Hoàn thành JAUNT - Stephen King

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi 72thudo, 25/12/23.

  1. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    JUANT
    (The Juant)

    Tác giả: STEPHEN KING


    “Đây là thông báo cuối cùng của chuyến bay Jaunt-701,” giọng nữ dễ thương vang khắp phòng chờ Blue Concourse của Nhà ga Hàng không New York. Cảng hàng không này đã không mấy thay đổi trong khoảng ba trăm năm qua - vẫn nhếch nhác và hơi đáng sợ. Giọng máy con gái có lẽ là điều dễ chịu nhất ở đây. “Đây là chuyến Jaunt số hiệu 701 khởi hành từ New York tới thành phố Whitehead, Hỏa tinh,” giọng nói tiếp tục. “Quý khách đã có vé xin mời vào phòng chờ Blue Concourse. Chúc quý khách có một chuyến Jaunt tốt đẹp."

    Phòng nghỉ ở tầng trên không hề bẩn thỉu chút nào. Các tấm thảm xám xanh trải suốt từ tường này sang tường kia. Các bức tường màu trắng vỏ trứng treo những bức tranh trừu tượng dễ thương. Một chuỗi gam màu mượt mà, êm dịu gặp nhau và xoay tròn trên trần nhà. Trong căn phòng rộng rãi, một trăm chiếc ghế dài xếp thành mười chiếc mỗi hàng ngay ngắn. Năm tiếp viên đi vòng quanh, bằng giọng trầm ấm vui vẻ mời khách những ly sữa. Ở hai bên lối vào là các nhân viên bảo vệ có vũ trang và một người nhân viên khác đang kiểm tra giấy tờ của một khách đến sau, đó là một doanh nhân trông có vẻ luộm thuộm với tờ New York World-Times kẹp dưới nách. Ngay trước cửa, sàn nhà lõm xuống một lòng máng, rộng khoảng 1.5 m và dài 3 m; và trông hơi giống cầu trượt của trẻ em.

    Gia đình nhà Oates nằm bên nhau trên bốn chiếc ghế dài ở gần cuối phòng. Mark Oates và vợ anh Marilys, cùng hai đứa con.

    “Bố ơi, bây giờ bố có thể kể cho chúng con nghe về Jaunt được không?” Cậu con trai mười hai tuổi Ricky đòi hỏi. "Bố đã hứa mà."

    “Ừ, bố đã hứa rồi,” Cô em gái chín tuổi Patricia phụ họa theo và cười khúc khích một cách vô cớ.

    Một doanh nhân lực lưỡng như con bò mộng liếc nhìn họ rồi quay lại với tập tài liệu mà ông đang xem . Ông ta nằm ngửa, đôi giày bóng lộn xếp ngay ngắn . Từ khắp nơi vang lên tiếng trò chuyện rì rầm, tiếng sột soạt của hành khách đang ngồi xuống ghế .

    Mark liếc nhìn Marilys Oates, và nháy mắt. Vợ anh nháy mắt đáp lại, nhưng cô cũng có vẻ căng thẳng gần như con gái họ Patty. Tại sao không chứ? Mark nghĩ. Đây là chuyến đi đầu tiên của cả ba người họ. Trong thời gian sáu tháng, kể từ khi anh được thông báo của Texaco Water rằng anh sẽ chuyển đến công tác ở thành phố Whitehead, thì anh và Marilys đã bàn thảo, cân nhắc về việc chuyển cả gia đình theo. Cuối cùng họ quyết định,tất cả nhà sẽ đi trong hai năm, là thời gian mà Mark làm việc trên sao Hỏa. Nhìn khuôn mặt nhợt nhạt của vợ, anh tự hỏi, liệu cô có hối hận về quyết định này không .

    Anh nhìn đồng hồ và thấy vẫn còn gần nửa tiếng nữa mới tới giờ Jaunt. Thời gian đủ để kể câu chuyện. . . và anh nghĩ rằng nó sẽ khiến tâm trí bọn trẻ thoát khỏi những suy nghĩ lo lắng. Và có lẽ cũng sẽ làm Marilys dịu đi đôi chút.
    “Được rồi,” anh nói. Anh em Ricky- Pat nhìn bố một cách nghiêm túc. Anh tự nhủ, lúc gia đình họ quay về Trái Đất có lẽ Ricky đang ở tuổi dậy thì và con gái anh đã lớn ngực và một lần nữa anh lại cảm thấy khó tin. Bọn trẻ sẽ theo học tại Trường Bách nghệ Whitehead cùng với hàng trăm đứa nhóc con em nhân viên hãng; con trai anh có thể sẽ tham gia chuyến thực địa tới vệ tinh Phobos cách sao Hỏa không quá xa. Thật khó tin . . . nhưng lại là sự thật.

    Ai biết được? anh đăm chiêu nghĩ

    “Theo những gì chúng ta biết,” anh bắt đầu, “Jaunt được phát minh ra cách đây khoảng ba trăm hai mươi năm, khoảng năm 1987, bởi một nhà Vật lý tên là Victor Carune. Công trình của Ông như một dự án nghiên cứu tư nhân được chính phủ tài trợ. . . và lẽ tất nhiên, rồi chính phủ đã tiếp quản nó. Cuối cùng nó cũng rơi vào tay chính phủ hoặc các công ty dầu mỏ. Theo đồn đoán thì Carune là một người lập dị—”

    “Ý bố là ông ấy bị điên hả bố?” Ricky hỏi.

    “Lập dị có nghĩa là hơi điên một chút, con ạ,” Marilys mỉm cười với Mark. Anh nghĩ bây giờ cô đã bớt lo hơn rồi

    "Ồ."

    “Dù sao thì ông ấy đã tiến hành các thí nghiệm này khá lâu trước khi thông báo cho chính phủ về những gì ông đã đạt được,” Mark tiếp tục, “và ông ấy phải nói với họ vì ông sắp hết tiền và họ sẽ không tái tài trợ nữa.”

    "Kinh phí nghiên cứu của ngài đang được xét duyệt", Pat khúc khíchcười.

    “Đúng đấy,con yêu,” Mark nhẹ nhàng xoa tóc con bé. Ở phía xa cuối căn phòng, anh nhìn thấy một cánh cửa trượt nhẹ mở và hai tiếp viên khác bước ra, họ mặc bộ áo liền quần màu đỏ tươi của Dịch vụ Jaunt, đẩy một chiếc bàn lăn. Trên đó là một vòi phun bằng thép không gỉ gắn với một ống cao su; Mark biết bên dưới khăn trải bàn, được giấu hai bình khí ; trong chiếc túi lưới móc bên hông là các chiếc mặt nạ dùng một lần. Mark tiếp tục nói, không muốn người nhà mình phải sớm gặp đại diện của sông mê nước lú Lethe, cho đến khi họ buộc phải gặp . Và, nếu anh có đủ thời gian để kể toàn bộ câu chuyện, có thể ba người sẽ chào đón những người này với vòng tay rộng mở.

    “Tất nhiên, các con đã biết Jaunt chính là “dịch chuyểnlượng tử,” anh nói. “ Ở các trường đại học, người ta gọi nó là “Hiệu ứng Carune”, và chính Carune – lại đặt tên cho nó là Jaunt. Ông là người mê truyện khoa học viễn tưởng. Có một chuyện tên là The Stars My Destination của nhà văn Alfred Bester, và chính Bester là người khai sinh ra 'jaunte' người có khả năng dịch chuyển tức thời- dịch chuyển lượng tử . Nhưng trong quyển sách của Bester, con chỉ có thể jaunt bằng nỗ lực tâm trí, và chúng ta không thể thực sự juant được.”

    Những tiếp viên gắn một chiếc mặt nạ vào vòi thép và đưa nó cho một người phụ nữ lớn tuổi ở cuối phòng. Bà ta cầm lấy, hít một hơi rồi nằm rũ xuống, im lịm trên chiếc ghế dài. Váy bị kéo lên một chút, để lộ một bên đùi chảy xệ với những đường gân tĩnh mạch. Một tiếp viên ân cần điều chỉnh lại cho bà trong khi người kia tháo chiếc mặt nạ đã qua sử dụng ra và đeo vào một chiếc mới. Anh cầu Chúa rằng Patty sẽ nguôi ngoai một chút; anh đã từng chứng kiến những đứa trẻ bị ghì xuống, và chúng la hét khi bị mặt nạ cao su che kín mặt. Anh cho rằng đó không phải là một phản ứng bất thường, nhưng thật khó chịu khi chứng kiến và anh không muốn thấy điều đó xảy ra với Patty. Về Rick anh cảm thấy an tâm hơn.

