Thể loại khác Mối tình đầu của tôi

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi sucsongmoi, 23/12/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Đây là loạt bài dự thi viết về Mối tình đầu của tôi được đăng trên nguyệt san KTNN.

    1. ĐỜI TÔI
    Phạm Đình Hổ

    Tôi sinh ra ở đâu? Lúc nào? Ai sinh? Chẳng có ma nào biết. Ma không biết, thì đừng nói tới người. Đến bây giờ tôi chỉ nhớ cái ngày bà chủ bảo:

    - Bữa nay thằng Tư dẫn thằng “Ròm” đi giữ bò, tập cho nó giữ, chứ chín tuổi đầu rồi đó.

    Tôi chỉ nhớ năm tôi giữ hai con bò một đực, một cái là năm tôi đã được chín tuổi. Anh Tư mặc cho tôi một cái quần đùi đã có năm bảy miếng vá to tướng. Ôi! cái quần đùi, không biết phải nói là cái gì đây nhỉ? Nó rộng thùng thình và dài quá đầu gối, cột bằng dây vải (hồi đó chưa có dây thun) với một cái nón còi rách bung vành. Thế là từ nay tôi đã lớn, có công việc đàng hoàng như mọi người.

    Cuộc sống mục đồng của tôi cứ dần trôi theo thời gian. Cho đến cuộc cách mạng mùa thu năm 1945 và giặc Pháp tái chiếm Việt Nam năm 1946, khi chúng tràn vào chiếm Quảng Nam. Tiêu thổ kháng chiến. Dân làng được hướng dẫn đi dần vào Nam. Khi gia đình bà chủ tôi chạy vào huyện Thăng Bình thì trụ lại. Vì cuộc sống khó khăn nên tôi và anh Tư bị cho nghỉ việc. Tôi vất vưởng lang thang hơn một tháng, thì được Nông hội địa phương đem gởi vào một gia đình khá giả, còn anh Tư thì nghe tin anh trở về vùng Pháp chiếm và gia nhập lực lượng du kích chống Pháp.

    Thời gian sống với chủ mới có phần khá hơn. Đáng lý ra tuổi tôi bây giờ phải gánh vác công việc đồng áng kia. Nhưng tôi chỉ là “thằng ròm” làm sao làm ruộng nổi. Mà không ròm sao được với cuộc sống lúc bấy giờ. “Ăn đói, mặc rách” thì suy dinh dưỡng là cái chắc, làm sao lớn nổi. Thế là ông bà chủ mới cho tôi nhận lại “chuyên môn” năm năm thâm niên của tôi: “giữ bờ”. Nhưng lần này thì đàn bò đông hơn, ba con đực, một con cái. Tuổi đã lớn, làm nhiệm vụ có “trách nhiệm” hơn, nên bốn con bò tôi chăn mập, khỏe thấy rõ sau ba tháng.

    Cuộc đời tôi bước sang bước ngoặt từ khi có sự hiện diện của ông giáo Phúc. Ông cũng người Duy Xuyên tản cư vào. Sự có mặt của ông giáo Phúc tại địa phương cũng gây ra sự xầm xì bàn tán của dân chúng. Có người nghi ông là gián điệp của Pháp. Vì ông sống độc thân, mà tuổi cũng đã lớn, khoảng trên dưới bốn mươi. An ninh địa phương có mời ông lên xét hỏi và cuối cùng ông được gởi vào nhà ông Thi, chủ mới của tôi. Ban ngày ông dạy bọn trẻ con trong thôn. Ban đêm ông dạy bình dân học vụ cho người lớn tuổi và những trẻ em ban ngày không tới trường được.

    Riêng tôi, ông giáo Phúc rất thương, coi tôi như con đẻ. Ông chăm chút lo cho tôi từng li từng tí. Những lúc rảnh ông hay nói chuyện, an ủi dạy bảo chuyện đời và dạy tôi học văn hóa. Hồi đó thành phần như tôi và một số dân nghèo tại địa phương làm gì có tiền để mua sách vở. Ông lấy lá chuối khô, ủi thẳng cho tôi học. Ông lúc nào cũng động viên và khen tôi. Ông dạy, tôi hiểu rất nhanh, trong lớp học ban đêm tôi vượt trội hẳn mọi người. Ông dạy tôi mọi lúc, mọi nơi. Cái bảng đen ông dạy tôi học là một tấm ván lớn, bào nhẵn và sơn bằng nước nấu của gốc xim, sơn phết nhiều lần nên có màu tím sậm. Phấn viết bằng củ mì khô. Ông dạy tôi và dân làng Bình Tú Cẫm được ba năm, từ năm 1947 - 1950. Nếu Ủy ban không rút ông về xã, thì chắc chắn học vấn của tôi còn cao hơn nữa.

    Một hôm tôi hỏi ông:

    - Thưa thầy, con không có tên họ và không biết tuổi mình là bao nhiêu. Con chỉ biết năm 1942, con bắt đầu giữ bò, thì bà chủ bảo con chín tuổi.

    Ông giải thích cho tôi:

    - Như vậy con sinh năm 1933 và tuổi âm lịch là Quý Dậu. Con tuổi con gà đấy! Tôi phản đối.

    - Con không chịu tuổi con gà đâu! Con gà ngu lắm!

    - Con không thích con gà thì hạ xuống một tuổi, tuổi con chó. Tuổi Tuất đấy.

    - Thưa thầy! Gà và chó đều ngu cả, vả lại con chó dữ dằn quá. Thôi, thầy cho con lớn hơn một tuổi cũng được.

    Ừ! Thì con khỉ, được chưa? Tuổi Thân tốt lắm. Lại Nhâm Thân nữa. Nam Nhâm, nữ Quý thì sang đấy.

    - Con cám ơn thầy. Con khỉ khôn và nhanh nhẹn, tốt quá!

    Ông cười khà khà và nói:

    - Còn tên họ cũng không có gì quan trọng đâu con. Đó là danh xưng để phân biệt giữa người này và người khác thôi. Con đừng bận tâm điều đó. Bây giờ thầy lấy địa danh này đặt tên cho con. Từ đó về sau trên giấy tờ và ngoài xã hội tôi là “Bình Tú Cẫm”, sinh năm 1932. Tuổi Thân con khỉ.

    Tháng 7 năm 1950, Ủy ban rút thầy về xã thì cũng là năm tôi lên “ngạch”: không còn là “mục đồng” nữa, mà là “nông dân”. Tôi bắt đầu cuốc gốc, phát bờ, nhổ mạ, cày bừa....

    Công việc đồng áng của tôi, ông chủ chỉ bận tâm nhắc nhở năm đầu. Đến năm thứ 2, tức là mùa thứ 3 và những năm sau, một mình tôi gánh vác. Ông bà chủ rất tin nhiệm nên việc ăn uống, áo quần có khá hơn trước nhiều. Ăn uống đầy đủ, áo quần lành lặn, con người thanh niên của tôi dần dần “trổ mã”. Được giới thanh nữ trong thôn chú ý.

    Tên “Ròm” được mọi người trong thôn “khai tử”. Bây giờ mọi người gọi tôi bằng cái tên của thầy Phúc đặt cho: “Cẫm”. Sắp nhỏ gọi tôi “anh Cẫm”. Ôi! sung sướng làm sao ấy. Bây giờ tôi đã có tên đàng hoàng, được xã hội chấp nhận. Cám ơn, muôn vàn cám ơn thầy Phúc.

    Riêng con gái lớn của ông bà chủ Thị gọi tôi: “anh Cả”.

    Bà chủ không đồng ý, rầy:

    - Thứ chuyện gì mà mày gọi thằng làm công trong nhà là “anh Cả”. Không sợ người ta cười cho à!

    Cô Hai chống chế: “Con thấy gọi tên nó làm sao ấy. Vả lại ảnh lớn hơn con, mà con thứ hai rồi, thì con gọi ảnh là “anh Cả” có sao đâu? Bây giờ mà má còn phân biệt người làm với con bà chủ, con thấy nó xưa làm sao ấy?”

    Chỉ chuyện gọi tên tôi, mà hai mẹ con bà chủ cứ hục hặc với nhau hoài. Cuối cùng, với sự cứng đầu của “cô Hai”, bà chủ đành chấp nhận.

    Ảnh hưởng nghệ thuật sống của thầy Phúc và làm theo sự dạy bảo của thầy, tôi sống hòa nhã với mọi người, kính trên, nhường dưới, đem sự hiểu biết của mình trao đổi với người khác. Trong nông nghiệp tôi có nhiều sáng tạo, từ việc làm phân xanh, ủ phân, bón phân, gieo cấy, bắt mạ... Tôi sinh sau, tuổi nghề còn non trẻ, nhưng chịu khó học hỏi và nghiên cứu nên có nhiều sáng tạo. Khi đạt kết quả tốt, tôi đem ra thảo luận và trao đổi với mọi người nên được dân làng thương mến, nể phục.

    Cô Hai cũng lớn theo với thời gian. Một cô thôn nữ tuyệt vời. Nết na, thuỳ mị, công việc đảm đang. Cô được học trường huyện, nhưng đến lớp 6 thì nghỉ, vì mẹ cô hay đau yếu. Nếu hồi đó mà có thi hoa hậu thì cô cấm chắc “Á hậu thứ 4” chứ không sẩy đâu, dưới con mắt giám khảo của tôi.

    Trong làng có nhiều thanh niên con nhà khá giả dạm hỏi, nhưng đám nào cô cũng từ chối. Trái tim tôi thường đánh nhịp lặng thầm trước người con gái đang sống chung dưới mái ngói cổ xưa. Nhưng mơ ước hòa hợp thì chưa bao giờ dám nghĩ tới. Vì thành phần giai cấp chênh lệch quá xa. So ra, thì tôi không thua kém bất cứ ai trong đám thanh niên trong làng, nhưng thân phận vẫn cứ là “con rơi rớt, người ở đợ làm công kiếm cơm” vậy thì làm sao dám yêu con gái lớn ông bà chủ!

    Đến khi ông bà chủ tôi ép cô Hai phải ưng con trai ông bảy Kỳ, người ngoài phố chợ, buôn bán giàu có, thì việc “thần kỳ” xảy ra. Tôi đang cày ngoài ruộng, cô Hai đem nước ra và bảo tôi:

    - Đêm nay anh chuẩn bị áo quần gói lại. Khi nào tôi bảo đi là đi ngay, nghen! Tôi chỉ biết dạ và làm theo.

    Trong khi chờ đợi trong sự phập phồng, tôi đoán già, đoán non. Điều gì đây? Tôi rà soát lại “lời ăn tiếng nói, cái nhìn, cái liếc” hằng ngày mà tôi không dám để ý. Nay lóe ra là “cô Hai yêu tôi”. Chết rồi, làm sao đây? Con người thanh niên trong tôi bùng lên mãnh liệt. Phải nắm lấy thời cơ. Phải biết liều mới đạt được ước nguyện. Chắc chắn là tôi không sợ gian nan. Nhưng mà dẫn đi đâu? Làm gì để nuôi nhau? Trăm ngàn câu hỏi lung tung trong đầu tôi. Nghe lời cô Hai có trái với lời thầy Phúc dạy bảo không? Có trái với luật pháp, có lỗi đạo gì không? Ước gì lúc này có thầy Phúc để xin một lời khuyên.

    Không! Không được sợ. Không được hèn. Không có luật pháp nào cấm trai gái lấy nhau. Không có đạo nào cấm chúng tôi yêu nhau. Không theo lối mòn lạc hậu của ông bà chủ. Trong yêu đương không có giai cấp. Trong yêu đương không phân biệt giàu nghèo. Đây là cơ hội ngàn vàng cho tôi xây dựng đời tôi.

    Khi ra đi đêm đầu tiên, cô Hai đi trước, tôi xách hành lý theo sau. Trong lúc chuyện trò, tôi mới thấy sự tính toán tinh tường, ý chí sắt đá, nghị lực phi thường nằm trong cơ thể mảnh khảnh của người con gái đi phía trước tôi. Tôi tự thấy xấu hổ. Tôi tự nhủ phải làm một thanh niên dũng cảm, thông minh và phải vượt qua mọi trở ngại trên đường đời, để làm chỗ dựa cho cô, người tôi yêu và cũng là người yêu tôi mãnh liệt nhất trên đời này.

    Chúng tôi đến Bồng Sơn, tỉnh Bình Định thì trụ lại. Cô cười tươi:

    - Dừng lại đây. Bắt đầu ngày mai hai đứa mình nắm tay nhau xây dựng tương lai. Nơi xa xôi này gia đình không kiếm được chúng ta đâu.

    May mắn đến với chúng tôi. Chủ lò nhuộm cũng là người Quảng Nam, quê người Điện Bàn, đang cần người khỏe mạnh giúp việc. Cơ ngơi rộng rãi nên việc xin tá túc tại chỗ dễ dàng. Hai đứa tôi tạm che chái ngoài trại nhuộm để ở. Vợ tôi buôn bán (từ đây mọi người đều coi hai đứa tôi là vợ chồng, nhưng thật ra chưa thành vợ chồng). Tôi hằng ngày giúp việc nhuộm. Tôi học nghề rất nhanh, được bà chủ khen ngợi. May mắn thứ hai đến với vợ tôi. Bà Tấn buôn hàng chuyến từ Sài Gòn về bỏ mối từ Bồng Sơn đến Quảng Ngãi thấy vợ tôi đẹp người, đẹp nết nên bà cho theo để đỡ đần và bầu bạn.

    Sau sáu tháng có lưng vốn. Vợ chồng bàn nhau nên kiếm đất dựng nhà. Tôi xuống Ủy ban xã làm đơn xin cấp đất. Sau mười ngày nộp đơn, chính quyền địa phương mời tôi đến và cấp cho một trăm mét ruộng đất thổ để làm nhà. Nhà cửa xong xuôi. Tuy là nhà tranh, vách lá, nhưng đây là cơ ngơi đầu tiên của hai chúng tôi. Một bữa tiệc đơn sơ để tạ ơn những người đến giúp chúng tôi dựng nhà, còn chúng tôi cũng hiểu ngầm với nhau đây là bữa tiệc cưới của mình.

    Kể từ khi hai chúng tôi bỏ quê ra đi xây dựng tổ ấm đến hôm nay đã là bảy tháng tròn rồi. Ai cũng bảo chúng tôi là đôi vợ chồng tốt số, hòa thuận, biết thương yêu nhau. Thật vậy, vợ tôi lo cho tôi từng li từng tí, còn tôi cưng vợ hơn cưng trứng mỏng. Tôi luôn luôn muốn làm hết việc cho vợ mình. Vợ tôi cũng muốn cáng đáng hết công việc của tôi.

    Đêm về nhà mới, cũng là đêm tân hôn, động phòng hoa chúc của chúng tôi. Ôi! Sung sướng làm sao, hạnh phúc làm sao. Cái phần phước mà tôi, một đứa con rơi rớt, một thằng đi ở đợ, được tận hưởng mới tuyệt vời làm sao! Tôi không tìm được ngôn từ xứng đáng để diễn đạt hết cái diễm phúc mà ông Tơ bà Nguyệt đã kết hợp chúng tôi lại.

    Cái đêm mà chúng tôi hòa hợp lại làm một, tôi âu yếm hỏi vợ:

    - Biết bao thanh niên con nhà giàu, học giỏi mà em không yêu? Yêu chi cái thằng ở đợ?

    Vợ tôi vòng tay xiết chặt:

    - Trong con mắt của em, anh sẽ là một thanh niên thành đạt sau này và là người chồng thương vợ nhất trên đời này.

    Cơ ngơi, sự nghiệp và hai đứa con ngoan hiếu thảo với cha mẹ mà vợ chồng tôi có ngày hôm nay nằm trong câu “Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”.
     
  2. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    MimoSa

    LÊ ĐẠT
    (Bài hưởng ứng cuộc thi viết “Mối tình đầu của tôi”)
    Vườn thức một mùi hoa đi vắng


    Cuộc chiến tranh nổ ra khi mùa xuân chưa kịp nở những bông hoa còn hàm tiếu. Jăng vác súng lên đường ra trận quá sớm để đầy tuổi một tình đầu.

    Lẽ dĩ nhiên cũng đã có lác đác một vài cuộc chạm môi tình thế chóng vánh lưng ghế một công viên, một vài lần ôm nhau bất thần gốc cây phố tối dưới một vì sao lạc nhưng chưa thể gọi là tình yêu, hay đúng hơn đó mới chỉ là những tình yêu bảy hay tám lẻ gì đó.

    Jăng chưa từng được biết mùi tình đầu mà hương vị của nó có thể còn đeo đuổi thơm kỷ niệm suốt một cuộc đời và đủ âm ỉ để cời ấm một tuổi tóc lạnh.

    Tôi nhớ mãi lời định nghĩa ỡm ờ của một nhà thơ già “Tình đầu là mối tình có thể chưa đi sâu... nhưng sâu sắc”.

    Hôm Jăng lên đường nhiều mùi soa vẫy đưa quá. Vào những đêm canh gác hoặc phục kích chờ giặc tới, những hình ảnh chập chờn qua như những bóng ma không đủ lưu lại một mùi hương, bồn chồn và day dứt.

    Vào ngày cuộc chiến tranh sắp chấm hết, Jăng bị một mảnh ô-buy găm vào lưng phải chuyển về hậu phương và lập tức nằm liệt dài hạn trên giường không còn khả năng đứng dậy đi đến gặp chiến thắng và buồn hơn nữa, không bao giờ còn hy vọng được thơ thẩn một mình hành cước dưới ánh trăng mùa thu hay hồi hộp nửa đi nửa chạy lo trễ hẹn một tình đầu.

    Một người nằm liệt trên giường bệnh hình như không chỉ trễ hẹn với một mối tình đầu mà còn trễ hẹn với tất cả các mối tình.

    L. Pirandello có viết một truyện ngắn rất buồn về một chiếc đồng hồ chết. Nhưng tình cảnh của Jăng tôi e còn não nề hơn, đó là nỗi khổ nạn triền miên với đầy đủ ý thức của chiếc đồng hồ tim máy vẫn đập nhưng kim dừng lại vĩnh viễn ở con số định mệnh.

    “Bán thân bất toại” Jăng cười chua chát “còn ước vọng gì mà bán toại với chẳng bán toại. Đây là sự bất toại toàn phần”.

    Jăng đã nghĩ đến tự sát. Nhưng sống một cuộc đời hoàn toàn lệ thuộc vào người khác từ cái ăn cái uống đến những nhu cầu phó sơ đẳng, tự sát cũng không phải một việc dễ dàng. Làm sao có thể nhờ thiên hạ lấy vé cho mình đi một chuyến tàu suốt.

    Chỉ còn cách cắn lưỡi là có thể tự lực cánh sinh được. Nhưng dù là một kẻ vô thần, Jăng lại tin tưởng ở kiếp sống bên kia mồ... Cắn lưỡi rồi thì lúc sang sống ở thế giới bên kia lấy gì mà phát ngôn, mà tỏ tình.

    Bao nhiêu đêm bao nhiêu ngày đấu tranh, Jăng mới đi đến được một quyết định dứt khoát: sống.

    Anh bắt đầu tập lại một số động tác cơ bản của đứa trẻ đỏ hỏn vào đời. Tập lại một cách cần mẫn và có ý thức.

    Tập sống đối với một người lớn mới vất vả, mới gian khổ làm sao. Từng cái nhích tay, nhích chân, cất người tưởng đơn giản ai ngờ gian nan đến thế.

    Con người thật yếu đuối. Và ghê gớm.

    Nhiều lúc chính Jăng cũng thắc mắc không biết mình lấy đâu ra nghị lực đủ để tiến hành cuộc maratông trở về trên địa hình hiểm trở là cuộc sống.

    Cuộc đấu tranh chống lại bệnh tật tưởng đã hết mức gian khổ, cuộc

    đấu tranh chống lại sự cô đơn “cô đơn trăm phần trăm” của một tuổi trẻ khát sống còn nghìn lần gian khổ hơn.

    Không phải mọi người đã lạnh nhạt, đã hất hủi bỏ rơi anh, họ chưa đến độ vô tình nhưng họ có hàng đống việc hàng ngày phải lo toan mà anh thì liệt lâu, lâu quá ngoài thời hạn tối đa của phép lịch sự.

    Mới ba năm mà đã dài thế huống hồ mấy chục năm huống hồ suốt một cuộc đời.

    Nhặt nhạnh tổng tất cả lại mới ngót nghét được hai mươi nhăm tuổi. Cái tuổi mà các nhà thơ lãng mạn thường dỗ dành là “tương lai còn đầy trước mặt”.

    Tương lai, hai từ đó mới đáng sợ làm sao. Tương lai đối với Jăng chỉ là những ngày lặp lại đến thừa mứa đến chán nản rùng rợn của một căn phòng bé nhỏ và một chiếc giường mênh mông. Bốn mùa qua đi bên cửa sổ cũng ảo cũng xa vời như trên một màn hình. Quá khứ là một cố hương biệt xứ tương lai là một trang photocopy dài vô tận.

    Đến tình yêu, một tình cảm mãnh liệt và sâu xa nhất của con người cũng có cơ nguy trở thành một thói quen huống hồ sự trắc ẩn.

    Bên cạnh những suy nghĩ miên man về nỗi ấm lạnh của tình đời là cảm giác rõ rệt, cụ thể, cắn rứt: Mình đã trở thành một đồ thừa một gánh nợ đối với người thân, mình đã làm khổ họ. Bỏ thương vương tội hỡi ôi!

    Jăng đã cố đến mức tối đa để nhờ vả mọi người có thể nhưng nhiều khi dầu là kẻ anh hùng cấp kiện tướng cũng không đủ sức hoàn toàn vượt khỏi tình huống trớ trêu mà số phận đã bẫy mình.

