Hồi ký - Tiểu sử G Huyền thoại Cờ Vua - Bobby Fischer

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi dangtuanpr, 17/2/16.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    [​IMG]

    Tác phẩm: Huyền Thoại Cờ Vua - Bobby Fischer
    Dịch: Hag0n
    Thể loại: Tiểu sử
    Nguồn: Diễn đàn người yêu cờ - Thăng Long Kỳ Đạo

    Giới thiệu:

    Đây là, câu chuyện về Bobby Fischer - huyền thoại của làng cờ vua thế giới. Ông được coi là kỳ thủ cờ vua vĩ đại nhất mọi thời đại.

    P/s: Mình vừa xem một bộ phim về huyền thoại cờ vua Bobby Fischer mang tên: Pawn Sacrifice. Sau khi xem mình đã tìm hiểu về cuộc đời ông và phát hiện ra tác phẩm dịch về cuộc đời của ông. Mình càng đọc càng say mê. Chưa một cuốn tiểu sử nào lại hấp dẫn mình đến như vậy. Mời các bạn đón đọc! Và biết đâu câu chuyện này lại khơi dậy tình yêu với cờ vua trong bạn!
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/2/16
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  2. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Robert James "Bobby" Fischer sinh tại bệnh viện Michael Reese ở Chicago, Illinois vào ngày 9 tháng 3 năm 1943. Giấy khai sinh của Bobby ghi tên cha là Hans Gerhardt Fischer, một nhà lý-sinh học người Đức. Còn mẹ cậu là Regina Wender Fischer, sinh tại Thụy Sĩ và cùng gia đình chuyển đến Mỹ khi bà chỉ mới 2 tuổi. Sau này bà trở thành một giáo viên, y tá và bác sĩ. Regina và Hans Gerhardt kết hôn tại Moscow, Liên Xô vào năm 1933, tại đây bà học ngành dược ở Học Viện Y Khoa Moscow (First Moscow Medical Institute). Họ ly dị năm 1945 khi Bobby mới 2 tuổi, và cậu trưởng thành mà không có cha, chỉ sống cùng mẹ và người chị gái Joan. Năm 1948, gia đình Fischer chuyển đến Mobile, Arizona, và Regina giảng dạy tại một trường tiểu học ở đây. Năm sau họ chuyển đến Brooklyn, New York. Tại đây Regina tiếp tục dạy học và làm thêm công việc y tá.

    Một bài báo năm 2002 của Peter Nicholas và Clea Benson trên tờ The Philadelphia Inquirer cho rằng Paul Nemenyi - một nhà vật lý học người Hungary, mới là cha thực sự của Bobby Fischer. Bài báo trích dẫn một báo cáo của FBI rằng Regina đã trở về Mỹ năm 1939, trong khi Hans Gerhardt chưa bao giờ đặt chân đến nước Mỹ. Họ cho rằng Regina và Nemenyi đã yêu nhau vào năm 1942, và chính Nemenyi là người trợ cấp tiền nuôi con hàng tháng cho Regina, cũng như trả tiền học phí cho Fischer cho đến khi ông qua đời năm 1952. Fischer sau này kể cho tay cờ người Hungary Zita Rajcsanyi rằng Nemenyi thỉnh thoảng xuất hiện tại căn hộ của gia đình Fischer ở Brooklyn và đưa Fischer đi chơi. Tuy nhiên, Regina lại phủ nhận chuyện này. Bà kể cho một người công tác xã hội rằng bà đã đến Mexico vào tháng 6 năm 1942 để gặp Hans Gerhardt, và có mang Fischer trong khoảng thời gian đó.

    [​IMG]
    Paul Nemenyi - cha của Bobby (?)

    Vào một ngày mưa tháng 3 năm 1949, khi Bobby lên sáu, chị cậu, Joan, cố gắng tìm một trò chơi mới để thỏa mãn tính hiếu động của cậu em trai. Cô mua một bộ cờ bằng nhựa với giá 1 USD tại cửa hàng bánh kẹo. Những quân cờ chỉ cao hơn 1 inch, đi kèm với một bàn cờ bằng bìa cứng với các ô đen đỏ. Cả Joan lẫn Bobby đều chưa từng nhìn thấy các quân cờ trước đây, nhưng chúng theo những hướng dẫn in bên trong hộp cờ để mày mò cách chơi. Sau khi chỉ cách gọi tên các quân, tờ hướng dẫn chỉ cách di chuyển của mỗi quân: "Quân Hậu có thể đi nhiều ô theo mọi hướng, quân Mã thì đi theo hình chữ L và có thể nhảy qua đầu các chốt và các quân khác", v.v... Chỉ có vài gợi ý cơ bản được đưa ra, như Trắng đi trước, và mục tiêu của ván cờ là phải chiếu bí Vua đối phương, nhưng không ăn Vua.

    "Chúng tôi không ai biết chơi cờ và cũng chưa từng thấy ai chơi cờ", Fischer sau này kể lại. Đối thủ đầu tiên của Bobby chính là chị Joan của mình. Tuy nhiên Joan là một học sinh giỏi, luôn bận rộn với đống bài tập của mình, vì vậy nhanh chóng trở nên chán và không có thời gian dành cho cờ. Thế là Bobby dạy mẹ mình chơi. Bobby kể lại: "Bà ấy bận rộn đến mức không thể chơi một ván cờ cho nghiêm túc. Chẳng hạn như bà tranh thủ gọt khoai tây hoặc may lại quần áo trong lúc đang chơi, điều đó làm tôi rất khó chịu. Tôi thắng một ván, sau đó xoay bàn cờ đổi màu quân rồi lại thắng tiếp. Cả hai chúng tôi đều cảm thấy mệt mỏi. Vì vậy tôi muốn tìm ai đó có thể chơi cờ với mình cả ngày".

    [​IMG]
    Regina Wender Fischer - mẹ của Bobby

    Vì Bobby không tìm được đối thủ để thi đấu nên cậu đành phải chơi cờ một mình, biến mình thành chính đối thủ của mình. Cậu xếp quân, chơi bên Trắng rồi lại xoay bàn cờ, xếp lại quân rồi chơi bên Đen. Cậu cố gắng đánh lừa chính mình, xem như mình đang chơi với một đối thủ thực sự. Đen biết rõ Trắng đang làm gì và ngược lại, vì Đen là Fischer và Trắng cũng là Fischer, cho nên cậu tìm cách quên hết kế hoạch mình vừa lập ra cho một bên để suy nghĩ lại từ đầu, ra sức phán đoán những cạm bẫy và ý đồ của "đối thủ". Với vài người, cách chơi này có vẻ điên khùng và thậm chí giống như bị tâm thần. Tuy nhiên, nó lại giúp cho Bobby có được cảm nhận về bàn cờ, vai trò của các quân và cách tiến triển của một ván cờ.

    Vấn đề với Bobby chính là khả năng giao tiếp xã hội: Từ khi còn rất nhỏ cậu đã sống với nhịp điệu riêng của mình, đối nghịch với sự phát triển thông thường của những đứa trẻ khác. Tính cách cực kỳ ngang bướng là một đặc điểm nổi bật của cậu. Bobby chỉ làm những gì mà cậu muốn làm - và cũng chính cậu là người chọn thời gian, địa điểm và cách thức để làm việc đó. Lúc đầu Regina còn bắt cậu vào khuôn phép được, nhưng khi Bobby lên sáu thì không còn quản thúc nổi nữa.

    [​IMG]
    Joan Targ Fischer - chị gái của Bobby

    "Khi nó lên bảy", Joan nói trong một cuộc phỏng vấn, "Bobby có thể thảo luận về những khái niệm như vô cực, hay giải được tất cả các bài toán đố, nhưng hỏi nó 2 nhân 2 bằng bao nhiêu thì nó lại trả lời sai". Dù chuyện này có vẻ phóng đại, nhưng một sự thật rõ ràng là Bobby ghét phải ghi nhớ bất cứ thứ gì mà cậu không thích, và bảng cửu chương nằm trong số đó. Câu chuyện Bobby có thể hiểu được lý thuyết số cùng những phức tạp của số nguyên tố và tính vô hạn của nó, mà không thuộc nổi bảng cửu chương cũng tương tự như huyền thoại về việc Einstein không thể tính được thuế thu nhập của mình.

     
  3. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Với cố gắng tìm kiếm một cậu bé có thể chơi với Bobby, Regina viết thư cho biên tập viên mục cờ của Brooklyn Eagle, hỏi ông ấy có biết kỳ thủ nào khoảng 7 tuổi hay không. Biên tập viên Hermann Helms, một kiện tướng cờ Vua, trả lời Regina rằng nên đưa Bobby đến thư viện Grand Army Plaza vào một buổi tối thứ 5 của tháng 1 năm 1951, tại đó cậu bé có thể được các kiện tướng dành cho một trận đấu đồng loạt.

    Tối hôm đó các kiện tướng thi đấu xoay vòng, mỗi người chơi khoảng 1 tiếng thì người khác sẽ vào thay. Khi Bobby ngồi vào bàn thì người đấu với cậu là Max Pavey, một bác sĩ 32 tuổi, người đã từng vô địch cả Scotland và New York và đang trong thời kỳ đỉnh cao phong độ. Pavey là kiện tướng đầu tiên mà Bobby gặp trong đời. Đám đông tụ tập quanh bàn cờ khi Bobby bé nhỏ đối mặt với Max Pavey. Cậu bé thi đấu rất nghiêm túc nên ván cờ càng lúc càng thu hút nhiều người xem. Bobby quỳ trên ghế để có thể nhìn rõ thế cờ hơn.

    [​IMG]
    Kiện tướng Max Pavey

    Bobby nhớ lại kinh nghiệm của mình khi chơi giải câu đố. Cậu không được đi quá nhanh. Cậu biết giải pháp nằm ở đâu đó và chỉ chờ mình tìm ra thôi, nếu cậu có đủ thời gian. Pavey, một kỳ thủ chơi cờ nhanh cực giỏi - gần đây vừa đoạt chức vô địch cờ nhanh nước Mỹ - hầu như không cần suy tính kỹ khi ông thực hiện nước đi ở các bàn khác. Chẳng mấy chốc ông đã quay trở lại bàn của Bobby, khiến cho cậu bé không thể tính toán sâu và cẩn thận như cậu mong muốn được. Hơn nữa tối hôm đó chỉ có 8 bàn đấu, nên rất thoải mái cho Pavey.

    Đẳng cấp kiện tướng quá mạnh. Chỉ sau 15 phút, Pavey miệng thì bập tẩu thuốc, tay thì ăn Hậu của Bobby, kết thúc ván cờ. Ông rất hòa nhã chìa tay ra bắt tay Bobby và mỉm cười, "Một ván cờ hay". Bobby nhìn chằm chằm vào bàn cờ trong một lúc, sau đó òa khóc. Việc Bobby xúc động đến mức bật khóc cho thấy cậu rất chú tâm vào ván cờ, và có lẽ đã mong chờ một trận thắng trước kiện tướng đầu tiên mình gặp trong đời. Thậm chí dù chỉ mới 7 tuổi nhưng cậu không cho rằng mình là một kỳ thủ nghiệp dư. Bobby sau này thừa nhận ván cờ đó có ảnh hưởng to lớn và là động lực thúc đẩy mình phấn đấu.

    Một khán giả đến xem trận cờ hôm đó là Carmine Nigro, một người hói, lùn. Ông theo dõi ván cờ của Pavey - Fischer khá chăm chú, và thích những nước cờ của Bobby. Chúng không sắc sảo, nhưng cho thấy người chơi rất biết xét đoán, đặc biệt là với người mới biết chơi. Với sự tập trung cao độ, Bobby dường như quên hết mọi thứ xung quanh. Ngay khi ván cờ kết thúc, Nigro đến gặp Regina với Bobby và tự giới thiệu mình là chủ tịch của câu lạc bộ cờ Brooklyn. Ông mời Bobby đến tập luyện vào mỗi tối thứ 3 và thứ 6. Thế là Regina đưa Bobby đến câu lạc bộ vào ngay tối hôm sau.

    Vấn đề xảy đến với Bobby ngay tối hôm đó khi không có ai muốn đấu với cậu, đặc biệt vì trông Bobby chỉ như một thằng nhóc 5 tuổi. Một tràng những tiếng cau có, bực bội, cười khẩy vang khắp phòng khi họ được đề nghị "cho Bobby một cơ hội". Cảm giác chung của họ là: Thua một người ngang hàng đã đủ tệ rồi, còn nếu thua một thằng nhóc 7 tuổi thì sao? Thật xấu hổ ! Mất hết cả danh tiếng ! Sau khi Nigro ra sức thuyết phục thì mới có một vài kỳ thủ lớn tuổi hơn đồng ý chơi với Bobby một, hai ván.

    Hầu hết các kỳ thủ trong câu lạc bộ đều là những người dày dạn kinh nghiệm chiến trường, đã từng kinh qua nhiều giải đấu, do đó điều tất yếu xảy ra: Bobby thua trắng.

    Dù thua nhưng Bobby vẫn đến câu lạc bộ thường xuyên. Cảnh tượng một cậu bé ngồi đối diện với những vị thẩm phán, bác sĩ, hay giáo sư đại học với tuổi tác nhiều gấp 8 hay gấp 10 lần cậu luôn gây ra nhiều sự ngạc nhiên thú vị. "Lúc đầu tôi toàn thua, và cảm thấy rất tệ", Bobby kể lại. Cậu thường bị các đối thủ chọc ghẹo không thương tiếc . "Con cá!" (Fish), họ chế nhạo, sử dụng một thuật ngữ để ám chỉ những kỳ thủ yếu, thường khi Bobby phạm phải một sai lầm. Bobby càng đau đớn hơn khi từ này gần giống với tên của cậu (Fischer). Bobby khinh bỉ từ này, vì vậy sau này khi nói đến các kỳ thủ yếu cậu thường dùng từ "weakie" - hoặc ít thông dụng hơn như "duffer" hay "rabbit".

    [​IMG]
    Cậu bé Bobby Fischer

    Nigro, vị chủ tịch câu lạc bộ, với sức cờ gần ngang mức kiện tướng, mời Bobby đến nhà ông vào thứ 7 hàng tuần để dạy cờ cho cậu. Ngay khi Bobby hiểu được những nguyên tắc cơ bản, Nigro bắt đầu giảng khai cuộc cho cậu. Đây là giai đoạn rất quan trọng của một ván cờ, chỉ vài nước đi đầu tiên nhưng có thể quyết định hay ít nhất ảnh hưởng đến kết quả của cả ván đấu. Bất cứ kỳ thủ nào muốn cải thiện trình độ cờ của mình đều phải hiểu và ghi nhớ khai cuộc. Vì có vô số các phương án nên rất khó để các kỳ thủ có thể tiếp thu hết dù chỉ là một phần nhỏ. Chẳng hạn, có 400 thế cờ khác nhau sau nước đi đầu tiên của mỗi bên, và có 72084 thế sau 2 nước, và còn tiếp tục tăng lên. Nhưng Bobby không nản chí, cậu dốc hết sức vào học. Nhắc đến những ngày tập luyện khó khăn này, Bobby kể lại: "Có thể ông Nigro không phải là kỳ thủ giỏi nhất thế giới, nhưng là một giáo viên rất tuyệt vời. Gặp gỡ ông ấy có lẽ là yếu tố quyết định đến sự phát triển của tôi sau này".

    Carmine Nigro còn là một nhạc sĩ chuyên nghiệp. Vì thấy Bobby quá mê mải vào những ván cờ nên ông muốn khơi dậy niềm say mê âm nhạc trong cậu. Vì Bobby không có đàn piano, nên Nigro dạy cậu đàn accordion và cho cậu mượn nhạc cụ để có thể thực hành ở nhà. Chẳng bao lâu sau Bobby đã chơi thành thạo bản "Beer Barrel Polka" cùng những giai điệu khác, và cậu thậm chí còn biểu diễn vài lần tại trường. Sau khoảng 1 năm, Bobby nhận thấy khoảng thời gian cậu dành để tập luyện accordion làm ảnh hưởng đến việc nghiên cứu cờ của mình, "Tôi đã từng chơi accordion khá tốt", Bobby kể lại, "nhưng cờ cuốn hút tôi hơn và nên dẹp accordion sang một bên".

    Nhận thấy Bobby suy nghĩ hơi chậm khi thi đấu nên Nigro đã lái xe đưa cậu đến Washington Square Park ở Greenwich Village, cho cậu tham dự các trận đấu ngoài trời với các kỳ thủ công viên - những người luôn đánh rất nhanh. Thế là Bobby bị buộc phải chơi nhanh hơn và do đó tốc độ suy nghĩ của cậu cũng được cải thiện.

