Thể loại khác Truyện ngắn_ Tạp chí Kiến thức Ngày nay

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 24/11/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Trong topic này là các truyện ngắn nước ngoài & truyện ngắn Việt Nam đã được đăng tải trên Tạp chí Kiến thức Ngày nay, hoi_ls cóp nhặt từ số sách cũ hiện có tại nhà mình và chia sẻ cùng các bạn.





    ĐỒNG CẢM

    Truyện của Elliott Capon
    Ngọc Ngà dịch


    Bị khích động bởi ánh sáng chói lòa của các đèn chiếu truyền hình, con cá mập trắng đói lồng lộn đảo qua lại trong hồ nước rộng. Nó thèm muốn giết chóc và chờ đợi một con mồi.

    Đứng trên một câu nhảy lắp tạm, nhô ra phía trên hồ, Clark Penner chuẩn bị động tác nhảy...

    Khi vợ chồng Penner biết họ sắp có đứa con thứ ba, cả hai đều sợ phản ứng của Freddie, đưa con trai đầu lòng, 7 tuổi. Hai năm trước, khi có một em gái, Freddie không ngừng tìm đủ cách làm em nó rơi khỏi nôi, đánh em và ném mọi thứ vào em, đến độ ông bà Penner phải đưa Freddie đến khám nơi một nhà tâm lý. Kết luận của chuyên viên: Freddie lả một đứa trẻ loạn tính nết, mất thăng bằng về tâm trí, và hơn nữa có “bản chất ác”.

    Mọi cách chữa trị được thử qua: cho Freddie dùng amphétamine, trừng phạt, khen thưởng... nhưng vô hiệu. Phương cách duy nhất để giữ em bé được an toàn là thường xuyên canh chừng Freddie. Một đứa trẻ nữa ra đời, sự việc càng thêm phức tạp, Freddie có thể tấn công đứa em này hay đứa em kia. Không một nhà trẻ nào muốn nhận Freddie, vì quá khó đối với họ. Cũng không một bệnh viện tâm thần nào muốn nhận đứa trẻ: nó chưa phải là điên, ông bà Penner xem phá thai như một tội ác, nên trong 9 tháng trời, họ băn khoăn, lo lắng cho sự an toàn của đứa con sắp chào đời.

    Trong gần 10 tháng sau khi Clark Sheldon Penner ra đời, không có gì rắc rối xảy ra. Freddie không được phép đến quá gần em, nhưng đứa trẻ kiên nhẫn đợi chờ thời khắc nó có thể ra tay. Một ngày nọ, cơ hội đã đến, Freddie chạy vào phòng cha mẹ, nơi đặt nôi của bé Clark, tay cầm một con dao bị mẻ, mà nó nhặt được trên đường, vẻ khoái trá, Freddie ngắm những hạt bụi nhảy múa dưới ánh nắng.

    Siết chặt con dao, Freddie nhón chân đến gần nôi. Động tác này thu hút sự chú ý của bé Clark, nó xoay đầu lại. Có lẽ cảm thấy sự nguy hiểm đang đe dọa, Clark mở to mắt và ngưng líu lo. Freddie nở nụ cười nhạo, giơ con dao ra. Nhưng đúng lúc ấy, Freddie đâm hoảng hốt, ngừng tay lại. Cổ họng nó se thắt và tim đánh dồn dập. Tai nó ù đi vì tiếng gầm rít. Freddie chưa bao giờ cảm thấy sợ như vậy, và nguyên do hẳn là vì đứa bé nằm trong nôi. Freddie hét to, bỏ rơi dao và chạy trốn về phòng. Vài phút sau, mẹ nó tìm thấy nó ngồi co rúm trong một góc phòng, không thọt ra được một lời nào. Tối ấy, khi cha mẹ đưa bé Clark ra phòng khách, đang đứng đấy, Freddie nháo nhào chạy ra khỏi phòng và rú lên như một kẻ điên. Nó đóng kín cửa, không chịu ra. Chừng ấy đủ để ông bà Penner đưa Freddie vào sống trong một khu an dưỡng dành cho bệnh nhân tâm thần. Freddie sống suốt đời ở nơi ấy.

