợ danh dự—chủ yếu là cờ bạc—phải được trả ngay lập tức. Và thư viện là cách của Gonerby để đổi lấy tiền mặt trong lúc cấp bách. “Nhờ sự thờ ơ lẫn thiếu hiểu biết của ông, tôi đã cứu được nhiều tác phẩm quan trọng,” cô nói. “Ví dụ như cuốn Mazarin Bible (Kinh Thánh Mazarin, còn được gọi là Gutenberg Bible, là một trong những cuốn sách in đầu tiên bằng công nghệ in ấn loại chữ rời của Johannes Gutenberg. Đây là một cột mốc quan trọng trong lịch sử văn hóa và công nghệ, đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên in ấn hiện đại) do Gutenberg và Fust in khoảng năm 1450—ấn phẩm đầu tiên được tạo ra bằng cách sử dụng các chữ in di động!” Giọng nói của cô ngân vang vì phấn khích. Ánh sáng rực rỡ trên khuôn mặt cô khiến anh gần như lóa mắt. “Ashmont sẽ mua nó cho cô,” anh nói. Và đổi lại, chắc chắn cậu ta sẽ được thưởng một đêm vui vẻ—hoặc bất kỳ nơi nào cô muốn. Hoặc Ripley có thể mua nó làm quà cưới, và cô sẽ nhìn anh bằng đôi mắt xanh-xám ánh biếc tràn ngập ham muốn, khiến Ashmont phải ghen tị lần đầu tiên trong đời. “Ông sẽ không lấy được nó dưới hai nghìn bảng, nếu tôi còn tiếng nói trong chuyện này,” cô nói. “Ngài Mends sẵn sàng hiến một cơ quan nội tạng chỉ để sở hữu nó.” “Cơ quan nào, tôi tự hỏi? Nếu đúng là người mà tôi đang nghĩ đến—ông già, hình trái lê, và cứng nhắc—đội tóc giả, phải không?” “Phải,” cô nói. “Không phải những cơ quan tươi mới nhất, tôi nghĩ vậy,” anh nói. Cô kéo nhẹ kính xuống, liếc anh qua gọng kính, ánh nhìn khiến anh nhớ đến một gia sư từng dạy mình. “Cô đáng yêu khi nhìn như vậy,” anh nói. “Nhớ dùng ánh mắt đó với Ashmont. Cậu ta sẽ ngoan ngoãn nghe lời cô ngay.” Cô chỉnh lại kính và quay đi. “Anh đúng là đầy ắp những lời khuyên về hôn nhân,” cô nói. “Tình huống này khiến tôi có cảm hứng.” Cô khẽ thở hắt ra, một cách duyên dáng. “Điều quan trọng là cha tôi không biết gì về sách hiếm,” cô nói. “Ông chỉ nhặt cuốn nào trông ấn tượng nhất, ví dụ những cuốn mạ vàng lộng lẫy. Chúng tôi sở hữu khá nhiều cuốn như thế. Sách đắt tiền, nhưng không hiếm. Quá nhiều bản in, chẳng hạn. Những lúc tôi mua được với giá rẻ, tôi đặt chúng lên kệ ngang tầm mắt của ông.” Anh tưởng tượng cảnh cô lén lút thêm những cuốn sách loè loẹt vào giá sách. Hình ảnh ấy thật sống động. Anh bật cười. “Đúng vậy, tôi là một kẻ nói dối và lừa lọc cha mình,” cô nói. “Chỉ có anh mới thấy điều đó đáng ngưỡng mộ.” “Ashmont cũng sẽ thích điều đó,” anh nói. “Tôi biết cô đồng ý lấy cậu ấy vì lý do tài chính. Với sự khuyến khích mạnh mẽ từ gia đình.” Thêm vào đó là sự thao túng ngấm ngầm của Quý ngài Frederick, liệu cô có cơ hội nào không? “Dù vậy, cậu ấy không phải người xấu hay khó chiều, nếu cô hiểu rõ tính cách.” “Những gì xảy ra chẳng phải lỗi của ai cả,” cô nói. “Không ai ép buộc tôi đồng ý. Không ai nhốt tôi trong ngục tối và bắt ăn bánh mì mốc với nước lã. Họ chỉ... quá nhiệt tình. Tóm lại, tôi biết mình đang làm gì.” Cô cau mày nhìn đôi tay đang đặt ngay ngắn trong lòng. “Hoặc tôi đã nghĩ vậy.” “Thực tế là, cô không thể nào kết hôn với một người đàn ông nhạt nhẽo, cũng như em gái tôi vậy. Nói về Alice, tôi tin rằng chúng ta sẽ đến nơi trước khi mặt trời lặn. Chúng ta đã đi khá nhanh, dù rằng—” Anh ngừng lại khi con ngựa bên trái dựng đứng lên, như thể định bay lên những tán cây gần đó. Chiếc xe lắc mạnh, hất Tiểu thư Olympia về phía trước. Ripley vội giữ lấy cô trước khi đầu cô đập vào phía trước xe, kéo cô lại. “Quỷ bắt cái gã kia đi, làm sao hắn để—chết tiệt thật! Giờ thì con chó chạy mất rồi.” *** Olympia nhìn vào anh, và chỉ từ góc nhìn của cô, cô mới nhận ra con ngựa bên ngoài có vẻ sợ hãi vì điều gì đó. Điều đó gây ra một cơn chấn động nhỏ, khiến cô rơi khỏi chỗ ngồi—và ngay lập tức, gần như cùng lúc, Ripley kéo cô lại và nửa đẩy cô lên đùi anh. Vội vàng, cô lách người ra và trở lại chỗ ngồi của mình. Cô không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra, chỉ biết rằng người đánh xe đang vật lộn để giữ ổn định các con ngựa, và chiếc xe ngựa đang đi chậm lại. “Chuyện gì vậy?” cô hỏi. “Tôi không thấy gì hết,” anh đáp. “Một con chim. Một con sóc. Một con thỏ. Và con chó chết tiệt đã đuổi theo nó. Cato!” Cô quay mắt nhìn vào thùng xe. Trống không. Nhìn sang bên trái, cô thấy qua một khe hở trong hàng rào thấp, con chó lao qua một cánh đồng. Trên những đám cây rải rác, những đám mây xám di chuyển bất an. Ngay cả khi chiếc xe ngựa chưa dừng lại hoàn toàn, Ripley phải vật lộn để mở cửa. Anh bước xuống khỏi xe và đi nhanh đến ven đường. “Cato!” anh gọi. Mải mê trong cuộc rượt đuổi, con chó vẫn tiếp tục chạy. Olympia nhảy xuống xe ngựa và đi nhanh đến bên Ripley. “Nó không biết tên mình,” cô nói. “Tôi không đời nào gọi nó là Sam.” Ripley đưa ngón tay lên miệng và huýt sáo một tiếng sắc lẹm. Con chó vẫn tiếp tục chạy, ngày càng nhỏ dần khi nó lao qua cánh đồng hướng về phía những hàng cây xa xa. Nó nhảy qua một hàng rào. “Chỉ có một mục tiêu duy nhất,” Ripley nói. “Cô đợi ở đây.” Anh bắt đầu đi qua cánh đồng. Cô nhảy xuống xe ngựa. “Tôi không có ý định đứng đợi,” cô nói. “Nó là chó của tôi và là trách nhiệm của tôi.” “Mười phút,” anh nói, đi nhanh. “Tôi không có ý định đuổi theo nó suốt hàng giờ. Tôi cho nó mười phút để tỉnh táo lại. Sau đó chúng ta quay lại xe và đi tiếp.” Anh liếc nhìn lại. “Anh chàng đánh xe đang loay hoay với dây cương, nhưng ngựa có vẻ ổn và không có gì bị hỏng. Mười phút. Không hơn không kém. Sau đó Cato muốn đi đâu thì đi.” Cô gật đầu. Cô không muốn nghĩ đến cảnh con chó vui vẻ đuổi theo con mồi rồi lang thang suốt đêm trong một khu phố lạ, nơi những kẻ xấu như Bullard có thể bắt được nó. Nhưng nếu Cato đã chạy mất, thì đành vậy. Họ cần đến Điện Camberley trước khi trời tối. Ripley tiếp tục bước. “Đúng là con chó của Satan. Cô có thấy nó nhảy không?” “Tôi gần như nghĩ nó sẽ mọc cánh,” cô nói. “Đó, và dù nó là gì đi nữa, chắc chắn một phần nó là giống greyhound (một giống chó nổi tiếng, đặc biệt vì tốc độ chạy cực kỳ nhanh của chúng).” Olympia nhìn theo hướng anh chỉ. Con chó đã lao gần hơn một chút, nhưng nó vẫn tiếp tục đuổi theo. Dù là loài gì đi nữa, nó thật sự rất giỏi trong việc tránh né kẻ săn mồi. Cato chạy nhanh vô cùng. Nếu chạy một mạch thẳng, nó đã có thể bắt được con mồi, nhưng con mồi lại chạy theo đường zigzag. Ripley huýt sáo lần nữa. Con chó vẫn làm ngơ. “Nó vui quá rồi,” cô nói. “Chúng ta phải làm sao phá vỡ sự tập trung của nó,” Ripley nói. Anh bước vào cánh đồng. “Cô đi theo hướng này.” Anh ra hiệu sang bên trái. “Làm ồn lên và vẫy tay. Cố gắng thu hút sự chú ý của nó. Tôi sẽ đi hướng ngược lại. Hy vọng chúng ta có thể khiến nó chạy giữa chúng ta và sẽ chơi với chúng ta.” Anh đi nhanh trong khi nói, và Olympia vội vàng bước theo. “Cato!” cô gọi. “Đến giờ ăn tối rồi!” “Nó vừa ăn tối đấy!” Ripley hét lại. Khi họ dừng lại vài dặm trước đó để thay ngựa và người đánh xe, Ripley đã cho con chó ăn, nói rằng nó trông có vẻ rất đói. Như thể chó không bao giờ trông đói. “Nó là chó,” cô nói. “Nó không nhớ đâu.” “Ăn tối!” Ripley hét. “Thỏ. Thỏ ngon tuyệt!” “Sóc!” cô gọi. “Cáo!” “Chồn! Mắc câu! Thịt bò, dày và máu me, đúng kiểu mà nó thích!” Họ cứ gọi như vậy, và con chó săn vẫn tiếp tục chạy, zigzag và vòng tròn, lúc gần lúc xa. Cô đưa ngón tay lên miệng và huýt sáo. Con chó dừng lại và nhìn về phía cô. Cô nghe thấy Ripley hét lên, và quay lại đúng lúc để thấy anh ngã nhào xuống mặt đất. *** Quán Thiên nga tại Cầu Battersea, với sự ra vào tấp nập không ngừng, hóa ra lại là lựa chọn khôn ngoan để chờ đợi thông tin. Do nhiều sự chậm trễ đã làm mất thời gian, hai công tước ước tính rằng họ đang chậm hơn mục tiêu của mình khoảng hai tiếng. Tuy nhiên, khoảng thời gian này cũng đủ để tin tức về hoạt động của Công tước xứ Ripley tại Bạch Sư tử ở Putney được lan truyền qua các người chèo thuyền và những người khác, rồi quay lại với họ. Tuy nhiên, ngay khi họ chuẩn bị lên đường, cậu bé Jonesy lại biến mất. Việc cố gắng tìm kiếm cậu bé làm trì hoãn hành trình của họ. Những đứa trẻ đường phố rất hữu dụng, và những đứa lanh lợi như Jonesy có thể tiết kiệm cho một công tước rất nhiều thời gian nhàm chán khi phải dò hỏi mọi người, để thay vào đó có thể ngồi trong quán rượu và ăn uống. Nhưng Jonesy đã biến mất, và như thường lệ, ai cũng “chả biết chi hết trọi,” khiến Blackwood và Ashmont phải tự mình lên đường đến Bạch Sư tử ở Putney. Tại đó, họ nghe được rất nhiều chuyện. Putney đang xôn xao với những sự kiện vừa xảy ra, và dân địa phương không thể chờ để kể những phiên bản câu chuyện của họ. Tuy nhiên, điều mà mọi người không mấy hữu ích chính là điểm đến của Ripley. “Quái quỷ, không ai để ý họ đi hướng nào à?” Ashmont yêu cầu, trong khi chủ quán rượu và vợ ông ta tranh luận xem chiếc xe ngựa có đi đến London hay Twickenham, hay một nơi nào khác hoàn toàn. “Ngài ấy rất thông minh, thưa Đức Ngài, và đúng là như ngài ấy, sẽ làm ra vẻ đi theo một hướng khi thực tế lại có ý định đi hướng khác,” chủ quán nói. “Ngài ấy nói Twickenham,” vợ ông ta nói. “Chỉ là một chặng đường ngắn nếu ngài ấy định quay lại London. Ngài ấy không nói là Doncaster hay Brighton nếu ngài ấy định để họ đi một cuộc truy đuổi hoang đường?” “Tôi tự hỏi liệu Twickenham có phải là một manh mối không,” Blackwood nói. “Còn không thì tôi không thể nghĩ ra—” “Làm sao mà nghĩ được khi bụng đang đói và khát như này?” Ashmont nói. “Lẽ ra chúng ta nên ăn trước, ở Chelsea, thay vì đi tìm thằng nhóc đáng ghét đó.” “Chắc chắn có ai đó ở địa phương đã quấy rối nó, và nó đã bỏ đi,” Blackwood nói. “Hoặc nó tìm được một con mồi khác để lừa. Chúng ta đã cho nó bao nhiêu tiền rồi nhỉ? Có thể nó đã đi mua một con ngựa đua tốt để tham gia Goodwood.” “Chết tiệt thằng khốn đó,” Ashmont nói. Rồi quay sang chủ quán, cậu ta nói: “Cho chúng tôi cái phòng Sun hoặc Star hay cái nào đó để ngồi mà không có mấy thằng quê mùa làm phiền, và cho chúng tôi chút đồ ăn và uống. Càng nhanh càng tốt—phòng khi ai đó có gì thông minh để nói trước ngày thứ Tư về cái thằng bạn đáng ghét, ăn cắp vợ, nghĩ mình thông minh, tự xưng là bạn tôi đó.” Họ vào phòng riêng có tên là Sun, nơi họ xoa dịu cơn đói và khát, mặc dù cơn bực bội của Ashmont vẫn chưa dịu đi. “Cậu nghĩ cậu ta có quay lại London không?” Ashmont hỏi, sau khi chiếc cốc của đã được rót đầy lần thứ ba. “Chắc chắn là thế," Blackwood nói. “Dù sao thì, đó là điều tôi sẽ làm. Dẫn cô ấy ra khỏi thành phố một thời gian, để mọi người có thời gian náo loạn, rồi quay lại và lén lút đưa cô ấy về nhà.” “Đúng, tôi cũng sẽ làm vậy.” Ashmont cau mày. “Tôi không hiểu sao cô ấy lại bỏ đi.” “Tôi không biết,” Blackwood nói. “Cô ấy không phải kiểu người đó—thật ra, đó là điều tôi mong đợi từ Alice. Tôi cũng từng nghĩ vậy. Ngay đến khi thị trưởng nói chúng tôi là vợ chồng, tôi cứ tưởng mọi thứ hóa ra là một trò đùa, hoặc tôi sẽ nghe cô ấy phản đối—cậu biết đấy, khi thị trưởng hỏi có ai biết lý do gì khiến chúng tôi không thể kết hôn không? Tôi cứ chờ cô ấy nói, 'Tôi có lý do đây. Anh ta là kẻ ngốc. Được chưa?' Như cách cô ấy vẫn làm. Và rồi—nhưng cô ấy không làm vậy.” Anh nhún vai. Sau một lúc, Ashmont nói: “Tôi nghĩ Olympia đã bỏ chạy.” “Vậy thì sao?” Blackwood nói. “Tôi không biết,” Ashmont nói. "Nhưng thật là khó chịu." “Chúng ta không phải là những món quà hôn nhân,” Blackwood nói. “Đó là những gì bác Fred nói. Bác ấy nói đúng, chết tiệt ông đi. Tôi phải dùng thư viện để thuyết phục cô ấy. Và ngay cả vậy, tôi cũng phải nói chuyện rất nhiều.” “Vậy thì.” Ashmont đập mạnh chiếc cốc lên bàn, làm bia đổ ra ngoài. “Nhưng Ripley thì không. Cậu ta không làm tất cả công việc. Và bây giờ…” Anh suy nghĩ. “Không, đợi đã. Tôi bảo cậu ta lo liệu mọi thứ. Nếu cô ấy bỏ đi, và đây không phải một trò đùa, thì cậu ta đang chăm sóc cô ấy. Cậu ta phải làm thế. Bởi vì cô ấy là người mà tôi tìm thấy.” “Không phải là cô ấy vẫn luôn ở ngay trước mắt, mấy năm qua à.” “Nhưng chúng ta đã không thấy. Ít nhất là tôi không thấy. Nhưng rồi tôi đã thấy. Và tôi đã theo đuổi. Vậy là tôi có cô ấy. Không phải Ripley. Nếu cô ấy bỏ chạy…” Hàm răng anh nghiến lại. “Thì tôi sẽ phải sửa chữa mọi thứ và—và đưa cô ấy về.” “Cậu sẽ làm được,” Blackwood nói. “Phải tìm cô ấy trước đã. Cậu nghĩ sao? London?” “Tôi nghĩ là London,” Blackwood nói. “Rất có thể là Dinh thự Gonerby.” “Không phải cái dinh thự tổ chức đám cưới, phải không?” Ashmont nói. “Nhưng không, có lẽ không phải. Thật tiếc là phải làm ở Kensington. Nếu không thì cô ấy khó mà bỏ chạy khỏi Dinh thự Gonerby được. Có lẽ tôi nên đợi cho đến khi việc sửa chữa xong xuôi.” “Cậu sẽ phải đợi một năm, có thể là hai. Vì tôi đảm bảo, là không thể xong trong chưa đầy một năm.” Ashmont lắc đầu. “Không, tại sao phải đợi chứ? Tôi đã tìm thấy cô ấy. Tôi đã theo đuổi cô ấy. Cô ấy cũng nói đồng ý rồi. Không có lý do gì để—giờ thì sao?” Vợ của chủ quán bước vào phòng. "Là Twickenham, thưa Đức Ngài. Cậu bé đưa tin đã về và nói họ đã đổi ngựa ở Twickenham. Và họ sẽ đi tiếp đến Guildford." Ashmont nhìn Blackwood. "Cái quái gì vậy?" "Guildford," Blackwood lặp lại, ngớ ngẩn. Rồi, "Cậu ta đang đưa cô ấy đến Điện Camberley. Đến chỗ Alice." Cậu ta cười. "Điều này sẽ thú vị đây." Ashmont nhảy vọt khỏi ghế. “Chết tiệt! Bây giờ tôi phải đuổi theo tên ngốc đó đến Guildford.” “Đúng vậy, và phải đưa Tiểu thư Olympia ra khỏi tay nữ công tước của tôi và dì của cô ấy. Điều đó sẽ vui lắm cho mà xem.” Nhưng Ashmont đã lao ra ngoài, yêu cầu ngựa. Ngay khi anh chuẩn bị nhảy lên yên ngựa, một người đàn ông mặt đỏ như gấc chạy ra sân quán, la hét về một con chó bị đánh cắp. Ashmont không quan tâm đến con chó hay bất cứ điều gì mà gã kia có thể nói về Công tước xứ Ripley. Anh không có tâm trạng tốt, và muốn lên đường. Nhưng người đàn ông đã đưa ra một nhận xét khó chịu về cô gái đã đi cùng Ripley. Lại thêm một sự chậm trễ khi Ashmont cố gắng giết gã đó.
Chương 8 Dịch: thuylinhh Ripley nhìn thấy các vì sao quay cuồng trước khi mở mắt ra và thấy mặt mình áp xuống lớp bùn đất. Anh cố gượng dậy, và cơn đau nhói lên từ chân phải. Anh buột miệng chửi thề. Một tiếng hét làm anh ngẩng đầu lên, và anh thấy Tiểu thư Olympia chạy băng qua cánh đồng về phía mình, váy tung bay, ren đen phấp phới. Với nhiều nỗ lực hơn mức cần thiết, và những phản đối sắc bén từ phía bên phải của cơ thể, anh lăn người lại và ngồi dậy. Bàn chân phải của anh đau nhói, và cả bên phải cơ thể như đau âm ỉ cùng nhịp. Không dễ chịu. Không tiện lợi. Nhưng cũng không đến mức chết người. Không có gì to tát, anh tự nhủ. Đứng dậy thôi. Cô quỳ xuống bên cạnh anh. “Đừng cử động,” cô nói. “Tôi chết tiệt là sẽ cử động,” anh nói. “Chỉ là một lát nữa. Ngay khi đám sao kia thôi quay vòng quanh đầu tôi. Chỉ là bước hụt vào một hang thỏ thôi. Có lẽ chính con thỏ đó đang dẫn Cato chạy vòng vòng.” Anh chống tay xuống đất và thử đứng dậy. Cái chân loạng choạng, và cơn đau lại dội lên. Cô đặt một tay đeo găng lên vai anh. “Đừng.” Nghe giọng nói đầy quyền uy, anh bất giác ngừng lại. Rồi anh bật cười với chính mình. Thật nực cười. Anh đã nghe thấy tiếng huýt sáo sắc bén của cô—hoàn toàn chuẩn xác để gọi bọn trẻ và chó—và như bất kỳ thằng nhóc hay con chó nào, anh đã dừng lại ngay lập tức và quay về phía cô. Rồi vấp ngã. Và úp mặt xuống bùn. Ở giữa một cánh đồng. “Tôi ổn mà,” anh nói. “Ngã không đúng cách thôi.” “Đừng cử động,” cô nói. “Để tôi xem đã.” “Chẳng gãy gì đâu,” anh nói, như để trấn an bản thân hơn là cô. Anh không thể để có vết sứt nào. Không có thời gian cho việc đó. “Nhưng cái mũ của tôi ở đằng kia, trong đống phân bò và—” Anh cố gượng dậy lần nữa, và cơn đau như một đoàn quân đi diễu qua cái chân anh. Anh hít vào một hơi và thở mạnh ra. “Khỉ thật.” “Được rồi,” cô nói. “Liệu anh có thể sử dụng một chút não bộ không mấy hoạt động của mình và thêm chút lý trí hay không? Chân anh bị thương rồi.” “Nó chỉ bị đập mạnh thôi, tôi dám chắc, khi tôi ngã sấp mặt,” anh nói. Chắc hẳn chỉ là trẹo mắt cá chân. Chẳng lý nào phải làm lớn chuyện như vậy. “Tôi cũng dám chắc,” cô nói. “Giờ thì giữ yên, ngậm miệng lại, và để tôi xem. Thôi, quên đi. Tôi biết yêu cầu anh ngậm miệng là quá nhiều. Nhưng anh phải giữ yên. Ý là, đừng có làm mọi chuyện tệ hơn nữa.” Anh có thể nghe được câu đồ ngốc mà cô đang nghĩ trong đầu. Cô nói đúng. Nếu tình huống đảo ngược, anh cũng sẽ gầm lên bảo cô phải giữ yên. Vấn đề là, anh nghe thấy một giọng nói nhỏ bên trong, nhắc anh rằng có thể anh đã tự gây ra một chấn thương nghiêm trọng, và giọng nói đó đang cố gắng làm anh hoảng sợ. Anh tự nhủ đừng như một đứa trẻ. Anh chưa chết. Không có dấu hiệu nào của máu cả. Chỉ là tạm thời mất khả năng vận động. Một chút. Tạm thời thôi. Và anh hoàn toàn không hề lo lắng. “Nhìn găng tay tôi này,” anh nói, giơ tay lên. “Nhìn mà xem.” “Anh ghét chúng mà,” cô nói. “Đó là nguyên tắc, chết tiệt.” Anh đoán mặt mình chắc còn bẩn hơn cả đôi găng tay, nhưng khuôn mặt anh vốn chưa từng được coi là đẹp, nên cũng chẳng mất mát gì. “Và thật là mất thể diện, ngã úp mặt ở giữa một cánh đồng của nông dân.” “Ừ, ngã úp mặt ở một bữa tiệc vì say rượu thì có vẻ sang trọng hơn nhỉ,” cô nói. “Chính xác,” anh nói. “Khi say, cô chẳng biết mình trông thế nào. Điều quan trọng là, cô cũng chẳng cảm thấy đau.” “Đàn ông,” cô thốt lên. Cô di chuyển xuống chân anh. “Chân phải, đúng không?” “Phải, y tá thân mến.” “Nghĩ lại thì, có lẽ tôi sẽ bắn anh cho xong chuyện khốn khổ này.” “Đáng tiếc là chúng ta không có súng,” anh nói. “Lẽ ra tôi nên nghĩ đến chuyện đó ở Putney. Đi lại mà không mang theo vũ khí là—ôi.” Cô cầm lấy chân anh. Một cách nhẹ nhàng. Dù vậy... không hẳn là đau. Mà giống như... sự kích thích. À thì, anh là đàn ông, và khi một người phụ nữ chạm vào một người đàn ông, rất có khả năng anh ta sẽ bị kích thích, dù cần thiết hay không. “Nói cho tôi biết khi nào anh cảm thấy đau,” cô nói. Cẩn thận, cô di chuyển chân anh sang phải, sang trái, rồi xoay tròn, rõ ràng là một kỹ năng cô đã học được từ lâu, có lẽ từ việc chăm sóc đám anh em trai đông đúc và từ những bậc phụ huynh yêu thương nhưng thiếu sự quan tâm. Có lẽ anh vừa phát ra một tiếng kêu nho nhỏ. Mặt anh nóng bừng. “Chân tôi không gãy,” anh nói nhanh. “Tôi biết mà.” Anh không cho phép bất kỳ thứ gì gãy. “Nhưng cô thật tốt bụng khi quan tâm.” “Tôi đang rất muốn thả nó xuống thật mạnh. Trên một hòn đá đây.” “Tiếc thật. Ở đây chỉ có bùn và phân bò thôi.” Anh liếc xung quanh. “Có thể có cả phân cừu nữa. Không chắc lắm. Tôi không phải dân làm nông.” Cô đứng dậy, chống tay lên hông và nhìn anh. “Tôi không thể để anh lại đây, dù sự cám dỗ có lớn bao nhiêu.” “Thực ra, cô có thể. Người đánh xe biết đường mà.” Anh tự nhủ mình hoàn toàn có thể đứng dậy được. Anh sẽ không phải bò trở lại xe ngựa. Anh có thể nhảy lò cò bằng một chân, hơn kém gì đâu. Anh chỉ cần ngừng rên rỉ với chính mình về cơn đau nhói này. Anh đã từng trải qua những tình huống tồi tệ hơn thế. Anh đã bị thương nặng hơn trong những trận đánh nhau hay những lần cưỡi ngựa liều lĩnh. Nhưng tất cả những lần đó anh đều say. Không sao. Say hay tỉnh, anh không có thời gian để đóng vai người bệnh. Anh phải quay lại London ngay lập tức. Anh phải cảnh báo Ashmont và thúc đẩy cậu ta nếu cần. Ripley phải đảm bảo rằng không có cuộc đấu súng nào xảy ra và không ai bị thương hay mất mạng vì vụ hôn lễ lộn xộn này. Trên hết, anh cần rời khỏi cô và tìm một người phụ nữ không đoan chính để lên giường. Nhanh chóng. “Lỗi tại đôi giày,” anh nói. “Không thể đi lại trên cánh đồng với đôi giày dự đám cưới này được.” Giày cưới mỏng như dép chẳng thể bảo vệ đôi chân khỏi ẩm ướt, chứ đừng nói đến việc giẫm vào hang thỏ. Nhưng ở Putney hay bất cứ nơi nào khác, không thể kiếm được đôi ủng tử tế trong thời gian ngắn. Những người hầu quán trọ đã làm khô và lau sạch đôi giày cưới của anh hết sức có thể. “Tôi nên giúp anh đứng dậy,” cô nói. “Anh không được đặt chút trọng lượng nào lên chân phải đâu đấy.” “Tôi biết rồi,” anh đáp. “Quay lại và bảo người dẫn ngựa đến giúp tôi.” “Tôi có thể kéo anh trở lại xe bằng chân trái của anh,” cô nói. “Và làm hỏng chiếc áo khoác đẹp đẽ này, cô gái thiếu nhạy cảm ơi? Gọi người dắt ngựa đi.” Cô liếc nhìn về phía cỗ xe. “Anh ta vẫn đang loay hoay gì đó. Không biết điều gì đã làm con ngựa bên trái hoảng sợ.” “Anh ta đã mất tập trung,” anh nói. “Hoặc say xỉn, đó là lý do thường thấy khi không kiểm soát được ngựa kéo xe. Không phải mấy con ngựa này có chút tinh thần nào đâu. Làm ơn đi gọi anh ta đi, được không?” “Anh ta nhỏ người hơn tôi,” cô nói. “Nhưng dẻo dai hơn. Chỉ cần đi. Gọi. Anh ta.” Cô mỉm cười nhìn xuống anh. “Không. Tôi thích nhìn anh bất lực thế này.” Anh mỉm cười đáp lại cô. Anh thích nhìn cô đứng trên anh, hai tay chống hông. Thích vô cùng. Dù đang bị thương, anh cũng muốn dùng chân lành kéo chân cô xuống và để cô ngã lên người mình... nếu như cô không phải thuộc về người bạn ngu ngốc của anh. Cô đứng hai chân rộng bằng hông và đưa tay ra. “Nếu cô cố giúp tôi đứng dậy, cô sẽ bị ngã theo,” anh nói. “Hãy cố nghĩ một cách hợp lý,” cô đáp. “Cũng giống như dùng ghế hay gốc cây vậy. Tôi sẽ làm điểm tựa, để anh không đặt trọng lượng lên chiếc chân bị thương.” “Cô không thể chịu được trọng lượng của anh đâu,” anh nói. “Ai cũng nói vậy cả.” “Tôi tự đứng dậy được,” anh nói. “Phần đi về phía trước có thể khó khăn hơn. Cô đi gọi người dẫn ngựa đi được không?” “Tôi cũng muốn lắm,” cô nói, “đập một hòn đá vào đầu anh để anh bất tỉnh và kéo anh bằng một chân. Hoặc bằng tay. Hoặc bằng tai. Nhưng việc đó sẽ tốn thời gian.” Cô ngước nhìn lên bầu trời đang tối dần. Cặp kính của cô mất đi vẻ lấp lánh, phản chiếu cảnh u ám phía trên. “Và trời có vẻ sắp mưa. Lại nữa.” Anh cười, mặc cho cơn đau nhói, miệng đầy bùn, và thêm một bộ quần áo bị hỏng. Dồn lực vào một tay, tựa trọng lượng lên chân trái, anh nhích người dậy. Rồi anh cảm thấy biết ơn khi có đôi vai chắc chắn của cô làm điểm tựa, bởi ngay cả khi chút áp lực nhẹ chạm vào chân phải, cơn đau cũng lan ra như lửa. Anh cố không rên la quá nhiều, nhưng không tránh khỏi cau mặt. “Dựa vào tôi như dựa vào cây nạng,” cô nói. “Không sao đâu. Tôi không mỏng manh. Tôi khá là khỏe, nhờ việc kéo thang thư viện và mang sách lên xuống—một số còn nặng như con bò vì mạ vàng.” Cô mạnh hơn anh tưởng, theo nhiều cách. Dù vậy, anh vẫn ghét phải dựa vào cô như một cây nạng. Nhưng anh không có lựa chọn nào khác. Cứ từng bước nhảy bằng chân trái, với sự hỗ trợ từ cô. Dù vậy, anh không thể giữ chân phải hoàn toàn không chạm đất, và mỗi khi nó chạm xuống, cơn đau lại vang lên từ mắt cá. Nhưng phần lý trí trong đầu anh nhắc nhở rằng nếu anh cố gắng quay lại xe bằng sức mình trên mặt đất gồ ghề này, anh sẽ ngã sõng soài. Và rồi phải bò. Và anh không nghĩ rằng việc bò với một bàn chân đau nhói lại dễ chịu hơn việc đi. Thế là, cùng sát cánh bên nhau, họ từ từ tiến qua đoạn đất gồ ghề. Khi di chuyển, ngực cô áp vào tay anh và hông cô sát vào đùi trên của anh. Những cảm giác này dễ dàng truyền đến nơi nhạy cảm của anh, khiến anh xao nhãng khỏi cơn đau và những suy nghĩ như, Giờ phải làm gì tiếp đây? Chỉ còn khoảng năm dặm nữa là đến nơi, anh tự nhủ. Đoạn đường đồng quê cuối cùng gồ ghề này sẽ không phải là trải nghiệm thú vị nhất, nhưng anh sẽ vượt qua. Và sau đó? Anh sẽ nghĩ về sau đó khi đến lúc. Cuối cùng, họ cũng đến được con đường, và anh dám ngước mắt khỏi mặt đất trước mặt. Chú chó săn lông xù đứng trong cánh cửa mở của cỗ xe. “Gâu!” nó sủa. *** Olympia bắt gặp ánh nhìn trong mắt con chó đúng lúc. Khi Cato nhảy ra khỏi cỗ xe, cô kéo Ripley tránh sang một bên. Con chó suýt chút nữa đã húc ngã họ. Ai mà nghĩ được rằng sau cuộc rượt đuổi, nó vẫn còn tràn đầy năng lượng và dường như rất tự hào về bản thân. "Ngồi xuống," Olympia ra lệnh, và con chó ngồi xuống, đuôi vẫy rộn ràng. "Làm thế nào mà chị lại nghĩ là em đã được huấn luyện tốt nhỉ?" cô nói. "Gâu!" "Và im lặng nữa?" "Gâu!" Cô ngước nhìn Ripley, gương mặt anh trông nhợt nhạt hơn trước. "Xin lỗi về việc này," cô nói. "Nhưng tôi nhìn thấy trong mắt nó cái sự thôi thúc muốn nhảy bổ vào người, và tôi không chắc nó có chọn anh để chào hỏi quá mức hay không." "Tôi cũng thấy vậy, con quỷ xảo quyệt này, hành động ngoan ngoãn và hiền lành trước đó," anh nói. "Tôi không nghi ngờ việc nó cư xử tốt trước đó vì bị áp đảo và sốc," cô nói. "Nhưng nó là một con chó, và dường như ta đã quên mất. Điều đó cho tôi biết Bullard không sở hữu nó lâu. Nếu không, nó sẽ nhút nhát hơn nhiều." "Thay vào đó, nó đã trở lại với tính cách tự nhiên của mình, đầy năng lượng đến khó chịu," Ripley nói. Sau khi nhìn con Cato vô tội, vui vẻ một lúc, anh nói, "Cô cứng cáp hơn vẻ ngoài đấy." "Tất cả nhờ những cuốn sách tôi đã kể với anh," cô nói. Cô gọi người dẫn ngựa. Anh ta, nhợt nhạt và lắp bắp, xin lỗi. Anh ta đã lơ đễnh, như Ripley nói, và phản ứng quá muộn. Để công bằng, vị Công tước chấp nhận lời xin lỗi mà không mắng gì thêm. Dù sao cũng không phải lỗi của người dẫn ngựa khi Cato quyết định đi săn. Sau đó, Olympia tập trung tất cả mọi người vào việc đưa người bạn bị thương của cô lên xe. Quá trình này khá lúng túng—một cỗ xe không phải là phương tiện rộng rãi nhất—và phải mất một lúc để giúp anh ngồi ổn định. Cô nghi ngờ rằng kết quả này không thoải mái cho lắm. Anh phải ngồi ngang, kẹt vào một góc. Chân bị thương của anh được kê tạm trên các gói hàng lót vải lanh, nhưng cuối cùng lại đặt lên đầu gối cô một cách không tự nhiên. "Đầu gối của em sẽ đau sau nửa dặm đường," anh nói. "Điều đó chẳng là gì so với cảm giác ở mắt cá anh," cô nói. "Nhưng chúng ta sẽ đi chậm." "Chúng ta sẽ đi như gió," anh nói. "Càng nhanh đến nơi, càng tốt." "Anh sẽ hét như trẻ con cho mà xem." "Tôi không phải trẻ con. Một bàn chân bầm tím không thể làm tôi la hét và buồn nôn." "Đàn ông trưởng thành còn tệ hơn trẻ con khi nói đến việc chịu đau," cô nói. "Và nếu mắt cá chân của anh tệ như tôi nghĩ—và chúng ta không có rượu