    “Con nghĩ, Bố sẽ nói Jaunt đã xuất hiện vào đúng phút thứ 89,” Ricky gợi ý. Ông quay sang nói với Ricky nhưng lại đưa tay ra nắm lấy tay con gái. Những ngón tay nó lập tức siết chặt một cách hoảng loạn. Lòng bàn tay lạnh và hơi đổ mồ hôi. “Thế giới đang cạn kiệt dầu, và hầu hết số dầu còn lại nằm trong tay các dân tộc sa mạc ở Trung Đông, những người đã sử dụng nó như một vũ khí chính trị. Họ đã thành lập một tập đoàn dầu mỏ, gọi là OPEC…”

    “Là các Cartel hả bố?” Patty hỏi.

    “Đúng đấy, là độc quyền,” Mark nói.

    “Giống như một câu lạc bộ vậy, con ạ,” Marilys nói. “Và con chỉ có thể tham gia câu lạc bộ đó nếu con có nhiều dầu.”

    “Ồ.”

    “Bố không có thời gian để dông dài về mớ hỗn độn này,” Mark nói. “Các con sẽ được học ở nhà trường, nhưng nó thật lộn xộn - hãy để đó. Tóm lại, nếu con có một chiếc ô tô, con chỉ có thể sử dụng hai ngày một tuần, và xăng có giá mười lăm đô la một gallon...”

    “Chúa ơi,” Ricky nói, “hiện giờ chỉ bốn xu một gallon thôi ,sao?”

    Mark mỉm cười. “Đó là lý do tại sao chúng ta sẽ đi đến nơi chúng ta đang đến, Rick. Có đủ dầu trên Sao Hỏa để tồn tại gần tám nghìn năm và trên Sao Kim để tồn tại trong hai mươi nghìn năm nữa. . . nhưng dầu thậm chí không còn quan trọng nữa. Bây giờ thứ chúng ta cần nhất là—”

    "Nước!" Patty kêu lên, người doanh nhân ngước lên khỏi đống giấy tờ và mỉm cười với nó .

    “Đúng vậy,” Mark nói. “Bởi vì trong những năm từ 1960 đến 2030, chúng ta đã đầu độc hầu hết mọi người trên trái đất. Chuyến tàu nước đầu tiên từ chỏm băng trên sao Hỏa được gọi là—”

    “Chiến dịch Ống Rơm.” Lại là Ricky

    " Đúng rồi. Năm 2045 hay vào khoảng đó. Nhưng trước đó rất lâu, Jaunt đã được sử dụng để tìm nguồn nước sạch trên trái đất. Và bây giờ nước là mặt hàng xuất khẩu chính của sao Hỏa. . . dầu hoàn toàn là thứ yếu. Nhưng lúc đó dầu hỏa rất quan trọng.”

    Bọn trẻ gật đầu.

    “Vấn đề là những thứ đó, dầu hỏa nước, luôn ở đó, và chúng ta chỉ có được nó nhờ vào Jaunt. Khi Carune phát minh Jaunt, thế giới đang bước vào một thời kỳ đen tối mới. Mùa đông trước đó, chỉ riêng ở Mỹ đã có hơn 10.000 người chết rét vì không có đủ năng lượng sưởi ấm”.

    “Ồ, chết tiệt,” Patty bật thốt lên .

    Mark liếc sang bên phải và thấy các tiếp viên đang thuyết phục một người đàn ông. Cuối cùng, anh ta cũng cầm lấy chiếc mặt nạ và chỉ vài giây sau đó anh ta dường như đã chết lịm trên ghế.

    “Đối với Carune, mọi chuyện bắt đầu từ một cây bút chì. . . vài cái chìa khóa . . . một chiếc đồng hồ đeo tay. . . sau đó là chuột. Những con chuột cho ông ta thấy có vấn đề. . .”

    Người dịch: PHẠM TỪ
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/5/24
  2. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ..
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/24
  3. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ....
    Victor Carune quay lại phòng thí nghiệm của mình trong cơn phấn khích tột độ. Bây giờ, ông đã hiểu cảm xúc của Morse của Alexander Graham Bell và cả Edison là như thế nào. . . nhưng chuyện này còn lớn hơn, lớn hơn rất nhiều.Đã hai lần ông suýt tông hỏng chiếc xe tải của mình trên đường về nhà từ cửa hàng thú cưng ở New Paltz, nơi ông đã tiêu hai mươi đô la cuối cùng mua chín con chuột bạch. Ông chỉ còn lại chín mươi ba xu trong túi ngực và mười tám đô trong tài khoản tiết kiệm. . .

    Phòng thí nghiệm nằm trong một nhà kho đã được tu sửa lại ở cuối con đường đất, cách xa lộ 26 chừng một dặm. Khi rẽ vào con đường này, lần thứ hai ông suýt tự tông chiếc xe bán tải Brat của mình. Bình xăng gần cạn và sẽ không có xăng trong vòng mười ngày đến hai tuần, nhưng điều này cũng không khiến ông lo lắng. Tâm trí ông đang quay cuồng mê sảng.

    Những gì đã xảy ra không hề là hoàn toàn bất ngờ. Những thất bại vô số trong lĩnh vực truyền hạt cơ bản, vì thế mà chính phủ đã tài trợ cho công trình nghiên cứu của ông, dù chỉ với số tiền ít ỏi 20 nghìn mỗi năm.

    Nhưng rồi nó đã xảy ra như thế này. . . đột nhiên bất ngờ . . . và tiêu thụ điện năng ít hơn điện năng chạy một chiếc TV màu. . . Giê su, lạy Chúa tôi!

    Ông dừng xe trên nền đất bẩn trước cửa nhà kho, cầm lấy chiếc hộp trên chiếc ghế bên cạnh (trong chiếc hộp có chó, mèo, chuột hamster và cá vàng và dòng chữ in TÔI TỪ CỬA HÀNG THÚ CƯNG STACKPOLE ) và chạy tới cánh cửa đôi lớn. Từ bên trong chiếc hộp vang lên tiếng chân loạt xoạt vội vã của các con vật.
    Ông cố gắng đẩy một cánh cửa lớn trượt theo đường ray, và nó không nhúc nhích, ông mới nhớ ra : cửa khóa . Carune thốt lên "Mẹ kiếp!" rồi mò mẫm tìm chìa khóa.

    Ông lấy chùm chìa khóa ra, cầm trên tay và trong vài giây chỉ nhìn chằm chằm vào chúng, như bị bùa mê, ngón tay cái mãi vuốt ve các rãnh trên chìa khóa xe Brat. Lạy Chúa tôi! Sau cùng, ông lục lọi trong chùm khóa, tìm chiếc chìa khóa Yale để mở cửa kho .

    Chiếc điện thoại đầu tiên đã hoạt động một cách bất ngờ khi Bell hét lên , “Watson, lại đây!” khi ông vô tình làm đổ một ít axit lên người - cũng như vậy, “dịch chuyển lượng tử” đầu tiên đã xảy ra hoàn toàn tình cờ. Victor Carune đã dịch chuyển lượng tử hai đầu ngón tay của bàn tay trái của mình đi một quãng đường năm mươi mét trong căn nhà kho nhếch nhác này.

    Carune đã thiết lập hai Cổng (portal: cổng điện tử) ở hai đầu đối diện của nhà kho. Hai Cổng hình chữ nhật và kích thước cỡ cuốn sách bìa mềm. Bên Cổng Một, ông đặt một khẩu súng ion , mua ở bất kỳ cửa hàng điện tử nào với giá dưới năm trăm đô la. Ở cổng bên kia Cổng Hai, đặt sau một chút là một buồng sương (buồng Wilson)[ii]. Giữa hai Cổng có một thứ trông như một tấm rèm tắm mờ đục, nhưng tấm rèm được làm bằng chìVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Ý tưởng của ông là bắn các ion từ Cổng Một, sau đó đi vòng sang và xem dòng hạt có truyền qua buồng sương đặt ngay sau ngoài Cổng Hai không, tấm chắn chì giữa hai cổng để chứng tỏ rằng đã có sự dịch chuyển thực sự . Nhưng trong hai năm qua, quá trình này chỉ hoạt động đúng hai lần và Carune không sao giải thích được.

    Sáng nay, khi ông đặt súng ion vào vị trí, các ngón tay của ông đã trượt qua phía trước Cổng—thông thường thì không có vấn đề gì, nhưng lần này hông ông vô tình chạm vào công tắc trên bảng điều khiển ở bên trái cổng. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra :hệ thống phát ra tiếng vo ve nho nhỏ có thể nghe được , cho đến khi ông cảm thấy ngứa ran ở các ngón tay.