    Clark Penner lớn lên, trở thành một bé trai rất đáng yêu. Không ai có thể cưỡng lại nụ cười thẳng thắn và vui tươi của cậu bé. Clark đem lại niềm hạnh phúc cho mọi người, nhất là cha mẹ em. Lên 8 tuổi, lần đầu tiên Clark biết thế nào là sợ hãi. Em đang bước trên một lối nhỏ, dẫn đến một khu đất bỏ không, được canh giữ bởi một chú chó berger Đức to lớn, vẻ dữ tợn. Vừa thấy con chó, Clark đứng sững lại Trong khi em đờ người vì sợ hãi, con chó nhếch mép, nhảy chồm tới. Clark tái mét, thét lên. Đang ngon trớn, đột nhiên con chó sững lại, ngã xuống đất do sức nặng của nó, 4 chân giơ lên trời. Rồi nó quay đầu, rên rỉ, ba chân bốn cẳng chạy trốn, tai rũ, đuôi quắp giữa hai chân, như vừa bị đuổi đánh. Còn Clark ngơ ngác, ngồi bệt trên đất, khóc nức nở.

    Ở trường trung học, bạn bè của Clark kinh ngạc vì sức thu hút của anh đối với các thiếu nữ. Họ đang trong tuổi dậy thì, và như mọi cậu trai ở vào độ tuổi này từ ngàn năm nay, các cậu vụng về ra sức quyến rũ bạn gái cùng lớp. Clark cũng có cùng mục đích, nhưng anh đạt thành công chẳng chút khó khăn. Khi anh thích một cô gái nào, thì cô ấy đỏ mặt, thở như sắp đứt hơi, và cuối cùng, theo anh đến một góc kín đáo, thơ mộng.

    Chỉ đến khi vào đại học, theo học môn siêu tâm lý, Clark mới khám phá ra sự thật: anh có thiên khiếu về tha giác (empathy), tức là có khả năng tác động trên cảm xúc và tình cảm của người khác. Chẳng hạn anh có thể truyền cho một con chó dữ nỗi sợ hãi mà chính con chó gây ra nơi anh, khiến con chó phải chạy trốn. Anh có thể truyền đạt niềm vui, lòng yêu đời của anh cho người khác, hay làm nảy sinh nơi một thiếu nữ cái cảm giác khao khát mà anh cảm thấy khi đứng trước cô. Ý thức mình có năng khiếu đặc biệt này khiến anh như bị nhấn chìm trong đợt sóng lớn. Và một loạt biến cố hiện lên trong trí nhớ của anh, anh đã tìm ra lời giải thích. Anh có một khả năng phi thường: kiểm soát cảm xúc của người khác chỉ bằng cách khiến họ chia sẻ cảm xúc của anh. Anh sẽ làm gì với khả năng này?

    Clark là người có lòng vị tha và trung thực, nhưng anh không thấy có lý do nào để không dùng đến năng lực tiềm ẩn này. Ở đại học, Clark gặp lại Stewart Kogan, một người bạn thời niên thiếu. Khi Clark kể cho Kogan nghe trường hợp của anh, Kogan nảy ngay một ý:

    - Chúng ta sẽ thực hiện một màn quảng cáo ngoạn mục. Một sô trình diễn đầy ấn tượng. Cậu phải chứng tỏ cậu có khả năng đặc biệt ấy. Sau đó, chúng ta chỉ việc hái ra tiền: truyền hình, lưu diễn...

    Clark càu nhàu:

    - Tôi muốn sử dụng khả năng của mình, chứ không phải gây một hiện tượng nổi đình nổi đám trên các phương tiện truyền thông.

    - Bộ cậu muốn tập hợp các nguyên thủ quốc gia lại và khiến họ yêu nhau? Này, phương cách duy nhất để khai thác tài năng của cậu, chính là kiếm tiền nhờ quảng cáo.

    Và Stewart Kogan cười lớn:

    - Nghe đây anh bạn, hay để tôi làm, tôi sẽ lo liệu tất cả.