mạnh hay thậm chí dầu hồi—" "Dầu hồi! Như thể tôi là một tiểu thư mới lớn ngất xỉu vậy!" "Ồ, đó là một hình ảnh thú vị," cô nói. "Công tước xứ Ripley tội lỗi ngất xỉu. Nhưng vì tôi không có gì để làm anh tỉnh lại, tôi phải thúc giục anh can đảm. Và nếu anh buồn nôn—" "Như thể tôi sẽ nôn chỉ vì vài vết bầm." "Nếu anh buồn nôn, hãy làm ơn làm điều đó qua cửa sổ." Trước khi ngài công tước kịp phản bác, cô đã bảo người dẫn ngựa giữ ngựa đi chậm. Cô sử dụng giọng nói thường dùng để dạy dỗ các em trai. Với Ripley, rõ ràng phải "Chiếm Ưu Thế hoặc Bị Chiếm Ưu Thế." Người dẫn ngựa dường như nghe theo cả hai người, nhưng anh ta không "giục ngựa phi nước đại" như Đức Ngài yêu cầu. Yên tâm về điều đó, Olympia tập trung vào việc giúp Ripley quên đi sự khó chịu mà cô biết anh đang cố giấu. Anh làm rất tốt, nhưng cô để ý thấy cách miệng anh mím chặt mỗi khi xe đi qua những đoạn đường gồ ghề hơn. Sau khi đi được khoảng một dặm, anh dịch chuyển vị trí, như thể định đặt chân xuống. "Anh nên giữ nó nâng lên," cô nói. "Tôi biết đó là một tư thế không thoải mái." Ghế ngồi chỉ vừa đủ cho hai người, không còn khoảng trống, và chân anh thì dài. "Nó không nên đặt trên đầu gối của cô," anh nói. "Nặng lắm." "Tôi mặc nhiều lớp quần áo để đệm đầu gối," cô nói. "Nhưng có lẽ anh sẽ thoải mái hơn nếu chúng ta tháo giày ra." "Sau khi chân đã ở trong hang thỏ, trên cánh đồng ướt của nông dân sao?" "Tôi có sáu anh em trai," cô nói. "Dạ dày tôi rất mạnh." Anh bật cười, dù đau đớn, nhưng thế là đủ. Cô đã làm anh vui. Anh để cô tháo giày. Việc này không dễ dàng như tưởng tượng. Bàn chân sưng vù của anh cho thấy mắt cá đã bị bong gân hoặc bầm rất nặng. May mắn thay, đôi giày bằng da mỏng, mềm, không thực tế để lội đồng, nhưng dễ tháo hơn bốt. Dù bàn chân đi tất của anh chỉ có mùi đất ẩm, cô vẫn giả vờ như thể nó là một xác chết thối rữa, bịt mũi, giả bộ buồn nôn, và diễn như thể cô sắp ngất xỉu. Anh thấy điều này vô cùng buồn cười. Đàn ông không bao giờ trưởng thành hoàn toàn. Không phải lúc nào điều này cũng là vấn đề. Đôi khi, việc họ là những sinh vật đơn giản cũng có mặt tích cực. Nhìn theo hướng lạc quan, cô sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc khiến anh giải trí trong vài dặm đường còn lại của chuyến hành trình. Và điều đó thực sự là điều tốt nhất, vì cô cũng cần phân tâm. Sự gần gũi khi giữ bàn chân lớn, đi tất của anh trên đầu gối mình gần như khiến cô cảm thấy đau đớn. *** Một lúc sau Ngài Công tước đã nói với Olympia rằng Điện Camberley là một ngôi nhà cũ kỹ, tồi tàn. Cô hình dung một ngôi biệt thự cổ nằm giữa một khung cảnh đồng quê yên bình. Từ tồi tàn khiến cô nghĩ đến những phần được xây thêm sau này, tạo nên một cấu trúc rải rác và đẹp mắt. Cô sai hoàn toàn. Điện Camberley là một ngôi nhà khổng lồ có từ thời Tudor(1485 – 1603). Từ bên ngoài, dường như nó không thay đổi nhiều kể từ thời đó. Ban đầu, có lẽ nó đã được xây dựng theo dạng tứ giác xung quanh một sân trong. Hiện tại, cấu trúc này mở ra theo hình chữ U đầy cuốn hút, được trang trí quá mức với gạch đất nung và kính màu sơn vẽ vô cùng cầu kỳ. Mặc dù họ không được mong đợi hay mời đến, nhưng dù sao anh cũng là chủ nhân nơi đây. Người gác cổng đã đón họ vào mà không do dự, cũng không nói lời nào về việc gia đình không có ở nhà. Khi cỗ xe tiến vào sân, người—có vẻ là người hầu—đã tụ tập ở các cửa sổ. Một lát sau, một người đàn ông cao, gầy với phong thái uy quyền bước ra từ cửa chính. Dáng vẻ của ông cho thấy ông là quản gia. Các trợ lý của ông ta lẽo đẽo theo sau. Người quản gia, mà sau đó cô biết tên là Tewkes, hành xử đúng chuẩn mực của một người đứng đầu gia nhân: Ông không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi thấy một cỗ xe cũ kỹ, bẩn thỉu trong sân lớn cổ kính, mà hoàn toàn coi đó là điều bình thường, không hề cau mày hay nhướn mày. Rồi, khi người hầu chạy đến mở cửa xe, và mọi người nhìn thấy ai đang ngồi bên trong, lập tức có rất nhiều cúi chào và răm rắp nghe lệnh. Khi các người hầu đỡ Ripley ra khỏi cỗ xe, quai hàm anh siết chặt và mặt anh trắng bệch thêm một chút. Dù Olympia chắc rằng anh không bị gãy mắt cá, cô biết một vết bong gân hay trẹo có thể cực kỳ đau đớn, nhất là lúc đầu. May mắn thay, Điện Camberley được xây dựng trên nền đất bằng phẳng. Anh không cần leo một bậc thang nào để vào trong. Để Tewkes lo liệu con chó, người đánh xe, yên ngựa, chiếc giày bị vứt bỏ và tất cả những thứ khác, Olympia đi theo Ripley và hai người hầu khỏe mạnh mà anh dựa vào, bước vào Đại Sảnh lớn. Tại đây, cô bắt gặp những tấm ốp gỗ sồi nặng nề và những bộ vũ khí được sắp xếp trên tường—điều mà cô đã đoán trước. Nhưng cô tự nhủ rằng mình có thể chiêm ngưỡng những món cổ vật này sau. Hiện tại, cô cần ngăn anh làm trầm trọng thêm chấn thương. Ít nhất anh không phản đối việc được các người hầu giúp đỡ. Đoạn đường, đặc biệt là đoạn cuối trước khi đến lối vào, cực kỳ gồ ghề. Cô tự hỏi nên đưa anh vào đâu. Người chủ nhà vẫn chưa xuất hiện. Cô tự nhủ không nên hoảng loạn. Vì các quý bà không mong đợi khách, họ có thể ở bất cứ đâu. Ví dụ như đi thăm hàng xóm chẳng hạn. Từng việc một. "Giờ thì đi đâu đây?" cô hỏi. "Thư viện," Ripley nói. Đó không phải là căn phòng gần nhất, nhưng anh kiên quyết, không giải thích lý do. Dù sao thì anh cũng chẳng giải thích gì nhiều—chẳng hạn như việc tại sao anh không thể tự đi lại hoặc chỉ đi một chiếc giày. Dưới phẩm giá của một công tước mà giải thích, tất nhiên rồi. Mọi người xung quanh phải tự mình thu thập manh mối và cố gắng tìm hiểu mọi chuyện theo cách tốt nhất có thể. Nhưng cô chẳng phải một công tước, và cô không thấy lý do gì để để mặc gia nhân thì thầm và suy đoán, thay vì biết chính xác họ đang đối mặt với điều gì. Khi các người hầu đã đặt anh xuống ghế sofa và kê chân anh lên một chiếc gối, Tewkes quay trở lại. Cô nói với người quản gia, “Công tước dường như bị bong gân mắt cá chân.” “Bầm tím thôi,” Ripley nói. “Chúng ta sẽ xem xét,” cô nói, cúi xuống để kiểm tra. “Nhưng vì tôi không bắn vào chân anh hoặc làm rơi một hòn đá lớn lên nó, và không ai ở đây biết tôi, tôi không muốn bị nghi ngờ.” “Chuyện như thế này sẽ không làm ai ở đây bận tâm đâu,” anh nói. “Trái lại, họ sẽ thấy buồn cười.” Anh ngước nhìn người quản gia. “Dù quý cô đây có dùng bạo lực với tôi hay không, tôi cần một ly rượu mạnh, Tewkes. Thật lớn.” “Vâng, thưa Đức Ngài.” “Và đá lạnh,” Olympia nói. “Càng sớm càng tốt. Không sưng phồng nghiêm trọng, nhưng rõ ràng là không bình thường. Tốt nhất là bầm tím nghiêm trọng, và chúng ta cần xử lý nhanh chóng. Tôi sẽ cần băng gạc, giấm và một người hầu gái để giúp tôi.” “Và cả thầy lang nữa, thưa cô?” Tewkes hỏi. “Không cần thầy lang,” Ripley nói. “Tôi chỉ bị trẹo mắt cá thôi. Tôi không cần nối xương và cũng chẳng cần bị chích máu hay tẩy ruột vì một sự cố nhỏ ở hang thỏ. Tất cả những gì tôi muốn bây giờ là một ly rượu mạnh thật lớn.” Tewkes rời đi. Olympia đứng lên. “Còn dì của anh đâu?” cô hỏi. “Ở đâu đó quanh đây,” anh đáp. “Anh chắc chứ?” cô hỏi lại. “Bà ấy không rời Điện Camberley trong suốt ba năm qua,” anh nói. “Bà ấy không còn hứng thú giao tiếp kể từ khi bác Charles qua đời. Bà ấy sẽ ở đâu đó quanh đây, nhưng ở đâu đó là một khu vực khá rộng. Có lẽ chúng ta sẽ phải chờ một lúc trước khi bà xuất hiện.” Cô nhìn anh với ánh mắt đầy nghi ngờ. “Bà ấy không thích khách đến, và anh lại đưa tôi đến đây—” “Không hẳn vậy,” anh nói. “Vậy thì là gì?” “Tôi cũng không chắc,” anh nói. “Mẹ và em gái tôi có vẻ hiểu. Alice nói rằng bà giống như một bóng ma—” “Một cái gì?” “Chỉ là cách nói thôi,” anh nói. “Cô sẽ không nổi điên lên với tôi lúc này, đúng không?” “Có thể đấy.” Cô ngồi xuống chiếc ghế gần đó và chắp tay lại. “Ngày hôm nay cảm giác như kéo dài hàng tuần. Tôi nghĩ thần kinh của mình đang cạn kiệt.” Trong một khoảnh khắc, cô hình dung ra một người dì ốm yếu hoặc hấp hối, và nghĩ đến việc phải rời khỏi ngôi nhà này để tìm một nơi trú ẩn khác. Trong khoảnh khắc đó, cô đã ước gì mình đứng trước vị mục sư như đã hứa. Chỉ mới sáng nay thôi sao? Cô muốn vùi mặt vào tay rồi khóc, nhưng không thể. Cô phải chăm sóc vết thương của Ripley trước, trước khi anh làm nó trở nên tồi tệ hơn. Nam giới có một xu hướng đáng sợ là làm trầm trọng thêm chấn thương của họ vì một niềm tin kỳ bí rằng, nếu họ nói không sao, thì không sao, và họ có thể làm điều họ muốn. “Không có gì phải lo lắng đâu,” anh nói. “Dì Julia là một người thân tuyệt vời.” Trước khi Olympia kịp hỏi thêm câu nào, Tewkes quay lại, mang theo hai người hầu, một cô hầu gái khỏe mạnh tên là Mary, chai rượu, và các vật dụng khác mà Olympia yêu cầu. “Tewkes,” Ripley nói. “Dì của ta đâu?” “Ở nhà mồ, thưa Đức Ngài. Joseph đã đi báo tin về sự có mặt của ngài.” “Cô nghe rồi đấy,” Ripley nói với Olympia. “Ở nhà mồ. Tôi đã bảo cô là bà ấy ở đâu đó quanh đây mà.” *** Vậy là dì Julia vẫn chưa khá hơn. Tuy vậy, đây vẫn là Điện Camberley, và dù có vẻ như bị ám, nó vẫn là nơi trú ẩn mà Ripley luôn nhớ đến: mọi thứ trong nhà đều ngăn nắp, người hầu làm việc điềm tĩnh, và tất cả đều sạch sẽ, gọn gàng, được chăm chút kỹ lưỡng. Hoàn toàn trái ngược, nói ngắn gọn, với ngôi nhà mà anh đã trải qua phần lớn thời niên thiếu của mình. Anh quan sát Tiểu thư Olympia chỉ đạo người hầu mang một chiếc bàn nhỏ đến ghế sofa. Ở đó, cô bảo Mary sắp xếp các dải vải, bát, một xô đá, một xô nước, và một bình nhỏ đựng giấm mà như đã yêu cầu. Cô bảo họ chuyển ghế của mình đến gần chân anh hơn. Rồi cô cho tất cả người hầu ra khỏi phòng, ngoại trừ Mary. Khi cánh cửa khép lại sau lưng họ, Ripley nói, “Cô không cần một đám người hầu nhảy vào làm theo lệnh của mình sao?” “Tốt nhất là đừng để bọn họ thấy anh khóc,” cô nói. “Và cố gắng đừng hét to quá. Tôi không muốn họ lao vào cứu anh và làm mọi thứ tệ hơn đâu.” Mary khúc khích cười. “Đừng lo,” anh nói với cô hầu gái. “Tôi sẽ âm thầm khóc trong ly rượu của mình.” Anh nhấp một ngụm—và suýt sặc khi Tiểu thư Olympia kéo ống quần của anh lên, tay cô—bàn tay trần của cô—chạm vào da anh trong thoáng chốc, và cảm giác như thể cô vừa áp một cỗ máy điện vào người anh. Anh không nhảy khỏi ghế sofa, nhưng hẳn là có chút giật mình, bởi cô ngước lên nhìn anh. “Xin lỗi,” cô nói. “Có đau không?” “À... Không. Chỉ là... nghĩ đến chuyện gì đó.” “Tôi sẽ cố gắng không làm anh đau,” cô nói. “Nhưng tôi e rằng khu vực này sẽ rất nhạy cảm.” Thật ra thì, không chỉ khu vực đó. “Đừng lo,” anh nói. “Tôi từng chịu đựng những thứ tồi tệ hơn rồi.” Anh tự nhủ phải thư giãn và tận hưởng. Với tình hình này, đây có lẽ là sự chăm sóc duy nhất từ một người phụ nữ mà anh nhận được trong đêm nay. Nhưng khi thấy tay cô di chuyển đến dải băng ở đầu gối, anh nói, “Tôi có thể tự làm.” “Thật sao?” cô nói. “Anh biết cách tháo băng của mình à?” “Và tự kéo tất lên nữa,” anh nói. Và có thể tự vá chúng, anh suýt nói thêm. “Uống rượu của anh đi,” cô nói. “Tốt hơn là nên để tôi làm việc này.” “Tôi không chắc điều này có phù hợp không,” anh nói. “Không phải tôi còn nhớ rõ điều gì là phù hợp hay không.” “Không có gì phải sợ,” cô nói. “Sợ!” “Tôi đã làm điều này không biết bao nhiêu lần. Nếu không phải cho anh em tôi thì là cho các anh họ. Hoặc bạn của họ. Anh an toàn với tôi hơn với hầu hết các bác sĩ.” “Điều đó tôi không nghi ngờ,” anh nói. “Vậy thì hãy can đảm lên,” cô nói. “Tôi sắp tháo băng. Cố gắng đừng có khóc.” Nhẹ nhàng, cô tháo dải băng. Toàn thân anh căng cứng. Cô đặt dải băng xuống ghế sofa. Anh nhìn chằm chằm vào nó và nhấp một ngụm rượu. Cô chạm vào chiếc tất của anh. Anh cố gắng không phát ra tiếng rên. Từ từ, nhẹ nhàng, cô kéo chiếc tất xuống bắp chân anh. Căn phòng trở nên nóng bức, và anh cố nghĩ đến những thứ lạnh lẽo. Như nhà mồ. Và Ashmont. Phải, Ashmont, người mà cô thuộc về. Ashmont, luôn vui vẻ, nói về việc kết hôn. Từ từ, nhẹ nhàng, cô kéo chiếc tất xuống chân anh. Tim Ripley đập nhanh hơn, và không cách nào ngăn được những cảm xúc đang trỗi dậy trong anh. Anh là một người đàn ông, và một người phụ nữ đang chạm vào làn da trần của anh. Một người phụ nữ đang chạm vào anh, cởi đồ cho anh. Đây là điều anh biết. Phần còn lại—những nỗ lực của anh để tự lý trí và không làm kẻ ngốc—chỉ là tiếng ồn, như tiếng ồn của đường phố London. Anh uống rượu. Cô tháo chiếc tất ra khỏi chân anh và đưa nó cho Mary. Anh nhận ra hơi thở mình đang dồn dập, như tiếng gió rít qua thư viện. Cô, với sự ngây thơ của mình, hoàn toàn không hay biết cô đang làm gì với anh. Nếu có thể cười, anh đã cười. Cô thật nghiêm túc, tập trung hoàn toàn vào việc mình đang làm. Anh nhìn cô làm việc, đôi mày hơi nhíu lại phía trên cặp kính, đôi môi cô cắn nhẹ khi cô pha hỗn hợp nước đá và giấm. Cô nhúng vải vào hỗn hợp đó. “Nó sẽ rất lạnh,” cô nói. “Hãy chuẩn bị nhé.” Lạnh, đúng vậy. Anh cần cái lạnh. Cô quấn dải băng lạnh quanh mắt cá chân anh. Và anh suýt nhảy khỏi ghế sofa, rồi thốt ra một từ mà ngay cả anh cũng biết không được nói trước mặt phụ nữ. “Vâng, tôi biết,” cô nói. “Nhưng chỉ một lát nữa thôi nó sẽ dễ chịu hơn.” “Đúng vậy,” anh nghiến răng nói. Nhưng rồi cảm giác dễ chịu hơn, theo nhiều cách hơn cô ấy có thể biết. Cú sốc lạnh làm tê liệt không chỉ bàn chân của anh mà cả những cảm giác khó chịu trước đó. Với sự giúp đỡ của Mary, cô tiếp tục công việc của mình, làm ướt thêm các dải vải và quấn chúng quanh bàn chân anh. Anh tự nhủ rằng sự khổ sở của mình hoàn toàn là lỗi của anh. Lẽ ra anh nên khăng khăng để một người hầu nam nào đó chăm sóc. Nhưng Tiểu thư Olympia độc đoán đến mức phương án hợp lý ấy không hề lóe lên trong đầu anh. Và anh tự nhủ, đúng là sự độc đoán ấy chính xác là thứ mà Ashmont cần. Và phải, có lẽ Ripley cảm thấy một chút hối tiếc về cuộc đời phung phí của mình, điều đã khiến anh bỏ lỡ cơ hội gặp những cô gái thú vị như vậy. Và phải, có lẽ anh cũng chẳng phiền lòng nếu bị ép vào kỷ luật bởi một người phụ nữ độc tài đeo kính. Nhưng chủ yếu, anh cảm thấy bị chặn đứng từ mọi phía. Những cử chỉ chăm sóc của cô khiến anh bối rối, mà không có cách nào để giải tỏa sự bối rối ấy. Đêm nay, anh không có cơ hội giải quyết sự cấm dục của mình, cũng như không thể xử lý chuyện với Ashmont. Khả năng Ashmont gây rối là rất cao. Chỉ có thể hy vọng cậu ta đã uống đến bất tỉnh trước khi kịp gây gổ với thành viên nào trong gia đình cô. Giọng nói của cô kéo anh ra khỏi địa ngục riêng mà anh đang dựng nên. “Tôi biết nhiều người trong ngành y khuyên dùng thuốc bôi hoặc đỉa, hoặc cả hai,” cô đang nói với Mary. “Nhưng các thủy thủ lại tin vào phương pháp lạnh và ướt. Họ sẽ giữ chỗ bị bong gân dưới máy bơm khi con tàu được bơm nước, vào buổi sáng và buổi tối—và cô biết đấy, thủy thủ phải khỏe mạnh trở lại càng nhanh càng tốt. Một số bác sĩ cũng khuyến nghị phương pháp tương tự. Ít nhất thì không phải đang là mùa đông. Khi cú sốc giảm đi, cảm giác mát lạnh cũng không hẳn là khó chịu.” Cô ngước lên nhìn anh, đôi chân mày cau lại lo lắng. “Tôi có quấn băng quá chặt không?” “Không,” anh nói. “Anh đang cau có,” cô nói. “Đúng vậy,” anh đáp. “Tôi có một kế hoạch. Tôi đã nói rồi, phải không? Tôi sẽ đưa cô đến đây, sau đó quay lại để xử lý Ashmont và tất cả mọi người khác.” “Anh không thể đi đâu được,” cô nói. “Điều cần thiết là phải nghỉ ngơi và giữ cho bàn chân được nâng cao.” “Trời ơi, Ripley, lại gây chuyện gì nữa đây?” một giọng nói quen thuộc vang lên từ khung cửa. “Vừa về đến Anh đã có rắc rối rồi à?”
Chương 9 Dịch: thuylinhh Dì Julia dừng lại một lúc trên ngưỡng cửa, hai tay chống hông, mang vẻ mặt nghiêm khắc mà khi còn nhỏ đã từng khiến anh sợ hãi. Ngay cả bây giờ, nó vẫn làm anh thấy không thoải mái. Bề ngoài, dì trông vô hại, làn da trắng, khuôn mặt dịu dàng, và dù có chiều cao nhỉnh hơn trung bình, cũng không quá ấn tượng. Tuy nhiên, dì có tài biến mình trông trở nên uy quyền hơn mức trung bình. Dì đã dám đối mặt với người cha "không đội trời chung" của anh khi rất ít người dám hoặc có thể làm vậy. Dẫu vậy, trong mắt Ripley, dì dường như chỉ là cái bóng mờ nhạt của chính mình–cái bóng mà Alice từng viết về–và không chỉ vì bộ váy xám trầm với tay áo hẹp mà hợp lý nhưng lỗi thời. Vẫn cau có, dì tiến về phía anh. Dì không đánh vào tai anh như anh nghĩ, mà xoa tóc anh như thể anh vẫn còn là một cậu bé, trước khi chuyển sự chú ý sang Tiểu thư Olympia. “Và đây, ta đoán, là quý cô đã bắn cháu?” Dì nhíu mày. “Trời ơi, Ripley, đây là cô dâu của Ashmont. Cháu nghĩ cái gì vậy?” “Cực kỳ thông minh, đúng là dì của cháu,” anh nói với Tiểu thư Olympia. “Biết mọi thứ về mọi người. Cháu đã nói thế bao giờ chưa?” “Cháu chưa bao giờ giỏi trong việc nịnh bợ,” dì anh nói. “Vụng về lắm.” “Cháu công nhận. Dì ơi, để cháu giới thiệu Tiểu thư Olympia Hightower.” Dì anh đảo mắt. “Không cần. Ta đã gặp Tiểu thư Olympia khi con bé ra mắt tại cung điện. Dù có thế nào, ta vẫn nhận ra con bé ở bất kỳ đâu. Nhưng ta đã hy vọng hôm nay mắt mình nhìn nhầm. Thật ngớ ngẩn. Ta ước bác cháu có mặt ở đây. Trong tất cả những việc ngu ngốc cháu từng làm, việc này vượt xa mọi lần, rất xa.” “Tiểu thư Olympia, có vẻ như cô quen với Phu nhân Charles Ancaster, dì yêu quý của tôi—” “Ta từ mặt cháu từ giờ phút này.” “Dì Julia, đừng giận. Dì không thấy cháu bị thương sao?” Dì anh nhìn anh với ánh mắt có thể khiến người đàn ông dũng cảm nhất cũng phải co rúm. Nhưng vì không phải một người đàn ông dũng cảm hơn, anh chịu đựng ánh nhìn ấy như cách anh từng chịu đựng vô số ánh mắt không tán thành, dù ý kiến của dì anh quan trọng hơn bất kỳ ai khác. “Công bằng mà nói, Phu nhân Charles,” Olympia nói, “chính cháu là người đã làm điều ngu ngốc, và công tước đã là hiệp sĩ của tôi trong—” “Đừng có nói vậy,” anh ngắt lời. “Công tước đã cố cứu cháu khỏi chính mình. Ngài ấy thậm chí còn cố thuyết phục cháu bằng lý lẽ.” Dì Julia nhìn chằm chằm vào người bạn đồng hành của anh một lúc. “Hugh cố thuyết phục cháu bằng lý lẽ sao? Cháu trai của ta ư? Gã to xác vô dụng này? Điều đó thì ta thật sự muốn chứng kiến.” “Cháu không chắc cô ấy làm điều ngu ngốc,” Ripley nói. “Và khi cô ấy không chịu từ bỏ, tất nhiên cháu phải đi cùng.” “Điều đó không cần nói cũng hiểu,” dì anh nói. “Rồi sao nữa? Cháu khiến con bé nổi giận à?” Dì cúi xuống kiểm tra chân anh. “Làm tốt lắm, Tiểu thư Olympia. Nhưng cháu không nghĩ đến việc cưa luôn cái chân đi à?” “Đừng gợi ý ý tưởng vào đầu cô ấy,” Ripley nói. “Cháu sẽ cần tất cả các chi để giải quyết chuyện này. Mà cháu định làm tối nay. Tuy nhiên, Số phận đã có ý khác.” “Số phận, phải rồi. Cháu không nhìn đường chứ gì?” “Cháu không định bước vào hố thỏ, cháu thừa nhận.” Lúc ấy, anh đang mải nhìn Tiểu thư Olympia trong bộ váy lộng lẫy – vừa kiêu kỳ, vừa nữ tính – lại còn huýt sáo như đàn ông. “Chúng cháu đang cố đuổi theo con chó chạy trốn, con chó đã đánh lừa chúng cháu rằng nó được huấn luyện đàng hoàng,” Tiểu thư Olympia nói. “Cháu đã bảo Tewkes đưa nó vào chuồng ngựa. Cháu không muốn đưa con chó lạ vào nhà khi cháu không chắc về cách cư xử của nó.” “Một cô dâu bỏ trốn,” dì anh nói. “Một con chó chạy trốn. Một đứa cháu trai què quặt. Có vẻ buổi tối hôm nay sẽ không nhàm chán. Nào, Tiểu thư Olympia. Chắc cháu đang khao khát thoát khỏi cháu trai ta, chưa kể muốn có những thứ mà một quý cô cần khi thấy mình là một người lạ nơi đất khách, không có hành lý, người hầu, hay bất cứ thứ gì cần thiết cho sự thoải mái của mình.” “Chúng cháu đã vội vã ra đi,” Ripley nói. “Không có thời gian để—” “Thật đấy, Hugh, ta chưa đến mức già lú lẫn. Cháu không cần nhắc điều hiển nhiên như vậy. Người hầu sẽ chuẩn bị giường trong phòng làm việc của bác cháu cho cháu. Nếu ta bắt gặp cháu cố trèo lên cầu thang, ta sẽ bắn cháu.” Dì đang đưa Tiểu thư Olympia đi thì anh nhớ ra. “À, em gái cháu đâu rồi nhỉ?” “Alice?” “Cháu chỉ có một đứa em gái, theo lần cuối cùng cháu kiểm tra.” Dì Julia nhún vai. “Con bé ở đây một lúc, và ta rất vui khi gặp nó, nhưng ở nơi ảm đạm này thì có gì để làm chứ? Ta đã gửi nó cùng với Georgiana tới buổi tiệc nhà của gia đình Drakeley. Ý ta là cháu gái út của ta,” dì giải thích với Tiểu thư Olympia. Quay lại phía Ripley, dì nói: “Alice sẽ không chán ở đó đâu. Cháu biết đấy, mấy cậu con trai nhà Drakeley mê nó lắm.” "Quá mức cần thiết, cháu luôn nghĩ thế," anh nói. "Đó là vấn đề của chồng nó," dì anh đáp. Rồi dì bước ra ngoài, mang theo Tiểu thư Olympia, để lại Ripley băn khoăn tại sao Alice không trở về London với chồng mình, mà lại đi về hướng ngược lại, nơi các chàng trai say mê nó đang chờ. *** Sau khi giúp Olympia rửa sạch bụi đường, Pickard, hầu gái của Phu nhân Charles, đi tìm một bộ đồ thích hợp để vị khách mặc trong bữa tối. Điều này để lại hai người tự do thưởng thức trà mà Phu nhân Charles đã gọi, “như một liệu pháp phục hồi sau những thử thách của cô.” Olympia đã nhận ra bà ngay khi vừa nhìn thấy, nhưng không nghĩ bà sẽ nhớ đến mình giữa vô số các tiểu thư mới ra mắt–còn là từ bảy năm trước. Hơn nữa, Phu nhân Charles luôn xuất hiện trong các vòng tròn ngoại giao và chính trị, trong khi mẹ và cha của Olympia lại gắn bó với những người đam mê thể thao. Hai gia đình hiếm khi gặp nhau. Phu nhân Charles trạc tuổi mẹ của Olympia, và giống như Mẹ, bà vẫn giữ được nhan sắc. Nhưng sự tương đồng chỉ dừng lại ở đó. Dì của Ripley hoàn toàn khác biệt về phong thái. Bà toát lên vẻ can đảm, tổ chức cực kỳ ngăn nắp và gọn gàng. Một người phụ nữ mạnh mẽ, cả về tính cách lẫn sự tự tin. Và, buồn bã nữa. Chiếc váy màu xám trầm lặng đã nói lên mọi chuyện, ngay cả khi người ta không nhìn thấy nỗi buồn ẩn hiện trong đôi mắt màu hạt dẻ của bà. Quả là điển hình của Ripley, Olympia nghĩ, khi anh vô tâm đưa một người lạ đến đây, xâm phạm nỗi đau buồn của bà. “Chắc cháu sẽ thắc mắc tại sao ta lại lãng phí hơi sức để mắng cháu mình,” Phu nhân Charles nói sau khi rót trà. “Nhưng ai đó phải làm thế, và thật gắt gao, dù nó chẳng nghe đâu. Dẫu vậy, vì nó đủ khôn ngoan để đưa cháu tới đây, người ta phải thừa nhận nó không hoàn toàn mất hết lý trí. Thôi được rồi. Cháu là trường hợp đào tẩu đầu tiên của ta. Ta đã tự hỏi làm sao Ashmont thuyết phục được cháu, một cô gái sáng suốt như thế. Nhưng còn Alice, lấy tên vô lại Blackwood. Nó có đủ lý trí để bỏ rơi hắn ngay tại lễ đường không? Và cháu thấy đấy, ta có hai quan điểm. Ta đồng cảm với cảm xúc đã khiến cháu phải hành động. Nhưng mặt khác, cô gái thân mến, chuyện này sẽ khá rắc rối để giải quyết đấy.” “Vâng, cháu b-biết.” Rồi, với sự hổ thẹn, Olympia khóc như cô đã muốn làm trước đó, trong thư viện. Phu nhân Charles đứng dậy nhanh chóng, đặt tay lên vai Olympia an ủi và nói, “Đàn ông,” với đúng giọng điệu khiến Olympia vừa cười vừa khóc cùng lúc, trông cô như một kẻ ngốc hoặc người bị kích động. Bà chủ nhà của cô vừa ngồi xuống chưa lâu thì kẻ ngốc-kích động bắt đầu kể câu chuyện của mình, dẫu chẳng mạch lạc gì mấy, nhưng bỏ qua những phần liên quan đến vị công tước trần truồng và những nụ hôn vượt quá mức thân thiện trên cỗ xe. “À, ta không biết rằng rượu brandy lại có liên quan,” Phu nhân Charles nói khi nghe xong. “Điều đó giải thích rất n-nhiều.” Môi bà run rẩy, và trong một khoảnh khắc, Olympia tưởng rằng bà cũng sẽ khóc, có lẽ nhớ lại ngày cưới của chính mình. Thay vào đó, bà bật cười, và cười rất to, và khi bà cười, đám mây dường như bao trùm quanh bà biến mất, và bầu không khí trở nên nhẹ nhàng và tươi sáng hơn. Lúc đó, Olympia hiểu bằng cả trái tim lẫn lý trí tại sao người dì này lại đặc biệt với Ripley đến vậy. Nhưng tiếng cười nhanh chóng lắng xuống, và bà chủ nhà nói, “Việc đầu tiên chúng ta cần làm là khiến cha mẹ cháu yên tâm.” “Cháu đáng lẽ phải tự gửi một bức thư, nhưng lúc đầu, tất cả những gì cháu nghĩ được là trốn thoát. Và sau đó cháu không biết phải nói gì. Cháu hầu như không biết chính suy nghĩ của chính mình.” “Như ta đã nói, rượu brandy giải thích rất nhiều điều. Thêm nữa, chúng ta phải cân nhắc đến bạn đồng hành của cháu. Không phải kiểu người góp phần giúp đầu óc sáng suốt.” Phu nhân Charles nhắm mắt lại trong giây lát, rồi thở dài và mở mắt ra. “Ba người chúng nó. Thật sự. Người ta có thể thông cảm, xét đến việc cha chúng là ai. Nhưng cô gái thân mến, khi một người đàn ông bước sang tuổi hai mươi chín, thứ người ta mong đợi là sự trưởng thành.” Olympia chẳng biết gì về cha của họ. Họ đều đã mất khi cô còn học trong trường. Dẫu Phu nhân Charles khiến cô cảm thấy tò mò, nhưng thật khiếm nhã nếu hỏi chi tiết. “Cháu thấy công tước xử lý mọi việc khá bình tĩnh và logic nhất có thể trong hoàn cảnh đó,” cô nói. “Hành vi của cháu thật vô lý. Cháu cứ thay đổi ý định, ngã xuống sông, rồi còn ăn cắp con chó–và ngài ấy vẫn bình thản trước tất cả.” “Tất nhiên rồi,” chủ nhà đáp. “Chuyện đó chẳng là gì so với những gì ba người chúng nó từng làm. Đừng tự trách mình nữa. Khi đàn ông làm những việc giống cháu, ai nấy đều thấy thú vị.” “Nhưng cháu không phải đàn ông! Bác biết không, tranh biếm họa về cháu sẽ treo đầy trong các cửa hiệu in, và tên cháu–trong tất cả các tên–sẽ xuất hiện trên tờ Foxe’s Morning Spectacle. Và chẳng ai nói, ‘Đàn ông thì vẫn là đàn ông’ – bởi vì cháu không phải họ!” “Đúng là thật không công bằng,” Phu nhân Charles nói. “Nhưng hãy để ta lo. Ta sẽ viết thư cho cha mẹ cháu, nói rằng Ripley đã đưa cháu thẳng đến đây. Tốt nhất họ nên nghĩ vậy. Cháu có thể tin tưởng việc ta sẽ tìm cách trình bày mọi chuyện sao cho không khiến họ lo lắng. Ta đã có nhiều kinh nghiệm, ta hứa với cháu. Bức thư sẽ được gửi đi ngay tối nay, qua đường tốc hành. Họ sẽ nhận được nó chỉ trong vài giờ và sẽ thấy yên tâm.” “Cháu muốn nghĩ vậy, nhưng cháu rất nghi ngờ điều đó. Làm sao họ đối mặt với bạn bè của mình, cháu không thể tưởng tượng được–và cháu ước mình đã nghĩ đến họ nhiều hơn trước khi trèo qua cửa sổ.” “Họ sẽ vượt qua chuyện này nếu cháu kết hôn với một công tước,” Phu nhân Charles nói. “Cả thế giới sẽ vượt qua nó.” “Điều đó không có khả năng xảy ra vào lúc này. Công tước xứ Ashmont—” “Cần cháu,” bà nói. “Điều