Hoàn thành NC-17 Fancy Pants [Wynette, Texas, #1] - Susan Elizabeth Phillips

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi song vang, 22/12/16.

  1. song vang

    song vang Lớp 8

    Tên tác phẩm: Fancy Pants
    Tác giả: Susan Elizabeth Phillips
    Người dịch: song vang
    Tình trạng: đang dịch
    Phân loại: NC-17
    Giới thiệu: Francesca trẻ trung, xinh đẹp, giàu có, kiêu căng và phù phiếm, bỗng một ngày mất hết tất cả. Từ một nàng công chúa được cưng chiều trở thành kẻ bơ vơ không người thân, không nhà cửa. Chúng ta cùng xem Francesca đã lột xác như thế nào sau khi đã nếm đủ những đòn đau của cuộc đời để trở thành một con người khác.
    Mình tìm quyển này sau khi đọc Call Me Irresistible của SEP (đã được Nhã Nam xuất bản dưới tên Lỡ yêu người hoàn hảo), vì muốn biết xem bố mẹ cái anh thị trưởng hoàn hảo là người như nào và đã gặp nhau ra sao mà sinh ra anh hoàn hảo quá vậy :) . Đây chính là truyện về hai đấng thân sinh của anh ấy đó.

    Mở đầu
    “Quỷ tha ma bắt áo lông chồn,” Francesca Serritella Day lầm bầm trong miệng khi những ánh đèn thi nhau nhá vào mặt cô. Cô cúi gằm mặt vào cổ áo choàng lông thú kiểu Nga và ước gì giờ là ban ngày để cô có thể đeo kính râm lên.

    “Đó không phải quan điểm phổ biến đâu em yêu,” Hoàng tử Stefan Marko Brancuzi nói trong lúc dắt tay cô mở đường qua đám paparazzi đã phục sẵn bên ngoài nhà hàng La Cote Basque ở New York để chớp được những người nổi tiếng khi họ vừa rời khỏi bữa tiệc bên trong.

    Stefan Brancuzi là ông hoàng duy nhất của công quốc nhỏ vùng Balkan đã thần tốc tiếm ngôi công quốc Monaco đông nghịt với tư cách là thiên đường về thuế, nhưng anh không phải mục tiêu số một được cánh săn ảnh quan tâm. Mà người phụ nữ xinh đẹp bên cạnh anh mới thu hút bọn họ, cũng như phần lớn công chúng nước Mĩ.

    Khi Stefan dắt cô đến chỗ chiếc limousine đang đậu sẵn, Francesca giơ bàn tay đi găng lên trong một cử chỉ vô ích chẳng ngăn được những loạt đạn câu hỏi vẫn tới tấp phóng vào cô – những câu hỏi về nghề nghiệp của cô, quan hệ giữa cô với Stefan, thậm chí cả về tình bạn giữa cô và ngôi sao của những seri truyền hình đình đám, “China Colt.”

    Khi cô và Stefan cuối cùng đã yên vị trên băng ghế da phủ nhung lông và chiếc limo đã chuyển bánh hòa vào dòng xe trên đại lộ Số Năm lúc nửa khuya, cô mới rên lên. “Tại cái áo này mà ra. Chứ cánh báo chí mấy khi quấy rầy anh. Mà là em. Nếu em mặc cái áo mưa cũ mọi khi, chúng ta đã có thể lọt qua mà không bị ai chú ý.” Stefan quan sát cô với vẻ thú vị. Cô cau mặt với anh. “Có một bài học đạo đức quan trọng cần rút ra ở đây đấy, Stefan.”

    “Là gì vậy cưng?”

    “Trước sự khan hiếm trên toàn cầu, phụ nữ mặc áo lông chồn xứng đáng với những gì họ có được.”

    Anh cười. “Em ắt sẽ nhận ra em mặc gì cũng không quan trọng. Anh từng thấy em gây tắc nghẽn giao thông với một bộ đồ thể thao.”

    “Cái đó em bó tay,” cô chán chường đáp. “Nó có sẵn trong máu em rồi. Lời nguyền của Serritellas.”

    “Thật tình anh chưa thấy người phụ nữ nào ghét mình xinh đẹp như em.”

    Cô làu bàu câu gì đó anh không nghe ra, có khi lại hay, và thục sâu hai tay vào túi áo, dửng dưng với mọi lời đề cập đến nhan sắc của mình như mọi khi. Một lúc lâu sau, cô phá vỡ sự im lặng. “Từ lúc em sinh ra, gương mặt chẳng mang lại gì cho em ngoài rắc rối.”

    Chưa kể đến thân hình nhỏ nhắn hết sảy của em, Stefan nghĩ, nhưng anh sáng suốt giữ lại nhận xét đó cho riêng mình. Khi Francesca nhìn lơ đãng ra ngoài cửa kính xe, anh tranh thủ ngắm những đường nét tuyệt hảo đã làm sững sờ bao con mắt người khác của cô.

    Anh vẫn nhớ câu một biên tập viên tạp chí thời trang có tiếng, người quyết tâm tránh mọi sự rập khuôn Vivien Leigh được áp dụng cho Fancesca suốt bao năm, đã viết, “Francesca Day, với mái tóc màu hạt dẻ, gương mặt hình oval, và đôi mắt xanh lá, trông như một nàng công chúa trong truyện cổ tích chiều chiều ngồi quay những sợi lanh thành vàng trong khu vườn bên ngoài lâu đài đẹp như tranh của nàng.” Nói một cách riêng tư thì tay biên tập viên đó từng không đồng bóng đến thế. “Thâm tâm tôi biết rõ Francesca Day tuyệt nhiên chưa bao giờ phải vào nhà tắm…”

    Stefan chỉ vào quầy bar bằng gỗ óc chó và mạ đồng nằm ẩn trong thành xe. “Uống chút gì không?”

    “Không, cảm ơn anh, Em không nghĩ mình nuốt thêm được giọt cồn nào nữa.” Cô bị thiếu ngủ và chất giọng Anh của cô rõ rệt hơn thường ngày. Vạt áo khoác của cô tách ra và cô liếc xuống chiếc váy Armani đính cườm. Váy Armani … áo lông thú Fendi … giày Mario Valentino. Cô nhắm mắt, bất giác nhớ đến một chiều hè nóng nực khi cô nằm giữa đám bụi trên một con đường ở Texas với chiếc quần jeans xanh lơ nhem nhuốc và hai mươi lăm xu nhét trong túi quần. Hôm đó là một khởi đầu mới đối với cô. Khởi đầu và cũng là kết thúc.

    Chiếc limo rẽ về phía nam trên đại lộ Số Năm, những ký ức của cô trôi xa hơn tới những năm tháng tuổi thơ ở nước Anh trước khi cô biết sự tồn tại của những nơi như Texas. Cái con quỷ nhỏ ngỗ ngược là cô hồi ấy – được nuông chiều và cưng nựng khi Chloe mẹ cô tha cô từ nước Châu Âu này qua nước Châu Âu khác, hết tiệc tùng này đến hội hè khác. Cô kiêu căng ngay từ khi còn là một đứa trẻ - tự tin vô đối rằng người đẹp Serritella nổi tiếng sẽ mở cánh cửa thế giới cho cô và ráp mọi mảnh ghép lại với nhau thành bất cứ hình dạng nào cô muốn. Francesca bé bỏng – một đứa nhỏ ngạo mạn, vô trách nhiệm, hoàn toàn không được chuẩn bị cho những thứ đời sẽ ném vào nó.

    Cô mới hai mốt tuổi đầu khi nằm trên con đường Texas mù bụi vào cái ngày năm 1976 ấy. Hai mốt tuổi, chưa kết hôn, đơn độc, với cái thai trong bụng.

    Giờ cô đã sắp ba mươi hai, và mặc dù đã có trong tay mọi thứ cô hằng mơ ước, cô vẫn mang cảm giác cô độc y như chiều hè năm ấy. Cô nhắm nghiền mắt, cố hình dung đường đời mình sẽ ra sao nếu cô ở lại nước Anh. Nhưng nước Mĩ đã thay đổi cô triệt để đến nỗi cô không tài nào mường tượng ra.

    Cô tự cười một mình. Khi Emma Lazzarus viết bài thơ về những đoàn người ô hợp khao khát đi tìm tự do, chắc chắn bà không hề nghĩ trong đó có một đứa con gái phù phiếm người Anh sẽ đến đất nước này trong chiếc áo len cashmere và xách một chiếc va li Louis Vuitton. Nhưng những thiếu nữ giàu có mà đáng thương cũng phải có ước mơ, và giấc mơ nước Mĩ đã tỏ ra là quá lớn để có thể nuốt trôi kể cả với cô.

    Stefan biết Francesca đang có chuyện. Cô đã im lặng một cách bất thường suốt cả buổi tối, chẳng giống cô chút nào. Anh đã định sẽ cầu hôn cô tối nay, nhưng giờ anh băn khoăn hay tốt hơn mình nên đợi. Cô rất khác so với những người phụ nữ anh quen biết nên anh không thể đoán trước cô sẽ phản ứng ra sao trước mọi chuyện. Anh ngờ rằng có hàng tá đàn ông từng yêu cô đã nếm trải vấn đề tương tự.

    Nếu lời đồn đại là đáng tin, thì chiến tích đầu tiên của Francesca đã diễn ra ở tuổi lên chín trên chiếc thuyền buồm Christina khi cô tát Aristotle Onassis.

    Những tin đồn…có cả rừng tin đồn vây quanh Francesca, hầu hết trong số chúng không thể nào là thật…trừ phi, xét đến cách sống cô đã trải qua, Stefan thấy cũng có lí. Cô đã từng buột miệng nói với anh rằng Winston Churchill đã dạy cô chơi bài rummy, và ai nấy đều biết Hoàng tử xứ Wales từng theo đuổi cô. Một buổi tối sau khi họ gặp nhau chưa lâu, bên chai champagne họ đã kể cho nhau nghe những chuyện về thời thơ ấu của mình.

    “Phần lớn trẻ con đều được thụ thai bằng tình yêu,” cô đã cho anh hay, “riêng em được hình thành trên bục tạo dáng giữa một salon áo lông thú của Harrods.”

    Khi chiếc limousine lướt qua tiệm đồng hồ Cartier, Stefan mỉm cười một mình. Một câu chuyện lí thú, nhưng anh không tin mảy may.
     
    B-Mon, San Grape, Maily Phan and 26 others like this.
  2. song vang

    song vang Lớp 8

    QUÁ KHỨ

    Chương 1


    Khi Francesca lần đầu tiên được đặt vào vòng tay mẹ, Chloe Serritella Day bật khóc và một mực cho rằng các xơ ở bệnh viện tư London nơi bà đến sinh đã làm mất con bà. Bất cứ kẻ nào dù đần độn đến mấy cũng có thể thấy đứa nhỏ xấu xí này với cái đầu bê bết và mí mắt còn sưng húp không thể nào chui ra từ một thân hình mỹ miều của bà đây.

    Vì chẳng ông chồng nào có mặt để vỗ về Chloe đang kích động, nên các xơ đành đứng ra trấn an bà rằng hầu hết những đứa bé mới sinh đều không ở trong bộ dạng đẹp nhất của mình trong nhiều ngày. Chloe ra lệnh cho họ đem ngay kẻ mạo danh xấu xí này đi và không được trở lại cho đến khi nào bọn họ tìm ra đứa con yêu của bà. Xong rồi bà dặm lại lớp trang điểm để đón khách tới thăm – trong số đó có một ngôi sao điện ảnh Pháp, thư ký Bộ Nội Vụ Anh, và Salvador Dali – với một bài miêu tả đẫm nước mắt về bi kịch khủng khiếp đã đổ xuống đầu bà. Những vị khách, chẳng lạ gì những điệu bộ kịch nghệ của Chloe, chỉ vỗ vỗ tay bà và hứa sẽ xem xét kỹ chuyện này. Dali, trong cơn hào hiệp bộc phát, tuyên bố ông sẽ vẽ một phiên bản siêu thực của đứa bé nhân vật chính như một món quà trong lễ rửa tội, nhưng may thay đã mất hứng thú với đề tài này và đã gửi đến một bộ ly mạ vàng thay vào đó.

    Một tuần trôi qua, đến ngày ra viện, các xơ giúp Chloe mặc chiếc váy chẽn Balmain màu đen ôm hờ với cổ và ống tay áo rộng bằng vải organdy.

    Sau đó, họ đỡ bà ngồi vào xe đẩy và đặt đứa trẻ bị chối bỏ vào tay bà. Khoảng thời gian cách biệt đã phần nào cải thiện được vẻ ngoài của đứa bé, nhưng lúc nhìn xuống đứa trẻ quấn tã trong tay, Chloe trải qua những biến chuyển tâm trạng nhanh ngang tốc độ ánh sáng. Nhìn xoáy vào gương mặt lấm tấm mụn cám, bà tuyên bố với tất cả mọi người rằng thế hệ thứ ba của của sắc đẹp nhà Serritella giờ đã được bảo đảm. Chẳng có ai thô lỗ để mà phản đối, điều đó hóa ra lại tốt, vì trong vòng vài tháng, Chloe chứng tỏ mình đã đúng.

    Sự nhạy cảm của Chloe đối với vấn đề nhan sắc có căn nguyên từ tuổi thơ của bà. Bà từng là một đứa bé mũm mĩm, với cái eo tròn núng nính và khung xương mặt thanh tú bị phủ dày một lớp thịt. Trong con mắt người ngoài cô bé chưa đến nỗi bị xem là béo phì, chỉ đủ tròn trịa để mang lại mặc cảm xấu xí trong lòng nó, nhất là so với người mẹ xinh đẹp và sành điệu của nó, một thợ may nổi tiếng gốc Italia, Nita Serritella. Mãi đến mùa hè năm 1947 khi Chloe bước sang tuổi mười hai, khi ai cũng bảo nó rằng nó thật xinh đẹp.

    Tạm biệt trường nội trú bên Thụy Sĩ - nơi phần lớn tuổi thơ nó đã trải qua – về nhà nhân kỳ nghỉ, nó ngồi thu mình hết sức có thể với cặp mông căng tròn choán trên chiếc ghế mạ vàng trong góc salon thanh lịch của mẹ ở phố rue de la Paix. Nó nhìn bằng con mắt oán giận pha lẫn đố kỵ khi Nita, mảnh mai như cây bút chì trong bộ đồ đen cắt may đơn giản với hai vạt áo rộng màu mâm xôi bằng vải satin, trao đổi với một khách hàng ăn vận tao nhã. Mái tóc màu đen ánh xanh của mẹ nó cắt ngắn và suôn thẳng, để rủ xuống một bên má trái trắng mịn thành một lọn dày cong cong, và chiếc cổ cao như trong tranh Modigliani mang những chuỗi ngọc trai đen hòa hợp một cách hoàn hảo. Những chuỗi ngọc trai, cùng với những thứ để trong chiếc tủ tường nhỏ trong phòng ngủ là quà tặng từ những người ngưỡng mộ Nita, những người đàn ông thành đạt nổi tiếng trên bình diện quốc tế chỉ lấy làm hãnh diện khi mua trang sức cho một người phụ nữ đủ thành đạt để tự mua cho chính mình. Một trong những người đó là cha của Chloe, song Nita tuyên bố bà chẳng nhớ là người nào, và chắc chắn bà chưa bao giờ có ý định kết hôn với người đó.

    Người đẹp tóc vàng nhận được sự quan tâm của Nita chiều hôm đó nói tiếng Tây Ban Nha, chất giọng bà ta bình thường một cách đáng ngạc nhiên đối với một người đang được cả thế giới chú ý hồi mùa hè năm 1947 ấy. Chloe chỉ để một nửa tâm trí vào cuộc trò chuyện và nửa còn lại dán vào những cô người mẫu gầy như cây sậy đang diễu qua giữa salon trong mẫu thiết kế mới nhất của Nita. Tại sao nó không thể gầy và tự tin như họ? Chloe tự hỏi. Tại sao nó không thể trông giống mẹ nó, khi cả hai cùng có mái tóc đen, cùng đôi mắt màu xanh lục? Chỉ cần mình xinh đẹp, Chloe nghĩ, có lẽ mẹ sẽ không còn nhìn mình bằng ánh mắt ghê tởm nữa. Đã hàng trăm lần nó hạ quyết tâm từ bỏ các thể loại bánh ngọt hòng giành được sự tán thưởng của mẹ - và hàng trăm lần cái cảm giác đói thắt ruột trong dạ dày nói với nó rằng nó không có sức mạnh ý chí. So với nghị lực mạnh mẽ của Nita, Chloe cảm thấy mình y như một cái nùi bông nhồi lông ngỗng.

    Người đẹp tóc vàng đang xem bản vẽ đột nhiên ngẩng lên, đôi mắt nâu trong trẻo bất ngờ liếc sang Chloe. Bằng giọng Tây Ban Nha khàn khàn khác thường của mình, bà nhận xét, “cô bé kia sau này sẽ trở thành một mỹ nhân sắc nước hương trời. Nhìn nó rất giống chị.”

    Nita nhìn qua Chloe bằng vẻ khinh thường không buồn che giấu. “Tôi chẳng thấy giống chỗ nào, sehora. Và nó sẽ không bao giờ trở thành mỹ nhân cho đến khi nào nó biết ăn uống kiềm chế.”

    Khách hàng của Nita nhấc bàn tay đeo kín nhẫn vẫy vẫy Chloe.

    “Lại đây bé. Tới thơm Evita một cái nào.”

    Trong một lúc Chloe không nhúc nhích vì đang cố tiêu hóa những gì bà ta nói. Rồi nó miễn cưỡng đứng lên khỏi ghế và đi qua salon, ý thức được trong nỗi xấu hổ rằng hai bắp chân tròn vo của mình đang phô ra dưới gấu chiếc váy cotton mùa hè. Khi đến chỗ người phụ nữ, nó cúi xuống và đặt một nụ hôn rụt rè nhưng đầy lòng biết ơn lên phần má mềm mượt của Eva Peron.

    “Con mụ phát xít!” Nita rủa khi Đệ nhất phu nhân Argentina vừa ra khỏi cửa. Bà đưa hộp thuốc lá gỗ mun lên miệng rút ra một điếu, để lại một vết son đỏ trên mép hộp.

    “Tao nổi hết da gà khi chạm vào mụ ta! Người ta thừa biết chẳng có tên phát xít nào ở Châu Âu không được đón tiếp bởi Peron và đám bạn cánh hẩu của hắn ở Argentina.”

    Ký ức về những ngày quân Đức chiếm đóng Paris vẫn tươi nguyên trong tâm trí Nita, và bà không có chút tình cảm nào ngoài sự khinh miệt những ai có cảm tình với phe phát xít. Song bà là một phụ nữ thực tế, và Chloe biết mẹ nó chẳng thấy có gì vô lý trong việc chuyển tiền của Eva Peron, mặc kệ nó bất chính đến đâu, từ phố rue de la Paix tới đại lộ Montaigne, nơi trụ sở hãng Dior tọa lạc.

    Sau chuyện đó, Chloe cắt những tấm ảnh của Eva Peron từ trên báo và dán chúng vào một cuốn sổ bìa đỏ. Mỗi khi những lời nhiếc móc của Nita trở nên cay nghiệt không chịu nổi, Chloe lại lấy chúng ra ngắm, thỉnh thoảng để lại vết chocolate trên những trang giấy khi nó nhớ lại cách Eva Peron đã nói một ngày nào đó nó sẽ trở nên xinh đẹp.

    Mùa đông năm mười bốn tuổi số mỡ thừa của Chloe đã biến mất một cách kỳ diệu cùng với thú ăn đồ ngọt, và khung xương thần thánh nhà Serritella cuối cùng đã định hình. Nó bắt đầu dành hàng giờ trước gương, mê hoặc bởi hình ảnh mảnh mai trước mắt. Giờ thì, nó tự nhủ, mọi chuyện sẽ khác. Theo như nó còn nhớ, nó từng cảm thấy như một kẻ bị tẩy chay ở trường học, nhưng đột nhiên nó thấy mình trở thành trung tâm chú ý. Nó không hiểu được rằng những đứa con gái khác bị thu hút bởi khí chất tự tin mới có hơn là vòng eo 56 cm của nó. Đối với Chloe Serritella, cứ xinh đẹp đồng nghĩa với được đón nhận.

    Nita có vẻ hài lòng với việc con gái sụt cân, thế nên khi Chloe đến Paris nghỉ hè, nó gom được dũng khí để khoe mẹ những mẫu phác thảo quần áo nó đã vẽ với hy vọng mai này sẽ trở thành một nhà thiết kế. Nita trải những bức vẽ ra bàn làm việc, đốt một điếu xì gà, xem xét tỉ mỉ từng bức bằng cặp mắt phê bình đã khiến bà trở thành một nhà thiết kế nổi danh.

    “Đường cắt này lố bịch quá. Ở đây thì chẳng có tí cân đối nào cả. Thấy mày phá hỏng cả mẫu bằng quá nhiều chi tiết chưa? Mắt mày để đâu hả Chloe? Mắt mày để đâu?”

    Chloe giật lấy những bản phác thảo trên bàn và không bao giờ nghĩ đến việc thiết kế nữa.

    Khi quay lại trường học, Chloe dốc sức chăm chút cho bản thân xinh đẹp hơn, hóm hỉnh hơn, và nổi tiếng hơn tất cả các bạn cùng lớp, quyết tâm không để một ai còn chút nghi ngờ rằng đứa con gái béo tròn vụng về vẫn còn ở trong nó. Nó học cách thổi phồng những tình tiết tầm thường nhất trong đời sống thường nhật bằng những điệu bộ cao quý và những tiếng thở dài màu mè cho đến khi mọi việc nó làm dường như quan trọng hơn hết thảy những gì người khác có thể làm. Dần dần ngay cả những sự việc trần tục nhất trong cuộc sống của Chloe Serritella cũng trở nên đầy kịch tính.

    Năm mười sáu tuổi, nó đánh mất trinh tiết với anh trai một đứa bạn trong một vọng lâu đối diện hồ Lucerne. Đó là một trải nghiệm ngượng ngùng và khó chịu, nhưng sex khiến Chloe cảm thấy mình còn kém cỏi. Nó nhanh chóng xốc lại tinh thần để thử lại toàn bộ chuyện đó với một người giàu kinh nghiệm hơn.

    Vào mùa xuân năm 1953, khi Chloe bước sang tuổi mười tám, Nita đột ngột qua đời vì vỡ ruột thừa. Chloe ngồi chết lặng trong suốt đám tang, quá choáng váng để hiểu rằng nỗi đau buồn cùng cực của cô nảy sinh phần lớn không phải do cái chết của mẹ mà từ cảm giác rằng mình chưa bao giờ có mẹ. Rất sợ sự cô đơn, cô cặp với một bá tước người Ba Lan giàu có hơn cô nhiều tuổi. Ông ta cho cô chỗ trú ẩn tạm thời khỏi những nỗi sợ và sáu tháng sau giúp cô bán salon của Nita với cái giá đáng kinh ngạc.

    Ông bá tước cuối cùng quay về với vợ và Chloe bắt đầu sống bằng tài sản thừa kế. Trẻ trung, nhiều tiền, và không có gia đình, cô nhanh chóng thu hút những gã đàn ông trẻ lười biếng tự dệt bản thân thành những sợi chỉ vàng trong bức tranh xã hội quốc tế. Cô trở thành một dạng nhà sưu tập, dạo qua hết người này đến người khác khi tìm kiếm một người đàn ông sẽ cho cô tình yêu vô điều kiện mà cô chưa bao giờ nhận được từ mẹ mình, người đàn ông sẽ dập tắt cảm giác của một đứa con gái béo phì bất hạnh trong cô.

    Jonathan “Black Jack” Day bước vào đời cô từ bên kia vòng quay roulette trong một sòng bạc ở quảng trường Berkeley. Black Jack Day có biệt danh này không phải từ ngoại hình mà từ sở thích với những trò mạo hiểm. Hai mươi lăm tuổi, gã đã phá hỏng ba chiếc xe đua và một lượng đáng kể phụ nữ. Là một tay chơi điển trai đến từ Chicago, gã có mái tóc màu hạt dẻ xõa xuống trán một cách phóng túng, hàng ria ngổ ngáo, và được xếp thang điểm 7 trong môn polo. Xét về nhiều mặt gã khác với những kẻ theo chủ nghĩa khoái lạc đã đóng vai trò lớn trong đời sống của Chloe; gã uống rượu gin, mặc những bộ đồ may đo lịch lãm, và đổi sân chơi theo mùa. Nhưng những người đàn ông khác thiếu đi tính liều lĩnh của Jack Day, khả năng đánh cược mọi thứ của gã – kể cả gia sản gã thừa kế trong ngành xe lửa Mĩ – vào vòng quay roulette.

    Biết thừa ánh mắt gã dán vào người mình từ bên kia, Chloe quan sát quả bóng nhỏ màu ngà lăn hết từ ô đỏ sang ô đen rồi quay lại trước khi dừng lại ở ô đen số 17. Lúc đấy cô mới cho phép mình ngẩng lên và thấy Jack Day đang chằm chằm nhìn cô qua bàn. Gã mỉm cười, làm cong hàng ria mép. Cô cười đáp lại, tự tin rằng trông mình đang đẹp hơn lúc nào hết trong mẫu thiết kế màu xám bạc của Jacques Fath phối hợp giữa satin và vải tulle làm nổi bật những đường highlight trên mái tóc đen, làn da trắng nhạt và sắc xanh sâu thẳm trong mắt cô. “Xem ra tối nay ngài không thể thua được rồi,” cô nói. “Ngài luôn may mắn như thế này sao?”

    “Đâu có,” gã đáp. “Còn cô?”

    “Tôi ư?” Cô buông ra một trong những tiếng thở dài đầy biểu cảm của mình. “Tối nay tôi thua sạch rồi. Je suis miserable. Tôi chưa bao giờ gặp may hết.”

    Gã rút một điếu xì gà trong chiếc hộp bạc trong lúc cặp mắt trơ tráo lướt khắp người cô. “Tất nhiên là cô may mắn chứ. Chẳng phải cô vừa gặp tôi sao? Và tối nay tôi sẽ đưa cô về nhà.”

    Chloe vừa ngạc nhiên vừa bị kích thích trước sự chai mặt của anh ta, bàn tay cô vô thức nắm chặt mép bàn tìm chỗ dựa. Cô cảm giác như ánh mắt màu bạc mờ của anh ta đang xuyên thấu qua chiếc váy cô đang mặc và đốt cháy những nơi sâu kín nhất của cơ thể cô. Không thể xác định điều gì khiến Balck Jack khác biệt hẳn với những người còn lại, cô cảm thấy chỉ có người phụ nữ đặc biệt nhất mới có thể chiếm được trái tim người đàn ông siêu tự tin này, và nếu cô là người phụ nữ đó, cô có thể chấm dứt mãi mãi nỗi lo của đứa con gái béo ú trong mình.

    Nhưng dù rất muốn tiến tới với anh ta, Chloe vẫn dè chừng. Trong vòng một năm kể từ khi mẹ cô qua đời, cô đã am hiểu về đàn ông còn hơn cả về bản thân mình. Cô đã theo dõi ánh liều lĩnh trong mắt anh ta khi quả bóng ngà lăn lóc cóc qua những ô trên vòng quay roulette, và cô ngờ rằng anh ta sẽ không quá coi trọng những thứ mình có thể giành được quá dễ dàng. “Tôi rất tiếc,” cô nhã nhặn đáp. “Tôi có những kế hoạch khác rồi.” Trước khi anh ta kịp phản ứng, cô cầm ví lên và rời khỏi phòng.

    Hôm sau anh ta gọi đến, nhưng cô bảo người hầu trả lời mình không có nhà. Một tuần sau cô trông thấy anh ta ở một sòng bài khác và sau khi ném cho anh ta một ánh nhìn trêu ngươi, cô rút lui trước khi anh ta có thể tiếp cận. Ngày qua ngày, và cô thấy mình không thể nghĩ được gì khác ngoài kẻ ăn chơi điển trai đến từ Chicago. Một lần nữa anh ta gọi lại; một lần nữa cô không nghe máy. Cũng tối hôm đó cô chạm mặt anh ta ở nhà hát và gật đầu chào anh ta, môi điểm một nụ cười, trước khi đi đến lô của mình.

    Lần thứ ba anh ta gọi đến, cô nghe máy nhưng giả bộ chẳng nhớ anh ta là ai. Anh ta cười khan và bảo cô, “sau nửa giờ nữa tôi sẽ đến chỗ em, Chloe Serritella. Nếu em chưa sẵn lòng, tôi sẽ không bao giờ gặp lại em nữa.”

    “Nửa giờ? Làm sao tôi có thể -“ nhưng anh ta đã cúp máy.

    Bàn tay cô run run khi đặt điện thoại vào giá đỡ. Trong tâm trí cô hiện ra vòng quay roulette, quả bóng ngà lăn từ ô đỏ đến ô đen, đen đến đỏ, cái trò chơi họ đang tham gia cũng y chang vậy. Với đôi tay run rẩy, cô thay một chiếc váy bó bằng len trắng với hai cổ tay họa tiết da mèo rừng, thêm vào một chiếc mũ nhỏ phủ mạng che. Cô tự ra mở cửa đúng nửa tiếng đồng hồ sau đó.

    Anh ta dẫn cô đi dọc vỉa hè tới chỗ một chiếc Isotta-Fraschini thể thao màu đỏ rực, anh ta lái nó qua các con phố của quận Knightsbridge bằng tốc độ nghẹt thở chỉ với bàn tay phải đặt trên vô lăng. Cô nhìn anh ta qua khóe mắt, mê mẩn những lọn tóc màu hạt dẻ xõa vô tổ chức trên trán anh ta cũng như việc anh ta là một người Mĩ sôi nổi chứ không phải một công dân Châu Âu mực thước.

    Cuối cùng anh ta dừng lại ở một nhà hàng biệt lập, nơi bàn tay anh ta luôn chạm vào tay cô mỗi khi cô với lấy ly rượu vang. Cô thấy mình khao khát anh ta đến cồn cào. Dưới áp lực của đôi mắt bạc chuyển động không ngừng kia, cô thấy mình đẹp đến hoang dại và thanh mảnh y như bên ngoài. Mọi thứ ở anh ta đều khuấy động các giác quan của cô – dáng đi, giọng nói, mùi thuốc lá trong hơi thở anh ta. Jack Day là chiến tích cao nhất, là sự xác nhận cuối cùng đối với sắc đẹp của cô.

    Ra khỏi nhà hàng, anh ta ấn cô vào một thân cây ngô đồng và tặng cô một nụ hôn ngấu nghiến say đắm. Anh ta luồn tay ra sau khum lấy mông cô. “Tôi muốn em,” anh ta thì thầm bên miệng cô đang hé mở.

    Cơ thể cô căng lên vì ham muốn đến độ cô sẽ đau thực sự nếu để anh ta đi. “Thế này quá nhanh đối với em, Jack. Em cần có thời gian.”

    Anh ta cười và bẹo cằm cô, như thể hết sức hài lòng vì cô đã ngoan ngoãn tham gia trò chơi của anh ta; rồi anh ta bóp ngực cô đúng lúc một cặp vợ chồng già đi ra khỏi nhà hàng và nhìn về phía họ. Trên đường về, anh ta giải trí cho cô bằng những mẩu giai thoại sống động và không đả động gì đến việc gặp lại cô.

    Hai ngày sau người hầu của cô thông báo Jack gọi điện đến, Chloe lắc đầu, từ chối nghe máy. Rồi cô chạy về phòng, khóc như mưa như gió, sợ mình đang đẩy anh ta đi quá xa nhưng cũng không dám mạo hiểm làm anh ta mất hứng nếu mình có hành động nào khác. Lần gặp sau đó là tại buổi khai trương một gallery, anh ta khoác tay một nữ diễn viên hạng B tóc nhuộm. Chloe giả bộ như không thấy.

    Anh ta xuất hiện trước cửa nhà cô chiều hôm sau và rủ cô lái xe về vùng nông thôn chơi. Cô nói mình đã có hẹn trước và không thể ăn tối với anh ta được.

    Trò chơi may rủi lại tiếp diễn, và Chloe không thể nghĩ được chuyện gì khác. Khi không ở cùng Jack thì cô tạo dựng anh ta trong trí tưởng tượng của mình – những cử chỉ hiếu động, mái tóc vô tổ chức, hàng ria gian xảo. Suy nghĩ của cô gần như không thể vượt xa hơn sự căng tức ẩm ướt tràn ngập cơ thể cô, tuy nhiên cô vẫn cự tuyệt lời đề nghị của anh ta.

    Anh ta thốt lên hung tợn khi rà môi theo vành tai cô. “Anh không nghĩ em là người phụ nữ đủ cho anh.”

    Cô miết tay sau gáy anh ta. “Em không nghĩ anh đủ giàu đối với em.”

    Quả bóng ngà kêu lanh canh quanh đường viền vòng roulette, từ đỏ sang đen, đen sang đỏ…Chloe biết nó sẽ sớm dừng lại.

    “Tối nay,” Jack nói khi cô trả lời điện thoại. “Hãy đợi anh lúc nửa đêm.”

    “Nửa đêm? Anh đừng ngớ ngẩn thế. Chuyện đó không thể được.”

    “Đêm nay hoặc không bao giờ, Chloe. Trò chơi kết thúc rồi.”

    Tối hôm đó cô diện bộ quần áo nhung đen với hàng cúc bằng kim cương giả trên chiếc áo blouse vải crepe de chine màu rượu champagne. Đôi mắt cô trong gương rực sáng khi cô chải mái tóc đen thành kiểu bob mềm mại. Black Jack Day, vận bộ tuxedo, xuất hiện trước cửa nhà cô đúng vào nửa đêm. Trông thấy anh ta, trong lòng cô tan chảy như loại nước hoa hồng cô vừa xức lên làn da ngứa ngáy của mình. Thay vì chiếc Isotta-Fraschini, anh ta dẫn cô tới một chiếc Daimler có tài xế riêng và tuyên bố anh ta sẽ đưa cô đến trung tâm thương mại Harrods.

    Cô cười. “Nửa đêm chẳng phải đã hơi trễ để đi shopping sao?”

    Anh ta không đáp, chỉ cười tủm tỉm khi ngồi vào chiếc ghế da mềm và bắt đầu tán gẫu về một con ngựa polo anh ta nghĩ có thể mua được từ Aga Khan. Qua một lúc lâu, chiếc Daimler dừng lại trước mái sảnh màu xanh lục pha vàng của Harrods. Chloe nhìn ánh đèn mờ hắt ra qua những cánh cửa của các gian hàng vắng tanh. “Harrods xem ra không mở cửa suốt đêm, kể cả là vì anh, Jack ạ.”

    “Để rồi xem?” Người tài xế mở cửa cho họ, Jack đỡ cô bước ra.

    Trước sự kinh ngạc của cô, một người gác cửa mặc chế phục hiện ra từ sau cánh cửa kính của Harrods và sau khi len lén liếc xem có khách bộ hành nào trên phố nhìn không, liền mở khóa và hé rộng cửa cho họ. ”Chào mừng ông tới Harrods, Mr. Day.”

    Cô nhìn khung cửa mở trong sự ngỡ ngàng. Chắc chắn ngay cả Black Jack Day cũng không thể cứ thế bước vào trung tâm thương mại nổi tiếng nhất thế giới sau giờ đóng cửa rất lâu mà không có sự có mặt của nhân viên bán hàng. Thấy cô không nhúc nhích, Jack đặt tay lên eo lưng cô đẩy cô về phía trước. Khi họ vừa bước vào trong, người gác cửa làm một hành động đáng kinh ngạc nhất – anh ta ngả mũ xuống, bước ra ngoài đường, và khóa cánh cửa sau lưng lại. Cô không thể tin vào mắt mình, và cô nhìn sang Jack chờ một lời giải thích.

    ”Trò roulette đã đặc biệt ưu ái anh kể từ khi anh gặp em, cưng ạ. Anh nghĩ có thể em sẽ thích được mua sắm thả giàn.”

    ”Nhưng ở đây đóng cửa rồi. Em chẳng thấy nhân viên nào cả.”

    ”Thế càng hay.”

    Cô đòi anh ta giải thích, nhưng Jack chỉ nói qua loa về việc mình đã thương lượng riêng – và cô dám chắc là không hợp thức – với nhiều nhân viên còn mới và không quá cẩn trọng của Harrods.

    ”Nhưng không có ai làm ca tối ở đây sao? Nhân viên vệ sinh? Người gác đêm?”

    ”Em hỏi hơi nhiều đấy cưng. Tiền còn gì là hay ho nếu nó không thể mua được sự vui vẻ? Để xem thứ gì sẽ thu hút em tối nay nào.” Anh ta cầm lên một chiếc khăn quàng cổ mang sắc bạc và vàng từ kệ trưng bày lên và choàng nó lên cổ áo khoác nhung của cô.

    ”Jack, em không lấy cái này được!”

    ”Cứ vô tư đi. Cửa hàng sẽ được đền bù hậu hĩ. Giờ em định làm anh phát chán với những lo lắng của em hay chúng ta có thể vui chơi thoải mái đây?”

    Chloe không thể tin vào những gì đang diễn ra. Xung quanh bặt tăm nhân viên bán hàng, người quản lý hay bảo vệ. Chẳng lẽ khu trung tâm thương mại hoành tráng này thực sự là của cô? Cô nhìn xuống chiếc khăn mang trên cổ và bật ra một tiếng cảm thán nghèn nghẹn. Jack hất đầu về phía tầng tầng lớp lớp những mặt hàng thanh lịch. ”Đi chọn đồ thôi.”

    Với tiếng cười dạn dĩ, cô vươn tay nhấc một chiếc túi xách đính đồng xu trên giá trưng bày, rồi khoác quai túi dạng tết lên vai. ”Đẹp đấy,” Jack nói.

    Cô vòng tay ôm cổ anh ta. ”Anh nhất định là người đàn ông lôi cuốn nhất trên thế giới, Jack Day! Em ngưỡng mộ anh làm sao.”

    Hai bàn tay anh ta lần từ eo xuống khum lấy mông cô kéo hông cô ép chặt vào hông mình. ”Còn em là người đàn bà lôi cuốn nhất. Anh không thể cho phép quan hệ của chúng ta được thực hiện ở một nơi bình thường được?”

    Đỏ sang đen....đen sang đỏ... Một thứ cứng ngắc ấn vào bụng cô ngăn cô không hiểu nhầm ý anh ta, và cô cảm thấy người nóng bừng và lạnh toát cùng một lúc. Trò chơi sẽ kết thúc ở đây...tại Harrods. Chỉ có Jack Day mới có khả năng làm những chuyện khác người. Ý nghĩ ấy khiến đầu cô xoay tít như vòng quay đen đỏ.

    Anh ta gỡ chiếc túi trên vai cô xuống, cởi chiếc áo khoác nhung của cô, để cả hai lên một giá bày những chiếc ô bằng lụa với tay cầm bằng gỗ hồng sắc. Rồi anh ta cởi áo vét đặt nó xuống cùng chỗ với áo khoác của cô để đứng trước cô trong chiếc sơ mi trắng với những chiếc khuy đen nhánh cài trên cổ áo xếp nếp, vòng eo hẹp thắt một chiếc thắt lưng tối màu. ”Chúng ta sẽ lấy những thứ này sau,” anh ta tuyên bố, quàng lại chiếc khăn trên vai cô. ”Đi khám phá nào.”

    Anh ta dắt cô tới sảnh đồ ăn lừng danh của Harrods với những quầy lớn ốp đá cẩm thạch và trần nhà vẽ bích họa. ”Em có đói không?” anh ta hỏi, nhấc từ giá lên một hộp chocolate bằng bạc.

    ”Phần anh đấy,” cô đáp.

    Miệng Jack nhếch lên dưới bộ ria. Anh ta mở nắp hộp lấy ra một thanh chocolate đen và cắn một miếng, phần vỏ vỡ ra khiến lớp rượu mùi anh đào mịn sánh trong nhân rỉ ra. Anh ta nhanh nhẹn kê nó lên môi cô, đẩy đưa thanh kẹo tới lui để thứ chất lỏng đặc quánh ấy truyền sang cô. Rồi anh ta nhét thanh chocolate trở lại miệng mình và cúi xuống hôn cô. Khi miệng cô hé mở, ngọt lịm và dính ướt rượu anh đào, anh ta dùng lưỡi đẩy thanh chocolate sang. Chloe đón lấy thanh kẹo với một tiếng rên, thân thể cô trở nên tan chảy và hóa lỏng giống như nhân kẹo.

    Khi cuối cùng hai người cũng rời nhau ra, Jack lựa một chai champagne, mở nút, nghiêng miệng chai cho cô uống rồi tới mình. ”Vì người phụ nữ tai quái nhất London,” anh ta nói, cúi xuống liếm sạch vệt chocolate cuối cùng dính ở khóe miệng cô.

    Họ dạo qua tầng một, chọn một đôi găng tay, một bó hoa violet lụa, một hộp nữ trang vẽ thủ công, và gom chúng lại một chỗ để lát nữa quay lại lấy. Cuối cùng họ đến khu vực nước hoa, và hỗn hợp sực nức của những mùi hương tinh tế nhất trên thế giới tràn qua cô, hương thơm của chúng không bị vấy bẩn bởi những đoàn người chen chúc dọc những lối đi trải thảm lúc ban ngày.

    Tới giữa gian sảnh, Jack buông tay cô và xoay cô lại đối diện mình. Anh ta bắt đầu cởi cúc áo ngoài của cô, trong cô dấy lên một cảm giác kì lạ trộn lẫn giữa phấn khích và xấu hổ. Mặc dù cửa hàng vắng tanh thật đấy, nhưng họ đang đứng ở nơi trung tâm của Harrods. ”Jack, em –”

    ”Đừng có trẻ con, Chloe,” anh ta nói. ”Cứ nghe theo anh.”

    Một cơn rùng mình chạy suốt người cô khi anh ta gạt lớp lụa của chiếc áo cánh sang hai bên để lộ những đường ren màu vở trứng trên áo ngực của cô. Anh ta lấy một chiếc hộp bao bì bọc giấy bóng nhãn hiệu Joy từ một chiếc hòm kính để mở và xé màng bọc.

    ”Tựa vào quầy đi,” giọng anh ta mượt như chất vải crepe de chine của áo cô. ”Đặt hai tay dọc mép quầy.”

    Cô làm theo lời anh ta, trở nên yếu đuối dưới cái ánh mãnh liệt trong đôi mắt bạc của anh ta. Rút chiếc nút thủy tinh từ cổ chai ra, anh ta luồn nó vào trong mép áo ngực của Chloe. Cô hít vào một hơi khi anh ta chà phần chỏm lạnh ngắt của nó lên núm vú cô.

    ”Cảm giác rất tuyệt phải không?” anh ta hỏi, giọng trầm và khàn.

    Cô gật đầu, không đủ sức để nói nữa. Jack đóng lại chiếc nút vào chai, cầm một chiếc khác lên, và trượt nó vào bầu áo ngực bên kia từ dưới lên tới khi chạm vào núm vú bên kia của cô. Cô có thể cảm thấy da thịt mình co lại dưới những vòng xoay chầm chậm của chiếc nút thủy tinh, và khi người cô bắt đầu nóng bừng lên, những đường nét điển trai ngạo nghễ của Jack như bồng bềnh trước mắt cô.

    Jack hạ chiếc nút xuống và cô cảm thấy tay anh ta chạm vào dưới gấu váy và từ từ lần ngược lên dọc theo chiếc tất dài. ”Giạng chân ra,” anh ta thì thầm. Hai tay bám chặt vào mép quầy, cô ngoan ngoãn làm theo. Anh ta di chiếc nút chai lên trên theo mé trong một bên đùi cô, qua mép tất và lên tới phần da trần, miết nó chầm chậm theo từng vòng tròn tới viền quần lót của cô. Chloe rên lên và choãi rộng chân hơn.

    Anh ta cười một cách xấu xa và rút tay ra khỏi váy cô. ”Chưa đâu cưng. Đừng vội.”

    Họ di chuyển trong trung tâm thương mại tĩnh lặng, đi từ gian hàng này qua gian hàng khác, thỉnh thoảng mới nói với nhau một đôi câu. Jack vuốt ve ngực cô khi cài một chiếc ghim kiểu dáng thời Georgian lên ve áo cô, xoa nắn mông cô qua lớp váy trong lúc chải tóc cô bằng một chiếc lược có tay cầm bằng bạc chạm trổ. Cô thử một chiếc thắt lưng da cá sấu và một đôi giày trẻ con thêu ở phần mũi. Tại gian hàng trang sức, anh ta tháo đôi hoa tai ngọc trai của cô và thay bằng một cặp ghim vàng viền quanh là những hạt kim cương nhỏ xíu. Khi cô phản đối sự phung phí này, anh ta cười giễu. ”Chỉ mất một vòng quay roulette thôi mà cưng.”

    Anh ta tìm được một chiếc khăn quàng bằng lông cò trắng và, đẩy cô tựa vào một cột đá cẩm thạch, tuột chiếc áo khỏi vai cô. ”Nom em hệt như một nữ sinh ấy,” anh ta nhận xét, đưa tay ra sau lưng cô để cởi áo ngực cô. Chiếc áo lụa trượt khỏi những ngón tay anh ta rơi xuống sàn trải thảm, và cô đứng trước mặt Jack khỏa thân từ eo trở lên.

    Cô có bộ ngực căng tròn trên đỉnh là hai núm vú dẹt bằng kích thước đồng nửa đô la, giờ đây cứng lên và săn lại vì kích thích. Jack dùng mỗi tay nâng một bầu vú lên. Cô sung sướng khi được khoe mình trước anh ta và đứng lặng phắc, cái lạnh từ cây cột xoa dịu tấm lưng nóng bừng của cô. Anh ta nhéo hai núm vú cô, khiến cô thở hổn hển. Cùng với tiếng cười, anh ta lấy chiếc khăn lông trắng choàng lên đôi vai trần của cô bao bọc cô lại. Rồi anh ta từ từ di tới lui hai đầu khăn gắn lông.

    ”Jack –” cô muốn anh ta chiếm lấy cô ngay tại đó. Cô muốn trượt xuống chân cột, dang rộng hai chân, và đưa anh ta vào trong cô.

    ”Anh mới nảy sinh một khao khát bất ngờ đối với thị hiếu của Joy,” anh ta thì thầm. Đẩy một bên khăn ra, anh ta phủ miệng mình lên núm vú cô và bắt đầu mút không thương tiếc.

    Cô rùng mình khi hơi nóng tràn ngập mọi ngóc ngách cơ thể cô, đốt cháy những cơ quan trong cô, làm bỏng da cô. ”Xin anh....” cô thều thào. ”Ôi, xin anh....đừng hành hạ em thêm nữa.”

    Anh ta dứt khỏi cô, đôi mắt linh hoạt đầygiễu cợt. ”Một chút nữa thôi cưng. Anh còn chưa chơi xong. Anh nghĩ chúng ta nên ngó qua hàng lông thú.” Và rồi, cùng với nụ cười tủm tỉm cho cô hay anh ta biết rõ mình đã dồn ép cô tới mức độ nào, anh ta chỉnh lại chiếc khăn trên ngực cô, nhẹ nhàng chà xát một núm vú bằng móng tay khi anh ta đặt hai đầu khăn vào chỗ cũ.

    ”Em không muốn xem lông thú,” cô nói. ”Em muốn...”

    Nhưng anh ta đã kéo cô tới thang máy nơi anh ta vận hành thành thạo bảng điều khiển như thể trực ở đây hàng ngày. Cô đi lên cùng với anh ta, chỉ có chiếc khăn lông trắng che phủ bộ ngực trần.

    Khi tới salon lông thú, Jack như quên bẵng cô. Anh ta đi dọc các kệ, xem xét tỉ mỉ mọi chiếc áo khoác và khăn choàng bày trên đó trước khi chọn một chiếc áo choàng dài bằng lông mèo rừng Nga. Tấm da lông dài và dày, có màu trắng bạc. Anh ta ngắm nghía chiếc áo một hồi rồi quay sang cô.

    ”Em cởi váy ra.”

    Những ngón tay cô lập cập với cái khóa kéo và trong một thoáng cô tưởng mình sẽ phải nhờ Jack giúp. May sao cái móc khóa cũng đầu hàng và cô tuột chiếc váy xuống, cùng với chiếc váy lót bên dưới, qua hông và bước ra khỏi chúng. Hai đầu chiếc khăn lông quệt vào cạp chiếc nịt bít tất bằng ren trắng của cô.

    ”Cởi quần lót ra giúp anh.”

    Hơi thở cô đang trở thành những nhịp gấp gáp khe khẽ khi cô làm theo lệnh anh ta, chỉ còn lại chiếc nịt ren và bít tất trên người. Không chờ được bảo, cô kéo chiếc khăn khỏi ngực và thả xuống sàn, hơi đẩy vai ra sau để anh ta có thể chiêm ngưỡng hai bầu ngực cô, căng mọng và vươn cao, và vùng tam giác mượt mà phủ lông đen nằm giữa những sợi dây bằng ren trắng của chiếc nịt.

    Jack bước về phía cô, tấm áo choàng lộng lẫy nằm vắt trên hai bàn tay, đôi mắt lấp lánh như những chiếc khuy đen tuyền trên chiếc áo sơ mi trắng muốt của anh ta. ”Muốn chọn đúng áo lông thú, em phải cảm nhận được những sợi lông trên da em...trên ngực em...” Giọng anh ta êm như những sợi lông mèo rừng khi anh ta trượt tấm áo dọc cơ thể cô, dùng bề mặt của nó kích thích cô. ”Ngực em....bụng và mông em....mặt trong cặp đùi em...”

    Cô với lấy chiếc áo ghì chặt vào người mình. ”Xin đừng hành hạ em nữa. Dừng lại đi.”

    Anh ta lại lùi ra, nhưng lần này chỉ để tháo những chiếc khuy trên áo sơ mi của mình. Chloe nhìn anh ta cởi đồ, tim đập thình thịch và họng thắt lại vì ham muốn. Khi đã đứng không một mảnh vải trước cô, anh ta lấy lại chiếc áo từ tay cô và trải nó với mặt lông lên trên lên một chiếc bục thấp giữa phòng. Rồi anh ta bước lên đó và kéo cô theo đứng cạnh anh ta.

    Sự tiếp xúc giữa hai làn da trần kích thích cô đến độ gần như cô không thể nghĩ đến thở. Đôi tay anh ta lướt dọc hai bên sườn cô, rồi quay cô lại để cô đối diện với kệ trưng bày. Nhẹ nhàng di chuyển sau lưng cô, anh ta bắt đầu vuốt ve hai bầu ngực cô như thể đang khuấy động cô cho một khán giả vô hình im lặng xem trong salon tối. Bàn tay anh ta rà xuống bụng cô, men theo hai đùi cô. Cô cảm thấy thằng nhỏ của anh ta nhô ra cứng ngắc chọc vào một bên hông mình. Bàn tay anh ta đi vào giữa hai chân cô, sự đụng chạm của anh ta đốt lên một nhiệt lương, một khao khát được giải thoát từ vô vàn mạch máu đập dồn bên trong cô.

    Anh ta đẩy cô xuống tấm lông thú dày mềm mại. Nó cọ vào mặt sau hai đùi cô khi anh ta giang chúng ra và đặt mình vào giữa hai đầu gối mở rộng của cô. Quay mặt vùi vào lớp lông thú, cô ưỡn hông lên, dâng mình cho anh ta giữa salon, trên cái bục được thiết kế để trưng bày những gì tuyệt hảo nhất Harrods có.

    Jack xem đồng hồ. ”Giờ này đội bảo vệ sắp quay lại làm việc rồi. Không biết mất bao lâu bọn họ mới lần ra dấu chúng ta ở đây.” Rồi anh ta thúc vào trong cô.

    Mất một lúc câu nói của anh ta mới ngấm vào đầu Chloe. Cô bật ra một tiếng kêu khàn khàn khi nhận ra anh ta đã làm gì. ”Trời ơi! Anh đã lên kế hoạch cho chuyện này đấy à?”

    Anh ta nắn bóp hai bầu ngực cô trong tay mình và thúc mạnh. ”Tất nhiên.”

    Ngọn lửa trong cơ thể và nỗi sợ bị phát hiện hòa vào nhau trong một sự bùng nổ của cảm xúc. Khi cơn cực khoái ập đến, cô cắn mạnh vào vai anh ta. ”Đồ khốn...”

    Jack phá lên cười và rồi đạt tới cực đỉnh của mình trong tiếng một tiếng rên lớn kéo dài.

    Họ vừa kịp thoát khỏi toán bảo vệ. Xỏ vào người số quần áo tối thiểu, Jack choàng tấm lông thú lên thân hình trần trụi của Chloe và kéo cô chạy tới cầu thang. Trong lúc hai bàn chân trần của cô lao xuống những bậc thang, tiếng cười ngược ngạo của anh ta vang bên tai cô. Trước khi rời cửa hàng, anh ta vứt quần lót của cô lên nóc một chiếc tủ hàng bằng kính cùng một tấm danh thiếp của mình.

    Hôm sau cô nhận được một lời nhắn nói rằng mẹ anh ta đổ bệnh và tạm thời anh ta phải quay lại Chicago. Trong thời gian chờ đợi Jack, cô sống trong cơn lốc quay cuồng của đủ thứ cảm xúc – tức giận trước sự mạo hiểm mà anh ta đưa cô vào, thích thú trước cảm giác mạnh anh ta mang đến, và sợ thắt ruột rằng anh ta sẽ không quay lại. Bốn tuần trôi qua, rồi thành năm tuần. Cô tìm cách gọi cho anh ta, nhưng mối quan hệ này sơ sài đến mức cô không thể làm rõ nó. Hai tháng trôi qua. Cô đã tin chắc anh ta không yêu mình. Anh ta là một kẻ phiêu lưu, một người tìm cảm giác mạnh. Anh ta đã nhìn ra đứa con gái béo ú trong cô và chẳng muốn dây dưa gì với cô.

    Mười tuần sau cái đêm ở Harrods, anh ta tái xuất hiện cũng đột ngột như lúc ra đi. ”Chào cưng,” anh ta đứng trước cửa nhà cô với chiếc áo vét bằng len cashmere móc hờ hững trên một bên vai. ”Anh nhớ em quá.”

    Cô sà vào vòng tay Jack, khóc nức lên vì nhẹ nhõm khi được gặp lại anh ta. ”Jack...Jack thân yêu...”

    Anh ta lướt ngón tay cái qua môi dưới của cô, rồi hôn cô. Cô thu tay về và giáng cho anh ta một cái tát rõ mạnh. ”Em có thai rồi, đồ khốn ạ!”

    Trước sự ngạc nhiên của Chloe, anh ta lập tức đồng ý cưới cô, họ tổ chức lễ cưới vào ba ngày sau tại ngôi nhà nông thôn của một trong những người bạn của Chloe. Khi đứng cạnh chú rể điển trai của mình trước bệ thờ dựng tạm trong vườn, Chloe biết mình là người phụ nữ hạnh phúc nhất trên thế giới. Black Jack Day lẽ ra có thể cưới bất cứ ai, nhưng anh đã chọn cô. Nhiều tuần qua đi, cô nhất quyết làm ngơ cái tin đồn rằng gia đình anh đã tước quyền thừa kế của anh khi anh ở Chicago. Thay vào đó, cô chỉ mơ tưởng đến đứa con sắp chào đời. Sẽ tuyệt diệu xiết bao khi có được tình yêu không bị san sẻ từ hai người, chồng và con.

    Một tháng sau, Jack biến mất, cùng với mười nghìn bảng nằm tại một trong những tài khoản ngân hàng của Chloe. Khi anh ta lại chường mặt ra vào sáu tuần sau, Chloe găm một viên đạn vào vai anh ta bằng một khẩu German Luger. Sau đó là khoảng thời gian làm lành ngắn ngủi, cho đến khi Jack sa vào một trò chơi đỏ đen khác tại các sòng bài và mất dạng lần nữa.

    Đúng ngày Valentine năm 1955, thần May Mắn vĩnh viễn rời bỏ Black Jack Day trên con đường trơn trượt nước mưa nằm giữa Nice và Monte Carlo. Quả bóng ngà được thả lần cuối vào ngăn của nó và vòng quay roullete khựng lại ở điểm dừng cuối cùng.
     
    B-Mon, cucdai, lananhdn0808 and 17 others like this.
  3. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG HAI

    Một trong những người tình cũ của góa phụ Chloe cho chiếc Silver Cloud Rolls đến đón cô từ bệnh viện về nhà sau khi cô hạ sinh con gái. Ngồi thoải mái trong băng ghế da lộng lẫy, Chloe nhìn xuống đứa bé quấn trong tấm khăn flannel được thụ thai một cách hoành tráng giữa salon lông thú của Harrods và vuốt ngón tay dọc theo bầu má mịn màng của nó. ”Francesca bé bỏng xinh đẹp của mẹ,” cô thủ thỉ. ”Con chẳng cần cha hay bà ngoại gì hết. Con sẽ chẳng cần bất kỳ ai ngoài mẹ...vì mẹ sẽ tặng con tất cả mọi thứ trên đời.”

    Rủi thay cho con gái của Black Jack, Chloe đã nói là làm.

    Năm 1961, khi Francesca lên sáu và Chloe hai mươi sáu tuổi, hai mẹ con thực hiện một bộ ảnh cho tạp chí British Vogue. Bên trái trang báo là bức ảnh của Nita mặc một chiếc váy trong bộ sưu tập Gypsy của bà được nhiếp ảnh gia Karsh thực hiện dưới dạng ảnh đen trắng, còn bên phải là Chloe và Francesca. Hai mẹ con đứng trên một phông nền trắng có những nếp gấp như sóng biển, cả hai đều mặc màu đen. Giấy trắng, nước da trắng xanh của họ, và hai chiếc áo choàng nhung đen với mũ trùm rủ xuống khiến bức ảnh trở thành một hiện tượng về sự tương phản. Màu sắc thực duy nhất đến từ bốn cú sốc thị giác của xanh lục thẫm – đôi mắt đầy ám ảnh của nhà Serritella nổi bật trên trang báo, long lanh như những viên đá quý đế vương.

    Sau khi sự chấn động về bức ảnh phai nhạt, phe độc giả hay soi mói chỉ ra rằng những đường nét lộng lẫy của Chloe có lẽ không đẹp bằng mẹ mình. Nhưng ngay cả những người ác ý nhất cũng không thể tìm ra khiếm khuyết nào nơi đứa trẻ. Cô bé như hình mẫu của một bé gái hoàn hảo, với nụ cười vui sướng và nhan sắc siêu phàm của thiên thần sáng bừng trên khuôn mặt bé nhỏ hình oval. Chỉ có người chụp bức ảnh mới có cái nhìn khác về đứa bé. Ông ta có hai vết sẹo nhỏ, giống như hai cái bớt trắng giống hệt nhau trên mu bàn tay nơi hàng răng cửa nhỏ mà sắc của đứa bé đã cắn phập vào.

    ”Không không, con yêu,” Chloe đã khiển trách Francesca vì tội cắn nhiếp ảnh gia chiều hôm đó. ”Chúng ta không được cắn chú tốt bụng đó.” Cô khua ngón tay trỏ sơn bóng màu gỗ mun trước mặt con gái.

    Francesca nổi loạn trừng mắt với mẹ. Nó muốn về nhà chơi với rạp múa rối mới của nó, chứ không muốn bị bắt chụp ảnh bởi một ông xấu xí luôn miệng bảo nó không được ngọ nguậy. Nó dí một mũi giày tinh xảo bằng da đen bóng vào những lớp giấy trắng lô xô của lớp phông nền và lắc cho những lọn tóc hạt dẻ tuột khỏi dây buộc bằng nhung đen. Mummy đã hứa cho nó một chuyến đi đặc biệt đến bảo tàng Madame Tussaud nếu nó chịu hợp tác, mà Francesca thì rất mê bảo tàng Madame Tussaud. Mặc dù vậy, nó không hoàn toàn chắc chắn mình đã thực hiện thỏa thuận một cách tốt nhất có thể. Nó cũng yêu cả thị trấn Saint-Tropez nữa.

    Sau khi hỏi thăm bàn tay bị thương của nhiếp ảnh gia, Chloe đưa tay vuốt lại tóc cho Francesca, rồi rụt vội tay về với tiếng kêu thất thanh khi nhận được đúng sự đối đãi như với nhiếp ảnh gia. ”Con bé hỗn láo này!” cô la lên, đưa tay lên miệng mút vết thương.

    Mắt Francesca lập tức nhòe nhoẹt nước, và Chloe đâm giận mình vì đã lớn tiếng. Cô nhanh chóng kéo con gái vào lòng. ”Đừng để ý nhé,” cô dỗ dành. ”Chloe không giận con đâu. Là Mummy xấu. Tí nữa về nhà chúng ta sẽ mua cho con một bé búp bê mới.”

    Francesca rúc vào vòng tay âu yếm của mẹ và liếc mắt nhìn trộm ông chụp ảnh qua hàng mi dày. Rồi nó lè lưỡi.

    Buổi chiều ấy đánh dấu lần đầu tiên song không phải cuối cùng Chloe lĩnh hội hàm răng nhỏ mà sắc của Francesca. Nhưng dẫu cho đến ba bảo mẫu đã xin thôi việc, Chloe vẫn không chịu thừa nhận rằng tật cắn người của con gái mình là có vấn đề. Francesca chỉ là dũng cảm mà thôi, và Chloe chắc chắn không có ý định làm con gái ghét mình vì làm to chuyện một vấn đề hết sức nhỏ nhặt. Thời kì khủng bố của Francesca có lẽ còn tiếp diễn nếu không có một đứa nhóc lạ mặt cắn lại nó sau một cuộc ẩu đả giành xích đu trong công viên. Khi Francesca phát hiện ra bị cắn như thế mới đau làm sao, nó liền bỏ tật đó. Nó không phải là đứa trẻ độc ác có chủ tâm; nó chỉ muốn đạt được mục đích của mình thôi.

    Chloe sắm một ngôi nhà phong cách thời nữ hoàng Anne trên phố Upper Grosvenor cách không xa tòa đại sứ Mỹ và mặt phía đông công viên Hyde Park. Ngôi nhà cao bốn tầng, nhưng chỉ rộng xấp xỉ chín mét, kết cấu hẹp này được phục dựng lại từ những năm 1930 bởi Syrie Maugham, vợ của Somerset Maugham và là một trong những nhà thiết kế được ca ngợi nhất trong thời của bà. Một cầu thang uốn khúc từ tầng trệt chạy lên phòng khách, lướt qua một bức chân dung của Chloe và Francesca do Cecil Beaton vẽ. Những cây cột giả đá màu san hô viền quanh lối vào phòng khách, nơi pha trộn giữa những mảng phong cách của Pháp và Italia cũng như những chiếc ghế Adam đa dụng và một bộ sưu tập gương Venetian. Tầng hai là phòng ngủ của Francesca được trang trí như lâu đài của Người đẹp ngủ trong rừng. Trên nền những tấm rèm đăng ten rập nổi những bông hồng lụa và chiếc giường với một vương miện gỗ mạ vàng trên đỉnh từ đó buông xuống hàng thác vải tuyn trắng nhẹ như mây, Francesca ngự trên đó như một nàng công chúa cai quản toàn bộ lãnh địa của mình.

    Thỉnh thoảng nó tổ chức tiệc chiêu đãi trong căn phòng cổ tích, rót trà ngọt từ một chiếc ấm sứ Dresden cho con gái của một trong những người bạn của Chloe. ”Ta là Công chúa Aurora,” nó tuyên bố với Honorable Clara Millingford trong một lần đến chơi, duyên dáng hất những búp tóc màu hạt dẻ nó được thừa hưởng, cùng với bản tính liều lĩnh, từ Black Jack Day. ”Cô là một trong những người phụ nữ tốt bụng từ trong làng tới thăm ta.”

    Clara, con gái độc nhất của Tử tước Allsworth, không có ý định làm một người phụ nữ tốt ở làng trong khi con nhỏ Francesca làm bộ làm tịch ra cái điều mình là người hoàng tộc. Nó đặt chiếc bánh quy chanh chỉ còn một phần ba xuống và nói. ”Tớ muốn làm Công chúa Aurora cơ!”

    Đề nghị này làm Francesca kinh ngạc đến nỗi nó bật ra một tràng cười trong như tiếng bạc. ”Đừng có ngớ ngẩn, Clara thân mến. Cậu có những nốt tàn nhang to bự. Tất nhiên tàn nhan không phải không đẹp, nhưng chắc chắn với Công chúa Aurora thì không, đó là người đẹp nhất đất nước. Tớ sẽ là Công chúa Aurora, còn cậu có thể làm hoàng hậu.”

    Francesca nghĩ sự thỏa hiệp của nó là cực kỳ công bằng và nó rất đau khổ khi Clara, giống như rất nhiều những đứa con gái khác từng đến chơi với nó, không bao giờ quay lại. Sự nghỉ chơi của chúng làm nó suy sụp. Chẳng phải nó đã chia sẻ mọi món đồ chơi xinh xắn của mình với chúng? Chẳng phải nó đã để cho chúng chơi trong căn phòng lộng lẫy của nó sao?

    Chloe bỏ qua mọi dấu hiệu cho thấy con mình đang trở nên hư hỏng. Francesca là con cô, thiên thần của cô, bé gái hoàn hảo của cô. Cô đã thuê những gia sư giỏi nhất, mua những mẫu búp bê mới nhất, những trò chơi hiện đại nhất, chăm bẵm cưng nựng nó, và để cho nó làm mọi thứ nó muốn miễn là không gây nguy hiểm cho nó. Cuộc đời Chloe đã hai lần hứng chịu cái chết đột ngột của người thân, và ý nghĩ có chuyện gì đó xảy ra với đứa con quý giá của cô khiến người cô lạnh toát. Francesca là chỗ nương tựa của cô, mảnh yêu thương duy nhất cô còn có thể giữ được trong cuộc đời trôi nổi của mình. Có lúc cô nằm trằn trọc trên giường, mồ hôi dấp dính trên da khi mường tượng những điều khủng khiếp có thể xảy đến với một đứa bé trót mang tính cách bạt mạng giống bố. Cô thấy Francesca nhảy xuống một hồ bơi và không bao giờ trở lên nữa, ngã xuống từ cáp treo trượt tuyết, rách bắp chân trong lúc tập múa ballet, mang sẹo trên mặt do tai nạn xe đạp. Cô không sao gạt đi được nỗi sợ thắt ruột rằng có cái gì đó thật kinh khủng đang rình rập ngoài tầm mắt cô sẵn sàng vồ lấy con gái cô, và cô những muốn bọc Francesca trong một tấm vải cotton và đem nó đến một chốn êm đềm tươi đẹp nơi không điều gì có thể làm hại nó.

    ”Không!” cô hét lên khi Francesca đang ở cạnh cô bỗng lao xuống vỉa hè đuổi theo một con chim bồ câu. ”Quay lại đây! Đừng có chạy như thế!”

    ”Nhưng con thích chạy,” Francesca phản đối. ”Nó khiến gió kêu ù ù bên tai con.”

    Chloe quỳ xuống giang tay ra. ”Chạy sẽ làm tóc con rối bù và mặt con đỏ ửng. Người ta sẽ chẳng yêu con nếu con không xinh đẹp.” Cô ghì chặt Francesca vào lòng và tuôn ra lời dọa dẫm kinh khiếp này, nói theo cái cách mà những bà mẹ khác thường lôi ông ba bị ra dọa.

    Có lúc Francesca chống đối, lén mẹ tập nhào lộn hoặc đu mình trên một cành cây mỗi khi bảo mẫu sểnh mắt trông coi. Nhưng những trò nghịch của nó luôn luôn bị phát hiện, và người mẹ dễ tính của nó, người chưa từng từ chối nó cái gì, không bao giờ quở trách nó kể cả những lúc nó hỗn nhất, lại trở nên điên cuồng đến mức Francesca thấy sợ.

    ”Lần sau thì mày chết với mẹ!” mẹ nó sẽ hét lên, chỉ vào những cọng cỏ dính trên chiếc áo yếm lanh màu vàng của Francesca hoặc vết bẩn trên má nó. ”Trông mày mới xấu xí làm sao! Không ai thích những đứa con gái xấu xí cả!” Rồi sau đó Chloe bắt đầu khóc nức nở theo một kiểu vật vã đến mức Francesca đâm hoảng. Sau hàng loạt tình tiết nhặng xị này, nó rút ra kinh nghiệm: chuyện gì trong cuộc sống cũng có thể chấp nhận được...miễn là trông nó vẫn xinh đẹp khi làm chuyện đó.

    Hai mẹ con sống một cuộc sống nhàn hạ tao nhã nhờ tiền thừa kế của Chloe cũng như sự hào phóng của lần lượt những người đàn ông đi qua đời cô y chang cách những bậc cha chú của cô đã đi qua đời Nita. Sự nhạy bén cao độ của cô đối với những thú ăn chơi và tiêu pha đã góp phần nâng cao danh tiếng của cô trên trường quốc tế như một người bạn vui vẻ và một vị khách thú vị, người luôn có thể trông chờ sẽ làm nóng bầu không khí dù buồn tẻ nhất; Chloe là người đã xua tan những giờ phút nặng nề ở Deauville, khi tất cả đã dần chán ngấy môn polo, bằng cách dựng lên những cuộc săn kho báu phức tạp khiến cả bọn phải chạy khắp vùng nông thôn nước Pháp trong những chiếc xe hơi bóng lộn để tìm những thầy tu hói đầu, những viên ngọc lục bảo ở hình dạng nguyên sơ, hay một chai Cheval Blanc ’19 được làm lạnh ở mức hoàn hảo; Chloe là người vào dịp giáng sinh đã khăng khăng rằng họ hãy rời Saint-Moritz để đến một điền trang Ma rốc ở Algarve nơi họ được giải trí bởi một nhóm các ngôi sao nhạc rock và ngồn ngộn thuốc hashish.

    Thường thì Chloe đưa cả con gái theo, cùng với một bảo mẫu và bất cứ gia sư nào hiện đang coi sóc việc học tập lộn xộn của Francesca. Những người này thường cách ly Francesca khỏi đám người lớn vào ban ngày, nhưng tối đến Chloe thỉnh thoảng đem nó ra khoe với hội dân chơi lúc ấy đã mệt ứ như thể con bé là một con bạc tháu cáy.

    ”Con gái tôi đây này, mọi người!” Chloe giới thiệu vào một lần cô dẫn Francesca lên boong sau du thuyền của Aristotle Onassis mang tên Christina, tối đó neo ngoài bờ biển của Trinidad. Nơi tiếp khách rộng rãi phía đuôi tàu nằm dưới một mái che màu xanh lục, khách khứa ngả người trong những chiếc ghế thoải mái ngay cạnh bức tranh phiên bản Con bò của vua Minos khảm trên boong tàu gỗ tếch. Bức khảm này vừa được dùng làm sàn nhảy chưa đầy một giờ trước và lát nữa sẽ được hạ thấp xuống chín feet và đổ ngập nước để phục vụ những ai muốn bơi vài vòng trước khi về nghỉ.

    ”Lại đây, công chúa xinh đẹp của ta,” Onassis đưa hai tay ra. ”Tặng cho bác Ari một cái hôn nào.”

    Francesca dụi đôi mắt ngái ngủ và bước về phía trước, trông đẹp như một con búp bê. Cái miệng nhỏ xinh như nét lượn cây cung của thần Cupid, đôi mắt xanh lục hết mở ra lại nhắm vào như thể hàng mi nặng quá. Dải đăng ten ở cổ chiếc váy ngủ trắng rung rinh trong làn gió đêm, hai bàn chân trần lấp ló dưới gấu váy, để lộ những móng chân sơn hồng giống như màu phía trong tai một chú thỏ. Bất chấp sự thật rằng nó mới chín tuổi và đã bị đánh thức vào hai giờ sáng, các giác quan của nó dần trở nên tỉnh táo. Cả ngày nó bị phó mặc cho những người làm chăm sóc, và giờ nó háo hức trước cơ hội thu hút sự quan tâm của những người lớn. Có lẽ nếu nó thể hiện thật tốt đêm nay, họ sẽ cho nó ngồi trên boong sau với họ vào ngày mai.

    Onassis, với chiếc mũi khoằm và cặp mắt hẹp, tận nửa đêm vẫn mang cặp kính râm lù lù, làm nó thấy sợ, nhưng nó vẫn ngoan ngoãn bước vào vòng tay ông ta. Tối hôm trước ông ta vừa cho nó một chuỗi hạt rất đẹp hình dáng như một con sao biển, nó không muốn mạo hiểm hi sinh những món quà khác có thể ở phía trước.

    Khi ông ta nhấc nó lên lòng, nó liếc qua Chloe, đang nằm cuộn tròn bên cạnh người tình hiện tại, Giancarlo Morandi, tay đua Công thức Một người Italia. Francesca biết về tất cả những người tình của mẹ vì Chloe đã giải thích cặn kẽ về bọn họ cho nó. Đó là những người đàn ông hấp dẫn chăm sóc cho phái nữ và khiến họ cảm thấy mình xinh đẹp. Francesca nóng lòng muốn lớn thật nhanh đủ để có một người tình của riêng nó. Nhưng không phải là Giancarlo. Thỉnh thoảng chú ấy lại đi chơi với những phụ nữ khác và làm mẹ nó phải khóc. Thay vì vậy, Francesca muốn có một người tình sẽ đọc sách cho nó nghe và đưa nó đi xem xiếc và hút tẩu giống mấy người nó thấy đi dạo với những bé gái bên hồ Serpentine.

    ”Xin mọi người chú ý!” Chloe ngồi lên và vỗ vỗ hai tay trên đầu, giống một trong những vũ công flamenco Francesca được xem biểu diễn khi hai mẹ con ở Torremolinos dạo trước. ”Bây giờ cô con gái xinh xắn của tôi sẽ minh họa những điệu bộ nhà quê học đòi thành thị của các vị.” Những tiếng huýt sáo chế nhạo đáp lại tuyên bố này, và Francesca nghe thấy Onassis cười khùng khục bên tai nó.

    Chloe lại dựa hẳn vào Giancarlo, cọ một chân trong chiếc quần trắng bó sát kiểu Courreges vào bắp chân gã ta đồng thời nghiêng đầu về phía Francesca. ”Mặc kệ họ đi, con yêu,” cô trịch thượng cao giọng. ”Bọn họ lưu manh một giuộc cả. Không hiểu sao mẹ lại dây dưa với họ chứ.” Nhà thiết kế khúc khích cười. Khi Chloe chỉ vào chiếc bàn thấp bằng gỗ gụ, phần tóc mái hình chữ V kiểu Sassoon rủ xuống má, hình thành một đường thẳng sắc nét. ”Mở mắt cho họ đi, Francesca? Ở đây chỉ có bác Ari của con là còn có chút đầu óc thôi.”

    Francesca trượt khỏi đầu gối Onassis và bước lại chỗ chiếc bàn. Nó có thể cảm thấy ánh mắt tất cả mọi người dồn vào mình và nó cố ý kéo dài thời khắc này, bước từng bước thật chậm, vai rướn thẳng, làm như mình là một cô công chúa nhỏ đang bước đến ngai vàng. Khi đến nơi và nhìn thấy sáu bát sứ nhỏ, nó nở nụ cười và vuốt tóc ra khỏi mặt. Quỳ xuống tấm thảm phía trước bàn, nó chăm chú quan sát từng cái bát.

    Những thứ đựng trong bát sáng lên trên nền sứ trắng, sáu loại trứng cá lấp lánh với các màu đỏ, xám và be. Nó chạm tay vào bát cuối cùng, đựng một khối trứng cá màu đỏ ngọc trai rực rỡ. ”Trứng cá hồi,” nó nói, gạt cái bát ra. ”Không đáng để quan tâm. Trứng cá đích thực chỉ có ở loài cá tầm biển Caspi.”

    Onassis cười ha hả và một trong những ngôi sao điện ảnh vỗ tay khen ngợi. Francesca nhanh chóng loại bỏ hai cái bát nữa. ”Đây đều là trứng cá vây tròn, nên cũng không thể xét đến chúng.”

    Nhà thiết kế nội thất ghé lại gần Chloe. ”Những thông tin kia bẩm sinh đã có, hay thông qua tiếp thu?”

    Chloe tặng anh ta một cái liếc mắt tinh quái. ”Tất nhiên là bẩm sinh rồi.”

    ”Và chúng là những thông tin thật lí thú, cara.” Giancarlo lướt tay lên phần bụng để trần của Chloe.

