Hoàn thành Mộng Kinh Sư - Phan Du

Thảo luận trong 'Dự án eBook cho Thư viện' bắt đầu bởi Trúc Quỳnh Đặng, 7/5/19.

Moderators: rhea, thuannguyen1088
  1. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Tiểu Thố Tử Thành viên BQT

    [​IMG]
    MỘNG KINH SƯ

    Tác giả: Phan Du
    Phát hành: Tao Đàn
    Nhà xuất bản: NXB Hà Nội 04/2016
    —✥—
    GIỚI THIỆU:
    "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân." - Chỉ một lời điểm chỉ của Trạng Trình đã biến Nguyễn Hoàng đang hoang mang như “chó nhà có tang” thành Chân chủ một phương, vạch đôi sơn hà.
    Ngôi cổ tự linh thiêng mang tên Linh Mụ đã gắn liền với chín chúa mười ba vua nhà Nguyễn như thế nào? Truyền thuyết về Trích tiên của xứ này không phải ai cũng biết!
    "Bắc Tuyên phi, Nam Tống thị" - Đặng Thị Huệ dùng nhan sắc khuynh đảo Phủ chúa Đàng Ngoài như thế nào, thì nàng Tống thị Đàng Trong với tuyệt chiêu "vòng kết trăm hoa" hút hồn nam nhân từ nam chí bắc. Hai bên kẻ hô người ứng, nhất tiếu khuynh thành, tái tiếu khuynh quốc, gây nên bao nỗi đoạn trường ra sao?
    Quyền thần Trương Phúc Loan để sổng một Giáo Hiến, mà di lại cái họa Tây Sơn; Quận công Hoàng Ngũ Phúc bỏ sót Hoàng tôn Dương, nên Gia Long có cơ quật khởi. Bánh xe lịch sử xoay vòng lặp lại thế nào?
    Mộng Kinh Sư sẽ đem lại cho độc giả câu trả lời đầy đủ! Gói gọn trong hơn 200 trang sách, Mộng Kinh Sư tái hiện những bước hưng vong thăng trầm của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong qua các đời chúa, mỗi chúa với những đặc điểm và công trạng riêng; song song với quá trình hình thành và phát triển của ngôi chùa Thiên Mụ (Linh Mụ) được cho xây cất bởi Nguyễn Hoàng. Tác phẩm ngoài giá trị khảo cứu còn có giá trị lớn về mặt văn học. Một tác phẩm mà những người đam mê lịch sử, những bạn yêu thích tiểu thuyết, những tín đồ của tò mò chủ nghĩa sẽ không thể bỏ qua!
    —✥—
    [VCTVEGROUP]
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link:

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/8/19
  2. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Cho mình xin 1 gói soát lỗi chính tả cuốn này. Đọc lời giới thiệu thấy hấp dẫn quá. Đã đọc nhiều giai thoại về Tống thị trên báo chí thấy rất lôi cuốn về nhân vật này. Hồng nhan hoạ thủy, sự nghiệp của 9 chúa chút nữa đã bị hủy hoại trong tay Tống thị.
     
    annie_tuongminh thích bài này.
  3. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Chính sử triều Nguyễn chỉ có vài dòng vắn tắt cho biết, Tống Thị là người đàn bà "chọc trời khuấy nước" trong lịch sử xứ Đàng trong nửa đầu thế kỷ XVII. Bà là vợ của Nguyễn Phúc Anh (Kỳ), trấn thủ Quảng Nam, con dâu chúa Sãi; chị dâu và tình nhân của chúa Thượng, nhưng về sau, tư thông với Chưởng dinh Nguyễn Phúc Trung (em ruột chúa Thượng) nhằm mưu toan tạo phản. Kết cục, bà bị chúa Hiền xử tử.

    Sách Đại Nam Thực lục tiền biên chép: "Tống Phước Thông (bấy giờ làm cai cơ) trốn về với họ Trịnh. Con gái đầu của Phước Thông là Tống Thị lấy hoàng tử Kỳ, sinh được ba con trai. Phước Thông mừng cho rằng, sau này được vinh hiển. Khi Kỳ mất, Phước Thông đại thất vọng, bèn dẫn gia quyến lẻn ra ngoài cửa Eo (nay là cửa biển Thuận An) trốn đi, duy có Tống Thị ở lại".

    Giống những người đàn bà lừng danh trong lịch sử, Tống thị hành động theo sức đẩy của hai tham vọng lớn: quyền lực và của cải. Bà có bí quyết "sát" quân vương độc nhất vô nhị. Một số tài liệu cho biết, "ngải yêu" của Thị là chuỗi hoa vòng ngọc liên châu. Vào năm Kỷ Mão (1639), Tống Thị đã dâng chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan thứ bùa đó. Chúa cầm lên ngửi thấy mùi hương thơm ngát, lòng dạ bắt đầu "phiêu phiêu". Thêm nữa, mỹ nhân sụp lạy dưới thềm, thưa trình về tình cảnh goá bụa thảm thiết, khiến chúa cho phép người đẹp được tự do vào ra vương phủ… Lòng say mê dâng cao qua những lần gặp gỡ và em chồng - chị dâu đi vào ái ân hoan lạc bất luận đêm ngày… Nhưng cuối cùng, do lời điều trần của Phạm Nội tán, Tống Thị bị thất sủng.

    Nhằm xoay chuyển tình thế, dâm phụ Tống Thị đã viết một mật thư kèm theo xâu chuỗi trăm hoa, nhờ người dâng lên tận tay chúa Trịnh Tráng, để kích động bạo loạn, nếu cuộc Nam phạt thành công, bà xin về Đàng ngoài hầu hạ Chúa. Nào ngờ quân Trịnh Tráng thua lớn, Tống Thị vỡ mộng, chuyển qua "ve vãn" Nguyễn Phúc Trung và nghĩ là chỉ có ông ta mới lật đổ được cháu mình - Chúa Hiền. Thế là, với kỹ thuật ái ân “tía rụng hồng rơi”, dâm phụ đã chinh phục được lòng nịch ái, đắm say của một võ quan hung bạo và sau đó, xúi Trung đứng ra làm phản, bắt mối với Đàng ngoài.

    "Việc bị bại và Trung bị giam xuống ngục, rồi chết. Còn Tống Thị, tang vật đã rõ ràng không thể chạy chữa gì nữa, bị chém và bêu đầu giữa chợ. Theo lệnh Chúa, tịch thu gia sản to lớn của Tống Thị phân phát cho quân, dân trong vùng", sách Đại Nam Thực lục tiền biên ghi.
     