    “Không giống như bị điện giật,” Carune viết trong bài báo duy nhất về chủ đề này trước khi chính phủ bắt ông phải câm miệng. Bài báo đã được xuất bản ở tạp chí Khoa học phổ thông. Ông đã bán cho họ với giá bảy trăm năm mươi đô la trong nỗ lực cuối cùng để giữ Jaunt chỉ là một doanh nghiệp tư nhân. “ Có cảm giác như tay ta đặt lên vỏ của một chiếc máy nhỏ đang hoạt động hết công suất. Sự rung động quá nhanh và quá nhẹ đến mức giống hệt cảm giác ngứa ran.”

    “Rồi, tôi nhìn xuống và phát hiện phần đầu ngón tay trỏ đã biến mất xiên chéo qua đốt giữa, và ngón thứ hai thì hơi lệch lên trên một chút. Và, phần móng ở ngón tay thứ ba cũng không còn.”

    Theo bản năng Carune rụt tay lại và kêu lên. Ông nghĩ rằng, sẽ nhìn thấy máu, sau này ông kể lại, ông đã bị ảo giác về máu trong một hoặc hai giây. Khuỷu tay va vào khẩu súng ion,và nó văng ra khỏi bàn.

    Ông đứng đó, ngậm các ngón tay trong miệng, để chắc rằng chúng vẫn còn ở đó. Ông nghĩ, mình đã làm việc quá …. Và một ý nghĩ khác bỗng lóe lên : những thay đổi cuối cùng trong tiến trình thí nghiệm có thể có . . . có thể đã …xảy ra chuyện gì đó.

    Ông thôi ngậm ngón tay; thực tế là , Carune chỉ được jaunt một lần duy nhất trong cả cuộc đời mình.

    Thoạt đầu, ông không làm gì cả. Ông đi lòng vòng không mục đích quanh nhà kho, tay vuốt tóc, lưỡng lự nên gọi cho Carson ở Học viện Công nghệ New Jersey hay gọi cho Buffington ở Đại học Charlotte. Sau đó, một ý tưởng chợt nảy ra và ông chạy tới Cổng Hai, nếu các ngón tay của ông thực sự di chuyển qua nhà kho thì phải có dấu vết nào đó chứ.

    Ở đó chẳng có gì cả, lẽ tất nhiên là thế. Cổng Hai được đặt trên ba thùng đựng cam chồng lên nhau, trông chẳng khác gì một chiếc máy chém nhưng thiếu lưỡi dao. Một bên khung thép của cổng có một giắc cắm, từ đó một sợi dây nối với thiết bị truyền phát, thiết bị này lại đấu nối vào mạng máy tính.

    Nó gợi ý cho ông …

    Carune liếc nhìn đồng hồ, đã mười một giờ mười lăm. Thỏa thuận của ông với chính phủ bao gồm một khoản tiền nhỏ, cộng với thời gian sử dụng máy tính, một thứ có giá trị vô cùng lớn. Và máy tính sẽ được kết nối đến ba giờ chiều nay, sau đó good-bye cho đến thứ Hai. Ông phải mau lên, phải làm gì đó…

    “Tôi nhìn đống thùng gỗ một lần nữa,” Carune viết trong bài báo ở tạp chí Khoa Học Phổ Thông, “và rồi tôi nhìn kỹ các ngón tay mình. Và thế là tương đối rõ rồi, bằng chứng là đây rồi. Lúc đó tôi nghĩ khó mà thuyết phục được ai khác ngoài chính bản thân; nhưng tất nhiên , đầu tiên là phải thuyết phục chính bản thân mình đã.”

    “Là cái gì vậy bố?” Ricky hỏi.

    "Vâng!" Patty cũng hỏi . "Là cái gì, ạ?"Mark hơi nhếch miệng cười . Bây giờ tất cả đều bị cuốn hút vào câu chuyện, kể cả Marilys. Họ gần như quên mất mình đang ở đâu. Qua khóe mắt, anh có thể thấy các tiếp viên của Jaunt đang thì thầm,từ từ đẩy chiếc xe giữa những hành khách, đưa họ vào giấc ngủ. Anhbiết rằng, đối với dân thường thì quá trình này chưa bao giờ diễn ra dễ dàng như với quân đội. Vòi khí và mặt nạ cao su quá gợi đến các phòng mổ , với bác sĩ cầm dao đứng đâu đó chờ … Đôi khi xảy hoảng loạn; và luôn luôn có một số người hoàn toàn mất kiểm soát. Trong khi kể truyện, Mark đã quan sát thấy hai người đàn ông đứng lên khỏi ghế, bước thẳng ra cửa , tháo các giấy tờ ghim trên ve áo, nộp lại cho nhân viên , và rời đi không ngoáinhìn. Những tiếp viên Jaunt đã được chỉ dẫn nghiêm ngặt, không được tranh cãi với họ; luôn luôn có người dự phòng.

    “Carune đã phát hiện hai cái dằm gỗ trên ngón tay trỏ của mình,” Mark tiếp tục kể .

    “Ông nhổ chúng ra và cẩn thận đặt sang bên. Một cái dằm đã mất, nhưng các con có thể nhìn thấy cái còn lại ở Viện Nghiên cứu Smithsonian Annex, Washington. Nó được đặt trong một hộp kính kín bên cạnh những hòn đá mà những nhà du hành vũ trụ mang về từ mặt trăng...”

    “Mặt trăng của chúng ta hay mặt trăng của sao Hỏa?” Ricky hỏi.

    “Mặt trăng của chúng ta,” Mark nói, hơi cười . “Chỉ có một chuyến bay có người lái từng hạ cánh trên Sao Hỏa, Ricky ạ, và đó là chuyến thám hiểm của người Pháp vào khoảng năm 2030. Dù gì đi nữa, thì tại sao lại có một cái dằm gỗ đơn sơ của một thùng cam ở Viện Smithsonian. Bởi vì đó chính là vật thể đầu tiên đã thực sự được dịch chuyển lượng tử, dịch chuyển tức thời , juanting qua không gian.”

    “Sau đó chuyện gì đã xảy ra?” Patty hỏi.

    “Chà, như người ta kể lại thì Carune đã chạy trốn. . .”

    Carune chạy lại Cổng Một, đứng đó một lúc, tim đập thình thịch, miệng thở dốc. Hãy bình tĩnh nào, ông nhủ thầm. Phải suy nghĩ thận trọng về chuyện này. Ta sẽ lãng phí thời gian quý báu nếu hành động bộp chộp.

    Cố tình tảng lờ những suy nghĩ đang gào thét trong đầu, thúc dục ông nhanh lên, làm gì đi ; ông lấy chiếc bấm móng tay và dùng nó để rút những dằm gỗ ra khỏi ngón trỏ. Rồi ông thả chúng vào hộp đựng kẹo sô cô la sữa Hershey. Một chiếc lọt ra khỏi lớp giấy bọc và bị thất lạc; cái còn lại cuối cùng được đưa vào Viện Smithsonian, bị nhốt trong tủ kính, bị buộc bằng dây nhung và bị theo dõi kỹ lưỡng và vĩnh viễn bằng camera.

    Công việc nhổ dằm kết thúc, Carune đã bình tĩnh hơn một chút. Bút chì. Bút chì cũng tốt vậy. Ông lấy một cái bút chì trên kệ hồ sơ và nhẹ nhàng đưa nó vào Cổng Một. Nó biến mất một cách êm ả, từ từ từng inch một, giống như một ảo ảnh quang học hoặc một trò ảo thuật tinh vi. Cây bút chì có dòng chữ màu đen EBERHARD FABER NO. 2 trên vỏ gỗ sơn vàng. Ông đẩy cây bút chì vào cho đến khi chỉ còn lại EBERH. Carune di chuyển sang phía bên kia của Cổng Một , nhìn vào mặt cắt cuả cây bút , nó như bị dao tiện ngọt sớt.

    Ông chạy qua Cổng Hai, và phần thiếu của cây bút chì đã nằm trên thùng trên cùng. Tim đập mạnh đến mức dường như rung lồng ngực, Carune nắm lấy phầnđầu nhọn của cây bút .

    Ông giơ lênnó lên; ông nhìn nó. Rồi ông dùng mẩu bút viết chữ JUANT lên trên một tấm ván tường. Ông ấn mạnh đến chữ cái cuối cùng thì đầu chì gãy vụn. Carune bỗng bật cười như điên dại trong căn nhà kho trống trải; những con én đang ngủ,giật mình bay vọt lên giữa những xà nhà cao.