đó quá rõ ràng.” “Không phải với cháu,” Olympia nói. “Đó là vì cháu chưa hiểu cậu ta rõ như một số người chúng ta,” Phu nhân Charles nói. “Ta đã nghe về cuộc gặp gỡ của hai người gần khách sạn Clarendon. Ẩn dụ đó với ta rất rõ ràng. Ashmont đang tuyệt vọng cần được kéo lại khỏi bờ vực. Như hầu hết đàn ông, cậu ta có thể cảm thấy mình không hạnh phúc, nhưng cũng như hầu hết đàn ông, cậu ta không chịu tìm hiểu cảm xúc của mình. Kết quả là, cậu ta không nhận ra vấn đề nằm ở đâu. Nhưng ở mức độ nào đó, cậu ta hẳn đã mệt mỏi với cuộc sống mình đang sống và sự hỗn loạn mình tạo ra.” Bà dừng lại một chút. “Ta tự hỏi liệu Ripley có mệt mỏi–với Ashmont hay với kiểu sống đó–và liệu điều đó có phải điều khiến nó ra nước ngoài mà không có bạn bè đi cùng hay không.” Olympia không thấy người đàn ông nào có vẻ mệt mỏi với bất cứ điều gì, nhưng rồi cô cũng không hiểu họ rõ như bà. “Nhưng điều đó chẳng liên quan,” Phu nhân Charles tiếp tục, giọng nói trở nên nhanh hơn. “Điều quan trọng là, cháu đã không chịu đựng mấy trò vô nghĩa của Ashmont, và điều đó khiến cậu ta chú ý đến cháu” “Anh ta quyết định cưới cháu vì tôi bắt anh ta về nhà thay giày sao?” Olympia hỏi. “Phong thái của cháu khiến cậu ta để ý. Sau đó...,” bà dừng lại suy nghĩ một lúc. “Ta nghi ngờ mạnh mẽ rằng có ai đó đã nói với cậu ta rằng cậu ta không có chút cơ hội nào để chinh phục được cháu. Đó là điều ta sẽ làm nếu Ashmont nói với ta về một cô gái mà ta thích. Cậu ta cạnh tranh đến mức thái quá. Cậu ta sẽ sớm nhận ra rằng mình phải nỗ lực để giành được sự tôn trọng và tình yêu của cháu. Và khi điều đó xảy ra—” “Nếu thôi,” Olympia không thể không ngắt lời. Cô đã chăm sóc năm đứa em trai, và cô không mong chờ phải làm bảo mẫu cho một người đàn ông trưởng thành. “Không phải nếu,” Phu nhân Charles nói. “Mà là khi nào. Ta biết cậu ta cũng rõ như biết cháu ta và tên ngốc kia. Nơi một người đến, hai người kia cũng sẽ theo. Chúng đã không rời nhau kể từ khi gặp nhau ở Eton. Ta không bao giờ nghĩ Ripley sẽ ra nước ngoài mà không có họ, và còn ở lại đó cả năm trời. Nhưng như ta đã nói, có thể nó đã mệt mỏi với kiểu sống đó. Và ta thực sự nghĩ rằng nó đã trưởng thành hơn–không nhiều, tất nhiên–nhưng đủ để làm những gì nó có thể... ừm, không làm mọi việc tệ hơn, như hôm nay chẳng hạn.” Mọi việc lẽ ra sẽ tốt hơn nếu Olympia không nhìn thấy anh khỏa thân. Và nếu anh không hôn cô theo cách không thân thiện đó. Nhưng anh vốn dĩ hoang dã và luôn như vậy. Một người thích đùa nghịch cũng như một kẻ phóng đãng. Vấn đề là, cô đã tiếp xúc với nhiều điều không đứng đắn hơn mức cô quen thuộc, và nó xảy ra chỉ trong vài giờ, khiến cô bị mất thăng bằng. Khi không say hay mất thăng bằng, cô là một cô gái thực tế. Đó là lý do cô đồng ý cưới Ashmont, một người không đứng đắn chẳng kém. Bỏ qua những khiếm khuyết của anh ta, nếu cô có cơ hội thứ hai, cô sẽ là một kẻ ngốc lớn nếu không nắm lấy, bởi sau vụ bê bối này, đó sẽ là cơ hội cuối cùng của cô, chắc chắn là như vậy. Nếu dì Delia ở nhà để đón cô, vụ bê bối sẽ được giảm nhẹ. Giờ đây, danh tiếng của Olympia hẳn đã bị hủy hoại hoàn toàn. Ripley thì ngược lại, nhưng anh là đàn ông–và là một công tước. Anh Không hiểu phụ nữ có thể bị đánh giá nhanh chóng và khắc nghiệt như thế nào. Cô đã đi cả ngày lẫn đêm trong một chiếc xe kín cùng một trong Những Kẻ Bất Hảo. Sớm thôi, cả thế giới sẽ biết về những gì xảy ra trên đường đi. Cô đang chìm vào tuyệt vọng, hình ảnh những bức tranh biếm họa kinh khủng tràn ngập trong tâm trí, thì Phu nhân Charles cất lời. “Nghe ta nói này,” phu nhân nói. “Đừng đánh giá thấp Ashmont. Có thể cần chút thời gian, nhưng khi cậu ta giành được sự tôn trọng và tình yêu của cháu, cháu sẽ thấy hạnh phúc vì đã cưới cậu ta. Ta nói điều này từ kinh nghiệm bản thân. Charles không phải là lựa chọn đầu tiên. Thú thật, thực tế là ta đã cưới anh ấy trong sự cam chịu, nếu không muốn nói là tuyệt vọng. Nhưng anh ấy quyết tâm làm ta hạnh phúc, và minh chứng cho cuộc sống hôn nhân hạnh phúc của ta chính là nỗi buồn góa bụa hiện tại. Tuy nhiên, thời gian sẽ chữa lành mọi vết thương,” bà nói thêm với vẻ lạc quan hơn. “Ai cũng nói thế, và ta tin chắc mình sẽ tỉnh táo lại vào một lúc nào đó. Nhưng chúng ta có thể nói chuyện thêm sau, nếu cháu muốn. Giờ thì ta khuyên cháu nên cố gắng nghỉ ngơi đi.” Bà đi ra ngoài, và một người hầu bước vào thu dọn đồ trà. Phu nhân Charles khiến Olympia phải suy nghĩ rất nhiều, như thể cô chưa đủ bận tâm. Đầu óc cô quay cuồng, chắc chắn rằng mình chẳng thể nào nghỉ ngơi được. Thay vào đó, cô bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, cố gắng sắp xếp và hệ thống lại mọi chuyện đã xảy ra với mình hôm nay. Cô không nhớ mình đã nằm xuống lúc nào, và rất ngạc nhiên khi Pickard đánh thức cô dậy để thay đồ cho bữa tối. *** Mặc đồ của bác mình vào bữa tối, dù không vừa, nhưng Ripley vẫn thể hiện phong thái như thường, giống như cách anh đã làm với những bộ đồ mượn ở Putney. Anh trông vẫn rất quý tộc và cuốn hút một cách đáng lo ngại. Sau một hồi tranh luận, Olympia thuyết phục được anh gác chân lên ghế. Anh làm theo với nhiều lời cằn nhằn. Nhưng một lúc sau, anh quên mất sự khó chịu đó, ngừng phàn nàn và trở nên vui vẻ hơn. Anh chủ yếu kể về những chuyến du ngoạn ở lục địa châu Âu, và anh là một người kể chuyện rất lôi cuốn, giống như những nhà văn lãng mạn mà anh yêu thích. Anh khiến cả hai người phụ nữ cười không ngớt–và trông anh thật nghịch ngợm, hài lòng với bản thân vì đã làm được điều đó. Điều này thật tốt, vì nó giúp Olympia tạm quên đi gia đình, vụ bê bối và Ashmont. Nhưng cũng thật tệ, vì cô có thể ngồi nghe anh nói suốt đêm. Đã bao lâu rồi cô mới muốn lắng nghe một người đàn ông không nói về sách vở? Tại sao lại phải là anh–trong số tất cả những người đàn ông trên thế giới này? Dù vậy, cô vẫn tận hưởng chút bình yên thoáng qua khỏi những hỗn loạn trong tâm trí mình. Với người hầu ra vào phòng ăn, những chuyện riêng tư đành để sau bữa tối. Chúng không phải chờ lâu. Sau bữa tối, Phu nhân Charles và các vị khách di chuyển sang thư viện. Ngay khi người hầu sắp xếp cho công tước nằm thoải mái trên sofa, hoàn thành việc chỉnh sửa mọi thứ và rời đi, Phu nhân Charles quay sang cháu trai mình. “Cháu có kế hoạch nào không?” bà chất vấn. “Hay chỉ đến đây với hy vọng ta sẽ thu xếp mọi chuyện?” “Mọi việc phức tạp lắm ạ,” Ripley nói. “Tiểu thư Olympia đã kể cho ta nghe–không phải mọi thứ, vì ta biết cháu là người như nào–nhưng có những phần liên quan,” dì của anh nói. Mặt đỏ bừng, Olympia rời ghế ngồi và đi đến xem một dãy sách ngang tầm mắt. Không phải vì cô muốn thấy chúng là sách gì. Cô đang bận tự nhủ rằng Phu nhân Charles chắc chắn không thể tưởng tượng ra cảnh một công tước khỏa thân là một phần trong hành trình mà vị khách của bà không đề cập đến. “Kế hoạch của cháu là để Tiểu thư Olympia an toàn ở đây với dì và Alice,” Ripley nói. “Sau đó, cháu sẽ quay về London và khuyến khích Ashmont thử lại lần nữa.” “Thật sao?” Phu nhân Charles hỏi. “Sao cháu lại nghĩ rằng cậu ta sẽ yên ổn ở London chứ hả? Điều đó không giống cậu ta chút nào. Khả năng cao là cậu ta đang truy lùng cháu đấy.” “Đó là phần phức tạp,” Ripley nói. “Lúc Tiểu thư Olympia và cháu rời đi, cậu ta đang say bí tỉ. Khi cậu ta không đuổi kịp chúng cháu ở Putney, cháu đoán rằng cậu ta lại tiếp tục uống, và Blackwood sẽ phải đưa cậu ta lên giường ngủ–như mọi lần. Vì Ashmont vẫn chưa xuất hiện, khả năng đó có vẻ đúng. Nhưng nếu cậu ta xuất hiện bây giờ, cháu sẽ xử lý. Cứ để cháu lo mọi chuyện ạ.” Olympia quay lại từ kệ sách. “Để anh lo! Tôi mới là người bỏ trốn. Nếu anh ta có đến–mà tôi rất nghi ngờ điều đó–thì tôi mới là người nên đối mặt.” “Một ý kiến không tồi. Khi cậu ta đến, hãy tấn công trước và bắt cậu ta tự vệ,” Ripley nói. “Nếu anh ta đến,” cô nói. “Cậu ta sẽ đến,” Ripley đáp. “Tôi chỉ đặt cược rằng cậu ta sẽ không đến hôm nay. Dù vậy, chúng ta nên tính đến khả năng đó, dù rất nhỏ, rằng Blackwood sẽ tỉnh táo lại và giúp cậu ta tìm ra chúng ta. Chúng ta đâu phải hoàn toàn ẩn mình. Vấn đề là, tôi muốn nói chuyện với cậu ta trước khi cậu ta đến đây để rước cô dâu đi.” “Vì điều đó sẽ không xảy ra, cháu nên có kế hoạch dự phòng,” Phu nhân Charles nói. “Ví dụ, nếu hai kẻ vô lại đó xuất hiện lúc ba giờ sáng.” “Bác cứ nghĩ anh ta muốn đưa cháu đi,” Olympia nói. “Nếu là anh ta, cháu sẽ chỉ đến để nói ‘Tốt nhất nên như thế.’ Thực ra, cháu sẽ chẳng thèm đến.” “Cậu ta sẽ đến,” dì nói, chắc chắn như Ripley. “Chỉ là vấn đề thời gian,” Ripley nói. “Tiểu thư Olympia, cô có sáu anh em trai, nhưng điều đó không khiến cô hiểu về Ashmont. Cậu ta cực kỳ ganh đua. Và đã quen với việc đạt được mọi thứ cậu ta muốn.” “Vậy các anh thì không chắc?” Olympia nói. “Có người đàn ông nào không như thế không? Còn lòng tự trọng đàn ông thì sao? Tôi đã bỏ rơi anh ta. Ngay trước mặt tất cả mọi người.” “Cô đang nhìn nhận sai vấn đề,” anh nói. “Cô là một người phụ nữ. Là người phụ nữ của cậu ta. Lòng tự trọng sẽ khiến cậu ta muốn vượt qua lý do khiến cô bỏ chạy. Điều cô cần nhớ là cậu ta không thể cưỡng lại một thử thách.” Nhớ lại lời Phu nhân Charles nói, Olympia nhìn từ bà chủ nhà sang Ripley. “Một thử thách.” “Ashmont luôn quá dễ dàng với phụ nữ,” Phu nhân Charles nói. “Điều này có thể liên quan đến kiểu phụ nữ mà cậu ta giao du cùng. Nhưng sự thật vẫn là thế.” “Vậy nên điểm hấp dẫn của cháu là cháu khó khăn hơn,” Olympia nói. “Và khác biệt,” Ripley nói. “Cô không giống với bất cứ ai chúng tôi từng gặp.” “Khác biệt và khó khăn,” cô nói. “Chính xác.” Thật là trớ trêu, cô nghĩ. Chính vì khác biệt và khó khăn mà cô đã bị gạt ra khỏi vòng xã hội, bị đẩy vào khu vực dành cho Đóa hoa bên lề, Người đi kèm và Những quý cô lớn tuổi. Nếu cô biết những phẩm chất này lại hấp dẫn những kẻ phóng đãng—nhưng không, điều đó cũng chẳng thay đổi được gì, vì những cô gái ngoan sẽ luôn tránh xa những người như Những Kẻ Bất Hảo. “Không chính xác chút nào,” Phu nhân Charles nói. “Ashmont là đàn ông. Điều đầu tiên cậu ta để ý không phải là tính cách của cháu .” “Ồ, điều đó thì khỏi phải nói,” Ripley đáp. Olympia không nghĩ ra đàn ông còn chú ý đến điều gì khác ngoài ngoại hình, mà điều đó thì đã quá rõ ràng. Vì họ chẳng bao giờ để ý đến cô, nên chắc hẳn cô không đủ tiêu chuẩn. “Không, không hề,” cô nói. Ripley đảo mắt. “Dùng cái đầu của cô đi—cái đầu có bộ não lớn bên trong ấy. Nếu cô không xinh đẹp và cân đối, cậu ta sẽ chẳng bao giờ theo đuổi cô, dù có là thử thách hay không.” Anh nói điều đó như thể nó là điều hiển nhiên nhất trên đời. Xinh đẹp và cân đối. Phải rồi. Đó là lý do vì sao cô lúc nào cũng phải vất vả xua đuổi những người đàn ông vây quanh. Chưa bao giờ điều đó xảy ra. Bảy năm qua. Chỉ một lời cầu hôn, từ một học giả già nua. Xinh đẹp và cân đối. Nhưng chỉ cần nhìn xem ai là người nói ra điều đó: Công tước xứ Ripley, một kẻ phóng đãng nổi tiếng và vô tích sự. Và giờ đây, cô lại thấy nóng bừng và xao động, trong khi ai cũng biết mấy tên phóng đãng chẳng hề kén chọn chút nào. “Điều cậu ta không muốn ở cô chính là trí tuệ,” Ripley nói. “Cậu ta sẽ chẳng nhận ra cô thông minh đâu, và như vậy có lẽ lại tốt. Cậu ta sẽ tưởng mình mới là người như vậy, còn cô thì có thể khiến cậu ta mê không lối thoát.” Phu nhân Charles mỉm cười. “Về điều đó thì ta không nghi ngờ chút nào. Hãy nghe cháu ta đi, Tiểu thư Olympia. Nó biết mình đang nói gì đấy.” Olympia nhìn Đức Ngài, người đang nửa nằm trên chiếc sofa, trông như một ông hoàng trong hậu cung. Thay vì một chiếc tẩu thuốc, anh cầm ly rượu vang trên tay. Xoay nhẹ chiếc ly, cúi đầu xuống nhìn vào đó, như thể đang đọc tương lai của cô trong làn sóng rượu. Ý nghĩ ấy bỗng xuất hiện trong đầu cô, và đã quá muộn, vì cô không thể xua đuổi nó đi được: Người tôi muốn mê không lối thoát mình không phải là Ashmont. Và đó là lúc cô nhận ra, cuối cùng, mình đang gặp rắc rối lớn đến nhường nào. *** Quý cô ấy từ chối vì cậu không tán tỉnh cô ấy đủ nhiệt tình. Tất cả những gì tôi làm chỉ là cố thuyết phục cô ấy quay lại. Khi cô ấy không chịu, tôi còn biết làm gì khác ngoài việc đảm bảo cô ấy không gặp rắc rối chứ? Đó, hoặc đại loại như vậy, là những gì Ripley định nói với bạn mình. Anh cũng có rất nhiều lời khuyên để đưa ra về cách đối xử và ứng phó với Tiểu thư Olympia Hightower, dù sẽ không dễ dàng gì khiến Ashmont ngồi yên đủ lâu để lắng nghe. Đầu tiên, Ashmont sẽ muốn đấm vào mặt Ripley. Sau đó, Ashmont sẽ muốn bế cô dâu lên và cuốn đi. Hai khả năng này vẫn rất có thể xảy ra. Rắc rối là Ripley sẽ không kịp đến chỗ Ashmont trước khi mọi chuyện vỡ lở. Rắc rối là, ngay lúc này, cô dâu tương lai đang ở đây, ăn mặc thật quyến rũ dù không hoàn toàn nổi bật như trước. Cô mặc một chiếc váy màu xanh mà Ripley đoán là của Georgiana hoặc một trong những người chị họ khác của anh, hoặc thậm chí là Alice. Chắc chắn không thể là của dì Julia, vì dạo này tủ quần áo của bà chỉ toàn gam màu xám xịt và nâu nhạt nhẽo, gần như không có chút điểm nhấn nào. Tối nay, Lady Olympia được tô điểm lộng lẫy như một chiếc bánh ngọt tinh xảo từ tay đầu bếp người Pháp của anh. Dù cổ và vai cô không để trần, nhưng cũng chẳng khác là bao, bởi lớp ren thêu mỏng manh gần như trong suốt chẳng thể che giấu làn da mịn màng nơi đôi vai mềm mại và phần ngực đầy đặn phía trên cổ áo. Mái tóc nâu dày được búi cao theo kiểu thời thượng, với những lọn tết quấn quanh đầu và các dải ruy băng thanh thoát đan xen. Ripley là đàn ông. Điều này có nghĩa là, ngay cả khi anh đang cố suy nghĩ về cách giải quyết tình hình với Ashmont, anh vẫn nghĩ chi tiết hơn về quá trình tháo dải ruy băng, để mái tóc dày và mềm mại ấy xõa xuống đôi vai cô, và sau đó, từng chút một, tháo bỏ bộ trang phục cô đang mặc. Anh cố nhìn chăm chú vào ly rượu, như thể có một nhà tiên tri ẩn nấp đâu đó bên trong, nhưng cũng chẳng thể ngăn mình nhận thức rõ ràng về sự hiện diện của cô. Lẽ ra anh không nên nếm thử, vì một khi đã nếm thử, sẽ chẳng bao giờ là đủ. Anh là kiểu người luôn tham lam những khoái lạc—trên bàn ăn, trên giường và trong mọi thứ—và anh đã quá quen với việc có được thứ mình muốn, cũng như chẳng quen chút nào với việc kháng cự cám dỗ. Anh tự nhắc mình rằng lần này không giống như những cám dỗ thông thường. Anh không đang cạnh tranh với Ashmont vì một nữ diễn viên, vũ công ba lê, kỹ nữ hay một góa phụ vui tính nào. Lần này Ripley không được phép cạnh tranh—và đây không phải là một trong những quy tắc xã hội tẻ nhạt mà anh có thể dễ dàng phá vỡ mà chẳng chút hối hận. Ashmont là bạn của anh và cô là hôn thê của Ashmont. Hàng loạt giấy tờ đã được ký kết. Một nửa giới thượng lưu đã nhận được thiệp mời dự đám cưới. Và Ashmont muốn cưới cô. Cậu ta đã nói rõ điều đó hơn cả mức cần thiết. Chỉ là, cậu ta đã thất bại trong việc thuyết phục cô dâu rằng cô muốn lấy cậu ta. “Ripley?” Giọng dì anh kéo anh trở về thực tại. “Nếu cháu không còn lời khuyên hôn nhân nào khác cho Tiểu thư Olympia, có lẽ cháu nên suy nghĩ về việc ngăn chặn tình trạng hỗn loạn khi hai đồng phạm của cháu lồng lộn tới nhà vào lúc rạng sáng.” “Dì đâu có cho phép sự hỗn loạn xảy ra,” anh nói. “Lần này là ngoại lệ,” bà đáp. “Chưa bao giờ cháu chạy trốn cùng với một trong những cô dâu của bạn mình như thế này cả.” “Để chính xác mà nói, cháu mới là người đưa công tước đi,” Tiểu thư Olympia nói. “Tôi tự nguyện mà,” Ripley đáp. “Không, lúc đầu đâu có vậy,” cô phản bác. “Nhưng sau đó cô đã dần dần thuyết phục được tôi,” anh thừa nhận. Ripley nhìn màu hồng ửng dần trên má cô. Trước đó cô đã đỏ mặt khi anh nhắc đến vóc dáng của mình, và đương nhiên, anh không thể không nhấn mạnh thêm về đường cong đáng chú ý đó—chỉ để thấy màu hồng càng lúc càng đậm hơn. Biết làm sao được? Cô xinh đẹp, quyến rũ và còn ngọt ngào đến khó cưỡng. Mà danh sách các thánh nhân sẽ chẳng bao giờ có tên anh. “Ashmont sẽ phải hiểu điều đó,” Ripley nói. “Các tiểu thư lúc nào cũng làm rối mọi chuyện. Thực ra rất đơn giản: Nếu Ashmont và Blackwood kéo đến giữa đêm, người hầu không được mở cửa mà phải gọi tôi dậy. Nếu hai người bạn của tôi có gây ồn ào, thì thả chó ra đuổi họ đi.” Dù dì anh không còn nuôi thú cưng, nhưng bất cứ điền trang nào cũng có người và chó canh giữ. “Dù gì thì gì, tôi cũng sẽ lo liệu được, như đã làm hàng nghìn lần trước. Và, thưa dì, nếu dì không ngại bị đánh thức lúc nửa đêm, có thể dành cho họ cái nhìn chằm chằm mà dì làm rất tuyệt vời.” “Và tôi thì phải làm gì?” Tiểu thư Olympia hỏi. “Co ro trong phòng mình sao?” “Đọc sách đi,” Ripley nói. Cái nhìn cô gửi đến anh qua đôi kính khiến anh chỉ muốn bế thốc cô lên và— Và thôi. Chuyện này rất nguy hiểm. Anh cần xử lý vụ Ashmont càng sớm càng tốt. “Nhắc đến chó,” Ripley tiếp tục, “Ashmont biết rõ ngôi nhà này. Trong trường hợp cậu ta lẻn vào bằng cách nào đó, cô có thể cần Cato bên cạnh đêm nay.” “Cato!” cô kêu lên. “Với tính cách của nó, có khi nó lại vẫy đuôi chào mừng những kẻ đột nhập và liếm mặt họ thì sao. Nó đâu có dấu hiệu nào cho thấy nó là chó giữ nhà đâu.” “Nó là chó săn,” Ripley nói. “Cô đã cứu nó khỏi một trận đòn thừa sống thiếu chết. Nó sẽ bảo vệ cô.” Ngay cả khỏi anh. Không phải là anh sẽ làm điều gì không phải phép. Không thể nào. Cô là cô dâu của Ashmont. Cô là một tiểu thư đoan chính. Có một số quy tắc mà kể cả Ripley cũng không phá vỡ được. Và vì vậy, anh sẽ không viện cớ để kiểm tra cô sau khi cô ngủ say. Đúng, anh rất muốn thấy cô trong chiếc áo ngủ. Và rồi không còn áo ngủ. Một sự phí phạm tuyệt đối của trí tưởng tượng! Đó là lý do anh và bạn bè luôn tránh xa các tiểu thư và phu nhân đoan chính. Không được làm cái này, không được làm cái kia. “Tôi sẽ không để con chó trong nhà cho đến khi tôi chắc chắn có thể tin tưởng nó,” Tiểu thư Olympia nói. “Nó nên đến khi được gọi. Chúng ta đã không phải đuổi theo nó. Nếu nó cư xử đúng mực, thì anh đã không bước vào cái hố thỏ. Nó sẽ ở lại chuồng hoặc ở đâu đó cho đến khi—” Côngừng lại, nhíu mày. “Rồi đó, vấn đề chính là ở đấy,” Ripley nói. “Cho đến khi Ashmont đến và đưa cô đi? Hay cha mẹ cô?” “Vớ vẩn,” dì Julia lên tiếng. “Tiểu thư Olympia sẽ ở đây bao lâu con bé muốn. Ta đã viết thư hứa với cha mẹ con bé là sẽ chăm sóc nó, và ta sẽ làm vậy. Con bé sẽ an toàn tuyệt đối, và sẽ không ai bắt cóc ai hết. Còn cháu, cháu phải xử lý đám bạn ngốc nghếch của mình. Ngày mai chúng ta sẽ xem xét về chuyện con chó. Tiểu thư Olympia, cháu cần nghỉ ngơi nhiều hơn cháu tưởng đấy. Chúng ta hãy đi ngủ sớm thôi. Nếu hai kẻ ngốc kia đến trong đêm, ta sẽ ở trên lầu, chuẩn bị sẵn sàng đối phó. Bằng dầu sôi nếu cần thiết.” Dì lại đưa cô dâu của Ashmont đi lần nữa. Cũng tốt thôi, Ripley tự nhủ. Anh đang suy nghĩ quá nhiều và không thể sắp xếp những suy nghĩ vô nghĩa đó. Anh nhìn chằm chằm vào bàn chân đau của mình. Chuyện này sẽ làm mất bao nhiêu ngày đây? Và làm sao để anh vượt qua những ngày đó mà không bị phát điên? *** Sáng hôm sau “Anh ấy không thể cưỡi ngựa đến London được!” Olympia kêu lên. “Anh ấy không nên đi xa đến vậy. Anh không được đặt bất kỳ sức nặng nào lên bàn chân mình. Mọi người đều biết điều đó!” Cô dậy sớm hơn thường lệ vì bị đánh thức bởi một cơn ác mộng. Trong mơ, Ashmont đập cửa ầm ầm, còn Ripley và Cato nhảy qua cửa sổ để hạ anh ta xuống. Nhưng trong khi Ashmont và Ripley đang đánh nhau, Bullard lại nắm lấy con chó và đánh nó tới tấp. Cảm giác tội lỗi vì đã bỏ rơi Cato ở nơi xa lạ khiến cô không ngủ lại được. Thay vào đó, cô ăn sáng qua loa rồi chạy ra chuồng ngựa, nơi một người làm cho cô biết rằng, “Thưa cô, công tước đã đi rồi, mới cách đây không lâu thôi. Ngài ấy đang đến London.” “Tôi xin lỗi, thưa cô, nhưng chúng tôi không biết công tước không được phép đi lại,” người làm nói. “Mà dù có biết, chúng tôi cũng khó có thể ngăn ngài ấy làm điều mình muốn.” “Cái đồ liều lĩnh đó! Chắc chắn là anh ấy đã tháo băng ra rồi. Không rằng thì chừng một giờ sau anh ấy sẽ phải hối hận. Nhưng khi đó thì đã quá muộn rồi.” Cô vuốt đầu Cato, và nó liếm găng tay cô. “Đáng lẽ em phải ngăn anh ấy lại chứ!” cô trách. “Phải chi chị có thời gian dạy em cắn gấu áo của anh ấy và giữ lại. Nhưng không, anh ấy là một người đàn ông trưởng thành, và nếu anh ấy muốn tự hủy hoại bản thân, thì người thông minh hơn—hay chó thông minh hơn—cũng không thể ngăn được. Chúng ta đi dạo thôi, Cato, xem lễ nghi của em ra sao. Và chúng ta sẽ không bận tâm đến quyết định tự hủy hoại mình của Công tước xứ Ripley nữa.” Đó là điều hợp lý nhất cần làm. Để anh đi. Lo cho con chó, dù có tật xấu thế nào đi nữa, thì vẫn dễ bảo và huấn luyện hơn gã quý tộc bướng bỉnh và liều lĩnh kia. “Gâu!” Cato sủa. Cô nhìn xuống con chó, nó đang nhìn cô chằm chằm, mắt sáng lên, đuôi vẫy tít. “A, nhưng em là chó săn, đúng không nào?” cô nói. “Hãy xem thử đi.” Cô quay sang người làm: “Ta cần một cỗ xe.” Cô giải thích ý định của mình, rồi chạy như bay vào nhà.
Chương 10 Dịch: thuylinhh Đây không phải là một sai lầm, Ripley tự nhủ. Thêm một ngày nữa ở gần Tiểu thư Olympia Hightower và anh sẽ biến thành một kẻ ngớ ngẩn lảm nhảm. Cái cách cô nhìn anh khi anh nói cô xinh đẹp và cân đối... cái cách cô đỏ mặt và ánh sáng trong đôi mắt cô. Cô nhìn anh như thể một người phụ nữ khác sẽ nhìn anh nếu anh tặng họ đầy kim cương. Anh đã tự nhủ rằng việc cảm thấy thích thú trước đôi má ửng hồng ấy là điều bình thường. Nhưng không bình thường chút nào khi ký ức ấy theo anh vào giấc ngủ và ám ảnh anh. Cũng chẳng bình thường khi anh cảm thấy tội lỗi, bất an và giận dữ với cả thế giới chỉ vì một người phụ nữ. Sự độc thân không thể tệ hại đến thế được. Có chuyện gì đó đang diễn ra, và anh sẽ không nghĩ về nó. Anh sẽ không nghĩ ngợi gì cả. Anh sẽ quên cô đi và làm điều cần làm. Anh sẽ làm điều đúng đắn, bởi vì anh là một hiệp sĩ chiết tiệt trong bộ giáp sáng ngời. Vì tất cả mọi người. Bao gồm cả Ashmont, cái tên không thể tỉnh táo trong đám cưới của chính mình, cũng chẳng thể tự mình đuổi theo cô dâu bỏ trốn. Và giờ cậu ta vẫn còn lê lết đâu đó, dù Ripley chẳng hề cố che giấu hành tung của mình, có lẽ nửa thế giới đã nhận ra anh khi anh đi qua. Anh còn có thể để lại dấu vết nào rõ ràng hơn nữa? Hay Ripley nên treo biển chỉ đường? Trong khi đó, cái mắt cá chân của anh, thứ sáng nay còn tưởng đã khá hơn, giờ lại quyết định biến cả buổi sáng thành cơn ác mộng tồi tệ. Chỉ còn hai dặm nữa là đến Cobham và quán trọ George. Anh có thể nghỉ ở đó. Không, anh sẽ không nghỉ. Sau khi đi được bao lâu rồi? Sáu, bảy dặm? Đáng lẽ anh phải đi được gấp đôi quãng đường đó, dù có mắt cá chân đau hay không. Nhưng anh đã quá mệt mỏi. Mệt mỏi đến mức phát chán. Cả đêm anh không ngủ được, nhờ cô.Những giấc mơ tội lỗi thì chẳng vấn đề gì. Anh có chúng suốt. Nhưng đó không phải là tất cả. Cô xuất hiện trong bộ váy cưới, trắng muốt đầy trinh nguyên, khuôn mặt bừng sáng khi anh bế cô trên tay và mang cô chạy khỏi một Ashmont giận dữ. Trong giấc mơ khác, cô xuất hiện trong đám cưới không thành, đứng cạnh Ashmont nhưng lại nhìn Ripley qua tấm mạng che mặt, đôi mắt cô thẫm buồn. Anh nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt cô, dưới lớp mạng, cho đến khi nó ướt sũng, cả chiếc váy cũng đẫm nước. Rồi mưa đổ xuống, và họ ở trên thuyền. Cô trượt chân ngã xuống sông, để dòng nước cuốn đi xa, ngoài tầm với, trong khi anh tuyệt vọng gào tên cô. Anh tỉnh dậy trong mồ hôi lạnh. Sau đó anh không muốn cố ngủ lại. Anh đợi đến khi ánh sáng đầu tiên của bình minh ló dạng, rồi mặc vào vài bộ quần áo cũ của bác mình. Sao dì Julia lại giữ chúng làm gì? Làm sao bà có thể khá hơn nếu cứ bám lấy... những gì bà không còn có thể có được nữa? Đừng nghĩ nữa, anh tự nhủ. Anh đã rời đi mà không bị ai phát hiện. Đó mới là điều quan trọng. Vừa ra khỏi Điện Camberley, anh dừng chân ở quán Talbot tại Ripley, thị trấn mang tên mình. Ở đó anh nhâm nhi một cốc bia bù lại bữa sáng đã bỏ lỡ. Đáng lẽ anh không nên dừng lại quá sớm, cũng không nên nấn ná quá lâu. Anh muốn thêm một cốc nữa, rồi một cốc nữa, và anh muốn đổ lỗi cho cái chân đang nhức nhối của mình, nhưng thực tế là, anh chẳng thể nào tự vực mình lên nổi. Anh đã muốn quay trở lại. Thậm chí bây giờ vẫn muốn. Nhưng anh không thể làm thế. Ở đó không có gì cho anh cả. Thế nên anh lại lê bước, với tốc độ mà có lẽ ngay cả Quý ngài Mends của cô cũng hài lòng. Tại sao ư? Vì cô đã chăm sóc cái chân chết tiệt của anh quá chu đáo. Dù đang tuyệt vọng muốn đến London, anh không thể tự mình phá hỏng công sức của đó. Chưa kể, anh không thể xuất hiện trước mặt Ashmont trong tình trạng què quặt và yếu ớt. Vậy nên, thêm cực hình: mỗi lần cái chân đáng nguyền rủa nhói lên, Ripley lại nhớ đến bàn tay của Olympia, trên chân anh, và cách cô chăm sóc anh một cách rất đỗi tự nhiên, hoàn toàn không hay biết về trạng thái tuyệt vọng đầy khao khát của anh. Cô ấy tử tế lắm, Ashmont đã nói vậy. Nhưng cô đâu biết rằng lòng tốt của cô là thứ khiến những gã đàn ông như bọn họ phát điên. Anh ngước nhìn lên. Mặt trời, cố xuyên qua lớp mây xám xịt, tỏa ra một thứ ánh sáng yếu ớt, bệnh hoạn. Ôi, thật tuyệt. Chính xác điều anh thích nhất: lê bước đến London dưới cơn mưa như trút. Phải rồi, anh chàng khổ hạnh đáng thương, anh thầm nhủ. Đi trong mưa đi. Như thể anh chưa từng làm điều đó trước đây, với tốc độ chóng mặt. Nhưng lúc ấy anh say mèm. Còn giờ anh tỉnh táo đến đáng sợ. Lẽ ra anh nên uống thêm vài cốc nữa. Cần bao nhiêu bia mới đủ để xóa nhòa hình bóng cô trong tâm trí anh? Vẫn chưa quá muộn để thử. Đến quán trọ George, anh có thể thuê một chiếc xe ngựa. Như vậy anh có thể di chuyển nhanh hơn. Anh có thể uống thêm vài cốc bia trong lúc người ta chuẩn bị xe. Rồi mang theo cả một chai rượu lên xe. Với người khác cầm cương, anh có thể uống cho đến khi mờ mắt. Chỉ còn hai dặm nữa, hoặc không nhiều hơn. Vừa nghĩ đến đó, bầu trời bỗng tối sầm lại. Phía trên, mây đen cuộn xoáy, những rìa mây chuyển thành màu đen kịt. Một giọt mưa rơi trúng đầu ngựa. Anh nghe