    Người ta có thể tự túc nhiều thứ, nhưng trái tim nhỏ bé suốt đời vị thành niên của con người hình như không bao giờ đủ trưởng thành để tự túc sự cô đơn và quật ngã kẻ đồng minh chiến lược của nó: Thời gian

    Sigmund Freud đã rất sâu sắc khi nhận xét người là một con vật tâm thần suốt đời thèm khát sự trìu mến.

    Việc chăm sóc thường có giờ, nỗi cô đơn thì vô tận.

    Cũng may vào thời kỳ khủng hoảng “cai sữa” gay gắt này Jăng bỗng tìm được một số bạn mới. Bộ sách đồ sộ “Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust đã giúp anh vượt qua tầm tã nhiều ngày mưa dầm, nhiều đêm trắng. Jăng chưa từng thấy người bạn nào tâm đắc với mình đến thế, người bạn xa xôi mà gần gũi thấu hiểu mà khiêm nhường tương tự một hồng nhan tri kỷ.

    Sau Proust là một loạt nhà văn nhà thơ khác. Jăng gần như đứa trẻ nằm lọt thỏm trong nội sách, được vỗ về được chở che bởi đông đảo những bạn chữ trung thành, những người bạn ân cần không thất thường ghẻ lạnh, hắt hủi mình.

    Qua Proust, Jăng làm quen với Nerval, Baudelaire và nhiều rất nhiều nhà thơ khác.

    Không phải vì Jăng không đủ nghị lực đọc những tiểu thuyết dài. Nhưng anh say mê thơ vì thấy nó gần gũi, họ hàng, đồng cảnh với mình hơn.

    Ôi chắc những trái tim đó phải cảm áp cao lắm mới đủ sức tưới máu những dòng chữ nóng hổi đến thế. Những bài thơ như những chai thư cứu rỗi của đám người bất hạnh đắm tàu dạt vào một đảo nhỏ hoang vắng gửi vô định biển tới một bến người khuất nẻo.

    Cái cộng đồng cô đơn ấy mới rồ dại và đáng thương làm sao! Từ đáy tuyệt vọng, ruồng bỏ họ cất lên những tiếng kêu xé ruột hạnh phúc sưởi ấm đường trường lạnh giá của kiếp người.

    Jăng mải mê, Jăng đắm chìm trong những con chữ kỳ lạ có khả năng tâm sự những nỗi niềm thầm kín và riêng tư nhất một cách công khai.

    Tiếp xúc mãi với đám bạn điên rồ ấy trong đầu người trẻ tuổi bất hạnh bỗng nảy ra một ý nghĩ cũng không kém phần điên rồ. Tại sao mình không làm thơ như họ? Biết đâu những con chữ nhỏ bé và câm lặng này chẳng giúp mình chắp nối được với cuộc đời rộng lớn ngoài kia mà một thảm họa đã buộc mình phải cắt cầu với nó.

    Jăng miệt mài viết nằm. Cũng may mấy năm vừa qua anh đã luyện tay trái để thay thế bàn tay phải không còn cầm bút được nữa.

    Viết tay trái thật khó khăn, thật chậm chạp. Mà dòng cảm xúc trong đầu thì ào ạt... thì tuôn trào một chuyên viên tốc ký giỏi chưa chắc đã ghi kịp. Bàn tay trái vụng về chậm chạp kia vô tình đã tạo nên một thứ phanh hãm buộc dòng thác chữ phải giảm tốc độ, phải đào sâu và mở rộng như dòng sông nhỏ từ núi ào ào đổ xuống bổng trầm lắng phương trưởng thành một đại hà.

    Jăng đã gửi tuốt tuột năm bài thơ vừa ra lò vào bao la đại dương báo chí.


    Ít ai miêu tả được nỗi khắc khoải chờ đợi của người lần đầu gửi bài đăng báo. Jăng bỗng nghĩ miên man đến cuộc chiến tranh đã qua, đến những giây phút định mệnh nằm đợi lệnh khai hỏa mở đầu một trận đánh. Hình như vào những phút chờ đợi ấy trời thường đổ mưa.

    Đất lạnh trời rủi ro đời khoảnh khắc
    Phút đá chờ mưa bất trắc chiến tranh


    Những phút chờ đợi sinh tử trong một đời người.

    Đã hơn một lần Jăng nhìn tượng Chúa gầy guộc trơ trọi trên cây thánh giá khấn thầm:

    “Cầu Chúa ban phước lành cho con”.

    Và Jăng tự trấn an.

    - Năm bài chẳng lẽ lại không vớt được một bài... Nhưng... Nếu...

    Jăng rùng mình toàn thân (kể cả nửa phần tê liệt) nhắm mắt lại...

    Không phải chỉ một bài mà cả năm bài được đăng trang trọng trên tờ báo văn học sang bậc nhất Paris, tờ Tạp chí Pháp mới bên cạnh những tên tuổi lẫy lừng như Saint-John Perse...

    Vinh quang đến cũng bất ngờ như mảnh đạn đã găm vào xương sống “nhà thơ trẻ” ngày chiến tranh sắp kết thúc. Một sớm bừng mắt dậy Jăng bỗng trở thành một cây bút nổi tiếng. Hoàn cảnh bi kịch của đời anh càng khiến anh nổi tiếng thêm. Hình ảnh nhà thơ nằm liệt giường được chiếu liên tục trên màn ảnh nhỏ đã làm xúc động cả nước Pháp. Từ khắp các miền lục giác người ta đổ xô đến tham quan nhà thơ như một danh lam thắng cảnh du lịch vừa được phát hiện.

    Jăng đã chiến thắng nỗi cô đơn, nối lại được sợi dây liên hệ với loài người!

    Sự thật không đơn giản thế.

    Đám đông không thể khiến người ta nguôi được nỗi cô đơn... nếu nó không được cá thể hóa.

    Đã đành nhà thơ viết cho nhiều người, nhưng trong thâm tâm hình như anh ta nhằm viết cho một người.

    Sau bài thơ “Sự tấp nập cô đơn” Jăng bỗng nhận được một lá thư màu xanh da trời.

    Những bức thư tình có một số phận khá trớ trêu! Chúng có thể rất lâm ly rất hấp dẫn với người trong cuộc nhưng lại rất có thể vô duyên thậm chí kệch cỡm với người thứ ba. Không những thế chúng còn đặt người ngoài cuộc ở vị thế bất tiện của một kẻ nhòm lỗ khóa. Do đó kẻ hèn này xin được phép chỉ lẩy ra những đoạn tối cần thiết cho mạch chảy của câu truyện.

    ...”Em viết thư cho anh từ một đồi mimosa đương nở hoa. Hoa vàng rực rỡ như nắng. Và thơm. Thơm hoang dại. Em định ép một nhánh gửi anh nhưng hoa khô rụng hết phấn chẳng còn thơm nữa...”.

    Jăng đọc lá thư nhiều lần như đọc một bài thơ những chữ tầm thường ấy có gì đâu mà một người từng trải chữ như anh phải đọc đi đọc lại nhiều lần đến thế.

    Cuối bức thư có chép một câu thơ của Jăng.

    Mimosa chiều khép cánh mi môi xa

    Và ký Mimosa.

    Mimosa là ai? Đẹp hay xấu? Già hay trẻ? Liệu có phải một anh chàng đùa dai nào giả nữ cho tác giả ăn đậm quả lừa. Không thể thế được... Mùi hương nữ từ mảnh giấy thơm thiên thanh, cả nét bút nữ cũng có thể giả được, nhưng cách chữ nữ thì không thể lừa được một người thơ đa tình như Jăng.

    Chưa hết.

    “Em chắc anh viết thơ tay trái. Chỉ tay trái, tay phía trái tim mới có thể viết được những câu thơ tình đắm đuối thăm thẳm đến thế”.

    Cuộc đời thật oái oăm. Sau khi tập viết được tay trái, thì tay phải bỗng phục hồi. Nhưng hình như Jăng không muốn dùng tay phải để viết nữa. Bí mật này riêng anh biết. Trong bức grô plăng trên màn ảnh nhỏ anh đã cố tình cầm bút tay phải trước ống kính.

    “Độ này anh không ngủ được hay sao mà bạc cả mái tóc bên trái”.

    Jăng duyệt đi duyệt lại tất cả những phụ nữ đã đến thăm anh. Có phải “người ấy” không, người đàn bà có đôi mắt óng ánh nắng nó phù hợp với màu hoa mimosa.

    Nhưng, Jăng không dám hỏi. Nếu người ấy lắc đầu. Nếu người ấy bực mình không đến nữa. Thì sao? Thì sao?

    Chưa hết.

    Một hôm có một người làm vườn đứng tuổi xe hai cây mimosa đến với mấy dòng chữ quen thuộc.

    “Anh cho phép chuyển hai cây mimosa từ đồi nhà em đến trồng phía cửa sổ”.

    Jăng đã puốc-boa người làm vườn rất hậu để hỏi tung tích bà chủ. Nhưng thật đáng buồn. Đó là một người câm.

    Vì không biết địa chỉ nên Jăng đành phải dùng những bài thơ của mình thay những bức thư tình. Và lần nào anh cũng nhận được thư phúc đáp. Ít người biết rõ cuộc trao đổi thư thầm lặng và kỳ cục này.

    “Mimosa hết mùa hoa má nhớ
    Thương nở vườn rực lửa Mimosa”


    “Anh quá đáng lắm, đã xin phép tòa thị chính chưa mà đổi tên khai sinh của người ta thành Mimosa”.

    Mùa xuân năm ấy cùng với mùa đầu hoa mimosa tập Mimosa của Jăng ra mắt độc giả. Và lời tỏ tình riêng với một người nhanh chóng thành lời tỏ tình chung của nhiều, của rất nhiều người.

    Các báo săn tin tìm hết cách tra khảo Mimosa là ai? Không ai tin là tác giả nói thật khi anh trả lời.

    Mimosa là tên một bóng chữ. Nó là mối tình đầu - cuối của nhà thơ.

    Mimosa
    em vẫn đây
    mà em ở đâu

    12-98

     
    amylee and machine like this.
  3. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    MỐI TÌNH ĐẦU CỦA TÔI

    Lê Trọng Nghiên

    Trong làng, lứa con trai bằng tuổi tôi đã lên đường nhập ngũ gần hết, chỉ còn lại tôi, Lộc ngọng và Chín toét. Tôi là con liệt sĩ, lại là con một nên chưa có tên trong danh sách tuyển quân. Lộc nói ngọng như Tây nói tiếng ta. Mắt Chín vướng lông quặm, quanh năm đỏ au, thỉnh thoảng chớp nháy liên hồi. Trong mắt bọn con gái làng, bộ ba chúng tôi thuộc diện “đui, què, mẻ, sứt”. Phẫn trí, Lộc ngọng ca cẩm: “Làm trai thời loạn thật không dễ chút nào!”.

    Tối họp chi đoàn, bọn con gái lừa ba thằng “mẻ” vào giữa sân đình, rồi họ nắm tay nhau đi xung quanh hát vui bài “Chiếc gậy Trường Sơn”. Tôi xấu hổ đứng ngây như một pho tượng. Lộc ngọng tức, nói líu la líu lo. Vừa nói tay hắn vừa giơ lên chém vào không khí. Thấy vậy, bọn con gái càng gào to hơn, rồi cười như nắc nẻ. Tự nhiên, tiếng cười im bặt. Tôi ngỡ ngàng, ngó quanh. Chín toét đang ngồi xổm, hai tay bưng mặt khóc hu hu. Bỗng dưng, Chín toét ngừng khóc, ngửa mặt lên trời cười ằng ặc như bị ma làm. Biết bị lừa, bọn con gái túm được Chín toét đấm thùm thụp. Một hồi còi vang lên, báo hiệu chi đoàn bắt đầu họp, bàn cách củng cố đoàn chèo...

    Đầu năm, xã đoàn phát động phong trào “tiếng hát át tiếng bom”. Chi đoàn thôn đã thành lập đoàn chèo Quê hương và dựng vở “Con trâu hai nhà”. Đoàn chèo tập ở nhà dì Lý vì chú Hằng, chồng dì, là nhạc công nhị của đoàn, sân nhà dì lại rộng. Tôi đóng vai Thành, còn Huệ, vai Xoan. Nhà Thành và nhà Xoan nuôi chung một con trâu già. Nhờ có con trâu, Thành và Xoan thường xuyên gặp nhau, rồi yêu nhau tha thiết. Chiến tranh leo thang, Thành được gọi lên đường nhập ngũ. Đêm chia tay bên giếng đình thật bịn rịn, Thành nắm tay Xoan. Cô ngả đầu vào ngực anh khóc nức nở. Xem xong đoạn ấy, bọn trẻ con thích thú reo ầm lên: Chị Huệ yêu anh An, chị Huệ yêu anh An, rồi chúng vỗ tay đồm độp. Còn dì Lý, dì lẩn vào chỗ tối, lấy vạt áo lau nước mắt...

    Hôm sang nhà tôi vay gạo, dì Lý khoe với mẹ tôi:

    Thằng An nhà mình đóng vai yêu con Huệ, hai đứa trông thật đẹp đôi. Ông Hằng nhà em bảo hai đứa yêu nhau thật chứ không phải đóng kịch đâu, bà cứ nhìn mắt chúng nó thì biết.

    Mẹ tôi mừng ra mặt:

    Thật thế không dì? Từ khi tập kịch, tôi mới được gần Huệ. Em tươi tắn, ưa nhìn, vừa dịu dàng vừa nết na. Có đêm, tôi mơ cảnh chia tay. Huệ ngả đầu vào ngực tôi khóc nức nở. Giật mình tỉnh giấc, tôi không sao ngủ được, nỗi nhớ Huệ cứ cồn cào, đau đáu trong đêm. Tôi bật dậy, châm đèn, tìm chiếc khăn mùi xoa Huệ đưa cho tôi hôm tập kịch. Chiếc khăn màu trắng, đang còn thoang thoảng mùi hoa bưởi. Ở giữa khăn, Huệ thêu đôi bồ câu đang bay vào một bầu trời. Phía dưới, là chữ H lồng vào chữ A bằng những sợi chỉ hồng. Xung quanh khăn là đường viền màu xanh thẫm. Nhìn chữ A, tôi hiểu rõ tình em. Tôi lấy giấy bút, viết thư “Huệ ơi, cảm ơn em đã thêu chữ H lồng vào chữ A. Tối nay, anh muốn gặp em lúc 8 giờ tại cầu Máng. AH.”

    Sáng sớm, lấy cớ mượn kịch bản, tôi đến nhà Huệ để chuyển thư. Em đang nấu cơm trong bếp. Sợ có người biết, em cầm thư dúi ngay vào túi áo. Mới bảy giờ, tôi đã ra cầu Máng. Trời tối đen như mực, gió nồm thổi lồng lộng. Dưới chân cầu, từng đợt sóng đang ào ạt xô bờ.

    Anh chờ em lâu chưa?

    Tôi giật mình:

    - Anh vừa mới đến.

    Hai đứa đi dọc theo đê, rồi ngồi dưới một cây nhãn ven sông. Tôi ngồi xích lại gần Huệ. Em cúi đầu bẽn lẽn. Tôi đưa túi quà cho Huệ:

    - Anh có món quà tặng em.

    - Cảm ơn anh.

    Tôi bấm đèn pin. Huệ xem từng thứ một. Em ngắm chiếc gương tròn, phía sau gương có ảnh “Nụ cười chiến thắng”. Cầm quyển “Thép đã tôi thế đấy”, Huệ bảo:

    - Trong “Thép đã tôi”, anh thích nhất nhân vật nữ nào?

    - Anh thích nhất Thaia, vợ của Paven.

    - Vì sao hả anh?

    - Vì cô ấy là một người vợ tần tảo, thủy chung, mong em sau này cũng được như vậy.

    Huệ nhìn tôi âu yếm. Tôi nắm tay em:

    - Từ ngày tập kịch, anh mới được gần em. Sau những buổi tập, lúc nào anh cũng nhớ em, có đêm nhớ không sao ngủ được. Huệ ơi, anh rất yêu em. Anh yêu em từ lâu rồi, ý em thế nào?

    Huệ cúi gằm, im lặng, tay mân mê vạt áo. Trời nổi giông, thỉnh thoảng những tia chớp lại lóe lên từ phía chân trời. Huệ sợ mưa kéo tôi đứng dậy. Tôi vòng tay ôm chặt Huệ vào mình và hôn thật lâu lên đôi môi mềm ấm của em. Tôi cảm nhận tiếng đập của trái tim em đang hòa cùng nhịp đập của trái tim tôi.

    Em sẽ là Thaia...?

    Huệ gật đầu. Lời của tôi chỉ nghe nửa đoạn, nửa sau chìm vào im lặng, trong khoảng những hôn nồng...

    Biết tôi và Huệ yêu nhau, Chín toét và Lộc ngọng nhìn tôi như nhìn một gã lái buôn giàu có. Chín toét khoái trí ngửa mặt lên trời cười ằng ặc. Lộc ngọng phát mạnh vào đùi tôi: Tao nghĩ ra một kế, sẽ có cách chọn vợ công khai cho cả ba thằng. Nó thì thà thì thào như bán bạc giả:

    - Phải dùng phụ nữ bảo đàn bà, đó là thượng sách.

    Tưởng Lộc ngọng nói chơi, ai dè nó làm thật. Bữa họp chi đoàn thường kỳ. Chị Phó bí thư nêu ý kiến: Bịt mắt ba anh nam giới lại, cho đứng vào giữa các em chưa chồng, hễ anh nào túm được ai thì người đó sẽ là vợ của anh ta. Cả chi đoàn hoan hô nhiệt liệt. Lộc ngọng đã rỉ tai chúng tôi từ trước. Hễ tôi đứng ở đâu thì Huệ phải đứng đối diện. Hai chiếc khăn của Lộc ngọng và Chín toét sẽ có chỗ được mài sơ ra để nhìn được. Hai thằng cứ nhằm các em xinh nhất là túm.

    Cuộc chơi bắt đầu. Tôi túm được Huệ. Lộc ngọng ôm được cái Thanh xóm Bến. Bở nhất là Chín toét, nó vồ được chân cái Hòa, đẹp nhất xóm Đình. Chi đoàn bắt ba đôi đứng vào giữa, vòng vây bủa xung quanh và “bản anh hùng ca” Chiếc gậy Trường Sơn lại nổi lên.

    Có đợt tuyển quân mới, Lộc ngọng rủ tôi đến nhà Chín toét. Nó bảo: Mỗi đứa phải viết ngay một lá đơn tình nguyện để gửi Hội đồng tuyển quân xã. Nộp đơn chưa được 5 ngày, đã có tin: Cả ba thằng đều được lên đường ngay cuối tuần sau. Chín toét phấn khởi bảo tôi: Tớ sẽ vận động ba nàng tiên cùng chúng mình sang chợ Ngàng chụp ảnh làm kỷ niệm. Dù không trăm năm cũng được trọn đời bên nhau.

    Chúng tôi chụp một ảnh chung. đủ cả 6 đứa. Từng đôi lại chụp riêng. Ông thợ ảnh bắt tôi khoác vai Huệ cho tình cảm. Lộc ngọng chỉ được đứng cạnh Thanh, vì cả hai đều mặc quân phục, phải chụp cho đứng đắn. Còn Chín toét ngồi ghé sát đầu vào đầu Hòa, theo cách chụp của các đôi vợ chồng thành thị.

    Trước khi chúng tôi lên đường nhập ngũ, xã tổ chức liên hoan tiễn chân. Đoàn chèo Quê hương diễn vở “Con trâu hai nhà” tại hội trường xã. Tiếng trống mở màn dồn dập và thôi thúc. Nhạc nền nổi lên xao xuyến. Nghe rõ nhất vẫn là tiếng nhị da diết của chú Hằng. Đến cảnh chia tay bên giếng đình, Thành mặc bộ quân phục mới. Xoan bịn rịn tiễn người yêu, hát lời tạm biệt, ngân dài theo nước mắt. Đang hát, Xoan khóc nấc lên, nức nở, không hát tiếp được nữa. Dưới hội trường, nhiều mẹ, nhiều chị đã khóc theo Xoan. Phông không kịp hạ xuống. Xoan đã ngất xỉu trong vòng tay run rẩy của Thành…

    Mười năm trôi qua. Tháng 8 năm75, từ Sài Gòn, tôi giã từ binh nghiệp trở lại quê nhà. Xã mới nhận được tin Chín hy sinh ở chiến dịch Đường chín Nam Lào. Lộc ngã xuống trước giờ giải phóng Sài Gòn 5 tiếng. Thanh và Hòa vẫn đợi. Còn Huệ, em không chờ được tôi. Đợt đi dân công đắp đê năm trước, em đã trót nhỡ nhàng rồi sợ hãi bỏ làng ra đi.

    Đêm buồn, tôi chạy ra cầu Máng Trời tối đen như mực. Gió vẫn thổi lồng lộng. Dưới chân cầu, từng đợt sóng vẫn ào ạt xô bờ. Tôi ngồi một mình bơ vơ dưới cây nhãn năm xưa. Nỗi nhớ Huệ cứ cồn cào, đau đáu trong đêm... Trời nổi giông, mưa xối xả. Tôi chạy đi tìm Huệ, vừa khóc tôi vừa gọi: Huệ ơi, em ở đâu. Huệ ơi,...

     
    amylee, hoi_ls, machine and 1 other person like this.
  4. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    RỪNG MÙ U
    Hải Việt

    Mặt trận Nha Trang vỡ.

    Trai tráng trong làng có “đầu óc” bị bắt đem xử bắn, đem về giam giữ ở khám lớn, xanh-kem bua-rô, tiểu khu, đồn quận, đồn bang tá.