    Để nâng cao sức cờ của mình, Bobby thường dành hàng giờ đồng hồ sau giờ học để ngồi ở thư viện Grand Army Plaza đọc ngấu nghiến tất cả các quyển sách cờ trên kệ sách. Cậu làm việc rất nghiêm túc. Chỉ sau một vài tháng, cậu thấy mình đã có thể theo dõi các ván cờ trong sách mà không cần bàn cờ. Nếu gặp phương án quá phức tạp hoặc quá dài, cậu đọc kỹ trong sách, sau đó về nhà bày cờ ra nghiền ngẫm lại. Cậu nghiên cứu các ván cờ của các đại kiện tướng, cố gắng hiểu và ghi nhớ tại sao họ thắng - hoặc thua.

    Bobby đọc các tài liệu cờ khi cậu đang ăn, khi cậu tắm và cả khi cậu nằm trên giường. Cậu xếp sẵn bàn cờ ở ngay cạnh giường. Điều cuối cùng cậu làm trước khi đi ngủ và điều đầu tiên cậu làm sau khi tỉnh dậy đó là nhìn vào thế cờ. Bơ lạc, sandwich, mứt, ngũ cốc, spaghetti... những món mà Bobby ăn trong khi phân tích cờ vương vãi lên cả các quân Vua, Hậu, Xe, Tượng, nhưng cậu cũng không thèm quan tâm. Những năm sau này, khi một nhà sưu tập sở hữu bộ cờ và lau chùi những dấu vết đó, Bobby phản ứng rất phẫn nộ: "Ông đã phá hỏng nó!".

    [​IMG]
    Cậu bé Bobby Fischer vừa ăn vừa nghiên cứu cờ
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  4. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Nghiên cứu các ván cờ của các đại kiện tướng trong quá khứ cũng như hiện tại đã giúp Bobby học được rất nhiều: khả năng chơi đòn phối hợp theo trực giác của Rudolf Spielmann, nghệ thuật tích lũy ưu thế nhỏ thành ưu thế lớn của Wilhelm Steinitz, kỹ thuật tránh phức tạp hóa thế trận của Jose Capablanca, cách tổ chức tấn công của Alexander Alekhine... Như một kiện tướng đã nói về cậu: "Bobby gần như nuốt chửng các tài liệu cờ. Cậu ta nhớ hết mọi thứ và nó đã trở thành một phần của cậu ta".

    Những quyển sách căn bản như "Lời mời đến với cờ Vua" và những sách vỡ lòng khác nhanh chóng bị Bobby vứt bỏ để nghiên cứu những sách nâng cao hơn như "Thực hành khai cuộc" và "Tàn cuộc cơ bản", 2 tập sách "Những ván cờ hay nhất của tôi" của Alexander Alekhine, và một quyển sách mới xuất bản gần đây "500 ván cờ của kiện tướng". Bobby tiếp thu những bài học trong đó rất nhanh. Cậu từng kể với kiện tướng Shelby Lyman rằng mình đã đọc qua hàng ngàn quyển sách cờ, và chỉ giữ lại những quyển hay nhất trong số đó.

    Cần phải nhấn mạnh rằng những tác phẩm đó không hề dễ đọc ngay cả với những kỳ thủ lớn tuổi. Vì vậy việc một cậu bé 8, 9 tuổi có khả năng tập trung cao độ để đọc được nó là cực kỳ khác thường. Sau này Bobby còn nâng độ khó lên khi đọc những quyển sách cờ viết bằng các ngôn ngữ khác (chủ yếu là sách cờ tiếng Nga).

    Những nỗ lực của Regina và Joan để bắt Bobby làm bài tập về nhà thường không đem lại kết quả. Bobby có thể ngồi yên hàng giờ đồng hồ để chơi giải đố hoặc chơi cờ, nhưng lại luôn hiếu động và mất tập trung khi đọc, viết, hay làm toán. Khi học ở trường cậu luôn tách biệt mình với các đứa trẻ khác, có lẽ vì quá nhút nhát hoặc sợ phải thi đấu. Trước khi lên lớp 4, cậu đã phải chuyển trường đến 6 lần chỉ trong vòng 2 năm. Cậu chuyển trường vì không thể hòa nhập được với các bạn cùng lớp, cũng như không chịu vâng lời giáo viên. Bực mình, Regina đăng ký cho Bobby vào một trường dành cho các trẻ có năng khiếu. Cậu chỉ học có một ngày và từ chối quay lại đó.

    Cuối cùng Regina cũng tìm được ngôi trường phù hợp cho cậu con trai khó hiểu của mình, đó là trường Community Woodward, một trường chỉ có xấp xỉ 150 học sinh. Triết lý giáo dục của trường dựa trên những nguyên tắc của Johann Heinrich Pestalozzi, một nhà giáo dục học người Thụy Sĩ ở thế kỷ 18, phản đối việc học thuộc lòng các bài học và kỷ luật hà khắc, mà tập trung vào việc phát triển kỹ năng cá nhân.

    Bobby thể hiện tài năng của mình trong các trò chơi, và cậu được chấp nhận vào trường vì có thể dạy các đứa trẻ khác chơi cờ, và cũng bởi vì kết quả test IQ của cậu cho kết quả cực kỳ cao: 187

    Tại trường, ngoài cờ vua, Bobby còn nổi lên như là một tay chơi bóng chày cừ khôi. "Cậu ấy kích thích phong trào chơi cờ vua ở đây", một giáo viên của cậu nói, "Cậu ấy có thể dễ dàng đánh bại mọi người, kể cả các thành viên trong đội cờ. Bất kể môn nào cậu ấy chơi, bóng chày hay tennis, cậu ấy cũng đều giỏi hơn tất cả. Nếu cậu ấy sinh ra gần một hồ bơi thì cậu ấy sẽ trở thành nhà vô địch bơi lội..."

    Regina bắt đầu lo lắng cho tương lai của Bobby khi cậu không chịu học hành đàng hoàng. Hơn thế, bà lo sợ niềm say mê cờ của Bobby sẽ biến thành nỗi ám ảnh. Bà tin rằng cậu quá mải mê vào những ván cờ đến mức quên hết cả thực tại xung quanh mình. Cậu nghiện cờ và không thể kiểm soát được nó, và cuối cùng chính cờ sẽ hủy hoại cuộc đời cậu.

    Với Regina, việc bàn luận về sự nghiện cờ của Bobby với Nigro chỉ là một nỗ lực vô vọng. Nigro luôn động viên Bobby chơi nhiều hơn, nghiên cứu, và tham gia các giải đấu. Bobby dần trở thành một người bạn cờ của Nigro. Nigro biết rõ tình hình tài chính khó khăn của Regina, vì vậy ông không bao giờ yêu cầu bà trả tiền những bài học ông dạy cho Bobby, dù là cờ hay âm nhạc. Nigro và Bobby bắt đầu chơi những ván cờ có đồng hồ, mỗi bên 2 tiếng - thời gian thi đấu chính thức trong các giải đấu. Và Bobby càng ngày càng mạnh hơn, cho đến khi cậu đánh thắng Nigro trong hầu hết các ván đấu.

    Dần dần, thành tích của Bobby tại câu lạc bộ cờ Brooklyn được cải thiện. Cậu mất vài năm khổ luyện để bây giờ có thể giành chiến thắng dễ dàng tại câu lạc bộ. Về phần mình, các đối thủ của Bobby rất ấn tượng trước sự kiên trì và những tiến bộ rõ nét của cậu. "Tôi đã đọc gần hết các sách cờ trong thư viện và bây giờ tôi muốn có những quyển sách của riêng mình", Bobby kể lại. Nigro tặng hoặc cho cậu mượn sách, còn Regina thỉnh thoảng cũng cho cậu tiền mua sách. Bất cứ khi nào Nigro đọc xong những bản sao chép của các tạp chí cờ như Chess Review hay Chess Life, ông đều tặng nó cho Bobby. Bobby rất say mê, không chỉ vì vô số những kiến thức cờ trong đó mà còn vì cậu có cơ hội được đọc về những nhà vô địch thế giới vĩ đại.

    Sau đó, vào mùa hè năm 1954, Bobby có cơ hội được xem một trận đấu cờ rất lớn. Đó là lần đầu tiên đội tuyển cờ vua Liên Xô thi đấu trên đất Mỹ.

    Cần phải nhấn mạnh về sự khác biệt giữa hai nền cờ vua Liên Xô và Mỹ ở thời điểm đó. Tất cả các kỳ thủ Liên Xô không chỉ là những kỳ thủ chuyên nghiệp, mà đều là các đại kiện tướng (danh hiệu cao nhất trong cờ vua, do Nga Hoàng Nicholas II đặt ra lần đầu vào năm 1914, sau đó được sử dụng rộng rãi từ năm 1954 cho đến ngày nay).

    Các kỳ thủ Liên Xô được chính phủ trợ cấp, và nhiều người còn được cấp nhà để họ có thể nghiên cứu và tập luyện cho các giải đấu. Những đại kiện tướng trong xã hội Liên Xô có uy thế ngang với một ngôi sao điện ảnh hay một vận động viên Olympic đương thời ở Mỹ. Khi Mikhail Botvinnik, đương kim vô địch thế giới, bước vào nhà hát Opera Bolshoi, ông liền được mọi người đứng cả dậy tung hô. Giữa thập niên 50, Liên Đoàn Cờ Vua Liên Xô có 4 triệu thành viên, và việc chơi cờ không chỉ được yêu cầu trong các trường tiểu học, mà còn là hoạt động bắt buộc sau giờ học. Những cậu bé bộc lộ tài năng về cờ sẽ được huấn luyện đặc biệt, thường là một kèm một với các đại kiện tướng, nhằm chuẩn bị lực lượng kế thừa sau này. Một giải đấu ở Liên Xô có thể đăng ký hơn 700,000 người. Ở Liên Xô, việc chơi cờ được cân nhắc hơn cả một chính sách quốc gia. Nó đã ăn sâu vào văn hóa, và dường như tất cả mọi người - nam, nữ, trẻ em, nông dân, công chức hay bác sĩ - đều chơi cờ. Trận đấu sắp đến giữa Liên Xô và Mỹ còn bao trùm một màu sắc chính trị khi đang diễn ra cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa 2 nước.

    Trong khi đó, Liên Đoàn Cờ Vua Mỹ chỉ có 3000 thành viên, không có chương trình quốc gia nào để hỗ trợ cho các kỳ thủ cũng như tập luyện cho các trẻ em có năng khiếu, và họ chỉ có duy nhất một đại kiện tướng là Samuel Reshevsky. Vì vậy có thể nói, trận đấu sắp tới giữa hai nước cũng giống như cuộc chiến không cân sức giữa một bên là đội tuyển bóng chuyền toàn sao, với một bên là đội tuyển bóng chuyền của trường đại học. Dĩ nhiên luôn có khả năng chiến thắng cho đội trường đại học, nhưng theo thống kê cho thấy thì cơ hội của họ còn nhỏ hơn 1 phần ngàn.

    Thứ tư, ngày 16 tháng 6, Bobby, mặc một chiếc áo sơ mi polo ngắn tay, đến khách sạn Roosevelt cùng với Nigro để chứng kiến trận đấu lịch sử. Đó là lần đầu tiên cậu bước vào một khách sạn. Cậu nhìn lơ đãng vào chiếc đồng hồ lớn treo đầu cầu thang, sau đó nhận ra những gương mặt quen thuộc đang có mặt trên sân khấu. Vài người đến từ câu lạc bộ cờ Brooklyn, một số khác đến từ Washington Square Park (nơi Bobby thi đấu với các kỳ thủ công viên). Cậu nghiêm chỉnh kiếm chỗ ngồi trong khán phòng, rồi nhìn lên sâu khấu "với cặp mắt mở to ngạc nhiên", Nigro nhớ lại.

    Trên sân khấu, trước tấm màn nhung có hai lá cờ: một lá cờ sọc với những ngôi sao không thể nhầm lẫn của Mỹ, còn bên cạnh là lá cờ búa liềm trên nền đỏ thẫm của Liên Xô. Dưới hai lá cờ là 8 bàn cờ đã chuẩn bị sẵn cho các kỳ thủ. Có 1100 khán giả trong phòng, nhiều hơn bất cứ sự kiện về cờ nào trước đây ở Mỹ.

    Và sau đó các kỳ thủ tập trung trên sân khấu, chỉ chờ hiệu lệnh của trọng tài để bắt đầu trận đấu. Trông các kỳ thủ Liên Xô rất thoải mái. Kỳ thủ David Bronstein của Liên Xô nhờ mang đến một ly chanh ép - không, không phải nước chanh (lemonade), mà là một ly chanh ép (lemon juice), ông ấy yêu cầu. Ngược lại các kỳ thủ Mỹ lại tỏ ra căng thẳng và lo lắng. Donald Byrne, nhà vô địch giải Mỹ mở rộng, nói rằng ông rất hồi hộp, vì vậy đã dành cả ngày trước trận đấu để đọc văn chương lãng mạn của Nathaniel Hawthorne, và cố gắng không nghĩ gì đến cờ.

    Cuối cùng, sau vài phát biểu về những đóng góp của cờ vua Liên Xô và Mỹ, trận đấu được tiến hành. Liệu Bobby 11 tuổi có hiểu hết ý nghĩa chính trị của trận đấu hay không? Liệu cậu có cảm thấy dâng trào lòng yêu nước để cổ vũ cho những người đồng bào của mình chiến thắng hay không? Liệu cậu có muốn - mơ ước - một ngày nào đó mình cũng được ngồi trên sân khấu như vậy và thi đấu với những kỳ thủ giỏi nhất thế giới hay không? Cậu không nói gì trong suốt trận đấu, nhưng có lẽ cậu sẽ trả lời có ở câu hỏi sau cùng.

    Bên cạnh trận đấu trên sân khấu mà cậu theo dõi rất chăm chú, Bobby còn chú ý đến những thứ khác: các kỳ thủ tập trung ở khắp các hành lang và các phòng của khách sạn để thảo luận và phân tích các ván cờ, sách cờ và các bàn cờ xách tay đều được chuẩn bị sẵn. Họ chỉ rời đi chốc lát để mua thức ăn tại một quầy nhỏ ở tiền sảnh. Khi Bobby nhìn thấy Reuben Fine - từng là một trong những kỳ thủ mạnh nhất thế giới - trên hàng ghế khán giả, cậu rất phấn khích, vì những quyển sách cờ của Fine đã trở thành kinh thánh của Bobby. Tiến sĩ Fine không thi đấu cho đội tuyển Mỹ vì ông đã giải nghệ vào năm 1948, nhưng vẫn còn đó trên sân khấu Max Pavey - vị bác sĩ mà Bobby đã từng gặp trong trận đấu đồng loạt 3 năm trước - đang sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc mình.

    [​IMG]
    Kỳ thủ Reuben Fine

    Khi Nigro giới thiệu Bobby với cây bút Murray Shumach của tờ The New York Times, cậu bé tỏ ra ngượng nghịu và chỉ cúi nhìn giày của mình. Allen Kaufman, một kiện tướng cờ, người cũng gặp Bobby lần đầu tiên vào ngày hôm đó, hồi tưởng lại sau hơn nửa thế kỷ: "Đó là một cậu bé dễ thương, hơi rụt rè, và tôi không hề có một ý niệm nào về việc mình đang nói chuyện với nhà vô địch thế giới tương lai".

    Những ván cờ càng lúc càng trở nên phức tạp, các khán giả cũng lấy bàn cờ bỏ túi ra ngồi thì thầm bàn tán những thiên biến vạn hóa đang diễn ra trên sân khấu. Khi có một đòn phối hợp phức tạp được trình diễn, hoặc khi kỳ thủ Mỹ Samuel Reshevsky mất đến 1 tiếng 10 phút suy nghĩ mới đi quân, 2200 cặp lông mày cùng đồng thời nhướn lên. Nếu khán phòng quá ồn ào, trọng tài Hans Kmoch liền ném ra một cái nhìn giận dữ và nghiêm khắc nói bằng giọng Hà Lan: "Xin giữ yên lặng!".

    Bobby cẩn thận ghi chép lại kết quả của từng ván đấu. Thua 0 điểm, thắng 1 điểm, hòa 0,5 điểm. Cậu theo dõi cả 4 vòng đấu, không hề biết rằng chỉ một vài năm nữa thôi chính cậu sẽ đại diện cho nước Mỹ tranh tài với các kỳ thủ giỏi nhất của Liên Xô cùng anh hào khắp năm châu trong những trận cờ đỉnh cao.

    Bobby thích không khí phân tích sôi nổi trong phòng. Các kỳ thủ hàng đầu thảo luận, phân tích mọi ván cờ, từng nước một. Cậu không đủ tự tin để đóng góp ý kiến, nhưng cũng cảm thấy hài lòng khi mình có thể đoán trước một vài nước đi và hiểu được tại sao họ chơi như vậy.

    Cuối cùng, sau 4 ngày thi đấu, đội Mỹ đã phải hứng chịu một thất bại ê chề trước Liên Xô: 12-20. Ở vòng đấu cuối cùng, những tràng vỗ tay của khán giả Mỹ rất chân thành và đầy tôn trọng, nhưng bên trong là tiếng khóc đau thương của nhiều kỳ thủ. Với trái tim nặng trĩu, Nigro và Bobby quay trở lại Brooklyn. Nếu Bobby thu lượm được gì từ trận đấu này, thì đó chính là sự nhận biết về sức mạnh của các kỳ thủ Liên Xô: họ là những kỳ thủ giỏi nhất thế giới. Ý chí của cậu sục sôi vì điều đó.