thấy một giọt khác rơi lên mũ anh. Đúng hơn là mũ của bác anh. Dù chất lượng vượt trội hơn rất nhiều so với chiếc mũ anh mua ở Putney, nó cũng chẳng vừa vặn hơn bao nhiêu. Ngày càng có nhiều giọt mưa rơi, nhanh dần, rơi lộp độp trên lá và làm văng bụi trên đường. Thật tuyệt vời. Cái quái gì khiến anh không ở lại Florence thêm một ngày nữa? Nếu vậy, giờ này anh đã chẳng phải ở đây. Đám cưới đã xong xuôi. Hoặc không. Dù sao đi nữa, cô dâu giờ đã là vấn đề của người khác. Và anh sẽ chẳng bao giờ biết mình đã bỏ lỡ điều gì. Con ngựa của anh, chẳng hề bận tâm đến cơn mưa, cứ tiếp tục lê bước. Ripley tự nhủ phải tiếp tục đi. Một chút ướt át không thể giết anh được. Mưa rơi mạnh hơn, tuôn xuống từ vành mũ, rơi dọc theo cổ anh. Những con quỷ như rút dao đâm vào mắt cá chân anh. Anh nhìn ra ngoài từ dưới vành mũ, hướng mắt về phía cơn mưa. Phía gần anh là một khu đất trống. Không có chỗ trú ẩn ở đó. Nhưng không xa về phía bên phải, bên rìa một khu cây bụi rậm rạp, có một khu rừng nhỏ. Anh hướng ngựa về đó, tìm thấy một con đường mòn hẹp. Anh rẽ vào đó và cưỡi ngựa đi thêm một đoạn ngắn vào trong đám cây. Chúng mọc dày đặc đủ để che chắn cơn mưa dữ dội nhất. Ở đó anh dừng lại. Và đợi. Mắt cá chân anh đau nhức. Anh cần uống một ngụm rượu. Anh cần phải cãi nhau với ai đó. Anh xuống ngựa, mắt cá chân đau như thể anh đang cố giết chết nó. “Đi chết đi,” anh nói với nó. Anh tìm được một gốc cây rồi ngồi xuống, chân duỗi thẳng. Phải nâng nó lên, cô đã nói. Anh nhớ cách cô nhăn mặt và giả vờ buồn nôn khi tháo giày cho anh. Anh nhớ cách cô đã đối phó với cái gã ỷ thế hiếp đáp người khác. Anh nghĩ về việc cô sẽ kết hôn với Ashmont và cảm thấy buồn nôn. Anh tự nhủ không nghĩ về chuyện đó, nhưng lần này, anh không thể xua nó đi được. Một khoảng thời gian dài trôi qua, mưa bắt đầu giảm dần. Anh ngước lên qua những tán cây ướt sũng. Bầu trời đã sáng dần lên. Con ngựa ngẩng đầu lên. Một tiếng động khẽ vang lên trong đám cây bụi. Ripley nhìn về phía đó. “Gâu!” Cato chạy lại gần, lưỡi thè ra. “Chú chó ngoan!” một giọng nói quen thuộc gọi lớn. Sau Cato, bước đi trên con đường mòn lầy lội, là kẻ thù không đội trời chung của anh. *** “Anh thật là đồ ngốc!” Ôi, đúng là anh ngốc thật, bởi vì giọng nói của cô khiến bầu trời bỗng nhiên trở nên xanh biếc, mặt trời tỏa sáng rực rỡ, và nói chung, anh suýt thì khóc vì nhẹ nhõm. Anh cố gắng kéo cơ thể cứng đơ của mình lên khỏi gốc cây. Phải, anh quả thật đã mất trí. Có lẽ cô khiến anh thành ra thế. Dù vậy, anh vẫn có chút lễ nghi, nhất là trong những tình huống cần thiết, và dù sao thì cô cũng là một quý cô. Một quý ông phải đứng dậy khi một quý cô xuất hiện, dẫu cho cô thuộc về ai và cô có làm anh khổ sở đến thế nào. “Cô nghĩ cô đang làm gì thế?” anh nói. “Anh nghĩ trông nó như thế nào?” Cô mặc một chiếc váy có vẻ là của dì Julia: Tay váy hẹp và màu nâu u ám, nó chẳng vừa vặn chút nào. Mặc dù cô và dì Julia gần như có chiều cao bằng nhau, nhưng dáng vóc của họ thì khác biệt. Eo của dì tuột xuống dưới, vị trí mà anh đoán là rốn của Tiểu thư Olympia, vai dì không có độ cong hoàn hảo như của cô, và phần áo ngực thì ở những chỗ mà vòng một của cô không có. Chiếc mũ, cũng u ám như chiếc váy, với một chiếc lông vũ rủ xuống, đặt lệch trên đầu cô, những dải ruy băng buộc lại một cách vụng về. Anh cảm thấy như thể mình vừa uống đúng một lượng rượu sâm-panh hảo hạng. Anh nhận ra rằng chính cô đã khiến anh cảm thấy như vậy từ lúc cô ra lệnh cho anh giúp cô với cái cửa sổ. Giả vờ cau có, anh liếc nhìn con chó. “Cô đã săn đuổi tôi,” anh nói. “Cùng với con chó. Cô là một người phụ nữ nguy hiểm.” Cô đứng đó, tay chống hông, nhìn anh từ đầu đến chân. “Có lẽ tôi điên rồi, cố gắng cứu anh khỏi chính bản thân mình. Ngồi xuống, làm ơn đi!” Cato ngồi xuống. Ripley thì không. “Cái đầu của đàn ông đúng là một kỳ quan,” cô nói. “Anh đang cố làm mình què à? Anh có biết hậu quả—hậu quả vĩnh viễn—mà anh có thể gây ra không?” “Không, tôi không biết, vì sẽ không có hậu quả gì hết. Tôi từng bị bong gân ở những chỗ khác trước đây rồi. Lẽ ra tôi không nên để cô nuông chiều mình thế này. Những người thủy thủ mà cô nói đến? Cô nghĩ họ có thể lười biếng ở trên tàu giữa những lần trị liệu với nước biển lạnh à?” “Anh không phải là thủy thủ. Anh là một quý tộc hư hỏng, tự nuông chiều mình. Nếu anh nói về việc phục hồi sau những chấn thương thuở nhỏ, thì nhớ lại đi, tuổi thơ của anh đã qua lâu rồi. Xương của những cậu bé vẫn còn phát triển. Chúng lành nhanh. Còn anh, anh là một người đàn ông trưởng thành—trừ cái đầu—và mọi chuyện sẽ khác với anh.” “Tôi không phải là một lão già nhút nhát, lúc nào cũng lo sợ đâu,” anh nói. “Cô có vẻ đã nhầm tôi với Quý ngài Mends của cô rồi.” Cô chớp mắt một lần. “Không, không, tôi có thể phân biệt được anh dễ dàng,” cô nói. “Ngài Mends đội tóc giả. Còn anh thì tóc còn nhiều hơn trí tuệ.” “Tôi chưa bao giờ cố gắng giả vờ mình là học giả,” anh nói. Mends thì có, và ông ta được kính trọng như một học giả, mặc dù thật là một tên ngốc tự mãn. “Vì tôi không ngoan ngoãn làm những gì cô nghĩ tôi nên làm, cô cho rằng tôi là kẻ vô trí.” Anh thực sự muốn ngoan ngoãn làm bất cứ điều gì cô muốn anh làm. Anh thật sự cần bị bắn. Tốt nhất là vào đầu, để có tác dụng. “Cứng đầu nữa,” cô nói. “Làm đi. Dựa vào ngựa. Hay là vào cái cây. Anh đứng thẳng mà cứ như muốn chết vậy, nhưng anh sẽ làm thôi, đúng không, chỉ để chứng minh cái lý do mà anh cần phải chứng minh.” Anh muốn tựa vào cô. “Tôi không có gì để chứng minh cả,” anh nói. “Tôi có một kế hoạch, như tôi đã nói tối qua. Tôi không thấy lý do gì để thay đổi nó. Tôi sẽ đến London.” “Không thấy lý do gì,” cô lặp lại, lắc đầu. “Giá như tôi có thể cho anh uống thuốc ngủ.” cô nhìn Cato. “Giống hệt như việc nói chuyện với bọn trẻ, như nói chuyện với cục gạch vậy.” Cô hít một hơi thật sâu rồi thở ra, khiến chiếc áo của cô đung đưa đầy quyến rũ. Anh biết mình không nên nhìn, nhưng anh là một kẻ tham lam trong việc chịu đựng. Quay từ Cato sang Ripley, cô nói, “Tôi biết điều này là lãng phí hơi thở, nhưng cả Lý trí lẫn Lương tâm đều bắt buộc tôi phải chỉ ra vài điều đơn giản: Một người không nên đặt trọng lượng lên một chi bị thương. Một người phải giữ chi đó ở vị trí cao. Và một người cần cho nó thời gian để hồi phục.” “Nó đã có đủ thời gian rồi,” anh nói. Có vẻ như hơi thở để bình tĩnh không hiệu quả, vì mắt cô sáng rực lên và má cô ửng hồng, rồi cô hét lên, “Mười giờ không phải là đủ thời gian đâu, đồ khối óc bằng đá!” Cô vung tay lên không trung, khiến chiếc váy văng đi một hướng và vòng một của cô lại di chuyển theo một hướng khác. “Và mấy giờ cưỡi ngựa ngoài đồng thì chẳng tính gì cả, anh đúng là con bò to xác!” Cô thật hấp dẫn. Anh ghét Ashmont. Cũng ghét chính bản thân mình. Đã đến lúc anh phải rời đi rồi. “Nếu cô nói xong bài giảng rồi, tôi đi đây,” anh nói. Anh quay lưng lại, định nắm cương ngựa. “Đi đi,” cô nói. “Làm như anh muốn ý. Tôi chắc là tôi bị tạm thời mất trí, nghĩ rằng Lý trí và Lương tâm có thể có ý nghĩa gì với anh. Các anh không thể thay đổi, tất cả các anh. Cứ muốn tự huỷ hoại mình. Tôi đáng lẽ phải biết điều tốt hơn, nhưng không, tôi phải ra ngoài vào ngày tồi tệ này để cứu anh khỏi sự ngu ngốc của chính anh, vì anh đã làm những gì có thể để cứu tôi khỏi sai lầm của mình. Cứ nghĩ là cứu giúp ai đó—thật là buồn cười. Chà, đó chỉ là một sai lầm nữa trong phán đoán. Tôi xin lỗi vì đã làm gián đoạn hành trình của anh.” Anh nghe thấy tiếng vải áo và áo lót xào xạc giận dữ. Anh biết mình phải làm ngơ và trèo lên ngựa, rời đi thật xa. Nhưng anh luôn gặp vấn đề với những điều mình cầnlàm. Anh quay lại đúng lúc để thấy cô bước đi, đầu ngẩng cao, lưng thẳng như một cây cột. Cái lưng ấy. Vẻ không kiên nhẫn trong bước đi của cô. Giờ không phải là một chút kiên nhẫn. Anh đúng thật là hèn. Cô đã chăm sóc anh. Cô đã làm những gì có thể để giúp anh hồi phục. Và anh—thì anh là người như vậy đấy. Anh không thể thay đổi bản thân và không thể thay đổi quá khứ. Anh không thể làm cho nó khác đi, rằng chính anh mới là người đứng trước khách sạn Clarendon hôm ấy. “Chết tiệt, Olympia.” Anh lảo đảo bước theo cô. Cô bước đi tiếp. “Tôi chẳng quan tâm anh làm gì. Anh kiểu gì cũng bị què thôi. Anh sẽ không bao giờ nhảy được nữa. Nó chẳng có nghĩa gì với tôi cả.” “Tôi không thể ở lại đó—ở nhà dì tôi!” Anh nói với lưng cô. “Cô không hiểu đâu. Cô sẽ không bao giờ hiểu. Tôi không muốn cô hiểu.” Điều này chẳng có lý gì và anh cũng chẳng quan tâm. “Anh nói đúng,” cô nói. “Tôi không muốn hiểu. Anh có làm gì thì cũng chẳng ảnh hưởng đến tôi. Nhưng tôi cảm ơn vì bài học này.” Cô quay lại nhìn anh trong một đợt sóng váy cuộn tròn. “Nếu tôi có cơ hội khác với Ashmont, tôi sẽ biết là không để ý đến những gì anh ta làm. Tôi sẽ sống cuộc đời của trí thức, điều đó có thể chấp nhận được và ít phiền toái hơn nhiều so với việc cố giao tiếp với bất kỳ ai trong số các anh.” Anh túm lấy cánh tay cô. Anh mơ hồ nghe thấy tiếng Cato gầm gừ, nhưng đó chỉ là tiếng ồn nền cho sự náo loạn trong đầu anh. “Tôi phải đi vì—” “Tôi không quan tâm.” “Bởi vì,” anh nói. Bởi vì cô ở đó, tức giận và mùi mưa với rừng cây cùng những điều tươi mới, cánh tay cô ấm áp dưới tay anh. Cô làm anh thức trắng đêm, và cái hương vị ngắn ngủi của cô vẫn ám ảnh anh. Anh là một kẻ liều lĩnh, nhưng đó chính là con người anh. Và cô ở đây. Và họ chỉ có hai người. Và anh muốn. Đó là tất cả những gì anh biết, thực sự, khi anh kéo cô vào vòng tay, thì thầm, “Vì thế này.” Anh hôn cô. Và ngay khi môi anh chạm vào môi cô, niềm khao khát mà anh đã đấu tranh suốt bao lâu cuối cùng đã thắng. Anh hôn cô theo kiểu của một người đàn ông muốn thứ mình không thể có và nhất quyết phải có nó, kiểu của một người đàn ông chỉ biết khi đã có được nó và không cần biết gì hơn. Và với từng cảm giác và hương vị trên đôi môi cô và cách cơ thể cô quấn chặt vào cơ thể anh, mọi cảm xúc hỗn loạn đã vỡ òa, tất cả trở nên đúng đắn. Và khi cô nắm lấy vai anh và giữ chặt, một cái gì đó bên trong anh, một phần cơ thể căng thẳng dường như đã chờ đợi từ lâu, đầu hàng. Anh nâng tay ôm sau gáy cô, và hôn cô mãnh liệt hơn, thuyết phục. “Ở lại,” anh ra lệnh bằng môi. Với một tiếng thở dài, cô nhượng bộ, và thế giới lại trở về đúng vị trí. Môi cô hé mở với anh, cơ thể cô tan chảy vào người anh, và sự ấm áp đó và làn sóng khoái cảm dâng lên khiến anh loạng choạng, cái chân đau của anh lảo đảo nguy hiểm. Anh không quan tâm đến cái chân hay đau đớn gì cả, chỉ có mình cô. Anh ôm cô, và tận hưởng hương vị và cảm giác của cô khi anh ngã ngược xuống, ngã xuống, cho đến khi lưng anh chạm vào một cái gì đó cứng và thô ráp. Lên hay xuống, chẳng quan trọng, vì đây mới là điều quan trọng: hình dáng của cô và cách cô vừa vặn với anh và dòng cảm xúc tuyệt vời ấy. Và trên hết là sức mạnh của một nụ hôn, ngày càng sâu sắc khi cô theo sát anh. A, cô làm điều đó rất tốt. Cô học nhanh, và cũng đòi hỏi như anh, cho đến khi sự ấm áp đầu tiên, dễ chịu chuyển thành một cơn nóng dữ dội, thiêu cháy mọi lý trí còn sót lại trong đầu anh. Cảm giác, cảm xúc, mặt khác, anh có thừa. Chúng ngập tràn trong anh, cuốn phăng cái tiếng nói bên trong đang cố gắng nhắc anh cô là ai và cái gì là đúng, cái gì là sai. Anh kéo tay mình dọc theo bờ vai hoàn hảo rồi xuống lưng thẳng tắp của cô cho đến đường cong tinh tế ở mông. Cảm giác đó thật tuyệt vời. Hoàn hảo. Anh kéo cô sát vào người mình. Cảm giác đó còn tốt hơn. Nhưng cô thở hổn hển, ngắt quãng nụ hôn và rút lui. Phép thuật tan biến, và anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nới lỏng bàn tay đang siết chặt. Mặc dù chỉ có một khoảng cách nhỏ giữa hai người, nhưng nó là quá đủ. Thế giới trở lại và khả năng suy nghĩ của anh cũng vậy, rồi bộ óc anh yêu cầu phải biết mình đang làm gì. Anh có phải đã mất trí rồi không? Hay anh đang say khướt? Bị chấn động? Điều đó không quan trọng dù anh muốn cô đến mức nào. Nó không quan trọng dù cô ám ảnh anh trong giấc mơ và không cho anh ngủ. Nó không quan trọng dù cô quyến rũ và làm anh bối rối, và anh căm ghét Ashmont vì đã là người đầu tiên không còn theo dõi từ xa nữa. Tuy nhiên, Ripley không buông tay cô hoàn toàn. Nếu cô rút lui mạnh mẽ hơn, anh sẽ để cô đi—anh hy vọng mình sẽ làm vậy, ít nhất là hy vọng—nhưng cô không làm vậy. Cô chỉ đứng đó trong vòng tay anh, nhìn lên anh, cặp kính lệch. “Được rồi,” cô nói, giọng cô khàn đi. “Chà.” cô lắc đầu. “Nhưng không.” cô đẩy anh ra. Lúc đó anh không còn lý do gì để giữ cô nữa. Cô lùi lại, chỉnh lại dáng người, chỉnh lại chiếc váy, và điều chỉnh lại cặp kính. “Điều đó... có ích.” Có ích. Ôi, quả thực là rất có ích. Cô, một cô gái ngây thơ. Cô, vị hôn thê của bạn thân anh. Ripley đẩy người ra khỏi cái cây đã làm điểm tựa cho anh. Anh nguyền rủa. Anh tháo mũ ra và đánh vào cây. Anh nguyền rủa và nguyền rủa cho đến khi không gian quanh anh lẽ ra phải nhuốm màu xanh và những cái cây phải co rúm lại. Nhưng không phải vậy, những chú chim bay vụt lên từ cành cây, và những con sóc mắng mỏ, những con vật nhỏ hoảng loạn chạy qua bụi cây. “Ripley, vì chúa!” Anh nghe thấy cô, nhưng tâm trí anh hét lớn hơn. Ashmont là bạn thân của anh. Từ thời thơ ấu, từ những ngày khổ sở đầu tiên ở Eton. Họ luôn đứng bên nhau, ba người. Và Ripley... Anh đá vào cây—bằng chân trái, không phải chân bị thương, mặc dù đó là một sự may mắn vì anh không suy nghĩ. Nhưng cú đá làm anh mất thăng bằng, và khiến anh ngã xuống. *** Trong khi đó, tại Điện Camberley “London?” Ashmont lặp lại. Anh và Blackwood đứng trong phòng khách của Phu nhân Charles Ancaster. Ashmont có một bên mắt thâm quầng. Cả hai quý ông đều có vẻ ngoài không thanh lịch. Họ có vẻ như đã bị xe chở hàng và có thể là cả một đàn gia súc cán qua. “Có vẻ là vậy,” Phu nhân Charles nói. Bà đưa ra mẩu giấy Ripley để lại cho mình. Ashmont cầm lấy và đọc, “‘Đến London. R.’” Anh lật mặt sau của tờ giấy. Mặt kia trống trơn. “Chỉ vậy thôi sao?” “Thằng bé cho rằng như thế là đủ rồi,” bà đáp. Blackwood và Ashmont gật đầu. Họ cũng hiếm khi giải thích bản thân mình. Họ không nghĩ rằng Phu nhân Charles cũng có thể bỏ qua rất nhiều điều chưa nói, bao gồm cả những thông tin vô cùng quan trọng. “London,” Ashmont nói. “Chúng ta đã đoán vậy, đúng không? Quay lại London, ta đã nói thế. Một cuộc săn lùng vô ích. Nhưng rồi còn những manh mối, cậu biết đấy.” “Cậu ta có đến đây,” Blackwood nói. “Không đi thẳng về London. Chúng ta đâu có sai.” “Khi mấy cậu không xuất hiện tối qua, tất cả chúng ta đều cho rằng mấy cậu vẫn ở lại Thành phố,” Phu nhân Charles nói. “Quả là một vở hài kịch của những nhầm lẫn.” “Quỷ thật, chẳng lẽ cậu ta nghĩ bọn cháu sẽ không đuổi theo sao?” Ashmont nói. “Cậu ta chẳng phải đã muốn chúng cháu làm thế à?” “Ngược lại, chúng ta đã mong chờ mấy cậu,” Phu nhân Charles nói. “Thực ra, ta nghĩ các cậu sẽ đến trước cháu trai ta hoặc ngay sau đó. Hành trình của nó hóa ra phức tạp hơn dự đoán.” “Hành trình của bọn cháu cũng vậy,” Blackwood nói, liếc nhìn Ashmont. “Chúng cháu gặp chút rắc rối ở Putney. Phải đọc Đạo luật Chống Bạo Loạn. Đại loại thế.” “Thật sao,” Phu nhân Charles đáp. Bà nâng kính lên và quan sát vết bầm trên mắt anh. “Vết bầm trông còn mới lắm.” “Chuyện đó xảy ra sau… ờm… sự hiểu lầm,” Blackwood nói. “Cậu ấy ngã xuống cầu thang.” “Chắc do thứ gì đó cháu ăn không hợp,” Ashmont nói. “Nôn cả đêm, nếu không thì cháu đã đến rồi, quỷ thật.” “Thứ cậu uống thì đúng hơn,” Phu nhân Charles nói cộc lốc. “Đây quả là một khởi đầu tốt đẹp cho cuộc hôn nhân. Ta đã hy vọng rằng ngay cả các cậu cũng có thể kết hôn mà không làm mọi thứ rối tung lên. Và với một cô gái đáng mến như vậy nữa.” “Cháu biết cô ấy đáng mến,” Ashmont nói. “Thấy ngay từ đầu. Cũng tự hỏi tại sao trước đó mình không nhận ra. Nhưng trước đây cháu đâu có nghĩ đến chuyện cưới xin, bác hiểu không.” “Nếu cậu thể hiện rõ tình cảm của mình hơn, có lẽ con bé đã không bỏ chạy rồi,” Phu nhân nói. Ashmont cau mày. “Phải rồi. Không nỗ lực tán tỉnh đủ, ai cũng nói thế với cháu. Nhưng cháu đã làm đấy chứ. Kể cho cô ấy nghe về thư viện, như bác cháu—à thì, như cháu nghĩ mình nên làm—và cô ấy có vẻ hài lòng.” “Chúng cháu không chắc là cô ấy bỏ chạy thật,” Blackwood nói. “Chúng cháu nghi ngờ đó là trò đùa của Ripley.” “Thật vậy sao?” Phu nhân Charles nói. “Ta không hiểu tại sao một cô gái thông minh như Olympia lại đi theo thằng cháu ta.” “Anh trai cô ấy cũng nói vậy.” “Bất kể động cơ của con bé là gì, hành vi của mấy cậu không hề làm người khác hài lòng,” phu nhân nghiêm giọng. “Các cậu mải mê đánh nhau và chè chén đến mệt lử, thay vì nhanh chóng đuổi theo và thuyết phục con bé quay về.” “Có hoàn cảnh làm chậm lại ạ,” Blackwood nói. Vẻ mặt của Phu nhân Charles trở nên lạnh thêm một bậc. “Ta sẽ không cố tưởng tượng xem đó là hoàn cảnh gì. Ta chỉ nói rằng, nếu ta ở vị trí của con bé, ta cũng sẽ vô cùng thất vọng với người cầu hôn mình.” Bà làm một cử chỉ coi thường. “Hãy đến London đi. Nhưng đừng ngạc nhiên nếu con bé bảo cậu đi tìm một nữ công tước khác. Có lẽ như thế lại tốt hơn.” “Cháu sẽ không tìm ai khác!” Ashmont nói. “Dù chuyện gì không ổn có là gì, cháu cũng sẽ sửa chữa nó. Cháu đã nói là sẽ cưới cô ấy và cháu sẽ làm vậy. Nói là làm. Còn Ripley thì có thể hôn vào—, vào má dì cháu.” Anh cúi đầu giận dữ rồi quay người rời đi. Nhưng anh dừng lại, có vẻ như suy nghĩ lại về hành vi của mình, vì anh quay lại với vẻ ngượng nghịu. “Xin lỗi, Phu nhân Charles. Xin bác thứ lỗi. Cháu không có ý… Ờm… Bác biết đấy. Chỉ là cảm xúc thôi ạ.” Anh nở nụ cười thiên thần nhất của mình. “Ta khuyên cậu nên học cách bày tỏ cảm xúc của mình theo cách thông minh và dễ chịu hơn,” bà nói. “Bởi nếu cậu không cẩn thận, một người khác có khả năng làm điều đó sẽ cướp mất con bé đi. Nếu điều đó xảy ra, cậu sẽ không bao giờ lấy lại được nó.” “Vâng, thưa Phu nhân Charles. Từ giờ cháu sẽ làm tốt hơn.” Lần này, anh chào từ biệt một cách đúng mực rồi đi về phía cửa. Blackwood bước theo, nhưng rồi dừng lại và nói, “À, còn Alice thì sao ạ? Cô ấy có ở quanh đây không?” *** “Ôi, Ripley, anh đã làm gì thế?” Một khuôn mặt nâu, đầy lông hiện ra trên khuôn mặt Ripley và một cái lưỡi khổng lồ tiến lại gần. “Biến đi!” anh đẩy con chó ra. Tai Ripley ù đi. Chân anh đau như thể sắp bị chặt bỏ. Mưa nhỏ giọt từ tán cây xuống mặt anh. Tiểu thư Olympia quỳ xuống bên cạnh. Môi cô sưng đỏ, chiếc mũ và cặp kính bị lệch nghiêng. Mình ghét bản thân mình, anh nghĩ. “Đừng quỳ xuống nền đất ướt như thế, Olympia!” anh gắt. “Còn anh thì sao?” cô nói. “Sẽ là phép màu nếu anh không bị gãy cái gì đấy.” “Không có gì gãy cả,” anh đáp. “Tôi không làm bằng thủy tinh. Tôi không yếu đuối, chết tiệt!” Anh chống khuỷu tay ngồi dậy. “Đừng có chiều chuộng tôi nữa. Cô nên đấm thẳng vào mặt tôi mới phải. Cô có hiểu không? Cô thấy chưa? Đây là lý do tại sao có quy định cấm các tiểu thư chưa chồng ở một mình với đàn ông. Chúng tôi không đáng tin cậy. Hầu hết chúng tôi, khi ở gần một phụ nữ cuốn hút, đầu óc sẽ lập tức rơi vào cống rãnh.” Cô ngồi ngả ra sau, chỉnh lại cặp kính trên sống mũi. “Cuốn hút á?” cô nói. “Anh nghiêm túc đấy à?” *** Tim Olympia, vốn chưa ngừng đập mạnh từ trước, giờ đập còn nhanh hơn. Cô vẫn chưa hoàn hồn sau nụ hôn ấy. Cô không chắc liệu mình có bao giờ hồi phục được không. Cô không biết một nụ hôn có thể như thế. Cô thậm chí không chắc nụ hôn có phải từ chính xác để miêu tả. Rồi anh lại lên cơn giận dữ. Và sau đó… Cuốn hút, như anh đã nói. Ý là cô. “Tôi đã nói với cô tối qua rồi,” anh nói. “Xinh đẹp và cân đối. Cô quên rồi à?” “Không.” Làm sao cô có thể quên? “Nhưng anh là một tên phóng đãng, và những tên phóng đãng thì không kén chọn.” “Khi say, có thể tôi ít kén chọn hơn,” anh đáp. “Nhưng giờ tôi không say, dù tôi ước gì là mình đang say đây.” “Tôi thì khô khan và nhàm chán,” cô nói. “Tôi đeo kính nữa.” “Cô nghĩ điều đó có chút ảnh hưởng gì với đàn ông ư?” “Có.” “Có thể là ở một phòng khiêu vũ đông đúc,” anh nói. “Nhưng khi ở một mình với một cô gái xinh đẹp, quyến rũ, người ta chẳng bận tâm tới cặp kính của cô—hay bất cứ thứ gì cô đang mặc đâu.” Anh cố gắng đứng dậy. Nhăn mặt, anh chống tay ngồi dậy và buột miệng chửi thề. Cô đặt tay lên vai anh. “Ở yên,” cô nói. “Để tôi gọi người giúp anh. Sẽ đỡ đau cho cái chân hơn đấy.” Anh nhìn cô ngơ ngác. “Người hầu à?” anh nói. “Tôi nhận ra hành động của mình hôm qua có thể khiến người ta nghĩ tôi là một kẻ ngốc nghếch,” cô nói. “Tuy nhiên, trong tình huống bình thường, tôi vẫn giữ được đầu óc tỉnh táo. Tôi không đến cứu anh một mình đâu. Tôi mang theo người đánh xe, John, và người hầu, Tom. Chúng tôi đến đây bằng cỗ xe của dì anh.” “Cô chu đáo quá,” anh nói. “Đi London trong xe ngựa sẽ thoải mái hơn.” Dưới đây là bản dịch tiếng Việt của đoạn văn trên: “Tôi dám nói vậy, nhưng không phải hôm nay,” cô nói. “Olympia, tôi phải đến London.” “Anh đã nói vậy hơn một lần rồi,” cô đáp. “Chúng ta hãy dừng lại và suy nghĩ, được chứ? Hãy nhìn nhận vấn đề này một cách hợp lý.” Anh nằm ngửa, để đầu trần của mình rơi xuống đám lá ướt và rêu, cùng con côn trùng đang bò qua đống lá mục trong rừng. Anh nhìn lên bầu trời u ám qua các cành cây. Sau đó, anh quay ánh mắt xanh của mình về phía cô. “Ừ, làm vậy đi,” chàng nói. “London cách đây hơn hai mươi dặm,” cô nói. “Điện Camberley chỉ cách đây chưa đầy một phần ba quãng đường đó. Từ nơi anh nằm, trời có vẻ sẽ không gì ngoài mưa nữa. Trong hoàn cảnh này, anh không đồng ý rằng điều thực tế là quay lại chỗ Phu nhân Charles, nghỉ ngơi vài ngày rồi đến London? Đi bằng xe ngựa là điều hợp lý hơn à.” Anh nhắm mắt lại một lúc dài. Sau đó nói, “Đúng vậy.” Anh ngồi dậy. “Đầu óc tôi vừa loạn lên một chút. Nhưng tất nhiên rồi. Rõ ràng. Tôi không thể đi xe ngựa rồi bỏ cô ở đây được. Được rồi. Gọi Tom đi.” Anh nhăn mặt. “Lẽ ra cô nên mang theo cậu ta ngay từ đầu.” “Tôi đã cố gắng theo kịp Cato,” cô nói. “Tôi không nghĩ đến họ.” “Không nghĩ,” anh nói. “Chuyện này xảy ra suốt thôi. Ashmont không nên để cô đi một mình dù chỉ một phút. Chắc chắn là rắc rối rồi. Và thật bất ngờ, đây chúng ta đang ở đây.” “Tôi không hiểu gì cả,” cô nói. “Cậu ta là bạn tôi,” anh nói. Cuối cùng thì cô cũng nhận ra, như lẽ ra cô nên nhận ra từ vài phút trước, rằng cơn hỗn loạn sau nụ hôn của anh hoàn toàn xoay quanh vấn đề danh dự của đàn ông. Một quý ông, ngay cả khi là một trong Những Kẻ Bất Hảo, cũng không được xâm phạm vào lãnh địa của bạn mình. Phụ nữ là tài sản, và trong con mắt của thế gian, cô vẫn thuộc về Ashmont. Trong một khoảnh khắc—trong khoảnh khắc choáng váng của nụ hôn đó—cô đã nghĩ rằng Ripley cảm thấy điều gì đó dành cho cô. Nhưng đó chỉ đơn thuần là ham muốn chinh phục phụ nữ của đàn ông. Ham muốn của anh đã lấn át lý trí, thế thôi. Anh đã nói thẳng một sự thật hiển nhiên. Có lý do khiến các quý cô chưa kết hôn không được phép ở một mình với đàn ông. Cô chưa bao giờ tin rằng một người đàn ông sẽ buông thả ham muốn của mình với cô, nhưng điều đó đã xảy ra. Bây giờ cô thực sự hiểu, không chỉ bằng lý trí, tại sao quy tắc đó tồn tại. Nếu cô không quá bối rối trước những gì mình đã cảm nhận khi anh kéo cô vào lòng, và nếu cô không nhớ lại lời giải thích của Mẹ về chuyện thân mật trong hôn nhân cùng với những gì cô đã nhìn thấy hôm đó với đàn ngựa, có lẽ cô đã bị cuốn theo cơn bão cảm xúc. Và bị hủy hoại. Cô gần như bật cười, vì điều đó thật quá phi lý, Tiểu thư Olympia Hightower, sa ngã chỉ trong một khoảnh khắc đam mê. Rồi cô lại gần như bật khóc, vì khả năng rất lớn rằng đây sẽ là khoảnh khắc đam mê duy nhất trong cuộc đời cô. Cô tự nhủ phải bình tĩnh—anh trông như đang kích động đủ cho cả hai—và nói, “Bình tĩnh nào. Hãy nghĩ xem anh đã mở mang kiến thức của tôi thế nào.” “Đó là việc của Ashmont!” “Chúng ta hãy nhìn vào mặt tươi sáng.” “Mặt tươi sáng. Lạy Chúa.” “Khi anh ta phát hiện ra tôi không hoàn toàn ngây thơ, anh ta sẽ nhận ra mình có đối thủ cạnh tranh,” cô nói. “Điều này, nếu tin lời anh và dì của anh, sẽ khiến anh ta nỗ lực làm hài lòng tôi hơn. Anh ta không cần biết ai là người chịu trách nhiệm, và tôi sẽ không nói cho anh ta biết.” Cô cố nở một nụ cười rạng rỡ. “Anh biết không, Ripley, tôi nghĩ là tôi nợ anh một lời cảm ơn đấy.” *** Bài thuyết giáo của Phu nhân Charles đã khiến Ashmont phải suy nghĩ. Một số vấn đề, tưởng chừng như đã rõ ràng vào lúc bắt đầu cuộc phiêu lưu, giờ đây lại trở nên mơ hồ. Sau khi suy ngẫm ngắn gọn về vấn đề, anh nhận ra rắc rối của mình là gì: Anh đang khát. Vì vậy, anh và Blackwood dừng chân tại quán trọ Talbot. Nếu họ không làm như vậy, họ đã có thể đi ngang qua chiếc xe ngựa mui kín trên đường, chạy theo hướng ngược lại. Nếu mui xe ngựa không được dựng lên để tránh mưa, họ đã nhìn thấy mục tiêu của mình, và mục tiêu của họ cũng sẽ thấy họ, và mọi chuyện hẳn đã diễn ra theo một hướng hoàn toàn khác. Nhưng đó không phải là những gì đã xảy ra. Những gì xảy ra là, khi nhàn nhã nhìn ra ngoài cửa sổ, họ thấy một chiếc xe ngựa mui kín hơi cũ kỹ đang chạy theo hướng mà họ vừa đi qua. Blackwood buông một lời bông đùa về tốc độ chậm rãi của chiếc xe ngựa. Họ cũng chỉ chú ý đến chừng đó bởi vì mưa lại đổ xuống, như trút nước, và khung cảnh bên ngoài cửa sổ trở nên nhòe nhoẹt. Quay khỏi cửa sổ, Ashmont nói, “Cậu nghĩ sao? Có nên xông thẳng vào lâu đài ngay khi đến London không? Đến thẳng Dinh thự Gonerby để giành lạinàng công chúa và giữ nàng cho chắc lần này? Phu nhân C có vẻ không hài lòng với việc tôi thiếu tính liều lĩnh như này.” “Sau khi nàng công chúa đã đi đường bốn hay năm tiếng đồng hồ, và còn chưa kịp thở lấy hơi, chứ đừng nói là nghỉ ngơi sau chuyến đi sao?” Blackwood nói. “Chưa kể, cậu có nghĩ rằng cậu sẽ để lại ấn tượng tốt nhất cho cô ấy—với mùi bia rượu mới toanh, quần áo mặc từ hôm qua, và tóm lại, trông chẳng được bảnh bao như thường lệ không?” Ashmont cẩn thận chạm vào vết bầm ở mắt. “Có lẽ là không,” anh nói. “Thế để mai vậy.”