    Đình làng tôi thành đồn lính com-măng-đô. Người già, phụ nữ bị chúng lùa đi làm xâu. Tre pheo, cau, dừa bị chặt tận gốc, để xây đồn. Chuối, mít hai bên đường bị phát quang, đề phòng du kích. Làng xóm đang xanh tươi, mượt mà là thế, bây giờ trống hoang, nắng cháy, không nơi chim đậu, lũ gà con không còn chỗ trốn diều hâu. Cuộc sống của cái làng nhỏ ven thị xã này không tòa án, không công lý, không ai bênh vực, chở che!

    Người lớn ngơ ngác hỏi nhau: Bao giờ Cụ Hồ cho người về cứu dân mình? Bọn trẻ chúng tôi lặng câm, buồn thui thủi. Má tôi bấu víu vào Cha Sô mới đổi về nhà thờ Ngọc Hội. Người ta đồn cha tốt lắm. Ai sốt rét, ghẻ lở, sâu quảng tới, Cha đều tự chữa chạy. Một viên ký ninh, một chút iốt lúc này quý lắm. Má tôi được bà con làng xóm, con cháu tin quý, nhưng dễ tin người. Bà xin Cha che chở cho dân làng. Cha tỏ ra thông cảm, nhận lời. Cha thường ghé thăm gia đình, chuyện trò với má tôi rất lâu. Không hiểu vì sao, má tôi theo đạo Phật, lại tin Cha đạo đến vậy?

    Làng tôi còn có xóm đạo Phù Sa bên kia sông. Những mái nhà tranh lúp xúp, quây quần trên bãi cát bồi, dưới chân Hòn Thơm. Chỉ có nhà thờ là rộng lớn, lợp ngói, tường xây, cây thánh giá cao chót vót, uy nghi ngay đầu xóm. Người dân ở đây không có ruộng, sống bằng nghề lên núi chặt củi, đốt than, cắt tranh, đào củ mài, săn thú rừng. Năm nào cũng có người bị heo rừng húc, gấm về trọng thương. Gấm về ở trong rừng cò ke rìa xóm, tối vào bắt chó, bắt heo, về người. Thấy họ là thấy sự lam lũ, vất vả và nghèo túng. Vậy mà tôi rất ngại họ. Người tôi sợ nhất ở đây, là ông Bầu Mo. Đến nay, tôi vẫn không biết vì sao ông có cái tên như vậy. Người lớn bảo: Lưỡi ông dài, đỏ lòm, lúc nào cũng thè ra liếm môi, liếm mép vì thèm thịt trẻ con, thèm thịt chó. Ông không ở trong xóm, mà làm chòi ở một mình ngoài bờ sông, dưới rặng cây mù u. Thân mù u xù xì, lá to dày, xanh mướt, tán cây rợp mát quanh năm, nhiều cành tràn ra, đổ nghiêng phủ kín mặt nước dập dềnh đầy cỏ ống, một khúc bờ sông hoang vắng. Sáng sớm ông ra đi, sẩm tối mới về. Đôi khi ông vác con chó bị buộc chặt trong bao tải. Ông làm thịt chó cũng không giống ai. Bước chân xuống đò, là ông vứt luôn bao tải xuống nước mặc cho con chó lồng lộn, dãy dụa, sủi tăm trắng xóa, ông tranh thủ tắm qua quýt, khi cái bao tải không còn động cựa, ông nhấc lên vác về, nấu nước sôi lầm lũi cạo lông, xẻ thịt, chặt xương dồn hết vào cái nồi đất to, kho ăn dần. Bà con bên lương quê tôi không ai ăn thịt trâu, thịt chó, bởi nó trung nghĩa với người. Nên thấy dáng người thấp nhỏ, lưng còng, áo quần nhếch nhác của ông từ xa, tôi đã thấy mùi tanh tưởi, ghê ghê. Mỗi lần đi tới rặng cây mù u, bọn nhỏ chúng tôi cắm đầu, cắm cổ chạy trối chết. Dường như người lớn cũng xa lánh ông. Bởi vậy, cảnh sống của ông càng thêm cô đơn, hiu quạnh, như cái bóng lẻ loi ngoài rìa xóm đạo. Người ta khen ông không bỏ một buổi lễ nào tại nhà thờ. Cha Sô thường sang sông, tới tận chòi thăm ông.

    Sau những ngày chạy tan tác, các anh đã bí mật trở về. Mỗi lần sang núi phải đi qua xóm đạo và rặng mù u của ông Bầu Mo, tôi rất ngại. Để tránh giặc nghi ngờ, tôi vờ theo người lớn đi chặt củi. Trong xóm có cô gái mới lớn tên Mài, cứ tủm tỉm cười mỗi khi thấy tôi oằn lưng, rụt cổ vác bó củi nhỏ xíu đi qua.

    Mài trắng trẻo rất xinh, má lúm đồng tiền, đôi mắt to trong veo. “Cha mẹ cú đẻ con tiên”, má tôi bảo vậy. Mài đi chợ, đều ghé vào quán may của anh Hai tôi chơi. Quen, nhưng chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì, thỉnh thoảng nhìn nhau cười. Có lúc tôi chợt nghĩ, cô bé này muốn dò la gì mình chăng? Nhưng vài ngày không thấy Mài sang thì má tôi lại mong. Tôi cũng mong. Cha Mài dặn, ghé bán củ mài cho má tôi trước, rồi mới lên chợ. Củ mài bào nhỏ nấu canh cá tràu, rất ngon, cả nhà tôi đều thích. Còn tôi mong Mài vì lẽ gì, nào tôi có biết?!

    Một hôm tôi sang núi chặt củi, lần này thì chặt củi thật, không có hẹn hò gì với các anh, thấy Mài đứng trước ngõ, dưới gốc cây đào lộn hột, trĩu trịt trái chín vàng. Tôi đùa:

    - Mài đi củi không?

    - Đi! Chờ em với.

    Mãi chạy vào nhà, mang dép da trâu, vác rựa đi thật. Vào núi, Mài cứ tủm tỉm cười cái kiểu chặt củi lớ ngớ của tôi, nụ cười thật hồn hậu, tươi xinh. Bỗng Mài thảng thốt, mặt tái mét, khẽ gọi:

    - Anh Tư! Ai kìa?!

    Tôi sửng sốt, anh Minh đội trưởng đội vũ trang, đeo khẩu colt bên hông, đang lom khom lách cây rừng tiến về phía chúng tôi. Tôi chủ động bước lên trước đón anh:

    - Sao anh ở đây?

    - Anh mới về.

    - Lộ rồi, con nhỏ xóm đạo, chuyển chỗ nghen anh!

    Anh Minh kín đáo quan sát Mài, rồi lại gần hỏi, chân tình:

    - Em bao nhiêu tuổi rồi?

    - Dạ mười bảy. - Và bẽn lẽn nhìn tôi tủm tỉm cười.

    Anh Minh đi rồi, Mài hỏi tôi:

    - Ai vậy anh?

    Bí quá, tôi nói ẩu:

    - Ông kiểm lâm dưới Nha Trang lên kiểm tra rừng đó.

    Tôi ân hận và lo lắm. Mài có ngây ngô tin tôi không? Dại dột về xóm tọc mạch là chết. Cũng từ đó tôi không dám rủ Mài đi chặt củi nữa. Tuy vậy, ngày nào Mài không đi chợ, thì tôi lại tha thẩn ra bờ sông, nhìn sang xóm Phù Sa, Mài bơi lội giỏi, chiều nào cũng ra sông tắm.

    Một buổi sáng, Mài ghé vào quán, ngồi rất lâu, mặt buồn rười rượi. Tôi lo lắng gặng mãi. Mài nói rất khẽ:

    - Sếp Nghệ đòi lấy em! - Và hai giọt nước mắt lăn tròn - Em về! - Mài cúi đầu đi như chạy.

    Tiếng máy may không còn tươi vui, rộn rã nữa, đường chỉ chạy trên vải như con đường dài trống trải, hoang vắng đến tận cùng. Tôi biết, bọn chúng đã chấm cô gái nào, thì không cách gì thoát được. Cái chết của dì tôi cũng từ mối tình cưỡng bức của bọn chúng. Trung úy Chính đồn phó yêu dì tôi, hạ sĩ Châu yêu chị Lành, chị Lành và dì từ chối. Nhưng chúng không buông tha, luôn đeo bám, chặn đường dụ dỗ, tới nhà dọa nạt: Một là lấy chúng, hai là chịu đánh đập, tra tấn, ngồi tù rũ xương. Chúng bảo dì tôi và chị Lành theo Việt Minh. Điều này, thì chúng nói trúng. Không biết chúng nói ẩu, hay đã nắm được tình hình của ta. Sếp Nghệ dẫn lính tới nhà bắt chị Lành và dì tôi thật. Chúng đánh đập, giam giữ vài ngày rồi thả, rồi bắt lại. Năm lần bảy lượt như vậy. Những ngày ấy, súng là nỗi khao khát cháy bỏng của chúng tôi. Dì tôi cùng chị Lành trăn trở, suy nghĩ, dằn vặt rất nhiều, nhen nhóm trong lòng chút hy vọng mỏng manh. Cũng không còn con đường nào khác, dì tôi và chị Lành nuốt nước mắt, làm vợ lính. Vốn là cô gái đẹp, hiền thục, có học, con nhà gia giáo, dì và chị Lành thuyết phục được Trung úy Chính và hạ sĩ Châu theo ta thật. Song, kế hoạch nội công hạ đồn bị lộ. Cả bốn người bị thằng Nghệ bắt.

    Một buổi tối, trời trong veo, cao lồng lộng, trăng sáng rực rỡ, nhưng lạnh lẽo vô cùng, hai người con gái dịu hiền, nết na, đã ngã xuống trong tiếng khóc, tiếng thét gào xé ruột, xé gan của bà con họ hàng vọng thấu trời xanh.

    Nhưng Mài thì khác chứ, có gì ràng buộc đâu. Đẹp gái, cùng đi đạo, có ông chồng đại úy, sếp đồn, đầy quyền uy. Mãi không vào quán tôi nữa. Không hiểu vì tránh tôi, hay mỗi lần đi chợ, có thằng Nghệ kè kè một bên và tiễn đưa tận bến đò?! Nghệ còn siêng đưa lính sang ba-trui bên xóm Phù Sa, ở lại chơi nhà Mài, đến tận chiều mới kéo quân về.

    Không biết vì sao vô cớ tôi lại buồn. Tôi không ngẩng mặt lên, khi biết Nghệ vẫn tiễn Mài đi ngang qua quán. Mỗi lần có việc cần sang núi, tôi nhìn xóm Phù Sa và rặng mù u trong u uẩn, giận hờn. Tôi càng hồi hộp, lo lắng hơn, không biết Mài có kể chuyện đi chặt củi gặp ông “kiểm lâm" không? Ngổn ngang buồn như Hòn Thơm đứng im lìm trong đơn côi và dòng sông chiều man mác. Sao lạ vậy?!

    Mài nhắn, cần gặp tôi ở rặng mù u. Sao lại gặp tôi? Gặp làm gì nữa? Tôi xách rựa miễn cưỡng sang sông.

    Mài tủm tỉm cười.

    - Anh Tư giận em lắm phải không?

    Nụ cười của Mài thiệt lạ, tủm tỉm, nhưng lúm đồng tiền lại xoáy sâu trên đôi má ửng hồng và ánh mắt sáng trong, tự tin. Khiến sự giận hờn trong tôi vơi nhẹ đi. Nhưng thật lòng tôi chưa vui. Tôi nghiêm nghị hỏi:

    - Có việc gì vậy?

    - Anh Minh bảo anh....

    Tôi giật mình, cảnh giác: “Lại thăm dò gì đây?”

    - Anh Minh nào?

    - Anh Minh “kiểm lâm” của anh đó. - Mài như trêu chọc tôi. - Anh Minh tìm gặp em sau lần đi chặt củi. Anh chỉ nhà phải không?

    Tôi nhớ lại, anh Minh đã hỏi rất kỹ về Mài và gia đình. Nhưng chẳng lẽ... Mài lại là người của ta?!

    - Anh nghĩ gì vậy?

    - Không! Có nghĩ gì đâu.

    Sau khi nói mật khẩu liên lạc, Mài nói:

    - Anh Minh bảo: Anh chuẩn bị một cái ghe nhỏ, hai cái dầm, buộc chỗ bụi tre bến cậu Bốn lết từ bốn giờ đến sáu giờ chiều ngày mai nghe.

    Tôi gật đầu, nhìn Mài, nhưng không hỏi thêm. Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi ngân nga, vang vọng giục giã. Tiếng chuông quen thuộc với bà con bên lương, là hiện diện mốc thời gian, cho buổi sáng ra đồng, tan buổi cày trưa và nhóm bếp cho bữa cơm chiều. Chúng tôi như không muốn rời nhau. Mài ngắt lá mù u non vò nát, đưa lên mũi tôi, một mùi hương ngai ngái dìu dịu thật dễ chịu.

    - Tại sao Mài giấu anh?

    - Anh có tin em đâu. Con gái xóm đạo mà!?

    - Xinh thế mà tên là Mài nghe ngộ quá. - Má anh biết hết đó. Đẻ em thì mẹ mất. Cha nuôi em bằng bột củ khoai mài. Má anh cưu mang cha con em từ hồi đó. Bây giờ bà vẫn mua củ mài của cha em. Sợ người ta mua rẻ mà.

    Vậy mà bây giờ tôi mới hiểu ra. Con trai thật vô tâm. Lòng tôi nao nao cảm động. Tôi lặng lẽ nhìn Mài, em ngoan hiền, thật dễ thương. Sự rung động mơ hồ dâng lên trong tôi. Lần đầu, ngồi cạnh con gái nơi vắng vẻ, có cái gì mới lạ, bồi hồi. Tôi hôn nhẹ trên tóc Mài với tất cả tình thương yêu của mình. Hình như chỉ chờ có thế. Mài quay lại quàng tay ôm chặt ngang lưng, ngả đầu vào vai tôi. Tôi nắm tay Mài áp lên ngực mình, nghe trống ngực đánh thình thình, tôi vuốt nhẹ từng sợi tóc đen nhánh, thơm mùi bồ kết và dẫu lá dứa mới gội, buông xõa xuống đôi vai trắng ngần của em. Chúng tôi ngồi như vậy, im lặng bên nhau, không một cơn gió lùa, không một chiếc lá rơi. Tôi nghe tiếng ri rí của con ruồi vàng bay vơ vẩn dưới vòm lá mù u. Tôi hiểu lòng Mài! Song, liệu em có thoát khỏi thằng Nghệ không?

    Trước giờ hẹn, tội buộc ghe dưới vòm tre, hai chiếc dầm để theo ám hiệu, rồi lội ra giữa sông câu cá móm. Sông Nha Trang quê tôi có nhiều cá ngon như cá hanh, hồng, đồi cồi, chình, ba ba, cua đình. Câu cá móm phải đứng dưới nước sâu ngang bụng, chân dũi cát, cá móm tìm đến ăn con dắt, ăn luôn con dắt làm mồi câu. Tôi ham đi câu và thường câu được nhiều cá. Bà con bảo: “Thằng nhỏ sát cá”. Nhưng hôm nay, không còn bụng dạ nào câu nữa. Tôi thấy thằng Nghệ cùng đám lính sang nhà Mãi, đã lên đò trở về đồn. Sao nó về sớm vậy?

    Từng đàn cò trắng phau, thanh thản bay về tổ, sau một ngày kiếm ăn tận đồng trên, tôi mải miết nhìn hút theo bóng chúng, lòng vẫn không giấu được nỗi lo. Bỗng hai tràng tiểu liễn nổ dài, các loại súng rộ lên, rồi im ắng. Sự im lặng thật lạnh lùng, không gian như căng ra, đầu tôi căng ra, lòng dạ bồn chồn như lửa đốt, có chuyện gì hệ trọng đây. Chúng nó bắn ai? Tôi đau đầu nhìn lên bờ, nhìn về phía lùm tre. Ôi! Anh Minh! Cả Mài nữa! Hai người lao nhanh ra bờ sông. Chiếc ghe hối hả rời bến. Mài cố ý cho tôi thấy khẩu tiểu liên mi-trây-dét chiến lợi phẩm.

    Dân làng râm ran kháo nhau: Sếp Nghệ bị thương nặng, ba tên sĩ quan hung ác thân cận bị bắn chết. Con Mài dẫn đường cho người của ta. Cứ tưởng nó chịu lấy sếp Nghệ. Con nhỏ giỏi thật! Rồi xầm xì: Cha Sô giấu họ trong nhà thờ, chớ làm sao lọt vô sát đồn vào giờ đó! Có lẽ tôi là người sung sướng nhất, tưởng như đang sống trong mơ. Từ nay bên cạnh tôi còn có Mài.

    Sau trận đánh, Mài thoát ly luôn. Mấy tháng sau anh Minh hy sinh. Tôi được rút lên làm đội trưởng đội vũ trang thay anh. Giặc xây thêm lô cốt ngay giữa xóm Phù Sa của Mài. Làng tôi có tới hai đồn, bốn bốt. Thằng Nghệ sau khi ra viện càng cay cú, ngày, đêm cùng lính trên tiểu khu, trên quận kéo xuống, dưới Nha Trang kéo lên, càn quét, phục kích, lùng sục, săn đuổi chúng tôi. Tôi và Mài đều có giá treo thưởng, cho ai chỉ điểm, bắt sống, hoặc giết chết.

    Luôn di chuyển chỗ ở, ăn uống thiếu thốn, những ngày mưa lụt quần áo ẩm ướt, chẳng được mấy ngày khô, phận gái như Mài càng khổ hơn. Vậy mà lúc nào cũng tươi xinh, ngồi ôm súng trong gộp đá nhìn mưa giăng mờ mịt phủ kín núi rừng, em vẫn nghêu ngao hát. Có Mài chúng tôi cũng quên đi cái đói, cái lạnh. Yêu nhau, nhưng trong lòng mỗi đứa vẫn canh cánh nỗi lo. Tôi bên Phật, Mài bên đạo, chiếntranh ngày càng gay gắt hơn trong âm mưu bình định vành đai thị xã của địch. Chúng tôi đều có dự cảm chuyện sinh lỵ, tử biệt. Mài có ý bảo vệ giữ gìn cho tôi, rất sợ tôi hy sinh. Em bảo, nếu tôi có mệnh hệ nào chắc má tôi chết theo. Ai cũng bảo tôi là cục vàng của má. Tình yêu càng cháy bỏng, sâu nặng, nhưng không bao giờ chúng tôi vượt qua giới hạn, mặc dù nhiều khi chỉ có hai đứa ngủ lại trong rừng. Có lẽ tình yêu quá trong sáng, nên tự biết trân trọng, giữ gìn cho nhau chăng? Bà con rất yêu thương Mài và tin cậy chúng tôi: “Bọn nó trẻ, nhưng có đầu óc! Không bỏ bà con mình!”.

    Sông Nha Trang sau mùa mưa lụt, hết ngầu đục phù sa, hết bọt bèo, rều rác, cành khô, gỗ mục cuồn cuộn trôi. Nước lại xanh trong êm đềm. Những mảnh mây trắng xốp và đỉnh Hòn Thơm nghiêng mình lồng trong bóng nước. Hàng đàn chim én bay vê ao lượn, nô đáp mình trên mặt nước, tạo ra vô số những vòng sóng tròn nhỏ, lan tỏa xao động mặt sông. Mài thích thú nhìn ngắm đàn chim: Chúng vô tư quá, hiền lành quá! Đó cũng là ngày không chôn hết nỗi buồn của đời tôi!

    Chuyến đi công tác hôm ấy, chúng tôi bất ngờ gặp địch. Mài giục tôi rút trước, để em bắn cản. Thằng Nghệ nhận ra Mài, nó hò hét bọn lính xông lên bắt sống. Và cố dồn chúng tôi về phía bờ sông. Không thể để Mài bị bắt. Tôi bám bờ đất cao sau hàng tre, cùng nổ súng, Bọn giặc bỗng chững lại, hình như thằng Nghệ bị dính đạn của Mài. Chúng tôi rút chạy về rặng mù u, trước mặt là sông, thật nguy ngập. Ông Bầu Mo từ sau chòi nhào tới, lôi chúng tôi chạy ra bờ sông nói như ra lệnh:

    - Hai đứa nhảy xuống bờ sông, dưới bụi mù u có cái hầm ếch.

    Lát sau bọn giặc ào tới:

    - Ông già, hai người mới chạy vào đây đâu rồi?

    - Tôi không thấy ai hết.

    - Bà Mài bắn chết đại úy Nghệ rồi, mà ông còn giấu hả?

    - Tôi không biết, tôi không giấu.

    Chúng tôi nghe tiếng báng súng nện thình thịch liên hồi kỳ trận vào người ông, mà quặn đau như chúng đang dẫm đạp lên ruột gan mình. Tiếng ông yếu ớt: Quân phản Chúa! - Rồi im bặt.

    Bất giác chúng tôi nhìn nhau. Mài cắn chặt vành môi, nghẹn ngào, nước mắt ràn rua.

    - Đốt cái chòi của lão già đi, đập hết đi. Bọn bay kiếm sào, chọc xuống bờ sông, tìm kiếm dưới các tán mù u, các lùm cỏ ống dọc bờ sông. Bà Mài bơi lặn giỏi lắm đó.

    Những đầu sào lao phum phum xuống nước, quanh chỗ chúng tôi, đầu sào sướt qua trán tôi, máu chảy tràn xuống mắt, Mài hoảng hốt, lôi tôi ẩn sau lưng, lấy cả thân người che chở cho tôi. Tìm kiếm cả ngày mệt mỏi và không dám ở lại đêm, chúng hè nhau bắn như mưa, tôi gượng lôi Mài nép sâu vào. Song, cái hàm ếch nhỏ quá. viên đạn xuyên qua bờ đất găm sâu vào vai Mài. Em là người trên tay tôi.