    "JUANT !" ông gào lên, ông vung tay , cây bút chì gãy nắm chặt trong lòng tay.

    "Juant ! Juant rồi! Có nghe thấy tôi không, Carson, đồ chó đẻ? Nó đã hoạt động rồi TÔI ĐÃ LÀM ĐƯỢC RỒI!”

    “Mark, ăn nói cẩn thận …bọn trẻ,” Marilys trách móc .

    Mark nhún vai. “Ông ấy nói y chang vậy mà.”

    “Nhưng, anh không thể chỉnh sửa một chút sao?”

    "Bố?" Patty hỏi. “Cây bút chì cũng được vào bảo tàng chứ ạ?”

    “Hỏi con, gấu có ị trong rừng không? Chắc như bắp rồi” Mark nói rồi vội lấy tay bịt miệng. Cả hai đứa trẻ đều cười khúc khích mãi , giọng cười cuả Patty không còn chói tai nữa. Dù cố tỏ nghiêm túc, cuối cùng Marilys cũng khúc khích theo.








    Súng ion: súng tạo ra chùm ion nặng , có năng lượng xác định

    [ii] Buồng sương Wilson dùng để phát hiện các bức xạ ion

    [iii] Rèm bằng chì để chắn tia X, bức xạ gamma
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/24
    lamtuquyen, amylee and God of War like this.
  4. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/24
    lamtuquyen, amylee and God of War like this.
  5. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ....
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/24
    lamtuquyen, amylee and God of War like this.
  6. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  7. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ....

    Bây giờ, ông phải suy nghĩ lại toàn bộ tiến trình, vấn đề đầu tiên cần tìm hiểu là những vật được tái tạo lại ở cổng bên kia có thực sự như bản gốc ở bên này hay chúng đã bị thay đổi theo một kiểu nào đó trong khi dịch chuyển.

    Vậy tiếp theo là chùm chìa khóa .Ông theo dõi những chiếc chìa khóa đi vào cổng và biến mất; đồng thời ông nghe thấy tiếng leng keng của chúng trên chiếc thùng đối diện . Ông chạy qua và trên đường đi ông dừng lại để dẹp tấm rèm chì gọn vào một bên. Bây giờ ông không cần rèm cũng chẳng cần súng ion nữa. Và súng ion cũng đã bể nát không thể xài được nữa.

    Ông chộp lấy chùm chìa khóa, chạy đến cửa và thử chiếc khóa Yale. Mở ngon, hoạt động hoàn hảo. Cả chìa khóa tủ hồ sơ và cả chìa khóa xe bán tải Brat cũng vậy.

    Carune đút chìa khóa vào túi và tháo đồng hồ ra. Đó là chiếc Seiko quartz tích hợp một máy tính . Carune đặt nó xuống trước Cổng Một và dùng bút chì đẩy vào.

    Ông chạy sang Cổng kia và nhặt đồng hồ lên. Khi ông đặt vào đồng hồ chỉ 11:31:07, bây giờ là 11:31:49. Rất đáng đồng tiền.

    Ông kiểm tra máy tính. Hai với hai vẫn là bốn, tám chia bốn vẫn là hai; căn bậc hai của 11 vẫn là 3,3166247. . . và cứ như thế.

    Lúc này, ông quyết định: đã đến thời đại của “chuột” rồi.

    “Chuyện gì đã xảy ra với lũ chuột vậy bố?” Ricky hỏi.

    Mark do dự một lúc. Phải rất thận trọng rồi đây, nếu anh không muốn vợ con sợ hãi đến phát cuồng, khi chỉ còn vài phút trước lần juant đầu tiên của họ. Quan trọng là họ phải tin tưởng rằng mọi chuyện bây giờ đã ổn rồi, rằng vấn đề đã được giải quyết hoàn toàn.

    “Như bố đã nói, có một vấn đề nho nhỏ. . .”

    Ôi trời.

    Kinh dị, rồ dại và chết chóc. Đó là một vấn đề nhỏ nhỏ sao, quý vị?

    Carune đặt chiếc hộp “TÔI TỪ CỬA HÀNG THÚ CƯNG STACKPOLE” xuống kệ và nhìn đồng hồ. Đã 1:45 . Ông chỉ còn một giờ mười lăm phút sử dụng máy tính nữa thôi. Thời gian biết bay khi bạn vui say. Ông ứng tác thơ con cóc rồi khúc khích cười không thôi.

    Ông mở hộp, thò tay, tóm đuôi và lôi ra một con chuột bạch. Ông đặt nó xuống trước Cồng Một và nói, "Tiến lên, đồng chí." Con chuột lập tức tụt xuống chân thùng kê Cổng rồi chạy loạn trên sàn.

    Carune vừa đuổi vừa chửi , nhưng nó đã lanh lẹ chui qua khe hở giữa hai tấm ván và biến mất.

    "Cục c…!" Carune hét lên và chạy về chỗ hộp. Ông vừa kịp đánh bật trở lại hai kẻ chạy trốn khác. Ông bắt con thứ hai, giữ chặt bằng hai tay (ông là một nhà vật lý, và là kẻ ngoại đạo với chuột bạch), rồi đóng sầm nắp hộp lại.

    Không tình cảm với các chú nữa. Con chuột ngoạm răng vào gan bàn tay, nhưng vô ích; cuối cùng những chiếc chân chuột nhỏ xíu cũng lao thẳng qua Cổng Một. Carune lập tức nghe thấy tiếng đáp xuống chiếc thùng bên kia .

    Lần này ông chạy nước rút qua, vì đã có kinh nghiệm với con đầu tiên. Nhưng thật sự là không cần thiết. Con chuột khom mình trên mặt thùng, đôi mắt đờ đẫn, hai sườn hí hóp thở . Không cần quá nhiều kiến thức về chuột, bạn cũng biết rằng có chuyện không ổn ở đây.

    (“Con chuột cảm thấy không khỏe sau khi juant,” Mark Oates giải thích với các con miệng cười toe toét nhưng vợ anh thấy rất là giả dối.)

    Carune sờ vào con chuột. Cảm giác như chạm vào một vật vô tri – như một nắm rơm hay đống mùn cưa – nhưng vẫn nghe tiếng hít gió. Con chuột không nhìn Carune; nó nhìn xa về phía trước. Ông đã ném vào cổng một con vật nhỏ bé quậy phá lanh lợi; giờ đây chỉ còn là tượng sáp của một con chuột.

    Carune búng ngón tay trước đôi mắt màu hồng của nó. Con chuột chớp mắt… rồi ngã lăn xuống .

    “Vì vậy Carune quyết định thử một con khác,” Mark nói.

    “Chuyện gì đã xảy ra với con chuột đầu tiên?” Ricky hỏi.

    Mark cố nhăn răng cười . “ Nó đã được nghỉ hưu trong danh dự.”

    Carune bỏ con chuột vào một chiếc túi giấy. Ông dự định sẽ đưa nó đến bác sĩ thú y Mosconi. Mosconi sẽ mổ xẻ nó và cho ông biết nội tạng của nó có bị sắp xếp lại hay không.

    Rồi ông nhớ ra Mosconi ở mãi phía bên kia của thị trấn đại học New Paltz, và chiếc Brat không đủ xăng để đi được nửa đường . . . chứ đừng nói là quay trở về.

    Lúc này đã là 2:03, ông chỉ còn chưa đầy một giờ máy tính. Hãy để sau việc mổ xẻ chết tiệt này.

    Carune thiết kế thêm một chiếc máng trượt dẫn vào Cổng Một (có thể coi là máng trượt Jaunt đầu tiên) và thả vào một con chuột bạch khỏe mạnh khác. Rồi chặn đầu máng bằng một cuốn sách lớn, và sau một hồi loay hoay đánh hơi lung tung, con chuột đã đi qua Cổng và biến mất.

    Carune chạy qua bên kia nhà kho.

    Con chuột đã “HSCĐ: hy sinh khi chạm đích”.

    Không có máu, không có vết sưng tấy trên mình, chứng tỏ không có sự thay đổi áp suất làm vỡ nội tạng. Có thể do thiếu oxy …

    Ông lắc đầu chán nản. Con chuột bạch chỉ mất vài nano giây để di chuyển; đồng hồ đã xác nhận rằng thời gian luôn là một hằng số, hoặc gần như vậy.

    Con chuột bạch thứ hai hội quân cùng con đầu tiên trong bao giấy. Carune lấy con thứ ba ra (là con thứ tư, nếu tính cả con may mắn chui qua khe ván), ông tự hỏi , chuyện nào sẽ kết thúc trước đây: thời gian sử dụng máy tính hay nguồn cung cấp chuột của ông.