Chương 11 Dịch: thuylinhh “Dì để họ đi mất á,” Ripley nói với dì mình. “Họ đã ở đây và dì để họ đi.” Họ vừa bước vào Đại Sảnh một lúc trước và biết được Ashmont và Blackwood đã ghé qua. Ripley đứng đó, chống tay lên thành chiếc ghế gần lò sưởi. Anh ngước nhìn các hiện vật thời Elizabeth treo trên tường và tự hỏi vì sao Định Mệnh lại quyết định hành hạ anh ngay khi anh vừa trở về nước Anh như vậy. “Cháu nên ngồi xuống thì hơn,” dì Julia nói. “Trông cháu xanh như tàu lá chuối ấy.” “Ngồi xuống đi,” Olympia nói. “Cố bớt bướng bỉnh một cách ngu ngốc đi được không.” Ripley ngồi phịch xuống ghế. Anh chỉ muốn nằm dài ra. Và bất tỉnh. Cái chân của anh đau nhức, nhưng chẳng thấm gì so với những ý nghĩ đang cuộn xoáy trong đầu anh. Anh không quen phải suy nghĩ nhiều đến vậy. Thảo nào anh cảm thấy kiệt sức. “Nếu cháu dùng chiếc xe lăn của bác cháu, có lẽ cháu sẽ hồi phục nhanh hơn đấy,” dì anh nói. “Một chiếc xe lăn dành cho người bệnh! Sao không đút cháo cho cháu ăn luôn đi?” “Xe lăn có chỗ để chân,” Olympia nói. Ripley ngước nhìn lên trần nhà. “Để kê chân bị thương lên,” cô tiếp tục. Trong đầu anh hiện lên hình ảnh những bệnh nhân béo ục ịch, bị bệnh gút, lăn lóc trong xe lăn ở Bath. Anh đã từng thấy bao nhiêu bức tranh biếm họa như thế rồi? Và cười ngặt nghẽo? “Nếu kê chân bị thương lên như vậy, thưa Đức Ngài, nó sẽ mau lành hơn nhiều đấy.” “Một chiếc xe lăn,” anh nói. Ai đó làm ơn bắn chết tôi đi, anh thầm nghĩ. “Ôi, người hùng đã ngã xuống,” dì anh nói. Anh nhìn cô. “Thôi được rồi, cứ chế giễu cháu đi. Cháu đã ngã, không chỉ một lần. Cháu thấy mình như quỷ dữ vậy. Tiểu thư Olympia nói đúng. Dì cũng đúng. Cháu không nên ra ngoài hôm nay. Cháu nên có mặt ở đây khi Ashmont và Blackwood tới.” “Nhưng cháu đã không có mặt,” dì Julia nói. “Và ta đã hành động theo cách ta cho là tốt nhất. Có thể ta đã hành động trong lúc tức giận, nhưng chuyện cũng rồi.” “Tức giận vì điều gì chứ? Không phải dì cũng đồng ý với cháu Ashmont sẽ tới tìm Olympia sao?” “Ta không hài lòng với thái độ của thằng bé đó, chưa kể đến vẻ ngoài,” dì của anh nói. “Cả hai đều không thể làm yên lòng một thiếu nữ đang bất an. Thay vào đó, cậu ta như đang phô trương sự thiếu suy nghĩ, cẩu thả và liều lĩnh của mình vậy.” “Ồ, anh ta chẳng cần phô trương đâu,” Olympia nói. “Cháu không ảo tưởng gì, cháu hứa với bác đấy.” “Cháu đáng lẽ phải có,” dì Julia nói. “Ít nhất cháu cũng nên có vài hy vọng và mơ mộng về ngày cưới của mình. Quan trọng hơn, cậu ta không nên coi thường cháu. Hôm nay, trong mắt ta, dường như cậu ta chẳng bận tâm đến việc làm hài lòng cháu chút nào. Vậy mà đến giờ, cậu ta phải nhận ra rằng sự biến mất của cháu không phải một trò đùa hay một trò hề, và cậu ta còn rất nhiều việc phải sửa đổi.” “Công Tước có Gương Mặt Thiên Thần chắc hẳn trông thảm hại lắm mới khiến dì lo đến vậy,” Ripley nói. Nếu anh có mặt ở đây, có lẽ anh đã ném Ashmont qua phòng. Gã đàn ông đó bị làm sao vậy, tỏ ra kém cỏi như thế trong khi hoàn toàn có thể làm tốt hơn? Cậu ta đang cố đẩy Olympia đi xa hơn ư? Hay là cậu ta quá kiêu ngạo đến mức nghĩ rằng mình luôn luôn không thể cưỡng lại được? “Cậu ta trông tồi tệ, ngửi cũng tệ và cư xử còn tệ hơn,” dì anh nói. “Ta đã mắng cho nó một trận, và hy vọng rằng ta đã khiến cậu ta phải suy nghĩ lại. Chắc chắn rồi, cậu ta đã khiến ta phải suy nghĩ rất nhiều. Cả hai người họ đều vậy. Ta không thích phải liều lĩnh để họ chạm mặt Tiểu thư Olympia trên đường và cháu phải tự mình đối phó với hai thằng ngốc đó. Nhưng ta biết con bé là một cô gái thông minh và mạnh mẽ. Và ta cũng cược rằng khả năng đó khó xảy ra. Dường như khả năng hai tên phóng đãng đó rẽ sang đường đua ngựa hoặc một trận đấu quyền anh, hoặc ngồi trong quán rượu đợi mưa tạnh, là cao hơn rất nhiều.” Bà quay sang Olympia. “Ta đã xa rời mọi chuyện hơn ba năm nay, từ khi Charles ngã bệnh. Trước đây ta luôn nhìn Hugh và bạn bè của nó như những cậu bé ngông cuồng, và ta đã bỏ qua cho chúng, như ta đã nói với cháu. Nhưng hôm nay ta chợt nhận ra rằng chúng đã là những người đàn ông rồi, và đã quá muộn để chúng tự nhìn lại bản thân. Tóm lại, ta không thể nào lương tâm thanh thản mà vội vã đưa cháu trở về bên vị hôn phu của mình. Cháu được chào đón ở lại đây bao lâu tùy ý, cháu yêu. Khi nào cháu muốn trở lại London, chỉ cần nói một lời, ta sẽ cùng cháu đi.” Bà bước ra khỏi Đại Sảnh, tiếng bước chân vang vọng trên sàn gỗ sồi cổ kính. *** Ashmont đã đến, như Phu nhân Charles và Ripley khẳng định. Giờ thì anh ta đi rồi. Một phần trong Olympia muốn nhảy dựng lên vì thất vọng. Một phần khác lại muốn nhảy lên vì vui mừng. Vì trạng thái tâm lý này không thể chấp nhận được, cô bắt đầu sắp xếp và phân loại những cảm xúc rối bời của mình về hai người đàn ông trong cuộc đời cô. Việc Ashmont trông thế nào, có mùi ra sao hay thái độ của anh ta ra sao không thực sự khiến cô bận tâm. Những lời nhận xét của Phu nhân Charles về điều này không hề mới mẻ. Chúng hoàn toàn phù hợp với những gì Olympia đã kỳ vọng khi cô đồng ý lấy anh ta. Cô không ảo tưởng. Làm sao cô có thể? Cô đã ở ngoài Xã hội đủ lâu, đã nghe, thấy và đọc đủ nhiều để hiểu rõ Ashmont là hạng người như thế nào. Dù vậy, bất kể anh ta trông thế nào, có mùi gì hay hành xử ra sao, anh ta vẫn là Công tước xứ Ashmont. Nếu hôm nay cô ở lại Điện Camberley thay vì đuổi theo Ripley, cô đã để Ashmont đưa mình trở về London và biến cô thành nữ công tước của anh ta. Cô còn có lựa chọn nào khác chứ? Nếu trở về cùng anh ta, tất cả những hành động điên rồ ngày hôm qua của cô sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Xã hội sẽ chỉ nhún vai bỏ qua sự việc. Nó sẽ chỉ là một trò đùa khác trong kho những trò nghịch ngợm của Những Kẻ Bất Hảo. Trên hết, Mẹ, Cha và các anh em cô không phải chịu đựng những gì Olympia đã làm. Nhưng nếu cô ở lại Điện Camberley, Ripley sẽ lên đường đến London và làm cho vết thương của mình tồi tệ hơn… và nụ hôn đó sẽ không bao giờ xảy ra, và tất cả những gì cô biết về đam mê sẽ chỉ là những gì trí tưởng tượng vẽ ra. Giờ đây, cô biết điều đó cách xa thực tế đến nhường nào. Khi Phu nhân Charles giận dữ rời khỏi phòng, Olympia trở lại với thực tại và đối mặt với những sự thật của cuộc đời mình: cha mẹ phung phí và những đứa em trai không được chu cấp đầy đủ. Hãy nhìn vào mặt tích cực, cô tự nhủ. Công tước xứ Ashmont vẫn muốn cưới cô, dường như là vậy. Cô đã trải nghiệm đam mê. Tất cả những gì cô phải làm bây giờ là cố gắng giữ cho Ashmont không thay đổi ý định, dù bằng chứng cho thấy anh ta quá bướng bỉnh và sở hữu để làm vậy. Còn về việc hôn Ripley, cô sẽ không để lương tâm mình quá bận tâm. So với những gì Ashmont đã làm trong suốt thập kỷ qua, và hẳn sẽ còn tiếp tục làm sau khi kết hôn, khoảnh khắc đam mê của cô chẳng đáng là bao. Trừ đối với chính cô. Hơn nữa, với tất cả những gì cô biết—trong trường hợp này là chẳng biết gì cả—bất kỳ chàng trai trẻ đẹp nào có kinh nghiệm cũng có thể, trong hoàn cảnh phù hợp, khơi dậy một sự nhiệt thành tương tự. Cô vội vã đuổi theo bà chủ nhà. “Phu nhân Charles, cháu xin lỗi,” cô nói. “Lẽ ra cháu nên nói—” “Cô gái yêu quý, sau những thử thách như vậy, ta ngạc nhiên là cháu vẫn có thể nói chuyện mà không lảm nhảm,” phu nhân nói, chậm bước lại. “Ba người đó quả thật là giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng. Dù dừng chân qua đêm ở đâu, Ashmont cũng có thể bảo người hầu giặt giũ quần áo cho mình. Cậu ta đáng lẽ phải cạo râu. Có lẽ cậu ta cho rằng như vậy sẽ chứng tỏ bản thân quá nóng lòng muốn gặp con đến nỗi không bận tâm đến những điều nhỏ nhặt như phục sức. Nhưng nếu vậy, người ta cũng sẽ nghĩ rằng quá nóng lòng muốn gặp con nên chẳng thể bận tâm đến việc đánh nhau và chè chén.” “Người ta nghĩ vậy, nhưng đàn ông đâu phải lúc nào cũng lý trí.” Họ đã đến chân cầu thang. Phu nhân Charles dừng lại và vỗ nhẹ lên tay Olympia. “Bắt cậu ta phải nỗ lực, cháu yêu à,” bà nói. “Bắt nó phải chú ý và cố gắng. Nó cần được quản lý nhiều hơn ta tưởng, nhưng ta không nghi ngờ khả năng của con.” Olympia không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải thể hiện khả năng của mình. Cô nói, “Trong hoàn cảnh này, cháu sẽ thật ngốc nếu không nhận lời đề nghị tử tế của bác và ở lại đây, ít nhất là một hoặc hai ngày.” “Tốt. Để cậu ta sốt ruột một chút cũng chẳng hại gì.” Phu nhân Charles bắt đầu bước lên cầu thang. “Cháu biết bác hiểu rõ anh ấy nhất,” Olympia nói. “Chúng nó là những đứa con trai mà ta không bao giờ có,” phu nhân nói. “Đáng tiếc là chúng không thực sự là con ta, và ta chỉ có thể tác động đến một mức độ nhất định. Ta cũng nên nói với cháu, vì đó không phải bí mật gì lớn, dù chuyện này xảy ra đã rất lâu nên ít người còn nhớ. Cha của Ashmont rơi vào trầm cảm nặng sau khi người vợ qua đời, và không đoái hoài gì đến thằng bé. Cha của Blackwood thì là một kẻ độc đoán cứng nhắc, chẳng làm gì ngoài việc chê bai nó. Cha của Ripley thì bị một cơn sốt não khiến ông ấy trở nên hoang tưởng: Ông ấy tin rằng mình hoàn toàn khánh kiệt và ai cũng đang cố chiếm đoạt tài sản của mình. Đó là lý do ta biết rõ bọn chúng như vậy.” Olympia đứng sững lại. “Cháu hoàn toàn không biết điều đó.” Phu nhân Charles dừng bước và quay lại nhìn cô. “Chúng nó đều thừa kế khi còn quá trẻ. Nhưng giờ đây chúng đã là những người đàn ông trưởng thành, và ta không còn bào chữa cho chúng được nữa. Ta hiểu rằng cháu đã hành động bột phát. Cảm thấy hoảng sợ, ta không nghi ngờ điều đó.” Bà khẽ mỉm cười. “Chút rượu mạnh đã thúc đẩy cháu, cho cháu thêm can đảm, hay liều lĩnh, hoặc bất cứ điều gì cần thiết để hành động. Nhưng chạy trốn có lẽ là điều khôn ngoan nhất mà cháu có thể làm. Cháu cần thời gian để suy ngẫm và lập kế hoạch, tránh xa ảnh hưởng của gia đình và thằng ngốc muốn cưới con kia. Điện Camberley là nơi thích hợp để bình tâm suy xét.” Và người phụ nữ này là người dẫn đường đúng đắn, Olympia nhận ra điều đó. Mẹ và các dì rất yêu thương cô, nhưng họ không có trí tuệ hay sự am hiểu tâm lý con người như Phu nhân Charles. Chỉ với vài lời, bà đã mang đến cho Olympia những hiểu biết quý giá. Và làm dịu đi phần nào cảm giác tội lỗi trong cô. “Cảm ơn bác,” Olympia nói. “Cháu thực sự cần ở lại đây. Và suy nghĩ. Cháu cũng nên viết vài lá thư mà lẽ ra phải viết từ lâu. Đã đến lúc Ngài công tước cần nghe tin từ cháu. Cháu nghĩ rằng, sau cùng, sẽ tốt hơn nếu chúng cháu thảo luận trực tiếp với nhau về mọi chuyện.” Phu nhân Charles nhìn cô một lúc. “Phải, như vậy sẽ tốt hơn.” *** Dinh thự Ashmont, London, tối hôm đó Công tước xứ Ashmont đang chuẩn bị ra ngoài thì hai lá thư được gửi hỏa tốc từ Surrey đến. Bức thư của Ripley, như thường lệ, chỉ vỏn vẹn một dòng: Vì Chúa, đến và đưa cô ấy đi đi. Lá thư còn lại là của Tiểu thư Olympia. Dày hơn với vài trang được viết kín chữ, nó mang vẻ đáng sợ hơn nhiều. Đây là lần thứ hai Ashmont đọc nó. Anh ngồi bên bàn trang điểm, ôm đầu, làm rối tung kiểu tóc gió thổi bồng bềnh mà người hầu của anh dày công tạo ra. Công tước đang phân vân không biết nên đọc lại lá thư lần thứ ba hay gọi Blackwood đến giúp thì người hầu vội vã bước vào và thông báo: “Quý ngài Frederick đến, thưa Đức Ngài.” Công tước xứ Ashmont nhảy vọt khỏi ghế và suy nghĩ liệu có nên thoát ra nhanh chóng bằng đường cửa sổ không. “Nói với ông ấy rằng ta không có ở nhà.” “À, nhưng ta nghĩ là có đấy, Lucius,” tiếng nói vui vẻ của người bác vang lên. Người hầu nhanh chóng tránh xa đường đi của chủ nhân giọng nói. Khi Quý ngài Frederick làm một cử chỉ nhỏ tỏ vẻ khinh thường, người hầu đi ra khỏi phòng, nhẹ nhàng đóng cửa lại sau lưng. "Ta nghe nói cháu đã trở về," Quý ngài nói. Ashmont nhìn chằm chằm một cách thèm thuồng vào bình rượu đặt trên chiếc bàn nhỏ cạnh lò sưởi. Vấn đề là, nếu anh rót cho mình một ly, anh sẽ phải mời cả bác của mình, và điều đó sẽ khiến ông ở lại lâu hơn. “Mới chỉ vài giờ trước thôi,” anh nói. “Bác thật có đôi tai kỳ diệu nếu đã nghe được chuyện đó rồi. Chính bản thân cháu còn hầu như chưa biết rõ nữa.” “Cháu trở về mà không mang theo Nữ Công tước tương lai xứ Ashmont,” bác Fred nói. “À… vâng. Về chuyện đó…” Ashmont liếc nhìn lá thư. “Hơi phức tạp. Một vở hài kịch những sai lầm, như Phu nhân Charles đã nói.” Trong thoáng chốc, sự điềm tĩnh thường thấy của Quý ngài Frederick tan biến, và một nét sầu hiện lên trong đôi mắt xanh của ông. Nhưng nó biến mất gần như ngay lập tức, và ông trở lại vẻ bình thản như thường lệ. “Cháu đã đến Điện Camberley,” ông nói, vừa phủi một sợi lông bụi khỏi tay áo khoác. Khi bác Fred đã ở đó, không thể nào khiến ông rời đi cho đến khi ông tự muốn. Và bởi ông sẽ không muốn rời đi cho đến khi cạo sạch mọi ý nghĩ trong đầu Ashmont, công tước ngắn gọn kể lại hành trình tìm kiếm Ripley và Tiểu thư Olympia ngày hôm trước cũng như chuyến thăm Phu nhân Charles Ancaster hôm nay. Khi Ashmont đến đoạn cuối của câu chuyện, anh nhận thấy sự chú ý của bác mình chuyển sang bàn trang điểm, nơi lá thư đang nằm, với các trang trải ra, hoàn toàn phơi bày trước mắt mọi người—hay đúng hơn là trước mắt một ông bác hay tò mò, biết mọi chuyện và luôn để ý đến mọi thứ. Công tước bước đến bàn trang điểm một cách tự nhiên để che khuất tầm nhìn của ông bác đối với bức thư. Nhưng đã quá muộn. “Chữ viết tay đó trông giống của Tiểu thư Olympia,” bác anh nói. “Vậy ạ?” “Ta có thể nhận ra nó ở bất kỳ đâu,” Ngài Frederick nói. “Rất đặc biệt. Bọn ta từng trao đổi thư từ về một cuốn sách vào thế kỷ mười lăm. Hình như là De Consolatione Philosophiae(sách triết học) của Boethius. Có vẻ như con bé đang nói chuyện, hay đúng hơn là đang viết thư cho cháu. Ta xem đó là một dấu hiệu đầy hứa hẹn.” “À, vâng. Chuyện là cô ấy vẫn còn ở Điện Camberley.” “Ta đã suy đoán ra điều đó khi biết cháu nhận được hai lá thư, gửi hỏa tốc, từ Surrey rồi,” Ngài Frederick nói.” Ashmont không hỏi làm thế nào hoặc ở đâu mà bác anh biết được chuyện này. Rõ ràng là ông có gián điệp ở khắp nơi. Rất có thể, một vài kẻ đang ở ngay dưới mái nhà của Ashmont. Bác anh từng là người giám hộ của anh. Thêm vào đó, đám gia nhân sợ ông. Ít ai bên ngoài có thể hiểu được điều này, bởi một người đàn ông lớn tuổi có vẻ ngoài hiền từ và gương mặt ngây thơ hơn thì không thể tìm thấy ở London, hoặc có lẽ là cả nước Anh. “Đúng là hơi phức tạp,” Ashmont nói. “Bác biết đấy…” Anh cau mày. “Ý cháu là, cháu nghĩ mình nắm được ý chính, nhưng trời ơi, cô gái ấy dùng quá nhiều lời.” “Và, nếu điều này không quá riêng tư, thì ý chính là…?” “Cô ấy say rượu,” Ashmont nói. “Cô ấy uống brandy để trấn an tinh thần trước đám cưới, bác hiểu chứ. Nhưng nó không giúp cô ấy bình tĩnh mà lại khiến cô ấy bỏ chạy.” Môi của Ngài Frederick khẽ giật. “À.” “Ripley cố gắng đưa cô ấy quay lại, nhưng khi cô ấy không chịu quay về, cậu ta tự nhận trách nhiệm làm vệ sĩ cho cô ấy. Cuối cùng, cậu ta đưa cô ấy an toàn đến chỗ dì mình, nhưng vì cô ấy—Olympia—cậu ta gặp tai nạn, và cô ấy cảm thấy…” Anh nhặt lá thư lên, lật qua một trang và đọc, dùng ngón tay lần theo từng dòng chữ, “‘bắt buộc phải ở lại Điện Camberley, để ngăn cậu ta làm vết thương trở nặng hơn, vì cậu ta là đàn ông và có một ác cảm kỳ lạ với sự khôn ngoan.’ Nhưng bác có thấy lạ không, thưa bác, Phu nhân Charles không hề nhắc đến vụ tai nạn. Thật kỳ quặc, đúng không?” Nét thoáng sầu lướt qua gương mặt của Quý ngài Frederick trong chốc lát rồi biến mất. “Không kỳ quặc chút nào,” ông nói. “Phu nhân ấy đôi khi rất khó đoán. Một phẩm chất hữu ích để quản lý chồng bà, và cả những người khác nữa.” “Chẳng có chút ích lợi nào với cháu,” Ashmont nói. “Nhưng thôi, không bàn thêm chuyện đó nữa. Cô ấy—ý cháu là Olympia—đề nghị hủy hôn với cháu.” “Hừm.” “Cô ấy viết, ‘Không ai lý trí lại mong đợi ngài kết hôn với tôi lúc này.’ Nhưng cháu không lý trí, chết tiệt!” Vì không lý trí, anh thấy mình quá bối rối và khó chịu đến mức chẳng buồn quan tâm liệu bác Frederick có ở lại đến tận ngày tận thế hay không. Ashmont tiến đến chỗ bình rượu, rót đầy hai ly, và đưa một ly cho bác mình. “Cháu không ngại nói thật với bác là cháu chẳng hiểu gì,” công tước nói. “Trong tất cả những chuyện phiền phức trên đời. Giá mà chúng ta đến muộn hơn, hoặc ở lại lâu hơn, dù có bị tiếp đón lạnh nhạt đi nữa, Olympia và cháu đã có thể giải quyết mọi chuyện ngay tại đó.” Anh uống một ngụm. “Giờ thì cháu phải quay lại Điện Camberley vì Olympia nghĩ rằng cháu quan tâm đến những gì người ta nói. Cháu đã nói là sẽ cưới cô ấy, đúng không? Cô ấy nghĩ cháu sẽ thất hứa chỉ vì cô ấy buồn bực hay u sầu gì đó và bỏ chạy à?” “Tóm lại, đây không phải là trò đùa của Ripley,” bác Fred nhận xét một cách trầm tư. “Không, cậu ta chỉ định giao cô ấy cho một người họ hàng, rồi quay lại báo với cháu nơi để đến đón cô ấy. Nhưng mọi thứ cứ rối tung lên. Sau đó, cậu ta lại bị gãy tay hay gì đó.” Anh liếc xuống lá thư. “Không, là liên quan đến chân, nhưng cô ấy dùng những từ dài lê thê để giải thích. ‘Mất khả năng,’ cô ấy viết. Và cậu ta nói—” “Những gì Ripley nói không quan trọng,” Ngài Frederick ngắt lời. “Cháu sẽ không quay lại Điện Camberley. Đây là một tình huống tế nhị hơn những gì cháu nhận thức được, điều này cũng không khiến ta ngạc nhiên, xét đến kiểu phụ nữ mà cháu thường giao du. Ta không lấy làm lạ khi cháu không biết cách cư xử với một cô gái đàng hoàng.” “Bác đã nói cô ấy sẽ không bao giờ đồng ý cưới cháu, nhưng cô ấy đã đồng ý mà.” “Và cháu lại không đủ khôn ngoan để giữ con bé lại.” “Cháu đâu có buông cô ấy ra. Cô ấy—”” “Cháu có biết mình đang có gì không? Cháu có nghĩ rằng những cô gái như vậy xuất hiện khắp nơi, chỉ kiên nhẫn chờ đợi cháu tỉnh ngộ sao? Cô gái trẻ đó sở hữu trí tuệ và bản lĩnh để trở thành một ảnh hưởng ổn định, thứ mà cháu đang rất cần.” “Vâng, cháu biết cô ấy—” “Cháu nghĩ mình biết, nhưng thực ra cháu chẳng biết gì hết. Cháu đang vứt bỏ cơ hội duy nhất và cuối cùng của mình để có được hạnh phúc thật sự. Cha cháu không thể thay đổi điều đã xảy ra với mẹ cháu. Nhưng ít nhất ông ấy đã có những năm tháng hạnh phúc bên bà. Còn cháu thì sẽ không có gì cả. Cháu sẽ nhìn lại, sau nhiều năm nữa, và hối tiếc.” Nếu đây là tiếng nói của kinh nghiệm, Ashmont không nhận ra, giống như cách anh không nhận thấy cảm xúc bất thường trong giọng nói ấy. “Tại sao ai cũng đổ lỗi cho cháu vậy?” anh nói. “Cháu đã theo đuổi cô ấy, đúng không? Chính bác đã nói cháu chỉ phí thời gian thôi. Bác bảo cô ấy sẽ không bao giờ đồng ý cưới cháu, vì cô ấy quá thông minh, bác đã nói vậy. Nhưng—” “Cháu có thể khiến con bé nói ‘Tôi đồng ý’ được không?” bác anh ngắt lời. “Và nếu cháu nghĩ mình hoàn toàn vô tội, bác mời cháu nhìn lại chính mình. Ngay cả khi đã tắm rửa, cạo râu, và mặc quần áo sạch sẽ, trông cháu vẫn như một tên vô lại. Tệ hơn cả một thủy thủ sau ba ngày lên bờ. Không, so sánh vậy còn là bất công với các thủy thủ.” “Cháu vừa đánh nhau!” “Cháu lúc nào cũng đánh nhau. Nhưng lần này thì nó lộ rõ. Cháu không thể đơn giản xông tới chỗ một cô gái trẻ, người mà ta không nghi ngờ gì, đang ở trong trạng thái vô cùng lo lắng và rối bời trong bộ dạng như vậy.” “Cháu không định xông tới!” “Nhìn kỹ vào gương đi, Lucius,” bác anh nói. “Nếu trước đây con bé đã ngần ngại, nếu con bé nghi ngờ nhân cách của cháu hoặc lo lắng về cách cư xử của cháu, cháu nghĩ bây giờ nó sẽ lao vào vòng tay cháu sao?” Ashmont siết chặt hai tay. “Cháu định đánh ta sao?” bác anh nói một cách nhẹ nhàng. “Thật không thể chịu nổi,” Ashmont nói. “Bác không thể mong cháu ở đây mà không làm gì cả.” “Học cách chịu đựng đi,” bác Fred nói. “Ta mong cháu ở lại London cho đến khi cháu trở nên chỉn chu hơn cả về ngoại hình lẫn tâm trí. Ta sẽ đi nói chuyện với con bé.” Ashmont buông lỏng tay, đi tới cửa sổ và nhìn ra ngoài. “Trong khi cháu ở lại đây, để mọi người tự cho mình là hóm hỉnh đến mỉa mai cháu, hỏi xem cô dâu của cháu đi đâu rồi. Và trong khi các họa sĩ biếm họa vẽ hình cháu với cặp sừng trên đầu.” “Cháu dường như không nhận ra rằng bản thân đã trở thành trò cười từ lâu rồi à.” Mặt Ashmont tối sầm lại, anh quay phắt đi khỏi cửa sổ. “Cháu có thể đánh nhau với tất cả những ai thấy trò lố bịch của mình buồn cười,” bác anh nói, “hoặc lần này, hãy thể hiện một chút phẩm giá và trưởng thành, và cười xòa đi. Nếu cháu không thể nghĩ ra một lời đáp trả hài hước để đối phó với bọn chế giễu, hãy nhờ Blackwood nghĩ giúp. Nhưng nếu cháu muốn làm điều gì có ích, hãy viết một lá thư gửi tới Tiểu thư Olympia, từ chối lời đề nghị hủy hôn của cô ấy. Hãy viết một bức thư thật hay. Mà nghĩ lại, tốt hơn để ta đọc cho mà viết.” *** Thứ sáu, ngày 14 tháng 6 Mặt trời lâu nay vắng bóng cuối cùng cũng chịu ban những tia sáng qua cửa sổ của cánh đông Điện Camberley khi Công tước xứ Ripley, vừa chửi thề vừa điều khiển một chiếc ghế cơ học từ phòng làm việc ra thư viện. Quý ngài Charles đã xây dựng phòng làm việc dọc theo một bức tường phía ngoài bên trong thư viện, gần phía nam của nó. Bên cạnh đó, một hành lang hẹp dẫn đến cầu thang lên Phòng Trưng Bày Dài nằm ngay phía trên. Dù một phần thư viện đã được dành làm phòng làm việc, phần còn lại vẫn kéo dài khoảng 100 feet (~30m), gần như chiếm toàn bộ chiều dài của cánh nhà phía này. Tuy nhiên, nó chứa nhiều chướng ngại vật hơn hẳn, như bàn, ghế, đôn để chân và các bộ thang, so với Phòng Trưng Bày Dài ở phía trên. Nhưng vì ở phía trên, Phòng Trưng Bày Dài lại không thể tiếp cận được với Ripley. Chân anh đặt trên bàn kê chân nâng cao, và tay anh nắm chặt các tay cầm nhô ra từ tay ghế. Xoay các tay cầm—riêng lẻ hoặc cùng nhau—sẽ di chuyển chiếc ghế theo nhiều hướng khác nhau. Mẹo nằm ở chỗ phải nhớ được sự kết hợp xoay nào sẽ di chuyển ghế theo hướng nào. Sau khi giật mình xoay ghế qua phải, qua trái, rồi xoay tròn, anh nắm chặt cả hai tay cầm và xoay cả hai về phía mình. Chiếc ghế lao ngược về phía sau, và anh nghe thấy một tiếng hét nhỏ phía sau lưng. Giật mạnh tay cầm theo hướng ngược lại, anh lao về phía trước. Với tiếng gầm đầy bực bội, anh xoay cả hai tay cầm về bên phải, và chiếc ghế quay sang phải, rồi lại quay phải thêm lần nữa. Anh nghe thấy tiếng bước chân đến gần. “Có lẽ, thưa công tước, ngài nên đọc hướng dẫn sử dụng thì hơn,” Tiểu thư Olympia nói. Anh cảm thấy tóc gáy dựng lên khi nghe giọng nói của cô. “Không,” anh nói. “Nếu bà tôi có thể điều khiển thứ này, thì chắc chắn tôi cũng có thể.” Cô tiến lại gần hơn và bước vòng quanh anh. “Chiếc ghế này trông chẳng giống bất kỳ chiếc ghế dành cho người bệnh nào mà tôi từng thấy.” “Chúng từng rất thịnh hành vào một thời điểm nào đó,” anh nói. “Không biết có bao nhiêu chiếc được sản xuất. ‘Ghế Cơ Học Merlin.’” Anh vỗ nhẹ vào tay cầm đã sờn cũ. “Bác Charles thường nói về việc thăm bảo tàng cơ học của Merlin ở phố Princes. Bác ấy đã mua chiếc này cho bà tôi.” Cô cúi xuống để quan sát hệ thống thanh kim loại nối với bánh xe. “Thứ này phức tạp hơn hẳn những gì người ta thường thấy.” Cô mặc thêm một chiếc váy khác của dì anh, đơn giản và màu xám, chỉ ngoại trừ chiếc khăn quàng cổ trắng buộc quanh cổ. Tay áo bó hẹp, chỉ có một chút phồng nhỏ ở phần trên cánh tay. Phần thân áo cũng nghiêm nghị không kém. Giống như một chiếc áo khoác, chiếc váy cài khuy từ cổ đến gấu. Dù chiếc này vừa vặn hơn so với chiếc cô mặc hôm qua, nhưng vẫn không vừa như lẽ ra phải thế. Mái tóc nâu dày của cô trông ổn hơn. Nó đã được búi lên một cách đơn giản, với vài lọn cuộn ở phía sau đầu và vài lọn xoăn nhẹ ôm lấy khuôn mặt cô. Anh muốn cúi xuống để hít hà hương thơm từ mái tóc của cô, mùi hương tươi mát mà anh nhớ quá rõ. Nhưng anh ngồi thẳng lưng, nhìn chằm chằm về phía trước qua mũi giày của mình. “Nó được thiết kế để giúp người bệnh di chuyển độc lập hơn,” anh nói. “Bà tôi từng tự mình đi qua bãi cỏ, sỏi đá và đủ loại địa hình. Tôi nghe nói từng có lý thuyết đùa cợt về việc gắn động cơ hơi nước vào nó, để di chuyển mọi người mà không cần sức người hay sức động vật. Tôi dám nói rằng bà vẫn sẽ còn lăn lóc khắp nơi trong chiếc ghế này, nếu như không bị cơn sốt ác nghiệt cướp đi.” Chính cơn sốt ấy, anh từng nghe kể, đã khiến cha anh trở thành một con người hoàn toàn khác. Dù Ripley khi đó mới mười tuổi, anh gần như không nhớ được người cha trước kia, người mà mẹ anh đôi khi nhắc đến, một người đàn ông dí dỏm, quyến rũ, người đã chiếm được trái tim bà. Ký ức về người cha vui vẻ ấy đã bị người cha hiện tại, một kẻ bủn xỉn và đau khổ, xóa nhòa. “Bác Charles hẳn đã rất chán nản khi phải sử dụng chiếc ghế này,” anh nói. “Giống như tôi bây giờ. Nhưng không còn cách nào khác. Các quý cô, quý bà trong nhà này mắng mỏ tôi đến mức tôi không còn tai để nghe hay trí óc để nghĩ mỗi khi tôi cố bước đi. Với cái chân đau này, tôi không đủ nhanh để chạy thoát khỏi họ.” Cô đứng dậy, vuốt thẳng váy. “Cuộc sống của anh thật bi kịch và đau khổ.” “Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình bị quản thúc và lăn lóc trong một chiếc ghế cho người bệnh. Nhưng giờ thì ngày ấy đã đến. Tôi còn cảm thấy cơn gút đang đến gần. Có lẽ tôi nên đội tóc giả và mang răng giả đi là vừa.” Cô chỉnh lại cặp kính, dù chúng đã ngay ngắn. “Và biết bao người từng nghĩ rằng anh sẽ không sống đủ lâu để bị gút hay cần đến tóc giả và răng giả.” “Thưa cô, liệu cô chỉ đến đây để chế nhạo tình trạng tàn tật của tôi, hay có một động cơ thầm kín nào khác?” Cô chống tay lên hông, đưa mắt nhìn khắp thư viện. “Dì anh tình cờ nhắc rằng những quyển sách mà Quý ngài Charles thu thập gần đây chưa bao giờ được ghi vào sổ thư viện. Chúng đang chất đống đâu đó trong căn phòng này. Tôi đã đề nghị giúp dọn dẹp.” Ripley xoay tay cầm của chiếc ghế, và nó bắt đầu lùi lại phía sau. “Xuống đây.” “Anh nhất định phải làm theo cách khó nhất à?” cô nói. “Làm cách khác thì chán lắm.” “Hay là anh không biết cách làm cho cái ghế đó tiến về phía trước vậy?” “Tất nhiên là biết chứ. Chẳng có gì khó.” Anh xoay các tay cầm, và chiếc ghế bắt đầu chạy vòng tròn. Anh nghe thấy một thứ gì đó rơi bịch xuống tấm thảm. “Trời đất, Ripley, anh đang làm rơi sách—cẩn thận cái ghế đẩu!” Anh tránh được cái ghế đẩu, nhưng lại xoay tay cầm quá nhanh, khiến chiếc ghế bắt đầu xoay tròn, và cô hét lên, “Không phải cái bình hoa!” rồi nhảy đến để bắt lấy nó. Cùng lúc đó, anh xoay ghế theo hướng ngược lại. Cô loạng choạng và ngã lên chiếc ghế… nằm ngang trên đùi anh… tay vẫn giữ chặt bình hoa, còn người thì chổng lên. Trong một khoảnh khắc dài vô tận, cả hai đều không cử động. Anh cảm nhận rõ rệt sự ấm áp từ cơ thể cô và mùi hương sáp bôi thơm từ tóc cô thoảng lên. Anh cúi đầu xuống, khẽ nhắm mắt và hít một hơi sâu. “Nặng quá,” giọng cô vang lên, hơi nghèn nghẹt. Anh ngẩng đầu lên, rủa thầm bản thân. “Nếu anh có thể giữ cái ghế này đứng yên tuyệt đối,” cô nói, “ thì tôi có thể đặt cái bình này xuống sàn.” “Tôi không chắc về ‘đứng yên tuyệt đối,’” anh nói. Vùng dưới của anh đang phản ứng nhạy bén trước cơ thể phụ nữ ở cự ly gần. Anh có thể cảm nhận được ngực cô áp vào cánh tay mình. “Anh có thể cầm lấy không?” cô hỏi. “Cái gì?” “Cái bình. Anh có thể lấy nó từ tôi không?” Anh thận trọng vươn một tay ra. Chiếc ghế lùi lại. “Khóa phanh đi,” cô nói. “Tôi không chắc cái này có phanh,” anh nói. “Đừng có ngốc,” cô nói. “Chắc chắn là có rồi.” Thật khó để không trở thành kẻ ngốc khi có một người phụ nữ xinh đẹp nằm gần như này trên đùi mình, và bản thân anh lại chẳng phải loại thánh nhân gì cho cam. “Nó ở bên phải anh đấy,” cô nói. “Ngay trên chỗ tay ghế cong. Cái cần nhỏ hơn. Anh đã phải nhấc nó lên để ghế có thể di chuyển.” “À, đúng rồi. Quên mất.” Anh nhấn cần xuống và khóa bánh xe lại. Cô cẩn thận đặt chiếc bình xuống. Điều này không dễ như người ta tưởng. Cô phải di chuyển cơ thể từ một tư thế khó chịu sang một tư thế khác cũng chẳng thoải mái hơn là bao. Mặc dù tốt hơn là nên nhìn đi chỗ khác—ví dụ như nhìn lên trần nhà—nhưng anh không đủ khôn ngoan để làm vậy. Ánh mắt anh dán chặt vào vòng ba của cô, thứ chỉ được che phủ sơ sài dưới lớp váy lót quá mỏng. Vòng ba ấy chuyển động một cách đầy khiêu khích, chỉ cách bàn tay đang nắm lấy cần điều khiển vài inch. Anh siết chặt tay cầm hơn. Cô bắt đầu cẩn thận trèo xuống khỏi người anh, xoay người để tránh mặt anh. Thật cẩn trọng, vì mỗi chuyển động nhỏ của cô cũng khiến anh bùng nổ những cảm giác mãnh liệt ở phần bản năng, chẳng màng đến tình bạn, chứ đừng nói đến sự đúng mực. Những phần ấy chỉ quan tâm đến cơ thể nữ tính mềm mại đang áp sát cánh tay, ngực, và nằm gọn trong lòng anh. Nhịp tim anh tăng vọt, và những cảm giác khác ùa đến. Bàn tay đang siết chặt cần điều khiển bất giác giật mạnh lên. Chiếc ghế bắt đầu lăn nhanh về phía cửa sổ. “Ripley, đừng đùa nữa!” “Đừng có cựa quậy.” “Tôi đang cố xuống mà không làm đau chân anh. Hoặc không ngã sấp mặt. Dừng cái ghế lại trước khi chúng ta lao qua cửa sổ!” Anh kéo tay cầm, và chiếc ghế quay ngoặt sang bên phải. Cô loạng choạng cố rời khỏi người anh, nhưng chuyển động của cô lại khiến chiếc ghế càng lăn nhanh hơn. “Dừng lại, Ripley!” “Tôi không thể với tới cái cần,” anh nói. “Váy của cô đang chắn đường.” Và cả vòng ba tuyệt mỹ của cô, hiện đang áp sát bụng anh, cũng chắn đường. Rõ ràng là cả khả năng suy nghĩ tỉnh táo của anh cũng bị cản trở. Cô cựa quậy thêm một chút, cuối cùng xoay xở để ngồi gọn trên đùi anh với đôi chân lơ lửng qua đầu gối anh. “Dừng lại để tôi xuống được không?” cô nói. Anh dừng chiếc ghế. Nhưng anh không hề muốn làm vậy. Anh tự nhủ phải cư xử đúng mực, nhưng điều đó không theo lẽ thường tình của cả một đời làm để làm điều ngược lại. Anh nhìn dọc theo thư viện dài đầy chướng ngại vật, và một điều gì đó trong tâm trí anh thay đổi. Khi cô bắt đầu rời khỏi đùi anh một cách thận trọng, anh xoay tay cầm. Chiếc ghế lại bắt đầu di chuyển. Cô vươn tay về phía cần gạt để dừng bánh xe, nhưng chân anh chắn đường. Cô nắm lấy tay phải anh, cố xoay tay cầm, nhưng anh giữ chặt, không nhúc nhích. Cô cắn môi. Khuôn mặt cô đỏ ửng, hơi thở gấp gáp, và kính cô bị lệch sang một bên. Anh kéo tay cầm, và chiếc ghế lăn về phía trước. Cô túm lấy cánh tay anh. “Ripley!” “Và sau một cú khởi đầu chệch choạc, cuộc đua chính thức bắt đầu!” anh nói. “Ripley dẫn đầu, tay đua là Quý cô O bám chặt như thể sinh mạng phụ thuộc vào nó. Nhưng đối thủ Cái ghế và Cái ghế khác bám sát phía sau. Bàn đang tiến lên gần góc cua, nhưng Ripley vẫn giữ vững vị trí dẫn đầu. Tốc độ của chiến mã thật đáng kinh ngạc!” Anh tiếp tục miêu tả như thể đang tường thuật một cuộc đua ngựa cho đám đông đang hồi hộp dõi theo, trong khi xoay tay cầm để chiếc ghế lăn nhanh về phía nam của thư viện. “Ripley!” Anh suýt đâm vào một cái ghế đẩu và tiếp tục lăn. “Liệu Ripley có đâm vào cái rương mà Vua James I tặng cho ai đó đã chết hàng trăm năm trước không? Nhưng không, Ripley thông minh tránh được trong gang tấc, và giờ lao về phía bàn viết của Vua Charles II—” “Rẽ trái đi, đồ điên!” cô hét lên. “Trái!” Anh bẻ gấp sang trái, rồi thêm vài cú cua gấp nữa, lượn vòng và zigzag, miệng vẫn liên tục tường thuật. Anh cảm thấy lưng cô rung lên, rồi tiếng cười bật ra khỏi cô: một tràng cười giòn tan. Cả thế giới như đổi khác, rực sáng lên, và trái tim anh bừng vui. Anh cũng bật cười. “Đây là một khúc cua khó,” anh nói. “Liệu Ripley có vượt qua hay mất lái—mất cả bánh—và làm tay đua ngã nhào xuống đất?” “Trái!” cô ra lệnh, cười không ngớt. “Trái gấp. Giờ phải. Nhanh hơn đi, Ripley. Ghế Đỏ đang đuổi kịp. Cẩn thận! Cái bình đang cố lao vào đường đua. Đừng để mất đà. Đúng rồi! Nhanh nữa, Ripley!” Cô giả vờ quất nhẹ vào đầu gối anh, và anh cười đến mức suýt làm cả hai ngã khỏi ghế. Họ cứ thế tiếp tục, chạy dọc một bên thư viện rồi vòng lại bên kia, suýt chút nữa làm hỏng cả gia tài cổ vật quý giá. Họ không hề thấy cánh cửa mở ra hay gương mặt nhìn trộm vào. Cũng không thấy cánh cửa đóng lại, nhanh và lặng lẽ, khi chiếc ghế lăn qua. Họ cứ lao đi trong cuộc đua điên rồ, cho đến khi cả hai cười đến không còn sức làm gì nữa. Cuối cùng anh để chiếc ghế lăn chậm lại và dừng hẳn trên một đống thảm rối rắm, không xa mấy chỗ sách anh định dẫn cô tới. “Và đây, tại vạch đích, chiếc cúp dành cho người chiến thắng: một đống sách cũ mốc meo to đùng,” anh nói. Cô nhìn qua chỗ sách chất đống trên một cái bàn lớn, rồi ngước lên nhìn anh. Khuôn mặt cô đỏ ửng, tóc cô bung ra lòa xòa. “Phanh đi,” cô nói, thở hổn hển. “Khóa bánh xe lại. Là một tay đua, tôi sẽ xấu hổ lắm nếu ngã khỏi ngựa khi cuộc đua kết thúc.” Anh loay hoay với cái cần, không thể tập trung được. Cô nắm lấy tay anh. “Thật đấy, không khó như anh nghĩ đâu,” cô nói. Anh giữ lấy tay cô, các ngón tay anh siết quanh tay cô, rồi đan vào nhau. Anh kéo cô lại gần hơn. Hơi thở anh trở nên gấp gáp. Lồng ngực anh phập phồng. Cô cũng vậy. Đôi mắt cô giờ xanh thẳm, sáng như những vì sao. Vẫn còn vương lại chút dư âm của tiếng cười trong ánh mắt cô, dù nụ cười đã dần phai. Tiếng cười trong trẻo, ngọt ngào ấy vẫn vang vọng trong đầu anh. “Cô thắng rồi,” anh nói. Rồi anh cúi đầu xuống và hôn cô.
