Mời soát lỗi chính tả Nguyễn Khuyến tác phẩm

Thảo luận trong 'Wiki' bắt đầu bởi 4DHN, 17/9/15.

  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    P16
    :rose:

    Ngôi buôn dựa cửa sổ phòng sách hé mở.

    Tiếng ốc năm canh dứt, hoa như ứa nước mắt,

    Mây mù ngàn núi tan đi, cánh nhạn mới bay về. Nghiêng chén uống tràn, một mình mặc sức tỉnh say, Đắc ý hát ngao, mong tìm thấy điều phải trái.

    Đáng giận chúa xuân đã đi rồi,

    Mà con oanh vàng vẫn uổng công tiếc nhớ hương sắc.

    Dịch thơ:

    Gió đông phất phất, mUa thê,

    Cửa , hên song dạ não nề.

    Trống điểm tàn canh, hoa ứa lệ,

    Mây tan đầu núi, én bay về.

    Nghiêng bầu uống tít riêng say tỉnh,

    Đắc ý ngâm tràn gẫm thị phi.

    Giận bấy, chúa xuân đi đã dứt,

    Cái oanh thương tiếc sắc xuân chi?

    NGUYỄN VĂN HUYẾN dịch

    Chú thích:

    (1) Bai này cả năm vần cùng một âm vận, nhưng nghĩa khác nhau.

    (•)

    101. BÀI MUỘN - r

    Nam son viễn viễn hiểu lôi minh,

    Tự huóng nhân gian tô” bất bình.

    Nhất nhất điện quang thiên hữu thuấh, Tài qua phong tín trúc vô thanh.

    Bồn gian thử tổ sân nùng đạm,

    Dã ngoại cuu phu đô vũ tình.

    qiiĩ

    Trì tửu cách ly đối lân tẩu,

    Hà phường trách trách thoại tang canh.

    (A.3160)

    GIẢI ỒUỔN - I

    ớ mạn núi Nam sơn, xa xa có tiếng sấm ran buổi sớm,

    Tựa hồ như hướng về nhân gian, tố cáo nỗi bất bình.

    Điện lóe ra một tia sáng, tưởng như trời chóp mắt,

    Cơn gió qua rồi, tre lại im lặng không có tiếng nữa.

    Trong chậu, ông chuột kêu ca thức ăn mặn nhạt,

    Ngoài nội, anh chàng cưu ghen với nắng mưa^^\ ớ bên này giậu, cầm chén mòi ông già hàng xóm,

    Nói chuyện tràn về trồng dâu cấy lúa, thế mà lại hay.

    Dịch thơ:

    Sáng nay sần động tự non xa,

    Như tỏ căm hòn với chúng ta.

    Chóp lóe ứòi như đang nháy mắt,

    Gió un trúc lại lặng như tờ,

    Quanh nồi chú chuột chê nồng nhạt Ngoài nội chàng cuu gắt nắng mua.

    Cách giậu mòi ông hàng xóm chén,

    Chuyên tràn thóc lúa với tằm !

    NGUYỄN VĂN TÚ dịch<*^

    Chú thích:

    (1) Chim cưu hễ trời mưa thì đuổi vợ đi, nắng lại gọi vợ về. Ngạn ngữ Trung Quôc có câu: “Curu phụ tình” (vợ chim cuu gào nắng) vì nắng thì không bị chổng đuổi đi.

    102. BÀI MUỘN -

    Ngũ thập suy niên bạch phát tân,

    Bất kham ưu bệnh thả ưu bần.

    Hoa hiên nguyệt ảnh tri phi khách,

    Trúc kính phong thanh nghi hữu nhân. Nhất chẩm hoàng lương chân diệc mộng, Thiên niên khử hạc ngã hà thân?

    Tọa khan khước tiễn phiến trung lão,

    Ý thụ hàm bôi bất kế xuân.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    GIẢI ỒUỔN - n

    Tuổi năm mươi đã già yếu, tóc bắt đầu điểm bạc,

    Chỉ những lo ốm lại lo nghèo, khó lòng chịu nổi.

    Thấy bóng trăng ở giàn hoa biết rằng không phải khách,

    Nghe tiếng gió ở hàng tre, ngờ là có ngưòd.

    Một giấc kê vàng, sự thật cũng chẳng qua là mộng^*\

    Nghìn năm hóa hạc bay đi, thân ta sẽ là thân nào^^^

    Ngồi nhìn, lại thích cái ông già vẽ ở trong quạt,

    Chỉ tụa cây nâng chén, không tính bao nhiêu mùa xuân.

    Chú thích:

    (1) Giấc vàng: Truyện truyền kỳ đồi Đường có chép: Lu sinh, gặp một ông đạo sĩ ở quán Hàm Đan, phàn nàn nghèo túng. Đạo sĩ đua cho một chiếc gối và bảo sinh gôi đầu nằm ngũ. Trong khi dó, chủ quán đang ngồi nấu kê. Sinh nằm mộng thấy lấy được vọ đẹp và giàu, thi đỗ làm quan to, cực kỳ phú quý, đến năm 80 tười mới chết. Lúc tỉnh dậy, vẫn thấy chủ quán ngồi nấu kê chưa chín, Sinh kể lại giấc mộng, đạo sĩ cười bảo Sinh rằng: “Cuộc đòi cũng chỉ như thế đấy thôi!”.

    (2) Hóa hạc: Đinh Lệnh Uy đòi Hán, học đạo ở núi Linh Hư, sau hóa thành hạc, trở về đất Lưu, bay liệng trên không, đọc lên mây câu thơ rằng;

    Hữu diểu, hữu diều Đinh Lệnh Uy,

    Khứ gia thiên niên kim thủy qui.

    Thành quách như cổ, nhân dân phi,

    bắt học tiên, trủng luy ỉuy?

    Tạm dịch:

    Có chim, có chim Đinh Lệnh Uy,

    Xa nhà nghìn năm nay mới về.

    Thành quách như cũ, nhân dân khác, Sao không học tiên, mà lề xe?

    103. ư SẦU

    Dục phế Thi Thư học Lão Trang, Tiền nhân y bát thượng nan vương. Bách niên chỉ thử vi tâm huyết,

    Nhất nhật an năng dịch thận trường. Phương kiến hoành diên đại khai tịch, Vị tri thiên địa bất hồng hoang.

    Dĩ tai ngô thả hàng ngô tô”,

    Tiêu tức doanh hư tử tế lường.

    (THT)

    Dịch xuôi:

    ư ỒẦU

    Muốn bỏ Thi Thư, học đạo Lão-Trang^^\

    Song đạo truyền thống cha ông khó mà quên được. Trăm năm lấy đó làm điều tâm huyết,

    5Ĩ1Q

    Một ngày sao thể thay đổi tấc lòng.

    Đang thây vũ trụ mở mang ghê gớm,

    Biêt đâu đât trời lại trở lại thuở hồng hoang^^l Thôi thôi ta hãy làm theo cái chí vón có,

    Phải lường cho kỹ mọi lẽ tuần hoàn, lúc đầy lúc vod, khi suy khi thịnh

    Dịch thơ:

    Muốn bổ Thi Thư học Lão-Trang,

    Cha ông truyền thống bỏ sao đang.

    Trăm năm tâm huyết như thể,

    Một sớm can tràng đổi được chăng.

    Đây đó gờm thay ccm tiến hóa,

    Xa gần sao vẫn cảnh hồng hoang.

    Thôi đành chí theo đường ,

    Tính cuộc đầy voi phải ìỹ càng.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) Thi, Thư: tik Kinh Thi, Kinh Thư, hai bộ sách kừih điển cơ bản của Nho học. Đây muôn chỉ đạo Nho nói chung.

    Lão-Trang: tức Lão Tử, Trang Tử, hai triết gia thời Xuân thu Chiến quốc, có khuynh huớng yếm thế thoát ly.

    (2) Cả hai câu có hàm ý: thục dân Pháp càng tiến hành công cuộc “khai hóa”, thì đất nước ta, nhân dân ta càng trờ nên man dã.

    104. ĐỘC ĐỊCH^*^

    Đông nhật tranh như hạ nhật trường, Nam phong hoàn hữu bắc phong lương. Tự vi khả khẩu, si sân phượng,

    Bất tận cơ tâm, tước bộ đường.

    Hải vũ nhược khai tân thế giới,

    Dân phong ung nhập cổ hồng hoang. Thanh thần độc khỏi quan Chu Dịch, Tiêu ức doanh hư vị dị tường.

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    DỌC KINH DỊCH

    Ngày mùa đông tranh dài bằng ngày mùa hè,

    Gió nồm qua rồi lại đến gió bấc lạnh.

    Cú gầm ghè phượng hoàng, tự cho là mình có miếng ngon^’\ Sẻ bắt bọ ngựa, cơ mưu đời không lường hết được^^l Vũ trụ hình như mở ra một the giód mới,

    Dân phong tựa như trở lại đời hồng hoang^^l Sáng sớm dậy, một mình xem kinh Chu Dịch^'^^

    Cái lẽ đầy, vơi, suy, thịnh, chưa dễ hiểu được^^^.

    Dịch thcr.

    Ngày đông ngắn, ngày he dặng dặc, Gió Nam qua, gió Bắc tiếp theo. Được mồi, thẩy phượng kêu,

    Sẻ rình bọ ngựa, mưu khôn lường. Thể giói tựa bước sang hội mới,

    Dân phong như ưở lại hổng hoang. Sáng đem kinh Dịch xem tưỉmg.

    Đầy vơi tạo, de lường được đâu.

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

    Chú thích:

    (1) gầm ghè phượng hoàng-, sách Trang Tủ‘. Chim uyên sổ là một loại phượng hoàng, àn uống rất thanh. Một hôm cú kiếm được con chuột thối, gặp khi uyên sồ bay qua, cú tưởng là uyên sổ

    đên tranh của mình, ngửa lên mà gầm ghề với uyên sồ. Câu này chê những kẻ chỉ bo bo giữ lấy cái mồi phú quý thối nát, tuởng những người cao thuợng cũng ham muốn như mình.

    (2) Chim sẻ vồ bọ ngựa: sách Ngô Việt Xuân thu có chép; con ve đậu dưới bóng mát, thích ý đang kêu. Một con bọ ngụa lại nấp sau rình bắt ve, lại có con chim sẻ rình bắt bọ ngiỊa. Một nguài lại nấp sau định bắn chim sẻ, người này vì chú ý dến chim quá, thành ra sa chân xuống hô”. Câu này ý nói: để ý vào lợi trước mắt mà quên những môl nguy sau lưng.

    (3) Hồng hoang: đời thượng cổ khi mới có loài người.

    (4) Chu Dịch: tiíc Kinh Dịch.

    (5) Đầy, voi, suy, thịnh: theo triết của Nho học thì lẽ trơi đất có khi lớn lên, khi tiêu đi, khi thịnh, khi suy.

    105. ĐỌC KIẾM NAM THI TẬP**’

    Thi tập hành ngâm tửu úng biên,

    Bất thăng thán tuỏng thị ông hiền!

    Cao ngâm đại túy tam thiên thủ,

    Đoạn giản tàn biên ngũ bách niên.

    Lão bệnh bất vi đuong thế dụng,

    Văn chuông do hữu hậu nhân truyền. Thiệu Hung khanh tuóng kim an tại? Nguyệt hạ trầm ngâm nhất sảng nhiên.

    (A.469, A.3160)

    Dịch xuôi:

    DỌC TẬP THƠ KIỂM NAM^I^

    Giở tập thơ ra đọc ở bên vò rượu, Không ngớt khen ngợi ông này tài giỏi,

    Ngâm tràn say khước mà thành được ba nghìn Tờ đứt, quyển nát còn mãi đến năm trăm năm.

    Thân già yếu không được dùng ở đời bấy giờ,

    Nhưng văn chương của ông vẫn được người sau truyền tụng.

    Không biết khanh tướng đòi Thiệu Hưng nay ở đâu^^\

    Ngồi trầm ngâm với tập thơ duứi bóng trăng, chỉ những bùi ngùi

    thương xót.

    Dịch thơ;

    Tập thơ bên rượu nồng. lOien thay cụ Lục Phóng ông thực hiền.

    Ba nghìn bài trước ngâm tràn.

    Năm trăm năm, quyển sách tàn còn đây.

    Sinh th'ơi sự nghiệp không may,

    Văn chương truyền đến mai ngày về sau.

    Công khanh Nam Tống nay đâu? Dưới trăng ngẫm nghĩ sầu cho ai.

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch<*^

    Chú thích:

    (1) Thơ Kiếm Nam: tập thơ của Lục Du, Du hièu Phóng ổng nhà thơ yêu nước thời Tống. Lục Du ở đât Thục mười nảm, thích phong cảnh ở phía nam Kiếm Các, nên đặt tên cho tâp tho của mình là Kiếm Nam thi cảo.

    (2) Nguyên văn lấy câu ở bài Độc bạch tập cùa Trinh Cốc.

    Hà sự Văn tinh dữ Tửu tinh,

    Nhất thơi chung tại Lý tiên sinh.

    Cao ngâm dại túy tam thiên thủ,

    Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh.

    Tản Đ'a dịch;

    Có chi sao Rượu sao Văn,

    Đúc nên một Lý tiên sinh b đời?

    Ba nghìn say đọc nên bài,

    Nghìn thu bạn với trăng trồi sáng soi.

    (3) Thiệu Hung niên hiệu của Tống Cao Tông, thoi Lục Du sống

    106. ĐỘC ĐÀO xNGƯYÊN KÝ HỮU CẢM

    Đào Nguyên nguyên tận cánh phùng son,

    Đả phá tiên cung đệ nhất quan.

    Ngũ bách chí kim vô tín tức,

    \

    )

    Thử trung hà sự vấh lao nhàn.

    Trầm ngâm đăng hạ thiên bôi túy,

    Hoảng hốt vân biên độc hạc hoàn.

    Khả hận Đưòng Ngu nhân bất kiến,

    Vãng lai chỉ thị Tấn, Tần gian.

    (A.469, A.3160)

    Khảo dị:

    (a) A.469: Thử trung hà tự vấn lao nhàn

    (b) A.3160: Hoảng hốt vân gmn độc hạc hoàn

    Dịch xuôi:

    CẢM XÚC KHI DỌC DÀO NGUYÊN KỸ

    Đi hết nguồn Đào, lại gặp núi non,

    Đã mở được nủa cửa thứ nhất vào trong động tiên.

    Năm trăm năm, đến lúc này không có một tin từ ngoài đưa lới, ớ bong đó, việc gì phải hỏi có nhàn hạ hay không?

    Trầm ngâm dưới đèn uống ngàn chén ruợu say sưa,

    Bảng lảng bên mây riêng một hạc bay về.

    Đáng giận chẳng thấy người Đường Ngu đâu cả^^l Qua lại, chỉ rặt những người Tấn, người Tần^^l

    Nguồn Đào, suối hết ỉại non khơi,

    Cửa tới cung tiên đã mở rồi,

    Chốn ấy, bận nhìn không tính toán,

    Năm trăm xuân hạ bặt tăm hơi.

    Trầm ngâm say ỉả bên đen tỏ,

    Bảng lảng quay về bống hạc côi.

    Đảng giận, Đưừng-Ngu người chẳng thấy, Lại qua chỉ thấy Tấn-Tần thôi.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) Đào nguyên : Bài Nguồn dào, một tác phẩm của Đào Tiềm, kể chuyện một người câu cá lạc lối vào Nguồn đào. ó đó, thấy nguôi cày cấy, trai gái đi lại rất vui. Các ông già râu tóc bạc phơ ra đón, tự nói là ông cha họ lánh nạn nhà Tần chạy vào đây và hỏi chuyện bên ngoài. Nguời câu cá kể cho họ biết bây giơ đã là nhà Tấn, từ thời Tần đến đấy đã 4 - 5 trăm năm rồi, nhiều cuộc đổi thay, họ không hề biết.

    (2) Đường - Ngu: đồi vua Nghiêu, Thuấn, tuong truyền là thịnh trị.

    (3) Tấn, Tấn: hai triều đại có nhiều loạn lạc.