    Vào năm sau - tháng 7 năm 1955, trong trận tái đấu tại Moscow, đội tuyển Mỹ lại thua, lần này tỉ số còn đậm đà và nhục nhã hơn: 25-7. Những dòng tít chạy khắp các tờ báo, và bức ảnh của các kỳ thủ Mỹ choáng ngợp ngay trang đầu của tờ The New York Times, cũng như nhiều tờ báo trên khắp thế giới.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  5. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Những trận cờ ở công viên ngày đó thường không sử dụng đồng hồ, nhưng có một hình thức cờ nhanh khá phổ biến gọi là "blitz" - một từ tiếng Đức có nghĩa là "lightning" (chớp) trong tiếng Anh. Trong cách chơi này, người chơi phải đi liền lập tức ngay sau khi đối thủ của anh ta đi xong. Nếu anh ta không chịu đáp trả sau một vài giây, đối thủ - hoặc một người được chỉ định canh giờ - sẽ hô to "Đi!". Nếu anh ta vẫn không chịu nhấc quân thì sẽ bị xử thua ván đó. Những tiếng hô "Đi!" liên tục được nghe thấy trong công viên. Nigro yêu cầu Bobby chơi loại cờ này, và dù chơi không thực giỏi, nhưng nó cũng rèn luyện cho cậu khả năng đánh giá nhanh thế trận và tin tưởng vào bản năng chơi cờ của mình.

    Trong khi Bobby thi đấu, Nigro thường dành vài phút đến cửa hàng gần đó để mua về hamburger, thịt chiên Pháp, và sô cô la sữa cho Bobby. Cậu thường ăn một cách vô thức, với đôi mắt luôn dán chặt vào bàn cờ. Một lần, sau khi ăn trưa xong đã được 30 phút, Bobby, không nhận ra rằng mình đã ăn rồi, thì thầm hỏi Nigro: "Thầy Nigro, khi nào thì có đồ ăn?".

    Giải đấu tại Washington Square năm 1955 bao gồm 66 kỳ thủ ở mọi trình độ. Vì phí tham dự chỉ có 10 cent (1 cent bằng 1/100 đô la, tổng cộng thu được 6,6 đô la và số tiền này được hiến tặng cho Hội Chữ Thập Đỏ của Mỹ), nên ai cũng có thể tham dự. Có những người chỉ mới biết đi quân, có nhiều kỳ thủ đến từ các câu lạc bộ cờ, và một vài kiện tướng. Do tập trung thi đấu nên Bobby không hề chú ý rằng có cả một vài kỳ thủ của đội tuyển Mỹ đang trên đường đi Moscow cho trận tái đấu Liên Xô - Mỹ đã dừng lại để xem, vài người trong số họ thậm chí còn theo dõi ván đấu của Bobby.

    Bobby thắng liên tiếp trước các đối thủ yếu, nhưng khi càng leo lên cao, gặp phải những đối thủ "cứng cựa" hơn thì cậu bắt đầu thua. Harry Fajans, một kiện tướng cao, gầy, với dáng điệu nghèo nàn, một thành viên của câu lạc bộ cờ Marshall, nhớ lại rằng khi ông đánh bại Bobby thì cậu bé bắt đầu khóc. Khi được hỏi về sự việc này những năm sau, Bobby cực kỳ tức giận và kiên quyết phủ nhận.

    Bobby kết thúc giải ở vị trí thứ 15, và được tặng thưởng một cây bút bi, có lẽ vì cậu nhỏ tuổi nhất giải. Bobby kể lại: "Tôi cảm thấy buồn khi nhận cây bút, vì nó trông giống như cây bút mà tôi vẫn thường mua với giá 1/4 hay 1/2 đô la. Nhưng vài tuần sau, khi đi cùng mẹ qua một cửa hàng thuốc, mẹ chỉ cho tôi một cây bút giống hệt được bán giảm giá treo trên cửa sổ. Bảng giá của nó ghi 10 đô la. Và tôi cảm thấy vui hơn".

    Đây cũng là lần đầu tiên Bobby được lên báo khi tờ The New York Times đăng một bản tin nhỏ về giải đấu này với dòng tít: "Eastman thắng giải Washington Square - Cậu bé 12 tuổi nằm trong tốp đầu".

    Mặc dù Charles Eastman vô địch giải đấu, nhưng Bobby lại được viết nhiều nhất: "Nhiều người trong số 400 khán giả cho rằng màn trình diễn tuyệt vời nhất thuộc về Bobby Fischer. Dù phải thi đấu với những đối thủ dày dạn kinh nghiệm hơn nhưng cậu vẫn bất bại cho đến hôm qua, và nằm trong tốp 15 người cao điểm nhất".
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  6. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Mùa hè năm 1955, cơ duyên đã đưa đẩy Bobby gặp gỡ Walter Shipman, một trong những người điều hành câu lạc bộ cờ Manhattan. Shipman nhanh chóng nhận ra tiềm năng của Bobby. Ông hăng hái chơi với cậu một loạt ván cờ blitz, và Bobby thắng khoảng 1/3 trong số đó. Shipman nhớ lại: "Tôi quá ấn tượng với lối chơi của cậu bé 12 tuổi này và đã giới thiệu cậu với Maurice Kasper, vị chủ tịch của câu lạc bộ, và Bobby nhanh chóng được nhận vào - miễn phí thành viên". Bobby trở thành thành viên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử câu lạc bộ, và Kasper nói cậu có thể đến đây bất cứ ngày nào cậu muốn. Bobby cười rất tươi. Cậu giống như một đứa trẻ được cho ăn miễn phí trong cửa hàng kẹo.

    Câu lạc bộ cờ Manhattan là câu lạc bộ cờ mạnh nhất và lâu đời thứ hai của Mỹ. Những kỳ thủ vĩ đại mà nước Mỹ sản sinh ra đều đã từng chơi tại đây. Những người mê cờ từ khắp các thành phố của Mỹ và thậm chí từ cả các nước khác, nghe đến bề dày lịch sử của câu lạc bộ cũng khăn gói đến New York để trở thành thành viên của Manhattan, nhằm cải thiện kỹ năng chơi cờ của mình và có cơ hội được đọ sức với các tay cờ lừng lẫy. Câu lạc bộ là nơi đã tổ chức hai trận đấu tranh chức vô địch thế giới (Steinizt - Zukertort năm 1886 và Steinizt - Gunsberg năm 1890-1891) và đăng cai giải vô địch Mỹ hàng năm kể từ những năm 1930. Nhiều thành viên trong câu lạc bộ là người Do Thái. Có hơn 1 triệu người Do Thái sống ở New York vào thời đó, chủ yếu là người nhập cư, và nhiều người trong số họ đến New York là vì tình yêu cờ nồng cháy. Năm 1974, Anthony Saidy đã viết trong quyển The World of Chess rằng "có lẽ một nửa trong số những tay cờ vĩ đại nhất trong vòng 100 năm qua là người Do Thái". Khi được hỏi mình có phải là người Do Thái hay không, Bobby trả lời, "Một phần. Mẹ tôi là người Do Thái".

    Câu lạc bộ cờ Manhattan được chia làm 4 nhóm, dựa vào sức cờ của mỗi thành viên. Nhóm mạnh nhất là nhóm "A" - bao gồm các kiện tướng (master) và chuyên gia (expert); tiếp đến là nhóm "Dự bị A" - gồm các kỳ thủ mạnh (strong player), sau đó đến nhóm "B" và cuối cùng là nhóm "C" - gồm những kỳ thủ yếu nhất. Trong vài tuần đầu, Bobby được xếp vào nhóm C và thắng dễ dàng. Sau đó cậu được thăng hạng lên nhóm B, thắng tiếp và tiếp tục được đưa lên nhóm Dự bị A. Cuối cùng, chưa đầy 1 năm, cậu đã leo lên đứng đầu nhóm Dự bị A.

    [​IMG]
    Câu lạc bộ cờ Manhattan

    Bobby đến câu lạc bộ mỗi ngày, ở đó từ đầu giờ chiều cho đến tận đêm khuya. Regina muốn cậu đi trại hè như trước đây nhưng cậu không chịu nghe. Với Bobby, Manhattan là cõi niết bàn, và dù cậu chưa có định hướng gì cho sự nghiệp cờ của mình sau này, nhưng cậu thích cái cảm giác chiến thắng và muốn được chơi cờ suốt ngày. Câu lạc bộ cờ Brooklyn chỉ cho Bobby đến vào tối thứ 3 và thứ 6, và mỗi lần cũng chỉ được 4 tiếng. Còn tại Manhattan, cậu có thể chơi 12 giờ một ngày, cả 7 ngày trong tuần.

    Trong suốt mùa hè và một vài năm sau, Bobby bắt đầu kết bạn tại câu lạc bộ. Đầu tiên cậu chỉ làm quen với những kỳ thủ lớn tuổi - nhưng có lẽ vì bây giờ Bobby đã là một thành viên, hoặc vì sự thay đổi chính sách của câu lạc bộ, nên những kỳ thủ triển vọng cỡ tuổi Bobby hoặc lớn hơn một chút đều được phép gia nhập, và do đó những đứa trẻ có thể kết bạn với nhau. William Lombardy, vô địch giải trẻ thế giới, đầu quân cho câu lạc bộ với tư cách một đại kiện tướng, nhiều hơn Bobby 6 tuổi và lúc đầu liên tục đánh thắng Bobby. Đó là một con người cực kỳ thông minh sở hữu lối chơi thế trận tuyệt diệu. Bernard Zuckerman, chăm chỉ ngang ngửa với Bobby trong việc phân tích các ván cờ, đặc biệt là chiến lược trong các nước đi khai cuộc, sinh sau Bobby 22 ngày và sau này trở thành một kiện tướng quốc tế. Ngoài ra còn có thể kể đến những tài năng cờ khác của Mỹ như Asa Hoffmann, Jackie Beers, James Gore... Dù sau này tất cả đều bị Bobby qua mặt, nhưng họ đã giúp mài giũa cho lối đánh của Bobby trở nên sắc bén hơn.

    Bobby chơi hàng trăm ván cờ nhanh với những người bạn của mình. Cậu muốn gì họ cũng chiều ý cậu, cậu đi đâu họ đi đó. "Thêm ván nữa nào", Bobby nói háo hức, xếp lại quân, và không ai từ chối cậu. Tiến sĩ Stuart Margulies, một kiện tướng, hơn Bobby vài tuổi, hồi tưởng lại: "Tôi thích chơi với Bobby, và chỉ thích như thế!". Chơi cờ với Bobby cũng giống như được đọc một bài thơ của Robert Frost hay tắm nước nóng. Bạn cảm thấy thoải mái hơn sau khi làm việc đó. Có lẽ bạn học được một điều gì đó. Các kỳ thủ thường mỉm cười khi đầu hàng Bobby, thể hiện sự ngưỡng mộ của họ với tài năng lỗi lạc của Bobby.

    Chỉ sau vài tháng, Bobby, cùng với Lombardy và Gore, thống trị hoàn toàn các giải cờ nhanh tổ chức tại câu lạc bộ, chỉ giới hạn cho các kỳ thủ suy nghĩ mỗi nước trong 10 giây. Harold M. Philips, một kiện tướng 80 tuổi, nhìn phong cách chơi của Bobby mà liên tưởng đến Capablanca, bâng khuâng nhớ lại cái ngày xa xưa của năm 1905, khi nhà vô địch thế giới vĩ đại người Cuba, lúc đó mới 17 tuổi, đến thăm nơi này.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  7. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Tháng 3 năm 1956, Bobby cùng câu lạc bộ cờ Log Cabin ở Orange, New Jersey tham gia một tour đấu tại Cuba. Tại đây cậu đã biểu diễn một trận cờ đồng loạt trên 12 bàn với kết quả thắng 10 và hòa 2. Sau đó cậu cùng câu lạc bộ của mình thi đấu một loạt trận với các câu lạc bộ khác. Cậu chơi tại bàn số 2, sau bàn của kiện tướng Norman Whitaker. Cả cậu và Whitaker đều đạt điểm số rất cao với 5,5 điểm trên 7 ván.

    [​IMG]
    Một trận đấu đồng loạt của cậu bé Bobby Fischer

    Năm 1956 cũng là năm mà Nigro chuyển đến sống tại Florida, và Bobby không bao giờ còn gặp lại ông nữa. Tuy nhiên, may mắn đã mỉm cười với Bobby khi tháng 6 năm đó cậu được gặp gỡ và thọ giáo Jack Collins, một huấn luyện viên cờ vua tuyệt vời, sống cùng người chị gái tại Ethel ở Brooklyn, và có một salon cờ tại căn hộ của mình gọi là câu lạc bộ cờ Hawthorne. Salon này mở cửa thoải mái và miễn phí cho bất cứ ai muốn đến chơi hay nghiên cứu các ván cờ với ông, dù vậy ông vẫn thu tiền nếu có giảng dạy riêng một bài học nào đó. Ông là một con người tốt bụng, hoàn toàn tự học và cực kỳ hài hước. Một số kỳ thủ hàng đầu của Mỹ đã từng là học trò của ông như Robert Byrne, Donald Byrne, và cả William Lombardy. Nơi ở của Collins chất đầy những sách cờ. Ngay lần gặp đầu tiên tại nhà Collins, Bobby đã khiến cho ông phải sửng sốt. Collins bày ra một thế cờ trên bàn, đó là một thế cờ khó, và ông đã ngồi phân tích suốt nửa giờ đồng hồ. Ông gật đầu và hỏi Bobby: "Cậu nghĩ sao về thế cờ này hả Bobby?".

    Bobby liền lao vào suy nghĩ. Chỉ trong vài giây cậu đã nhìn ra được một đòn phối hợp và đưa đến giành chiến thắng trong tàn cuộc. Cậu nghĩ đến đâu tay nhấc quân đi đến đó. "Cậu ấy đã tìm ra những khả năng tiềm ẩn mà tôi không hề nhìn thấy", Collins kể lại, "Tôi ấn tượng rất sâu sắc. Dĩ nhiên là tôi đã được nghe về tài năng khác thường của cậu bé, nhưng đây là lần đầu tiên tôi nhận ra cậu ấy là một thần đồng thực sự và có thể sẽ trở thành một trong những kỳ thủ vĩ đại nhất mọi thời đại".

    Bobby nhanh chóng trở thành khách quen tại salon cờ của Collins. Nơi đây cách không xa Erasmus Hall High School, ngôi trường mới của Bobby (cậu đã tốt nghiệp Community Woodward sau 4 năm học). Bobby và Collins chơi hàng ngàn ván cờ - chủ yếu là cờ nhanh, phân tích hàng trăm thế trận, và giải hàng chục ván cờ thế. Bobby cũng thường xuyên mượn sách trong thư viện của Collins. Căn hộ của Collins đã trở thành ngôi nhà mới của Bobby, và cậu được Collins xem như một thành viên trong gia đình.

    Collins là một trong những kỳ thủ giỏi nhất của Mỹ, và đã từng đứng trong top 50; còn Nigro thì chưa bao giờ đạt được thành tích đó. Bobby nói cậu luôn cảm thấy Nigro giống một người bạn hơn một người thầy, nhưng ông ấy là một người thầy rất xuất sắc. Nigro là một thầy giáo chuyên nghiệp và khá hình thức trong cách giảng dạy; trong khi Collins thường xếp một thế cờ và yêu cầu học trò nêu ý kiến, ông hướng dẫn cho học trò mình cách suy nghĩ. Cách dạy của ông không phải là: "Cậu phải ghi nhớ phương án này là phòng thủ King’s Indian, mạnh hơn nhiều so với những khai cuộc mà cậu đã chơi" - thay vào đó, ông tin vào cái gọi là "mưa dầm thấm lâu". Ông làm như thế với Bobby hàng trăm lần. Cả Nigro và Collins đều giống như những người cha của Bobby, có điều mối quan hệ của Bobby với Collins kéo dài suốt 15 năm; còn Nigro, dù thừa nhận có ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời của Bobby, nhưng chỉ kéo dài 5 năm.

    Kiện tướng quốc tế James T. Sherwin, một người New York biết rõ cả Fischer và Collins, đã nói như thế này khi nghe Bobby phủ nhận về những ảnh hưởng của Collins đối với Bobby: "Tôi nghĩ thái độ đó hơi xấc xược, và phải nói là tự cao. Bobby đã học nhiều thứ từ Collins. Chẳng hạn, Jack luôn chơi phòng thủ Sicilian, và sau này Bobby bắt đầu tập chơi phòng thủ đó. Tôi nghĩ Bobby tự cho rằng 'Tôi là người giỏi nhất. Không ai dạy tôi thứ gì hết và tôi nhận được món quà đó từ Chúa'. Tôi nghĩ Jack đã giúp đỡ Bobby về mặt tâm lý, rèn luyện tinh thần chiến đấu và luôn khát khao chiến thắng".