Chương 12 Dịch: thuylinhh Ngay khoảnh khắc anh nắm lấy tay cô, Olympia biết điều gì sẽ xảy ra. Cô hoàn toàn có thể dễ dàng thoát khỏi tình huống này. Nhưng cô không hề cố gắng làm vậy. Khi anh hôn cô, cô siết chặt lấy bàn tay anh, bàn tay đang bị ép giữa hai người, chạm vào ngực anh. Cô có thể cảm nhận được nhịp tim của cả hai, đập nhanh và mạnh. Rồi anh rút tay ra để nâng khuôn mặt cô lên trong khi hôn, và cô vòng tay ôm lấy cổ anh. Không suy nghĩ gì cả. Chỉ có bản năng. Chỉ có khao khát. Như vậy là đủ. Cô đáp lại nụ hôn theo cách anh đã dạy cô và cách mà con tim cô thôi thúc làm. Anh ôm chặt lấy cô, và trái tim đang đập loạn nhịp của cô cảm giác như nhẹ bẫng, như một chú chim, đập cánh điên cuồng khi bay lên cao. Nụ hôn này là sai trái. Một phần trong cô biết điều đó. Nhưng một phần mạnh mẽ hơn trong cô hiểu rằng cô sẽ không bao giờ tìm thấy cảm giác này lần nữa. Sẽ không bao giờ có lần nào giống như thế này. Cô biết mình đang si mê và ngốc nghếch, đúng vậy. Nhưng cô cũng biết rằng mỗi người chỉ có một cơ hội duy nhất trong đời cho lần si mê đầu tiên. Đây là lần của cô. Nụ hôn lập tức trở nên sâu đậm hơn, và với cảm giác trọn vẹn đầu tiên về anh, lý trí và ý chí của cô tan chảy, cũng như mọi sức lực trong cơ thể. Cô cảm nhận sự táo bạo từ môi anh, từ lưỡi anh, và sự táo bạo ấy lan tràn trong cô như một thứ rượu mạnh, còn mạnh hơn cả ly rượu brandy đã đưa cô đến đây. Nó khiến cô không còn bận tâm gì ngoài những cảm giác ở hiện tại: hơi ấm từ cơ thể anh, cách anh ôm ấp cô, cảm giác đôi tay rắn chắc của anh vòng quanh người cô, sức nóng khác biệt với hơi ấm cơ thể, và sự khao khát muốn nhiều hơn từ những điều này. Anh cho cô nhiều hơn, bàn tay anh lướt qua vai và lưng cô, xuống đến cánh tay, như thể anh đang khám phá và ghi nhớ từng đường nét trên cơ thể cô. Anh đưa môi dọc theo má, hàm và cổ, để lại những nụ hôn nóng bỏng và ngọt ngào. Cô khẽ rên lên một âm thanh thỏa mãn và cố gắng đáp lại anh, bằng những cái chạm, những nụ hôn. Cô nghe tiếng anh phát ra, trầm đục từ trong cổ họng, một âm thanh nguyên sơ khiến cô rùng mình. Rồi anh di chuyển tay khắp cơ thể cô, qua ngực, eo và hông, khiến cô bùng lên sự nóng vội không thể kiềm chế. Không suy nghĩ, hoàn toàn không. Tâm trí không thể cưỡng lại dòng thác cảm giác đang ào ạt tràn qua. Suy nghĩ tan biến, để lại cơ thể và bản năng của cô bừng tỉnh mạnh mẽ. Cô di chuyển dưới bàn tay anh theo bản năng, giống như một con mèo hay chó đang được vuốt ve. Không có sự ngượng ngùng, bởi niềm vui, khao khát và quá nhiều cảm xúc khác đang hoàn toàn chiếm lĩnh cô. Cô nhận ra bàn tay anh đang di chuyển dọc xuống chân mình. Cô nghe thấy tiếng sột soạt của lớp vải muslin và cảm nhận luồng không khí chạm vào lớp tất nơi trước đó váy lót che phủ. Cô cảm nhận bàn tay anh, kéo váy cô lên, rồi dừng lại trên đầu gối một chút trước khi lướt qua lớp tất và lên trên dây nịt tất, đến phần da thịt trần trên đùi cô. Cô run rẩy trước cái chạm đó, trước sự thân mật này. Cô biết sự thân mật này là sai, nhưng cô không quan tâm. Cô không thể nào thỏa mãn với những cảm giác và sự gần gũi này. Cô muốn, muốn mãnh liệt, nhưng không rõ mình muốn điều gì, chỉ biết rằng cô muốn anh, và cảm giác này, khao khát này, giống như sự đói khát không thể nguôi ngoai. Bàn tay anh, bàn tay anh. Ấm áp, sở hữu, nó lướt trên phần da thịt trần trên đùi cô. Cô cố gắng xích lại gần anh hơn, như thể cô muốn hòa làm một với anh, với trải nghiệm này, với cuộc đua điên cuồng của cảm xúc này. Bàn tay anh khựng lại, và môi anh rời khỏi cổ cô. Anh nói điều gì đó mà cô không nghe rõ, giọng anh quá thấp và dày đặc. Rồi anh nói rõ ràng hơn: “Xuống ngay. Tôi đã bảo tôi không đáng tin mà.” *** Tiểu thư Olympia bước xuống khỏi người anh, không mấy duyên dáng. Chiếc ghế lắc lư một chút, nhưng bánh xe đã mắc kẹt giữa những tấm thảm nên không thể đi xa. Tuy nhiên, sự vụng về của cô không phải là do chiếc ghế, mà chính là Ripley. Cô là một người ngây thơ, và anh đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của cô, khiến cô bị xáo trộn. Dù không đến mức như cách anh tự làm rối mình, nhưng đủ để làm rối loạn bộ não khổng lồ của cô, nơi anh không nghi ngờ rằng mọi thứ đều được sắp xếp ngăn nắp theo từng chủ đề. Khi cô đứng lên, cô run rẩy vuốt lại váy và kéo phần thân áo về đúng vị trí. Cô chỉnh lại kính và vô thức vuốt tóc bằng mu bàn tay. Trong khi cô tự chỉnh trang, anh cố gắng kìm nén ham muốn đưa cô trở lại tình trạng lộn xộn. Mình ghét bản thân mình, anh nghĩ. Anh tập trung vào việc gỡ chiếc ghế ra khỏi những tấm thảm nhàu nát trong khi cố gắng bình tĩnh lại. “Tôi không quan tâm dì tôi nói gì hay cô nói gì,” anh nói. “Càng sớm trở lại London—hoặc tôi sẽ đi—nói cách khác, càng sớm tách nhau ra thì càng tốt. Tôi không giỏi kiềm chế bản thân. Tôi ghét nó.” Anh đã từ bỏ điều đó hoàn toàn sau khi cha anh qua đời. Anh đã thực hành quá nhiều điều đó trước đây—mặc dù đó không hoàn toàn là tự kiềm chế, mà là sự áp đặt từ người cha không ổn định tinh thần, người nắm trong tay cả túi tiền và mọi sợi dây điều khiển cuộc sống của anh. Cô đan tay trước eo và nhìn anh như thể đang xem xét một cuốn sách với thể loại làm cô bối rối. “Ý anh là tự kiểm soát bản thân, đúng không?” cô hỏi. “Ý tôi là tôi không giỏi việc không đạt được thứ tôi muốn. Và điều đó thật phiền phức, cô thấy đấy—bởi vì cô là vị hôn thê của bạn thân tôi!” Cô chớp mắt. “Thật phiền phức, tôi đồng ý.” “Dù Ashmont có giao cho tôi nhiệm vụ gì, thì nó cũng không phải là thực hành cho đêm tân hôn.” “Có lẽ là không phải,” cô đáp. “Chắc chắn là không rồi,” anh nói. “Được thôi.” Má cô đỏ bừng. “Anh dường như đang ám chỉ rằng tôi là điều anh muốn.” “Ám chỉ ư? Chẳng phải quá rõ ràng sao?” Một khoảng lặng. “Nếu vậy, có lẽ anh nên là người cưới tôi,” cô nói. Trong một khoảnh khắc, đầu óc Ripley cảm giác như một cỗ máy đồng hồ bị bung lò xo. “Tôi cần cưới một công tước,” cô nói. “Ý là, một người đàn ông có tước hiệu và thu nhập lớn. Đó sẽ là giải pháp lý tưởng.” Cô đứng thẳng lưng, giải thích: Cha mẹ cô là những người tiêu hoang nhưng lại yêu thương con cái, không bao giờ nghĩ đến tương lai và những gì ít ỏi họ sẽ để lại cho đứa con trai cả, chưa kể đến số không họ để lại cho năm cậu con trai khác. Trong khi đó, cha cô tiêu tốn những khoản tiền vô lý cho các Mùa vũ hội chỉ để hy vọng gả cô đi. Tự nhiên, khi Ashmont ngỏ lời cầu hôn, cô đã coi anh như một ‘vị thần xuất hiện giải cứu’. Ripley vẫn đang cố tiêu hóa đề nghị anh cưới cô. Chuyện về gia đình cô không phải là tin mới. Anh đã nhận ra điều đó từ lâu, và khi dành thời gian bên cô, anh hiểu rằng cô không thể chấp nhận Ashmont vì lý do lãng mạn hay tham vọng. Dù vậy, cách cô nhìn nhận thực tế về tình huống của mình, kết hợp với lời cầu hôn, khiến anh cảm thấy chao đảo. Thu thập lại suy nghĩ, anh nói, “Tóm lại, là một công tước đủ giàu, tôi cũng chẳng khác Ashmont là mấy.” “Hoặc cũng tệ như vậy. Nhưng giờ tôi quen với anh hơn.” Trong những điều khác, cô hẳn đã quen với việc anh tận dụng mọi cơ hội để làm cô mất kiểm soát. Đúng là cô không từ chối anh. Đúng là cô hoàn toàn hợp tác. Nhưng anh, trong tất cả mọi người, không xem đây là một khiếm khuyết trong tính cách. Trái lại, anh rất thích sự nhiệt tình của cô. Rất nhiều. Ashmont cũng sẽ thích. Điều Ashmont không thích sẽ là việc bạn thân của mình khơi gợi sự nhiệt tình đó. “Cô lại uống rượu brandy đấy à?” Ripley nói. “Cô không nghe tôi nói sao? Tôi không thể cướp hôn thê của bạn thân. Tôi không thể dụ dỗ, lên giường hay cưới cô ấy. Điều đó đơn giản là không được.” Cô chỉnh lại kính, dù chúng không cần chỉnh. Tóc cô thì có, nhưng anh không định chạm vào nó dù chỉ bằng một cây sào dài. Anh lùi chiếc ghế cơ học lại. Ngoài tầm với. “À, đúng vậy, danh dự của một quý ông,” cô nói. “Nhưng tôi thì không phải là quý ông. Tôi cần sự thực tế.” Anh không muốn cô thực tế. Anh không cảm thấy thực tế chút nào. Anh vẫn còn chóng mặt vì những gì vừa xảy ra giữa họ. Không phải là quá nhiều, thật ra. Một cái ôm nóng bỏng và vài sự nghịch ngợm, đúng vậy. Nhưng anh chỉ mới chạm vào mà chưa thật sự đến phần hấp dẫn… và đã đến lúc ngừng nghĩ về điều đó. “Thực tế là, tôi không còn trẻ nữa,” cô nói. “Ngài Mends cũng đâu có trẻ,” anh nói. “Tôi không nhắc đến ông ấy,” cô đáp. “Tôi biết ông ấy luôn ở đâu đó trong suy nghĩ của cô. Một giải pháp thực tế khác, trong trường hợp kế hoạch với công tước không thành.” “Tôi không hiểu tại sao anh cứ nhắc đến Ngài Mends làm gì,” cô nói. “Tôi đã nhìn thấy ông ta với cô. Cách ông ta nhìn cô. Thật đáng ghê tởm, ở độ tuổi của ông ta.” Không ít lần trước đây, Ripley đã muốn băng qua sàn khiêu vũ, nhấc bổng ông ta lên và ném ra ngoài đường, cách cô thật xa. Giờ đây, anh nhận ra rằng, nếu Mends trẻ hơn, có lẽ Ripley đã làm điều đó, nhưng với mức độ bạo lực hơn. Tại sao anh chưa từng băng qua sàn khiêu vũ để đến bên cô? Phải chăng anh đã nghĩ rằng cô sẽ luôn ở đó, chờ đợi, cho đến khi anh sẵn sàng với một cô gái đàng hoàng? Anh đã chờ quá lâu, và Ashmont đã đến trước. Không thể làm gì được nữa. “Ông ấy mê mẩn lý thuyết phân loại của tôi và viễn cảnh có được thư viện ngăn nắp mà không tốn đồng nào,” cô nói. “Những gì cô không biết về đàn ông có thể lấp đầy một thư viện,” anh nói. “Hứa với tôi là cô sẽ không cưới ông ta. Nếu tôi nghe tin về một tội ác như vậy sắp diễn ra—” “Tôi hy vọng sẽ không phải viện đến Ngài Mends, nhưng tôi sẽ không hứa gì hết,” cô nói. “Ở giai đoạn này, thật đáng kinh ngạc nếu ông ấy vẫn muốn tôi.” “Không có gì đáng kinh ngạc cả.” Dĩ nhiên, Ripley sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra. Cô sẽ không bao giờ phải viện đến Mends hay bất kỳ ai khác. “Nếu anh nói vậy. Nhưng trước tiên, phải giải quyết việc này đã. Vì anh quá coi trọng danh dự, tôi sẽ làm Ashmont cưới tôi. Trong thư, tôi đã nói rằng anh ta có thể xem như được giải thoát khỏi hôn ước của chúng tôi, nhưng—” “Cậu ta sẽ không làm vậy.” Thật đáng nguyền rủa. “Tôi nghĩ anh nói đúng,” cô nói. “Tôi định nói rằng tôi tin anh ta quá sở hữu và cố chấp để từ bỏ. Tuy nhiên, nếu hóa ra anh ta đang có chút nghi ngờ, tôi tin rằng mình có thể thuyết phục anh ta. Giờ thì, nhờ anh đã cung cấp cho tôi rất nhiều thông tin hữu ích về đàn ông, tôi đã có ý tưởng cụ thể để thực hiện.” Đúng vậy. Ripley đã cung cấp cho cô cả đống ý tưởng. Đáng nguyền rủa anh, vì tất cả. “Cậu ta sẽ không nghi ngờ gì đâu,” anh nói, giọng căng thẳng. “Cô hoàn toàn không hiểu gì cả. Đêm trước đám cưới? Ashmont chỉ nói về cô và chuyện kết hôn thôi. Không ai chen vào được câu nào. Tôi chưa bao giờ thấy cậu ta như vậy trước đây, chỉ vì một người phụ nữ.” Đôi mắt cô, giờ đã chuyển sang xám, đầy ắp cảm xúc. Cô chớp mắt liên tục. “Vậy thì thật khó hiểu,” cô nói, giọng nghẹn ngào, “tại sao anh ta lại say xỉn vào ngày cưới.” Chưa kể đến cả đêm trước đó. “Có thể cậu ta lo lắng,” Ripley nói. “Có thể không chỉ mình cô. Nhưng cậu ta không phải người bỏ trốn, đúng không?” Cô trông như thể vừa bị anh tát. Anh ước gì cô tát anh thật, tốt nhất là bằng một trong những cuốn sách dày cộp gần đó. Rồi mắt cô lóe sáng. Cô ngẩng cao cằm và nói, “Anh ta có gì để mất? Khi một người phụ nữ kết hôn, cô ấy sẽ trở thành tài sản của chồng mình. Cô ấy sẽ bị kiểm soát. Anh ta có toàn bộ quyền lực. Nếu anh ta khiến cô ấy đau khổ, cô ấy biết kêu ai? Nhưng Ashmont? Anh? Blackwood? Hoàn toàn khác. Ba người các anh có thể tiếp tục làm những gì các anh đang làm trước khi kết hôn, và không ai thắc mắc. Hôn nhân gần như không thay đổi gì đối với đàn ông. Với phụ nữ, nó có thể là sự chấm hết của cả thế giới.” Quyền lực và sự kiểm soát. Ripley biết cảm giác không có cả hai điều đó là như thế nào. Anh biết cảm giác phải chịu đựng dưới tay một người đàn ông không thể đoán trước. Với phụ nữ, điều đó còn tệ hơn nhiều. Nhưng Ashmont chẳng giống chút nào với vị Công tước thứ sáu của Ripley, người cha điên loạn đã khuất của anh. “Cô sẽ trở thành một nữ công tước,” Ripley nói. “Chết tiệt, Olympia, cô có thể quản lý luôn được Ashmont. Nếu cô có thể khiến tôi quên đi lòng trung thành của mình, cô nghĩ rằng mình không thể làm gì được cậu ta sao?” “Nhưng tôi không—” Cô ngừng lại, trán cau có. Rồi chỉnh lại kính. “Anh nói cũng có lý.” “Tôi hy vọng là vậy.” “Nếu anh có thể dễ dàng mất kiểm soát, thì anh ta cũng vậy,” cô nói. “Có lẽ còn dễ hơn, vì tất cả những gì tôi quan sát được cho thấy anh ta rất dễ nổi giận và hay lao vào đánh nhau, chỉ cần chuyện nhỏ nhặt cũng khiến anh ta mất bình tĩnh. Lượng rượu anh ta uống có lẽ có liên quan. Thôi, để xem nào. Tôi sẽ tìm cách định hướng năng lượng của anh ta theo hướng tích cực hơn.” Cô gật đầu. “Đúng, rất có triển vọng. Tôi biết luôn có mặt sáng. Lúc nào cũng có.” Cô rạng rỡ nhìn anh. “Cảm ơn anh, Ripley.” Anh nhận ra mình đang nắm chặt tay cầm của chiếc ghế cơ học đến mức bánh xe bị khóa chặt. Anh thả lỏng tay. “Rất hân hạnh,” anh nói. “Thật vui vì có thể giúp ích. Tôi sẽ để cô lại với những cuốn sách. Tôi nghĩ mình sẽ đi dạo trong vườn một chút.” *** Olympia giữ nụ cười trên môi khi bước tới cửa để mở cho anh. Cô vẫn mỉm cười khi anh điều khiển chiếc ghế lăn ra khỏi thư viện và lên lối đi trải sỏi. Cô đóng cửa lại. Chỉ khi đó, nụ cười của cô mới phai nhạt. Chỉ khi đó, cổ họng cô mới nghẹn lại, môi cô run rẩy, và nước mắt dâng đầy đôi mắt. Lần này, cô để mặc cho nước mắt rơi. Nhưng không lâu. “Đừng yếu đuối thế,” cô tự nhủ. Cô tìm khăn tay và lau khô mắt. Tự thương hại là điều không thể chấp nhận. Cô không ảo tưởng về đàn ông. Cô luôn biết—ít nhất là sau vài mùa vũ hội đầu tiên—rằng cuộc hôn nhân của mình, nếu có thể kiếm được, sẽ không phải là một cuộc hôn nhân lãng mạn. Ngay cả khi biết cơ hội rất mong manh, cô vẫn vừa rồi cố gắng tìm kiếm thứ gì đó hơn là một thỏa thuận thực dụng. Ít nhất, cô đã cố. Nhưng Ripley nói đúng: Đàn ông cắm sừng nhau mọi lúc, và xã hội thì chỉ nhún vai, thường cười nhạo kẻ bị phản bội. Tuy nhiên, việc cướp vị hôn thê của người bạn thân nhất lại là chuyện khác. Không danh dự. Ít nhất cũng tệ như gian lận bài bạc. Hơn nữa, cô không muốn trở thành người phá hủy tình bạn lâu năm, một trong hai tình bạn thật sự của Ashmont. Cô không mong anh ta gặp điều chẳng lành. Cô không muốn làm ai đau khổ. Nhưng Ashmont đâu phải người bỏ trốn, đúng không? Cô nhăn mặt. Cô đã chạy trốn. Cô đã hành xử thiếu tử tế. Cô cảm thấy hổ thẹn. Dẫu vậy, cô không thể ngừng hy vọng về một cái kết khác cho câu chuyện của mình. “Mày nên hiểu rõ hơn,” cô lẩm bẩm. “Mày biết điều này là gì mà: Mày đã mê mẩn một tên phóng đãng.” Giống như hàng ngàn phụ nữ khác. Ngay cả những người thông minh. Người ta viết sách và kịch về chuyện này. Họ đã làm thế suốt hàng thế kỷ. Cô không nghi ngờ gì rằng các nhà thám hiểm sẽ tìm thấy những chữ tượng hình ở Ai Cập kể câu chuyện tương tự. Thôi được. Cô đầu hàng. Cô chỉ cần tự kéo mình ra khỏi chuyện đó. Cô có một cách đối mặt với những thất bại trong cuộc sống mà cô đã thử nghiệm và thấy hiệu quả. Cô thẳng lưng và bước tới đống sách. Cô bắt đầu phân loại. Lịch sử ở đây. Triết học ở kia. À, và đây là thơ kịch, Congreve, Dekker, Middleton, Schiller, Sheridan. Và tất nhiên là Shakespeare, người đã viết về những cảm xúc cô đang trải qua, như ông từng viết về sự phong phú vô hạn của cảm xúc và hành vi con người. Cô cầm một cuốn sách lên. Romeo và Juliet. Một ví dụ hoàn hảo. Chẳng phải cô từng thấy câu chuyện này rất có vấn đề sao? Hai con người rất trẻ, hầu như chẳng hiểu rõ bản thân mình, lại tin rằng họ đã tìm được tình yêu đích thực của cuộc đời. Kết quả là họ tự sát theo cách ngớ ngẩn nhất. Đúng, Olympia gần hai sáu, không phải mười bốn, nhưng kinh nghiệm của cô với đàn ông, theo cách không mang tính anh em, thì xấp xỉ một cô gái mười bốn tuổi. Cô đặt cuốn Shakespeare xuống và cầm lên một cuốn khác. Don Quixote (một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất của thế giới, được viết bởi nhà văn người Tây Ban Nha Miguel de Cervantes). Vài ấn bản của ví dụ xuất sắc về việc sống trong ảo tưởng. Ở đỉnh của một chồng sách khác là Lâu đài của Otranto (một trong những tác phẩm đầu tiên thuộc thể loại gothic novel (tiểu thuyết Gothic), một thể loại văn học nổi bật với các yếu tố kỳ bí, ma quái và có không gian u ám, kỳ lạ). Đúng gu của Ripley, cô không nghi ngờ gì. Những chiếc mũ sắt khổng lồ rơi từ trên trời xuống giết người, các phe phái phi siêu nhiên cố gắng giết lẫn nhau, các tiểu thư lâm nguy… Cô nhanh chóng đặt cuốn sách xuống và để ánh mắt lang thang qua các bộ sưu tập. Đó là khi cô nhìn thấy nó. Ba tập sách lớn, bìa da bê. Trong một khoảnh khắc, tất cả những gì cô có thể làm là nhìn chằm chằm. “Đây,” cô thì thầm. “Recueil des Romans des Chevaliers de la Table Ronde (Tập hợp các tiểu thuyết về các Hiệp sĩ của Bàn Tròn là một bộ sưu tập các câu chuyện và tiểu thuyết huyền thoại về Vua Arthur và các Hiệp sĩ của Bàn Tròn trong văn học thời Trung Cổ của châu Âu. Bộ sưu tập này bao gồm những câu chuyện nổi tiếng về các cuộc phiêu lưu, tình yêu, sự dũng cảm và các trận chiến của các hiệp sĩ trong vương quốc Camelot). Ngay tại Điện Camberley, trong tất cả mọi nơi.” Cô cẩn thận lật các trang sách. Cô đã đọc về bộ sách này. Đây hẳn là bộ sách từ cuộc đấu giá thư viện của Công tước xứ Devonshire, gần mười lăm năm trước. Ngài Mends đã từng cố mua nhưng thất bại. Thật là đẹp. Hàng trăm minh họa được tô vàng và màu sắc, khắc họa những câu chuyện của các Hiệp sĩ Bàn Tròn. Những lời của Ripley chợt vang lên trong tâm trí cô: Chẳng phải cô đã bảo tôi cô là một tiểu thư gặp nạn sao? Tôi là hiệp sĩ trong bộ giáp sáng ngời của cô đây. Cô gấp cuốn sách lại, nhưng không thể gạt bỏ giọng nói của Ripley, cũng như cảm giác khi anh ở gần cô, khi anh chạm vào cô. Cô bước tới cửa sổ. Dù khu vườn ở mặt cánh phía đông khá hoang sơ, cô vẫn thấy Ripley rất rõ. Anh đã dừng lại giữa con đường mòn, và đang nhìn xa khỏi ngôi nhà. Khi cô dõi theo, Cato chạy tới anh, ngửi quanh quẩn và cố liếm chân anh. Ripley ra hiệu với con chó. Nó lùi lại một bước và ngồi xuống bên cạnh chiếc ghế lăn, ngoan ngoãn như vàng, hoặc giả vờ vậy. Một lúc sau, Phu nhân Charles bước theo Cato, tiến về phía người cháu trai mình. Olympia quay lưng lại cửa sổ. Hiệp sĩ trong bộ giáp sáng ngời thuộc về thế giới của những câu chuyện lãng mạn, một thế giới cổ tích. Tiểu thư Olympia Hightower phải sống trong thực tại, tại đây, ngay lúc này. Nếu cô phải nhớ đến những giọng nói, tốt hơn là nhớ đến giọng nói của sự khôn ngoan: Đừng đánh giá thấp Ashmont…. khi cậu ta giành được sự tôn trọng và tình yêu của cháu, cháu sẽ thấy hạnh phúc vì đã cưới cậu ta. Đó là giọng nói của kinh nghiệm, của thực tế, của sự thực dụng. Đó là giọng nói mà một cô gái khôn ngoan và thực tế nên nghe theo. “Tôi đồng ý,” Olympia khẽ nói. “Tôi đồng ý.” Rồi cô quay lại với những cuốn sách chưa được ghi chép của Quý ngài Charles. *** Ripley vẫn còn nghe được tiếng cười của Olympia vang vọng trong đầu. Anh vẫn còn cảm nhận được đường cong và hơi ấm từ cơ thể cô. Anh nhớ lại lời cô nói: Nếu vậy, có lẽ anh nên là người cưới tôi. Nhưng anh không thể. Điều đó thật vô nghĩa. Cô là của Ashmont. Bất kỳ người đàn ông nào khác có thể thử lôi kéo cô, nhưng không phải Ripley, vì anh là người bạn thân chí cốt. Vì đã quá muộn rồi. Anh đang chìm vào nỗi u ám khi nghe thấy tiếng "Gâu!" và Cato lao tới anh. "Ngồi uống!" Ripley nói, trước khi con chó kịp nhảy lên người anh. Nhưng nó chỉ chạy quanh anh, ngửi ngửi. Nó dành khá nhiều thời gian đánh hơi quanh lòng anh... nơi Olympia từng ngồi. Rồi con chó cố liếm cái chân bị thương. Ripley búng ngón tay. "Tránh ra, đồ ngốc." Con chó ngồi xuống, chăm chú nhìn cái chân. "Nó muốn chơi," giọng của dì Ripley vang lên từ phía sau anh. "Nhưng có vẻ cháu đã chơi đủ sáng nay rồi." "Cháu sao?" Bà chắp tay sau lưng, bước đi vài bước, rồi quay lại. "Cháu không được phép lợi dụng cô gái trẻ đó dưới mái nhà của ta." Bà đã thấy, hoặc một người hầu đã kể lại. Ripley không đáp lại. "Ta nghe thấy tiếng ồn ào trong thư viện," bà nói. "Ta tin rằng danh dự của cháu đã giữ mọi việc trong giới hạn." Anh không chau mày. Thực tế, mọi chuyện đã được giữ trong giới hạn, và điều đó là tốt nhất. "Vì Chúa, Hugh, nói cho ta biết ta có cần đưa con bé đi nơi khác không." Anh muốn Olympia rời đi. Không, điều đó không đúng. Anh cần cô rời đi. Vấn đề là, cô cần thời gian ở xa mọi người—gia đình mà cô đang cố cứu giúp, và đặc biệt là Ashmont. Cô cần thời gian để suy nghĩ, để quyết định điều gì là tốt nhất, điều gì là khôn ngoan và đúng đắn, không chỉ vì gia đình cô, mà còn vì bản thân cô. Một thử thách không nhỏ, khi cố gắng làm cho những mảnh ghép không vừa khít nhau trở nên phù hợp. Ripley biết điều đó. Anh cũng biết rằng không nơi nào tốt hơn Điện Camberley để đối mặt với những khó khăn của cuộc đời. "Mọi chuyện rất phức tạp," anh nói. "Cuộc sống vốn dĩ là phức tạp." "Phải ạ." "Ta thấy điều đó không đơn giản, và giờ càng rõ hơn là nó không hề đơn giản," bà nói. "Cháu—cả ba đứa—" Bà dừng lại. "Nhưng thôi, không nói tới hai đứa kia nữa. Cháu là người ở đây, và cháu là người cần đối mặt với mọi chuyện. Một số vấn đề không thể dùng tiền để giải quyết, cháu yêu dấu. Có những thứ cần phải trực tiếp xử lý." "Vậy sao?" anh nói. "Vậy dì đang xử lý điều gì, khi ẩn mình ở đây?" Bà khựng lại một chút, rồi cười nhạt. "Giỏi lắm. Em gái cháu cũng đã thử, nhưng cháu sắc sảo hơn." "Sắc hơn cả răng của con rắn sao?" "Cháu chưa bao giờ vô ơn," bà nói. "Và cháu chưa bao giờ né tránh đối đầu với ta. Đã lâu rồi, và ta nghĩ trí óc mình trở nên cùn đi vì thiếu những đối thủ xứng đáng. Nhưng không cùn tới mức ta không nhận ra khi nào mình bị đánh lạc hướng." "Trí óc của dì không bao giờ cùn," anh nói. "Ước gì cháu có thể là ruồi trên tường khi Ashmont và Blackwood đến." Bà lắc đầu. "Vẫn đang đánh lạc hướng. Được thôi. Các cô con gái của ta đã lớn, quản lý tốt chồng và con của chúng. Ta không còn là một cô gái nữa. Ta không còn là một người vợ nữa. Ta không chắc mình là gì. Ta không có phương hướng, không có mục đích." "Đó là lý do dì vẫn ở đây?" anh nói. "Dì cần một mục đích sao?" "Cháu định nói ta nên giống cháu, không có mục tiêu, không có ý nghĩa nào khác ngoài việc tự làm mình vui vẻ sao?" "Nếu điều đó an ủi được dì, thì cháu chẳng vui vẻ chút nào lúc này." "Và cháu không thể chạy trốn." Bà mỉm cười. "Đáng tiếc thật." "Và dì đã trốn chạy suốt ba năm qua." Anh cười. "Đáng tiếc thật." "Không đâu, cháu yêu, điều đáng tiếc là cháu đang đánh mất cơ hội của cả đời mình," bà nói. "Đây không phải cơ hội của cháu," anh nói. "Vì Ashmont tới trước? Vì cậu ta là bạn cháu à?" Ripley không trả lời. Dì anh luôn nhìn thấu quá nhiều. Bà lúc nào cũng vậy. “Ta tự hỏi liệu một năm nữa cháu sẽ cảm thấy thế nào,” bà nói. “Hoặc năm năm nữa, khi nhìn thấy một hạnh phúc lẽ ra phải là của cháu. Ta tự hỏi liệu danh dự của cháu khi ấy có an ủi được cháu đến mức nào.” Có điều gì đó trong giọng nói của bà khiến anh nghĩ đến mẹ mình, và một điều bà từng nói về dì Julia, một điều đáng ngạc nhiên. Một nỗi thất vọng trong tình yêu. Nhưng tâm trí anh lúc này quá rối loạn, ký ức mơ hồ đó lẫn lộn với những ký ức gần đây hơn, cùng với quá nhiều cảm xúc quái quỷ. Anh đang cố nhớ lại điều đó—nghĩ về bà dễ hơn nghĩ về bản thân, và anh vốn ghét phải suy nghĩ—thì bà quay đầu về phía ngôi nhà, hướng tới một âm thanh mà có lẽ bà đã nghe thấy, còn anh thì không. Ripley xoay ghế lại nhìn về phía đó, hy vọng là Olympia. Nhưng hóa ra chỉ là một người hầu, vội vã bước đến chỗ bà. “Thưa phu nhân, có người ở nhà đang cần bà,” người hầu nói. “Quý ngài Frederick Beckingham tới ạ.” *** Quý ngài Frederick đã được đưa nhanh vào phòng khách và Tiểu thư Olympia được gọi vào tham gia cùng họ. Lời chào hỏi khá lịch sự, mặc dù thái độ của mọi người có phần căng thẳng. Ripley có thể hiểu được sự cứng nhắc của Olympia khi ở gần bác vị hôn phu của mình, và dù bản thân Ripley cũng không hoàn toàn thoải mái, nhờ vào một lương tâm già cỗi vốn quyết định lúc này là lúc nó sống dậy, nhưng cách hành xử kỳ lạ của hai người kia lại khiến anh bối rối. “Tôi xin lỗi vì đến mà không báo trước,” Ngài Frederick đang nói, “và tệ hơn nữa, đến trong bộ dạng bụi bặm của một kẻ vừa đi đường. Nhưng cháu trai tôi đã ở trong trạng thái lo lắng quá mức, tôi nghĩ tốt nhất là không nên lãng phí thời gian nữa. Thực tế, thằng bé lo lắng đến mức tôi khuyên nó viết thư thay vì lại đến làm phiền bà, và để tôi làm sứ giả của nó.” Tóm lại, bác Fred đã khuyên Ashmont không nên can thiệp và để mình làm người phát ngôn. Đây không phải là một kế hoạch tồi. Bác Fred là một quý tộc khéo léo, người bằng cách nào đó có thể khiến mình được chào đón cả trong cung điện của Nhà vua và trong những cuộc gặp gỡ với kẻ thù không đội trời chung của Nhà vua, Công nương xứ Kent. Mẹ của Công chúa Victoria, người kế vị ngai vàng, rất ghét Nhà vua. Và tình cảm là hai chiều. “Lo lắng à?” dì Julia nói. “Đó là cách ông gọi nó sao? Những gì tôi thấy hôm qua là Lucius đã uống rượu quá mức, điều mà có vẻ đã xảy ra từ một thời gian dài. Cậu ta đã tham gia một trận đánh nhau—một thói quen xấu—và tôi chẳng nghi ngờ gì rằng nó là người bắt đầu điều đó, vì thằng nhóc luôn làm vậy. Và đúng là một trò cười, tôi phải thừa nhận, khi ông nói về bụi bặm từ việc đi đường, trong khi ông hầu như không có một hạt bụi nào trên người…” Bà dừng lại để liếc nhìn Ngài Frederick một cách nhanh chóng, và đôi mắt xanh của ông lóe lên—nhưng là giận dữ, hay hài hước, hay cảm xúc nào khác, Ripley không thể đoán được. “Dĩ nhiên, ông có người hầu của mình đi cùng,” dì Julia tiếp tục. “Và ông đã chắc chắn dừng lại để làm mới lại bản thân trước khi đi nốt quãng đường còn lại.” Bà ngồi xuống chiếc ghế cứng nhất trong phòng và mời khách ngồi. Ngài Frederick chỉ tiến lại gần lò sưởi và đứng quay lưng về phía đó, như thể trời đang mùa đông và ông cần làm ấm phía sau. Tiểu thư Olympia vẫn đứng, gần cửa sổ xa nhất so với những người khác. Ripley tự hỏi liệu cô ấy có lại tìm cách trốn thoát qua cách này không. “Tôi ước mình có thể nói điều tương tự về cháu trai của ông,” dì Julia tiếp tục. “Đáng tiếc, cậu ta đến trong trạng thái khó có thể tả, một trạng thái xúc phạm đến bất kỳ người phụ nữ nào, đặc biệt là cô dâu sắp cưới của nó.” “Ừ, đúng vậy, đó là một trong những lý do tôi khuyên thằng bé nên ở lại London,” Ngài Frederick nói, vẻ bình thản như thường lệ, chỉ trừ ánh sáng kỳ lạ trong mắt ông. “Lucius thực sự đã lo lắng rất nhiều, tôi tin rằng từ 'bẩn thỉu' tôi đã quên nhắc đến.” Joseph, người hầu, bước vào, mang theo khay trà mà dì Julia đã yêu cầu khi trở về nhà. Không ai nói gì cho đến khi người hầu rời đi. Olympia nhấp một ngụm và đặt ly xuống trên bàn gần đó. Ngài Frederick uống một ngụm khá dài. Nhưng sau tất cả, ông đã đi đường hàng giờ, trời thì ấm áp, và ông đương nhiên phải khát. Dì Julia cũng uống nhiều hơn bình thường. Điều mà Ripley đang cố gắng nhớ lại cứ lởn vởn trong đầu anh, nhưng vẫn nằm ngoài tầm với. “Rất tuyệt,” Ngài Frederick nói, gật đầu về phía ly rượu. “Bà luôn giữ một kho rượu tốt tại Điện Camberley cũng như ở London. Nhưng gần đây bà không thường xuyên ở London.” “Tôi không đến London nữa,” dì Julia nói. “Tôi đang nghĩ sẽ thay đổi thói quen của mình.” Một cơ bắp ở quai hàm của bác Fred giật lên. Ông đặt ly xuống bàn gần đó và nói: “Mặc dù đây là một thức uống tuyệt vời, thưa Phu nhân Charles, tôi phải nhớ đến nhiệm vụ của mình. Công việc cấp bách mang tôi đến đây yêu cầu tôi giữ được sự tỉnh táo. Tôi được giao mang cho Tiểu thư Olympia một lá thư từ cháu trai tôi.” Từ trong chiếc áo khoác không một vết bụi, Ngài Frederick rút ra một lá thư dày một cách bất ngờ. Điều này thật ngạc nhiên, vì lá thư này từ Ashmont nên phải chứa hơn một tờ giấy. “Thưa bà, có thể cho phép tôi đưa cho bà lá thư này không?” Ngài Fred nói. “Hay bà muốn đọc trước?” “Chắc chắn là không. Tôi không phải là mẹ của Tiểu thư Olympia. Dù sao đi nữa, con bé đã trưởng thành rồi, và lá thư này là từ vị hôn phu nó.” Ngài Frederick gật đầu. Ông bước đến gần Tiểu thư Olympia. “Ta được giao đưa cho cháu lá thư này với lời xin lỗi sâu sắc. Ashmont đã muốn tự mình đến, nhưng ta khuyên nó đừng làm vậy. Thằng bé rất tiếc khi đã để lại ấn tượng không tốt với Phu nhân Charles.” Ông cúi đầu về phía dì Julia. “Cuối cùng nó đã đồng ý với ta rằng cách tốt nhất để khắc phục ấn tượng đáng tiếc này là tôn trọng cảm giác của một quý cô và không xuất hiện cho đến khi bản thân cảm thấy mình xứng đáng để được nhìn thấy. Trong lúc chờ đợi, thằng bé không muốn để cháu nghi ngờ chút nào về tình cảm của mình.” Tiểu thư Olympia nhận lấy lá thư từ ông. Cô có vẻ bình tĩnh, chỉ trừ một chút ửng đỏ trên gò má. Cô chỉnh lại kính mắt, dù chẳng cần phải làm vậy, và mở lá thư ra. Cô di chuyển một chút về phía cửa sổ để đọc, và Ripley phát hiện mình đang nhìn chằm chằm vào cái chốt cửa, tự hỏi liệu nó có gặp khó khăn như cái ở Dinh thự Newland hay không… nếu cô quyết định bỏ chạy. Nhưng tại sao cô lại phải làm vậy? Cô chẳng có gì để chạy trốn cả. Ashmont đang an toàn ở London và Ngài Fred, dù có khả năng quỷ quyệt đến đâu dưới vẻ ngoài lịch lãm, cũng không có ý định đưa cô đi. Thế thì, không thể, đúng không? Dì Julia phải đi cùng cô, hoặc một quý cô khác—hoặc mẹ cô ấy. Dù sao thì, nếu Tiểu thư Olympia muốn trở lại London, cô sẽ đi, và nếu cô không muốn, cô sẽ ở lại, và điều đó không phải là việc của Ripley, phải không? Nếu vậy, có lẽ anh nên là người cưới tôi. Một năm nữa, năm năm nữa, anh sẽ cảm thấy thế nào? Ripley mơ hồ nhận ra Ngài Frederick đã tiến lại gần dì của anh, ngồi vào ghế gần đó, và thì thầm điều gì đó, rồi dì Julia trả lời lại. Nhưng đó chỉ là phần nền, và họ có thể giống như những bức tranh treo trên tường. Tất cả những gì Ripley thực sự thấy là Olympia, cúi đầu đọc lá thư, thi thoảng chỉnh lại kính mắt. Tóc cô không rối như trước, nhưng cũng không gọn gàng như khi cô bước vào thư viện trước kia… trước khi… trước khi… Không gọn gàng như trước khi anh hôn cô và làm nhiều điều mà anh không có quyền làm, không phải điều đáng làm dù đó chỉ là một chút, chưa đủ… Anh nên là người cưới tôi. Anh sẽ cảm thấy thế nào? Cuối cùng, Tiểu thư Olympia gấp lá thư lại. Những người lớn trong phòng chắc hẳn đã quan sát cô mà không để lộ vẻ gì, vì họ chỉ im lặng. Cô đặt lá thư lên bàn gần cửa. Cô bước ra khỏi phòng.