    Đêm xuống. Ông Bầu Mo tỉnh lại, bò ra bờ sông tìm chúng tôi. Mài cố gượng nhìn sâu vào mắt tôi:

    - Đừng buồn nghe anh! Ông ơi! Con xin gửi lời vĩnh biệt Cha!

    Ông Bầu Mo khóc ngất, gần như đi không nổi. Trong bóng tối lờ mờ, tôi trân trân nhìn em nằm dưới lòng huyệt cạn lạnh lẽo, áo quần ướt sũng, đẫm máu, không quan tài, không một manh chiếu. Tôi rút khăn tay, cúi xuống phủ lên mặt em. Từng vốc đất và nước mắt nặng trĩu rơi! Trời ơi! Sao anh không chết thay em, em ơi!

    Hai ông cháu chôn em dưới rặng mù u, không có nấm mộ, chỉ có hòn đá trắng đánh dấu nơi em nằm!

    Mài mất, Cha Sô buồn lắm! Cha gửi lời cầu chúc tôi an lành. Không lâu, má tôi báo tin “Cha bị đổi đi đâu rồi?!”

    ✰✰✰

    Ngày tôi trở về, hỏi thăm Cha Sô, lớp trẻ không ai biết, hỏi thăm ông Bầu Mo, lớp trẻ không ai biết! Hòn đá trắng đánh dấu nơi em nằm không còn nữa! Những cây mù u còn sót lại, lá vẫn mướt xanh như thuở nào!

    Chuông nhà thờ lại đổ hồi, rung ngân trong tôi âm hưởng buồn. Tiếng chuông như nguyện hồn em, như những giọt nước mắt buông rơi xuống dòng sông Nha Trang trong veo, lồng bóng núi Hòn Thơm và mây trắng bay. Tôi thầm gọi: Em ơi Đàn chim én và anh đã trở về!




     
    amylee, 123phat and machine like this.
  5. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Đường đi không lối rẽ
    Nguyễn Quang Lập


    Chị đứng trước cửa nhà tôi chừng hơn nửa tiếng mới dám gõ cửa. Toàn thân chị ướt đẫm. Tấm áo mưa bị gió đánh rách tã, xác xơ như chủ nó. Một người lạ mặt gõ cửa vào đêm mưa gió thế này khiến tôi giật mình. Tôi sợ một tin chẳng lành...

    Chị đứng dúm dó một góc nhà, trân trối nhìn tôi:

    - Tui thiệt không phải...

    - Cố gắng lắm chị mới dám cất tiếng - Anh có phải nhà văn Lập không?


    Tôi “vâng” và thở phào nhẹ nhõm. Hóa ra chỉ là một bạn đọc của tôi hoặc tờ báo của tôi.

    Chị ngồi lặng lẽ uống trà nóng, uống hết cốc này đến cốc khác. Tôi kiên nhẫn chờ đợi. Hẳn chị có việc gì đó thật nghiêm trọng mới đội mưa gió đi bộ trong đêm từ thị xã Đông Hà vào thị xã Quảng Trị tìm tôi. Trong gần hai mươi năm làm báo, đã không ít lần tôi chứng kiến cảnh những người đàn bà bền gan đội đơn khiếu nại đến các tòa soạn báo, bất kể gian nan khổ ải thế nào. Gương mặt tím tái đang run lên, chị vẫn chưa hết xúc động. Mấy lần chị định cất tiếng, lại thôi. Quan sát thái độ của chị, tôi biết chị đang ân hận rằng tại sao mình lại bươn bã tới đây, lại gõ cửa nhà này, một cái nhà lạ hoắc. Rõ ràng chị đang muốn đứng dậy ra về nhưng lại sợ cái công bươn bã đường trường của mình phút chốc thành công dã tràng. Bỗng chị rùng mình, ôm bụng nôn thốc tháo ra một thứ nước vàng khè.

    - Chị chưa ăn gì phải không?

    - Chưa...

    - Chị vừa thở vừa cười gượng.

    - Đọc xong bài báo tui đến đây liền...


    Ba tiếng “đến đây liền” cứ nhẹ như không, cứ như chị chỉ bước từ bên kia đường sang đây chứ không phải một mình lội bộ mười hai cây số vào lúc cơn bão số tám đang đổ bộ vào Quảng Trị.

    - Bài “Chuyện tình đêm cuối năm”, cái người tên Hương là tui.

    - Bây giờ chị đã nói được, lại nói rành rẽ, có phần lạnh lẽo là đằng khác.

    - Tui không phải tên Hương. Tui tên Trâm. Nhưng chuyện là chuyện của tui với anh nớ...

    - Ngó thấy bộ mặt suýt bật cười của tôi, chị liền nói rất nhanh.

    Không, không, tui đến đây không phải để đôi co chuyện đúng sai trong bài báo mô... Tui chỉ hỏi….. anh nớ tên Phương chớ không phải tên Quỳ, có đúng rứa không anh?


    Vâng. Quỳ là bút danh của anh Phương.

    - Cha mạ ơi, rứa là đúng rồi!

    Chị hét to và khóc rống lên, khiến vợ con tôi đang ngủ bỗng chồm dậy chạy ào ra, mặt mày nhớn nhác. Mặc kệ, chị cứ khóc. Tiếng khóc vừa đau đớn vừa sung sướng tưởng đã nén chặt cả ngàn năm trong lồng ngực đầy của chị, giờ bỗng vỡ òa trong đêm mưa gió, nghe sao mà xót xa. Phút chốc tôi hiểu ngay rằng gần hai mươi năm nay chị đinh ninh Phương đã chết, người tình thời chiến tranh của chị đã chết. Rồi ai đó đưa cho chị tờ báo của chúng tôi, trong đó có bài viết của Phương, lại viết ngay mối tình của anh chị. Chỉ có điều Phương không ký tên thật, xưa nay anh vẫn lấy bút danh Ngọc Quỳ - Tên ghép của hai cô gái, cũng là những người tình thời chiến tranh của anh, - khiến chị lo lắng không yên. Chị sợ Quỳ vẫn là Quỳ thôi, chứ không phải là Phương. Mặc mưa to gió lớn, chị đến đây cũng chỉ vì mỗi nỗi lo lắng ấy.

    Tôi làm biên tập cho một tờ văn nghệ tỉnh Quảng Trị, vẫn gọi nửa đùa nửa thật là tờ Cỏ Lau. Trước Tết khoảng hai tháng bao giờ tôi cũng mò ra Hà Nội vừa moi bài vở vừa tận hưởng mùa lá rụng tuyệt vời và nhấm nháp chút ít văn hóa Bắc Hà, tức những con ốc bươu thơm phức mùi lá sả ở Hồ Tây.

    “Ông có cái gì kha khá, ném cho tôi một cái dùng số tết với, đang kẹt quá”. Tôi nói với Phương trong khi đang uống bia với anh.

    Hỏi là hỏi vậy, chỉ là cách lấy lòng cánh viết lách với nhau, chứ tình thực chẳng hy vọng gì ở Phương. Xưa nay anh vốn không mặn mà chuyện viết lách cho lắm. Khởi nghiệp bằng tin tiến độ, đắm đuối với lối viết “nét mới” và “điểm sáng”, đến khi giới viết lách bất ngờ đổi mới, quyết định nhúng toàn bộ chữ nghĩa vào đời sống, thì anh trơ khác ra, tự nhiên tắc ngỏm. Anh đang nổi tiếng trong cái nghề mới thịnh hành từ chục năm trở lại đây: nghề dẫn chương trình thi hoa hậu và người mẫu thời trang. Anh không trẻ, cũng chẳng đẹp trai nhưng cái khoản nói năng, ứng đối lưu loát thì không ai bì kịp. Xưa, thời các đám cưới đang ở tình trạng nửa họp nửa mét tinh, người ta tranh nhau đăng ký nhờ anh làm chủ hôn có khi trước cả đến nửa năm. Làm như anh thật khoẻ. Sáng vác mõm đi tối vác bị về. Chúng tôi cũng nhờ anh mà thơm lây, đỏ da thắm thịt. Ở hậu phương thì ba ngày một tiệc nhỏ năm ngày một tiệc lớn, anh đều có chỗ ở chiếu trên. Ra trận anh cũng khỏi sa vào tầm lửa đạn. Một mình một cái loạn anh ngồi rung đùi “bắn” vào tai địch, bắn liên thanh cả giờ không nghỉ, chẳng những địch vuốt mặt không kịp mà đến cố tổ cao tằng địch cũng muốn đội mồ nhảy dựng. Trong suốt cuộc chiến tranh, ai thế nào mặc lòng, riêng Phương ngày nào cũng “phơi phới niềm tin”. Rõ cái mồm ngàn vàng khôn chuộc, tam vinh tứ khoái đều nhờ nó mà nên cả. Vậy nên việc viết lách Phương không màng cũng là chuyện dễ hiểu. Tôi nghĩ thế, tưởng thế, hóa ra không phải. Phương lập tức ném trước mặt tôi một cái ký chừng mười trang viết tay. Ngó thấy cái đầu đề: “Chuyện tình đêm cuối năm”, tôi liền vồ lấy, nhét vào cặp ngay tắp lự. Phương lấy làm đắc chí lắm: “Chuyện thật chứ không bịa đâu nhé. Tao phắn ra một mẩu tình đem bán lấy vài trăm uống bia. Mai mốt kẹt tiền lại phắn ra một mẩu khác. Toàn chuyện tình máu lửa, vừa hoành tráng vừa ẩm ướt, thách đứa nào gạt của tao một chữ!” Quen tính Phương và quen tính huênh hoang vui vẻ trong các cuộc rượu của giới văn bút tỉnh chẵn, tôi mỉm cười không nói gì. Về nhà, tôi lẳng lặng gạt đi năm trăm chữ và cho in. Cái ký không lấy gì hay lắm nhưng cần cho số tết, cần một chút tráng ca làm gia vị trong bữa tiệc ngồn ngộn những trò vui vẻ. Ngỡ cái ký ba thật bảy bốc phét của Phương sẽ chẳng làm ai xuýt xoa, không ngờ vì nó mà chị lặn lội vào đây và ngồi khóc thảm thiết, tiếng khóc buốt đến tận xương.


    Chị nói mối tình của chị với Phương là mối tình đầu, cũng là mối tình cuối cùng, cho dù không năm nào không có người đeo đuổi chị, ra sức tìm cách “đặt vấn đề”. Họ không gặp nhau trong “một trận đánh lớn vào Thành cổ” và “Bỗng từ chiến hào, một nữ du kích lao lên, qua ánh lửa xanh lét của đạn pháo, chị bỗng sáng ngời và lấp lánh”. Phương tình cờ gặp chị ở giếng làng. Chị đang giặt áo, Phương buông vài câu cợt nhã liền bị chị mắng cho. Hôm sau chị ra giếng giặt áo đã thấy Phương ngồi đó, anh mải miết thổi sáo, không thèm để ý đến chị. Hôm sau, hôm sau nữa... Tiếng sáo của Phương đã hớp hồn chị đến nỗi Phương chưa kịp ngỏ lời, chị đã ngã vào lòng anh.

    - Tui nhớ đêm đó trăng sáng dữ, rứa mà tui không xấu hổ chi hết.

    Chị cúi đầu, thoáng một chút ngượng ngùng.

    - Năm đó tui mới mười bảy tuổi, rứa mà tui không biết xấu hổ chi hết...

    Nước mắt chị đã khô, nhưng hình như chúng đang chảy ngược, rót đầy ngực chị, khiến chị thỉnh thoảng lại nấc lên.

    - Được ba đêm thì anh đi....

    Cuộc chia tay không tiếng súng. Không phải “Một tiếng thét vang lên đến chói tai: bom! Hương nhào tới đè sấp tôi xuống. Không kịp nữa... tôi thấy mình mềm đi, tan đi, nhẹ bỗng. Bên tai còn văng vẳng tiếng Hương gọi tên tôi, gọi mãi... Khi tỉnh dậy, tôi đã thấy mình nằm trong một bệnh viện dã chiến, cách xa Hương 180 km đường rừng”.

    - Được ba đêm thì anh đi. Tui theo anh đến Câu Nhi mới quay lại. Hai đứa đứng bên lề đường. Tui không biết xấu hổ chi hết, cứ ôm lấy anh khóc hoài. Đông người quá, anh không dám hôn tui. Mãi rồi anh nói: “Nếu hòa bình anh không về tìm em, có nghĩa là anh chết”. Anh nói rứa đó. Chia tay mà nói rứa đó. Tui sợ quá, đêm mô cũng chiêm bao thấy anh chết. Đang giữa ban ngày, nghe tiếng bom pháo bất kể xa gần tui đều nhảy dựng, hét ngược. Bom đạn giặc giã tui có sợ chi mô, chỉ sợ anh chết.

    Nước mắt lại ngập đầy mắt chị. Vén áo lau nước mắt, chị đờ đẫn nhìn ra trời đêm. Lúc này gió giật rất mạnh. Thị xã Quảng Trị rung chuyển, cơ hồ chốc lát sẽ đổ sụp tất cả. Cây bàng trước ngõ nhà tôi đang quằn quại, nó gắng hết sức tàn vùng vẫy, cầu cứu. Gió réo thảm thiết, nghe như tiếng hú của hàng vạn người chết oan đang hiện hồn trở về. Chị vẫn ngồi yên, nét mặt không hề thay đổi, tuồng như không có gì xảy ra trước mặt chị, ngoài kỷ niệm của chị và Phương.

    Bỗng một tiếng “rắc" rợn người. Cây bàng đổ sập, nằm sõng soài, rã rượi. Nó chết không một tiếng than. Sân nhà tôi sáng rực, một khoảng không trống rỗng ập tới, nở to mãi. Điện phụt tắt. Tối đen như một nấm mồ. Chỉ còn lại tiếng hú hét mỗi lúc mỗi ghê rợn tràn ngập đêm đen. Thốt nhiên tôi rùng mình, nổi cả da gà...

    - Rứa mà anh không chết! - Chị kêu to.

    Kỳ lạ quá! Trời, Phật thiệt có mắt! Tôi sợ chị, sợ quá đi mất.


    Bão tan, tôi liền gọi điện cho Phương. Anh cười khùng khục: “Tiên sư bố nhà mày, tao tưởng mày thông minh lắm. Thôi được, thế này nhé! Nhuận bút của tao được bao nhiêu? Ba trăm à? Số tết mà bèo thế? Mày cầm dùm tao đưa cho nó, bảo tao gửi vào làm quà tết. Mày phải nói kheo khéo, gái nhà quê hay sĩ diện hão lắm đấy. Mày có thông minh không hả Lập?"

    Tôi buông máy ngồi rũ. Thật không ra làm sao cả, không dưng tôi đang biến mình thành kẻ phạm tội. Tự tôi đã khuấy đảo đời sống yên bình của chị và mở lối cho chị đi vào cửa tuyệt vọng.

    Mới ngày hai mươi chị đã cúng tất niên, một hai mời tôi ra dự cho bằng được.

    Tôi hiểu chị mở tiệc mừng cuộc tái sinh của anh, và cả chị nữa. Thật khó cho tôi quá. Chưa bao giờ tôi ngao ngán trước một lời mời như lần này. Mấy ngày này chị như một người say. Thoạt tiên chị dập đầu trước bàn thờ anh khóc từ sáng tới tối. Gần hai mươi năm chị để anh ở với người âm. Có ai đưa tin cho chị đâu, tự chị đinh ninh lời anh dặn, hòa bình mới một năm chị đã lập bàn thờ. Hai mươi năm chị tế sống anh, thế có tội anh không! Chị ôm tấm ảnh anh nức nở đưa anh về cõi dương. Cuộc đoàn viên đã chết trong mộng tưởng giờ đã hồi sinh nhưng lại kéo theo cuộc chia ly khác - Cuộc chia ly cha và con ở cõi âm. Đứa con gái của anh chị mất năm mười hai tuổi vì bệnh hoại thư đường ruột. Lâu nay chị cứ nghĩ thế nào cha con cũng gặp nhau, đang sống với nhau chắc là yên ấm lắm. Không ngờ nó vẫn một mình bơ vơ. Cha nó đã rời bàn thờ, giờ chỉ mỗi mình nó với một bát hương. Chị nhào tới bàn thờ, bíu lấy ảnh con khóc ngất. Lát sau chị tỉnh ngộ: Không có ba nó thì nó sống với ông bà nội ngoại, với làng nước xóm giềng. Năm nay nó đã hai hai tuổi rồi chớ còn bé bỏng gì nữa. Chị đứng cười rũ trong khi nước mắt vẫn hai hàng. Trên bàn, anh đang nhìn chị mỉm cười, nụ cười trai lơ lúc nào cũng làm tim chị quặn thắt. Từ nay họ không còn xa cách nữa. Họ đang gần, đang rất gần, có sáu trăm cây số chứ bao nhiêu. Lâu đài hạnh phúc đã mở khóa, chị chỉ cần chạm khẽ là cánh cửa sẽ mở tung. Có gì to lớn bằng điều đó? Chị ngồi nuốt nước mắt khe khẽ hát một mình, bài hát chị đã hát anh nghe đêm trước chia tay anh...

    Tôi sợ tất cả những điều đó diễn lại trước mắt tôi một lần nữa. Chị thì gọi điện reo réo cả ngày. “Bốn giờ nhé, bốn giờ..” rồi dập máy, không để cho tôi phân bua một lời nào. Thế cùng tôi phải đi. Chị bó gối ngồi chờ tôi đầu ngõ cơ chừng đã lâu lắm. Mâm cỗ mười người đập bụng ăn không hết chỉ dành cho tôi và chị cũng đã nguội lạnh từ lâu. Chị giục tôi uống rượu, rối rít mời tôi ăn cá rán, cá hấp, thịt bò tái, thịt lợn luộc, thịt gà phay... Phải là vợ tôi thì tôi đã gầm lên. Nhưng với chị, tôi cắn răng chấp nhận hết, vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngon. Chị cười rạng rỡ:

    Bữa ni mà có anh Phương ngồi đây thì xong bữa tui chết cũng vừa.

    Tôi đưa cho chị phong bì ba trăm ngàn đồng tiền nhuận bút của Phương.

    “Rứa a?” - Chị reo lên.

    Mười ngón tay chị run run mân mê phong bì. Khó có thể diễn tả gương mặt ngập tràn hạnh phúc của chị lúc đó. Hẳn chị đang mường tượng trong tay chị không phải là tiền mà là trái tim Phương, một trái tim khỏe mạnh đang phập phồng.


    Tui vừa bán con bò. - Chị nhắm nghiền mắt khẽ nói, hai má dần đỏ rực lên.

    - Một con bò không biết có đủ tiêu pha một tháng ở Hà Nội không?


    Tôi ngồi chết lặng, hoàn toàn không biết nói thế nào với chị. Từ khi tìm gặp tôi và biết chắc Phương còn sống, chưa lần nào chị hỏi tôi về hoàn cảnh hiện tại của Phương. Có thể chị không quan tâm Phương đang sống với ai, có hạnh phúc hay không. Chị chỉ cần gặp anh một lần, sau đó thì thế nào cũng được. Hoặc giả chị đang nuôi hy vọng rằng hạnh phúc của Phương đang để ngỏ và không muốn ai dội nước lã vào niềm hy vọng ấy. Chị hân hoan chìa ra trước mắt tôi một chiếc vé tàu:

    - Nói ra ôốc dôộc... Từ bữa cha sinh mẹ đẻ đến chừ, chưa khi mô tui ngồi tàu hỏa.

    Nghĩa là chị quyết định ăn tết ở Hà Nội. Tôi rụng rời chân tay.

    Có một chuyện mà dù chị có cầm dao dọa giết tôi cũng không kể. Ấy là buổi chiều tôi ngồi uống bia với Phương. Sau khi ném cái ký cho tôi, Phương bắt đầu kể cuộc tình của anh và chị. Đúng hơn, anh chỉ mô tả những trận tình trong ba đêm của chị và anh. Kể và cười ha hả. “Đàn bà kêu la, rên rỉ tao biết cũng đã nhiều, nhưng con này nó kêu như mèo kêu chúng mày ạ. Đúng như mèo kêu. Tao nói sai trời đánh tao chết liền”. Rồi anh nhái lại tiếng mèo kêu của chị. Cả hội cười sằng sặc. Tôi cũng ôm bụng cười sằng sặc.

    Chị lên tàu chín giờ đêm hôm đó. Tôi quyết định không gọi điện báo cho Phương, cho dù hai ba lần anh gọi điện nhắc tôi: “Nếu nó có ý ra Hà Nội, không cản được thì mày phải báo trước cho tao”. Tôi biết nếu tôi gọi điện, ngay lập tức Phương xách vợ con vào Sài Gòn ăn tết.

    Suốt ba ngày tết năm đó tôi cứ bồn chồn, lo lắng không yên. Tôi sợ cuộc gặp gỡ của chị và Phương. Nghĩ mình lắm lúc thật vô duyên nhưng nỗi lo sợ thì không sao quên được. Ra tết, Phương gọi điện vào. Anh mắng tôi té tát rồi lại cười khùng khục: “Nhưng mà xong rồi. Nó vừa lên tàu xong thì tao gọi điện cho mày đây. Tao giải quyết trọn nghĩa vẹn... tiền. Nó dzui tao cũng dzui. Khơ khơ... Nó vẫn kêu như mèo mày ạ”. Tôi buông máy, đá cái ghế đẩu bay vèo, nằm vật xuống nền nhà. Cảm tưởng như có ai đang bóp cổ mình...

    Tuần sau tôi ra Đông Hà, nhà chị vẫn cửa đóng im lìm. Thực ra không phải là nhà. Chín mười cây tre và vài chục tấm tôn rách cố kết với nhau đứng lặng câm trong buổi chiều không nắng. Một tháng sau chị vẫn không về. Có ai đó đã gỡ đi vài tấm tôn vách. Cho đến tết năm sau thì chỉ còn lại mấy cọc tre đứng chơ vơ giữa trời. Cuối cùng cả mấy cọc tre cũng không còn. Nền nhà chị, cây xấu hổ bắt đầu bò lây lan...