    Clark không biết Kogan xoay xở ra sao. Thế mà anh chàng này thuê được một hồ nuôi cá mập tại thủy cung địa phương, mà chẳng phải bỏ ra xu nào. Và Kogan mời tất cả các kênh truyền hình gửi phóng viên đến để chứng kiến và tường thuật biến cố.

    Thoạt đầu, Clark phản đối việc anh được giới thiệu như một “sinh viên có khả năng sống sót trong một hồ cá mập”, nhưng Kogan thuyết phục anh:

    - Cậu sẽ không gặp rủi ro nào, cậu biết tại sao không? Vì khi cậu nhảy vào hồ, cậu sẽ hoảng sợ. Cậu còn nhớ chuyện con chó berger? Ở đây cũng giống như vậy. Con cá mập sẽ không dám chạm vào cậu, vì nó sợ. Cậu chỉ ở trong nước 2 hay 3 phút, rồi ra khỏi hồ một cách an toàn vô sự. Một trò trẻ con!

    ***

    Và đây, khoảnh khắc ấn tượng ấy bắt đầu. Clark khom người trên tấm ván nghiêng trên hồ nước mênh mông. Trong hồ, ngay phía dưới anh, con cá mập trắng dài 5 mét, đang lồng lộn xoay đảo người. Một dòng ý tưởng lướt qua trong trí anh: “Ôi trời, tôi sợ! Tôi sẽ bị cá mập xé xác, ăn tươi nuốt sống... Nhưng không, nỗi sợ của tôi sẽ truyền sang cá mập. Và nó sẽ không dám lại gần tôi, tôi sẽ không bị nguy hiểm gì. Tôi có thể kiểm soát phản ứng của nó. Mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ. Tôi chỉ ở trong nước 1 phút. Đúng 1 phút. Con cá bị khiếp hãi, sẽ tránh xa tôi. Nó chẳng thể làm gì tôi''.

    An tâm, anh mỉm cười tin tưởng, giơ cao tay, lao xuống nước. Anh không cảm thấy sợ hãi. Vì vậy, con cá mập cũng không sợ.

    Người ta đem chôn đầu và chân trái cua Clark Sheldon Penner: đó là tất cả những gì còn lại từ anh.

    (Từ Empathy)


     
  2. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Hay quá bạn hoi_ls. Mình cũng đang có ý định chuyển text tất cả các truyện trong các tạp chí ra.
     
    tducchau, hungbc1010 and hoi_ls like this.
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    JERRY

    Truyện của HENRY ATILLNINE (Mỹ)


    Henry Williams và vợ lái xe đến khu rừng lớn để thăm mộ Jerry. Ông đặt mấy cành trường sinh lên tấm bia rồi đứng cúi đầu, môi mấp máy những lời cầu nguyện lặng lẽ. Khoảng im lặng kéo dài bên nấm mộ thật hết sức đau đớn. Nó đưa quá khứ trở về với đầy đủ những chi tiết rõ ràng và sắc nét. Quá khứ ấy đang mờ phai cùng năm tháng nhưng Henry không chịu để nó vuột khỏi ký ức. Ông quay trở lại với nhiều năm về trước, rất xa xôi, trong một cơn mưa ảm đạm, lạnh lẽo.

    Vợ Henry quan sát chồng chăm chú trong khi ông đi quanh phần mộ. Nét mặt chồng khiến bà phải đau khổ. Bà đã nhiều lần nói đi nói lại với chồng là hãy kể cho bà biết về Jerry, nhưng ông không chịu nói một điều gì, chỉ nói rằng ngôi mộ là của Jerry và Jerry là tên một con chó, con chó đẹp đẽ và thông minh nhất mà ông từng được biết. Lilah không thỏa mãn với chừng ấy. Bà muốn biết điều gì đã xảy ra cho Jerry. Đối với bà, những chuyến thăm mộ ngày càng tồi tệ hơn. Nỗi đau mà chồng bà phải trải qua trong những lần di dường như là quá nhức nhối. Như thể ông đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp nào đó và đã khống bị trả giá, mặc dù là sau đó rất nhiều năm.