    Collins cũng chú ý đến điều mà Nigro đã thấy từ năm trước: Bobby có thói quen chần chừ trong mỗi ván cờ, đi quân chậm chạp, mất khá nhiều thời gian cho một nước đi. Để giúp Bobby, Collins mua một chiếc đồng hồ đặc biệt từ Đức có thể hẹn giờ 10 giây, và yêu cầu Bobby tập luyện với nó để cải thiện tốc độ suy nghĩ.

    Về phần mình, Collins nói rằng ông chưa bao giờ "dạy" Bobby một cách nghiêm túc nhất. Collins nói tài năng của Bobby là do Chúa ban cho, bẩm sinh, và mọi điều mà Collins có thể làm là giống như một người dẫn đường, khuyến khích, ủng hộ và nuôi dưỡng thiên tài của cậu bé. Ông cũng là một người bạn trung thành của Bobby.

    [​IMG]
    Bobby Fischer và Jack Collins
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  8. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Khi Bobby 13 tuổi, cậu cảm thấy rằng mình đã lớn và phải có trách nhiệm với bản thân, vận mệnh của cậu phải do chính cậu định đoạt chứ không phải ai khác.

    Thành công thực sự đầu tiên của Bobby chính là giành chức vô địch giải trẻ Mỹ vào tháng 7 năm 1956, tổ chức tại câu lạc bộ cờ Franklin Mercantile ở Philadelphia. Chỉ mới 4 tháng trôi qua kể từ lần sinh nhật thứ 13, Bobby đã trở thành nhà vô địch trẻ nhất trong lịch sử giải trẻ của Mỹ, và là một trong những kỳ thủ trẻ mạnh nhất nước.

    Có nhiều yếu tố góp phần tạo nên sự tiến bộ chóng mặt của Bobby: được gặp gỡ Jack Collins và chơi vô số các ván cờ với ông cũng như các "đệ tử" khác của ông, hầu như tất cả các kiện tướng đều đến salon của Collins trong suốt mùa hè; được gia nhập câu lạc bộ cờ Manhattan và tranh tài với các thành viên của câu lạc bộ; kiến thức được tăng lên từng ngày nhờ siêng năng nghiên cứu các sách cờ và tạp chí cờ...

    Chỉ 2 tuần sau, giải vô địch Mỹ mở rộng được tổ chức tại thành phố Oklahoma. Giải này có nhiều đối thủ hơn, bao gồm vài kỳ thủ giỏi nhất đến từ Mỹ và Canada. Mặc dù Bobby không có hy vọng vô địch, nhưng cậu hăng hái tham dự vì muốn tiếp tục chuỗi trận thắng của mình, và biết rằng đây là cơ hội tốt để đọ sức với những tay cờ mạnh hơn. Regina ngăn cản. Bà sợ cậu con trai kiệt sức khi phải thi đấu ba giải chỉ trong vòng 2 tháng. Bà không thể dành thời gian để đưa cậu đến Oklahoma, và bà lo lắng nếu cậu phải đi một mình.

    Bobby rất kiên quyết. Cậu cự lại, nếu cậu có thể đi một mình đến Nebraska (trước đây Bobby từng tham dự một giải tại Nebraska), thì tại sao lại không thể đến Oklahoma? Thế là Regina phải miễn cưỡng đồng ý. Nhưng việc kiếm đủ tiền để làm phí tổn cho chuyến đi của cậu luôn là một vấn đề. Bà thuyết phục chủ tịch Maurice Kasper của câu lạc bộ cờ Manhattan cho bà 125 USD làm lộ phí cho Bobby (tiền xe là 93,50 USD), sau đó bà liên hệ với ban tổ chức sắp xếp cho Bobby ở nhà một ai đó để tiết kiệm tiền khách sạn. Vợ của một kỳ thủ đồng ý chăm sóc cho Bobby và lo các bữa ăn cho cậu. Trước khi đi, để có thêm tiền, Bobby chơi một trận đấu đồng loạt trên 21 bàn, thắng 19, hòa 1, thua 1, kiếm được 19 USD. Có khoảng 100 khán giả theo dõi cuộc đấu này của cậu.

    Giải Oklahoma chính là giải đấu mạnh nhất mà Bobby từng tham dự cho đến lúc này. Địa điểm thi đấu là khách sạn Biltmore ở Oklahoma. Bobby, với độ tuổi của mình (trông cậu chỉ khoảng 9, 10 tuổi), trở thành một hiện tượng mới mẻ của giải. Cậu được phỏng vấn hai lần trên kênh truyền hình địa phương, được đề cập trên các tờ báo, tạp chí Oklahoman và luôn thu hút đám đông vây quanh bàn của cậu. Cánh phóng viên luôn sẵn sàng máy ảnh trong tay để chụp hình cậu.

    102 kỳ thủ tranh tài trong 12 vòng đấu, kéo dài trong 2 tuần. Bobby hòa với vài kiện tướng, đánh bại vài chuyên gia (những kỳ thủ xếp hạng thấp hơn kiện tướng), cậu chơi rất quyết tâm, và kết thúc giải mà không thua ván nào - một kỷ lục với một kỳ thủ 13 tuổi ở giải này. Cậu đồng hạng 4-8, chỉ kém 1 điểm so với nhà vô địch Arthur Bisguier, một bạn cờ tại câu lạc bộ Manhattan. Hệ số chính thức của cậu trong Liên Đoàn Cờ Vua Mỹ sau giải này là rất cao - 2375 - xác nhận cậu đã đủ tiêu chuẩn kiện tướng và xếp hạng thứ 21 trong nước. Không có ai ở Mỹ, hoặc trên thế giới, mà tiến bộ nhanh đến như vậy.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  9. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Cuối tháng 8 năm 1956, Bobby tham gia giải Canada mở rộng tổ chức tại Montreal với rất nhiều những tay cờ mạnh tham dự. Một lần nữa Regina lại sắp xếp để gửi Bobby ở nhờ trong khi giải diễn ra. Ở vòng 4, Bobby có một cuộc chạy marathon trong 108 nước, kéo dài suốt 7 giờ đồng hồ (là ván cờ dài nhất trong sự nghiệp của Bobby) với kỳ thủ Hans Matthai, một người Đức nhập cư vào Canada. Ván cờ thú vị này kết thúc hòa.

    Sau khi ván cờ hòa, Bobby tự hỏi liệu cậu có bỏ sót khả năng nào trong ván đó hay không. Dường như có một điều gì đó trong ván cờ này, một ý tưởng vang vọng từ xa mà có thể nghe thấy. Có phải cậu đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng hay không?

    Tối hôm đó, trong giấc ngủ sâu nhưng vẫn còn thao thức, một giấc mơ chợt đến với cậu, và ván cờ cứ tái hiện mãi, hiện mãi - có lẽ đến hàng trăm lần. Ngay trước khi tỉnh giấc, giải pháp đã đến với Bobby. Nước cờ chiến thắng đã hiện ra.

    Bobby ngồi thẳng dậy: "Tôi tìm ra rồi !", cậu nói to, không cần biết có ai đó đang ở trong phòng hay không. Bà Hornung khẽ đi đến phòng ngủ của Bobby để gọi cậu dậy ăn sáng. Bà thấy cậu trên mình vẫn đang mặc bộ pijamas, nhảy xuống giường với đôi chân trần và lao thẳng đến phòng khách, nơi đã để sẵn một bộ cờ và bắt đầu nghiên cứu lại thế tàn cuộc ngày hôm qua. "Tôi biết tôi có thể thắng mà !", cậu reo lên.

    Hiện tượng này cũng không có gì lạ. Một vài kỳ thủ đã từng mơ về ván cờ của họ vào ban đêm, nhớ lại những cái bẫy trong khai cuộc, tàn cuộc mà họ đã chơi, và sáng hôm sau thức dậy với những ý tưởng mới lạ và độc đáo. Cựu vô địch thế giới Boris Spassky từng nói có lần ông mơ về ván cờ của mình trong giấc mơ, và David Bronstein, từng tranh ngôi vô địch thế giới với Mikhail Botvinnik năm 1951, nói về việc ông chơi toàn bộ những ván cờ trong giấc mơ của mình - mà ông có thể tái hiện lại vào ngay sáng hôm sau. Botvinnik cũng nói trong trận tranh chức vô địch thế giới với Vassily Smyslov, vào một đêm ông thức dậy, bước đến bàn cờ trong trang phục Adams, và chơi nước cờ mà ông đang mơ trong ván cờ tạm hoãn với đối thủ.

    Ở vòng cuối Bobby hòa với Frank Anderson, nhà vô địch Canada - một người có tật cắn móng tay, và cậu đạt được tổng điểm 7/10, đồng hạng 8-12, còn chức vô địch thuộc về Larry Evans. Biết Evans có xe hơi và chuẩn bị lái xe về New York, Bobby xin đi nhờ xe. Cậu không hề chú ý gì đến cảnh đẹp bên đường cũng như người vợ rất xinh đẹp của Evans ngồi ở băng ghế sau (cô cho Bobby ngồi đằng trước). Thay vào đó, trong suốt chuyến đi dài 8 giờ đồng hồ, Bobby chỉ hỏi dồn nhà vô địch những câu hỏi: "Liệu Sherwin có cơ hội thắng hay hòa trước anh không? Bằng cách nào?" "Mednis không thắng được anh sao? Sao anh ta lại chấp nhận hòa? Có lẽ vì anh ta bị thiếu thời gian". Evans nhớ lại, "Tôi không hề nghĩ rằng mình đang nói chuyện với nhà vô địch thế giới tương lai, chỉ thấy đó là một kiện tướng còn rất trẻ và rất sôi nổi. Cuộc trò chuyện đó cũng là khởi đầu của một tình bạn lâu dài".

    [​IMG]
    Kỳ thủ Larry Evans

    Bobby cảm thấy mình lớn dần. Cậu đã 13 tuổi, nếu cậu có thể đánh bại những người lớn trong môn cờ, thì tại sao cậu lại không được đối xử như một người trưởng thành? Cậu yêu cầu mẹ không đến đón cậu tại câu lạc bộ vào ban đêm nữa. Điều đó làm cậu khó chịu. "Được thôi", Regina nói, "Mẹ sẽ không đến đón nữa, con có thể tự về một mình, nhưng với hai điều kiện: Con phải về nhà trước 10 giờ đêm vào những ngày đi học, và không quá nửa đêm vào ngày cuối tuần, đồng thời phải học võ để biết cách tự vệ". Bobby miễn cưỡng đồng ý. Nhưng thực tế thì cậu không phải đi học võ, vì 1 giờ học mất ít nhất 8 USD, mà Regina thì không đủ khả năng chi trả số tiền đó. Còn lại những điều kiện khác thì vẫn được thực hiện nghiêm chỉnh.

    Trong những tuần đầu tiên ở trường cấp ba, ngay sau khi Bobby trở về từ giải Montreal, cậu không tham gia học các lớp tiếng Tây Ban Nha ở trường, và bây giờ cậu phải đối mặt với bài thi đầu tiên gồm 10 câu. Dù biết một ít tiếng Tây Ban Nha "bồi" (nhờ lần trước thi đấu tại Cuba, một nước nói tiếng Tây Ban Nha), nhưng cậu không thể dịch hay trả lời các câu hỏi kiểu như: "Trạm xe lửa ở đâu?" hay "Trái chuối này giá bao nhiêu?", vì vậy cậu chỉ trả lời được 6 câu hỏi - mà tất cả đều sai bét, còn lại để trống không trả lời.

    Trong gia đình Fischer, việc thi rớt ngoại ngữ có thể nói là một sự vi phạm nghiêm trọng. Ngay từ khi còn học đại học, Regina đã nói rất giỏi các tiếng Latin, Hebrew (tiếng Do Thái cổ), tiếng Nga, Đức, Pháp, Tây Ban Nha. Bà có thể nói trôi chảy với ngữ điệu của những ngôn ngữ này. Sau này bà còn tiếp tục tham gia các khóa học ngoại ngữ để nâng cao kỹ năng của mình. Joan cũng rất thông thạo tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức. "Siêng năng nhỉ !", bà hét lên với Bobby, với hàm ý rằng nếu cậu chỉ cần dành một phần nhỏ thời gian cậu dành cho cờ để học hành, thì chắc chắn cậu sẽ là một học sinh xuất sắc. Bà tiếp tục nhấn mạnh cho cậu sự quan trọng của việc biết nhiều ngôn ngữ, đặc biệt nếu cậu có ý định chơi cờ ở nước ngoài. Bobby hiểu ra. Để giúp con trai, bà bắt đầu dạy cậu tiếng Tây Ban Nha, khuyên cậu làm bài tập, hướng dẫn cậu, và chỉ trong một thời gian ngắn trình độ của cậu đã được cải thiện. Cuối cùng, cậu có thể nói trôi chảy tiếng Tây Ban Nha.

    Erasmus Hall High School ở Brooklyn là ngôi trường lớn nhất New York với hơn 5000 học sinh. Vào trường mùa thu năm 1956, Bobby cảm thấy thoải mái ở đây, dù có phần ít hơn nhiều so với ở Community Woodward. Ở trường không ai biết chơi cờ nên họ không để ý đến cậu. Một số khác có nhận ra thần đồng Bobby Fischer mình từng đọc trên báo, nhưng như cậu nói "Tôi không quấy rầy họ và họ cũng không quấy rầy tôi". Cậu dường như không biết Barbra Streisand, ca sĩ tương lai (rất nổi tiếng với ca khúc Woman in love), lúc đó còn là một nữ sinh đã thầm để ý đến cậu. Bà nhớ lại rằng "Bobby luôn luôn ở một mình và rất khác thường. Nhưng tôi lại thấy cậu ấy rất gợi cảm (very sexy)". Còn trí nhớ của Bobby về Streisand thì sao? "Có một cô gái nhỏ rụt rè...". Giáo viên của cậu, ít nhất cũng cảm thấy bực mình vì thái độ tách biệt và không hứng thú với các bài học của Bobby.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  10. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Tháng 10 năm 1956

    Trên con đường đầy lá rụng, Bobby Fischer đang lao nhanh đến câu lạc bộ cờ Marshall. Đây là nơi mà Frank J. Marshall - vô địch Mỹ 27 năm liền, sinh sống cùng gia đình, dạy học và thi đấu. Ông là người đứng đầu câu lạc bộ cho đến khi qua đời năm 1944, sau đó vợ ông là Caroline lên tiếp quản. Hầu hết những kiện tướng danh tiếng nhất thế giới đã từng đến đây. Tại đây Jose Raul Capablanca vĩ đại đã biểu diễn thi đấu đồng loạt lần cuối cùng, cũng là nơi nhà vô địch thế giới Alexander Alekhine đã đến thăm và thi đấu cờ nhanh...

    Có một số nguyên tắc bất thành văn trong câu lạc bộ, kể cả trong cách ăn mặc. Bobby có thói quen mặc đồ thường, với áo thun, quần gấp nếp, giày bata khi đến đây, và bà Caroline Marshall xem cách ăn mặc này của cậu giống như một sự xúc phạm. Bà từng dọa nếu cậu không chịu ăn mặc cho nghiêm chỉnh hơn thì sẽ cấm cậu đến đây. Tuy nhiên Bobby không thèm quan tâm.

    Cậu đến câu lạc bộ Marshall vào tối tháng 10 hôm đó để đấu vòng 7 của một giải mời, giải tưởng niệm Rosenwald, mang tên người tài trợ của giải, Lessing J. Rosenwald, một nhà sưu tập tranh và tài trợ cờ vua. Bobby được mời nhờ thành tích vô địch giải trẻ Mỹ cách đây 3 tháng, và Rosenwald là giải mời đầu tiên mà cậu tham gia, gồm toàn các kiện tướng. 11 kỳ thủ bao gồm một số kỳ thủ giỏi nhất của Mỹ, cùng với các thành viên của câu lạc bộ cờ Marshall. Đối thủ của Bobby tối hôm đó là giáo sư đại học Donald Byrne, một kiện tướng quốc tế, cựu vô địch giải Mỹ mở rộng, một tay cờ với lối đánh tấn công dữ dội. Tóc đen, từ lời nói đến cách ăn mặc đều rất lịch lãm, Byrne 25 tuổi lúc nào cũng kẹp một điếu xì gà giữa hai ngón tay, thể hiện phong thái của một nhà quý tộc.

    [​IMG]
    Kiện tướng quốc tế Donald Byrne

    Regina đưa Bobby đến câu lạc bộ, nhưng khi cậu bắt đầu thi đấu thì bà đến một hiệu sách cũ gần đó để đọc sách, vì biết ván cờ của cậu sẽ kéo dài nhiều giờ đồng hồ. Trước khi ván cờ kết thúc bà sẽ quay lại.