    107. XUÂN HỨNG

    Ngô niên ngũ thập lục chi niên, Hàn vũ vi phi nhị nguyệt thiên. Túy đảo ngữ ngôn vô khúc bộ, Lão lai bì cốt hữu sơn xuyên.

    Cô hồng hoảng hốt quá trì ảnh, Bạc mộ mông lung phù trúc yên.

    Phú quý chỉ kim phi ngã phận,

    Bất phường ngột tọa nhất đồi nhiên.

    (A.469, A.3160)

    Dịch xuôi:

    HÚNG XUÂN

    Tuổi ta là tuổi năm mươi sáu^*\

    Mưa lạnh lất phất, trời đang tháng hai.

    Say khướt nói năng không còn mạch lạc,

    Già rồi, xương da nhăn nheo, lồi lõm như núi với sông, Bóng chim hồng cô đơn thấp thoáng qua ao,

    Khói chiều mơ màng trôi trên ngọn trúc.

    Ngày nay, giàu sang đâu phải ở phần ta,

    Cho nên ngồi ngất ngưởng một mình cũng chẳng hề gì.

    )(a)

    108. XUÂN NGUYÊN HỮU CẢM - r’

    Tân tuế phuong lai cựu tuế chu,

    Quần thương giai uyển ngã hà khô? Tự liên vãn tiết cân hài quyện,

    Bất giác nhân gian nhật nguyệt tù.^^ Vô lịch ná tri thư Giáp tý,

    Hữu cùu vị cảm độc Xuân thu.

    Thử âm đĩ hĩ vô tha lự,

    Huề ữuọng liêu vi hãn mạn

    (A.3160, NKT)

    Khảo dị;

    ía) A.3160; Xuân thủ cảm.

    (b) A.3160: Bất giác nhân gian nhật nguyệt du 326

    (c) Bản NKT: Huề trượng liên vi lạm mạn du

    (*) Bản chép trên theo TVNK vì liên can đến thơ dịch.

    Dịch xuôi:

    CẢM NGffl ĐẨU XUÂN - I

    Năm mới đuơng đến, năm cũ đã hết,

    Mọi hoa đều tuưi, sao riêng ta héo?

    Tự thương mình tuổi già gân cốt mỏi,

    Không ngờ trong đời nguời, ngày tháng gấp rút như thế. Không có lịch, biết đâu mà ghi được “Giáp tý”^'^

    Kẻ thù còn đó, chưa dám đọc kinh Xuân thu^^^.

    Tấm lòng này the là thôi, còn nghĩ gì đến việc khác nửa. Âu là chống gậy đi chơi lang thang vậy.

    Dịch tha

    Năm mới đến, năm qua,

    Mọi người vui vẻ, sao ta riêng buồn.

    Thương mình gân cốt hao mòn, Nào hay ngày tháng cứ vùn vụt đi.

    Lịch đâu Giáp ^ ghi,

    Kễ thù còn đó. đọc Xuân thu?

    Lòng đà dứt mọi mối lo,

    Âuchống gậy ngao du cho rồi.

    Đỏ NGỌC TOẠI dỊCh

    Chú thích:

    (1) Giáp : hai chữ đứng đầu can và chi dùng để ghi nám, tháng, ngày theo âm lịch. Đào Tiềm, đoi Tấn, khi Tàn mất, Tống lên thay, Đào Tiềm không dùng niên hiệu nhà Tống, chĩ tính Giáp tý mà ghi năm, tháng thôi. Tác giả mượn tích đó mà chỉ vào thân thể của mình: Nước mất, vua không còn ban lịch nữa, không biết dâu mà ghi Giáp tý được.

    (2) Khổng tử làm kinh Xuân thu, nêu cái đại nghĩa tôn nhà Chu, biếm những kẻ thù nghịch với nhà Chu. Tác giả sống trong thời kỳ nước ta bị Pháp xâm chiếm. Pháp la kẻ thù của ta, tác giả đã không làm được như Khổng tử, tự cho là đáng thẹn, nên nói: không dám đọc kinh Xuân thu.

    109. XUÂN NHẬT HỮU CẢM -

    í

    Xuân phong, xuân vũ, nhất son cô, Trù truóng kim ngô phi cố' ngô. Hàm tự hữu thư, hà đốt đốt,

    Tửu tuy vô phẫu diệc ô ô.

    Động dao bạch ngân, nha tương lạc, Tữ tước hoàng ngưu, nhục vị thù. Tạc nhật văn la phù trượng khỏi, Tiền cầm cE dữ ấp nhân khu.

    (A. 469)

    Dịch xuôi;

    CẢM NGffl NGÀY XUÂN

    Ngày xuân mưa gió, một ngọn núi vẫn đúng chơ vơ,

    Ngao ngán cho ta ngày nay không như ta ngày trước!

    Phong bì có thư cẩn thận rồi, chi phải viết chữ “đốt đốt”^^\

    Rượu không có hũ gõ, cũng cứ hát “ô

    Trên lợi, những chiếc răng lung lay sắp rụng,

    Miếng thịt bò còn nhai được, chưa thấy gì khác.

    Hôm nọ nghe cồng làng, cũng vác gậy đứng dậy,

    Cùng người ương làng đi khua chim^^l

    Gió mừa, ngọn núi đứng chơ ,

    Ngao ngán ta nạy đã khác xưa.

    cố thư rồi, chi thắc mắc,

    Say không , cứ u ơ.

    Chiếc răng hàm lỏng chưa rơi hẳn. Miểng thịt nhai chửa chịu thua. Hôm nọ, săn chim nghe tiếng lệnh, vẫn cùng làng nước khắp nơi khua.

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch<*)

    Chú thích:

    (1) “Đốt dốt”: tiếng phát ra khi thấy một việc lạ. Ân Hạo đời Tấn đi đánh giặc bại trận bị Hoàn ôn cách ch^íc, lây làm biic tik, suốt ngày cứ lấy tay vẽ trên khoảng không bốn chữ “dốt dốt quái sự!” (chà chà việc lạ!). Sau Hoan ôn lại định cho làm quan nhxmg khi Hạo viết thư cho ôn, vì cẩn thận quá, thư cho vào bì rồi, lại mở ra xem lại nhiều lần, cuôi cùng gửi phong bì không, ồn bèn thôi không dùng nữa. Câu này ý nói không thiết gì danh lợi, nên không tiíc bực gì cả.

    (2) “0 ô”: Dương Vận đời Hán bị bãi quan mỗi khi uô”ng rượu say lại gõ vào hũ mà hát tiếng “ô ô”. Câu này ý nói không có quan ch\k gì thì càng được phóng túng.

    (3) ở Yên Đổ ngày ấy có lệ sáng mồng hai tết, cả làng ra vây đuổi cuốc ở cánh đồng.

    110. VŨ HẬU XUÂN TÚY CẢM THÀNrf*‘

    Khứ thu Định doãn Phất y hồi,

    Kim nhật Xuân thuDng giả tổ lai.^^^

    Khả hạnh chư quân năng dũng thoái.

    VỊ ung nhất chúc tẫn phi tài.

    Bách niên hiên tử hà vi giả,

    Ngô âp khâu lăng diệc mỹ tai!^’’^

    Lão bệnh vô năng duy hữu túy,

    Phù vân tán tận bắc song khai.

    (A. 469, A. 3160)

    Khảo dị:

    (a) A.3160: Kim nhật Xuân Trường giải tổ lai

    (b) A.3160: Ngô ấp khâu khê diệc mỹ tai

    Dịch xuôi:

    CẢM HOÀI TDONG ỒỮA CHÉN XUÂN, ỒAU CON MUA

    Mùa thu năm ngoài, ông huyện Trực Định đã giũ áo ra về, Ngày nay ông Thương Xuân Trường lại buông dải ấn nghỉ việc. Đáng mừng các bạn biết mạnh dạn lui về,

    )

    Đâu phải là đối với chức vụ mình không làm nôi.

    Cuộc đòd trăm năm xe ngựa có là trò gì,

    Mà ở quê chúng ta gò suối vẫn tươi đẹp lắm.

    Ta nay già yéu không làm gì được nữa chỉ có chén thôi,

    Khi mây nổi tan hết, thì cửa sổ hướng bắc mở toang ra.

    Dịch thơ:

    Thu qua hác Huyện bổ về rồi,

    Nay đến ông Thương cũng tháo lui. Mừng thấy các ông lùi bước mạnh, Phải đâu một chức kéĩĩi ai tài?

    Ngựa xe mai mốt còn chi mãi?

    núi quê ta ngắm vẫn tươi.

    Già mọi sự hèn, riêng chén,

    Vẩn mây tan sạch, mả song chơi.

    ĐẶNG ĐÚC TÔ dịch^*^

    (1) Huyện Trục Định: tên một huyện cũ ở tỉnh Nam DỊnh lúc ấy. Nay là huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

    (2) Xuân Trường: tên một phủ ở Nam Định lúc ấy. Thương: thuong biện, một chik quan hàng tỉnh lúc ấy.

    111. XUÂN HÀN CẢM THÀNH^*^

    Thụy khỏi hàm bôi mạn tự thương, Xuân hàn sơ quá tiểu phong lương. Chiếu nhan bất giác đầu tương bạch, Phách thủ thiên nghi hạng dục cường. Triều chính hỉ đa hiền nhạc mục, Thuần phong ung nhập cổ hồng hoang. Hạnh dung nhất giói bồng cao ngọa, Phầu ẩm, ô tôn dã bất phương!

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    NHÂN TỂr XUÂN LẠNH. C\M xúc

    Ngủ dậy, nhấp chén rượu mà tự thương mình,

    Khí xuân lạnh vừa qua, lại một làn gió mát đưa đen.

    Soi gương chợt thấy đầu đã sắp bạc,

    Vỗ đầu tưởng như cô muốn cứng.

    Chính sự triều đình mừng rằng quan trường lắm bậc hiền lài”^ Phong tục thuần phác tưòng như ườ lại dồi hồng hoang!

    Tấm thân may còn được nằm yên ương túp cỏ,

    Chum đào, nước bốc cũng chẳng hề chi‘^^!

    Sáng ra nâng chén những buồn rầu, Xuân lạnh vừa qua, gió tiểp sau.

    Vo trán tưởng như người cứng cổ,

    Soi gương ngấn nỗi tuyết phơ đầu. Quan trường lắm bậc hiền minh nhỉ! Phong tục như đĩrì thái cổ nào!

    May được tấm thân nằm túp cỏ,

    Chum đào nước bốc sao đâu?

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch^*^

    Chú thích;

    (1) Bậc hiền tài: nguyên văn “nhạc, mục”. Kinh Thư chép: đòi vua Nghiêu, vua Thuấn, trong triều có bốn quan nhạc để trông nom mọi việc; ở các châu có mxiòi hai quan mục để chăm sóc dân. Vì vậy, nhạc mục để chỉ chung các quan trong triều đình và ngoài địa phuong.

    (2) Chum dào nước bốc: đào lỗ ở duói đất để làm chum vại, lấy tay vốc nước mà uống.

    112. XUÂN BỆNH - I

    Nhiễu nhiễu phong trần nhất hủ nho, Nhàn lai ngô tự kiến chân ngô.

    Phù danh hữu hạnh do tiên cái,

    Thực lục phi tài thượng nhuọng nô. Bán chẩm quan không thiên địa khoát, Nhất song cao ngọa tính tình cô.

    Sầu miên lãn dục thôi khâm khỏi, Sương áp thần quan đạm nhược vô.

    (A. 469)

    MÙA XUÂN, BỊ ỐM - I

    Chỉ là một hủ nho trong cảnh nhiễu nhương gió bụi,

    Rảnh rỗi ta mới thực hiểu thêm mình.

    Chỉ có chút danh hão, may ra hơn đứa ăn mày,

    Chẳng có tài cán thực sự, còn kém cả thằng đi ở.

    Gối đầu trên nửa gối, ngó thấy trời đất bao la,

    Nằm khênh bên cửa sổ, tính tình trở nên cô độc.

    Qua giấc ngủ phiền não, lười không muốn tung chăn trỏf dậy, Sương lấn át ánh sáng ban mai thoang thoảng như không.

    Dịch thcr.

    Nhieu nhương gió bụi bác nho gàn,

    Về nghỉ, rầy thêm cái thân:

    Danh hão, nay hơn anh bị gậy,

    Tài xoàng, e kém chú che tàn.

    nhìn nứa gối trời cao rộng,

    Nằm khểnh bên song tính chiếc đon,

    Giấc ngủ buồn ôm chăn ngại dậy, Thoáng không, sương sớm khắp trời lan.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    113. XUÂN BỆNH - II

    Tân thiều đán đán mãn thiên suong, Thán tức nhân cùng tuế hụu hoang! Dược vị thục thời tiên hữu khí!

    Hoa tuong lạc xứ thả luu huong.

    Sầu đa dạ lãn thính nhi độc,

    Tửu quý xuân nan hoán khách thường,

    Chỉ hữu tạc tiêu phùng tiểu vũ,

    Bệnh trung sải đắc nhất phân cường.

    (A.469)

    Dịch xuôi:

    MÙA XUÂN, ỒỊ ỔM - n

    Mới sang xuân, sớm sớm trời đầy sương, Than nỗi người đã nghèo mà mùa lại mất! Thuốc sắc chưa chín, mùi thuốc đã bay lên, Hoa sắp rụng rồi, mùi hương còn phảng phất. Buồn quá, đêm ngại nghe con đọc sách,

    Rượu đắt, khó có đê mòi khách thưởng xuân. May có tối qua được trận mưa nhỏ,

    Bệnh tật cũng đỡ đi được đôi phần.

    Dịch thơ

    Đầu xuân sáng đẫm írờị sương,

    Dân xác rồi, mùa trắng băng.

    Thuốc sắc nhừ đâu lựng ngát,

    Hoa hầu tàn đấy vẫn vương hương.

    Dạ buồn, đêm ngại nghe con học,

    Rượu đắt, xuân khôn đón khách sang. May được đềm qua mưa nhổ nhỏ, Chuyển này bệnh đỡ chút nào chăng?

    NGUYỀN VĂN HUYỀN dịch

    114. MỘ XUÂN TIỂU THÁN<*^

    Thập tải bôn ba thử nhất đồ,

    Qui lại, ngô hạnh đắc vi ngô.

    Tiểu viên hãn quá hồng y điệp, Nhiễu thụ đa đề bạch hạng ô.

    Thiên nhật duy manh nan tái kiến, Khâu khê hữu bệnh túc vi ngu.

    Túng nhiên bất tác thiên thirong ẩm, Dĩ thị Giang Nam cái thuọng nho.

    (A.469)

    Dịch xuôi:

    LỞI THAN LÚC CƯÔÌ XUÂN

    Mười năm trời bôn ba trên một con đường,

    Nay trở về may mắn ta vẫn còn là ta.

    Trong vườn nhỏ ít khi bướm đỏ bay qua,

    Chỉ hay thấy quạ khoang lượn chung quanh cây mà kêu.

    Vì mù nên không thấy lại được mặt trời nữa,

    Gò khe có người trái chứng ở thì cũng thành ngu^^l Dù không uống một bữa nghìn chén rượu,

    Thì ở Giang Nam, cũng đã liệt vào hạng nho, ưên hạng ăn mày rồi^^^.

    Chú thích:

    (1) Ý nói con điròng làm quan.

    (2) khe thành ngu: Liễu Tông Nguyên đòi Đường làm quan, can tội bị đày ra Vĩnh Châu, làm nhầ ở gần núi, khe, đặt tên nhà là Ngu dinh, khe là Ngu khê, gồ là Ngu khâu..., và có bài Tựa nói mình vì ngu mà đắc tội, nên làm cho khe núi noi mình ở cũng mang tiếng ngu.

    (3) Trên hạng ăn mày: nhà Nguyên ghét đạo Nho, khi thôn tính được Giang Nam rồi, chia nguôi ở đấy làm mười hạng. Nhà nho bị liệt vào hạng thứ 9, chỉ trên hạng ăn mày. Ý thơ cám cảnh cho thân phận nhà. nho ta khi Pháp đã đô hộ.
     
    tducchau thích bài này.
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    P17
    :rose:

    Dư qui ngũ lục tải,

    Sở cư thất gian đưòng.