Chương 13 Dịch: thuylinhh Suốt một khoảng thời gian tưởng chừng như bất tận, không ai nói gì cả. Ripley chớp mắt, tự hỏi liệu mình có mơ thấy những gì vừa xảy ra không. Khi mở mắt, anh nghĩ mình có thể thấy Olympia xuất hiện trở lại trong tầm nhìn, vẫn cầm lá thư trong tay, hoặc ngước lên và chỉnh lại kính trước khi nói. Nhưng cô đã rời đi. Anh nghe tiếng bước chân nhanh nhẹn của cô vang lên trong hành lang dẫn đến Đại Sảnh. Tiếng cánh cửa đóng lại vang vọng. Anh bắt đầu bước về phía cửa mà cô vừa đi qua, nhưng dì Julia chặn đường anh. Chiếc ghế, dù không linh hoạt như cơ thể anh, vẫn ngăn anh luồn qua được. Dì giật lấy lá thư và mở ra. “Cậu ta đã viết gì cho con bé chứ?” Ngài Frederick bước lại gần dì, tạo ra một chướng ngại lớn hơn chắn ngang lối đi. “Chỉ những điều cần viết thôi,” ông nói. “Chỉ những điều cần viết!” dì Julia lặp lại. “Vậy thì đó là cái gì, tôi hỏi ông, và ông biết bao nhiêu về nó rồi? Đây có phải là ý của ông không?” “Dì có thể tránh ra không?” Ripley nói. “Cháu không quan tâm đến lá thư. Cháu cần—” “‘Cô cho rằng tình cảm của tôi đã thay đổi’,’” dì Julia đọc, “‘và cô nói đúng, nhưng không phải theo cách cô nghĩ. Tình cảm của tôi dành cho cô chỉ càng sâu sắc hơn, và nỗi lo sợ mất cô ngày càng lớn.’” “Cháu cần—” Ripley cố gắng lần nữa, nhưng dì của anh tiếp tục đọc, và trong lúc anh cố tìm cách lách qua bà và bác Fred, anh không thể không nghe thấy. “‘—đã phá vỡ sự bình yên của tôi và buộc tôi phải suy xét hành vi của mình, như lẽ ra tôi nên làm từ lâu, trước khi yêu cầu cô thực hiện một bước tiến lớn là giao phó cuộc đời mình cho tôi. Những ngày vừa qua đã khiến tôi suy nghĩ, và những suy nghĩ này xoay quanh lỗi lầm và sai sót của tôi. Tôi hiểu chúng không hề nhỏ nhặt, nếu không chúng đã không gieo nghi ngờ và sợ hãi lớn đến mức khiến cô chọn một hành động tuyệt vọng. Cô viết những lời khắc nghiệt về bản thân mình, nhưng tình cảm của tôi dành cho cô hoàn toàn không khắc nghiệt. Tôi chỉ có thể ngưỡng mộ lòng dũng cảm và sự táo bạo của cô, và cầu xin cô tha thứ vì đã khiến cô phải chấp nhận một rủi ro vốn không đáng có.’” Không phải phong cách viết của Ashmont, nhưng những cảm xúc đó, đúng vậy. Ripley không nghi ngờ gì, cũng như không nghi ngờ việc bác Fred đã biến những cảm xúc ấy thành lời lẽ mạch lạc hơn nhiều so với phong cách cẩu thả và gần như khó hiểu thường ngày của Ashmont. Đêm trước ngày cưới… những gì Ashmont đã nói về cô. Cái cách nhẹ nhàng và ngỡ ngàng mà cậu ta đã nói, Cô ấy tử tế lắm. Nhưng cậu ta còn nói nhiều hơn thế: về sự duyên dáng, trí tuệ, sự hoạt bát và hài hước của cô, và về việc cô thường giấu đi những điểm sáng của mình. Cậu ta nói cô thật thông minh, và đẹp hơn người khác nhận ra—như thể một cặp kính có thể làm một người phụ nữ xinh đẹp trở nên kém sắc. Nhưng điều đó lại tốt, vì nếu không, hẳn đã có ai đó giành lấy cô từ lâu rồi. Dì Julia tiếp tục đọc, và bức thư trở nên ngày càng tha thiết và đầy sức thuyết phục, nhưng Ripley, đang di chuyển về phía cửa, gần như không nghe thấy gì giữa mớ hỗn loạn trong đầu mình, nơi một cuộc chiến đang diễn ra giữa đúng và sai, danh dự và khát vọng, ‘Cậu phải để cô ấy đi’ và ‘Cậu không thể để cô ấy đi.’ Anh nghe dì mình nói, “Thật là quá bất công, thưa ngài.” Và Ngài Frederick đáp, “Bất công với ai?” Đó là những lời cuối cùng Ripley nghe được trước khi anh lăn chiếc ghế ra khỏi phòng, băng qua hành lang dẫn đến Đại Sảnh, nơi anh quát vào Tom, người hầu cận đã vội vàng mở cửa cho anh. “Cô ấy đi hướng nào rồi?” Ripley hỏi. Tom chỉ tay. “Xuống con đường bên phải, thưa Công tước.” Con đường là sỏi, không phải bề mặt dễ dàng để di chuyển trong một chiếc ghế cơ khí, như Ripley đã phát hiện từ trước. Nhưng nếu bà anh có thể làm được, thì anh vậy. Dù nhận thức đó không làm trải nghiệm bớt khó chịu đi là bao. Nếu đi bộ—bằng hai chân khỏe mạnh, anh có thể dễ dàng bắt kịp Olympia, mặc dù lúc này anh không nhìn thấy cô đâu. Dẫu vậy, cô không thể đi xa trong vài phút ngắn ngủi anh bị giữ lại. Anh tiếp tục đi, đến một giao lộ khác với các con đường chỉ là đất nện. Anh thấy một trong những người làm vườn không xa đó và gọi ông ta lại. Người đàn ông, một nhân viên lâu năm—tên là Hill—vội chạy đến, tay cầm mũ. “Thưa Công tước.” “Cô ấy đâu rồi, Hill?” Ripley hỏi. Hill gãi đầu và nhìn quanh, cau mày. “Khó nói chính xác, thưa Công tước, nhưng cô ấy dường như đi về phía nam, hướng ra bờ sông.” Ripley tiếp tục đẩy chiếc ghế qua những lối đi quanh co trong khu vườn, len lỏi giữa các bồn cây và tượng đá làm tầm nhìn của anh bị thu hẹp lại, chỉ thấy được những gì nằm ngay phía trước, mà cũng chỉ trong một khoảng cách ngắn ngủi. Đôi khi, không gian mở ra, nhưng mãi một lúc sau anh mới thấy bóng dáng cô, nhỏ bé trong tầm mắt xa xăm. Khi rời khỏi khu vườn lớn và trang trọng, cảnh quan tương đối bằng phẳng quanh ngôi nhà bắt đầu nhường chỗ cho những dải đất dốc thoai thoải trong công viên. Anh thoáng thấy cô, đang di chuyển về phía nhà câu cá, nơi anh, bạn bè, và em gái mình từng dành rất nhiều thời gian trong những năm về trước. Ripley tiến lên chậm rãi. Mặc dù bây giờ anh đang đi xuống dốc, mặt đất lại gồ ghề và nhiều cỏ dại hơn. Trong khi đó, những bụi cây và cây cối dọc con đường quanh co che khuất tầm nhìn. Thi thoảng anh bắt gặp bóng dáng Olympia, không còn quá nhỏ bé như trước, và anh nhớ lại ngày ở khu vườn Dinh thự Newlands—chẳng lẽ chỉ mới vài ngày trước?—khi anh đã lần theo những tia sáng trắng giữa bụi cây. Giờ đây, có cảm giác như anh đang đuổi theo cô suốt cả cuộc đời mình. Anh đáng lẽ nên theo đuổi cô từ trước, từ nhiều năm trước. Anh luôn biết cô ở đó, giữa những người phụ nữ nhút nhát và những quý ông già yếu. Anh chưa bao giờ thắc mắc vì sao. Anh cứ mặc nhiên cho rằng cô sẽ luôn ở đó. Anh chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Phải chăng anh đã ngầm cho rằng cô ở đó là để tiện cho anh? Phải chăng anh đã nghĩ rằng cô chờ đợi, như một quý cô trong lâu đài của mình, để anh cưỡi ngựa đến, như một hiệp sĩ trong tiểu thuyết lãng mạn, đưa cô đi? Khi nào anh sẵn sàng? “Đừng suy nghĩ nữa,” Ripley lầm bầm. “Ngừng lại đi.” Ngay lúc đó, tầm nhìn mở rộng ra, và anh thấy cô, gần hơn, đủ để anh gọi. “Olympia!” anh hét lên. Cô giật mình và quay lại. “Đi đi!” cô hét, rồi tiếp tục bước đi, không hề chậm lại. Anh lăn bánh, va phải hai thân cây. Bầu trời, khi sáng nay còn tương đối trong trẻo, giờ đã u ám hơn, và cái nóng trở nên ngột ngạt. Hai tay anh, ướt đẫm mồ hôi, trượt trên tay cầm, khiến chiếc ghế lệch ra khỏi lối đi. “Chết tiệt thật, Olympia!” “Đi đi!” “Tôi cần nói chuyện với cô!” “Không!” Cô tiếp tục bước đi với sự giận dữ. Anh vật lộn với chiếc ghế, thứ càng lúc càng phản đối địa hình gồ ghề. Những bánh xe không phối hợp trơn tru với trục quay, khiến anh lao vào các bụi rậm. Anh va phải những viên đá nhỏ, và dù dốc không quá lớn, nó vẫn kéo anh đi nhanh hơn, trong khi anh phải vật lộn để giữ chiếc ghế trên lối mòn. Cô cứ đi tiếp, và đáng lẽ theo dấu cô phải là việc dễ dàng, nhưng đường càng lúc càng khó đi hơn. Những cây cối và bụi rậm, rõ ràng là không được cắt tỉa trong hơn một năm qua, chen vào lối đi. Và chẳng ai bận tâm dọn sạch những viên đá, quả hạch, hay bất kỳ thứ vụn vặt nào đã lăn xuống hay bị nước mưa cuốn tới. Dù chiếc xe lăn được cho là hoạt động trơn tru trên mọi địa hình, nhưng nó không được thiết kế để đi qua vùng hoang dã. Ripley đang cố gắng điều khiển nó trong khi ngăn nó bị trọng lực kéo xuống và lăn thẳng xuống sông. Để làm điều này, anh cần ba tay. Nhưng vì chỉ có hai tay như bình thường, anh dùng tay trái giữ một bánh răng và phải điều khiển phía bên phải bằng khuỷu tay phải, trong khi tay phải của anh vẫn giữ thanh phanh để dừng bánh xe, nhưng nó hoạt động không hiệu quả lắm. Anh chỉ cách mục tiêu của mình khoảng hai mươi thước thì bàn tay mỏi nhừ, đẫm mồ hôi của anh trượt khỏi tay cầm phanh. Trước khi anh kịp lấy lại kiểm soát, chiếc xe đã lăn về phía trước. Anh xoay một tay cầm sang một bên để rời khỏi đường mòn, nơi bụi rậm có thể làm xe chậm lại, nhưng chiếc xe đụng phải một hòn đá. Tay cầm bên phải rời ra trong tay anh, chiếc xe chao đảo một lúc rồi lao thẳng xuống con đường mòn, hướng về phía bờ sông. Anh nhìn vào cái tay cầm vô dụng trong tay mình. Anh ném nó đi. Anh buông luôn tay cầm còn lại. Anh nghe thấy tiếng Olympia hét lên. *** Kinh hãi, Olympia nhìn chiếc xe lăn lăn xuống con đường ven sông, rồi băng qua nó và lao khỏi bờ sông, rơi xuống nước. Tại đó, nó va phải thứ gì đó, cú va chạm mạnh đến mức khiến đầu của Ripley bật ngược ra sau. Chiếc xe lật nghiêng sang một bên. Cô chạy ngược lại con đường cô đã đi và lao xuống nước. Dòng sông nông, nhưng đầy đá. Cô lội nước đến chỗ chiếc xe lăn. Một cái đầu tối đen, đẫm nước trồi lên. Ripley ngước nhìn cô và bật cười. Tim cô, tưởng như đã ngừng đập hoàn toàn, đột ngột hoạt động trở lại, nhanh đến mức khiến cô choáng váng, nóng bừng rồi lạnh buốt cùng một lúc. Cô đã nghĩ… cô đã nghĩ… Nhưng không, anh ta vẫn ở đó, tên ngốc khổng lồ, đang cười. Còn nguyên vẹn. Không chảy máu. Không chết. Cô muốn giết anh ta. “Đồ liều lĩnh!” cô hét lên. “Anh có thể đã bị gãy cổ đấy!” “Cô ướt rồi,” anh nói. Một tiếng gầm thấp vang lên từ xa. Anh ngẩng đầu lên nhìn trời. “Và sắp ướt hơn nữa.” Cô ngước lên. Bầu trời xanh trước đó đang nhanh chóng bị thu hẹp lại bởi những đám mây xám dày đặc trên đầu họ. Một tiếng sấm khác vang lên, lớn hơn và gần hơn. Cô chộp lấy chiếc xe lăn và dựng nó lên. Tay cô run rẩy. “Đứng lên!” cô nói. “Đứng lên!” Dựa vào chiếc xe lăn để trụ, anh tự kéo mình đứng dậy. Cô đã ướt sũng. Bị ướt thêm không làm cô lo lắng. Nhưng cô không thích đứng ngoài trời khi một cơn bão sắp ập xuống. “Ngồi xuống đi,” cô nói. “Nó hỏng rồi, và cô không thể đẩy tôi lên dốc trong nó, dù chỉ là dốc nhẹ,” anh nói. “Không phải tôi muốn ngồi lại trên thứ đó nữa. Nhìn xem nó đã đưa tôi đi đâu. Tôi đang yên ổn thì nó quyết định muốn tôi đi bơi.” “Anh buông tay ra! Tôi đã thấy hết!” “Tôi chán phải vật lộn với nó rồi.” “Anh có thể đã bị gãy cổ, đồ đầu đất!” Cô ước mình không quan tâm chuyện gì xảy ra với anh. Cô ước ai đó, bất cứ ai, đã đi theo cô ra khỏi Dinh thự Newland hôm nọ—mới chỉ ba ngày trước thôi sao?—và đưa cô quay lại, trước khi cô trở nên si mê nhầm người. “Tôi quên mất đáy sông ở đây nhiều đá thế nào,” Người Đàn Ông Sai Lầm nói. “Ở xa hơn về hạ lưu, đáy sông bằng phẳng hơn.” Cô biết rất rõ đáy sông ở đây đầy đá. Cô không muốn nghĩ đến chuyện gì có thể đã xảy ra. Cô chỉ muốn ra khỏi dòng sông này, nơi anh suýt giết chết mình. “Thôi quên đi.” Tiếng sấm ngày càng to hơn. Những đám mây quay cuồng làm tối cả thế giới xung quanh họ. “Chúng ta phải quay về.” Cô cố đẩy chiếc xe lăn lên bờ sông, một công việc hóa ra khó khăn hơn cô tưởng. “Cô đang làm gì vậy?” anh nói. “Bỏ nó lại đi.” Cô vẫn đẩy. Cô cần chống lại thứ gì đó. Thứ đó có thể là cái món đồ gỗ tai quái này. Anh thở dài rồi tham gia cùng cô, mỗi người nắm một góc của lưng xe lăn. Cô hy vọng anh đang dùng nó để hỗ trợ mắt cá chân bị thương. Rồi cô tự nhủ anh không phải là người mà cô cần quan tâm. Anh không phải vấn đề của cô. Cô đã có đủ vấn đề rồi. Cô sẽ phải dạy bản thân yêu một người đàn ông khác, vì người đó vẫn muốn cô, và cô là một cô gái thực tế, lý trí, và việc kết hôn với người đó là điều thực tế và hợp lý cần làm. “Căn nhà câu cá ở ngay khúc ngoặt tiếp theo,” anh nói, gật đầu về hướng đó. “Đất bằng, không phải lên dốc, và gần hơn nhiều so với căn nhà lớn.” Cô nhìn về hướng anh chỉ, rồi nhìn lên, về hướng cô đã đi. Cô không chắc căn nhà lớn ở đâu. Cô không biết mình đã đi bao xa, mù quáng, qua trang viên. Những lời của Ashmont đã khiến cô đau lòng sâu sắc, dù cô biết đó không phải là những lời chính xác của anh ta. Nhưng bức thư nghe khá giống anh ta, và cô chỉ muốn chạy trốn. Không phải cô biết mình muốn chạy đến đâu. Không phải cô rõ mình đang muốn trốn khỏi điều gì, hay thấy có ý nghĩa gì trong việc trốn chạy. Giá như cô đừng bỏ đi ngay từ đầu. Giờ cô không thể nghĩ đến chuyện đó. Bóng tối đang dày đặc hơn khi tiếng sấm cuộn tới. Trong khóe mắt, cô bắt gặp một tia chớp lóe lên. Cô không tranh cãi khi Ripley xoay chiếc xe lăn về hướng nhà câu cá. *** Ripley bảo cô chạy lên trước, còn anh sẽ đi sau với chiếc xe lăn, nhưng cô không chịu hợp tác. Cô nói nếu để anh tự đẩy xe, anh sẽ đặt quá nhiều sức nặng lên cái chân bị thương của mình. May mắn thay, họ chỉ cần đi một quãng ngắn nữa. Ngôi nhà câu cá đã đứng ở khúc quanh con sông này suốt một trăm năm mươi năm. Dù sao đi nữa, anh hy vọng nó vẫn còn đứng đó. Cơn bão tiếp tục tiến đến gần, và khi họ đến khúc quanh, tia chớp xé toạc bầu trời. Tiếng sấm theo sát ngay sau đó. Những giọt mưa bắt đầu rơi xuống con đường, lên chiếc xe lăn, và trên đầu họ. Anh đẩy chiếc xe nhanh hơn, bỏ qua những cơn đau nhói ở chân khi bàn chân phải dẫm mạnh vào một chỗ gồ ghề bất ngờ trên con đường. Đất đai ở đây rõ ràng cần được chăm sóc, anh nghĩ, rồi gạt ý nghĩ đó sang một bên để dành cho lúc khác. Cảnh vật chìm trong bóng tối ngày càng sâu. Tiếng sấm vang vọng trong khi chớp lóe lên giữa những đám mây. Ngay khi họ đi qua khúc quanh, ngôi nhà hiện ra trước mắt. Trong suy nghĩ của hầu hết mọi người, đây không phải là một ngôi nhà câu cá lớn. Nó chẳng giống chút nào với những ngôi đền câu cá lộng lẫy, nhiều tầng và nhiều phòng theo phong cách Cổ điển, Gothic hay Trung Hoa của nhiều điền trang lớn khác. Đây chỉ là một cấu trúc vuông bằng đá, với vài nét kiến trúc giống đền thờ. Một người tổ tiên nào đó đã xây nó vào cuối những năm 1600. Không được mở rộng hay trang trí thêm, nó chỉ có một căn phòng duy nhất được chiếu sáng bởi các cửa sổ ở cả bốn phía. Ba bậc thang nông dẫn lên một hành lang nhỏ che chắn cho cánh cửa đôi. Khi họ vội vã tiến về phía ngôi nhà, một tia chớp chiếu sáng toàn bộ cấu trúc. Một lúc sau, tiếng sấm rền vang. Ripley để chiếc xe lăn ở chân bậc thang và khập khiễng bước lên theo sau Olympia. Khi họ đến hành lang nhỏ, mưa bắt đầu nặng hạt hơn. Anh kéo tay cầm cửa, nhưng cửa không nhúc nhích. Bị khóa. Tất nhiên là thế. “Không sao đâu,” cô nói. “Chúng ta được che chắn khỏi phần tệ nhất, và có lẽ cơn bão sẽ qua nhanh thôi.” “Tôi không nghĩ vậy,” anh nói, liếc quanh. “Không giống kiểu bão đó. Cơn này trông có vẻ muốn ở lại.” Anh rời cô và bắt đầu khập khiễng vòng ra sau ngôi nhà, thử từng cửa sổ. “Ripley!” Phía sau, anh tìm thấy một cửa sổ bị hỏng chốt. “Tìm được lối vào rồi,” anh gọi lại. “Ở yên đó.” Anh vật lộn mở cửa sổ, rồi quay lại lấy chiếc xe lăn. “Cô sẽ đứng lên chiếc xe, tôi sẽ giữ nó, rồi cô trèo vào qua cửa sổ và mở khóa cửa từ bên trong,” anh nói. Anh có thể nghĩ ra cả tá người phụ nữ khác sẽ nhìn anh như thể anh bị điên. Olympia gật đầu. Cô giúp anh đẩy chiếc xe vào vị trí, và anh để cô giúp dù anh không cần. Khi anh giữ chắc nó, cô nhanh chóng trèo lên, rồi luồn qua cửa sổ trong một cơn xoáy của váy, váy lót, và mùi hương quen thuộc. Dù cô mặc quần áo của dì anh, nhưng mùi anh nhận ra là từ da và tóc của Olympia.” Anh nhớ lại cảnh cô trèo qua bức tường ở khu vườn phía sau Dinh thự Newland. Anh nhớ váy và váy lót của cô bay phấp phới quanh mặt anh… Anh lắc đầu xua đi ký ức và quay lại cái cửa, chờ đợi. Và chờ đợi. Những hạt mưa lớn rơi nhanh hơn. Gió rít lên. “Cô có định mở cửa không?” anh gọi. “Hay cô muốn tôi dùng chiếc xe lăn để chống lại tia chớp?” “Ở đây tối lắm,” cô gọi lại. “Tôi không tìm thấy—à, đây rồi.” Cánh cửa mở ra, và Ripley lao vào trong. “Chiếc xe lăn,” cô nói. “Anh để nó—” “Mặc kệ cái xe.” Anh nhìn quanh. Khi mắt đã quen với bóng tối, anh thấy một hộp đánh lửa trên bệ lò sưởi, bên cạnh những dụng cụ đơn giản mà gia đình luôn để sẵn ở đây: nồi nấu ăn, vài cái đĩa và cốc, một bình và chậu. Trên bàn là cái giỏ nhỏ đựng khăn trải bàn. Gỗ đã được xếp gần lò sưởi. Anh nhóm lửa. Điều đó cho anh việc gì đó để làm trong lúc cố quyết định nên làm gì. Hoặc, quan trọng hơn, nên nói gì. Anh cảm nhận được một sự im lặng căng thẳng bên trong, trong khi thế giới bên ngoài trở nên đen kịt với những tia chớp và tiếng nổ sâu làm rung lên những ô cửa sổ cũ kỹ. “Ai đó đã ở đây,” anh nói khi nhìn những ngọn lửa bùng lên. “Mọi thứ khác trong trang viên trông… không phải bị bỏ bê, nhưng cũng không được chăm chút cẩn thận. Nhưng đống củi này mới được mang vào gần đây. Chắc chắn là Alice. Hồi nhỏ chúng tôi thường chơi ở đây.” Ba chiếc giường cắm trại mà anh và hai người bạn đã sử dụng vẫn còn ở đây. Hai chiếc trống không. Một chiếc có chăn ga. Rõ ràng Alice gần đây đã ở đây. Tại sao chứ? Anh hy vọng con bé không có ý định suy nghĩ lại về cuộc hôn nhân của mình, vì mọi chuyện đã quá muộn. Chưa kể, anh đã có đủ rắc rối trong cuộc sống mà không cần thêm Blackwood vào danh sách. Cánh cửa bật tung ra bởi một luồng gió ướt lạnh. Anh và Olympia vội vàng đóng cửa lại, rồi chốt chặt, khóa thế giới bên ngoài. Tạm thời. Cô nhanh chóng lùi lại, phủi nước mưa khỏi tay. “Nhìn anh kìa,” cô nói. “Anh ướt sũng rồi.” “Bây giờ là mùa hè,” anh nói. “Nhưng không đủ ấm,” cô đáp. “Chúng ta có lửa mà.” “Hơi ẩm bám lâu trong những tòa nhà bằng đá,” cô nói. “Cái này thì gần như nằm ngay trên dòng sông. Anh không chỉ bị ướt mà còn bầm dập nữa. Mắt cá chân của anh sẽ chẳng bao giờ khỏi được nếu anh cứ ngược đãi nó như vậy.” “Nó đang khá hơn,” anh nói. “Với cách cô lo lắng thế này, người ta có thể nghĩ rằng cô quan tâm… đến anh ta.” Cô nhìn anh thật lâu. “Có thể,” anh nói. “Có thể sao?” Cô bước nhanh đến lò sưởi, rồi đến cửa sổ, sau đó quay lại đối diện anh, tay chống hông. “Có thể? Anh ngốc đến mức nào vậy? Tôi đã gần như cầu hôn anh rồi!” “Ừ, thì, cô không nên làm anh ta bất ngờ như thế.” “Tôi gần như đã xé toạc quần áo và hét lên, ‘Hãy chiếm lấy tôi ngay bây giờ.’ Anh cần bao nhiêu cảnh báo nữa?” “Điều đó hơi quá tinh tế với tôi,” anh nói, “vì cô không thực sự cởi quần áo. Còn có phần suy nghĩ nữa. Một phần suy nghĩ lớn và phức tạp. “Nó không phức tạp đến vậy,” cô nói. “Vậy thì hãy nói rằng nó… căng thẳng. Đó là một từ hay.” “Đó là một từ ngu ngốc.” “Cô đang làm khó mọi chuyện lên, đúng không?” anh nói. “Tôi không làm mọi chuyện trở nên khó khăn,” cô nói. “Tôi hiểu mọi thứ. Hoàn toàn. Quá rõ ràng. Điều đó có nghĩa là chúng ta không cần phải nhắc lại chuyện tình bạn, lòng trung thành và danh dự nữa. Nó khiến tôi muốn hét lên—và tôi không phải là kiểu người nhạy cảm hay dễ xúc động. Tôi thực tế và lý trí. Tôi biết anh chưa thấy nhiều mặt đó của tôi, nhưng—” “Tôi đã thấy nhiều mặt của cô rồi,” anh nói. Năm năm nữa, anh sẽ cảm thấy thế nào? Anh biết anh sẽ cảm thấy thế nào. Anh đang cảm thấy điều đó ngay bây giờ. “Tôi đã thấy quá nhiều mặt của cô,” anh nói. “Điều đó có nghĩa là tôi hiểu rõ hơn bao giờ hết lý do tại sao Ashmont không chịu để cô đi.” “Vì anh ta có tính sở hữu cao và quá bướng bỉnh.” “Đó là cảm giác cô thấy qua lá thư của cậu ta sao? Vì đó không phải điều tôi nghe được. Tôi chỉ nghe một phần thôi—và đó là bất đắc dĩ, vì dì tôi và ông bác độc ác của cậu ta đã chặn cánh cửa chết tiệt kia trong lúc họ tranh luận. Nếu không, tôi đã tìm thấy cô sớm hơn.” “Anh không nên đi theo tôi. Không phải lần này. Cũng không phải hôm trước.” “Đúng, đáng lẽ đó nên là Ashmont, nhưng không phải.” “Không phải Ashmont vì anh ta quá say—vào ngày cưới của mình—ngày mà anh bảo anh ta rất vui sướng.” “Ừ, thì, cậu ta đôi lúc có thể hơi ngốc.” “Chỉ hơi ngốc! Đôi lúc!” “Tôi không đủ tư cách để phán xét,” anh nói. “Vấn đề là—lý do tôi tìm cô… lần này—” “Anh ta thậm chí còn không tự viết lá thư đó!” cô nói. “Ý tôi là, anh ta có cầm bút viết, nhưng đó không phải lời của anh ta. Anh ta không viết như thế, càng không nói như thế. Và lá thư hầu như không có vết mực nhòe. Nó dài hai trang giấy, viết cả hai mặt!” “Cậu ta làm nhòe mực vì dừng lại để suy nghĩ.” “Anh ta không cần phải nghĩ. Người khác đã làm điều đó cho anh ta.” “Không hoàn toàn như vậy. Vấn đề là, tôi không muốn phải bảo vệ cậu ta lúc này, nhưng cần phải công bằng.” “Tôi không cần bất cứ sự công bằng nào. Tôi không ngu ngốc.” “Lá thư cho thấy cậu ta thực sự muốn cô quay lại,” anh nói. Anh sẽ công bằng. Anh sẽ chơi đẹp. Danh dự và tình bạn yêu cầu điều đó. “Để Ashmont chịu nhục nhã mà để bác mình đọc chính tả một lá thư tình—điều đó thể hiện tình cảm, tôi nghĩ vậy. Và mặc dù những lời lẽ không phải của Ashmont, nhưng cảm xúc là thật. Tôi biết. Tôi đã nghe cậu ta lan man, vào đêm trước ngày cưới.” Cô khoanh tay, vẻ mặt trở nên cứng rắn. Nhưng đôi mắt dễ thay đổi của cô đã chuyển sang màu xám, và anh thấy nỗi đau trong đó. Bên ngoài, cơn bão đang nổi cơn thịnh nộ. Thế giới trở nên đen kịt, rồi sáng trắng, rồi lại đen, trong khi tiếng sấm nhấn mạnh lời nói và sự im lặng của họ. Bên trong thì yên lặng, ngoại trừ tiếng lách tách của lửa, nhưng sự yên lặng ấy nặng nề đến mức Ripley cảm thấy như mình đang đi qua bùn sâu ngang ngực. Hoặc có lẽ là cát lún. Anh suy nghĩ và cẩn thận chọn từ. “Đó có phải là lý do em bỏ đi hôm nay không? Vì những cảm xúc mà chú của Ashmont giúp anh ta đặt thành lời?” “Phải.” Cô buông tay và bước qua bước lại giữa lò sưởi và cửa sổ. “Tôi muốn khóc. Nhưng khi tôi bước ra ngoài, tránh xa mọi người, tôi không thể khóc. Và tôi không thể quay lại sắp xếp sách để bình tĩnh lại vì mọi người sẽ tìm thấy tôi, và rồi tôi chắc chắn sẽ khóc. Vì vậy, tôi vẫn cứ đi.” “Nếu cô không muốn cưới cậu ta, thì đừng cưới,” anh nói. “Tôi không muốn. Nhưng tôi phải làm thế. Nhưng tôi không thể. Làm sao tôi có thể? Làm sao tôi có thể, khi mà—” Một tiếng nổ bên ngoài cắt ngang cô. Cửa sổ lại sáng lên. Tiếng nổ khác vang lên, với âm vang kéo dài. Khi mắt anh điều chỉnh với ánh sáng thay đổi, anh thấy biểu cảm đau đớn của cô đã biến mất, như thể tia sét đã xóa sạch nó. Trong một khoảnh khắc, cô dường như bối rối về điều gì đó. Rồi cô hít một hơi sâu và thở ra. Anh nhìn ngực cô phập phồng. Anh tự bảo mình không được nhìn, nhưng như thường lệ, anh không nghe theo. “Thôi bỏ đi,” cô nói. Cô tháo chiếc khăn trắng quấn quanh cổ mình ra. Anh chưa bao giờ hiểu tại sao cô cần nó ngay từ đầu, ngoại trừ việc nó làm điểm nhấn cho chiếc váy rất đơn giản. Và đúng vậy, việc tháo nó ra hoàn toàn hợp lý. Trong căn phòng nhỏ, trời đã khá ấm, với cửa sổ đóng kín và ngọn lửa cháy rực hơn mức cần thiết cho một ngày ẩm ướt tháng Sáu. Vì suy nghĩ quá nhiều và không chú ý đúng mức, anh đã đốt lửa lớn hơn nhu cầu của căn phòng nhỏ. Rồi cô bắt đầu cởi cúc áo váy của mình. *** Ripley lại trải qua cảm giác giống hệt như trước—cách đây như cả một đời—trong thư viện, khi cô đặt lá thư xuống và rời đi. Anh nhắm mắt lại, rồi mở ra, nhưng không, đây không phải là ảo ảnh hay giấc mơ. “Cô đang làm gì vậy?” anh hỏi. “Tôi đang làm điều không tế nhị,” cô đáp. Chiếc váy trông như một chiếc áo khoác dài, cài nút từ cổ xuống tận gấu. Cô đã cởi được nửa thân áo, dù ở đó chắc phải có hơn hai mươi chiếc nút nhỏ xíu. Và phần váy phía dưới còn nhiều hơn nữa, có lẽ đến hàng trăm chiếc. Trong khi cô tiếp tục tháo nút một cách thành thạo đến đáng lo, phải mất vài giây anh mới hiểu ra ý cô khi nói, Tôi đang làm điều không tế nhị. Rồi anh nhớ lại. “Olympia,” anh nói. Cô vẫn tiếp tục tháo khuy, tập trung rất kỹ vào việc mình đang làm, có vẻ như vậy, vì cô cắn môi dưới và một nếp nhăn nhỏ xuất hiện trên trán cô, ngay phía trên gọng kính. “Chết tiệt, Olympia.” “Ai cũng nói vậy,” cô lẩm bẩm. “‘Chết tiệt, Olympia. Vậy Thì, ‘chết tiệt anh đi’ .” “Dừng lại ngay.” “Tôi nghĩ là không. Tình huống này không thể chịu nổi, và tôi không thấy nó có thể tệ hơn được nữa.” Cô đã cởi nút đến ngang eo. Anh có thể thấy toàn bộ chiếc cổ thanh mảnh của cô, và một thoáng da trắng mịn bên dưới, cùng một mảnh đồ lót màu trắng lấp ló. Anh tự nhủ mình cao lớn và mạnh hơn, có thể dễ dàng khiến cô dừng lại. Nhưng anh không thể. Làm thế đồng nghĩa với việc anh phải chạm vào cô. Mà anh không thể chạm vào cô. Trừ khi... hoặc cho đến khi. Nhưng không phải bây giờ. “Nó có thể tệ hơn rất nhiều,” anh nói, giọng trầm xuống một bậc. Cơn bão vẫn gào thét ngoài căn nhà câu cá nhỏ. Anh nuốt khan. “Được rồi, có lẽ không phải ý tệ nhất. Áo quần cô ướt cả rồi.” Áo quần anh cũng vậy. Nhưng anh vẫn mặc. Cô không nói gì. Cô cởi đai váy và ném nó lên ghế. Căn phòng đột nhiên trở nên nóng bức ngột ngạt. Cô tiếp tục tháo khuy. Giờ cô phải cúi xuống để làm, và anh thấy rõ hơn sự đầy đặn của ngực cô bên trên cổ áo đơn giản của chiếc áo lót. Và cả đường viền ren dưới cổ áo đó. Là viền của chiếc áo nịt cô đang mặc. Chiếc áo anh đã mua cho cô. Trời ơi. Ruy băng hồng, ren, và những đường may táo bạo, bao quanh và ôm lấy… chỗ đó. Và đó là sự đầy đặn, trắng mịn, hấp dẫn. “Olympia,” anh khản đặc gọi. Cô vẫn tiếp tục tháo nút, phần trước váy dần mở ra, phô bày chiếc áo nịt với mọi đường nét gợi cảm ôm lấy vòng eo thon gọn của cô... và đường cong mềm mại kéo dài đến vòng hông tuyệt mỹ. “Đi đi,” anh tự nhủ. Tất cả những gì anh cần làm là mở cửa và bước ra ngoài. Một cơn bão nhỏ không làm tổn hại được anh, mà nếu có thì càng tốt. Anh cố quay người đi, nhưng cô đã tháo khuy xuống dưới hông và tiếp tục, một cách đều đặn, không thể ngăn cản, mở dần chiếc váy xuống tận đầu gối. Anh có thể thấy toàn bộ chiếc corset và một phần chiếc váy lót, vốn màu trắng đơn giản, giản dị hơn nhiều so với chiếc corset táo bạo, và không thể nào là chiếc váy lót ngây thơ hơn được nữa nếu một nữ tu mặc nó. Nhưng cô không phải là nữ tu, và đó là chiếc corset kiểu Pháp táo bạo... và cả khuôn ngực căng tràn, sắp trào ra khỏi nó. Anh đứng bất động, không thể nhúc nhích, chỉ biết nắm chặt và thả lỏng tay, trong khi thân nhiệt và nhịp tim không ngừng tăng lên. Anh đứng, như một kẻ ngốc, nhìn cô tiếp tục tháo khuy, cúi người một cách dễ dàng, xuống, xuống tận cuối chiếc váy. Và khi cô tháo xong chiếc khuy cuối cùng, cô vặn mình, xoay người, và luồn ra khỏi phần tay áo bó sát, rồi kéo chiếc váy ra, sau đó ném nó lên ghế. Cô ngẩng lên nhìn anh, gương mặt đỏ bừng, đôi mắt sáng long lanh, và đôi môi mềm mại khẽ nở nụ cười đầy đắc thắng. Cô hoàn toàn có quyền trông chiến thắng như thế. Đó là cô, trong tất cả vẻ đẹp gợi cảm và không thể đoán trước của mình. Đó là cô, nữ tướng kiên cường đã hạ gục một kẻ bắt nạt. Đó là cô, trong bộ nội y trắng và một chiếc corset táo bạo, điều hấp dẫn không thể cưỡng lại nhất anh từng thấy. Ripley chưa bao giờ cưỡng lại được cám dỗ. Anh thậm chí không biết làm thế nào. Anh không thể rời mắt, cũng không thể bỏ chạy, càng không thể làm điều đúng đắn. Anh chưa từng là một thánh nhân, và giờ cũng không định bắt đầu. Cô nói, “Cái này có quá tế nhị với anh không?” “Không,” anh cố gắng thốt ra. “Chết tiệt, Olympia.” Chỉ hai bước chân khập khiễng đã rút ngắn khoảng cách giữa họ. Hai bước nữa đưa cô sát vào tường.