    ”Đây là trứng cá tầm trắng,” Francesca nói, khó chịu vì mình không còn là tâm điểm chú ý, nhất là sau khi nó đã phải ở cả ngày với một cô gia sư luôn miệng lẩm bẩm những lời đáng sợ chỉ vì Francesca không chịu làm những bảng tính nhân chán ngắt của cô ta. Nó chạm đầu ngón tay lên mép chiếc bát ở giữa. ”Các vị sẽ nhận thấy trứng cá tầm có kích thước lớn nhất.” Chuyển qua bát tiếp theo, nó tuyên bố, ”đây là trứng cá tầm sevruga. Có màu sắc tương tự, nhưng quả trứng nhỏ hơn. Còn đây là trứng cá tầm đen, loại cháu thích nhất. Trứng của chúng lớn gần bằng cá tầm trắng, nhưng ánh vàng sẫm hơn.”

    Nó nghe thấy những tràng cười sảng khoái pha lẫn tán thưởng, rồi tất cả mọi người chúc mừng Chloe có đứa con thông minh. Thoạt đầu Francesca mỉm cười trước những lời khen, nhưng rồi niềm vui của nó bắt đầu phai nhạt khi nó nhận ra họ đang nhìn vào Chloe chứ không phải nó. Tại sao mẹ nó lôi kéo hết sự chú ý trong khi bà chẳng phải là người thể hiện tài năng? Rõ ràng những người lớn kia sẽ chẳng bao giờ cho nó ngồi trên boong sau cùng họ vào ngày mai. Giận dữ và thất vọng, Francesca đứng bật dậy và gạt tay một cái, lùa hết những bát sứ cùng trứng cá dính nhớp xuống bong tàu bằng gỗ tếch bóng lộn của Aristotle Onassis.

    ”Francesca!” Chloe thốt lên. ”Làm sao thế con?”

    Onassis cau mặt và lẩm bẩm điều gì đó bằng tiếng Hi Lạp đại để là đe dọa Francesca. Nó trề môi và cố nghĩ cách giải quyết sai lầm vừa rồi. Vấn đề nó gặp phải với những cơn nóng giận bất thường phải được giữ kín – đó là điều mà, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không được để lộ ra trước mặt bạn bè của mẹ nó. ”Con xin lỗi, Mummy. Đó chỉ là tai nạn thôi ạ.”

    ”Tất nhiên rồi, con yêu,” Chloe đáp lại. ”Mọi người đều biết mà.”

    Tuy nhiên vẻ khó chịu trên mặt Onassis không thuyên giảm, và Franceses biết cần phải có hành động quyết liệt hơn. Với một tiếng nấc đột ngột đầy biểu cảm, nó chạy qua boong tàu và nhào vào lòng ông ta. ”Bác Ari, cháu xin lỗi,” nó thổn thức, mắt bỗng nhòa lệ từ bao giờ - một trong những năng khiếu xuất sắc của nó. ”Đó thật sự là tai nạn ạ!” Những giọt nước mắt ứa khỏi hàng mi dưới và chảy xuống má khi nó dồn hết sức tập trung để không nao núng trước ánh nhìn đằng sau cặp kính đen kia.

    ”Cháu yêu bác, bác Ari,” nó nói tha thiết, dồn toàn bộ sức mạnh của gương mặt tội nghiệp hoen nước mắt trong một biểu cảm nó học mót trong một bộ phim cũ do Shirley Temple thủ vai. ”Cháu yêu bác, và cháu ước sao bác là bố đẻ của cháu.”

    Onassis tủm tỉm cười và nói ông ta hi vọng không bao giờ phải đối mặt với nó qua bàn thương lượng.

    Sau khi Francesca được cho lui, nó quay về dãy phòng của hai mẹ con, đi qua phòng trẻ nơi nó đã ngồi học suốt cả ngày bên chiếc bàn màu vàng sáng đặt ngay trước bức tranh tường về thành Paris do Ludwig Bemelmans vẽ. Bức tranh làm nó cảm thấy như được bước vào một trong những quyển sách Madeline của tác giả - tất nhiên là trừ việc nó ăn mặc đẹp hơn. Căn phòng được thiết kế cho hai đứa con của Onassis, nhưng vì chúng không có mặt trên thuyền, nên Francesca được toàn quyền sử dụng. Mặc dù căn phòng rất đẹp, song nó thích quầy bar hơn, bởi mỗi ngày một lần nó được cho uống nước gừng đựng trong một ly rượu champagne kèm theo một chiếc ô giấy và một quả cherry maraschino.

    Mỗi khi ngồi ở quầy bar, nó nhấp từng ngụm thật nhỏ trong ly để kéo dài thời gian trong lúc nhìn xuyên qua miệng ly tới một mô hình mặt biển được chiếu sáng với những con tàu nhỏ mà nó có thể di chuyển bằng những thanh nam châm. Chỗ để chân của những chiếc ghế đẩu bên quầy bar được làm bằng răng cá voi đánh bóng, mà nó cố lắm cũng chỉ chạm được mũi đôi sandal Italian làm thủ công vào đó, và mặt đệm của ghế mang lại cảm giác mềm như tơ dưới đùi nó. Nó nhớ có lần mẹ nó đã cười phá lên vì bác Ari bảo rằng tất cả bọn họ đang ngồi trên của quý của một con cá voi đúng chỗ bao quy đầu. Francesca cũng cười theo, và chê bác Ari ngốc nghếch – đúng ra bác phải nói là những hạt đậu phộng của một con voi? (có lẽ Francesca còn nhỏ nên hiểu nhầm giữa penis và peanut (đậu phộng))

    Du thuyền Christina có chín dãy buồng, mỗi dãy đều có khu phòng ngủ và phòng khách được bài trí cầu kì cũng như bồn tắm bằng đá cẩm thạch hồng mà Chloe tuyên bố ”sang trọng đến mức sắp thành kệch cỡm.” Các dãy buồng được đặt theo tên những hòn đảo khác nhau của Hi Lạp, hình dạng những hòn đảo ấy được vẽ trong một chiếc lá bằng vàng trên miếng mề đay gắn ngoài cửa phòng. Sir Winston Churchill và vợ ông Clementine, những vị khách quen trên tàu Christina, tối đó đã về nghỉ ngơi trong dãy buồng của họ, mang tên Corfu. Francesca đi qua đó, rồi tìm hình vẽ hòn đảo của mình – Lesbos. Chloe đã không nhịn được cười khi họ được phân vào dãy buồng Lesbos, đoạn bảo Francesca rằng đám đàn ông nhất định sẽ không đồng tình với cách sắp xếp này. Francesca hỏi tại sao thì mẹ nó đáp nó còn quá nhỏ để hiểu được.

    Francesca rất ghét khi Chloe trả lời những câu hỏi của nó theo kiểu ấy, nên nó đã giấu đi chiếc hộp nhựa màu xanh lam đựng màng ngăn của mẹ nó (ở đây chính là màng tránh thai), món đồ mà có lần Chloe bảo đó là vật quý bất ly thân của mình, mặc dù Francesca thực sự không hiểu nổi vì sao. Nó cũng không đem trả lại – chí ít là cho đến khi Giancarlo Morandi lôi nó ra khỏi phòng học trước mắt Chloe và dọa ném nó khỏi thành tàu và cho cá mập ăn sạch hai tròng mắt nó nếu nó không khai ra đã làm gì với cái đó. Giờ thì Francesca ghét thêm Giancarlo Morandi và cố tránh thật xa hắn ta.

    Vừa đến Lesbos, Francesa nghe thấy tiếng cửa mở bên dãy buồng Rhodes. Nó ngoảnh ra và thấy Evan Varian bước ra ngoài hành lang, nó mỉm cười với ông ta, khoe hàm răng trắng đều và hai lúm đồng tiền trên má.

    ”Chào công chúa,” ông ta lên tiếng bằng tông giọng dày, du dương thường sử dụng mỗi khi vào vai viên sĩ quan phản gián gai góc John Bullet trong bộ phim về điệp viên Bullet mới phát hành và thành công rực rỡ, hoặc thể hiện nhân vật Hamlet ở nhà hát Old Vic. Mặc dù xuất thân là con trai của một giáo viên tiểu học người Ireland và một thợ nề xứ Wales, Varian lại có những đường nét tiêu biểu của một quý tộc Anh cùng kiểu tóc dài không chịu cắt của một giảng viên trường Oxford. Ông ta mặc một chiếc áo phông polo màu oải hương cùng một chiếc khăn hoa buộc dưới cổ và quần dài màu lông vịt trắng. Nhưng đáng chú ý nhất đối với Francesca, ông ta mang một chiếc tẩu – một chiếc tẩu màu nâu cỡ bự với nõ tẩu bằng gỗ vân cẩm thạch. ”Cháu thức khá khuya đấy nhỉ?” ông ta hỏi.

    ”Lúc nào cháu cũng thức đến tầm này,” nó đáp, đi kèm theo đó là động tác lắc nhẹ những lọn tóc quăn và làm vẻ mặt trịnh trọng hết cỡ. ”Chỉ có những đứa trẻ nít mới đi ngủ sớm thôi.”

    ”Ồ, ta hiểu rồi. Và cháu lại càng không phải một đứa trẻ nít. Lẽ nào cháu đang lẻn ra ngoài gặp gỡ một anh chàng hâm mộ mình?”

    ”Không, chú thật là ngốc. Là Mummy đánh thức cháu dậy để chơi trò đoán trứng cá.”

    ”À phải, trò trứng cá.” Ông ta nhồi thuốc lá vào nõ tẩu bằng ngón tay cái. ”Lần này mẹ cháu có bịt mắt bắt cháu nếm, hay chỉ nhìn và đoán thôi?”

    ”Chỉ nhìn thôi. Mẹ không bắt cháu chơi trò bịt mắt nữa vì lần vừa rồi chúng cháu làm thế, cháu đã bị nôn ọe.” Nhận thấy ông ta sắp sửa bỏ đi, nó hấp tấp lên tiếng. ”Chú có nghĩ đêm nay trông mẹ cháu rất đẹp không?”

    ”Mẹ cháu lúc nào trông cũng đẹp hết.” Ông ta khum que diêm trong lòng bàn tay và đưa nó lên chiếc tẩu.

    ”Cecil Beaton bảo mẹ cháu là một trong những phụ nữ đẹp nhất Châu Âu. Đường nét của bà ấy gần như hoàn hảo, và dĩ nhiên bà là một nữ chủ tiệc tuyệt vời.” Francesca nêu một ví dụ nhằm gây ấn tượng với ông ta. ”Chú có biết mẹ cháu đã làm món cà ri trước khi có bất cứ ai khác nghĩ đến nó không?”

    ”Một hành động phi thường đã đi vào huyền thoại, công chúa ạ, nhưng trước khi cháu tiếp tục ra sức ca tụng những ưu điểm của mẹ, thì đừng quên rằng hai người chúng ta đều khinh miệt nhau.”

    ”Xì, bà ấy sẽ thích chú nếu cháu bảo. Mẹ sẽ làm mọi điều cháu muốn.”

    ”Ta có thấy,” ông ta khô khan nhận xét. ”Tuy nhiên, cho dù cháu có tìm cách thay đổi quan điểm của mẹ mình, điều mà ta nghĩ rất khó thành công, thì cháu cũng không thay đổi được quan điểm của ta, nên ta e rằng cháu sẽ phải quăng tấm lưới sang chỗ khác để tìm một ông bố thôi. Ta phải nói với cháu rằng chỉ riêng ý nghĩ bị xích vĩnh viễn với chứng loạn thần kinh của Chloe thôi đã khiến ta run bắn rồi.”

    Tối hôm đó chẳng có chuyện gì thuận lợi với Francesca cả, và nó nói một cách dằn dỗi. ”Nhưng cháu sợ mẹ sẽ cưới Giancarlo, nếu bà ấy làm thế, đó hoàn toàn là tại chú! Ông ta là loại chó chết, và cháu ghét ông ta.”

    ”Chà, Francesca, cháu nói năng thật hỗn hào so với một đứa trẻ đấy. Chloe phải đét đít cháu mới đúng.”

    Mây giông tụ lại trong mắt nó. ”Nếu đã là nói năng thô lỗ! Cháu nghĩ chú cũng là một kẻ chó chết nốt.”

    Varian kéo ống quần lên để nó không bị nhàu khi ông ta quỳ xuống cạnh nó. ”Francesca, tiểu thiên sứ của ta, cháu nên thấy mình thật may mắn bởi ta không phải là cha cháu, vì nếu ta là cha cháu, ta sẽ nhốt cháu vào một căn buồng tối và bỏ mặc ở đó cho đến khi cháu thành xác ướp đấy.”

    Mắt Francesca cay xè bởi những giọt nước mắt chân thực. ”Cháu ghét chú,” nó hét lên đồng thời đá mạnh vào ống chân ông ta. Varian nhảy dựng lên kèm theo tiếng kêu oai oái.

    Cửa dãy buồng Corfu bật mở. ”Một ông già muốn ngủ yên là đòi hỏi quá quá đáng lắm hay sao?” Tiếng gầm của Sir Winston Churchill vang dội khắp hành lang. ”Anh có thể xử lí công vụ của mình ở chỗ khác được không, anh Varian? Còn cô nương, về giường ngay lập tức hoặc ngày mai chúng ta không có chơi bài gì hết.”

    Francesca chạy vụt vào Lesbos không dám hó hé nửa lời. Nếu nó không thể có một người cha, chí ít nó còn có thể có một người ông.


    Năm tháng trôi qua, những rối rắm trong chuyện tình cảm của Chloe trở nên phức tạp đến nỗi ngay cả Francesca cũng đành chấp nhận sự thật rằng mẹ nó sẽ chẳng bao giờ dừng lại ở một người đàn ông đủ lâu để mà cưới anh ta. Nó buộc mình coi việc không có cha như là một lợi thế. Cuộc sống của nó đã quá đủ những người lớn phải đối phó rồi, nó tự lập luận, và chắc chắn nó không cần thêm người nào bảo nó nên làm gì hay không làm gì, nhất là khi nó đã bắt đầu thu hút được một cơ số những cậu trai mới lớn. Chân tay bọn họ xoắn quẩy mỗi khi nó ở gần, giọng thì vỡ ồm ồm khi bọn họ tìm cách bắt chuyện với nó. Nó tặng cho bọn họ những nụ cười dịu dàng tinh nghịch chỉ để trông thấy bọn họ đỏ mặt, và nó thực hành mọi trò tán tỉnh nó đã thấy Chloe sử dụng – tiếng cười giòn tan, cái nghiêng đầu duyên dáng, những ánh mắt liếc ngang. Tất cả những mánh đó đều phát huy hiệu quả.

    Thời kì Bảo Bình (Thời đại vàng thịnh vượng theo quan niệm của các nhà tiên tri và khoa học) đã tìm được nàng công chúa của mình. Những bộ đồ bé gái của Francesca được thay thế bằng những chiếc váy xòe đi kèm những chiếc khăn hoa có tua rủ và những chuỗi hạt đủ màu xâu bằng chỉ lụa. Trong nỗi thất vọng vô bờ, cô nhận ra mình không thể lớn thêm nữa với chiều cao chỉ ngang trán mẹ mình. Nhưng không như Chloe, người vẫn giữ sâu trong tâm khảm những tàn dư của một đứa trẻ béo mập, Francesca chẳng bao giờ có lí do để hồ nghi ở sắc đẹp của mình. Nó tồn tại như một lẽ tự nhiên, giống như không khí và ánh sáng và nước. Thật không khác gì Mary Quant vậy (một nhà thiết kế thời trang cực kì cá tính và lập dị). Bước sang tuổi mười bẩy, cô con gái của Black Jack Day đã trở thành một huyền thoại.

    Evan Varian bước trở lại cuộc đời cô tại một sàn nhảy ở Annabel. Cô và anh bạn trai đi cùng đang rời khỏi đó để đến White Tower thưởng thức món bánh baklava, và họ vừa đi qua vách kính ngăn giữa sàn nhảy và phòng ăn của Annabel. Dù ở giữa không gian cực kì sang trọng của câu lạc bộ danh tiếng nhất London, bộ vét nhung màu đỏ thắm của Francesca với cầu vai độn vẫn thu hút khá nhiều sự chú ý, nhất là khi cô sơ ý chỉ mặc một chiếc áo cánh có cổ chữ V khoét sâu bên dưới chiếc áo vét ôm sát eo, và hai bầu ngực của tuổi mười bẩy vồng lên đầy khiêu khích ngay phía trên chỗ hai vạt áo giao nhau. Sức tác động càng trở nên cám dỗ bởi mái tóc ngắn kiểu Twiggy, khiến cô trông rất giống một cậu nam sinh khêu gợi bậc nhất thành London.

    ”Chẳng phải đây là cô công chúa nhỏ của tôi sao.” Một giọng sang sảng cất lên với âm vực vang rền sao cho chỗ ngồi xa nhất trong nhà hát National Theatre cũng nghe được. ”Xem ra cô ấy đã trưởng thành và sẵn sàng thống trị thế giới rồi.”

    Trừ những lần thấy ông ta trong loạt phim về điệp viên Bullet, thì đã nhiều năm rồi cô không gặp Evan Varian. Giờ đây, khi quay lại đối diện ông ta, cô có cảm giác như đang gặp ông ta trên màn ảnh. Ông ta cũng mặc bộ vét Savile Row vừa khít, cũng chiếc sơ mi lụa màu lam nhạt và đôi giày Italian làm thủ công. Tóc mai ông ta đã điểm bạc từ lần cuối họ gặp nhau trên tàu Christina, nhưng giờ mái tóc nằm một cách ngoan ngoãn trên đầu bởi một thợ cạo chuyên nghiệp.

    Bạn hẹn hò của cô tối đó, một nam tước học ở Eton về nhà nhân kì nghỉ, đột nhiên trông non nớt như một con bê còn bú mẹ. ”Chào chú Evan,” cô nói, nở một nụ cười sao cho vừa kiêu kỳ lại vừa mê hoặc.

    Ông ta làm ngơ vẻ sốt ruột rành rành của cô nàng người mẫu tóc vàng đang đeo cứng cánh tay ông ta để ngắm nghía bộ vét nhung của Francesca. ”Francesca bé bỏng. Lần cuối cùng ta gặp cháu, cháu không mặc nhiều quần áo thế này. Theo ta nhớ cháu chỉ mặc độc chiếc áo ngủ.”

    Những cô gái khác hẳn đã đỏ bừng mặt, nhưng những cô gái khác không có sự tự tin vô đối của Francesca. ”Thật ạ? Cháu quên mất rồi. Hay thật, thế mà chú lại nhớ.” Và rồi, vì cô đã chuẩn bị tinh thần để thu hút sự chú ý của con người lão luyện và tinh tế bậc nhất Evan Varian này, cô gật đầu với người tháp tùng mình và để anh chàng dẫn cô đi ra.

    Hôm sau Varian gọi điện mời cô đi ăn tối. ”Nhất định không được,” Chloe rít lên, bật dậy khỏi tư thế ngồi thiền trên tấm thảm giữa phòng khách nơi bà đang tập tành học yoga hai lần một ngày, trừ các ngày thứ Hai bà phải đi tẩy lông chân. ”Envan hơn con hẳn hai mươi tuổi, và gã là một dân chơi khét tiếng. Chúa tôi, gã đã có những bốn vợ! Mẹ tuyệt đối sẽ không cho con qua lại với gã.”

    Francesca thở dài và vươn vai. ”Xin lỗi mẹ, nhưng đó là việc đã rồi. Con đã động lòng mất rồi.”

    ”Biết lí lẽ chút đi, con yêu. Ông ta đủ già để làm cha con đấy.”

    ”Ông ấy từng là người tình của mẹ à?”

    ”Đương nhiên không phải. Con thừa biết hai người bọn mẹ chưa bao giờ ưa nhau.”

    ”Vậy thì con chẳng thấy có lí do gì để mẹ phản đối.”

    Chloe hết năn nỉ lại cầu xin, nhưng Francesca để ngoài tai. Cô đã chán ngán việc bị đối xử như một đứa trẻ. Cô đã sẵn sàng cho chuyến phiêu lưu của người trưởng thành – chuyến phiêu lưu tình ái.

    Cách đây mấy tháng cô đã có bước đột phá ngoạn mục khi bắt Chloe đưa cô đến bác sĩ xin thuốc tránh thai. Ban đầu Chloe phản đối, nhưng bà nhanh chóng đổi ý khi tình cờ bắt gặp Francesca trong vòng tay ôm riết của một thanh niên trẻ và anh chàng đang luồn tay vào dưới váy cô. Từ đó trở đi, một trong những viên thuốc đó đều đặn xuất hiện trên khay điểm tâm của Francesca mỗi sáng để được nuốt một cách trịnh trọng.

    Francesca không cho một ai biết rằng cho đến giờ những viên thuốc ấy là không cần thiết, cũng như không để cho ai thấy cô buồn khổ ra sao trước tình trạng trinh trắng kéo dài của mình. Bạn bè cô đều nói thao thao về những trải nghiệm giường chiếu của họ khiến cô rất sợ họ sẽ phát hiện ra những chuyện cô nói đều là bịa đặt. Nếu có ai biết cô là một trẻ vị thành niên chính hiệu, cô dám chắc mình sẽ mất đi vị thế là thành viên sành điệu nhất trong giới trẻ thời thượng của London.

    Với quyết tâm sắt đá, cô quy bản năng giới tính thanh xuân của mình thành một vấn đề đơn giản của vị trí xã hội. Như thế dễ dàng cho cô hơn, vì vị trí xã hội là thứ cô hiểu được, còn sự cô độc phát sinh từ tuổi thơ khác thường của cô, nỗi khao khát một sự kết nối thân thiết với người khác, chỉ tổ làm cô hoang mang.

    Tuy nhiên, bất chấp quyết tâm đánh mất trinh tiết, cô vấp phải một khó khăn ngoài dự kiến. Phần lớn quãng đời cô sống bên cạnh những người lớn nên cô không cảm thấy hoàn toàn thoải mái với những người đồng trang lứa, kể cả những cậu trai ngưỡng mộ vo ve quanh cô như những con chó cảnh được huấn luyện thuần thục. Cô hiểu rằng tình dục sẽ bao gồm việc đặt niềm tin không nhỏ vào đối tác của mình, và cô không hình dung nổi mình sẽ tin tưởng mấy cậu trai non choẹt kia. Ngay lập tức cô đã có câu trả lời cho tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình khi nhìn thấy Evan Varian ở Annabel. Còn ai tốt hơn một người đàn ông sành sỏi có tiếng để hộ tống cô qua những cánh cửa mỏng manh cuối cùng kia để trở thành đàn bà? Cô không thấy có mối liên quan nào giữa việc chọn Evan là người tình đầu tiên và chọn ông ta, cách đây nhiều năm, làm cha mình.

    Thế nên, mặc kệ Chloe ra sức phản đối, Francesca vẫn nhận lời mời ăn tối cùng Evan tại Mirabelle vào cuối tuần sau. Họ ngồi ở chiếc bàn kê cạnh một trong những gian nhà kính nhỏ nơi trồng những bông hoa tươi của nhà hàng và thưởng thức món sườn cừu nhồi cùng thịt bê và nấm. Ông ta chạm vào những ngón tay cô, nghiêng đầu chăm chú nghe mỗi khi cô nói, và bảo cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đây. Francesca thầm nghĩ đó là điều đương nhiên, nhưng lời khen vẫn làm cô mát lòng mát dạ, nhất là khi ở bên kia phòng trước một bức vách treo tranh thêu có cô nàng Bianca Jagger cực kì xinh đẹp đang gẩy gót món souffle tôm hùm. Sau bữa ăn, họ đến Leith thưởng thức món mousse chanh thơm ngát và dâu tây ngâm đường, rồi đến nhà của Varian ở Kensington nơi ông ta đàn một bản marzuka của Chopin tặng cô trên chiếc piano đặt ở phòng khách cùng với một nụ hôn đáng nhớ. Tuy nhiên khi ông ta cố dắt cô lên cầu thang về phòng ngủ, thì cô chùn lại.

    ”Có lẽ để lần khác,” cô cười cười nói. ”Hôm nay em không có tâm trạng.” Cô không định nói với ông ta rằng chỉ cần ông ta ôm cô một lát hoặc vuốt tóc cô và để cô nép vào ông ta thì cô sẽ vô cùng cảm kích. Varian không thích sự từ chối của cô, nhưng cô làm cho ông ta tươi tỉnh trở lại bằng một nụ cười ranh mãnh hứa hẹn những khoái lạc trong tương lai sau này.

    Hai tuần sau, cô gồng mình theo ông ta đi lên chiếc cầu thang kiểu Adam uốn lượn trong một hành trình vất vả, đi qua bức tranh phong cảnh của Constable và một chiếc ghế dài kiểu recamier, đi qua một khung cửa vòm, và bước vào dãy buồng ngủ lộng lẫy trang trí theo phong cách thời Louis XIV của ông ta.

    ”Em thật ngon lành,” ông ta từ phòng thay đồ đi ra trong chiếc áo choàng lụa màu hạt dẻ và xanh hải quân với hai chữ J.B trau chuốt lồng vào nhau trên túi áo, hiển nhiên là chiếc áo ông ta đã thửa lại từ bộ phim cuối cùng. Ông ta tiến lại gần cô, bàn tay đưa ra vuốt ve phần ngực phía trên chiếc khăn tắm cô quấn quanh người sau khi đã cởi hết đồ trong nhà tắm. ”Đẹp như ức một con bồ câu – mềm như tơ và ngọt như sữa mẹ,” ông ta trích dẫn.

    ”Câu đó trong kịch Shakespeare à?” cô hỏi mà không giấu được vẻ lo lắng. Cô ước sao ông ta đừng xức nước hoa nồng nặc như thế.

    Evan lắc đầu. ”Trong bộ phim Nước mắt những kẻ đã chết, ngay trước khi tôi đâm con dao xuyên qua tim tên điệp viên người Nga.” Ông ta lần những ngón tay dọc theo đường cong của cổ cô. ”Có lẽ em hãy lên giường đi thôi.”

    Francesca chẳng muốn làm việc gì như thế - cô thậm chí không chắc chắn là mình thích Evan Varian – nhưng cô đã đi quá xa để quay lại mà không tự làm nhục mặt mình, nên cô làm theo lời ông ta. Tấm đệm kêu cót két khi cô nằm xuống. Tại sao đệm giường nhà ông ta cứ phải kêu cót két vậy? Tại sao căn phòng lạnh thế? Không hề báo trước, Evan nhào lên người cô. Hốt hoảng, cô cố đẩy ông ta ra, nhưng ông ta lẩm bẩm điều gì đó bên tai cô trong lúc lần mò với chiếc khăn tắm của cô. ”Ôi...dừng lại! Evan!”

    ”Nào nào, cưng,” ông ta nói. ”Làm như tôi bảo đi...”

    ”Xuống khỏi người tôi!” Nỗi hoảng loạn nện vào ngực cô. Cô bắt đầu đẩy vào vai ông ta khi chiếc khăn tắm rơi xuống.

    Ông ta lại thì thào câu gì, nhưng trong lúc khốn quẫn cô chỉ nghe được mấy từ cuối. ”... làm tôi sung sướng đi,” ông ta thì thầm, phanh áo choàng ra.

    ”Đồ súc sinh! Cút đi! Tránh xa tôi ra.” Vừa la hét, cô vừa co tay thành nắm đấm và bắt đầu thụi vào lưng ông ta.

    Ông ta dùng đầu gối tách hai chân cô ra. ”...chỉ một lần thôi và tôi sẽ dừng lại. Chỉ cần em gọi tên tôi một lần thôi.”

    ”Evan!”

    ”Không!” Một vật cứng đáng sợ chọc vào cô. ”Gọi tôi là – Bullet.”

    ”Bullet?”

    Cô vừa dứt lời, ông ta đã đâm vào trong cô. Cô thét lên trước cơn đau như tàn phá cả cơ thể, và rồi, cô còn chưa kịp hét lên tiếng thứ hai, ông ta đã bắt đầu run lên bần bật.

    ”Đồ lợn bẩn thỉu,” cô nức nở một cách hoảng loạn, đánh vào lưng ông ta và đá ông ta bằng đôi chân bị giữ chặt. ”Đồ sâu bọ, súc sinh.” Bằng một sức mạnh mà cô không hề biết là mình có, cuối cùng cô cũng đẩy được trọng lượng của ông ta khỏi người mình và nhảy xuống giường, kéo theo chiếc khăn trải giường che tấm thân trần trụi đã bị xâm hại. ”Tôi sẽ tống ông vào tù,” cô bật khóc, nước mắt chảy dài trên má. ”Tôi sẽ khiến ông phải trả giá cho chuyện này, đồ dâm đãng.”

    ”Dâm đãng ư?” ông ta khép áo choàng lại và đứng lên từ trên giường, lồng ngực vẫn còn phập phồng. ”Tôi sẽ chẳng vội vàng gọi mình là kẻ dâm đãng đâu, Francesca,” ông ta thản nhiên đáp. ”Nếu cô không phải là một người tình kém cỏi đến thế thì chuyện này ắt chẳng hề xảy ra.”

    ”Kém cỏi!” Lời miệt thị này khiến cô bàng hoàng đến nỗi gần như quên đi cảm giác đau nhức giữa hai chân và sự dính nhớp khó chịu bám trên đùi. ”Kém cỏi? Chính ông đã tấn công tôi!”

    Ông ta buộc lại dây lưng và nhìn cô bằng con mắt thù địch. ”Không biết mọi người sẽ thích thú cỡ nào khi tôi cho họ biết Francesca Day xinh đẹp bị lãnh cảm.”

    ”Tôi không lãnh cảm.”

    ”Tất nhiên là cô lãnh cảm. Tôi đã làm tình với hàng trăm phụ nữ, và cô là người đầu tiên mở miệng phàn nàn.” Ông ta bước tới chiếc tủ commode mạ vàng và nhặt chiếc tẩu của mình lên. ”Thật tình, Francesca ạ, tôi mà biết cô là một bạn tình chán chết như thế, tôi ắt chẳng dây vào cô làm gì.”

    Francesca vùng chạy vào phòng tắm, xỏ vội xỏ vàng quần áo lên người, và lao ra khỏi ngôi nhà đó. Cô buộc mình phải ém nhẹm nhận thức rằng mình đã bị hãm hiếp. Đó là một sự hiểu lầm kinh khủng, và cô chỉ cần làm sao để quên nó đi là được. Xét cho cùng, cô là Francesca Serritella Day. Không có chuyện gì thực sự khủng khiếp có thể xảy ra với cô hết.
     
    B-Mon, cucdai, lananhdn0808 and 11 others like this.
  4. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 3

    Dallas Fremont Beaudine có lần trả lời phóng viên kênh Sports Illustrated rằng sự khác biệt chính yếu giữa các tay golf chuyên nghiệp và nhan nhản những vận động viên khác ấy là các tay golf không khạc nhổ bừa bãi. Trừ phi họ đến từ Texas, trường hợp đó thì bọn họ gần như làm bất cứ việc gì bố nhắng mà họ thích.

    Phong cách golf Texas là một trong những chủ đề ưa thích của Dallie Beaudine. Mỗi khi đề tài này xuất hiện, anh lại đưa một tay cào mái tóc vàng, thảy một miếng Double Bubble vào miệng, và mở đài, ”Chúng ta đang nói tới môn golf đích thực của Texas, cậu hiểu chứ...không phải cái thứ PGA nhí nhố chết mẹ này (PGA là giải golf danh giá nhất thế giới). Phải lăn xả và trâu bò, đánh trái banh theo chiều gió trong một cơn giông lốc và ghim nó xuống cách pin (Là vị trí cố định trên Green. Pin bao gồm lỗ có đường kính rộng 3,4 inch và một cột cờ cao 7 feet, cũng là mục tiêu để người chơi golf dễ xác định vị trí) sáu inch trên một sân golf công cộng xơ xác xây giáp ranh biên giới tiểu bang. Và nó không được tính đâu trừ phi ta thực hiện cú đánh bằng chiếc gậy số 5 mòn vẹt lượm từ bãi rác khi ta còn là một thằng nhóc và giữ kè kè nó bên người chỉ vì nhìn nó làm tâm tình ta khoan khoái.”

    Vào mùa thu năm 1974 Dallie Beaudine đã ghi dấu ấn với các phóng viên thể thao như một vận động viên thổi luồng gió mới vào cái thế giới ngột ngạt của golf chuyên nghiệp. Phong cách nói chuyện sinh động, ngoại hình điển trai khác lạ kiểu Texas của anh làm cho những trang bìa tạp chí của họ hấp dẫn hẳn lên. Rủi thay, Dallie lại có thói quen tệ hại là tự khiến mình bị đuổi do chửi bới các quan chức, hay cá cược ngoài lề với những thành phần bất hảo, nên không phải lúc nào anh cũng có mặt khi mọi thứ trở nên bế tắc trong khu lều tạm của giới báo chí. Tuy nhiên, tất cả những gì một phóng viên cần làm để tìm ra anh là hỏi người dân địa phương tên những quán bar miền tây bụi bặm nhất trong vùng, và mười lần thì đến chín lần Dallie sẽ ở đó cùng caddy của mình, Clarence ”Skeet” Cooper, và ba hoặc bốn cựu nữ hoàng dạ hội trung học tìm cách trốn chồng để đi chơi tối.

    ”Hôn nhân của Sonny và Cher chắc chắn đang có vấn đề,” Skeet Cooper nói, chăm chú đọc một số báo của tạp chí People trong ánh đèn tỏa ra từ ngăn để đồ đang mở. Anh liếc sang Dallie, người đang lái xe với một tay để trên vô lăng chiếc Buick Rivera còn tay kia cầm cốc cà phê Styro-foam. ”Ờ,” Skeet tiếp tục. ”Cậu biết gì không, Chastity Bono bé bỏng sắp tự tìm cho mình một ông bố dượng đó?”

    ”Làm sao anh biết?” Dallie không hứng thú mấy, nhưng ánh rung rinh của những cặp đèn pha ô tô thỉnh thoảng lại nhá lên và cái chuỗi thôi miên của hàng vạch trắng kẻ đường đứt đoạn trên đường cao tốc I-95 đang khiến anh buồn ngủ díp mắt, và họ vẫn còn xa mới tới biên giới Florida. Liếc nhìn mặt đồng hồ tỏa sáng trên bảng điều khiển của chiếc Buick, anh thấy đã gần bốn rưỡi sáng. Anh còn ba tiếng nữa trước khi phát bóng khai mạc vòng đấu loại giải Orange Blossom Open. Chừng đó vừa xoẳn thời gian cho anh tắm rửa và nuốt hai viên thuốc để giữ cho mình tỉnh táo. Anh nghĩ đến Bear, người có lẽ đã có mặt ở Jacksonville, đang ngáy pho pho trong dãy buồng xịn nhất mà Mr. Marriott phải cắn răng phục vụ.

    Skeet ném tờ People ra băng sau và cầm tờ National Enquirer lên. ”Cher bắt đầu nói về việc mình tôn trọng Sonny ra sao trong các bài phỏng vấn – vì thế mà tôi đoán bọn họ sắp đường ai nấy đi. Tôi cũng như anh đều biết, mỗi khi đàn bà bắt đầu nói về sự ’tôn trọng,’ nghĩa là anh đàn ông tốt hơn hãy tìm cho mình một luật sư giỏi đi.”

    Dallie cười và sau đó ngáp dài.

    ”Này Dallie,” Skeet gọi giật giọng khi thấy kim đồng hồ đo tốc độ đã nhích từ bảy lăm sang tám mươi. ”Sao cậu không leo xuống ghế sau ngủ một giấc? Để tôi lái cho một quãng.”

    ”Tôi mà ngủ bây giờ thì sang Chủ nhật tuần sau mới dậy nổi, và tôi phải đạt đủ điều kiện cho cái thứ chết bầm này, đặc biệt là sau hôm nay.”

    Họ vừa trở về từ vòng chung kết giải Southern Open, Nơi Dallie đạt điểm số tệ hại là 79, trung bình 7 gậy một lỗ và là con số anh không có ý định lặp lại. “Tôi không nghĩ anh có một tờ Golf Digest lẫn trong cái đống kia,” anh nói.

    “Cậu biết là tôi chẳng bao giờ đọc thứ đó mà.” Skeet giở sang trang hai tờ Enquirer. ”Cậu có muốn nghe về Jackie Kennedy hay Burt Reynolds không?”

    Dallie rên lên, rồi lần mò bật radio. Dù là một người mê rock-and-roll, nhưng vì Skeet nên anh cố chọn một kênh nhạc đồng quê miền tây vẫn còn phát sóng. Song ca sĩ khá khẩm nhất anh tìm được là Kris Kristofferson, kẻ đã bán cả linh hồn mình cho Hollywood, nên anh đành chọn kênh tin tức thay vào.

    “…Nhà lãnh đạo cấp tiến những năm sáu mươi, Gerry Jaffe, hôm nay đã được tuyên trắng án khỏi tất cả các tội danh sau khi dính líu đến một cuộc biểu tình ở Nellis Air Force Base bang Nevada. Theo các nhà chức trách liên bang, Jaffe, người lúc đầu mang nhiều tai tiếng trong những cuộc bạo loạn tại Hội nghị đảng Dân chủ năm 1968 ở Chicago, gần đây đã chuyển hướng sang những hoạt động chống công nghệ hạt nhân. Một trong những nhóm cấp tiến đã đang trên đà suy yếu vẫn tham gia hoạt động chính trị do...”

    Dallie không quan tâm đến những thành phần hippie già khụ này, anh tắt bụp cái nút trong sự căm ghét. Rồi lại ngáp. ”Anh có nghĩ nếu anh nỗ lực hết sức thì anh có thể phát ngôn những câu trong quyển sách tôi nhét dưới ghế không?”

    Skeet nhoài người tới rút ra một bản bìa mềm cuốn Catch-22 của Joseph Heller, rồi đặt sang một bên. ”Hôm bữa tôi đã coi cái này lúc cậu đang đi chơi với cô nàng bé nhỏ cứ luôn miệng gọi cậu là Mister Beaudine đó. Sách nhảm nhí bà cố.” Skeet gập quyển Enquirer lại. ”Chỉ là tò mò thôi. Cô ta có gọi cậu là Mister Beaudine khi hai người quay lại nhà nghỉ không?”

    Dallie thảy một viên Double Bubble vào miệng. ”Từ lúc cởi đồ ra là cô ta gần như im thin thít.”

    Skeet cười khùng khục, nhưng diện mạo của anh chẳng khởi sắc lên là bao. Tùy con mắt mỗi người, Clarence “Skeet” Cooper hoặc được Chúa ban phúc hoặc nguyền rủa khi cho anh một gương mặt rất giống Jack Palance. Anh cũng có những đường nét đầy đe dọa, điển trai theo một kiểu khó chịu, cùng cái mũi tẹt và đôi mắt nhỏ ti hí. Mái tóc đen đã sớm điểm những sợi bạc, và để dài lượt thượt khiến anh phải buộc lại bằng một sợi chun khi làm caddy cho Dallie. Còn bình thường anh cứ để nó xõa xuống vai, ngăn nó không rủ vào mặt bằng một dải băng buộc đầu đỏ chói giống như thần tượng của mình, không phải Palance mà là Willie Nelson, con ngựa bất kham vùng Austin, Texas.

    Năm nay Skeet ba lăm tuổi, hơn Dallie mười tuổi. Anh từng ngồi tù vì tham gia một vụ cướp và từ đó trở đi quyết tâm không lặp lại sai lầm. Kín tiếng trước những người không quen biết, cảnh giác với bất cứ ai mặc đồ công sở, anh trung thành tuyệt đối với những người mình yêu quý, và người anh quý nhất là Dallie Beaudine.

    Dallie đã thấy Skeet nằm mê man trên sàn phòng tắm ở một trạm xăng Texaco cũ nát trên đường cao tốc U.S 180 bên ngoài Caddo, Texas. Hồi đó Dallie mới mười lăm tuổi, một thiếu niên gầy nhẳng cao sáu feet trong chiếc áo T-shirt rách rưới và chiếc quần jeans nhem nhuốc phô ra gần hết mắt cá. Cùng với đó là đôi mắt bầm tím, những khớp ngón tay trầy xước, và quai hàm sưng gấp đôi bình thường xuất phát từ trận cãi lộn nảy lửa và sẽ là trận cãi lộn cuối cùng với bố cậu, Jaycee Beaudine.

    Skeet vẫn nhớ mình đã ngước nhìn Dallie từ sàn nhà tắm bẩn thỉu và cố hết sức để tập trung đầu óc. Bất chấp gương mặt bị biến dạng, thằng bé đang đứng ở cửa nhà tắm là đứa trẻ bảnh nhất anh từng thấy. Nó có mái tóc ánh vàng bù xù, đôi mắt xanh biếc với hàng mi dày đẹp như nét vẽ, và một cái miệng như thuộc về một gái điếm hạng sang. Khi đầu Skeet đã tỉnh táo, anh nhận ra thêm những vệt nước mắt in trên hai bầu má non tơ lấm lem của thằng bé cũng như vẻ cau có hiếu chiến trên gương mặt trẻ con như thách anh gây sự.

    Skeet loạng choạng đứng dậy, vã nước lên mặt. “Nơi này có người rồi cu.”

    Thằng bé ngoắc ngón tay cái vào túi quần jeans rách bươm và vênh cái quai hàm sưng vều lên. “Đúng là có người thật, một tên chó đẻ hôi hám.”

    Skeet, với cặp mắt híp và gương mặt Jack Palance, chưa từng bị một người đàn ông trưởng thành sinh sự, nói gì đến đứa trẻ còn chưa đến tuổi cạo râu mỗi tuần một lần. “Cậu muốn gặp rắc rối à nhóc?”

    “Rắc rối tôi đã gặp rồi, nên có thêm tí nữa cũng chẳng mùi gì.”

    Skeet súc miệng rồi nhổ vào bồn rửa mặt. “Có vẻ cậu là đứa trẻ ngu ngốc nhất tôi từng gặp trong đời,” anh nói.

    “Còn ông nom cũng không quá thông minh đâu, Chó Đẻ.”

    Skeet không dễ gì nổi giận, nhưng bữa ăn tử tế gần đây nhất của anh đã trôi qua được hai tuần, và anh đang không ở trong tâm trạng vui vẻ nhất. Anh đứng thẳng người lên, nắm tay thành nắm đấm và lảo đảo bước tới trước hai bước, định bụng bổ sung thêm cho những thương tích đã có sẵn do Jaycee Beaudine gây ra. Thằng nhóc lấy thế thủ, nhưng trước khi Skeet kịp vung tay, chỗ rượu whiskey loại mạnh anh đã uống liền phát huy tác dụng và anh cảm thấy nền bê tông bẩn thỉu như sụt xuống dưới hai đầu gối lắc lư của anh.

    Khi tỉnh dậy, anh thấy mình ở trên ghế sau một chiếc Studebaker 56 có bộ giảm xóc tệ hại. Thằng nhóc ngồi sau tay lái, hướng về phía tây trên đường U.S 180, một tay nó đặt trên vô lăng còn tay kia gác lên cửa sổ xe, lòng bàn tay đập vào thành xe theo nhịp bài ”Surf City.”

    ”Cậu bắt cóc tôi đấy à?” anh gầm gừ, xốc mình ngồi dậy.

    ”Nhân viên bơm xăng ở Texaco định gọi cảnh sát đến giải quyết ông. Vì hình nhưng ông chẳng có phương tiện chuyên chở thích hợp, nên tôi đếch còn cách nào khác ngoài mang ông theo.”

    Skeet nghĩ về điều đó khoảng năm phút rồi nói, ”tên tôi là Cooper. Skeet Cooper.”

    ”Dallas Beaudine. Người ta gọi tôi là Dallie.”

    ”Cậu đủ tuổi lái chiếc xe này một cách hợp pháp chứ?”

    Dallie nhún vai. ”Tôi trộm xe của ông già và tôi mười lăm tuổi. Ông có muốn tôi cho ông xuống không?”

    Skeet nghĩ đến viên cảnh sát quản chế mình, người chắc chắn sẽ sa sầm mặt trước những việc kiểu này, rồi nhìn sang thằng nhóc quàu quạu đang lái xe xuôi con đường Texas nắng như đổ lửa như thể nó có toàn quyền làm chủ con đường.

    Suy tính xong xuôi, Skeet ngả người ra ghế và nhắm mắt lại. “Thôi thì cứ ở đây thêm vài dặm nữa,” anh nói.

    Mười năm sau, anh vẫn ở đây.

    Skeet nhìn sang Dallie đang ngồi sau vô lăng chiếc Buick 73 và tự hỏi sao mà năm tháng trôi vùn vụt. Họ đã tham gia rất nhiều giải golf kể từ hồi gặp nhau ở trạm xăng Texaco. Anh tự cười một mình khi nhớ lại giải golf đầu tiên.

    Hai người bọn họ đã không đi quá được vài tiếng đồng hồ trong ngày đầu tiên ấy khi cả hai dồn tiền vào cũng chỉ đủ để đổ xăng xe. Tuy nhiên, chạy trốn khỏi cơn thịnh nộ của Jaycee Beaudine đã không làm Dallie quên ném mấy cây gậy golf méo mó vào va li trước khi vội vội vàng vàng đi khỏi Houston, nên nó bắt đầu ngó tìm những biển hiệu dẫn đến một câu lạc bộ thể thao gần đấy.

    Khi nó rẽ vào con đường trồng cây hai bên, Skeet liếc nhìn nó. “Cậu có thấy rằng trông hai chúng ta chẳng giống dân chơi thể thao ở câu lạc bộ ngoài trời không, cái Studebaker ăn cắp này cùng gương mặt bầm dập của cậu phải xử lí sao?”

    Cái miệng sưng vù của Dallie nhếch lên thành nụ cười tự phụ. “Mấy chuyện đó chẳng được đếm xỉa nếu anh có thể đánh bóng bằng gậy sắt số 5 bay xa hai trăm hai mươi thước trong gió và đặt quả bóng lên đồng 5 xu.”

    Nó bắt Skeet dốc sạch túi, gom hết tài sản của họ được mười hai đô la và sáu mươi tư xu, rồi bước đến chỗ ba người đứng đầu câu lạc bộ, và đề nghị họ chơi một trận giao hữu nho nhỏ với mười đô la một lỗ golf. Ba người, Dallie hào hiệp tuyên bố, có thể đi xe điện của họ cùng những chiếc túi da ngoại cỡ đầy chật những cây gậy sắt Wilson và gậy gỗ MacGregor. Dallie khẳng định nó sẽ vui vẻ đi bộ chỉ mang theo chiếc gậy sắt số 5 và quả bóng Titleist tốt thứ hai của mình.

    Bọn họ nhìn thằng bé đẹp trai nhưng lôi thôi lếch thếch đi đôi giày sneaker tops hở hết cả mắt cá chân xương xẩu và lắc đầu.

    Dallie nhe răng cười, nói bọn họ đúng là lũ hèn, giẫm phải phân, vô giá trị đối với phụ nữ và đề xuất tăng tiền cược lên hai mươi đô một lỗ golf, chính xác là nhiều hơn bảy đô la ba mươi sáu xu so với số tiền nó có trong túi quần sau.

    Ba người đó đẩy nó về phía điểm phát bóng đầu tiên và cảnh báo sẽ sút bay nó qua đường biên giới sang Oklahoma.

    Tối đó Dallie và Skeet chén món thịt bò phần thăn ngoại chữ T và ngủ tại quán trọ Holiday.


    Trong vòng ba mươi phút họ đã đến Jacksonville để kịp thời gian cho Dallie bắt đầu chơi ở vòng đấu loại giải Orange Blossom Open năm 1974. Cũng trong chiều hôm đó, một phóng viên thể thao ở Jacksonville tự dưng trở nên nổi tiếng vì đã khám phá ra một sự thật chấn động rằng Dallas Beaudine, với văn phạm của một cậu trai tỉnh lẻ, phong thái thô lỗ, ấy thế lại có bằng cử nhân văn học Anh. Sau hai buổi tối phóng viên này rốt cuộc cũng thành công trong việc bám theo Dallie đến Luella, một tòa nhà bê tông bẩn thỉu với những con chim hồng hạc bằng plastic đã tróc lở lớp sơn hồng tọa lạc không xa Gator Bowl, và nhảy ra trước mặt anh với thông tin đó như thể gã vừa khui ra một vụ hối lộ chính trị.

    Dallie ngẩng lên khỏi cốc rượu Stroh, nhún vai, và đáp rằng vì bằng của anh không do trường Texas A&M cấp, nên anh thấy nó chẳng có gì to tát.

    Đây đích thị là loại hành động bất kính khiến cánh phóng viên thể thao cứ xà quần xung quanh kể từ khi Dallie bắt đầu chơi ở tour chuyên nghiệp hai năm trước. Dallie có thể tiếp đãi bọn họ hàng giờ đồng hồ bằng những câu trích dẫn thường không đỡ nổi về tình trạng của Hiệp hội, những vận động viên bán mình cho Hollywood, và phong trào giải phóng phụ nữ. Anh là một chàng trai đúng chuẩn của thế hệ mới – điển trai như ngôi sao điện ảnh, nổi loạn, và thông minh hơn rất nhiều so với những gì anh thể hiện. Dallie Beaudine rất gần với hình ảnh hoàn hảo trên tạp chí mà người ta có thể tưởng tượng, trừ một điều.

    Anh phá hỏng tất cả mọi thứ.

    Sau khi được phong là tân binh vàng của giải, anh đã phạm một sai lầm gần như không thể tha thứ đó là không thắng được vòng đấu cá nhân quan trọng. Nếu như chơi ở giải hạng xoàng nơi vùng ven Apopka, Florida, hay Irving, Texas, anh sẽ thắng với âm mười tám gậy so với điểm chuẩn par, nhưng ở Bob Hope hay Kemper Open, anh có thể không vượt qua nổi hai vòng cuối. Cánh phóng viên thể thao cứ đay đi đay lại câu hỏi: đến bao giờ Dallas Beaudine mới xứng đáng với danh xưng một tay golf chuyên nghiệp?

    Dallie đã xác định phải thắng giải Orange Blossom Open năm nay và kết thúc chuỗi vận hạn đen đủi của mình. Vì một lí do, anh thích Jacksonville – nó là thành phố duy nhất của Florida không cố biến mình thành một công viên giải trí – và anh thích cách thức mà Orange Blossom được tổ chức. Bất chấp bị thiếu ngủ, anh đã có màn thể hiện ngoạn mục ở vòng sơ loại hôm thứ Hai và sau đó, khi đã được nghỉ ngơi đầy đủ, anh đã chơi xuất sắc ở vòng Pro-Am ngày thứ Tư. Thành công đó đã củng cố sự tự tin của anh – thành công cộng với việc Golden Bear, đến từ Columbus, Ohio, đã trúng phải trận cúm nặng và phải bỏ cuộc.

    Charlie Conner, phóng viên thể thao của Jacksonville, nhấp một ngụm rượu Stroh từ cốc của mình và cũng học đòi buông người ra ghế theo cung cách thoải mái gã quan sát được ở Dallie. ”Anh có nghĩ sự rút lui của Jack Nicklaus sẽ ảnh hưởng đến giải Orange Blossom tuần này không?” gã đặt câu hỏi.

    Theo Dallie đó là một trong những câu hỏi ngu xuẩn nhất thiên hạ, ngu ngang ngửa với câu ”Điều đó có tốt cho anh giống như tốt cho tôi không?” nhưng anh vẫn giả bộ ngẫm nghĩ. ”Xem nào, Charlie, khi anh nghĩ tới việc Jack Nicklaus đang trên đường trở thành vận động viên vĩ đại nhất trong lịch sử golf, chúng ta sẽ nhận thấy anh ta ra đi như vậy cũng không phải là không hay.”

    Gã phóng viên nhìn Dallie ngờ vực. “Tay golf vĩ đại nhất? Anh quên những người như Ben Hogan và Arnold Palmer rồi à?” Gã dừng lại tỏ vẻ tôn kính trước khi bật ra cái tên tiếp theo, cái tên thiêng liêng nhất trong giới golf. “Anh quên mất Bobby Jones rồi sao?”

    “Không có người nào chơi giống như Jack Nicklaus cả,” Dallie nói chắc nịch. “Kể cả Bobby Jones.”

    Skeet đang tán gẫu với Luella, chủ quán bar, nhưng nghe thấy cái tên Nickclause được nhắc đến anh lập tức cau mày và hỏi tay phóng viên về khả năng đi hết mùa giải Super Bowl của đội Cowboys. Skeet không thích Dallie nói về Nicklaus, nên anh có thói quen cắt ngang mọi cuộc đối thoại đang đi theo hướng đó. Skeet bảo nếu lôi chuyện Nicklaus ra sẽ khiến sự nghiệp của Dallie đi thẳng xuống địa ngục. Dallie sẽ chẳng thừa nhận đâu, nhưng Skeet khá là có lí.

    Trong lúc Skeet và tay phóng viên buôn về đội Cowboys, Dallie cố rũ bỏ cảm giác chán chường bao phủ lên anh vào mỗi khi mùa thu về đều đặn như nhịp đồng hồ bằng cách tập trung vào suy nghĩ lạc quan. Anh đã kiếm được mấy nghìn tiền giải thưởng và gấp đôi chỗ đó qua những trò cá độ điên rồ - chơi best ball (Là một hình thức thi đấu từ 2 người trở lên chấm điểm theo đội, nhóm cho từng lỗ bằng cách chọn điểm tốt nhất của người trong nhóm, đội) dùng tay trái, đánh bóng vào số 0 ở giữa trên tấm biển 200 yard ngoài sân tập, chơi một trận ứng biến trên một cái rãnh cạn và một đoạn ống cống bê tông dài bốn mươi foot. Anh còn thử cả trò của Trevino là chơi một số lỗ theo kiểu tung bóng lên không trung rồi đánh bằng một chai Dr Pepper nặng ba mươi hai ounce, nhưng lớp thủy tinh giờ không dày như hồi Super Mex nghĩ ra nếp gấp đặc biệt trong chiếc túi giấy grab bag của những trò cá độ golf, nên Dallie đã bỏ cuộc sau khi người ta phải khâu năm mũi ở bàn tay phải của anh. Dù bị thương, anh vẫn kiếm được kha khá để trả tiền xăng và duy trì cuộc sống thoải mái cho Skeet và mình. Đó không phải là may mắn, mà là sự nỗ lực lớn gấp nhiều lần so với nghề kiếm cơm của ông già Jaycee Beaudine là quanh quẩn các bến tàu dọc Buffalo Bayon ở Houston.

    Tính đến nay Jaycee đã chết được tròn năm, cuộc sống của ông ta bị cuốn trôi bởi rượu cộng với một cơn điên giận. Dallie không hay biết cha mình chết cho đến mấy tháng sau khi sự việc xảy ra khi anh tình cờ gặp một trong những ông bạn nhậu của Jaycee trong một quán rượu ở Nacogdoches. Dallie ước gì mình biết sớm để anh có thể đứng bên quan tài của Jaycee, nhìn xuống thi hài cha mình, và nhổ vào chính giữa cặp mắt nhắm nghiền của lão già đó. Một bãi nước miếng cho tất cả những vết thương anh nhận được từ nắm đấm của Jaycee, tất cả những nhục mạ anh hứng chịu suốt thời thơ ấu, tất cả những lần anh nghe Jaycee gọi anh là đồ vô dụng....thằng ái....thằng vứt đi... cho đến khi anh không thể chịu đựng thêm nữa và bỏ nhà ra đi ở tuổi mười lăm.

    Từ những gì có thể nhìn ra trong số ít ỏi những bức ảnh cũ, thì Dallie thừa hưởng phần lớn đường nét của mẹ mình. Bà cũng đã bỏ đi, từ giã Jaycee không lâu sau khi Dallie chào đời, và không buồn để lại địa chỉ nơi mình đến. Jaycee có lần tiết lộ là nghe nói bà đã đi Alaska, nhưng ông ta chưa bao giờ thử đi tìm. ”Phiền phức bỏ mẹ,” Jaycee bảo với Dallie. ”Không người đàn bà nào đáng để ta rước lắm phiền phức đến thế, nhất là khi quanh ta còn ối đàn bà.”

    Với mái tóc dày màu nâu vàng và đôi mắt rợp hàng mi đen, Jaycee thu hút nhiều phụ nữ hơn mức ông ta có thể xử trí. Trong những năm đó có ít nhất một tá phụ nữ đến sống với họ với thời gian dài ngắn khác nhau, một số còn đem theo cả con cái. Có người chăm sóc Dallie chu đáo, có người ngược đãi anh. Khi lớn hơn, anh nhận thấy những người hành hạ anh hình như ở lại lâu hơn những người khác, có lẽ vì phải xấu tính thì mới ở được với Jaycee nhiều hơn là vài tháng.

    ”Ông ta bẩm sinh đã độc ác rồi,” một trong những người phụ nữ khá tử tế đã nói với Dallie trong khi đóng gói hành lí. ”Có những người như thế đấy. Thoạt đầu ta không nhận ra bản chất của Jaycee vì ông ta thông minh, và ông ta có thể nói năng ngọt ngào đến độ ta cảm thấy mình là người phụ nữ đẹp nhất trên đời. Nhưng bên trong ông ta có cái gì đó méo mó khiến ông ta ác độc từ trong máu. Đừng nghe tất cả những lời vớ vẩn ông ta nói về cháu, Dallie ạ. Cháu là một đứa trẻ giỏi giang. Ông ta chỉ sợ khi trưởng thành cháu sẽ làm nên chuyện, điều mà cả đời ông ta chẳng thể thực hiện được.

    Dallie gắng tránh xa tầm nắm đấm của Jaycee hết mức có thể. Lớp học trở thành thiên đường an toàn nhất của anh, và không như các bạn học anh không bao giờ cúp cua – trừ phi anh dính những vết thương nghiêm trọng trên mặt, lúc đó anh sẽ đến chơi với các caddy làm việc ở câu lạc bộ thể thao phía cuối đường. Họ dạy anh đánh golf, và đến năm mười hai tuổi anh đã tìm thấy một chốn an toàn hơn trường học.

    Dalllie lắc đầu xua đi những hồi ức cũ và bảo Skeet đã đến giờ về. Họ trở lại nhà nghỉ, nhưng dù mệt rũ, Dallie vẫn nghĩ lan man về quá khứ nên trằn trọc rất lâu.

    Với vòng đấu loại đã kết thúc và vòng Pro-Am đã lùi xa, cuộc đấu thực sự bắt đầu vào ngày hôm sau. Giống như mọi giải golf chuyên nghiệp lớn khác, giải Orange Blossom Open tổ chức hai vòng đầu tiên vào thứ Năm và thứ Sáu. Những tay golf vượt qua vòng loại trừ ngày thứ Sáu tiếp tục đến với hai vòng đấu cuối cùng.

    Dallie không chỉ vượt qua vòng loại hôm thứ Sáu, anh còn dẫn đầu giải đấu với bốn gậy khi đi qua rừng phóng viên truyền hình để đến chỗ tee đầu tiên của vòng đấu cuối cùng sáng Chủ Nhật.

    ”Hôm nay cậu chỉ cần giữ bình tĩnh là được, Dallie,” Skeet nói. Anh đập đập cổ tay lên đầu túi gậy golf của Dallie và bồn chồn nhìn sang bảng xếp hạng, nơi tên của Dallie nằm nổi bật ở vị trí đầu tiên. ”Hãy nhớ hôm nay cậu chơi trận đấu của cậu, không phải của người nào khác. Dẹp lũ camera kia khỏi đầu và chỉ tập trung cú đánh hiện tại thôi.”

    Dallie thậm chí chẳng gật đầu ra ý đã nghe thấy lời dặn dò của Skeet. Thay vào đó anh cười toe toét với một phụ nữ da ngăm cực kì xinh đẹp đứng gần hàng dây chăng quây thành khu vực cho fan. Cô gái mỉm cười đáp lại, nên anh tạt vào buông mấy lời tán dóc với cô nàng, hành xử như thể mình chẳng có mối quan tâm nào khác trên thế gian, cứ như thắng giải đấu này không phải là điều quan trọng nhất trong đời anh, như thể năm nay sẽ chẳng có lễ Halloween nào hết.

    Dallie chơi trận đấu cặp cuối cùng với Johnny Miller, người đang dẫn đầu về số giải thưởng mùa giải năm đó. Khi đến lượt Dallie phát bóng đầu tiên, Skeet đưa anh cây gậy gỗ số ba cùng với lời khuyên. ”Hãy nhớ hôm nay cậu là tay golf trẻ nhất giải. Cậu biết thế và tôi biết thế. Chúng ta có nên để cho phần còn lại của thế giới biết điều đó không?” Dallie gật đầu, lấy tư thế, và bước vào trận đấu sẽ đi vào lịch sử.

    Qua mười bốn lỗ, Dallie vẫn dẫn trước với mười sáu điểm dưới par. Chỉ còn bốn lỗ phía trước, Johnny Miller đang bám rất sát, nhưng anh ta vẫn còn thua bốn gậy. Dallie gạt Miller khỏi tâm trí và chỉ chú tâm vào lượt đánh của mình. Khi đánh nhẹ bóng vào lỗ golf ở khoảng cách năm feet, anh tự nhủ mình đúng là sinh ra để chơi golf. Có những nhà vô địch do rèn luyện mà nên, nhưng cũng có những nhà vô địch được hình thành từ lúc thụ thai. Cuối cùng anh cũng sẽ xứng đáng với danh tiếng mà những tờ tạp chí đã tạo ra cho anh. Với tên anh nằm trong top dẫn đầu giải Orange Blossom Open, Dallie có cảm giác như anh đã lọt lòng mẹ với một quả bóng Titleist mới toanh nắm chặt trong tay.

    Những sải chân của anh trở nên dài hơn khi anh đi xuống đường fairway số mười lăm. Rừng camera theo sát từng cử động của anh, và trong anh sự tự tin đang ngập tràn. Những thất bại ở vòng cuối cùng của hai năm về trước giờ đã lùi lại sau lưng. Chúng chỉ là sự ăn may, không hơn. Thằng nhóc Texas này sắp sửa làm thế giới golf phải bùng cháy.

    Nắng rọi vào mái tóc vàng của anh và làm ấm chiếc áo sơ mi của anh. Ở khu vực khán giả, một fan nữ có thân hình nóng bỏng gửi cho anh một nụ hôn gió. Anh cười và làm động tác bắt lấy nụ hôn giữa không trung và cho nó vào túi áo.

    Skeet đưa ra cây gậy sắt số tám cho một cú đánh approach shot đơn giản đến green số mười lăm. Dallie nắm chặt cây gậy, đứng vào vị trí, cảm thấy sung sức và thoải mái. Vị trí dẫn đầu của anh rất vững chắc, đây là trận đấu của anh, không gì có thể cướp đi chiến thắng này cả.

    Không gì hết trừ Bear.

    Mày không thực sự cho rằng mày có thể thắng trận này, đúng không Beaudine?

    Giọng của Bear vang lên trong đầu Dallie nghe to và rõ như thể Jack Nicklaus đang đứng ngay cạnh anh vậy.

    Những nhà vô địch như chúng tôi mới thắng các giải golf, chứ không phải dạng thất bại như cậu.

    Biến đi, Dallie gào lên trong đầu. Đừng hiện ra vào lúc này! Mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán anh. Anh chỉnh lại tay cầm gậy, cố thả lỏng trở lại, cố gắng không nghe giọng nói kia.

    Mày có gì để mà khoe ra chứ? Mày đã làm gì cuộc đời mày ngoại trừ phá hỏng mọi thứ hả?

    Để tôi yên! Dallie lùi khỏi quả bóng, xem xét lại đường đi của bóng, rồi đứng lại vào vị trí. Anh vung gậy và thực hiện cú đánh. Đám đông cùng ồ lên một tiếng khi quả bóng bay sang trái và đáp xuống một chỗ vừa cao vừa gồ ghề. Trong đầu Dallie, Bear đang lắc lắc cái đầu tóc vàng đồ sộ của mình.

    Đó chính là điều tao nghĩ đấy, Beaudine. Mày chẳng hề có tố chất để tạo nên một nhà vô địch.

    Skeet, lo lắng ra mặt, bước đến cạnh Dallie. ”Cú đánh đó từ chỗ quái nào ra thế? Giờ thì cậu sẽ phải nhặt nhạnh từng tí một để đạt điểm chuẩn.”

    ”Tôi chỉ mất thăng bằng thôi,” Dallie vặc lại, rồi ưỡn ngực đi về phía greeen.

    Mày mất hết can đảm thì có, Bear thì thào đáp lại.

    Bear bắt đầu xuất hiện trong đầu Dallie không lâu sau khi Dallie bước vào chơi ở giải golf chuyên nghiệp. Trước đó, anh chỉ nghe thấy giọng của Jaycee. Về mặt logic thì Dallie hiểu rằng chính anh đã tạo ra Bear, và anh biết có sự khác biệt rất lớn giữa một Jack Nicklaus nói năng hòa nhã lịch thiệp ở đời thực và cái đồ quỷ sứ ăn nói hệt Nicklaus, và trông giống y như Nicklaus, và biết tất cả những bị mật sâu kín nhất của Dallie.

    Nhưng logic không có mấy liên quan đến những con quỷ sống ẩn dật, và không phải tình cờ mà con quỷ ẩn dật của Dallie đội lốt Jack Nicklaus, một người mà anh ngưỡng mộ hơn bất cứ ai – người có một gia đình êm ấm, sự tôn trọng từ các đồng nghiệp, và có những trận đấu golf kinh điển nhất mà thế giới từng được chứng kiến. Một người sẽ không biết thất bại là gì nếu anh ta cố gắng.

    Mày là một thằng nhóc ở sai chỗ ngay từ xuất phát điểm, Bear thì thầm khi Dallie nắn một đường bóng ngắn trên green số mười sáu. Bóng chờm đến mép lỗ rồi lăn ra ngoài.

    Johnny Miller ném cho Dallie một cái nhìn đầy biểu cảm, rồi đánh bóng vào lỗ ăn điểm par. Hai hố sau đó khi Dallie đánh đường bóng thứ mười tám, bốn gậy dẫn trước của anh đã bị giảm xuống thành ngang bằng với Miller.

    Ông già mày đã bảo mày sẽ chẳng bao giờ làm nên trò trống gì, Bear lải nhải khi đường bóng của Dallie chệch hẳn sang phải. Sao mày không chịu nghe hả?

    Càng chơi dở thì Dallie càng ra sức đùa cợt với đám đông. ”Cú đánh khốn nạn vừa rồi từ đâu ra ấy nhỉ?” anh gọi vọng tới chỗ họ, gãi gãi đầu với một vẻ hoang mang giả bộ. Rồi anh chỉ vào một phụ nữ đẫy đà bộ dạng nghiêm ngắn đứng sát vạch dây thừng. ”Thưa bà, có lẽ tốt hơn bà hãy đặt túi xuống và qua đây để bà có thể đánh hộ tôi gậy tiếp theo.”

    Anh dính điểm bogey (+1 gậy so với par) ở hố cuối cùng và Miller được birdie (-1 gậy so với điểm par). Sau khi các vận động viên đã kí vào thẻ điểm của mình, chủ tịch giải đấu trao cho Miller chiếc cúp danh giá cùng với tấm séc ba mươi nghìn đô la. Dallie bắt tay, vỗ vai chúc mừng Miller, sau đó bước tới chỗ đám đông tiếp tục tán dóc.

    ”Đây là cái tôi nhận được vì đã để cho Skeet banh miệng mình ra và đổ tất cả số bia ấy vào họng tôi. Hôm nay đến bà cố tôi cũng có thể chơi tốt hơn với một cái cào cỏ và đôi giày pa tanh.”

    Nguyên thời tuổi thơ Dallie Beaudine chỉ tìm cách né nắm đấm của cha mình, nên anh biết tốt hơn hết là đừng để cho bất cứ ai nhìn ra mỗi khi anh bị tổn thương.
     
    B-Mon, cucdai, nicholas27tse and 9 others like this.
  5. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 4

    Francesca đứng giữa một biển váy dạ tiệc đã bị loại ra và ngắm nghía hình ảnh mình trong bức vách dựng bằng các tấm gương ở cuối phòng ngủ của cô, hiện được trang trí bằng những tấm rèm lụa sọc màu pastel, hài hòa với những chiếc ghế Louis XV, và một bức tranh của Matisse thời kì đầu. Giống như một kiến trúc sư chìm đắm trong bản thiết kế, cô dõi tìm trên gương mặt hai mươi tuổi của mình những khiếm khuyết giả tưởng có thể xuất hiện một cách trời ơi đất hỡi kể từ lần cuối cùng cô soi gương. Chiếc mũi nhỏ thẳng tắp của cô phủ một lớp phấn trong mờ có giá mười hai bảng một hộp, viền mắt đánh màu khói, và hàng lông mi, được chuốt cẩn thận bằng một chiếc lược đồi mồi nhỏ xíu, sau đó phủ lên bốn lớp mascara nhập khẩu từ Đức. Cô hạ ánh mắt phê phán xuống khung áo mảnh ôm gọn đường cong thanh tú của bộ ngực, rồi săm soi vòng eo thắt đáy lưng ong trước khi chuyển xuống đôi chân, xỏ trong chiếc quần da lộn màu sơn mài xanh lục kết hợp một cách hoàn hảo với chiếc áo lụa màu ngà trong bộ sưu tập của Piero De Monzi. Cô vừa được phong tặng là một trong mười phụ nữ đẹp nhất nước Anh năm 1975. Dù cô sẽ chẳng bao giờ đần độn đến mức nói to điều này, nhưng cô vẫn âm thầm thắc mắc tờ tạp chí làm gì với chín người phụ nữ kia được cơ chứ. Những đường nét thanh tú của Francesca đẹp một cách cổ điển hơn hẳn mẹ cũng như bà ngoại cô, và sinh động hơn rất nhiều. Đôi mắt xanh lục sắc sảo của cô có thể trở nên lạnh lùng và xa cách như mắt mèo mỗi khi cô không vui, hoặc ngạo ngược như mắt cô hầu bàn ở khu Soho nếu tâm trạng cô thay đổi. Khi nhận ra đôi mắt đã mang lại cho mình nhiều sự chú ý như thế nào, cô bắt đầu làm nổi bật sự giống nhau giữa mình với Vivien Leigh và để một kiểu tóc quăn bồng bềnh dài chấm vai, thỉnh thoảng còn dùng kẹp tóc kẹp hết tóc ra sau lộ gương mặt nhỏ nhắn nhằm khiến sự tương đồng thêm rõ nét.

    Trong lúc thưởng thức hình ảnh của mình, cô không mảy may nghĩ rằng mình nông cạn và tự phụ, rằng có nhiều người mà cô coi là bạn khó khăn lắm mới chịu đựng được cô. Đàn ông mê mệt cô, đó mới là điều đáng kể. Cô đẹp đến nghẹn thở, quyến rũ tột độ mỗi khi cô định tâm làm thế, rằng chỉ có những người đàn ông sắt đá nhất mới có thể cưỡng lại được cô. Đối với cánh đàn ông được ở bên Francesca giống như làm một liều ma túy vậy, và kể cả khi mối quan hệ đã kết thúc, nhiều người vẫn thấy mình quay trở lại hòng được tái nghiện lần nữa.

    Giống mẹ mình, cô ăn nói cường điệu và đặt câu chữ ở dạng in nghiêng vô hình, làm cho ngay cả sự việc tầm thường nhất cũng nghe giống như một chuyến phiêu lưu kì thú. Dân tình đồn rằng cô là một phù thủy ở trên giường, mặc dù cụ thể có những ai thực sự xâm nhập qua lớp vỏ bọc quyến rũ của Francesca ngày càng trở nên mơ hồ. Cô hôn tuyệt hảo, đó là điều chắc chắn, dựa vào ngực anh đàn ông, cuộn tròn trong vòng tay anh ta như một nàng mèo câu dẫn, thỉnh thoảng lại liếm miệng anh ta bằng đầu lưỡi hồng hồng nhỏ xinh của mình.

    Francesca chưa bao giờ dừng lại để ngẫm ra rằng đàn ông tôn thờ cô vì cô thường thể hiện những mặt tốt nhất của mình đối với họ. Họ không phải chịu đựng những hành động thiếu suy nghĩ, những lần trễ hẹn thường xuyên, hay những cơn hờn giận mỗi khi cô không được như ý. Đàn ông làm cho cô bừng nở như một đóa hoa. Chí ít là một thời gian...đến khi cô thấy chán. Sau đó cô trở nên quá quắt không chịu nổi.

    Trong lúc thoa một lớp son bóng màu san hô lên môi, cô không khỏi mỉm cười khi nhớ lại cuộc chinh phục ngoạn mục nhất của mình, mặc dù cô vô cùng điên tiết vì anh ta đã không chấp nhận chuyện chia tay của họ một cách tốt hơn. Nhưng cô còn có thể làm gì? Mấy tháng trời ở vị trí phụ thuộc trước những trọng trách cao cả của anh ta đã rọi luồng ánh sáng ớn lạnh của thực tại vào những ảo mộng ấm áp diệu kỳ về cuộc sống hoàng gia bất diệt mà cô đang tận hưởng – những cỗ xe ngựa khung kính, những cánh cửa thánh đường mở rộng, kèn trumpet tấu rộn rã – những ảo mộng không phải là không hoàn toàn hình dung được đối với một cô gái được nuôi nấng trong phòng ngủ của một công chúa.

    Khi cuối cùng cô cũng tỉnh ngộ về mối quan hệ của họ và nhận ra mình không muốn sống một cuộc sống phục tùng Đế chế nước Anh, cô đã cố gắng chia tay với anh ta một cách nhẹ nhàng nhất có thể. Nhưng anh ta vẫn đón nhận chuyện đó khá là tệ hại. Giờ cô có thể nhìn thấy anh ta đúng như bộ dạng anh ta trong buổi tối hôm đó – trang phục may đo không chút tì vết, đầu tóc láng lẩy, giày da đắt tiền. Làm thế quái nào cô biết được một gã đàn ông không có lấy một nếp nhăn ở bề ngoài lại có thể mang từng ấy sự tự ti bên trong? Cô nhớ đến buổi tối cách đây hai tháng khi cô chấm dứt quan hệ với một nam tước chuẩn mực nhất nước Anh.

    Họ vừa kết thúc bữa ăn tối trong dãy phòng riêng của anh ta, và gương mặt anh ta mang vẻ trẻ trung và yếu đuối lạ kì khi ánh nến làm mềm đi những đường nét quý tộc trên mặt. Cô nhìn anh ta qua chiếc bàn phủ khăn trải bằng lụa Damask có tuổi thọ đúng hai trăm năm và bộ đồ ăn bằng sứ viền vàng hai tư karat, cố gắng làm cho anh ta hiểu qua vẻ mặt tha thiết của mình rằng chuyện này đối với cô còn khó khăn hơn rất nhiều so với anh ta.

    ”Anh hiểu,” anh ta nói, sau khi cô đã đưa ra các lí do, một cách tế nhị hết mức có thể, để không tiếp tục mối quan hệ của họ nữa. Và rồi, một lần nữa, ”Anh hiểu.”

    ”Anh hiểu thật chứ?” Cô nghiêng đầu khiến mái tóc đổ sang một bên, để ánh nến chiếu vào hai sợi kim cương giả đang đung đưa nơi tai cô, lấp lánh như một chuỗi ngôi sao trên bầu trời màu hạt dẻ.

    Câu trả lời thẳng thừng của anh ta làm cô choáng. ”Thực ra là không.” Đẩy ghế lùi khỏi bàn, anh ta đột ngột đứng dậy. ”Anh chẳng hiểu gì hết.” Anh ta nhìn xuống nền nhà rồi lại ngẩng lên nhìn cô. ”Anh phải thừa nhận rằng anh mê em, Francesca, còn em thì cho anh đầy đủ lí do để tin rằng em có tình cảm với anh.”

    ”Đúng vậy,” cô trả lời sốt sắng. ”Tất nhiên là em có tình cảm với anh.”

    ”Nhưng không đủ để chấp nhận tất cả những cái đi cùng với anh.”

    Cái tổ hợp của lòng kiêu hãnh thâm căn cố đế và sự tổn thương mà cô nghe thấy trong giọng anh ta khiến cô cảm thấy tội lỗi đầy mình. Chẳng phải những nhân vật trong hoàng gia thường che giấu cảm xúc của họ sao, bất kể trong hoàn cảnh nào? ”Những cái đó rất là nhiều,” cô nhắc anh ta.