  4. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    Bốn người đẹp chết thảm dưới thời vua chúa Nguyễn



    Thời kì phong kiến nào cũng vậy, bên cạnh các bậc quân vương luôn phủ bóng hồng của các mỹ nhân, với vua chúa Nguyễn cũng không ngoại lệ. Bằng nhan sắc lộng lẫy, những hương sắc này được sủng hạnh hết mực. Thế nhưng, vận đổi sao dời, họ đều phải bỏ mạng một cách thảm khốc với những nguyên cớ khác nhau. Vậy, họ là ai ?

    [​IMG]
    Nhà Nguyễn Xưa

    Dâm phụ họ Tống phải trả giá!
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link không ghi chép nhiều về người đàn bà này, chỉ biết, Tống Thị là một nữ lưu “chọc trời khuấy nước” của lịch sử Đàng trong nửa đầu thế kỷ XVII. Tống Thị là con gái đầu lòng Tống Phước Thông (lúc đó đương làm cai cơ) trốn về với họ Trịnh. Bà kết hôn với Hoàng tử Kỳ, có được ba mặt con trai. Phước Thông nghĩ rằng sẽ được thơm lây vinh hiển của con gái. Để rồi khi con rể chết, Phước Thông vô cùng thất vọng, liền “dẫn gia quyến lẻn ra ngoài cửa Eo” (cửa biển Thuận An ngày nay) bỏ trốn, chỉ có mình Tống Thị không đi (Theo sách Đại Nam Thực lục tiền biên ).

    Là một người đầy tham vọng, thèm khát thâu tóm quyền lực – tiền tài, Tống Thị không từ thủ đoạn để lấy lòng các chúa. Qua số ghi chép, bà ta có bảo vật “bùa yêu” là chuỗi hoa vòng ngọc liên châu. Năm 1639, Tống Thị dâng nó lên Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Hương thơm quyến rũ khiến lòng Chúa lâng lâng. Đã vậy, người ngọc còn sử dụng “khổ nhục kế”, quỳ lạy, khóc than cảnh goá chồng. Chúa vừa si mê, vừa mủi lòng nên đặc cách cho người đẹp có quyền mặc sức ra vào phủ chúa. Mối quan hệ loạn luân chị dâu – em chồng cứ thế triền miên trong âm mưu và dục vọng. Thế nhưng, bởi lời vạch tội từ Phạm Nội tán, Tống Thị đã đánh mất sự sủng sái của chúa.

    Vốn mưu mẹo, Tống Thị không chịu an phận, liền viết mật thư cùng với “bùa yêu”, nhờ người dâng đến chính tay Chúa Trịnh Tráng, nhằm kích động chiến tranh. Nếu cuộc tấn công xuống phía Nam thành công, bà ta sẽ có cơ hội về Đàng ngoài dưới phủ chúa Trịnh. Trời không chiều lòng dạ thâm độc của Tống Thị, quân Trịnh bị đả bại, người đàn bà lập tức giở mặt, chuyển đối tượng sang võ quan Nguyễn Phúc Trung hòng lật đổ Chúa Hiền, xúi bẩy Trung làm phản, làm nội gián cho Đàng ngoài.
    Sự việc bại lộ, hai kẻ bất trung phải chịu quả báo. Nguyễn Phúc Trung bị tống vào ngục, rồi chết. Về phần Tống Thị, chứng cớ rành rành không thể điêu xảo chối cãi được gì, bị chém đầu và bêu ra giữa chợ, gia sản to lớn của Tống Thị bị tịch thu và đem “phân phát cho quân, dân trong vùng” (Trích Đại Nam Thực lục tiền biên).

    Kỳ Nữ Họ Tống - Nguyễn Văn Xuân

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Đào Thừa cùng một bệnh với Tây Thi?
    Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần vốn là người chuyên tâm chính sự, không màng nữ sắc, vui chơi tiệc tùng và cực kì tin yêu người tài. Thế nhưng, tương truyền, vào tháng 4 năm 1652, nổi lên giữa đám ca nhi ở phủ Chúa có một nàng Đào Thừa thập phần đẹp xinh. Đào Thừa là người con gái của miền Nghệ An, phong thái đúng chất trâm anh đài các, lại có tài ca hát xuất chúng. Sự xuất hiện của nàng lập tức khiến mọi nét thanh tú của đám phi tần kia trở nên tầm thường, cũng như công sức để lấy lòng chúa trở nên tiêu tan. Với nhan sắc, tài năng cùng với “ma lực của sóng mắt khuynh thành”, nàng ca nhi này đã làm tan chảy trái tim cứng rắn của Hiền Vương”, theo sử sách ghi chép.

    Cũng từ đây, Hiền Vương dường như trở thành một con người khác hẳn, lao vào dục vọng, bỏ bê việc chính sự. Khi được can gián, Hiền Vương chẳng những không tiếp thu mà còn tức giận, kể công từng trải gian lao để bảo vệ cơ đồ, giờ “giống nòi đã vững vàng, trăm họ đã an lạc”, chúa được quyền hưởng thú vui cho riêng mình.

    Rồi đến khi đọc sách Quốc ngữ, có đoạn kể về việc vua nước Việt là Câu Tiễn đánh nhau với nước Ngô, thua trận. Nhờ Phạm Lãi hiến mưu, Câu Tiễn hiến mỹ nhân Tây Thi cho Ngô vương Phù Sai. Ngô vương chìm đắm trong nữ sắc, sao lãng quốc sự, Câu Tiễn nhân đó đưa quân chinh phạt, nước Ngô rơi vào thất bại. Sau đó, Phạm Lãi cùng Tây Thi du ngoạn vùng Ngũ Hồ, rồi mới qua đời. Hiền Vương cảm thấy có sự trùng hợp với hoàn cảnh của mình nên nghi ngờ Đào Thừa là nội gián của chúa Trịnh cài vào.

    Ngay sáng hôm sau, Phúc Tần lệnh cho Đào Thừa mang một bộ triều phục mới tới tư thất của quan Nguyễn Cửu Kiều … cũng từ đó không thấy vết tích của nàng. Sử sách ghi lại trong tay áo của bộ triều phục mà Đào Thừa mang có tẩm thuốc độc kèm mật thư giao cho Cửu Kiều “kết liễu đời nàng để tránh cho non nước xứ Đàng trong cái họa Tây Thi”.