    Sau đó tôi đem vợ con mò ra Hà Nội kiếm ăn. Bốn năm sau mới nháo trở về thăm viếng bạn cũ ở Quảng Trị, tôi có ghé qua nơi chị ở. Cây xấu hổ mọc vống lên trùm lấp cả khu vườn. Không có ai dám đến dựng nhà ở đấy. Người ta đồn khu vườn ấy có ma. Đêm đêm, trong các lùm cây xấu hổ, ma ngồi nghiến răng ken két.

    Hà Nội, ngày thầy thuốc 1998
     
    amylee and hoi_ls like this.
  6. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Họ Lão
    Quế Hương

    Năm tôi mười sáu, mẹ mời về nhà một ông thầy nổi tiếng bói tên. Ông ta không tráp, không sách, không quẻ. Đồ nghề của ông ta chính là đôi mắt. Đôi mắt có ánh nhìn cứng lạnh như mũi khoan, thủng thỉnh đục từng mẩu đời cho đến khi lộ ra số phận. Ba người ngồi một dãy nhưng ánh mắt ông ta chĩa vào chị Ái.

    - O[1] tên chi?
    - Dạ... Ái.

    - Đời O lộ cả trong cái tên. Ái là yêu. O yêu thiệt dễ sợ!

    - Ông ta bỏ lửng ở đó, quay qua mẹ tôi:

    Tên bà?

    - Dạ... Lội.

    - Lội suốt đời phải không? Vì mẹ, vì chồng, vì con...

    Mẹ tái mặt còn tôi ghé tai chị Ái:

    - Bói rứa em bói cũng được. Căn cứ vào tên mà suy diễn. Vả lại mạ nói đàn bà mấy ai không khổ.

    - Ừ, mụ non nói có lý - Thầy nói tau yêu dễ sợ... nhưng tau có trái tim đông lạnh!

    Chủ nhân trái tim đông lạnh đứng dậy nhưng không bỏ đi vì câu nói tiếp theo của ông thầy:

    - Sáu, bảy tuổi nhà bà có tai biến, bắt đầu nếm mùi cực. Tuổi trăng tròn phải lưu lạc. Chồng con không ra chi... Đôi chân bà là đôi chân biết khóc, luôn dầm trong nước, “ướt” suốt đời. Đưa nó ra đây!

    Mẹ tôi líu ríu chìa chân ra. Đôi chân in dấu số phận. Chỗ chai, chỗ sần, chỗ nhô xương, móng hư, móng trụi... dấu vết lầm than lấm tấm như lệ ứa.

    Chị Ái ngồi xuống như bị lực hút của ông thầy. Hình ảnh bà ngoại điên đẹp tuyệt trần đứng cởi quần rũ hiện ra trong nắng. Bà tôi điên khi mẹ tôi lên tám, vẫn đẹp lạ lùng cho đến khi chết. Tôi còn nhớ bà ngoại hay nói một mình, phì cười và cởi quần rũ. Động tác nào của bà cũng tự nhiên, duyên dáng... Đúng là mẹ đã đi ở từ năm mười ba để lấy một món tiền chữa bệnh cho bà mẹ điên. Đôi mươi lấy một anh thợ hớt tóc. Khoảng mười năm bệnh lao cướp mất chồng... Vâng, cuộc đời mẹ, thầy tóm trong mấy câu mà đúng đến sởn da gà! Cả đôi chân mẹ, suốt đời chui rúc lặn lội sao ông nhìn thấy và gọi tên nó thật đúng - Đôi chân biết khóc! Chị Ái có vẻ hoang mang. Tôi nghe chị lẩm bẩm: “Chân vợ ổng cũng rứa thôi. Đàn bà mà!”. Thế nhưng tôi thấy chị lén nhìn chân mình.

    - O tên chi? - Ánh mắt ông thầy xỉa vào tôi. Vẫn cái ánh mắt dễ sợ ấy. Lập tức con bé “cắc cớ” trong tôi xúi tôi nói láo.

    Tên... Dần ạ!

    Bà chị bụm miệng cười còn ông thầy tỉnh bơ cắm ánh mắt vào tôi bắt đầu khoan:

    - O khổ vì không giống cọp. O hiền và đa cảm đa mang. Hiền là thiệt, thương là khổ. Hay thương nhưng lại dễ bị người ta ghét. Trái tim đa cảm của O tự vệ bằng những cái gai - bướng bỉnh, lạnh lùng, kênh kiệu, khó gần...

    Sau bữa bói tên, những người đàn bà trong nhà tôi dường như khổ hơn. Mẹ hay nhìn “đôi chân biết khóc”. Tôi xù gai, tăng cường bảo vệ trái tim yếu đuối bằng thành trong lũy ngoài và thề tránh xa mấy lão vừa soi vừa bói. Chị Ái trông như vô sự vì trái tim chị vẫn “ngủ đông”! Cô giáo mới ra trường đẹp như hoa khôi nhưng lạnh như nước đá vẫn chưa có bồ dù lượn lờ quanh chị cả tá. Loại lì lợm lăn xả vào nhà, chị lấy chổi quét. Loại ngang lứa, chị bảo “hỉ mũi chưa sạch”. Loại chững chạc, chị thưa cụ... Mẹ tôi đe ở quá, chị bảo: “Thầy bảo con lụy vì yêu, ở quá hết lụy”. Mẹ im lặng ân hận. Còn tôi rủa thầy xem mặt bói tên!

    Chị Ái không ở quá. Chị lấy chồng muộn khi mẹ tôi đã qua đời, ở tuổi băm. Tôi tò mò nhìn người làm nóng trái tim mùa đông và khiến cái đầu ngang ngạnh của chị đầu hàng. Trong ảnh anh ta trẻ hơn chị và trông quen quen. Chị viết trong thư chị rất hạnh phúc, đến nỗi thỉnh thoảng chị cứ muốn hét lên với ai đó rằng chị hạnh phúc lắm lắm....

    Một ngày, tôi nhận một bức điện khẩn từ thành phố Hồ Chí Minh: “Chị cần em. Thu xếp vào với chị gấp”.

    Tôi gặp chị tại phòng hồi sức của bệnh viện. Chị già đi, gầy rộc hốc hác. Đôi mắt đen toát lên ánh lửa dữ dội của kẻ đang quyết đấu. Nằm mê man bất động trên giường lủng lẳng dây ống là chồng chị. Mặc năm tháng và biến đổi, tôi vẫn nhận ra đó là thằng Chuột!

    Thằng Chuột thua chị Ái ba tuổi, lớn hơn tôi một tuổi nhưng không ai gọi đứa quanh năm làm thuê gánh mướn, không cha không mẹ bằng anh! Thằng Chuột thường ở trần khoe chỗ lõm trên vai, nơi chiếc đòn gánh luôn đè nặng từ khi cha mẹ nó chết vì trúng mìn khi xăm tìm phế liệu. Nó bảo đó là chỗ đựng tiền nuôi em. Hồi em nó còn nhỏ, gánh thuê nó phải dắt em theo. Gánh xóm nào gửi em xóm ấy. Trông nó gánh nước thật buồn cười. Quang gánh e dài hơn nó và nước thì lưng lửng thùng. Thế nhưng có việc gì người trong xóm cũng gọi vì nó siêng năng, thật thà và rất thương em. Nó hay gửi em nó ở nhà tôi. Con bé la lết chơi, thấy cái gì cũng cho vào miệng. Tôi lén lấy cục đường đen kho cá trong chạn cho nó còn chị Ái đem con bé nhem nhuốc gầy gò ra bể nước đánh bóng. Tắm rửa xong xuôi, gói trong chiếc áo cũ rộng thùng thình, trông con bé rất ngộ. Thằng Chuột cảm động lắm. Nó thường nán lại chẻ giúp đống củi, buộc cái chổi hoặc chữa cái gì đó... Mùa mưa, nước trời lai láng, thằng Chuột chuyển qua bán kẹo gừng. Thỉnh thoảng gửi em và trả công cho chị em tôi mấy cái kẹo. Viên kẹo như chiếc bánh ú nhỏ xinh, tẩm bột cho khỏi ẩm, sực nức mùi gừng. Chị Ái thường thè lưỡi liểm sạch lớp bột rồi mới ngậm. Chúng tôi nói chuyện bằng cái giọng ngọng nghịu bởi viên kẹo trên lưỡi. Những ngày mưa dầm thúi đất ấy, anh em thằng Chuột là tia nắng. Bốn đứa chơi trò bán buôn hoặc vợ chồng. Chị Ái thường đòi làm vợ thằng Chuột để ăn kẹo gừng. Còn tôi thích làm mẹ con Bẹp, em nó. Thằng Chuột lại thích trò dạy học. Nó bảo nó nhất định nuôi em nó thành cô giáo!

    Sao vậy chị? - Tôi bối rối hỏi trống.

    - Ảnh xuống vét cái giếng cho xóm... trèo lên ngã vật ra mê luôn. Nằm ở trển một tuần, chị chuyển vào đây - Giọng chị Ái khô khốc. Mắt chị nhìn như dán vào cái hình hài bất động trên giường.

    - Bác sĩ bảo sao?

    Chị không trả lời, bọc người bệnh bằng ánh mắt da diết mênh mông.

    Chị nhận ở tôi mọi sự giúp đỡ ngoại trừ thay chị ngồi bên... anh. Tôi cứ lướng vướng với tiếng “anh” ấy! Chị Ái không rời anh quá mươi lăm phút. Hình như chị sợ anh mở mắt khi không có chị hoặc chị biết thời gian anh còn đấy không bao lăm và

    chị chắt chiu từng phút còn lại. Tôi không hề thấy chị đặt lưng xuống giường. Ngày đêm chị ngồi bên giường người bệnh, làm các động tác chăm sóc một cách tỉ mỉ, bọc anh trong cái nhìn trĩu nặng yêu thương. Khi mệt quá, chị ngủ gục trong khoảnh khắc rồi tỉnh dậy hoảng hốt. Tôi biết chị sợ Tử thần. Thi thoảng lão tạt qua. Khi lão hiện diện phút giây dài đằng đẵng, cả nắng cũng ốm và đến người khoẻ mạnh như tôi cũng cảm thấy khó thở. Lão dửng dưng ghé nhìn anh và thằng bé mười bảy lún phún ria mép, bị chấn thương sọ não vì đua xe nằm cùng phòng. Ánh mắt nghiệt ngã của lão làm tôi ớn lạnh. Hồi nhỏ, cả nhà bảo tôi bị nhiễm vi-rút TT[2]. Tôi sợ đến phát khóc khi chứng kiến một con bé bị xe tông chết khi băng qua đường. Dòng xe ngưng chảy. Con bé nằm trên lộ như con búp bê bị quăng ra đường. Đến lúc ấy tôi mới biết rằng người ta vẫn có thể chết khi còn rất trẻ. Chị Ái bảo có một lão mặc áo choàng đen, mang bị gậy. Lão sờ vào ai là lấy đi hồn vía của người đó bỏ bị. Từ đó ngủ với mẹ và chị, tôi chen vào giữa, trùm chăn kín mít. Tôi sợ lão thấy tôi. Còn bây giờ, tôi cứ như kẻ vô hình trong mắt lão! Lão vẫn nhìn chòng chọc chồng chị Ái và cái thằng lún phún ria mép ấy. Khi chị Ái thiếp vì mệt trong khoảnh khắc, tôi thay chị lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt sống mỏng mảnh truyền vào người bạn cơ cực thời thơ ấu và canh lão. Bây giờ tôi thấy lão mà lão không thấy tôi!

    Có một lần gánh đầy bể nước, thằng Chuột gãi đầu gãi cổ ngập ngừng đề nghị:

    - Tui không lấy tiền công gánh nước, dán bì, chẻ củi... chi tui cũng làm không công hết..., chị dạy cho con Bẹp học với!

    - Răng mi không dạy em? - Tôi cong cớn hỏi.

    Tui biết có ba chữ: O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu. Con Bẹp học hết 3 chữ nớ rồi!

    Chị Ái cười ngặt nghẽo:

    Té ra mi mù chữ. Để tau dạy cho. Học phí tau tính bằng kẹo. Mỗi buổi hai cái kẹo gừng - Thằng Chuột gật đầu lia lịa.

    Khi con bé học, thằng Chuột nuốt lén chữ đực chữ cái vào bụng thế mà biết đọc trước cả em nó. Thấy nó sáng dạ, chị Ái bày luôn cho nó để được dịp kéo tai và bắt nó gọi bằng sư mẫu. Đồ đệ không những để dành kẹo gừng mà còn sẵn lòng để sư mẫu sai vặt từ chuyện hái ổi, hái dừa, đánh

    nhau đến chuyện làm thủ công, tìm lá thuộc bài, bắt chuồn chuồn ếch nhái cho chị em tôi lấy điểm. Chị Ái mười bảy mười tám, thường có đuôi quẩn chân, thằng Chuột lại vác thiết bảng đòn gánh hộ tống chị. Khi chị Ái thôi dạy, trình độ văn hóa lôm côm của thằng Chuột khoảng lớp ba, lớp bốn và tai nó hết nguy cơ thành tai lừa!

    Thế mà trong hồ sơ bệnh án ghi: Lê Chuột, 35 tuổi. Nghề nghiệp: Kỹ sư. Hôn mê sâu vì khí độc dưới lòng giếng. Chuyển từ bệnh viện Đắc Lắc...

    Người ta đã chuyển anh ấy ra khỏi phòng đặc biệt để nhường chỗ cho những kẻ còn hy vọng. Y học hầu như đã bất lực nhưng chị Ái vẫn không đầu hàng. Nữ trang, tiền bạc hết sạch, chị thế chấp nhà và mảnh đất trồng cà phê ở Đắc Lắc vay ngân hàng một số tiền lớn duy trì cho anh điều trị ở bệnh viện. Tình yêu và niềm hy vọng vẫn rừng rực trong mắt chị. Tôi thường bắt gặp chị ôm anh như truyền cho anh sinh lực của mình, thầm thì nói với anh như anh nghe được, tắm anh bằng những nụ hôn đẫm nước mắt. Chị gầy nhanh, tinh lực chỉ còn trong đôi mắt hõm sâu. Bác sĩ điều trị bảo tôi khuyên chị đem anh về nhưng tôi và họ đều không thuyết phục được chị. Chị còn tiền trang trải và vẫn tin anh sẽ mở mắt nhìn chị.

    Thế chị gọi thằng Chuột bằng anh lúc nào? - Một đêm tôi buột miệng hỏi.

    - Khi lấy nhau.

    - Thế chị… thích… hắn lúc nào?

    Hồi ấy...

    - Ừ.

    Hồi đó chị chỉ nhớ tới hắn khi có việc gì sai hắn... Khi chị quên mất hắn từng có mặt trên đời thì hắn bỗng hiện ra. Chị nhận một lá thư chữ rất đẹp. Hắn báo cho chị hắn đã tốt nghiệp bổ túc văn hóa phổ thông trung học, đang đợi kết quả thi vào đại học. Hắn xin phép ghé thăm...

    Em không tưởng tượng nổi chị ngạc nhiên thế nào đâu khi đứng trước hắn. Một người đàn ông thực sự - từng trải, phong trần và đẹp! Chị bối rối không dám gọi hắn là… thằng Chuột nữa. Từ đó theo với những chuyến tàu hắn hay xuất hiện bất ngờ với những món quà thời thơ ấu. Gói kẹo gừng chị thích, chùm keo ngày xưa chị bắt hắn lội qua ao bẻ, con sóc bằng xơ mướp mà chị em mình từng giành nhau, bó hoa dại toàn thứ tụi mình chơi đồ hàng... Hắn làm chị ngỡ thời gian không có thực và chị vẫn ở cái thuở be bé ấy! Hắn ít nói, hay làm. Đến chỗ chị có gì hư cũng xắn tay sửa. Có khi hắn còn xách nước... Hắn đang là sinh viên năm nhất ngành cơ khí... Xí nghiệp nơi hắn làm công nhân cho hắn đi học. Vẫn một người làm cho hai người học... Tần tảo, vất vả hơn mụ đàn bà...

    - Giọng chị Ái rã ra từng mảnh.

    - Rứa hẳn tỏ tình với chị ra răng? - Tôi vẫn tò mò.

    - Không nói chi cả. Cứ lẳng lặng tận tâm tận tụy. Cũng như ngày nhỏ, có hắn chị cảm thấy vui vui và thân thuộc. Có một lần hắn giáp mặt anh chàng đang theo đuổi chị. Anh ta ngồi lâu ơi là lâu. Hắn thay cái đèn neon trên bàn chị cũng lâu như thế. Sau đó lấy chổi quét nhà xoèn xoẹt...

    - Thì hồi nớ chị từng biểu hắn làm rứa để đuổi khách

    - Tôi cười.

    - Nhưng hồi nớ chị chỉ là con ranh 16, 17... Khi anh ta về, hắn bảo:

    - Cô có nhớ cái đòn gánh dùng làm thiết bảng bảo vệ cô ngày xưa không? Tui... còn giữ đấy! Lần sau... tui đem theo nhé!

    - Bảo vệ kiểu ấy chắc sư mẫu ế! - Chị trợn mắt.

    - Ai chê tui lấy! - Hắn lầm bầm trong miệng.

    Anh ấy mỗi ngày chết đi mỗi tí. Như chiều cứ tà dần và không ai ngăn được mặt trời lặn. Anh trở thành bệnh nhân lâu nhất của khoa, một bệnh nhân đã tàn hy vọng mà bệnh viện đã nhiều lần ngỏ ý đuổi về. Những lúc ấy chị Ái trở thành một kẻ quyết đấu. Nước mắt, sức mạnh dữ dội

    của tình yêu, cả tiền bạc nữa hỗ trợ chị... Anh đã nằm hết tháng thứ ba. Nhìn chị Ái tôi thấy sợ. Những gì liên quan đến con bệnh chị khắc cốt ghi tâm còn mọi thứ đều lơ đãng. Chị mất dần khả năng ăn ngủ. Thế nhưng chị không có vẻ bất hạnh. Hoàn toàn hiến dâng mình cho kẻ khác xem ra cũng là một thứ hạnh phúc.

    - Chị còn nhớ cái lần tụi mình tắm sông không?

    - Nhớ.

    Chị oà khóc. Tôi để mặc. Nước mắt sẽ kéo chị trở lại với cõi người đau khổ.

    Chị Ái rủ tôi tắm sông. Chị muốn thử nghiệm hiệu quả việc cho chuồn chuồn cắn rốn. Xuống nước chúng tôi vẫn đeo cứng phao. Cuối cùng chị Ái bảo: “Đồ rệp. Ngó tau bơi nì!”. Chị thả tay, hí hửng quẫy đạp vài cái rồi không thấy đâu cả. Tôi thất thanh kêu cứu. Một bóng người lao vút đến, lặn xuống và túm lấy mái tóc dài của chị Ái lôi lên. Chúng tôi nhận ra thằng Chuột. Thằng Chuột đem chị lên bờ vác ngược chị chạy. Sau đó hắn đặt chị xuống và để hai tay trên ngực chị ấn lên ấn xuống. Lập tức tụi đứng coi ré lên: “Thằng Chuột bóp vú con Ái!”. Chị Ái tỉnh lại nghe thế, hất tay hắn rồi co cẳng đạp giữa tiếng reo hò khoái chí của tụi nhỏ. Hắn lắp bắp: “Tui thấy họ cứu người chết đuối làm vậy mà!”. Nhưng tụi kia vẫn ré “Thằng Chuột dê! Thằng Chuột dê!”. Hắn xấu hổ bỏ đi. Chị Ái lườm theo. Chẳng đứa nào coi việc hắn cứu chị Ái đáng phải cảm ơn.

    - Sau này anh ấy bảo anh ấy lo nên đi theo, luẩn quẩn gần đó. Còn chị bị mạ quất cho mấy roi vì tội đạp người cứu mình. Mạ bảo: “Đồ vô ơn. Không có hắn mi thành ma rà rồi!”. Chị trả thù mấy roi bằng cách nghỉ chơi với hắn. Hắn năn nỉ: “Tui sợ cô thành ma rà mới làm thế! Tui không dê!”

    - “Tau mà thành ma rà mi tắm tau dận nước”

    - “Cũng được!”

    - "Rứa mi không sợ làm ma ư?”

    - “Cô làm ma, tui cũng thích làm ma”... Hồi ấy sao chị quá quắt ngoa ngắt thế không biết?

    - Chị Ái cười rơi nước mắt rồi nhìn anh thì thầm - Anh ấy nghe đấy! Anh ấy thích nhắc chuyện ngày xưa lắm! Giờ chị có thương anh ấy mấy cũng không bù nổi tình thương và lòng quý trọng anh ấy dành cho chị. Anh ấy bảo hình bóng chị đã động viên anh ấy ngoi lên từ đáy cuộc đời. Trong giấc ngủ cũng đau đáu ước mơ vượt lên số phận. Thỉnh thoảng chị nhận một món quà tự làm ngồ ngộ, dễ thương đến nỗi chị cứ đem khoe... Bao giờ cũng kèm một câu: “Tôi đang chạy cho kịp. Hãy đợi tôi!”. Chị cứ tưởng của một thằng man man nào đó... Anh ấy ra trường, hai đứa chị lấy nhau. Chị sống với ảnh được 5 năm 2 tháng 4 ngày. Kể cả 4 năm yêu nhau là 9 năm. Kể cả lúc anh ấy là “thằng Chuột” và cả sau này, lúc anh ấy đã ra đi. Vậy là cả đời. Hai đứa chị sinh ra là để hợp nhất với nhau....