    ”Thì đúng thế?” Tiếng cười của anh ta điểm chút chua chát. ”Tôi thật ngu xuẩn khi tin rằng cô quan tâm đến tôi đủ để chấp nhận chúng.”

    Giờ đây, ở một mình trong phòng, Francesca thoáng nhăn mặt với hình ảnh mình trong gương. Vì trái tim cô chưa bao giờ rung động trước ai, nên cô luôn thấy khá ngạc nhiên khi một trong những người đàn ông qua lại với cô phản ứng mạnh đến vậy khi hai người chia tay.

    Tuy nhiên đó đã là chuyện của quá khứ. Cô đóng nắp thỏi son và tìm cách xốc dậy tinh thần bằng cách ngâm nga một bài hát Anh theo điệu dance hall từ những năm 1930 về một người đàn ông khiêu vũ với một cô gái từng được khiêu vũ với Hoàng tử xứ Wales.

    ”Mẹ đi đây, con yêu,” Chloe xuất hiện ngoài cửa, vừa nói vừa chỉnh lại vành chiếc mũ phớt màu kem trên mái tóc đen cắt ngắn uốn quăn. ”Nếu Helmut gọi, thì bảo là một giờ mẹ sẽ về nhé.”

    ”Nếu Helmut gọi, con sẽ bảo ông ta là mẹ chết ngắc rồi.” Francesca chống tay lên hông, những móng tay sơn màu nâu vàng của cô trông như những quả hạnh nhỏ khi cô sốt ruột gõ chúng lên chiếc quần da màu xanh lục.

    Chloe cài cúc cổ chiếc áo lông chồn. ”Này con yêu...”

    Trong Francesca nhói lên một cảm giác hối hận khi bây giờ cô mới để ý thấy mẹ mình nom phờ phạc thế nào, nhưng cô dằn xuống, tự nhủ rằng sự tự hủy hoại bản thân của mẹ vì đàn ông mấy tháng gần đây đã trở nên trầm trọng và cô với bổn phận làm con phải chỉ ra điều đó. ”Đó là một tên đĩ đực, mẹ à. Chuyện đó ai ai cũng biết. Cái mác hoàng thân Đức của hắn là lừa mẹ đó.” Cô vươn tay qua hàng mắc Porthault ướp hương thơm trong tủ tới giá treo chiếc thắt lưng vẩy cá bằng vàng cô mua ở David Webb lần đến New York vừa rồi. Sau khi thắt nó vào eo, cô hướng sự chú ý trở lại Chloe. ”Con thấy lo cho mẹ. Dưới mắt mẹ xuất hiện quầng thâm rồi, và trông mẹ thường xuyên mệt mỏi. Mà dạo này sống với mẹ cũng là cả một thử thách. Mới hôm qua đây thôi mẹ mang về cho con chiếc kimono Givenchy màu be thay vì cái màu bạc mà con đã dặn.”

    Chloe thở dài. ”Mẹ xin lỗi. Đầu mẹ lu bu nhiều thứ quá, lại thêm chứng mất ngủ. Hôm nay ra ngoài mẹ sẽ lấy cho con chiếc kimono bạc luôn.”

    Niềm vui của Francesca khi nghe thấy mình sẽ có chiếc kimono đúng ý không che mờ được nỗi lo về Chloe. Một cách nhẹ nhàng hết sức có thể, cô cố gắng làm cho Chloe hiểu chuyện này nghiêm trọng cỡ nào. ”Mẹ đã bốn mươi rồi. Mẹ nên chăm lo cho bản thân nhiều hơn. Mấy tuần nay mẹ còn chưa đi chăm sóc mặt được một lần.”

    Trong nỗi hốt hoảng, cô nhận thấy mình đã động đến nỗi đau của mẹ. Cô vội ào tới ôm lấy bà hòa giải, cẩn thận không làm hoen lớp phấn má tinh tế màu nâu nhạt của mình. ”Mẹ đừng để ý nhé. Con luôn ngưỡng mộ mẹ. Và mẹ vẫn là bà mẹ đẹp nhất London.”

    ”Nhắc đến làm mẹ lại nhớ - một bà mẹ trong ngôi nhà này là đủ rồi. Con vẫn đang dùng thuốc tránh thai đấy chứ?”

    Francesca rên lên. ”Lại nữa rồi...”

    Chloe rút đôi găng tay trong chiếc túi xách Channel da đà điểu ra và bắt đầu mang vào. ”Mẹ không chịu đựng nổi ý nghĩ con mang thai khi vẫn còn quá trẻ. Có thai là rất nguy hiểm.”

    Francesca vén tóc ra sau vai và quay lưng lại gương. ”Càng có lí do để không được quên điều đó,” cô nhẹ nhàng nói.

    ”Cứ cẩn thận thì hơn, con ạ.”

    ”Đã bao giờ mẹ thấy con mất kiểm soát trong chuyện gì liên quan đến đàn ông chưa?”

    ”Ơn trời là chưa.” Chloe dùng hai ngón tay cái đẩy phần cổ áo lông chồn lên tận cằm. ”Giá như mẹ giống con được vài phần năm mẹ hai mươi tuổi.” Bà nở nụ cười ảo não. ”Mình đang dối gạt ai vậy? Giá như mẹ được như con ngay lúc này.” Bà gửi một nụ hôn gió, vẫy túi xách chào tạm biệt và đi xa dần vào cuối hành lang.

    Francesca chun mũi trong gương, rồi giật cái lược giắt trên tóc ra và bước lại chỗ cửa sổ. Trong lúc nhìn trân trân xuống vườn, đoạn hồi ức không mong muốn về chuyện cũ giữa cô và Evan Varian dội về, và cô bất giác rùng mình. Dù rằng cô biết sex không thể đáng sợ đến thế với hầu hết phụ nữ, nhưng trải nghiệm của cô với Evan ba năm trước đã khiến cô gần như mất hẳn mong muốn một sự thử nghiệm xa hơn, ngay cả với những người đàn ông hấp dẫn cô. Lời chế nhạo của Evan về sự lãnh cảm của cô cứ ẩn núp trong những góc sâu của tâm thức cô, nhảy ra vào những thời điểm oái oăm nhất để quấy rầy cô. Cuối cùng, vào mùa hè năm ngoái, cô đã thu hết can đảm và chấp nhận để một nhà điêu khắc trẻ tuổi đẹp trai người Thụy Điển đưa cô lên giường.

    Cô nhăn mặt khi nhớ lại chuyện đó khủng khiếp ra sao. Cô biết ý nghĩa của sex phải cao xa hơn việc có một gã đàn ông cứ nhấp nhô trên người mình, sờ soạng những nơi riêng tư nhất của mình và nhỏ mồ hôi tong tỏng từ nách xuống khắp người mình. Cảm tưởng duy nhất mà lần chung đụng ấy khơi lên trong cô là một nỗi lo lắng cực độ. Cô ghét việc mình có điểm yếu, cái cảm giác bất an mà cô đã bó tay không kiểm soát được. Đâu rồi cái sự gần gũi nhiệm màu mà thi ca vẫn viết? Tại sao cô không thể cảm thấy gần gũi với bất cứ một ai?

    Qua việc chứng kiến những mối quan hệ của Chloe với đàn ông, Francesca đã sớm biết ở độ tuổi còn non nớt rằng sex là một mặt hàng có thể giao dịch như mọi hàng hóa khác. Cô biết trước sau gì cô cũng sẽ phải để cho một người đàn ông quan hệ với mình lần nữa. Nhưng cô xác định sẽ không thực hiện chuyện đó đến khi nào cô cảm thấy hoàn toàn kiểm soát được tình hình và những phần thưởng nhận về đủ giá trị để bào chữa cho nỗi lo lắng. Đúng ra là những phần thưởng có thể có, cô không rõ cho lắm. Tất nhiên là không phải tiền bạc. Tiền bạc hiện hữu một cách hiển nhiên, thậm chí cô chẳng mấy nghĩ đến. Cũng không phải địa vị xã hội, vì nó đã được đảm bảo chắc chắn khi cô mới chào đời. Mà là một thứ gì đó... một điều mơ hồ đang vắng bóng trong cuộc sống của cô.

    Tuy nhiên, là một người về cơ bản là lạc quan, cô nghĩ những kinh nghiệm đáng buồn về sex của mình biết đâu lại tốt. Quá nhiều người quen của cô nhảy hết từ giường nọ sang giường kia cho tới khi bọn họ mất sạch ý thức về lòng tự trọng. Cô không nhảy vào chiếc giường nào nữa cả, song cô có thể khoác một hình ảnh dạn dày kinh nghiệm trong chuyện ấy – thậm chí đánh lừa cả mẹ cô – cùng lúc đó vẫn được yên thân một mình. Nhìn chung, đó là một kế sách vẹn cả đôi đường, nó thu hút những dạng đàn ông thú vị nhất.

    Tiếng chuông điện thoại cắt ngang luồng suy nghĩ của cô. Giẫm lên đống quần áo bị vứt ra, cô băng qua thảm nhấc máy lên. ”Francesca nghe,” cô nói, ngồi xuống một trong những chiếc ghế Louis XV.

    ”Francesca, đừng gác máy. Anh phải nói chuyện với em.”

    ”Được, nếu đấy không phải là Saint Nicholas.” Cô bắt tréo chân, săm soi những đầu móng tay xem còn chỗ nào chưa ổn.

    ”Em yêu, anh không định khiến cho em thành như vậy tuần trước.” Giọng Nicholas đầy vẻ xoa dịu, và cô có thể mường tượng hình ảnh anh ta, ngồi ở bàn làm việc trong văn phòng, những đường nét nho nhã sắt lại quyết tâm. Nicky hết sức dễ thương và cực kỳ nhàm chán. ”Anh rất khổ sở khi không có em,” anh ta tiếp tục. ”Anh xin lỗi nếu có dồn ép em quá đáng.”

    ”Anh nên xin lỗi đấy,” cô tuyên bố. ”Nói thực, anh cư xử như một kẻ đạo đức giả đáng tởm. Tôi ghét bị quát tháo, và tôi không đánh giá cao việc phải mang cảm giác như mình là một con hồ ly tinh nhẫn tâm.”

    ”Anh xin lỗi, em yêu, nhưng anh thực sự đâu có quát tháo. Chính em mới –” Anh ta ngừng bặt, có vẻ đã biết khôn mà dừng nhận xét đó lại.

    Francesca thấy điểm lỗi cô tìm nãy giờ, một vết sứt gần như không nhận thấy ở lớp sơn trên móng tay ngón trỏ. Vẫn ngồi tại chỗ, cô nhoài người về phía bàn trang điểm lấy lọ sơn móng màu nâu vàng của mình.

    ”Francesca, em yêu, anh nghĩ có thể em sẽ thích về Hampshire cùng anh cuối tuần này.”

    ”Rất tiếc, Nicky, tôi bận rồi.” Nắp lọ sơn móng tay rơi xuống dưới cú giật của những ngón tay cô. Khi rút cây chổi ra, mắt cô chạm phải tờ báo khổ nhỏ gấp hờ bên cạnh chiếc điện thoại. Một chiếc lót cốc bằng thủy tinh chặn bên trên, phóng to phần chữ in hình tròn nằm bên dưới nó khiến tên cô đập ngay vào mắt, những con chữ vặn vẹo như bị lọc qua một tấm gương làm méo ảnh.

    Francesca Day, cô con gái xinh đẹp của người đàn bà nổi tiếng Chloe Day và là cháu ngoại của nhà thiết kế thời trang huyền thoại Nita Serritella, lại một lần nữa làm tan nát bao con tim. Nạn nhân mới nhất của cô nàng Francesca rực lửa là người thường cặp kè với cô dạo gần đây, người đàn ông điển trai Nicholas Gwynwick, ba mươi ba tuổi, người thừa kế sản nghiệp chế biến bia của dòng họ Gwynwick. Bạn bè xung quanh cho biết Gwynwick đang định công bố ngày cưới thì Francesca đột nhiên xuất hiện tay trong tay với ngôi sao màn ảnh mới nổi hai mươi ba tuổi, David Graves...

    ”Vậy thì cuối tuần sau được không?”

    Cô xoay hông trên ghế, quay khỏi tờ báo để sửa lại móng tay. ”Tôi không nghĩ thế, Nicky. Thôi ta đừng làm chuyện này thêm khó khăn nữa.”

    ”Francesca.” Trong một khắc giọng Nicholas tưởng chừng như vỡ ra. ”Em – em đã nói em yêu anh. Anh đã tin rằng em...”

    Một nếp nhăn xuất hiện trên trán cô. Cô cảm thấy có lỗi, mặc dù việc anh ta hiểu sai lời cô khó mà là lỗi của cô được. Cô dừng tay chổi, tì cằm gần hơn vào ống nghe. ”Tôi yêu anh, Nicky. Như một người bạn. Anh dễ thương và đáng mến...” Và đáng chán nữa. ”Ai mà không yêu anh được chứ? Chúng ta đã có những thời khắc tuyệt vời bên nhau. Như dạo bữa tiệc của Gloria Hammersmith khi Toby nhảy vào cái đài phun nước đồ sộ ấy –”

    Cô nghe thấy một âm cảm thán nghẹn ngào từ đầu dây bên kia. ”Francesca, sao em có thể làm như thế?”

    Cô thổi thổi móng tay. ”Làm gì cơ?”

    ”Đi chơi với David Graves. Em và anh gần như đã đính hôn cơ mà.”

    ”David Graves không liên quan gì đến anh,” cô bật lại. ”Chúng ta không đính hôn, và tôi sẽ bắt chuyện lại với anh khi nào anh biết cách nói năng văn minh hơn.”

    ”Francesca-”

    Cô dập máy cái rụp. Nicholas Gwynwick có quyền gì mà chất vấn cô! Vừa thổi móng tay cô vừa bước lại tủ áo. Cô và Nicky đã có thời gian vui vẻ bên nhau, nhưng cô không yêu anh ta và chắc chắn không có ý định sống phần đời còn lại với một người ủ bia, dù hắn có giàu sụ đi nữa.

    Móng tay vừa khô là cô tiếp tục công cuộc tìm kiếm thứ gì để mặc cho buổi tiệc của Cissy Kavendish tối hôm đó. Còn chưa tìm được thứ mình cần thì cô đã giật mình vì tiếng gõ cửa, và một phụ nữ trung niên với mái tóc vàng hoe đi đôi tất chun cuộn xuống tận mắt cá bước vào phòng. Khi người phụ nữ bắt đầu cất mớ đồ lót gấp ngay ngắn trên tay vào tủ, bà ta lên tiếng, ”Tí nữa tôi ra ngoài độ vài giờ được không, cô Francesca.”

    Francesca giơ lên một chiếc váy dạ tiệc bằng vải chiffon màu mật ong hiệu Yves Saint Laurent với những chiếc lông đà điểu màu nâu và trắng bao quanh viền váy. Thực ra chiếc váy là của Chloe, nhưng Francesca đã mê mệt nó từ cái nhìn đầu tiên, nên cô đã cắt ngắn chân váy và thu nhỏ phần ngực áo trước khi chuyển nó sang tủ của mình. ”Bà thấy mặc vải chiffon cho buổi tối mai thế nào, Hedda?” cô hỏi. ”Có quá đơn giản không?”

    Hedda xếp nốt bộ đồ lót cuối cùng của Francesca và đóng tủ lại. ”Cô mặc thứ gì lên người cũng đều đẹp cả.”

    Francesca xoay người chầm chậm trước gương rồi chun mũi. Chiếc váy Saint Laurent nhìn quá bảo thủ, xét cho cùng không phải là phong cách của cô. Thả chiếc váy xuống sàn, cô bước qua đống quần áo đã bị loại ra và lại lục tủ lần nữa. Chiếc quần sóc ngắn bằng nhung thì được rồi, nhưng cô cần một chiếc áo để đi với nó nữa.

    ”Cô còn cần gì nữa không, cô Francesca?”

    ”Không đâu,” Francesca lơ đãng trả lời.

    ”Vậy đến giờ dùng trà tôi sẽ quay lại,” bà quản gia vừa nói vừa đi ra cửa.

    Francesca quay lại định hỏi bà ta về bữa tối và lần đầu tiên nhận thấy bà quản gia đi lom khom khác hẳn ngày thường. ”Chứng đau lưng lại hành hạ bà à? Tôi tưởng bà bảo đã đỡ hơn rồi chứ?”

    ”Đúng là đã đỡ hơn được chút ít,” bà quản gia đáp, nặng nhọc đặt tay lên quả đấm cửa. ”Nhưng mấy ngày gần đây nó đau quá khiến tôi cúi xuống rất khó khăn. Vì thế tôi muốn xin nghỉ mấy tiếng – để đến phòng khám.”

    Francesca nghĩ thầm thật khủng khiếp xiết bao nếu phải sống như bà Hedda tội nghiệp, với đôi tất cuộn xuống tận mắt cá và cái lưng đau nhức mỗi khi di chuyển. ”Đợi tôi lấy chìa khóa,” cô đề nghị trong một phút bốc đồng. ”Tôi sẽ đưa bà đến chỗ bác sĩ của Chloe trên phố Harley và bảo ông ta gửi hóa đơn thanh toán cho tôi.”

    ”Không cần đâu, thưa cô. Tôi đến phòng khám được rồi.”

    Nhưng Francesca bỏ ngoài tai. Cô ghét phải thấy người khác chịu đựng đau đớn và không chịu nổi ý nghĩ bà Hedda đáng thương không được chăm sóc y tế một cách tốt nhất. Sau khi lệnh cho bà giúp việc ra xe ngồi đợi, cô thay chiếc áo lụa sang chiếc áo len cashmere, đeo một chiếc vòng bằng ngà viền vàng lên cổ tay, gọi một cú điện thoại, xịt một ít nước hoa Femme mùi đào và mơ, rồi rời khỏi phòng – không mảy may nghĩ đến đống quần áo và phụ kiện mình đã vứt đấy vì bà Hedda sẽ phải tiếp tục khom lưng lựa đồ trong đó khi quay lại.

    Mái tóc cô xấp xõa trên vai khi cô chạy xuống cầu thang, chiếc áo jacket da cáo pha đồi mồi cầm trên tay đung đưa theo nhịp, đôi bốt bằng da mềm lún vào thảm. Bước xuống dưới sảnh, cô đi qua một bộ đôi cây cảnh tỉa hình tròn hai tầng trồng trong chậu gốm. Chỉ một chút ánh nắng len được vào sảnh, nên cây trồng ở đây không bao giờ được tươi tốt và cứ sau sáu tuần là phải thay mới, một sự phung phí mà cả Chloe lẫn Fracesca không lấy làm bận tâm. Chợt chuông cửa reo.

    ”Phiền thật,” Francesca lẩm bẩm, nhìn đồng hồ đeo tay. Nếu không nhanh chân lên, cô sẽ chẳng thể đưa Hedda đến bác sĩ và vẫn còn thời gian mặc đồ để đến bữa tiệc của Cissy Kavendish. Đầy nôn nóng, cô gần như giật tung cánh cửa.

    Một viên cảnh sát mặc đồng phục đứng ngoài cửa đang dò cuốn sổ nhỏ cầm trên tay. ”Tôi muốn gặp Francesca Day,” anh ta nói, mặt hơi ửng đỏ khi ngẩng đầu lên và trông thấy vẻ đẹp choáng ngợp của cô.

    Trong đầu cô nhá lên hình ảnh về đống vé phạt giao thông mình chưa nộp nằm rải rác trong ngăn kéo trên lầu, và cô nở nụ cười tươi tắn nhất với anh ta. ”Chính là tôi đây. Có chuyện gì sao?”

    Anh ta nhìn cô một cách nghiêm nghị. ”Cô Day, e rằng tôi mang tới tin chẳng lành.”

    Giờ cô mới để ý thấy anh ta đang cầm thứ gì đó bên sườn. Một cơn rùng mình ớn lạnh quét qua cô khi cô nhận ra đó là chiếc túi xách Chanel bằng da đà điểu của Chloe.

    Viên cảnh sát nuốt khan vẻ không thoải mái. ”Có vẻ đã xảy ra một tai nạn khá nghiêm trọng liên quan đến mẹ của cô...”
     
    B-Mon, cucdai, huyenhanoi and 10 others like this.
  6. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 5

    Dallie và Skeet phóng xe trên đường U.S. 49 hướng đến Hattiesburg, Mississippi. Dallie đã chợp mắt được hai tiếng ở ghế sau trong lúc Skeet cầm lái, nhưng lúc này anh đã lại ngồi sau vô lăng, lấy làm mừng vì đến 8:48 sáng anh mới phải thi đấu, nên anh sẽ có thời gian đánh dạo vài quả trước. Anh chúa ghét những chuyến lái xe thâu đêm kiểu này từ vòng chung kết giải đấu này sang vòng sơ loại giải đấu khác. Nếu những tay đại tư bản của giải PGA phải đi vài chuyến xuyên đêm qua ba đường biên giới bang và đi qua hàng trăm tấm biển Stuckey, anh nghĩ thể nào bọn họ cũng sẽ mau chóng thay đổi luật chơi.

    Trong khi thi đấu, Dallie không bận tâm chuyện ăn mặc – miễn sao áo anh không có hình động vật và không dính màu hồng – nhưng bên ngoài sân golf anh lại đặc biệt chú trọng đến trang phục. Anh thích quần jeans xé bó sát của Levis đi với bốt da khâu tay cao đến mắt cá và một chiếc T-shirt đủ cũ để anh có thể cởi phắt ra nếu tâm trạng hứng khởi và dùng nó để lau ca pô chiếc Buick Riviera mà không lo làm xước sơn. Một số fan nữ gửi cho anh những chiếc mũ cao bồi, nhưng anh chưa bao giờ đội, anh thích mũ lưỡi trai cụp vành hơn, như cái anh đang đội hiện giờ. Anh bảo hãng Stetson đã bị hủy hoại vĩnh viễn khi sản phẩm của họ bị quá nhiều nhân viên bảo hiểm bụng phệ trong những bộ leisure suit bằng polyester sử dụng. Không phải Dallie có thành kiến với chất polyester – chừng nào nó do Mĩ sản xuất.

    ”Đây là câu chuyện dành cho cậu,” Skeet nói.

    Dallie ngáp dài và tự hỏi mình có thể đánh được hai gậy sắt cho ra hồn không. Anh đã được nghỉ ngơi ngày hôm trước, nhưng vẫn không thể luận ra lí do vì sao. Từ sau thảm họa năm ngoái ở giải Orange Blossom Open, anh đã chơi tốt hơn, nhưng dù cố gắng mấy anh vẫn không vươn lên khỏi vị trí thứ tư trong mọi giải đấu lớn mùa này.

    Skeet đưa tờ báo lại gần ánh đèn từ hộc đựng đồ. ”Còn nhớ ngày trước tôi từng cho cậu xem bức ảnh một cô bé người Anh luôn cặp kè với một gã hoàng tử và những ngôi sao điện ảnh không?

    Có lẽ mình đổi tư thế quá nhanh, Dallie nghĩ. Có thể vì thế mà anh đang gặp vấn đề với cây gậy sắt số hai. Hoặc có thể là ở cú backswing của anh.

    Skeet tiếp tục. ”Cậu đã nhận xét là cô ta thuộc dạng phụ nữ sẽ không bắt tay cậu trừ phi cậu đang đeo một chiếc nhẫn kim cương màu hồng. Giờ nhớ chưa?”

    Dallie ừ hữ.

    ”Dù sao đi nữa, có vẻ mẹ cô ta đã bị một chiếc taxi tông phải tuần trước. Ở đây người ta chụp được bức ảnh cô ta từ đám tang đi ra với một vẻ mặt đáng sợ. ’Francesa Day thất thần vì thương tiếc người mẹ nổi tiếng,’ là cái tít được giật. Cậu nghĩ bọn họ kiếm đâu ra món như thế?”

    ”Như thế nào?”

    ”Thất thần. Từ kiểu đó.”

    Dallie chuyển trọng lượng sang một bên hông và thọc tay vào túi sau quần jeans. ”Cô ta giàu. Nếu cô ta nghèo, bọn họ chỉ bảo là cô ta ’buồn’ thôi. Anh còn kẹo cao su không?”

    ”Còn một gói Juicy Fruit.”

    Dallie lắc đầu. ”Trên kia mấy dặm có một trạm dừng xe tải. Chúng ta ghé lại nghỉ chút đi.”

    Họ dừng xe và uống cà phê, rồi quay trở vào xe. Và họ đến Hattiesburg còn thừa thời gian cho Dallie chơi trận đầu, và anh dễ dàng đạt điều kiện tham gia giải đấu. Sau đấy trên đường đến nhà nghỉ, hai người bọn họ đỗ lại bưu điện thành phố để kiểm tra hòm thư. Họ thấy một chồng hóa đơn đang đợi sẵn, cùng vài lá thư – trong đó có một lá khơi mào cuộc đấu khẩu diễn ra trên suốt đường đến nhà nghỉ.

    ”Tôi sẽ không bán mình, và tôi không muốn nghe về nó nữa,” Dallie quát lên khi giật mũ ra và quăng xuống giường trong phòng nhà nghỉ, rồi lột áo T-shirt qua đầu.

    Skeet thì đã trễ giờ hẹn với cô hầu bàn tóc quăn phục vụ đồ uống, nhưng anh ngẩng lên khỏi lá thư cầm trên tay và nhìn chằm chằm lồng ngực Dallie với đôi vai rộng và những bắp thịt đâu ra đấy. ”Cậu là thằng khốn cứng đầu nhất tôi từng gặp trong đời,” anh tuyên bố. ”Gương mặt xinh xẻo của cậu cùng với những múi ngực phát triển quá lố kia giờ đây có thể kiếm về cho chúng ta nhiều tiền hơn cây gậy số năm mòn vẹt của cậu kiếm được trong cả mùa giải này.”

    ”Tôi không khoe thân cho tờ lịch đồng dâm nam nào hết.”

    ”O.J. Simpson đã đồng ý rồi này,” Skeet chỉ ra, ”còn có Joe Namath và gã tín đồ trượt tuyết người Pháp kia nữa. Mẹ nó, Dallie, cậu là tay golf duy nhất bọn họ tính mời đấy.”

    ”Tôi không làm đâu!” Dallie gân cổ. ”Tôi không bán mình.”

    ”Cậu chẳng chụp mấy cái quảng cáo cho Foot-Joy trên tạp chí đó thôi.”

    ”Chuyện đó khác và anh thừa biết thế.” Dallie nện chân vào phòng tắm và đóng sầm cửa, rồi hét vọng từ trong ra. ”Foot-Joy làm ra đôi giày golf tuyệt hảo!”

    Tiếng vòi sen tiếp tục chảy và Skeet lắc đầu. Làu bà làu bàu, anh băng qua sảnh về phòng mình. Bấy lâu nay rất nhiều người nhận thấy vẻ ngoài của Dallie ắt có thể cho cậu ta tấm vé một chiều đến Holywood, nhưng thằng ngốc này chẳng biết nắm lấy cơ hội. Những người môi giới đã gọi mấy cú điện thoại đường dài cho cậu ta ngay năm đầu tiên cậu ta tham gia mùa giải, nhưng Dallie chỉ bảo họ rằng họ là một lũ hút máu người rồi sau đó buông vài lời nhận xét thường là miệt thị về mẹ bọn họ, bản thân những nhận xét đó ắt không quá tệ, trừ việc cậu ta ném thẳng chúng vào mặt bọn họ. Skeet thực muốn biết tranh thủ kiếm thêm ngoài lề như thế thì có gì là kinh khủng? Chừng nào Dallie chưa thắng được những trận tầm cỡ, thì cậu ta chẳng bao giờ nhận được những chứng nhận thương mại trị giá sáu chữ số mà những gã như Trevino có được, nữa là những hợp đồng ngon lành mà Nicklaus và Palmer đặt bút ký.

    Skeet chải đầu và thay một chiếc sơ mi vải flannel khác. Anh chẳng thấy sai trái chỗ nào trong việc tạo dáng cho một quyển lịch, kể cả là đứng chung với mấy thằng nhóc ẻo lả như J.W.Namath. Dallie có cái mà những nhà môi giới gọi là nam châm dục tính. Mẹ nó, ngay những kẻ mắt kèm nhèm cũng nhìn ra. Dù có bị chìm nghỉm giữa đám đồng nghiệp đến đâu, cậu ta luôn có một đội ngũ hùng hậu chạy theo, và tám mươi phần trăm đội ngũ đó bôi son môi. Bước ra khỏi trận đấu một cái là đám phụ nữ đó xúm quanh cậu ta như ruồi bu quanh hũ mật. Holly Grace nói phụ nữ mê Dallie vì họ biết cậu ta không có một cái quần lót nào màu mè hay đĩa nhạc nào của Wayne Newton. Thứ chúng ta thấy ở Dallie, Holly Grace đã hơn một lần quả quyết, là người đàn ông Mĩ đích thực cuối cùng của Lone Star State (Ngôi sao cô độc, biệt danh của tiểu bang Texas).

    Skeet vơ lấy chìa khóa phòng và tủm tỉm cười một mình. Lần cuối cùng ông nói chuyện với Holly Grace qua điện thoại, cô đã nói nếu Dallie không sớm thắng một giải đấu lớn, Skeet nên bước tới bắn bỏ cậu ta để giúp cậu ta thoát khỏi khổ sở.

    ***

    Bữa tiệc thường niên của Miranda Gwynwyck, luôn được tổ chức vào tuần cuối cùng của tháng Chín, đang ở độ náo nhiệt nhất, và bà chủ tiệc quan sát những đĩa tôm đỏ Mediterranean, baby artichoke, tôm hùm tẩm bột phyllo với vẻ mãn nguyện. Miranda, tác giả cuốn sách nổi tiếng về đòi bình quyền cho phụ nữ Woman as Warrior, rất ưa tiệc tùng, nếu không phải vì lí do nào khác ngoài chứng minh cho thế giới thấy phong trào đòi bình quyền và đời sống sang chảnh không loại trừ nhau. Quan điểm chính trị cá nhân không cho phép cô mặc váy dạ tiệc hay trang điểm, nhưng mở tiệc cho cô cơ hội thực hành cái cô nêu trong cuốn Woman as Warrior là ”quản gia” – một khía cạnh văn minh trong tính cách con người, dù là nam hay nữ.

    Mắt cô quét qua nhóm những vị khách ưu tú cô đã tập hợp lại giữa bốn bức tường chạm khắc trong phòng khách của mình, mới được bài trí lại hồi tháng Tám như một món quà sinh nhật từ em trai Miranda. Những nhà soạn nhạc và những học giả, rất nhiều thành viên thuộc giới quý tộc, đây đó là những nhà văn và diễn viên nổi tiếng. Một số thành phần học đòi muốn dựa hơi – chính là những con người thú vị mà cô muốn đặt họ cạnh nhau. Thế rồi cô cau mặt khi ánh mắt đụng phải con sâu làm rầu nồi canh vui sướng của cô – Francesca Serritella Day bé nhỏ xinh xắn, diện lộng lẫy như mọi bữa, và như mọi bữa, là tâm điểm chú ý của cánh đàn ông.

    Cô quan sát Francesca lướt từ nhóm trò chuyện này sang nhóm kia, nom đẹp mê hồn trong chiếc jumpsuit lụa màu ngọc lam. Cô ta lúc lắc mớ tóc màu hạt dẻ óng ả cứ như thế giới là con trai ngậm đầy ngọc của cô ta trong khi cả London biết cô ta đã bị bần cùng. Hẳn là một sự ngạc nhiên cho cô ta khi phát hiện ra Chloe đã ngập sâu trong nợ nần đến mức nào.

    Vượt lên trên tiếng rì rầm của buổi tiệc, Miranda nghe thấy tiếng cười giòn tan của Francesca và lắng tai nghe cô ta chào hỏi hàng loạt người đàn ông bằng cái giọng hụt hơi, hãy-chờ-đến-khi-anh-nghe-điều-này đó, nhấn mạnh bừa bãi những từ ít quan trọng nhất bằng một giọng điệu khiến Miranda phát điên. Thế nhưng lần lượt từng tên khốn xuẩn ngốc một tan chảy thành nước dưới chân cô ả. Bất hạnh thay, trong những tên khốn xuẩn ngốc đó có đứa em trai cưng của cô: Nicky.

    Miranda cau mày và nhón một hạt mắc ca từ chiếc bát pha lê Lalique màu trắng đục vẽ hình những con chuồn chuồn. Nicholas là người quan trọng nhất trên đời đối với cô, một con người vô cùng nhạy cảm với tâm hồn trong sáng. Nicky đã cổ vũ cô viết cuốn Woman as Warrior. Thằng bé đã giúp cô thanh lọc những suy nghĩ, đem cà phê cho cô lúc tối khuya, và quan trọng nhất, nó đã che chở cô khỏi sự chỉ trích của mẹ họ về việc tại sao con gái bà, với thu nhập một trăm ngàn bảng mỗi năm, lại phải dính vào thứ vô nghĩa như thế. Miranda không thể chịu nổi ý nghĩ đứng trơ ra đấy nhìn Francesca Day làm tan nát trái tim thằng bé. Từ nhiều tháng nay cô đã quan sát Francesca chuyển từ người tình này sang người tình khác, quay lại với Nicky khi nào cô ta thấy mình mắc kẹt giữa những kẻ hâm mộ. Lần nào cậu ta cũng mở rộng vòng tay chào đón ả - với nhiều tổn thương hơn, và có lẽ bớt háo hức hơn – nhưng với thái độ không thay đổi.

    ”Khi bọn em ở bên nhau,” cậu ta giải thích với Miranda, ”cô ấy khiến em cảm thấy như mình là người đàn ông hóm hỉnh nhất, thông minh nhất, sâu sắc nhất thế giới.” Sau đấy cậu ta cộc lốc bổ sung, ”tất nhiên là trừ những lúc cô ấy khó ở ra, lúc đó thì cô ấy làm em cảm thấy mình đúng là đồ mạt hạng đúng nghĩa.”

    Sao cô ta làm được nhỉ? Miranda tự hỏi. Làm thế nào một kẻ nghèo nàn về trí tuệ và tâm hồn như thế lại thu hút nhiều sự chú ý đến vậy? Chủ yếu, Miranda dám chắc, là nhờ nhan sắc phi thường của cô ta. Nhưng một phần là do sức sống của cô ta, bầu không khí quanh cô ta dường như kêu lách tách với hơi thở cuộc sống. Một thủ thuật rẻ tiền, Miranda nghĩ với vẻ ghê tởm, vì Francesca Day chắc chắn không có một suy nghĩ cho ra hồn trong đầu. Nhìn cô ta thì biết! Cô ta vừa không xu dính túi vừa thất nghiệp, thế mà cô ả hành xử như thể mình chẳng có gì phải bận tâm lo nghĩ trên đời. Và có lẽ cô ả chẳng bận tâm gì thật, Miranda nghĩ một cách bức xúc – trừ Nicky Gwynwyck cùng tiền đồ hàng triệu bảng trong tay thằng bé ra.

    Song Miranda không biết điều này, cô không phải là người duy nhất ủ ê tại bữa tiệc tối đó. Bất chấp vẻ tươi vui bên ngoài, Francesca đang vô cùng khổ sở. Vừa hôm qua đây thôi, cô đã đến gặp Steward Bessett, chủ công ty thời trang danh tiếng nhất London, để xin ông ta một công việc. Tuy cô không khao khát công danh, nhưng làm người mẫu là một cách kiếm tiền có thể chấp nhận được trong đời sống giao tế của cô, và cô đã xác định nó sẽ cung cấp chí ít là một giải pháp tạm thời cho những vấn đề tài chính đang hỗn loạn của cô.

    Nhưng trước nỗi thất vọng của cô, Steward bảo cô rằng cô quá lùn. ”Một người mẫu bất kể có đẹp cỡ nào, thì cô ta phải cao tối thiểu một mét bảy nếu muốn trình diễn thời trang,” ông ta nói. ”Cô cao có một mét năm lăm. Tất nhiên tôi có thể cho cô làm người mẫu ảnh, nhưng trước hết cô cần chụp test mấy tấm đã.”

    Đến đây thì Francesca mất hết bình tĩnh, cô hét vào mặt lão ta rằng cô từng chụp ảnh cho những tạp chí lừng danh nhất trên thế giới và cô không cần chụp test như loại nghiệp dư. Giờ cô nhận ra rằng mình thật ngu ngốc khi trở nên lo sợ đến như vậy, nhưng lúc đó cô không sao kiềm chế được.

    Mặc dù Chloe qua đời đã tròn một năm, Francesca vẫn thấy thật khó chấp nhận cảnh không còn mẹ. Có những lúc nỗi đau trở nên sắc nét, thành một vật thể hữu hình xoắn xuýt quanh cô. Ban đầu bạn bè cô còn đồng cảm, nhưng sau vài tháng, dường như họ tin rằng cô nên gạt nỗi đau buồn sang một bên giống như gạt đi một bộ đồ lỗi mốt từ năm ngoái. Cô thì sợ bọn họ sẽ ngừng gửi thiếp mời cho cô nếu cô không trở thành một bạn đồng hành vui vẻ hơn, và cô ghét sự cô đơn, nên cuối cùng cô đã học cách giấu kín nỗi đau của mình. Khi ở nơi công cộng, cô cười đùa lả lơi như thể mọi sự đều ổn.

    Ngạc nhiên thay, tiếng cười bắt đầu có tác dụng, và trong mấy tháng vừa qua cô cảm thấy cuối cùng mình đã dần hồi phục.

    Đôi khi trong cô còn gợn lên những con sóng tức giận mơ hồ đối với Chloe. Sao mẹ cô có thể bỏ rơi cô như thế này, với một đạo quân chủ nợ chực sẵn như dịch châu chấu phá mùa để vồ lấy mọi của cải của hai mẹ con? Nhưng cơn giận không bao giờ kéo dài lâu. Giờ đây khi đã quá muộn, Francesca mới hiểu vì sao Chloe có vẻ mệt mỏi và lơ đãng như thế trong mấy tháng trước khi bà bị chiếc taxi tông vào.

    Trong vòng vài tuần kể từ cái chết của Chloe, những người đàn ông vận com lê bắt đầu xuất hiện trước cửa nhà với những văn bản luật cùng cặp mắt hau háu. Trang sức của Chloe ra đi đầu tiên, tiếp nối là chiếc Aston Martin và những bức họa. Cuối cùng đến ngôi nhà cũng bị bán nốt. Việc đó giải quyết được những khoản nợ cuối cùng, nhưng nó chỉ để lại cho Francesca mấy trăm bảng, phần lớn số đó đến nay đã bị tiêu hết, và cô tạm thời ở nhờ nhà của Cissy Kavendish, một trong những người bạn lâu năm nhất của Chloe. Rủi thay, Francesca và Cissy từ trước đến nay chưa bao giờ ưa nhau, và từ hồi đầu tháng Chín, Cissy đã nói thẳng là bà muốn Francesca dọn đi. Francesca không biết cô có thể níu kéo những lời hứa hẹn mập mờ được bao lâu nữa.

    Cô buộc mình phải cười vang trước câu chuyện tiếu lâm của Talmedge Butler và cố gắng tìm sự an ủi trong ý nghĩ rằng không có tiền thật phiền toái, nhưng chỉ là tình trạng tạm thời. Mắt cô bắt gặp Nicholas đang băng qua phòng trong chiếc blazer của Gieves & Hawkes màu xanh hải quân và quần dài màu xám xếp li. Nếu cô kết hôn với anh ta, cô có thể muốn bao nhiêu tiền cũng có, nhưng cô chỉ nghiêm túc xem xét ý định ấy trong vài giây hết sức ngắn ngủi vào một buổi chiều cách đây mấy tuần sau khi cô nhận được cú điện thoại từ một gã cực kì đáng tởm đe dọa cô bằng đủ mọi hậu quả không được dễ chịu nếu cô không thanh toán các thẻ tín dụng của mình. Không, Nicholas không phải là giải pháp cho những vấn đề của cô. Cô khinh thường dạng phụ nữ quá vô vọng, thiếu tự tin vào bản thân, đến nỗi phải kết hôn vì tiền. Cô mới hai mốt tuổi. Tương lai của cô còn tràn đầy hứa hẹn, để bị hủy hoại bởi nỗi đau buồn nhất thời. Điều gì đó sẽ sớm xảy ra thôi. Tất cả những gì cô phải làm là chờ đợi.

    ”... là một mẩu rác mà tôi sẽ hô biến thành một tác phẩm nghệ thuật.” Đoạn hội thoại phát ra từ miệng một người đàn ông nom đầy chất nghệ cầm tẩu thuốc ngắn và có mái tóc chải chuốt làm Francesca chú ý. Anh ta rời khỏi chỗ Miranda Gwynwyck và xuất hiện bên cạnh cô. ”Chào cưng,” anh ta nói. ”Trông cô đáng yêu chết đi được, tôi đã chờ cả tối nay để được độc chiếm cô đấy. Miranda nói rồi tôi sẽ thích cô .”

    Cô mỉm cười và đặt tay vào bàn tay đang chìa ra của anh chàng. ”Francesca Day, tôi hy vọng mình xứng đáng với sự chờ đợi đó.”

    ”Lloyd Byron, và cô tuyệt nhiên xứng đáng. Chúng ta đã gặp nhau rồi, xong có lẽ cô không còn nhớ.”

    ”Trái lại, tôi nhớ rất rõ. Ngài là bạn của Miranda, một đạo diễn phim nổi tiếng.”

    ”Tôi e chỉ là một kẻ làm thuê vừa một lần nữa bán mình cho đồng dollar Yankee.” Anh ta ngửa đầu ra sau một cách điệu bộ và nói với cái trần nhà, miệng nhả một vòng khói tròn hoàn hảo. ”Đồng tiền là thứ khốn nạn. Nó khiến cho những con người xuất chúng làm đủ mọi chuyện suy đồi.”

    Francesca tròn mắt tinh nghịch. ”Cụ thể thì ngài đã làm bao nhiêu việc suy đồi rồi, cho tôi mạn phép hỏi?”

    ”Nhiều, nhiều vô kể.” Anh ta nhấp một ngụm từ chiếc cốc vại chứa đầy thứ chất lỏng nom giống rượu scotch nguyên chất. ”Mọi thứ dính tới Holywood đều suy đồi. Song tôi đã quyết tâm ghi dấu ấn của mình lên cả sản phẩm thương mại xuẩn ngốc nhất.”

    ”Ngài thật dũng cảm.” Cô mỉm cười với vẻ mặt mà cô hy vọng nó ra dáng ngưỡng mộ, nhưng thực ra là thích thú trước màn nhái lại gần như hoàn hảo hình ảnh một vị đạo diễn chán đời buộc phải thỏa hiệp với khát vọng nghệ thuật của mình của anh chàng.

    Cặp mắt Lloyd Byron lướt dọc gò má cô rồi nán lại nơi miệng cô, sự xăm soi của anh ta mang vẻ ngưỡng mộ nhưng đủ bình thản để cho biết rằng anh ta thích bầu bạn với đàn ông hơn phụ nữ. Anh ta mím môi và cúi người tới trước như đang chia sẻ một bí mật trọng đại. ”Hai ngày nữa tôi sẽ đến dòng sông Mississippi hoang vắng để bấm máy bộ phim tên Delta Blood, kịch bản tôi tự tay chuyển thể từ thứ rác hạng bét thành một bản tuyên ngôn hùng hồn.”

    ”Tôi rất yêu thích những tuyên ngôn hùng hồn,” cô thì thào đáp lại, nhấc một ly champagne từ chiếc khay đi ngang qua đồng thời lén ngắm nghía chiếc váy lụa taffeta sọc trắng đỏ của Sarah Fargate-Smyth, cố đoán xem nó là hiệu Adolfo hay Valentino.

    ”Tôi muốn biến Delta Blood thành một biểu tượng, một tuyên ngôn sùng kính đối với sự sống và cái chết.” Anh ta làm một cử chỉ hoa mỹ với chiếc cốc của mình mà không sánh ra ngoài giọt nào. ”Một chu trình bất tận của tự nhiên. Cô hiểu không?”

    ”Những chu trình bất tận là chuyên ngành đặc trưng của tôi đấy.”

    Trong một khắc anh ta dường như nhìn thấu suốt cô, rồi anh ta nhắm mắt lại rất kịch. ”Tôi có thể cảm nhận sức sống của cô đang đập mạnh trong không khí đến mức làm tôi ngạt thở. Cô tạo ra những xung động vô hình chỉ bằng những cử động nhỏ nhất của mái đầu.” Anh ta áp tay lên má. Tôi chưa khi nào nhìn lầm người. Da tôi toát mồ hôi lạnh rồi này.”

    Cô cười. ”Có lẽ những con tôm là thủ phạm.”

    Anh ta chụp lấy tay cô và hôn lên những đầu ngón tay. ”Tôi yêu mất rồi. Nhất định tôi phải có cô trong bộ phim của tôi. Từ giây phút đầu tiên trông thấy cô, tôi đa biết vai Lucinda là dành cho cô.”

    Francesca nhướng một bên mày. ”Tôi đâu phải là diễn viên. Điều gì khiến ngài có ý tưởng đó vậy?”

    Anh ta cau mặt. ”Tôi không bao giờ áp đặt định kiến lên người khác. Tôi chỉ nắm bắt được khí chất của cô mà thôi. Tôi sẽ nói với nhà sản xuất là tôi từ chối làm bộ phim này nếu không có cô.”

    ”Ngài không nghĩ như thế là hơi cực đoan sao?” cô mỉm cười hỏi. ”Ngài biết tôi chưa được năm phút.”

    ”Tôi đã biết cô cả cuộc đời rồi, và tôi luôn tin vào trực giác của mình; tôi khác người ta ở chỗ đó đấy.” Đôi môi anh ta khum thành hình oval hoàn hảo và nhả ra vòng khói thứ hai. ”Vai diễn nhỏ thôi nhưng đáng nhớ. Tôi đang thử nghiệm ý tưởng du hành thời gian về mặt vật lý cũng như tinh thần – một đồn điền ở phương nam ở đỉnh cao thịnh vượng vào thế kỷ mười chín và đồn điền đó hiện nay, rơi vào cảnh suy tàn. Tôi muốn sử dụng cô ở phần đầu phim với một loạt cảnh ngắn nhưng cực kỳ ấn tượng, trong vai một thiếu nữ trẻ người Anh mới đến đồn điền. Cô ta không có một câu thoại nào, song sự hiện diện của cô ta thống lĩnh cả màn ảnh. Vai đó có thể trở thành màn ra mắt của cô nếu như cô hứng thú với một sự nghiệp nghiêm túc.”

    Trong một khắc, Francesca thực sự bị cám dỗ đến mê muội và mất hết lý trí. Nghiệp diễn viên sẽ là giải pháp hoàn hảo cho tất cả những khó khăn tài chính của cô, và việc diễn xuất luôn hấp dẫn cô. Cô nghĩ đến cô bạn Marisa Berenson, người dường như đang có một giai đoạn tuyệt vời với sự nghiệp diễn viên, và sau đó cô suýt cười thành tiếng trước sự khờ khạo của mình. Những nhà đạo diễn đích thực khó có chuyện tiến đến chỗ những phụ nữ xa lạ tại các buổi tiệc cocktail và mời họ vào các vai diễn.

    Byron đã rút phắt từ túi ngực ra một cuốn sổ nhỏ bìa da và đang viết nguệch ngoạc lên đó với một chiếc bút bằng vàng. ”Mai tôi rời London để sang Mĩ rồi, nên hãy gọi cho tôi tại khách sạn vào trước bữa trưa. Địa chỉ của tôi đây. Đừng làm tôi thất vọng, Francesca. Toàn bộ tương lai của tôi đang trông chờ vào quyết định của cô. Cô nhất định không được bỏ lỡ cơ hội xuất hiện trong một bộ phim Mĩ tầm cỡ đấy.”

    Khi nhận tờ giấy từ anh ta và nhét nó vào xắc tay, cô dằn lại nhận xét rằng Delta Blood khó có vẻ là một bộ phim Mĩ tầm cỡ. ”Thật vui khi được gặp ngài. Lloyd, nhưng tôi e rằng tôi không phải là diễn viên.”

    Anh ta ép cả hai tay – một tay cầm cốc rượu và tay còn lại cầm hộp thuốc lá – vào tai khiến anh ta hao hao giống một sinh vật ngoài không gian biết tỏa khói. ”Không được có những suy nghĩ tiêu cực! Cô đúng như những gì tôi nói. Tư duy sáng tạo tuyệt đối không dung nạp những suy nghĩ tiêu cực. Hãy gọi cho tôi trước buổi trưa nhé cưng. Tôi nhất định phải có được cô.”

    Nói xong, anh ta quay lưng đi về chỗ Miranda. Trong lúc nhìn theo anh ta, Francesca cảm thấy một bàn tay đặt lên vai, và một giọng nói thì thầm bên tai cô, ”Anh ta không phải người duy nhất phải có được em.”

    ”Nicky Gwynwyck, đồ quỷ dâm dục,” Francesca quay lại, đặt một nụ hôn phớt lên quai hàm cạo nhẵn nhụi của anh chàng. ”Tôi vừa gặp một nhân vật nhỏ con và tức cười. Anh có biết anh ta không?”

    Nicholas lắc đầu. ”Đó là một người bạn của Miranda. Ta vào phòng ăn đi. Anh muốn cho em xem tác phẩm mới của de Kooning.”

    Francesca ngắm bức tranh một cách nghiêm túc, rồi trò chuyện với bạn bè của Nicky. Cô đã quên bẵng Lloyd Byron cho đến khi Miranda Gwynwick chặn đầu cô đúng lúc cô và Nicholas đang định đi khỏi.

    ”Xin chúc mừng, Francesca,” Miranda nói, ”Tôi đã nghe tin tức tuyệt vời đó rồi. Xem ra tài năng của cô phát lộ rất kịp thời. Giống như chú mèo...”

    Francesca ghét cay ghét đắng chị gái của Nicholas. Cô thấy Miranda nhạt nhẽo và khô khốc y như cái ngoại hình que củi của chị ta, cũng như sự bảo vệ thái quá đến kỳ quặc đứa em trai đã đủ tuổi để tự lo cho bản thân. Hai người phụ nữ lâu nay đã từ bỏ cố gắng duy trì phép lịch sự bề ngoài. ”Nhân nói đến mèo,” cô vui vẻ nói, ”trông chị thật đẹp quá, Miranda. Chị mới thông minh làm sao khi kết hợp giữa kẻ sọc và kẻ ca rô như thế. Nhưng chị đang nói về tin tức tuyệt vời nào vậy?”

    ”Tất nhiên là bộ phim của Lloyd rồi. Trước khi đi, anh ấy đã cho tôi biết anh ấy đang casting cô cho một vai quan trọng. Tất cả mọi người trong phòng đều ghen tỵ với cô đến xanh mặt”

    ”Chị thực sự tin ông ta sao?” Francesca nhướng một bên mày.

    ”Tôi không nên tin à?”

    ”Tất nhiên rồi. Tôi chưa sa sút đến độ phải xuất hiện trong một bộ phim hạng bốn.”

    Chị gái Nicholas ngửa đầu ra sau và phá lên cười, mắt lấp lánh tia sáng nhàn nhạt. ”Tội nghiệp Francesca, hạng bốn ư. Tôi tưởng cô quen biết tất cả mọi người. Rõ ràng cô không hiểu biết như cô muốn người khác nghĩ thế.”

    Francesca, từ trước đến nay luôn coi bản thân là người hiểu biết nhất thiên hạ, gần như không giấu nổi vẻ bực dọc. ”Chị nói thế là ý gì?”

    ”Xin lỗi cưng, tôi không định xúc phạm cô. Tôi chỉ ngạc nhiên vì cô chưa nghe danh Lloyd. Anh ấy đã đoạt giải Cành cọ Vàng tại Cannes bốn năm trước, cô không biết sao? Các nhà phê bình phát cuồng vì anh ấy – mọi bộ phim của anh ấy đều là những tượng đài đồ sộ - và tất cả đều chắc chắn sản phẩm mới của anh ấy sẽ cực kỳ thành công. Anh ấy chỉ làm việc với những người giỏi nhất.”

    Francesca cảm thấy rạo rực khi Miranda tiếp tục liệt kê tất cả những diễn viên nổi tiếng mà Byron đã từng cộng tác. Bất chấp quan điểm chính trị, Miranda Gwynwyck là một kẻ hợm mình kinh khủng, và nếu chị ta coi Lloyd Byron là một đạo diễn đáng trọng, thì Francesca quyết định cô cần cân nhắc kỹ hơn lời đề nghị của anh ta.

    Rủi thay, khi họ vừa ra khỏi nhà Miranda, Nick liền đưa cô tới một câu lạc bộ tư vừa mới mở ở quận Chelsea. Họ ở đó đến gần một giờ, và anh ta một lần nữa cầu hôn cô và họ lại có thêm một trận cãi vã om sòm – kết quả cuối cùng đúng như cô lo lắng – nên rất khuya cô mới đi ngủ được. Vì thế khi cô thức dậy vào ngày hôm sau thì đã quá trưa, đã thế chỉ tỉnh giấc vì Miranda gọi điện đến hỏi mấy câu vô nghĩa về một người thợ may.

    Nhảy phắt xuống giường, cô rủa xả người hầu của Cissy đã không đánh thức cô dậy sớm hơn rồi lao qua mặt sàn trải thảm của phòng ngủ dành cho khách, tay giật tung dây buộc đằng trước chiếc áo ngủ hiệu Natori màu xám trắng pha hồng cam. Cô tắm vội tắm vàng, rồi tròng lên người chiếc quần đen bằng len với áo len Sonia Rykiel màu đỏ thẫm xen vàng. Sau khi thoa một lớp phấn mỏng, kẻ mắt, tô son bóng, rồi xỏ một đôi bốt kéo khóa cao đến đầu gối, cô phóng đến khách sạn của Byron và được nhân viên ở đó cho biết nhà đạo diễn đã trả phòng.

    ”Ông ấy có để lại lời nhắn gì không?” cô hỏi, gõ móng tay lên quầy lễ tân một cách sốt ruột.

    ”Để tôi đi kiểm tra.”

    Một lát sau người nhân viên quay lại với một chiếc phong bì. Francesca xé nó ra và đọc lướt lời nhắn.

    Xin Chúa phù hộ, Francesca thân yêu!

    Nếu cô đang đọc bức thư này, tức là cô đã nghĩ thông, mặc dù thật là thất đức khi cô chẳng gọi cho tôi trước khi tôi đi. Tôi phải có cô ở Louisiana muộn nhất là vào thứ Sáu tuần này. Hãy bay đến Gulfport, Mississippi, và thuê một lái xe đưa cô đến đồn điền Wentworth theo những chỉ dẫn trong đây. Trợ lí của tôi sẽ lo giấy phép làm việc, hợp đồng, vân vân...., và khi nào cô đến sẽ thanh toán chi phí đi lại cho cô. Hãy lập tức đánh điện lời chấp nhận của cô chuyển đến địa chỉ đồn điền để một lần nữa tôi có thể thở phào.

    Tạm biệt, ngôi sao xinh đẹp của lòng tôi!

    Francesca nhét lời chỉ dẫn vào ví cùng với bức thư của Byron. Cô nhớ Marisa Berenson trông tuyệt như thế nào trong cả hai bộ phim Quán rượu và Barry Lyndon và cô đã ghen tỵ tới mức nào khi xem hai phim đó. Thật là một cách kiếm tiền tuyệt vời hoàn hảo.

    Và rồi cô nhăn trán khi nhớ lại lời nhắn của Byron về chuyện thanh toán chi phí đi lại cho cô. Giá như cô tìm đến anh ta sớm hơn thì anh ta đã có thể thu xếp vé cho cô rồi. Giờ thì cô phải tự bỏ tiền ra, và cô gần như chắc chắn mình không còn đủ tiền trong tài khoản để chi trả cho chuyến bay. Sự vô lý vớ vẩn về những chiếc thẻ tín dụng này đã tạm thời chặn đứng con đường hoan lộ của cô, và sau buổi tối qua cô thề không nói chuyện với Nicky nữa. Cô biết kiếm đâu ra tiền mua vé máy bay bây giờ? Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ sau quầy và thấy mình đã trễ hẹn với thợ làm tóc. Buông tiếng thở dài, cô kẹp ví vào dưới cánh tay. Cô phải tìm ra cách nào đó.


    ”Xin lỗi, anh Beaudine.” Cô tiếp viên đẫy đà trên chuyến bay của hãng hàng không Delta dừng lại cạnh ghế của Dallie. ”Anh không phiền ký tặng cho cháu tôi chứ? Thằng bé ở trong đội tuyển golf của trường trung học. Tên nó là Matthew, nó là một fan bự của anh đó.”

    Dallie nở nụ cười tán thưởng với bộ ngực cô gái rồi đưa mắt lên khuôn mặt cô, không được ngon lành như phần còn lại, nhưng vẫn rất ổn. ”Rất vui lòng,” anh đáp, cầm lấy tập giấy và chiếc bút cô đưa. ”Hy vọng cậu bé chơi tốt hơn tôi hiện tại.”

    ”Anh phi công phụ có kể rằng anh đã gặp phải chút rắc rối trong mấy tuần trở lại đây.”

    ”Cô bé à, là tôi tự tạo ra rắc rối ở Firestone ấy chứ.”

    Cô gái cười khúc khích tán thưởng đoạn hạ thấp giọng để chỉ mình anh nghe được. ”Em cá là anh tự tạo rắc rối ở rất nhiều nơi ngoài các giải golf ra.”

    ”Tôi đã cố hết sức.” Anh từ từ nở nụ cười với cô ta.

    ”Tại sao anh không ghé nhà em chơi vào lần tới anh đến L.A nhỉ?” Cô gái viết nghuệch ngoạc mấy chữ lên tập giấy anh đưa lại, xé tờ giấy ra, và đưa nó cho anh cùng với một nụ cười nữa.

    Cô gái đi rồi, anh nhét mảnh giấy vào túi quần jeans nơi nó cọ vào một mảnh giấy khác mà cô nhân viên ở quầy cho thuê xe Avis đã tuồn cho anh khi anh rời Los Angeles.

    Skeet làu bàu từ chỗ ngồi bên cửa sổ. ”Cá là cô ta thậm chí không có thằng cháu nào, hoặc nếu có thì nó cũng chưa từng biết đến cậu.”

    Dallie giở cuốn Bữa điểm tâm dành cho những nhà vô địch của Vonegut ra và bắt đầu đọc. Anh ghét nói chuyện với Skeet trên những chuyến bay hơn bất cứ thứ gì. Skeet không thích đi lại trừ phi ông làm điều đó trên bốn bánh xe Goodyear (hãng lốp xe nổi tiếng thế giới) và trên đường cao tốc liên bang. Những lần hiếm hoi họ phải rời chiếc Riviera mới nhất của Dallie để bay khắp đất nước vì một giải đấu – giống như chuyến đi hai chiều vất vả từ Atlanta ởi L.A này – tâm trạng của Skeet bình thường vốn đã cau có, liền trở nên chua như dấm.

    Hiện thời ông đang trừng mắt với Dallie. ”Bao giờ chúng ta mới tới Mobile? Tôi ghét mấy chuyến bay mắc dịch này, và đừng có bắt đầu thuyết giảng cho tôi về các định luật vật lý. Cậu và tôi đều biết chẳng có gì ngoài không khí giữa chúng ta và mặt đất cả, và khó có thể trông đợi không khí nâng đỡ được một thứ bự chảng thế này.”

    Dallie nhắm mắt lại và ôn tồn nói, ”Im đi, Skeet.”

    ”Đừng có lăn ra ngủ trước mặt tôi. Mẹ kiếp, Dallie, tôi nói thật đấy! Cậu biết tôi rất ghét bay mà. Chí ít cậu cũng phải thức nói chuyện cùng tôi chứ.”

    ”Tôi mệt lắm. Tối qua tôi chẳng ngủ được mấy.”

    ”Có gì lạ. Chè chén đến hai giờ sáng rồi sau đấy đem cả con chó dơ dáy kia về.”

    Dallie mở mắt và liếc xéo Skeet. ”Tôi không nghĩ Astrid thích bị gọi là con chó dơ dáy.”

    ”Không phải cô ta! Là con chó kia, cái thằng ngốc này. Tôi còn nghe thấy tiếng rền rĩ của nó xuyên qua tường nhà nghỉ.”

    ”Thế tôi biết phải làm sao?” Dallie đáp, quay sang đối diện với vẻ mặt cáu kỉnh của Skeet. ”Bỏ mặc nó chết đói bên xa lộ à?”

    ”Lúc ở quầy lễ tân nhà nghỉ cậu đã cho bọn họ bao nhiêu trước khi chúng ta rời khỏi đó?”

    Dallie lẩm bẩm câu gì mà Skeet không nghe ra.

    ”Cậu nói gì?” Skeet sừng sộ lặp lại.

    ”Tôi nói là một trăm! Một trăm bây giờ và một trăm nữa vào năm sau khi tôi quay lại và thấy con chó khỏe mạnh.”

    ”Lũ ngốc,” Skeet làu bàu. ”Cậu và những sinh vật đi lạc của cậu. Cậu cưu mang không biết bao nhiêu con chó cùng với những chủ nhà nghỉ ở ba mươi bang. Tôi thật không hiểu làm sao cậu duy trì được một nửa sự nghiệp nữa. Nào chó, nào trẻ con...”

    ”Chỉ có một đứa trẻ con thôi, và tôi đã gửi nó lên xe khách ngay ngày hôm ấy.”

    ”Cậu và những con vật lang thang chết tiệt của cậu.”

    Ánh mắt Dallie chậm rãi quét dọc từ đầu đến chân Skeet. ”Phải,” anh nói. ”Tôi và những con vật lang thang chết tiệt của tôi.”

    Câu nói khiến Skeet nín lặng một hồi, đúng như ý định của Dallie. Anh mở quyển sách lần thứ hai, và ba tờ giấy viết thư màu xanh lam gấp đôi rơi xuống lòng anh. Anh mở chúng ra, đập vào mắt anh là hình những con chó Snoopy nghịch ngợm chạy dọc lề trên và một dòng những chữ X ở dưới, và anh bắt đầu đọc.

    Dallie thân mến.

    Em đang nằm bên bể bơi của Rocky Halley và chỉ có bộ bikini màu tía dài một inch rưỡi ngăn cách giữa em và sự tai tiếng. Anh còn nhớ Sue Louise Jefferson không, con nhỏ từng làm việc ở Dairy Queen và đã lừa dối bố mẹ mình khi ngược phương bắc tới trường Purdue thay vì đại học East Texas Baptist vì muốn trở thành Cô gái Vàng trong ban nhạc cổ vũ của đội bóng bầu dục Boilermakers trường Purdue, nhưng thay vào đó nó đã mang bầu với anh chàng thủ thành đội Buckeye sau trận đấu với đại học Ohio State? (Purdue thua với tỉ số 21-13.) Dù sao đi nữa, em hay nghĩ đến cái ngày cách đây vài năm khi Sue Louise vẫn còn ở Wynette và cảm thấy yêu thích Wynette Hight và gã bạn trai đang làm nó thất vọng cùng cực. Sue Louise đã nhìn sang em (em đã gọi một ly cocktail chocolate vanilla rắc đường) và nói, ”Tớ nghĩ cuộc sống cũng giống như một Dairy Queen ấy, Holly Grace à. Hoặc nó ngon đến mức rùng mình hoặc hoặc nó tan chảy hết trên tay ta.”

    Cuộc sống đang tan chảy, Dallie ạ.

    Sau khi cống hiến quá năm mươi phần trăm so với chỉ tiêu cho những kẻ hút máu ở Thiết bị Thể thao Quốc tế, tuần trước em bị tay phó giám đốc mới triệu vào văn phòng bảo rằng bọn họ định cất nhắc một người khác lên vị trí quản lý bán hàng khu vực tây nam. Vì Người Khác ấy tình cờ lại là đàn ông và chỉ vừa đạt đủ chỉ tiêu năm ngoái, em liền nổi điên và bảo với tay phó giám đốc rằng hắn ta sắp phải đối mặt với một vụ kiện Phân biệt Đối xử. Hắn bào chữa, “Từ từ đã, phụ nữ các cô thật quá nhạy cảm với mấy chuyện này. Tôi muốn cô hãy tin tưởng tôi.” Đến đó thì em bảo hắn rằng em còn không tin hắn ta không cương cứng lên trong một viện dưỡng lão của các bà già. Tiếp sau đó là những cuộc trao đổi lời qua tiếng lại rôm rả, đó là lí do tại sao hiện em đang nằm bên cái bể bơi cũ Số 22 thay vì phơi mặt ở các sân bay.

    Tin tức sáng sủa hơn – em đang nuôi kiểu tóc Farrah Fawcetted cho đến khi nào nó nổi bần bật mới thôi, và chiếc Firebird đang chạy ngon lành. (Đúng như anh nói, là do bộ chế hòa khí.)

    Đừng gây thêm cú sốc nào nữa, Dallie, và tiếp tục ghi những điểm birdie đó nhé.

    Yêu anh,

    Holly Grace

    Tái bút: em đã thêm chút mắm muối vào chuyện về Sue Louise Jefferson, nên nếu lần tới đến Wynette có tình cờ gặp nó, thì anh đừng có đả động gì đến tay thủ thành của Buckeye đấy.

    Dallie tủm tỉm cười một mình, gấp lá thư làm bốn, và đút vào túi áo sơ mi, nơi gần trái tim nhất mà anh có thể tìm thấy.
     
    B-Mon, cucdai, vuongle and 11 others like this.
  7. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 6

    Chiếc limousine là một chiếc Chevrolet 1971 không có điều hòa. Điều này đặc biệt khó chịu đối với Francesca vì hơi nóng ngột ngạt, nặng trĩu như kết thành một cái kén bọc lấy cô. Mặc dù những chuyến đi của cô trong nước Mĩ cho đến ngày hôm đó chỉ giới hạn ở Manhattan và Hamptons, song cô còn quá hối tiếc trước phán đoán sai lầm của mình đến độ chẳng quan tâm tới phong cảnh mới lạ họ đi qua từ lúc rời sân bay Gulfport một giờ trước. Sao cô lại ngớ ngẩn đến thế trong việc lựa chọn trang phục? Cô ngao ngán nhìn xuống chiếc quần len trắng dày dặn và chiếc áo len cashmere dài tay màu cần tây đang dính sát vào da cô một cách bức bối. Đã là ngày đầu tháng Mười rồi! Ai có thể tưởng tượng được trời lại nóng như thế chứ!

    Sau gần hai tư giờ đồng hồ di chuyển, mi mắt cô đang sụp xuống vì mệt và người thì đóng một lớp bụi dày. Cô đã bay từ Gatwick tới JFK, rồi tới Atlanta, và từ đó bay đến Gulfport nơi nhiệt độ lên đến 33 độ trong bóng râm và là nơi mà tài xế duy nhất cô thuê được có một chiếc xe không có điều hòa. Giờ trong đầu cô chỉ độc có ý nghĩ về đến khách sạn, gọi một ly rượu gin pha quinine, tắm nước lạnh thật đã, và ngủ một mạch hai tư tiếng tiếp theo. Ngay sau khi trình diện ở hãng phim và biết được mình sẽ ở đâu, cô sẽ làm chính xác như thế.

    Kéo lớp áo len ra khỏi vùng ngực dấp dính, cô cố gắng nghĩ ra điều gì đó để cổ vũ bản thân cho đến khi tới khách sạn. Đây sẽ là một chuyến phiêu lưu tuyệt vời, cô tự nhủ. Dù rằng không có kinh nghiệm diễn xuất, song cô vẫn luôn là một người bắt chước xuất sắc, và cô sẽ làm việc thật chăm chỉ trong bộ phim để các nhà phê bình sẽ nghĩ cô rất tài năng và tất cả những đạo diễn giỏi nhất sẽ muốn mời cô. Cô sẽ tham dự những bữa tiệc xa hoa và có một sự nghiệp tươi sáng và kiếm được hàng núi tiền. Đây chính là thứ đã bị khuyết thiếu trong cuộc sống của cô, một thứ ”khó nắm bắt” mà cô chưa bao giờ có thể xác định. Tại sao trước giờ cô chưa từng nghĩ đến nó nhỉ?

    Cô gạt tóc ra khỏi thái dương bằng những đầu ngón tay và tự chúc mừng mình vì đã giải quyết gọn ghẽ vấn đề nan giải là phải kiếm đủ tiền để mua vé máy bay. Chuyện đó quả thực rất nhẹ nhàng, một khi cô đã vượt qua cú sốc ban đầu trước ý nghĩ ấy. Rất nhiều người nổi tiếng đem quần áo của họ tới các cửa hàng chuyên thu mua nhãn hiệu của các nhà thiết kế để bán lại; cô không hiểu tại sao mình không làm thế từ mấy tháng trước. Số tiền bán quần áo đó đủ mua một vé máy bay hạng nhất và giải quyết những hóa đơn cấp bách nhất của cô. Giờ cô mới nhận ra con người thường làm phức tạp hóa những vấn đề tài chính của họ một cách không cần thiết, khi mà chỉ cần một sáng kiến nhỏ là giải quyết được hết những khó khăn. Dù sao cô cũng cực ghét phải mặc quần áo từ mùa trước, và giờ cô có thể bắt đầu mua một tủ áo hoàn toàn mới ngay khi hãng phim hoàn trả tiền vé cho cô.

    Chiếc xe rẽ vào một lối xe chạy nằm giữa hai hàng sồi. Cô nghển cổ khi họ lượn qua khúc cua và nhìn thấy phía trước một tòa nhà kiểu đồn điền được bảo tồn, tòa nhà ba tầng làm bằng gỗ và gạch với sáu cây cột xẻ đường rãnh duyên dáng chạy dọc hàng hiên trước. Khi đến gần hơn, cô nhận thấy một loạt những xe tải chở hàng và xe khách đậu cạnh tòa nhà xưa. Những chiếc xe trông lạc quẻ y như những thành viên đi lại quanh đó trong trang phục quần short với áo T-shirt, hoăc cởi trần, hoặc áo sát nách.

    Người tài xế dừng xe và quay sang cô. Anh ta có một chiếc cúc kỷ niệm 200 năm độc lập nước Mĩ to tròn gắn vào cổ áo lao động màu nâu vàng. Nó mang dòng chữ ”1776-1976” phía trên, chữ ”AMERICA” và ”MIỀN ĐẤT HỨA” ở giữa và phía dưới. Francesca đã thấy những tấm biển kỷ niệm 200 năm nước Mĩ độc lập ở khắp nơi kể từ lúc cô đặt chân xuống JFK. Những gian hàng lưu niệm ngập tràn những chiếc cúc kỷ niệm và những mô hình tượng Nữ thần Tự do bằng nhựa rẻ tiền. Khi họ chạy qua sân bay Gulfport, cô thậm chí còn trông thấy những vòi nước cứu hỏa được sơn phết sao cho giống hệt những người lính trong Chiến tranh Cách mạng Mĩ. Với một người đến từ một đất nước thủ cựu như Anh Quốc, tất cả những màn chào mừng 200 năm này có vẻ quá lố.

    ”Bốn tám dollar,” người lái xe nói bằng bằng thứ tiếng Anh nặng đến mức cô chật vật lắm mới hiểu nghĩa.

    Cô đếm số tiền Mĩ mình đã đổi cùng với những đồng bảng Anh khi đáp xuống JFK và đưa cho anh ta gần hết những gì mình có, cùng với một khoản boa hào phóng kèm một nụ cười. Rồi cô xuống xe, mang theo hộp mĩ phẩm của mình.

    ”Francesca Day phải không?” Một phụ nữ trẻ với mái tóc uốn quăn và đôi khuyên tai lúc lắc từ bãi cỏ bên hông nhà bước về phía cô.

    ”Vâng?”

    ”Chào cô. Tôi là Sally Calaverro. Chào mừng cô đến chốn hẻo lánh này. E rằng tôi cần cô đến phòng phục trang ngay bây giờ.”

    Người lái xe đặt chiếc vali Vuitton xuống chân Francesca. Cô đưa mắt nhìn chiếc chân váy cotton in hoa kiểu Ấn Độ nhăn nhúm và chiếc tank top màu nâu cô ta đã chọn mặc một cách thiếu sáng suốt mà không có áo lót. ”Điều đó là không thể, cô Calaverro ạ,” cô trả lời. ”Ngay sau khi gặp ông Byron, tôi sẽ về khách sạn và ngủ một giấc. Giấc ngủ duy nhất tôi có trong hai tư giờ qua là ở trên máy bay, và tôi kiệt sức rồi.”

    Vẻ mặt Sally không thay đổi. ”E rằng tôi sẽ phải giữ chân cô lâu hơn chút nữa, song tôi sẽ cố gắng kết thúc nhanh nhất có thể. Lord Byron đã chuyển sang lịch trình quay tiếp theo, và chúng tôi phải sẵng sàng trang phục cho cô vào sáng mai.”

    ”Nhưng thế thật phi lý. Ngày mai là thứ Bảy. Tôi cần có ít ngày để ổn định. Anh ta khó có thể mong tôi bắt đầu làm việc khi tôi vừa chân ướt chân ráo đến được.”

    Vẻ niềm nở của Sally tan biến. ”Thế mới là show biz, cô gái ạ. Gọi cho quản lý của cô đi.” Cô ta nhìn xuống những chiếc vali Vuitton rồi gọi một người ở sau lưng Francesca. ”Này Davey, đem đồ của cô Day tới chuồng gà nhé?”

    ”Chuồng gà!” Francesca thốt lên, nảy sinh cảnh giác một cách thành thật. ”Tôi không biết tất cả chuyện này là như thế nào, nhưng tôi muốn về khách sạn ngay lập tức.”

    ”À, chúng tôi cũng chẳng biết.” Cô ta nở với Francesca một nụ cười gần như xấc láo. ”Đừng lo, nó không hẳn là một cái chuồng gà. Ngôi nhà nơi tất cả bọn tôi đang trú ngụ ở ngay kế bên khu này. Cách đây mấy năm nó từng là nhà an dưỡng. Những chiếc giường vẫn còn tay quay. Chúng tôi gọi nó là chuồng gà vì trông nó giống như thế. Nếu cô không bận tâm đến mấy con gián, thì nó không đến nỗi tệ.”

    Francesca không cắn câu. Đây là những gì xảy ra, cô nhận ra, khi tranh cãi với đám nhân viên quèn. ”Tôi muốn gặp Mr. Byron ngay bây giờ,” cô tuyên bố.

    ”Lúc này ông ta đang quay phim trong nhà, nhưng ông ta không thích bị phá đám đâu.” Mắt Sally chiếu vào cô một cách thô lỗ , và Francesca có thể cảm thấy cô ta đang đánh giá bộ trang phục lộn xộn và dày cộp một cách bất hợp lý của mình.

    ”Tôi sẽ thử xem,” cô mỉa mai đáp, nhìn chằm chằm người phụ trách phục trang một hồi lâu đầy gay gắt trước khi hất tóc ra sau và bước đi.

    Sally Calaverro nhìn theo cô nàng. Cô ngắm nghía thân hình nhỏ nhắn mảnh dẻ đó, nhớ lại lớp trang điểm hoàn hảo và mái tóc bồng lộng lẫy. Làm thế nào cô ta hất được mái tóc như thế chỉ bằng một cái nhún vai nhỉ? Những phụ nữ đẹp có học một khóa hất tóc hay cái gì đại loại không? Sally kéo một lọn tóc của mình ra, đuôi tóc vừa khô vừa xoăn do bị uốn hỏng. Tất cả giai thẳng trong công ty sẽ bắt đầu cư xử như lũ nhóc mười hai tuổi khi họ trông thấy người phụ nữ đó cho coi, Sally nghĩ. Họ đã quen với những ngôi sao nhỏ đang lên, nhưng người này lại khác, với chất giọng Anh Quốc hết sức lạ tai và cách nhìn thẳng người đối diện nhắc nhở họ rằng bố mẹ họ đã vượt biển sang đây trong khoang hạng bét. Trong thời gian ngồi đồng ở vô số các quán bar dành cho người độc thân, Sally đã chứng kiến những gã đàn ông ngấu nghiến bằng mắt cái giống sang chảnh hợm hĩnh đó.