    Tây nam trì thủy thanh,

    Phủ kiến ngư duong duong.

    Đông bắc ly trúc đa.

    Song khai thần khí luông.

    Phù cùng tử xuất nhật,

    Bằng kỷ tùy đê ngang.

    Thùa hứng triếp túng ẩm,

    Nhất ẩm lũy thập trưòng.

    Thẩn thử tân cốc cam,

    Kiêm chi viên thái huong.^^^ Mệnh nhi thủ thư độc,

    Du du tư Toại-Hoàng.

    (VHv 1864. A.469)

    Khảo dị:

    (a) A. 469: Kiêm chi viên trà hương.

    Dịch xuôi;

    NGÀY HÈ, NGẦU THÀNH - I

    Ta về nghỉ đã năm sáu năm,

    Nơi ở có ngôi nhà bảy gian.

    Phía tây nam có ao nước hong,

    Cúi nhìn cá bơi lội thung thăng.

    Phía đông bắc có bờ tre rậm,

    Mở cửa sổ ra khí giòi buổi sáng mát mẻ. Chống gậy tha hồ đi ra đi vào.

    Tựa ghế ngồi, muốn thấp muốn cao tùy ý.

    Cao hứng lên rót ruợu uống tràn,

    Mỗi lần uống hàng mấy chục chén. Phương chi gạo mód ngon cơm,

    Lại thêm rau vườn thơm tho.

    Sai con lấy sách ra đọc,

    Xa xôi nghĩ đến đòi Toại Nhân, Hoàng

    Dịch thơ:

    Ta về năm sáu năm nạy,

    Bảy gian nhà tháng ngày ung dung.

    Tây Nam lạch nước trong,

    Cúi xem đàn vẫy vùng sớm tnia.

    Đông Bắc ưe mọc đầy hờ,

    Rạng ngày hơi mát thoáng đưa song đào.

    Nào ìâii chống gậy ra vào,

    KOíi ngồi tựa ghế, thấp cao mặc lòng,

    Khi vui chuốc chén rượu nồng.

    khi hào hứng mười chung chang từ.

    Lại thêm gạo mới ngọt lừ,

    Lại thêm rau hái vườn nhà thơm tho.

    Gọi con giở sách bi ,

    Xa xôi nhớ đến đĩh vua Toại - Hoàng.

    VŨ MỘT HÙNG dịch<‘>

    Chú thích;

    (1) Toại NhânHoàng Đế: xem chú thích bài Ngẫu hứng I.

    116. HẠ NHẬT NGẪU THÀNH . II

    Bất kham đa nhiệt hộ thường quan. Ngầu nhĩ phù cùng khỏi tán quan.

    Bệnh nhõn phùng nhân đa thác ngộ, Kính đồ cử túc bội gian nan.

    Hữu hô tứ đại hàm dị tổ,

    Thùy ký tam triều bỉnh bút quan. Lạo đảo phong tiền ngô túy hĩ,

    Cừ nhiên thục thị kiến Nam son.

    (YĐ 2)

    Dịch xuôi:

    NGÀY HÈ NGẪU THÀNH - n

    Nóng quá không chịu được, cửa nhà thường đóng kín Thỉnh thoảng mới chống gậy trở dậy đi dạo.

    Mắt đau, nhìn người thường lẫn lộn,

    Ngõ nhỏ, cất chân bước lại càng khó khăn.

    Có chắt gọi là cụ bốn đòi về vui tuổi già Ai còn nhớ ta làm quan bỉnh bút qua ba triều Ngả nghiêng trước gió, ta say rồi đó.

    Trông kỹ, rõ ràng còn thấy ngọn núi phía nam.

    Dịch thơ;

    Cửa gài im im, nắng ngột.

    Chổng gậy lang thang dạo một chút. Khấp khểnh ngõ quanh gậy đá chân, Lem kem mắt ỉóa ra cuốc.

    Chắt kêu một loạt: cụ hưu,

    Ai nhớ ba triều: quan bỉnh bút.

    Trước ngả nghiêng, ta đã say,

    Núi Nam, nhìn vẫn mồn một.

    NGUYỀN VĂN HUYẾN dịch

    (1) Quan bỉnh bút: chỉ quan làm viêc biên tâp, trước thuât nới chung. Đây tác giả muốn nói đến chức Toản tu sử quán ma tác giả đã đảm nhiệm trong già nửa quãng đoi làm quan vá cũng l'a chức quan cuốỉ cùng của tác giả duói triều Nguyễn, qua ba triểu đại: Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hba.

    117. KHỔ NHIỆT

    Thiên thuụnp khu vân xuất hỏa luân, Đông song ẩn kỷ độc thuong thần. Năng như ngoan thạch hà tri kho, Chỉ thị lương t4m thụọng vị dân.

    Ngu ưá thừa duyên chung thất thị, Kiêu văn sào tiếp lính khi nhân. Thanh phong hà xứ vàn nhiên chí, Hàn vũ phiêu phiêu dục xuất ưần.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    Kllổ \1 MIC

    Trên trời khua sạch mây cho vầng lừa ló ra,

    Tựa ghế bên cừa sô phía đông, nêne cảm thấy irvMig minh id» ch|u Neu trư dược như dá, thì biêt gì là khô.

    Nhưng vì còn chút luưng tâm, chưa dén nồi mil.

    Cho sứa là ngu. bám lấy nó mà ản dãi. rối cuộc rồỉ cũng mâỉ ứiư Coi thường con muỗi, làm lô ưên mi mắt nó mà sống, chi là

    chuyện lùa ngum thỏi'“'

    Bỗng nhiên làn gió chiều lừ dâu dua liên,

    Qm cho mình như mọc lông cảnh, muôn bay ra kbòi CÕI Iran.

    Vầng lửa xua mây giữa -ỉrì, Bên song bứt rứt một mình ngồi. Trơ như đá cuội làm chi khổ?

    Còn chút lòng lành khó nỗi nguôi. Hứng dãi sứa thừa, rồi mất cậy, Nương mi muỗi , khéo lừa người. Gió chiều mát mẻ từ đâu đển? Mọc cảnh bay khỏi cõi đời.

    VŨ MÔNG HÙNG KHUUNG Hữu DUNG dịch^*)

    Chú thích:

    (1) Cho sứa ngu: loài siía bể không có mắt, (theo quan niệm xưa), lũ tôm bám vào để ăn dãi nó. Khi sứa bị người bắt thì tôm cũng mất chỗ tựa nương.

    (2) LÂm tổ trên mi mắt muỗi: theo sách Án Tủ Xuân thu, một hôm Tề Cảnh Công hỏi Án Tử rằng: “Trong thiên hạ, vật gì nhỏ nhất?”. Án Tử thua: “Bể đông có loại trùng làm tổ ở mi mắt con muỗi, hai lần đẻ hai lần bay, mà muỗi không hề giật mình. Thần không biết tên nó là gì, chỉ thấy ông chài ở bể gọi là tiêu minh”.

    Dùng hai điển nay, tác giả muốn ngụ ý: không thể nương nhơ vào giặc Pháp mà sông.

    118. NHÂM DẦN HẠ NHẬT*’*

    Kim hạ khổ khái nhiệt, Thảo khô, trạch diệc kiệt, ích chi đĩ tây phong,

    Hà vật bất mĩ diệt.

    Thẩn dư bệnh thả bần, Hành niên cận khâu huyệt. Tỉnh phi vô thanh tuyền, Âm chi đồ hãn huyết. Phạm phi vô canh hòa, Thực chi bất khả yết.

    Khỏa trình như bất cung, Cô lập nhược khổ tiết.

    Ta thử bách ly phùng,

    Hồ vi hụu thiết thiết!

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    MÙA HÈ NẤM NHÂM DẨN (1902)

    Mùa hè này khổ vì nóng nực quá,

    Cỏ khô, ao đầm cũng cạn.

    Hon nữa lại có gió tây,

    Vật gì mà chẳng tàn tạ.

    Huống chi ta đã ốm lại nghèo,

    Tuổi tác đã gần kề miệng lỗ.

    Giếng không phải không có nước trong, Nhưng uống vào chỉ thêm vã mồ hôi.

    Com không phải không có canh chan, Nhưng ăn vào không thể nuốt trôi được.

    Cỏi trần ra thì tưởng như là khiếm nhã, Đứng một mình thì như người giữ khô tiết. Than ôi! đã gặp phải lúc rắc rối ưăm chiều, Sao lại còn khe khắt với nhau thế này nữa!

    Dịch tha

    He này nống khổ quá! Cỏ khô. đầm cạn cẫ.

    Lại thêm ngọn gió Tây,

    Vật chẳng tàn tạ?

    Huống ta ốm lại nghèo,

    Tuổi gần hên mả.

    Giếng không phải không trong, Uống vào mồ hôi .

    Cơm không phải không canh, Ăn vào nuốt chẳng đã.

    Đứng lẻ cũng chơ , cầ trần e suồng .

    Than ôi! khổ trăm chiều!

    Sao lại còn nghiệt ngã?

    LÊ Tư THỤC dịch^*)

    119. THU VŨ

    Bán yểm sài phi tọa vãn thu, Phong phong vũ vũ sử nhân sầu. Tần châm cụu úng dao tuong tận, Mỗi khủng đê điền cốc bất thu. Tham thụy bất tri hề tữ túc.

    Ái sơ đa vị sắt bôn đầu.

    Tiền trình thán túc đồ nê thậm, Nễ kính u hoàng hệ điếu chu.

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    MUA THU

    Cuối thu, ngồi bên cửa sài hé mở, Gió gió, mưa mưa, làm dạ ứiêm sầu.

    Ruợu ngon ương vò cũ, rót mãi đã cạn,

    Lúa cấy ở ruộng thấp, sợ lại mất không.

    Ngủ say đến nỗi chuột nhắt gậm chân mà không biết, Thích chải lược chỉ vì đầu lắm chấy bò.

    Than thở vì con đường phía trước quá bùn lầy,

    Chỉ còn biết buộc thuyền, câu vào bụi tre trong ngõ tối,

    * 120. HÀN VŨ

    Sóc phong liệp liệp vũ tiêu tiêu, Đằng kỷ chi trì bệnh cốt kiêu.

    Dạ bán khái thanh như độc hạc, Khâm trung xúc tất hữu hàn miêu. Nhàn quan Tấn Tông thiên niên sự, Mộng quá Kinh Ngô vạn lý kiều. Dao chỉ vân gian hồng nhật xuất, Trọng âm nhai cốc tẫn băng tiêu.

    (THT)

    Dịch xuôi:

    MUA TẠNH

    Gió may hiu hắt, mưa roi dầm dề,

    Ngồi tựa ghế mây, cơn bệnh không giảm.

    Nửa đêm, tiếng ho như tiếng con hạc cô độc,

    Trong chăn, còn mèo rét rúc vào đầu gối người.

    Rảnh xem câu chuyện ngàn năm đòi Tấn, đời Tống^'1 Mộng tới chiếc cầu vạn dặm ở đất Kinh đất Ngô^^l Xa trông mặt trời hồng ra khỏi đám mây,

    Khiến nơi hang hóc tối tăm, băng giá dều tiêu tan hết.

    Trcrì hắt hiu mưa phùn gió bấc,

    Tựa ghể ngồi, bệnh tật ngày tăng.

    Tiếng ho như hạc kêu sương.

    Rét tìm hơn ấm, mèo vàng rúc chăn.

    Chuyện Tấn, Tống nghìn năm đo đắn

    Cầu kinh Ngô muôn dặm màng.

    Kìa mây xa vầng dương,

    Tối tăm băng giá trong hang tan dần.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) Đời Tấn, Tống: chỉ hai triều đại Tấn (265-420), Tống (960-1276) ở Trung Quốc, hai triều đại nhiều loạn lạc và bị ngoại xâm chiếm đất, phải dbi đô xuống phía nam. sử chia ra lam nhà Tây Tấn, và Đông Tấn, Bắc Tống và Nam Tống.

    (2) Cầu vạn dặm: cầu này ở huyện Tứ Xuyên (Tnmg Quốc). Thời Đường, nhà thơ Đỗ Phủ có diỊng ngôi nhà tranh ở phía tây cầu. Câu này ý nói nlùn về xa xôi, chạnh nhớ tới nhà thơ Đỗ Phủ mà ngẫm đến phận mình chứ không phải mơ cụ thể đến cầu này.

    121. DẠ MUỘN

    Quyện chẩm bồi hồi độc khải phi, Nam phong chàng trước tiện phi y. Âm vân mạc mạc quần phong minh, Tà ảnh thiều thiều tiểu nguyệt quy; Tửu thục vũ luu song quắc tặng, Kính u dạ tận nhất huỳnh phi.

    Bàng nhân mạc tiểu sơ dung thậm, Thập ngũ niên tiền đĩ tức ky (cơ).

    (YT)

    Dịch xuôi;

    NỖI BUỔN BAN DÊM

    Mệt mỏi trên gối, bồi hồi một mình dậy mở của, Gió nam thộc vào thôi bay tà áo.

    Mây đen mù mịt, rặng núi sẫm đen,

    Bóng chếch xa xa, mảnh trăng sắp lặn.

    Ruợu ngấm, mưa đê lại cho đôi éch,

    Ngõ tối, đêm tàn sót lại một con đom đóm bay. Người ngoài chó cười ta quá lười nhác,

    Từ mười lăm năm trước, ta đã nghỉ ngơi rồi.

    Dịch thơ.

    Nửa đêm trăn trở, dạ bồi hổi,

    Mở cửa, nồm đưa lật áo sồi.

    Mây phủ mịt làn núi sẫm,

    Trời xa chênh chếch bóng trăng côi.

    Đêm sâu, ngõ thẳm lòe đom đóm,

    Rượu ngấm, mưa rào vờ ếch đôi.

    Làng xóm chớ chê ta biếng nhác,

    Mười lăm năm chẵn đã về rồi.

    NGUYỀN VĂN HUYẾN dịch

    122. CẬN THUẬT

    Ngô bệnh ngô thân đại tích linh. Hất kim tứ thập tứ niên linh.

    Cánh vô thục học tì suy thế,

    Thặng hữu hư danh quán đại đình.

    Duy mệnh chỉ ung tòng tạo vật,

    Hà từ khả dĩ đốì tiên linh.

    Hồi đầu đắc thất câu vi huyễn,

    Thư chẩm cừ nhiên nhất mộng tinh.

    (THT)

    Dịch xuôi:

    THUẬT LẠI GẦN DÂY

    Ta ốm, cha ta đã xin thế mạng^^\

    Đen nay kể đã bốn miroi tư năm.

    Đã không tài thục học để giúp đời đang suy,

    Lại còn mang cái hư danh đỗ đầu thi đình.

    Mệnh đã định sẵn, chỉ còn biết theo tạo vật,

    Lấy lời lẽ nào đê thưa với tổ tiên.

    Hồi tưởng lại, được hay mất đều là chuyện hư ảo,

    )

    Gối đầu ưên sách ngủ, qua một giấc mộng kinh hãi tỉnh ra.

    Chú thích:

    (1) Cả câu: theo gia phả chi thứ họ Nguyễn ở Vy Hạ, năm 1853 tác giả bị ốm nặng, ông thân sinh đã cầu khấn xin được chết thay con. Quả nhiên sau đó ông mất, còn tác giả khỏi (?).

    Như vậy, bài này được sáng tác khoảng năm 1897.

    123. Tự TRÀO<’>

    Nam khuyết qui lai thập lục thu, Phong trần hồi thủ lộ du du.

    Tính danh búc ngã đăng hoàng chỉ, Tuế nguyệt thôi nhân đáo bạch đầu.

    Can tĩnh đĩ nan tầm Triệu địa, Hôn hoa do ký tại Phòng châu. Tàn sinh vạn lự tuong hà ích? Nhất mị thành nhiên tử tiện huu.

    (A.469)

    Dịch xuôi:

    TỊTGỄU MÌNn

    Từ cửa nam khuyết trở về đã mười sáu năm^^\

    Ngoảnh nhìn lại con đường gió bụi dài dằng dặc.

    Tên họ bắt buộc ta đề lên giấy vàng^^^,

    Năm tháng thúc đẩy người ta tới đầu bạc.