    Chị nói với tôi nhưng vẫn nhìn anh và tôi có cảm tưởng anh ấy đang nghe chị. Ngay cả lúc này vẫn không thấy chị bất hạnh. Yêu là thế sao? Là cuộc đời này tỏa sáng vào cuộc đời khác và người đó trở nên tốt hơn, mạnh hơn! Nếu thế thì quả tôi chưa yêu và được yêu bao giờ!

    - Nhọc nhằn lắm mới có ngày hôm nay. Thế mà cứ chuốc vạ vào thân, lận khổ trong người. Giếng của người ta mắc chi mà! - Tôi đau lòng buột miệng.

    - Đi đêm có ngày gặp ma. Em coi ni!

    - Chị giở tấm ra đắp chân anh. Một bàn chân bị mất ba ngón.

    - Sao thế?

    Cái giá của một lần cứu một thằng bé chạy lúp xúp theo trái banh rớt trên đường ray khi tàu đang vào ga. Khi khối sắt khổng lồ sầm sập lướt qua, tim chị như bị nghiến... Chị cầm tay anh ấy trước, vào lúc đó!

    Thế chị yêu vì anh ấy tốt hả?

    - Vì tất cả.

    - Chị có hối tiếc vì muộn không?

    - Không, có lẽ chị yêu anh ấy sớm lắm, từ hồi còn là con bé ngoa ngoắt mà chị không ý thức đó thôi. Anh ấy là mối tình của cả đời chị. Là đầu. Là cuối. Là duy nhất.

    - Chị có biết anh ấy... sắp chết? - Tôi thì thầm.

    - Anh ấy chỉ đi trước thôi và anh ấy sẽ đợi chị. Bao giờ anh ấy cũng đợi chị.

    Khoa hội chẩn và quyết định thứ hai tới cho anh về. Họ trưng bày những chứng cớ y học để cho chị Ai thấy đã vô vọng và không nên mất công sức, tiền bạc nữa. Hãy để thân thể bất lực của anh an nghỉ. Chị Ái bỗng trở nên ngoan ngoãn.

    Thứ hai có nghĩa là còn một ngày một đêm nữa. Chị Ái xin chuyển anh vào một phòng nhỏ, được ở một mình với anh và tự chị sẽ rút ống thở ra khỏi anh. Khoa đồng ý. Hai mươi bốn giờ ấy, phòng bệnh trở thành phòng của đôi tình nhân sắp vĩnh biệt nhau. Không. Tạm biệt nhau! Tôi bứt lén một ít lan dại màu tím trong bồn cỏ bệnh viện cắm vào ly nước. Rằm cho ánh trăng. Hào phóng, lênh láng phủ lên muộn phiền, tiều tụy, chết chóc... Cửa khép. Chị ở trong ấy cùng anh. Tôi ngồi ngoài cùng lão. Lão đã đến. Không chuông mà văng vẳng tiếng chuông gọi hồn. Không chân mà nghe tiếng bước. Không áo quần mà có tiếng sột soạt. Không hơi thở mà vẫn thấy khí lạnh... Tôi lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt thời gian và tôi khóc. Còn lão điềm nhiên đợi xong chuyện.

    Họ nằm bên nhau. Chị Ái ôm cổ anh thủ thỉ. Khi vang. Khi bặt. Mơ hồ như tiếng vọng. Nhẹ như gió thoảng. Trăng sáng đến rợn ngợp, càng khuya càng sáng. Tôi dí mắt vào cửa kính. Lão cũng thế. Đêm múc trăng dội xuống họ. Gương mặt tái nhợt của anh gối trên cánh tay ngà của chị tôi ngời ngợi trăng. Tôi có cảm giác mí mắt anh động đậy khi chị hôn anh, tay anh quàng qua chị khi chị ôm anh và tôi nghe... lão thở dài!

    Khi đêm cạn đáy, không nghe tiếng thì thầm nữa. Có lẽ chị đã thiếp trong tay anh. Anh thiếp trong lòng chị. Tôi thấy lão len lén đi xuyên qua tường.

    Khi lão trở ra, tôi thấy rõ ràng lão quệt nước mắt. Lão lướt qua tôi như làn gió lạnh, nhanh đến nỗi tôi không kịp cám ơn. Phải, tôi muốn cám ơn “kẻ thù của chị tôi, người đã đánh bại chị sau ba tháng đối mặt. Cám ơn lão đã bền lòng đợi lúc chị thiếp ngủ để làm nhiệm vụ. Chị tôi hẳn không đủ sức rút những giọt sống cuối cùng ra khỏi nửa sinh mệnh của chị. Cám ơn lão!

    Khi chúng tôi vào, hai người vẫn ở trên giường. Gương mặt anh thanh thản trong giấc vĩnh cửu. Gương mặt mệt mỏi và nỗi đau dồn nén trăm ngày của chị giãn ra trong giấc ngủ đầu tiên trên giường, sau bao đêm trắng, ở bên anh. Trăng ra khỏi phòng lâu lắm rồi nhưng một mảnh tại tái ngủ quên trên tóc chị, trắng như khăn tang cho đến hết đời chị tôi!

    Những gì diễn ra sau đó dường như không liên quan đến chị nữa. Người ta bảo lạy, chị lạy. Dìu đến lò thiêu, chị đi... Nhưng chị chẳng ăn nhập gì đến khung cảnh tang tóc chung quanh. Có lẽ chị không cảm thấy mất anh vì anh vẫn tồn tại trong chị. Đêm đầu tiên về lại nhà mình, nằm trên chiếc giường đã trở thành mênh mông, chị nằm một phía, phía kia có anh. Khuya chị bật dậy. Tôi nghe chị gọi: “Anh, anh ở đâu? Em nghe tiếng nhưng không thấy tay anh”

    - “Anh ở đây, em!” - tôi nghe tiếng đáp.

    Tôi rón rén trở lại giường mình. Ngày mai tôi yên tâm trở về. Không sợ chị đơn độc. Không sợ chị yếu đuối. Có lẽ tôi lại mất việc. Lại lê gót nộp hồ sơ, đợi chờ. Nhưng tôi sẵn sàng bắt đầu lại. Tôi đã học nhiều điều trong hơn tháng kề cận họ. Đời rộng mênh mông bởi tôi đã nhìn ngắm nó dưới góc độ vĩnh cửu.

    1999
    - [1] Cô (tiếng địa phương)
    - [2] virút tưởng tượng


     
    amylee, 123phat and machine like this.
  7. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Hoài
    Trương Vân Trường

    Khoảng năm 1947, chú tôi từ Hà Nội tản cư về quê. Ngoài vợ con, chú còn đem theo một người giúp việc kiêm gia sư. Chị tên Hoài, mười bảy tuổi, hơn tôi hai tuổi. Chị bị lạc gia đình lúc mọi người tán loạn chạy khỏi Hà Nội. Cảm thông với hoàn cảnh của chị, chú đưa chị về dạy học cho mấy đứa trẻ.

    Chị đang học năm cuối bậc thành chung. Nhà chị chắc giàu lắm, nhưng được giáo dục theo nề nếp gia giáo nên chị có thể làm được mọi việc trong nhà, chấp nhận tình cảnh hiện tại, sống hồn nhiên, vô tư. Chị luôn tươi cười vui vẻ, ăn nói lễ phép với mọi người. Chị làm việc chăm chỉ, chu đáo, không nề hà việc gì.