    Cho đến thời điểm đó Bobby chưa thắng được ván nào tại giải, nhưng cậu hòa 3 ván, và dường như mạnh lên sau mỗi vòng đấu, có lẽ nhờ học hỏi từ các kiện tướng đã gặp trước đó. Đối với các kỳ thủ thì việc cầm Trắng luôn có được một lợi thế nhất định, nhưng rủi thay cho Bobby, hôm nay cậu phải cầm Đen khi gặp Byrne, một kỳ thủ với lối chơi công sát rất mãnh liệt.

    Đã từng nghiên cứu những ván cờ trước đây của Byrne trong các sách cờ và tạp chí, Bobby biết một chút về cách chơi của đối thủ và chiến lược mà anh ta thường sử dụng. Vì vậy cậu chọn một khai cuộc không quen thuộc với Byrne, và với cậu cũng là để thử nghiệm. Cậu đưa vào một thế cờ gọi là Phòng thủ Gruenfeld. Bobby biết những thứ cơ bản của khai cuộc này, nhưng những tinh vi ảo diệu bên trong thì cậu chưa nắm được hết. Đặc điểm là Trắng sẽ chiếm trung tâm, nhưng các quân sẽ trở thành những mục tiêu dễ bị tấn công.

    Vì không nhớ rõ thứ tự các nước đi nên Bobby phải suy tính mỗi khi đến lượt mình đi và cậu bắt đầu lâm vào tình trạng thiếu thời gian. Lo lắng, cậu cắn móng tay, nghịch tóc, quỳ lên ghế, đặt khuỷu tay lên bàn, chống cằm trên tay này rồi lại đến tay khác. Byrne vừa đánh bại Samuel Reshevsky, tay cờ mạnh nhất tại giải. Trình độ của Byrne không cần phải bàn cãi nữa. Bobby không hoảng sợ, nhưng rõ ràng không dễ dàng cho cậu chút nào.

    Những người xem bắt đầu tụ tập quanh bàn của Bobby, và mỗi lần cậu muốn vào nhà vệ sinh thì lại phải vất vả chen lấn qua đám đông. Điều đó làm cậu mất tập trung, vì thông thường khi rời khỏi bàn thì cậu vẫn tiếp tục suy nghĩ về ván cờ. "Những người xem ngồi ngay bên cạnh bạn và nếu bạn yêu cầu họ rời đi hay yên lặng thì họ sẽ bị tổn thương ghê gớm", Bobby hồi tưởng. Cậu cũng nói rằng thời tiết nóng nực và có đông người xem khiến căn phòng rất ngột ngạt. Bobby phàn nàn với ban tổ chức nhưng đã quá muộn để có thể làm gì vào tối hôm đó. Vào mùa hè năm sau câu lạc bộ Marshall mới lắp chiếc điều hòa đầu tiên.

    Dù không thoải mái nhưng Bobby vẫn tiếp tục suy nghĩ về ván cờ. Thật ngạc nhiên, sau 11 nước, cậu đã có ưu thế về thế trận. Sau đó, cậu bất ngờ di chuyển Mã đến một ô có thể bị đối phương tấn công. "Cậu ta làm gì thế?", ai đó hỏi. "Đó là một sai lầm hay là một đòn thí quân?". Khi những người xem nhìn kỹ lại thế trận, ý đồ của Bobby trở nên rõ ràng: Dù không quá sắc sảo, nhưng nó rất mưu trí, tài tình, và thậm chí tài hoa nữa. Byrne không dám ăn Mã; dù anh ta có thể hơn một quân nhưng sẽ dẫn đến thua cờ. Trọng tài của giải mô tả không khí trong phòng sau nước cờ táo bạo của Bobby: "Những tiếng thì thầm bàn tán xuất hiện sau nước cờ này, và người xem ngày càng tụ tập đông hơn quanh bàn của Fischer". Họ như dính chặt vào ván cờ của Bobby.

    Ván cờ tiếp tục diễn ra. Bobby còn 20 phút để thực hiện đủ 40 nước đi, trong khi cậu chỉ mới đi được 16 nước. Suy nghĩ thật sâu, Bobby nhận ra một khả năng đặc biệt có thể làm thay đổi hoàn toàn thế trận. Nếu cậu cho Byrne ăn Hậu, quân cờ mạnh nhất trên bàn thì sao? Thường chơi thiếu Hậu là rất khó khăn, gần như là thua luôn. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Byrne ăn Hậu? Thế trận sẽ bị suy yếu và thiếu khả năng phòng vệ trước những đợt tấn công của Bobby chăng?

    [​IMG]
    Thế cờ ngay trước khi Bobby thí Hậu

    Nước cờ này đến với Bobby giống như một bản năng. Cậu không chắc mình nhìn thấy hết mọi diễn biến sau khi Byrne ăn Hậu, nhưng cậu vẫn lao vào.

    Nếu đòn hi sinh Hậu của Bobby không được Byrne chấp nhận, cậu phỏng đoán, Byrne sẽ thua; nhưng nếu anh ta chấp nhận, anh ta cũng sẽ thua. Bất cứ Byrne làm gì, anh ta cũng đều sẽ thất bại theo lý thuyết, dù ván cờ vẫn còn kéo dài. Một tiếng thì thầm của một khán giả có thể nghe thấy được: "Không thể tin được! Byrne đang thua một cậu bé 13 tuổi chứ không phải ai khác".

    Byrne ăn Hậu.

    Bobby, bây giờ tập trung đến mức hầu như không nghe thấy gì từ đám đông nữa, cậu thực hiện nước tiếp theo vừa nhanh vừa mạnh mẽ, như phóng ra một mũi phi tiêu độc. Cậu đã có thể nhìn thấy kết cuộc của ván cờ trong khoảng 20 nước hoặc nhiều hơn thế nữa. Bobby thể hiện rất ít cảm xúc. Cậu vẫn ngồi đó, yên lặng như một ông Phật, dẫn dắt người xem đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

    Ở nước thứ 41, sau 5 giờ đồng hồ thi đấu, Bobby nhấc quân Xe lên rồi nhẹ nhàng hạ xuống, đặt đúng ô cần đặt và hô: "Chiếu hết!". Đối thủ của cậu rất thân thiện đứng dậy, và họ bắt tay nhau. Cả hai đều mỉm cười. Byrne biết rằng dù kết quả thật tệ, nhưng anh đã thua một trong những ván cờ tuyệt vời nhất từng được chơi, và đã trở thành một phần của lịch sử. Vài người vỗ tay, làm phiền những kỳ thủ vẫn còn đang thi đấu - những người không hề biết rằng một trong những trang đẹp nhất của lịch sử cờ vua đã được viết nên chỉ cách đó vài bước chân. Họ vẫn còn đang lo cho ván cờ của mình. "Suỵt! Yên nào!". Đã nửa đêm rồi.

    [​IMG]
    Nước cờ kết thúc của Bobby

    Hans Kmoch, trọng tài của giải, sau này đánh giá về ván cờ: "Một kiệt tác về đòn phối hợp đã được trình diễn bởi cậu bé 13 tuổi trước một đối thủ rất lợi hại, xứng đáng là ván cờ hay nhất trong lịch sử của những thần đồng cờ vua... Màn trình diễn của Bobby lấp lánh với sự sáng tạo kỳ diệu".

    Và Hans Kmoch đã gọi ván cờ tuyệt diệu đó là "Ván cờ thế kỷ".

    Ván cờ của Bobby xuất hiện trên các tờ báo khắp đất nước cũng như trên toàn thế giới, với vô số mỹ từ ca ngợi. Đại kiện tướng Yuri Averbach, người Liên Xô đã nói: "Sau khi xem qua ván cờ, tôi bị thuyết phục rằng cậu bé này là một tài năng vô cùng lớn". Còn Mikhail Botvinnik, đương kim vô địch thế giới thì "Chúng ta cần phải chú ý đến cậu bé này!".

    [​IMG]
    Cậu bé Bobby Fischer trên bìa tạp chí Chess Review (cậu đang suy nghĩ ngay trước khi thực hiện đòn thí Hậu kinh điển)

    "Ván cờ thế kỷ" đã được nhắc đến, phân tích và ngưỡng mộ trong suốt hơn 50 năm qua. Nó chỉ có thể so sánh với "nước đi vàng" của Frank Marshall - một kỳ thủ Mỹ khác, tại giải Breslau năm 1912, cũng là một đòn thí Hậu tuyệt đẹp và đánh bại Levitsky. Khi nhớ lại ván cờ này, Bobby khiêm tốn: "Tôi chỉ đi những nước mà mình cho là tốt nhất. Tôi chỉ may mắn thôi!".

    Kmoch, vị trọng tài, cảm nhận được hình bóng của nhà vô địch thế giới từ Bobby, nên đã cẩn thận lưu giữ biên bản gốc do chính thần đồng ghi chép như một kiệt tác của danh họa Rembrandt. Và David Lawson, một nhà sưu tập, bằng cách nào đó - có lẽ là trả tiền, đã có được bản gốc của "Ván cờ thế kỷ" từ Kmoch, với ghi chú của chính Kmoch bằng cây bút chì đỏ: 0-1 (Byrne thua, Fischer thắng). Sau khi Lawson chết, tờ biên bản được một nhà sưu tập khác mua lại, và cứ thế trong nhiều năm nó đã qua tay khá nhiều nhà sưu tập. Ngày nay trong các cuộc bán đấu giá, nó được định giá 100,000 USD.

    Còn tiền thưởng của Bobby từ Quỹ Tài Trợ Cờ Vua Mỹ cho kiệt tác này thì sao? Chỉ có 50 đô la.

    [​IMG]
    Biên bản gốc của "Ván cờ thế kỷ", do chính Bobby ghi chép


    [​IMG]
    Quang cảnh bên ngoài của câu lạc bộ cờ Marshall, nơi diễn ra "Ván cờ thế kỷ"

    [​IMG]
    Quang cảnh bên trong
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  11. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Năm 1957, Bobby chơi 2 ván cờ với cựu vô địch thế giới Max Euwe, nhưng thất bại với tỉ số 0,5 - 1,5. Sau đó Regina nhờ vả Reuben Fine, một kỳ thủ nổi tiếng đồng thời cũng là một nhà phân tâm học, xem thử xem Bobby có gặp vấn đề gì về tâm lý hay không, bởi vì bà thấy cậu sống quá tách biệt, suốt ngày chỉ chúi đầu vào cờ. Biết tính cách của Bobby, Fine không dám tiếp cận trực tiếp, mà ông mời cậu đến nhà mình luyện cờ trước. Sau khoảng 6 tuần, khi đã cảm thấy Bobby thân thiện với mình, ông mới bắt đầu trò chuyện về việc cậu làm gì ở trường. Trong vòng vài giây Bobby liền nhận ra mình bị lừa, "Ông lừa tôi", cậu thốt lên và chạy vụt ra khỏi căn hộ của Fine. Sau này cứ mỗi lần gặp lại nhau, Bobby đều nhìn Fine bằng ánh mắt giận dữ "như thể tôi đã gây ra một nỗi đau rất ghê gớm khi tìm cách đến gần cậu ta".

    Bobby, về phần mình, không nghĩ rằng có điều gì đó không ổn với cậu. Ở tuổi 14, hành vi của cậu tại câu lạc bộ và các giải đấu là khá tốt. Như nhiều thiếu niên khác, cậu thỉnh thoảng cũng lớn tiếng khi nói chuyện, đầu tóc thì rối bù, và rất hăng hái trên bàn cờ. Không có gì trong hành động của cậu cho thấy cậu gặp phải vấn đề nghiêm trọng hay bị rối loạn thần kinh.

    Có lẽ cuộc "điều trị" của Fine đã thôi thúc giới báo chí; bất cứ khi nào viết chuyện gì về cờ, cánh phóng viên cũng cố tìm kiếm một vài kỳ thủ bị "loạn trí". Bobby, do đó, thường xuyên trở thành nạn nhân của việc cố gắng giải thích tính cách của cậu. Khi được phỏng vấn, cậu thường bị hỏi những câu rất khó chịu kiểu như "Tại sao cậu không có bạn gái?" ... "Có phải tất cả các kỳ thủ đều bị điên không?", và cậu biết rằng họ sẽ làm méo mó câu chuyện để khiến cậu trở nên khác thường. "Hỏi tôi điều gì đó bình thường...", một lần cậu nói với phóng viên, "thay vì khiến tôi trông bất thường". Trong một lần khác cậu nói với một nhà báo: "Những kẻ đó luôn viết sai về tôi. Họ nói tôi ngu ngốc và không có tài năng gì ngoài cờ. Điều đó không đúng".

    Vài bài báo gọi Bobby là nhà bác học ngốc, nhấn mạnh vào từ ngốc hơn là nhà bác học. Tạp chí cờ Chess Life, rất tức giận trước những lời lẽ thiếu tôn trọng với Bobby, đã tuyên bố những bài báo như vậy là "hoàn toàn nhảm nhí".

    Tháng 7 năm 1957, Bobby bảo vệ thành công chức vô địch giải trẻ Mỹ với số điểm 8,5/9 tại San Francisco. Tháng 8, cậu thi đấu giải Mỹ mở rộng ở Cleveland, với điểm số 10/12 bằng với Arthur Bisguier, nhưng nhờ hơn hệ số phụ nên Bobby đoạt chức vô địch, trở thành nhà vô địch giải này trẻ nhất từ trước đến giờ. Sau đó cậu thắng tiếp giải mở rộng New Jersey với kết quả 6,5/7. Tiếp đến Bobby đánh bại kiện tướng trẻ người Phi-lip-pin Rodolfo Tan Cardoso 6-2 trong một trận đấu tay đôi ở New York do Pepsi-Cola tài trợ.

    Tháng 12 Bobby được mời tham dự Giải Vô Địch Mỹ 1957-1958. Giải mời này không cho phép những trường hợp đặc biệt, mà chỉ mời dựa vào đúng thực lực của kỳ thủ. Giải lần này quy tụ những ngôi sao sáng như Samuel Reshevsky, 6 lần vô địch nước Mỹ, Arthur Bisguier, và William Lombardy, người đã từng vô địch giải trẻ thế giới với số điểm tuyệt đối 11-0, duy nhất trong lịch sử giải này. Giải vô địch Mỹ là giải đấu rất quan trọng để chọn ra người tham dự Interzonal, sau đó 6 người đứng đầu Interzonal sẽ cùng với 2 người nữa tham dự vòng đấu Candidates (vòng đấu tuyển chọn người thách đấu với nhà vô địch thế giới). Trước giải, Bisguier dự đoán thành tích của Bobby chỉ là "chỉ cao hơn khoảng giữa bảng xếp hạng một chút". Nhưng mọi chuyện diễn tiến hoàn toàn ngược lại. Bobby khởi đầu giải với trận thắng Arthur Feuerstein, một kỳ thủ trẻ đầy triển vọng. Tiếp theo cậu hòa với Samuel Reshevsky trong một ván cờ cực kỳ căng thẳng. Và sau ván đó Bobby chơi như lên đồng với 5 ván thắng liên tiếp.

    [​IMG]
    Từ trái sang phải: William Lombardy, Jack Collins, Bobby Fischer

    Đối thủ của Bobby ở vòng cuối là Abe Turner, người đã đánh bại Bobby tại giải Rosenwald hồi năm ngoái. Vì vậy cậu phải đặc biệt cẩn thận trước kỳ thủ này. Dù vậy, chỉ sau vài phút, Turner, với giọng the thé, đề nghị Bobby hòa ở nước thứ 18. Cậu chấp nhận và sau đó đi loanh quanh trong câu lạc bộ để theo dõi các ván cờ khác. Cậu đã tích lũy được 10,5 điểm, và cũng như ở giải Mỹ mở rộng, cậu không thua một ván nào. Lombardy, không còn cơ hội cạnh tranh chức vô địch, đang thi đấu với tay cờ kỳ cựu Reshevsky, và con cáo già đang được 9,5 điểm. Nếu Reshevsky đánh bại Lombardy thì ông sẽ bằng điểm với Bobby và trở thành đồng vô địch, vì giải này không tính hệ số phụ và cũng không có những trận playoff. Trong khi chờ đợi, có lẽ để giả vờ không quan tâm, Bobby chơi vài ván cờ nhanh với những người bạn. Thỉnh thoảng cậu đến bàn của Lombardy-Reshevsky để xem diễn biến. Cuối cùng, sau một lần xem, cậu tuyên bố, như thể không còn gì phải bàn cãi nữa, "Reshevsky sẽ thua". Lombardy đang chơi một ván cờ để đời, áp chế hoàn toàn thế trận của Reshevsky. Khi thế cờ đã hoàn toàn vô vọng, Reshevsky bỏ điếu xì gà ra khỏi miệng, mím môi và đầu hàng. Bobby chạy đến và nói với bạn mình, "Anh đánh thật dữ dội". Lombardy 20 tuổi cười nói, "Nào, tôi có thể làm gì được? Cậu buộc tôi phải đánh bại Sammy!".