    Muốn sạch sẽ, đã khó tìm một chỗ đất họ Triệu^^\

    Dù lóa mờ cũng ghi chép rằng vua ở châu Phòng^‘^1 Cuộc sống thùa lo hàng muôn việc nào có ích gì?

    Thôi thì ngủ ngon một giấc, chết đi là xong!

    Dịch thơ:

    Mưỉrì sáu năm ửưỉmg biệt cửa cung,

    Đường đũi gió bụi vẩn trông.

    Công danh ép uổng tên đê bảng,

    Ngàỵ tháng hao mòn tóc tựa bông.

    Sạch sẽ tìm đâu ra đất Triệu,

    Lừ mờ còn chép châu Phòn^'.

    Sống thừa lo lắng chi ích,

    Một giấc ngon lành, chết hóa xong!

    NGUYỀN VĂN TÚ dịch

    Chú thích:

    (1) Nam khuyết: của cung vua ở phía Nam.

    (2) Giấy vàng: theo thể lệ phong kiến, ai thi đỗ đại khoa đuoc đề tên lên giấy vàng, dán lên bảng.

    >

    )

    B. GIA ĐÌNH

    (3) Đất họ Triệu: Tống sử chép: Đồi Tống Cung tông, quân Nguyên đánh Tống. Uông Lập Tín được bổ lầm chức Giang Hoài chiêu thảo sứ. Đi đường, gặp Giả Tự Đạo, Đạo hỏi Tín đi đâu? Tín đáp: “Giang Nam không còn một tấc dất nào sạch sẽ. Tôi đi tìm một chỗ chết trên một mảnh đất của họ Triệu”. Triệu là họ của vua Tống.

    (4) Châu Phòng: Đường sủ: Vua Trung Tông nhà Đường bị mẹ là Vũ hậu chiếm mất ngôi, và đem an trí ở châu Phồng. Nhưng sử thần cũng cứ chép là “vua châu Phòng” để tỏ ý vẫn thùa nhận Trung tông là vua, chứ không thừa nhận Vũ hậu. Câu nay có lẽ tác giả ám chỉ việc thục dân Pháp bỏ vua Thành Thái nhà Nguyễn và đem đày ra đảo Rê-uy-ni-ông.

    124. XUÂN NHẬT THỊ PHI -

    Nhữ phụ phong ữần mấh tiệm ban, Nhĩ niên kim diệc đĩ gia quan. Trầm tư ty lạp quân ân trọng,

    Bội giác thi thư thế nghiệp nan. Học hải yếu nghi phòng phiếm dật, Nho gia thận vật yếm cơ hàn.

    Quan san viễn tích tâm nhung cận, Ký ngữ đăng tiền tử tế khan.

    (A.469)

    NGÀY XUÂN DẠY CON

    Cha trải cuộc đời gió bụi, tóc đã đốm bạc dần,

    Con nay cũng đã đến tuổi đội

    Ngẫm nghĩ sợi tơ hạt gạo đều mang nặng ơn vua,

    Càng thấy rằng nối được nghiệp nhà thi thư là khó.

    Bê’ học cần nên phòng ngừa sự không thiết thục,

    Nhà nho nhất thiết chớ ngại đói rét.

    Chốn quan san xa xôi nhung lòng ta vẫn gần gụi,

    Gửi con mấy lòd, hãy đem ra trước đèn đọc cho kỹ.

    Chú thích;

    (1) Tuổi dội : theo lễ giáo xưa, con trai đến tuổi 20 thì làm lễ đội mũ.

    125. XUÂN NHẬT THỊ CHƯ NHI - I(A)'‘’

    Tân tuế phương lai cựu tuế trừ, Thanh bần ngô tự ái ngô lu.

    Hoàn cư bất mãn củu cao thổ,

    Tô” nghiệp vô tha nhất thúc thư. ủng hộ yên thâm son sắc quýnh. Bạng tường vù thiên cúc hoa so. Nhi tào hoặc khả thím ngô chi,

    Bút nghiễm vô hoang đạo, thúc, sơ.

    (A.469, NKT)

    Khảo dị;

    (a) NKT: Nhân trừ tịch thị chư nhi

    NGÀY XUÂN DẠY CÁC CON - I

    Năm mới đương đến, năm cũ đã qua,

    Cảnh nghèo trong sạch, ta yêu nhà ta.

    Khu nhà ở quây quần không đầy chín sào đất, Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách.

    Tniớc cửa khói dày, sắc núi trở thành xa tắp,

    Cạnh tường mưa ít, hoa cúc nở lơ thơ.

    Các con nếu có thể theo chi ta,

    Thì chăm bút nghiên nhưng đừng bỏ lúa, đậu và rau.

    Dịch thcr

    Năm mới vừa sang, năm qua,

    Tuy nghèo ta vẫn mến nhà ta.

    Chín sào thểnơi ,

    Một tàn thư ấy nghiệp nhà.

    Trước cửa khói dày, non ỉdíuất bóng, Bên tường mưa ít, cúc ỉưa thưa.

    Các con nối chí cha nên biết:

    Nghiên bút đừng quên, lúa, đậu, .

    VỤ MỘNG HÙNG dịch<*>

    m. XUÂN NHẬT THỊ CHƯ NHI -

    (a)

    Đồi nhiên mao phát tiệm sam sam Bất giác niên đăng ngũ thập tam. Đương thế văn chuông hà sở dụng,^^^ Lão lai quan đái thuọng đa tàm.

    Loạn ly xuân sắc chân vô lại, ưu khổ nhân tình củu bất khani.^^^

    Đốỉ thử quang âm hà đĩ ủy?

    Chư nhi do tự tửu ca hàm.

    (A.469, A.3160. VHv 2381)

    Khảo dị:

    (a) VHv 2381: Đồi hồ mao phát tiệm sam sam

    (b) A 469: Đương thế Thị Thư sở dụng

    (c) A 3160: Lão lai quan kiểm thượng đa tàm

    (d) 469: ưu khổ nhân tình hựu bất kham (đ) VHv 2381: Hồ vi do thả tự ca hàm

    Dịch xuôi:

    NGÀY XUÂN DẠY CẤC CON - n

    Người phờ phạc, râu tóc dài dần,

    Không ngờ đã đến năm miroi ba tuổi.

    Văn chương đòi này còn dùng làm gì nữa?

    Áo xiêm về già đáng hô thẹn nhiều^'1 Trước cảnh loạn ly, màu xuân thật trơ trẽn,

    Đau khổ mãi lòng người ta không chịu đựng được.

    Đối với bóng quang âm ấy, lấy gì yên ủi?

    Thế mà các con hãy còn say sưa ca hát mãi^^l

    Dịch thơ:

    Tác giả tự dịch. Xem bài Ngày xuân dặn các con.

    Chú thích:

    (1) Câu này và câu trên ý nói: nhà thơ cảm thấy sự học hành đỗ đạt của mình, cũng không giúp ích được gì cho thời cuộc lúc bấy giơ, nên khi về già lồng vẫn áy náy và tự lây làm hổ thẹn.

    (2) Hai câu cuối bài ý nhà thơ phàn nàn con cái: một thơi khắc (tấc bóng) trôi qua, chưa làm được việc gì cho xã hội thì thật là đáng tiếc, thê mà sao các con lại chơi bbi phóng phiếm hoài!

    127. THƯ ĐƯỜNG CẢM THỊ

    (*)

    Y bát nan vong, thả mạn lao, Cưỡng tương thư tịch giáo nhi tào. Thí quan sở quý đương hà tại, Túng vị tranh danh dã thất thao. Cụu học chí kim do nhĩ nhĩ,

    Mạt luu tòng thử diệc thao thao. Hoàng thiên vị quả tư văn táng,

    Vị dạn, vi luân phó sở tao.

    (A. 3160. NKT)

    Dịch xuôi:

    TĐONG NHÀ HỌC NHÂN CAM ẦÙC NHỦ ỒẢO CẤC CON

    Nghiệp nhà không bỏ được, hãy chịu khó vậy, Gượng đem sách vở dạy bảo các con.

    Thử xem điều đáng quý là ở chỗ nào,

    Neu chỉ giành cái tiếng, tức là mất chí hướng.

    Đen nay những người học cũ còn vậy,

    Thì lóp người sau sẽ cũng thế thôi!

    Trời chưa hẳn làm mất đạo của thánh hiền,

    Dù làm viên đạn, làm bánh xe, gặp sao hay vậy^’^

    Dịch thơ:

    Nghiệp nhà đâu dám ngại gian lao, Hãy dạy đàn con cổ học nào!

    Chờ vị chút danh quên chí củ,

    Thứ xem điều quý nơi nao.

    Ngày nay học còn như vậy,

    Rồi nữa người sau sẽ đến đâu?

    Đạo thánh còn đây trời chửa bỏ,

    Làm xe, làm đạn, cố hề sao?

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

    Chú thích:

    (1) Làm viên dạn hay làm bánh xe: sách Trang Tử: Tử Tử đến thàm Tử Dư ốm. Tử Dư nói: “Nếu cánh tay phải của ta hóa làm hòn đạn, ta sẽ dùng nó để kiếm chả chim, nếu cái xương cụt của ta hóa làm bánh xe, ta sẽ dùng nó để cưõi, không cần phải xe khác mữa”. Ý nói sống chết là sự thường, muôn biến làm gì cũng được.

    128. TỬ HOẠN LAI KINH HỘI THÍ PHÚ THI HỌA NGUYÊN VẬN bĩ TẶNG

    Ngâm chiên dao chỉ thúy vân ưung,

    Kiều thủ ngô nhi bộ nguyệt cung.

    Thiên cô văn chuông vô hiển hôi.

    Lịch triều điển tắc hữu sơ chung.

    Nhất tân cộng nguõng hoàng gia dị,

    Ngũ tế trùng quan ngã quốc phong.

    Kinh lạc thảng phùng tuong thúc vấh,

    Thả ngôn tuy túy vị thành ông.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    CON lÀ HOAN VÀO WNH THI HỘI, TA LÀM THO HỌA NGUYÊN VẬN GỦI CHO

    Roi thơ xa trỏ vào nẻo mây biếc,

    Ngẩng đầu, con ta đi lên cung nguyệCl

    Văn chương ngàn thuở không hề có chuyện khi tỏ, khi mờ,

    Luật lệ các triều thảy đều có đầu, có cuối.

    Đôi mới cũng nhờ công đức hoàng gia,

    Lễ nhạc lại thấy thuần phong đất nước^^^. ở chốn kinh kỳ, nếu gặp người quen hỏi tới,

    Hãy nói rằng: Ta tuy say nhưng chưa trở thành “ông say”(^\

    Chú thích:

    (1) Cả hai câu ý nói con đi thi đường mây rong ruổi.

    (2) Lễ nhạc: dịch thoát từ chữ “ngũ tế” vốn chỉ các nghi lễ lón của một quốc gia cổ, ở đây tượng trung cho uy nghi, chủ quyền của một nước văn minh, tự chủ.

    (3) “Ông say”: nhà văn Âu Duong Tu tự xung là “Túy ông” (ông say). Đây tác giả nói mình chưa được như Âu Duong Tu, vì Âu Duong Tu còn có điều kiện để cống hiến tai năng cho đất nước mình, còn tác giả thì dẫu có tâm huyết nhưng vẫn không có điều kiện thực hiện lý tưởng tốt đẹp của mình.

    129. THƯ TỨ TỬ HOAN LAI KINH ĐIỆN THÍ

    Tịch tán nhân hi nhĩ diệc hoàn,

    Văn chuông bất phục đáo Tần quan. Trà vân nhật hạ khai tân nhõn,

    Cấm thụ niên tiền thức cụu nhan.

    An đắc Khổng, Tăng, Tư, Mạnh kế, Thẩn tri Tấn, Tốíng, Ngụy, Tề gian. Điền viên quy khứ ngô tuong lão, Do vọng hoa bào tác thái ban.

    (THT)

    Dịch xuôi:

    TfflTDUA aio CON LÀ HOAN VÀO KINH THI HỘI

    Tiệc tan, người còn lại ít, con cũng trở về,

    Văn chương chẳng còn đến chốn ải Tần^^l Mây trên núi Trà ngày nay mở ra tầm mắt mới,^^^

    Cây trong cung cấm năm trước vón quen với bộ mặt cũ/^^ Mong sao có kẻ kế tiếp các ông Khổng, Tăng, Tư, Mạnh^‘^\ Huống chi đã từng biết cảnh các triều Tần, Tống, Ngụy, Te^^l về ruộng vườn, ta nay đã sắp già rồi! vẫn mong có áo hoa bào làm áo thái ban/^^

    Dịch tho:

    Tiệc mãn, con về, khách vắng dần,

    Văn chương đâu đến ải nhà Tần.

    Mây Trà ngày mới tầm nhìn rộng,

    Vườn cấm cây xưa mặt đã quen.

    Từng biết liên miên nhiều cảnh loạn, vẫn mong tiếp nối cỏ người hiền.

    Sắp già, ta đã về vườn ,

    Vui ngóng bào hoa con được ban.

    NGUYỀN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) Của quan nhà Tần: đây có lẽ chỉ thời Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trồ.

    (2) Núi Trà: tik núi Son Trà, ở Đà Nắng.

    (3) Cả câu có ý nói, trước đây tác giả đi thi và đỗ ở kinh đô

    Huế.

    (4) Khổng, Tăng, Tu, Mạnh túc Khổng Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử: la những người được coi là thánh hiền của nhà Nho.
     
    tducchau thích bài này.
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    P18
    :rose:

    (5) Tần, Tông, Ngụy, Tề: là các triều đai suy vi trong lích sử Trung Quốc, ở đây có ý ám chỉ các triều đại suy đồi trong lịch sử Việt Nam.

    (6) Áo hoa bào: áo vua ban cho các tiến sĩ tân khoa. Áo thái ban: gọi cái áo của Lão Lai mặc khi đã 70 tuổi để múa hát làm vui lòng cha mẹ.

    Câu này ý nói mong con đỗ đạt làm vui long cha mẹ già.

    <•)

    130. ức GIA NHt

    Động song vũ hậu giác vi hàn,

    Túng ẩm, cuồng ca, hứng vi lan.

    Pháp mật, bất văn oa cổ cấim,

    Phú phiền do hạnh túy huong khoan.^”^

    Cổ kim phong hội tri hổ đe?

    Vuong bá công danh nhược đẳng nhàn.

    Khuất chỉ ngô nhi kinh lộ thuóng,^*’^

    Kim triêu đuong thị quá Hoành san (son).

    (A. 469, A. 3160, NKT)

    Khảo dị:

    (a) NKT: Phú phồn do hạnh tùy huong khoan

    (b) TVNK; Khuất chỉ ngô nhi thướng kinh lộ

    Dịch xuôi:

    NHỚ CON

    Sau cơn mưa ngồi trước cửa sô phía Đông cảm thấy lành lạnh, Uống rượu bừa, ngâm thơ tràn, hứng thú vẫn chưa cạn.

    Pháp luật tuy nghiêm, vẫn chưa nghe nói cấm trống ếch^'\ Thuế má dầu nhiều, may còn khoan hoãn cho làng say.

    Xưa nay phong hội thay đổi mãi, biết đến đâu là cùng? Công danh dù làm đến vương bá cũng chỉ là việc thường, Bấm đốt tay tính đường con ta vào kinh,

    Sáng nay có lẽ đã qua Đèo Ngang

    Dịch tho:

    Trước song lành lạnh buổi írờĩ quang, Chén phứa, ngâm tràn, hứng vẫn hăng. Thuế nặng, làng sạy còn được miễn, Lệnh nghiêm, trống ếch vẫn kêu vang. Xưa nay phong hội đâucuối?

    Vương bả, công danh chỉ việc thường. Bấm đốt, con ta về kẻ chợ,

    Sáng nạy chừng đã quá Đeo Ngang.

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch<*)

    Chú thích;

    (1) Trông ếch: ở đây tác giả gọi tiếng ếch là trống ếch không phải như trống của thiếu nhi ngày nay. Câu này tác giả ngụ ý mỉa mai pháp lệnh nghiêm khắc hồi đó.

    (2) Đèo Ngang: tiíc Hoành Son, dãy núi ở giữa hai tỉnh Nghệ An và Bình-Trị-Thiên.