    Mẹ loạn luân với con trai?
    Đông cung Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh có người vợ là bà Tống Thị Quyên cùng hai con trai là Mỹ Đường và Mỹ Thùy. Năm 1801, khi đương 21 tuổi, Thái tử mất do mắc bệnh đậu mùa. Với suy tính “Khi người ta chết đi mà còn để lại món nợ trên đời (vua từng cầu viện trợ từ người Pháp và có sự giúp sức của giám mục Bá Đa Lộc)”, thì chủ nợ chỉ thanh toán con, chứ không tìm cháu, nên vua Gia Long truyền ngôi cho Hoàng tử Đảm, sau lên trị vì lấy niên hiệu Minh Mạng, thay vì chọn Mỹ Đường.

    Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, vào năm 1824, có lời tố cáo Mỹ Đường thông dâm với mẹ. Thông dâm là một tội cực lớn, gọi đây là hành vi “còn hơn chó lợn”. “Mụ đàn bà lăng loàn ấy”, tức bà Tống Thị Quyên đáng chịu cảnh bị dìm chết.
    Bà Quyên bị mấy tên lính canh trấn áp giải trong tình trạng tóc tai rũ rượi. Tháng ngày giam cầm, bà ở trong một phòng riêng, chân tay không xiềng xích, ăn uống đủ đầy, chăn ấm nệm êm, có nước tắm rửa và bô để đi vệ sinh. Không được phép nói một lời thanh minh, bà bị dìm xuống nước cho đến ngạt thở mà chết.

    Một quan điểm cho rằng, vụ thông dâm này do vua Minh Mạng dựng lên hòng đổ oan để diệt sạch đối thủ, nhất là khi Lê Văn Khôi nổi dậy với nghĩa phù Mỹ Đường. Tuy nhiên, tới tận bây giờ, nghi án này vẫn trong vòng bí mật.

    Dương Thị Ngọt chết vì khi quân?
    Dương Thị Ngọt là bà phi thứ 9 của vua Thành Thái. Bà sinh trưởng từ mảnh đất Quảng Trị. Khi tiến cung được vua yêu mến nhưng lại phải chết thảm cũng từ mệnh lệnh của vua. Thành Thái là một vị vua có tư tưởng tiến bộ nên để tóc ngắn. Theo ông Dương Quang Diêu, người cháu họ thuộc đời thứ 3 của bà Dương Thị Ngọt cho biết: Một lần, sau khi cắt tóc, nhà vua dạo một lượt đến từng người vợ hỏi xem tóc mới của vua có đẹp không. Bà phi nào cũng hết lời ca tụng tóc mới của vua, riêng bà Dương Thị Ngọt đã không khen lại còn buông một câu nhận xét rằng: “Trông giống như kẻ cướp ấy”. Vua nổi trận lôi đình, cho nấu bà Ngọt trong vạc dầu. Cũng có nguồn cho rằng Dương Thị Ngọt được yêu quý nên những bà phi khác đã tìm cách hãm hại để vua hiểu nhầm bà có ý khi quân phạm thượng. Tựu chung, nguyên nhân dẫn đến cái chết của bà Ngọt là làm mất lòng vua. Tuy nhiên, đám tang của bà vẫn được tổ chức trang trọng với tư cách vợ vua.

    Trong bốn mỹ nhân kể trên, có người chết do tâm cơ, người bị nghi oan, người do “hồng nhan họa thủy”, người chưa xác định được thực hư câu chuyện. Cái chung của họ là đều đẹp, bước vào cuộc đời vương quyền rồi bỏ mạng…
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/5/19
  5. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    Tiểu Luận Về Chùa Linh Mụ - Huế



    [​IMG]


    Chùa Linh Mụ

    Một miền tâm thức và tình cảm của người dân xứ Huế

    Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

    Có một thời, lúc tôi bối rối, bất an, nhìn ngọn tháp Phước Duyên là lòng tôi lắng lại. Và để thâm tạ về điều ấy, tôi có làm một bài thơ:

    Chùa xưa, người cũ vạn đời

    Đất thiêng liêng dựng khoảng trời thiêng liêng

    Chuông sương tỉnh giấc trăm miền

    Tháp khuya nguyệt bạch an nhiên mấy từng

    Khi viết về chùa Linh Mụ, trong một bài nghiên cứu của mình, Phạm Đức Thành Dũng đã diễn tả bằng một đoạn văn có chiều sâu và diễm lệ như sau:

    “Tọa lạc trên một ngọn đồi vững chãi, bình yên soi bóng chỗ dòng Hương uốn mình như dải lụa thẹn thùng, e ấp, chùa Linh Mụ với một vẻ trang nghiêm u tịch, thanh thoát âm trầm, luôn hằng một dấu ấn kỳ diệu trong lòng du khách đến tham quan, cũng như người thập phương viếng chùa lễ Phật. Có lẽ đây là ngôi chùa cổ kính nhất của xứ sở Thần kinh-nơi luôn được xem là thủ phủ của Phật giáo Việt Nam. Nét đẹp như huyền thoại, một bề dày lịch sử ngót nửa thiên niên kỷ qua bao thăng trầm, chứng kiến bao đổi thay của cuộc thế biển dâu, ngôi chùa này lại hòa lẫn trong cảnh sắc thiên nhiên sông núi kỳ tú một cảnh sắc đặc hữu, thật xứng đáng là đệ nhất danh lam thắng cảnh của miền Thuận Hóa - Phú Xuân”. (1)

    Như vậy, xét về giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của chùa Linh Mụ thì thế giới, các nhà khảo cổ, thẩm quyền chuyên môn của các nhà nghiên cứu đã mặc nhiên công nhận. Và họ đều rất quan tâm khi thời gian đã làm cho ngôi chùa này hư hỏng nhiều nơi. Và, dự án trùng tu tổng thể di tích chùa Linh Mụ là một chủ trương sáng suốt của các cấp lãnh đạo văn hóa. Nhân dân xứ Huế xôn xao vui mừng. Tăng Ni và Phật tử cố đô Huế hả lòng hả dạ, vô cùng hoan hỷ

    Khi niềm vui bừng bừng “cảm tính” ấy bắt đầu lắng lại; rất nhiều người dân xứ Huế chợt đâm ra băn khoăn, lo nghĩ... Tựu trung, những mối ưu tư đó xoay quanh hai điểm chính

    - Không biết các nhà nghiên cứu, tư vấn, với kiến thức chuyên môn ưu việt của mình sẽ lấy điểm mốc thời gian nào, mẫu kiến trúc thời đại Vua, Chúa nào để làm sở y?