    Với thất bại của Reshevsky, Bobby Fischer 14 tuổi đã chính thức trở thành nhà vô địch cờ vua Mỹ, và chuẩn bị vươn ra biển lớn để đối đầu với những tay cờ hùng mạnh đến từ Liên Xô.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  12. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Four Continents là một hiệu sách lớn chuyên bán các loại sách tiếng Nga. Nơi đây có không nhiều sách cờ nhưng đều là những sách rất hay, ngoài ra hiệu sách này còn có những bản copy mới nhất của Shakhmatny Bulletin, một tạp chí cờ tiếng Nga. Tạp chí này có nhiều bài về lý thuyết cờ và những ván cờ mới nhất trên khắp thế giới, hầu hết là của những kỳ thủ Liên Xô. Fischer biết thời điểm những bản copy này ra mỗi tháng, vì vậy chỉ trong vòng 1, 2 ngày là cậu có mặt tại Four Continents để mua ấn bản mới nhất. Cậu nói với nhiều người rằng Shakhmatny Bulletin là "tạp chí cờ hay nhất thế giới".

    Cậu rất chăm chỉ học hỏi từ các bài viết trong tạp chí, theo dõi lối chơi của kỳ thủ 18 tuổi Boris Spassky, ngôi sao mới của cờ vua Liên Xô vừa vô địch giải trẻ thế giới. Cậu cũng nghiên cứu các ván cờ của Mark Taimanov, vô địch Liên Xô năm 1956 - đồng thời cũng là một nghệ sĩ dương cầm - người giới thiệu nhiều phương án mới trong khai cuộc. Bobby vừa xem vừa ghi chép những loại khai cuộc nào đang thịnh hành trên thế giới và giành được nhiều trận thắng, và những loại nào thì không phổ biến. Cậu cũng ghi chú lại ván nào mà mình thích. Những ván cờ của các kiện tướng trong Shakhmatny trở thành những ví dụ mẫu mực cho Bobby, và vài người trong số họ sau này đã trở thành đối thủ của cậu.

    Trong quá trình nghiên cứu, Bobby cảm thấy e ngại trước kiến thức uyên bác cùng trực giác cờ rất nhạy bén và mau lẹ của các kỳ thủ Liên Xô, không cần phải bàn cãi, họ là những người giỏi nhất thế giới vào thời điểm đó. Khi 14 tuổi, Bobby có trả lời trong một cuộc phỏng vấn với một nhà báo Nga rằng cậu muốn được thi đấu với những kiện tướng giỏi nhất của Nga, và nói thêm: "Tôi đã xem những gì mà họ làm. Tôi biết những ván cờ của họ. Họ tấn công rất sắc bén, và đầy tinh thần chiến đấu".

    Regina, vì không muốn Bobby đi theo con đường cờ vua, nên luôn cố gắng làm mọi thứ để làm nản lòng đứa con trai, "nhưng vô vọng", bà thốt lên. Sự thật là, bà biết cờ là lẽ sống của Bobby, và mơ ước của cậu chính là trở thành kỳ thủ cờ vua giỏi nhất thế giới. Như bất kỳ bà mẹ nào khác, bà cũng muốn con mình đạt được ước mơ, và cuối cùng bà chuyển sang ủng hộ cậu, trở thành người quảng bá cho cậu và cũng là người quản lý của cậu.

    Từ đó trở đi, không có giải đấu nào Bobby tham dự mà không có sự quảng cáo rùm beng của Regina với giới báo chí và truyền thông. Trong bức thư gửi cho Maurice Kasper, chủ tịch của Quỹ Tài Trợ Cờ Vua Mỹ (và cũng là chủ tịch câu lạc bộ cờ Manhattan), bà viết: "Tôi hy vọng ngày nào đó Bobby sẽ trở thành một nhà vô địch vĩ đại, bởi vì nó yêu thích cờ hơn bất kỳ ai".

    Trong các giải đấu, dù là ở Mỹ hay ở nước ngoài, Regina thường xuyên viết thư, gửi điện cho Bobby để động viên, khuyên bảo: "Mẹ thấy con được 1,5 điểm sau 2 vòng, thật là tuyệt vời. Cố giữ vững nhưng đừng kiệt sức vì nó. Hãy đi bơi, đi ngủ".
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  13. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Năm 1958, nhận lời mời từ Liên Đoàn Cờ Vua Liên Xô, Bobby và Joan sang thăm Liên Xô. Joan đi theo để chăm sóc cho Bobby. Mục đích của chuyến đi là để Bobby tập luyện nhằm chuẩn bị cho giải Interzonal (nhưng có lẽ phía Liên Xô cũng có ý thăm dò thực lực của thần đồng cờ vua nước Mỹ). Khỏi nói cũng biết Bobby sung sướng và háo hức như thế nào khi sắp được đặt chân lên vùng đất thánh của cờ vua. Tuy nhiên, khi có một kỳ thủ trong câu lạc bộ cờ Manhattan hỏi cậu sẽ làm gì nếu được mời ăn tối ở Moscow, nơi cậu phải đeo một cái cà vạt, thì Bobby, chưa đeo cà vạt bao giờ, và cũng không hề thích đeo cà vạt, trả lời thành thật: "Nếu tôi phải đeo một cái cà vạt thì tôi sẽ không đi".

    Bobby và Joan được Lev Abramov, trưởng bộ môn cờ Liên Xô, đón tại phi trường Moscow, và họ được đưa đến khách sạn sang trọng nhất, khách sạn National.

    Đã nghiên cứu rất nhiều những ván cờ xuất sắc của các kỳ thủ Liên Xô, nên Bobby hết sức tôn trọng họ, và lúc đầu, cậu thấy ở Nga giống như được ở trong thiên đường của cờ vua. Cậu muốn xem cách dạy và học cờ ở đây như thế nào. Cậu muốn đọc và mua các tài liệu cờ tiếng Nga, cũng như đến thăm các câu lạc bộ cờ và các công viên cờ ở đây. Nhưng hơn hết là cậu muốn được đọ sức với những tay cờ mạnh nhất thế giới. Nhiệm vụ của cậu là phải thi đấu với càng nhiều kiện tướng càng tốt, nhằm trui rèn bản lĩnh mới có thể cạnh tranh với các kỳ thủ Liên Xô tại giải Interzonal tổ chức tại Yugoslavia sắp tới.

    Tuy nhiên, phía Liên Xô không thể đồng ý cho cậu quan sát phương thức tập luyện cũng như chia sẻ các bí mật về cờ của họ - đặc biệt khi những kỳ thủ mà Fischer muốn thi đấu cũng sẽ tranh tài với cậu trong vài tuần tới tại Yugoslavia. Liên Xô nghĩ Bobby là một hiện tượng mới mẻ và thú vị, nhưng cũng đáng lo ngại. Chắc chắn họ không thể giúp cậu đánh bại họ tại môn chơi mà họ đã và đang thống trị thế giới.

    Một chương trình được sắp xếp sẵn cho hai chị em Fischer để đi tham quan thành phố, thăm các tòa nhà và phòng trưng bày của Kremlin, nhà hát Bolshoi, rạp xiếc Moscow... Với Bobby thì đây là cơ hội để cậu tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của Nga, nhưng cậu không mấy hứng thú. Cậu đến Moscow là để chơi cờ, và mỗi giây phút mà cậu trải qua ở đây cậu chỉ muốn được thi đấu với những kiện tướng mạnh nhất.

    Moscow là nơi đã tổ chức một giải cờ cực lớn vào năm 1925; là nơi mà Alekhine trở thành đại kiện tướng, là nơi mà hầu hết những kiện tướng hàng đầu thế giới thi đấu, học tập và sinh sống; là nơi mà trận tranh chức vô địch thế giới giữa Botvinnik và Smyslov mới được tổ chức cách đây vài tháng. Với Bobby, Moscow là đấu trường Elysium của cờ vua, và tâm trí cậu chỉ nghĩ về điều đó.

    Abramov đề nghị đưa cậu đi một vòng giới thiệu thành phố, nhưng Bobby yêu cầu đưa cậu đến câu lạc bộ cờ Moscow (Moscow Central Chess Club) ngay lập tức, được xem là một trong những câu lạc bộ cờ mạnh nhất thế giới. Hầu như tất cả các tay cờ giỏi nhất của Moscow đều chơi cho câu lạc bộ này. Nơi đây được mở cửa vào năm 1956 và tự hào với một thư viện hơn 10,000 quyển sách cờ và hơn 100,000 đầu mục các phương án khai cuộc. Bobby không thể chờ đợi thêm nữa.

    Khi đến câu lạc bộ, đầu tiên Bobby được giới thiệu thi đấu cờ nhanh với hai kiện tướng trẻ của Liên Xô, Evgeny Vasiukov và Alexander Nikitin. Sau đó cậu hỏi: "Khi nào thì tôi có thể đấu với Botvinnik (nhà vô địch thế giới)?" "Và Smyslov (đối thủ của Botvinnik)?". Cậu được cho biết vì đang là mùa hè nên cả Botvinnik và Smyslov đều ở vùng thôn quê, cách khá xa Moscow, nên không thể gặp được. Điều đó cũng đúng. "Còn Keres thì sao?", "Keres không ở trong nước", họ đáp.

    Abramov khẳng định họ đang tìm cách liên hệ với các đại kiện tướng để thi đấu với Bobby. Dù đúng hay không, Abramov cũng bắt đầu bực mình với thái độ xấc láo và khó chịu của Bobby. Dù gì cũng chỉ là một thằng bé mới lớn có chút danh tiếng trên làng cờ, sao dám đòi hỏi này nọ với Liên Xô, bá chủ cờ vua thế giới được chứ?

    Cuối cùng Tigran Petrosian được mời đến câu lạc bộ để thi đấu với Bobby (David Bronstein cũng được mời nhưng từ chối vì "Xin lỗi, tại sao tôi lại phải đấu với một thằng nhóc chứ?"). Petrosian là một đại kiện tướng quốc tế, lối chơi không màu mè nhưng rất đúng đắn và hiệu quả, được xem là một trong những bậc thầy về phòng thủ hay nhất mọi thời đại. Ông chơi cờ nhanh rất xuất sắc, và cũng là người đánh bại Botvinnik vào năm 1963 để lên ngôi vô địch thế giới. Bobby biết Petrosian, dĩ nhiên, vì đã nghiên cứu các ván cờ của ông tại giải Amsterdam năm 1956, và cũng đã xem ông thi đấu trong trận Mỹ - Liên Xô tại New York 4 năm trước. Trước khi Petrosian đến, Fischer muốn biết cậu được nhận bao nhiêu tiền khi chơi với Petrosian. "Không. Cậu là khách", Abramov trả lời lạnh nhạt, "và chúng tôi không trả tiền cho khách".

    Bobby và Petrosian chơi trong một phòng nhỏ và giới hạn số người xem. Trận đấu giữa hai người không phải là một trận đấu chính thức (cờ tiêu chuẩn), mà chỉ gồm các ván cờ nhanh, và Petrosian thắng hầu hết. Nhiều năm sau, Bobby nói trong những ván cờ nhanh đó, lối chơi (phòng thủ) của Petrosian làm cho cậu chán chết, và đó là lý do tại sao cậu thua nhiều hơn thắng.

    [​IMG]
    Trận đấu cờ nhanh giữa Bobby Fischer và Petrosian

    Khi Bobby phát hiện ra cậu không được chơi một trận đấu chính thức nào, mà chỉ toàn là các ván cờ nhanh, cậu cảm thấy mình không được tôn trọng. Chẳng phải cậu là đương kim vô địch nước Mỹ đó sao? Chẳng phải cậu đã chơi "Ván cờ thế kỷ", một trong những ván cờ đẹp nhất đó sao? Chẳng phải cậu đã từng thi đấu với cựu vô địch thế giới, tiến sĩ Max Euwe đó sao? Chẳng phải cậu là thần đồng được tiên đoán sẽ trở thành nhà vô địch thế giới đó sao?

    Tại sao họ lại từ chối cậu, một Hoàng Tử Cờ Vua? Đây không đơn thuần là sự hắt hủi, đó là sự xúc phạm lớn nhất mà cậu có thể tưởng tượng. Cậu phản ứng lại sự xúc phạm đó một cách tương xứng theo quan điểm của cậu. Với cậu, lý do mà những tay cờ hàng đầu không muốn gặp cậu đó là vì, ở một chừng mực nào đó, họ e sợ cậu. Cậu xem mình giống như người anh hùng Paul Morphy, khi trong chuyến du đấu châu Âu năm 1858, cách đây đúng 100 năm, ông cũng bị từ chối một trận đấu với kỳ thủ người Anh Howard Stauton, được xem là tay cờ mạnh nhất thế giới vào thời điểm đó. Những nhà nghiên cứu lịch sử cờ vua đều tin rằng Morphy 21 tuổi nếu được gặp sẽ dễ dàng hạ gục Stauton. Và Fischer 15 tuổi cũng tin chắc rằng nếu cậu có cơ hội gặp Mikhail Botvinnik, nhà vô địch thế giới, thì tay cờ Liên Xô sẽ bị đánh bại.

    Việc không được đọ sức với những gã khổng lồ trong làng cờ Liên Xô, cũng như không nhận được tiền thưởng cho những chiến thắng của mình, đã khiến cho Bobby không còn xem các kỳ thủ Liên Xô như là người hùng trong mắt cậu nữa, thậm chí họ đã trở thành những kẻ phản bội, và không thể tha thứ. Bobby gửi một bức thư cho Collins phàn nàn về lòng mến khách của những người Nga, nhưng trước khi bức thư đến New York thì các nhân viên kiểm duyệt Nga đã đọc được, và những nhận xét thái quá của Bobby liền bị đưa lên các tờ báo Nga. Yêu cầu gia hạn visa của Bobby và Joan bị từ chối, và thế là cuộc chiến tranh ngầm giữa Bobby Fischer với làng cờ Liên Xô bắt đầu.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  14. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh này giữa Mỹ và Liên Xô, việc một công dân Mỹ được ở lâu tại Moscow là rất khó khăn. Hơn nữa vào giữa tháng 7 căng thẳng càng tăng cao khi 100,000 công dân Liên Xô bao vây đại sứ quán Mỹ để yêu cầu Mỹ rút quân khỏi Lebanon, vì vậy Regina hối thúc Joan và Bobby mau rời khỏi Moscow. Về phần mình, Joan Fischer có vài cuộc cãi vã nhỏ với cậu em trai về cách cư xử của cậu tại Moscow. Cô cùng Bobby đến Belgrade, Yugoslavia, nhưng sau 2 ngày thì rời đi để nghỉ hè với những người bạn ở Anh. Bobby 15 tuổi, vì thế phải tự lo liệu - nhưng không lâu. Cậu được vây quanh bởi các kỳ thủ, phóng viên, và cả những người chỉ đơn thuần hiếu kỳ vì thần đồng. Chỉ trong vòng vài giờ sau khi đến Yugoslavia, cậu đã ngồi trước bàn cờ để tập luyện, phân tích, và nói chuyện về cờ với các kỳ thủ tại đây.

    Trận đấu tập đầu tiên của Bobby trên đất châu Âu là với Milan Matulovic, một kỳ thủ 23 tuổi rất nổi tiếng, nhưng không phải nhờ trình độ cờ cao siêu, mà là vì xì căng đan trong một trận đấu. Anh ta đã chạm quân, đi quân rồi, nhưng sau khi nhận ra đó là một sai lầm liền trả quân về vị trí cũ và nói "J’adoube", hay "Tôi chỉnh quân". "J’adoube" là một câu thông báo khi người chơi muốn chỉnh sửa quân của mình hay của đối thủ, nhưng theo luật cờ thì nó phải được nói trước khi chạm vào quân. Các kỳ thủ Pháp thường nói "Pièce touchée, pièce jouée" ("nếu anh chạm một quân, hãy đi quân đó"). Chính vì xì căng đan trên mà Matulovic được đặt cho cái tên là "J’adoubovic". Ngược lại, Bobby là người tuân thủ rất nghiêm chỉnh luật này, luôn nói "j’adoube" trước khi cậu sửa quân.

    Trong trận đấu với Matulovic, Bobby thua ván đầu, thắng ván 2, hòa ván 3 và thắng ván 4, nên giành chiến thắng chung cuộc 2,5-1,5. Cả hai ván thắng của Bobby đều là những ván khó khăn, kéo dài đến nước 50 trước khi đối thủ đầu hàng. Dẫu Matulovic là một người mưu mẹo, nhưng anh ta cũng là một trong những kỳ thủ giỏi nhất nước, không dễ bị đánh bại.

    Sau đó Bobby chơi một trận gồm 2 ván với kiện tướng người Yugoslavia, Dragoljub Janosevic, một người nghiện rượu nặng, lăng nhăng và cũng là một tay chơi bài poker. Tuy nhiên anh ta cũng là một kỳ thủ với lối chơi tấn công rất đa dạng và mạnh mẽ, vì vậy trong cả 2 ván, Bobby đều hòa.