    Gia đình chú về quê làm khuấy động cuộc sống ở làng tôi vốn rất thanh bình mà chiến tranh thì vẫn còn chưa tới. Còn với tôi, sự có mặt của chị trong nhà như một thứ ánh sáng mùa xuân tràn ngập khắp nơi từ khu vườn xanh mướt, bờ tường hoa, ngõ trúc cho đến mảnh ao trong veo trước cửa. Chị đi tới đâu, chỗ nào có chị là ở đó không gian như bừng sáng lên, cảnh vật tươi tắn, mọi thứ trở nên đáng yêu và có ý nghĩa hơn. Có một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ và đẹp đẽ ở trong tôi cứ lớn dần lên, rõ nét hơn như một hạt mầm của tình yêu đang cựa mình, bật mầm xanh ngoi lên từ lòng đất mịn màng màu mỡ.
    Tôi đang chuẩn bị thi vào trung học nên được chị kèm học cùng các em. Một hôm, đang trong giờ học mà tôi cứ ngẩn ngơ nhìn chị.
    - Có gì mà nhìn chị lạ lùng thế?
    - À...
    Tôi lúng túng không nói nên lời. Thế là chị phá lên cười đập nhẹ vào vai tôi:
    - Thôi học đi, nỡm ạ!
    Chị cười thật tươi. Hàm răng đều chằn chặn, trắng như ngọc. Chị ngồi trước mặt tôi, mớ tóc đen dầy, mượt mà bỏ xõa xuống đôi bờ vai tròn trịa, hai cánh tay trắng nõn nà. Toàn thân chị toát lên vẻ dịu hiền, tươi tắn với thân hình óng ả, làn da trắng mịn màng. Đôi mắt thăm thẳm, trong sáng tưởng như qua đó ta có thể đọc được tâm hồn và ý nghĩ của chị. Vẻ đẹp của chị không khêu gợi mà là một vẻ đẹp cao quý đôn hậu. Nó khiến người ta say đắm nhưng không dám suồng sã.
    Mẫu người như chị, trước đây tôi chỉ được biết qua sách vở. Bây giờ thì người con gái đó đã hiển hiện trước mặt tôi, cùng chung sống với tôi trong một ngôi nhà, trò chuyện cười đùa với tôi, dành cho tôi những tình cảm mới lạ xưa nay tôi chưa hề biết tới. Cuộc đời tôi như được chắp cánh bay đến một chân trời mới mẻ. Cuộc sống đối với tôi sao mà đẹp đẽ, đáng yêu đến thế.
    Mọi người trong nhà dường như không
    ai để ý đến tình cảm của tôi đối với chị. Còn chị, có thể chị cũng lờ mờ cảm thấy, nhưng chị vẫn coi tôi như một đứa em. Vả lại, chị còn phải bận tâm đến một mối quan hệ khác. Chú tôi, một người đàn ông phong tình, ông có tới bốn vợ, người vợ hiện đang sống với ông là bà thứ tư. Ông thích chị ra mặt, luôn cư xử nhẹ nhàng, có phần nuông chiều chị. Tất cả những cái đó không thể qua mặt được thím tôi, một người Hà Nội thứ thiệt. Bà có cách riêng của bà để phòng ngừa, răn đe và đôi khi ngấm ngầm trừng phạt mà trong nhà không ai hay biết gì, ngoài chú thím, chị và tất nhiên cả tôi. Liệu chị có yêu chú không? Chắc là không. Nhưng ở cảnh ngộ của chị, chị biết cách cư xử, đối phó thật khéo léo, uyển chuyển để không bị mất lòng ai, nhất là đối với chú thím.
    Lúc chỉ có hai chị em ngồi hóng mát bên bờ ao, tôi hỏi chị:
    - Hôm nay bị thím mắng oan, chị có buồn không?
    - Chị buồn lắm! Rồi chị đăm đăm nhìn ra chân trời. Ráng chiều đỏ rực. Tôi cảm thấy ngột ngạt và thương chị. Bỗng, rất tự nhiên, chị ôm lấy hai vai tôi xiết mạnh;
    - Chị biết, trong nhà này chỉ có em là hiểu và thương chị.
    Tôi cảm thấy bàng hoàng như có một luồng máu nóng chạy râm ran khắp cơ thể. Lần đầu tiên trong đời có một người đàn bà xa lạ đã ôm tôi trong vòng tay như thế. Tôi vừa sung sướng vừa bối rối đến cực độ. Chị ngồi lại ngay ngắn, đôi mắt xa xăm:
    - Mẹ chị vẫn dạy: Người ta ở hiền gặp lành. Nếu không may gặp cảnh cùng quẫn cũng không được tuyệt vọng, phải cố sống cho qua rồi sẽ có ngày...
    Rồi chị lại cười ngay được, nụ cười rất tươi:
    - Mà chị tin vào điều đó lắm nhé. À, hôm qua chị vừa nằm mơ được gặp cha mẹ chị ở Hà Nội, ngôi nhà như mới được sửa sang lại, còn cây táo ngoài sân thì đang ra hoa, cứ y như thật. Trời Phật sẽ phù hộ cho chị gặp lại gia đình. Dù sao đây cũng sẽ là một thời để chị nhớ mãi.
    Chị nhìn thẳng vào mắt tôi, trìu mến.
    - Sau này chắc chị sẽ nhớ em lắm đấy. Mà chả biết liệu rồi em có còn nhớ đến chị không?
    Tôi nói về tình cảm của tôi đối với chị. Tất nhiên tôi không đủ can đảm để nói thắng rằng tôi yêu chị. Chị chăm chú nghe và hiểu ý tứ của tôi. Nhưng vẫn coi tôi như trẻ con, chị cười rất hiền, khoan dung và từ tốn nói:
    - Ôi Dũng, em ngộ thật đấy. Mà em cũng rất đáng yêu nữa. Nhưng bây giờ em phải học cho giỏi đã!
    Tôi thi đậu vào trung học. Trường xa, tôi phải ở trọ, lâu lâu mới về. Lần đầu xa nhà, thêm nỗi nhớ chị càng da diết. Có phải tôi đã yêu chị? Tôi chẳng biết nữa. Lúc ấy chỉ thấy nhớ đến nôn nao, mong được gặp chị. Một tình yêu chớm nở trong tôi như những cơn mưa xuân đầu mùa đem về cái ấm áp và tươi tắn của chồi non, lộc biếc, đất nảy mầm, hoa đua nở. Trời đất thay da đổi thịt, như lột xác. Tôi cũng thay da đổi thịt. Được chuyên tâm ăn học không phải chăn trâu, cắt cỏ. đùa nghịch ngoài đồng, tôi bỗng lớn phổng phao lên, trắng trẻo ra. Chị là ánh sáng lấp lánh trong tâm hồn tôi. Chị là niềm mơ ước và hy vọng ngày càng lớn dần lên ở trong tôi.
    Thời gian trôi đi rất nhanh. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết học kỳ một. Tôi được về nghỉ tết. Chị là người đầu tiên ra tận ngõ đồn tôi. Vừa thấy tôi chị đã mừng quýnh lên, hai mắt sáng long lanh biểu hiện niềm hân hoan vui sướng. Chị ngắm nghĩa tôi rồi khen:
    - Ôi, em lớn nhanh quá, lại đẹp trai, trắng trẻo ra nữa.
    Rồi chị kéo tôi đứng sát bên chị: “Xem nào, em đã cao hơn chị rồi đây này”.
    Tôi sung sướng và hãnh diện đứng sát bên chị. Tôi nhìn thẳng vào mắt chị, không giấu giếm những tình cảm đắm say đang trào dâng ở trong lòng. Chị cũng nhìn vào mắt tôi một cách đắm đuối. Nhưng rồi đôi mắt ấy bỗng trở nên bối rối, từ từ khép lại. Hàng mi đen, dài và cong cứ chớp chớp. Tại sao chị lại bối rối như thế? Có bao giờ chị tỏ ra bối rối trước mặt tôi đâu. Hay chị đã coi tôi như người lớn?
    Tết năm ấy là một cái tết vui nhất và đáng nhớ nhất trong đời tôi. Cả nhà bận rộn chuẩn bị tết: mổ lợn, giã giò, gói bánh. Tôi và chị được giao trông nồi bánh chưng đêm ba mươi.
    Năm đó rét đậm. Ngoài trời tối đen. Mưa lâm thâm. Cả nhà đã ngủ, chỉ còn hai chúng tôi ngồi canh nồi bánh chưng trong bếp. Ngọn lửa reo vui tí tách. Ánh lửa làm hai má chị hồng lên. Đôi môi cũng hồng lên, duyên dáng và tươi tắn. Chị ngồi nép người vào tôi, vẻ tin cậy. Tôi mạnh dạn quàng tay qua vai chị. Hơi ấm từ thân thể trẻ trung, trinh trăng của chị lan tỏa khắp người tôi. Chúng tôi đã ngồi với nhau trong đêm như hai chị em, như hai người tình, trong trắng và thơ mộng.
    Đêm ấy, chị đã kể hết cho tôi nghe về gia đình, về cuộc sống trước đây của chị. Đó là những năm tháng thật êm đềm và đẹp đẽ. Nhưng chị nói những điều đó như nói về một cái gì đó rất xa xăm bằng thứ giọng êm dịu, ngọt ngào như người kể chuyện cổ tích. Song, có một chuyện chị kế làm tôi bồi hồi lo lắng vu vơ. Chị bảo, mấy bữa trước chị đã gặp một người quen cũ ở Hà Nội tản cư về phố huyện. Bà ta cho biết Tây nó đã chiếm được Hà Nội, đang chiêu an. Dân Hà Nội đang rục rịch hồi cư. Tin ấy làm tôi vừa mừng cho chị vừa thắc thỏm lo lắng.
    Tết năm ấy đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời tôi: Từ trẻ con tôi trở thành một thiếu niên chững chạc với vóc dáng, suy nghĩ và tình cảm mới.
    Sau tết, trở lại trường, tôi luôn sống trong tâm trạng vừa hạnh phúc và hy vọng vừa mơ hồ lo lắng. Liệu chị có tìm lại được gia đình không? Chị có hồi cư không? Tôi chẳng đã từng xót xa khi thấy chị phải làm lụng vất vả và bị mắng oan đó sao? Tôi chẳng đã từng thầm cầu mong cho chị sớm tìm lại được gia đình đó sao? Nhưng nếu chị hồi cư, chị đi khỏi nhà tôi thì tôi sẽ sống ra sao đây? Tôi không muốn xa chị, không muốn mất chị. Nhưng chị có là của riêng tôi đâu. Rõ ràng là tôi không thể giữ chị được. Nghĩ vậy, nỗi lo lắng lúc đầu còn mơ hồ sau dần dần rõ ràng, nặng nề hơn. Học kỳ hai tôi phải gồng mình lên để học. Tôi về thăm nhà được một lần, gửi cho chị mấy lá thư. Chị không viết lại nhưng có nhắn người chuyển thư bảo tôi cứ yên tâm học tập, chị không có gì thay đổi cả, rằng chị cũng rất nhớ tôi.
    Năm học sắp kết thúc. Các môn thi đã xong, tôi đều đạt điểm khá, chỉ còn chờ nhà trường tổng kết năm học là nghỉ hè. Nhưng có một cái gì đó làm tôi bồn chồn lo lắng không yên. Tôi liền xin phép về nhà mấy bữa.
    Vẫn chị là người đầu tiên ra đón tôi, vẫn nét mặt vui mừng đằm thắm ấy, nhưng tôi linh cảm thấy có một cái gì khang khác ở ngay trong đôi mắt chị. Chị cố làm ra vẻ bình thản chăm sóc âu yếm tôi như mọi khi. Đến tối, chị rủ tôi ra bờ sông chơi. Mảnh trăng thượng tuần như lưỡi liềm trắng bạc lơ lửng trên cao. Bãi mía, ruộng ngô xanh mướt ven bờ. Mặt sông dưới ánh trăng sáng lên như một giải lụa lớn. Cảnh
    vật làng quê thật êm đềm. Chị vui mừng tung tăng chạy nhảy như một đứa trẻ, kể chuyện huyên thuyên, một cử chỉ trái hẳn với vẻ ý nhị thường ngày. Thái độ của chị càng làm tôi nghi ngờ.
    Sớm hôm sau chị xin phép lên phố huyện thăm người bà con. Quá chiều chị mới về, lộ vẻ mặt căng thẳng và xúc động. Sau bữa cơm tối, chị nói chuyện gì đó với ông bà, chú thím và thầy mẹ tôi ở nhà trên. Tôi ngồi chơi với mấy đứa em ở nhà dưới. Tôi biết có chuyện gì sắp xảy ra đây. Rồi chị đi xuống, vẻ tư lự. Chị đến bên tôi, nói nhỏ: “Dũng này, ta đi dạo một lát đi”. Lần đầu tiên chị gọi thẳng tên tôi.
    Chúng tôi ra bờ sông. Vẫn cảnh vật ấy mà sao tôi thấy nó trang nghiêm khác thường. Chị vẫn trầm ngâm, còn tôi thì chờ đợi. Chúng tôi ngồi trên vệ cỏ. Gió thổi làm bay những sợi tóc thơm mùi bồ kết của chị lên mặt tôi. Nhưng tâm trí tôi còn đang mải nghĩ đến điều chị sắp nói ra. Chị hỏi tôi về kết quả học tập, khuyên nhủ và khích lệ tôi. Tôi nói rời rạc, đứt đoạn như kẻ vô hồn. Cuối cùng chị nói, như với một người bạn tình;
    - Dũng ạ, Hoài đang mỏi mắt chờ Dũng. May quá, Dũng đã về kịp. Hoài rất khó khăn phải báo cho Dũng một tin mà nó sẽ làm cho cả hai chúng ta cùng rất buồn. Nó là thế này: Hoài đã có tin về gia đình. Cha mẹ và các em Hoài đã hồi cư về Hà Nội. Biết tin Hoài còn sống và đang ở đây, các cụ mừng lắm. Các cụ nhờ người quen trên phố huyện thu xếp cho Hoài về. Bà ta giục Hoài đi gấp. Nhưng Hoài cứ khất lần vì Hoài không thể ra đi mà không gặp được Dũng lần cuối. Hôm nay Hoài lên gặp bà ta, hẹn đến mai thì lên đường cùng với mấy người nữa.
    Chị ngừng nói, mặt buồn rượi, đôi mắt xa xăm. Tôi bồi hồi nắm bàn tay Hoài. Hơi ấm từ tay chị lan sang người tôi làm cho tôi mạnh dạn, cứng cỏi lên. Lần đầu tiên tôi nói với chị như một người lớn:
    - Dũng rất mừng cho Hoài đã tìm lại được gia đình. Hoài sẽ được sống hạnh phúc, không còn phải cực khổ nữa.
    Tôi cố nén nỗi buồn vô hạn khi nghĩ rằng tôi sẽ vĩnh viễn phải xa chị:
    - Hoài đã hiểu tình cảm của Dũng đối với Hoài như thế nào rồi đấy. Nhưng Dũng chỉ cầu mong mọi điều tốt đẹp cho Hoài thôi. Dũng sẽ suốt đời nhớ Hoài.
    Hoài bóp chặt tay tôi vẻ rất xúc động: “Hoài biết tình cảm của Dũng đối với Hoài. Điều đó làm cho Hoài rất hạnh phúc. Cảm ơn Dũng. Nhưng Dũng còn trẻ lắm, lại học giỏi nữa. Tương lai sáng sủa đang chờ đợi Dũng. Biết đâu sau này chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Suốt đời Hoài cũng sẽ không bao giờ quên Dũng đâu”. Gia đình chú về quê làm khuấy động cuộc sống ở làng tôi vốn rất thanh bình mà chiến tranh thì vẫn còn chưa tới. Còn với tôi, sự có mặt của chị trong nhà như một thứ ánh sáng mùa xuân tràn ngập khắp nơi từ khu vườn xanh mướt, bờ tường hoa, ngõ trúc cho đến mảnh ao trong veo trước cửa. Chị đi tới đâu, chỗ nào có chị là ở đó không gian như bừng sáng lên, cảnh vật tươi tắn, mọi thứ trở nên đáng yêu và có ý nghĩa hơn. Có một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ và đẹp đẽ ở trong tôi cứ lớn dần lên, rõ nét hơn như một hạt mầm của tình yêu đang cựa mình, bật mầm xanh ngoi lên từ lòng đất mịn màng màu mỡ. Tôi đang chuẩn bị thi vào trung học nên được chị kèm học cùng các em. Một hôm, đang trong giờ học mà tôi cứ ngẩn ngơ nhìn chị. - Có gì mà nhìn chị lạ lùng thế? - À... Tôi lúng túng không nói nên lời. Thế là chị phá lên cười đập nhẹ vào vai tôi: - Thôi học đi, nỡm ạ! Chị cười thật tươi. Hàm răng đều chằn chặn, trắng như ngọc. Chị ngồi trước mặt tôi, mớ tóc đen dầy, mượt mà bỏ xõa xuống đôi bờ vai tròn trịa, hai cánh tay trắng nõn nà. Toàn thân chị toát lên vẻ dịu hiền, tươi tắn với thân hình óng ả, làn da trắng mịn màng. Đôi mắt thăm thẳm, trong sáng tưởng như qua đó ta có thể đọc được tâm hồn và ý nghĩ của chị. Vẻ đẹp của chị không khêu gợi mà là một vẻ đẹp cao quý đôn hậu. Nó khiến người ta say đắm nhưng không dám suồng sã. Mẫu người như chị, trước đây tôi chỉ được biết qua sách vở. Bây giờ thì người con gái đó đã hiển hiện trước mặt tôi, cùng chung sống với tôi trong một ngôi nhà, trò chuyện cười đùa với tôi, dành cho tôi những tình cảm mới lạ xưa nay tôi chưa hề biết tới. Cuộc đời tôi như được chắp cánh bay đến một chân trời mới mẻ. Cuộc sống đối với tôi sao mà đẹp đẽ, đáng yêu đến thế. Mọi người trong nhà dường như không ai để ý đến tình cảm của tôi đối với chị. Còn chị, có thể chị cũng lờ mờ cảm thấy, nhưng chị vẫn coi tôi như một đứa em. Vả lại, chị còn phải bận tâm đến một mối quan hệ khác. Chú tôi, một người đàn ông phong tình, ông có tới bốn vợ, người vợ hiện đang sống với ông là bà thứ tư. Ông thích chị ra mặt, luôn cư xử nhẹ nhàng, có phần nuông chiều chị. Tất cả những cái đó không thể qua mặt được thím tôi, một người Hà Nội thứ thiệt. Bà có cách riêng của bà để phòng ngừa, răn đe và đôi khi ngấm ngầm trừng phạt mà trong nhà không ai hay biết gì, ngoài chú thím, chị và tất nhiên cả tôi. Liệu chị có yêu chú không? Chắc là không. Nhưng ở cảnh ngộ của chị, chị biết cách cư xử, đối phó thật khéo léo, uyển chuyển để không bị mất lòng ai, nhất là đối với chú thím. Lúc chỉ có hai chị em ngồi hóng mát bên bờ ao, tôi hỏi chị: - Hôm nay bị thím mắng oan, chị có buồn không? - Chị buồn lắm! Rồi chị đăm đăm nhìn ra chân trời. Ráng chiều đỏ rực. Tôi cảm thấy ngột ngạt và thương chị. Bỗng, rất tự nhiên, chị ôm lấy hai vai tôi xiết mạnh; - Chị biết, trong nhà này chỉ có em là hiểu và thương chị. Tôi cảm thấy bàng hoàng như có một luồng máu nóng chạy râm ran khắp cơ thể. Lần đầu tiên trong đời có một người đàn bà xa lạ đã ôm tôi trong vòng tay như thế. Tôi vừa sung sướng vừa bối rối đến cực độ. Chị ngồi lại ngay ngắn, đôi mắt xa xăm: - Mẹ chị vẫn dạy: Người ta ở hiền gặp lành. Nếu không may gặp cảnh cùng quẫn cũng không được tuyệt vọng, phải cố sống cho qua rồi sẽ có ngày... Rồi chị lại cười ngay được, nụ cười rất tươi: - Mà chị tin vào điều đó lắm nhé. À, hôm qua chị vừa nằm mơ được gặp cha mẹ chị ở Hà Nội, ngôi nhà như mới được sửa sang lại, còn cây táo ngoài sân thì đang ra hoa, cứ y như thật. Trời Phật sẽ phù hộ cho chị gặp lại gia đình. Dù sao đây cũng sẽ là một thời để chị nhớ mãi. Chị nhìn thẳng vào mắt tôi, trìu mến. - Sau này chắc chị sẽ nhớ em lắm đấy. Mà chả biết liệu rồi em có còn nhớ đến chị không? Tôi nói về tình cảm của tôi đối với chị. Tất nhiên tôi không đủ can đảm để nói thắng rằng tôi yêu chị. Chị chăm chú nghe và hiểu ý tứ của tôi. Nhưng vẫn coi tôi như trẻ con, chị cười rất hiền, khoan dung và từ tốn nói: - Ôi Dũng, em ngộ thật đấy. Mà em cũng rất đáng yêu nữa. Nhưng bây giờ em phải học cho giỏi đã! Tôi thi đậu vào trung học. Trường xa, tôi phải ở trọ, lâu lâu mới về. Lần đầu xa nhà, thêm nỗi nhớ chị càng da diết. Có phải tôi đã yêu chị? Tôi chẳng biết nữa. Lúc ấy chỉ thấy nhớ đến nôn nao, mong được gặp chị. Một tình yêu chớm nở trong tôi như những cơn mưa xuân đầu mùa đem về cái ấm áp và tươi tắn của chồi non, lộc biếc, đất nảy mầm, hoa đua nở. Trời đất thay da đổi thịt, như lột xác. Tôi cũng thay da đổi thịt. Được chuyên tâm ăn học không phải chăn trâu, cắt cỏ. đùa nghịch ngoài đồng, tôi bỗng lớn phổng phao lên, trắng trẻo ra. Chị là ánh sáng lấp lánh trong tâm hồn tôi. Chị là niềm mơ ước và hy vọng ngày càng lớn dần lên ở trong tôi. Thời gian trôi đi rất nhanh. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết học kỳ một. Tôi được về nghỉ tết. Chị là người đầu tiên ra tận ngõ đồn tôi. Vừa thấy tôi chị đã mừng quýnh lên, hai mắt sáng long lanh biểu hiện niềm hân hoan vui sướng. Chị ngắm nghĩa tôi rồi khen: - Ôi, em lớn nhanh quá, lại đẹp trai, trắng trẻo ra nữa. Rồi chị kéo tôi đứng sát bên chị: “Xem nào, em đã cao hơn chị rồi đây này”. Tôi sung sướng và hãnh diện đứng sát bên chị. Tôi nhìn thẳng vào mắt chị, không giấu giếm những tình cảm đắm say đang trào dâng ở trong lòng. Chị cũng nhìn vào mắt tôi một cách đắm đuối. Nhưng rồi đôi mắt ấy bỗng trở nên bối rối, từ từ khép lại. Hàng mi đen, dài và cong cứ chớp chớp. Tại sao chị lại bối rối như thế? Có bao giờ chị tỏ ra bối rối trước mặt tôi đâu. Hay chị đã coi tôi như người lớn? Tết năm ấy là một cái tết vui nhất và đáng nhớ nhất trong đời tôi. Cả nhà bận rộn chuẩn bị tết: mổ lợn, giã giò, gói bánh. Tôi và chị được giao trông nồi bánh chưng đêm ba mươi. Năm đó rét đậm. Ngoài trời tối đen. Mưa lâm thâm. Cả nhà đã ngủ, chỉ còn hai chúng tôi ngồi canh nồi bánh chưng trong bếp. Ngọn lửa reo vui tí tách. Ánh lửa làm hai má chị hồng lên. Đôi môi cũng hồng lên, duyên dáng và tươi tắn. Chị ngồi nép người vào tôi, vẻ tin cậy. Tôi mạnh dạn quàng tay qua vai chị. Hơi ấm từ thân thể trẻ trung, trinh trăng của chị lan tỏa khắp người tôi. Chúng tôi đã ngồi với nhau trong đêm như hai chị em, như hai người tình, trong trắng và thơ mộng. Đêm ấy, chị đã kể hết cho tôi nghe về gia đình, về cuộc sống trước đây của chị. Đó là những năm tháng thật êm đềm và đẹp đẽ. Nhưng chị nói những điều đó như nói về một cái gì đó rất xa xăm bằng thứ giọng êm dịu, ngọt ngào như người kể chuyện cổ tích. Song, có một chuyện chị kế làm tôi bồi hồi lo lắng vu vơ. Chị bảo, mấy bữa trước chị đã gặp một người quen cũ ở Hà Nội tản cư về phố huyện. Bà ta cho biết Tây nó đã chiếm được Hà Nội, đang chiêu an. Dân Hà Nội đang rục rịch hồi cư. Tin ấy làm tôi vừa mừng cho chị vừa thắc thỏm lo lắng. Tết năm ấy đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời tôi: Từ trẻ con tôi trở thành một thiếu niên chững chạc với vóc dáng, suy nghĩ và tình cảm mới. Sau tết, trở lại trường, tôi luôn sống trong tâm trạng vừa hạnh phúc và hy vọng vừa mơ hồ lo lắng. Liệu chị có tìm lại được gia đình không? Chị có hồi cư không? Tôi chẳng đã từng xót xa khi thấy chị phải làm lụng vất vả và bị mắng oan đó sao? Tôi chẳng đã từng thầm cầu mong cho chị sớm tìm lại được gia đình đó sao? Nhưng nếu chị hồi cư, chị đi khỏi nhà tôi thì tôi sẽ sống ra sao đây? Tôi không muốn xa chị, không muốn mất chị. Nhưng chị có là của riêng tôi đâu. Rõ ràng là tôi không thể giữ chị được. Nghĩ vậy, nỗi lo lắng lúc đầu còn mơ hồ sau dần dần rõ ràng, nặng nề hơn. Học kỳ hai tôi phải gồng mình lên để học. Tôi về thăm nhà được một lần, gửi cho chị mấy lá thư. Chị không viết lại nhưng có nhắn người chuyển thư bảo tôi cứ yên tâm học tập, chị không có gì thay đổi cả, rằng chị cũng rất nhớ tôi. Năm học sắp kết thúc. Các môn thi đã xong, tôi đều đạt điểm khá, chỉ còn chờ nhà trường tổng kết năm học là nghỉ hè. Nhưng có một cái gì đó làm tôi bồn chồn lo lắng không yên. Tôi liền xin phép về nhà mấy bữa. Vẫn chị là người đầu tiên ra đón tôi, vẫn nét mặt vui mừng đằm thắm ấy, nhưng tôi linh cảm thấy có một cái gì khang khác ở ngay trong đôi mắt chị. Chị cố làm ra vẻ bình thản chăm sóc âu yếm tôi như mọi khi. Đến tối, chị rủ tôi ra bờ sông chơi. Mảnh trăng thượng tuần như lưỡi liềm trắng bạc lơ lửng trên cao. Bãi mía, ruộng ngô xanh mướt ven bờ. Mặt sông dưới ánh trăng sáng lên như một giải lụa lớn. Cảnh vật làng quê thật êm đềm. Chị vui mừng tung tăng chạy nhảy như một đứa trẻ, kể chuyện huyên thuyên, một cử chỉ trái hẳn với vẻ ý nhị thường ngày. Thái độ của chị càng làm tôi nghi ngờ. Sớm hôm sau chị xin phép lên phố huyện thăm người bà con. Quá chiều chị mới về, lộ vẻ mặt căng thẳng và xúc động. Sau bữa cơm tối, chị nói chuyện gì đó với ông bà, chú thím và thầy mẹ tôi ở nhà trên. Tôi ngồi chơi với mấy đứa em ở nhà dưới. Tôi biết có chuyện gì sắp xảy ra đây. Rồi chị đi xuống, vẻ tư lự. Chị đến bên tôi, nói nhỏ: “Dũng này, ta đi dạo một lát đi”. Lần đầu tiên chị gọi thẳng tên tôi. Chúng tôi ra bờ sông. Vẫn cảnh vật ấy mà sao tôi thấy nó trang nghiêm khác thường. Chị vẫn trầm ngâm, còn tôi thì chờ đợi. Chúng tôi ngồi trên vệ cỏ. Gió thổi làm bay những sợi tóc thơm mùi bồ kết của chị lên mặt tôi. Nhưng tâm trí tôi còn đang mải nghĩ đến điều chị sắp nói ra. Chị hỏi tôi về kết quả học tập, khuyên nhủ và khích lệ tôi. Tôi nói rời rạc, đứt đoạn như kẻ vô hồn. Cuối cùng chị nói, như với một người bạn tình; - Dũng ạ, Hoài đang mỏi mắt chờ Dũng. May quá, Dũng đã về kịp. Hoài rất khó khăn phải báo cho Dũng một tin mà nó sẽ làm cho cả hai chúng ta cùng rất buồn. Nó là thế này: Hoài đã có tin về gia đình. Cha mẹ và các em Hoài đã hồi cư về Hà Nội. Biết tin Hoài còn sống và đang ở đây, các cụ mừng lắm. Các cụ nhờ người quen trên phố huyện thu xếp cho Hoài về. Bà ta giục Hoài đi gấp. Nhưng Hoài cứ khất lần vì Hoài không thể ra đi mà không gặp được Dũng lần cuối. Hôm nay Hoài lên gặp bà ta, hẹn đến mai thì lên đường cùng với mấy người nữa. Chị ngừng nói, mặt buồn rượi, đôi mắt xa xăm. Tôi bồi hồi nắm bàn tay Hoài. Hơi ấm từ tay chị lan sang người tôi làm cho tôi mạnh dạn, cứng cỏi lên. Lần đầu tiên tôi nói với chị như một người lớn: - Dũng rất mừng cho Hoài đã tìm lại được gia đình. Hoài sẽ được sống hạnh phúc, không còn phải cực khổ nữa. Tôi cố nén nỗi buồn vô hạn khi nghĩ rằng tôi sẽ vĩnh viễn phải xa chị: - Hoài đã hiểu tình cảm của Dũng đối với Hoài như thế nào rồi đấy. Nhưng Dũng chỉ cầu mong mọi điều tốt đẹp cho Hoài thôi. Dũng sẽ suốt đời nhớ Hoài. Hoài bóp chặt tay tôi vẻ rất xúc động: “Hoài biết tình cảm của Dũng đối với Hoài. Điều đó làm cho Hoài rất hạnh phúc. Cảm ơn Dũng. Nhưng Dũng còn trẻ lắm, lại học giỏi nữa. Tương lai sáng sủa đang chờ đợi Dũng. Biết đâu sau này chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Suốt đời Hoài cũng sẽ không bao giờ quên Dũng đâu”.
    Hoài cười mà nước mắt thi giàn giụa. Rồi bất ngờ, Hoài áp hai bàn tay lên hai má tôi, xoay mặt tôi nghiêng về phía ánh trăng, mặt Hoài kề sát mặt tôi, hơi thở gấp gáp. Môi Hoài đặt lên môi tôi. Hoài hôn tôi nồng nàn, say đắm....

    Hoài không nói lời yêu tôi, nhưng bằng hành động, Hoài đã cho tôi nụ hôn đầu của một tình yêu còn nguyên vẹn, trinh trắng, tình yêu vừa mới bắt đầu đã phải kết thúc.

    Sớm hôm sau, một bà trắng trẻo, đẫy đà, trạc bốn mươi tuổi đến đưa Hoài đi. Cuộc chia tay thật bịn rịn và cảm động. Cả nhà ai cũng yêu mến chị, kể cả thím tôi.

    Tôi tiễn chị ra tận bờ sông. Chúng tôi nắm tay nhau hồi lâu, mặt nhìn mặt như để ghi nhớ suốt đời hình bóng người yêu dấu nhất của mình.

    Con thuyền rời bến. Chúng tôi vẫy chào nhau lần cuối. Chị đi rồi, tôi còn đứng chết lặng bên bờ sông. Những khóm bèo có màu hoa tim tím bồng bềnh, bồng bềnh trôi trên mặt nước.
     
  8. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Bây giờ em của người ta
    Uyên Như
    Chưa đi xa, đã nhớ nhà
    Nhớ bờ sông cũ trăng tà đợi nhau
    Vẳng nghe muôn khúc nhạc sầu
    Trong đêm quê nặng tình sâu một đời
    Cái thời em đọc thơ tôi
    Mang bao nhiêu nỗi bồi hồi, diết da.

    Bây giờ, em của người ta
    Tìm đâu tóc búi đuôi gà ngày xưa
    Tìm đâu ra góc vườn thưa
    Bâng quơ câu hát mỗi trưa ta tìm
    Tháng ngày rồi cứ lặng im
    Gửi theo bóng nắng trái tim chung tình.
     
    amylee, 123phat, lamtuquyen and 2 others like this.
  9. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Loạt bài đón Xuân Giáp Thìn
    Cum mơ! Cum mơ!

    HIỀN VĂN
    Tiểu đội chúng tôi làm công tác dân vận ở một làng dân tộc K’rưng sâu trong rừng. Ngoài cùng ăn, cùng ở, cùng làm ra, chúng tôi còn giúp bạn xây dựng chính quyền và bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
    upload_2024-1-30_14-28-8.png

    Những bỡ ngỡ ban đầu rồi cũng qua đi, nhưng có cái không bao giờ quen được: phụ nữ dân tộc này luôn khỏa thân nửa phần trên. Họ coi đôi vú là... của riêng trẻ con chứ không phải dành cho đàn ông nên không hề xấu hổ, cứ ngổn nghện đi khắp làng. Thôi thì đủ loại lớn bé, từ hình quả chuông, trái cam cho đến dáng trái mướp, trái cà... Còn các cô gái nữa ! Lúc chúng tôi mới đến họ cũng ý tứ che ngực lại bằng tấm áo lót nhỏ xíu. Thời gian ngắn sau, họ xem chúng tôi như một thành viên của làng nên cứ ung dung cởi trần. “Căng” nhất là khi giúp các cô giã gạo. Cách giã gạo cũng đặc biệt, họ đứng chụm chân lại, dùng sức cả thân người để bổ xuống. Cái cối gỗ thì nhỏ mà chày ba, chày bốn nên mỗi khi chúng tôi gác chày lên vành chờ phiên, thấy chung quanh mình lô nhô những chóp vú trinh nữ đỏ hồng mang hình đầu đạn, cứ nhắm con mắt mình mà… găm. “Né” cho được những viên đạn này quả thật gian nan vất vả!

    Phong tục ngủ giao hữu K’rưng rất lạ lùng. Con gái đến tuổi dậy thì, thì gia đình làm cho họ một căn nhà nhỏ khoảng 2m2 phía trước nhà chính, để các cô tự do tìm hiểu con trai. Nếu thích chàng nào cô ấy cứ việc mời đến ngủ. Còn chàng trai nếu muốn ngủ, ngỏ ý mà cô gái nhận lời thì cũng được đồng sàng. Ngủ ở đây là cu mí mí, nghĩa là “ngủ không” không thôi, dứt khoát không được làm chuyện này, chuyện nọ. Hễ xảy ra việc có mang trước khi đám cưới là phạm trọng tội với luật tục - nạn nhân sau khi phạt vạ xong sẽ bị đuổi ra khỏi làng. Tôi cũng được mấy cô gái mời ngủ Xam-ma-ki nhưng vì không tin tưởng ở “khả năng” cu mí mí của mình, nên phải năn nỉ các cô ấy thông cảm. Năn nỉ thật sự chứ không phải đùa đâu. Từ chối lời mời ngủ chung không những đã xúc phạm nhân phẩm cô gái mà còn đánh mất lòng tin của cô đặt vào mình nữa, nhưng biết sao hơn...!

    Còn tắm cũng là vấn đề nan giải. Làng chỉ có một bến nước. Chúng tôi đốn tre, cắt tranh thưng thành buồng tắm cũng tạm khang trang. Nhưng không cách gì tắm cho được vì dân ở đây đều tắm truồng. Nam và nữ chỉ cách nhau vài ba mét. Trước khi xuống nước, đàn ông tháo khố ra để trên bờ, xong lấy tay bụm... rồi lao xuống nước. Phụ nữ thì không như thế, họ cứ mặc váy, nhưng nước tới ngang nào họ kéo váy lên ngang ấy. Khi nước đến ngực, họ tuột váy ra vo lại ném lên bờ. Còn khi lên họ cũng tay che phần dưới rốn lại, rồi đúng khép nép tròng váy vào. Lúc đầu chúng tôi tưởng họ mặc từ dưới lên, mãi sau này mới biết là ngược lại. Cũng kỳ!