    ”Chết tiệt,” cô lẩm bẩm, cảm thấy mình như một mụ đàn bà khổng lồ béo ú nhếch nhác nom già đơ so với tuổi hai lăm. Quý cô kiêu kỳ kia hẳn đang ngộp thở trong chiếc áo cashmere hai trăm dollar, nhưng trông cô ta vẫn xinh tươi và rạng rỡ như ảnh quảng cáo trên tạp chí. Có một số phụ nữ, trong con mắt Sally, được đưa xuống trái đất chỉ để cho những người phụ nữ khác căm ghét, và Francesca Day nhất định nằm trong số đó.

    ****

    Dallie có thể cảm thấy những ngày Thứ Hai Chết chóc đang chụp xuống anh, dù hôm nay mới là Thứ Bảy và hôm trước anh vượt qua 18 lỗ với số gậy ngoạn mục là 64 cùng với mấy gã bạn quen ở ngoại ô Tuscaloosa. Thứ Hai Chết chóc là tên anh đặt cho tâm trạng u ám đeo đẳng anh thường xuyên hơn mức anh cho phép, cắn phập hàm răng sắc vào anh và hút cạn nguồn sống, nhìn chung, Thứ Hai Chết chóc đã phá hỏng không ít số gậy sắt dài của anh.

    Anh khom người qua tách cà phê Howard Johnson và nhìn ra bãi đỗ xe qua cửa sổ nhà hàng. Mặt trời vẫn chưa lên cao và ngoài mấy người lái xe tải mặt mũi ngái ngủ ra trong nhà hàng gần như vắng tanh. Anh cố lí giải tâm trạng tồi tệ của mình, mùa giải năm nay không đến nỗi nào. Anh đã thắng một số giải đấu, và anh với ủy viên của PGA Deane Beman đã không nói chuyện quá hai ba lần về chủ đề ưa thích của ngài ủy viên – tư cách đạo đức không phù hợp với một tay golf chuyên nghiệp.

    “Anh dùng gì?” cô phục vụ hỏi khi bước đến bàn anh, trong túi lấp ló chiếc khăn mùi soa màu cam và xanh lam. Cô thuộc kiểu những người phụ nữ béo sạch bong với mái tóc được xịt và trang điểm cẩn thận, kiểu người quan tâm đến bản thân và khiến người khác nghĩ rằng bên dưới vẻ ngoài to béo kia là một gương mặt xinh đẹp.

    “Bít tết và khoai tây rán,” anh nói, đưa cho cô quyển thực đơn. “Hai trứng chiên lòng đào, và một gallon cà phê nữa. (khoảng 3,78 lít ở Mĩ)

    “Quý khách muốn rót vào tách hay tôi nên đổ thẳng nó vào các mạch máu anh?

    Dallie cười khẽ. “Cô cứ mang ra đây đã, và tôi sẽ tính xem nên đổ vào đâu.” Chao, anh yêu những cô phục vụ. Họ là những người phụ nữ tốt nhất trên thế giới. Họ tinh khôn và ngổ ngáo, và ai cũng có một câu chuyện đời.

    Cô phục vụ này nhìn anh tới vài giây trước khi quay đi, đang ngắm gương mặt xinh trai của mình đây mà, anh nghĩ. Chuyện này như cơm bữa, và anh thường không để tâm trừ phi họ đưa thêm vào ánh mắt vẻ đói khát nói với anh rằng họ muốn ở anh một thứ mà anh không thể cho được.

    Thứ Hai Chết chóc quay lại với toàn bộ sức mạnh. Mới sáng ra, ngay sau khi anh bò ra khỏi giường, đang đứng dưới vòi sen cố gắng mở cặp mắt đỏ ngầu ra thì Bear đã xộc tới thì thào vào tai anh.

    Sắp đến Halloween rồi, Beaudine. Năm nay mày định giấu mình đi đâu?

    Dallie đã mở vòi nước lạnh mức cao nhất, nhưng Bear không buông tha.

    Một thằng vứt đi như mày nghĩ gì mà lại sống trên cùng hành tinh với tao hả?

    Dallie xua đoạn hồi ức đó đi khi đồ ăn đến cùng với Skeet, người vừa ngồi vào bàn. Dallie đẩy đĩa điểm tâm qua bàn và nhìn đi nơi khác khi Skeet cầm dĩa lên cắm vào miếng bít tết hồng hồng.

    “Hôm nay cậu thấy trong người thế nào, Dallie?”

    “Không gì có thể phàn nàn.”

    “Tối qua cậu uống khá nặng đô đấy.”

    Dallie nhún vai. “Tôi đã chạy bộ vài dặm vào sáng nay, hít đất vài cái, xong khỏe liền.”

    Skeet nhìn lên, dao và dĩa cầm lưng chừng trên tay. “Uh-huh.”

    “Thế nghĩa là sao?”

    “Chả là sao cả, Dallie, trừ một điều là tôi nghĩ Thứ Hai Chết chóc lại đang tìm đến cậu.”

    Anh nhấp một ngụm cà phê từ tách. “Tâm trạng đi xuống vào cuối mùa giải là chuyện tự nhiên thôi – toàn ở nhà nghỉ với đi trên đường.”

    “Nhất là khi cậu chẳng với được tay đến cái cúp nào.”

    “Một giải đấu là một giải đấu.”

    “Vớ vẩn.” Skeet quay lại với miếng bít tết. Vài phút im lặng trôi qua giữa hai người.

    Cuối cùng Dallie lên tiếng. “Tôi tự hỏi Nicklaus có bao giờ gặp Thứ Hai Chết chóc không?”

    Skeet quăng dĩa xuống. “Đừng có bắt đầu nghĩ đến Nicklau nữa đấy! Mỗi lần nghĩ đến hắn, cậu lại chơi dở như hạch.”

    Dallie đặt tách cà phê xuống và cầm tờ hóa đơn lên. “Đưa tôi hai viên uper được không?”

    “Mẹ kiếp, Dallie, tôi tưởng cậu sẽ không dùng thứ đó nữa.”

    “Anh có muốn tôi thắng ngày hôm nay hay là không?”

    ”Tất nhiên tôi muốn cậu có thể chiến thắng, nhưng tôi không thích cách cậu làm được điều đó dạo gần đây.”

    ”Ông thôi đi và đưa thuốc cho tôi được không?”

    Skeet lắc đầu và làm theo lời anh, lấy trong túi ra những viên con nhộng màu đen và đẩy nó qua bàn. Dallie chộp lấy. Khi nuốt chúng, trong anh nổi lên một sự mâu thuẫn có phần khôi hài giữa mối quan tâm tới thân hình vận động viên của anh và việc anh ngược đãi nó bằng những đêm thức khuya, bia rượu, cùng những viên thuốc mua chui anh bắt Skeet mang theo trong túi. Tuy nhiên, chuyện đó không thực sự quan trọng. Dallie nhìn đăm đăm số tiền anh vừa vứt xuống bàn. Khi bạn sinh ra là một người nhà Beaudine, số phận bạn đã được ấn định là không thể chết già.

    ***

    Chiếc váy này gớm guốc quá!

    Francesca nhìn hình ảnh mình trong chiếc gương dài đặt ở cuối toa xe mooc được dùng làm phòng phục trang tạm thời. Mắt cô to hẳn lên bởi kính áp tròng màu hổ phách và bộ lông mi dày, tóc cô được rẽ ngôi ở giữa, chải mượt hai bên thái dương, và thu lại thành những lọn quăn rủ qua tai. Kiểu tóc cổ xưa này vừa lôi cuốn vừa đẹp mắt, nên cô không có ý kiến gì với người đàn ông vừa hoàn thành nó cho cô, nhưng chiếc váy lại là chuyện khác. Với con mắt sành thời trang của cô, chất vải taffeta hồng đơn điệu với những lớp viền đăng ten trắng xếp nếp bao quanh váy trông như chiếc bánh kem dâu ngọt lừ. Phần thân váy bó chặt đến mức cô khó khăn lắm mới thở được, và khung áo lót đẩy bộ ngực cô lên cao đến độ chỉ còn mỗi hai núm vú cô là chưa bị bật ra ngoài cổ áo. Mục đích của chiếc váy là tạo ra một vẻ ngọt ngào lẫn dung tục, chắc chắn không giống những trang phục Marisa Berenson đã mặc trong phim Barry Lyndon.

    “Đây hoàn toàn không phải điều tôi đã hình dung, và tôi không thể mặc nó được,” cô quả quyết. “Cô phải làm điều gì đó.”

    Sally Calaverra cắn đứt một đoạn chỉ hồng bằng nhiều sức lực hơn mức cần thiết. “Đây là trang phục được thiết kế cho vai đó.”

    Francesca tự trách mình đã không chú ý hơn đến chiếc váy vào hôm qua khi Sally thử nó lên người cô. Nhưng cô bị chi phối bởi sự mệt mỏi và việc Lloyd Byron tỏ ra quá ngoan cố một cách vô lý khi cô phàn nàn với anh ta về điều kiện ăn ở tệ hại người ta thu xếp cho cô nên gần như không nhìn đến bộ trang phục. Giờ thì chưa đầy một tiếng nữa là cô phải quay cảnh đầu tiên trong ba phân cảnh của mình. Chí ít cánh đàn ông trong hãng phim cũng nhiệt tình, họ tìm một căn phòng tiện nghi hơn cho cô với phòng tắm riêng, đem cho cô một khay đồ ăn với rượu gin pha quinnie mà cô mong mỏi. Dù cho “chuồng gà,” với những ô cửa sổ bé tẹo và bàn ghế bằng gỗ dán màu vàng, là cả một sự kinh tởm, cô vẫn ngủ như chết và thực sự chỉ có một chút đề phòng khi thức giấc sáng hôm đó – ít ra là cho tới khi nhìn đến chiếc váy lần thứ hai.

    Sau khi xoay người để ngắm phía sau chiếc váy, cô quyết định kêu gọi sự công tâm của Sally. “Chắc chắn cô có thứ khác. Tôi tuyệt đối không bao giờ mặc màu hồng.”

    “Đây là trang phục Lord Byron đã duyệt, và tôi chẳng thể làm gì được.” Sally cài những chiếc móc sau lưng váy, gắn hai phần vải vào nhau một cách thô bạo hơn mức cần thiết.

    Cú thít chặt khiến Francesca hít vào một hơi. “Sao các cô cứ gọi anh ta bằng cái tên kỳ cục ấy – Lord Byron?”

    “Nếu cô buộc phải hỏi, hẳn là cô không biết rõ anh ta.”

    Francesca không chịu để người phụ trách phục trang tiếp tục làm nhụt chí cô. Xét cho cùng, cô nàng Sally đáng thương phải làm việc cả ngày trong cái toa xe đáng sợ này. Chuyện đó sẽ khiến bất cứ ai cũng muốn phát khùng. Francesca tự nhắc bản thân rằng cô đã được giao một vai trong bộ phim có thanh thế. Vả lại, ngoại hình của cô đủ hấp dẫn để chấp mọi loại trang phục, kể cả bộ này. Tuy nhiên, cô nhất thiết phải làm điều gì đó về vụ phòng khách sạn. Cô không định trải qua một đêm nữa ở cái nơi không có phục vụ phòng.

    Đôi giày cao gót kiểu Pháp của cô nghiến rào rạo trên sỏi khi cô băng qua lối xe chạy hướng về tòa dinh thự, chiếc váy phồng xòe lúc lắc từ bên này qua bên kia. Lần này cô sẽ không cố thương lượng với đám nhân viên quèn như sai lầm hôm qua nữa. Lần này cô sẽ đến gặp thẳng nhà sản xuất với một danh sách kiến nghị. Hôm qua Lloyd Byron bảo cô là anh ta muốn dàn diễn viên và nhân viên ở chung một chỗ để phát triển tinh thần đồng đội. Nhưng cô ngờ rằng do anh ta keo kiệt mà thôi. Theo như cô nghĩ, xuất hiện trong một bộ phim danh tiếng không bao gồm việc phải sống như một kẻ mọi rợ.

    Sau một hồi hỏi thăm, cuối cùng cô cũng tìm thấy Lew Steiner, nhà sản xuất của Delta Blood. Ông ta đang đứng trong hành lang dinh thự Wentworth, ngay bên ngoài phòng khách nơi cảnh quay của cô đang được chuẩn bị. Vẻ ngoài nhếch nhác của ông ta làm cô kinh ngạc. Béo lùn và râu ria lởm chởm, với một chữ thập chìa khóa bằng vàng đung đưa bên trong cổ áo sơ mi Hawai mở phanh, nom ông ta như thuộc về một góc phố khu Soho chuyên bán đồng hồ đeo tay ăn cắp. Cô bước qua đám dây điện chằng chịt trên thảm hành lang và tự giới thiệu. Khi ông ta ngẩng lên khỏi cặp bìa hồ sơ, cô liền bắt đầu bài than phiền tràng giang đại hải của mình trong lúc vẫn cố gắng giữ cho giọng nói được vui tươi.

    “Nên ông thấy đấy, ông Steiner, tôi không thể ở qua một đêm nữa trong cái nơi đáng sợ ấy; tôi chắc chắn là ông hiểu. Tôi cần một phòng khách sạn trước khi trời tối.” Cô dùng ánh mắt quyến rũ nhìn ông ta. “Thật khó mà ngủ được khi người ta cứ lo bị lũ gián tấn công.”

    Nhà sản xuất dành ra mấy giây để nhìn chòng chòng bộ ngực được tôn cao của cô, rồi kéo một chiếc ghế gấp dựa tường ra và ngồi xuống, dạng hai chân ra rộng đến nỗi lớp vải kaki căng ra trên đùi. “Lord Byron bảo tôi cô là một người đẹp thực sự, nhưng tôi lại không tin. Xem tôi thông minh chưa.” Ông ta nhếch mép tạo ra một tiếng chép miệng không hài lòng. “Chỉ những diễn viên chính mới được ở khách sạn, cô bé ạ, và đó là vì nó được ghi sẵn trong hợp đồng của họ. Đám nhà quê còn lại phải chấp nhận thiếu thốn thôi.”

    “Đám nhà quê là từ đầy đủ ý nghĩa nhất, phải không?” cô độp lại, tất cả nỗ lực muốn hòa giải tan biến. Dân làm phim tất cả đều bần tiện như thế này sao? Một cảm giác căm giận Miranda Gwynwyck dâng trào trong cô. Phải chăng Miranda đã biết trước tình trạng không dễ chịu ở đây?

    “Cô không muốn công việc này?” Lew Steiner hỏi kèm theo cái nhún vai, “tôi có cả tá các cô nàng bimbo có thể thay thế cô trong chiều nay. Quý ngài Byron là người thuê cô – không phải tôi.”

    Bimbo! Francesca có thể cảm thấy một màn sương đỏ đang dồn tụ sau mi mắt cô, nhưng cô vừa mở miệng định bộc phát, thì một bàn tay đặt lên vai cô.

    “Francesca!” Lloyd Byron kêu to, xoay cô về phía mình và hôn lên má cô, làm cô phân tán khỏi cơn thịnh nộ. “Trông cô thật mê hồn! Cô ấy thật tuyệt phải không, Lew? Đôi mắt mèo kia! Cái miệng không thể tin nổi kia! Tôi chẳng đã nói với ông là cô ấy hợp vai Lucinda đến mức hoàn hảo mà, số tiền để đưa cô ấy về đây xứng đáng đến từng xu đó.”

    Francesca toan nhắc nhở anh ta rằng cô mới là người đã trả những đồng xu đó và cô muốn lấy lại toàn bộ, nhưng cô chưa kịp nói lời nào, Lloyd Byron đã tiếp tục. “Chiếc váy thật sáng chói. Ngây thơ song lại gợi cảm. Tôi thích kiểu tóc của cô. Giới thiệu với tất cả mọi người, đây là Francesca Day.”

    Francesca gật đầu chào trước lời giới thiệu, rồi Byron kéo cô sang một bên, rút chiếc khăn tay vàng nhạt từ túi quần short màu vanilla ra thấm trán. “Chúng ta sẽ quay cảnh của cô trong hôm nay và ngày mai, máy quay của tôi đang trong trạng thái mê ly. Cô không có câu thoại nào cả, nên không có gì phải lo lắng.”

    “Tôi khó mà lo lắng được,” cô tuyên bố. Trời ạ, cô từng đi chơi với Hoàng tử xứ Wales, nghĩ sao mà cho rằng một chuyện như thế này sẽ làm cô lo lắng? “Ông Lloyd, chiếc váy này –“

    “Tuyệt diệu đúng không?” Anh ta dẫn cô đến phòng khách, đưa cô vào giữa hai chiếc máy quay và một rừng đèn đặt trước cảnh quay, được bố trí những chiếc ghế kiểu Hepplewhite, một chiếc trường kỷ bọc gấm damask, và hoa tươi cắm trong những bình bạc cổ. “Cô sẽ đứng trước những khung cửa sổ kia trong cảnh đầu tiên. Tôi sẽ chiếu đèn rọi sau lưng cô, tất cả những gì cô cần làm là đi về phía trước khi nào tôi bảo và để gương mặt kiều diễm của cô từ từ tiến vào tâm điểm.”

    Việc anh ta nhắc đến gương mặt kiều diễm của cô xoa dịu phần nào nỗi oán giận cách đối xử người ta dành cho mình, và cô nhìn anh ta với ánh mắt thiện cảm hơn.

    “Hãy nghĩ đến nguồn sinh lực,” anh ta hối thúc. “Cô đã thấy sự thể hiện của Fellini với những vai diễn câm lặng rồi đấy. Lucinda không nói một câu nào, nhưng sự hiện diện của cô ấy phải vượt ra khỏi màn hình và túm lấy cổ họng khán giả. Cô ấy là một biểu tượng không ai có thể đạt tới. Đầy sức sống, rực rỡ, nhiệm màu!” Anh ta mím môi. “Tôi hy vọng bộ phim này sẽ không quá huyền bí đến mức làm những khán giả ngu độn bỏ qua tình tiết ấy.”

    Trong một giờ đồng hồ tiếp theo Francesca đứng đọc qua phân cảnh và sau đó diễn thử trong lúc những công đoạn điều chỉnh cuối cùng được thực hiện. Cô được giới thiệu với Fletcher Hall, một nam diễn viên dữ tướng, có phần hung ác mặc bộ vét đuôi tôm đảm nhận vai chính. Dù luôn cập nhật tin tức về các ngôi sao điện ảnh, nhưng cô chưa bao giờ nghe nói tới anh chàng này, và một lần nữa cô lại bị những nỗi lo sợ vây bủa. Tại sao cô chẳng nhận ra tên tuổi tất cả những người ở đây? Có lẽ cô đã phạm sai lầm khi không tìm hiểu kỹ hơn về bộ phim trước khi nhảy bừa vào. Lẽ ra cô nên yêu cầu được xem kịch bản…nhưng hôm qua mình đã đọc kỹ hợp đồng rồi, cô tự nhủ, và mọi thứ có vẻ ổn.

    Những lo sợ của cô dần vơi đi khi cô quay cảnh đầu tiên một cách dễ dàng, đứng trước cửa sổ và làm theo những chỉ dẫn của Lloyd. “Tuyệt đẹp!” anh ta không ngừng xuýt xoa. “Lộng lẫy! Cô đúng là cô năng khiếu, Francesca.” Những lời khen ngợi làm cô nguôi dịu, và bất chấp sự khó chịu ngày càng tăng do cái váy bó chặt, cô đã có thể thư giãn giữa những cảnh quay và bông đùa với vài thành viên nam của đoàn phim đã đối xử rất chu đáo với cô tối hôm trước.

    Lloyd quay cảnh cô đi qua căn phòng, nhún gối chào Fletcher Hall, và đáp lại lời anh ta bằng ánh nhìn đăm đăm buồn bã vào gương mặt anh ta. Đến giờ ăn trưa, khi cô thoát khỏi chiếc váy một giờ đồng hồ, cô phát hiện ra tâm trạng mình đang vui vẻ thực sự. Sau giờ nghỉ, Lloyd đặt cô vào khắp mọi chỗ trong gian phòng khách để quay cận cảnh ở mọi góc độ có thể nghĩ ra. “Cô đẹp lắm, cưng à!” anh ta nói lớn. “Chúa ơi, khuôn mặt trái tim và đôi mắt tuyệt vời kia thật hoàn hảo. Xõa tóc ra! Đẹp lắm! Đẹp lắm!” Khi anh ta hô dừng, Francesca vươn vai, như một con mèo vừa gãi lưng xong.

    Đến cuối chiều tâm trạng phơi phới của cô đã không chống cự nổi cái nóng ngột ngạt của thời tiết và những bóng đèn hồ quang carbon. Những chiếc quạt được đặt rải rác xung quanh không làm không khí mát hơn là bao, nhất là khi phải tắt chúng đi mỗi lần camera chạy. Cái áo corset nặng nề và những lớp váy lót rườm rà bên trong chiếc váy dài làm hấp hơi da cô cho đến khi cô tưởng mình sẽ ngất xỉu.

    “Tôi không thể tiếp tục được nữa,” cuối cùng cô tuyên bố, trong lúc nhân viên trang điểm thấm những giọt mồ hôi lấp lánh đã hình thành gần đường chân tóc cô được chải theo một kiểu thời trang phát ớn. “Tôi sắp chết vì nóng rồi, Lloyd.”

    “Một cảnh nữa thôi. Chỉ một cảnh nữa thôi. Hãy nhìn ánh đèn chếch qua cửa sổ kìa. Làn da của cô nhất định sẽ bừng sáng. Xin cô đấy, Francesca, cô chính là một công chúa. Nàng công chúa tuyệt đẹp, không tì vết của tôi!”

    Cứ thế này thì làm sao cô từ chối nổi?

    Lloyd bảo cô đi tới một điểm được đánh dấu trên sàn cách lò sưởi không xa. Đoạn đầu phim, cô suy ra, tập trung vào sự xuất hiện của một nữ sinh người Anh tại một đồn điền ở Mississippi nơi cô gái sẽ trở thành cô dâu của chủ nhân ẩn dật của đồn điền, một người đàn ông mà Francesca đoán rồi sẽ giống nhân vật Rochester trong Jane Eyre, dù rằng cô thấy Fletcher Hall nghe chừng hơi quá thớ lợ để vào vai nam chính lãng mạn. Không may cho cô nữ sinh, nhưng may cho Francesca, là Lucinda sẽ chết một cách thê thảm ngay ngày hôm đó. Francesca đã có thể tưởng tượng ra cảnh phim ấn tượng đó, cảnh mà cô sẽ diễn bằng toàn bộ cảm xúc bị kìm nén. Tuy nhiên cô phải tìm hiểu xem Lucinda và người chủ đồn điền có liên quan như thế nào với phần chính của câu chuyện, được đặt trong thời hiện tại và có vẻ sẽ huy động một số lượng lớn diễn viên nữ, nhưng vì cô sẽ không xuất hiện trong phần phim đó, nên nó cũng chẳng quan trọng.

    Lloyd lau trán bằng một chiếc khăn tay sạch tinh và tiến tới chỗ Fletcher Hall. “Tôi muốn cậu bước đến sau lưng Francesca, đặt hai tay lên vai cô ấy, sau đó vén một bên tóc cô ấy lên để hôn vào cổ cô ấy. Francesca, hãy nhớ là cuộc sống của cô được bảo bọc rất kỹ. Sự tiếp xúc của anh ta sẽ làm cô bị sốc, nhưng nó cũng làm cô phấn khích. Cô hiểu chứ?”

    Cô cảm thấy mồ hôi đã chảy thành dòng giữa hai bầu ngực. “Dĩ nhiên là tôi hiểu,” cô cáu kỉnh đáp. Một nhân viên trang điểm bước lại dặm phấn lên cổ cô. Cô bảo anh ta giơ gương cho cô xem kết quả.

    “Nhớ này, Fletcher,” Lloyd tiếp tục, “tôi không muốn cậu hôn thật – chỉ là sắp sửa hôn thôi; được rồi, vào việc nào.”

    Francesca đứng vào vị trí, chỉ để chịu đựng thêm một sự trì hoãn vô cùng tận cho công tác chỉnh ánh sáng. Sau đó có người phát hiện ra một vết ẩm trên lưng áo vét của Fletcher chỗ anh ta đổ mồ hôi, sau đó Sally phải đem đến một chiếc áo thay thế từ toa xe phục trang.

    Francesca dậm chân. “Các người còn muốn tôi đứng đây bao lâu nữa? Tôi sẽ không chịu đâu! Tôi cho ông đúng năm phút, Lloyd, rồi tôi đi đấy!”

    Anh ta ném cho cô ánh mắt lạnh lùng. “Này Francesca, chúng ta phải tỏ ra chuyên nghiệp chứ. Tất cả những người khác ở đây đều mệt mỏi cả.”

    “Tất cả những người khác ở đây đâu có mặc bộ trang phục nặng mười pound. Tôi muốn xem họ chuyên nghiệp ra sao nếu họ bị nghẹt thở sắp chết.”

    “Chỉ vài phút nữa thôi,” anh ta đấu dịu, đoạn siết hai tay thành nắm đấm đưa lên ngực với vẻ thống thiết. “Hãy sử dụng sự căng thẳng mà cô đang có, Francesca. Đưa sự căng thẳng ấy vào cảnh của cô. Truyền sự căng thẳng ấy vào Lucinda – một cô gái trẻ được gửi tới một miền đất mới để kết hôn với một người đàn ông xa lạ. Tất cả im lặng đi. Yên lặng, yên lặng, yên lặng. Để cho Francesca cảm nhận sự căng thẳng của cô ấy.”

    Anh chàng giữ cần âm thanh, bị bộ ngực cao vút của Francesca thu hút trong phần lớn ngày hôm nay, ghé lại gần người quay phim. “Tớ muốn cảm nhận sự căng thẳng của cô ấy.”

    “Xếp hàng đi đã, người anh em.”

    Cuối cùng chiếc áo mới cũng tới và cảnh quay được tiến hành. “Đừng cử động!” Lloyd nói lớn khi tất cả đã sẵn sàng. “Tất cả những gì chúng ta cần là một cận cảnh Fletcher hôn lên cổ Francesca và chúng ta sẽ kết thúc ngày hôm nay. Nó chỉ mất một giây thôi. Mọi người sẵn sàng chưa?”

    Francesca rên lên, nhưng vẫn đứng nguyên tại chỗ. Cô đã chịu đựng lâu chừng này – thêm vài phút nữa có là gì. Fletcher đặt hai tay lên vai cô và vén tóc cô lên. Cô ghét việc anh ta chạm vào cô. Anh ta rất tầm thường, hoàn toàn không phải kiểu đàn ông cô thích.

    “Nghiêng đầu một chút nữa, Francesca,” Lloyd hướng dẫn. “Cậu makeup đâu rồi?”

    “Tôi đây, Lloyd.”

    “Đến đây.”

    Người makeup mặt hoang mang. “Ông cần gì?”

    “Tôi cần gì à?” Lloyd đưa cả hai tay ra trong điệu bộ giận dữ.

    “Được rôôồi.” Anh chàng nhăn nhó xin lỗi, rồi gọi to Sally đang đứng ngay sau camera. “Ê, Calaverro, lấy hộ mấy cái răng nanh của Fletcher trong hộp của tôi ném qua đây.”

    Răng nanh của Fletcher?

    Francesca cảm thấy đầu óc quay cuồng.
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 10 others like this.
  8. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 7

    “Răng nanh!” Francesca thét lên. “Tại sao Fletcher lại mang răng nanh?”

    Sally đập mấy cái răng gớm guốc vào tay nhân viên trang điểm. “Vì đây là phim về ma cà rồng. Cô mong anh ta sẽ mang cái gì – quần lọt khe à?”

    Francesca cảm tưởng như cô vừa rơi vào một cơn ác mộng khủng khiếp. Cô vùng ra khỏi Fletcher, quay sang Byron. “Ông nói dối tôi!” cô quát lớn. “Tại sao ông không bảo tôi đây là một bộ phim ma cà rồng? Thứ mạt hạng nhất – lạy Chúa tôi, tôi sẽ kiện ông vì chuyện này; tôi sẽ kiện ông tới phút cuối cùng của cuộc sống quái gở của ông. Nếu ông tưởng rằng tôi sẽ để cho tên mình xuất hiện trên – trên –“ cô không thể lặp lại cái từ đó, cô tuyệt đối không thể! Hình ảnh Marisa Berenson chớp lên trong tâm trí cô, cảnh Marisa nghe được những gì xảy ra với Francesca Day đáng thương và cười cho đến khi nước mắt chảy giàn giụa trên đôi má trắng như cẩm thạch.

    Siết chặt nắm tay, Francesca hét, “ông cho tôi biết ngay bộ phim gớm ghiếc này nói về cái gì?”

    Lloyd khụt khịt, rõ ràng bị xúc phạm. “Về sự sống và cái chết, sự chuyển đổi của máu, cốt lõi của cuộc sống chuyền từ người này sang người kia. Những hiện tượng siêu hình mà hình như cô chẳng biết mảy may.” Anh ta hùng hổ bỏ đi trong cơn giận dỗi.

    Sally bước tới và khoanh hai tay lại, rõ ràng đang đắc ý. “Bộ phim nói về một nhóm nữ chiêu đãi viên thuê một dinh thự được cho là bị ma ám. Lần lượt từng người bọn họ bị hút máu bởi chủ nhân trước đây của tòa dinh thự – là anh Fletcher đây, người đã héo mòn cả một thế kỷ trước vì tình yêu anh ta dành cho Lucinda. Còn một mạch phim phụ với một ma cà rồng nữ và một vũ công thoát y nam nữa cơ, nhưng nó ở gần cuối phim.”

    Francesca không đợi để nghe thêm nữa. Bắn một ánh nhìn tóe lửa vào tất cả bọn họ, cô quay ngoắt rời khỏi đó. Cái váy phồng đung đưa từ bên này sang bên kia và các mạch máu cô sôi lên khi cô chạy ra khỏi tòa nhà và hướng về phía dãy toa xe tìm Lew Steiner. Bọn họ đã biến cô thành con ngốc! Cô đã phải bán cả quần áo và đi nửa vòng trái đất để đóng một vai phụ của phụ trong một bộ phim ma cà rồng!

    Tức giận đến run người, cô tìm thấy Steiner đang ngồi ở một chiếc bàn sắt dưới bóng cây gần xe tải đồ ăn. Cái váy phồng của cô hất ngược ra sau khi cô dừng phắt lại, va vào chân bàn. “Tôi nhận công việc này vì tôi nghe nói Byron là một đạo diễn tài năng có tiếng!” cô nói, xỉa tay chỉ thẳng về phía tòa nhà.

    Nhà sản xuất ngẩng lên khỏi chiếc bánh lúa mạch kẹp giăm bông đang ăn dở. “Ai bảo cô thế?”

    Hình ảnh gương mặt Miranda Gwynwyck, tự mãn và khoái trá, bồng bềnh lướt qua trước mắt cô, và mọi thứ trở nên rõ như ban ngày. Miranda, người được cho là một nhà đấu tranh vì nữ quyền, đã làm hại một người phụ nữ khác trong một nỗ lực mù quáng để bảo vệ em trai mình.

    “Ông ta bảo ông ta đang làm một bản tuyên ngôn tinh thần!” cô thốt lên. “Cái này thì có gì liên quan đến tinh thần – hay sức sống hay Fellini chứ, vì Chúa!”

    Steiner toét miệng cười. “Cô nghĩ vì sao bọn tôi gọi hắn là Lord Byron hả? Hắn ta làm cho thứ nhảm nhí nhất cũng thành như thơ vậy. Tất nhiên khi hắn làm xong thì nó cũng vẫn nhảm nhí, nhưng chúng tôi không cho hắn biết điều đó. Hắn lấy thù lao rẻ và làm việc lại nhanh.”

    Francesca tìm kiếm một sự hiểu lầm, một tia hy vọng nhỏ nhoi mà tâm hồn lạc quan của cô đòi hỏi. “Thế còn Cành cọ Vàng?” cô ngắc ngứ hỏi.

    “Cái gì Vàng?”

    “Cành cọ.” Cô cảm thấy mình như một con ngốc. “Liên hoan phim Cannes.”

    Lew Steiner nhìn cô chằm chằm một hồi trước khi phá ra cười sằng sặc đến văng cả một miếng giăm bông ra. “Cô em ơi, cái ‘can’ duy nhất mà Lord Byron có dính dáng đến là loại có giật nước. (can ở đây mang nghĩa nhà vệ sinh). Bộ phim mới nhất anh ta làm cho tôi là Cuộc tàn sát nữ sinh, và trước đấy là một phim nhỏ mang tên Nhà giam nữ Arizona. Nó khá là thành công ở bãi chiếu phim ngoài trời.”

    Khó khăn lắm Francesca mới thốt ra lời. “Và ông ta thực sự cho rằng tôi sẽ xuất hiện trong một bộ phim về ma cà rồng?”

    “Cô đã ở đây đó thôi?”

    Cô lập tức tĩnh trí lại. “Không lâu đâu! Tôi sẽ quay về cùng với những chiếc va li của tôi trong đúng mười phút nữa, và tôi mong ông hoàn lại cho tôi các chi phí đồng thời thuê xe đưa tôi ra sân bay. Và nếu ông sử dụng chỉ một cảnh phim ông quay hôm nay, tôi sẽ kiện ông cho tới chết.”

    “Cô đã ký vào hợp đồng, nên cô sẽ không có cái may mắn đó đâu.”

    “Tôi ký do tôi bị lừa.”

    “Nói nhảm. Chẳng ai lừa cô cả. Và cô có thể quên tiền đi cho đến khi cô hoàn thành các cảnh quay.”

    “Tôi yêu cầu được trả những gì các người nợ tôi!” Cô cảm thấy mình như một mụ hàng cá chua ngoa đang cãi nhau ở góc đường. “Ông phải trả tôi tiền đi lại. Chúng ta đã thỏa thuận rồi.”

    “Cô sẽ không nhận được một cắc cho đến khi cô quay xong cảnh cuối vào ngày mai.” Ông ta quét mắt nhìn cô một lượt với vẻ không hài lòng. “Đó là cảnh mà Lloyd muốn cô khỏa thân. Anh ta đặt tên nó là bẻ hoa ngắt nhụy.”

    “Ngày ông ta thấy tôi khỏa thân sẽ là ngày ông ta đoạt giải Cành cọ Vàng!” Cô quay gót, vừa dợm hầm hầm bước đi thì một trong những đường viền ren hồng đáng ghét trên chiếc váy mắc vào góc bàn sắt. Cô giật ra, làm nó rách toạc.

    Steiner nhảy dựng khỏi bàn. “Ê, cẩn thận với bộ trang phục! Là tiền của tôi cả đấy!”

    Cô chụp lọ mù tạt trên bàn và bóp cho toàn bộ lượng mù tạt chảy xuống mặt trước chiếc váy. “Kinh khủng chưa,” cô chế giễu. “Xem ra cái váy này cần được giặt rồi.”

    “Con khốn!” ông ta thét với theo khi cô bỏ đi. “Cô sẽ không bao giờ kiếm được việc nữa! Tôi sẽ khiến cho không một ai thuê cô dù là việc dọn rác.”

    “Tuyệt!” cô đáp trả. “Vì số rác rưởi tôi có đã quá sức chịu đựng rồi.”

    Túm lấy các lớp váy bằng hai tay và nhấc lên tận đầu gối, cô đi cắt ngang bãi cỏ, hướng về phía chuồng gà. Chưa bao giờ, cuộc đời cô chưa bao giờ bị đối xử đê tiện đến thế. Cô sẽ bắt Miranda Gwynwyck phải trả giá cho nỗi nhục này nếu đó là điều cuối cùng cô làm được. Cô nhất định sẽ lấy Nicholas Gwynwyck ngay khi về đến nhà.

    Khi về đến phòng, cô đã tái nhợt đi vì tức giận, và cảnh tượng cái giường chưa dọn càng đổ thêm dầu vào lửa. Chụp lấy một cây đèn xanh xấu xí trên bàn trang điểm, cô ném nó qua phòng, chiếc đèn đập vào tường vỡ tan. Đập phá cũng không có tác dụng. Cô vẫn cảm thấy như có kẻ nào đó đã thoi một cú vào bụng mình. Cô lôi va li lên giường, nhét vào mấy bộ quần áo cô đã dỡ ra tối hôm qua, đóng sập nắp va li, và ngồi lên trên nó. Đến khi đóng được hết các chốt, những lọn tóc chải chuốt công phu của cô đã tuột ra và ngực cô đã lấm tấm mồ hôi. Rồi cô nhớ ra là mình vẫn đang mặc bộ váy hồng gớm guốc.

    Cô suýt bật khóc vì điên tiết khi lại phải mở va li ra. Tất cả chuyện này là lỗi của Nicky! Khi nào về London, cô sẽ bắt anh ta đưa cô đến Costa del Sol, và cô sẽ nằm dài trên bãi biển cả ngày và không làm gì khác ngoài nghĩ ra các cách hành hạ anh ta! Với tay ra sau lưng, cô bắt đầu vật lộn với những chiếc móc áo, nhưng chúng được bố trí thành hàng đôi, và lớp vải bó sát đến mức cô không tài nào bóp được một cái móc để tháo ra. Cô ra sức vặn xoắn, buột ra một tiếng chửi thề cực kỳ thô lỗ, nhưng những cái móc không nhúc nhích. Đúng lúc cô chấp nhận đầu hàng để tìm người giúp mình, cô lại nghĩ đến cái vẻ trên bộ mặt nung núc, tự mãn của Lew Steiner khi cô chắt mù tạt ra váy. Cô suýt cười phá lên. Để xem bộ mặt đó trông ra sao khi lão ta thấy bộ váy quý báu của mình biến mất ngay trước mặt, cô nghĩ với một niềm hân hoan ác ý dâng trào.

    Không có một ai ở quanh đó để giúp cô, nên cô phải tự mình tha cái va li. Một tay kéo chiếc túi Vuitton còn tay kia xách hộp mĩ phẩm, cô chật vật đi xuôi con đường nhỏ dẫn ra bãi để xe, chỉ để phát hiện ra khi đã đến nơi rằng tuyệt nhiên sẽ chẳng có ai lái xe đưa cô ra sân bay Gulfport cả.

    “Xin lỗi, cô Day, nhưng họ bảo chúng tôi là họ cần tất cả xe hơi,” một người trong nhóm ấp úng, không dám nhìn thẳng mắt cô.

    Cô không tin gã ta dù chỉ một giây. Đây là trò của Lew Steiner, ngón đòn nhỏ nhen cuối cùng lão dành cho cô!

    Một người lái xe khác giúp ích hơn. “Có một trạm xăng không xa dọc đường này.” Y quay đầu chỉ. “Ở đó cô có thể gọi điện thoại bảo người đến đón.”

    Nghĩ tới việc đi hết lối xe chạy đã đủ nản rồi, nữa là phải cuốc bộ từ đây đến trạm xăng. Vừa lúc cô nhận thấy mình phải nuốt lòng kiêu hãnh xuống và quay lại chuồng gà để thay bộ váy ra, thì Lew Steiner bước ra khỏi một trong những toa xe thùng và ném cho cô một nụ cười khinh khỉnh kinh tởm. Cô liền quyết định thà chết chứ không lùi một bước. Trừng mắt nhìn lại lão ta, cô nhấc va li lên và bắt đầu băng qua bãi cỏ tới lối xe chạy.

    “Ê! Dừng lại đó!” Steiner kêu lên, hổn hển chạy đến cạnh cô. “Cô không được tiến một bước nào cho đến khi tôi lấy lại bộ váy.”

    Cô quay lại. “Thử đụng vào tôi xem, tôi sẽ tố cáo ông tội hành hung.”

    “Tôi sẽ tố cáo cô tội ăn cắp! Cái váy đó là của tôi!”

    “Và tôi dám chắc nom ông rất quyến rũ trong cái váy đó.” Cô cố ý vung hộp mĩ phẩm đập vào đầu gối lão ta khi quay người bước đi. Lão ta kêu toáng lên vì đau, và cô mỉm cười một mình, ước gì mình đã đánh mạnh hơn.

    Đó sẽ là khoảnh khắc vui vẻ cuối cùng của cô trong một thời gian dài sắp tới.

    ***

    “Cậu đi qua chỗ rẽ rồi,” Skeet đập vào vai Dallie từ băng sau chiếc Buick Riviera. “Tôi đã bảo cậu là đường chín tám. Chín tám tới năm lăm, năm lăm tới mười hai, sau đó đặt cruise control (hệ thống điều khiển hành trình) thẳng đến Baton Rouge.”

    “Bảo tôi từ một tiếng trước sau đó lăn ra ngủ thì chẳng ích gì,” Dallie làu bàu. Anh đội một chiếc mũ lưỡi trai mới, màu lam sẫm với lá cờ Mĩ đằng trước, nhưng nó không chống chọi được cái nắng xiên giữa chiều, nên anh nhấc cặp kính râm ở bảng đồng hồ đeo lên mắt. Dọc tuyến đường hai làn là hàng thông scrub pine trải dài.

    Suốt mấy dặm anh không trông thấy gì ngoài vài chiếc xe cũ kỹ rỉ sét, và dạ dày anh bắt đầu sôi réo. “Lắm lúc mày thật vô dụng,” anh lẩm bẩm.

    “Cậu còn miếng Juicy Fruit nào không?” Skeet hỏi.

    Một vệt màu ở xa xa chợt thu hút sự chú ý của Dallie, một cuộn tròn tròn màu hồng sáng tiến liêu xiêu bên vệ đường. Khi họ đến gần hơn, hình dáng ấy dần trở nên rõ nét.

    Anh bỏ kính ra. “Thật không tin được. Anh có nhìn thấy không?”

    Skeet chồm tới trước, cẳng tay tì lên lưng ghế phụ, và nheo mắt. “Đúng là có một không hai?” ông cười khùng khục.

    Francesca đẩy mình tiến tới, từng bước một khó nhọc, chật vật lấy từng hơi thở dưới sự kìm kẹp của chiếc áo ngực. Bụi đóng thành vệt trên hai má cô, phần phía trên ngực lấp loáng mồ hôi, và chưa đầy mười lăm phút trước, một núm vú của cô đã bị bật ra ngoài. Y như cái nút bần bật ra theo dòng rượu, nó đã bung ra khỏi đường cổ áo. Cô đã vội vàng đặt va li xuống và nhét nó trở vào, nhưng ký ức ấy khiến cô rùng mình. Nếu cô có thể lấy lại chỉ một thứ trong đời, cô nghĩ tới lần thứ một trăm trong nhiều phút vừa qua, cô sẽ lấy lại giây phút cô quyết định đi khỏi dinh thự Wentworth trong chiếc váy này.

    Cái váy phồng giờ nom như một liễn nước sốt, phình ra ở đằng trước và đằng sau và kêu lép bép ở hai bên dưới sức ép từ chiếc va li trên tay phải và hộp mĩ phẩm bên tay trái cô, cả hai thứ đều nặng như muốn kéo rời cánh tay cô khỏi khớp vai. Mỗi bước đi đều khiến cô nhăn mặt. Đôi giày cao gót nhỏ nhắn kiểu Pháp cọ vào những vết rộp nơi chân cô, thỉnh thoảng lại có một luồng gió nóng từ đâu ập tới táp bụi vào mặt cô.

    Cô những muốn ngồi phịch xuống vệ đường mà khóc, nhưng cô hoàn toàn không chắc sẽ ép được bản thân đứng lên trở lại. Giá như cô không quá sợ hãi, thì những khó chịu về thể xác sẽ dễ chịu đựng hơn. Làm sao chuyện này có thể xảy đến với cô? Cô đã đi bộ mấy dặm mà không thấy tăm hơi một trạm xăng nào. Hoặc nó không tồn tại hoặc cô đã đi sai đường, nhưng cô chẳng gặp được gì ngoài một tấm bảng gỗ đã giộp quảng cáo một cửa hàng rau chưa bao giờ xuất hiện. Trời sắp tối, cô đang ở một đất nước xa lạ, và theo trí tưởng tượng của cô thì có một bầy thú hoang dữ tợn đang nấp sau những bụi thông ngay bên đường kia. Cô buộc mình phải nhìn thẳng trước mặt. Điều duy nhất ngăn cô không quay lại dinh thự Wentworth là chắc chắn cô chẳng thể nào đi được quãng đường xa chừng đó.

    Chắc chắn con đường này phải dẫn tới một nơi nào đó, cô tự nhủ. Ngay cả ở nước Mĩ người ta cũng sẽ không làm những con đường chẳng dẫn đến đâu, đúng không? Ý nghĩ ấy đáng sợ đến nỗi cô bắt đầu chơi những trò chơi nhỏ trong đầu để giữ cho mình bước tiếp. Trong lúc cắn chặt răng chống chọi với sự đau nhức ở đủ mọi chỗ trên cơ thể, cô mường tượng ra những nơi yêu thích nhất của mình, tất cả chúng đều cách xa những con đường hẻo lánh bụi bặm ở Mississippi này đến vài năm ánh sáng. Cô nghĩ đến cửa hàng Liberty trên phố Regent với những đường sọc trang trí dày đặc và đồ trang sức Ả rập tuyệt đẹp, những lọ nước hoa ở tiệm Sephora trên phố Passy, và mọi thứ ở đại lộ Madison từ Adolfo cho tới Yves Saint Laurent. Hình ảnh một cốc nước khoáng Perrier ướp lạnh với một lát chanh mỏng thình lình xuất hiện trong tâm trí cô. Nó lơ lửng trong bầu không khí nóng nực ngay trước mắt cô, hình ảnh sống động đến mức cô cảm tưởng với tay ra là có thể cầm cốc nước mát lạnh ấy trong lòng bàn tay. Mình bắt đầu bị ảo giác rồi, cô nhắc nhở bản thân, nhưng hình ảnh đó đầy hấp dẫn khiến cô không muốn xua nó đi.

    Cốc Perrier bỗng dưng bốc hơi vào bầu không khí nóng hầm hập của Mississippi khi cô nghe thấy tiếng động cơ ô tô tiến đến gần từ phía sau và tiếp theo là tiếng thắng xe ken két. Trước khi cô có thể điều chỉnh trọng lượng mớ hành lý trên tay để quay sang hướng có tiếng động, thì một giọng nói êm ả kéo dài vọng đến tai cô từ bên kia đường.

    “Này cô em, không ai nói cho cô biết là tướng Lee đã đầu hàng sao?” (Lee là một vị tướng của quân đội miền nam trong cuộc nội chiến nam bắc của nước Mĩ thế kỉ 19, trong cuộc chiến này miền nam đã thua).

    Cái va li đập vào phía trước đầu gối cô và vành váy của cô hất ra sau khi cô xoay người về phía giọng nói. Cô lảo đảo giữ thăng bằng rồi chớp mắt hai lần, không thể tin vào hình ảnh đã thành hiện thực ngay trước mắt.

    Ở bên kia đường, đang thò đầu ra ngoài cửa sổ chiếc xe ô tô màu xanh lục sẫm với cánh tay gác lên thành cửa xe, là một người đàn ông đẹp ngây ngất, đến độ nhất thời cô còn ngỡ mình đã tưởng tượng ra anh ta cùng với cốc Perrier và lát chanh mỏng. Trong lúc quai chiếc va li nghiến vào lòng bàn tay, cô thu vào mắt những đường nét cổ điển trên gương mặt anh ta, gò má như tượng tạc và quai hàm thanh thoát, sống mũi thẳng hoàn hảo, và đôi mắt anh ta, chúng có màu xanh lam sáng ngời như mắt Paul Newman và lông mi dày như lông mi cô. Sao một tên đàn ông lại có đôi mắt như thế được? Sao một tên đàn ông lại có cái miệng duyên chết người mà trông vẫn đầy nam tính thế kia? Mái tóc dày màu vàng sẫm của anh ta cong lên thành từng lọn dưới vành mũ lưỡi trai màu xanh lam có hình lá cờ Mĩ. Cô có thể trông thấy một phần đôi vai rộng, những thớ thịt săn chắc trên cánh tay rám nắng, và trong một khoảnh khắc phi lí cô cảm thấy kinh hãi.

    Cuối cùng cô đã gặp một người đẹp như mình.

    “Cô có giấu bí mật nào của liên bang bên dưới những tầng váy kia không đấy?” người đàn ông hỏi với nụ cười tươi rói để lộ hàm răng thuộc về các trang tạp chí và khiến người khác đếm ngược một cách tội lỗi về lần cuối cùng nó dùng chỉ nha khoa.

    “Tôi nghĩ bọn Yankee cắt mất lưỡi cô ấy rồi, Dallie.”

    Lúc này Francesca mới nhận biết sự hiện diện của một người đàn ông khác, người này đang ló đầu ra từ cửa sổ phía sau. Khi cô trông thấy gương mặt khắc nghiệt và cặp mắt nhỏ đầy sát khí của ông ta, trong đầu cô gióng lên những hồi chuông cảnh báo.

    “Hoặc thế hoặc cô ta là một gián điệp của miền bắc,” ông ta tiếp tục. “Tôi chưa từng gặp một phụ nữ miền nam nào giữ im lặng được lâu đến thế.”

    “Cô là một gián điệp Yankee à, cô gái?” Người Đẹp Long Lanh hỏi, khoe hàm răng tuyệt mĩ. “Định moi những bí mật của Liên bang miền nam bằng đôi mắt xanh kia sao?”

    Đột nhiên cô ý thức được tình cảnh hiểm nghèo của mình – con đường vắng vẻ, ánh nắng sắp tắt, hai người đàn ông lạ mặt, việc cô đang ở nước Mĩ, không phải mái nhà an toàn ở Anh. Ở Mĩ người ta mang cả súng trên đường đến nhà thờ, và bất cứ lúc nào cũng có những tên tội phạm lảng vảng ngoài đường. Cô lo lắng liếc nhìn người đàn ông ở ghế sau. Ông ta nom giống kiểu người sẽ tra tấn những con vật nhỏ làm trò vui. Cô nên làm gì đây? Sẽ chẳng ai nghe thấy nếu cô có hét lên, và cô không có cách nào để tự bảo vệ mình.

    “Im đi Skeet, anh đang làm cô ấy sợ kìa. Rụt cái đầu xấu xí của anh vào đi?”

    Skeet rụt đầu vào, và người đàn ông đẹp trai với cái tên lạ tai mà cô chưa kịp nghe rõ nhướng một chân mày như nét vẽ, chờ cô lên tiếng. Cô quyết định ra vẻ can đảm – tỏ ra hoạt bát, thản nhiên, và trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không được để họ thấy cô đang tuyệt vọng nhường nào.

    “Tôi e rằng tôi đã tự đẩy mình vào rắc rối,” cô nói, đặt va li xuống. “Hình như tôi bị lạc đường. Thật bực mình quá.”

    Skeet lại thò đầu ra cửa sổ xe. Anh Đẹp Trai cười tươi rói.

    Cô kiên gan nói tiếp. “Các ông có thể cho tôi biết trạm xăng tới cách đây bao xa không. Hoặc bất cứ nơi nào mà tôi có thể gọi điện thoại.”

    “Cô từ nước Anh tới phải không?” Skeet hỏi. “Dallie, thấy cách nói chuyện buồn cười của cô ta chưa? Đó là một quý cô người Anh chính hiệu đấy.”

    Francesca quan sát Anh Đẹp Trai – thực sự có người tên là Dallie sao? – quét mắt dọc theo những diềm đăng ten hồng và trắng trên váy cô. “Tôi cá là cô có cả kho chuyện để kể. Lên xe đi. Chúng tôi sẽ cho cô đi nhờ đến trạm điện thoại kế tiếp.”

    Cô lưỡng lự. Lên một chiếc ô tô với hai người đàn ông lạ mặt đối với cô không phải là cách giải quyết sáng suốt nhất, nhưng cô không thể nghĩ ra cách nào khác. Cô cứ đứng ngây ra trên đường, những viền đăng ten váy quết bụi và chiếc va li dưới chân, trong lúc một cảm giác lạ lẫm của lo sợ xen lẫn bất an làm cô nôn nao.

    Skeet nhoài hẳn ra khỏi cửa sổ xe và nghiêng đầu nhìn Dallie. “Cô ấy lo cậu là một con yêu râu xanh chuẩn bị hại đời cô ấy đó.” Ông ta quay lại với cô. “Cô hãy nhìn thật kỹ gương mặt xinh trai của Dallie, thưa cô, sau đó nói tôi biết cô nghĩ một người đàn ông với gương mặt như thế có cần phải giở trò cưỡng bức những người phụ nữ không sẵn lòng không.”

    Ông ta nói hoàn toàn có lý, nhưng không hiểu sao Francesca vẫn không yên lòng. Cái người tên Dallie không hẳn là người mà cô lo lắng nhất.

    Dallie dường như đọc được tâm trí cô, việc mà, xét đến hoàn cảnh hiện tại, có lẽ không khó lắm. “Đừng lo về Skeet, cưng ạ,” anh ta nói. “Skeet là một người dị ứng thâm căn cố đế với đàn bà.”

    Câu nói đó, phát từ miệng một người mà, bất chấp vẻ ngoài lộng lẫy, lại có âm sắc và phong cách của sự ít học thô thiển, khiến cho cô ngạc nhiên. Cô vẫn còn do dự khi cửa xe mở ra và một đôi giày cao bồi lấm bụi đặt xuống mặt đường. Lạy chúa lòng lành … cô nuốt khan và từ từ nhìn lên.

    Thân hình anh ta hoàn hảo y như gương mặt.

    Anh ta mặc áo T-shirt màu xanh hải quân hiện lờ mờ những múi cơ ở ngực, làm nổi bật bắp tay và bắp thịt phía trên cánh tay và tất cả những phần tuyệt hảo khác, và chiếc quần jeans đã gần như bạc trắng ở mọi chỗ trừ những đường may bị sờn. Bụng anh ta phẳng lì, hông hẹp; anh ta săn chắc và cao ráo, cao hơn mét tám, và anh ta khiến cô nghẹn thở. Hẳn là thật rồi, cô nghĩ trong cơn xáo đảo, điều mà ai ai cũng nói về người Mĩ và những viên vitamin ấy.

    “Trên xe chật rồi, nên tôi phải cho hành lí của cô ra ghế sau với Skeet.”

    “Không sao. Anh để đâu cũng được.” Khi anh ta bước lại gần, cô gắng sức nở nụ cười thật rạng rỡ với anh ta. Cô không sao kìm được; đó là phản ứng tự nhiên, được lập trình sẵn trong gene nhà Serritella. Không phô ra vẻ lộng lẫy nhất của mình trước người đàn ông điển trai này, cho dù anh ta là một gã thộn quê mùa đi nữa, bỗng trở thành niềm đau lớn hơn cả những vết phồng giộp ở bàn chân cô. Vào giây phút ấy cô sẵn sàng đánh đổi mọi thứ mình có lấy nửa giờ đứng trước gương với tất cả đồ nghề trong hộp mĩ phẩm và chiếc váy linen trắng Mary McFadden hiện treo trong một tiệm đồ cũ ở đường Piccadilly ngay cạnh bộ pajama màu xanh dừa cạn của cô.

    Anh ta dừng lại và nhìn xuống cô một cách chăm chú.

    Lần đầu tiên kể từ khi rời London, cô lại có cảm giác mình ở trên lãnh địa thân thuộc. Biểu cảm trên mặt anh ta xác nhận điều mà cô đã khám phá ra từ lâu – đàn ông dù ở đâu trên thế giới cũng vẫn là đàn ông. Cô ngước nhìn lại bằng đôi mắt ngây thơ, lấp lánh. “Có chuyện gì sao?”

    “Cô luôn làm thế à?”

    “Làm gì cơ?” lúm đồng tiền trên má cô sâu hơn.

    “Mời chào một tên đàn ông sau khi gặp hắn chưa đầy năm phút.”

    “Mời chào!” Cô không thể tin vào tai mình, và cô kêu lên đầy phẫn nộ, “Thề là tôi không có ý định mời chào anh.”

    “Cô gái thân mến, nếu nụ cười đó không phải là lời mời chào, thì tôi không biết là gì nữa.” Anh ta nhấc va li của cô lên và mang chúng qua bên kia chiếc xe. “Thường thì tôi chẳng phiền gì đâu, nhưng tôi cảm thấy có hơi điên rồ khi cô phô phang sự câu dẫn ở một nơi heo hút với hai người đàn ông lạ mặt rất có thể là những kẻ bất lương háo sắc, cô biết đấy.”

    “Câu dẫn!” Cô dậm chân xuống mặt đường. “Đặt vali xuống ngay cho tôi! Tôi sẽ không đi đâu với anh cho dù cuộc sống của tôi có phụ thuộc vào chuyện đó.”

    Anh ta đảo mắt qua hàng thông và con đường vắng. “Xét theo hoàn cảnh, thì giả thuyết của cô rất gần với hiện thực đấy.”

    Cô không biết phải làm gì. Cô cần sự giúp đỡ, song cung cách của anh ta thật không chịu đựng nổi, và cô ghét ý nghĩ phải hạ mình để bước vào chiếc xe kia. Anh ta lấy mất sự lựa chọn của cô khi mở cửa sau xe và quẳng hành lí của cô vào chỗ Skeet.

    “Nhẹ tay một chút đi,” cô kêu lên, lao tới chỗ chiếc xe. “Chúng là Louis Vuitton đấy!”

    “Lần này cậu chọn được một ca náo nhiệt thật, Dallie ạ,” Skeet lầm bầm từ ghế sau.

    “Giờ tôi mới biết,” Dallie trả lời. Anh ngồi vào sau tay lái, sập cửa lại, rồi nghiêng ra cửa sổ xe nhìn cô. “Nếu cô còn muốn giữ lại hành lí của mình, tốt hơn cô hãy lên xe cho nhanh, vì đúng mười giây nữa tôi sẽ vào số con Riviera cổ lỗ này và tôi cùng với ngài Vee-tawn đây sẽ chẳng là gì đối với cô ngoài một kỷ niệm xa xôi.”

    Cô tập tễnh đi vòng ra sau chiếc xe tới ghế phụ, nước mắt chỉ chực trào ra. Cô cảm thấy nhục nhã, sợ hãi, và – tệ hơn cả - bất lực. Một cây kẹp tóc trượt xuống gáy cô và rơi xuống đất.

    Rủi thay, tình cảnh lúng túng của cô mới chỉ bắt đầu. Cái váy phồng, cô nhanh chóng phát hiện ra, không được thiết kế để vừa với một chiếc xe hơi hiện đại. Không dám nhìn ai trong hai vị ân nhân để xem thái độ họ ra sao trước những chật vật của mình, cuối cùng cô cũng đặt được mông xuống ghế rồi cố túm mớ váy bồng bềnh vào lòng cho gọn hết mức có thể.

    Dallie lôi cái cần số từ đống váy lùng nhùng ra. “Lúc nào cô cũng phục sức tiện dụng như thế này à?

    Cô trừng mắt nhìn anh ta, mở miệng toan buông một trong những câu đáp trả đanh đá nổi tiếng của mình chỉ để phát hiện ra trong đầu cô trống rỗng. Một hồi lâu chiếc xe lướt đi trong im lặng khi cô trân trân nhìn thẳng trước mặt, đôi mắt cô chỉ vừa vặn ló ra khỏi cái núi váy, chiếc áo ngực siết vào eo cô. Mặc dù rất sung sướng vì hai bàn chân đã được giải thoát, nhưng tư thế này của cô khiến cho sự kìm kẹp của chiếc áo ngực càng không sao chịu đựng nổi. Cô cố hít một hơi thật sâu, nhưng do bộ ngực bị tôn cao một cách đáng ngại nên cô đành bằng lòng với những nhịp thở ngắn. Chỉ một cái hắt hơi thôi, cô nhận ra, là cô thành mẫu nude trang giữa tạp chí ngay.

    “Tôi là Dallas Beaudine,” người đàn ông sau tay lái tự giới thiệu. “Mọi người gọi tôi là Dallie. Đằng sau là Skeet Cooper.”

    “Francesca Day,” cô đáp lại, cho phép giọng mình vui tươi hơn một chút. Cô phải nhớ rằng dân Mĩ cực kỳ phóng khoáng. Những gì được coi là thô lỗ ở một người Anh lại được xem là hành vi bình thường ở nước Mĩ. Vả lại, cô không thể kìm được ý muốn hạ bệ cái tên nhà quê điển trai này dù chỉ một phần nhỏ. Đây là việc mà cô thành thạo, một việc không thể thất bại trong ngày hôm nay khi mà tất cả những chuyện khác đều đã hỏng bét. “Tôi rất biết ơn sự giúp đỡ của hai người,” cô nói, mỉm cười với anh ta qua những lớp váy chất ngất. “Tôi e rằng tôi đã trải qua mấy ngày cực kỳ tồi tệ.”

    “Kể cho chúng tôi được không?” Dallie đề nghị. “Skeet và tôi đã đi cả trăm dặm đường, và chúng tôi phát chán vì phải nói chuyện với nhau rồi.”

    “À, mọi chuyện khá là kì khôi. Miranda Gwynwyck, người đàn bà ghê tởm này – gia đình làm bia ấy, anh biết không – đã thuyết phục tôi rời London và nhận một vai trong bộ phim đang quay ở dinh thự Wentworth.”

    Đầu Skeet lập tức đưa lại sát sau vai trái cô, mắt ông sáng lên tò mò. “Cô là ngôi sao điện ảnh à?” ông hỏi. “Có cái gì đó ở cô tôi thấy rất quen, nhưng không sao nhớ ra.”

    “Không hẳn.” Cô tính nhắc đến Vivien Leigh với ông ta nhưng rồi lại thôi.

    “Tôi nhớ rồi!” Skeet thốt lên. “Tôi biết mình đã trông thấy cô rồi mà. Dallie, cậu sẽ không bao giờ đoán ra người này là ai đâu.”

    Francesca nhìn lại ông ta vẻ đề phòng.

    “Đây chính là Francesca Tay Trắng!” Skeet tuyên bố với tràng cười ha hả. “Tôi biết mình đã nhận ra cô ấy mà. Cậu nhớ không, Dallie. Cô gái hay sánh vai với các minh tinh màn bạc ấy.”

    “Không đùa chứ,” Dallie nói.

    “Làm sao mà –“ Francesca mở miệng, nhưng Skeet đã ngắt lời cô.

    “Và tôi thật sự rất tiếc khi nghe về mẹ cô và vụ chiếc taxi đó.”

    Francesca chằm chằm nhìn ông ta không nói nên lời.

    “Skeet là fan của những tờ tin nhanh,” Dallie giải thích. “Bản thân tôi không thích chúng lắm, nhưng chúng làm cho người ta nghĩ đến sức mạnh to lớn của truyền thông. Hồi còn bé, chúng tôi từng có một quyển địa lý xanh cũ kiểu này, và chương đầu mang tên ‘Thế giới đang thu nhỏ của chúng ta.’ Nó nói đúng nhỉ? Cô có quyển sách địa lý nào giống vậy ở Anh không?”

    “Tôi – tôi không nghĩ là có,” cô yếu ớt trả lời. Một giây im lặng trôi qua và cô có cảm giác kinh khủng rằng có thể họ đang đợi cô cung cấp chi tiết về cái chết của Chloe. Ngay cả ý nghĩ chia sẻ một điều riêng tư như thế với những người lạ cũng làm cô hốt hoảng, nên cô vội vã quay lại với chủ đề lúc trước như chưa từng bị xen ngang. “Tôi đã bay nửa vòng trái đất, qua một đêm khổ sở trong căn phòng kém tiện nghi nhất mà người ta có thể tưởng tượng, và bị bắt phải mặc cái váy gớm guốc này. Sau đó tôi phát hiện ra bộ phim đã bị bóp méo hoàn toàn.”

    “Phim khiêu dâm à?”

    “Tất nhiên là không!” cô kêu lên. Những gã nhà quê Mĩ này có chịu dành ra dù chỉ vài tích tắc để nghĩ trước khi nói không vậy? “Thực ra nó là một trong những bộ phim kinh dị về” – nói ra từ này cũng làm cô cảm thấy phát ốm – “ma cà rồng.”

    “Không đùa đấy chứ!” Sự ngưỡng mộ của Skeet hiện rõ rành rành. “Cô có biết Vincent Price không?”

    Francesca nhắm nghiền mắt một lúc rồi mở ra. “Tôi chưa có vinh hạnh ấy.”

    Skeet vỗ vai Dallie. “Cậu có nhớ ông già Vincent thường xuất hiện trên chương trình ‘Hollywood Squares’ hồi trước không?’ Thỉnh thoảng ông ta đi cùng vợ. Tên bà ấy là gì nhỉ? Bà ấy cũng là một trong những diễn viên người Anh xuất chúng. Có khi Francie biết bà ấy đấy.”

    “Francesca,” cô đanh giọng. “Tôi ghét bị gọi bằng bất cứ cái tên nào khác.”

    Skeet ngồi lùi sâu vào ghế và cô nhận ra mình đã làm ông ta phật ý, nhưng cô không quan tâm. Tên của cô là tên của cô, và không ai có quyền thay đổi nó, nhất là vào ngày hôm nay khi mà vị thế của cô trên thế giới này trở nên quá mong manh.

    “Vậy bây giờ cô định thế nào?” Dallie hỏi.

    “Trở về London càng sớm càng tốt.” Cô nghĩ đến Miranda Gwynwyck, đến Nicky, đến việc cô không thể tiếp tục sống như trước nữa. “Và sau đó tôi sẽ kết hôn.” Cô đã ra quyết định một cách vô thức, vì cô không nhìn ra cách nào khác. Sau những gì cô đã chịu đựng trong hai tư giờ vừa qua, kết hôn với một người làm bia giàu có dường như không còn là một số mệnh quá khủng khiếp. Nhưng giờ đây khi đã thốt ra thành lời, cô cảm thấy chán nản thay vì nhẹ nhõm. Lại một chiếc kẹp tóc tuột ra; cái này rơi xuống lòng cô và mắc vào lớp đăng ten. Cô dứt mình ra khỏi những suy nghĩ ảm đạm bằng cách nhờ Skeet lấy hộ hộp mĩ phẩm. Ông chuyển nó qua mà không nói một lời. Cô đặt nó vào giữa những lớp váy và mở nắp hộp.

    “Trời ơi…” cô suýt khóc khét khi thấy gương mặt mình. Lớp kẻ mắt đậm đặc trông thật kệch cỡm dưới ánh sáng ban ngày, cô đã ăn sạch son môi, tóc cô xõa xượi theo đủ hướng, và cô mới bẩn chứ! Chưa bao giờ trong hai mươi mốt năm qua cô tô son trát phấn trước mặt người đàn ông khác ngoài người thợ làm tóc của mình.Nhưng trong tình cảnh này cô phải tự làm mất mặt mình thôi.

    Lấy ra một lọ tẩy trang, cô bắt đầu sửa chữa thảm họa. Khi lớp trang điểm dày bịch được tẩy hết, cô thấy cần phải tạo khoảng cách với hai người đàn ông, để khiến họ hiểu rằng cô thuộc về một thế giới khác. “Quả thực trông tôi rất kinh khủng. Toàn bộ chuyến đi này là một cơn ác mộng.” Cô gỡ cặp lông mi giả ra, bôi kem lên mí mắt, và dặm một lớp phấn highlight mỏng cùng phấn nâu sẫm và chuốt mascara. “Tôi thường dùng loại mascara tuyệt diệu của Đức có tên Ecarte, nhưng cô hầu của Cissy Kavendish – một người đàn bà rất quá quắt ở vùng Tây Ấn – đã quên đóng gói nó, nên tôi đành dùng một nhãn hiệu Anh.”

    Cô biết mình đang nói lảm nhảm, nhưng dường như cô không thể dừng được. Cô quét phấn màu kẹo bơ bằng cây chổi Kent rồi đánh lên vùng dưới hai gò má. “Lúc này tôi sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì lấy một lần mát xa mặt đúng nghĩa. Có một nơi như vậy ở Mayfair họ sử dụng hơi nhiệt và kết hợp tất cả những cách thức kì diệu khác vào quá trình mát xa. Lizzy Arden làm như vậy đó.” Cô nhanh nhẹn kẻ viền môi bằng một cây bút chì, rồi tô phần phía trong bằng một lọ son bóng màu be hồng, và kiểm tra lại toàn bộ thành quả. Không tốt lắm, nhưng ít nhất trông cô đã gần như là chính mình.

    Sự im lặng mỗi lúc một nặng nề trong xe khiến cô càng thêm lo lắng, nên cô tiếp tục nói để khỏa lấp nỗi gượng gạo. “Việc phải chọn giữa Arden và Janet Sartin khi ta ở New York lúc nào cũng khó khăn. Cố nhiên là tôi đang nói về Janet Sartin ở đại lộ Madison. Ý tôi là, người ta có thể đến salon của bà ấy ở Park, nhưng nó không giống nhau hoàn toàn đúng không?”

    Tất cả im ắng có đến cả phút.

    Cuối cùng, Skeet cất tiếng. “Dallie?”

    “Hả?”

    “Cậu nghĩ cô ta nói xong chưa?”

    Dallie gỡ kính mắt ra đặt xuống bảng đồng hồ. “Tôi có cảm giác cô ấy mới chỉ khởi động thôi.”

    Cô nhìn sang anh ta, xấu hổ bởi hành vi của mình và tức giận với anh ta. Anh ta không thể thấy là cô đang trải qua ngày khổ sở nhất đời, và không thể làm cho mọi chuyện trở nên dễ thở cho cô được một chút sao? Cô ghét cái sự thật là dường như anh ta chẳng hề ấn tượng trước cô, ghét việc anh ta chẳng hề tìm cách gây ấn tượng với cô. Theo một cách kì lạ nào đó mà cô không thể xác định, sự thiếu hứng thú của anh ta dường như gây hoang mang hơn bất cứ chuyện gì khác đã xảy ra với cô.

    Cô chuyển sự chú ý sang chiếc gương và bắt đầu giật những cây kẹp khỏi mái tóc, âm thầm răn đe bản thân ngừng lo nghĩ về ý kiến của Dallas Beaudine. Hiện giờ họ sẽ trông thấy chốn văn minh vào bất cứ lúc nào. Cô sẽ gọi một chiếc taxi đến sân bay ở Gulfport và sau đó đặt vé chuyến bay kế tiếp đến London. Đột nhiên cô nhớ ra vấn đề tài chính đáng buồn của mình, và cũng nghĩ ra ngay giải pháp. Cô chỉ cần gọi điện cho Nicholas bảo anh ta chuyển tiền vé máy bay cho cô.

    Cổ họng khô và ngứa khiến cô bật ra tiếng ho. “Anh có thể nâng kính xe lên được không? Bụi khiếp lên được. Và tôi muốn uống thứ gì đó.” Cô liếc thấy một thùng trữ lạnh Styrofoam nhỏ ở phía sau. “Tôi nghĩ khó có khả năng các anh cất một chai Perrier trong kia?”

    Im lặng bao trùm không gian bên trong chiếc Riviera.

    “Xin lỗi, thưa cô, chúng tôi hết sạch rồi,” cuối cùng Dallie nói. “Tôi e rằng Skeet đã nốc cạn chai cuối cùng ngay sau khi chúng tôi thực hiện vụ cướp cửa hàng rượu ở Meridian.”
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 11 others like this.
  9. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 8

    Dallie sẵn sàng thừa nhận rằng không phải lúc nào anh cũng đối xử tốt với phụ nữ. Một phần do anh, nhưng cũng một phần ở họ. Anh thích những người phụ nữ mộc mạc, ham vui, tầm thường. Anh thích những người phụ nữ anh có thể cùng uống rượu, những người phụ nữ có thể kể những câu chuyện cười dung tục mà không cần hạ giọng, người sẽ kể oang oang câu chuyện tiếu lâm ấy bên cạnh những vại bia lạnh, những chiếc khăn lót cốc cuốn tròn, và giọng Waylon Jenning phát ra từ máy hát tự động – không bao giờ phí hơi sức nghĩ xem giới nữ ở câu lạc bộ tóc xanh thị trấn bênh cạnh nghe thể loại nhạc nào. Anh thích những người phụ nữ không làm nhặng xị lên bằng nước mắt và cãi cọ vì anh đang dành toàn bộ thời gian để đánh hai trăm quả bóng bằng cây gậy gỗ số ba trên sân tập thay vì đưa họ tới một nhà hàng có món ốc sên. Thực tình anh thích người phụ nữ nào giống đàn ông. Ngoại trừ sự xinh đẹp. Bởi vì, hơn ai hết, Dallie thích phụ nữ đẹp. Không phải đẹp giả tạo kiểu người mẫu, với tất cả kiểu trang điểm và thân hình xương xẩu như nam sinh khiến anh rùng mình, mà là đẹp kiểu sexy. Anh thích những bộ ngực và cặp hông, những đôi mắt cười và hàm răng sáng lấp lánh, những cái miệng rộng. Anh thích những người phụ nữ anh có thể yêu và bỏ. Đó là cách sống của anh, và đó là điều khiến anh trở nên thô lỗ với tất cả những người phụ nữ anh từng để ý. Nhưng Francesca Day sẽ là ngoại lệ. Cô ta khiến anh trở nên thô lỗ chỉ bằng sự hiện diện của cô ta.

    “Kia là trạm xăng phải không?” Skeet hỏi, tỏ ra vui mừng lần đầu tiên trong suốt những dặm đường vừa qua.

    Francesca nhìn chăm chú phía trước và thầm tạ ơn trời đất khi khi Dallie cho xe chạy chậm lại. Không phải cô thực sự tin vào câu chuyện về vụ cướp cửa hàng rượu, nhưng cô cần đề cao cảnh giác. Họ dừng lại trước một tòa nhà gỗ đổ nát với lớp sơn đã bong tróc và tấm biển có chữ “Live Bate” viết tay đặt tựa vào một cái máy bơm hoen gỉ. Một đám mây bụi ùa vào cửa sổ xe khi bánh xe nghiến trên nền sỏi. Francesca cảm thấy như mình đã đi hàng thiên niên kỷ. Cô đang khát đến khô cả người, đói muốn chết, và cô phải sử dụng nhà vệ sinh.

    “Đến nơi rồi,” Dallie nói, tắt động cơ. “Bên trong sẽ có điện thoại. Cô có thể gọi cho bạn cô ở đó.”

    “Tôi sẽ không gọi cho họ đâu,” cô đáp, lấy một chiếc xắc tay bằng da bê từ trong hộp mĩ phẩm ra. “Tôi sẽ gọi taxi để đến sân bay Gulfport.”

    Một tiếng rên lớn vang lên từ phía sau. Dallie ngả vật người ra ghế và kéo vành mũ sụp xuống qua mắt.

    “Có gì không ổn sao?” cô hỏi.

    “Tôi còn không biết bắt đầu từ đâu,” Dallie lẩm bẩm.

    “Đừng nói gì hết,” Skeet cản. “Cứ cho cô ta xuống, nổ máy chiếc Riviera và phóng đi. Nhân viên bơm xăng có thể xử lí chuyện này. Tôi nói nghiêm túc đấy, Dallie. Chỉ có thằng ngốc mới muốn bị double boggey (hơn hai gậy so với điểm par trong golf).”

    “Có chuyện gì thế?” Francesca hỏi, bắt đầu cảm thấy hoảng.

    Dallie đẩy vành mũ ra sau bằng ngón tay cái. “Trước hết, Gulfport đã ở sau lưng cô khoảng hai giờ đồng hồ. Hiện chúng ta đang ở Louisiana, trên đường đến New Orleans. Nếu cô muốn đến Gulfport, sao cô không cuốc bộ theo hướng tây thay vì hướng đông?”

    “Tôi biết đi về hướng tây bằng cách nào được chứ?” cô phẫn nộ đáp.

    Dallie đập hai cổ tay vào vô lăng. “Bằng cách để cho mặt trời lù lù trước mặt cô ấy.”

    “Ồ.” Cô suy nghĩ một lúc. Không việc gì phải hoảng loạn; cô chỉ cần tìm ra cách khác là được. “Chẳng phải New Orleans cũng có sân bay sao? Tôi có thể đáp máy bay ở đó.”

    “Cô định đến đấy bằng cách nào? Nếu cô lại có ý định gọi taxi, thì thề với Chúa là tôi sẽ ném cả hai cái Louie Vee-tawn kia vào bụi thông! Cô đang ở giữa một nơi hoang vu, cô không hiểu điều đó sao, thưa cô? Quanh đây không có chiếc taxi nào hoạt động cả! Đây là vùng Louisiana hẻo lánh, không phải Paris của nước Pháp!”

    Cô ngồi thẳng lưng lên và cắn môi dưới. “Tôi hiểu rồi,” cô chậm chạp nói. “Có lẽ tôi có thể thuê anh chở tôi đi nốt quãng đường còn lại.” Cô liếc xuống xắc tay của mình, trán hằn những nếp nhăn lo lắng. Cô còn bao nhiêu tiền mặt nhỉ? Tốt hơn cô nên gọi ngay cho Nicholas để anh ta chuẩn bị tiền sẵn cho cô ở New Orleans.