    - Họ có biến ngôi chùa Linh Mụ hiện nay, đang là biểu tượng, hình ảnh quen thuộc trong tâm thức và tâm hồn người dân xứ Huế, trở thành một ngôi chùa rồng phượng, vàng son... rất xa lạ với tinh thần nhã đạm,dung dị của Thiền môn?

    Do thế, rõ ràng là còn một giá trị khác, khác với giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật... mà người dân cố đô, đặc biệt là giới Tăng Ni, Phật tử họ quan tâm hơn, họ thao thức hơn... đấy là giá trị tâm linh: giá trị tâm linh của chùa Linh Mụ!

    Tôi tự hỏi như vậy và tôi đã đi tìm các tư liệu, bài viết liên quan. Và, càng nghiên cứu, càng tìm đọc, tôi thấy sự việc càng phức tạp, nhiêu khê...

    Thời gian đã phủ lên ngôi chùa này không biết bao nhiêu là mẫu kiến trúc, kiểu thức, họa tiết trang trí. Lại còn có cả sự bào mòn và pha nhuộm của mưa nắng, phong rêu... Đi tìm một giải mã nào đó là như đi trong lớp sương mù, chồng chấtsương mù; hoặc là bước đi trong sự vận động, chuyển động không dừng nghỉ. Nó là sự liên lỉ, là hằng và chuyển. Ở đây, trong sự vận hành của dịch lý, chẳng có điểm nào là điểm mốc, điểm dừng. Chúng đang trôi. Chùa Linh Mụ đang trôi. Những vẻ đẹp ảo điệu đang trôi. Mà chúng ta thì muốn dừng lại để đo đạc, nhìn ngắm, khuôn đọng nghệ thuật trong cái “tĩnh chỉ” nào đó ư?

    Vẻ đẹp tâm linh, giá trị tâm linh của chùa Linh Mụ, chúng ta không thể bỏ qua mảng “không gian” và sự cảm nhận ấy.
    A. Thử lặn tìm vào thời gian, những điểm mốc lịch sử:

    Đã gần nửa thiên niên trôi qua.

    - Năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng làm lại chùa Thiên Mỗ ở đồi Hà Khê và đổi tên là chùa Thiên Mụ.

    - Năm 1665, tức là gần 65 năm sau, chúa Nguyễn Phúc Tần cho tu sửa lần đầu.

    - Năm 1714, chúa Nguyễn Phúc Chu đổ ra rất nhiều công sức và tâm huyết để trùng kiến chùa Linh Mụ rất nguy nga, tráng lệ. Từ đây, chùa Linh Mụ mới có một quy mô hoàn chỉnh. Từ ngoài vào trong, bi minh của chúa đã ghi lại như sau: Điện Thiên Vương, Điện Ngọc Hoàng, Đại Hùng Bửu Điện, Nhà Thuyết Pháp, Lầu Tàng Kinh, Lầu chuông, Lầu trống, Điện Thập Vương, Nhà Vân Thủy, Nhà trai phạn, Nhà Tọa Thiền, Điện Đại Bi, Điện Dược Sư, Tăng Xá, Nhà Khách, Vườn Tỳ Da...

    - Năm 1740, chúa Nguyễn Phúc Khoát sửa chữa, làm lại cho nguy nga hơn.

    - Năm 1775, chùa Thiên Mụ bị quân Trịnh tàn phá, đi liền theo cái “nghiệp” của kinh thành Phú Xuân. Tất cả mọi điện đài, lầu các, đình tạ, nhà cửa bắt đầu đổ nát, tàn tạ, hư hỏng. Tuy chùa chưa bị hoàn toàn triệt hạ nhưng trông đã rất thê lương. Viết về giai đoạn này, Hà Xuân Liên, trong công trình biên khảo công phu về chùa Linh Mụ của mình, có chép câu thơ của một vị cao tăng ẩn sĩ”

    “ Bảo các, quỳnh lâu, bán dĩ hoang

    Phạm cung y cựu, đối tà dương

    Khả liên nhị bách niên cơ nghiệp

    Bất cập sơn tăng giấc mộng trường”

    Chúng tôi tạm dịch:

    “ Lầu quỳnh, gác báu thê lương

    Chùa xưa như cũ, tà dương phủ mờ

    Cảm thương hai kỷ cơ đồ

    Không bằng tỉnh giấc mộng hồ sơn tăng”

    - Năm 1796, vào thời Cảnh Thịnh, chùa lại càng đổ nát, điêu tàn hơn. Tất cả bị quân Cảnh Thịnh san bằng để lập đàn Xã Tắc, chỉ một tòa Phật đường là còn nguyên.

    - Năm 1816, Gia Long lên ngôi, 14 năm sau mới sửa chữa, làm lại chùa Thiên Mụ theo trí nhớ của Đặng Đức Siêu.

    - Năm 1825, Vua Minh Mạng cho tu sửa nhiều hơn, mang đậm dấu ấn kiến trúc lăng tẩm và cung đình.

    - Năm 1844, Vua Thiệu Trị cho xây tháp Phước Duyên và sửa chữa lớn chùa Thiên Mụ, làm cho cảnh chùa rất khác với qui mô cũ. Tuy nhiên, Chúa đã cố gắng tổng hòa các mẫu kiến trúc thời đại trước.

    Năm 1871 và năm 1879, Vua Tự Đức có hai lần sửa sang lại, đổi Thiên Mụ thành Linh Mụ.

    - Năm 1904, đời Vua Thành Thái, bão năm Canh Thìn làm chùa hư hại nặng, một vài nơi điện các bị sụp đổ.

    - Năm 1907, cũng thời Vua Thành Thái, chùa được sửa và thay đổi nhiều. Điện Di Lặc sau Điện Đại Hùng và hai dãy nhà Thập Điện Minh Vương hai bên tả hữu phía trước bị dở bỏ, Đình Hương Nguyện ở phía trước tháp Phước Duyên lại dời vào phía trong, dựng lại trên nền Điện Di Lặc cũ. Dựng thêm một miếu thờ Quan Công ở phía trước; không còn dấu tích Pháp Luânquay theo chiều gió. (2)

    - Năm 1908, thời Vua Duy Tân, tháp Phước Duyên bị sét đánh, được sửa lại.