    131. TỨ TỬ HOAN HỘI THI TRÚNG PHÓ BẢNG

    Phụ đĩ tam nguyên, tử phó xa,

    Dung phi tạo vật hữu thùa trừ.

    Nhất môn hạnh đắc hậu tiên kế,

    Thập lý hà năng bát cửu như.

    Vũ trụ tư văn thiên vị táng,

    Tổ tông tích khách địa luu dư.

    Phong vân hội thượng ngô đương lão, Dữ thế trì khu nhật vọng cừ.

    (THT)

    Dịch xuôi:

    GỦI CON LÀ HOAN Đỗ PHÓ BANG

    Cha Con tam nguyên, con đỗ phó bảng,

    Phải chăng tạo vật có lẽ thừa trừ.

    Một nhà, may mắn kẻ trước người sau,

    Mười điều làm, sao được cả tám chín!

    Trời chưa nỡ dứt mạch văn chương của vũ trụ, Đất còn lưu lại phúc đức của tô tông.

    Trên hội phong vân, ta đã sắp già,

    Ngày ngày mong con về sẽ cùng đòd rong ruổi.

    Dịch thơ:

    Cha đề tam nguyên, con phố hảng,

    Le thừa trừ tạo hóa đây .

    Một nhà con nối bước cha,

    Mười phần sa sẩy chỉ vài phần thôi. Mệnh đất tròỉ nền văn chứa dứt,

    Con cháu hiền nhờ phúc tổ tông,

    Cha già, còn hội mây rồng,

    Mong con cố gắng ruổi rong kịp thM.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    132. XUÂN NHẬT THỊ TỬ HOAN**’

    Ngã đĩ từ quan nhĩ tô” quan,

    Tô” quan năng hội tô” quan nan.

    Danh cư quá mạn ưu lăng tiết,

    Sĩ hữu nhân bần thả bão quan. Đuong nhật sự tùy đưcmg nhật úng, Nhất phần tử thị nhất phần khoan. Hành tai liêu tá xuân phong tặng, Đuong nhĩ hư hòa thích táo đan,

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    NGÀY XUÂN KHUYÊN CON lA HOAN

    Ta đã từ quan, con lại ra làm quan,

    Làm quan khó ỏf chỗ biết cách làm.

    Danh tiếng nếu lừng lẫy quá e lấn át mất khí tiết,

    Làm quan có khi chỉ vì nghèo, thì hãy làm chức giữ cửa^^l Việc ngày nào thì ứng phó theo ngày ấy,

    Khoan dung một phần tức là dân được on nhờ một phần.

    Con đi thôi! Cha hãy mượn gió xuân để làm quà,

    Coi như một bài thuốc “thổi hơi hòa, xua hơi nóng” tặng con.

    Dịch thơ;

    Ta đã từ quan, con ỉại quan,

    Làm quan biết cách, khó vàn.

    Danh cao sự lấn lòng ngay mất,

    Nhà khó nên làm chức nhỏ hơn.

    Công việc ngày nào, ngày ấy liệu,

    Khoan dung một chút, một phần ơn.

    Con đi! Mượn gió xuân này tiễn,

    Làm thuốc ôn hòa để tặng con.

    KHUÔNG HCÍU DỤNG dịch<‘>

    Chú thích;

    (1) Nguyên chú của tác giả: đỗ phó bảng khoa Ký sửu (1889).

    (2) Chức giữ của: sách Mạnh Tủ: “nếu vì nghèo mà phải ra 1'am quan thì dù làm kẻ giữ cửa quan báo hiệu cũng nên”.

    (3) Cả câu: Ibi của Thiệu ưng đồi Tống: “Khoan nhất phần tắc dân thụ bất phần chi từ (Khoan dung một phần thì dân được nho một phần).

    {*)

    133. THỊ TỬ HOAN'

    Vị hữu quan thời dục tô” quan,

    Hữu quan thủy giác tô” quan nan, Hoạn đào chỉ dĩ khinh tâm trạo. Lọi cục hà năng lãnh nhon khan. Lãng chú kũn ngân nang đĩ khánh, Bất tri hà đổ cục tương tàn.

    Ngô nhi tự tín thông minh tại, Tằng phủ ngô ngôn yết tọa đoan?

    (A.469, NKT)

    Dịch xuôi:

    DẶN CON LÀ HOAN^I)

    Chưa được làm quan thì muốn làm quan,

    Được làm quan rồi mới biết làm quan là khó.

    Bê loạn sóng gió, chỉ nên chèo với tấm lòng coi nhẹ, Thấy cuộc đòd sao cho có được con mắt lạnh lùng. Dốc bừa tiền bạc ra, túi đã rỗng tuếch,

    Không biết rằng canh tô tôm đã sắp tàn.

    Con vẫn tự phụ là thông minh đấy,

    Đã viết lời ta mà dán lên cạnh chỗ ngồi chưa?

    Chưa đượcm quan những ngôi quan Được làm mới thấy khô muôn vàn. Thuyền chèo bể hoạn lòng nên nhẹ,

    Lợi bén hơi đồng mắt chớ tham!

    Dốc hết bạc vàng nay túi rỗng.

    Hòng chi đen đỗ lúc canh tàn!

    Con mình vẫn cậy thông minh đấy, Hãy chép Vơi cha dân trước bàn!

    HOÀNG TẠO dịch

    134. LŨ THẦN KHỐC NỘI

    Tương kỳ giai lão, lão vô duyên, Nhất biệt du niên, tiện bách niên. Chiêu nhĩ hồn thê, lai thử tá?

    Viết dư đổng hỹ, vị thùy liên? Bội, Dung nhi hạ phong tư biến, Tần, Hán chi gian lễ tắc nhiên. Văn phó bất thăng suy bệnh cửu, Lữ phần thanh thảo đĩ thiên nhiên.

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    KHÓC VỢ CHÔN Na DAT KHẢCH^^)

    Hẹn cùng nhau sống đến già, già lại vô duyên, Xa nhau hơn một năm mà thành trăm năm. Chiêu hồn bà về, có về đây chăng?

    Ta khóc nức nở đây, đau xót vì ai?

    Từ Bội phong, Dung phong trở xuống, Quốc phong đã biến^^\ Khoảng giữa nhà Tần, nhà Hán, lễ giáo thế thôi^^l Đau yếu đã lâu nghe tin buồn khôn xiết,

    Nấm mồ đất khách, cỏ xanh rì.

    Dịch tho:

    Đầu bạc cùng nhau, hẹn đã lầm, Hơn năm xa cách hóa ưăm năm. Hồn ơi! Gọi về chăng ?

    Mình nhỉ! Thương ai phải xót thầm! Thơ dưới Bội, Dung, tình đã đổi, Đời Tần, Hán còn chăm.

    Tin buồn dằn vặt thân già ốm,

    Nấm mộ quê người bóng cỏ rẫm.

    HOÀNG TẠO dịch

    Chú thích:

    (1) Nguyễn Khuyến bốn vợ: Bà cả được ba con là Nguyễn Hoan, Nguyễn Thuần và Nguyễn Thị Duy. Bà thứ được ba con là Nguyễn Điềm, Nguyễn Đôn và Nguyễn Thị Búp. Bà ba sinh một con la Nguyễn Khắc. Bà thứ tư họ Phạm mất sớm, không con. Có lẽ tác giả khóc bà hai.

    (2) Bội và Dung là hai niióc chư hầu đời nhà Chu. Kinh Thi chép: đọc đến Bội phong, Dung phong thì thấy Quốc phong đã một lần thay đổi.

    (3) Nhà Tần đốt sách, chôn học trò, phản đổi lễ giáo nhà nho. Đến đoi nhà Hán không như thế, nhưng lễ giáo nhà nho vẫn chưa phục hồi như trước đời nhà Tần. Cho nên khoảng giữa Tần và Hán, lễ giáo chưa rõ ràng, ở hai câu này, tác giả ngụ ý tới đương thời phong hóa suy vi, lễ giáo thay đổi.

    135. ĐIỆU NỘI<**

    Cân trất ừny tùy ngũ thập niên,

    Y hòe nhất mộng dĩ thành miên. Bạch câu hốt hốt hữu như thị, Thanh trủng luy luy thùy bất nhiên. Tĩnh thổ an tri phi nhị lạc,

    Trần đồ vị tất vọng nhân liên. Nhược giao ngã thọ như Bành Tổ, Bát ách xuân thu kỷ khấp huyền.

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    KHÓC VỢ

    Khăn lược theo nhau đã năm mươi năm^^\

    Một giấc mộng tụa cây hòe đâ thành giấc ngủ Bóng câu trăng vùn vụt, nhanh như thê Nấm mồ xanh ngổn ngang, ai rồi cũng vậy mà!

    Noi tĩnh thổ, biết đâu chẳng là noi vui sướng của Đường trần gian, chưa chắc đã mong người khác ứiương. Nếu để tôi sống lâu được như ông Bành Thì tám trăm năm, biết bao lần phải khóc vợ^^l

    Dịch thơ:

    Sống chung năm chục năm ưừi,

    Gốc hòe một giấc, kéo dài nẹàn thu.

    Bóng câu thấp thoáng thể ?

    nhô đám mộ chừa riêng ai?

    Biết đâu cõi Bụt chang vui,

    Đường trần chi phải mong ai thương mình. Nếu ta sống tựa ông Bành,

    Tám trăm năm ấy, khóc tình bao phen.

    ĐỖ NGỌC TOẠI dịch‘*>

    (1) Càn cứ theo câu này thì bài nay khóc bà vợ cả, lấy từ khi ông mới 18 tuổi.

    (2) Giấc mộng tựa cây hòe: theo sách Nam kha của Lý Công Tả đời Đường: ở phía Nam nhà Thuần Vu Phần có cây hbe cổ thụ. Một hôm Phần uống ruợu say nằm duói gốc cây hbe ma ngủ, mơ thấy đi đến nước Hbe An, lây vợ là công chúa con vua nước ấy, rồi được làm thái thú quận Nam Kha, sinh nhiều con, cả nhà vinh hiển. Sau đi đánh giặc bị thua, công chúa chết. Phần cũng mất chức về nhà. Lúc tỉnh dậy, tìm dưới gốc cây hbe thấy có cái lỗ kiến. Phần mới hiểu rằng quận Nam Kha trong giấc mộng tiíc là cành hbe phía nam trên lỗ kiến vậy. Điển này thưbng dùng để nói cảnh vinh hoa phú quí ở đời mơ hồ như một giấc mộng.

    (3) Bóng câu trắng: sách Trang Tử, thiên Tri bắc du: “Nhân sinh thiên địa gian, nhược bạch chi quá khích, hốt nhiên nhi dĩ” (người ta sống ở trong trời đất như bóng ngựa câu chạy qua khe hở, chỉ thoáng qua mà thôi).

    (4) Tĩnh thổ: noi các vỊ Phật ở. Câu này ý nói khi chết đi về cõi Phật, biết đâu không phải là cảnh vui.

    (5) Bành Tổ: Thần tiên truyện: Bành Tổ sống 800 năm, 49 lần góa vợ.

    (6) Khóc vợ: nguyên văn “khấp huyền”, ở đây tác giả dùng chữ “huyền” là “treo”. Chữ này đồng âm với chữ “huyền dây dàn trong từ “tục huyền” (lấy vợ kế). Nếu lý giải theo mặt chữ thì “khấp huyền” có thể hiểu là “khóc lóc nhớ thương”, vì từ này là hình thiíc rút gọn của các từ “khấp khốc, huyền niệm”. Nếu lý giải theo nghĩa song quan thì cũng có thể hiểu là “khóc dây tơ đàn” tức là “khóc vợ”.

    Thơ Nguyễn Khuyến thường hay dùng lốỉ song quan, một từ có hai tầng ý nghĩa: có nghĩa mặt chữ và nghĩa bóng, nghĩa ngầm.

    Ai ai nhĩ Phạm ky!

    Tòng ngã kim thất kỳ.

    Tu du khí ngã khử,

    Kiết nhiên vô nhất di.

    Tuy nhiên hữu thành hiệu, Mang mang bất khả kỳ.

    Bằng viễn phuong huyền thụ, Đương thời mạc chi tri.

    Hà cE nhất tử hậu?

    Bích thảo sinh tân tỳ (từ). Thẩn nhĩ thị phụ nhân,

    Phủ nguõng vô sở ti (tư). Phấn thân hiệu cân quắc, Thúc mục vô tu mi.

    Thế đạo hữu như thử,

    Nhĩ tâm lương bất khi.

    Khốc tử phi vị sinh,

    Khẳng khái xúng tửu chi.

    Phi phi thất tịch vũ,

    Hòa lệ vi tân thi.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi;

    KHÓC NGHỜI TfflẾP HỌ PHẠM

    Thương ôi! nàng là con gái họ Phạm,

    Theo ta đến nay đã bảy năm.

    Bỗng chốc nàng bỏ ta mà đi,

    Chẳng đê lại một mụn con nào cả!

    Dầu răng đã có lời thề ước mãi bên nhau, Nhưng nay thì mờ mịt biết lúc nào mới gặp lại!

    Bạn thì xa, ta đang mong tin bạn,

    Lúc đó nàng mất, có ai biết đấy là đâu!

    Sao mà sau khi nàng mất,

    Trên nắm mồ xanh đã lập đền thờ mód rôi.

    Huống chi nàng lại là phận đàn bà,

    Việc phụng dưỡng cha mẹ không biết trông cậy vào ai. Nàng đã sẵn sàng đem yếm khăn ra để kiếm tấm chồng, Song giụi mắt tìm cũng chẳng có ai đáng mặt mày râu. Đường đòi có những chuyện trớ trêu như vậy,

    Song lòng nàng quả thực không lầm khi lấy ta.

    Khóc người chết không phải là vì ngưòd sông!

    Đau buồn ta đành nâng chén rượu,

    Mưa ngâu tháng bảy roi lã chã,

    Ta đem hòa với dòng lệ để viết bài thơ mới này.

    c. THÙ TẶNG

    137. ĐỘC LA NGẠN ĐÔ ĐÌNH NGUYÊN TỪ BẮC PHIÊN THƯ<*’

    An-Định chế đài hồi triều, thiểm vãng yết kiến, nhân thị La Ngạn Đô Đình nguyên từ Bắc phiên thư, tái tam độc ngoạn, bất giác hỉ được viết: “Ngô đạo kỳ vị cùng da? Dân di kỳ vị dẫn da?”. Nhân mậu vi bình duyệt, tái hí ngâm lứiất luật. Lương củu ngâm tư; “Đỗ quân chi văn, quả vi thị da? Ngô chí binh duyệt, quả vi định da? Vệ Luật chi tỷ Tô Tử Khanh, Mộng Viêm chi tù Văn Tông Thụy, vãng sự thành khả úy dã. Tuy nhiên, thiên địa chi kinh, quân thần chi nghĩa, phụ sư chi sở thụ, tử đệ chi sở học, kỳ khả hốt hồ?”. Triếp cụ đĩ bạch, huynh ông chính yên!

    Độc quá quân thư vạn khoảnh lăng, Bất tri hả đĩ sử nhân tăng?

    Nghiên, suy, tang, bĩ, phi ngô định, ưu, lạc, vinh, khô, tự cô tằng. Thuọng hữu nhân tâm tê nhất điểm, Khả vô thế cục lệ tam thăng.

    Bệnh phu thiển kiến chỉ như thử,

    Vị quả đông minh hữu đại bằng.

    (Vhv 1864)

    Dịch xuôi:

    DỌC THirTỉraiối CHÚC Bố CHÍNH BẮC NINH CỦA DÍNH NGireÊN HỌ Đỗ ở lA NGẠN<‘>

    Tông đốc An-Định (Vũ Báo) về triều, tôi yết kiến, nhân cho xem bóc thư của Đỗ Đình nguyên, làng La Ngạn, từ chói chức bố chính Bắc Ninh. Tôi đọc đi đọc lại hai ba lần, không ngờ mừng quá mà thót ra rang: “Đạo ta có lẽ chưa cùng chăng? Luân thường có lẽ chưa mất chăng?”. Nhân lạm bình duyệt, lại ngâm đùa một bài thơ. Giờ lâu ngẫm nghĩ: “Văn của bác Đỗ quả là phải chăng? Lời bình duyệt của ta quả đã nhất định chăng? Vệ Luật^^^ đầy Tô Tử Khanh^^^, Mộng Viêm^'^^ cầm tù Văn Tống Thụy^^\ việc trước thực đáng sợ! Tuy nhiên, đạo trời đất, nghĩa vua tôi, bậc cha, bậc thầy đã tmyền, người con, người ưò đã học, có thể quên được chăng?”. Bèn chép ra đệ ttình, xin huynh ông phủ chính cho!