    Skeet đẩy cửa xe và bước ra ngoài. “Tôi sẽ đi kiếm một chai Dr Pepper trong lúc cậu thu xếp chuyện này, Dallie. Nhưng tôi báo với cậu một điều – nếu cô ta vẫn còn ở trên chiếc xe này khi tôi quay lại, cậu có thể tìm người khác để chở Spauldings của cậu vào sáng thứ Hai.” Cửa xe đóng sầm.

    “Thật là một con người quá quắt,” Francesca khịt mũi nhận xét. Cô liếc sang Dallie. Anh ta sẽ không thật sự bỏ rơi cô chỉ vì người bạn khó chịu của anh ta không thích cô, đúng không? Cô quay sang anh ta, giọng xoa dịu. “Cho tôi gọi một cú điện thoại thôi vậy. Sẽ không mất đến một phút đâu.”

    Cô hì hục ra khỏi xe một cách duyên dáng hết mức có thể và, với vành váy lắc lư, bước vào trong ngôi nhà xập xệ. Cô mở xắc, lấy ví ra và đếm tiền thật nhanh, việc đó chẳng mất nhiều thời gian. Một thứ gì đó không hề dễ chịu trườn dọc sống lưng cô. Cô chỉ còn mười tám dollar … mười tám dollar ngăn cách giữa cô và cảnh chết đói.

    Cái điện thoại dính đầy bụi bẩn, nhưng cô chẳng quan tâm khi giật nó khỏi giá đỡ và quay số 0. Khi cuối cùng cô cũng kết nối được với người trực tổng đài quốc tế, cô đọc số của Nicholas và chọn cuộc gọi người nghe thanh toán. Trong khi chờ tín hiệu, cô tìm cách thoát khỏi trạng thái bồn chồn bằng việc quan sát Dallie xuống xe và thả bước tới chỗ chủ nhà, người đang chất mấy lốp xe cũ lên thùng một chiếc xe tải tàn tạ và ngắm nghía tất cả bọn họ với vẻ hiếu kỳ. Một sự phí phạm quá lớn, cô nghĩ, ánh mắt trở lại với Dallie – khi đặt một gương mặt như thế lên một kẻ quê mùa phách lối.

    Thằng bé giúp việc nhà Nicholas mãi sau mới bắt máy, nhưng hy vọng được giải cứu của cô tắt ngấm khi nó từ chối cuộc gọi, bảo rằng ông chủ nó còn vắng mặt ở thành phố nhiều tuần lễ cơ. Cô nhìn trừng trừng cái điện thoại rồi gọi một cuốc khác, lần này cho Cissy Kavendish. Cissy bắt máy, nhưng bà ta đón nhận cuộc gọi nồng nhiệt chẳng kém thằng bé giúp việc nhà Nicholas. Đồ phù thủy già! Francesca nổi đóa khi đường dây chết lịm.

    Bắt đầu cảm thấy sợ hãi thực sự, cô rà lại trong đầu danh sách những người quen để rồi nhận ra rằng cô đã không hòa thuận lắm ngay cả với những người hâm mộ trung thành nhất của mình trong mấy tháng gần đây. Người duy nhất còn lại có thể cho cô vay tiền là David Graves, hiện đang chụp ảnh ở nơi nào đó tại Châu Phi. Nghiến răng, cô gọi cuộc thứ ba, lần này tới Miranda Gwynwyck. Hơi ngạc nhiên là có người nhận.

    “Francesca, thật vui được nghe giọng nói của cô, cho dù đã quá nửa đêm và tôi thì sắp ngủ. Nghiệp diễn xuất của cô tiến triển đến đâu rồi? Lloyd đối đãi cô tốt chứ?”

    Francesca gần như có thể nghe thấy chị ta kêu gừ gừ, và cô siết chặt hơn ống nghe. “Mọi thứ rất tuyệt, Miranda ạ; tôi không biết cảm ơn chị sao cho đủ - nhưng tôi gặp một sự cố nhỏ, và tôi cần liên lạc với Nicky. Chị cho tôi số của Nicky được không?”

    “Rất tiếc, nhưng hiện giờ cậu ấy đang ở riêng với người bạn cũ – một nhà toán học tóc vàng xinh đẹp tôn sùng cậu ấy.”

    “Tôi không tin.”

    “Francesca, ngay cả Nicky cũng có những giới hạn, và tôi nghĩ cuối cùng cô đã chạm đến chúng. Nhưng cứ cho tôi số của cô và tôi sẽ bảo cậu ấy gọi lại để trực tiếp nói với cô khi cậu ấy trở về sau hai tuần nữa.”

    “Hai tuần thì không được! Tôi phải nói chuyện với anh ấy ngay bây giờ!”

    “Tại sao?”

    “Đó là việc riêng của tôi,” cô gắt lên.

    “Xin lỗi, tôi không giúp được.”

    “Đừng làm thế, Miranda! Tôi nhất thiết phải –“ Đường dây im bặt đúng lúc người chủ trạm xăng bước qua cửa và chỉnh nút dò kênh trên chiếc radio vỏ nhựa màu trắng nhờn. Giọng của Diana Ross đột ngột lấp đầy lỗ tai Francesca, hỏi cô có biết mình đang đi đâu không. “Ôi Chúa ơi…” cô lẩm bẩm.

    Rồi cô ngẩng lên và trông thấy Dallie đang đi vòng qua trước xe tới phía bên tay lái. “Đợi đã!” Cô buông ống nghe xuống và lao ra khỏi cửa, tim đập mạnh đến đau nhói xương sườn, sợ anh ta sẽ lái xe đi mất và bỏ cô lại.

    Anh ta dừng bước và tựa người vào mui xe, khoanh hai tay trước ngực. “Đừng có bảo tôi là không có ai ở nhà,” anh ta nói.

    “Ồ, có…à không. Anh biết đấy, Nicky, hôn phu của tôi –“

    “Bỏ đi.” Anh ta tháo mũ xuống và lùa tay vào mái tóc. “Tôi sẽ đưa cô đến sân bay. Chỉ cần cô hứa dọc đường sẽ giữ im lặng.”

    Cô xù lông lên, nhưng chưa kịp đáp trả thì anh ta đã hất ngón tay cái về phía cửa ghế phụ. “Lên đi. Skeet muốn duỗi chân duỗi cẳng, nên chúng ta sẽ đón ông ấy dọc đường.”

    Cô phải vào toilet trước khi đi bất cứ đâu, và cô sẽ chết nếu không thay quần áo. “Tôi cần vài phút,” cô nói. “Tôi chắc chắn anh không phiền nếu đợi.” Vì cô chẳng chắc chắn bất cứ chuyện gì, nên cô dồn toàn bộ sức quyến rũ vào anh ta – đôi mắt xanh như mắt mèo, cái miệng mềm mại, bàn tay nhỏ nhắn bất lực đặt lên cánh tay anh ta.

    Vụ níu tay là một sai lầm. Anh ta nhìn xuống nó như thể cô vừa đặt một con rắn lên đó. “Tôi phải nói thật với cô, Francie, những trò cô làm có cái gì đó khiến tôi không thuận mắt.”

    Cô rụt phắt tay về. “Đừng có gọi tôi như thế! Tên tôi là Francesca. Và cũng đừng có tưởng là tôi mê anh.”

    “Tôi không tưởng tượng nổi cô mê ai khác ngoài bản thân.” Anh ta lấy trong túi áo sơ mi ra một miếng kẹo cao su. “Và tất nhiên là Mr. Vee-tawn nữa.”

    Cô ném cho anh ta cái trừng mắt khinh miệt nhất, đi tới cửa sau chiếc xe, mở cửa để lôi va li ra, vì tuyệt không điều gì – cảnh nghèo kiết xác, sự phản bội của Miranda, thái độ xấc xược của Dallie – có thể bắt cô giam mình trong cái váy hồng đày đọa này thêm một giây nào nữa.

    Anh ta vừa thong thả bóc vỏ kẹo vừa quan sát cô đánh vật với cái va li. “Nếu cô lật nó lại, tôi nghĩ cô sẽ lấy nó ra dễ hơn đó.”

    Cô nghiến chặt răng và cố kìm để không gọi anh ta bằng mọi cái tên xấu xa nhất trong từ vựng của mình và giật mạnh cái va li, để lại một vết xước dài trên mặt da khi nó đập vào tay nắm cửa xe. Mình sẽ giết hắn, cô nghĩ, lôi xềnh xệch cái va li về phía tấm biển nhà vệ sinh pha màu xanh trắng bám đầy bụi. Mình sẽ giết hắn rồi giẫm đạp lên xác hắn. Túm lấy núm cửa bằng sứ trắng sứt sẹo bám lỏng lẻo vào bản sắt, cô đẩy cửa, nhưng nó không chịu nhúc nhích. Cô thử thêm hai lần nữa thì nó mới xoay vào trong, kêu ken két trên bản lề. Và rồi cô nghẹn họng.

    Căn phòng nom phát khiếp. Nước bẩn đọng trong những lỗ thủng trên nền gạch vỡ được chiếu sáng bởi độc một cái bóng đèn không chao treo vào một cái dây trên trần nhà. Bồn cầu bẩn tưởi, nắp đã biến đi đằng nào, và chỗ ngồi đã vỡ một nửa. Cô đứng nhìn căn phòng bốc mùi ấy, những giọt nước mắt chỉ trực trào ra suốt cả ngày hôm nay cuối cùng đã vỡ òa. Cô đói và khát, cô phải sử dụng toilet, cô không có tiền, và cô muốn về nhà. Thả bịch va li xuống sàn, cô ngồi lên nó và khóc nức nở. Sao chuyện này có thể xảy đến với cô? Cô là một trong mười người phụ nữ đẹp nhất nước Anh kia mà.

    Một đôi giày cao bồi xuất hiện giữa đám bụi bẩn bên cạnh cô. Cô càng khóc dữ hơn, úp mặt vào hai bàn tay và buông ra những tiếng nức nở nghẹn ngào tưởng như rung chuyển cả thân hình. Đôi giày bước vài bước sang bên, sau đó gõ xuống sàn một cách thiếu kiên nhẫn.

    “Cái màn om sòm này còn kéo dài lâu không, Francie? Tôi muốn tìm Skeet về trước khi lũ cá sấu tóm được ông ấy.” (Bang Louisiana nổi tiếng nhiều cá sấu).

    “Tôi từng đi chơi với hoàng tử xứ Wales,” cô nói trong cơn thổn thức, cuối cùng cũng ngước nhìn anh ta. “Anh ấy rất yêu tôi.”

    “Ờ, người ta bảo có rất nhiều mối tình cận huyết-“

    “Có thể tôi đã là nữ hoàng!” Lời nói đứt quãng khi nước mắt rớt từ má cô xuống ngực. “Anh ấy tôn thờ tôi, ai nấy đều biết. Chúng tôi đã đến những vũ hội và opera –“

    Dallie liếc nhìn ánh mặt trời sắp tắt. “Có có thể lướt qua phần này và đi thẳng vào vấn đề chính không?”

    “Tôi phải đi vệ sinh!” cô kêu lên, chỉ một ngón tay run run vào tấm biển xanh trắng lem luốc.

    Anh ta bỏ ra ngoài ít phút rồi xuất hiện trở lại. “Tôi hiểu ý cô rồi.” Móc trong ví ra hai tờ khăn giấy nhàu nát, anh ta thả nó rơi nhẹ nhàng xuống lòng cô. “Tôi nghĩ cô sẽ an toàn hơn nếu ra đằng sau nhà.”

    Cô nhìn xuống hai tờ khăn giấy rồi ngước lên nhìn anh ta và lại khóc tiếp.

    Anh ta bỏm bẻm nhai kẹo cao su. “Mascara của cô đảm bảo đang chảy xuống theo rồi.”

    Đứng phắt lên khỏi chiếc va li, khăn giấy rơi xuống sàn, cô hét vào mặt anh ta, “Anh nghĩ tất cả chuyện này thật thú vị chứ gì? Anh thấy nó buồn cười đau ruột vì tôi mắc kẹt trong cái váy gớm ghiếc này và tôi không thể về nhà và Nicky thì đã vi vu với một nhà toán học chết tiệt nào đó mà Miranda bảo là rất xinh đẹp –“

    “Ừ.” Va li của cô đổ về phía trước sau cú đá từ mũi giày của Dallie. Trước khi Francesca kịp phản ứng, anh ta đã quỳ một chân xuống và bật các chốt. “Thật là một mớ hỗn độn,” anh nhận xét khi nhìn vào hiện trường bên trong. “Cô có cái quần jeans nào ở đây không?”

    “Ở dưới cái Xandra Rhodes ấy.”

    “Zanderoads là cái gì? Không sao, tôi thấy cái quần jeans rồi. Còn áo T-shirt? Cô có mặc áo T-shirt chứ, Francie?”

    “Có một cái áo Blouse,” cô sụt sịt. “Bằng vải thô với hoạt tiết màu ca cao – một chiếc Halston. Và thắt lưng Hermes với khóa kiểu art deco. Và đôi sandal Bottega Veneta của tôi nữa.”

    Anh ta gác một cánh tay lên đầu gối và ngước nhìn cô. “Cô lại định dồn ép tôi đấy à, cô gái thân mến?”

    Chùi nước mắt bằng mu bàn tay, cô nhìn chằm chằm anh ta, tuyệt nhiên chẳng hiểu anh ta đang nói về cái gì. Anh ta thở dài và đứng lên. “Có lẽ tốt hơn cô hãy tự tìm cái cô muốn. Tôi sẽ thong thả đi ra xe và chờ cô. Và gắng đừng có lề mề quá. Skeet già sắp sửa nóng hơn cả món tamale Texas rồi đó.”

    Khi anh ta quay người bước đi, cô hít vào một hơi và cắn môi. “Anh Beaudine?” Anh ta quay lại. Cô cắm những móng tay vào lòng bàn tay. “Không biết liệu –“ ôi chao, chuyện này thật nhục mặt! “Tức nghĩa là, không biết anh có thể - thực ra, hình như tôi –“ Cô bị làm sao vậy? Làm sao một tên nhà quê ngạo mạn lại át vía cô mạnh đến độ cô nói năng không nên hồn thế này?

    “Cứ nói đi. Tôi đã ao ước tìm ra phương pháp chữa ung thư trong vòng một thập kỷ tới, hoặc chí ít là có một chai Lone Star lạnh cùng một ổ bánh kẹp chili dog vào thời điểm đội Landry’s boys hạ đội Astroturf trong giải vô địch bang.”

    “Thôi đi!” Cô dậm chân xuống sàn nhà nhớp bẩn. “Thôi ngay! Tôi không biết anh đang nói về chuyện gì, và đến một người vừa ngốc vừa mù cũng thấy được là tôi không thể tự mình thoát khỏi cái váy này, và nếu anh hỏi tôi, thì kẻ nói lắm nhất ở đây chính là anh.”

    Anh ta toét miệng cười, và đột nhiên cô quên sạch sự khổ sở của mình dưới sức tàn phá của nụ cười kia, nó hằn lên những nếp nhăn quanh khóe miệng và đuôi mắt anh ta. Sự thích thú của anh ta dường như đến từ một nơi sâu thẳm bên trong, và khi nhìn anh ta cô nảy sinh một cảm giác ngớ ngẩn rằng toàn bộ sự vui vẻ trên đời bằng cách nào đó đã không đếm xỉa đến cô. Ý nghĩ này khiến tâm trạng cô tụt dốc hơn bao giờ hết. “Anh nhanh lên được không?” cô gắt gỏng. “Tôi không thở được nữa rồi.”

    “Quay người lại, Francie. Cởi đồ cho phụ nữ là một trong những biệt tài của tôi. Thậm chí còn xuất sắc hơn cú bunker shot của tôi nữa.” (cú đánh golf trong hố cát)

    “Anh không cởi đồ cho tôi,” cô nói lắp bắp khi quay lưng lại. “Đừng có làm nó nghe đê tiện như vậy.”

    Tay anh ta dừng lại trên hàng móc sau lưng cô. “Vậy chính xác cô gọi nó là gì?”

    “Thực hiện hành động giúp đỡ.”

    “Đại loại như một hầu gái ấy hả?” Hàng móc bắt đầu mở ra dần.

    “Phải, gần như thế.” Cô có cảm giác không yên rằng mình vừa đi một bước dài nữa theo hướng sai lầm. Cô nghe thấy một tiếng cười ngắn, có phần ác ý xác nhận những lo sợ của cô.

    “Có điều gì đó ở cô mà tôi càng lúc càng thích, Francie ạ. Cuộc đời không thường trao cho cô cơ hội tái hiện lịch sử đâu.”

    “Tái hiện lịch sử?”

    “Phải. Cách mạng Pháp, bà già Marie Antoinette. Thì cho-bọn-họ-ăn-bánh-ngọt.” (câu nói được cho là của Marie Antoinette thể hiện sự thiếu quan tâm của bà với tầng lớp nông dân đang trải qua nạn đói trong thời gian chồng bà là vua Louis XVI trị vì nước Pháp).

    “Người như anh thì biết gì về Marie Antoinette chứ?” cô hỏi khi cái móc cuối cùng tuột ra.

    “Chỉ mới cách đây hơn tiếng đồng hồ thôi,” anh đáp, “cũng không biết nhiều lắm.”

    Họ đón Skeet xuôi con đường hai dặm, và như Dallie đã tiên đoán, ông không vui vẻ gì. Francesca thấy mình bị đẩy xuống ghế sau, ở đây cô uống một chai gì đó tên là chocolate soda Yahoo mà cô tự lấy từ cái thùng lạnh Styrofoam mà không chờ được mời. Cô vừa uống vừa nghiền ngẫm, giữ im lặng như được yêu cầu, trên suốt chặng đường đi New Orleans. Cô tự hỏi Dallie sẽ nói gì nếu anh biết cô không có vé máy bay, nhưng cô nhất quyết sẽ không cho anh ta biết sự thật. Cọ móng tay cái và góc nhãn hiệu Yahoo, cô nghĩ đến tình cảnh không có mẹ, không có tiền, không nhà, hoặc một vị hôn phu của mình. Tất cả những gì còn lại chỉ là một mảnh kiêu hãnh, và cô tha thiết muốn có dịp được vẫy nó lên ít nhất một lần trước khi ngày hôm nay kết thúc. Vì lí do nào đó, lòng kiêu hãnh mỗi lúc một trở nên quan trọng hơn đối với cô khi nó dính dáng đến Dallie Beaudine.

    Giá như anh ta không đẹp hoa mắt, và không thờ ơ ra mặt với cô. Điều đó thật điên tiết…và không sao cưỡng lại. Cô chưa bao giờ từ bỏ một thử thách nào có liên quan đến đàn ông, và cô sẽ không chịu nổi nếu buộc phải từ bỏ thách thức này. Lẽ thường bảo với cô rằng cô đang có những vấn đề lớn hơn cần lo lắng, nhưng một cái gì đó bản năng hơn lại nói nếu cô không thể xoay sở lôi kéo được sự ngưỡng mộ của Dallie Beaudine thì cô ắt sẽ mất thêm một mảnh giá trị nữa của bản thân.

    Lúc cạn chai chocolate soda cũng là lúc cô nghĩ ra cách kiếm đủ tiền mua vé về nhà. Tất nhiên! Sáng kiến đơn giản một cách vô lý đến mức cô nên nghĩ ra ngay tức khắc mới phải. Cô nhìn sang chiếc va li và cau mày trước vết xước trên đó. Cái va li ấy có giá khoảng một nghìn tám trăm bảng lúc cô mua nó cách đây gần một năm. Cô mở hộp mĩ phẩm, lục lọi tìm hộp phấn mắt cùng màu butternut như màu da. Tìm thấy rồi, cô vặn nắp và nhẹ nhàng thoa phấn vào vết xước. Nó vẫn còn hiện lên mờ mờ khi cô xong việc, nhưng cô thấy hài lòng vì chỉ có soi thật kỹ mới phát hiện ra khiếm khuyết.

    Với vấn đề đã được giải quyết và tấm biển chỉ sân bay đầu tiên đã hiện trong tầm mắt, những suy nghĩ của cô lại quay về Dallie Beaudine, cố gắng phân tích thái độ của anh ta đối với cô. Toàn bộ vấn đề - lí do duy nhất khiến mọi chuyện giữa họ diễn ra hết sức tệ hại – nằm ở chỗ trông cô quá kinh khủng. Điều này đã nhất thời đẩy anh ta vào vị trí trên cơ. Cô khép mi mắt và vẽ ra một hình ảnh kỳ thú trong đầu mà ở đó cô xuất hiện trước anh ta với bộ dạng nghỉ ngơi đầy đủ, mái tóc chải thành những lọn hạt dẻ sáng bóng, trang điểm không chê vào đâu được, trang phục hoàn hảo. Cô ắt sẽ khiến anh ta quỳ xuống trong vòng vài giây.

    Cuộc tranh luận hiện tại, có vẻ là chuyện như cơm bữa giữa Dallie và bạn đồng hành khó ưa của anh, đã lôi cô ra khỏi cơn mơ màng.

    “Tôi chẳng hiểu làm sao cậu cứ nhất định phải đến Baton Rouge tối nay,” Skeet càm ràm. “Chúng ta còn cả ngày mai để tới Lake Charles kịp cho vòng đấu sáng Thứ Hai của cậu. Thêm một giờ nữa thì có khác gì?”

    “Khác ở chỗ tôi không muốn phí thời gian lái xe vào ngày Chủ Nhật nhiều hơn mức bắt buộc.”

    “Thì tôi lái. Có mỗi tiếng đồng hồ. Ở đấy lại có cái nhà nghỉ khá được mà năm ngoái chúng ta đã trọ. Cậu không có một con chó hay thứ gì đó để ghé thăm sao?”

    “Từ khi nào anh lại quan tâm đến những con chó của tôi thế?”

    “Con chó lai xinh xinh có đốm đen phía trên một bên mắt đúng không? Một chân nó bị tật thì phải.”

    “Con chó đấy ở Vicksburg.”

    “Cậu chắc chứ?’

    “Tất nhiên là tôi chắc. Nghe này Skeet, nếu anh muốn nghỉ lại New Orleans đêm nay để anh có thể đến Blue Choctaw và gặp cô hầu bàn tóc đỏ ấy, sao anh không nói toẹt ra thay vì lòng vòng thế này, mượn đến lũ chó và những cái chân bị tật cứ như loại đạo đức giả ấy.”

    “Tôi không có đả động gì đến cô hầu bàn tóc đỏ hay muốn đến Blue Choctaw nhé.”

    “Ờ. Tôi sẽ không đi với anh đâu. Cái chốn ấy dễ sinh ẩu đả lắm, nhất là vào tối thứ Bảy. Phụ nữ trông như những đô vật đấu bùn và đàn ông còn tệ hơn. Lần cuối cùng đến đó tôi suýt thì bị gãy xương sườn, và tôi có đủ bực dọc cho ngày hôm nay rồi.”

    “Tôi đã bảo cậu để cô ta lại cho cái gã ở trạm xăng kia, nhưng cậu đâu có nghe. Chẳng bao giờ cậu chịu nghe tôi cả. Y như Thứ Năm tuần trước. Tôi bảo cậu là cú đánh từ mặt sân gồ ghề ấy là một trăm năm lăm yard; tôi đã đo bằng bước chân và nói cho cậu, thế nhưng cậu lờ tôi đi và chọn cây gậy sắt số tám cứ như tôi không hề nói gì.”

    “Anh dừng đi được không? Tôi đã nói với anh ngay lúc ấy là tôi sai, và ngày hôm sau tôi tiếp tục nhận sai với anh, và tôi đã nhắc lại mỗi ngày hai lần kể từ đó, nên anh im đi!”

    “Đó là cái thói của lính mới, Dallie, không tin con số mà caddy của mình đưa ra. Đôi khi tôi nghĩ cậu đang tìm mọi cách để thua trận.’

    “Francie?” Dallie nói vọng qua vai. “Cô còn câu chuyện thú vị nào về mascara muốn kể cho tôi ngay bây giờ không?”

    “Xin lỗi,” cô ngọt ngào đáp. “Tôi ở ngoài cuộc. Với lại tôi không được phép mở miệng, anh nhớ chứ?”

    “Dù sao cũng muộn mất rồi,” Dallie thở dài, dừng xe lại trước nhà ga chính của sân bay. Vẫn để động cơ nổ, anh ra khỏi xe và vòng sang mở cửa cho cô. “Francie, tôi không thể nói mọi chuyện vừa qua là vui vẻ.” Sau khi cô bước ra, anh vươn tay ra ghế sau lấy hành lí của cô, rồi đặt chúng xuống vỉa hè bên cạnh cô. “Chúc cô may mắn với vị hôn phu và hoàng tử và tất cả những con phượng hoàng thượng đẳng khác mà cô giao du.”

    “Cảm ơn anh,” cô nói một cách cứng nhắc.

    Anh nhai nhai miếng kẹo cao su và cười. “Chúc may mắn với những con ma cà rồng nữa.”

    Cô đáp lại ánh mắt thích thú của anh ta bằng vẻ nghiêm trang lạnh lùng. “Tạm biệt, anh Beaudine.”

    “Tạm biệt, cô Francie Pants.”

    Anh ta đã nói lời cuối cùng với cô. Cô đứng trên vỉa hè trước nhà ga và đối mặt với sự thật không thể tránh khỏi là tên nhà quê bảnh trai này đã ghi điểm quyết định trong trò chơi do cô tạo ra. Một gã nhà quê dốt nát – có khi còn tứ cố vô thân – lại khôn ngoan hơn, mồm mép hơn, và đánh bại Francesca Serritella Day vốn không có đối thủ.

    Chí khí còn sót lại của cô lên cơn nổi loạn, và cô ngước nhìn anh ta với đôi mắt nói lên cả lịch sử nền văn học bị cấm cửa. “Thật đáng tiếc là chúng ta đã không gặp nhau trong những hoàn cảnh khác.” Cái miệng hờn dỗi của cô cong lên trong một nụ cười láu lỉnh. “Tôi chắc chắn chúng ta có muôn vàn điểm chung.”

    Và sau đó cô kiễng chân, dụi vào ngực anh, và đưa hai cánh tay lên cho đến khi chúng vòng qua cổ anh, ánh mắt không lúc nào rời khỏi anh. Cô ngửa gương mặt hoàn hảo của mình lên và chu cái miệng mềm mại như một chiếc ly nạm đá quý. Nhẹ nhàng dùng lòng bàn tay kéo đầu anh xuống, cô áp môi mình vào môi anh rồi từ từ hé môi để Dallie có thể uống một hơi dài không thể quên được.

    Anh thậm chí chẳng thèm chần chừ, mà vào cuộc ngay như thể đã từng ở đó, mang theo tất cả sự thành thạo đã thu được qua năm tháng để gặp gỡ và hòa trộn với tất cả sự thành thạo của cô. Nụ hôn của họ tuyệt diệu – nóng bỏng và gợi cảm – hai kẻ nhà nghề đang trổ hết tài năng, một cảm giác râm ran lan xuống các đầu ngón chân. Cả hai đều quá sành sỏi để không va răng hay vẹo mũi hay làm bất cứ những chuyện ngượng ngùng khác mà những người đàn ông và phụ nữ thiếu kinh nghiệm hay mắc phải. Cô giáo của nghệ thuật quyến rũ đã gặp một bậc thầy, và đối với Francesca trải nghiệm này là tuyệt vời nhất so với bất cứ cảm xúc nào cô từng có, kèm theo đó là sự rùng mình và đầu gối mềm nhũn ra, một nụ hôn cực kỳ hoàn hảo lại càng hoàn hảo hơn vì biết mình không phải nghĩ ngợi gì đến hậu quả rầy rà là hứa hẹn những chuyện mà cô không có ý định thực hiện.

    Áp lực của nụ hôn giảm xuống, cô quét đầu lưỡi qua môi dưới của anh. Rồi từ từ dứt ra. ”Tạm biệt, Dallie,” cô khẽ nói, cặp mắt xanh như mắt mèo ngước nhìn anh với ánh long lanh ranh mãnh. ”Lần tới đến Cap Ferret nhớ ghé thăm tôi.”

    Ngay trước khi quay đi, cô đã có được cảm giác khoan khoái khi trông thấy vẻ thích thú thoáng hiện trên gương mặt anh ta.

    ”Từ giờ tôi nên quen với chuyện này thôi,” Skeet nói khi Dallie ngồi lại vào sau tay lái. ”Tôi nên quen với nó, nhưng không được. Tất cả bọn họ đều đổ gục trước cậu. Người giàu, người nghèo, người xấu, người đẹp. Đều chung cảnh ngộ. Họ cứ như một đàn bồ câu bay xà quần trong chuồng vậy. Cậu bị dính son kìa.”

    Dallie đưa mu bàn tay quệt miệng rồi cúi nhìn vết nhàn nhạt trên đó. ”Nhất định là có ý nghĩa,” anh lẩm bẩm.

    Đứng ngay sau cánh cửa nhà ga, Francesca nhìn chiếc Buick phóng đi và cố dằn niềm tiếc nuối vô lý xuống. Khi chiếc xe khuất khỏi tầm mắt, cô xách va li lên và rảo bước trở ra ngoài tới bãi đỗ taxi nơi có duy nhất một chiếc taxi màu vàng. Người tài xế xuống xe chất hành lí của cô vào cốp trong lúc cô ngồi vào ghế sau. Leo lên xe, anh ta quay sang cô. ”Cô đi đâu, thưa cô?”

    ”Tôi biết là đã muộn rồi, nhưng anh có biết tiệm đồ cũ nào còn mở cửa không?”

    ”Tiệm đồ cũ?”

    ”Phải. Một nơi mua những nhãn hiệu thiết kế... và một chiếc vali cực kỳ đặc biệt.”
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 9 others like this.
  10. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 9

    New Orleans – thành phố của ”Stella, Stella, Stella for star,” (câu nói trong vở kịch Chuyến tàu mang tên dục vọng sau này được dựng thành bộ phim cùng tên với các diễn viên Vivien Leigh, Marlon Brando), của nghề sắt trang trí và bài hát Old Man River, hoa nhài sao và hoa mộc, của những đêm nóng bỏng, nhạc jazz nóng bỏng, phụ nữ nóng bỏng - nằm cuối dòng Mississippi như một mảnh trang sức xỉn màu. Ở một thành phố nêu bật sự cá tính, quán Blue Chotaw lại cố gắng duy trì vẻ tầm thường. Xám xịt và cáu bẩn, với hai tấm biển quán bia gắn đèn neon sáng thoi thóp trong một ô cửa sổ ám đặc khói, quán Blue Choctaw đáng lẽ phải nằm trong khu vực xơ xác nhất của bất kỳ thành phố nào trên nước Mỹ - gần bến tàu, nhà máy, bên sông, ven khu ổ chuột. Nó hiện thân cho cái xấu, cho những vỉa hè luôn chìm trong bóng tối, đầy rác rưởi, những ngọn đèn đường sứt vỡ, khu vực không một gái nhà lành nào được bén mảng trong thành phố.

    Blue Choctaw có một mối ác cảm đặc biệt với những cô gái nhà lành. Ngay cả những phụ nữ mà cánh đàn ông bỏ mặc ở nhà cũng chưa ngoan được như thế, và chắc chắn là đám đàn ông không muốn tìm đến những cô nàng ngoan hơn ngồi trên ghế đẩu bọc nhựa vinyl bên quầy bar cạnh họ. Họ muốn tìm những người như Bonni và Cleo, những gái điếm nửa vời xức nước hoa đậm đặc và tô son đỏ thẫm, nói chuyện suồng sã và tư duy cục mịch và giúp một người đàn ông quên rằng Jimmy Carter Đồ Khốn chắc chắn sẽ đắc cử tổng thống và tạo công ăn việc làm cho tất cả người da đen.

    Bonni xoay xoay cây kiếm nhựa màu vàng trong ly cocktail mai-tai của mình và nhìn xuyên qua đám đông ồn ào tới cô bạn đồng thời là đối thủ Cleo Reznyak, đang ưỡn cả bộ ngực dựa vào Tony Grasso khi gã nhét đồng 25 xu vào khe máy hát tự động và nhấn nút C-24. Không gian nồng nặc khói thuốc ở Blue Choctaw tối đó có một cái gì đó dữ tợn, dữ tợn hơn ngày thường, mặc dù Bonni không hề nhúng tay vào. Có lẽ là do hơi nóng ngột ngạt không chịu tan đi; có lẽ là do Bonni đã bước sang tuổi ba mươi vào tuần trước và những ảo tưởng cuối cùng của cô vừa biến mất. Cô biết mình không thông minh, không đủ xinh để sống được bằng ngoại hình, và không còn hơi sức để cải thiện bản thân. Cô đang sống trong một ngôi nhà tạm lụp xụp, trực điện thoại tại tiệm làm đầu Gloria’s Hair Beautiful, và tương lai sẽ không thể khởi sắc hơn.

    Đối với một cô gái như Bonni, quán Blue Choctaw là hiện thân của quãng thời gian tươi đẹp, những tiếng cười lác đác, thỉnh thoảng một vị khách sộp trả tiền cho cốc mai-tai của cô, đưa cô lên giường, và để lại tờ bạc năm mươi dollar trên mặt tủ vào sáng hôm sau. Một trong những vị khách sộp đó đang ngồi ở đầu bên kia quầy bar … với ánh mắt dán vào Cleo.

    Cô và Cleo có một thỏa thuận, là cùng nhau đối phó với bất cứ ma mới nào định đặt mông lên ghế đẩu quầy bar của Blue Choctaw một cách quá ung dung, và họ không xâm phạm lãnh thổ của nhau. Tuy nhiên, người khách kia đang tán tỉnh Cleo. Gã có cái bụng bự và hai cánh tay khá lực lưỡng chứng tỏ gã có công việc ổn định, có thể là ở một trong những giàn khoan ngoài khơi – một món bở xuất hiện đúng lúc. Dạo gần đây Cleo đang lấn át cô về thị phần đàn ông, bao gồm Tony Grasso, và Toni đã cạn sức chịu đựng.

    “Chào,” cô vẩn vơ bước đến và trườn lên chiếc ghế cạnh gã. “Anh mới đến đây phải không?”

    Gã nhìn sang cô, thu vào mắt mái tóc vàng được xịt chải công phu, đôi mắt tô phấn màu mận chín, và bộ ngực thây lẩy. Khi gã gật đầu, Bonni có thể thấy gã đang dần quên Cleo.

    “Mấy năm vừa rồi tôi ở Biloxi,” gã đáp lời. “Cô uống gì?”

    Cô nở một nụ cười kiểu mèo con với gã. “Tôi thích mai-tais.” Sau khi gã ra hiệu cho bartender chuẩn bị đồ uống cho cô, cô liền vắt chéo chân. “Chồng cũ của tôi có quãng thời gian sống ở Biloxi đấy. Tôi không nghĩ hai người biết nhau? Tên khốn đó tên là Ryland.”

    Gã lắc đầu – vẻ không biết ai tên đó – và dịch cánh tay để nó cọ vào một bên ngực cô. Bonni quyết định là bọn họ sẽ hợp nhau, và cô xoay người vừa đủ độ để không nhìn thấy vẻ lên án trong mắt Cleo.

    Một tiếng sau hai người bọn họ có cuộc nói chuyện thẳng thắn trong nhà vệ sinh nữ. Cleo xả hết bức xúc của mình trong mấy phút, cào chiếc lược vào mái tóc đen cứng rồi sau đó siết chặt đôi hoa tai giả đá đẹp nhất của mình. Bonni xin lỗi và nói cô không biết là Cleo để ý người nọ.

    Cleo nhìn cô vẻ nghi ngờ. ”Cậu biết là tôi đang chán Tony mà. Anh ta chỉ độc có ca cẩm về vợ mình. Bà nó chứ, mấy tuần liền tôi còn chẳng moi được một tiếng cười của anh ta.”

    ”Còn gã ở quầy bar – tên là Pete – cũng chẳng vui tính gì đâu,” Bonnie thú nhận. Cô lấy lọ nước hoa Tabu trong xắc tay ra và xịt thả tay. ”Nơi này rồi sẽ toi thôi.”

    Cleo tô thêm son rồi lùi lại kiểm tra thành quả. “Cậu từng nói như thế rồi.”

    “Có lẽ chúng ta nên ngược lên mạn bắc. Tới Chicago hoặc nơi nào đó.”

    “Tớ thì nghĩ đến St. Louis. Nơi mà không phải tất cả đàn ông đều đã kết hôn.”

    Đây là chủ đề họ đã bàn nát nước, và còn tiếp tục bàn luận khi ra khỏi nhà vệ sinh, đánh giá những thuận lợi của ngành dầu khí ở Houston, khí hậu ở Los Angeles, tiền bạc ở New Yorrk, và biết rằng họ sẽ chẳng bao giờ đi khỏi New Orleans.

    Hai người phụ nữ len qua đám đàn ông tụ tập gần quầy bar, mắt đảo xung quanh, không còn chú ý đến nhau mặc dù vẫn không ngừng trò chuyện. Trong lúc tìm kiếm con mồi của mình, Bonni bắt đầu nhận ra có gì khang khác. Mọi thứ dường như yên ắng hơn, dù quầy bar vẫn đông nghẹt, mọi người vẫn nói chuyện, và cái máy hát phát oang oang bài “Ruby.” Rồi cô để ý thấy rất nhiều những cái đầu đang ngoảnh ra cửa.

    Huých tay Cleo, cô hất cằm. “Đằng kia.”

    Cleo nhìn theo hướng Bonni chỉ và đứng sững lại. “Ôi chà.”

    Họ ghét cô ả ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô ả có tất cả những thứ mà họ không có – một người phụ nữ thuộc về các tạp chí thời trang, đẹp như một người mẫu New York, ngay cả trong chiếc quần jeans; sang trọng, sành điệu, và kiêu kỳ, mang một vẻ mặt giống như ả vừa ngửi thấy một mùi khó chịu, và thứ mùi đó phát ra từ họ. Ả là loại phụ nữ không thuộc về bất cứ nơi nào gần một chốn như Blue Choctaw, một kẻ xâm phạm thù địch khiến cho họ cảm thấy mình xấu xí, rẻ tiền, và tàn tạ. Và rồi họ trông thấy hai người đàn ông mình vừa bỏ lại chưa đầy mười phút trước đang đi về phía cô ả.

    Bonni và Cleo đưa mắt nhìn nhau một khắc trước khi nhằm hướng đó thẳng tiến, cặp mắt nheo nheo, bụng sắt lại vì quyết tâm.

    Francesca chẳng hay biết điều gì sắp đến khi cô quan sát bầu không khí thù địch của Blue Choctaw bằng ánh mắt lo lắng, dồn hết sức tập trung nhìn qua làn khói dày đặc và đám đông toàn người là người để tìm bóng dáng Skeet Cooper. Thái dương cô hằn lên một đường gân run run sợ hãi, lòng bàn tay cô đổ mồ hôi. Chưa bao giờ cô cảm thấy lạc lõng như khi ở trong quán bar New Orleans tồi tàn này.

    Âm thanh cười nói ồn ào và tiếng nhạc quá lớn tấn công lỗ tai cô. Cô cảm thấy những con mắt thù nghịch đang săm soi mình, và cô siết chặt hơn chiếc hộp mĩ phẩm Vuitton, cố quên đi rằng nó đang chứa toàn bộ gia tài của cô, ráng xóa sạch ký ức về những nơi kinh khủng mà người lái taxi đã đưa cô đến, cái sau ghê sợ hơn cái trước, và không nơi nào mang hơi hướm giống tiệm đồ cũ ở Piccadilly nơi nhân viên lịch thiệp đón nhận những mẫu thiết kế gốc đã qua sử dụng và phục vụ trà cho khách hàng. Cô những tưởng bán quần áo là một ý hay; cô đã không hình dung cuối cùng mình phải đổi chiếc va li và cả tủ quần áo lấy ba trăm năm mươi dollar ở một hiệu cầm đồ lụp xụp để có thể trả tiền taxi và đủ tiền để cầm cự trong mấy ngày tới cho đến khi liên lạc được với Nicky.

    “Chào cưng.”

    Francesca giật bắn mình khi hai người đàn ông dáng vẻ bất hảo xáp đến bên cô, một người bụng bự như sắp làm đứt tung hàng cúc trên chiếc áo sơ mi kẻ ô, người kia có bộ mặt bóng mỡ với lỗ chân lông nở rộng.

    ”Trông cô em có vẻ muốn uống chút gì đó,” tên béo nói.

    ”Anh và anh bạn Tony đây rất vui lòng được mời em một ly đúp mai-tais.’

    ”Không, xin cảm ơn,” cô trả lời, thấp thỏm nhìn quanh tìm Skeet. Tại sao ông ta không có ở đây? Nỗi oán giận đâm nhói vào cô như kim châm. Tại sao Dallie không đưa cô tên nhà nghỉ anh ta trọ thay vì bắt cô đứng ở ngưỡng cửa cái nơi kinh khủng này, cái tên mà cô mất hai mươi phút tra danh bạ điện thoại mới mò ra? Việc cô cần phải tìm anh ta đã in sâu trong trí cô trong lúc cô thực hiện một loạt các cuộc gọi vô vọng về London cố liên lạc với Nicky hoặc David Graves hoặc một trong những người bạn cũ của mình, tất cả bọn họ dường như đều vắng mặt ở thành phố, mới kết hôn, hoặc không nhận điện thoại của cô.

    Hai người phụ nữ mặt mũi đanh đá từ đâu áp sát hai tên đàn ông trước mặt Francesca, vẻ gây chiến ra mặt. Người phụ nữ tóc vàng ngả vào tên bụng bự. ”Pete, ta nhảy một bản nào.”

    Pete không rời mắt khỏi Francesca. ”Để sau đi, Bonni.”

    ”Em muốn nhảy bây giờ,” Bonni khăng khăng, miệng sắt lại.

    Ánh mắt Pete trườn khắp người Francesca. ”Tôi đã nói để sau. Ra nhảy với Tony ấy.”

    “Tony nhảy với tôi rồi,” người phụ nữ tóc đen nói, bấm những móng tay sơn tím cắt ngắn lên cánh tay lông lá của tên đàn ông kia. “Đi nào, anh yêu.”

    “Biến đi, Cleo.” Hất những cái móng tay tím ra, Tony chống tay lên tường ngay sát đầu Francesca và cúi lại gần cô. “Em mới đến thành phố phải không? Anh không nhớ đã nhìn thấy em trước đây.”

    Cô đổi thế đứng, cố tìm bóng dáng chiếc băng đầu đỏ rực trong lúc tránh né mùi khó chịu trộn lẫn giữa rượu whiskey và kem cạo râu rẻ tiền.

    Người phụ nữ tên Cleo cười khẩy. “Anh tưởng một cô ả điệu bộ như thế này sẽ dành thời gian trong ngày cho anh sao, Tony?”

    “Tôi tưởng đã bảo cô biến đi rồi cơ mà.” Hắn nở nụ cười xun xoe với Francesca. “Em chắc chắn không muốn uống gì à?”

    “Tôi không khát,” Francesca cứng nhắc đáp. “Tôi đang đợi một người.”

    “Có vẻ cô đợi toi công rồi,” Bonni gừ gừ. “Nên cô biến đi thì hơn.”

    Một luồng không khí ấm áp từ bên ngoài phả vào lưng áo ẩm ướt của cô khi cửa mở, đón thêm ba người đàn ông bặm trợn, không ai trong số đó là Skeet. Nỗi thấp thỏm của Francesca càng tăng. Cô không thể đứng ở ngưỡng cửa cả đêm được, nhưng cô co rúm trước ý nghĩ đi sâu vào trong dù chỉ một bước. Tại sao Dallie không cho cô biết nơi anh ta nghỉ chân chứ? Cô không thể ở một mình tại New Orleans chỉ với ba trăm năm mươi dollar để cầm hơi trong lúc chờ Nicky đi ăn chơi về. Cô phải tìm ra Dallie ngay, trước khi anh ta lại lên đường! ”Xin phép,” cô nói đột ngột, lách qua giữa Tony và Pete.

    Cô nghe thấy một tiếng cười khan khó chịu từ một trong hai người phụ nữ, rồi tiếng lẩm bẩm từ Tony. ”Tại cô đấy, Bonni,” hắn phàn nàn. ”Cô và Cleo dọa con nhỏ chạy mất đúng lúc –” đoạn còn lại ơn trời là chìm đi khi cô len lỏi qua đám đông tiến sâu vào trong, tìm một bàn kín đáo.

    ”Này cô em –”

    Liếc qua vai cô thấy Pete đang bám theo. Cô lách người qua giữa hai chiếc bàn, cảm thấy có bàn tay ai đó vuốt mông mình, cô vội vàng chạy đến nhà vệ sinh. Vào tới bên trong rồi, cô dựa cả người vào cửa, hộp mĩ phầm ghì sát ngực. Bên ngoài vang lên tiếng kính vỡ khiến cô giật bắn người. Thật là một nơi gớm guốc! Định kiến của cô về Skeet bị hạ thấp thêm một mức nữa. Rồi cô sực nhớ Dallie có nhắc đến một cô hầu bàn tóc đỏ. Mặc dù cô chẳng nhìn ra ai trùng khớp với miêu tả đó, nhưng cô chưa để tâm tìm mà. Có lẽ người bartender có thể cung cấp cho cô chút thông tin nào chăng.

    Cánh cửa bên cạnh cô chợt mở, và hai người phụ nữ đanh đá kia bước vào. ”Xem chúng ta có gì này, Bonni Lynn,” người tên Cleo châm chọc.

    ”Chẳng phải cô nàng lý tưởng đây ư,” Bonni đáp lời. ”Có chuyện gì thế cưng? Cô chán kinh doanh khách sạn nên quyết định vi hành xuống đây à?”

    Quai hàm Francesca nghiến lại. Hai người đàn bà này đã bức ép cô quá đáng. Hếch cằm lên, cô nhìn chằm chằm lớp phấn mắt màu mận chín rất chối của Bonni. ”Hai người bẩm sinh đã thô lỗ thế này, hay gần đây mới thế?”

    Cleo cười khanh khách và quay sang Bonni. ”Ôi, ôi. Nó chửi cậu kìa.” Ả xăm soi chiếc hộp mĩ phẩm của Francesca. ”Cô đựng gì trong đấy mà quan trọng thế hà?”

    ”Không phải việc của chị.”

    ”Cô để trang sức trong đó à?” Bonnie hỏi dò. ”Ngọc bích và kim cương bạn trai mua tặng cô phỏng? Cô tính giá bao nhiêu cho phi vụ này?”

    ”Phi vụ!” Francesca không thể nhầm lẫn ý của chị ta và trước khi kìm được mình, tay cô đã vung lên tát vào gò má bự phấn của chị ta.

    “Chị dám…”

    Cô không tiến xa hơn được. Với một tiếng rít chói tai, Bonni giương những móng vuốt lên bổ vào không khí, chuẩn bị túm tóc Francesca. Theo bản năng cô đẩy hộp mĩ phẩm về phía trước nhằm chặn hành động của chị ta lại. Chiếc hộp đập trúng eo Bonni, làm chị ta nghẹn thở và lảo đảo một lúc trên trên đôi giày cao gót giả da cá sấu trước khi ngã hẳn. Khi chị ta nhào xuống sàn, Francesca cảm thấy một khoảnh khắc thỏa mãn nguyên sơ khi cuối cùng cô có thể trút hận vào một ai đó cho tất cả những chuyện đen đủi đã xảy ra với cô ngày hôm ấy. Khoảnh khắc đó vụt biến khi cô trông thấy vẻ mặt Cleo, và nhận ra mình đã tự đâm đầu vào hiểm nguy thực sự.

    Cô lao ra cửa, nhưng Cleo đã đuổi kịp và túm chặt cổ tay cô ở gần chiếc máy hát tự động. “Đừng mong thoát, con khốn ạ,” ả gầm gừ, lôi cô trở lại nhà vệ sinh.

    “Cứu với!” Francesca kêu toáng, khi cả quãng đời mình lóe lên trước mắt. “Có ai không, xin cứu tôi!”

    Cô nghe thấy tiếng cười khó chịu của đàn ông, và khi Cleo xô cô về phía trước, cô nhận ra sẽ chẳng có ai nhảy vào giúp cô hết. Hai người phụ nữ đáng sợ đó định hành hạ cô trong nhà vệ sinh, và không một ai quan tâm! Hoảng sợ, cô vung hộp mĩ phẩm lên định đẩy Cleo ra, nhưng lại trúng vào hình xăm của một người nào đó, khiến hắn kêu ré.

    “Lấy cái hộp của nó,” Cleo ra lệnh, giọng khàn đi vì giận dữ. “Nó vừa đánh Bonni đấy.”

    “Bonni đáng bị thế,” giọng Pete át cả điệp khúc cuối của bài “Rhinestone Cowboy” và những lời bình phẩm từ đám người xem khoái chí. Trước sự nhẹ nhõm tràn ngập của Francesca, anh ta dợm bước lại, rõ ràng định cứu cô. Và rồi cô nhận ra cái gã xăm trổ trên tay lại có ý khác.

    “Đứng ngoài đi!” Gã xăm trổ cao giọng bảo Pete trong lúc vặn chiếc hộp ra khỏi tay cô. “Đây là chuyện giữa lũ đàn bà.”

    “Không!” Francesca kêu to. “Không phải giữa lũ đàn bà. Thực ra tôi còn không biết mấy người này, và tôi –“

    Cô thét lên vì Cleo đã dùng cả hai tay nắm tóc cô và vặn đầu cô về phía nhà vệ sinh. Đôi mắt cô ứa nước và cổ cô bị ngật ra sau. Chuyện này thật man rợ! khủng khiếp! Bọn họ sắp giết cô!

    Trong khoảng khắc đó, cô cảm thấy tóc mình đang bị dứt khỏi da đầu cả mảng. Mái tóc hạt dẻ đẹp đẽ của cô! Lí trí rời bỏ cô và một cơn cuồng nộ che mờ tất cả. Cô trở nên điên dại, thét lên một tiếng khi quẫy mạnh người. Cleo gầm gừ khi bàn tay Francesca chộp đúng phần bụng đã mất đi sự rắn chắc của ả. Áp lực trên đầu Francesca lập tức giảm đi, nhưng cô chỉ kịp hít vào một hơi thì đã thấy Bonni tiến lại, sẵn sàng thế vị trí Cleo vừa rời bỏ. Một chiếc bàn gần đó đổ xuống sàn, kính vỡ tan. Cô lờ mờ nhận thấy trận đấu đã lan rộng, và Pete đã nhảy tới định cứu cô, Pete tuyệt vời với chiếc áo sơ mi kẻ ô và bụng bia, Pete là số một, là anh hùng.

    “Con đĩ!” Bonnie rít lên, quờ quạng tìm bất cứ cái gì có thể túm được, và đó là hàng cúc ngọc trai đính ở dải viền màu cacao trên chiếc áo blouse Halston màu greige (màu pha giữa xám và be) của Francesca. Vạt áo trước bung ra, đường may ở vai rách toạc. Một lần nữa Francesca cảm thấy tóc mình bị kéo mạnh, và cô lại xoay người, vòng bày tay còn lại qua đầu Bonni túm lấy tóc ả.

    Đột nhiên như thể ẩu đả nổ ra khắp nơi xung quanh cô – ghế kéo lê trên sàn, một cái chai bay vèo trong không khí, tiếng ai đó hét lên. Cô cảm thấy một cái móng tay trên bàn tay phải gẫy lìa. Những dải ruy băng thõng xuống khỏi vạt áo blouse của cô, lộ ra áo ngực bằng ren nhạt, nhưng cô chẳng có thời gian để mà ngượng vì những chiếc nhẫn rất sắc của Bonnie cào vào cổ cô. Francesca nghiến răng chịu đau và kéo mạnh hơn. Cùng lúc đó cô đột ngột nhận ra trong khiếp hãi là cô – Francesca Serritella Day, ngôi sao của giới thượng lưu quốc tế, con cưng của mảng xã hội trên các báo, suýt trở thành Công chúa xứ Wales – đang ở chính giữa, tâm điểm, hạt nhân của một vụ ẩu đả trong quán rượu.

    Đầu đằng kia phòng, cửa quán Blue Choctaw bật mở và Skeet bước vào, theo sau là Dallie Beaudine.

    Dallie đứng đó một lúc, nhận định sự việc đang diễn ra, nhìn những thành phần tham gia, và lắc đầu vẻ ghê tởm. ”Chết tiệt.” Với tiếng thở dài nản đến tận cổ, anh bắt đầu lách lối qua đám đông.

    Chưa bao giờ trong đời mình Francesca vui mừng đến thế khi nhìn thấy một người, ngoại trừ thoạt đầu cô không nhận ra đó là anh ta. Khi anh ta chạm vào vai cô, cô buông Bonni ra, quay phắt lại, và thoi một cú hết sức bình sinh vào ngực anh ta.

    “Này,” anh kêu, xoa xoa chỗ đau. “Hình như tôi ở phe cô đấy.”

    “Dallie!” Cô nhào vào vòng tay anh. “Ôi, Dallie, Dallie, Dallie! Dallie tuyệt vời của tôi! Tôi không thể tin được đó là anh!”

    Anh đẩy cô ra. “Bình tĩnh nào, Francie, cô còn chưa ra khỏi đây đâu. Thế quái nào mà –“

    Anh chưa kịp nói hết. Một người trông như nhân vật quần chúng trong một bộ phim xưa của Steve Reeves nhảy xổ vào anh với một cú móc phải, và Francesca kinh hãi nhìn Dallie ngã sóng soài ra sàn. Thoáng thấy hộp mĩ phẩm nằm chỏng chơ trên máy hát, cô liền chụp lấy nó và phang vào một bên đầu cái tên bất lương nọ. Trước sự hoảng hốt của cô, cái móc cài bung ra, và cô tuyệt vọng đứng nhìn những cây cọ thân yêu cùng phấn và kem và lotion bay khắp phòng. Hộp phấn phủ đặc biệt của cô rắc vung vãi một đám mây thơm nức khiến mọi người ho sặc sụa và trượt té đồng thời hạ nhiệt chút ít trận hỗn chiến.

    Dallie loạng choạng đứng lên, tung mấy cú đấm, rồi túm tay cô. “Đi thôi. Ra khỏi đây trước khi bọn họ quyết định dùng cô làm bữa ăn khuya.”

    “Đồ trang điểm của tôi!” Cô bò tới chỗ hộp phấn mắt màu đào, mặc dù biết đó là một hành động ngớ ngẩn khi mà áo cô thì rách, cổ bị xước đến chảy máu, hai móng tay gẫy, và tính mạng cô đang nguy ngập. Nhưng việc lấy lại hộp phấn mắt đột nhiên trở nên quan trọng với cô hơn bất cứ điều gì, và cô sẵn sàng đánh lại tất cả bọn họ để giành lại nó.

    Anh choàng tay qua eo cô nhấc cô khỏi mặt sàn. “Kệ cha nó đi!”

    “Không! Bỏ tôi xuống!” Cô phải có hộp phấn mắt. Từng chút một, mọi đồ vật cô sở hữu đang bị cướp khỏi cô, và nếu cô để cho chỉ một thứ nữa biến mất, một món đồ nữa vuột khỏi cuộc đời cô, rất có thể chính cô sẽ không tồn tại, tan dần như con mèo Cheshire cho đến khi không còn lại gì, kể cả bộ răng. (Cheshire là chú mèo trong truyện Alice ở xứ thần tiên).

    “Đi thôi, Francie!”

    “Không!” Cô chống trả lại Dallie y như đã chống lại đám đông, vùng vẫy hai chân trong không khí, đá vào bắp chân anh, miệng la hét, “Tôi muốn nó! Tôi phải có nó!”

    “Rồi cô sẽ có nó, được chưa!”

    “Xin anh, Dallie,” cô van nài. “Làm ơn đi!”

    Cái từ màu nhiệm đó trước nay chưa từng khiến cô thất bại, và bây giờ cũng vậy. Lầm bầm trong miệng, anh cúi xuống với cánh tay vẫn giữ chặt eo cô và chụp lấy hộp phấn mắt. Khi anh đứng thẳng lên, cô giật lấy nó từ anh rồi nhoài người, vừa kịp với được cái nắp mở bung của hộp mĩ phẩm trước khi anh lôi đi. Lúc đóng được nắp hộp, cô đã mất một lọ kem dưỡng ẩm mùi hạnh và gẫy cái móng tay thứ ba, nhưng cô đã không làm rơi chiếc ví da bê cùng với ba trăm năm mươi dollar. Và cô đã có hộp phấn mắt màu đào quý báu.

    Skeet giữ cửa cho Dallie mang cô ra. Khi anh đặt cô xuống vỉa hè, cô nghe thấy tiếng còi báo động. Anh lập tức chộp cô trở lại và lôi tới chỗ chiếc Riviera.

    ”Cô ta còn không tự đi được sao?” Skeet hỏi, bắt lấy chùm chìa khóa Dallie ném cho.

    ”Cô ta thích cãi lộn.” Dallie liếc nhìn những ánh đèn hiệu của xe cảnh sát đã thấp thoáng. ”Ủy viên Deane Beman và PGA sẽ phải chịu trận tôi rất nhiều trong năm nay, nên ta cần biến khỏi đây thôi.” Đẩy cô vào ghế sau một cách chẳng nương nhẹ gì, anh nhảy lên xe theo cô và đóng cửa lại.

    Chiếc xe im lặng lướt đi trong nhiều phút. Hàm răng Francesca bắt đầu đánh đàn do hậu quả của vụ ẩu đả. Và đôi bàn tay cô run lẩy bẩy khi cố khép hai vạt áo và nhét những đuôi vải rách vào trong áo lót. Cô không mất nhiều thời gian để nhận ra việc làm đó là vô ích. Một cục nghẹn chặn ngang cổ họng cô. Cô ghì sát hai cánh tay trước ngực và khao khát một biểu hiện đồng cảm, một nỗi lo lắng nào đó với tình trạng của cô, một dấu hiệu nhỏ chứng tỏ có người quan tâm đến cô.

    Dallie luồn tay vào dưới ghế trước lôi ra một chai rượu scotch chưa khui. Sau khi bẻ dấu niêm phong bằng ngón tay cái, anh vặn nắp, làm một hơi dài, rồi tỏ ra trầm ngâm. Francesca chuẩn bị đón nhận những câu hỏi sắp đến và lên tinh thần trả lời từng câu với vẻ đường hoàng hết mức có thể. Cô cắn môi dưới để ngăn nó không run lên.

    Dallie vươn tới gần Skeet. “Tôi không thấy bóng dáng cô hầu bàn tóc đỏ ấy. Anh có kịp hỏi thăm về cô ta không?”

    “Có. Tay bartender bảo cô ta đã đi Bogalusa với một gã làm cho công ty điện lực.”

    “Quá nhọ.”

    Skeet liếc vào gương chiếu hậu. “Hình như gã ấy chỉ còn một cánh tay.”

    “Thật à? Tay bartender có kể nguồn cơn không?”

    “Một tai nạn lao động nào đó. Mấy năm qua hắn làm cho một công ty cơ khí trên mạn Shreveport và tay hắn bị kẹt vào máy ép, nó bị cán dẹp hơn cả bánh pancake.”

    “Chắc chuyện đó không ảnh hưởng đến cuộc sống yêu đương giữa hắn với cô phục vụ của anh.” Dallie làm một ngụm nữa. “Phụ nữ rất buồn cười trong những chuyện như thế. Đơn cử như cái cô chúng ta gặp năm ngoái ở Sandiego sau vụ Andy Williams-“

    “Dừng lại!” Francesca không kìm được phải hét lên. “Hai người nhẫn tâm đến độ không có phép lịch sự tối thiểu để hỏi xem tôi có ổn không sao? Đó là một cuộc ẩu đả trong quán rượu đấy! Hai người không nhận thấy tôi có thể đã bị giết ư?”

    “Có lẽ là không,” Dallie đáp. “Khả năng cao là sẽ có người nhảy ra ngăn chặn.”

    Cô thu tay thành nắm đấm và thoi mạnh vào cánh tay anh.

    “Oái.” Anh xoa xoa chỗ đau.

    “Cô ta vừa đánh cậu à?” Skeet phẫn nộ hỏi.

    “Ờ.”

    “Cậu định đánh trả không?”

    “Tôi đang nghĩ.”

    “Tôi sẽ đánh nếu tôi là cậu.”

    “Tôi biết anh sẽ làm thế.” Anh nhìn cô và mắt anh tối lại. “Tôi cũng sẽ làm thế, nếu tôi nghĩ cô ta chỉ có mặt trong cuộc sống của tôi trong chưa đầy hai phút rưỡi nữa.”

    Cô trân trân nhìn anh, ước gì có thể lấy lại cú đấm bồng bột vừa rồi, và không tin vào tai mình. “Chính xác thì anh muốn nói gì?” cô hỏi.

    Skeet phóng qua một đèn vàng. “Từ đây đến sân bay bao xa?”

    “Đầu kia thành phố.” Dallie chồm tới vỗ lên lưng ghế. “Ngộ nhỡ anh không chú ý, thì qua một khối nhà nữa là đến nhà nghỉ.”

    Skeet nhấn ga và chiếc Riviera lao vùn vụt, hất Francesca ngã dúi vào sâu trong ghế. Cô trừng mắt với Dallie, định bụng làm anh ta xấu hổ mà xin lỗi để cô có thể cao thượng tha thứ cho anh ta. Cô tốn công chờ suốt đoạn đường còn lại đến nhà nghỉ.

    Họ rẽ vào một bãi đỗ xe sáng đèn, Skeet quay ngang xe, dừng trước một dãy những cánh cửa sắt sơn sáng màu gắn những con số màu đen. Ông tắt máy, rồi cùng Dallie xuống xe. Francesca ngờ vực nhìn cánh cửa xe đầu tiên rồi cái thứ hai đóng sầm lại.

    “Hẹn gặp sáng mai, Dallie.”

    “Chào Skeet.”

    Cô vội nhảy ra theo họ, tay ôm chặt hộp mĩ phẩm, cố gắng một cách không thành công trong việc khép lại hai vạt áo. “Dallie!”

    Anh lấy chìa khóa phòng trong túi quần jeans ra và quay lại. Lớp lụa Greige tuột qua những ngón tay khi cô đóng cửa xe. Anh ta không thể thấy là cô đang tuyệt vọng cỡ nào? Cô cần anh ta thế nào sao? “Anh phải giúp tôi,” cô nói, nhìn anh ta bằng đôi mắt to một cách đáng thương choán hết gương mặt nhỏ nhắn. “Tôi đã liều mạng tới quán bar đó chỉ để tìm anh.”

    Anh nhìn vào bộ ngực và chiếc áo lót lụa màu kem của cô. Rồi anh lột chiếc áo T-shirt màu xanh hải quân đã bạc phếch qua đầu và ném nó cho cô. “Đây là cái áo tủ của tôi đấy, cưng. Đừng đòi hỏi gì nữa.”

    Cô hoài nghi nhìn anh ta bước vào phòng và sập cửa lại – sập cửa trước mặt cô! Nỗi hoảng sợ tích tụ trong cô suốt ngày hôm nay bùng phát, tràn ngập mọi ngóc ngách cơ thể cô. Cô chưa bao giờ trải qua sự sợ hãi như thế, cô không có cách nào đương đầu với nó, thế là cô chuyển nó thành thứ mà cô quen thuộc – một cơn thịnh nộ tam bành. Không ai được đối xử với cô như thế này! Không ai hết! Cô sẽ khiến anh ta phải điều đình với cô! Cô sẽ khiến anh ta phải trả giá.

    Cô xông tới cánh cửa và đập hộp mĩ phẩm lên đó, một lần, hai lần, ước sao nó là gương mặt xấu xa ghê tởm của anh ta. Cô đá nó, chửi rủa nó, bung tỏa cơn điên giận của mình, cho nó rực cháy một cách chính đáng trong một màn trình diễn không thể nào quên của tính nóng nảy đã khiến cô trở thành huyền thoại.

    Cánh cửa bật mở và anh ta đứng ngay đó, cởi trần và gương mặt xấu xí của anh ta cau có với cô. Cô sẽ cho anh ta thấy vẻ cau có đích thực! Cô sẽ cho anh ta thấy rằng anh ta còn chưa biết cau có là như thế nào! ”Anh là đồ khốn!” Cô xăm xăm đi qua anh ta và ném chiếc hộp qua phòng, làm vỡ tan màn hình ti vi kèm theo tiếng động giòn tan của thủy tinh. ”Đồ khốn trụy lạc, biến thái!” Cô đá vào một cái ghế. ”Đồ nhẫn tâm!” Cô lật ngược va li của anh ta.

    Và sau đó cô không thèm kiềm chế nữa.

    Tuôn ra hàng tràng chửi rủa và buộc tội, cô ném gạt tàn và gối, quăng hết những chiếc đèn, và lôi các ngăn kéo ra khỏi bàn. Mọi sự coi thường cô đã chịu đựng trong hai tư giờ qua, mọi sự sỉ nhục trắng trợn – chiếc váy hồng, quán Blue Choctaw, hộp phấn mắt màu đào ... cô trừng phạt Chloe vì đã chết, Nicky vì tội bỏ rơi cô, cô hành hung Lew Steiner, tấn công Lloyd Byron, tùng xẻo Miranda Gwynwyck, và trên hết, cô tiêu diệt Dallie Beaudine. Dallie, tên đàn ông đẹp nhất cô từng gặp, người đàn ông duy nhất không xao xuyến trước cô, người đàn ông duy nhất dám sập cửa trước mặt cô.

    Dallie chống nạnh quan sát một hồi. Một hộp kem cạo râu bay vèo qua mặt anh và đập vào gương. ”Thật không tin nổi,” anh lẩm bẩm. Anh thò đầu ra cửa. ”Skeet! Qua đây. Anh phải xem cảnh này.”

    Khỏi cần bảo Skeet cũng đang chạy đến. ”Chuyện gì thế? Nghe cứ như – ” Ông khựng lại trước cửa, nhìn chằm chằm màn phá hoại đang diễn ra trước mắt. ”Sao cô ta lại làm thế?”

    ”Tôi biết thì chết liền.” Dallie hụp đầu né một cuốn danh bạ điện thoại New Orleans Greater bay đến. ”Thứ điên rồ nhất đời tôi từng trông thấy.”

    ”Có khi cô ta tưởng mình là ngôi sao nhạc rock ấy chứ. Kìa Dallie! Cô ta sắp rớ đến gậy gỗ số ba của cậu!”

    Dallie di chuyển đúng nghĩa một vận động viên, và chỉ cần hai sải chân anh đã tóm được cô.

    Francesca đột ngột thấy mình bị nhấc bổng lên. Loáng cái hai chân cô đã rời khỏi mặt đất, rồi có thứ gì đó cứng cứng chọc vào bụng cô khi cô thấy mình bị vắt qua vai anh ta. ”Thả tôi xuống! Thả tôi xuống, đồ khốn!”

    ”Chưa đâu. Đó là cây gậy số ba xịn nhất tôi từng có.”

    Họ bắt đầu di chuyển. Cô la hét khi anh ta vác cô ra ngoài, vai anh ta thúc vào bụng cô, cánh tay kẹp chặt phía sau hai đầu gối cô. Cô nghe thấy tiếng nói lao xao và lờ mờ nhận thấy nhiều cánh cửa hé mở và những thân hình mặc áo choàng tắm thò cổ ra nhìn.

    ”Tôi chưa từng thấy có người lại sợ một con chuột già bé tẹo đến như thế,” Dallie nói lớn giọng.

    Cô đấm thùm thụp vào tấm lưng trần của anh. ”Tôi sẽ tống anh vào tù!” cô la hét. ”Tôi sẽ kiện anh! Đồ súc sinh! Dù phải dốc sạch tiền tôi cũng sẽ kiện anh –” Anh chợt rẽ ngoặt sang phải. Cô trông thấy một hàng rào sắt trang trí, một cái cổng, những vệt sáng lấp lóa dưới nước –”

    ”Không!” Cô thét lên một tiếng rùng rợn khi anh ta liệng cô xuống chỗ sâu nhất trong bể bơi của nhà nghỉ.
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 10 others like this.
  11. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 10

    Skeet bước đến cạnh Dallie, và hai người đàn ông đứng trên mép bể bơi quan sát cô. Cuối cùng Skeet buông ra nhận xét. “Cô ta nổi lên không nhanh lắm.”

    Dallie ngoắc ngón tay cái vào túi quần jeans. “Xem chừng cô ta không biết bơi. Tôi nên đoán ra mới phải.”

    Skeet quay sang anh. “Cậu có để ý cách cô ta nói chữ ’đồ khốn’ không? Nghe như ’đồ khún’. Tôi không biết có phải đấy là phong cách riêng của cô ta không. Nhưng rất đặc biệt.”

    “Phải. Cách phát âm lạ tai của cô ta đảm bảo sẽ làm đảo lộn những câu chửi thề hay ho của nước Mĩ.”

    Tiếng đập nước trong bể bơi bắt đầu thưa dần. ”Cậu có nhảy xuống cứu cô ta vào bất cứ thời điểm nào trong thế kỷ tới không?” Skeet hỏi.

    ”Chắc là có. Trừ phi anh tính làm chuyện đó.”

    ”Còn lâu. Tôi về ngủ đây.”

    Skeet quay lưng đi ra cổng, còn Dallie ngồi xuống một băng ghế dài để tháo giày. Anh quan sát tình hình vùng vẫy của cô một lúc, và khi canh đến thời điểm thích hợp, anh đi đến mép bể và lao xuống nước.

    Francesca chỉ vừa nhận ra mình không hề muốn chết. Bất chấp bộ phim thảm họa, tình hình tài chính, việc mất sạch của cải… cô vẫn còn quá trẻ. Tương lai còn trải dài trước mắt cô. Nhưng khi áp lực nước nhấn chìm cô xuống, cô mới hiểu nó đang xảy ra. Hai lá phổi cô bỏng rát và tứ chi không còn tuân theo điều khiển của não bộ. Cô sắp chết, thế nhưng cô còn chưa được sống cho ra sống.

    Đột ngột có thứ gì đó vòng qua ngực cô và bắt đầu kéo cô trở lên, ôm chặt cô không buông, lôi cô lên mặt nước, cứu mạng cô! Đầu cô nổi lên khỏi mặt nước và hai buồng phổi hít lấy không khí. Cô vội vàng thở, ho sặc sụa và nghẹn, túm lấy hai cánh tay đang vòng qua người mình vì sợ chúng sẽ buông cô ra, khóc nức lên trong niềm vui tột độ vì mình vẫn còn sống.

    Còn chưa rõ sự tình, cô đã thấy mình được lôi lên bờ, những mẩu áo lụa cuối cùng của cô đã ở lại dưới nước. Nhưng dù có cảm nhận được nền bê tông cứng bên dưới, cô vẫn không buông Dallie ra.

    Cuối cùng cô cũng nói được, và lời nói vừa nhỏ vừa thều thào nghèn nghẹt. “Tôi không bao giờ tha thứ cho anh…tôi ghét anh…” Cô bám chặt vào người anh, dán vào lồng ngực trần của anh, choàng hai tay qua vai anh, níu chặt anh hơn bất cứ thứ gì cô từng níu kéo trong đời. “Tôi ghét anh,” cô khò khè. “Đừng buông tôi ra.”

    “Cô không bị sốc thật đấy chứ, Francie?”

    Nhưng cô không còn khả năng đáp lời, chỉ còn có thể níu lấy cuộc sống thân thương. Cô bám lấy anh khi anh bế cô quay lại phòng trọ, khi anh nói chuyện với người quản lí nhà nghỉ đang chờ họ, lúc anh nhặt hộp mĩ phẩm của cô từ nền sỏi lên, kiểm tra sơ qua, rồi đưa cô tới một căn phòng khác.

    Anh khom người đặt cô xuống giường. “Cô có thể ngủ ở đây trong –“

    “Không!” Cơn sóng hoảng hốt giờ đã quen thuộc lại ập đến.

    Anh cố gỡ hai cánh tay cô khỏi cổ mình. “Thôi nào, Francie, đã gần hai giờ sáng rồi. Tôi muốn chợp mắt ít nhất vài tiếng đồng hồ trước khi phải dậy.”

    ”Không, Dallie!” Giờ thì cô đang khóc thực sự, nhìn thẳng vào cặp mắt xanh Newman kia và bộc bạch hết nỗi lòng. ”Đừng bỏ tôi. Tôi biết anh sẽ lên đường ngay nếu tôi để cho anh đi. Ngày mai tôi thức dậy thì anh đã đi rồi và tôi sẽ không biết phải làm gì.”

    ”Tôi sẽ không lên đường mà không nói với cô,” cuối cùng anh nói, gỡ hai tay cô ra.

    ”Anh hứa chứ?”

    Anh tháo đôi sandal Bottega Veneta sũng nước, lạ làm sao vẫn ở nguyên trên chân cô, và quẳng xuống sàn, cùng chiếc áo T-shirt khô mà anh đã mang theo, ”Ừ, tôi hứa.”

    Dù anh hứa nhưng nghe rất miễn cưỡng, và cô thốt ra tiếng phản đối lí nhí khi anh đi ra cửa. Chẳng phải cô cũng hay hứa bừa kiểu này rồi sau đó quên ngay tắp lự sao? Làm sao cô biết anh sẽ không làm điều tương tự? ”Dallie?”

    Nhưng anh đã đi mất.

    Bằng cách nào đó cô thu được sức lực để lột quần jeans và quần lót ra, để chúng rơi thành đống bên cạnh giường trước khi chui vào trong chăn. Cô rúc mái đầu ướt nhẹp vào gối, nhắm mắt lại, và trong khoảnh khắc trước khi ngủ thiếp đi, cô tự hỏi liệu hoàn cảnh mình có bi đát hơn không nếu Dallie bỏ mặc cô dưới đáy bể.

    Giấc ngủ của cô sâu và nặng nề, nhưng cô vẫn choàng tỉnh vào gần bốn tiếng đồng hồ sau đó khi tia nắng đầu tiên lọt qua những tấm rèm dày. Cô tung chăn, lảo đảo nhảy xuống giường và cứ thế đi tới cửa sổ trong bộ dạng trần trụi, từng thớ thịt trên người đều đau nhức. Chỉ sau khi vẹt rèm nhìn ra khung cảnh mưa rơi ảm đạm bên ngoài thì dạ dày cô mới thôi nhộn nhạo. Chiếc Rivera vẫn ở đó.

    Nhịp tim cô trở lại bình thường, và cô chậm chạp đến trước gương, theo quán tính làm những thủ tục thường ngày mỗi sáng vẫn đọng trong trí nhớ, chào hỏi hình ảnh mình để đảm bảo rằng thế giới không thay đổi gì trong đêm qua, nó vẫn quay quanh mặt trời là sắc đẹp của cô theo quỹ đạo định sẵn.

    Cô thốt lên một tiếng nấc nghẹn vì tuyệt vọng.

    Nếu ngủ đủ giấc, có thể cô đã ứng phó với cú sốc tốt hơn, nhưng như thế này, cô chỉ biết đón nhận những gì mình nhìn thấy. Mái tóc đẹp đẽ của cô xõa thành một mớ rối bù quanh mặt, một vết xước dài làm hỏng cần cổ duyên dáng, những vệt bầm tím đã nổi rõ trên da, và môi dưới cô – cái môi dưới hoàn hảo của cô – sưng lên như vỏ bánh bao.

    Hoảng loạn, cô lao đến hộp mĩ phẩm kiểm kê những của cải còn sót lại: một lọ kem tắm du lịch Rene Garraud, kem đánh răng (không có bóng dáng bàn chải đánh răng), ba thỏi son, hộp phấn mắt màu đào, và những viên thuốc tránh thai vô dụng mà cô hầu của Cissy đã đóng gói. Trong xắc tay của cô còn hộp phấn hai màu, một chiếc ví bằng da thằn lằn, một lọ nước hoa Femme. Những thứ đó, cộng với chiếc áo T-shirt xanh hải quân bạc màu Dallie đã ném cho cô tối qua và chồng quần áo sũng nước dưới sàn, là số của cải của cô .... tất cả những gì cô còn lại trên đời.