    - Năm 1919, thời vua Khải Định có dựng bia sau tháp Phước Duyên; đây là chứng tích Khải Định có tu sửa. Lại mang thêm dấu ấn nghệ thuật kiến trúc thời Khải Định.

    - Trước năm 1945, chiến tranh tàn phá, chùa Linh Mụ dường như bị bỏ hoang cho thời gian và con người xâm hại.

    - Sau năm 1945, qua phong trào chấn hưng Phật giáo, Hòa thượng Đôn Hậu cùng các vị Cao Tăng đã cho bỏ hết những khí dụng, vật thờ, tượng thờ không phải là của Phật giáo. Điện thờ Quan Công được bỏ đi và sửa lại thành Điện Địa Tạng. Ngài xắp xếp chỗ thờ tự đúng tinh thần Phật giáo, cho sửa sang sơn quét lại để tạo nên phong cách nghệ thuật hài hòa, dung dị phù hợp với nếp sống Thiền môn.

    - Năm 1958, chùa Linh Mụ được đại trùng tu do viện Bảo tồn di tích thuở đó thực hiện. Năm 1959, sửa chữa tháp Phước Duyên. Trong các lần sửa chữa này, có rất nhiều dấu tích cũ, nhiều chi tiết mỹ thuật tỉ mỉ đều mất hết. Thậm chí có những họa tiết rất đẹp thuở xưa đã bị vẽ chồng lên bằng những đường nét thô vụng và màu sắc thì lòe loẹt, rẻ tiền. Càng khó chịu hơn, có những chi tiết đã làm lạc hẳn, phản bội hẳn nét văn hóa cổ kính về nghề mộc hoặc nghề khắc chạm truyền thống; phần trang trí đầu rồng đều bị đục bỏ. Cũng trong lần trùng tu này, do thiếu gỗ, nhiều chi tiết công trình được thay bằng xi măng cốt thép; thiếu gạch Bát Tràng người ta đúc nền bằng xi măng...

    Như thế trải qua thời gian hơn bốn thế kỷ, nào kiến tạo, trùng kiến, trùng tu, sửa chữa, chùa Linh Mụ đã chất chồng lên tự thân bao nhiêu mẫu kiến trúc, bao nhiêu phù điêu, hoa văn, họa tiết, cùng màu sắc trang trí? Không biết người ta sẽ trùng tu, phục chế dựa theo nền nghệ thuật thời đại nào?

    B. Thử đi tìm cái gì tương hợp và cái gì không tương hợp

    Chắc chắn các nhà chuyên môn, khảo sát, tư vấn đã bóc tách các trụ biểu, tam quan và một số nơi khác để suy luận, thẩm tra niên đại. Với kiến thức, kinh nghiệm, bề dày chuyên môn, kỹ thuật tân tiến hiện nay, họ làm được điều ấy, và làm rất giỏi, rất bài bản là khác.

    Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu, chỉ đạo và người thực hiện sẽ va vấp những khó khăn sau đây:

    1. Chùa Thiên Mụ trước đây là của triều đình, phục vụ cho triều đình. Qua các vua và chúa triều Nguyễn, mặc dầu thỉnh thoảngcó vài vị bỏ phế, không quan tâm, nhưng đa phần đều được chăm sóc, gìn giữ, tu sửa. Nhưng các phù điêu, hoa văn, họa tiết trang trí trên nền vôi vữa, trên đá, trên gỗ, bích họa, đắp nổi về các hệ đề tài thực vật, động vật, vũ trụ, thiên nhiên... đều mô phỏng kiểu dáng, phong cách vàng son, huy hoàng, lộng lẫy của cung đình. Từ thời Minh Mạng về sau, từ Thiệu Trị đến Khải Định, nghệ thuật trang trí ấy đã lên đến đỉnh cao về giá trị mỹ thuật. Điều đó cũng dễ hiểu, hợp tình, hợp lý vì chùa vốn là quốc tự; và các vị Tăng Cang được hưởng lương triều đình. Nhưng nếu ta phục chế chùa Linh Mụ hiện nay, giống với một ngôi chùa vào thời vua chúa ấy, chẳng biết có còn thích hợp với một “ngôi chùa thờ Phật thuần túy” nữa không?

    2. Quan niệm “tam giáo đồng nguyên” từ thời Lý, Trần vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm suốt chiều dài lịch sử các chúa và vua triều Nguyễn. Tư tưởng ấy chỉ đúng vào thời...mà nhà vua muốn gom góp, quy tụ toàn bộ sức mạnh mọi tầng lớp xã hội, đoàn kết nhất thống tất thảy mọi dị biệt của tư tưởng Nho, Phật, Lão... để chống thế lực xâm lược Nguyên Mông. Mục đích của lịch sử là đúng nhưng các thời đại kế thừa quan niệm ấy thì sai. Họ lặp lại tư tưởng của cổ nhân mà không chịu học hỏi, chiêm nghiệmchuyên sâu ba nền tảng giáo thuyết: chỗ nào là đồng, chỗ nào là dị?

    Sự tồn tại sai lầm ấy len thấm vào ca dao, tục ngữ, văn thơ, hội họa, kiến trúc và cả nơi chốn thờ phượng đã mấy thế kỷ rồi.

    Chúa Nguyễn Phúc Chu có lẽ là người Phật tử thuần thành nhất, thọ Bồ tát giới với Hòa thượng Thạch Liêm; nhưng Ngài có hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Có lẽ sự học Phật của ông ta cũng mơ hồ sắc sắc không không nên lẫn lộn giữa Phật và Đạo ngay chính nơi đạo hiệu của mình.

    Vua Thiệu trị đổ biết bao công lao, tâm huyết vẽ đồ họa kiến trúc và xây dựng tháp Phước Duyên... thì cũng xem Phật như ông thần hộ mạng là cùng!

    Vì lí do ấy, tất cả các chùa chiền trước năm 1945, và hiện nay còn rất nhiều chùa người ta thờ Phật chung với Thái Thượng Lão Quân, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Quan Công, Mẫu Vân Nương, Liễu Hạnh... đôi nơi thờ cả Tôn Ngộ Không!

    Các ngôi chùa vào thời đó, các phù điêu, họa tiết, bích họa, trang trí các hệ đề tài cũng thường lẫn lộn, không phân biệt rõ ràngđâu là biểu tượng của dân gian, biểu tượng cung đình, đâu là biểu tượng của Nho, của Phật, của Lão.

    Ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể về “bát bửu”. Bát bửu là tám vật báu có giá trị biểu tượng thường để chuyển tải một loại ngôn ngữ ẩn dụ kín đáo, mang chức năng truyền đạt quan niệm, sở thích, xu hướng lẫn cả tâm hồn của con người và thời đại, mà, các nghệ nhân thường đưa vào các kiểu thức trang trí tỉ mỉ, tinh vi, xảo diệu. “Bát bửu” ấy có Bát bửu của dân gian, Bát bửu của Nho, Bát bửu của Phật, bát bửu của Lão.

    - Bát bửu của dân gian: Viên ngọc, sừng tê giác, đồng tiền, cái gương, nút thiêng hình thoi, cuốn sách, ngọn lá thiêng, khánh đá.

    - Bát bửu của Nho: Cái bầu, thanh gươm, thảo sách, tháp viết, cuốn thư, chiếc đàn, cái quạt, chữ phất (phất trần).

    - Bát bửu của Lão: Cái quạt (của Hán Chung Ly), cặp roi (của Trương Quả Lão), thanh gươm và phất trần (của Lữ Đồng Tân), cặp sách (của Tào Quốc Cửu), bầu rượu (của Lý Thiết Quài), ống sáo của (Hàn Tương Tử), giỏ hoa (của Lâm Thái Hòa), đóa hoa sen (của Hà Tiên Cô).

    - Bát bửu hoặc bát cát tường của Phật: Dấu chân Phật, Pháp luân, cái lọng, đôi cá, hoa sen, chiếc tù và, cái tán, nút huyền bí. (3)

    Xem thế, vào các thời với quan niệm tam giáo đồng nguyên thì sự lẫn lộn các biểu tượng đưa vào họa tiết trang trí cũng là điều tất nhiên vậy.

    Các hệ đề tài thực vật, hoa lá, động vật, các bức bích họa cũng chịu chung số phận sai lầm lịch sử ấy.

    Ví dụ:

    - Những bức bích hoạ Mai, lan, cúc, trúc biểu tượng cho bốn mùa; bức tùng, trúc, mai là Tuế hàn tam hữu... có phải là của Phật không?

    - Quả bầu mang biểu tượng sung mãn và phồn thực theo quan niệm của dân gian, như là nguồn gốc của sự sống-có khác gì bầu rượu của Lý Thiết Quái, hồ lô của Đạo sĩ, và bình đựng nước cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm?

    Khái quát như thế để biết rõ những khó khăn phải vượt qua. Và trách nhiệm ấy là trách nhiệm chung, không phải chỉ riêng của ban trùng tu di tích. Là của tất cả chúng ta, con người Huế, tâm thức Huế, Phật giáo Huế.

    3. Thiên nhiên sông nước Huế, con người Huế và nghệ thuật Huế có màu sắc riêng.

    Khởi nguyên từ quan niệm âm dương (đen, trắng), ngũ hành, người Huế thường nói đến ngũ âm và ngũ sắc. Tuy nhiên, từ ngũ sắc Huế (cờ ngũ sắc, đèn ngũ sắc), người Huế đã phối hợp uyển chuyển, linh động, tài hoa các màu để không còn đâu là màu nguyên thủy mà trở thành màu của vật, màu của thiên nhiên hoa cỏ, màu của thời gian sương nước và màu của cả tâm hồn. Ở Huế có rất phong phú những màu: màu hoa cà, màu bông bí, màu bông bèo, màu lát gừng, màu da lang, màu hỏa hoàng, màu cổ đồng, màu nghệ, màu tường vi, màu mỡ gà, màu da trời, màu huyết dụ, màu bông lựu, màu nguyệt bạch, màu bình minh rạng v.v... Tất cả những màu ấy đều được đi vào đời sống văn hóa, y phục, ăn uống, thơ ca, hội họa, nghệ thuật trang trí. Cũng tùy thuộc bốn mùa, các lễ hội, dân gian, cung đình hay chốn thờ tự tôn nghiêm... mà người ta sử dụng màu sắc cho thích hợp. Đấy là cả một nghệ thuật. Đấy là cả một nếp sống, nếp nghĩ có văn hóa lâu đời.

    Chỉ nhìn màu sắc trang trí, người Huế biết đấy là của cung đình, của đền miếu hoặc của chùa chiền. Đến đây tôi muốn đề cập đến màu sắc trên các hoa văn, họa tiết tường vôi vữa của chùa Linh Mụ.

    - Tháp Phước Duyên được kiến tạo từ thời vua Thiệu Trị (1844), đến đây đã trải qua 160 năm. Theo một tác giả viết về chùa Linh Mụ, thì màu vôi quét ở đây rất lạ lùng: “Hiện trạng có nhiều màu rất khó tả: màu vàng, màu đỏ, màu da cam, màu khói, màu sương phủ, màu nước, màu mây, màu rêu, màu bồ hóng... chen lẫn nhau rất đẹp” (4)

    - Khi nói về màu sắc những cù dao trên góc mái đao, tác giả (sđd) viết: “những cù dao này đều được tráng men màu xanh ngọc, xanh biển, vàng, đỏ, trắng, tím theo kiểu hòa âm cùng màu (ton sur ton), độ nhạt làm nền, độ đậm vẽ lên trên thật đẹp. Màu men này cũng như màu men lục và men vàng ở bình Cam lộ trên chóp tháp, gọi là men Pháp lam... Muốn chế men Pháp lam, người ta phải nghiền các thứ đá màu ra thành bột, cho thêm một vài hóa chất như chromium, rồi phết lên trên đồ đồng xong đem nung đến gần 1000oC, màu bột đá sẽ chín và ăn chắc vào chất đồng không còn phai hỏng nữa”.

    Do đặc trưng về kiến trúc, về màu sắc... mà ngôi bảo tháp này chính là công trình văn hóa mỹ thuật đặc sắc, đặc trưng cho nền văn hóa Phú Xuân.