    [​IMG]
    Milan Matulovic (trái) và Mikhail Botvinnik

    Bobby mở va li, lôi ra rất nhiều sách cờ và tạp chí cờ để chuẩn bị cho giải đấu sắp tới, khảo sát các biến thế và phương án, cũng như phân tích chiến thuật của các đối thủ mà mình sắp đương đầu. Trong số 20 đối thủ mà cậu sẽ gặp, cậu chỉ mới chạm trán với 3 người là: Benko, Sherwin và Petrosian. Nhưng 17 đối thủ còn lại cũng không phải xa lạ gì. Trong nhiều năm qua cậu đã nghiên cứu các ván cờ của họ: phong cách chơi, khai cuộc ưa thích, điểm mạnh và điểm yếu. Chẳng hạn, cậu biết Fridrik Olafsson luôn lâm vào tình trạng thiếu thời gian, vì vậy chơi tàn cuộc không được chuẩn xác lắm; Bent Larsen thì có thể trông cậy vào các khai cuộc đã bị lãng quên một thời gian dài để gây ngạc nhiên cho đối thủ. Những ngón đòn từ Larsen có thể khó chuẩn bị, nhưng nhờ Bobby đã học hỏi nhiều từ những ván cờ của các kiện tướng xưa nên cũng có được hành trang kha khá. Không có tay cờ nào tại Interzonal sắp tới mà Bobby không chuẩn bị chút ít để đối phó.

    Sau khi ăn tối xong, Bobby lao vào làm việc. Cậu thường nghiên cứu cho đến lúc bình minh, và đi ngủ khi trời sáng. Cậu hiếm khi thức dậy khoảng trước đầu giờ chiều. Lần duy nhất cậu rời khỏi khách sạn là để chơi hai ván cờ với một người bạn tốt, Edmar Mednis (một kỳ thủ trẻ người Mỹ đang trên đường đi tham dự một giải khác và chỉ ở lại thành phố 1 ngày), đến thăm cậu và thuyết phục cậu đi thả bộ trên các công viên ở Belgrade.

    Di chuyển từ một thành phố lịch sử và có phần ảm đạm là Belgrade đến thành phố nghỉ mát Portoroz bên bờ biển Adriatic để thi đấu Interzonal không làm ảnh hưởng nhiều đến Bobby. Cậu dường như không có hứng thú với biển. Trong suốt 1 tháng diễn ra giải, hiếm khi thấy Bobby ra khỏi khách sạn: cậu dành hầu hết thời gian để ngồi trong phòng nghiên cứu chiến lược và chiến thuật.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  15. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    21 kỳ thủ đến từ 12 nước sẽ quyết chiến tại Interzonal. 6 người cao điểm nhất sẽ cùng với 2 kỳ thủ hàng đầu khác tham dự vòng đấu playoff cuối cùng, gọi là Candidates (hay Challengers) Tournament. Người thắng cuộc tại Candidates sẽ được quyền thách đấu với đương kim vô địch thế giới Mikhail Botvinnik, nhằm đoạt lấy vòng nguyệt quế vinh quang. Dù Interzonal là giải đấu quốc tế đầu tiên của Bobby, nhưng cậu không phải là người duy nhất; Mikhail Tal 21 tuổi đến từ Riga, 2 lần vô địch Liên Xô, cũng lần đầu tiên thi đấu quốc tế. Vài chuyên gia, không chỉ từ Liên Xô, dự đoán Tal sẽ là người vô địch giải này. Các kỳ thủ hàng đầu của Mỹ đoán rằng Bobby sẽ không thể giành được một suất tham dự Candidates. Cậu còn quá trẻ để chinh phục một giải đấu đẳng cấp như Interzonal - với toàn những tay cờ kỳ cựu.

    Folke Rogard, chủ tịch người Thụy Điển của Liên Đoàn Cờ Vua Thế Giới, chào mừng các kỳ thủ cùng những trợ tá và huấn luyện viên của họ tại buổi lễ khai mạc giải. Bobby đoán rằng mình sẽ giành được quyền tham dự Candidates bằng cách đánh bại tất cả các "small fry" hoặc "patzer" (thuật ngữ cờ vua để chỉ các kỳ thủ yếu) và hòa với tất cả các tay cờ sừng sỏ. Chỗ sai lầm của kế hoạch này là không hề có đối thủ nào yếu tại giải, tất cả bọn họ, nếu không ở đẳng cấp thế giới, thì ít nhất cũng có danh tiếng ở đấu trường quốc gia và quốc tế.

    Trợ tá của Bobby tại giải lần này cũng là một học trò của Jack Collins, William Lombardy, người đã vô địch giải trẻ thế giới với thành tích thắng tuyệt đối tất cả các ván. Anh là một kỳ thủ rất lợi hại. Vào thời điểm đó tại Mỹ, sức cờ của Lombardy có lẽ chỉ hơi kém Fischer một chút.

    Trong cờ vua, công việc của trợ tá (second) là một người hộ tống, cố vấn, chăm sóc, và phát ngôn cho kỳ thủ mà anh ta hỗ trợ. Trợ tá phải tìm ra điểm yếu của các đối thủ, và lựa chọn khai cuộc nào gây khó chịu nhất cho họ. Sau đó họ sẽ báo cáo lại, từng vòng một. Có lẽ vai trò quan trọng nhất của trợ tá là phân tích các ván cờ tạm hoãn cùng với kỳ thủ. Đôi khi họ phải làm việc thâu đêm suốt sáng nhằm tìm ra chiến lược tối ưu nhất để đấu tiếp vào ngày hôm sau. Riêng các kỳ thủ Liên Xô có một đội ngũ trợ tá rất hùng hậu, và mỗi người chỉ đảm nhiệm một công việc. Chẳng hạn, có một chuyên gia tàn cuộc, một lý thuyết gia khai cuộc, một bác sĩ, và đôi khi có thêm một bác sĩ tâm lý.

    Già dặn hơn, chín chắn hơn, và cực kỳ thông minh, Lombardy lo lắng chăm sóc cho Bobby rất chu đáo. Từ Portoroz anh viết thư về cho Regina: "Bobby đánh răng hằng ngày, nhưng lại khó khăn trong việc tắm rửa".

    James T. Sherwin, một kỳ thủ Mỹ khác cũng tham dự Interzonal, nói về công việc trợ tá của Lombardy: "Bobby thực sự không cần sự trợ giúp của Lombardy vì phong cách của họ khác nhau. Lombardy là một kỳ thủ có tài năng cực lớn, lối chơi thế trận theo trực giác nhưng không giỏi chuẩn bị như Bobby. Sức mạnh của Bobby là ở những đòn đánh chiến thuật".

    Một khó khăn nảy sinh khi Lombardy phải rời giải trong vài ngày để tham dự cuộc họp thường niên với Liên Đoàn Cờ Vua Thế Giới. Anh đại diện cho Mỹ tham dự cuộc họp này, và phải để Bobby tự lo liệu khi không có trợ tá. Bobby còn 2 ván cờ tạm hoãn và phải tự phân tích một mình. Cậu thua trước Olafsson và hòa với Tal.

    [​IMG]
    Kỳ thủ Fridrik Olafsson

    Trong một cuộc nói chuyện trước khi giải diễn ra với Bent Larsen của Đan Mạch và Fridrik Olafsson của Iceland, Lombardy báo cáo lại những chi tiết đáng chú ý cho bạn của mình là Bobby:

    Larsen: Fischer là một đứa bé mà tôi sẽ phát vào mông.
    Olafsson: Đừng chắc thế. Cẩn thận đấy!
    Larsen: Đừng lo, tôi biết tự lo cho mình.

    (Larsen: Fischer is one baby I am going to spank.
    Olafsson: Don’t be too sure. Be careful!
    Larsen: Don’t worry, I can take care of myself.)

    Theo yêu cầu của Lombardy, Bobby mặc một chiếc áo sơ mi đen và quần khaki để thi đấu vòng đầu tiên. Đối thủ của cậu là Oleg Neikirch của Bulgaria, một trong những kỳ thủ lớn tuổi nhất giải (44 tuổi) và bị Bobby đánh giá là một "small fry". Tuy nhiên, Bobby đã đánh giá thấp đối thủ, và cậu may mắn kiếm được một trận hòa, dù thế trận kém hơn. Neikirch giải thích về lời đề nghị hòa của mình: "Có hơi quê khi đánh bại một cậu bé. Trở về Bulgaria tôi sẽ trở thành trò cười cho mọi người mất". "Nhưng sẽ càng quê hơn nếu thua một cậu bé", mọi người chế nhạo.

    Bobby thi đấu thất thường ở những vòng đầu tiên. Sau ván với Neikirch, cậu thắng một, thua một, hòa một. Đến vòng 6 (mỗi đấu thủ đều có 1 vòng miễn đấu, và ở vòng 5 Bobby được miễn), cậu gặp phải một thử thách thực sự lớn lao, khi đối thủ là David Bronstein của Liên Xô.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  16. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Bronstein trông giống như một bức tranh có thể tưởng tượng về một kỳ thủ: đầu hói, đeo kính gọng sừng, và thường mặc một bộ comlê đen với áo sơ mi trắng. Ông giống như một nguyên mẫu của nhân vật đại kiện tướng Kronsteen trong bộ phim James Bond "From Russia with Love" (trừ việc Kronsteen có tóc), và ván cờ chơi trên phim chính là từ một ván đấu có thực giữa Bronstein với Spassky. Nhưng trái với vẻ mặt nghiêm túc và khó gần, Bronstein là một con người thân thiện, sôi nổi, và được hầu hết các kỳ thủ yêu mến. Ngoài ra ông sống rất chân thành, kiến thức uyên bác về cờ, và có phần hơi kỳ dị. Ông là một kỳ thủ với lối đánh tấn công ác chiến, nhưng khi ngồi trước bàn cờ thì giống như bị thôi miên. Có một ván cờ ông cứ nhìn chằm chằm vào nó suốt 50 phút mới nhấc quân đi. Vì ông đã từng tranh chức vô địch thế giới với Botvinnik, nên được xem như là hạt giống tại giải (và Tal cũng được xem là hạt giống). Bronstein hòa với Botvinnik trong trận đấu năm 1951, nhưng như thế là chưa đủ, vì theo luật cần phải thắng, do đó Botvinnik vẫn giữ vững danh hiệu.

    [​IMG]
    Từ trái sang: Vassily Smyslov, David Bronstein, Paul Keres và Mikhail Botvinnik trong đội tuyển Liên Xô ở Amsterdam 1954

    Vì trong phòng thi đấu thiếu điều hòa nên cả Fischer và Bronstein đều mặc áo sơ mi ngắn tay. Fischer đã tuyên bố công khai trước trận đấu rằng có một người có thể đánh bại cậu, đó là Bronstein. Và Bobby đã chuẩn bị rất kỹ cho trận đấu này.

    Fischer và Bronstein ngồi vào bàn đã để sẵn hai lá cờ của Mỹ và Liên Xô. Fischer thi đấu tự tin và sử dụng một khai cuộc đã được cậu phân tích kỹ lưỡng, khai cuộc Ruy Lopez, ngay lập tức cậu nắm thế chủ động và gây sức ép lên các ô trung tâm.

    Tuy nhiên, sau đó ván cờ diễn ra quyết liệt, và cậu lâm vào tình trạng thiếu thời gian. Một thế cờ tàn cuộc kéo dài và đầy phức tạp. Cậu liều lĩnh muốn đánh thắng Bronstein vì nhiều lý do: để chứng minh với bản thân rằng cậu có thể làm được; để chứng minh với những người khác, đặc biệt là các kỳ thủ tham gia giải; để chứng minh với cả thế giới rằng cậu là một kỳ thủ vĩ đại như bất kỳ ai. Nhưng đồng hồ, đồng hồ! Thời gian đang cạn dần.

    Chỉ còn vài giây, Bobby chỉ vừa kịp thực hiện nước thứ 40 trước khi lá cờ trên đồng hồ cậu rơi xuống, và ván cờ được tạm hoãn để đấu tiếp vào hôm sau. Tối hôm đó, Bobby cùng Lombardy ngồi miệt mài phân tích tàn cuộc đó. Cậu và Bronstein đều còn 1 Xe, 1 Tượng, và số chốt bằng nhau. Dù thế cờ gần như chắc chắn hòa, nhưng hai chàng trai trẻ người Mỹ nghiên cứu suốt nhiều giờ đồng hồ để hy vọng tìm ra bất cứ một khả năng nhỏ nhoi nào khả dĩ giúp Bobby giành chiến thắng khi ván cờ tiếp diễn.

    Ngày hôm sau Fischer và Bronstein tiếp tục ván đấu. Hai người giao chiến thêm 20 nước nữa. Bronstein kém 1 chốt và bắt đầu chiếu Vua của Fischer, chiếu liên tục. Fischer không thể tiến triển gì thêm. Ván cờ được tuyên bố hòa vì lặp lại nước đi.

    Tại câu lạc bộ cờ Marshall, các kỳ thủ đang phân tích các ván đấu tại Interzonal bằng điện tín gửi về từ Portoroz. Họ như phát điên khi tin hòa cờ bay đến. "Bronstein?!", ai đó hoài nghi, như thể tay cờ Liên Xô là Goliath, còn Bobby là David vậy. "Bronstein!? Thiên tài của cờ vua hiện đại !". Một điều không thể đã xảy ra: Cậu bé 15 tuổi hòa với một tay cờ có lẽ là mạnh thứ hai hay thứ ba thế giới hiện nay. Quá tuyệt vời để các thành viên câu lạc bộ chuẩn bị sẵn một bữa tiệc để chờ người hùng trở về, cho dù cậu vẫn chưa chính thức giành được quyền tham dự Candidates.

    Những tiên đoán bắt đầu thay đổi, không chỉ về tương lai của Bobby, mà còn về tương lai của chính cờ vua Mỹ. Biết đâu cậu bé Brooklyn không chỉ giành được vé dự Candidates, mà còn vô địch luôn Interzonal? Liệu danh tiếng của cờ vua Mỹ có được vút bay trên đôi cánh của Bobby? "Bronstein!"

    Bobby cố gắng giữ tập trung, nhưng cậu gặp khó khăn. Vào ngày nghỉ ở Portoroz, trong những lần hiếm hoi đi ra ngoài, cậu thường được hỏi xin chữ ký hay chụp một bức ảnh. Lúc đầu cậu còn thích, nhưng dần dần điều này diễn ra liên tục nên khiến cậu khó chịu, và cậu bắt đầu căm ghét. Ít nhất hai lần cậu phải chịu sự bao vây của các fan hâm mộ. Cậu tự áp đặt cho mình: Cậu chỉ ký tặng sau mỗi ván (nếu cậu không thua hoặc không thất vọng về ván đó), và một lần ký chỉ kéo dài 5 phút. Vài lần cậu đang ngồi trong nhà hát sau một ván cờ thì bị hàng trăm người kéo đến xin chữ ký. Thế là cậu phải miễn cưỡng ký tặng họ một cách nguệch ngoạc.

    [​IMG]
    Bobby Fischer 15 tuổi với các fan hâm mộ

    Cuối cùng, cậu yêu cầu ban tổ chức chăng dây quanh khu vực thi đấu, vì đám đông thường tụ tập nhiều giờ liền trong khi cậu chơi. Cậu phàn nàn rằng mình không thể tập trung được. Khi đi trên đường, nếu được hỏi xin chữ ký, cậu sẽ hỏi lại họ có biết chơi cờ không. Nếu họ không biết thì cậu sẽ từ chối ký tặng và khinh khỉnh bỏ đi. Vẫn tiếp tục bị bao vây bởi các nhà báo, những tay săn ảnh, cuối cùng Bobby quyết định: Sẽ không ký tặng, chụp hình hay trả lời bất cứ một câu hỏi nào nữa.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  17. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Sau trận đấu quả cảm với Bronstein, mọi việc diễn tiến không như Bobby đã vạch ra. Cậu thua và hòa một số ván với các "small fry", bao gồm những tay cờ đến từ Argentina, Hungary và Czechoslovakia. Tuy nhiên, cậu cũng có những ván đấu ấn tượng khi hòa với siêu sao Mikhail Tal; hòa với đối thủ cũ tại câu lạc bộ cờ Moscow là Tigran Petrosian; hòa với Svetozar Gligoric của Yugoslavia; và chiến thắng đẹp mắt trước Bent Larsen của Đan Mạch. Những năm sau, Fischer đánh giá ván cờ với Larsen là một trong những ván cờ hay nhất mà cậu từng chơi.

    Về ván đấu với Olafsson, cậu viết: "Tôi đã chơi khai cuộc tốt. Anh ta thí một chốt, nhưng sau khi hơn quân, tôi phạm sai lầm và ván cờ gần như cân bằng. Nhưng (lại lần nữa) tôi bị thiếu thời gian, và đi một loạt các nước yếu. Khi ván cờ hoãn lại anh ta có cặp chốt thông liên kết và không thể nào ngăn cản nổi".