    Ông nắm chặt mình con chuột và đẩy ngược đuôi nó qua trước. Ông nhìn sang bên Cổng Hai bên kia, thấy xuất hiện vùng hông . . . rồi nhìn thấy phần lưng sau của nó. Đôi chân sau nhỏ bé quái gở đang điên cuồng cào cấu mặt thùng gỗ thô ráp.
    Carune kéo con chuột trở ra. Nó giận dữ, cắn mạnh vào màng da giữa ngón cái và ngón trỏ của ông, tóe máu. Carune vội vàng thả con chuột vào chiếc hộp “TÔI TỪ CỬA HÀNG THÚ CƯNG STACKPOLE” và khử trùng vết cắn bằng nước oxy già.

    Ông dán băng y tế, rồi lục lọi và tìm được một đôi găng tay lao động. Ông có thể cảm nhận thời gian đang băng băng trôi đi. Bây giờ đã là 2:11.
    Ông lấy một con chuột khác và cũng đẩy ngược, và đẩy toàn bộ thân hình nó qua Cổng Một.

    Ông vội vã đi tới Cổng Hai. Con chuột này sống được gần hai phút; thậm chí còn đi đi một chút, theo thói quen. Nó loạng choạng trên thùng , ngã nghiêng, cố vùng đứng lên rồi cuối cùng ngồi bệt ở đó. Carune búng búng ngón tay động viên thì nó lảo đảo thêm ba bốn bước nữa trước khi ngã hẳn. Hai sườn hí hóp chậm dần. . . chậm dần… dừng lại. Nó đã chết.


    Carune cảm thấy ớn lạnh.


    Ông quay lại, lấy một con chuột khác và đẩy nó qua Cổng nửa chừng. Ông thấy nó xuất hiện bên Cổng Hai, trước tiên là cái đầu. . . sau đó là cổ và ngực. Một cách thận trọng, Carune thả lỏng tay, sẵn sàng tóm lại . Nhưng không cần. Con chuột chỉ đứng đó, một nửa bên Cổng này, một nửa bên Cổng kia.

    Carune chạy sang Cổng số Hai.

    Con chuột vẫn còn sống nhưng đôi mắt màu hồng của nó như tráng men đờ đẫn. Râu không nhúc nhích. Đi vòng ra phía sau cánh cổng, Carune nhìn thấy một cảnh tượng đáng kinh ngạc; như ông đã nhìn chiếc bút chì bị cắt, nhưng bây giờ là một nửa con chuột . Những đốt sống của chiếc cột sống nhỏ bé của nó là những vòng tròn màu trắng; thấy máu di chuyển trong mạch máu; thấy lớp mô chuyển động như thủy triều lên xuống xung quanh cái thực quản nhỏ xíu .

    Cuối cùng chuyển động thủy triều của lớp mô cũng ngừng lại. Con chuột đã chết.

    Carune cầm mõm con chuột, và thả nó vào bao giấy cùng với bạn bè nó .

    Với lũ chuột bạch thế là đủ rồi. Lũ chuột sẽ chết. Chúng sẽ chết nếu đẩy chúng qua hết, và chúng sẽ chết nếu chỉ đẩy qua nửa chừng với đầu sang trước. Đẩy chúng qua nửa chừng với mông sang trước, chúng khỏe re.

    Cái quái quỉ gì thế trời?

    Đầu vào cảm biến hả , ông bật nghĩ gần như ngẫu nhiên. Khi chúng juant qua, chúng nhìn thấy …chúng nghe thấy…chúng tiếp xúc … Chúa ơi, thậm chí chúng có thể ngửi thấy ….chính cái sẽ thực sự giết chết chúng.

    Cái đó là giống gì vậy?

    Ông không biết nó là cái gì… nhưng ông muốn tìm ra nó.

    Carune vẫn còn gần bốn mươi phút trước khi COMLINK ngắt mạng dữ liệu. Ông tháo nhiệt kế ra khỏi bức tường cạnh bếp, mang nó chạy trở lại nhà kho và cho nó chạy qua Cổng. Khi vào Cổng Một nhiệt kế đo 83 độ F; khi ra ở Cổng Hai nó chỉ 83 độ F. Ông lục lọi căn phòng, nơi mấy đứa cháu cất đồ chơi cũ của chúng; ông tìm thấy một túm bóng bay. Ông thổi bóng lên, buộc lại và cũng cho chạy qua Cổng. Chúng xuất ra nguyên vẹn, không hề hấn. Đó là câu trả lời cho những phỏng đoán của ông : quá trình juant có gây ra sự thay đổi đột ngột về áp suất hay nhiệt độ không? Không , hoàn toàn không.

    Còn năm phút nữa là đến giờ tàn cuộc, ông chạy vào nhà, chộp lấy cái bát đựng cá vàng . Trong bát, Percy và Patrick vẫy đuôi và lao vun vút trong trạng thái kích động. Ông đẩy bát, cho chạy qua Cổng Một.

    Ông vội vã qua Cổng Hai, chiếc bát đựng cá đã hiện diện trên thùng. Patrick nổi ngửa bụng lên; Percy bơi chậm rãi dưới đáy bát, như bị choáng váng. Một lúc sau hắn cũng nổi ngửa bụng lên. Carune định nhấc bể cá ra thì Percy lại vẫy đuôi và tiếp tục bơi yếu ớt. Dường như nó đang chậm chạp hồi phục sau chuyến du hành, và đến 9 giờ tối hôm đó, khi Carune trở về từ phòng khám Thú y của Mosconi, Percy đã hoàn toàn vui vẻ như trước.

    Patrick đã chết.

    Vì máy tính mất kết nối , Carune quyết định quá giang đến phòng khám của Mosconi. 4:15 chiều hôm đó, ông đứng trên lề đường 26 , mặc quần jean áo thun kẻ sọc, giơ cao ngón cái ra ngoài, tay kia cầm túi giấy.

    Cuối cùng, một cậu trẻ lái chiếc Chevette lớn hơn một hộp cá mòi tấp vào lề và Carune bước lên. "Có gì trong túi vậy, ông già?"

    “Một ít chuột chết,” Carune nói.

    Cuối cùng thì một chiếc xe khác cũng dừng lại. Người nông dân ngồi sau tay lái hỏi về chiếc túi, Carune nói có mấy chiếc sandwich .

    Mosconi đã mổ ngay một con chuột , và thỏa thuận sẽ mổ những con khác sau rồi gọi điện để báo kết quả cho Carune. Kết quả ban đầu không mấy khả quan: con chuột mà Mosconi đã mổ hoàn toàn khỏe mạnh ngoại trừ nó đã chết.

    Quá nản.


    Người dịch : PHẠM TỪ
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  8. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  9. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  10. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ...
    Mark nói: “Victor Carune là người lập dị, nhưng ông không ngốc.”

    Lúc này, những tiếp viên Jaunt đang đến gần và anh nghĩ rằng, sẽ phải nhanh lên . . . hoặc anh sẽ phải kết thúc câu chuyện này trong “Phòng Thức Dậy” ở thành phố Whitehead trên sao Hỏa.

    “Đêm đó trở về nhà, ông phải đi bộ gần hết quãng đường. Vừa đi vừa suy nghĩ, ông nhận thức rõ ràng, mình đã giải quyết được một phần ba cuộc khủng hoảng năng lượng chỉ bằng một cái phẩy tay . Tất cả hàng hóa mà trước nay phải chuyên chở bằng xe lửa, bằng xe tải, bằng tàu thủy và máy bay đều có thể Jaunt. Bây giờ, chúng ta coi chuyện này là hiển nhiên, nhưng lúc đó là một điều thực sự lớn lao đối với Carune. Và với tất cả mọi người khác nữa.”

    “Nhưng chuyện gì đã xảy ra với lũ chuột vậy bố?” Rick hỏi.

    “Đó chính là câu hỏi mà Carune luôn trăn trở,” Mark nói, “bởi vì ông biết rằng đến khi con người có thể thực sự Jaunt thì chúng ta sẽ giải quyết gần như toàn bộ cuộc khủng hoảng năng lượng. Và hơn thế nữa con người có khả năng chinh phục toàn bộ không gian vũ trụ. Trong bài báo của mình, ông viết : cả những ngôi sao cuối cùng cũng thuộc về chúng ta. Ông ẩn dụ bằng câu chuyện vượt qua con suối cạn mà không bị ướt giày. Bạn lấy một hòn đá lớn, ném nó xuống nước, sau đó lấy một hòn đá khác, đứng trên hòn đầu tiên và ném nó xuống suối, quay lại lấy hòn thứ ba, đứng trên hòn thứ hai, ném nó suối, và cứ như vậy tạo nên một lối đi vượt qua dòng suối... bằng phương pháp tương tự chúng ta sẽ chinh phục hệ mặt trời, thậm chí có thể toàn bộ thiên hà.”