    Đấy là cái nhìn chân xác của các nhà nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật; nhưng với người dân Huế, những ai sống ở đây lâu năm thì màu sắc tháp Phước Duyên còn đa dạng, muôn màu, muôn vẻ hơn thế nhiều. Những ai từng dùng máy ảnh thu hình tháp Phước Duyên; những ai từng nhìn ngắm tháp Phước Duyên từ năm này sang năm nọ, qua bốn mùa, qua mọi thời tiết, sáng trưa, chiều tối, hoàng hôn, đêm trăng...; tùy nền trời, mây, sương, ánh sáng... thì tháp Phước Duyên luôn biến đổi màu sắc rất ảo diệu, rất lạ lùng. Dường như nó hòa nhập vào thiên nhiên để biến hóa sắc màu. Đây là một cái gì như từ thiên nhiên, vĩnh cửu mà mọc lên rồi nó cùng với tạo vật, con người, mây nước, trăng sương mà hiện hữu.

    Cái màu sắc ấy, không biết chúng ta phải phục chế, trùng tu, sơn quét làm sao?

    Kết luận

    Như thầy Trí Tựu nói: “Trùng tu chùa Linh Mụ là một nghĩa cử cao đẹp, không chỉ cho hôm nay mà còn cho nhiều thế hệ mai sau”. Đúng vậy. Nếu các nhà nghiên cứu, tư vấn, ban trùng tu lấy mẫu kiến trúc thời Thiệu Trị thì rất khó lòng, bởi ngay màu vôi thôi cũng phải mất nhiều năm nghiên cứu. Và, nếu lấy thời Khải Định làm điểm mốc thì toàn bộ kiến trúc, hoa văn, họa tiết, màu sắc cung đình ấy thật không thể phù hợp với ngôi chùa thờ Phật. Rồi phải điều chỉnh làm sao với những sai lầm do quan niệmtam giáo đồng nguyên với những lẫn lộn biểu tượng?

    Chúng tôi là tu sĩ, đại diện cho một số tu sĩ và Phật tử Huế; chúng tôi nhìn chùa Linh Mụ qua tâm thức và tâm hồn, qua giá trịtâm linh, thì:

    - Chỉ nên làm kiên cố lại những gì bị hư sập, mối mọt, đổ nát.

    - Bỏ đi toàn bộ hoa văn, họa tiết, phù điêu (nếu có), bích họa, các biểu tượng hoa lá, người vật, chim thú, phong cảnh.... không thích hợp với Phật giáo. Làm lại những gì của chính Phật giáo.

    - Nơi nào gỗ thì trả lại gỗ, nơi nào gạch bát tràng, gạch vồ xây, gạch men các loại, ngói v.v... thì trả lại nguyên trạng, đừng xi măng cốt thép.

    - Lúc sử dụng màu sắc sơn quét, phải phân biệt rõ đâu là màu sắc dân gian, màu sắc cung đình, màu sắc đền miếu và màu sắc chùa chiền. Màu Thiền môn là màu nhẹ nhàng, siêu thoát, tĩnh lắng, dung dị, màu hài hòa với thiên nhiên, sông nước, mây trời... và cả tâm hồn con người nữa.

    - Nếu cần sử dụng đèn chiếu sáng thì ánh sáng phải dịu nhẹ, ánh sáng ấy phải hòa nhập với không gian tôn nghiêm, cổ kính, tĩnh mặc...

    - Tháp Phước Duyên không có cột thu lôi nên bị sét đánh năm 1908; nếu cần thiết phải làm cột thu lôi thì tìm cách che dấuđừng để lộ liễu hoặc làm hỏng bình cam lồ tịnh thủy.

    - Nếu sơn quét tháp Phước Duyên thì phải đắn đo, thận trọng, từng mảng rêu phong đâu đó cần được bảo vệ chứ không nhất thiết phải cạo sạch nhẵn bóng. Đừng biến cái tháp Phước Duyên muôn màu, muôn vẻ, linh động, đa dạng đã ăn sâu trong tâm hồn người dân Huế thành một ngôi tháp tân trang, hiện đại nhưng vô cảm, vô tình.

    Mong rằng, thế hệ mai sau còn biết đến chùa Linh Mụ, có tháp Phước Duyên soi bóng giữa dòng Hương. Có cái gì đó vẫn uy nghi và mơ mộng; vừa huyền thoại vừa sử thi; vừa cổ kính trang nghiêm vừa dịu dàng khiêm tốn; dẫu thản nhiên, tĩnh định mà dạt dào tình cảm; vừa thiêng liêng huyền bí mà cũng rất gần gũi với nhân văn, nhân tình... Nó không chỉ đại biểu cho nền văn hóa Phú Xuân mà còn trở thành biểu tượng của Huế, biểu tượng cái đẹp thơ mộng của non nước Thần Kinh; biểu tượng của Phật giáo Huế; là miền tâm thức và tâm hồn của người dân xứ Huế nữa vậy.

    Người ta nói rằng: văn hóa là cái gì còn lại sau khi đã quên tất cả. Chúng tôi còn muốn nói thêm rằng: Mỹ học, cái đẹp, phải có chân, thiện hướng dẫn. Mỹ học ấy phải đi vào lòng người, cùng với tâm hồn, tâm linh hòa nhập như một nhịp đập của trái tim. Và nó phải vượt thời gian, vượt mọi biên tế, phạm trù.

    Huyền Không Sơn Thượng
    Sơ xuân Giáp Thân
    Minh Đức Triều Tâm Ảnh

    [1] Tạp chí nghiên cứu và phát triển, số 4-5, 2003

    [2] Lấy ý trong sách "Chùa Linh Mụ" của Hà Xuân Liên, trang 186

    [3] Xem Mỹ Thuật Huế của Nguyễn Hữu Thông, NXB Thuận Hóa năm 2001
     
  6. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”- Kì vĩ Hoành Sơn Quan



    Năm 1558, sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc, Nguyễn Hoàng - con trai của Nguyễn Kim sợ anh rể là Trịnh Kiểm ám hại đã đến hỏi Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm kế sách dung thân. Bỉnh Khiêm không đáp mà chỉ vào non bộ trước sân nhà, ngâm câu thơ "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân"*Hoành Sơn Quan qua góc nhìn nghệ thuật