    Quê tôi ở miệt núi nên thấy dòng nước bao giờ tôi cũng chỉ nhìn... kính trọng. Mà nơi đây không biết bơi cầm bằng như đã chết nửa đời. Tôi đã từng nghiến răng nhắm mắt, run run bò qua những chiếc cầu độc mộc vắt qua đôi bờ sâu thăm thẳm. Để được an toàn, tôi đành phải len lén nhờ hai cô gái giúp. Cứ buổi trưa họ ra suối tập cho tôi bơi. Sau hơn một tuần tận dụng sự nhiệt tình của các cô, tôi phát hiện ra mình chẳng có... khái niệm nổi trên mặt nước là gì! Họ nắm tay nhau làm võng mang tôi ra sâu, tôi cũng nỗ lực đạp chân vung tay loạn xạ, nhưng lúc buông tay là chìm lỉm, phải vội vàng ôm cổ hoặc chụp vào một cái gì đâu đó của các cô để giúp mình khỏi bị uống nước cành hông. Nhọc nhằn là vậy mà không mang lại ích lợi gì nhiều. Chỉ có tiếng cười lanh lảnh dọc theo triền suối vắng của các cô gái thôi.

    Tháng chạp năm đó, chúng tôi đưa một số thanh niên về huyện cõng muối cho làng; chúng tôi cũng kết hợp nhận lương thực, thực phẩm về ăn tết. Khi qua suối các cô chờ đàn ông sang trước và cấu véo nhau cười. Trong số con trai ấy, tôi là người đi cuối cùng. Sau lưng tôi các cô còn dặn vói: Cum mơ! Cum mơ! - Đừng nhìn! Đừng nhìn!

    Tôi cũng đinh ninh rằng mình cum mơ. Nhưng sao nghe im ắng thế! Có điều gì bất thường chăng? Cầm lòng không được, tôi đành xoay lưng lại. Chao ôi! Để tránh váy và gùi khỏi ướt, các cô ấy kéo váy tận hông mà không hề mặc đồ lót. Thấy tôi nhìn họ vụt kéo tiếp lên che mặt và la: “Cum mơ! Cum mơ!” xen giữa tiếng cười rúc rích. Hình như tôi có nhắm mắt lại trước khi chạy theo đồng đội, nhưng sao vẫn thấy nước suối cứ điềm nhiên chảy giữa hai đùi của họ.

    Đã nhiều năm trôi qua kể từ ngày ấy. Giá bây giờ tôi được một lần nghe lại tiếng Cum mơ! Cum mơ!
     
    amylee and 123phat like this.
  10. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Rồng trong mỹ thuật Việt Nam

    Nguyễn Quảng Tuân

    Trong các con vật được đưa vào mỹ thuật Việt Nam từ thời xưa thì con rồng được kể là đứng đầu trong tứ linh gồm có long, ly, qui và phụng.

    Qui là con rùa thì ai cũng biết nhưng chim phụng và con kỳ lân chỉ xuất hiện khi nào có thánh nhân ra đời. Riêng con rồng mà sách Nhĩ nhã tả thì không làm gì có trong trời đất được vì nói về hình thức nó có chín chỗ giống các con vật khác: đầu giống với đầu con lạc đà, sừng giống với sừng con nai, mắt giống với mắt con thỏ, tai giống với tai con trâu, cổ giống với cổ con rắn, bụng giống với bụng con thẩn (sò Con biển), vẩy giống với vẩy con cá gáy, móng giống với móng con chim ưng, chân giống với chân con hổ.
    Con thú như vậy chỉ là do tưởng tượng ra mà thôi. Tuy nhiên người phương Đông coi như có thật. Nhưng dù có hay không thì con rồng đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, không ai có thể vẽ khác được. Nếu có ai vẽ không khéo mà con rồng thiếu mất râu hoặc không đủ chân thì ắt sẽ bị chê là “Họa bất thành long”.

    Con rồng như vậy đã từ lâu rồi đi vào mỹ thuật Việt Nam với nhiều dáng kiểu khác nhau.
    Có khi nó được trình bày uốn mình theo chiều dài, hai đầu châu lại với nhau ở giữa có hình mặt trăng, gọi là lưỡng long triều nguyệt. Nếu mặt trăng được thay bằng hạt ngọc châu (không có tia lửa bao quanh như ở mặt trăng) thì lại gọi là lưỡng long tranh châu.

    Hai kiểu này thường thấy trang trí ở trên đỉnh mái các cung điện, các đền đài hoặc các đình chùa và còn được chạm khắc ở các đồ thờ nữa.

    Có khi nó được trình bày theo kiểu nhìn chính diện, miệng ngậm chữ thọ (cách điệu), trấn có chữ vương hoặc chữ nhâm. Kiểu này thường thấy ở đầu hồi nhà, hình tam giác và được gọi là rồng ăn chữ thọ. Cũng có khi con rồng được cách điệu bằng hoa lá trông cũng rất đẹp.

    Con rồng còn được trình bày với con cá đang giỡn sóng. Rồng thì ẩn trong mây (long ẩn vân). Mây và sóng đều được cách điệu. Kiểu này người ta gọi là ngư long hí thủy thường thấy vẽ ở những bức tranh dân gian hoặc chạm khắc làm nền ở những câu đối sơn then thếp vàng.

    Nói chung con rồng vốn là một đề tài phổ thông trong mỹ thuật Việt Nam đã được cải biên đi khá nhiều. Người ta đã chạm khắc những cành tre, cành trúc, cành thông thành những hình như con rồng trông rất công phu.

    Con rồng xưa kia là biểu tượng của nhà vua nên người dân dưới thời phong kiến phải tôn sùng, không được xúc phạm đến. Thế mà ở đình làng Phù Lão (Kinh Bắc) thời Lê, các nghệ nhân khi chạm khắc cảnh hội hè đình đám đã dám khắc con rồng có hai cái râu trên có hai vợ chồng già ngồi lên.

    Quả là nghệ nhân nào đó đã dám cả gan coi thường cái uy quyền của triều đình không biết rằng ở bên Trung quốc, thời Minh, nghệ nhân Thịnh Trước chỉ vẽ tranh Con sứa cưỡi rồng mà đã bị nhà vua qui tội chết.

    Ây chính vì sợ xúc phạm đến nhà vua nên xưa kia người ta thường khắc con giao thay cho con rồng với sự khác biệt là con giao không có sừng.*
    KTNN
     
    amylee thích bài này.
  11. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    “CÁI ĐẸP CỨU RỖI THẾ GIỚI”

    Dostoevsky từng nói: “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Câu nói ấy cho thấy được thiên chức cao cả của văn học là đem cái đẹp vào tâm hồn của con người, cứu vớt những đau khổ hàng ngày, thường trực của con người như Nguyễn Minh Châu – một nhà văn tài năng tâm huyết đã từng tâm sự với nghề văn: Nhà văn phải phát hiện ra cái đẹp khuất lấp như truy tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người, còn nhà văn Thạch Lam – một cây bút chủ chốt của nhóm bút Tự Lực Văn Đoàn đã phát biểu đại ý: Cái đẹp len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở những vật tầm thường, công việc của nhà văn là làm cho cái đẹp được nổi hình, nổi khối, thấm sâu vào tâm hồn người đọc, và sau này trong quá trình lao động nghệ thuật miệt mài của mình Thạch Lam đã đúc rút ra kinh nghiệm: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”.

    Cái đẹp là một phạm trù mĩ học, nói văn học tức là nói đến cái đẹp, vẻ đẹp ấy toát lên từ ngôn ngữ, từ giọng điệu, từ các chi tiết của tác phẩm văn học, nếu hội họa khiến người ta say đắm trước vẻ đẹp của những đường nét, sức hấp dẫn của màu sắc, âm nhạc đi vào lòng người bởi sự tinh tế của những nốt nhạc, ca từ thì văn chương quyến rũ lòng người bởi hình tượng nghệ thuật bởi những thông điệp cao cả ẩn tàng đằng sau cốt truyện, hình ảnh, nhân vật. Người ta làm sao có thể quên được thông điệp nhân văn được đúc kết từ tác phẩm Những người khốn khổ, trong tác phẩm ấy người ta bắt gặp tình thương, sự nhân đạo toát lên từ trái tim lương thiện, cao cả của Giăng văn Giăng, con người ấy bằng niềm tin chân thật của mình vào cuộc đời vào đạo lý đã cứu vớt những tâm hồn khốn khổ như Phăng tin, Cô dét, chính sức mạnh của tình thương tình người tha thiết là động lực thúc đẩy Victo Huygo sáng tác ra những tác phẩm bất hủ được mệnh danh là kinh thánh của loài người. Cái đẹp của tình người tình đời tha thiết đã nâng đỡ, thúc đẩy con người sống lương thiện, mở hồn mình ra đón lấy những vang động của đời. Người ta sau này mãi mãi sẽ không bao giờ quên câu chuyện cổ tích Cô bé Lọ Lem với hình ảnh nàng Lọ Lem hiền lành chăm chỉ nhưng phải chịu biết bao nỗi cay đắng, tủi cực từ sự ghẻ lạnh của dì ghẻ, từ đó gieo vào người đọc niềm tin vào cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu xa cái bất hạnh. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, đó là cái đẹp bình dị đời thường, nhưng phải cao cả bởi nói đến cái đẹp là cái cao cả, có khi nhà văn miêu tả những cái xấu xí, gồ ghề của sự vật của cuộc đời nhưng mục đích cuối cùng mà tác giả hướng đến chính là làm nổi bật cái đẹp, cái cao cả. Làm sao người ta có thể ngờ rằng đằng sau hình ảnh thằng gù nhà thơ đức bà Paris xấu xí dở người là một trái tim nhân hậu khát khao yêu thương và được yêu thương, đằng sau một Chí Phèo được mệnh danh là con quỷ dữ của làng Vũ Đại là một trái tim lương thiện luôn hướng về những điều bình dị trong cuộc sống, trái tim ấy khao khát từng ngày sẽ được sống một cuộc đời giàu tình yêu thương được người khác gắn bó và chia sẻ. Và làm sao người ta có thể quên một Thị Nở xấu xí nhưng đã dám đứng tách ra khỏi làng Vũ Đại để đi về phía Chí Phèo trao gửi tình yêu thương của mình cho Chí. Sau khi người ta gấp lại nhưng trang sách của Nam Cao người ta mới thấu hiểu những nỗi dằn vặt trăn trở của chính tác giả, Nam Cao đã đem đến cho người đọc những trang văn những trang đời thức tỉnh lương tri, hướng con người phát hiện cái đẹp ở những con người nhìn bên ngoài có thể dị hợm lạc loài, nhưng ẩn chứa bên trong một trái tim sâu thẳm tràn ngập tình yêu cuộc sống. Thưởng thức cái đẹp trong văn chương đòi hỏi con người phải có kiến thức lý luận chắc chắn phải thấu hiểu những thông điệp ngầm trong tác phẩm văn học mà nhà văn gửi gắm. Tây Tiến là một trong những bài thơ để đời của nhà thơ Quang Dũng, trong thi phẩm ấy, tác giả đã xây dựng hình ảnh những người lính Tây Tiến lãng mạn mộng mơ, nhưng vô cùng yêu đời yêu cuộc sống, các anh đến với cuộc đời này bằng một trái tim nồng cháy, mãnh liệt với khát khao được cống hiến, được đóng góp cho đất nước dân tộc khi tất cả đang chìm trong chiến tranh, biển lửa. Dù gặp phải khó khăn những người lính Tây Tiến ấy vẫn không lùi bước, ta vẫn nghe vang vọng đâu đây những âm thanh hào hùng của cuộc hành quân hùng tráng: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá giữ oai hùm/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm/ Rải rác biên cương mồ viễn xứ/Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Aó bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Họ những người lính Tây Tiến tuy tuổi đời còn rất trẻ, nhưng trong trái tim của những con người ấy mang sức mạnh của hào khí non sông với mong muốn được cống hiến cho Tổ quốc cho dân tộc, vượt qua những gian khó những đau thương họ vẫn sống và chiến đấu bằng trái tim yêu đời, bằng tình yêu mãnh liệt đối với non sông, đất nước.

    Quang Dũng đã rất tinh tế khi phát hiện ở những người lính Tây Tiến vẻ đẹp lãng mạn, mộng mơ, yêu đời. Trong thơ cái đẹp rất dễ hiện hình nhưng để cảm được cái đẹp ấy, nhà thơ phải là người cho máu, nhà thơ phải trau chuốt ngôn từ của mình, chưng cất những cảm xúc những tư tưởng lớn lao để đủ sức giãi bày bằng ngôn từ khiến trái tim người đọc xao xuyến, rung động. Ta có thể nào quên được những tiếng thơ nổi bật trong phong trào thơ mới đó là tiếng thơ của một Xuân Diệu rạo rực, dạt dào nguồn yêu mến cuộc sống, là tiếng thơ ảo não của Huy Cận, tiếng thơ hùng tráng của Huy Thông hay tiếng thơ kì dị của Hàn Mặc Tử… mỗi tiếng thơ có vẻ đẹp riêng có âm điệu riêng để hấp dẫn người đọc khiến người đọc thêm yêu thơ, cảm thơ , có khi là những tiếng thơ bi quan sầu não nhưng lại chất chứa nỗi lo lắng về xã hội về con người. Ta hãy xem những câu thơ của Chế Lan Viên: Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giá/ Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/ Để nơi ấy thắng ngày tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền đau khổ với buồn lo những câu thơ được chưng cất từ xúc cảm của nhà thơ, thể hiện một trái tim cô đơn, băng giá một tâm hồn bơ vơ lạc loài đang tìm kiếm nơi ẩn náu, tìm kiếm những tiếng nói chung, đồng điệu. Cái đẹp tồn tại, ẩn hiện khắp hang cùng ngõ hẽm, nhưng người nghệ sĩ phải là người có tài năng đặc biệt cần mẫn như con ong chăm chỉ mới có thể phát hiện, xâu chuỗi những vẻ đẹp của đời thành những trang thơ, trang văn làm lay động trái tim người đọc, đó là tài năng đặc biệt của người nghệ sĩ mà với thiên phú của mình người nghệ sĩ ấy có thể bóc tách, phân tích văn vật để chưng cất cái đẹp đưa nó đến với độc giả, với con người: “Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của Samet làm ra để cho Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của Trái Đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của trí tuệ chiến thắng bóng tối, cho chúng rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt”, cái đẹp như hạt bụi quý của đời mà mỗi người nghệ sĩ đã nhọc công gom góp tạo dựng qua những vân thơ câu chữ của mình. Nguyễn Tuân nổi tiếng là một người nghệ sĩ chuyên đi tìm cái đẹp, ông quan sát con người, quan sát sự vật ở phương diện, ở góc độ nghệ thuật, ông không miêu tả chỉ để miêu tả mà nhìn ngắm con người ở phương diện cái đẹp, dù họ làm bất cứ nghề gì nhưng phải thật xuất sắc, phải thật đẹp đó là vẻ đẹp ngang tàng khí phách của Huấn Cao khi dối mặt với những tên lính canh ngục, là vẻ đẹp của những nét chữ vuông vức trên tấm lụa bạch khi người nghệ sĩ ấy cho chữ trong khung cảnh tăm tối, ẩm mốc, đất bừa bãi phân, chuột phân gián, là cái đẹp kính cẩn nghiêng mình của quản ngục trước cái tài của tên tử tù. Tất cả được Nguyễn Tuân nhìn ngắm ở phương diện cái đẹp. Sau cách mạng cũng khai thác cái đẹp nhưng họ Nguyễn lại tìm kiếm nó ở tầng lớp lao động bình thường: đó là ông lái đò trên dòng sông Đà hiểm trở, cuộc đời của ông không được tính toán, đo đếm bằng vàng bạc mà được khẳng định qua những chuyến đưa đò trên sông Đà, dòng sông độc dữ ấy là cửa ải nguy hiểm mà mỗi lần đi qua ông lái đò đều phải gồng mình lên để đối mặt, đối với ông mỗi chuyến đưa đò là một lần khẳng định tài năng, sức mạnh phi thường kinh nghiệm sống của mình, Nguyễn Tuân đã phát hiện vẻ đẹp ấy ở những người dân lao động bình thường ở những con người chân chất thật thà. Đến với những trang văn của Thạch Lam người ta không thể nào quên hình ảnh Hai đứa trẻ với những ước mơ, hi vọng được gửi gắm qua chuyến tàu đêm. Chuyến tàu ấy đã đem đến một thế giới khác hẳn thế giới ngày thường mà hai chị em Liên và An đang sống, nói cách khác đó là thế giới tràn đầy ánh sáng, niềm tin, hi vọng để hai chị em thoát khỏi cảnh bần cùng, thoát khỏi hiện thực khô cằn buồn tẻ, không ước mơ, không hi vọng. Xây dựng chuyến tàu đêm tác giả Thạch Lam đã dụng công khi dồn tất cả tâm huyết và tài năng của mình để tạo nên điểm nhấn cho tác phẩm. Thạch Lam đã nhìn một cách sâu sắc tinh tế nội tâm của Liên, An để từ đó có thể lột tả một cách chân thực ước mơ khát vọng của hai đứa trẻ. Đó là vẻ đẹp giản dị, đời thường, vẻ đẹp khuất lấp trong thẳm sâu tâm hồn của những ước mơ khát vọng của con trẻ. Thạch Lam thực sự đã đem đến cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức để có thể lay động trái tim độc giả khiến độc giả đồng cảm với nỗi bất hạnh của hai đứa trẻ, thấu hiểu tường tận ước mơ được bứt phá được thoát khỏi cảnh bế tắc, bần cùng. Vẻ đẹp ấy có được khi tác giả phải ngắm nghía thật kĩ càng, phải hết sức thấu hiểu nội tâm trẻ thơ thì mới khai phá, mới xây dựng được chi tiết đắt giá cho tác phẩm. Như bông hoa sem thơm ngát mọc lên từ bùn đen, cái đẹp của văn học phải lay động, thức tỉnh trái tim con người, khiến con người có thể lắng lại tâm hồn mình để rung cảm trước những khung cảnh bình dị, đời thường. Bông hoa ấy luôn mang trong mình hương thơm ngát để có thể diểm tô cho cuộc sống này.

    Cái đẹp của văn chương cũng vậy nó tiềm tàng ở những vật tầm thường đòi hỏi nhà văn, nhà thơ phải nắm bắt cho được cái đẹp ấy để gọt giũa đưa vào trong tác phẩm của mình, biến nó thành những trang đời thấm đẫm tình yêu cuộc sống. Ta hãy một lần lắng lại những cảm xúc tế vi của tâm hồn để thưởng thức những vần thơ hay những câu văn đẹp, để thưởng thức tài năng của người nghệ sĩ, để chiêm ngưỡng những vẻ đẹp trong nghệ thuật được chưng cất từ những nhọc nhằn của đời, từ những buồn vui của người, Cái đẹp trong văn học mãi mãi sẽ cứu rỗi thế giới, mãi mãi sẽ làm thức tỉnh mài giũa những phẩm chất cao đẹp của con người như mục đích mà những người nghệ sĩ đang truy tìm và sáng tạo.
    (Sách Văn 24h)
     
    machine and amylee like this.
  12. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Thư Tình Cuối Mùa Thu

    Lời yêu này em muốn nói cùng anh!

    Ta yêu nhau đã bao năm rồi nhỉ? Từ lúc xa thành phố lạ, em cùng anh rảo bước khắp miền quê. Nơi anh và em nhìn thấy cánh đồng lúa uống ngon lành những giọt sương mai từng ngày lớn lên. Em ấn tượng với câu chuyện cổ tích về loài người, ghi nhớ mãi lời ru của mẹ, rất dịu dàng rất đỗi bao dung ngủ ngoan ngủ ngoan. Em nhận ra em chỉ trưởng thành khi có mẹ và anh, nhưng mẹ nào là mẹ của anh, mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi. Anh đến với em bằng tình yêu chân thực, ta đi bên cạnh nhau như đi với mùa xuân. Em nhớ lắm nơi hò hẹn đầu tiên, hoa cỏ may thơm hương đồng gió nội, em nhận thấy tình yêu không thay đổi, nơi anh. Hai chúng mình ví như thuyền và biển, luôn hướng về nhau mọi lúc mọi nơi, để tâm hồn ta như sóng ngoài khơi luôn đi tìm hạnh phúc. Em muốn viết cho anh bức thư tình cuối mùa thu, mãi đến hôm nay lòng em mới nghĩ. Anh biết không, khi đọc bài thơ vui về phái yếu, em nghĩ đến cuộc sống đời thường, nghĩ về tình yêu, hạnh phúc đôi ta. Ước chi như con sóng ngoài xa, để tình yêu muôn đời là bất tử. Đôi khi em nghĩ, tình yêu ta như hoa dọc chiến hào, dù chông gai thử thách gian lao, em sẽ cùng anh đến bến bờ hạnh phúc. Nhìn những làn mưa rớt trên áo đôi tình nhân, em tự hát theo nhịp trái tim đập những điều không thể nói, nhưng biết yêu anh và biết được anh yêu. Để em trở về đúng nghĩa trái tim em. Những trăn trở, lo âu trong cuộc sống đời thường, thoáng trong những suy tư trầm lắng: lời yêu mỏng mảnh như màu khói, ai biết tình anh có đổi thay. Và lời yêu này em chỉ muốn nói cùng anh.
    Nguyễn Thị Thuỳ Trang
     
    machine thích bài này.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này