    Mức độ mất mát quá khủng khiếp để chấp nhận, nên cô chạy vào nhà tắm nơi cô dùng muốn cạn chai dầu gội màu nâu của nhà nghỉ. Sau đó với số mĩ phẩm ít ỏi sót lại cô cố gắng gây dựng lại hình ảnh trước đây của mình. Sau khi mặc lại chiếc quần jeans ướt đầy khó chịu và đánh vật với đôi sandal lép nhép, cô xịt nước hoa vào dưới hai cánh tay rồi xỏ vào người chiếc áo T-shirt của Dallie. Cô nhìn xuống dòng chữ màu trắng trên phần ngực trái của mình và tự hỏi AGGIES nghĩa là gì. Một bí ẩn nữa, một sự mù tịt nữa khiến cô có cảm giác của kẻ xâm nhập vào một miền đất lạ. Tại sao cô chưa từng cảm thấy như vậy ở New York? Không cần nhắm mắt cô vẫn hình dung mình đang sải bước trên Đại lộ Số Năm, ăn tối ở La Caravelle, đi qua tiền sảnh khách sạn Pierre, và càng nghĩ đến thế giới mình đã bỏ lại phía sau, cô càng cảm thấy cách biệt với cái thế giới cô đã bước vào. Có tiếng gõ cửa, và cô vội vàng chải tóc bằng năm ngón tay, không dám mạo hiểm nhìn vào gương lần nữa.

    Dallie đứng dựa vào khung cửa, mặc áo gió màu xanh lam lấm tấm những hạt mưa và chiếc quần jeans bạc màu rách gối. Mái tóc hơi ướt quăn lại ở ngọn. Vàng sậm, cô nghĩ một cách dè bỉu, không phải vàng óng. Và anh ta cần cải tổ lại mái tóc. Anh ta cũng cần một tủ quần áo mới. Đôi vai anh ta kéo căng đường may của chiếc áo khoác; còn cái quần jeans ắt sẽ khiến một người ăn mày ở Calcutta cũng thấy mất mặt.

    Vô dụng. Bất kể cô nhìn thấy những khuyết điểm của anh ta rõ đến đâu, bất kể cô muốn hạ bệ anh ta xuống mức tầm thường cỡ nào trong mắt cô, anh ta vẫn là người đàn ông đẹp nhất cô từng thấy.

    Anh chống một tay lên khung cửa và nhìn xuống cô. ”Francie, từ tối qua tôi luôn cố gắng làm rõ với cô bằng mọi cách có thể rằng tôi không muốn nghe chuyện của cô, nhưng vì cô cứ khăng khăng đòi kể còn tôi thì mong dứt nợ với cô đến tuyệt vọng, vậy ta hãy thực hiện luôn đi.” Nói xong, anh bước vào phòng, gieo mình xuống một chiếc ghế gỗ, và gác hai chân mang giày lên mép bàn. ”Cô nợ tôi khoảng hai trăm đô.”

    ”Hai trăm –”

    ”Tối qua cô đã hủy diệt đáng kể căn phòng.” Anh ngả ra ghế cho đến khi chỉ còn hai chân ghế sau bám trên sàn. ”Một ti vi, hai cây đèn, mấy cái lỗ trên tường Sheetrock, một cửa sổ năm nhân bốn. Tổng thiệt hại lên tới năm trăm sáu mươi đô la, và đấy là tôi đã hứa với người quản lí sẽ chơi một trận mười tám lỗ với anh ta vào lần sau tôi đến. Hình như trong ví cô chỉ có hơn ba trăm đô – không đủ chi trả cho số đó.”

    ”Ví của tôi?” cô giật nắp hộp mĩ phẩm. ”Anh đã lục ví của tôi! Sao anh dám làm thế? Đó là đồ của tôi. Anh đừng bao giờ -” Lúc lôi được ví ra khỏi xắc tay, hai lòng bàn tay cô đã ẩm ướt như chiếc quần jeans. Cô mở ví nhìn vào trong. Cuối cùng khi thốt được nên lời, giọng cô không hơn một tiếng thì thầm, ”sạch trơn. Anh đã lấy hết tiền của tôi.”

    ”Những hóa đơn như thế cần thanh toán chóng vánh trừ phi cô muốn bị cảnh sát địa phương để ý.”

    Cô ngồi phịch xuống cuối giường, cảm giác mất của quá lớn khiến cơ thể cô như tê liệt. Cô xuống đáy rồi. Ngay giây phút này. Thời điểm này. Tất cả đã mất hết – mĩ phẩm, quần áo, số tiền cuối cùng. Cô chẳng còn gì. Cái thảm họa đã tăng tốc như một con tàu mất phanh kể từ khi Chloe chết cuối cùng đã trật bánh.

    Dallie gõ cây bút của nhà nghỉ lên mặt bàn. ”Francie, tôi không thể không nhận thấy cô chẳng có chiếc thẻ tín dụng nào trong ví ... cũng như chẳng có vé máy bay. Giờ tôi muốn cô hãy mau nói rằng cô đã để chiếc vé đâu đó bên trong Mr. Vee-tawn, và Mr. Vee-tawn thì đang yên vị trong một ngăn tủ thuê hai lăm xu ở sân bay.”

    Cô ôm ngực và đờ đẫn nhìn bức tường. ”Tôi không biết phải nói sao,” cô ngắc ngứ.

    ”Cô là một cô gái cừ khôi, và tốt hơn cô hãy nói thật ngắn gọn.”

    ”Tôi cần sự giúp đỡ.” Cô quay sang anh, năn nỉ được thấu hiểu. ”Một mình tôi không thể giải quyết được chuyện này.”

    Hai chân trước của chiếc ghế anh ngồi giáng xuống sàn. ”Ồ không! Đây là vấn đề của cô, tiểu thư ạ, và cô chớ có đẩy nó sang tôi.” Giọng anh lạnh lùng và khô khan, không giống một Dallie tươi cười đã cho cô quá giang bên đường, hay chàng hiệp sĩ tỏa hào quang đã cứu cô thoát chết ở quán Blue Choctaw.

    ”Nếu anh không muốn giúp tôi,” cô lớn tiếng, ”thì anh không nên cho tôi đi nhờ mới phải. Anh nên bỏ mặc tôi, giống như những người khác.”

    ”Có lẽ tốt hơn cô thử nghĩ xem vì sao tất cả mọi người đều muốn tránh xa cô đến thế.”

    ”Đó không phải lỗi của tôi, anh không biết đấy thôi? Mà là do hoàn cảnh.” Cô bắt đầu kể hết với anh, khởi đầu từ cái chết của Chloe, cô nói lấp vấp trong cơn vội vàng vì sợ anh bỏ đi. Cô kể chuyện mình đã bán hết đồ đoàn lấy tiền mua vé về nhà để rồi nhận ra dù có vé, cô cũng không thể về London mà không có tiền, không có quần áo, với tin tức về nỗi nhục nhã của cô trong bộ phim kinh khủng kia được truyền miệng qua bao người khiến tất cả bọn họ đều cười cô. Chính lúc ấy cô nhận ra rằng mình phải ở lại đây, nơi không ai biết cô, cho đến khi Nick quay về sau chuyến ăn chơi trác táng với nhà nữ toán học tóc vàng hoe và cô có cơ hội nói chuyện với anh ta qua điện thoại. Đó là nguyên do cô đi tìm Dallie ở Blue Choctaw. ”Anh không hiểu sao? Tôi không thể quay về London cho đến khi tôi biết Nicky sẽ chờ tôi ở sân bay.”

    ”Tôi tưởng cô có nói anh chàng là hôn phu của cô?”

    ”Đúng vậy.”

    ”Thế tại sao anh ta lại đi chơi với một nhà toán học tóc vàng?”

    ”Anh ấy giận dỗi ấy mà.”

    ”Lạy Chúa, Francie –”

    Cô nhào tới quỳ sụp cạnh ghế anh và ngước nhìn anh bằng đôi mắt làm tim người khác ngừng đập của mình. ”Đó không phải lỗi của tôi, Dallie. Thật đấy. Lần cuối gặp nhau, chúng tôi đã cãi vã một trận chỉ vì tôi gạt bỏ lời cầu hôn của anh ấy.” Gương mặt Dallie lặng như tờ và cô nhận ra anh đã hiểu sai điều cô nói. ”Không, không phải như anh nghĩ đâu! Anh ấy sẽ cưới tôi! Chúng tôi cãi nhau cả trăm bận rồi ấy chứ và anh ấy luôn cầu hôn lại. Vấn đề chỉ nằm ở việc liên lạc điện thoại và cho anh ấy biết rằng tôi đã tha thứ cho anh ấy.”

    Dallie lắc đầu. ”Tên khốn tội nghiệp,” anh lẩm bẩm.

    Cô cố gắng trừng mắt với anh, nhưng vì nước mắt đã dâng đầy, nên cô đứng lên và quay lưng lại anh, ráng sức lấy lại tự chủ. ”Điều tôi cần là bằng cách nào đó cầm cự trong mấy tuần tiếp theo cho đến khi tôi có thể nói chuyện với Nicky. Tôi tưởng anh có thể giúp tôi, nhưng tối qua anh không chịu nói chuyện với tôi, và anh khiến tôi phát cáu, giờ thì anh lại lấy tiền của tôi.” Cô quay phắt lại, giọng nấc lên. ”Anh không thấy ư, Dallie? Chỉ cần anh biết lí lẽ một chút, tất cả chuyện này ắt chẳng xảy ra.”

    ”Trời chu đất diệt tôi đi.” Dallie đặt chân xuống sàn. ”Cô sẵn sàng đổ hết tội cho tôi phỏng? Ôi Chúa, tôi ghét những kẻ như cô. Bất kể xảy ra chuyện gì, cô cũng tìm cách đổ lỗi cho người khác.”

    Cô bật dậy. ”Tôi không cần phải nghe những chuyện này! Tất cả những gì tôi cần là một chút giúp đỡ.”

    ”Và kèm theo một khoản tiền nho nhỏ.”

    ”Tôi có thể trả lại không thiếu một xu trong mấy tuần nữa.”

    ”Nếu Nicky đưa cô về.” Anh lại duỗi thẳng chân, bắt tréo chúng nơi mắt cá. ”Francie, có vẻ cô không nhận ra rằng tôi là một người lạ không có bổn phận gì với cô hết. Tôi không giỏi việc chăm lo bản thân, và chắc như bắp là tôi sẽ không chăm lo cho cô, dù chỉ trong vài tuần. Thành thực mà nói, tôi thậm chí còn không thích cô.”

    Cô nhìn anh, vẻ hoang mang in rõ trên mặt. ”Anh không thích tôi ư?”

    ”Thật sự là không, Francie.” Cơn giận bộc phát của anh đã tan, và anh nói một cách điềm tĩnh và với một vẻ khẳng định rõ rệt đến độ cô biết anh đang nói thật. ”Nghe này cưng, với gương mặt thế kia cô là một kẻ gây ách tắc giao thông thực sự, và dù rằng còn những điểm hạn chế, nhưng cô hôn khá tuyệt. Tôi không thể phủ nhận rằng tôi đã có một vài suy nghĩ xốc nổi về những chuyện hai ta ắt có thể thực hiện dưới lớp chăn, và nếu như cô có một tính cách khác thì tôi còn có thể điên đảo vì cô trong vài tuần ấy chứ. Nhưng vấn đề là, cô không có một tính cách khác, và con người cô là một tổ hợp của tất cả những thói xấu của đàn ông và phụ nữ mà tôi từng gặp, không có lấy một ưu điểm nào lẫn trong đó.”

    Cô ngồi phịch xuống cuối giường, chìm trong sự tổn thương. ”Tôi hiểu rồi,” cô lặng lẽ đáp.

    Anh đứng dậy rút ví ra. ”Hiện tại tôi không có nhiều tiền. Tôi sẽ thanh toán số tiền nợ nhà nghỉ còn lại bằng thẻ và để lại năm mươi đô cho cô cầm cự vài ngày. Nếu cô muốn tìm tôi trả lại, cứ gửi séc cho tôi theo địa chỉ hòm thư ở Wynette, Texas. Nếu cô không gửi, tôi sẽ biết mọi chuyện giữa cô và Nicky không khả quan, thì hy vọng cô sớm gặp được một đám ngon cơm hơn.”

    Nói xong, anh vứt chìa khóa của nhà nghỉ lên bàn và đi ra khỏi phòng.

    Cuối cùng cô chỉ còn một mình. Cô nhìn trân trân xuống vết ố vàng nom rất giống hình dạng đảo Capri trên thảm nhà nghỉ. Giờ thì cô đã chính thức lâm vào đường cùng rồi.

    ***

    Skeet thò đầu qua cửa sổ xe khi Dallie đến chỗ chiếc Riviera. ”Có cần tôi lái không?” ông hỏi. ”Cậu có thể ra ghế sau chợp mắt mấy tiếng.”

    Dallie mở cửa bên ghế lái. ”Anh lái chậm như rùa, với lại tôi không buồn ngủ.”

    ”Tùy cậu thôi.” Skeet ngồi lại chỗ và đưa cho Dallie một cốc cà phê bằng nhựa trắng, cùng một mẩu giấy hồng. ”Số điện thoại của em thu ngân.”

    Dallie vò nhàu tờ giấy và nhét vào gạt tàn, nơi đã có hai mẩu giấy khác. Anh chụp mũ lên đầu. ”Anh nghe nói đến Pygmalion bao giờ chưa, Skeet?”

    ”Có phải cái gã chơi ở vị trí hậu vệ trái cho đội Wynette High không?”

    Dallie dùng răng mở nắp cốc cà phê trong lúc vặn chìa khóa nổ máy. ”Không phải, đấy là Pygella, Jimmy Pygella. Mấy năm trở lại đây anh ta đã chuyển đến Corpus Christi và mở một tiệm phụ tùng xe hơi Midas muffler. Pygmalion ở đây là vở kịch của George Bernard Shaw kể về một cô gái bán hoa tên Cockney qua rèn luyện đã trở thành một tiểu thư thực thụ.” Anh bật cần gạt nước.

    ”Đừng tỏ ra hứng thú quá thế, Dallie. Vở kịch tôi thích là Oh! Calcutta mà chúng ta xem ở St. Louis. Vở đó mới hay.”

    ”Tôi biết anh thích vở kịch ấy. Tôi cũng thích, nhưng nó không được xem là một tác phẩm văn học. Nó chẳng nói được mấy về thân phận con người, nếu anh hiểu ý tôi. Trong khi Pygmalion cho thấy người ta có thể ... họ có thể tiến bộ hơn chỉ cần một chút định hướng.” Anh lùi xe ra khỏi bãi đỗ. ”Nó cũng nói lên rằng cái người định hướng sự thay đổi đó chẳng những không hóa giải được vấn đề của mình mà còn nhận về một khối sầu muộn.”

    Francesca, mắt mở to và vẫn trong cơn choáng váng, đứng trong khung cửa ôm chặt hộp mĩ phẩm vào ngực như chú gấu teddy và nhìn chiếc Riviera lăn bánh ra khỏi bãi đỗ xe. Dallie thực sự sẽ làm thế. Anh sẽ phóng xe đi và bỏ mặc cô lại, dù rằng anh ta đã thừa nhận từng nghĩ đến chuyện ngủ với cô. Cho đến giờ, điều đó luôn đủ để giữ một người đàn ông ở lại bên cô, nhưng đột nhiên không còn như thế nữa. Thế là thế nào? Chuyện gì đang xảy ra với thế giới của cô vậy? Hoang mang càng tô đậm nỗi sợ hãi của cô. Cô cảm thấy mình như một đứa trẻ đã học sai màu sắc và vừa phát hiện ra màu đỏ thực ra là màu vàng, xanh lam hóa ra xanh lục – chỉ đến lúc này mới biết là sai, cô không thể nghĩ ra cách để giải quyết.

    Chiếc Riviera quay tới lối ra, chờ khoảng trống, rồi bắt đầu đi vào con đường ẩm ướt. Những đầu ngón tay cô trở nên tê liệt, và hai chân nhũn ra, như thể tất cả bắp thịt đã mất hết sức mạnh. Cơn mưa phùn thấm ướt áo T-shirt của cô, một lọn tóc xõa xuống má cô. ”Dallie!” cô bắt đầu guồng chân chạy hết tốc lực.

    ”Vấn đề là,” Dallie nói, ngước nhìn gương chiếu hậu, ”cô ta không nghĩ đến ai khác ngoài bản thân.”

    ”Người phụ nữ yêu – mình – nhất đời tôi từng gặp,” Skeet đồng tình.

    ”Và cô ta không biết làm bất cứ việc gì ngoại trừ trang điểm.”

    ”Đảm bảo là cô ta không biết bơi.”

    ”Cô ta thậm chí không có một mẩu tư duy thông thường.”

    ”Một tí ti cũng không.”

    Dallie bật ra một câu chửi thề cực kì lỗ mãng và phanh gấp.

    Francesca đuổi kịp chiếc xe, thở hổn hển giữa những tiếng nức nở. ”Đừng! Đừng bỏ tôi một mình!”

    Mức độ giận dữ của Dallie khiến cô kinh ngạc. Anh nhảy khỏi xe, giật hộp mĩ phẩm khỏi tay cô, rồi ấn cô vào thành xe khiến tay nắm cửa đâm vào hông cô.

    ”Nghe tôi nói đây, và nghe cho kỹ vào!” Anh quát. ”Tôi buộc lòng phải chấp nhận cô, nên cô chấm dứt ngay màn khóc lóc ấy đi.”

    Cô thổn thức, những hạt mưa bụi làm cô phải chớp mắt. ”Nhưng tôi –”

    ”Tôi bảo thôi ngay! Tôi không muốn làm chuyện này – tôi có linh cảm rất tệ về nó – nên từ giờ phút này trở đi, khôn hồn cô hãy làm đúng những gì tôi nói. Mọi điều tôi nói. Cô không được hỏi câu nào; không có bất cứ ý kiến ý cò gì. Và nếu cô tra tấn tai tôi bằng mớ chuyện nhảm nhí của mình, cô sẽ bị tống cổ ngay lập tức.”

    ”Được,” cô kêu lên, lòng kiêu hãnh của cô vỡ vụn, giọng bặt đi trong nỗi nhục nhã. ”Được.”

    Anh nhìn cô với vẻ coi thường không thèm che giấu, rồi giật mở cửa sau. Cô xoay người định trèo vào, nhưng cô vừa khom lưng, anh liền giơ tay phát mạnh vào mông cô. ”Không chỉ có thế thôi đâu,” anh nói, ”và bàn tay tôi đang ngứa ngáy cho cú đánh tiếp theo đấy.”

    Mỗi dặm đường trong chuyến đi tới Lake Charles tưởng chừng bằng một trăm dặm. Cô quay mặt ra cửa sổ và cố làm như mình vô hình. Nhưng khi chiếc Riviera vượt qua những chiếc xe khác và những người ngồi trong đó lơ đãng nhìn qua cô, cô không sao dằn được cảm giác vô lý rằng bọn họ biết chuyện gì đã xảy ra, rằng họ thực sự có thể nhìn ra cô đã phải hạ mình cầu xin như thế nào, rằng cô đã bị một đòn đau lần đầu tiên trong đời. Mình sẽ không nghĩ về chuyện đó, cô tự nhủ khi họ đi qua những cánh đồng lúa bạt ngàn và đầm lầy phủ kín tảo xanh. Mình sẽ nghĩ đến nó vào ngày mai, tuần sau, bất cứ lúc nào trừ lúc này khi mình rất có thể lại khóc lóc và anh ta có thể dừng xe và tống mình ra đường. Nhưng cô không sao ngăn được, và cô cắn vào phần phía trong môi dưới vốn đã bầm dập để ngăn không phát ra âm thanh dù nhỏ nhất.

    Cô trông thấy biển báo Lake Charles, sau đó họ đi qua một cây cầu cong lớn. Trên ghế trước, Skeet và Dallie thỉnh thoảng nói chuyện, không ai trong bọn họ để ý đến cô.

    ”Nhà nghỉ ngay trên kia,” cuối cùng Skeet nhận xét với Dallie. ”Cậu còn nhớ lúc Holly Grace xuất hiện ở đây dạo năm ngoái với tay buôn bán xe Chevy quê Tulsa không?”

    Dallie lẩm bẩm câu gì mà Francesca nghe không ra khi anh chạy vào bãi đỗ, trông không khác mấy bãi xe họ rời khỏi cách đó bốn tiếng, và rẽ ngoặt tới chỗ văn phòng. Dạ dày Francesca sôi lên, và cô nhận ra mình chưa có gì bỏ bụng kể từ tối qua khi cô vơ vội một cái hamburger sau khi đem cầm chiếc va li. Không có gì để ăn...và không có tiền để mua bất cứ thứ gì. Và rồi cô tự hỏi Holly Grace có thể là ai, nhưng cô quá chán nản để mà cảm thấy gì khác ngoài nỗi tò mò thoáng qua.

    ”Francie, tôi vốn đã dùng gần cạn thẻ tín dụng trước khi gặp cô, và cơn nô đùa nho nhỏ của cô vừa vặn ngốn nốt phần còn lại. Cô sẽ phải ở chung phòng với Skeet.”

    ”Không!”

    ”Không!”

    Dallie thở dài và tắt máy. ”Thôi được, Skeet. Anh và tôi sẽ chung phòng cho đến khi ta thoát khỏi Francie.”

    ”Không đời nào.” Skeet đẩy cửa chiếc Riviera. ”Từ lúc cậu bước lên chuyên nghiệp tôi đã không ở chung phòng với cậu rồi, và hiện giờ tôi cũng không có ý định đó. Cậu thức tới nửa đêm rồi tới sáng thì làm ồn đủ để đánh thức cả xác chết.” Ông xuống xe và nhằm hướng văn phòng cất bước, nói vọng lại qua vai, ”vì cậu là người lo sốt vó khi đưa Miss Fran-chess-ka đi cùng, thì cậu ngủ với cô ta là hoàn toàn hợp lí.”

    Dallie chửi thề trong suốt thời gian dỡ va li của mình và mang vào nhà nghỉ. Francesca ngồi ở mép một chiếc giường trong căn phòng đôi, lưng rướn thẳng, hai bàn chân đặt song song, hai đầu gối ép sát nhau, giống một cô gái nhỏ đang cư xử lễ phép nhất tại một buổi lễ trưởng thành. Từ phòng bên vẳng sang tiếng phát thanh viên truyền hình thông tin về một nhóm phản đối vũ khí hạt nhân đang biểu tình tại một bãi phóng tên lửa; sau đó có người chuyển kênh sang một trận đấu bóng rổ và bài ”Lá cờ lấp lánh ánh sao” vang lên. Nỗi cay đắng dâng lên trong cô khi bài hát gợi lại ký ức về cái cúc tròn cô trông thấy trên áo người lái taxi: Nước Mĩ, Miền Đất Của Cơ Hội. Loại cơ hội nào? Cơ hội bán thân đổi lấy thức ăn và chỗ ở trong một căn phòng nhà nghỉ dơ bẩn ư? Chẳng có thứ gì hoàn toàn miễn phí phải không? Và cơ thể là tất cả những gì cô còn lại. Bằng việc bước vào căn phòng này với Dallie, chẳng phải cô đã ngầm hứa sẽ đền đáp anh ta bằng thứ gì đó sao?

    ”Cô bỏ cái bộ mặt ấy đi được không!” Dallie quẳng va li lên giường. ”Tin tôi đi, Miss Fancy Pants, tôi chẳng có ý đồ gì với cô hết. Cô ở bên của cô trong phòng, xa tầm mắt tôi hết sức có thể, và chúng ta sẽ hòa thuận. Nhưng trước tiên tôi muốn lấy lại năm mươi đô của tôi.”

    Cô phải vớt vát chút tự tôn của mình khi đưa lại tiền cho anh ta, nên cô liền hất đầu, vén tóc qua vai như thể mình bất cần cả thế giới. ”Tôi đoán anh là một tay golf,” cô nhận xét một cách thản nhiên, cố tỏ cho anh ta thấy sự thô lỗ của anh ta không ảnh hưởng gì đến cô. ”Đó là nghề chính hay phụ của anh?”

    ”Một thói nghiện thì đúng hơn.” Anh lôi một chiếc quần từ va li ra rồi đưa tay tới khóa quần jeans.

    Cô vội xoay lưng lại. ”Tôi – tôi nghĩ tôi sẽ dạo một vòng bãi đỗ xe để giãn gân cốt.”

    ”Cứ tự nhiên.”

    Cô dạo hai vòng quanh bãi đỗ xe, đọc những miếng bumper sticker (miếng dán trên xe ô tô ghi những thông điệp ngắn), ngó những tiêu đề trên báo qua cửa kính những tủ hàng tự động, lơ đãng nhìn bức hình trên trang nhất về một người đàn ông tóc quăn đang quát tháo ai đó. Dallie dường như không mong chờ cô lên giường với anh ta. Thật nhẹ cả người. Cô nhìn chằm chằm tấm biển thắp đèn neon của nhà nghỉ, và càng nhìn lâu, cô càng thêm băn khoăn vì sao anh ta không muốn cô. Thế là sao? Câu hỏi tấy lên như một vết ngứa. Có thể cô đã mất hết quần áo, tiền bạc, toàn bộ của cải, nhưng chẳng phải cô vẫn còn sắc đẹp sao? Cô vẫn còn sức quyến rũ cơ mà. Hay cách nào đó cô cũng đã mất nốt nó theo đám hành lí và đồ trang điểm của mình rồi.

    Vớ vẩn. Chỉ là cô bị kiệt sức đó thôi, nên không thể suy nghĩ cho ra hồn. Ngay khi Dallie rời phòng đi thi đấu, cô sẽ leo lên giường ngủ một giấc cho đến khi cảm thấy lại là mình như cũ. Những tia lạc quan ít ỏi sót lại lóe lên trong cô. Cô chỉ mệt mà thôi. Một giấc ngủ đầy đủ và mọi chuyện sẽ ổn.
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 10 others like this.
  12. song vang

    song vang Lớp 8

    CHƯƠNG 11

    Naomi Jaffe Tanaka đập tay xuống mặt kính dày nặng của bàn làm việc. ”Không!” chị quát vào điện thoại, đôi mắt nâu long lên bực tức. ”Con nhỏ còn kém xa hình dung của chúng tôi về một Cô nàng Ngổ ngáo. Nếu cô không thể làm tốt hơn cô ta, tôi sẽ tìm một người môi giới người mẫu khác.”

    Giọng nói đầu dây bên kia trở nên mỉa mai. ”Chị có cần vài số điện thoại không, Naomi? Tôi chắc chắn những người ở Wilhelmina sẽ nhiệt tình giúp đỡ chị.”

    Những người ở Wilhelmina đã từ chối gửi bất cứ ai cho Naomi, nhưng chị không định tiết lộ mẩu tin đó cho người phụ nữ bên kia đường dây. Chị cào những ngón tay thô mộc nôn nóng lên mái tóc, được cắt ngắn và bóng mượt như tóc con trai bởi một thợ làm tóc New York nổi tiếng nhằm định nghĩa lại từ ”phụ nữ.” ”Cứ tìm tiếp đi.” Chị đẩy số mới nhất của tạp chí Advertising Age khỏi mép bàn. ”Và lần sau cố tìm lấy một người có tí cá tính trên mặt.”

    Chị vừa đặt máy xuống, thì tiếng còi cứu hỏa hú vang trên Đại lộ Số Năm, cách văn phòng phía góc tòa nhà của chị dưới đó tám tầng lầu ở Công ty Blakemore, Stern, và Rodenbaugh, nhưng Naomi chẳng để tâm. Chị đã sống với tiếng ồn của thành phố New York cả cuộc đời và đã không nghe thấy tiếng còi báo động nào kể từ hồi mùa đông năm ngoái khi hai thành viên gay thuộc vũ đoàn New York City Ballet sống trong căn hộ trên đầu chị đã đun nồi nước sốt quá gần bức rèm hoa Scalamandre. Người chồng lúc đó của Naomi, một nhà hóa sinh tài năng người Nhật tên Tony Tanaka, đã vô cớ đổ lỗi cho chị và không nói chuyện với chị cả cuối tuần đó. Chị li dị anh ta ngay sau đấy – không chỉ vì phản ứng của anh ta trước vụ hỏa hoạn, mà còn vì sống với một người đàn ông không chịu chia sẻ với chị ngay cả những cảm xúc cơ bản nhất đã trở nên quá mệt mỏi đối với một cô gái Do Thái giàu có đến từ Bờ Đông thượng lưu của Manhattan, người vào mùa đông không – thể - nào – quên năm 1968 đã góp phần tiếp quản văn phòng của chủ nhiệm khoa tại đại học Columbia và giữ gìn nó cho People.

    Naomi giật mạnh chuỗi hạt màu đen và bạc chị đang đeo đi cùng bộ áo váy bằng vải flannel xám và áo blouse lụa, trang phục chị ắt sẽ khinh miệt trong những ngày sôi sục, gắt gao thời Huey và Rennie và Abbie khi nhiệt huyết của chị dồn vào tình trạng hỗn loạn thay vì thị phần. Mấy tuần vừa qua, khi những bài báo về cuộc đấu tranh chống vũ khí hạt nhân gần đây nhất của Gerry anh trai chị lại nổi lên, những hồi ức tản mát về thời kỳ đó cứ chớp nháy trong tâm trí chị như những bức ảnh cũ, và chị man mác nhớ về cô gái là mình ngày xưa, một cô em gái miệt mài nỗ lực nhằm giành được sự nể trọng của người anh trai vĩ đại đến độ chịu đựng đủ các cuộc biểu tình ngồi, biểu tình tôn vinh tình yêu, biểu tình nằm, và một án phạt tạm giam ba mươi ngày.

    Trong khi người anh trai xuất chúng hai mươi tư tuổi của chị phát động cuộc cách mạng trên bậc thềm tòa nhà Sproal Hall trường Berkeley, thì Naomi bước vào năm nhất đại học Columbia cách đấy ba nghìn dặm. Chị vốn là niềm kiêu hãnh và niềm vui của bố mẹ - xinh xắn, nổi tiếng, một sinh viên giỏi – giải thưởng an ủi cho họ vì đã sinh ra ”một nhân vật khác,” đứa con trai mà những trò hề của nó làm họ mất mặt và tên của nó không bao giờ được nhắc tới. Ban đầu Naomi chỉ chúi mũi vào học hành, tránh xa đám sinh viên cấp tiến của đại học Columbia. Nhưng rồi Gerry đến trường chị và anh đã thôi miên chị, cùng với phần còn lại của hội sinh viên.

    Chị đã luôn tôn sùng anh trai, nhưng chưa khi nào tôn sùng hơn thế vào một ngày đông khi chị nhìn anh đứng ở những bậc thềm trên cùng của thư viện như một chiến binh trẻ tuổi với chiếc quần jeans xanh đang cố thay đổi thế giới bằng lời lẽ hào hùng. Chị đã quan sát những đường nét Semitic mạnh mẽ ấy với vầng hào quang bao quanh là mái tóc quăn đen và không tin nổi hai người họ cùng một mẹ sinh ra. Gerry có đôi môi mọng và một cái mũi khoai tây không được phẫu thuật chỉnh sửa như mũi của chị. Mọi điều ở anh ấy đều kỳ vĩ, còn chị cảm thấy mình thật tầm thường. Giơ cao hai cánh tay trên đầu, anh đấm tay vào không khí và ngửa đầu ra sau, hàm răng trắng lóa như những vì sao trên nền da màu olive. Trong đời chị chưa từng thấy cảnh tượng nào lạ lùng hơn cảnh anh trai hô hào quần chúng nổi dậy ngày hôm ấy tại đại học Columbia.

    Trong năm đó, chị đã gia nhập lực lượng tự vệ đại học Columbia, một hành động rốt cuộc đã được anh trai tán thưởng nhưng dẫn đến sự ghẻ lạnh đau đớn từ cha mẹ chị. Ảo mộng từ từ tan vỡ trong mấy năm sau đó khi chị cảm thấy mình là nạn nhân trước chủ nghĩa sô-vanh quá khích của Movement, sự vô tổ chức, và tính đa nghi của nó. Sang năm thứ hai chị đã cắt đứt quan hệ với các nhà lãnh đạo của tổ chức, và Gerry không bao giờ tha thứ cho chị. Hai năm qua họ chỉ gặp nhau đúng một lần, và cãi cọ từ đầu cho tới cuối. Giờ thì ngày ngày chị cầu nguyện anh ấy đừng làm điều gì kinh khủng không thể cứu vãn khiến tất cả mọi người trong công ty phát hiện ra đó là anh trai mình. Không hiểu sao chị không thể hình dung một công ty bảo thủ như BS&R sẽ bổ nhiệm em gái một phần tử cấp tiến lừng danh khắp nước vào vị trí nữ chủ tịch đầu tiên.

    Chị dứt ý nghĩ khỏi quãng đời quá khứ và nhìn xuống hiện tại – mẫu thiết kế trải trên mặt bàn giấy. Như mọi lần, trong chị trào dâng niềm thỏa mãn nói lên rằng chị đã làm rất tốt. Con mắt sành sỏi của chị tán thưởng thiết kế hình chai của Sassy, một giọt nước mắt thủy tinh phủ băng với nút chai dạng sóng màu xanh navy. Chai nước hoa sẽ được đóng vào một chiếc hộp màu navy sáng bóng in dòng chữ hồng rực là slogan chị tạo ra – ”SASSY! Chỉ dành cho những tâm hồn tự do.” Dấu chấm than sau tên sản phẩm là ý tưởng của chị, và là ý tưởng chị hết sức hài lòng. Song, bất chấp sự thành công của cả chiếc hộp và slogan, tinh thần của chiến dịch vẫn không có vì Naomi không thể làm được một việc đơn giản: chị không tìm ra được Cô nàng Ngổ ngáo (Sassy Girl).

    Điện thoại nội bộ reo, cô thư ký nhắc chị có cuộc họp với Harry R. Rodenbaugh, phó chủ tịch cấp cao và là thành viên ban quản trị của BS&R. Mr. Rodenbaugh đã đặc biệt yêu cầu chị mang theo thiết kế Sassy mới. Naomi rên lên. Là một trong hai giám đốc sáng tạo của BS&R, chị đã phụ trách hạng mục nước hoa và mĩ phẩm từ nhiều năm qua, và chưa gặp phải vấn đề gì lớn. Tại sao Sassy cứ phải là sản phẩm mà Harry Rodenbaugh đưa vào dự án con cưng của ông ta chứ? Harry, người rất muốn tạo một tiếng vang để đời trước khi về hưu, nhất định đòi một gương mặt tươi mới đại diện cho sản phẩm, một người mẫu thật đẹp nhưng xa lạ đối với các độc giả của tạp chí thời trang.

    ”Tôi muốn sự cá tính, Naomi, chứ không chỉ một gương mặt người mẫu đúc cùng một khuôn khác,” ông ta đã bảo thế khi gọi chị vào văn phòng trải thảm Ba Tư của mình tuần trước. ”Tôi muốn một bông hồng Mĩ thanh tao với một ít gai nhọn. Chiến dịch này hoàn toàn là về tinh thần tự do của phụ nữ nước Mĩ, và nếu cô không thể trình ra cho tôi thứ gì gần với tiêu chí đó hơn những gương mặt trẻ con dùng mòn ra này trong ba tuần vừa rồi, thì tôi thực không hiểu làm sao cô ngồi được vào ghế phó chủ tịch của BS&R nữa.”

    Lão già chết bầm.

    Naomi gom lại giấy tờ y chang cách chị làm mọi việc khác, với những cử chỉ nhanh nhẹn, tập trung. Ngày mai chị sẽ bắt đầu liên hệ với tất cả những nhà môi giới sân khấu và tìm một nữ diễn viên thay cho một người mẫu vậy. Nhiều tên đàn ông theo chủ nghĩa Sô vanh ghê gớm hơn Harry R. Rodenbaugh đã tìm cách hạ gục chị mà chưa kẻ nào thành công nữa là.

    Lúc đi ngang qua bàn cô thư ký, Naomi dừng lại nhận một gói chuyển phát nhanh vừa mới đến, và thế nào chị lại đánh rơi một quyển tạp chí xuống sàn. ”Để tôi,” thư ký của chị vừa nói vừa cúi xuống.

    Nhưng Naomi đã nhặt nó lên, con mắt nhà nghề của chị chạm phải một chuỗi những tấm ảnh chụp tự nhiên trên trang báo bị lật ra. Chị cảm thấy gáy mình nổi gai ốc – một phản ứng bản năng mách bảo rõ ràng hơn bất cứ buổi thảo luận nhóm nào khi chị phát hiện ra thứ gì quý giá. Sassy Girl của chị đây chứ đâu. Toàn thân, thẳng mặt, góc nghiêng ba phần tư – bức này lại đẹp hơn bức trước. Trên nền sàn văn phòng cô thư ký, chị đã tìm thấy đóa hồng nước Mĩ của mình.

    Và chị nhìn sang lời chú thích. Cô gái không phải là một người mẫu chuyên nghiệp, nhưng đó không hẳn là điều tồi tệ.

    Chị lật ra trang bìa và cau mày. ”Tạp chí này ra từ sáu tháng trước.”

    ”Tôi đang dọn ngăn kéo, nên –”

    ”Bỏ đi.” Chị quay lại với những tấm ảnh và gõ ngón tay trỏ lên mặt giấy. ”Trong lúc tôi đi họp cô hãy gọi vài cuộc điện thoại xem có tìm được cô gái này không. Đừng liên lạc gì cả; chỉ cần tìm ra cô ấy ở đâu thôi.”

    Nhưng khi Naomi trở ra từ cuộc họp với Harry Rodenbaugh thì mới hay cô thư ký không tìm ra bất cứ thông tin gì. “Cứ như cô ấy đã biến mất vậy, cô Tanaka. Không ai biết cô ấy ở đâu.”

    “Chúng ta sẽ tìm ra cô ấy,” Naomi nói. Những bánh xe trong đầu chị đã lách cách chuyển động khi chị rà soát danh sách các đầu mối liên lạc. Chị liếc xuống chiếc đồng hồ đeo tay Rolex và tính toán những chênh lệch thời gian. Rồi chị cầm quyển tạp chí và đi vào văn phòng. Trong lúc quay số điện thoại, chị nhìn xuống những bức ảnh. “Tôi sẽ tìm ra cô,” chị nói với người con gái xinh đẹp đang ngước lên từ trang báo. “Tôi sẽ tìm ra cô, và khi ấy, cuộc đời cô sẽ mãi mãi thay đổi.”

    ***

    Con mèo mắt lác đi theo Francesca về nhà nghỉ. Nó có bộ lông xám xỉn trụi mấy miếng quanh đôi vai gầy guộc do một trận ẩu đả cách đây đã lâu. Gương mặt nó vẹo hẳn sang một bên, và một con mắt méo mó, tròng đen thụt hẳn vào trong chỉ còn toàn lòng trắng hiện ra ngoài. Để tăng thêm vẻ tàn tạ, nó còn mất một mẩu tai. Cô ước sao con vật ấy chọn ai khác trên đường để đi theo, và cô rảo bước nhanh hơn khi rẽ vào bãi đỗ xe. Vẻ xấu xí tàn nhẫn của nó làm cô khó chịu. Cô có một cảm tưởng vô lí là không muốn thứ gì quá xấu ở gần mình, rằng sự xấu xí đó có thể làm ảnh hưởng đến cô, rằng người ta bị đánh giá bởi những thứ xung quanh họ.

    ”Đi đi!” cô ra lệnh.

    Con vật ném cho cô một cái nhìn ánh lên sự thù hận, nhưng không chuyển hướng đi. Cô thở dài. Với diễn biến vận may của cô dạo gần đây, cô còn mong đợi gì chứ?

    Ngày đầu tiên ở Lake Charles cô đã ngủ một mạch từ chiều đến đêm, chỉ láng máng nhận biết Dallie vào phòng và gây tiếng động lạch xạch một hồi, rồi lại lạch xạch như thế khi anh rời phòng vào sáng hôm sau. Đến lúc cô thức giấc hẳn, anh đã đi được mấy tiếng đồng hồ. Trong tình trạng đói sắp xỉu, cô tắm thật nhanh, sau đấy dùng ké xà phòng bàn chải của Dallie. Rồi cô cầm năm dollar tiền ăn anh để lại lên, nhìn đăm đăm, đứng trước một trong những quyết định khó khăn nhất đời mình.

    Hiện tại trên tay cô là một bao giấy nhỏ đựng một đôi quần lót nylon rẻ tiền, một tuýp mascara loại thường, một lọ tẩy sơn móng tay nhỏ nhất cô có thể kiếm được, và một gói miếng giũa móng tay. Còn thừa vài xu lẻ, cô đã mua món ăn duy nhất có thể mua, một thanh kẹo Milky Way. Dày và nặng, cô cảm nhận được trọng lượng chắc tay của nó dưới đáy bao giấy. Cô vốn muốn một bữa ăn đích thực – gà trống thiến, gạo dại, salad đầy có ngọn phủ pho mát xanh, một góc bánh truffle – nhưng cô cũng cần quần lót, mascara, những móng tay đáng xấu hổ của cô cần được cứu vớt. Khi cuốc bộ quay về trên đường cái, cô nghĩ đến số tiền mình đã phung phí suốt những năm qua. Những đôi giày hàng trăm dollar, những chiếc váy ngàn đô, tiền bay khỏi tay cô như những lá bài bay khỏi những ngón tay phù thủy. Với giá một chiếc khăn lụa, cô đã có thể có một bữa ăn bà hoàng.

    Vì Francesca không có giá của một chiếc khăn, nên cô quyết định chọn món cực kỳ nhanh chóng, có điều bữa ăn thật xoàng xĩnh. Cạnh nhà nghỉ trồng một cái cây cho bóng mát, thêm một cái ghế bằng sắt hoen gỉ đặt trên bãi cỏ. Cô sẽ ngồi xuống ghế, tận hưởng không khí ấm áp của buổi chiều, và nhấm nháp từng miếng chocolate, ăn thật chậm để nó lâu hết. Nhưng trước hết cô phải tống khứ con mèo đi đã.

    “Xùy!” Cô rít giọng, giậm chân trên nền bê tông. Con mèo nghiêng cái đầu dị dạng nhìn cô và đứng nguyên tại chỗ. “Đi đi, con quái vật kia, đi tìm người khác mà quấy nhiễu.” Khi con vật không nhúc nhích, cô trút tiếng thở dài căm phẫn và xăm xăm đi về phía chiếc ghế. Con mèo theo sau. Cô mặc xác nó, nhất quyết không để con vật xấu xí ấy phá hoại niềm hân hoan trong bữa ăn đầu tiên của cô kể từ tối Thứ Bảy.

    Đá đôi sandal đi khi ngồi xuống, cô làm mát hai lòng bàn chân trong lớp cỏ trong lúc sục tay vào túi tìm thanh kẹo. Cảm giác nó quý giá như một thoi vàng trong tay cô. Rón rén xé lớp giấy bọc, ngón tay cô dính ướt khi nhặt những vụn chocolate rơi khỏi vỏ bọc xuống quần jeans của cô. Ngon tuyệt…cô trượt một miếng kẹo vào miệng, cắn ngập răng vào lớp vỏ và nhân nougat, dứt ra. Trong khi nhai, cô thấy đời mình chưa bao giờ ăn món gì ngon đến thế. Cô buộc mình cắn miếng thứ hai thật chậm rãi thay vì tống cả thanh kẹo vào miệng.

    Con mèo phát ra một âm thanh trầm rào rạo, mà Francesca phỏng đoán là tiếng ’meo’ bị kêu sai.

    Cô trừng mắt với con vật đang đứng bên gốc cây nhìn cô bằng con mắt lành lặn. ”Quên đi mày. Tao còn cần thứ này hơn mày ấy.” Cô cắn một miếng nữa. ”Tao không phải người yêu động vật, cho nên mày không cần nhìn tao trân trân như thế. Tao không có cảm tình với bất cứ thứ gì có móng vuốt và không biết đỏ mặt.”

    Con vật không động đậy. Cô để ý thấy xương sườn nó nhô ra từng dẻ, bộ lông xỉn bết. Chỉ là tưởng tượng hay đúng là cô cảm nhận có một sự nhẫn nhục u uẩn trên gương mặt xấu xí mù dở đó? Cô cắn một miếng nhỏ nữa. Thanh chocolate không còn ngon như lúc đầu. Giá như cô không biết cảm giác đói cồn ruột là như thế nào.

    “Bố khỉ!” Cô bẻ một khúc kẹo ra, bóp vụn thành những mẩu nhỏ, và rải lên bao giấy. Đặt cả chỗ đấy xuống cỏ, cô trợn mắt với con vật. “Tao hy vọng là mày thỏa mãn, mèo khốn khổ ạ.”

    Con mèo bước lại gần ghế, cúi cái đầu méo mó xuống chỗ kẹo chocolate, nhỏ nhẻ ăn từng miếng cứ như đang gia ơn cho cô vậy.

    Dalli đi thi đấu về lúc hơn bảy giờ tối. Khi ấy cô đã sửa xong móng tay, đếm xong số gạch xỉ của bốn bức tường, và đọc xong quyển Genesis. Khi anh bước qua cửa, cô đang muốn nghe tiếng người một cách tuyệt vọng đến mức cô nhảy dựng khỏi ghế, chỉ kìm được mình ở phút cuối không chạy ào đến đón anh ta.

    “Ngoài kia có con mèo xấu nhất tôi từng thấy,” anh nói, vứt chìa khóa xuống mặt tủ. “Tôi ghét mèo, sinh vật duy nhất trên thế giới tôi không chịu đựng nổi là mèo.” Kể từ giấy phút ấy, bản thân Francesca cũng không quá yêu mến loài này nữa, nên cô không tranh cãi. “Tôi đem bữa tối về cho cô đây,” anh thảy cho cô một gói giấy.

    Cô khẽ kêu lên khi bắt lấy cái gói và xé ra. “Hambuger! Ôi mẹ ơi … khoai tây chiên! Tôi yêu anh quá.” Cô lôi những miếng khoai ra bỏ tọt vào miệng.

    “Chà, Francie, cô không phải làm bộ như đang đói sắp chết thế. Tôi đã để lại tiền ăn trưa cho cô cơ mà.”

    Anh lấy một bộ đồ sạch trong va li và biến vào nhà tắm. Khi anh trở ra trong đồng phục ngày thường là quần jeans và áo T-shirt, cô đã nguôi cơn đói nhưng khao khát trò chuyện thì chưa. Tuy nhiên, cô cảm thấy anh lại sắp sửa ra ngoài.

    “Anh lại đi đấy à?”

    Anh ngồi xuống cuối giường và mang giày. “Skeet và tôi có hẹn với một người tên Pearl.”

    ”Vào giờ này ư?”

    Anh cười tủm tỉm. ”Mr. Pearl rất linh động về giờ giấc.”

    Cô có cảm giác rằng mình đã bỏ lỡ điều gì đó, nhưng không hình dung ra. Gạt đồ ăn sang bên, cô đứng bật dậy. ”Cho tôi đi với, Dallie? Tôi có thể ngồi ngoài xe trong lúc các anh đi hẹn hò.”

    ”Tôi không nghĩ thế, Francie. Cuộc hẹn kiểu này đôi lúc kéo dài tới quá nửa đêm.’

    ”Không sao hết. Thật đấy.” Cô ghét phải nài nỉ, nhưng cô không nghĩ mình có thể chịu đựng thêm nữa cái cảnh câm lặng một mình trong phòng không người trò chuyện.

    ”Xin lỗi, Fancy Pants.” Anh nhét ví vào túi quần sau.

    ”Đừng có gọi tôi như thế! Tôi rất ghét!” Anh nhướng một bên mày về phía cô, thế là cô vội chuyển chủ đề. ”Kể tôi nghe về giải đấu đi. Anh chơi thế nào?”

    ”Hôm nay mới chỉ là khởi động. Vòng Pro-Am diễn ra vào Thứ Tư, nhưng Thứ Năm giải đấu mới thực sự bắt đầu. Việc liên lạc với Nicky của cô có tiển triển gì không?”

    Cô lắc đầu, không mấy sốt sắng với chủ đề ấy. ”Anh có thể kiếm được bao nhiêu nếu thắng giải này?”

    Anh cầm mũ đội lên đầu, lá cờ Mĩ phía trên vành mũ chằm chằm nhìn lại cô. ”Cỡ mười ngàn thôi. Cái này không hẳn là một giải đấu, nhưng tôi có một anh bạn là tay golf chuyên nghiệp, nên hàng năm tôi vẫn chơi.”

    Khoản tiền mà một năm trước cô ắt xem là vặt vãnh đột nhiên ngang với một gia tài. ”Tuyệt vời. Những mười ngàn đô. Anh nhất định phải thắng, Dallie.”

    Anh nhìn cô với gương mặt lạnh tanh kì lạ. ”Tại sao?”

    ”Tại sao ư, dĩ nhiên là để anh có số tiền đó.”

    Anh nhún vai. ”Chừng nào chiếc Riviera còn chạy êm, thì tôi không quan tâm lắm đến tiền, Francie ạ.”

    ”Vớ vẩn. Ai nấy đều nghĩ đến tiền.”

    ”Tôi thì không.” Anh bước ra cửa và gần như lập tức xuất hiện trở lại. ”Sao lại có giấy gói hambuger ngoài này, Francie? Không phải cô cho con mèo kia ăn đấy chứ?”

    ”Đừng lố bịch thế. Tôi chúa ghét mèo.”

    ”Lần đầu tiên tôi được nghe một câu nói tình cảm từ cô đấy.” Anh hơi gật đầu vẻ tán thưởng với cô rồi đóng cửa lại. Cô đá vào chiếc ghế của bàn giấy bằng mũi sandal và lại bắt đầu đếm những viên gạch xỉ.

    ”Pearl là một nhãn hiệu bia!” cô hét lên vào buổi tối thứ năm khi Dallie trở về lúc nhá nhem tối từ vòng bán kết của giải đấu. Cô vẫy tờ tạp chí quảng cáo bóng láng trước mặt anh. ”Những buổi tối vừa rồi anh bỏ tôi trong căn phòng chết tiệt này với mỗi cái ti vi bầu bạn thì ra là để đi bia bọt ở một quán bar nhếch nhác nào đó.”

    Skeet xếp những cây gậy golf của Dallie vào góc. ”Cậu phải dậy từ sớm để qua mặt Miss Fran-ches-ka chứ. Lẽ ra cậu không nên bày bừa mớ tạp chí cũ của cậu ra, Dallie ạ.”

    Dallie nhún vai và xoa chỗ cơ bị nhức trên cánh tay trái. ”Ai ngờ cô ấy lại đọc đến chứ.”

    Skeet cười tủm tỉm và rời khỏi phòng. Nhận xét của Dallie làm cô đau như dao chém. Một loạt hồi ức khó chịu về những nhận xét ác ý cô đã buông ra quay về đay nghiến cô, những nhận xét có vẻ thông minh vào thời điểm đó, nhưng giờ đây chỉ mang sự tàn nhẫn. ”Anh thấy tôi nực cười lắm phải không?” cô lặng lẽ hỏi. ”Anh thích kể những câu chuyện cười mà tôi không hiểu và nhắm thẳng vào tôi. Anh còn không thèm chế giễu tôi sau lưng để giữ phép lịch sự; anh cười nhạo vào giữa mặt tôi.”

    Dallie cởi khuy áo. ”Ồ, Francie, đừng làm quá lên thế.”

    Cô ngồi sụp xuống mép giường. Anh ta không hề nhìn cô – chưa một lần nhìn cô kể từ lúc anh ta bước vào phòng, thậm chí trong lúc nói chuyện với cô. Cô đã trở thành vô hình đối với anh ta – vô tính và vô hình. Nỗi lo sợ anh ta sẽ trông chờ cô ngủ với anh ta đổi lấy việc ở chung phòng giờ xem ra thật lố bịch. Anh ta không bị cô hấp dẫn tẹo nào. Anh ta thậm chí không thích cô. Cô nhìn bộ ngực săn chắc phủ một lớp lông mỏng của anh khi anh cởi khuy áo. Sự phiền muộn lơ lửng trên đầu cô những ngày qua càng hạ thấp xuống.

    Anh lột áo và ném xuống giường. ”Nghe này Francie, cô sẽ không thích nơi Skeet và tôi hay lui tới đâu. Nó không có khăn trải bàn, và tất cả thức ăn đều là đồ chiên.”

    Cô nghĩ đến Blue Choctaw và biết có thể anh nói đúng. Rồi cô nhìn về màn hình ti vi đang phát một chương trình có tên ”Tôi mơ về Jeannie” tới lần thứ hai trong ngày. ”Tôi không quan tâm, Dallie. Tôi yêu đồ chiên, và khăn trải bàn dù sao cũng đã lỗi thời. Năm ngoái đây thôi Mẹ tổ chức một bữa tiệc cho Nureyev và bà đã dùng những miếng lót chén đĩa.”

    ”Tôi cá là người ta không cho in bản đồ Louisiana lên đó.”

    ”Tôi không nghĩ Porthault có bản đồ.”

    Anh thở dài và gãi gãi ngực. Tại sao anh ta không nhìn cô? Cô đứng dậy. ”Đó là một câu chuyện cười, Dallie. Tôi cũng biết kể chuyện cười đó chứ.”

    ”Không có ý xúc phạm đâu, Francie, nhưng chuyện cười của cô không buồn cười lắm.”

    ”Nó là chuyện cười đối với tôi, và bạn bè tôi.”

    ”Vậy à? Ồ, đó lại là chuyện khác. Chúng ta có gu chọn bạn khác nhau. Và tôi biết cô sẽ không thích đám bạn rượu chè của tôi. Một số người là golf thủ, một số là dân địa phương, phần lớn bọn họ hay nói những câu kiểu. ’Tôi thấy nhiều rồi. Họ không phải kiểu người cô thích đâu.”

    ”Thành thực mà nói,” cô liếc nhìn màn hình ti vi, ”bất cứ ai không uống như hũ chìm đều là người tôi chơi được.”

    Dallie mỉm cười trước câu nói đó và biến vào nhà tắm. Mười phút sau, cửa bật mở và anh xông ra với chiếc khăn tắm thắt ngang hông và gương mặt đỏ phừng phừng dưới màu da rám nắng. ”Sao bàn chải của tôi lại ướt nhẹp?” anh gầm lên, run run giơ món đồ tội lỗi ra trước mặt cô.

    Mong ước của cô đã thành hiện thực. Giờ thì anh ta nhìn cô rồi, nhìn trừng trừng hẳn hoi – và cô không thích nó chút nào. Cô giật lùi một bước và cắn môi dưới trong một vẻ mặt mà cô hy vọng trông như biết lỗi một cách quyến rũ. ”E rằng tôi đã phải mượn tạm nó.”

    ”Mượn nó! Đó là điều ghê tởm nhất tôi từng nghe.”

    ”Thì anh thấy là tôi đã bị mất bàn chải, và tôi –”

    ”Mượn nó!” cô thối lui bước nữa vì thấy là anh đang nổi cơn lôi đình. ”Ở đây chúng ta không nói về một hũ đường, chị gái à! Chúng ta đang nói về một cái bàn chải, vật dụng riêng tư nhất của con người.”

    ”Tôi vẫn rửa sạch mà,” cô biện bạch.

    ”Cô vẫn rửa sạch,” anh gườm gườm lặp lại. ”’Vẫn tức nghĩa là chuyện này xảy ra không chỉ một lần. ’Vẫn’ có nghĩa là chúng ta có cả một tầng lịch sử dùng chung.”

    ”Thực ra không phải là một tầng. Ý tôi là, chúng ta mới biết nhau được mấy ngày.”

    Anh quẳng cái bàn chải trúng cánh tay cô. ”Lấy nó đi! Lấy thứ chết tiệt đó đi! Tôi đã làm ngơ việc cô sục sạo quần áo của tôi, vặn dao cạo, không đậy nắp lọ khử mùi! Tôi làm ngơ mớ lộn xộn cô gây ra ở đây, nhưng tôi không bỏ qua chuyện này được.”

    Lúc đó cô nhận ra anh đã nổi giận thực sự, và, một cách vô tình, cô đã bước qua một lằn ranh vô hình nào đó. Vì một nguyên do cô không thể luận ra, chuyện về cái bàn chải này hệ trọng đến độ anh quyết định làm cho ra ngô ra khoai. Nỗi hoảng sợ ập đến. Cô đã đẩy anh đi quá xa, và anh sắp đá cô đi. Trong vài giây nữa thôi, anh sẽ giơ tay lên, chỉ ngón tay ra cửa, và bảo cô biến khỏi cuộc đời anh vĩnh viễn.

    Cô vội vã băng qua phòng. ”Dallie, tôi xin lỗi, thực lòng xin lỗi anh.” Anh lạnh lùng nhìn cô. Cô đưa cả hai tay áp lên ngực anh, những ngón tay xòe rộng, những móng tay cắt ngắn không được trau chuốt đã hơi ngả màu sau nhiều năm bị lớp sơn đỏ bao phủ. Cô ngửa đầu nhìn vào mắt anh. ”Đừng giận tôi.” Cô nhích vào sát hơn khiến chân cô áp vào chân anh, rồi dụi đầu vào ngực anh và tựa má lên làn da trần của anh. Không người đàn ông nào có thể cưỡng lại cô. Khi mà cô đã định tâm làm thế. Chỉ là cô đã không định làm thế mà thôi. Chẳng phải Chloe đã dạy cô rù quyến đàn ông từ khi lọt lòng sao?

    ”Cô làm gì đấy?” anh hỏi.

    Cô không đáp; chỉ dựa sát vào anh, mềm mại và ngoan ngoãn như một con mèo ngái ngủ. Anh có mùi sạch sẽ như xà phòng, khiến cô chun mũi hít hà. Anh không đá cô được đâu. Cô sẽ không để cho chuyện đó xảy ra. Nếu anh đuổi cô đi, cô sẽ chẳng còn gì cũng như chẳng còn ai. Cô sẽ tan biến. Giờ đây Dallie là tất cả những gì cô có trên đời, và cô sẽ làm bất cứ chuyện gì để giữ lấy anh. Hai bàn tay cô lần lần lên ngực anh. Cô kiễng chân vòng hai tay qua cổ anh, rồi cô lướt môi theo đường quai hàm của anh và ép bộ ngực vào ngực anh. Cô cảm thấy anh đang cứng dần lên dưới lớp khăn tắm, và cảm thấy quyền lực của mình đã được khôi phục.

    ”Đích xác thì cô đang suy tính gì trong đầu với toàn bộ chuyện này vậy?” anh lẳng lặng hỏi. ”Lập đội đấu vật mi ni quần nhau dưới chăn à?”

    ”Chuyện đó không tránh khỏi còn gì?” cô buộc mình tỏ ra tự nhiên. ”Không phải anh không là một quý ông đích thực đâu, nhưng chúng ta đang chung một phòng.”

    ”Phải nói với cô rằng tôi không nghĩ đó là một ý hay.”

    ”Sao lại không?” cô phô diễn hết mức mê lực của hàng mi trong lớp mascara rẻ tiền, và rướn hông vào sát người anh hơn, điệu bộ hoàn hảo mà một phụ nữ có thể tạo ra nhằm làm đàn ông ngây ngất.

    ”Cũng khá rõ ràng nhỉ?” Tay anh trượt lên khum vào eo cô và những ngón tay nhẹ nhàng nắn bóp. ”Chúng ta không thích nhau. Cô muốn ngủ với một tên đàn ông không thích cô sao, Francie? Kẻ đến sáng mai sẽ chẳng tôn trọng cô? Bởi đó sẽ là kết cục nếu cô cứ cọ vào tôi như thế?”

    ”Tôi không tin anh nữa đâu.” Sự tự tin quen thuộc trở về với cô trong một làn sóng dễ chịu. ”Tôi nghĩ anh thích tôi hơn mức anh muốn thừa nhận. Tôi nghĩ đó là lí do mà anh đã rất thành công trong việc tránh mặt tôi tuần vừa qua, là lí do anh không chịu nhìn tôi.”

    ”Chuyện này chẳng liên quan gì đến thích hay không thích,” Dallie đáp, bàn tay kia ve vuốt hông cô, giọng anh trở nên trầm đục. ”Nó liên quan đến việc gần gũi xác thịt kia.”

    Đầu anh cúi xuống, và cô cảm thấy anh sắp sửa hôn mình. Cô liền lách khỏi vòng tay anh và mỉm cười quyến rũ. ”Cho tôi vài phút thôi.” Cô quay người đi vào phòng tắm.

    Vào trong rồi, cô dựa lưng vào cửa và hít một hơi sâu run run, cố trấn áp nỗi lo lắng trước điều mình đang quyết tâm thực hiện. Đây là cơ hội để cô trói lấy Dallie, để đảm bảo anh ta không đuổi cổ cô, để an tâm rằng anh ta sẽ nuôi ăn và chăm lo cho cô. Nhưng không chỉ có vậy. Làm cho Dallie ngủ với cô sẽ khiến cô cảm thấy mình lại là mình, cho dù cô chẳng còn rõ đâu mới là mình.

    Giá mà cô có một trong những chiếc áo ngủ Natori ở đây. Và rượu champagne, cùng một phòng ngủ đẹp đẽ với ban công nhìn ra biển. Cô bắt gặp hình ảnh mình trong gương và tiến lại gần hơn. Nom cô thật kinh dị. Tóc tai rũ rượi, mặt tái nhợt. Cô cần quần áo đẹp, cô cần trang điểm. Cô bóp kem đánh răng ra ngón tay rồi lùa khắp khoang miệng nhằm làm sạch hơi thở. Làm sao cô có thể để cho Dallie trông thấy mình trong chiếc quần lót hàng chợ kia? Bằng những ngón tay run rẩy, cô lột chiếc quần jeans xuống. Những vệt đỏ trên vùng da gần rốn nơi chiếc thắt lưng thắt quá chặt đập vào mắt khiến cô bật ra tiếng rên khẽ. Cô không muốn Dallie thấy mình với những nếp nhăn. Cô lấy ngón tay chà những vệt đỏ, cố gắng làm chúng biến mất, nhưng chỉ càng khiến chúng đỏ ửng hơn. Cô sẽ tắt hết đèn đi vậy.

    Cô cởi cả áo T-shirt và bra rồi quấn mình trong chiếc khăn tắm. Nhịp thở của cô càng lúc càng hỗn loạn. Khi cởi chiếc quần lót nylon, cô trông thấy một vệt nhỏ lông tơ gần viền bikini mà cô đã bỏ sót lúc cạo lông chân. Chống một chân lên nắp bồn cầu, cô lướt một đường con dao cạo của Dallie qua cái vệt chướng mắt ấy. Đó, khá hơn rồi. Cô cố nghĩ xem còn cách nào để cải thiện bản thân. Cô thoa lại son môi rồi thấm bớt bằng giấy vệ sinh để nó không lem ra khi họ hôn nhau. Cô củng cố lòng tự tin bằng cách nhắc nhở bản thân rằng mình là một người hôn điêu luyện ra sao.

    Có cái gì đó trong cô xẹp xuống như một quả khí cầu cũ, khiến cô ủ rũ và bẹp rúm. Nếu anh ta không thích cô thì sao? Nếu cô thể hiện kém cỏi thì sao, giống như cô đã không làm tốt trước Evan Varian hay nhà điêu khắc ở Marrakech? Nếu như – Đôi mắt xanh của cô nhìn lại mình trong gương và một ý nghĩ đáng sợ nảy ra. Nếu cô có mùi thì sao? Cô chộp lấy chai xịt Femme đằng sau bồn cầu, giang rộng chân, và xịt.

    ”Cô đang làm trò gì thế?”

    Quay phắt lại, cô thấy Dallie đứng ngay cửa, một tay chống lên hông phủ khăn tắm. Anh ta đứng đó bao lâu rồi? Anh ta đã trông thấy những gì? Cô đứng thẳng lên với vẻ tội lỗi. ”Không. Tôi – tôi chẳng làm gì cả.”

    Anh nhìn chai Femme đang lủng lẳng trên tay cô. ”Có cái gì ở cô là thật không?”

    ”Tôi – tôi không hiểu anh muốn nói gì.”

    Anh bước hẳn vào phòng tắm. ”Cô đang thử nghiệm những tính năng mới của nước hoa à, Francie? Có phải đó là điều cô đang làm không?” Anh chống một tay lên tường và nghiêng người về phía đó. ”Cô mặc quần jeans thiết kế, đi giày thiết kế, mang va li thiết kế. Giờ Miss Fancy Pants có cả chỗ kín thiết kế nữa.”

    ”Dallie!”

    ”Cô đúng là một người tiêu dùng bá cháy – giấc mơ của một nhân viên quảng cáo. Cô có định đặt tên viết tắt nhà thiết kế bằng vàng lên đó không?”

    ”Nghe không buồn cười đâu.” Cô đặt mạnh lọ nước hoa lại chỗ cũ và túm chặt khăn tắm. Da cô nóng rực vì xấu hổ.

    Anh lắc đầu với vẻ ngao ngán mà cô thấy đầy sỉ nhục. ”Thôi đi, Francie, mặc quần áo vào. Tôi đã nói sẽ không làm thế, nhưng không cầm lòng được. Tối nay tôi sẽ đưa cô đi cùng.”

    ”Lí do cho sự thay đổi hào hiệp này là gì?” cô hỏi cộc lốc.

    Anh xoay người đi ra phòng ngủ, câu trả lời vẳng lại qua vai. ”Thực ra là, tôi e rằng nếu tôi không sớm cho cô thấy một lát cắt của thế giới thực, thì cô sẽ tự gây họa cho mình.”
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 11 others like this.
  13. Trần Thu Hà

    Trần Thu Hà Mầm non

    Đã lâu không thấy Song vang xuất hiện. Thật mừng quá, luôn luôn mong chờ các tác phẩm của bạn dịch. Cảm ơn nhiều nhiều.
     
    B-Mon and hathao like this.
  14. song vang

    song vang Lớp 8

    @ Trần Thu Hà: comment của bạn là sự cổ vũ lớn đối với mình! Cám ơn các bạn!

    CHƯƠNG 12

    Cajun Bar và Grill là một sự tiến bộ rõ rệt so với Blue Choctaw, song vẫn không phải là nơi Francesca sẽ chọn làm địa điểm dự vũ hội. Cách Lake Charles khoảng mười dặm, nó nằm chơ vơ bên con đường cao tốc hai làn. Cửa quán kêu sầm sập mỗi khi có người ra vào và chiếc quạt trần vẹo một cánh kêu cót két. Đằng sau bàn họ ngồi là một con cá kiếm màu xanh lục óng ánh bị đóng đinh lên tường cùng một tuyển tập những cuốn lịch và một bức ảnh quảng cáo bánh mì Evangeline Maid. Những miếng lót đĩa đúng như Dallie miêu tả, song anh đã quên không nhắc đến những đường diềm vỏ sò và dòng chữ đỏ bên dưới bản đồ bang Louisiana: ”Vùng đất của Chúa.”

    Một cô hầu bàn khá xinh tóc nâu mặc quần jeans và áo tank top bước đến bàn. Cô ta săm soi Francesca bằng vẻ tò mò pha lẫn ghen tỵ che giấu rất dở, rồi quay sang Dallie. ”Chào Dallie. Nghe nói anh là người duy nhất xô đổ vị trí dẫn đầu. Xin chúc mừng.”

    ”Cảm ơn. Tuần này giải đấu quả là thuận lợi đối với tôi.”

    ”Skeet đâu?” cô ta hỏi.

    Francesca giả ngây ngó chăm chăm lọ đường bằng kính và chrome ở giữa bàn.

    ”Vì bụng dạ không ổn nên ông ấy quyết định ở lại nhà nghỉ.” Dallie tặng Francesca một ánh nhìn lạnh lẽo và hỏi cô muốn ăn gì.

    Một danh sách món ngon diễu qua trong đầu cô – súp tôm hùm, pate vịt non với quả hồ trăn, hàu sốt – nhưng cô đã thông minh vượt trội so với năm ngày trước. ”Anh có đề xuất nào không?” cô hỏi anh ta.

    ”Chili dog được đấy, nhưng món tôm sông ngon hơn.”

    Tôm sông là món gì vậy trời? ”Vậy gọi tôm sông đi,” cô bảo anh ta, cầu mong nó đừng bị chiên kỹ. ”Và anh có thể gợi ý món rau nào đi kèm không? Tôi bắt đầu lo bị thiếu vitamin C rồi.”

    ”Cô thích bánh chanh không?”

    Cô nhìn anh ta. ”Đó là nói đùa đúng không?”

    Anh nhe răng cười với cô rồi quay sang nàng phục vụ. ”Mary Ann, mang cho Francie một suất salad thiệt bự, kèm với cà chua beefsteak xắt lát. Phần tôi là cá trê rán và dưa chuột muối thì là giống hôm qua.”

    Cô phục vụ vừa đi khỏi, hai người đàn ông bảnh bao đóng bộ quần dài áo polo từ quầy bar bước lại bàn. Nghe họ nói chuyện ta nhanh chóng nhận ra họ là những tay golf cùng tham gia giải đấu với Dallie và họ đến làm quen với Francesca. Họ chia nhau ngồi hai bên cạnh cô và không ngớt lời tán tụng cô và dạy cô cách gỡ phần thịt ngọt món tôm luộc được nhanh chóng đem ra trên một chiếc đĩa trắng dày dặn. Cô cười trước mọi câu chuyện họ kể, hào phóng thỏa mãn cái tôi của bọn họ, và nhìn chung đã thu phục được cả hai trước khi họ uống hết chai bia đầu tiên. Cô cảm thấy rất tuyệt

    Trong thời gian đó Dallie được thù tiếp bởi hai fan nữ bàn bên cạnh, cả hai đều nói họ làm văn thư ở một trong những nhà máy hóa dầu của Lake Charles. Francesca lén quan sát anh nói chuyện với họ, cái ghế anh ngồi ngả ra trên hai chân sau, chiếc mũ xanh hất ngược trên mái tóc vàng, chai bia dựa lên ngực, và nụ cười uể oải nở trên gương mặt khi một người trong bọn kể cho anh một chuyện cười tục tĩu. Trước đấy bọn họ đã buôn chán chê những từ đa nghĩa bậy bạ về ”cây gậy đánh golf” của anh.

    Mặc dù mỗi người một nhóm, song Francesca bắt đầu cảm thấy giữa cô và Dallie có mối liên kết nào đó, rằng cả hai đều ý thức về nhau. Hoặc có thể nó chỉ là suy nghĩ viển vông của cô. Sự việc xảy ra tại nhà nghỉ đã khiến cô run rẩy. Khi cuộn mình trong vòng tay anh, cô đã đẩy cả hai vượt qua một rào cản vô hình nào đó, và giờ đã quá muộn để quay lại, dẫu cho cô chắc chắn là mình muốn thế.

    Thêm ba chàng nông dân vạm vỡ mà Dallie giới thiệu là Louis, Pat, và Stoney kéo ghế lại nhập hội. Stoney bám riết lấy Francesca và liên tục rót đầy cốc cho cô bằng một chai Chablis dở tệ mà một tay golf mua cho cô. Cô đẩy đưa một cách trắng trợn với anh chàng, nhìn anh chàng bằng ánh mắt nồng nàn ắt khiến một cơ số đàn ông thạo đời phải đổ gục. Anh chàng ngọ nguậy trong ghế, vô thức giật giật cổ áo sơ mi kẻ ô trong lúc cố làm ra vẻ như việc phụ nữ đẹp tán tỉnh mình là chuyện cơm bữa.

    Cuối cùng những chuyện riêng cũng tám hết và tất cả tụ lại kể chuyện tiếu lâm. Francesca cười khúc khích trước mọi giai thoại họ kể và uống thêm một cốc Chablis nữa. Một sự lâng lâng ấm áp do chất cồn và cảm giác dễ chịu đem lại vây bọc cô. Cô có cảm tưởng những tay golf, hai cô văn thư nhà máy hóa dầu, và những chàng nông dân này là những người bạn tốt nhất cô từng có. Sự ngưỡng mộ của cánh đàn ông làm cô ấm lòng, sự đố kỵ của đám phụ nữ khôi phục cảm giác tự tin bị sụt giảm của cô, và sự hiện diện của Dallie bên cạnh tiếp cho cô năng lượng. Anh đãi họ câu chuyện về cuộc chạm trán bất ngờ giữa anh và một con cá sấu tại một giải golf ở Florida khiến cả đám được một trận cười, và đột nhiên cô muốn có gì đó đáp lễ họ, một phần nhỏ của bản thân cô.

    ”Tôi cũng có kỷ niệm liên quan đến động vật,” cô cười rạng rỡ với những người bạn mới. Họ nhìn cô vẻ trông đợi.

    ”Ôi thôi,” Bên cạnh cô Dallie lẩm bẩm.

    Francesca chẳng thèm để ý. Cô gập một cánh tay lại trên mép bàn và nở nụ cười các-vị-cứ-chờ-xem chói lòa mình. ”Một người bạn của mẹ tôi mới mở một nhà nghỉ nhỏ ở Nairobi,” cô mở đầu. Khi thấy các gương mặt tỏ ra mờ mịt, cô bổ sung, ”Nairobi...ở Kenya. Châu Phi. Nhóm chúng tôi bay xuống ở chơi khoảng một tuần. Đó là một nơi tuyệt diệu. Hàng hiên dài trông ra một bể bơi rất đẹp, và họ phục vụ loại rượu rum ngon không thể tưởng.” Cô phác ra bể bơi và rượu rum bằng những cử chỉ duyên dáng của bàn tay.

    ”Ngày thứ hai ở đó, vài người trong chúng tôi vác máy ảnh lên một chiếc Land-Rover và lái ra ngoài thành phố để chụp ảnh. Chúng tôi đi được khoảng một tiếng thì lái xe rẽ ngoặt – thực ra xe không phóng quá nhanh – và một con lợn rừng nhảy ra trước mặt chúng tôi.” Cô dừng lại để tạo hiệu ứng. ”Một tiếng động lớn vang lên khi chiếc Land-Rover tông vào con vật tội nghiệp và nó ngã vật ra đường. Tất cả chúng tôi nhảy xuống xe, và một người đàn ông trong nhóm, một nghệ sĩ cello tính rất khó chịu tên là Raoul” – cô đảo mắt để cho họ hiểu chính xác Raoul là loại người gì – ”cầm theo máy ảnh và chụp một tấm con vật tội nghiệp đó, một con lợn rừng xấu xí nằm giữa đường. Và rồi, tôi không biết điều gì khiến bà làm thế, nhưng mẹ tôi bảo với Raoul, ’ta chụp con lợn rừng mặc chiếc áo jacket Gucci của anh đi!” Francesca cười khúc khích trước kỷ niệm cũ. ”Cố nhiên tất cả đều thấy chuyện này hay ho, và vì con lợn rừng không chảy máu để làm hỏng chiếc áo được, nên Raoul đồng ý. Thế là anh ta cùng với hai người đàn ông nữa mặc chiếc áo cho con vật. Trông nó chẳng ra làm sao, nhưng ai cũng buồn cười trước cảnh con lợn rừng chết trong một chiếc áo jacket đắt tiền.”

    Cô dần dần nhận thấy khu vực chỗ họ đã lặng ngắt và biểu cảm mờ mịt của những người ngồi quanh bàn không thay đổi. Sự thiếu hưởng ứng của họ khiến cô càng quyết tâm bắt họ phải thích câu chuyện của mình, thích mình. Giọng cô sôi nổi hơn, hai bàn tay minh họa sinh động hơn. ”Thế là chúng tôi đứng trên đường, nhìn xuống con thú đáng thương. Trừ việc –” cô ngừng một lúc, cắn môi dưới để tăng hồi hộp, rồi tiếp tục, ”đúng lúc Raoul nâng máy lên định bấm, con lợn rừng bỗng đứng bật dậy, lắc mình, và chạy thẳng vào rừng.” Cô cười đắc thắng trước cái kết đắt giá, nghiêng đầu chờ bọn họ cười theo.

    Họ mỉm cười một cách lịch sự.

    Tiếng cười của cô nhỏ dần khi cô nhận ra họ đã bỏ lỡ điểm mấu chốt. ”Mọi người không hiểu sao?” cô thốt lên có phần tuyệt vọng. ”Giờ đây ở một nơi nào đó trên Kenya có một con lợn rừng mặc áo Gucci đang chạy trong khu bảo tồn!”

    Cuối cùng giọng Dallie vượt lên trên sự im lặng chết chóc đã trùm xuống không thể cứu vãn. ”Đúng, đó chắc chắn là một câu chuyện thú vị, Francie. Cô nhảy với tôi một bản chứ?” Trước khi cô kịp phản đối, anh đã nắm lấy cánh tay cô không được nhẹ nhàng cho lắm và kéo cô tới một khoảng trống lót vải sơn phía trước máy hát tự động. Vừa bắt đầu chuyển động theo nhạc, anh vừa nhẹ nhàng nói, ”luật bất thành văn khi sống với thường dân là không kết thúc bất kỳ câu nói nào bằng chữ ’Gucci,’ Francie ạ.”