Chương 14 Dịch: thuylinhh Olympia ngước nhìn anh. Anh ở gần đến mức cô có thể cảm nhận được hơi ấm từ cơ thể. Đôi mắt anh nheo lại, trở thành hai đường nguy hiểm màu xanh lục. Tim cô đập nhanh đến mức khó thở, và một giọng nói lý trí, thực tế trong đầu bảo rằng: Chạy đi. Nhưng đó là một lời khuyên vô lý, chưa kể nó đến quá muộn. Nếu chạy có thể giải quyết được bất cứ điều gì, cô đã chạy nhanh hơn và xa hơn vào ngày cô bỏ lại chú rể say xỉn của mình đứng chờ cùng vị mục sư. Cô tự gọi mình là một thiếu nữ gặp nạn, nhưng cô không phải thế. Những thiếu nữ gặp nạn luôn là các quý cô đức hạnh gặp rắc rối không phải do lỗi của họ. Còn cô lại gặp rắc rối do chính mình tạo ra. Không có rồng. Không có pháp sư độc ác. Không có kẻ phản diện trên sân khấu vặn vẹo bộ ria mép. Không có cha mẹ hay cha dượng độc ác. Không, tất cả đều là Olympia, chết tiệt. Và giờ vẫn là Olympia, chết tiệt, nửa kín nửa hở, ngước nhìn khuôn mặt sói gian xảo của Ripley, và mỉm cười nhìn anh trong khi đôi mắt xanh lục của anh cháy bùng lên, nóng như ngọn lửa từ bất kỳ con rồng nào. Một thiếu nữ gặp nạn thực sự chí ít cũng sẽ cố gắng thoát thân. Nhưng thoát thân là điều cuối cùng cô muốn. Hương gỗ rừng vương trên anh, cùng với hương của một ngày hè giông bão, hương của len ướt và khói. Dưới tất cả những mùi đó, và thấm qua chúng, cô biết, dù chưa thể cảm nhận rõ ràng, là mùi da thịt anh. Cô hít sâu, giống như cách một kẻ hút thuốc phiện hít vào thứ mà họ khao khát. Anh định nói gì đó, nhưng khi cô hít vào, ánh mắt anh trượt xuống, tới môi cô, rồi thấp hơn, đến bầu ngực cô, thứ đang phô bày quá mức. Anh đặt tay ra sau đầu cô, cúi xuống, và hôn cô, mạnh mẽ. Cô đáp lại nụ hôn theo cách tương tự. Không phải là nụ hôn của một cô gái ngọt ngào, vì cô đâu phải ngọt ngào, đúng không? Cô là Olympia, chết tiệt, và cô muốn nhiều hơn, nhiều hơn nữa so với những gì cô chỉ mới nếm trải trước đây: tội lỗi, sức nóng và những cảm xúc hoang dại. Những cảm xúc mà cô đã từ bỏ niềm tin rằng mình có thể trải nghiệm. Cô nhận thức mơ hồ về tiếng mưa rơi rào rạt trên mái gỗ và đập vào cửa sổ. Cô nhận thức mơ hồ về tiếng rít và đập của cơn bão bên ngoài. Nhưng tất cả điều đó như xa vời, mơ hồ như một giấc mơ. Trung tâm của thế giới nằm ở đây, trong khao khát sai lầm và không thể chấp nhận mà cô đã chán ngấy việc phải chống lại. Đây là điều cô muốn, rất có thể từ khoảnh khắc anh xông vào thư viện cùng bạn bè. Dù nó bắt đầu từ lúc đó, sau đó, hay từ rất lâu trước đó, thì giờ đây, anh chính là điều cô muốn. Cô muốn được ép sát vào cơ thể to lớn của anh, được cánh tay anh ôm trọn. Có thể cô chưa nhận ra trước đây, nhưng giờ cô biết rằng cô đã khao khát cảm giác ngực anh phập phồng bên ngực mình, và cảm nhận sự kích thích không nữ tính, không đức hạnh. Cô đã chờ đợi mà không hề hay biết mình đang chờ điều gì, cho đến giờ: cảm giác sức nóng cuộn trào xung quanh và bên trong cô. Giống như dung nham nóng chảy, nó len lỏi qua làn da và dưới lớp da cô, tràn vào não cô. Nó làm tan chảy và thiêu rụi mọi thứ trên đường nó đi qua: đầu tiên là những ý niệm lý trí và thực tế. Thế giới mềm mại hơn, mờ đi và quay cuồng xung quanh cô. Cô lạc lối và hạnh phúc vì điều đó. Anh không phải là người đàn ông đầu tiên mà cô chọn để đánh mất lý trí. Có lẽ là người cuối cùng. Nhưng cô đành chịu. Anh chính là người đó. Chỉ một lần thôi. Chỉ lần này thôi. Đam mê. Lần này, người đàn ông mà cô muốn, dù nó sai trái và tàn phá. Anh hôn cô, hôn cô mãnh liệt. Ở khắp nơi. Dọc bên mặt, tai, sau tai, và dọc theo cổ cô. Chỉ là môi anh trên da cô, một áp lực nhỏ bé có sức mạnh ghê gớm. Nhưng chỉ sự chạm vào của môi anh cũng đủ khiến cô muốn nhiều hơn. Nó khiến cô quên đi bản thân và mọi thứ cô từng được dạy về đúng và sai. Tất cả mọi thứ bên trong cô từng có vẻ chắc chắn và vững vàng trước đây—tâm trí và ý chí của một Olympia thực tế và lý trí—tất cả đều nhường chỗ, đầu hàng anh và sức mạnh của môi anh, cái chạm của anh, mùi hương từ da anh, và sự ấm áp, mạnh mẽ từ cơ thể anh. Ồ, và cả đôi tay anh nữa. Chúng di chuyển trên cơ thể cô khi anh hôn lên cổ, rồi lên phần trên ngực cô. Những âm thanh hoang dại, những tiếng rên nhỏ, thoát ra khỏi cô. Olympia cảm nhận được môi anh trên người mình, và dù biết, nhưng là một cách mơ hồ, như thể điều đó xảy ra ở một nơi xa lạ, cô vẫn ý thức được anh đang tháo corset của cô với sự thành thạo đầy mượt mà. Chỉ trong thoáng chốc, cô cảm nhận dây buộc dần lỏng ra và chiếc áo trượt khỏi cơ thể mình. Phản ứng bản năng khiến cô đưa tay giữ lấy nó khi nó bắt đầu rơi xuống. Nhưng tay anh cản lại, và khi anh đẩy chiếc corset xuống, rồi tháo dây buộc của chiếc áo chemise với sự khéo léo tương tự, cô quên mất mình định làm gì hay vì sao lại muốn làm điều đó. Anh kéo chiếc áo chemise xuống, và rồi đôi bàn tay trần của anh chạm vào bầu ngực cô... nâng niu và vuốt ve. Một cảm giác đau đớn ngọt ngào hòa quyện cùng một niềm hạnh phúc sâu lắng, đột ngột và mạnh mẽ đến mức cô suýt không đứng vững. Đây là điều cô đã mong muốn, dù cô không biết chính xác điều này là gì và cũng không thể hình dung nổi, dù có tưởng tượng hoang dại đến đâu. Rồi anh đặt môi lên nơi bàn tay vừa rời đi, và mút lấy cô. Một luồng nhiệt nóng bỏng lan sâu vào đáy bụng cô. Đầu gối cô như biến mất, và nếu anh không đang giữ cô, cô chắc chắn đã ngã khuỵu xuống sàn. “Ôi,” cô thốt lên. “Ôi.” Bộ não sắc sảo và lý trí của cô không thể nghĩ ra lời nào khác. Anh ôm trọn cô trong vòng tay, nhấc cô lên khỏi sàn và mang cô đi vài bước. Anh đặt cô xuống một nơi nào đó mềm mại. Anh cúi xuống, nhẹ nhàng tháo kính của cô khỏi tai và đặt chúng... đâu đó—cô không quan tâm—bởi anh lại hôn cô, bắt đầu từ trán. Anh hôn lên lông mày cô, mắt cô, mũi cô, má cô, cằm cô, rồi từ đó đi xa hơn. Những nụ hôn này mãnh liệt hơn những gì trước đó, và dường như thiêu đốt làn da cô và sâu tận dưới da. Chúng biến mọi thứ trở nên nóng bỏng, mờ mịt và tối tăm. Anh di chuyển nhanh xuống dưới, và cô, quằn quại trong khoái cảm cùng những cảm giác sắc nhọn khác, cố gắng đặt tay lên làn da trần của anh. Cô cần phải hôn anh giống như cách anh hôn cô, tuyên bố chủ quyền với từng phần trên cơ thể anh: Đây là của tôi, đây là của tôi, đây là của tôi, đây là của tôi. Họ giống như hai đội quân đang chiến đấu để giành lãnh thổ. Nhưng cuộc chiến này lại là điều ngược lại của một cuộc chiến. Bất kể đó là gì, nó phải được thực hiện. Cô cần tay mình trên cơ thể anh và tay anh trên cơ thể cô. Cô cần những nụ hôn, nhiều hơn nữa, được lấy và trao. Và khi cô lấy đi tất cả những gì mình có thể, cô cũng cảm nhận một sự mất mát—những thứ che phủ cô, quần áo của cô, đúng vậy, nhưng còn hơn thế. Trong suốt những năm qua, cô đã giấu đi những giấc mơ và khát vọng của mình, từng chút một, cùng những phần khác của con người cô. Nhưng từ khoảnh khắc cô bắt đầu cởi từng chiếc cúc trên váy, cô—con người thật sự—đã bước ra khỏi nơi ẩn nấp. Cô đã thoát khỏi thế giới mà mình cố tạo ra để an toàn và không đau đớn, nhưng lại chỉ làm nó trở nên nhỏ bé và nhàm chán. Bên anh, sống trong một nơi nhỏ bé như vậy là điều không thể. Bên anh, cô không thể chơi theo luật và cũng không muốn làm vậy. Tất cả những gì cô muốn là nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa từ anh và từ những gì anh khiến cô cảm nhận. Cô kéo áo anh lên, để bàn tay chạm vào lồng ngực anh, ấm áp và rắn chắc. Cô cười thầm trong lòng, cảm nhận chiến thắng khi nghe anh rên rỉ, ngay cả khi cô đau nhói, thật sâu. Cô cảm thấy chiến thắng và đúng đắn, dù không thể ngừng kêu lên “Ôi,” và “Ôi!” trong khi uốn éo bên dưới anh, nôn nóng cho điều gì đó khác, điều gì đó hơn nữa. Anh thì thầm, “Olympia,” giọng anh khàn khàn bên cổ cô. Và cô đáp lại, “Vâng.” Và “Vâng.” Và luôn luôn, “Vâng.” *** Vâng, cô nói. Từ vâng vang vọng trong tâm trí Ripley, ầm ầm như cơn bão bên ngoài. Hoặc có lẽ chính từ đó là cơn bão. Anh đã, hơn hoặc kém, quyết định mình sẽ nói gì với cô. Nhưng đây không phải điều anh định làm. Ít nhất là chưa phải. Nhưng cái cách cô nhìn anh khi cô cởi từng chiếc cúc áo... Cái cách cô trông—mọi đường cong ngọt ngào, lớp vải trắng mỏng manh, và những dải ruy băng màu hồng táo bạo. Anh là đàn ông, và không phải là một người đàn ông đức hạnh. Vậy nên, khi anh lẽ ra phải nói, Không, chờ đã, rồi thêm vào điều gì đó hợp lý và đúng đắn... anh lại không làm thế. Thay vào đó, anh bước thẳng vào rắc rối, như cách anh luôn làm. Anh bước qua vài bước để làm Điều Sai Lầm. Rồi cô đã ở trong vòng tay anh, mềm mại và sẵn sàng, học cách khiến anh mê mẩn quá nhanh. Và giờ đây. “Vâng,” cô nói. Vâng, tất nhiên rồi. Còn lựa chọn nào khác đâu? Anh nhìn cô, nằm trên chiếc giường gỗ đơn sơ, với làn da mịn màng, ánh mắt mờ mịt, cùng lớp vải trắng và hồng, và suy nghĩ duy nhất trong đầu anh chỉ là bản năng, chứ không phải ý nghĩ: cảm giác của con sói khi nó nhìn thấy bạn đời của mình: của ta. Và sau tất cả, anh là một công tước. Trong huyết quản anh chảy dòng máu của nhiều thế kỷ quyền lực và khao khát chiếm hữu. “Vâng,” cô nói, và bàn tay anh lướt lên chân cô, kéo chiếc váy lót lên theo. Tay anh trượt qua đầu gối cô, qua chiếc đai giữ tất, lên vùng da mịn màng ở đùi, và lên cao hơn nữa, đến mép quần lót của cô và vùng lụa ẩm giữa hai chân cô. Đây lẽ ra là lúc để dừng lại. Ở một góc tối, xa xăm trong tâm trí, anh biết điều đó. Nhưng cô chỉ thốt lên một tiếng ngạc nhiên nhỏ, và rồi vẫn là “Vâng,” khi cô cựa mình dưới bàn tay anh. Và vâng, cô đã sẵn sàng. Và không, anh không nghĩ ngợi. Suy nghĩ không phải thói quen của anh, và những suy nghĩ thứ hai là việc của người khác. Anh vuốt ve cô, và cảm nhận cô run rẩy quanh ngón tay mình. Đó là điều anh muốn. Mọi thứ đều đúng như nó nên thế. Nhưng lại vượt xa những gì anh mong đợi hay từng trải nghiệm. Niềm khoái cảm của cô xuyên qua anh, như một cơn bão mùa hè, tối tăm với những tia sáng chớp lóe. Cô là bóng tối và ánh sáng, là nguy hiểm và phấn khích, và cả sự ngọt ngào. Cô là tất cả những gì anh có thể thấy, cảm nhận, hoặc nghĩ: cô, trong vòng tay anh, dưới bàn tay anh, cuồng nhiệt, mở lòng, tin tưởng và hoang dại. Cô phát ra một tiếng thét nhỏ, rồi một tiếng cười khúc khích. Anh cũng cười, nhưng phần lớn là vì sốc. Những cảm giác. Quá mãnh liệt. Anh rời tay mình ra và hơi lùi lại để định thần, và cô nói, “Không, chưa được!” Cô chạm vào anh, dù không cố ý, anh đoán thế, nhưng lại chạm đúng nơi anh đang cương cứng và đau đớn vì cô. Nhưng cô không rút tay ra, mà giữ nguyên, nhìn anh với nụ cười nhỏ đầy thách thức. “Vâng,” cô nói. Anh đã lạc lối, hoặc có lẽ anh đã lạc lối từ đầu, từ khoảnh khắc anh nhìn thấy cô trong làn váy trắng và tất đồng hồ trong thư viện nhà Newlands. Hoặc từ lâu hơn thế. Từ nhiều năm trước. Quá nhiều thời gian lãng phí. Chỉ trong giây lát, những chiếc cúc quần của anh được mở ra, và ngay sau đó anh đã ở giữa hai chân cô. Gần như cùng một lúc, anh đẩy mình vào trong cô. Cô phát ra một tiếng kêu nghẹn ngào khi bị xâm nhập, và anh dừng lại, dù nghĩ rằng mình sẽ chết mất. Nhưng chỉ một hoặc hai nhịp tim, hay cả ngàn nhịp đập cuồng nộ, trước khi anh cảm nhận cô nới lỏng, ôm trọn lấy anh. Rồi, “Ôi!” cô nói. “Trời ơi—ôi, trời ơi, làm sao—không, đừng dừng lại. Ôi, Ripley! Ôi, trời ơi! Em sắp ngất mất.” Cô không ngất, và anh cũng vậy. Ban đầu anh đi chậm rãi. Dù điều đó như giết chết anh, anh vẫn để cô có thời gian quen dần và học hỏi, nhưng cô học rất nhanh và trao đi mọi thứ mình có, đến mức anh chóng mặt với niềm vui từ sự chân thành của cô. Anh như lặn sâu vào một nơi ẩn khuất của hạnh phúc. Anh là người hiểu biết, là người có kinh nghiệm, nhưng trong tất cả sự ngây thơ và ham học hỏi của cô, cô đã đưa anh đến nơi anh chưa từng đến. Anh nhìn cô và kinh ngạc, ngay cả khi anh đẩy sâu vào trong cô, cảm nhận cô ôm trọn anh. Đó chỉ là khoảnh khắc trước khi anh lại nắm quyền, giả định là nắm quyền, và dẫn dắt điệu nhảy của tình nhân mà anh nghĩ rằng mình biết rõ. Nhưng với cô, đây không phải điệu nhảy anh biết. Nó hoàn toàn khác biệt. Anh không có từ ngữ nào, không có ý nghĩ mạch lạc nào, nhưng cảm giác thì luôn ở đó, lấp đầy anh, khiến anh hoàn toàn mãn nguyện. Cảm giác mới đó ở đó, khi anh cảm nhận khoái cảm cuối cùng làm cô run rẩy, khi cơ thể cô siết chặt lấy anh. Nó vẫn ở đó khi anh bị cuốn lên đỉnh cao khoái lạc của chính mình. Và nó vẫn ở đó khi anh trôi dần xuống, về lại thế giới thực, khi cơ thể họ dịu lại, và tâm trí anh quay về, nhận ra trước tiên rằng cô là của anh. Thứ hai, rằng không thể quay lại. Và thứ ba, rằng anh đang gặp rắc rối lớn nhất trong đời mình. *** Ripley dần nhận thức lại về cơn bão đang cuộn xoáy và va đập xung quanh căn lều câu cá cũ, dù không còn dữ dội như trước. Anh nằm ép sát bên Olympia trên chiếc giường chật hẹp và kéo cô vào vòng tay mình. Cằm anh tựa lên đỉnh đầu cô. Hòa lẫn với mùi hương của đống lửa tàn và dư âm của cuộc ân ái là mùi hương riêng của cô, tươi mới như khu rừng nơi anh từng chơi đùa thời thơ ấu. Anh nghĩ về hiện tại, vốn chẳng giống chút nào với những mơ mộng trẻ con về những hiệp sĩ trong bộ giáp sáng ngời, những tiểu thư cần giải cứu, và những con rồng mà hiệp sĩ phải đối mặt vì các tiểu thư đó. Điều anh không thể ngờ là con rồng trong trường hợp của anh lại chính là tình bạn mà anh từng tin – và có lý do chính đáng để tin – rằng quý giá hơn bất kỳ điều gì khác. Ashmont, người bạn thân thiết của anh. Ripley đã phản bội cậu ấy. Ripley là một kẻ tồi tệ từ nhiều năm nay, nhưng đây chắc hẳn là điều tồi tệ nhất anh từng làm trong đời. Tuy nhiên, đối với anh, đây lại là điều tuyệt vời nhất mà anh từng làm. Anh nói, “Giờ thì em đã gây chuyện rồi. Phải lấy anh thôi.” “Vâng.” “Không được bỏ trốn đâu.” “Không.” Cô rúc đầu vào hõm vai anh. Anh có thể cảm nhận hơi thở cô trên làn da mình. Anh không muốn động đậy. Anh không muốn khoảnh khắc này kết thúc. Anh cần thời gian để thấm thía và hiểu rõ mọi chuyện. Nhưng họ không có thời gian. “Chúng ta phải làm ngay lập tức,” anh nói. “Không thể chậm trễ một phút nào. Chúng ta phải rời khỏi đây và lên đường đến London trước khi bác Fred biết chuyện. Mọi việc đã đủ phức tạp mà chúng ta còn phải đối phó với ông ấy nữa.” Cô rời khỏi vòng tay anh và ngồi dậy. Mái tóc cô, màu mật ong sẫm với những ánh vàng khi lửa soi rọi, xõa xuống, phủ lấy mắt và vai cô. Bộ ngực cô tràn ra khỏi mép áo lót. Chiếc corset trễ xuống ngang eo. Anh vươn tay lên và nắm lấy một bên ngực hoàn hảo. “Chà, có lẽ không phải ngay lúc này,” anh nói, giọng khàn đặc. Anh kéo cô xuống và hôn lên ngực cô, lên hõm cổ cô. Anh hôn lên môi cô, và cô lập tức hé môi đón nhận anh. Nụ hôn sâu dần, cơn bão nóng bỏng trong anh lại nổi lên, và anh không còn muốn kháng cự nữa. Chỉ trong giây lát, tim anh lại đập dồn dập, và anh quấn chặt lấy cô, tay anh mơn trớn những đường cong mịn màng trên cơ thể cô. Vừa mới đây thôi, anh vẫn đang dần nguội đi. Anh bắt đầu có thể suy nghĩ. Nhưng giờ đây, tất cả những gì anh muốn là nhiều hơn nữa từ cô. Anh hôn cổ cô, hôn lên gáy cô, và đặt những nụ hôn khắp ngực cô. Anh nắm lấy vòng eo cô và kéo cô sát vào mình. Cô cười khúc khích và nói, giọng mơ màng, “Có lẽ không phải ngay lúc này.” Họ không có thời gian cho những phút giây ân ái chậm rãi, và lần này, anh không dùng chút tinh tế nào. Anh chạm vào nơi nữ tính nhất của cô và vuốt ve. Anh không làm nhiều hơn thế trước khi cô bắt đầu cử động dưới tay anh, ướt át và sẵn sàng. Chỉ trong khoảnh khắc, anh đã ở trong cô lần nữa, đôi chân cô quấn lấy hông anh, và tâm trí anh chẳng còn gì ngoài cô, cảm giác được hòa quyện cùng cô, và sự ngạc nhiên: cảm giác mãnh liệt đến vậy, hạnh phúc đến vậy. Một áp lực mềm mại bao bọc lấy anh, và anh cảm nhận cơ thể cô siết chặt, kéo anh vào, giữ chặt anh. Cơn điên cuồng tuyệt vời quay trở lại. Thế giới biến mất, chỉ còn lại cảm giác cô mang lại và cảm giác họ mang lại cho nhau. Mọi thứ vẫn còn mới, vẫn là một điều kỳ diệu đối với anh. Anh ở trong cô, cố kéo dài khoảnh khắc, không muốn nó kết thúc. Chưa. Chưa phải lúc. Nhưng nó giống như một cuộc đua điên cuồng nhất, nhanh, nhanh, quá nhanh. Đỉnh điểm đến quá sớm và không cách nào chống lại hay làm chậm nó. Nó ập đến anh như một cơn bùng nổ của niềm vui. Và rồi anh rơi xuống, rơi xuống một nơi yên bình. *** Lần này, phải mất một lúc lâu hơn thì nhịp thở của Ripley mới chậm lại, và tâm trí anh mới bớt mơ màng. Anh không muốn nó tỉnh táo trở lại. Anh không muốn nghĩ ngợi gì. Anh chỉ muốn đắm chìm trong hàng ngàn niềm vui từ Olympia. Nhưng anh không thể đắm chìm. Anh cần bình tĩnh, cần suy nghĩ. Cần lập kế hoạch. Ashmont. Làm gì với cậu ấy đây? Nếu có thể làm được gì. Nếu không, mọi chuyện sẽ rất tồi tệ. “Thật may là em không biết gì về cảm giác này trước đây,” cô nói, giọng run run. “Nếu không, em đã bị hủy hoại ngay trong mùa vũ hội đầu tiên rồi.” Và nếu Ripley biết điều này từ nhiều năm trước, khi lần đầu gặp cô, chắc hẳn anh đã hủy hoại cô ngay lập tức. Biết bao thời gian đã bị lãng phí. Nhưng không. Nếu anh phá hỏng cô từ nhiều năm trước, anh đã chẳng thể nhận ra mình có gì trong tay. Hai ngày trước, anh vẫn chưa nhận ra. Trong suốt thời gian theo đuổi cô, cố gắng đưa cô trở lại lễ cưới, Ripley đã tự nhủ rằng cô hoàn hảo dành cho Ashmont. Mù quáng, mù quáng, thật mù quáng. “Chỉ có với anh thì mới thế này,” anh nói. Cũng như chỉ với em, anh mới thế này. Nhận thức ấy chỉ vừa xuất hiện, nơi nó chưa hề tồn tại trước đó vài phút. Ban đầu, anh nghĩ rằng những gì anh cảm nhận về cô là ham muốn đơn thuần, dù mãnh liệt, kết quả của quá nhiều tháng ngày kìm nén. Anh đã nhận ra – nhưng mãi đến ngày hôm qua – rằng nó không hề đơn giản chút nào. Giờ đây, trong tâm trí anh không còn chút nghi ngờ nào nữa. Phải là cô. Không phải ai khác, không bao giờ. “Anh hứa sẽ bù đắp những năm tháng đã mất,” anh tiếp tục. “Thực lòng muốn bắt đầu ngay bây giờ, bù lại những cơ hội đã lỡ. Nhưng vấn đề là, anh đã bắt đầu vào lúc không thích hợp.” Còn thời điểm nào tệ hơn? Chỉ hơn 48 giờ kể từ lúc cô lẽ ra đã kết hôn với bạn thân nhất của anh – người mà, về mặt kỹ thuật, cô vẫn còn đính ước. Người chắc chắn sẽ ghét anh. Và cố giết anh. Và chẳng ai trách cậu ấy vì điều đó. Không có thời gian để lo lắng về điều đó bây giờ. Từng việc một. Trước tiên là chăm sóc Olympia. “Anh phải dậy,” anh nói. “Có vài việc cần làm. Nhưng em cứ ở đây.” Cô khẽ trả lời, và anh cho rằng đó là lời đồng ý. Nhẹ nhàng, anh buông cô ra và ngồi dậy. Anh cảm thấy run rẩy. Sáng nay anh đã ăn gì chưa? Anh không nhớ nữa. Nhưng điều đó không quan trọng. Anh đứng lên, ngạc nhiên vì cơn đau thoáng qua, rồi nhớ ra cái mắt cá chân bị thương. Dù vậy, đó chỉ là cơn đau nhẹ. Anh tìm một chiếc khăn tay và nhanh chóng lau người. Không thấy máu. Ít nhất là không có dấu hiệu rõ ràng trong ánh sáng từ đống lửa ngày mưa u ám. Anh đã quá nôn nóng – thật sự, một cậu nhóc còn có thể chu đáo hơn. Dẫu vậy, anh không làm cô đau như anh lo sợ. Cô không hét lên hay khóc. Đó là một điều tốt. Trong vô thức, anh kéo quần lên, sơ vin áo, rồi cài cúc. “Ở đây một lát nhé,” anh nói. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh cầm một bình nước nhỏ từ bộ dụng cụ trên bệ lò sưởi rồi bước ra ngoài. Trời vẫn mưa, dù không còn dữ dội như trước. Nhưng điều đó không quan trọng. Dù sao thì anh cũng chỉ cần đi một đoạn ngắn tới con sông, và cây cối che chắn gần hết quãng đường. Anh đổ đầy bình rồi quay lại căn lều. Khi mở cửa, cô vẫn nằm đó, nơi anh đã để cô lại. Cô đang nhìn lên trần nhà, nhưng nhanh chóng chuyển ánh mắt về phía anh. “Không có thời gian để dọn dẹp kỹ lưỡng,” anh nói. “Nhưng có vài tấm vải – có vẻ như Alice từng ở đây gần đây – và nước thì sạch.” Vừa nói, anh vừa đặt bình nước trong tầm tay cô. Anh lấy vài tấm khăn từ giỏ vải và phủ chúng lên bình nước. Cô ngồi dậy, đỏ mặt, và sự đỏ ửng lan khắp cổ cô và xuống ngực cô. Nuốt một tiếng rên rỉ, anh vươn tay lấy cặp kính trên bậu cửa sổ. Anh đưa nó cho cô, rồi bận rộn dập lửa trong khi đầu óc anh cứ nghĩ đến làn da hoàn hảo của cô và cách cô tròn trịa ở những nơi đúng đắn. Thật là một phép màu khi không ai bắt được cô từ lâu rồi. “Em nhàm chán và giáo điều,” cô từng nói với anh. Điều đó hoàn toàn sai, nhưng anh thấy mừng vì mọi người đã tin như vậy. Và anh cho rằng mình cũng mừng vì đã mất ngần ấy thời gian để nhận ra cô không giống những cô gái đứng đắn khác. Ít nhất giờ đây anh đủ trưởng thành để hiểu cô đặc biệt thế nào. Nhưng sẽ tốt hơn nếu anh không mất quá nhiều thời gian như vậy. Anh quay lại nhìn cô. Cô đang kéo dây buộc áo lót. Cô buộc chúng lại rồi bắt đầu mặc lại corset. “Để anh giúp,” anh nói. Cô trượt xuống khỏi giường và đứng dậy. “Đứng thì dễ hơn,” cô nói. “Dù em không nghĩ điều đó làm anh bớt nhanh tay hơn. Đến cả cô hầu gái của em cũng không thể tháo corset nhanh như anh.” “Do luyện tập,” anh nói. “Dù anh giỏi cởi hơn là mặc lại.” Không phải lúc nào cũng cần cởi corset. Những lần ân ái vội vàng hiếm khi đòi hỏi phải cởi hết đồ, và anh luôn thích những lần như thế. Vì sự nguy hiểm. “Dù sao thì, anh làm sẽ dễ hơn em.” Anh chỉ cần nới dây corset đủ để tháo nó, vì thế việc chủ yếu là siết lại dây và buộc nó. Anh nhặt chiếc váy của cô lên và giúp cô mặc vào. Nhìn hàng dài cúc áo, anh nhớ lại cảnh cô cởi chúng ra, ánh mắt cô khi làm xong, và anh muốn kéo chiếc váy ra lần nữa, ném nó xuống, rồi đẩy cô ngã lại giường. Nhưng không. Cái chết đang chờ đợi. Không phải cái chết chắc chắn, nhưng khả năng đó rất cao và hoàn toàn xứng đáng. “Em tự cài phần trên,” anh nói. “Anh sẽ làm phần dưới.” Anh quỳ xuống và bắt đầu cài cúc. *** Hai đầu gối của Olympia, thật đáng kinh ngạc với chính cô, vẫn đủ sức giữ cô đứng thẳng. Nhịp thở của cô đã trở lại gần như bình thường. Còn về phần khác trong cô, mọi thứ sẽ chẳng bao giờ như cũ nữa. Không lạ gì khi mẹ cô từng lúng túng đến mức không nói thành lời. Cô nhìn xuống mái tóc sẫm màu của anh. Cô muốn luồn ngón tay qua tóc anh, quỳ xuống sàn cạnh anh, hôn anh, và... ...bắt anh làm lại lần nữa. Và lần nữa. “Giờ anh phải cưới em,” anh nói. Ừ, tất nhiên rồi. Cô không thể quay lại với... “Ashmont,” cô nói. “Nhầm tên rồi,” Ripley đáp, ngước nhìn lên. “Bị sốc nên nhầm lẫn hả? Anh là Ripley. Tên kia là Kẻ Bất Hảo khác. Người mà em sắp cưới. Và lần này thì không chạy trốn nữa đâu.” “Không, ý em là Ashmont—” “Cậu ấy sẽ không vui vẻ gì về diễn biến này đâu, đúng vậy.” Cô đã không suy nghĩ thấu đáo. Thực ra, cô chẳng suy nghĩ gì cả. Giờ thì cô nhớ ra. Những trận đánh nhau. Những cuộc đấu tay đôi. Một lần, dường như Ashmont suýt bị bắn rụng tai. Hoặc có thể là đầu. Nhưng bây giờ... Ripley đã nói gì hôm nọ, ở trong vườn nhỉ? Gì đó về chuyện tình yêu lăng nhăng, và vì anh là người duy nhất gần em, anh sẽ là người bị cậu ấy thách đấu. Cô vẫn đang đính hôn với Ashmont. Vì hèn nhát, cô đã không dứt khoát chia tay. Cách đây không lâu, cô vừa đánh mất sự trinh trắng vào tay bạn thân nhất của anh ấy. Cô muốn đập đầu vào tường. Thật ngu ngốc. Thật liều lĩnh. Cô thậm chí còn chẳng say! Có chuyện gì với cô vậy? Cô bình tĩnh nói, “Anh là bạn anh ấy. Ashmont sẽ không thách đấu với anh. Anh ấy không thể.” “Đúng vậy. Không có gì phải lo cả. Anh sẽ đấm cậu ấy một cái, cậu ấy sẽ đấm lại, và thế là cậu ấy không thể đóng vai nạn nhân được nữa. Dù anh không chắc kế hoạch đó có tác dụng bây giờ.” “Trong trường hợp đó, tốt nhất là để em nói chuyện với anh ấy,” cô nói. “Anh ấy không thể thách đấu em được.” Ripley quay lại với việc cài cúc. “Em có thể nói bất cứ điều gì em muốn. Cũng chẳng thay đổi gì đâu. Anh là bạn cậu ấy và anh đã phản bội lòng tin của cậu ấy. Ồ, còn có cả chuyện bẽ mặt nữa.” “Chính em phản bội anh ấy,” cô nói. “Em đã không chấm dứt như đáng lẽ em phải làm. Em cứ chần chừ.” “Em không hề như vậy.” “Có chứ. Em đã để mọi chuyện cho anh ấy quyết định, dù biết rằng anh ấy quá cứng đầu để buông tay em.” Anh đã cài đến phần giữa chiếc váy. “Em là phụ nữ,” anh nói. “Em không có cái xa xỉ được làm điều đúng đắn hay đáng kính. Như em đã chỉ ra lúc nãy ở thư viện, hôn nhân khác biệt với phụ nữ so với đàn ông. Em đã làm điều thông minh.” “Điều thực tế và hợp lý,” cô nói. “Cả điều đó nữa. Vì em không thể chắc chắn rằng em sẽ vượt qua được cái đầu cứng của anh, nên em rất khôn ngoan khi quyết định không tự cắt đứt đường lui. Hơn nữa, anh cá là em đã quá khéo léo và tế nhị trong bức thư. Em không muốn làm tổn thương cậu ấy. Anh không hiểu sao mọi người lại e ngại làm cậu ấy tổn thương như vậy. Chắc là liên quan đến cái vẻ cún con bị bỏ rơi mà cậu ấy hay có. Anh thì chẳng làm được cái vẻ đó. Đã thử rồi. Nhìn giống yêu tinh hơn.” Anh đã cài đến phần eo chiếc váy. “Em muốn tử tế,” cô nói. “Đó không phải lỗi của anh ấy.” “Tử tế.” Ripley đứng dậy. “Cậu ấy không yếu đuối đến vậy đâu, và đúng, đó là lỗi của cậu ấy.” Anh tìm dây đai và đưa cho cô. Cô nhanh chóng quấn nó quanh eo và cài lại. “Anh rất tốt khi bảo vệ em. Điều đó là dấu hiệu tốt cho một cuộc hôn nhân. Nhưng dù sao, chẳng quan trọng anh ấy có yếu đuối hay không, hay lỗi thuộc về ai. Em không biết anh đã cố gắng như thế nào. Để làm điều đúng đắn. Để trở thành một cô gái tốt. Để được mọi người yêu quý.” “Ừ, vậy thì em không phải là cô gái tốt,” anh nói. Cô hít vào một hơi thật sâu. “Cô gái tốt không say rượu và bỏ trốn trong ngày cưới,” anh tiếp tục. “Cô gái tốt không cởi đồ trước mặt những gã đàn ông hư hỏng. Cô gái tốt không thách thức những gã đó làm chuyện họ muốn. Cô gái tốt không khiến những gã đó ước rằng họ đã làm vậy từ nhiều năm trước. Cô gái tốt thật nhàm chán. Em giành hết giải thưởng về sự nhàm chán bởi vì em cố làm cô gái tốt. Nhưng em không phải. Em là một cô gái hư, và nếu em là con trai, có lẽ em đã là một trong những người bạn thân nhất của anh. Anh mừng vì em không phải con trai. Giờ thì, chúng ta có thể ngừng nói chuyện và suy nghĩ mà ra khỏi đây được không? Chúng ta chẳng còn chút thời gian nào để lãng phí.” *** Trong phòng khách tại Điện Camberley Ngài Frederick đứng bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. "Cơn bão đã dịu đi. Đáng lẽ họ phải về rồi." Ông quay lại phía Phu nhân Charles. "Tôi không thích chuyện này." Bà rót thêm rượu vào ly. "Chuyện này không thuộc quyền quyết định của ông." "Phải có ai đó chịu trách nhiệm chứ." "Ashmont không phải trẻ con. Đã đến lúc cậu ta tự chịu trách nhiệm cho cuộc đời mình. Ông không thể bảo vệ nó mãi được." "Thế còn bà thì sao?" ông nói. "Bà đã ngăn không cho Ashmont gặp hôn thê của nó khi thằng bé đến đây." "Tôi chẳng làm gì như thế cả. Lúc đó con bé không có ở đây." "Bà đã không nói cho nó sự thật toàn bộ. Bà đang bảo vệ ai vậy?" "Olympia. Khỏi việc cưới nhầm người. Vì người đúng thì lại quá chậm chạp để nhận ra điều hiển nhiên." Có một khoảng dừng ngắn, căng thẳng. Một điều gì đó thoáng qua giữa họ. Không nhìn thấy, không nói ra. Nhưng có thể cảm nhận được. Không ai trong hai người thừa nhận điều đó. Cả hai đều là bậc thầy trong việc che giấu cảm xúc. Nếu có điều gì lóe lên trong ánh mắt của Phu nhân Charles, có lẽ đó chỉ là một trò chơi của ánh sáng. Nếu một sắc đỏ nhàn nhạt ửng lên trên gò má của Ngài Frederick, thì cũng vì lý do tương tự. Ông nói, với vẻ bình thản, "Và bà nghĩ rằng nếu để thêm một chút thời gian, nó sẽ tỉnh ngộ." "Đúng vậy." "Và nếu điều đó mất nhiều năm thì sao?" Những từ như tôi đã từng dường như treo lơ lửng trong khoảng im lặng ngắn ngủi đó. Hoặc có thể không. Phu nhân Charles bật cười và nói, "Đến khi quá muộn? Nếu vậy, tôi sẽ tự an ủi rằng ít ra tôi đã cố gắng." "Bà chen vào chuyện người khác, ý bà là thế." Giá như có ai đó chen vào khi ấy... "Thói quen," bà nói. "Tôi đã làm vậy gần như suốt cuộc đời thằng bé. Ông và tôi đều có điểm chung này." "Đúng vậy, và tôi cũng đã quá già để từ bỏ thói quen đó," ông nói. "Đây là cơ hội cuối cùng, tốt nhất mà đứa cháu bất hạnh của tôi có được. Tôi không thể đứng nhìn nó mắc sai lầm... như quá nhiều người khác đã mắc phải." "Nếu cậu ta không mắc sai lầm, làm sao cậu ta học được?" "Đó là một rủi ro mà tôi không chấp nhận. Tôi nghĩ mình đã chờ đủ lâu rồi. Với những gì tôi biết, chúng bó có thể đã rời đi." "Tại sao phải thế?" bà nói. "Tất cả những gì chúng nó làm chỉ là tìm nơi trú ẩn khỏi cơn bão, riêng rẽ hoặc cùng nhau. Ông đang nhảy đến kết luận. Điều đó không giống ông chút nào." "Bà không biết tôi như thế nào," ông nói. "Nhưng cả hai chúng ta đều biết Ripley như thế nào. Và tôi có một ý tưởng khá rõ ràng về những gì cậu ta định làm." Những gì tôi đáng ra nên làm khi có cơ hội. "Chuyện đó không quan trọng," bà nói. "Ông đã quá muộn để thay đổi bất cứ điều gì. Ông đã quá muộn ngay cả trước khi ông đến đây." "Chúng ta sẽ xem." Ông cúi đầu. "Tôi chào bà, phu nhân." Bà không cúi đầu đáp lại mà bước nhanh tới ngưỡng cửa, đứng chắn đường ông. Bà mỉm cười. "À, không, chưa được đâu, thưa ngài." "Gâu!" Cato sủa lên từ phía sau.