    [​IMG]
    Hoành Sơn Quan qua góc nhìn nghệ thuật





    Xuôi theo Quốc lộ 1A qua địa phận Hà Tĩnh, cảnh sắc thay đổi đột ngột bởi một dãy núi cao cắt ngang hình thái địa lý bằng phẳng và xuôi chiều theo hướng Bắc - Nam vốn rất quen thuộc ở vùng đất duyên hải Bắc Trung bộ.
    Hoành Sơn (dãy núi Ngang ) nằm phía nam huyện Kỳ Anh (nay là thị xã Kỳ Anh),dài 50 km, chạy từ dãy Trường Sơn ở phía tây ra Biển Đông. Đỉnh cao nhất trong dãy núi có độ cao tuyệt đối là 1044m. Xưa nó là biên giới tự nhiên giữa hai quốc gia cổ Việt - Chiêm, nay là địa giới hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình. Khối núi này chiếm diện tích 1.500 km2, kéo dài từ phía tây Vọng Liệu, Kỳ Anh - Tuyên Hoá, Quảng Bình đến mút phía đông là mũi Đao, mũi Độc (Kỳ Nam). Núi chỉ có độ cao trung bình 400m, nhưng cũng có đỉnh cao tới 646m (như Động Nậy), hoặc 823m (ngọn Ba Cốc)

    [​IMG]
    Ảnh: Instagram

    Hoành Sơn cũng là biên giới khí hậu bắc - nam. Phía Hà Tĩnh, mùa đông có gió mùa đông bắc mạnh, còn mùa hè gió Lào dữ dội, lượng mưa rất lớn 3.000 mm/năm. Trong khi đó, Quảng Bình chỉ cách 10km mà gió mùa rất yếu...Do điều kiện khí hậu, cây cỏ phát triển nhanh và mạnh. Ngày xưa toàn bộ dãy Hoành Sơn bao phủ một thảm thực vật dày đặc, những cánh rừng bạt ngàn. Dưới lớp rừng ấy là đủ loại động vật quý: voi, hổ, tê, ngựa, hươu, nai, gà lôi, công, trăn, rắn,.. "nhưng qua thời gian rừng đã bị tàn phá, khai thác, bây giờ chỉ còn lại lau và cây bụi khô cằn, mọc trên đất đỏ vàng, che lấp những miếu nhỏ, những thành lũy đổ nát ngày xưa còn lại" (Thiên nhiên Việt Nam - SĐD).Ngày nay, những rừng thông, rừng gỗ mới trồng đã bắt đầu trải màu xanh trên mái núi.

    [​IMG]
    Đường lên Hoành Sơn Quan

    Sử sách còn ghi, năm 1833 vua Minh Mạng cho xây Hoành Sơn quan trên đỉnh đèo Ngang, cửa cao 4 m, hai bên có thành dài 30 m, ở trên cổng đắp nổi ba chữ “Hoành Sơn quan”.
    Mở về hai phía, có 1.000 bậc thang lên xuống do thợ xẻ núi tạo thành. Khách bộ hành qua lại bằng lối này và thuộc nằm lòng câu ca: “Trèo đèo hai mái chân vân/ Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đứng ở đây nhìn về Quảng Bình hay Hà Tĩnh đều chiêm ngưỡng được nhiều cảnh đẹp, khiến lòng bồi hồi khó tả.
    Nếu so với những tường thành khác trên dọc dài bắc nam như Hải Vân, đèo Cả thì có thể nói độ lớn và hùng vĩ của Hoành Sơn không thể sánh bằng. Nhưng đèo Ngang có những mạch nguồn cảm xúc độc đáo và đi vào thơ ca bởi những danh sĩ tài hoa như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan... Trong đó, nhiều người biết đến tuyệt phẩm “Qua đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan với những câu thơ quen thuộc: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà/Cỏ cây chen đá, lá chen hoa…”.

    [​IMG]
    Du khách thích thú chụp hình lưu niệm trước Hoành Sơn cổ kính

    Nằm trên biên giới Việt - Chiêm thời xa xưa rồi thời phân tranh Trịnh - Nguyễn, và sau này là vị trí quân sự hiểm yếu, Hoành Sơn luôn luôn là đất chiến địa, đất của gươm đao, súng đạn. Suốt trong quá trình lịch sử, cho đến những ngày chống Mỹ, ở đây không mấy buổi được yên. Huyền thoại về công chúa Liễu Hạnh cũng dựng lên hình ảnh cuộc đấu giữa bà chúa Liễu với Bát bộ kim cang...Nhưng luôn luôn Hoành Sơn vẫn là một danh thắng nhất nhì ở Nghệ - Tĩnh, với cảnh đèo Ngang kỳ tuyệt, với "luỹ cổ Lâm Ấp" đồ sộ, với cửa quan Hoành Sơn, với bảo Thống Lĩnh (Xuân Sơn) Phạm Quý Thích (1760 - 1825) có câu thơ về cảnh thiên nhiên bao la (TKĐ dịch):
    "Cát trắng mênh mông, mây cát sôi Ngàn xanh thăm thẳm, bể xanh trôi..."
    Và cụ Nghè Huỳnh Thúc Kháng (1876- 1947) cũng có bài thơ "Qua núi Hoành Sơn" với mấy câu :
    "... Một đường xe điện dừng không đứng, Hai cánh rừng cây dậy muỗi bay. Thử hỏi nghìn năm hồn nước cũ Hồng Lam danh thắng vẫn xưa nay"

    [​IMG]
    Góc nhìn từ Hoành Sơn Quan


    Thỏa thuê dạo bước Hoành Sơn, trải nghiệm một cung đường đèo Ngang đẹp như tranh thủy mạc, mãn nhãn với thiên nhiên thủy tú. Dù chia tay cung đèo để vào Nam hay ra Bắc thì ở cả hai phía chân đèo đều có những bãi biển nhỏ nhắn, xinh đẹp và xanh mát. Dưới chân dãy Hoành Sơn về phía Bắc có bãi tắm Đèo Con sạch đẹp, bãi cát dài thoai thoải, mát mẻ và kín gió, những ngọn núi với hình thế đặc biệt như núi Cao Vọng, núi Ô Tôn, núi Bàn Độ, Vũng Áng tạo nên quần thể danh thắng mang một vẻ đẹp riêng không kém phần hấp dẫn.
    Những bãi tắm nhỏ, hoang sơ cùng rất nhiều món đặc sản biển tươi nguyên hấp dẫn sẽ là nơi dừng chân lý tưởng cho những du khách dừng chân nơi đây.

    *: Theo sử sách, câu nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn dĩ là: “Hoành Sơn nhất đaí, khả dĩ dung thân”, nhưng nhà Nguyễn muốn tỏ ý thiên mệnh là vua của mình nên đổi thành “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
     
Moderators: rhea, thuannguyen1088
: vctvegroup

Chia sẻ trang này