    Lồng ngực cô tràn ứ một nỗi chán chường khôn tả. Cô muốn làm bọn họ thích mình, nhưng cô chỉ biến bản thân thành đồ ngốc mà thôi. Cô đã kể một câu chuyện mà họ không thấy buồn cười, một câu chuyện mà khi nhìn vào mắt họ cô chợt nhận ra đáng lẽ ngay từ đầu mình đừng nên kể.

    Sự bình tĩnh của cô vốn được níu giữ chỉ bằng những sợi tơ mong manh nhất giờ đã vỡ tan. ”Tôi xin phép,” cô nói, giọng khản đặc ngay cả với tai cô. Dallie chưa kịp ngăn lại, cô đã lao đi qua mê cung của những bàn ghế và vượt qua cánh cửa. Khí trời ùa vào cánh mũi cô, hương đêm ẩm ướt hòa lẫn với mùi dầu diesel, dầu creosote, và đồ chiên nướng từ gian bếp phía sau. Cô vấp chân, hãy còn hơi váng vất vì rượu, và phải dựa vào thành một chiếc xe tải pickup lốp bám đầy bùn và có giá để súng đằng sau. Âm thanh bài hát ”Behind Closed Doors” vẳng tới từ máy hát.

    Chuyện gì đang xảy ra với cô vậy? Cô nhớ Nick đã cười sằng sặc ra sao khi nghe cô kể chuyện con lợn rừng, Còn Cissy Kavendish đã phải dùng khăn tay của Nigel MacAllister để lau nước mắt. Cô bỗng thấy nhớ nhà quá đỗi. Hôm nay cô đã cố gắng liên lạc lại với Nicky qua điện thoại, nhưng không ai nghe máy, kể cả thằng bé giúp việc. Cô thử hình dung Nicky ngồi ở Cajun Bar và Grill, và thất bại thảm hại. Rồi cô thử hình dung mình ngồi cuối chiếc bàn Hepplewhite trong phòng ăn nhà Nicky với những viên ngọc lục bảo gia truyền nhà Gwynwyck mang trên người, và thành công ngay tức khắc. Nhưng khi cô hình dung ở đầu kia bàn – nơi đáng lẽ Nicky ngồi – thì người cô thấy lại là Dallie Beaudine. Dallie, với quần jeans xanh bạc phếch, áo T-shirt bó sát, và gương mặt ngôi sao màn bạc, oai vệ bên chiếc bàn ăn từ thế kỷ mười tám của Nicky Gwynwyck.

    Cửa mở, Dallie bước ra. Anh đi đến đưa cho cô chiếc ví. ”Francie,” anh nói nhỏ nhẹ.

    ”Dallie.” Cô cầm lấy nó và ngước nhìn nền trời đêm dát bạc ánh sao.

    ”Cô đã làm rất được trong kia.”

    Cô bật ra tiếng cười khẽ chua chát.

    Anh nhét một cái tăm vào khóe miệng. ”Tôi nói thật đấy. Khi nhận ra mình làm trò ngốc, cô đã thay đổi và hành xử khá đường hoàng. Không phô diễn trên sàn nhảy, chỉ lẳng lặng rút lui. Tất cả mọi người đều bị ấn tượng. Họ muốn cô quay vào.”

    Cô trêu chọc anh. ”Mơ đi.”

    Anh cười cười, vừa lúc đó cửa mở và hai người đàn ông xuất hiện. ”Ê Dallie,” bọn họ gọi.

    ”Chào, K.C, Charlie.”

    Hai người leo lên một chiếc xe Jeep Cherokee cũ mèm và Dallie quay lại với cô. ”Tôi nghĩ tôi không còn không thích cô nhiều như trước. Ý tôi là, phần lớn thời gian cô vẫn khá khó ưa và, thành thực mà nói, không phải là kiểu phụ nữ tôi thích, nhưng có những lúc cô thật ấn tượng. Cô kể đến cùng câu chuyện con lợn rừng ở trong kia. Tôi thích cái cách cô dồn hết nỗ lực vào đó, cho dù khá hiển nhiên là cô đang đào mồ chôn mình.”

    Tiếng chén đĩa lách cách từ trong quán vẳng ra khi máy hát phát điệp khúc cuối bài ”Behind Closed Doors.” Cô ấn gót sandal vào lớp sỏi đầm chặt. ”Tôi muốn về nhà,” đột ngột cô nói. ”Tôi ghét phải ở đây. Tôi muốn về Anh nơi tôi hiểu rõ mọi điều. Tôi muốn quần áo và ngôi nhà và chiếc Aston Martin của tôi. Tôi muốn lại có tiền và những bạn bè yêu quý tôi.” Cô còn muốn mẹ mình nữa, nhưng không nói ra.

    ”Cô đang thấy tiếc cho bản thân hả?”

    ”Nếu là anh thì anh có thấy thế không?”

    ”Khó nói lắm. Chắc tôi không sao hình dung mình thực sự hạnh phúc với kiểu sống hưởng lạc ấy.”

    Cô không biết chính xác ’hưởng lạc’ nghĩa là gì, nhưng cũng lờ mờ hiểu, và nó làm cô bực bội khi một kẻ mà văn phạm nói là dưới chuẩn còn quá rộng lượng lại đang dùng một từ cô hoàn toàn mù tịt.

    Anh gác khuỷu tay lên thành chiếc pickup. ”Nói tôi nghe, Francie. Cô có cái gì từa tựa như một kế hoạch cho tương lai cất giấu trong đầu không?”

    ”Tất nhiên, tôi dự định kết hôn với Nicky. Tôi đã nói với anh rồi mà.” Sao viễn cảnh ấy làm cô ngao ngán thế nhỉ?

    Anh rút tăm ra vứt xuống đất. ”Nói thật đi, Francie. Mong ước kết hôn với Nicky của cô chẳng hơn gì việc cô muốn làm một kiểu tóc bù xù cho mình.”

    Cô đi vòng ra trước mặt anh. ”Tôi không có nhiều lựa chọn trong chuyện đó, vì tôi không xu dính túi! Tôi phải kết hôn với anh ta.” Cô thấy anh mở miệng, lại sắp sửa phun ra một câu nhạt nhẽo hạ đẳng đáng ghét nữa đây, và cô chặn lại. ”Đừng nói ra, Dallie! Có những người được đưa đến thế giới này để kiếm tiền và những người khác chỉ để xài tiền, và tôi thuộc nhóm sau. Thực lòng mà nói, tôi không hề biết cách mưu sinh. Anh đã nghe chuyện gì xảy ra khi tôi thử sức trong lĩnh vực diễn xuất rồi đấy, và tôi quá lùn để có thể kiếm tiền từ nghề người mẫu. Nếu chỉ còn lựa chọn giữa làm việc trong một nhà máy và cưới Nicky Gwynwyck, anh có thể biết chắc tôi sẽ chọn cái nào.”

    Anh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói, ”nếu tôi đạt được hai hoặc ba điểm birdie ở vòng cuối vào ngày mai, có vẻ tôi sẽ kiếm được tí tiền. Cô có muốn tôi mua vé máy bay cho cô về nhà không?”

    Cô nhìn anh, đang đứng rất gần cô, hai tay khoanh trước ngực, dưới bóng che của vành mũ chỉ có cái miệng ngoa ngoắt lộ ra. ”Anh làm điều đó cho tôi sao?”

    ”Tôi đã nói rồi, Francie. Chỉ cần tôi có thể đổ xăng và thanh toán hóa đơn quán bar, thì tiền không có ý nghĩa với tôi. Tôi thậm chí không thích tiền. Nói thật với cô nhé, dù tôi có coi mình là một nhà ái quốc Mĩ chính hiệu, nhưng tôi lại chuộng chủ nghĩa Mác Lê.”

    Nghe đến đó cô phì cười, một phản ứng cho cô thấy rõ hơn bất cứ điều gì là cô đã quá quen với sự bầu bạn của anh mất rồi. ”Tôi rất biết ơn đề nghị của anh, nhưng cho dù rất muốn nhận, tôi vẫn phải lưu lại đây ít lâu. Tôi không thể như thế này quay về London. Anh không biết bạn bè của tôi đâu. Họ sẽ đay đi đay lại hàng tuần trời câu chuyện về sự bần cùng hóa của tôi.”

    Anh dựa người vào thành xe. ”Bạn bè cô tử tế thật đấy, Francie.”

    Cảm giác như thể anh vừa gõ vào một lỗ hổng bên trong cô, một lỗ hổng cô chưa bao giờ cho phép mình nhìn vào. ”Anh vào trong đi,” cô nói. ”Tôi sẽ ở ngoài này một lúc nữa.”

    ”Tôi không nghĩ thế.” Anh xoay người sang, khiến áo anh quệt vào cánh tay cô. Ngọn đèn con bọ trước cửa quán hắt ánh sáng vàng đục lên mặt anh, biến đổi những đường nét của anh một cách tài tình, khiến anh trông già dặn hơn nhưng vẫn chẳng xấu đi. ”Tôi nghĩ cô và tôi có chuyện thú vị hơn để làm đêm nay, cô thấy đúng không?”

    Câu nói của anh khiến bụng cô nhộn nhạo khó chịu, nhưng làm điệu làm bộ đã là gen di truyền nhà Serritella rồi. Dẫu rằng một phần trong cô muốn chạy vào trốn trong nhà vệ sinh quán Cajun Bar và Grill, cô vẫn nở nụ cười thắc mắc ngây thơ nhất với anh. ”Ồ? Là chuyện gì thế?”

    ”Một nhóm nhỏ vật lộn với nhau chẳng hạn?” Miệng anh cong lên trong nụ cười chậm rãi gợi cảm. ”Sao cô không ngồi vào ghế trước chiếc Riviera để chúng ta có thể lên đường.”

    Cô không muốn trèo lên ghế trước chiếc Riviera. Hoặc có lẽ là cô muốn. Dallie đã khuấy lên những cảm giác lạ lẫm trong cô, những cảm giác mà cô ắt sẽ hết sức sung sướng hưởng ứng nếu cô là một trong những phụ nữ thực sự giỏi chuyện ấy, một trong những người phụ nữ không để tâm đến tình trạng bẩn thỉu và ý nghĩ để cho mồ hôi kẻ khác nhỏ giọt xuống người mình. Tuy nhiên, dù có muốn đi nữa, giờ cô cũng khó có thể rút lui mà không trông như một con ngốc thực thụ. Khi bước đến mở cửa xe, cô gắng thuyết phục bản thân rằng, vì cô không đổ mồ hôi, thì một người đàn ông đẹp như Dalle có thể cũng vậy chứ.

    Cô quan sát anh đi vòng qua phía trước chiếc Riviera, huýt sáo vu vơ và móc chìa khóa khỏi túi quần sau. Anh không có vẻ gì vội vã. Không có vẻ chiến thắng ngạo nghễ trong dáng đi của anh, không một sự khệnh khạng tinh tướng mà cô từng nhận thấy ở tay điêu khắc tại Marrakech trước khi hắn đưa cô lên giường. Dallie hành xử thoải mái, tự nhiên, như thể lên giường với cô là một việc bình thường, nhưng thể nó không quá ý nghĩa đối với anh, như thể anh đã làm việc này cả ngàn lần trước đó và cô chỉ là một tấm thân đàn bà nữa mà thôi.

    Anh lên xe, nổ máy, và bắt đầu nghịch nút radio. ”Cô thích nhạc đồng quê, hay nhạc easy listening hơn, Francie? Ôi khỉ thật. Tôi quên đưa Stoney vé ngày mai như đã hứa rồi.” Anh mở cửa. ”Tôi sẽ quay lại ngay.”

    Cô nhìn anh đi qua bãi đỗ xe và để ý thấy anh vẫn chẳng vội vàng hơn chút nào. Cửa quán mở và mấy tay golf bước ra. Anh dừng lại nói chuyện với họ, móc ngón tay cái vào túi sau quần jeans và đặt một chân đi ủng lên bậc thềm bê tông. Một tay golf dùng tay vạch một hình vòng cung trong không khí, rồi một đường thứ hai ngay bên dưới. Dallie lắc đầu, diễn tả một cú swing, sau đó vạch hai hình vòng cung của riêng mình.

    Cô ngồi thừ ra trên ghế. Dallie Beaudine chắc chắn không giống một người đàn ông điên đảo vì đam mê mù quáng.

    Cuối cùng khi anh cũng trở vào xe, cô quá suy sụp đến chẳng thể nhìn anh. Lẽ nào những người đàn bà trong cuộc sống của anh đẹp tới nỗi cô chỉ lọt thỏm trong đám ấy. Mình tắm cái là ổn, cô tự nhủ khi anh nổ máy. Cô sẽ vặn nước nóng hết cỡ chịu đựng khiến phòng tắm mù mịt hơi và độ ẩm sẽ biến tóc cô thành những lọn quăn nhỏ mềm rủ quanh mặt. Cô sẽ tô son và thoa ít phấn hồng, xịt nước hoa vào chăn đệm, và phủ khăn tắm lên một trong những ngọn đèn để ánh sáng dịu xuống, và –

    ”Có chuyện gì à, Francie?”

    ”Sao anh hỏi vậy?” cô đáp lại cứng nhắc.

    ”Cô cứ dán người vào tay nắm cửa bên đó.”

    ”Tôi thích chỗ này.”

    Anh lại dò nút radio. ”Tùy cô thôi. Ta nghe gì đây? Đồng quê hay easy listening?”

    ”Cả hai đều không. Tôi thích rock.” Cô chợt nảy ra một ý, và thực hiện liền. ”Tôi mê nhạc rock từ rất lâu rồi. Rolling Stone là ban nhạc tôi thích nhất. Hầu hết mọi người không biết điều này đâu, nhưng Mick đã viết tặng tôi ba ca khúc sau khi chúng tôi đi nghỉ ở Rome cùng nhau.”

    Dallie không có vẻ bị ấn tượng lắm, nên cô quyết định bồi thêm. Xét cho cùng, đó không hẳn là lời nói dối, vì Mick Jagger chắc chắn biết cô đủ rõ để chào xã giao. Cô hạ giọng thì thào vẻ bí mật. ”Chúng tôi ở trong một căn hộ tuyệt vời trông ra công viên Villa Borghese. Tất cả như thiên đường. Chúng tôi được hoàn toàn riêng tư, thậm chí có thể làm chuyện ấy ngoài hiên nữa kia. Tất nhiên chuyện của chúng tôi không kéo dài. Cái tôi của ông ấy ghê gớm lắm – chưa kể đến Bianca – và tôi đã gặp hoàng tử.” Cô dừng lại. ”Không, không đúng. Tôi gặp Ryan O’Neal, rồi mới đến hoàng tử.”

    Anh nhìn sang cô, khẽ lắc đầu một cái như đang giũ nước khỏi tai, rồi lại tập trung nhìn đường. ”Cô thích làm tình ngoài trời hả, Francie?”

    ”Dĩ nhiên, chẳng phải phần lớn phụ nữ đều thế sao?” Thực ra, cô không thể hình dung nổi chuyện gì tệ hại hơn.

    Nhiều dặm trôi qua trong im lặng. Đột ngột anh đánh tay lái sang phải rời khỏi đường cao tốc rẽ vào một con đường nhỏ bụi bặm dẫn thẳng đến một khoảng rừng bách trụi lá buông rủ những hàng rêu. ”Anh định làm gì thế? Chúng ta đang đi đâu?” cô hỏi to. ”Vòng xe lại đi! Tôi muốn quay về nhà nghỉ.”

    ”Tôi nghĩ có thể cô thích chỗ này, rất hợp với một phụ nữ ưa phiêu lưu.” Anh dừng xe giữa khoảng rừng và tắt máy. Tiếng côn trùng râm ran vọng vào qua cửa sổ xe để mở bên phía anh.

    ”Ngoài kia hình như là đầm lầy,” giọng cô lạc đi.

    Anh dòm qua kính chắn gió. ”Tôi nghĩ cô nói đúng. Tốt hơn chúng ta không nên đi quá xa chiếc xe; lũ cá sấu hầu hết đi kiếm ăn vào ban đêm.” Anh bỏ mũ đặt xuống bảng điều khiển, rồi quay qua cô. Vẻ mặt chờ đợi.

    Cô dán người sát hơn nữa vào tay nắm cửa.

    ”Cô muốn làm trước, hay để tôi?” cuối cùng anh hỏi.

    Cô cảnh giác. ”Làm trước cái gì?”

    ”Khởi động. Màn dạo đầu ấy. Vì cô đã có một cơ số những người tình thượng thặng, nên cô làm tôi hơi e sợ. Có lẽ cô dẫn nhịp thì hơn.”

    ”Hã – hãy quên chuyện này đi. Tôi – tôi nghĩ chắc tôi đã phạm sai lầm. Ta quay về nhà nghỉ thôi.”

    ”Không phải ý hay đâu, Francie. Một khi cô đã tiến vào Miền Đất Hứa, cô không thể quay đầu mà không làm mọi chuyện trở nên rầy rà.”

    ”Tôi không nghĩ thế. Tôi không nghĩ sẽ có chuyện gì rầy rà. Thực tình nó đâu phải là Miền Đất Hứa, chỉ là trò tán tỉnh vu vơ. Ý tôi là, chắc chắn nó không rầy rà đối với tôi, và tôi cam đoan nó sẽ không rầy rà với –”

    ”Có chứ. Sẽ cực kỳ rầy rà vì có khi tôi còn không đạt một nửa phong độ trong lịch đấu ngày mai. Tôi là một vận động viên chuyên nghiệp, Francie. Mà những vận động viên chuyên nghiệp cơ thể phải hoạt động trơn tru, như động cơ đầy đủ xăng nhớt ấy. Chỉ một tí xíu trục trặc thôi sẽ khiến tất cả đi tong. Cô có thể khiến tôi mất đi năm đường gậy tốt ngày mai đấy.”

    Giọng anh đã trở nên lè nhè, và cô sực nhận ra mình đang bị cho vào tròng. ”Chết tiệt, Dallie! Đừng có làm thế với tôi. Không cần anh chọc ghẹo tôi cũng đủ hãi rồi.”

    Anh cười vang, quàng tay qua vai cô kéo cô lại gần trong một cái ôm ngắn thân mật. ”Sao cô không nói thẳng là mình lo sợ thay vì giở đủ trò buồn cười như thế? Cô cứ tự gây khó khăn cho bản thân.”

    Ở trong vòng tay anh thật khoan khoái, nhưng cô không dễ dàng tha thứ cho anh được. ”Anh nói thì dễ rồi. Hiển nhiên là anh thấy thoải mái với tất cả thể loại giường có thể có, nhưng tôi thì không.” Cô hít sâu rồi bật ra chính xác những gì trong đầu. ”Thực ra...tôi thậm chí không thích sex.” Đó. Cô nói ra rồi. Giờ anh có thể thực sự cười nhạo cô.

    ”Sao vậy? Một thứ tốt lành như sex lại chẳng tốn tiền đáng lẽ cô phải thích chứ.”

    ”Tôi chỉ không phải là người ưa vận động thôi.”

    ”Ừ. Lí giải đó chấp nhận được.”

    Cô không sao quên hẳn cái đầm lầy. ”Ta về nhà nghỉ được chưa, Dallie?”

    ”Tôi không nghĩ thế, Francie. Cô sẽ nhốt mình trong nhà tắm và lo lắng về lớp trang điểm và sẽ lại tìm tới lọ nước hoa của mình.” Anh nhấc phần tóc ở một bên cổ cô lên, cúi xuống, dụi môi vào da cô. ”Cô chơi trò âu yếm ở băng sau bao giờ chưa?”

    Cô nhắm mắt trước cảm giác dịu ngọt anh đang khơi dậy. ”Trong một chiếc limousie của gia đình hoàng tộc có tính không?”

    Anh nhấm dái tai cô giữa hai hàm răng. ”Không trừ phi các cửa sổ lắp kính mờ.”

    Cô không rõ ai chủ động trước, nhưng bằng cách nào đó miệng Dallie đã ở trên miệng cô. Hai bàn tay anh trượt từ gáy cô lên và sục vào tóc cô từ bên dưới, trải rộng mái tóc trên hai cẳng tay trần của mình. Anh giữ chặt đầu cô bằng hai lòng bàn tay và ngửa nó ra sau khiến miệng cô buộc phải hé ra. Cô chờ cuộc xâm lược của lưỡi anh, nhưng nó không đến. Thay vào đó anh chơi đùa với môi dưới của cô. Hai bàn tay cô vòng từ bên sườn ra sau lưng anh và vô thức trượt vào trong áo T-shirt để cảm nhận làn da trần săn chắc của anh. Miệng họ vờn nghịch nhau và Francesca mất hết mong muốn duy trì thế thượng phong. Trước đó, cô thấy mình đón nhận lưỡi anh trong sự sung sướng – cái lưỡi đẹp đẽ của anh, cái miệng đẹp đẽ của anh, làn da đẹp đẽ căng mịn của anh dưới bàn tay cô. Cô buông mình vào nụ hôn, chỉ tập trung vào những cảm giác anh đang khơi lên mà không quan tâm chuyện gì xảy ra tiếp theo. Miệng anh trượt khỏi miệng cô và chu du xuống cổ cô. Cô cười rúc rích.

    ”Cô có chuyện gì muốn chia sẻ với các bạn trong lớp à,” anh rì rầm trên da cô, ”hay đây là một chuyện cười riêng tư?”

    ”Không, tôi chỉ đang vui thôi.” Cô mỉm cười khi anh hôn cổ cô và giật chiếc nơ hoa hồng buộc đuôi áo T-shirt ở eo cô. ”Aggies là gì vậy?” cô hỏi.

    ”Aggie? Những người như tôi khi vào đại học ở Texas A&M sẽ là một Aggie.”

    Cô lùi phắt lại, sự kinh ngạc hiện rành rành trong đôi mày nhướng cao. ”Anh đã vào một trường đại học? Tôi không tin nổi.”

    Anh nhìn cô vẻ hơi bực. ”Tôi có bằng cử nhân ngữ văn Văn học Anh. Chúng ta tiếp tục được chưa hay cô muốn xem bằng của tôi?’

    ”Văn học Anh?” Cô phì cười. ”Ôi Dallie, đó là chuyện không tưởng! Đến nói năng anh còn cụt lủn nữa mà.”

    Rõ ràng anh bị xúc phạm. ”Chà, hay thật. Một câu thật hay ho để nói với người ta.”

    Vẫn cười chưa ngớt, cô sà vào vòng tay anh, quá đột ngột khiến anh mất thăng bằng và va lưng vào vô lăng. Rồi cô nói một câu choáng váng.

    ”Tôi có thể ăn sống nuốt tươi anh mất.”

    Đến lượt anh cười, nhưng không được lâu vì miệng cô đã phủ lên miệng anh. Cô quên hẳn chuyện sợ hãi và mình chẳng thành thạo về sex khi cô quỳ lên hai đầu gối và ngả vào anh.

    ”Tôi sắp hết không gian xoay sở trong đây rồi, cưng,” cuối cùng anh nói bên miệng cô. Anh dứt ra, mở cửa xe bước xuống, rồi đưa tay cho cô.

    Cô để anh giúp cô bước xuống, nhưng thay vì lợi dụng khoảng cửa mở để có không gian rộng rãi hơn, anh lại dùng hai đùi ấn hông cô vào thành chiếc Riviera và cuốn cô vào một nụ hôn khác. Ánh đèn hình vòm của ô cửa tắm chiếc xe trong một khoảng sáng dịu khiến bóng tối ngoài kia dường như càng khó xâm nhập. Hình ảnh lờ mờ của đôi sandal hở mũi của cô và những con cá sấu nấp dưới gầm xe xoẹt qua trong trí cô. Vẫn đắm đuối với nụ hôn, cô choàng hai tay qua vai anh và đẩy người lên để một chân cô quấn chắc quanh một chân anh và bàn chân kia của cô đặt vững trên mũi giày cao bồi của anh.

    ”Tôi thích cách hôn của cô đấy,” anh thì thầm. Bàn tay trái của anh trượt lên sống lưng trần của cô cởi chiếc áo lót trong khi tay phải đưa vào giữa hai cơ thể để giật móc quần jeans của cô.

    Cô cảm thấy mình lại đang trở nên lo sợ, và nó không liên quan gì đến lũ cá sấu. ”Đi mua ít champagne đi, Dallie. Tôi – tôi nghĩ một chút champagne sẽ giúp tôi thả lỏng.”

    ”Tôi sẽ thả lỏng cho cô.” Anh đã mở được móc và bắt đầu xử lí khóa kéo.

    ”Dallie!” cô thốt lên. ”Chúng ta đang ở ngoài trời.”

    ”Ừ. Chỉ có cô, tôi, và đầm lầy.” Khóa kéo xử lí xong.

    ”Tôi – tôi không nghĩ mình đã sẵn sàng cho chuyện này.” Luồn tay vào dưới chiếc áo T-shirt rộng của cô, anh khum lấy bầu ngực cô trong tay mình và lướt môi từ má tới miệng cô. Sự hoảng loạn bắt đầu đập mạnh bên trong cô. Ngón tay cái anh chà xát núm vú và cô rên lên khe khẽ. Cô muốn anh nghĩ cô thật tuyệt vời – một người tình xuất sắc – và làm sao cô thể hiện được điều đó giữa một đầm lầy? ”Tôi – tôi cần champagne. Và những ánh đèn dịu mắt. Tôi cần chăn đệm, Dallie.”

    Anh rút tay khỏi bầu ngực cô và nhẹ nhàng áp nó quanh một bên cổ cô. Nhìn vào mắt cô, anh nói, ”Không phải đâu. Cô không cần bất cứ cái gì ngoài bản thân. Cô bắt đầu hiểu ra điều đó rồi, Francie. Cô đã bắt đầu dựa vào bản thân thay vì những phụ kiện cô nghĩ cần dựng lên quanh mình.”

    ”Tôi – tôi sợ.” Cô cố làm cho lời nói cứng cỏi, nhưng không thành công mấy. Gỡ mình khỏi hai chân anh và bước xuống khỏi giày của anh, cô thú thật tất cả. ”Có thể anh thấy thật ngớ ngẩn, nhưng Evan Varian bảo là tôi bị lãnh cảm, và còn cả nhà điêu khắc Thụy Điển ở Marra-kech-”

    ”Cô muốn bám vào mẩu truyện đấy một thời gian nữa à?”

    Cô cảm thấy phần nào tính chiến đấu của mình đang quay lại, và cô trừng mắt với anh. ”Anh đưa tôi đến đây là có mục đích phải không? Anh đưa tôi đến đây vì biết tôi ghét điều đó.” Cô lùi lại mấy bước và chỉ ngón tay run run vào chiếc Riviera. ”Tôi không phải loại phụ nữ anh có thể làm tình trong băng ghế sau.”

    ”Có ai nói gì về băng ghế sau không?”

    Cô trân trân nhìn anh một hồi rồi thốt lên, ”Ồ không! Tôi sẽ không nằm trên nền đất đầy sâu bọ kia đâu. Thật đấy, Dallie.”

    ”Bản thân tôi cũng không thích nằm đất.”

    ”Vậy thì làm thế nào? Ở đâu?”

    ”Thôi nào, Francie. Hãy ngừng trù tính và dự định và cố đảm bảo rằng mình luôn phô phần đẹp nhất về phía máy quay. Ta chỉ cần hôn hít còn để cho những việc khác tự đảm nhận phần của chúng.”

    ”Tôi muốn biết ở đâu, Dallie.”

    ”Tôi biết là cô muốn biết, nhưng tôi sẽ không nói đâu vì cô sẽ bắt đầu lo lắng liệu màu sắc của nó có hài hòa không. Hãy để một lần trong đời thử làm chuyện gì đó mà cô có thể vượt qua tính hình thức.”

    Cô cảm tưởng như anh đã cầm một chiếc gương trước mặt cô vậy – không phải một tấm gương quá lớn và có kính mờ, nhưng vẫn là gương. Lẽ nào cô tự phụ đúng như Dallie nghĩ? Và tính toán nữa? Cô không muốn nghĩ thế, thế nhưng... Cô hếch cằm và bắt đầu kéo quần jeans xuống một cách thách thức. ”Thôi được, chúng ta sẽ theo cách của anh. Nhưng đừng trông đợi điều gì ấn tượng ở tôi.” Hai ống quần vướng vào đôi sandal. Cô cúi xuống gỡ, nhưng hai gót giày đã mắc kẹt trong những nếp gấp. Cô giật mạnh và cái bẫy càng siết chặt hơn. ”Chuyện này có làm anh phấn khích không, Dallie?” cô nổi cáu. ”Anh thích nhìn tôi hả? Anh đang khoái trá phải không? Chết tiệt! Quỷ tha ma bắt!”

    Anh dợm bước lại phía cô, nhưng cô ngẩng nhìn anh qua rèm tóc xõa và nghiến răng. ”Đừng có chạm vào tôi. Tôi sẽ tự làm.”

    ”Chúng ta không có sự khởi đầu hứa hẹn rồi, Francie.”

    ”Anh cút xuống địa ngục đi!” Cái quần dính nhằng vào hai mắt cá chân, cô nhảy lò cò về phía sau ba bước tới chiếc xe, ngồi phịch xuống ghế trước, và cuối cùng cũng tháo được quần ra. Cô đứng lên trong chiếc áo T-shirt, quần lót, và đôi sandal. ”Đó! Và tôi sẽ không cởi thêm cái gì nữa trừ khi tôi cảm thấy thích.”

    ”Không vấn đề gì.” Anh dang rộng hai tay. ”Có muốn ngả vào đây và nghỉ ngơi một chút không.”

    Cô muốn. Thật sự rất muốn. ”Có.”

    Cô nép mình vào ngực anh. Anh ôm cô một lúc, rồi ngửa đầu cô ra sau và bắt đầu hôn cô lần nữa. Cô đã quá mải mê với những đánh giá chủ quan của bản thân đến chẳng buồn tìm cách gây ấn tượng với anh; cứ để mặc anh làm gì thì làm. Được một lúc, cô mới nhận ra nó có cảm giác thật tuyệt. Lưỡi anh chạm vào lưỡi cô và bàn tay xòe rộng của anh ép vào khoảng lưng trần của cô. Cô quấn hai tay quanh cổ anh. Anh lại luồn vào dưới áo cô và hai ngón tay cái bắt đầu vờn nghịch hai bầu vú rồi trượt lên tới núm vú. Cảm giác tuyệt diệu – run rẩy và ấm áp cùng một lúc. Nhà điêu khắc kia có làm thế với cô không nhỉ? Hẳn là có, nhưng cô không nhớ. Và rồi Dallie đẩy chiếc áo T-shirt lên phía trên hai bầu vú và bắt đầu trêu chọc cô bằng miệng anh – cái miệng đẹp đẽ ma mị của anh. Cô thở dốc khi anh mút một núm vú một cách dịu dàng rồi chuyển sang núm bên kia. Cô nhận ra trong sự ngạc nhiên là hai bàn tay mình đã luồn vào trong áo anh hồi nào, xoa nắn khoảng ngực trần của anh. Anh bế xốc cô lên, bước đi với cô cuộn mình trong ngực anh, rồi đặt cô nằm xuống.

    Trên cốp chiếc Riviera.

    ”Không được!” cô kêu lên.

    ”Thử một lần đi,” anh đáp.

    Cô mở miệng định bảo anh rằng không gì trên đời thuyết phục được cô chịu nằm dài trên nắp một chiếc xe hơi cho người ta hành hạ, nhưng hình như anh xem cử chỉ đó là một kiểu mời mọc. Trước khi cô thốt ra thành lời anh đã lại hôn cô. Chưa biết làm sao chuyện đó xảy ra, cô đã nghe thấy mình rên rỉ khi những nụ hôn của anh trở nên sâu hơn, nóng bỏng hơn. Cô vươn cổ về phía anh, hé miệng, đưa lưỡi ra, và quên béng tư thế mất mặt của mình. Anh đưa tay xuống nắm lấy mắt cá chân cô đẩy chân cô lên. ”Ở đây,” anh rì rầm. ”Đặt bàn chân phải của em cạnh biển số xe thế này.”

    Cô làm đúng như anh bảo.

    ”Nhích hông tới trước một chút. Ngoan lắm.” Giọng anh khàn đi, không bình thản như mọi khi, và hơi thở của anh nhanh hơn thông thường khi anh điều chỉnh cô. Cô kéo áo anh, muốn cảm thấy làn da trần của anh áp vào ngực mình.

    Anh lột áo qua đầu và sau đó bắt đầu đến quần lót của cô.

    ”Dallie...”

    ”Không sao đâu, cưng. Không sao hết.” Quần lót của cô biến mất và mông cô chạm vào bề mặt kim loại lạnh ngắt lấm tấm bụi đường. ”Francie, vỉ thuốc tránh thai tôi thấy trong hộp đồ của cô không để trang trí suông, phải không?”

    Cô lắc đầu, không muốn phá hỏng tình hình tốt đẹp bằng bất cứ lời giải thích dài dòng nào. Khi kinh nguyệt của cô tự dưng chấm dứt cách đây mấy tháng, bác sĩ đã khuyên cô ngưng dùng thuốc tránh thai đến khi nó xuất hiện trở lại. Ông ta đã đảm bảo với cô rằng từ giờ đến đó cô sẽ không thể thụ thai, và lúc này chỉ cần thế là đủ.

    Bàn tay Dallie áp vào một bên đùi trong của cô. Anh nhẹ nhàng dời sang bên kia và bắt đầu vuốt ve cô, mỗi lúc một đến gần hơn cái phần mà cô chẳng thấy đẹp tí nào, phần mà cô ắt sẽ sớm giấu đi, trừ một điều là nó đang có cảm giác quá đỗi ấm áp và run rẩy và lạ kỳ. ”Nhỡ có ai đến thì sao?” cô thốt lên khi anh lướt qua đó.

    ”Tôi đang mong có người đến đây,” anh khàn giọng đáp. Và anh dừng ve vuốt, trêu chọc, và chạm vào cô...thực sự chạm vào cô. Ở bên trong.

    ”Dallie...” Giọng cô nửa như rên, nửa như khóc.

    ”Cảm giác thích không?” anh thì thầm, những ngón tay nhẹ nhàng trượt qua trượt lại.

    ”Có. Có.”

    Trong lúc anh tiếp tục, cô khép mắt tránh mảnh trăng của Louisiana trên đầu để không gì ảnh hưởng đến những cảm giác kì diệu đang tỏa khắp cơ thể. Cô xoay mặt sang bên và thậm chí không cảm thấy bụi bẩn trên nắp xe cọ vào da thịt. Hai bàn tay anh đã bớt đi độ nhẫn nại. Chúng mở rộng hai chân cô và kéo hông cô ra sát rìa hơn. Hai bàn chân cô dựa chông chênh trên cái hãm xung, cách nhau bởi biển số xe Texas và một khoảng mạ chrome bụi bặm. Anh sờ soạng mặt trước quần jeans của mình và cô nghe tiếng khóa kéo. Anh nâng hông cô lên.

    Khi cảm thấy anh đẩy vào trong mình, cô thở dốc. Anh cúi người trên cô, hai chân vẫn đứng trên mặt đất, nhưng anh nhẹ nhàng rút ra. ”Tôi làm em đau à?”

    ”Không. Nó – nó có cảm giác rất tuyệt.”

    ”Vậy mới đúng chứ, cưng.”

    Cô muốn anh tin cô là một người tình tuyệt vời – ngón nghề nào cũng giỏi – nhưng cả thế giới dường như đang trôi khỏi cô, khiến mọi thứ bồng bềnh, chập chờn, và mướt rượt trong làn hơi ấm. Làm sao cô tập trung nổi khi anh cứ chạm vào cô như thế, chuyển động như thế? Đột nhiên cô muốn cảm nhận anh nhiều hơn. Nhấc chân khỏi cái hãm xung, cô quặp một chân qua hông anh, chân kia vòng qua chân anh, háo hức dịch sát vào anh.

    ”Bình tĩnh nào,” anh nói. ”Từ từ thôi.” Anh bắt đầu chuyển động trong cô một cách chậm rãi, hôn cô, và khiến cô cảm thấy sung sướng hơn bao giờ hết. ”Đi cùng tôi chứ, em yêu?” anh nói thầm bên tai cô, giọng hơi khàn.

    ”Vâng...vâng. Dallie....Dallie tuyệt vời...Dallie thân yêu của em....” Một mớ âm thanh lộn xộn cứ như bộc phát trong đầu cô khi cô lên cao và cao hơn nữa.

    Anh thúc mạnh, và một tiếng nửa như rên nửa gầm gừ thoát khỏi cổ họng anh. Nó đem lại cho cô một cảm giác quyền uy, làm bùng cháy niềm phấn khích của cô, và cô lên đỉnh một lần nữa. Anh rung lên bên trên cô trong một khoảng thời gian đê mê vô tận rồi gục xuống cô.

    Cô xoay má áp vào tóc anh, cảm thấy anh thật thân thiết và đẹp đẽ và chân thực trên người cô, bên trong cô. Cô nhận thấy làn da họ dán chặt vào nhau và lưng anh ướt mồ hôi dưới hai bàn tay cô. Một giọt mồ hôi rơi xuống cánh tay trần của cô và cô nhận thấy mình không quan tâm. Yêu phải chăng là như thế? Cô mơ màng tự hỏi. Mi mắt cô chầm chậm mở. Cô đang yêu. Tất nhiên rồi. Tại sao bấy lâu nay cô không nhận ra? Thảo nào cô cứ như bị sao đó. Đó là lí do vì sao cô cảm thấy buồn bực như thế. Cô đang yêu.

    ”Francie?”

    ”Vâng?”

    ”Em ổn chứ?”

    ”Vâng.”

    Anh chống tay nhỏm dậy và mỉm cười với cô. ”Em thấy sao về chuyện chúng ta về nhà nghỉ và thử lần nữa trên đám chăn đệm như em từng đề xuất?”

    Trên đường về, cô ngồi ở ghế trước và ngả đầu vào vai anh trong lúc nhai một miếng Double Bubble và mơ mộng về tương lai của hai người.
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 10 others like this.
  15. song vang

    song vang Lớp 8

    Chương 13

    Naomi Jaffe Tanaka lử thử bước vào căn hộ của mình, chiếc cặp tài liệu Mark Cross xách một bên tay và túi đồ ăn ở tiệm Zabar kẹp ở hông bên kia. Trong túi là một hộp quả vả vàng, một miếng phô mai Gorgonzola, và một ổ bánh mỳ giòn kiểu Pháp, tất cả những gì chị cần cho một bữa tối làm việc thâu đêm. Chị đặt cặp xuống và để bao giấy lên chiếc bàn đá granite đen trong bếp, dựa nó vào bức tường tráng men màu vang đỏ. Căn hộ đắt tiền và kiểu cách, đích thị là nơi ở hợp lý của phó chủ tịch một công ty quảng cáo lớn.

    Naomi cau có lôi miếng phô mai ra đặt lên chiếc đĩa sứ màu hồng đục. Chỉ còn một chướng ngại nhỏ chắn giữa chị và chức phó chủ tịch chị ao ước – tìm ra Cô nàng Ngổ ngáo. Mới sáng nay, Harry đã gửi cho chị một công văn đầy châm chích dọa chuyển vụ này cho một trong những “người đàn ông xông xáo hơn” ở công ty nếu chị không đưa ra Cô nàng Ngổ ngáo trong mấy tuần tới.

    Chị đá đôi giày bằng da lộn màu xám ra và dùng ngón chân mang tất gạt chúng sang bên trong lúc lôi những thực phẩm còn lại trong bao giấy ra. Chỉ tìm một con người thôi mà sao khó khăn thế? Mấy ngày qua, chị và thư ký đã gọi vài chục cú điện thoại, nhưng không cái nào lần ra cô gái đó. Naomi biết cô ta ở ngoài kia, nhưng chỗ nào? Chị day day thái dương, song không làm thuyên giảm cơn đau đầu đã hành hạ chị suốt ngày hôm nay.

    Sau khi cất hộp vả vào tủ, chị nhặt giày lên và ra khỏi bếp. Chị sẽ đi tắm, mặc cái áo choàng tắm cũ nhất, rót cho mình một ly rượu trước khi sờ đến mớ công việc đem về nhà. Chị bắt đầu cởi hàng nút áo ngọc trai bằng một tay, dùng khuỷu tay kia ấn công tắc đèn phòng khách.

    “Làm gì thế em gái?”

    Naomi hét toáng và quay ngoắt về phía tiếng nói của ông anh trai, tim thót lên. “Trời ơi!”

    Gerry Jaffe nằm ườn trên đi văng, chiếc quần jeans bạc phếch và áo bảo hộ lao động màu lam nổi bật trên mặt đệm màu hoa hồng bóng mượt. Anh vẫn để kiểu tóc xù Afro. Có một vết sẹo nhỏ trên má trái và những nếp hằn mệt mỏi quanh đôi môi một thời từng khiến đám bạn gái của chị điên đảo. Mũi anh vẫn vậy – to và dày như mũi của một thiên thần. Và đôi mắt anh là những cục vàng đen thẫm vẫn cháy rực ánh lửa cuồng tín.

    “Sao anh vào được đây?” chị hỏi, tim đập thình thịch. Chị vừa tức vừa lo. Điều cuối cùng chị cần lúc này là một rắc rối nữa, và sự xuất hiện của Gerry chỉ có nghĩa là rắc rối mà thôi. Chị cũng ghét cái cảm giác bất công chị luôn trải qua mỗi khi ở cạnh Gerry – đứa em gái bị đánh giá kém cỏi so với những tiêu chuẩn của anh trai.

    “Không hôn chào anh trai sao?”

    “Em không muốn anh ở đây.”

    Chị nhác thấy một vẻ kiệt sức bao trùm lấy anh, nhưng nó biến mất gần như tức thì. Gerry vẫn luôn là một diễn viên giỏi. “Sao anh không gọi điện trước?” chị hỏi gắt, rồi nhớ ra cách đây vài tuần Gerry đã bị báo chí đăng ảnh ở bên ngoài một căn cứ hải quân ở Bangor, Maine. Dẫn đầu một đoàn biểu tình phản đối việc đặt tàu ngầm hạt nhân Trident dưới biển. “Không phải anh lại bị bắt đấy chứ?” chị tố.

    “Hầy, còn vụ bắt bớ nào khác ở Vùng đất của Tự do, Mái nhà của Lòng dũng cảm nữa?” Vươn mình khỏi ghế, anh dang hai tay và nở nụ cười Pied Piper quyến rũ nhất với chị. “Lại đây hôn anh một cái nào, em gái?”

    Nom anh quá ư giống người anh lớn thường mua kẹo cho chị những khi chị lên cơn hen suyễn khiến chị gần như mỉm cười. Nhưng sự mềm yếu nhất thời đó là một sai lầm. Với một tiếng gầm đinh tai, anh nhảy qua bàn nước bằng kính và đá cẩm thạch và lao tới chỗ Naomi.

    ”Gerry!” Chị lùi tránh, nhưng anh vẫn xông tới. Răng nhe ra, anh co hai bàn tay thành móng vuốt và tiếp tục lảo đảo tiến đến trong bộ dạng y hệt Frankensteinian. ”Con ma Cá Bốn mắt lai Răng nanh trở lại rồi đây,” anh gầm gừ.

    ”Em bảo dừng lại!” Giọng chị vút lên thành tiếng ré. Hiện giờ chị không thể xử trí Con ma Răng nanh được – khi mà Cô nàng Ngổ ngáo và chức phó chủ tịch và cơn đau đầu đang hùa nhau quấy nhiễu chị. Bất chấp thời gian trôi, anh trai chị không hề thay đổi. Anh ấy vẫn là Gerry hồi trước – đầy phấn hứng, kỳ quặc như mọi khi. Nhưng chị không còn vui thích như trước nữa.

    Anh bước lảo đảo, gương mặt méo mó một cách tức cười, mắt đảo tròn, ngày xửa ngày xưa anh hay trêu chọc chị bằng trò này. ”Ma Răng nanh sống bằng thịt của các bé gái đó.” Anh liếc mắt dâm đãng.

    ”Gerry!”

    ”Những bé gái tươi mọng!”

    ”Dừng ngay!”

    ”Những bé gái ngọt nước!”

    Dù rất cáu nhưng chị vẫn không nén được cười. Chị lùi ra hành lang, mắt canh chừng anh khi anh vẫn lừ lừ bước về phía chị. Hét lên một tiếng hoang dại, anh lao bổ đến. Chị thét lên khi anh dang hai tay ôm chặt chị và xoay chị vòng vòng. Mẹ! chị muốn hét to. Mẹ, anh Gerry trêu con! Trong nỗi nhớ bất thần trào lên, chị muốn gọi cứu viện từ người phụ nữ giờ đây đã quay mặt đi mỗi khi nghe nhắc tên đứa con cả của bà.

    Gerry cắn vào vai chị vừa đủ mạnh để chị lại kêu ré lên, nhưng không làm đau chị. Rồi anh cứng người lại. “Gì thế này?” anh hằm hè tức tối. “Cái thứ này thật kinh khủng. Đây không phải thịt trinh nữ.” Anh kéo chị lại sofa và xô thẳng chị xuống. “Khốn thật. Giờ ta sẽ phải dùng đỡ pizza vậy.”

    Chị yêu anh trai và ghét anh ấy, và chị muốn ôm anh đến nỗi chị nhảy xuống ghế và thụi một cú vào cánh tay anh.

    “Á! Không chơi bạo lực nhé.”

    “Không bạo lực cái con khỉ! Anh bị ấm đầu hay sao mà đột nhập vào đây? Anh đúng là đồ vô trách nhiệm. Khi nào anh mới chịu trưởng thành hả?”

    Gerry không đáp lời; chỉ đứng nhìn chị. Không khí vui vẻ mong manh giữa họ tan dần. Đôi mắt Rasputin * của anh thâu lấy bộ váy đắt tiền của chị và đôi giày thời trang nằm dưới sàn. Anh rút một điếu thuốc, châm lửa, vẫn quan sát Naomi. Anh luôn có khả năng làm chị cảm thấy không xứng, thấy mình phải chịu trách nhiệm cho những tội ác của thế gian, nhưng chị nhất quyết không co rúm trước vẻ chê trách hiện dần trên mặt anh khi anh lướt mắt qua những món đồ tạo tác trong thế giới của chị. ”Em nói thật đấy, Gerry,” chị nói tiếp. ”Em muốn anh ra khỏi đây.”

    ”Ông già cuối cùng hẳn đã thấy tự hào vì cô,” anh nói không âm sắc. ”Naomi bé bỏng của ông đã trở thành một kẻ tư bản bảnh chọe, y như đám còn lại.”

    ”Đừng có bắt đầu với em.”

    ”Cô chưa bao giờ cho anh biết ông ấy phản ứng thế nào khi cô cưới tên Nhật đó.” Anh bật lên tiếng cười mai mỉa. ”Chỉ có em gái Naomi của tôi mới có thể lấy một người Nhật tên Tony. Chúa tôi, cái đất nước này.”

    ”Mẹ Tony là người Mĩ. Và anh ấy là một nhà hóa sinh đầu ngành trong nước. Công trình của anh ấy được xuất bản trong mọi –” chị ngừng lại, nhận ra mình đang bảo vệ một người đàn ông mình thậm chí không còn thích nữa. Đây đích thị là điều Gerry làm với chị.

    Chị từ từ quay lại đối diện anh, dành thời gian quan sát anh kỹ hơn. Sự mệt mỏi chị nghĩ mình thoáng thấy ban nãy dường như lại bao phủ lên anh, và chị phải tự nhắc mình rằng nó chỉ là một trò diễn nữa mà thôi. ”Anh lại gặp rắc rối đúng không?”

    Gerry nhún vai.

    Nhìn anh ấy thật sự mệt mỏi, chị nghĩ, và chị vẫn là con gái của mẹ. ”Xuống bếp nào. Em sẽ làm cho anh món gì đó.” Cho dù người Cô-dắc có đang tìm cách phá cửa xông vào nhà, những người phụ nữ trong gia đình chị vẫn sẽ bắt cả nhà ngồi vào bàn ăn bữa tối năm món.

    Trong lúc Gerry hút thuốc, chị sửa soạn cho anh một ổ sandwich bò nướng, thêm một lát phô mai Thụy Sĩ, đúng kiểu anh thích, và một đĩa vả chị vốn mua cho mình. Chị dọn bữa ăn ra trước mặt anh rồi rót cho mình một cốc rượu, ngầm quan sát anh ăn. Chị có thể khẳng định là anh đói, cũng như có thể khẳng định là anh không muốn chị thấy anh đói đến mức nào, và chị tự hỏi đã bao lâu rồi anh chưa được ăn một bữa tử tế. Phụ nữ thường xếp hàng để có vinh dự cho Gerry Jaffe ăn. Chị đồ rằng họ vẫn như thế, bởi ông anh chị tiếp tục có ưu thế về phần nhan sắc. Nó thường khiến chị tức điên khi thấy anh đối xử buông tuồng với những phụ nữ yêu phải anh.

    Chị làm cho anh một chiếc sandwich nữa, nó được anh đánh chén thần tốc như cái đầu tiên. Ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh anh, trong chị dâng lên một niềm kiêu hãnh phi lí. Anh trai chị đã từng là người ưu tú nhất nhà, với khiếu hài hước của Abbie Hoffman, cách ứng xử của Tom Hayden, và miệng lưỡi hung hăng của Stokely Carmichael. Nhưng giờ Gerry là một con khủng long, một quan điểm cấp tiến những năm sáu mươi được cấy vào Kỷ Chủ nghĩa Cá nhân. Anh tấn công những silo tên lửa hạt nhân bằng búa đầu tròn và hét mệnh lệnh với những người tai đã bị bịt bằng những chiếc tai nghe Sony Walkman.

    ”Cô chi mất bao nhiêu cho chỗ này?” Gerry hỏi khi vò khăn ăn và đứng dậy bước tới tủ lạnh.

    ”Không phải việc của anh.” Chị tuyệt không muốn nghe bài giảng của anh về số trẻ em chết đói mà chị có thể cứu giúp bằng tiền thuê nhà hàng tháng của mình.

    Anh lấy một hộp sữa và lấy từ chạn một chiếc ly. ”Mẹ thế nào?” Câu hỏi của anh bình thường, nhưng chị không ngốc.

    ”Bà gặp vài vấn đề với chứng viêm khớp, còn đâu thì ổn.” Gerry rửa sạch ly và đặt nó vào giá máy rửa bát. Anh luôn ngăn nắp hơn chị. ”Bố cũng khỏe,” chị nói, đột nhiên không thể chịu nổi cảnh anh phải hỏi. ”Anh biết ông mới về hưu mùa hè năm ngoái chứ.”

    ”Anh biết. Họ có bao giờ hỏi về ...”

    Naomi không đừng được. Chị xuống khỏi ghế và bước đến áp má vào cánh tay anh trai. ”Em biết bố mẹ vẫn nghĩ đến anh, Ger,” chị nhẹ nhàng nói. ”Chỉ là – thật khó với họ.”

    ”Cô nghĩ họ có tự hào không,” anh hỏi vẻ chua chát.

    ”Bạn bè của bố mẹ vẫn kể với họ,” chị trả lời, biết cái cớ ấy thật khập khiễng.

    Anh ôm chị một cách vội vã, vụng về rồi hấp tấp quay đi, trở vào phòng khách. Chị tìm thấy anh đang đứng bên cửa sổ, gạt rèm sang bằng một tay và tay kia đốt thuốc.

    “Nói em nghe vì sao anh đến đây, Gerry. Anh muốn gì?”

    Anh nhìn ra đường chân trời Manhattan một lúc. Rồi gắn điếu thuốc lên miệng, chắp hai tay lại trong tư thế cầu nguyện, và phác một cử chỉ cúi chào trước chị. “Chỉ một nơi ẩn náu nhỏ bé thôi, em gái ạ.”

    ***

    Dallie thắng giải Lake Charles.

    “Cố nhiên là cậu thắng rồi,” Skeet làu bàu khi ba người bước vào phòng trọ vào tối thứ Bảy với chiếc cúp bạc và tờ séc mười ngàn đô. “Cái giải vớ vẩn, nên lẽ tự nhiên là cậu phải chơi với phong độ cao nhất trong hai tháng qua. Sao cậu không thể làm thế ở Firestone hay bất cứ nơi nào người ta chĩa camera vào cậu, phiền cậu giải thích hộ?”

    Fracesca hất đôi sandal ra và ngồi phịch xuống cuối giường. Cô mệt đến tận xương. Cô đã đi bộ hết mười tám lỗ golf để cổ vũ cho Dallie cũng như ngăn chặn mọi nàng văn thư nhà máy hóa dầu có khả năng bám anh quá sát. Giờ đây tất cả mọi thứ liên quan đến Dallie sẽ thay đổi vì cô yêu anh, cô đã quyết định thế. Anh sẽ bắt đầu chơi golf vì cô, giống như hôm nay, chiến thắng các giải đấu, kiếm được bộn tiền để họ xài. Họ cặp với nhau chưa đầy một ngày, nên cô biết ý nghĩ Dallie chu cấp cho cô lâu dài là còn quá sớm, nhưng cô không thể thôi nghĩ đến nó.

    Dallie bắt đầu kéo đuôi áo đấu ra khỏi chiếc quần dài màu xám nhạt. “Tôi mệt lắm, Skeet, nhức hết hai cổ tay. Chuyện này để sau hãy nói được không?”

    “Đó là câu cửa miệng của cậu. Nhưng làm gì có lần sau nào vì cậu sẽ không bao giờ nói tới nó. Cậu cứ thế -“

    “Thôi đi!” Francesca nhảy khỏi giường và tấn công Skeet. “Ông để cho anh ấy được yên? Ông không thấy anh ấy mệt thế nào à? Ông làm như hôm nay anh ấy đã thua chứ không phải thắng vậy. Anh ấy đã chơi rất cừ.”

    “Cừ cái mông tôi ấy,” Skeet dài giọng. “Thằng nhóc đó chơi chưa đến ba phần tư khả năng của nó, và nó biết điều đó hơn bất cứ ai. Sao cô không lo đánh phấn tô son đi, Miss Fran-ches-ka, và để Dallie tôi lo?” Ông khệnh khạng đi ra và đóng sầm cửa lại.

    Francesca quay sang Dallie. “Sao anh không sa thải ông ta cho rồi? Ông ta thật quá quắt, Dallie. Ông ta làm mọi chuyện trở nên khó khăn đối với anh.”

    Anh thở dài và kéo áo qua đầu. “Bỏ đi, Francie.”

    “Đó là nhân viên của anh, thế mà ông ta cư xử như anh đang làm thuê cho ông ta vậy. Anh cần ngăn chặn ngay điều đó.” Cô nhìn theo anh bước đến chỗ túi giấy nâu anh mang theo về phòng và lôi trong đó ra một lốc sáu lon bia. Cô nhận thấy anh uống quá nhiều, mặc dù anh chưa bao giờ có biểu hiện. Cô cũng đã thấy anh uống những viên thuốc mà cô đoán là vitamin. Lựa lúc nào thích hợp, cô sẽ thuyết phục anh bỏ cả hai thói quen ấy.

    Anh bóc đai nhựa khỏi một lon bia rồi bật nắp. ”Cố xen vào giữa Skeet và tôi không phải là ý hay đâu, Francie.”

    ”Em không cố xen vào giữa hai người. Em chỉ muốn mọi chuyện dễ dàng hơn cho anh.”

    ”Vậy à? Thế thì quên nó đi.” Anh uốn cạn lon bia và đứng dậy. ”Tôi đi tắm đây.”

    Cô không muốn anh tức giận với mình, nên cô cong khóe môi thành nụ cười quyến rũ khó cưỡng. ”Anh có cần giúp ở những chỗ khó với tới không?”

    ”Tôi mệt,” anh đáp cộc cằn. ”Để tôi yên là được.” Anh vào nhà tắm và đóng cửa lại, nhưng trước đấy đã kịp nhìn thấy sự tổn thương trong mắt cô.

    Cởi quần áo, Dallie mở nước hết cỡ. Dòng nước xối xuống đôi vai đau nhức của anh. Anh nhắm mắt, cúi đầu dưới vòi sen, nghĩ đến vẻ mặt mơ màng anh phát hiện ở cô. Lẽ ra anh nên lường trước việc cô sẽ bắt đầu tưởng rằng cô yêu anh. Với cô tất cả đều nói lên điều đó. Francesca chính là kiểu phụ nữ không thể nhìn xa hơn gương mặt xinh trai của anh. Khốn kiếp, anh nên giữ nguyên tình trạng vốn có giữa họ mới phải, nhưng họ đã ngủ cùng phòng gần một tuần và sự dễ gần của cô đã khiến anh phát điên. Anh có thể mong đợi gì ở mình hả? Với lại, tối hôm ấy ở cô có cái gì đó đã tác động đến anh khi cô kể câu chuyện ngớ ngẩn về con lợn rừng nọ.

    Mặc dù thế, anh vẫn nên kiềm chế chứ. Giờ thì cô sẽ bám dính lấy anh như một vận rủi, trông chờ những tim và hoa hồng và mọi thứ ngu xuẩn khác, không cái nào trong số đó anh mảy may có ý định tặng cô. Không bao giờ, khi mà anh có Wynette lù lù trước mắt và ngày Halloween sắp gõ cửa, khi mà anh có thể nghĩ tới hàng tá phụ nữ anh thích hơn nhiều. Tuy nhiên – dù anh không có ý định nói cho cô biết – cô là một trong những người phụ nữ đẹp nhất anh từng gặp. Dẫu nhận thấy đó là sai lầm, anh vẫn ngờ rằng chẳng bao lâu nữa mình sẽ lại lên giường với cô.

    Mi đúng là thằng khốn thực thụ, Beaudine ạ?

    Bear hiện ra từ đáy sâu tâm trí Dallie với vầng hào quang của chúa Jesus quanh đầu. Chết tiệt.

    Mi là đồ thất bại, Bear thì thầm bằng cái giọng lè nhè vùng trung tây của mình. Đồ thất bại rác rưởi. Cha mi biết thế và ta biết thế. Và Halloween sắp đến rồi, phòng khi mi quên –

    Dallie đấm tay vào vòi nước lạnh và trầm mình trong đó.

    Nhưng mọi chuyện với Francesca không dễ dàng hơn chút nào, và ngày hôm sau mối quan hệ của họ chẳng được cải thiện khi, vừa mới vượt qua ranh giới giữa bang Lousianna và Texas, Dallie bắt đầu phàn nàn về tiếng động anh nghe thấy trong xe.

    “Theo anh nó là gì?” anh hỏi Skeet. “Tôi mới điều chỉnh động cơ cách đây ba tuần. Mà hình như nó phát ra từ đằng sau, anh nghe thấy không?”

    Skeet đang chúi mũi vào bài báo về Ann-Margret trên số People mới ra và ông lắc đầu.

    “Chắc là ở ống xả.” Dallie ngoái đầu hỏi Francesca. “Em nghe thấy gì đằng sau không, Francie? Cái tiếng xì xì lạ tai ấy?”

    “Em không nghe thấy gì hết,” Francesca nhanh nhảu đáp.

    Đúng lúc ấy một tiếng soàn soạt rất lớn vang khắp chiếc Riviera. Skeet ngẩng phắt lên. “Cái gì thế?”

    Dallie chửi thề. “Tôi biết âm thanh đó. Chết tiệt, Francie. Em mang con mèo mù đó theo phải không?”

    “Dallie, anh đừng giận,” cô khẩn khoản. “Em không định mang nó theo đâu. Nó cứ theo em lên xe và em không làm cách nào đuổi nó xuống được.”

    “Dĩ nhiên là nó đi theo em rồi!” Dallie quát vào gương chiếu hậu. “Em chẳng cho nó ăn là gì? Dù tôi đã bảo đừng làm thế.”

    Cô cố gắng giải thích. “Chỉ là – Nó gầy trơ hết xương và em khó lòng nuốt nổi món gì khi em biết nó đói.”

    Ở ghế trên Skeet cười khùng khục và Dallie quay sang ông. “Phiền anh cho biết chuyện này buồn cười ở chỗ nào?”

    “Không buồn cười,” Skeet toe toét đáp. “Không hề buồn cười.”

    Dallie dừng xe ngay sát biên giới tiểu bang và mở cửa bước xuống. Anh vòng qua bên phải cúi nhìn ghế sau và thấy con mèo cuộn tròn trên sàn cạnh chiếc thùng lạnh Styrofoam. “Vứt nó xuống ngay, Francie.”

    “Nó sẽ bị xe cán mất,” cô phản đối, hoàn toàn không hiểu vì sao con mèo này, mà cô chẳng mảy may có cảm tình, lại khiến cô muốn che chở như thế. “Chúng ta không thể bỏ nó trên đường cao tốc. Nó sẽ bị giết.”

    ”Thế giới sẽ càng tươi đẹp hơn,” Dallie độp lại. Cô nhìn anh đầy giận dữ. Anh cúi xuống ghế đập cho con mèo một phát. Con vật cong lưng, rít lên, và tợp hàm răng vào mắt cá chân Francesca.

    Bị đau cô la oai oái và trút giận vào Dallie. ”Giờ anh thấy mình đã làm gì chưa!” Co chân lên lòng, cô xem xét vết thương rồi mắng con mèo, ”cái đồ vô ơn! Tao mong anh ta sẽ ném mày ra trước đầu một chiếc xe bus đường dài.”

    Vẻ hầm hầm của Dallie biến thành nụ cười. Sau một phút suy nghĩ, anh đóng cửa chiếc Riviera và liếc sang Skeet. ”Tôi thấy có lẽ ta nên cho Francie giữ con mèo lại. Sẽ thật đáng tiếc nếu chia rẽ một cặp xứng đôi như như thế.”

    ***

    Đối với ai yêu những thị trấn nhỏ thì Wynette, Texas là một nơi sống lí tưởng. San Antonio, với ánh sáng thị thành rực rỡ, chỉ cách đấy hai giờ đi đường về phía đông nam, nếu lái xe không để tâm lắm đến giới hạn tốc độ vớ vẩn 54 dặm/giờ mà các quan chức ở Washington áp đặt cho cư dân bang Texas. Những con phố ở Wynette rợp bóng cây sơn, công viên có một đài phun nước bằng đá cẩm thạch với bốn vòi nước uống. Cư dân khỏe mạnh cứng cáp. Họ là những chủ trại và nông dân, trung hậu đúng như người Texas, và họ đảm bảo cho hội đồng thị trấn được kiểm soát bởi kha khá đảng viên Dân chủ bảo thủ và tín hữu Baptist giáo nhằm tránh xa phần lớn những kẻ vô thần cứ thích bám vào giấy tờ thủ tục. Tóm lại, một khi người ta đã ở Wynette, họ đều có xu hướng định cư lâu dài.

    Trước khi Miss Sybil Chandler tiếp quản, ngôi nhà trên phố Cherry chỉ là một cơn ác mộng nữa thời Victoria. Trong năm đầu tiên, bà đã sơn lại nhà theo phong cách trứng Phục sinh màu hồng và oải hương tô điểm bằng những đường viền hình bánh gừng xám đục và treo những giá cây dương xỉ tự làm quanh cổng vòm. Vẫn chưa hài lòng, bà trích số tiền lương giáo viên ít ỏi để vẽ một chuỗi hình thỏ nhảy màu vỏ quýt bao quanh các khung cửa sổ mặt trước nhà. Xong xuôi, bà tóm tắt công việc của mình bằng mấy dòng chữ nhỏ cạnh khe bỏ thư trên cánh cửa. Thành quả này làm bà vui sướng đến độ phải bổ sung một bản lí lịch trích ngang lên cánh cửa dưới khe bỏ thư:

    Công trình của Miss Sybil Chandler

    Giáo viên Trung học về hưu

    Chủ tịch Thư viện Những người bạn của Wynette

    Người mê đắm W.B.Yeats,

    E. Hemingway, và

    Những kẻ Nổi loạn khác

    Và rồi, thấy nó giống một bia mộ quá, bà liền phủ lên những gì đã viết bằng hình một chú thỏ nữa và đành bằng lòng với dòng chữ đầu tiên.

    Tuy nhiên từ cuối cùng sơn trên cánh cửa đã đọng lại trong đầu bà, và cho đến giờ vẫn làm bà vô cùng mãn nguyện. “Rebel,” (kẻ nổi loạn) bắt nguồn từ chữ Latin rebellis. Âm thanh của nó du dương làm sao và thật tuyệt vời nếu trên bia mộ của bà khắc một chữ như thế. Chỉ có tên bà, ngày sinh và ngày mất (hy vọng là thật lâu sau này), và chữ đó, “Rebel.”

    Khi nghĩ đến những cuộc nổi loạn văn học vĩ đại trong quá khứ, bà biết một từ kinh hoàng như thế khó mà áp dụng được với mình. Xét cho cùng, cuộc nổi loạn của bà mới chỉ nổ ra mười hai năm trước, khi mà, ở cái tuổi năm tư, bà từ bỏ công việc dạy học đã làm ba mươi hai năm ở ngôi trường nữ sinh uy tín tại Boston, gói ghém đồ đạc, và chuyển đến Texas. Bạn bè tặc lưỡi, cho rằng bà bị mất trí, chưa kể đến khoản lương hưu đáng kể của bà. Nhưng Miss Sybil bỏ hết ngoài tai, vốn dĩ bà đã sắp chết vì cái tương lai ngột ngạt chờ sẵn phía trước.

    Trên chuyến bay từ Boston đến San Antonio, bà thay quần áo trong phòng vệ sinh, cởi bộ váy len cứng nhắc khỏi thân hình gầy gò và tháo búi tóc nghiêm ngắn giam hãm mái tóc muối tiêu của mình. Mặc vào chiếc quần jeans xanh đầu tiên trong đời và chiếc áo len thùng thình in hoa sặc sỡ, bà trở lại chỗ ngồi và dành thời gian còn lại trên chuyến bay ngắm nghía đôi bốt da cao cổ đỏ rực của mình và đọc Betty Friedan.

    Miss Sybil đã chọn Wynette bằng cách nhắm mắt lại và chỉ ngón trỏ vào bản đồ Texas. Ban giám hiệu nhà trường đã nhận bà thông qua bản lí lịch mà không cần gặp mặt. Tuy nhiên, khi bà đến nhận việc trong chiếc váy muumuu in hoa lá, đôi khuyên tai bạc dài ba inch, và đôi bốt da đỏ rực, người quản lí đã nghĩ đến chuyện sa thải bà cũng nhanh như lúc thuê bà. Song bà đã trấn an ông bằng cái nhìn thẳng từ đôi mắt nhỏ đầy nghiêm túc của mình và bảo với ông rằng bà sẽ không cho phép bất cứ kẻ nào lười biếng tồn tại trong lớp mình. Một tuần sau bà bắt đầu đứng lớp, và ba tuần sau đó bà làm nát lòng ban quản lý thư viện khi loại cuốn The Catcher in the Rye khỏi bộ sưu tập tiểu thuyết của họ.

    J.D. Salinger trở lại trên các giá sách của thư viện, lớp tiếng Anh cuối cấp tăng một trăm điểm SAT phần nói so với lứa năm ngoái, và Miss Sybil Chandler đánh mất sự trinh trắng với B.J. Randall, là chủ cửa hàng dụng cụ GE trong thị trấn và nghĩ bà là người phụ nữ tuyệt vời nhất thế giới.

    Cuộc sống tươi đẹp trôi đi với Miss Sybil cho đến khi B.J qua đời và bà bị buộc phải về hưu ở tuổi sáu lăm. Bà thấy mình cứ đi vật vờ trong căn hộ nhỏ với quá nhiều thời gian rỗi, quá ít tiền, và không có ai bầu bạn. Một tối muộn bà vật vờ ra khỏi nhà và đi vào trung tâm thị trấn. Đó là nơi Dallie bắt gặp bà mặc độc áo ngủ ngồi bên lề đường Main và Elwood giữa trời mưa sấm chớp.

    Lúc này bà liếc nhìn đồng hồ khi vừa gác máy sau cuộc nói chuyện đường dài hàng tuần với Holly Grace và sau đó xách bình tưới vào phòng khách ngôi nhà trứng Phục sinh thời Victorian của Dallie để chăm sóc lũ cây. Mấy tiếng nữa thôi các cậu bé của bà sẽ về. Bước qua một trong hai con chó lai của Dallie, bà đặt bình xuống và đem kim đan tới chỗ ngồi bên khung cửa sổ đầy nắng nơi bà để tâm trí trôi về mùa đông năm 1965.

    Bà vừa kết thúc kiểm tra lớp tiếng Anh cá biệt năm hai về Julius Caesar thì cửa phòng học mở và một cậu thanh niên đẹp trai cao gầy bà chưa gặp bao giờ thong dong bước vào. Lập tức bà cho rằng cậu ta quá đẹp trai đến độ bất lợi, với dáng đi ngang tàng và vẻ mặt xấc xược. Cậu ta đập thẻ đăng ký xuống mặt bàn trước mặt bà và, không đợi mời, đi xuống cuối phòng buông mình xuống một ghế trống, duỗi cặp chân dài vắt ngang lối đi giữa hai hàng ghế. Cánh nam sinh nhìn cậu ta dè chừng; những nữ sinh cười khúc khích và vươn cổ nhìn cho rõ hơn. Cậu ta nhe răng cười với cả bọn, trắng trợn đánh giá bộ ngực của họ. Xong cậu ta ngả người ra ghế và nhắm mắt ngủ.

    Miss Sybil chờ cho đến khi chuông reo mới gọi cậu ta tới bàn. Cậu ta đứng trước mặt bà, ngón tay cái ngoắc vào túi trước quần jeans, vẻ mặt hết sức chán chường. Bà xem tên cậu ta trên thẻ, tuổi – sắp mười sáu – và phổ biến nội quy của lớp cho cậu ta: “Tôi không dung thứ cho hành vi đi muộn, nhai kẹo cao su, hay những kẻ lười biếng. Em hãy viết một bài luận ngắn giới thiệu bản thân và để trên bàn tôi sáng ngày mai.”

    Cậu ta nhìn bà một lúc rồi bỏ tay khỏi túi quần. “Cút mẹ cô đi.”

    Câu nói tự nhiên thu hút sự chú ý của bà, nhưng trước khi bà có phản ứng, cậu ta đã nghênh ngang đi ra. Trong lúc nhìn chăm chăm vào khung cửa trống, một cơn sóng phấn khích trào dâng trong bà. Bà đã trông thấy ngọn lửa của sự thông minh lấp lánh trong đôi mắt xanh ảm đạm ấy. Lạ lùng thay! Bà lập tức nhận ra vượt lên trên sự xấc láo đang ngấm sâu vào cậu trai trẻ này. Cậu ta là một kẻ nổi loạn, y như bà!

    Đúng bảy giờ rưỡi tối đó, Miss Sybil gõ cửa một căn hộ đôi tồi tàn và giới thiệu mình với người đàn ông theo thông tin trên thẻ đăng ký là người giám hộ của thằng bé, một tướng mạo hung ác không thể nào đã ba mươi tuổi. Bà giải thích tình hình khó khăn của mình và người đàn ông lắc đầu ngao ngán. ”Dallie bắt đầu giở chứng rồi. Mấy tháng đầu chúng tôi ở với nhau thì nó không sao, nhưng thằng nhóc cần một mái nhà và một gia đình. Thế nên tôi bảo nó hãy ở lại Wynette một thời gian. Tôi cứ nghĩ đưa nó đến trường có thể làm nó yên ổn, nhưng ngay ngày đầu tiên nó đã bị đình chỉ học vì đánh giáo viên thể dục.”

    Miss Sybil khịt mũi. ”Gã ta cực kỳ khó chịu. Dallas đã làm một việc rất nên làm.” Bà nghe vẳng có tiếng chân sau lưng và vội vã đính chính, ”tất nhiên không phải là tôi ủng hộ bạo lực, song đôi lúc nó cũng làm ta được giải tỏa.” Đoạn bà quay lại và nói với cậu bé đẹp trai cao lêu nghêu đứng lù lù ở ngưỡng cửa rằng bà đến giám sát bài tập về nhà của cậu.

    ”Nếu tôi bảo là tôi không làm thì sao?” cậu ta nhếch mép.

    ”Tôi nghĩ người giám hộ của em sẽ phản đối.” Bà nhìn Skeet chăm chú. ”Anh Cooper, xin cho tôi biết quan điểm của anh đối với bạo lực thể chất?”

    ”Tôi thấy nó chẳng có vấn đề gì,” Skeet đáp.

    ”Anh có nghĩ mình có khả năng ngăn giữ Dallas nếu cậu ta không nghe lời tôi không?”

    ”Khó nói lắm. Tôi nặng cân hơn, nhưng nó lại cao hơn tôi. Và nếu ngấm đòn nhiều quá, nó sẽ không thể chen lấn với lũ con trai ở câu lạc bộ thể thao cuối tuần này. Tóm lại, tôi từ chối.”

    Bà không từ bỏ hy vọng. ”Được rồi, Dallas, tôi yêu cầu em tự giác làm bài tập về nhà. Vì linh hồn bất tử của em.”

    Thằng nhóc lắc đầu và cắm que tăm lên miệng.

    Bà khá thất vọng, nhưng che giấu nó bằng cách lục lọi chiếc túi xách nhuộm tie-dyed mang theo lấy ra một cuốn sách bìa mềm. ”Tốt thôi. Tôi đã quan sát những trao đổi bằng mắt giữa em và các quý cô trong lớp hôm nay và rút ra kết luận là bất cứ ai hứng thú rành rành với chuyện nam nữ như em nên đọc tác phẩm của một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế giới này. Tôi trông chờ một bài phản hồi thông minh từ em trong hai ngày tới.” Đoạn bà dúi cuốn Người tình của Lady Chatterley vào tay cậu ta và ra về

    Trong gần một tháng bà không ngừng lui tới căn hộ nhỏ, nhét những quyển sách cấm cho cậu học trò ngỗ ngược của mình và ra rả bảo Skeet phải quản chặt thằng bé. ”Bà không hiểu đâu,” cuối cùng Skeet cáu kỉnh đáp. ”Bất chấp việc chẳng có ai muốn thằng nhóc quay lại, chân nó là chân đi và tôi còn chẳng phải người giám hộ hợp pháp của nó. Tôi là một cựu tù và nó nhặt được tôi trong nhà vệ sinh một trạm xăng, và nó chăm lo cho tôi khá chu đáo, thay vì dùng cách khác.”

    ”Tuy nhiên,” bà nói, ”anh là người lớn và thằng bé vẫn là trẻ con.”

    Dần dà sự thông minh của Dallie đã vượt lên vẻ ngoài lầm lì, dù sau này nó một mực cho rằng bà đã làm hỏng nó bằng những cuốn sách bẩn thỉu của mình. Bà khuyên nó trở lại trường, chuyển nó vào lớp dự bị đại học của bà, và dạy kèm nó những khi nó không chơi golf. Nhờ những nỗ lực của bà, nó tốt nghiệp hạng ưu ở tuổi mười tám và được bốn trường đại học chấp nhận.

    Sau khi nó rời nhà đi học ở trường Texas A&M, bà nhớ nó khủng khiếp, dù nó và Skeet vẫn coi Wynette là nhà và về thăm bà trong các kỳ nghỉ khi không chơi golf. Tuy nhiên những trách nhiệm khiến thời gian cậu vắng mặt mỗi lúc một dài hơn. Có dạo gần năm trời họ không gặp nhau. Trong tình trạng mụ mẫm của mình, bà đã hầu như không nhận ra cậu ta vào buổi tối cậu ta gặp bà mặc áo ngủ ngồi bên vệ đường Main và Elwood giữa trời mưa bão.

    Cách nào đó Francesca đã mường tượng Dallie sống trong một căn hộ chung cư hiện đại gần sân golf chứ không phải ngôi nhà thời Victoria cổ lỗ với tháp canh ở giữa và đường viền hình bánh gừng sơn màu pastel. Cô nhìn trân trân những ô cửa sổ của ngôi nhà vẻ không tin vào mắt mình khi chiếc Riviera rẽ vào một lối xe chạy hẹp trải sỏi. “Kia là những con thỏ phải không?”

    “Hai trăm năm mươi sáu con cả thảy,” Skeet đáp. “Năm mươi bảy nếu cô đếm ở mặt trước. Nhìn kìa, Dallie, cầu vồng ở garage kia là mới đó.”