    “Con không hiểu gì cả…,” Patty nói.

    “Vì đầu em toàn bã đậu,” Ricky tự mãn nói.

    "Em không nha ! Bố ơi, Ricky nói kìa…”

    “Các con đừng thế nào,” Marilys nhẹ nhàng nói.

    Mark nói: “Carune có nhiều tiên đoán chuẩn xác về nhiều vấn đề của tương lai nhân loại. Tàu vũ trụ không người lái được lập trình để hạ cánh, đầu tiên là Mặt trăng, sau đó là Sao Hỏa, sau đó là Sao Kim và các mặt trăng của Sao Mộc. . . sau khi hạ cánh, các con tàu thực sự chỉ lập trình để làm một việc ….”

    “ Xây dựng các trạm Jaunt cho các phi hành gia,” Ricky nói.

    Mark gật đầu. “Và hiện nay đã có các tiền trạm khoa học trên khắp hệ mặt trời. Những chuyến tàu Jaunt đang trên đường tới bốn thiên hà khác . . . nhưng sẽ còn rất lâu, đường còn rất dài.”

    “Con muốn biết chuyện gì đã xảy ra với lũ chuột,” Patty sốt ruột hỏi.

    “Cuối cùng thì chính phủ cũng vào cuộc,” Mark nói. “Carune đã cố gắng giữ họ không xía mũi vào JUANT lâu nhất có thể, nhưng cuối cùng họ cũng ngửi thấy và thọc cả hai chân vào. Carune trên danh nghĩa là người đứng đầu dự án Jaunt cho đến khi ông qua đời mười năm sau đó, nhưng ông không bao giờ thực sự điều hành nó nữa.”

    “Chúa ơi, tội nghiệp Ông!” Rick nói.

    “Nhưng ông đã trở thành một anh hùng,” Patricia nói. “Ông ấy có tên trong tất cả các cuốn sách sử, giống như tổng thống Lincoln , tổng thống Hart.”

    Chắc chắn rằng đó là một niềm an ủi lớn đối với Ông. . . , Mark nghĩ, tiếp tục nào, phải thận trọng tránh qua những phần khó khăn , gai góc .

    Trong thập niên 1980, với sự leo thang của cuộc khủng hoảng năng lượng mà hệ lụy của nó là suy thoái kinh tế là nguy cơ cao về tình trạng vô chính phủ và nạn chết đói hàng loạt. Bị đẩy vào chân tường, Chính phủ quyết định đối mặt với nó. Họ muốn có Jaunt càng sớm càng tốt. Và sau khi hoàn tất các đánh giá toàn diện, cho thấy không có thay đổi về cấu trúc của các vật thể juant, thì phát minh JUANT đã được công bố ầm ĩ tầm cỡ quốc tế.

    Và người ta bắt đầu tạo dựng huyền thoại xung quanh Victor Carune, một ông già vừa kỳ dị vừa lẩm cẩm, chỉ tắm hai lần một tuần. Các PR của nhà nước và của các công ty đã biến Carune thành một món lẩu thập cẩm mang hào quang thiên tài của Thomas Edison, của Eli Whitney , chất cao bồi viễn tây của Pecos Bill và sự nổi loạn của siêu anh hùng Flash Gordon. Bi hài nhất là Victor Carune thật ra có thể đã chết hoặc mất trí (Mark Oates đã không kể điều này cho vợ con ).

    Victor Carune còn là một đề tài hot cho đến khoảng năm 1991 – và sau đó ông trở thành một ông ngoại phúc hậu trầm lặng, đứng trên bục cao vẫy chào trong các bản tin thời sự. Năm 1993, ba năm trước khi chính thức qua đời, ông đã lái một chiếc xe đua trong đoàn diễu hành của Giải đua F1.

    Ngày 19 tháng 10 năm 1988, công bố chính thức về JAUNT- về dịch chuyển tức thời- là một cú huých tích cực vào nền kinh tế toàn cầu. Trên thị trường tiền tệ , tỉ giá đồng đô la Mỹ già nua bất ngờ tăng vọt. Người mua vàng với giá tám trăm lẻ sáu đô la một ounce bỗng phát hiện ra rằng một pound vàng của mình có giá trị ít hơn mười hai nghìn đô la. Từ khi công bố cho tới khi các Phi cảng Jaunt đầu tiên hoạt động ở New York và L.A., thị trường chứng khoán đã tăng hơn một nghìn điểm một chút . Giá dầu chỉ giảm 70 xu một thùng, nhưng đến năm 1994, với việc các Cảng Jaunt trải khắp 70 thành phố lớn nước Mỹ thì tổ chức OPEC tan rã và giá dầu tụt giảm thê thảm. Đến năm 1998, khi các Cảng Juant có ở hầu hết các thành phố thuộc thế giới tự do và hàng hóa thường xuyên juant giữa Tokyo và Paris, Paris và London, London và New York, New York và Berlin, giá dầu chỉ còn 14 đô la một thùng. Đến năm 2006, khi juant trở thành phương tiện giao thông phổ biến, thị trường chứng khoán đã chững lại năm nghìn điểm so với mức năm 1987, dầu được bán với giá sáu đô la một thùng và các công ty dầu mỏ bắt đầu đổi tên, Texaco trở thành Texaco Oil-Water và Mobil trở thành Mobil H2O.

    Đến năm 2045, việc thăm dò nguồn nước đã trở thành một mục tiêu lớn và dầu mỏ lại trở thành một món đồ chơi như năm 1906.

    “Còn lũ chuột thì sao bố?” Patty vẫn dai dẳng hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra với lũ chuột?”

    Mark quyết định bây giờ có lẽ mọi chuyện đã ổn, và anh hướng sự chú ý của bọn trẻ về phía những tiếp viên của Jaunt, họ đang truyền khí cách ba hàng ghế. Rick thì chỉ gật đầu, nhưng Patty có vẻ bối rối khi một quý cô với mái tóc rất thời trang hít một hơi từ chiếc mặt nạ cao su và bất tỉnh.

    “Khi ta thức khi ta tỉnh táo, ta không thể juant, phải không bố?” Ricky nói.

    Mark gật đầu và mỉm cười trấn an Patricia. “ Carune đã biết chuyện này ngay từ đầu trước khi chính phủ vào cuộc,” anh nói.

    “Làm thế nào mà chính phủ nhúng tay, vào cuộc được, Mark?” Marilys hỏi.

    Mark mỉm cười. “Thời đại của máy tính,” anh nói. " Của cơ sở dữ liệu. Đó là thứ duy nhất Carune không thể xin, vay hay lấy trộm. Máy tính xử lý công việc truyền tải các hạt cơ bản, xử lý chính xác hàng tỷ tỷ bit thông tin…để đảm bảo đầu Bạn không bị đặt nhầm vào giữa bụng Bạn…”

    Marilys rùng mình.

    “Đừng sợ,” anh nói. “Chưa bao giờ xảy ra chuyện rắc rối như vậy cả. Chưa hề.”

    “Luôn luôn có lần đầu tiên mà ,” cô lẩm bẩm.

    Mark nhìn Ricky. “Làm sao ông ta biết…?” anh hỏi con trai . “Làm sao Carune biết người ta phải ngủ khi juant, hả Rick?”

    “Khi ông đẩy lũ chuột vào Cổng kiểu giật lùi ,” Rick chậm rãi nói, “chúng vẫn ổn . Quan trọng là không được đẩy toàn bộ thân hình chúng qua Cổng. Mọi chuyện bắt đầu lộn xộn khi đầu của chúng đi qua Cổng. Phải không ạ?"

    “Đúng vậy,” Mark nói.
    Lúc này, các tiếp viên Jaunt đang tiến đến gần, lặng lẽ đẩy chiếc xe chở sự lãng quên của họ. Rốt cuộc thì anh không còn thời gian để hoàn thành ý đồ của mình; có lẽ cũng tốt thôi. “Tất nhiên ông cũng không cần nhiều thí nghiệm để làm rõ điều này …”

    Các cuộc thử nghiệm thận trọng đã kéo dài trong hơn hai mươi năm, nhưng ngay những thử nghiệm đầu tiên của Carune với những con chuột bị đánh thuốc mê ông đã hiểu rằng những con chuột bất tỉnh không chịu tác động bởi cái mà sau này được gọi là Hiệu ứng Jaunt.