    Ván cuối cùng của Bobby tại giải là với Gligoric, một trong những kỳ thủ mạnh nhất ngoài Liên Xô. Nếu Bobby thua ván này, trong khi những đối thủ khác hiện chỉ kém cậu nửa điểm trên bảng xếp hạng, thì Bobby sẽ không được quyền tham dự Candidates. Nhờ điểm số rất cao nên Gligoric đã chắc một suất ở Candidates, vì vậy ông có thể dễ dàng đề nghị Fischer một ván hòa sớm kiểu đại kiện tướng ("grandmaster draw"). Thay vì thế, ông đánh quyết chiến, thí một Mã đổi lại có được 3 chốt. Bobby chống trả kiên cường trước các đợt công phá dồn dập, và phòng thủ được trước thế cờ khó. Ở nước thứ 32, kỳ thủ người Yugoslav nhìn vào bàn cờ và nói: "Remis?". Fischer biết đó là một từ tiếng Pháp có nghĩa là "hòa cờ", và cậu đồng ý ngay lập tức. "Chưa có ai dám thí quân trước Fischer cả", cậu vừa nói vừa cười toe toét, và có phần hơi kiêu ngạo.

    [​IMG]
    Ván đấu giữa Gligoric và Fischer tại Interzonal 1958

    Với việc hòa ván cuối và xếp hạng 5, Bobby Fischer trở thành kỳ thủ trẻ tuổi nhất trong lịch sử được quyền tham dự Candidates Tournament, và cậu cũng trở thành đại kiện tướng quốc tế trẻ nhất cho đến thời điểm đó (15 tuổi 6 tháng, mãi cho đến năm 1991 kỷ lục này mới bị phá vỡ bởi nữ kỳ thủ Judit Polgar với 15 tuổi 4 tháng). Tờ The New York Times đăng một bài ca ngợi Bobby và rất lấy làm tự hào vì cậu.

    Trong một cuộc phỏng vấn vào năm ngoái (2010), Svetozar Gligoric, lúc này đã 87 tuổi, có nói về tình bạn của ông với Fischer bắt đầu từ chính giải đấu này (Portoroz Interzonal Tournament 1958):

    Tôi tự xem mình có trách nhiệm phải chăm sóc cho Bobby; cậu ấy mới 15 tuổi, còn tôi thì 35. Chúng tôi dành nhiều thời gian với nhau. Một lần chúng tôi ở bên bờ sông, bơi lội và tắm nắng. Tôi là một tay bơi cừ khôi, còn Bobby thì cố tỏ ra bơi giỏi hơn tôi. Nhưng sau đó cậu ấy hờn dỗi vì thua cuộc. Tôi chọc cậu ta: "Bobby à, cậu cần phải luyện 20 năm nữa thì mới thắng được tôi!".

    Ở đó, bên dòng sông, Fischer hỏi ý kiến tôi về một phương án trong Phòng thủ Sicilian. Trắng có thể hi sinh một quân và triển khai một đợt tấn công cực mạnh vào cánh Vua Đen. Phải nói rằng Bobby cập nhật rất nhanh về lý thuyết khai cuộc và những ván cờ mới nhất trên thế giới. Đi đâu Bobby cũng cầm theo một bàn cờ bỏ túi. Sau đó cậu ấy cho tôi xem ván cờ, được chơi tại một giải nhỏ ở Siberia, và hỏi tôi nghĩ sao về nước đi Xe mà cậu ấy đang phân tích.

    Hãy tưởng tượng tôi kinh ngạc thế nào khi ở vòng đấu thứ 21 của Interzonal Tournament ở Portoroz, Fischer chơi lại đúng phương án mà cậu ấy đã nói với tôi bên dòng sông! Và không chỉ thế, cậu ấy còn đi lại đúng nước mà tôi không hề đánh giá cao. Tôi cầm Trắng và hòa ván đó, nhưng phải thừa nhận rằng trong tình thế cuối cùng, khi tôi có 3 chốt chống với 1 quân nhẹ, thì thế cờ của Fischer tốt hơn.

    Cuối cùng cả hai chúng tôi đều giành được quyền tham dự Giải Vô Địch Thế Giới, tôi đứng thứ 2 sau Tal, còn Fischer thì đồng hạng 5-6 (với Fridrik Olafsson).
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  18. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Dù chỉ mới rời Mỹ 2 tháng nhưng Bobby đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm thi đấu quý báu, và cậu ngày càng chững chạc hơn. Khi được một phóng viên ở Portoroz hỏi cậu có trông đợi được thi đấu tranh ngôi vô địch thế giới với Mikhail Botvinnik không, cậu nói: "Dĩ nhiên là tôi muốn đấu với Botvinnik. Nhưng còn quá sớm để nói về điều đó. Hãy nhớ rằng năm tới tôi còn phải tham dự Candidates trước khi có thể nghĩ đến việc gặp Botvinnik".

    Bobby chỉ nhận được 400 USD cho 6 tuần làm việc cật lực tại Interzonal ("Mỗi ván giống như một bài thi dài 5 tiếng", cậu nói), và điều đó làm cho cậu chán nản. Sự thực bây giờ cậu đã là một đại kiện tướng quốc tế, và đủ tư cách tham dự Giải Vô Địch Thế Giới. Nhưng cậu tự hỏi làm thế nào để cậu có thể kiếm sống bằng nghề chơi cờ. Ngoại trừ Liên Xô - nơi các kỳ thủ được nhà nước hỗ trợ rất đầy đủ, thì không có kỳ thủ nào có thể kiếm đủ sống nhờ chiến thắng tại các giải đấu. Họ phải làm thêm các công việc khác như dạy cờ, thi đấu biểu diễn, điều hành phòng cờ, bán các bộ cờ, viết sách và các bài cho tạp chí cờ để kiếm thêm thu nhập.

    Đó là một cuộc sống bấp bênh.

    Bobby được mẹ và chị Joan đón tại Idlewild (sau này đổi tên thành John F. Kennedy International Airport). Regina ngắm nhìn đứa con trai nổi tiếng và thốt lên: "Trông nó gầy như que củi", bà như òa khóc.

    Vài ngày sau Bobby quay trở lại trường học Erasmus. Cậu nhanh chóng bị tụt lại phía sau vì đã nghỉ học nhiều ngày. Tuy nhiên, thay vì trừng phạt cậu, lãnh đạo nhà trường lại tặng thưởng cậu huy chương vàng vì đã trở thành đại kiện tướng quốc tế trẻ nhất trong lịch sử. Và tiểu sử của cậu còn được đưa lên báo trường.

    Sau đó Bobby tham gia một giải cờ nhanh tổ chức hàng tuần tại câu lạc bộ cờ Marshall tên là "Tuesday Night Rapid Transit". Cậu đồng hạng nhất với Edmar Mednis. Trớ trêu thay, ván thua duy nhất của Bobby trong giải lại trước chính huấn luyện viên của mình, Jack Collins.

    Mối quan hệ của Bobby với Collins khá phức tạp. Với Collins, ông vui vì trình độ của Bobby đã thăng tiến đến một mức mà ông chưa bao giờ đạt đến. Ông dành tình thương cho Bobby như một người cha, và hãnh diện vì tất cả những thành tích mà Bobby đạt được. Ông xem Bobby như con mình.

    Còn Bobby thì lại nhìn mối quan hệ này theo cách khác. Cậu không xem Collins như một người cha, mà như một người bạn, mặc dù họ chênh lệch đến 30 tuổi. Cậu cũng xem chị gái Ethel của Collins là một người bạn, và thậm chí còn quý mến Ethel hơn cả Collins.

    Điều Collins không biết đó là Bobby thỉnh thoảng công kích ông ở sau lưng. Những lời nhận xét đều hoàn toàn liên quan đến cờ. Dù đôi lúc Collins có thể đánh bại Bobby trong cờ nhanh, và thậm chí trong những ván đấu tập nghiêm chỉnh (họ chưa bao giờ gặp nhau trong một giải đấu chính thức), nhưng thực sự sức cờ của Bobby mạnh hơn Collins nhiều.

    Ngoài ra, Bobby cũng không thích Collins công khai là giáo viên của cậu, và những kỳ thủ trẻ khác xếp hàng để làm học trò của Collins, háo hức muốn được trở thành Bobby Fischer thứ hai. Bobby, có lẽ vì tuổi thơ sống trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất, nên căm ghét bất cứ ai muốn kiếm tiền từ cái tên của cậu.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  19. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Cái nhìn chòng chọc của Mikhail Tal (Mikhail Tal’s stare) rất lợi hại, và thường báo hiệu điềm xấu. Với cặp mắt sâu màu đen, anh nhìn rất chăm chú vào đối thủ, và người ta bảo rằng anh đang cố gắng thôi miên họ để khiến họ đi những nước lầm đường lạc lối. Kỳ thủ người Mỹ - Hungary Pal Benko thường đeo một cặp kính mát khi đối mặt với Tal, để tránh ánh nhìn khét tiếng của đối thủ.

    [​IMG]
    Kỳ thủ Mikhail Tal

    Không hẳn là Tal cần lợi thế đó. Kỳ thủ 23 tuổi người Latvia thực sự là một tài năng lỗi lạc. Hai lần vô địch Liên Xô, vô địch Portoroz Interzonal, trở thành ứng viên sáng giá nhất để tranh ngôi vô địch thế giới với Mikhail Botvinnik. Phong cách đánh của Tal rất bão táp, với những đòn phối hợp đầy sáng tạo, thí quân theo trực giác, và cực kỳ sắc bén. Anh được mệnh danh là "Thầy phù thủy xứ Riga". Đẹp trai, tài hoa, và năng lượng rất dồi dào, chàng trai người Latvia là một trong những kỳ thủ được yêu thích nhất thế giới. Bàn tay phải của anh bị biến dạng, nhưng dường như điều đó không hề làm giảm bớt sự tự tin của anh.

    [​IMG]
    Bàn tay phải bị biến dạng của Mikhail Tal

    Để thấy các đối thủ e ngại trước cái nhìn của Tal như thế nào, mời các bạn xem clip sau đây (kéo đến giây thứ 12 của clip sẽ thấy một kỳ thủ đeo kính đen ngồi đối diện với Tal, đó chính là Pal Benko):


    Bobby Fischer cũng tự tin không kém, nhưng phong cách đánh của cậu lại gây ấn tượng theo kiểu khác: sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu, trong suốt như pha lê (crystal-clear), chắc chắn, và đầy hợp lý. J. H. Donner, đại kiện tướng nổi tiếng người Ha Lan, nói về sự khác biệt: "Fischer đánh thực dụng, và thiên về kỹ thuật. Anh ta hầu như không phạm sai lầm. Còn lối đánh của Tal thì giàu trí tưởng tượng hơn...".

    Bobby đã có cơ hội chạm trán với cái nhìn nổi tiếng của Tal khi họ gặp nhau lần đầu tiên tại Portoroz. Ván cờ đó kết thúc hòa. Gần đây tại Zurich, 3 tháng trước khi Candidates khai diễn, họ lại hòa một lần nữa. Giải đó Bobby về thứ ba, kém hơn Tal - nhà vô địch, một điểm. Nhưng giờ đây, tại một giải đấu ở đẳng cấp cao hơn và cũng quan trọng hơn là Candidates - nhằm xác định ai là người được đấu trận tranh chức vô địch thế giới danh giá, Fischer sẽ không để cho ánh mắt Tal quyết định số mệnh của cậu.

    Candidates Tournament, giải đấu trải dài qua 3 thành phố của Yugoslavia, với hình thức thi đấu vòng tròn 4 lượt cực kỳ khắc nghiệt và kéo dài hơn 6 tuần. 4 kỳ thủ - Mikhail Tal, Paul Keres, Tigran Petrosian và Vassily Smyslov - là người Liên Xô. 3 kỳ thủ khác - Gligoric, Olafsson, và Benko - hiển nhiên nằm trong số những kỳ thủ giỏi nhất thế giới. Fischer là kỳ thủ Mỹ duy nhất, và với nhiều người cậu là ngựa ô tại giải. Dù vậy, trong một khoảnh khắc nhiệt huyết của tuổi trẻ bùng lên, cậu tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn rằng mình sẽ là người chiến thắng. Leonard Barden, một phóng viên người Anh, nói rằng Fischer trả lời bằng một từ tiếng Serbo-Croatian mà cậu học được, đồng nghĩa với "first" (hạng nhất): "prvi"
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
  20. dangtuanpr

    dangtuanpr Lớp 6

    Trong suốt cuộc thi, Fischer có thói quen mặc một chiếc áo len trượt tuyết với quần dài, đầu tóc thì để rối bù như không chải, trong khi những kỳ thủ khác đều vận comlê, áo sơ mi, thắt cà vạt, đầu tóc chải chuốt rất cẩn thận. Giải đấu sẽ di chuyển từ Bled sang Zagreb và kết thúc tại Belgrade.

    Vẫn còn giận điên vì cảm thấy mình bị đối xử thiếu tôn trọng trong chuyến thăm Moscow một năm trước, Bobby bắt đầu đóng vai một đấu sĩ trong thời Chiến Tranh Lạnh (Cold War gladiator). Cậu tuyên bố hầu hết các kỳ thủ Liên Xô là kẻ thù của cậu (Bobby trừ Smyslov ra, vì ông luôn cư xử rất hòa nhã với cậu). Nhiều năm sau, theo những tài liệu được công bố đã cho thấy rằng Bobby nói đúng. Một kiện tướng người Nga, Igor Bondarevsky, viết rằng "cả 4 đối thủ Liên Xô (của Fischer) làm mọi thứ trong khả năng của họ để trừng trị những đối thủ đang lên" ("all four of [Fischer’s] Soviet opponents did everything in their power to punish the upstart"). Tal và Petrosian, những người bạn thân, hòa nhanh một số ván cờ của họ, nhằm tiết kiệm sức lực (nếu bạn nào không tin có thể kiểm chứng lại, ngoại trừ ván 4 hai người giao chiến ác liệt, thì ván 1, ván 2, và thậm chí ván 3, đều hòa hữu nghị). Dù không phải là không hợp lệ, nhưng rõ ràng hành động này là không đẹp.

    Bobby, về phần mình, rất tức giận: "Tôi sẽ dạy họ một bài học khiến cho họ mãi không bao giờ quên". Đây cũng là quyết tâm trong suốt sự nghiệp chơi cờ của Fischer (sau này còn xảy ra nhiều việc khác khiến Fischer càng căm ghét làng cờ Liên Xô hơn).

    [​IMG]
    Bobby Fischer tại Candidates 1959

    Trong ván đầu tiên với Tal ở Bled, Bobby đã ngồi sẵn trước bàn cờ, trong khi chàng Misha 23 tuổi chỉ đến vừa kịp lúc để bắt đầu trận đấu. Bobby ngồi còn Tal thì đứng chìa bàn tay phải ra để bắt tay cậu. Bàn tay của Tal tuy bị biến dạng rất ghê, với 3 ngón lớn dính vào nhau như móng vuốt, nhưng Bobby không để ý đến. Cậu đáp lại bằng cả hai bàn tay nắm chặt, và bắt đầu thi đấu.

    Dù vậy, chỉ sau vài nước, Bobby bắt đầu cảm thấy khó chịu. Cậu bực mình vì cách cư xử của Tal ở trong và ngoài bàn cờ. Đây là thời điểm mà "cái nhìn" bắt đầu bủa vây lấy cậu. Tal, dường như càng muốn chọc tức Bobby hơn, nên thường mỉm cười sau mỗi nước đi của tay cờ người Mỹ, như thể muốn nói: "Cậu bé ngờ nghệch kia, tôi biết cậu đang nghĩ gì trong đầu - thật là buồn cười khi mà cậu nghĩ có thể đánh lừa được tôi!".

    Mời các bạn xem clip này để thấy cái nhìn khó chịu của Tal với Fischer (thú thật gặp phải một đối thủ như thế này không tức mới là lạ [​IMG]):




    Fischer, quyết định dùng chính chiến thuật của Tal để chống lại Tal. Cậu thỉnh thoảng cũng nhìn chằm chằm vào Tal, và thậm chí còn mỉm cười chế nhạo. Nhưng chỉ sau vài giây, cậu buộc phải tập trung vào một thứ khác quan trọng hơn: những diễn biến trên bàn cờ, những kế hoạch được cậu vạch ra để chống lại các đòn phối hợp sấm sét của Tal.

    Tal là một bách khoa toàn thư về các động tác (Tal was an encyclopedia of kinetic movement). Chỉ trong khoảng vài giây, anh đi quân, ghi biên bản, nhìn vào đồng hồ để kiểm tra thời gian, nhăn mặt, mỉm cười, theo như Bobby tả lại. Sau đó anh đi lên rồi đi xuống sân khấu trong khi Bobby suy nghĩ. Những động tác của Tal "đi quanh bàn giống như một con chim đại bàng" - có lẽ là, một con chim đại bàng đang sẵn sàng vồ mồi.
     
    chichi.myluckycharm thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này