    Đọc qua bức thư bác, như thấy muôn đợt sóng ưào,

    Chẳng biết tại sao lại khiến cho người ta ghét.

    Tốt, xấu, hay, dở, không phải do ta định,

    Vui, buồn, tươi, khô, từ xưa đã từng thế.

    Lòng người còn có một điểm thông suốt như sừng con tê^^l Há không nhỏ ba thung nước mắt đối với cuộc đời.

    Thiển kiến của người ốm này chỉ như thế thôi,

    Chưa hẳn là noi biển Đông đã có chim đại bằng.

    Thư bác như muôn ỉớp sống trào,

    Thể người ghét, hiểt sao?

    Vui, buồn, tươi, héo, xưa từng thể!

    Tốt, xấu, hay, hen, ta định đâu!

    Còn lòng người một điểm sáng,

    Khôn ngăn thiừig lệ nồi đch đau.

    Già này lẩn vẩn nghĩ như vậy Chim lốn, vùng Đông chắc nào!

    NGUYỀN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) Đình nguyên họ Đỗ: Tức Đỗ Huy Liêu, người lang La Ngạn, huyện Đại An, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh), đỗ đình nguyên khoa Kỷ mão (1879), đoi Tự Đức, làm đến Hồng lô thiếu khanh, tham biện nội các, khi thực dân Pháp xâm lược, ông từ chức về nhà. Khi được tin bổ ông làm bố chính Bắc Ninh, ông gủi thư từ chối.

    (2) Vệ Luật: Người đời Hán Vũ đế, sang sứ Hung Nô rồi đầu hàng và ở bên ấy.

    (3) Tử Khanh: Tô Vũ, tự là Tử Khanh cũng sang sứ Hung Nô, không chịu nghe Ibi Vệ Luật khuyên hàng Hung Nô, bị Vệ Luật xui vua Hung Nô đày đi chăn dê.

    (4) Mộng Viêm: Văn Thiên Tuơng, tên tự la Tông Thụy, tên hiệu là Văn Son, đỗ trạng nguyên đòi Lý tông nhà Tống, làm chức An phủ sứ ở Giang Tây. Khi quân Nguyên vào đánh nhà Tông, Thiên Tường chông cự, thua trận va bị bắt. Vua Nguyên muôh tha ra đê dùng, nhung ông từ chối. Va nói; “Nếu được tha, thì xin về quê huong làm một nguời đạo sĩ”. Một hàng thần là Lưu Mộng Viêm xui vua Nguyên không nên tha. Vì thế ông bị giữ lại trong tù và sau bị giết.

    Dùng những điển trên, có ngụ ý tới tình thế: Vụ Báo đã theo giặc, bắt giết bạn đồng học, đồng liêu là nhà yêu nước Vũ Hữu

    Lọi. Ông Đỗ cũng là người yêu nước, không chịu cộng tác với giặc, có e họ Vũ ghét mà hãm hại?

    (6) nhất điểm', xem chú thích bài Hạ nhật hữu cảm.

    138. KÝ CHÂU GIANG BÙI ÂN NIÊN*’*

    Mãn mục đa tân thức, Thuong tâm cô” cụu hy. Nhân cùng, thiên vị định, Đạo táng, ngã an qui?

    Tứ hải khai phong hội, Thiên son lão quyết vi. Châu giang tuong úc xứ, Hoa lạc điếu ngư ky .

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    GỦI ÔNG ỒÙI ÂN NIÊN ở CHÂU CẦU<^)

    Bao nhiêu thể thức mới hiện ra đầy trước mắt,

    Đau lòng về nỗi những người bạn cũ thưa dần.

    Mưu của người đã cùng rồi, mà cơ ười vẫn chưa biết ra sao^”^ Đạo học mất rồi, ta biết đi về hướng nào^^\

    Bốn bề đương mở ra phong hội mới,

    Trên nghìn non, rau quyết, rau vi, cũng sẽ bỏ già thôi^'*^

    Nhớ sông Châu, chỗ chúng ta đã cùng nhau khi ưước,

    Mỏm đá ngồi câu (có lẽ) hoa đã rụng đầy rồi.

    Chú thích;

    (1) Theo nguyên chú, bài này họa lại nguyên vận của ông Bùi Ân Niên tiic Bùi Văn DỊ, bạn thân của tác giả.

    36.0

    (2) Câu này ý nói, thời thế thay đổi, sức người kiệt, trông vào trời cũng không được.

    (3) Câu này ý nói thời thế thay đổi, bỏ mất đạo đik thánh hiền.

    (4) Rau quyết, rau vi: tên hai thứ rau dại, người ẩn dật xưa thưòng ăn, không thềm ăn’thóc của triều đại mới.

    Hai câu này ý nói, giặc Pháp đã chiếm trị được đất nước ta, đang tiến hành khai thác thuộc địa, còn mấy ai lui về ở ẩn không cộng tác với giặc nữa (cho nên rau vi mới bò già).

    139. CHÂU GIANG BÙI THƯỢNG THƯ KINH Hồl DỤC PHỎNG BẤT QƯẢ, THI DĨ KÝ - I

    Hồi thủ Tây đô lệ tiễn y,

    Đương thời cảnh sắc thượng y hi.

    Bách quan túc thoái đồng đà tại,

    Cửu miếu công thành thạch mã qui.

    Viễn tụ vân khai kiều mộc củng,

    Bình sa vũ quá thử miêu phì.

    Cận văn công chí, dục tương vấh:

    Lục thất niên lai thị hoặc phi?

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    QUAN THUỌNG THirCíĩÂƯ GIANG HỌ ỒÙITỪKINH VỂ, MUỐN DẾN THẤM Qổl THÔI, LÀM THƠ - I

    Ngoái nhìn Tây đô, nước mắt đầm â0^^\

    Cảnh sắc đương thời vẫn còn thấp thoáng.

    Trăm quan cũ rút lui, trơ lại con lạc đà đông^^\

    Chín miếu đã thành công, ngựa đá đành quay Mây tan, trên núi xa hiện ra cây to tày ôm,

    Mưa xong, trên đồng bãi lúa má tốt bời bòri. Gần đây nghe tin ông tới, định hỏi thăm ông: Sáu bảy năm nay là đúng hay sai?

    Ngảnh lại Tây đô nước mắt trào,

    Cảnh tình ngày ấy quên đâu.

    Lạc đà trơ đứng trăm quan vắng,

    Ngựa đá quay về chín miếu chầu.

    Đồng hãi mUa xong bỉrì lúa tốt,

    Non xa mây cuốn hiện cây cao.

    Tin ông về tới, mong thăm hổi:

    Sáu bảy năm rồi, phải trái sao?

    NGUYỄN XUÂN TẢO dịch

    Chú thích:

    (1) Thượng thư họ Bùi: tiíc Bùi Ân Niên, ông đã bỏ quan về ở ẩn cùng với Nguyễn Khuyến. Được mấy năm lại ra làm quan đến chức thuợng thư.

    (2) Tày : chỉ kinh đô Huế. Tác giả muốn hàm ý kinh đô đã nằm trong tay giặc Tây rồi.

    (3) Lạc bằng đồng: sách Tăn thư kể rằng Sách Tình biết nước Tấn sắp loạn, chỉ con lạc đà bằng đồng trước thành Lạc Dương, than: “Rồi đây mày sẽ điíng giữa đống gai vậy”. Đây chỉ vận nước suy.

    (4) Ngựa quay về: Trần Nhân Tông sau khi đánh tan Nguyên, về yết lăng miếu có viết đôi câu đối: “Xã tắc hai phen bon ngvra đá; Non sông nghìn thuở vững âu vàng”. Ngvta đá tượng trưng cho công lao chinh chiến, o đây được dùng với ý mỉa mai; triều Nguyễn đầu hang giặc Pháp, ngụa đá không còn việc gì phải trỏ về.

    140. CHÂU GIANG BÙI THƯỢNG THƯ KINH Hồl, DỤC PHỎNG BẮT QUẢ, THI DĨ KÝ . II

    Tận nhật hàm bôi lãn quyển liệm,

    Hụu văn công chí hỉ bôi thiêm.

    Châu giang thủy khoát tam luu họp,

    Quế lĩnh tình khai nhất đính tiêm.

    Mai dịch thử hồi vô nhạn túc,

    Đỉnh hồ kỷ độ thất long nhiêm,

    Ngô châu hạnh hữu công danh tại,

    Phù tniọng tương lai bốc dược tiềm.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    QUAN THUỌNG TmrCHÂU GIANG HỌ ỒÙI TÌr KINH VỂ. MUỐN DỂN THẤM Dổl THÔI, LÀM THƠ GỦI - n

    Suốt ngày nhắp chén, ngại cuốn rèm lên,

    Nghe tin ông đén, chén mừng lại thêm.

    Sông Châu rộng là do ba nguồn hợp vào^^\

    Núi Quế tạnh trời, nôi rõ một ngọn nhọn hoắt.

    Độ này trạm mai không có dấu chim nhạn^^\

    Mấy lần hồ Vạc đã mất râu rồng^^l Vùng ta nay có tên ông còn lại,

    Chống gậy định tới bói việc bay nhảy hay lặn chim.

    Dịch thơ:

    Suốt buổi buông rem chén nhắp mau, Mừng nghe ông tới, rượu thêm hào. Sông Châu nước cộng ha dòng hợp, Núi Quế trời quang một ngọn cao. Chân nhạn trạm mai tin vắng bặt, Râu rồng hồ Vạc dấu còn đâu!

    Vùng ta may cố tên ông đó,

    Chìm nổi mong xem quẻ bói sao?

    NGUYỀN XUÂN TẢO dịch

    (1) Sông Châu quãng ỏr Phủ Lý là nơi họp luu của ba con sông Đáy, sông Nhuệ và sông Châu. Tác giả tuy tả cảnh quê huơng Bùi Văn DỊ nhung còn có ý ngầm chê trách ông này không được tnióc sau như một, lại ra làm quan với triều Nguyễn và cộng tác với giặc. Cũng như câu dưới, nói đến núi Quế (tên hiệu tác giả) để nói chí mình.

    (2) Châu nhạn: sách Hán thư: Tô Vũ đời Hán đi sứ Hung Nô bị giữ lại. Tô Vũ đi đầy, viết thư buộc vào chân nhạn gửi về nước. Sứ nhà Hán sang đòi trả Vũ về, nói “Vua Hán đi bắn ở vườn Thuọng Lâm, được con nhạn chân buộc thư, trong thư nói Vũ bị đầy ở chằm nọ”. Hung Nô phải trả Vũ về.

    Cả câu ý nói, giơ đâu còn những tôi trung như Tô Vũ.

    (3) Hồ vạc: sách Sử : vua Hoàng đế đúc vạc dưới chân míi Kinh khi đức xong liền cưỡi rồng lên. Ngươi đồi sau gọi nơi này là hồ Vạc. Cả câu ý nói; mấy vua triều Nguyễn lúc ấy đả mât hển.

    141. HỌA CÁC LÃO NGUYÊN VẬN

    Đăng tiền trùng bả cựu ngâm khan, Dục hiệu canh thù khổ hãn nhan. Phong hội tiệm xu văn diệc biến,

    Tính tinh chi trí họa vi nan.

    Giang tây nhật mộ hàm vân ảnh.

    Vị bắc đình u dạ vũ ban.

    Tắc đáo chỉ ung quai tắc vãng,

    Lục đê, hồng lệ đại ban lan.

    (YT)

    Dịch xuôi;

    HỌA NGUYÊN VẬN THƠ CỦA CÁC LÃƠ'>

    Trước đèn, giở xem lại bài thơ cũ của ông,

    Muốn gắng họa lại, khốn lại thẹn, mặt toát mồ hôi.

    Phong hội dần đổi, nền vãn không còn được như xưa^^\

    Tmh ý rất mực, cho nên khó mà hòa lại^^l Trời về chiều, phía tây con sông ngậm bóng mây,

    Cái đình âm thầm bắc sông Vy còn đọng vệt mưa toi^'^l Đã đến, chỉ nên hễ trái thì đi,

    Trên đê xanh, rặng vải đỏ, sắc màu sặc sỡ.

    Chú thích:

    I

    (1) Các lão: đây chỉ Nguyễn Thượng Phiên, đỗ tiến sĩ, làm quan đến thượng thư bộ Công, ông là bạn của tác giả và là thân sinh Nguyễn Thượng Hiền.

    (2) Phong hội dần dổi: nguyên văn là “phong hội tiệm xu” vừa có thể hiểu là phong hóa dần thay đổi (theo hướng suy đồi) vừa có thể hiểu là người đồi nay dần xu phụ theo phong hội mới (ý nói ra làm quan cho Pháp). ^

    (3,4) Hai câu này nhắc lại tình bạn giữa tác giả và Nguyễn Thượng Phiên. Câu trên dùng để nói Nguyễn Thượng Phiên. Câu dưới nói về tác giả. Hai câu này lấy tứ từ trong hai câu: 'Yị Bắc xuân thiên phụ. Giang Nam nhật mộ vân” (cây mùa xuân ở phía bắc sông Vị, mây đuổi chiều ở phía nam sông Giang) của Đỗ Phủ trong bài Nhật mộ hoài Bạch nói về tình bạn giữa Đỗ Phủ và Lý Bạch. Đổng thời, tác giả có thay đổi và thêm bót ý tứ để cho họp với tình cảnh của hai người lúc đó.

    142. PHỤNG ỦY NGUYÊN NAM XANG DOÃN HOÀNG THÚC

    Giang vân xuân thụ cửu huyền huyền,

    Nhất biệt kinh kim thập nhị niên.

    Ngẫu kiến đô” ngư xuyên lục trúc,

    Bất kham tàn lệ khấp thanh biên.

    Hào ngâm dật hứng thiên bôi tửu,

    Tế vũ vi phong nhị nguyệt thiên.

    Tụ tán thăng trầm hữu như thử,

    Bằng song khỏi độc vị quân hên.

    (A.469)

    Dịch xuôi:

    AN ỦI NGUYÊN TDI HUYỆN NAM XANG LÀ CHỦ HOÀNƠ^)

    Tình bạn thân thiết từ lâu xa cách, - Chia tay nhau đến nay đã mười hai năm.

    Bỗng thấy đám mọt đục tre lục^'\

    Không thể đem chút nước mắt còn sót lại mà khóc sử xanh. Cao hứng ngâm vang, uống nghìn chén ruợu,

    Gió nhẹ, mưa phùn trong cảnh tháng hai.

    Nỗi tan họp, cảnh thăng trầm là như thế đấy,

    Tựa cửa sổ, đâu phải chỉ xót riêng cho chú mà thôi.

    Dịch thơ:

    Nước mây bàu bạn bấy lâu, Mưỉrì hai năm ấy gặp nhau bây giừ.

    Giấy lề mọt gặm xác .

    Lệ đâu khóc sách bây gicr nữa đậy.

    Ngâm vang nghìn chén cho say. Hắt hiu gió bắc, lay phay mưa dầm.
     
    tducchau thích bài này.
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    P19
    :rose:

    Lẽ đời tan hợp, thăng trầm, Tựa song nào chỉ xót thầm một ai.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    (1) Chú Hoàng: T\íc là Hoàng Văn Tuấn (1823-1892), quê làng Đô Hoàng (nay thuộc xã Yên Thành, huyện Ý Yên) đỗ giải nguyên năm 1878, đã làm tri huyện Nam Xang (nay là huyện Lý Nhân). Ông đã tham gia các cuộc vũ trang chống Pháp do Phạm Văn Nghị tổ chik và phong trào cần vuong sau đó, đã bị thực dân Pháp bỏ tù. Ông là em ông Hoàng Kim Chung (thầy học Nguyễn Khuyến).