    Ông và Mosconi đã đánh thuốc mê một số con chuột, đưa chúng qua Cổng Một, thu nhặt chúng ở Cổng Hai và hồi hộp chờ đợi chúng tỉnh lại. . . hoặc chết. Và chúng đã tỉnh lại sau một thời gian hồi phục ngắn , chúng đã tiếp tục cuộc đời chuột của mình: ăn, ngủ, đ.., ị bình thường. Chúng chứng tỏ không chịu những tác động xấu lâu dài; chúng không chết sớm hơn, con của chúng không có hai đầu hay bộ lông màu xanh lá và những con chuột con này cũng không biểu hiện bất kỳ ảnh hưởng lâu dài nào khác.

    “Họ bắt đầu thử nghiệm với con người từ khi nào vậy bố?” Rick hỏi, mặc dù chắc chắn nó đã đọc điều này ở trường. “Bố kể khúc đó đi!”

    “Con muốn biết chuyện gì đã xảy ra với lũ chuột!” Patty vẫn kiên trì hỏi.

    Mặc dù những tiếp viên Jaunt đã đến hàng ghế của họ, Mark Oates vẫn dừng lại một lúc để suy ngẫm. Con gái anh, dù ít hiểu biết hơn, nhưng xuất phát từ trái tim nó đã hỏi đúng câu hỏi cần hỏi. Nhưng, những câu hỏi của con trai buộc anh phải thận trọng lựa chọn câu trả lời.


    Những tình nguyện viên đầu tiên không phải là phi hành gia hay phi công thử nghiệm; họ là những tù nhân bị kết án và họ không hề được sàng lọc về tâm lý . Quan điểm của các nhà khoa học phụ trách (Carune không thuộc số người này) , bọn này càng quái đản càng tốt; nếu một tên tâm thần có thể vượt qua ổn thỏa - hoặc ít nhất, không tệ hơn tình trạng ban đẩu của chúng - thì quá trình này có thể an toàn đối với các quan chức, chính trị gia và người mẫu thời trang trên thế giới.

    Nửa tá tình nguyện viên trong số này đã được đưa đến mũi Province, tiểu bang Vermont (một địa điểm mà từ đó đã trở nên nổi tiếng như thị trấn Kitty Hawk, North Carolina, nơi chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới cất cánh), phòng khí độc và nơi dựng Cổng Juant cách nhau đúng hai dặm.

    Mark kể rằng cả sáu tình nguyện viên đều hoàn thành nhiệm vụ, trở về bình an. Anh đã không hề đả động gì về tình nguyện viên thứ bảy. Nhân vật này có tên Rudy Foggia. Foggia là một kẻ giết người đã bị kết án tử hình ở bang Florida , hắn đã giết 4 người già tại một bữa tiệc trên cầu Sarasota. Theo đồn đại , tổ công tác hỗn hợp gồm Cơ quan Tình báo Trung ương CIA và tổ chức Effa Bee Eye đã gặp Foggia với một đề nghị duy nhất , tuyệt đối không lặp lại, nhận hay không : tham gia thử nghiệm juant trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo. Nếu vượt qua OK, chúng tao sẽ trao tận tay mày giấy ân xá có chữ ký của Thống đốc Bang Nếu chết hay phát điên , số mày đen thôi. Mày nói sao?

    “Nếu tôi vượt qua chuyện này mà còn sống,” Foggia đã nói, “Tôi muốn ăn bữa tối với món gà chiên.” Sau đó anh ta bước qua Cổng Một và lập tức xuất hiện ở Cổng Hai .

    Hắn còn sống, nhưng Rudy Foggia không có điều kiện để ăn bữa tối với món gà chiên của mình. Sau khi juant qua khoảng không gian hai dặm (và máy tính xác định thời gian là 0,000000000067 giây), tóc của Foggia biến thành tuyết trắng. Khuôn mặt không bị biến dạng đáng kể, nhưng nó tạo ấn tượng về sự già nua khủng khiếp khó tin. Foggia lê bước ra khỏi Cổng, đôi mắt trợn trừng ngơ ngác, miệng nhếch lên, nước dãi chảy, hai tay dơ ra trước mặt. Các nhà khoa học tụ tập xung quanh, lập tức lùi lại, xa ra .

    "Chuyện gì đã xảy ra thế?" một trong những nhà khoa học đã gào lên. Đó là câu hỏi duy nhất mà Foggia có cơ hội trả lời.

    Đó là Thiên Thu,” hắn nói và ngã ra chết .


    “Bố ơi, con muốn biết chuyện gì đã xảy ra với lũ chuột,” Patty nhắc lại. Cô bé còn cơ hội để hỏi bố là do vị doanh nhân trong bộ vest đắt tiền và đôi giày láng coóng đã trở thành vấn đề đối với các tiếp viên. Ông ta từ chối hít thuốc mê . Những nhân viên này phải cười duyên, dỗ ngọt, năn nỉ - và làm chậm công việc của họ.

    Mark thở dài. Anh đã mở vấn đề ra – mong muốn làm sao lãng tâm trí của bọn trẻ trước vũ hội Jaunt, nhưng anh đã mở ra thì bây giờ anh sẽ phải kết thúc nó một cách trung thực nhất có thể mà không làm chúng hoảng sợ .

    Hiển nhiên, anh sẽ không kể cho các con nghe nội dung trong cuốn sách “JUANT dưới góc nhìn địa chính trị” của tác giả C. K. Summers. Một chương trong sách có tên là “Cuộc dạo chơi dưới hoa hồng”, đã tổng hợp các câu chuyện, những tin đồn về juant trong suốt hơn ba trăm năm qua. Chuyện về Rudy Foggia, tên giết người đã không thể ăn bữa tối với món gà của hắn, là ở trong đó. Ngoài ra còn có truyện kể về khoảng ba mươi tình nguyện viên, những con dê tế thần, hay những người kẻ điên mà tỉnh táo juant . Hầu hết họ chạm đích bên kia và gục chết hoặc sốc cho đến chết. Những người còn lại thì trở nên điên loạn.

    Tác giả cũng đưa ra thông tin đáng lo ngại: Jaunt rõ ràng đã nhiều lần được sử dụng làm vũ khí giết người. Một trường hợp nổi tiếng nhất xảy ra mới ba mươi năm trước. Một nhà nghiên cứu Jaunt tên là Lester Michaelson đã trói vợ mình bằng sợi dây đu Dreamropes của con gái và đẩy bà ta qua cổng Jaunt ở Silver City, Nevada. Nhưng trước đó, Michaelson đã nhấn phím Nil (No) trên bảng điều khiển Jaunt của mình, xóa từng cổng trong số hàng trăm cổng mà bà Michaelson có thể cập bến , bắt đầu từ thành phố Reno kề bên cho đến trạm juant trên vệ tinh Io của Sao Mộc. Thế là bà Michaelson đang mãi mãi lang thang đâu đó ngoài vũ trụ. Luật sư của Michaelson đã đưa ra một lời bào chữa độc đáo : thân chủ của anh ta không thể bị xét xử tội giết người vì không ai có thể chứng minh một cách thuyết phục rằng bà Michaelson đã chết.

    Ngoài ra, Summers còn khuyến nghị , Jaunt đã được nhiều nhà độc tài sử dụng để loại bỏ những người bất đồng chính kiến và các đối thủ chính trị. Một số người cho rằng Mafia có các Trạm Jaunt bất hợp pháp riêng. Chúng đã sử dụng chức năng Nil để phi tang các xác chết. Dưới góc nhìn này, Jaunt đã trở thành công cụ thủ tiêu tốt hơn rất nhiều so với các hố bê tông hoặc mỏ đá .

    Tất cả những câu chuyện này tất nhiên dẫn trở lại câu hỏi dai dẳng của Patty về lũ chuột.

    “Chà,” Mark chậm rãi nói, trong khi vợ anh ra hiệu bằng mắt nhắc anh phải cẩn thận, “ngay cả bây giờ cũng không một ai thực sự biết chuyện gì đã xảy ra với chuột, Patty ạ. Nhưng tất cả các thí nghiệm với sinh vật – bao gồm cả chuột – dường như đều dẫn đến kết luận rằng, mặc dù Jaunt xảy ra trong thời gian cực ngắn gần như tức thời đối với vật chất nhưng có thể là khoảng thời gian rất dài đối với tâm trí có ý thức.”

    “Con không hiểu,” Patty buồn bã nói. “Con biết là con không thể ...”