    “Thể nào cũng có ngày bà ấy tự làm gãy cổ mình khi trèo lên những cái thang kia,” Dallie làu bàu, rồi quay sang Francesca. “Từ giờ hãy chú trọng thái độ vào, Francie. Đừng có giở chứng đấy.”

    Anh nói với cô như nói với đứa con nít chứ không phải người yêu, nhưng cô chưa kịp trả miếng thì cánh cửa sau bật mở và một bà già trông không thể tin nổi xuất hiện. Với bím tóc đuôi ngựa màu xám lúc lắc sau lưng và chiếc kính đọc sách đong đưa trên sợi xích vàng treo trên bộ áo váy màu vàng thủy tiên lấm tấm mồ hôi, bà chạy ào về phía họ, miệng hét, “Dallas! Ôi trời ơi! Skeet! Lạy Chúa tôi.”

    Dallie bước xuống xe và dang tay ôm trọn thân hình bé nhỏ gày gò của bà lão. Rồi Skeet giật bà về phía mình cho một dàn điệp khúc ôi trời ơi khác.

    Fracesca từ ghế sau bước xuống và tò mò nhìn. Dallie bảo mẹ anh đã qua đời, vậy đây là ai? Bà anh? Theo như cô biết, anh không có họ hàng trừ một người phụ nữ tên Holly Grace. Đây là Holly Grace? Không hiểu sao Francesca nghi ngờ điều đó. Cô có cảm tưởng rằng Holly Grace là chị gái anh. Vả lại, cô không thể hình dung cảnh bà lão trông lập dị này xuất hiện tại một nhà nghỉ với một tay buôn xe Chevy đến từ Tulsa. Con mèo chui ra từ ghế sau, khinh khỉnh ngó quanh bằng con mắt độc nhất, rồi biến mất dưới bậc tam cấp.

    “Ai đây hả, Dallie?” bà già hỏi, quay sang Francesca. “Hãy giới thiệu tôi với bạn của cậu đi chứ.”

    “Đây là Francie…Francesca,” Dallie sửa lại. “Ông già F.Scott ắt sẽ khoái cô ấy, Miss Sybil, nên nếu cô ấy gây rắc rối gì cho cô, hãy cho em biết.” Francesca ném cho anh một cái trừng mắt, nhưng anh phớt lờ cô và tiếp tục. “Miss Sybil Chandler…Francesca Day.”

    Đôi mắt nhỏ màu nâu nhìn thẳng vào cô, và Francesca đột ngột có cảm giác như nội tâm mình đang bị khảo sát. “Chào bà,” cô lên tiếng, khó khăn lắm mới không tỏ ra lúng túng. “Rất vui được gặp bà.”

    Miss Sybil nghiêng đầu trước cách phát âm của cô, rồi đưa tay ra bắt tay cô nồng nhiệt. ”Francesca, cô là người Anh! Thật là một sự ngạc nhiên thú vị. Kệ Dallas đi. Tất nhiên cậu ta có thể quyến rũ cả người chết, nhưng vẫn hoàn toàn là một tên khốn thôi. Cô có đọc Fitzerald không?”

    Francesca đã xem bộ phim Gatsby Vĩ đại, nhưng cô ngờ rằng điều đó không được tính. ”Tôi e là không, tôi không đọc nhiều lắm.”

    Miss Sybil chắt chắt lưỡi vẻ không tán thành. ”Chúng ta sẽ sửa chữa điều đó? Mang hành lí vào nhà đi, các thanh niên. Dallas, cậu đang nhau kẹo cao su đấy à?”

    ”Vâng, ma’am.”

    ”Phiền cậu bỏ nó ra cùng với mũ của cậu trước khi vào nhà.”

    Francesca cười khúc khích khi bà già khuất dạng qua cánh cửa hậu.

    Dallie phun bã kẹo vào một bụi tú cầu. ”Cứ chờ đấy,” anh cảnh báo Francesca.

    Skeet cười lục cục. ”Nghe chừng nhờ có Francie mà chúng ta sẽ bớt phải nghe càm ràm.”

    Dallie mỉm cười lại. ”Ta gần như có thể trông thấy Miss Sybil đang xoa tay chờ xử lí cô ấy.” Anh nhìn Francesca. ”Em bảo chưa đọc Fitzgerald là thật đấy à?”

    Francesca bắt đầu cảm thấy như thể mình đã thú nhận một tội sát nhân man rợ. ”Nó đâu phải là tội ác, Dallie.”

    ”Ở đây thì là thế đấy.” Anh cười đầy ác ý. ”Em sẽ sớm biết thôi.”

    Ngôi nhà ở phố Cherry có trần cao, gờ chỉ bằng gỗ óc chó nặng nề, và những gian phòng tràn ngập ánh sáng. Sàn gỗ cũ đã bị xước xát nhiều chỗ, một số vết nứt đã xuất hiện trên vữa trát tường, và cách bài trí trong nhà thiếu cả khiếu sắp đặt giản dị nhất. Nhưng ngôi nhà vẫn xoay sở để toát lên một sức hấp dẫn lộn xộn. Giấy dán tường kẻ sọc cùng chung sống với giấy hoa bên cạnh, và sự kết hợp đồ đạc kỳ cục trở nên tươi sáng nhờ những chiếc gối thêu và khăn phủ đan bằng những sợi len đủ màu. Cây trồng trong những chậu gốm thủ công đặt ở những góc tối, những tranh thêu chữ thập trang trí cho các bức tường, những chiếc cúp các giải golf xuất hiện khắp nơi – dùng làm chặn cửa, giữ sách, chèn báo, hoặc đơn giản là phơi nắng trên bậu cửa sổ.

    Ba ngày sau khi đến Wynette, Francesca lẻn ra khỏi căn phòng Miss Sybil sắp xếp cho cô và rón rén đi qua hành lang. Bên dưới chiếc áo T-shirt của Dallie dài tới giữa đùi, cô mặc chiếc quần lót bikini bằng lụa đen khá giật mình xuất hiện trong xấp quần áo Miss Sybil cho mượn để cô bổ sung thêm vào tủ quần áo. Cô đã xỏ nó cách đây nửa tiếng khi nghe tiếng Dallie lên cầu thang về phòng anh.

    Từ lúc về đây, cô hiếm khi gặp anh. Anh đến sân tập golf từ sáng sớm, từ đó đi đến bãi chơi golf và có trời biết là ở đâu, bỏ cô lại với không ai khác ngoài Miss Sybil làm bầu bạn. Ở ngôi nhà này chưa được một ngày Francesca đã bị dúi vào tay một quyển Tender Is The Night kèm theo lời cảnh báo hãy cố nhịn việc bĩu môi khi mọi chuyện không theo ý mình. Sự bỏ mặc của Dallie làm cô buồn bã. Anh cư xử như thể chưa có gì xảy ra giữa họ, như chưa hề có buổi tối ấy. Ban đầu cô gắng làm ngơ, nhưng giờ cô quyết định phải bắt đầu chiến đấu để có được điều mình muốn, và điều cô muốn là lặp lại chuyện ấy.

    Cô gõ nhẹ một đầu móng tay không sơn phết lên cánh cửa đối diện phòng mình, sợ Miss Sybil sẽ thức dậy và nghe được. Cô run bắn khi nghĩ đến cơn tam bành bà già ấy sẽ phát tác nếu bà biết Francesca đã lẻn đến phòng Dallie để chơi trò nam nữ. Có khi bà sẽ đuổi cô ra khỏi nhà với tiếng thét ”Đồ đĩ điếm” muốn vỡ phổi. Không nghe thấy phản ứng từ bên kia cánh cửa, cô gõ mạnh hơn.

    Thình lình, giọng Dallie oang oang vọng ra, nghe như tiếng đại bác trong đêm tĩnh mịch. ”Nếu đó là em, Francie, thì vào đi và ngưng cái tiếng ồn ào đó lại.”

    Cô lao bắn vào phòng, miệng xùy xùy như cái lốp xe xì hơi. ”Suỵt! Bà ấy nghe thấy mất, Dallie. Bà ấy sẽ biết em ở phòng anh.”

    Anh ăn mặc chỉnh tề đứng đó, đang đánh những quả bóng golf bằng cây gậy ngắn qua mặt thảm tới một chai bia rỗng. “Miss Sybil lập dị,” anh nói, mắt nhìn theo hướng gậy, “nhưng còn lâu bà mới là một người khuôn sáo. Tôi nghĩ bà đã thất vọng khi nghe tôi bảo chúng ta không ở chung phòng.”

    Francesca cũng đã thất vọng, nhưng cô không định lôi nó ra bàn vào lúc này, khi lòng kiêu hãnh của cô bị sứt mẻ. “Em hầu như chẳng thấy anh từ lúc chúng ta về đây. Em đã nghĩ có thể anh còn giận em về chuyện Beast.”

    “Beast?”

    “Là con mèo đó.” Giọng cô nhuốm chút bực dọc. “Hôm qua nó lại cắn em.”

    Dallie mỉm cười, rồi nghiêm trang trở lại. “Francie, tôi nghĩ có lẽ sẽ tốt hơn nếu chúng ta cho mỗi người không gian riêng một thời gian.”

    Có cái gì đó trong cô nhói lên. “Tại sao? Ý anh là gì?”

    Quả bóng gõ ping vào lớp thủy tinh khi cây gậy của anh đánh trúng mục tiêu. “Ý tôi là tôi không nghĩ em có thể xử lí được một mớ rắc rối nữa trong cuộc sống hiện tại, và em nên biết tôi chẳng có tí tin cậy nào trong những vấn đề liên quan đến phụ nữ.” Anh dùng đầu gậy khều một quả bóng khác và kéo nó lại gần. “Chẳng phải tôi tự hào, mà thực tế nó thế. Nên nếu em có bất kỳ ý nghĩ nào về những ngôi nhà gỗ ngập hoa hồng hay những cái khăn tắm Chàng và Nàng, có lẽ em nên từ bỏ đi.”

    Bằng chút tự trọng xưa kia còn sót lại mà Francesca bật ra được tiếng cười hạ cố qua cổ họng tắc nghẹn. “Nhà gỗ ngập hoa hồng? Sao anh có thể nghĩ ra một điều nực cười như thế? Em sắp lấy Nick, anh không nhớ sao? Đây là lần vui chơi cuối cùng trước khi em bị xích xiềng vĩnh viễn.” Trừ một chuyện là cô sẽ không lấy Nick. Tối qua cô lại gọi điện, hy vọng lúc này anh ta ắt đã về để cô có thể hỏi vay anh ta một khoản nhỏ nhằm bớt lệ thuộc tiền bạc vào Dallie. Cuộc gọi của cô đánh thức thằng bé giúp việc, nó bảo Mr. Gwynwyck đang đi hưởng tuần trăng mật. Francesca ôm điện thoại đứng thần ra một lúc trước khi gác máy.

    Dallie ngẩng lên. “Em nói thật đấy chứ? Không Chàng Nàng? Không kế hoạch lâu dài?”

    “Đương nhiên là em nói thật rồi.”

    “Chắc không? Mặt em có vẻ gì khang khác khi em nhìn tôi.”

    Cô gieo mình xuống một chiếc ghế và nhìn chăm chăm quanh phòng như thể những bức tường màu caramel và những giá sách đụng nóc trần thú vị hơn hẳn người đàn ông đứng trước mặt mình. “Thì em bị thất thần,” cô tươi tắn đáp, vắt một cẳng chân trần lên tay ghế và cong bàn chân lên. “Xét cho cùng, anh khá là đặc biệt.”

    “Không có gì ngoài thất thần?”

    “Trời đất, Dallie. Không có ý xúc phạm đâu, nhưng em khó mà là dạng phụ nữ đem lòng yêu một tay golf Texas nghèo kiết xác.” Đúng đó, cô âm thầm thừa nhận. Em đích thị là dạng phụ nữ ấy đấy.

    “Em đã nói vậy thì tôi cũng thú thực, tôi không thể hình dung em yêu một kẻ nào nghèo kiết xác.”

    Cô quyết định đã đến lúc thu hồi mẩu kiêu hãnh cỏn con còn sót lại, nên cô đứng dậy và vươn vai, để lộ viền chiếc quần lót lụa đen. “Thôi em đi đây, vì hình như anh có nhiều việc khác để giết thời gian.”

    Anh nhìn cô tới cả phút như thể đang nghĩ ngợi chuyện gì đó. Rồi anh trỏ gậy về phía bên kia phòng. ”Thực ra, tôi đã nghĩ có thể em muốn giúp tôi trong đây. Em ra đứng ở kia đi?”

    ”Tại sao?”

    ”Đừng bận tâm làm gì. Tôi là đàn ông. Em là đàn bà. Em làm những gì tôi bảo.”

    Cô trề môi, rồi làm theo lời anh, di chuyển một cách lừng khừng.

    ”Giờ cởi cái áo T-shirt đó ra,” anh ra lệnh.

    ”Dallie!”

    ”Nào, chuyện này nghiêm túc đấy, và tôi không có cả đêm đâu.”

    Trông anh chẳng có vẻ gì là nghiêm túc, nên cô ngoan ngoãn lột áo ra, thật từ từ và cảm thấy một làn hơi ấm chạy suốt người khi lộ mình trước mặt anh.

    Anh ngắm nhìn bộ ngực trần của cô và chiếc quần lót lụa đen, rồi huýt sáo tán thưởng. ”Rất đẹp. Đây mới là thứ truyền cảm hứng đích thực. Chuyện này sẽ có tác dụng còn hơn tôi tưởng.”

    ”Chuyện gì có tác dụng?” cô cảnh giác hỏi.

    ”Tất cả những tay golf thi đấu chúng tôi đều phải luyện tập. Em hãy nằm xuống theo tư thế tôi chọn trên tấm thảm đằng kia. Xong em cởi quần ra, nêu tên một bộ phận trên cơ thể em, và tôi sẽ xem xem mình có thể đánh chính xác tới đâu với cây gậy này. Đó là bài luyện tập tốt nhất thế giới để cải thiện sự tập trung của một tay golf.”

    Francesca mỉm cười và chống một tay lên hông. ”Và em có thể hình dung việc đi nhặt bóng sẽ vui cỡ nào khi anh luyện tập xong.”

    ”Chết tiệt, nhưng phụ nữ Anh bọn em rất thông minh cơ mà.”

    ”Đủ thông minh để không cho anh trốn tránh chuyện này thôi.”

    ”Tôi đã lo là em sẽ nói thế.” Anh gác gậy lên một chiếc ghế và bước về phía cô. ”Thử nghĩ xem còn chuyện gì khác để ta giết thời gian không?”

    ”Như là chuyện gì?”

    Anh vươn tay kéo cô vào lòng. ”Tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ nó rất khó.”

    Sau đó, khi cô nằm trong vòng tay anh uể oải sau cuộc ân ái, cô ngẫm thấy thật tréo ngoe khi một người phụ nữ đã từ chối Hoàng tử Xứ Wales lại đâm đầu yêu Dallie Beaudine. Cô nghiêng đầu chạm môi vào vồng ngực trần của anh và hôn nhẹ lên đó. Trước khi chìm vào giấc ngủ, cô tự dặn lòng là sẽ phải khiến cho anh quan tâm đến cô. Cô sẽ trở thành người phụ nữ đúng ý anh muốn, và rồi anh sẽ yêu cô nhiều như cô yêu anh.

    Dallie thì trằn trọc – đêm đó cũng như mấy tuần tiếp theo. Anh có thể cảm thấy hơi thở của lễ Halloween phả sau lưng, và anh nằm thao thức cố gắng phân tâm bằng cách chơi một trận golf trong đầu hoặc nghĩ đến Francesca. Đối với một người tự coi mình là tinh tế nhất trần đời chỉ vì cô ta đã đi khắp Châu Âu chén món ốc sên, thì Miss Fancy Pants ắt sẽ có khối thứ để vỡ vạc, theo quan điểm của anh, nếu cô ta dành kha khá giờ nghỉ giữa hiệp trên một chiếc chăn trải ở khán đài sân vận động Wynette High.

    Dường như cô không dành ra nhiều thời gian để thực sự thư giãn bên anh, và anh có thể thấy cô lo lắng về chuyện có để hai tay đúng chỗ không hay cô chuyển động theo cách này cách kia đã làm hài lòng anh chưa. Anh khó có thể vui thú với một sự dâng hiến chuyên tâm đến thế.

    Anh biết cô đã phần nào tin chắc là cô yêu anh, mặc dù sẽ mất chưa đầy hai tư giờ sau khi về London cô sẽ quên anh liền. Tuy nhiên, anh phải thừa nhận rằng khi cuối cùng anh đã đẩy được cô lên máy bay, một phần trong anh sẽ thực sự nhớ cô, bất kể việc cô là một sinh vật bé nhỏ nóng nảy không dễ dàng từ bỏ cung cách ngạo mạn của mình. Cô không thể nào đi ngang qua một tấm gương mà không dừng lại ngắm mình mất một ngày rưỡi, và đi đến đâu bày bừa đến đấy, như thể cô cho rằng sẽ có một người hầu chạy theo dọn dẹp. Dù thế, anh lại phải thừa nhận rằng hình như cô có cố gắng. Cô vào thị trấn chạy việc lặt vặt cho Miss Sybil và chăm sóc con mèo mù và tìm cách làm thân với Skeet bằng cách kể chuyện về những ngôi sao điện ảnh cô đã gặp cho ông nghe. Thậm chí cô bắt đầu đọc J.D.Salinger. Quan trọng hơn, cuối cùng có vẻ cô đã bắt đầu nghĩ rằng thế giới không được tạo ra chỉ để phục vụ một mình cô nữa.

    Có một điều anh biết chắc. Anh sẽ trả lại gã Nicky ấy một người phụ nữ tốt đẹp gấp bội người phụ nữ hắn đã gửi cho anh.
     
    B-Mon, cucdai, thanhbt and 10 others like this.
  16. song vang

    song vang Lớp 8

    Chương 14

    Naomi Jaffe Tanaka phải ghìm mình để không nhảy cẫng khỏi bàn làm việc và đi một điệu jig khi đặt điện thoại xuống. Chị đã tìm thấy cô ta! Sau bao công sức lùng sục, cuối cùng chị đã tìm được Cô nàng Ngổ ngáo của mình! Lập tức chị gọi thư ký vào và ra một loạt mệnh lênh.

    “Đừng tìm cách liên lạc; tôi muốn tự tiếp cận cô ấy. Chỉ cần kiểm tra lại thông tin của tôi cho chắc chắn.”

    Thư ký của chị ngẩng lên khỏi sổ ghi chép. “Có khả năng cô ấy từ chối không?”

    “Tôi nghĩ khó lắm, với cái giá chúng ta đưa ra.” Nhưng dù tự tin đến đâu chăng nữa, bẩm sinh Naomi vẫn là người lo xa, và chị biết mình sẽ không nhẹ nhõm cho đến khi có được một chữ ký trên dòng kẻ chấm của một bản hợp đồng không thể hủy bỏ. “Tôi muốn bay đi càng nhanh càng tốt. Hãy báo ngay cho tôi khi cô sắp xếp xong.”

    Sau khi cô thư ký ra khỏi phòng, Naomi chần chừ vài giây rồi quay số căn hộ của mình. Chuông cứ đổ từng hồi, nhưng chị không gác máy. Anh trai chị có ở đấy; vận may của chị không to đến độ khiến cho ông anh chị biến mất một cách thần kỳ. Đáng lẽ chị đừng bao giờ đồng ý cho ông ấy ở lại nhà mình. Nếu có ai ở BS&R phát hiện ra – “Trả lời đi, quỷ tha ma bắt.”

    Đường dây kêu lách cách. “Đây là nhà thổ và lò hỏa thiêu Saul. Lionel xin nghe.”

    “Anh không thể nói xin chào như người bình thường được à?” chị gắt gỏng. Sao chị lại đẩy mình vào tình cảnh này chứ? Phía cảnh sát muốn hỏi Gerry vài câu, nhưng anh lại nhận được tin mật rằng bọn họ định khép anh vào tội buôn bán ma túy, nên anh nhất quyết không ra mặt. Đến thuốc lá Gerry cũng không còn hút, nói gì ma túy, và chị không nỡ lòng nào tống anh ra đường. Chị cũng nếm đủ sự mất lòng tin vào cảnh sát để không muốn giao anh cho một hệ thống luật pháp bất ổn.

    “Nói chuyện tử tế bằng không anh gác máy,” anh nói.

    “Ghê nhỉ, nếu em thực sự xấu xa thì anh sẽ dọn đi chứ?”

    “Cô có thư cảm ơn từ Hội Bảo vệ Trẻ em. Đóng góp rất nhiều tờ năm mươi đô.”

    “Anh không được phép đọc mail của em.”

    “Đang cố mua một chỗ trên thiên đường à, em gái?”

    Naomi không sa vào cãi lộn với anh. Im lặng một lúc, rồi anh miễn cưỡng nói. “Xin lỗi. Tại anh chán muốn điên.”

    “Anh có đọc thông tin về trường luật em để lại cho anh không?” chị làm ra vẻ tình cờ hỏi.

    “Ôi mẹ kiếp, đừng bắt đầu chuyện này nữa đi.”

    “Gerry…”

    “Anh không bán mình đâu.”

    “Anh thử nghĩ xem, Gerry. Vào trường luật không phải là bán mình. Anh có thể phát huy năng lực khi làm việc trong một hệ thống –“

    “Cô thôi đi được không? Ngoài kia thế giới sắp nổ tan tành rồi . Thêm một tay luật sư nữa cũng chẳng thay đổi được gì hết.”

    Bất chấp sự phản đối kịch liệt của anh, chị cảm thấy ý nghĩ vào trường luật đối với anh không ghê tởm như anh tỏ vẻ. Nhưng chị biết anh cần thời gian để suy nghĩ cho thấu đáo, nên chị không thúc ép. “Gerry này, em phải đi xa vài ngày. Anh làm ơn hãy dọn đi lúc em về.”

    “Cô đi đâu?”

    Chị nhìn quyển sổ tay trên bàn giấy và mỉm cười một mình. Trong hai tư giờ nữa, hợp đồng Cô nàng Ngổ ngáo sẽ được ký, đóng dấu, và chuyển đi. “Em tới một nơi tên là Wynette, Texas,” chị nói.

    ***

    Vận quần jeans, đi sandals, và diện một trong những chiếc áo cánh cotton rực rỡ của Miss Sybil, Francesca ngồi cạnh Dallie trong một honky-tonk (Một dạng quán bar chơi nhạc đồng quê phổ biến ở miền nam và tây nam nước Mĩ) tên Roustabout. Sau gần ba tuần ở Wynette, cô chẳng đếm được họ đã đến địa điểm chơi đêm được ưa chuộng nhất thị trấn này bao lần. Bất chấp ban nhạc đồng quê giọng rè, khói thuốc mù mịt, và giấy kếp Halloween màu cam và đen xấu đui treo trong quán, cô nhận ra mình thực sự thích chỗ này.

    Người dân ở Wynette hết thảy đều quen biết tay golf nổi tiếng nhất thị trấn, nên hai người luôn bước vào quán trong điệp khúc “Chào Dallie” vang lên trên những chiếc ghế đẩu Naugahyde và tiếng tưng tưng của những cây guitar Hawaii. Nhưng tối nay, lần đầu tiêng có những tiếng “Chào Francie” lác đác trong đó, khiến cô mừng khôn xiết.

    Một vị khách nữ quen của quán đẩy chiếc mặt nạ phù thủy lên đầu và hôn má Skeet thật kêu. “Skeet, con gấu già, nhất định em phải đưa được anh đến bệ thờ.”

    Skeet cười khùng khục. “Cô quá trẻ so với tôi, Eunice. Làm sao tôi theo kịp cô nổi.”

    “Anh nói đúng điểm quan trọng đấy.” Eunice cười khanh khách rồi rời đi cùng một cô bạn mặc bộ trang phục harem rất không khôn ngoan khi phơi cả phần eo đẫy đà ra.

    Francesca mỉm cười. Dù Dallie mang vẻ mặt cau có suốt cả tối, tâm trạng cô vẫn vui vẻ. Hầu hết khách trong quán Roustabout ăn vận như thường ngày là quần jeans và mũ cao bồi, nhưng đã có vài ba người diện đồ Halloween và tất cả bartender đều đeo kính với mũi cao su.

    ”Đằng này, Dallie!” một phụ nữ gọi. ”Bọn này chuẩn bị thi đớp táo trong xô nước cặn.”

    Dallie giáng hai chân trước ghế xuống sàn, túm tay Francesca, và lẩm bẩm, ”trời ạ, đó là tất cả những gì tôi cần. Không nói chuyện nữa, mẹ kiếp. Tôi muốn nhảy.”

    Cô có nói chuyện đâu, nhưng vẻ mặt anh hằm hằm quá khiến cô không dám chỉ ra. Cô chỉ đứng dậy và đi theo anh. Khi anh lôi cô băng qua phòng đến chỗ máy hát, cô thấy mình đang nhớ lại buổi tối đầu tiên anh đưa cô đến Roustabout. Mới cách đây ba tuần thôi ư?

    Tối hôm đó những hồi ức về Blue Choctaw vẫn tươi nguyên trong tâm trí cô, nên cô không khỏi lo lắng. Dallie đã kéo cô ra sàn nhảy, mặc cho cô phản đối, nhất định đòi dạy cô điệu nhảy Texas hai bước và bài hát Cotton-Eyed Joe. Được hai mươi phút, mặt cô đã đỏ bừng và da dính mồ hôi. Cô chỉ muốn thoát thân đến nhà vệ sinh và chỉnh trang lại. ”Em nhảy đủ rồi, Dallie,” cô nói với anh.

    Anh đã dẫn cô ra giữa sàn nhảy lát gỗ. ”Chúng ta chỉ đang làm ấm người thôi.”

    ”Em đủ ấm rồi, cảm ơn anh.”

    ”Vậy sao? Còn tôi thì chưa.”

    Nhịp nhạc nhanh hơn và vòng ôm của Dallie nơi eo cô siết lại. Cô bắt đầu nghe thấy tiếng mắng mỏ của Chloe vượt lên trên tiếng nhạc, bảo rằng cô sẽ chẳng có ai yêu nếu trông không xinh đẹp, và trong cô bắt đầu cuộn lên những làn sóng bất an. ”Em không muốn nhảy nữa,” cô kiên quyết, cố giằng ra.

    ”Chà, tệ thật, vì tôi vẫn muốn.” Dallie chụp lấy chai Pearl khi đi qua bàn của họ. Không lỡ mất nhịp nào, anh tu một hơi, rồi ấn chai bia vào môi cô và nghiêng nó lên.

    ”Em không –” cô nuốt và bị nghẹn vì bia tràn vào miệng. Dallie lại đưa chai lên miệng mình và nốc cạn. Những lọn tóc ướt mồ hôi bết vào má cô và bia chảy xuống cằm cô. ”Tôi sẽ bỏ anh,” cô đã đe dọa, giọng vút lên. ”Tôi sẽ ra khỏi cái sàn này và ra khỏi đời anh mãi mãi nếu anh không để cho tôi đi ngay bây giờ.”

    Anh chẳng thèm để ý, chỉ nắm hai bàn tay ẩm ướt của cô và ép cô sát vào người mình.

    ”Tôi muốn ngồi!” cô yêu cầu.

    ”Tôi thật sự không quan tâm em muốn gì.” Hai bàn tay anh lần ngược lên dưới hai cánh tay cô, đúng nơi mồ hôi loang ướt áo.

    ”Xin anh đấy, Dallie,” cô kêu lên, đầy nhục nhã.

    ”Ngậm miệng lại và nhúc nhích chân đi.”

    Cô đã tiếp tục năn nỉ anh, nhưng hoài công. Son môi của cô đã trôi sạch, phần dưới hai cánh tay trở nên kém duyên rành rành, và cô có cảm giác chắc chắn là mình sẽ òa khóc.

    Đúng lúc ấy, ngay giữa sàn nhảy, Dallie ngừng di chuyển. Anh nhìn cô, rồi cúi xuống, hôn lên miệng cô hãy còn nồng mùi bia. ”Mẹ kiếp, em đẹp thật,” anh thì thầm.

    Lúc này cô nhớ lại những lời êm ái ấy khi anh kéo cô chẳng lấy gì làm nhẹ nhàng qua những dải cờ giấy đuôi nheo màu cam và đen tới chỗ máy hát. Sau ba tuần làm điệu bộ, tạo dáng, và cố làm nên phép màu với những loại mỹ phẩm rẻ tiền, chỉ một lần duy nhất cô moi được lời khen của anh về ngoại hình của mình – và đó là lần trông cô kinh khủng nhất.

    Anh va vào hai người đàn ông trên đường đi và chẳng buồn xin lỗi. Tối nay anh ấy bị sao vậy? Francesca tự hỏi. Sao anh ấy cư xử thô lỗ thế? Ban nhạc đã tạm nghỉ, anh lục túi quần jeans tìm đồng hai lăm xu. Một tràng những tiếng rên cất lên cùng với vài tiếng huýt sáo.

    ”Đừng để anh ta làm thế, Francie,” Curtis Molloy bảo to.

    Cô ngoái lại ném cho anh ta một nụ cười ranh mãnh. ”Rất tiếc, nhưng anh ấy to con hơn tôi. Thêm nữa, anh ấy sẽ trở nên cực kỳ xấu tính nếu tôi tranh cãi với anh ấy.” Chất giọng Anh Quốc của cô kết hợp với ngôn ngữ địa phương của họ khiến họ cười ha hả, đúng như cô đoán.

    Dallie đập rầm rầm hai cái nút anh đã đập cả tối nay mỗi khi ban nhạc ngừng chơi, rồi đặt chai bia lên nắp máy hát. ”Nhiều năm rồi tôi chưa nghe Curtis ba hoa lắm thế,” anh bảo Francesca. ”Em thực sự đánh thức được hắn đấy. Ngay cả cánh phụ nữ cũng bắt đầu thích em.” Lời lẽ của anh nghe miễn cưỡng hơn là hài lòng.

    Cô phớt lờ tâm trạng tồi tệ của anh khi điệu nhạc rock bắt đầu cất lên. ”Thế còn anh?” cô vui vẻ hỏi. ”Cũng thích em chứ?”

    Thân hình vận động viên của anh chuyển động theo hợp âm đầu tiên của bài ”Born To Run,” quẩy nhạc của Springteen duyên dáng không kém điệu Texas hai bước. ”Tất nhiên rồi,” anh cau có. ”Tôi không coi trọng một phụ nữ lăng nhăng đến độ vẫn sẽ ngủ với em nếu tôi không thích em hơn nhiều so với lúc trước. Khốn thật, tôi thích bài hát này.”

    Cô đã trông chờ một lời tuyên bố lãng mạn hơn, nhưng với Dallie cô đã học được cách bằng lòng với những gì có được. Cô cũng không chia sẻ sự cuồng nhiệt của anh đối với bài hát được anh bật hoài trên máy hát. Dù không hiểu hết lời bài hát, cô cũng kết luận được rằng phần về những kẻ lang thang sinh ra để phiêu bạt như chúng ta có lẽ là điều Dallie rất thích ở bài hát. Sự đa cảm không hợp lắm với mường tượng của cô về hạnh phúc gia đình, nên cô bỏ qua phần lời và tập trung vào phần nhạc, khớp những chuyển động cơ thể mình với chuyển động của Dallie khi cô cố học thật tốt điệu vũ trong phòng ngủ của họ. Anh nhìn vào mắt cô và cô nhìn vào mắt anh, và âm nhạc lướt quanh họ. Cô cảm tưởng như có một cái khóa vô hình nào đó đã khóa họ vào với nhau, và rồi bầu không khí bị phá vỡ khi bụng cô quặn lên khó chịu.

    Mình không có thai, cô tự nhủ. Không thể có chuyện đó. Bác sĩ đã bảo cô rất rõ ràng rằng cô không thể mang thai cho đến khi bắt đầu có kinh nguyệt trở lại. Nhưng cảm giác buồn nôn dạo gần đây đã làm cô lo lắng đến độ hôm qua trong thư viện cô đã lén xem quyển sách Làm Cha Mẹ về chủ đề mang thai trong lúc Miss Sybil không để ý. Trong nỗi hốt hoảng tột độ, cô đã đọc thấy toàn điều ngược lại và cô thấy mình đang điên cuồng đếm ngược về tối đầu tiên cô và Dallie ngủ với nhau. Chính xác là gần một tháng trước.

    Họ nhảy một bản nữa rồi trở về bàn, tay anh đặt nơi eo lưng cô. Cô thích sự đụng chạm của anh, cảm giác của một phụ nữ được che chở bởi người đàn ông quan tâm đến cô ấy. Có lẽ mọi sự không đến nỗi tệ nếu như cô thực sự có thai, cô nghĩ khi ngồi xuống bàn. Dallie không phải loại đàn ông dúi cho cô mấy trăm dollar và chở cô đến một đến một cơ sở phá thai trong vùng. Không phải cô mong muốn có con, nhưng cô đang bắt đầu hiểu được rằng mọi thứ đều có giá của nó. Có lẽ một cái thai sẽ khiến anh có trách nhiệm với cô, và một khi anh thực hiện trách nhiệm đó thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Cô sẽ động viên anh bớt rượu chè và chuyên tâm vào sự nghiệp hơn. Anh sẽ bắt đầu chiến thắng những giải đấu và kiếm đủ tiền để họ mua một ngôi nhà trong một thành phố nào đó. Nó sẽ không phải là một cuộc sống quốc tế thời thượng mà cô vẫn vẽ ra cho mình, nhưng cô không cần cuộc sống nhộn nhịp ấy nữa, và cô biết cô sẽ hạnh phúc chừng nào Dallie vẫn yêu cô. Họ sẽ cùng nhau đi khắp đó đây, và anh sẽ chăm sóc cho cô, và mọi thứ sẽ hoàn hảo.

    Nhưng bức tranh ấy không được vững chắc lắm trong trí cô, nên cô cầm chai Lone Star lên nhấp một ngụm.

    Một giọng phụ nữ kéo dài nghe uể oải như mùa hè Texas Indian phá ngang những suy nghĩ của cô. “Này Dallie,” giọng nói đó cất lên dịu dàng, “có ghi được điểm birdie nào cho em không đấy?”

    Francesca cảm thấy sự thay đổi ở anh, một sự cảnh giác lúc trước chưa hề có, và cô ngẩng đầu lên.

    Đứng trước bàn họ và đang nhìn xuống Dallie bằng đôi mắt xanh lam tinh quái là người phụ nữ đẹp nhất Francesca từng thấy. Dallie bật dậy với một tiếng kêu trầm trầm và ôm choàng lấy cô ta. Francesca cảm thấy thời gian đóng băng tại chỗ khi hai tạo vật tóc vàng mỹ miều kề sát mái đầu vào nhau, hai người con thuần chủng của nước Mĩ trong chiếc quần jeans denim bản xứ và giày cao bồi bạc màu, những con người siêu phàm đột nhiên khiến cô thấy mình nhỏ bé và quá sức tầm thường. Người phụ nữ đội mũ rộng vành hất làn tóc mây buông xõa một cách sexy trên vai, chiếc áo sơ mi mở ba cúc trên để lộ kha khá khoảng ngực đầy đặn ấn tượng. Một chiếc thắt lưng da rộng bản thắt quanh vòng eo nhỏ nhắn, chiếc quần jeans ôm sát hông tạo thành hình chữ V ở vùng tam giác trước khi suôn một đường mượt mà theo đôi chân thon dài miên man.

    Người phụ nữ nhìn vào mắt Dallie và nói một câu rất nhỏ chỉ mình Francesca nghe lỏm được. “Anh không nghĩ em sẽ bỏ anh một mình trong ngày Halloween đấy chứ, anh yêu?” cô ta thì thầm.

    Nỗi sợ vốn như một bàn tay lạnh ngắt bóp chặt tim Francesca đột ngột dịu xuống khi cô nhận ra trông họ rất giống nhau. Đương nhiên rồi…lẽ ra cô khỏi cần giật mình. Đương nhiên là họ giống nhau. Người phụ nữ này chỉ có thể là em gái Dallie, cái cô Holly Grace lúc ẩn lúc hiện.

    Không bao lâu sau, Dallie xác nhận danh tính cô ta. Buông nữ thần tóc vàng ra, anh quay sang Francesca. “Holly Grace, đây là Francesca Day. Francie, hãy làm quen với Holly Grace Beaudine.”

    “Xin chào,” Francesca mỉm cười vồn vã đưa tay ra. “Tôi ắt sẽ nhận ra cô là em gái Dallie ở bất cứ đâu; hai người giống nhau như tạc.”

    Holly Grace đẩy vành mũ lên cao một chút và quan sát Francesca bằng đôi mắt xanh lam trong veo. “Xin lỗi đã làm cô thất vọng, nhưng tôi không phải là em gái của Dallie.”

    Francesca ngẩn ra nhìn cô ta.

    “Tôi là vợ của Dallie.”
     
    B-Mon, toran, cucdai and 11 others like this.
  17. Keobeo012

    Keobeo012 Mầm non

    Cảm ơn bạn đã dịch thêm một truyện nữa của Susan, hy vọng bạn sẽ đi đến hết nhé. Mình vẫn đang âm thầm theo dõi :)
     
    B-Mon, Huonguyenn and song vang like this.
  18. song vang

    song vang Lớp 8

    Mình sẽ cố đi hết dù nhanh hay chậm, vì những điều hay còn ở phía trước, cám ơn bạn nhiều!
     
    B-Mon, LanNP, cucdai and 3 others like this.
  19. song vang

    song vang Lớp 8

    Chương 15

    Francesca nghe thấy Dallie gọi tên mình. Cô liền chạy nhanh hơn, hai mắt gần như mù vì nước mắt. Đế đôi sandal trượt trên sỏi khi cô chạy qua bãi đỗ xe ra đường cái. Nhưng đôi chân ngắn của cô không thắng nổi cặp giò dài của anh, và anh bắt kịp cô trước khi cô ra được đường cái.

    “Nói tôi biết chuyện gì đang diễn ra?” anh hỏi lớn, chụp lấy vai cô xoay lại. “Sao em tự dưng chạy đi, chửi rủa tôi và tự làm mình mất mặt trước những người đang bắt đầu nghĩ em là một người bình thường?”

    Anh ta đang quát cô như thể cô mới là người có lỗi, như thể cô mới là kẻ dối trá, lừa gạt, con rắn độc xảo trá đã biến tình yêu thành sự phụ bạc. Cô thu cánh tay và dùng hết sức tát vào mặt anh ta.

    Anh tát trả lại cô.

    Mặc dù anh đánh cô vì điên tiết, nhưng anh không nổi điên đến độ làm cô đau, nên anh dùng rất ít lực. Tuy nhiên vì cô quá nhỏ bé nên mất thăng bằng và va vào thành một chiếc xe. Cô chụp lấy gương cánh bằng một tay và áp tay kia lên má.

    “Lạy Chúa, Francie, tôi mới chạm khẽ vào em thôi mà.” Anh lao đến định nắm lấy cánh tay cô.

    “Anh là đồ khốn!” Cô quay ngoắt lại và tát anh cái nữa, lần này trúng quai hàm anh.

    Anh túm lấy cả hai cánh tay cô mà lắc. “Em bình tĩnh lại đi, có nghe tôi nói không? Bình tĩnh lại trước khi em làm mình đau.”

    Cô đá mạnh vào ống chân anh, và lớp da của đôi giày cao bồi đã quá cũ không bảo vệ được anh khỏi cạnh đôi sandal rất sắc của cô. “Quỷ tha ma bắt!” anh kêu lên.

    Cô thu chân về để tung cú đá tiếp theo, anh đưa cái chân không đau ra ngáng cô ngã xuống nền sỏi.

    “Đồ khốn kiếp!” cô la hét, nước mắt pha lẫn đất bẩn lem trên má. “Đồ lăng nhăng! Anh sẽ phải trả giá cho chuyện này!” Mặc kệ hai lòng bàn tay nhức nhối và những vết xước bẩn trên hai cánh tay, cô bắt đầu chống người dậy để lao vào anh lần nữa. Cô bất cần nếu anh ta có làm đau cô, có giết chết cô. Cô hy vọng anh ta sẽ làm thế. Cô muốn anh ta hãy giết cô luôn cho rồi. Đằng nào cô cũng chết vì nỗi đau khủng khiếp đang lan khắp người như một chất kịch độc. Nếu anh ta giết cô, ít nhất cơn đau sẽ nhanh chóng kết thúc.

    “Dừng lại, Francie,” anh nói lớn khi cô loạng choạng đứng lên. “Đừng lại gần bằng không em sẽ thực sự bị đau đấy.”

    “Quân khốn nạn,” cô nức nở, đưa tay quệt mũi. “Anh là tên khốn đã có vợ! Tôi sẽ khiến anh trả giá đắt!” cô lại lao vào anh, một cô mèo nhà Anh Quốc được nuông chiều tấn công con sư tử núi Mĩ sung mãn và hoang dã.

    Holly Grace đứng trong đám đông xúm lại trước cửa quán Roustabout xem náo nhiệt. “Tôi không thể tin là Dallie không nói với cô ấy về tôi,” cô bảo Skeet. “Thường thì anh ấy mất chưa đến ba mươi giây để làm tôi hiện diện trong bất cứ cuộc trò chuyện nào với người phụ nữ mà anh ấy thích.”

    “Đừng có lố bịch thế,” Skeet làu bàu. “Cô ta biết về cô. Chúng tôi nói chuyện về cô trước mặt cô ta cả trăm lần rồi ấy chứ - chính vì thế cậu ta mới nổi điên. Ai nấy đều biết hai cô cậu lấy nhau từ từ thuở thanh niên. Đây chỉ là một ví dụ nữa về sự ngu ngốc của đàn bà.” Lo lắng làm hằn nếp nhăn giữa cặp lông mày chổi xể của ông khi Francesca lại vừa tung một cú đánh trúng đích. “Tôi biết cậu ta đang cố giữ không cho cô ta lại gần mà không làm cô ta bị thương, nhưng nếu một trong những cú đá kia quá gần chỗ hiểm, cô ta sẽ thấy mình nằm trên giường bệnh còn cậu ta sẽ kết thúc trong nhà giam về tội tấn công và hành hung. Thấy tôi nói về cô ta đúng chưa, Holly Grace? Tôi chưa gặp người phụ nữ nào phiền hà đến thế?”

    Holly Grace tợp một ngụm bia từ chai Pearl của Dallie được cô đem ở bàn ra, rồi nhận xét với Skeet, “nếu tin tức về cuộc ẩu đả này đến tai Mr. Deane Beman, Dallie sẽ bị đuổi khỏi giải chuyên nghiệp ngay tắp lự. Công chúng còn không thích những cầu thủ bóng bầu dục đánh phụ nữ, nói gì đến các tay golf.”

    Holly Grace để ý thấy nước mắt lấp lánh trên má Francesca dưới ánh sáng đèn pha. Bất chấp cố gắng giữ khoảng cách của Dallie, cô ta vẫn tiếp tục xáp vào anh. Holly Grace chợt nghĩ có lẽ còn nhiều điều hơn ở cô Fancy Pants này ngoài những gì Skeet kể với cô qua điện thoại. Song người phụ nữ này đúng là khờ dại. Chỉ có kẻ ngốc mới đuổi theo Dallie mà không cầm một khẩu súng đầy đạn trong tay và roi da trong tay kia. Cô nhăn mặt khi một cú đá của Francesca trúng vào kheo chân anh. Dallie nhanh chóng trả miếng rồi khống chế cô được một phần bằng cách khóa hai khuỷu tay cô sau lưng và kẹp chặt cô vào ngực mình.

    Holly bảo nhỏ Skeet. “Cô nàng lại sắp đá anh ấy đấy. Tốt hơn chúng ta hãy can thiệp trước khi sự việc đi quá xa.” Cô đưa chai bia cho người đàn ông đứng cạnh. “Anh lo phần cô ấy. Tôi sẽ xử trí Dallie.”

    Skeet không tranh cãi vụ phân công này. Mặc dù ông rất ngán việc tìm cách làm Miss Fran-chess-ka hạ hỏa, ông biết Holly Grace là người duy nhất có vài phần khả năng đối phó với Dallie khi anh thực sự nổi xung. Họ nhanh chóng đi qua bãi đỗ xe, tới hiện trường, Skeet nói, “Để cô ta cho tôi, Dallie.”

    Francesca kêu ú ớ vì đau. Mặt cô bị ép vào áo T-shirt của Dallie. Hai cánh tay cô, bị vặn ra sau lưng, cảm giác như sắp rời khỏi khớp. Anh đã không giết cô. Dù bị đau nhưng rốt cuộc anh cũng không giết cô. “Để tôi yên!” cô gào lên trong ngực Dallie. Không ai ngờ là cô đang hét lên với Skeet.

    Dallie không nhúc nhích. Anh chiếu ánh mắt lạnh lẽo vào Skeet qua đỉnh đầu Francesca. “Anh đừng có xía vào.”

    Holly Grace bước tới. “Thôi nào,” cô nhẹ nhàng nói. “Em có cả ngàn chuyện dành sẵn để kể cho anh.” Cô bắt đầu vuốt cánh tay Dallie theo một cách thoải mái và mang tính sở hữu của người phụ nữ biết mình có quyền chạm vào một người đàn ông đặc biệt theo mọi cách cô ấy muốn. “Em đã thấy anh trên ti vi ở Kaiser. Những cây gậy sắt của anh trông thực sự sẽ làm nên chuyện đấy. Chỉ cần anh biết thực hiện cú đánh nhẹ, sẽ có ngày anh trở thành một tay golf cừ.”

    Nắm tay của Dallie từ từ nới lỏng, và Skeet thận trọng vươn tay kéo Francesca ra. Nhưng đúng lúc Skeet chạm vào cô, Francesca há miệng cắn mạnh vào ngực Dallie, nghiến lấy bắp thịt.

    Tiếng kêu của Dallie kéo dài tới lúc Skeet lôi được Francesca vào tay ông.

    “Đồ điên!” Dallie hét, thu cánh tay lại và lao bổ vào cô. Holly nhảy ra trước mặt anh, dùng cơ thể mình chặn anh lại, bởi cô không chịu được ý nghĩ Dallie bị đá khỏi tour đấu. Anh sững lại, đặt một tay lên vai cô, xoa ngực mình bằng nắm tay siết chặt. Thái dương anh nổi gân xanh. “Đem cô ta đi khuất mắt tôi! Tôi nói nghiêm túc đấy, Skeet! Mua vé máy bay về nhà cho cô ta, và đừng để tôi phải gặp lại cô ta nữa!”

    Ngay trước lúc Skeet kéo cô đi, Francesca nghe thấy tiếng Dallie vọng đến sau lưng cô, giờ thì dịu dàng và nhã nhặn hơn nhiều. “Anh xin lỗi,” anh nói.

    Xin lỗi…Tiếng ấy lặp đi lặp lại trong đầu cô như một điệp khúc cay đắng. Chỉ hai từ xin lỗi nhỏ nhoi cho việc hủy hoại những gì còn lại của đời cô. Và rồi cô nghe thấy phần sau.

    “Anh xin lỗi, Holly Grace.”

    Francesca để mặc Skeet đặt cô vào ghế trước chiếc Ford của ông và ngồi im phăng phắc khi ông vòng xe ra đường.

    Chiếc xe lướt đi trong im lặng, một hồi lâu sau cuối cùng ông cũng lên tiếng, “Nghe này Francie, tôi sẽ dừng xe ở trạm xăng dọc đường và gọi cho một người bạn của tôi ở văn phòng đăng ký của hạt cho cô nghỉ nhờ qua đêm. Cô ấy là người rất tốt. Sáng mai tôi sẽ mang đồ của cô qua và đưa cô đến sân bay ở San Antonio. Chỉ loáng một cái là cô sẽ được về London.”

    Cô không nói không rằng và ông nhìn sang cô vẻ không thoải mái. Ngay từ lần gặp đầu tiên, ông đã cảm thấy tiếc cho cô. Cô là một sinh vật nhỏ nhắn xinh xắn khi nào cô không nói chuyện, và ông có thể thấy cô đã bị tổn thương rất nặng nề. “Francie này, chẳng có lí do gì để cô phải bức xúc về Holly Grace cả. Dallie và Holly Grace chỉ là một trong những sự vật của cuộc sống, như bia và bóng bầu dục vậy. Nhưng từ lâu rồi họ đã ngừng soi xét đời sống chăn gối của nhau, và nếu cô không làm Dallie phát khùng lên với tất cả những sự việc vừa rồi, ắt cậu ta sẽ còn giữ cô bên cạnh một thời gian nữa.”

    Francesca nhăn mặt. Dallie ắt sẽ giữ cô bên cạnh – như một trong những con chó lai của anh. Cô nuốt nước mắt và cục tức xuống khi nghĩ đến việc mình đã tự bêu riếu bản thân tới mức nào.

    Skeet nhấn mạnh chân ga, vài phút sau họ rẽ vào một trạm xăng. “Cô cứ ngồi yên đây, tôi sẽ quay lại ngay.”

    Francesca chờ cho Skeet đi vào trong rồi cô mới xuống khỏi xe và bắt đầu chạy. cô chạy dọc đường cao tốc, né tránh những ánh đèn pha ô tô, chạy xuyên qua màn đêm như thể cô có thể chạy trốn khỏi chính mình. Một cơn co rút ở mạng sườn cuối cùng cũng khiến cô giảm tốc độ, nhưng vẫn không dừng lại.

    Cô đi thất thểu nhiều giờ đồng hồ qua những con phố vắng lặng của Wynette, không biết và cũng chẳng màng mình đang đi đâu. Khi đi qua những cửa hàng đã đóng cửa và những ngôi nhà yên ắng trong đêm, cô cảm giác như cái phần cuối cùng của cuộc sống ngày xưa đã chết…phần tươi đẹp nhất, ánh sáng lạc quan vĩnh cửu của cô. Bất kể mọi chuyện đã trở nên ảm đạm ra sao từ khi Chloe chết, cô vẫn luôn cho rằng những khó khăn của mình chỉ là tạm thời. Giờ cô mới hiểu hoàn toàn không phải thế.

    Một chiếc sandal dẫm phải mảnh đèn lồng quả bí vỡ nát trên đường, thế là cô ngã đập mông xuống vỉa hè. Cô nằm đó một lúc, hai chân vặn vẹo theo một tư thế vụng về. Nước bí trộn vào máu khô từ những vết xước xát trên khuỷu tay. Cô không phải loại phụ nữ bị đàn ông vứt bỏ - cô mới là người vứt bỏ bọn họ. Nước mắt bắt đầu ứa ra. Cô đã làm gì mà phải chịu cảnh này? Cô xấu xa lắm sao? Cô đã làm tổn thương nhiều người đến nỗi đây là hình phạt dành cho cô ư? Có tiếng chó sủa xa xa, và cuối phố sáng lên ánh đèn ở cửa sổ phòng tắm trên gác một ngôi nhà.

    Cô không nghĩ được phải làm gì, nên cô cứ nằm trong đám đất bẩn với mảnh vỏ bí và khóc. Tất cả những giấc mơ, dự định, mọi thứ của cô…đã tan tành. Dallie không yêu cô. Anh sẽ không cưới cô. Họ sẽ không sống trọn đời hạnh phúc bên nhau.

    Cô không nhớ mình quyết định đi tiếp vào lúc nào, nhưng sau một hồi cô nhận ra chân mình đang rảo bước dọc con phố mới. Trong bóng tối cô vấp vào lề đường và khi ngẩng lên cô thấy mình đang đứng trước ngôi nhà trứng Phục Sinh của Dallie.

    Holly Grace lái chiếc Riviera vào lối xe chạy và tắt máy. Lúc đó là gần ba giờ sáng. Dallie ngồi xụi lơ bên ghế khách, nhưng cho dù anh nhắm mắt, cô không nghĩ là anh ngủ. Cô ra khỏi xe và đi vòng sang bên kia. Lo anh sẽ đổ nhào xuống đất, cô dùng hông giữ cửa khi từ từ mở cửa xe. Anh không động đậy.

    “Nào,” cô kéo tay anh. “Chúng ta đưa anh vào nhà thôi.”

    Dallie lẩm bẩm câu gì chẳng ai hiểu và trượt một chân xuống đất.

    “Đúng rồi,” cô khuyến khích anh. “Tiếp tục đi.”

    Anh đứng xuống và choàng tay qua vai cô như anh đã làm bao lần trước đây. Holly Grace phần muốn đẩy ra và hy vọng anh sẽ gập người trên đất như cây đàn accordion cũ, phần lại không muốn buông anh vì bất cứ điều gì trên đời – không vì một vị trí giám đốc bán hàng khu vực tây nam, một cơ hội thay chiếc Firebird của cô bằng một chiếc Porsche, ngay đến một màn đọ sức trên giường với cả bốn anh em ban nhạc Statler Brothers cùng lúc cũng không – vì Dallie là người cô gần như yêu hơn hết thảy trên đời. Gần như thôi, kể từ lúc cô học được cách yêu bản thân mình nhất. Dallie đã dạy cô điều đó cách đây nhiều năm. Dallie đã dạy cô nhiều bài học hay mà bản thân anh chưa bao giờ tự học được.

    Anh đột ngột gỡ mình ra và đi vòng qua hông nhà tới mặt trước. Bước chân anh hơi loạng choạng, nhưng xét đến lượng cồn anh đã phải uống, thì anh đang thể hiện khá ổn.

    Holly Grace nhìn theo anh. Đã sáu năm trôi qua, nhưng anh vẫn không để cho Danny đi.

    Cô vòng ra trước nhà vừa lúc thấy anh ngồi phịch xuống bậc tam cấp trên cùng ngoài hiên. “Giờ em về nhà mẹ được rồi,” anh nói.

    “Em sẽ ở lại, Dallie.” Cô bước lên bậc tam cấp, bỏ mũ và ném nó lên chiếc xích đu ở hiên.

    “Về đi. Mai anh sẽ qua gặp em.”

    Anh đang nói năng rành mạch hơn bình thường, dấu hiệu chắc chắn cho thấy anh đã rất say. Cô ngồi xuống cạnh anh và dõi mắt nhìn vào màn đêm, quyết định nói thẳng vào đề. “Anh biết em nghĩ gì về ngày hôm nay không?” cô hỏi. “Em nghĩ tới cảnh anh thường đi dạo với Danny ngồi chễm chệ trên vai, thằng bé túm tóc anh và hét inh ỏi. Và đôi khi, tã của thằng bé bị hở nên khi đặt nó xuống lưng áo anh đã in một vệt nước. Em thấy cảnh đó thật buồn cười – anh chồng xinh trai của em đi khắp nơi với thằng con tè trên lưng áo.” Dallie không phản ứng. Cô chờ một lát rồi thử lại. “Còn nhớ trận cãi vã dữ dội của chúng ta khi anh đưa nó đến hiệu cắt tóc và cắt sạch những lọn tóc quăn của thằng bé không? Em đã ném quyển Western Civ vào anh, và chúng ta đã làm tình trên sàn bếp…một tuần nay chẳng ai trong chúng ta quét dọn nó và toàn bộ số bột ngũ cốc rơi vãi của Danny dính vào lưng em, chưa kể đến một số chỗ khác.”

    Anh dạng chân và chống tay lên hai đầu gối, gục đầu xuống. Cô chạm vào cánh tay anh, giọng dịu dàng. “Hãy nghĩ đến những thời khắc tươi đẹp, Dallie. Đã sáu năm rồi. Anh phải buông bỏ điều tồi tệ và nghĩ đến điều tốt đẹp.”

    “Chúng ta là thứ cha mẹ bỏ đi, Holly Grace.”

    Cô siết chặt cánh tay anh. “Không đâu. Chúng ta yêu Danny. Chưa có cậu bé nào được chúng ta yêu thương nhiều như thế. Anh có nhớ chúng ta vẫn ôm nó ngủ cùng trên giường không, kệ cho mọi người nói lớn lên nó sẽ thành đồng tính?”

    Dallie ngẩng đầu lên và giọng anh càng thêm chua chát. “Điều anh nhớ là chúng ta thường đi chơi tối và để mặc nó cho những cô giữ trẻ mười hai tuổi. Hoặc kéo nó theo khi chúng ta không tìm được ai trông nó – đặt cái ghế nhựa nhỏ của thằng bé trong góc một cái bàn quán bar và cho nó ăn khoai tây chiên, hoặc rót nước Seven-Up vào bình sữa của nó nếu nó bắt đầu khóc. Chúa ơi…”

    Holly Grace nhún vai và buông cánh tay anh ra. “Lúc Danny ra đời chúng ta còn chưa được mười chín tuổi. Chúng ta cũng không khác gì những đứa trẻ. Chúng ta đã làm tốt nhất theo sự hiểu biết của mình.”

    “Vậy à? nó còn xa mới gọi là tốt!”

    Cô làm ngơ cơn khùng của anh. Trong việc chấp nhận cái chết của Danny cô đã làm tốt hơn anh, tuy cô vẫn phải đưa mắt đi mỗi khi bắt gặp một người mẹ bế một bé trai tóc vàng kim. Halloween là ngày khó khăn nhất với Dallie vì đó là ngày Danny chết, nhưng sinh nhật của Danny mới là khổ sở nhất đối với cô. Cô nhìn trân trân vào hàng cây hồ đào rậm rì tối sẫm và nhớ lại ngày hôm đó.

    Mặc dù là tuần thi cử ở trường A&M và Dallie còn bài luận phải viết, nhưng anh lại đang quần thảo với mấy anh nông dân trồng bông trên sân golf nhằm kiếm đủ tiền mua một chiếc cũi. Khi cô bị vỡ ối, cô sợ phải một mình đến bệnh viện nên đã lái đến sân golf trong một chiếc Ford Fairlane cũ mượn của một sinh viên sống cạnh nhà họ. Dù cô đã gấp một chiếc khăn tắm để dưới chỗ ngồi, nhưng chiếc ghế vẫn ướt sũng.

    Người coi sân golf đi tìm Dallie và trở về cùng anh trong chưa đầy mười phút. Khi Dallie trông thấy cô đứng dựa vào thành chiếc Fairlane, chiếc áo vải bông chui đầu ướt loang lổ từng mảng, anh nhảy khỏi chiếc xe điện và chạy tới chỗ cô. “Khỉ thật, Holly Grace,” anh nói. “Anh vừa đánh đến green ở lỗ số tám – còn ba inch nữa là đoạt cúp rồi. Em không thể chờ thêm tí xíu nữa sao?” Thế rồi anh bế bổng cô lên, cùng với chiếc áo ướt và tất cả những thứ khác, và ôm ghì cô vào ngực cho đến khi một cơn co thắt làm cô kêu lên.

    Giờ đây nghĩ đến chuyện đó, cổ họng cô nghẹn lại, “Danny là đứa trẻ mới đẹp làm sao,” cô thì thầm với Dallie. “Anh nhớ chúng ta đã sợ thế nào khi đưa nó từ bệnh viện về nhà không?”

    Lời đáp của anh thấp và gằn. “Người ta phải có giấy phép mới được nuôi chó, nhưng bọn họ lại để em mang một đứa bé ra khỏi bệnh viện mà không hỏi một câu.”

    Cô đứng bật dậy khỏi bậc thềm. “Mẹ kiếp, Dallie! Em muốn tưởng nhớ con trai chúng ta. Em muốn cùng anh tưởng nhớ thằng bé tối nay, không phải muốn nghe anh biến mọi thứ thành cay nghiệt.”

    Anh sụm người về phía trước, đầu gục xuống. “Lẽ ra em không nên đến. Em biết anh trở nên thế nào vào ngày này hàng năm mà.”

    Cô đặt nhẹ lòng bàn tay lên đỉnh đầu anh như một sự rửa tội. “Năm nay hãy để cho Danny đi đi anh.”

    “Em có làm thế được không nếu em là kẻ giết chết thằng bé?”

    “Em cũng biết chuyện cái bể mà.”

    “Và em đã bảo anh sửa nó.” Anh nặng nhọc đứng lên, đi tới lan can hiên. “Em đã hai lần bảo anh là cái chốt bị hỏng và mấy thằng nhóc hàng xóm cứ kéo nó ra để ném đá vào trong. Em không phải là người ở nhà với Danny chiều hôm đó. Em không phải là người có nhiệm vụ trông thằng bé.”

    “Dallie, anh đang học bài. Có phải như anh say xỉn trên sàn nhà khi thằng bé lẻn ra ngoài đâu.”

    Cô nhắm mắt, không muốn nghĩ đến phần này – cảnh đứa con trai hai tuổi của cô chập chững đi qua sân tới bể nước, ngó vào trong với sự tò mò vô hạn. Rồi mất thăng bằng. Ngã xuống. Cô không muốn hình dung thân hình bé bỏng đó khóc và vùng vẫy trong làn nước tối. Con cô đã nghĩ gì vào phút cuối, khi tất cả những gì nó nhìn thấy là một vòng sáng xa xa trên đầu? Nó nghĩ đến cô, mẹ nó, người không có mặt để ôm nó trong vòng tay che chở, hay nó nghĩ đến bố, người hôn nó và chơi vật nhau với nó và ôm nó chặt đến mức nó kêu ré lên? Nó đã nghĩ gì vào thời khắc cuối cùng khi hai lá phổi nhỏ bé ngập đầy nước?

    Chớp mắt ngăn nước mắt ứa ra, cô bước tới ôm lấy Dallie từ sau lưng. Rồi cô dựa trán vào sau vai anh. “Thượng Đế tặng cho chúng ta món quà cuộc sống. Chúng ta không có quyền đổ thừa vào hoàn cảnh của mình.”

    Anh bắt đầu run lên, và cô ôm anh chặt hết mức có thể.

    ***

    Francesca nhìn họ dưới bóng tối của cây hồ đào trồng sát hàng hiên. Đêm tĩnh lặng, cô nghe không sót một từ. Cô cảm thấy muốn bệnh…thậm chí tệ hơn cả lúc cô chạy khỏi Roustabout. Những đau khổ của cô giờ đây xem ra thật hời hợt so với nỗi đau của họ. Cô hoàn toàn không biết gì về Dallie. Cô không nhìn thấy gì khác ngoài một người Texas hay cười, lém lỉnh và vô lo vô nghĩ. Anh đã giấu cô một người vợ…về cái chết của con trai anh. Khi cô nhìn hai dáng người chìm trong đau buồn đứng trên hàng hiên, sự thân thiết giữa họ vững chắc như chính ngôi nhà cũ – một sự thân thiết có được từ cuộc sống chung, niềm vui và bi kịch chung. Rồi cô nhận ra cô và Dallie chẳng chia sẻ điều gì chung ngoài xác thịt của họ, và tình yêu là thứ một thứ sâu sắc cô thậm chí không tưởng tượng nổi.

    Francesca dõi theo Dallie và Holly Grace biến mất vào trong nhà. Trong một tích tắc ngắn ngủi, phần tốt đẹp nhất trong cô hy vọng họ sẽ tìm được sự an ủi ở nhau.

    ***

    Naomi chưa đến Texas bao giờ, và nếu cần phải nói lời nào về chuyện đó, thì chị không đời nào quay lại đây lần nữa. Khi một chiếc xe bán tải vượt qua chị ở làn phải với vận tốc ít nhất tám mươi dặm, chị quyết định rằng có những người không nên mạo hiểm vượt ra khỏi hệ thống giao thông tắc nghẽn thường xuyên ở thành thị cùng mùi khói dễ chịu từ ống xả những chiếc ta xi màu vàng bò trên đường thải ra. Chị là con gái thành phố; đường rộng thênh thang khiến chị đâm sợ. Hoặc có lẽ hoàn toàn không phải do đường cao tốc. Có lẽ là ở Gerry đang ngồi một đống cạnh chị trên ghế khách chiếc xe Cadillac chị thuê, cau có nhìn kính chắn gió như một đứa bé bẳn gắt.

    Khi chị trở về căn hộ vào tối qua để sắp đồ, Gerry đã tuyên bố sẽ đi Texas với chị. “Anh phải ra khỏi chỗ này trước khi phát điên,” anh giải thích, cào tay lên tóc. “Anh sẽ đi Mexico ở ẩn một thời gian. Anh sẽ bay đi Texas cùng cô tối nay – cảnh sát ở sân bay không tìm kiếm một cặp đôi đi cùng nhau đâu – sau đấy anh sẽ thu xếp để vượt qua biên giới. Anh có mấy người bạn ở Del Rio. Họ sẽ giúp anh. Bọn anh sẽ tổ chức lại hoạt động.”

    Chị đã bảo là không thể được, nhưng Gerry không nghe. Với sức vóc Naomi thì làm sao ngăn cản được anh, nên chị đã thấy mình đáp chuyến bay của hãng Delta đến San Antonio với Gerry khoác tay bên cạnh.

    Chị duỗi người trên ghế, vô tình nhấn vào chân ga khiến chiếc xe hơi tăng tốc. Ở bên cạnh, Gerry thục sâu hai tay vào túi chiếc quần xám bằng vải flannel không biết anh kiếm đâu ra. Bộ trang phục nhằm mục đích khiến anh giống một doanh nhân chững chạc nhưng lại không thành vì anh nhất định không cắt tóc. “Thả lỏng đi,” chị nói. “Từ lúc chúng ta tới đây không có người nào để ý đến anh đâu.”

    ”Cảnh sát sẽ chẳng bao giờ để cho anh đi khơi khơi thế,” Gerry lo lắng liếc qua vai dễ tới trăm lần từ khi họ lái xe ra khỏi garage khách sạn ở San Antonio. ”Bọn chúng đang chơi anh. Chúng sẽ kệ cho anh đi, tới sát sạt biên giới Mexico, rồi chúng mới xáp vào anh. Lũ lợn chó chết.”

    Chứng hoang tưởng những năm sáu mươi. Chị đã gần như quên khuấy. Khi Gerry biết việc FBI nghe trộm điện thoại, anh liền tin chắc rằng mỗi góc tối đều núp một tay cảnh sát, mỗi một người mới đều là một mật thám, rằng chính J. Edgar Hoover (giám đốc FBI lúc bấy giờ) hùng mạnh đang đích thân tìm bằng chứng về hoạt động lật đổ trong băng vệ sinh Kotex mà những phụ nữ tham gia phong trào phản chiến vứt trong thùng rác. Đành rằng lúc đó có lí do phải cảnh giác, nhưng cuối cùng sự sợ hãi lại khiến con người ta kiệt sức chứ không phải thực tế. ”Anh có chắc là cảnh sát quan tâm không?” Naomi hỏi. ”Chẳng có ai nhìn anh tới lần thứ hai từ lúc anh lên máy bay đến giờ.”

    Gerry trừng trừng nhìn chị và chị biết mình đã sỉ nhục anh bằng việc xem thường tầm quan trọng trong vai kẻ chạy trốn của anh – Macho Gerry, một John Wayne trong cộng đồng cấp tiến. “Anh mà đi một mình,” anh đáp, “thì bọn họ sẽ phát hiện ra ngay chứ chả chơi.”

    Naomi thấy băn khoăn, Gerry một mực cho rằng cảnh sát đang tung hết lực lượng để lùng bắt anh, nhưng rõ ràng họ không có vẻ tìm kiếm tích cực cho lắm. Điều đó khiến chị buồn một cách kỳ lạ. Chị nhớ lại những ngày xưa khi nhất cử nhất động của anh trai chị đều được cảnh sát theo dõi gắt gao.

    Chiếc Cadillac lên một đỉnh dốc, chị trông thấy tấm biển thông báo đã đến địa phận thị trấn Wynette. Niềm vui sướng trào dâng, rốt cuộc lần này chị sẽ được gặp Sassy Girl của mình. Chị mong rằng mình đã không mắc sai lầm khi không gọi điện trước, song chị cảm thấy cuộc gặp gỡ này nên được thực hiện trên phương diện cá nhân. Với lại, những tấm ảnh đôi khi nói dối. Chị phải đích thân gặp mặt cô gái này.

    Gerry nhìn đồng hồ điện tử trên bảng điều khiển. “Còn chưa đến chín giờ. Có khi cô ta vẫn đang ngủ. Anh không hiểu sao chúng ta phải khởi hành sớm thế.”

    Chị không buồn trả lời. Với Gerry ngoài nhiệm vụ đơn thương độc mã giải cứu thế giới ra tất cả những chuyện khác đều không quan trọng. Chị dừng lại một trạm xăng để hỏi đường. Gerry co người trên ghế, giấu mình sau tấm bản đồ chỉ đường mở rộng phòng khi có thằng nhóc mặt búng ra sữa đứng bơm xăng lại là một mật thám cáo già của chính quyền được cử đi bắt Kẻ Thù Số Một Quốc Dân.

    Lúc quay xe ra đường, chị bảo, “Gerry, anh đã ba hai tuổi rồi. Anh không mệt mỏi với cuộc sống thế này sao?”

    “Anh sẽ không bán mình, Naomi.”

    “Nếu anh hỏi em, thì chạy sang Mexico còn gần với việc bán mình hơn là ở đây và cố gắng làm việc trong hệ thống nhà nước.”

    “Cô thôi chủ đề này đi?”

    Chỉ là Naomi tưởng tượng ra hay Gerry có vẻ không chắc chắn với chính mình? “Anh sẽ là một luật sư giỏi,” chị nhấn mạnh, “dũng cảm và trung thực. Như một hiệp sĩ trung cổ chiến đấu cho công lý.”

    “Anh sẽ suy nghĩ, được chưa?” anh gắt gỏng. “Anh sẽ suy nghĩ sau khi đến Mexico. Nhớ là cô đã hứa đưa anh đến sát Del Rio trước sẩm tối đấy.”

    “Trời đất, Gerry, anh không thể nghĩ đến chuyện gì khác ngoài bản thân sao?”

    Anh nhìn chị vẻ ghê tởm. “Thế giới sắp sửa tự làm nó nổ tung, vậy mà tất cả những gì cô quan tâm chỉ là bán được nước hoa.”

    Chị không muốn lao vào một trận khẩu chiến nữa với anh, và họ im lặng trên suốt chặng đường còn lại tới ngôi nhà. Khi Naomi dừng chiếc Cadillac lại, Gerry lo lắng ngoái nhìn con phố. Không thấy có gì đáng ngờ, anh yên tâm đủ để rướn người tới trước quan sát ngôi nhà. “Ê, anh thích chỗ này đấy.” Anh chỉ những con thỏ bằng sơn. “Nó toát ra sự rung cảm mãnh liệt.”

    Naomi cầm lấy ví và cặp tài liệu. Chị đang định mở cửa xe thì bị Gerry túm tay. “Chuyện này rất quan trọng với cô à, em gái?”

    “Em biết anh không hiểu, Gerry, nhưng em yêu công việc của mình.”

    Anh chậm chạp gật đầu rồi mỉm cười với chị. “Chúc may mắn, nhóc.”

    ***

    Tiếng sập cửa xe làm Francesca tỉnh giấc. Thoạt tiên cô không biết mình đang ở đâu, rồi cô nhận ra rằng – giống như một con thú đi vào hang để chết một mình – cô đã bò vào băng sau chiếc Riviera và ngủ thiếp đi. Những hồi ức của tối qua tràn về, gây nên một cơn đau mới. Cô ngồi thẳng dậy và khẽ rên rỉ khi mọi bắp thịt trên cơ thể phản đối sự thay đổi tư thế của cô. Con mèo, đang nằm cuộn tròn trên sàn xe phía dưới cô, ngẩng cái đầu méo mó lên và kêu ngoao một tiếng.

    Rồi cô thấy chiếc Cadillac.

    Cô nín thở. Theo như cô nhớ được, những chiếc xe lớn, đắt tiền luôn đem đến những điều tuyệt vời cho cuộc sống của cô – những người đàn ông sang trọng, những nơi chốn thời trang, những bữa tiệc xa hoa. Một luồng hy vọng phi logic quét qua cô. Có lẽ một người bạn đã lần theo dấu vết của cô và đến để đưa cô về với cuộc sống cũ. Cô vuốt tóc khỏi mặt bằng bàn tay nhem nhuốc, run rẩy. Cô tụt xuống xe, rón rén bước vòng ra đằng trước nhà. Cô không thể đối diện với Dallie sáng nay, và cô đặc biệt không thể đối diện với Holly Grace. Khi cô nhón chân lên bậc cấp, cô tự dặn lòng không được quá hy vọng, rằng chiếc xe có thể chỉ đưa một phóng viên đến phỏng vấn Dallie mà thôi, hoặc thậm chí là một người bán bảo hiểm – nhưng mọi thớ thịt trên người cô đều căng lên mong đợi. Cô nghe thấy giọng phụ nữ lạ qua cánh cửa mở và bước sang một bên để có thể lắng nghe mà không bị trông thấy.

    “…đã tìm cô ấy khắp nơi,” tiếng một phụ nữ đang nói. “Cuối cùng tôi đã tìm được cô ấy qua những tìm hiểu về Mr. Beaudine.”

    “Rước lấy từng đấy rắc rối chỉ vì một bài quảng cáo trên tạp chí,” Miss Sybil đáp lời.

    “Ồ không,” giọng phụ nữ phản bác. “Điều này quan trọng hơn nhiều. Blakemore, Stern, và Rodenbaugh là một trong những công ty quảng cáo có thế lực nhất Manhattan. Chúng tôi đang chuẩn bị một chiến dịch lớn để cho ra mắt sản phẩm nước hoa mới, và chúng tôi cần một người phụ nữ nhan sắc nổi bật như Cô nàng Ngổ ngáo của chúng tôi. Cô ấy sẽ lên truyền hình, các bảng quảng cáo. Cô ấy sẽ tham gia các sự kiện xã hội trên cả nước. Chúng tôi dự định biến cô ấy thành một trong những gương mặt quen thuộc nhất nước Mĩ. Tất cả mọi người sẽ biết đến Cô nàng Ngổ ngáo.”

    Francesca cảm thấy như mình vừa được hồi sinh. Cô nàng Ngổ ngáo! Họ đang tìm cô! Họ đang tìm cô! Một luồng phấn khích chạy suốt các mạch máu cô như chất adrenaline cùng với nhận thức rằng giờ đây cô sẽ có thể chia tay Dallie trong tư thế ngẩng cao đầu. Bà tiên từ Manhattan này sắp trả lại cho cô sự tự tôn.

    “Nhưng e rằng tôi không biết cô ấy ở đâu,” Miss Sybil đáp. “Tôi rất tiếc phải làm cô thất vọng khi cô đã cất công đi xa như thế, nhưng nếu cô cho tôi danh thiếp, tôi sẽ chuyển nó cho Dallas. Cậu ấy sẽ lo giao cho cô ấy.”

    “Không!” Francesca chụp lấy tay nắm cửa và đẩy cửa vào, lo sợ một cách phi lí rằng người phụ nữ đó sẽ biến mất trước khi cô gặp được. Khi chạy ào vào, cô trông thấy một người phụ nữ cao gầy tóc đen trong bộ đồ công sở màu xanh navy đứng cạnh Miss Sybil. “Không!” Francesca kêu lên. “Tôi đây! Tôi ở đây –“

    “Có chuyện gì thế?” một giọng khàn nhừa nhựa cất lên. “Ồ, cô khỏe chứ, Miss Sybil? Tối qua em chưa kịp chào hỏi cô. Cô có cà phê không?”

    Francesca đứng đờ ra nơi ngưỡng cửa khi Holly Grace Beaudine bước xuống cầu thang. Cặp giò dài thẳng tắp để trần bên dưới một trong những chiếc áo sơ mi xanh nhạt của Dallie. Cô ta há miệng ngáp, và những cảm xúc vị tha của Francesca đối với cô ta đêm trước bay sạch. Kể cả để mặt mộc và mái tóc bù xù khi ngủ dậy, trông cô ta vẫn lộng lẫy.

    Francesca hắng giọng và bước vào phòng khách, để tất cả mọi người biết sự hiện diện của mình.

    Người phụ nữ mặc bộ vét xám thở dốc thành tiếng. “Lạy Chúa! Những bức ảnh đó thật bất công với cô.” Cô ta bước tới, cười rạng rỡ. “Hãy để tôi là người đầu tiên gửi lời chúc mừng đến Cô nàng Ngổ ngáo mới của chúng ta.”

    Và sau đó cô ta đưa tay cho Holly Grace Beaudine.
     
  20. tuanh98

    tuanh98 Mầm non

    truyện rất hay. mong bạn post đều đều. cảm ơn đã dịch một truyện rất ý nghĩa về sự trưởng thành của nhân vật chính.
     
    hathao and song vang like this.

Chia sẻ trang này