    (2) Tre lục: ngày xvra khi chưa có giấy nguôi ta viết chữ lên thẻ tre. Đây dùng hình ảnh ấy để nói bóng việc mọt gặm sách vỏ.

    143. KÝ TRÌNH sử QUẤN BÍCH KHUÊ HOÀNG sư CÁT

    Thịnh thời lê các sỉ triều quan,

    Lục thất niên gian đĩ trải quan. Bần bệnh khả liên lão tinong chí, Loạn ly bất phục hữu thư khan.

    Thi quy Dung Bội tư phong giáng, Sử đáo Đường Chu bút thậm nan. Văn đạo danh công phương bô tập, Lan đài ung hứa hậu nhân khan.

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    GỦI ÔNG BÍCH KHÊ HOÀNG ỗư CẤT ở ỔÍr

    Thời thịnh, hổ mình làm quan ưiều noi gác Sáu bảy năm nay đã treo mũ từ quan,

    cảnh nghèo ốm, đáng thuong cho cái già sắp đến,

    Lúc loạn ly chẳng còn quyển sách mà xem.

    Kinh Thi đến thiên Dung, Bội thì phong khí đã suy^^\

    Sử chép đến đoạn Đường Chu, thật khó hạ but^'^l

    Nghe nói đang soạn tập truyện những người có danh tiếng^^\

    Chốn Lan đài nên đê cho người sau xem^^l

    Dịch tho:

    Hổ mình thời thịnh một quan triều,

    Sáu hẫy năm rồi áo treo.

    Loạn ỉạc, hiếm hoi pho sách đọc,

    Ôm nghèo, khốn khổ cải già đeo.

    Đường Chu, bút sử xem chừng khó, Dung, Bội thời thơ hiển loạn nhiều.

    Tập truyện danh thần nghe mời soạn, Mong truyền hậu thể để ngự'ơi theo.

    NGUYỀN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) Hoàng Sit Cát: hiệu là Bích Khê, nguời xã Bích La, Quảng Trị. Khi Nguyễn Khuyến làm án sát Thanh Hóa thì ông này làm Bố chính ở đó.

    (2) Gác sử: nguyên văn là “lê các” (gác lê). Thời Hán, Luu Huong viết sách ở gác Thiên Lộc, có' ông già chống gậy lê, trên đầu gậy lê thổi ra lủa, nói chuyện với Lưu Huong. Đời sau gọi noi chép sách là “gác lê”.

    (3) Cả câu: theo quan niệm trước, ở Kinh Thi, các thiên Chu Nam, Thiệu Nam là “chính phong”, từ thiên Bội, Dung, Vệ trỏ xuống là “biến phong” vì thời loạn.

    (4) Đường Chu: Tức đời Võ Tắc Thiên nhà Đưòng. Võ là vọ vua Cao Tông. Khi Cao Tông mất, Võ dã truất ngôi con mà tự lập vua, đổi tên nước là Chu. Chỗ này các sử gia thời trước cho là khó viết.

    o hai câu trên, tác giả có dụng ý ám chỉ đương thời.

    (5) Đây muôn nói đến tập Đại Nam danh thần liệt truyện.

    (6) Lan dài: chỗ viết sử đời Hán, có lúc đặt chức Lan đài lệnh sử để chép sử.

    144. PHỤNG HỌA HIẾN ĐÌNH NGUYÊN VẬN

    Vị tất nhàn tâm phi ngã vọng,

    Hà tu dịch diện cấp nhân tri.

    Bách niên nhiên hậu tri tang bĩ,

    Đuong nhật hà thường vô thịnh suy.

    Bần bệnh thất nhân đa biến trích,

    Phù trầm ngô bốỉ thiểu tâm ky.

    Dĩ tai mạc thuyết hạm xa sỉ,

    Mạn mục y thường thị xú di.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    KÍNH HỌA NGƯiíÊN VẬN THƠ ÔNG HIẾN DÌNIÍ')

    Vị tất ta không mong muốn sự yên nhàn,

    Cần gì phải thay đôi bộ mặt đê người ta chóng biết.

    Trăm năm sau mód rõ là may rủi,

    Ngày nay sao lại không có thịnh, có suy?

    Nghèo túng ốm đau nên người thân trong nhà hay chê trách,

    Lên bông xuống trầm, vì bọn ta ít tính khôn ranh.

    Thôi thôi đừng nhắc đen nỗi nhục vì bị đóng cũi^^\

    Nhan nhản trước mắt ta, bọn xiêm áo xênh xang toàn là lũ rợ.

    Chú thích:

    (1) Nguyên chú của tác giả: “ông Hiến Đình là bạn cùng khoa với tôi, năm ngoái bị giam, con tôi là Hoan vào Kinh thi đình, nhân làm thơ này dể thám”.

    (3) Cũi: nguyên văn “hạm xa”, đó là loại xe tù, trên có ken chấn song để nhốt tù nhân (theo Thích danh).

    145. KÝ DUY TIÊN ÁN SÁT sứ'>

    Nhất biệt xâm tầm tử ngũ niên,

    Văn quân độc tọa Đội son điên.

    Vân gian cao xưóng tinh thần động, Dạ bán sơ chung mộc thạch miên. Tam đại đĩ hoàn tuong quỉ mị, củu châu thử xứ định thần tiên.

    Đông ly tôn tửu mạc tuông tiếu,

    Nhất túy doanh hoàn tận diểu nhiên.

    (A. 469)

    Dịch xuôi:

    GUI ÔNG ÁN DUY TIÊU<‘>

    Xa nhau thấm thoát đã bốn, năm năm,

    Nghe nói bác ngồi một mình trên đỉnh núi

    Giọng ngâm cất cao tận tầng mây, trăng sao rung động,

    Tiếng chuông thưa lúc nửa đêm, gỗ đá ngủ yên.

    Từ Tam đại trở về sau hầu như là ma quỉ cả^^\

    Trong chín châu, chắc chắn đây là noi thần tiên^'*l

    Có người đang nâng chén rượu ở bờ giậu phía đông, xin bạn chớ cười,

    Hê lúc say thì đến cả vũ ưụ cũng đều coi là bé nhỏ cả^^^.

    Dịch thơ;

    Bốn, năm năm trọn những xa nhau. Non Đội ông ngồi ngất đỉnh cao. Chuông lửng canh khuya say gỗ đá. Ngân vang tầng biếc động trăng sao.

    ĐM thành ma quỉ sau Tam đại.

    Đây hẳn thần tiên giữa cửu châu.

    Giậu cúc chớ cười người mãi chén.

    Chén say trời biển thấy đâu?

    NGUYỄN VĂN TÚ dịch^*^

    Chú thích:

    (1) Túc Vũ Duy Vỹ, người làng Bài Nhiễm, huyện Duy Tiên (nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh), đỗ phó bảng, làm quan đến án sát, về hưu trí, ngồi dạy học ở núi Đội Sơn, nguyên là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến.

    (2) Xem chú thích bài Nhó núi Đội, phần thơ Nôm.

    (3) Tam dại: ba đời vương thuở trước ở Trung Quốc, tức là nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu.

    (4) Chín châu: người xưa chia Trung Quốic làm chín châu, cho đó là cả thiên hạ.

    (5) Để cho sát ý, cây này có thể dịch là: “Chén say, vũ trụ kể gì đâu”.

    )

    146. KÝ BÀI NHỂM vũ NIÊN ÔNG^*^

    Dư bệnh, quân kim diệc thoái cư,

    Tư quân diểu diểu diệc sầu dư.

    Quả năng ty thế, thế an ty?

    Túng bất sơ nhân, nhân tự sơ.

    Lão hỹ, bất tri đương thế vụ,

    Cố tai, do độc cổ nhân thư.

    Chỉ duy đắc cận duong duong thủy,

    Hửu tửu duong tầm tự hữu ngư.

    (A. 3160)

    Dịch xuôi:

    GỦI ÔNG BẠN ĐỔNG KHOA HỌ vũ ở ỒÀI NHỄM^I)

    Tôi ốm, nay bác cũng lui về ở nhà,

    Ngong ngóng nhớ bác lòng tôi cũng thấy buồn.

    Đành rằng có thể tránh đòi được, nhưng tránh vào đâu?

    Dù mình có muốn không xa người, thì người cũng tự xa mình. Già rồi! Không biết đến việc đòi này nữa,

    Gàn thay! Còn đọc mãi sách người xưa.

    Chỉ may được gần dòng nước mông mênh,

    Có rượu đem đến tìm nhau, thì sẵn có cá ngay.

    Dịch thcr.

    Ta ốm ông cũng nhà.

    Nhử ăng ngong ngóng cũng buồn ta. Trốn đĩrì nào được? Đỉrì ỉdiôn trốn,

    Xa bạn không rồi bạn cũng xa.

    Già quách! Nổ bàn chi sự thể.

    Gàn thay! Còn đọc sách người xưa, Cũng may được gần sông mức,

    rượu tìm sang cả sẵn chừ.

    VŨ MỘNG HÙNG dịch<*>

    Chú thích:

    (1) Tức Duy Vỹ nói ở bài trên.

    * 147. KÝ SONG KHẾ LƯƠNG XÁ LÊ ÔNG^*^

    Lão lai đồng tác loạn ly luân, Huống trị hung thiên cơ cận trăn.

    Tuòĩig bích vị tu, quân hoạn đạo, ưng tôn bất cấp, ngã tru bần.

    Lao lao ưần thế thùy phi dịch,

    Lục lục phù sinh hoạn thử thân.

    Sở đắc độc hên Bành Trạch tể,

    Bắc song túy ngọa, mộng hồn xuân.

    (A.469)

    Dịch xuôi:

    GỬI ỒẠN DỔNG HỌC HỌ LÊ ở LUCfNG

    Trở về già, bọn ta cùng là người đời loạn cả,

    Huống chi lại gặp năm mất mùa, cảnh đói kém dồn đến.

    Tường vách chưa sửa xong, bác thường lo mất trộm,

    Bữa sớm bữa tối không đủ, tôi những lo về cảnh nghèo.

    Trên cõi trần, ai không phải làm ăn vất vả,

    Nhưng cái thân tầm thưòng trong kiếp sống trôi nổi thì cũng đáng lo. Vì thế chỉ mến quan tể đất Bành Trạch^^^,

    Say rượu nằm ngủ trước song phía Bắc, mộng hồn vẫn phơi phód

    ve xuăn.

    Dịch tha

    Tuổi già đòi loạn cảnh gieo neo,

    Mùa mất, dồn thêm nạn đói theo.

    Tường vách chưa xong, ông sợ trộm,

    Cháo rau không đủ, lão lo nghèo.

    Cõi trần chật vật ai không thế,

    Thân thể loàng xoàng nghĩ chấn phèo.

    Riêng cụ Đào xua sung suóng nhỉ, Trước song say tít lại nằm khoèo.

    Đỗ NGỌC TOẠI dịch<*>

    Chú thích:

    (1) Lương : lúc ấy thuộc huyện Mỹ Lộc, nay thuộc huyện Bình Lục.

    (2) Quan tể Bành Trạch: chỉ Đào Tiềm.

    148. KÝ KHẮC NIỆM DƯƠNG NIÊN ÔNG - f *

    Khứ tuế phùng quân kim nhất niên, Hoàng hoa thúy trúc nhập thu niên. Đầu đồng, xỉ khoát các như thử, Nhõn cự, thanh chung ung thả nhiên. Kho hận sở cầu thiên nhật túy, Phóng ngâm hà tất vạn nhân truyền. Thành môn nhiễu nhiễu trần ai thậm, Chỉ khủng hồ tây áp mộ yên.

    (A.3160, A.469)

    Dịch xuôi:

    GỦI ỒẠN DổNG,KHOA HỌ DUONG ở XÃ KHẮC NỆM -

    Năm ngoái gặp bác đến nay vừa một năm,

    Cúc vàng, trúc biếc trời đã sang thu.

    Đầu hói, răng thưa, hai ngưòd đều thế cả,

    Mắt như đuốc, tiếng như chuông, có lẽ bác vẫn như ưước*] Tức giận lắm chỉ muốn say hàng nghìn ngày^^\

    Thơ ngâm tràn, cần gì phải vạn ngưòd truyền tụng.

    Nơi thành thị đã bụi cát mù mịt,

    Chỉ sợ phía bên tây hồ cũng bị khói chiều đè nặng.

    Gặp nhau vừa một năm qua,

    Hoa vàng, trúc biếc, trỉrì đà sang thu.

    Cùng đầu hói răng thưa,

    Tiếng vang mắt sáng, bác như mọi ngày?

    Hĩm căm muốn uống thật say,

    Ngâm tràn chi phải qua tai muôn người.

    Cồng thành bụi cát tơi bòi,

    Bên hồ e lại nơi ìâiói .

    ĐỔ NGỌC TOẠI dịch^*)

    Chú thích:

    (1) Bạn dồng khoa họ Dương-, tức Dương Danh Lập người làng Khắc Niệm, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (nay là Hà Bắc) đỗ cử nhân khoa Giáp tý đhi Tự Đức (1864), đồng khoa với tác giả, năm sau thi hội, đỗ phó bảng, làm án sát tỉnh Hà Tỉnh.

    (2) Say nghìn ngày: sách Tửu sử chép: Lưu Huyền Thạch đến Trung son mua một thứ rượu lạ, uống vào say nghìn ngày.

    149. KÝ KHẮC NIỆM DƯƠNG NIÊN ÔNG - II

    Phong trần lạc lạc các đông tây,

    Nhất độ tư quân thu ích thê.

    Túc vũ khỏi khan hoàng cúc sấu,

    Vãn son cao xuất bạch vân tề.

    Túy huong dị dữ phàm nhân tịnh,

    Thi xã nan câm hậu bốì đề.

    Thừa hứng du nhiên dục tương phỏng,

    Biển chu tạc dạ quá tiền khê.

    (A.469a, A.3160)

    GỦI ỒẠN ĐỔNG YỊÍOA HỌ DUƠNG ở XÃ KHẮC NỆM-n

    Trong cơn gió bụi, mỗi nguời một nơi không gặp nhau, Mỗi lần nhớ đến ông, mùa thu thêm ảm đạm.

    Mưa đêm, trở dậy xem cúc vàng gầy guộc,

    Núi chiều hôm như cao lên ngang tầm mây trắng.

    Trong làng say, dễ cùng ngang hàng với kẻ tầm thường, ở hội thơ, khó ngăn người lófp sau đề vịnh Nhân hứng bỗng nhiên muốn đến thăm bác,

    Con thuyền nhỏ đêm qua đã sang con ngòi phía trước rói.

    150. DỮ HỮU NHÂN ĐồNG, TốN DẠ THOAf*

    Nhất biệt thư trai tứ thập niên,

    Như kim tương đối đĩ bà nhiên.

    Nguyên lưu ích viễn tii thùy thị,

    Sách tái tương tranh các tự hiền!

    Thân kiện hỉ khan quân hữu mẫu.

    Nhõn hoa sầu thán ngã vô thiên.

    Tương tương bả ưản đồi nhiên túy,

    Bất giác song tiền chẩm tạ niên.

    (A.3160, A.469)

    Dịch xuôi:

    BAN DẺM NÓI CHUYỆN VỚI BẠN LÀ DốNG VÀ TốN<'>

    Từ khi xa nhà học tính đã bốn muơi nàm,

    Ngày nay lại ngồi cùng nhau thì đầu đã phơ bạc.

    Nguồn và dòng ngày càng xa nhau, biết ai là phải,

    Nguời đọc sách, người đánh cờ tranh cãi nhau, ai cũng tự cho

    mình là hom^^l

    Mùng bac còn mẹ già sức vẫn mạnh khỏe,

    Ngán cho tôi mắt lóa, chẳng biết trời đâu.

    Cùng nhau đánh chén say ngả say nghiêng,

    Thành ra gối lên nhau ngủ ở trước cửa sô mà không biết.