    Nhưng Ricky nhìn cha mình với vẻ suy tư. “Chúng vẫn tiếp tục suy nghĩ,” nó nói. “Các con vật thí nghiệm. Và chúng ta cũng vậy, tiếp tục suy nghĩ, nếu chưa bị gục ngã.”

    “Ừ,” Mark nói. “Hiện giờ, đó là những gì chúng ta biết.”

    Có điều gì đó lóe lên trong mắt Ricky. Nỗi sợ hãi? Sự phấn khích? “Nó không chỉ là dịch chuyển tức thời phải không bố? Nó còn là một kiểu làm cong thời gian .”

    Đó là Thiên Thu, Mark nghĩ.

    “Nói gì thì nói,” anh nói. “ Cũng chỉ là các mỹ từ trong truyện viễn tưởng, nghe thì có vẻ hay nhưng thực ra chẳng có ý nghĩa gì cả, Rick ạ. Có thể xoay quanh hai khái niệm ý thức và vật chất, vì ý thức không phải là hạt vật chất nó luôn luôn toàn vẹn và không bị biến đổi. Ý thức sẽ không juant như các hạt hay nó không tuân theo hiệu ứng Caruen. Chúng ta không biết ý thức đo thời gian như thế nào, hay thậm chí khái niệm này có nghĩa đối với ý thức hay không.”

    Mark im lặng, bối rối trước ánh mắt bỗng trở nên sắc bén và tò mò của con trai mình. Nó hiểu rằng nó vẫn chưa hiểu, Mark nghĩ.
    Là 0,000000000067 giây đối với thân xác đang Jaunt, nhưng là bao lâu đối với tâm trí? Một trăm năm? Một nghìn? Một triệu? Một tỷ năm? Tâm trí của bạn sẽ mãi mãi cô đơn lang thang trong cánh đồng trắng xóa không bến bờ ? Và sau hàng tỷ những thiên thu đó, sự quay lại đột ngột với ánh sáng, với hình hài và thân xác. Ai mà không phát điên chứ?

    “Ricky…” anh định nói , nhưng những tiếp viên Jaunt đã đến cùng chiếc xe đẩy của họ.

    "Ông đã sẵn sàng chưa?" một người hỏi.

    Mark gật đầu.

    “Bố ơi, con sợ,” Patty nói bằng giọng yếu ớt. "Có đau không?"

    “Không đâu, con yêu, không đau đâu” Mark nói, giọng anh bình tĩnh, nhưng tim anh đập hơi nhanh—luôn là như vậy, mặc dù đây chuyến juant thứ 25 của anh. “Bố đi trước rồi con sẽ thấy nó dễ ẹt thôi.”

    Người tiếp viên nhìn anh ý hỏi. Mark gật đầu và mỉm cười. Chiếc mặt nạ hạ xuống. Mark cầm nó và hít sâu.



    Nhận xét đầu tiên của anh là bầu trời sao Hỏa đen quánh trên đỉnh mái vòm bao quanh thành phố Whitehead. Lúc này đang là ban đêm và vô số các ngôi sao rực sáng như lửa chưa từng nhìn thấy trên trái đất.

    Thứ hai là sự huyên náo trong phòng hồi sức - đầu tiên là những tiếng thì thầm, rồi tiếng la, bất ngờ một tiếng thét chói tai. Chúa ơi, là Marilys! anh nghĩ và cố gắng đứng dậy khỏi chiếc ghế dài, chống chọi với cơn chóng mặt.

    Có tiếng hét khác nữa, và anh nhìn thấy những nhân viên Jaunt chạy về hàng ghế của gia đình mình, chiếc áo liền quần màu đỏ bay quanh đầu gối họ. Marilys loạng choạng về phía anh, dang tay chỉ. Cô lại hét lên rồi ngã xuống sàn.

    Theo hướng tay chỉ của vợ, anh đã thấy. Anh đã thấy trong mắt Ricky không phải là sự sợ hãi; đó là sự phấn khích. Đáng lẽ ra anh phải biết trước, bởi vì anh đã biết Ricky: mới bảy tuổi Ricky đã leo lên cành cây cao nhất sau sân nhà, ngã gãy tay; Ricky đứa trượt ván nhanh nhất, liều lĩnh hơn mọi đứa trẻ hàng xóm khác; Ricky kẻ đầu tiên bước ra đối đầu với mọi thách thức; Ricky không hiểu sợ hãi là gì.

    Cho đến lúc này .

    Bên cạnh Ricky, em gái nó đang ngủ an lành. Con trai anh thì đang nảy bật lên, đang quằn quại trên ghế. Một đứa trẻ mười hai với mái tóc trắng như tuyết, đôi mắt già nua, giác mạc chuyển sang màu vàng bệnh hoạn. Nó vẫn nảy lên , quằn quại một cách khủng khiếp. Những câu nói lảm nhảm và tiếng cười khúc khích điên dại của nó làm cho những người phục vụ lùi lại kinh hãi.

    Đôi chân co giật, run rẩy. Bàn tay biến dạng cong queo như móng vuốt con vật đang vặn vẹo, múa may trong không khí, đột ngột buông xuống và bắt đầu cào cấu mặt nó…

    “Lâu hơn bố nghĩ đó, bố!” nó cười khúc khích. “Lâu hơn bố nghĩ! Con đã nín thở khi họ bơm thuốc! Con muốn thấy! Con đã thấy! Con đã thấy! Lâu hơn bố nghĩ nhiều lắm!”

    Những ngón tay như móng vuốt bỗng móc bật mắt nó ra. Máu phun ra. Phòng hồi sức đầy tiếng gào thét .

    “Lâu hơn bố nghĩ đấy, bố! Con đã thấy! Con đã thấy! Chuyến juant dài! Lâu hơn bố nghĩ-”

    Cuối cùng, những nhân viên phục vụ cũng đã hoàn hồn, vội vàng đẩy chiếc ghế đi. Nó nói nó cười , và cào cấu đôi mắt đã mãi mãi nhìn thấy thứ không thể nhìn; và rồi bắt đầu la hét , nhưng Mark Oates không còn nghe vì lúc đó chính anh cũng đang hét lên.


    Năm mới, 01-01-2024

    Người dịch : PHẠM TỪ


    … thì một pound có giá 12 896 đô – người dịch
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  11. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ....
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  12. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    lamtuquyen and God of War like this.
  13. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ....
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    nnt and God of War like this.
  14. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    ....
     
    Chỉnh sửa cuối: 16/5/24
    nnt, lamtuquyen and God of War like this.
  15. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    Truyện ngắn "The Jaunt" của Stephen King viết năm 1981 là một truyện khoa học viễn tưởng, một câu chuyện kinh dị xuất sắc gói gọn chỉ trong hơn 20 trang.

    Nhiều nhà phê bình văn học và các độc giả yêu mến Ông vẫn thắc mắc, tại sao “ The Juant “ chưa được King viết thành một tiểu thuyết dài, tại sao chưa có chuyển thể điện ảnh , hay phim truyền hình.

    Vào năm 2015, có tin Andy Muschietti, đạo diễn cả hai phim “It” mới nhất , đang thực hiện bộ phim chuyển thể của “ The Juant”

    Gần đây, vào năm 2021, có thông báo rằng Dave Erickson, nhà đồng tác giả của Fear the Walking Dead, sẽ đưa "The Jaunt" lên TV dưới dạng phim truyền hình dài tập, nhiều mùa.

    Năm 2024 rồi, hạ hồi phân giải…

    Xin mời các Bạn xem câu chuyện kinh dị, điên rồ và chết chóc này.
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/24
    nnt, lamtuquyen, hienlc91 and 2 others like this.
  16. God of War

    God of War Mầm non

    Cảm ơn bạn vì đã dịch
     
  17. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    :kiss::kiss::kiss:
     
    God of War thích bài này.
  18. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    Tôi có ý định dịch tiếp một số truyện ngắn của Stephen King…

    Tiếp sau , có thể là “ Chiếc Bè” (The Raft trong tập truyện “Skeleton Crew “).
    Tôi rất mong, các Bạn nêu yêu cầu cá nhân của mình… và tôi xin sẵn sàng đáp ứng.

    Cảm ơn mọi người đã đọc “JUANT” . Cảm ơn nhiều. 3D_16
     
  19. God of War

    God of War Mầm non

    Rất mong chờ các bản dịch tiếp theo của bạn 1yoyo231yoyo23
     
  20. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 7

    Đề xuất cuốn 'The covenant of water - Abraham Verghese'. @72thudo dịch cuốn này đi bạn ơi!:D
     

Chia sẻ trang này