    Chú thích:

    (1) Đồng, Tôn: vốn là hai anh em Lê Ngọc Đồng, Lê Ngọc Tốn. Ông Tốn ít tuổi, ngành ,trên, cùng quê Vy Hạ. ông Đồng có học nhung không đi thi. ồng Tốn ít chữ nghĩa nhung giỏi cơ.

    (2) Đọc sách dánh cờ: sách Trang sử: Tang và Cốc, hai người cùng chăn dê và cùng đánh mất dê. Nguời ta hỏi tại sao thì Tang nói là vì dọc sách; Cốc nói là vì đánh cơ. Hai người này tuy việc làm có khác nhau, nhưng cùng làm mất dê, lỗi như nhau cả. o đây, ý nói không ai hơn cả.

    151. TẶNG HỮU NHÂN LAI PHỎNG CHI TÁC

    Tịch dưang kiều bạn xuóng ly câu,

    Tuế nguyệt thiên luu cáp kỷ thâu.

    Ám tín tằng kinh phong vũ trệ,

    Thi ngâm bất vị tuyết sương cồ.

    Tuong nghi đĩ thị phong luu khách,

    Bất giác do vi hoạn duõng đồ,

    Khứ nhật tuong yêu đa thiêu cú,

    Đông son minh nguyệt đáo quân phầu?

    (YT)

    TẶNG ỒẠN TỚI THẤM

    Một buổi chiều tà, bên cầu hát bài ca “ly câu” Năm tháng trôi qua đã mấy thu rồi!

    Tin tức do gió mưa mà bị ngừng trệ,

    Thơ ca chẳng vì sương tuyết mà kém đi.

    Bác tưởng ta đã là khách phong lưu,

    Chẳng ngờ ta vẫn còn là loại ăn bám.

    Mấy câu mòi bác, gửi ngày hôm trước,

    Trăng sáng non đông, có đến bác không?

    Dịch thơ:

    Đưa tiễn bên cầu bóng xế ,

    Tháng năm thấm thoát mấy thu qua.

    Thơ ngâm không nhụt sương tuyết,

    Tin gửi ngăn bởi gió mưa.

    Những tưởng đâu ngưM sướng lắm,

    Nào hay đây vẫn kẻ ăn nhừ.

    Dăm câu mời bác đưa hôm tniởc,

    Trăng sáng non đông đến a?

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    Chú thích:

    (1) “Ly cău”\ một khúc ca ngày xưa hát khi chia tay nhau.

    *

    152. Dữ ẤP NHÂN DỤC THOẠI

    Hạ nhật suy ông lãn cử bôi,

    Tửu bình kim nhật vị quân khai.

    Tọa gian duy hữu đàm phong thủy.

    Nhật hạ thùy năng động vũ lôi.

    Tà ảnh tẫn tùy tây lĩnh một,

    Huân phong thời bạng bắc song lai. Ngã phuong túy ngọa quân như khứ, Thùa hứng tuong chiêu hụu nhất hồi.

    (A.3160)

    Dịch xuôi:

    MUỐN NÓI CHUYỆN VỚI NGUỜI LÀNG

    Ngày hè, lão óm này ngại cất chén,

    Hôm nay mở bình rượu là vì có ông.

    Ngồi với nhau chỉ toàn là chuyện nước lụt, gió bão,

    Dưới mặt trời này, ai có thê làm sấm động, mưa rơi?^'^

    Bóng tà khuất hẳn sau rặng núi phía Tây,

    Gió mát luôn đến từ cửa sô phía Bắc.

    Ta vừa say nằm, ông nếu có về,

    Nhân hứng, ta lại mòi nhau chầu khác.

    Chú thích:

    (1) Sấm mica: lấy ý từ quẻ Chấn trong Kinh Dịch, là quẻ nói về sự lay chuyển cái cũ, chấn hung cái mới. Câu này thể hiện thâm ý của tác giả mong cuộc đòi đổi mới, mong rằng sẽ có những con người ra tay để xoay chuyển tình thế, làm sấm, để lay động cái cũ, làm mua để tuói nhuần cho vạn vật.

    153. HẠ NHẬT THƯ HƯƠNG SINH NGUYEN THI TRANG

    Ngũ thập kỳ nho anh vị hài,

    Ngũ gian mao ốc hỉ sơ tài,

    Đường tôn luyến tổ đương môn lập,

    Lân tẩu văn tân việt dĩu lai.

    Khước thử ly tiền tu trúc họp, Ngâm phong trì bạn tiểu đăng khai. Dữ quân tuong cận hoàn tuông ái, Thần lịch phù cùng thả mạc xai!

    (VHv 1863, THT)

    Dịch xuôi:

    NGÀY HÈ DỂ NHÀ HIOÍG ỖINH HỌ NGUYEN

    Ông là nhà nho đã năm miĩoi tuổi mà con vẫn còn ẵm ngửa, Tôi mừng cho ông mới dựng được năm gian nhà tranh.

    Đứa cháu nội sán ông, đứng ngay giữa cửa,

    Ông hàng xóm nghe có khách, vượt cửa sô sang.

    Lùm tre cao ken lại ưiỉớc hàng rào che bót ánh nắng,

    Đám ấu nhỏ mọc bên bờ ao reo vui ttong gió.

    Ông, tôi gần gụi lại men yêu nhau,

    Sớm chiều chống gậy sangxhoi, đừng lấy làm ngại!

    Dịch thơ;

    Năm mươi vẫn ẵm con thơ,

    Năm gian nhà cỏ mừng vừa dựng xong!

    Cháu trai đứng sán lấy sông,

    Xóm giềng thấy khách cửa thông sang chào.

    Hàng tre rợp nắng hên rào,

    rào cụm ấu mặt ao gió lùa.

    Gần nhau càng mến càng ưa,

    Ngại chi chống gậy sờm trưa chuyện ừòì

    NGUYỀN XUÂN TẢO dịch

    I

    >

    Dịch xuôỉ:

    154. THOẠI TĂNG^*^

    Thiếu thời ngã học tử gia biên,

    Ngã vị vi quan, tự vị thiền.

    Tự tử vân du ngã quan khứ,

    Thử gian tiêu túc luỡng mang nhiên. Bất tri xa lạp kim hà tịch,

    Dĩ thị phong ưần nhị thập nÌL._

    Ngã đĩ từ quan hụu cấu tử,

    Khán lai câu vị tĩnh trần duyên.

    (A.3160, A. 469)

    NÓI CHUYỆN VỚI m



    Khi còn trẻ, tôi học ở gần nhà ông,

    Tôi chưa làm quan, ông chưa làm sư.

    Từ khi ông vân du, tôi cũng đi làm quan^^^,

    Trong thời gian đó tin tức hai bên mờ mịt.

    Không biết đêm nay là đêm gì mà kẻ xe, nguừi nón gặp nhau^^^ Thấm thoắt đã trải gió bụi hai mươi năm rồi.

    Nay tôi đã từ quan về lại gặp ông,

    Xem ra chúng ta đều chưa giũ sạch trần duyên cả.

    Dịch thơ:

    ilil

    k ' .V.

    ỉl

    Nhờ xUa tôi bắc gần nhà,

    Tôi còn đi học, bác chưa đi chùa.

    Từ ngày gần Phật, gần vua,

    Hai bên tin tức mịt mờ cả hai.

    Nón xe nào biết rày,

    Phong trần thoắt đã hai mươi năiĩĩ tnCcmg Nay về gặp mặt tổ tường,

    Hai ta duyên nợ còn vương vơi đòi!

    NGUYỄN VĂN TÚ dịch^*^

    Chú thích:

    (1) Vân du\ chỉ người tu tiên, tu Phật nay đây mai đó, như đám mây trôi.

    (2) Xe, nónv dịch chữ “xa, lạp”, cổ ngữ có câu: “quân thừa xa, ngã dói lạp, tha nhật tương phùng hạ xa ấp” (bác ngồi xe tôi đội nón, ngày khác gặp nhau xuông xe vái chào).

    155. TẶNG HÀNH NHÂN NGƯYỄN ĐÀI

    Quân gia tài trụ ngã gia biên,

    Nhất khử xâm tầm hựu nhất niên. Lão bệnh cùng giao ung tích biệt, Loạn ly hàn sĩ tối kham liên.

    Gụu tình lịch sổ thanh xuân ngoại, Trọc tửu tuong khuynh lục trúc tiền. Trù truóng minh triêu thiên lý lộ,

    Vy vân, Đằng nguyệt các du nhiên.

    (VHv 1864, THT)

    Dịch xuôi:

    TẶNG ỒẤC NGƯÍỄN DI

    Nhà bác mới đến ở cạnh nhà tôi,

    Ra đi dần dà đã lại một năm.

    Bạn nghèo, tuổi già yếu, buồn cho lúc ly biệt, Hàn sĩ buổi loạn ly, thực là đáng thuơng!

    Tmh bạn cũ trải mấy độ thanh xuân ngày trước, Chén rượu nhạt cùng nâng mòi bên rặng tre xanh. Buồn nỗi sáng mai bác đã lên đưÒTig ngàn dặm, Mây sông Vy, trăng sông Đằng vời vợi cách xa^-^.

    Nỉià ông vừa dọn cạnh nhà tôi.

    Thoắt đã ra đi. năm chẵn rồi.

    Già yểu bạn nghèo đau cách biệt!

    Loạn ỉỵ hàn đáng thương ôi!

    Tuổi hoa gắn tình thêm đậm.

    Trúc biếc nghiêng che chén cạn mìn.

    Buồn bấy sáng mai ngàn dặm trẩy,

    Trăng Đằng, mây Vy cách đòi nơi.

    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    í

    Chú thích:

    (1) Bác Nguyền: chira biết là ai.

    (2) Đằng: sông Bạch Đằng, trên đường đi sứ của ông Nguyễn. Vỵ: sông Vy, con sông chảy qua quê hương tác giả.

    156. TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH sứ QUÂN LÊ NHƯ BẠCH, NHÂN KÝ KINH THÀNH CHƯ MÔN ĐỆ''* - I

    Biệt tử đô môn kim thất niên,

    Quy lai ngã diệc quyển thanh chiên.

    Mộng trung thân thể cơ vi điệp,

    Loạn hậu văn chuông bất tộ tiền!

    Phong vũ tu đồ năng đáo thử,

    Sơn hà vãng sự nhất thê nhiên^^^.

    Minh triêu hụu thị giang kiều lộ,

    Bại nhữ tàn vân thất nguyệt thiên.

    (A.469, A.3160)

    Khảo dị:

    (a) A.3160; Tiễn kinh trung môn nhân 392

    A.469: ... sứ quân Bạch Như (b) A.3160: Son hà tùy sự nhất thê nhiên

    Dịch XUÔI:

    TỄN HỌC TDỎ LÀ NGĨM DMỈ ỒÍrC^ÂN LÊ NHƯ5ẠCH, NHÂN TỆN GỦI CHO CẤC HỌC TDÒ ở KINH THÀNH.

    Từ biệt anh ở kinh thành đến nay đã bảy năm rồi,

    Trở về nhà, ta cũng cuốn tấm đệm xanh từ đấy^*l Nghĩ thân thể hầu như một giấc mộng hóa bướm^^\

    Mà văn chương sau buổi loạn lạc, rẻ rúng không đáng tiền. Đường dài mưa gió, anh đã không quản ngại mà đến đây,

    Nhìn lại những việc đã qua trên núi sông, lòng càng đau xót. Sáng mai, anh lại lên đường, qua sông qua cầu,

    Giữa tiết ười tháng bảy, mây tàn, bông bay xơ xác.

    Dịch thơ:

    Chia tay cửa khuyết bảy năm qua,

    Xếp tấm mền xanh lão lại nhà.

    Thân thể giấc thành bướm hẳn,

    Văn chương thời loạn đáng tiền chưa?

    Gió mưa chang quản xa xôi đển,

    Non nước thêm buồn biến cố xưa.

    Mai lại trên đường sông nước cách.

    Trời thu tan tác bóng mây thưa!

    NGUYỀN VĂN TÚ dịch^*)

    Chú thích:

    (1) Đệm xanh: Sách Tân Thur. Vương Hiến Chi đang đêm thây trộm vào nhà, vơ vét đồ vật, lấy cả chiếc đệm xanh lâu đòi của nhà ông. ông vội kêu lên rằng: “Chiếc đệm xanh là vật cũ của nhà ta, dể lại cho ta!”. Kẻ trộm sợ chạy mất. Từ đó, người ta dùng chữ “đệm xanh” để chỉ nền nếp học hành của nhà nho. Trong bài tác giả dùng chữ “thanh chiên” để chỉ việc dạy học.

    )

    )

    )

    (2) Sách Trang tử chép: Trang Chu mộng hóa làm bươm bướm. Lúc tỉnh dậy, thấy mình vẫn là Trang Chu, tự nói: “Không biết mình mộng hóa thành bướm hay bướm mộng hóa thành mình?”. Đấy là một truyện ngụ ngôn, Trang chu cắt nghĩa rằng dù Tam Trang Chu hay làm bươm bướm, cũng chẳng qua là một sự biến đổi của vật thể (vật hóa), không đáng lo ngại. Trong thơ, tác giả đã dựa vào điển trên để nêu ý: thân thể của mình hầu như có thay đổi, nhưng cũng chẳng đáng quan tâm.

    157. TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH sứ QUÂN LÊ NHƯ BẠCH, NHÂN KÝ klNH THÀNH CHƯ MÔN ĐỆ -

    Nhất biệt đô môn tuế thất chu,

    Phùng quân cánh ức cựu tòng du.

    Dao đao quan tái kim hà tịch,

    Lạc lạc phong trần các nhất châu.

    Bút nghiền trầm tư ung hữu lệ,

    Son hà cử mục bất thăng thu^^^.

    Quân quy ký ngữ tuong tri giả,

    Huyền Án tiên sinh đĩ bạc đầu!

    (A.469, A.3160)

    Khảo dị:

    (a) A.469: Sơn hà cử mục thăng sầu.

    Dịch xuôi:

    TẺN HỌC TDÒ LÀ NGIM DỊNH ỔÍr QiỊÂN LÊ NHƯ DẠCH NHÂN TỰN GỦI CHO CÁC HỌC TDỎ ở KMI THÀNH - n

    Từ khi biệt nhau ở cửa đô thành, chốc đã bảy năni,

    Nay gặp anh ở đây, lại nhớ đến các người theo học cũ.

    Quan ải xa xăm, ngờ đâu lại gặp,

    Gió bụi bời bời, mỗi người một ngả.

    Ngẫm đến bút nghiên đáng tràn nước mắt,

    Ngước nhìn sông núi, khôn xiết buồn đau.

    Anh về, lão gửi lời nói cho mọi người quen thuộc biết,

    Rằng: Huyền Án tiên sinh nay đã bạc đầu rồi^*^!

    Chú thích:

    (1) Huyền Án tiên sinh: Hoàng Phủ Dật là ẩn sĩ đời Tấn. Vua Tấn vbi ra làm quan nhiều lần, nhung ông không ra. Khi chết, vua Tấn ban cho tên thụy là Huyền Án. Thơ Tiết Phùng đoi Đuòrng có câu: “Huyền Án tiên sinh dĩ bạc đầu; Bât tùy duyên lộ hiệp quần âu”, tạm dịch: Huyền Án tiên sinh đã bạc đầu; Không theo le vịt, bạn bầy âu. Đây tác giả tự ví với mình.

    158. KÝ HÀ NỘI KHỂU TIÊN SINH

    Thụy khỏi song tiền thử khí huân, Thanh phong hà xứ hốt tuong phùng. Hiểu đôn tróc ảnh tài tam xích,

    Mộ liễu giang biên vị thập phần.

    Nhất dạ đàm tâm tuy hữu tửu,

    Bán không cử mục tóc phù vân.

    Khả liên ngô bôi sơ cuồng thậm,

    Hoặc đắc tân văn bổ cụu văn.

    (A.469)

    Dịch xuôi:

    GỦI KĨIIỂU TỂN &m

    Ngủ dậy bên cửa sổ, khí nóng hầm hập bóc lên,

    Bỗng nhiên được gặp bác như có trận gió mát từ đâu thôi tới.
     
    tducchau thích bài này.
  5. Wanderman

    Wanderman Lớp 4

    Cuốn này có epub chưa hả các bác?
     

Chia sẻ trang này