    Khi họ đánh xe về thành phố, vợ Henry nghĩ rằng đây là lúc thuận tiện để thử hỏi chồng một lần nữa xem sao. Bà muốn giúp ông, muốn sẻ chia nỗi đau của ông. Bà không thể nào ở ngoài cuộc và cứ nhìn ông đau buồn như vậy. Một lần cho dứt khoát, ông phải vứt bỏ nỗi ưu sầu đè nặng lên ngực mình.

    - Henry này, bà nói gì bằng giọng dứt khoát, hoàn toàn mới lạ đối với ông, em chỉ muốn biết điều gì đã xảy ra cho Jerry. Em muốn mình kể cho em nghe mọi chuyện đi, lần này thì mình phải kể đấy. Em không chịu cho mình từ chối đâu.

    Ông im lặng một lúc lâu, hoàn toàn ngạc nhiên.

    Ông có vẻ bồn chồn lo âu, ông chới với, và thoạt đầu ông trả lời bằng mấy tiếng thì thào khô khan. Sau cùng ông cất tiếng với một giọng rõ ràng :

    - Lilah, Lilah yêu quí tôi không biết mở đầu như thế nào nữa. Mình và tôi đã cùng sống chung một cuộc đời trọn vẹn, một cuộc đời đẹp đẽ, tôi tin là như thế. Chúng ta đã có được những đứa con ngoan, chứng kiến chúng lớn khôn rồi dựng vợ gả chồng. Chúng ta luôn hạnh phúc bên nhau. Vì vậy tôi sợ phá vỡ cái hạnh phúc đó. Tôi không bao giờ muốn làm mình bất hạnh và tôi rất sợ hãi, không dám kể cho mình nghe câu chuyện này của tôi. Nhưng bao giờ tôi cũng biết rằng cái ngày ấy sẽ tới, cái ngày mà tôi sẽ phải kể cho mình nghe.

    Vợ ông ngắt lời :

    - Henry, mình có thể tin chắc rằng tình cảm của em đối với mình sẽ không bao giờ thay đổi dù mình có kể với em điều gì đi chăng nữa. Sau lưng chúng ta đã có bao nhiêu là năm tháng.

    - Lilah, đối với tôi, tình cảm của mình là tất cả. Mọi chuyện đều đã là quá khứ. Trước mình đã có một kẻ khác, mà đồng thời cũng là một mãnh lực, một ngọn đèn soi lối chỉ đường cho tôi. Kẻ đó đã cho một khát vọng, một sức mạnh tiếp bước trên đường đời, kẻ đó đã thay đổi đời tôi.

    - Mình muốn nói tới Jerry ?

    Lúc này cơn mưa ngoài trời tuôn xối xả. Nhưng chiếc xe thì vẫn ấm áp và dễ chịu, cả thế giới bên ngoài đã lùi xa. Điều đó khiến Henry dễ bắt đầu câu chuyện hơn.

    - Nhiều năm về trước, Henry nói, giọng trầm buồn, tôi là một kẻ dữ dằn độc ác. Tại sao ư? Tôi cũng không biết nữa. Nhưng tôi quả là một con quỉ dã man và xấu xa. Dĩ nhiên đó là trước khi tôi gặp mình. Tôi rất bất lương và không một ai có thể tin tưởng ở tôi. Muốn gì là tôi lấy nấy, chẳng thèm đếm xỉa gì đến quyền lợi hay tình càm của kẻ khác. Và cái kẻ khác đó trong câu chuyện đáng tởm này cùa tôi là bác sĩ Harry Rolland, một người bạn học cũ của tôi. Ông này sống cách mộ Jerry không xa lắm. Và con Jerry mà tôi vẫn hay nói với mình nhiều lần ấy là một trong những con chó săn tốt nhất bang này. Người bạn bác sĩ của tôi và vợ ông ta thích con chó ấy lắm. Lần ấy, vì một cú nhảy tuyệt vời mà Jerry bị thương nặng ở chân. Thế là tôi mang nó tới bác sĩ Rolland, ông ta đã tài tình gắn xương lại cho con chó. Jerry chẳng bao lâu lại đã có thể chạy nhảy như trước.

    Sau đó chúng tôi bắt đầu cùng đi săn với nhau, bác sĩ, vợ ông ta - Hellen, và tôi. Bác sĩ có bầy chó của ông ta còn tôi thì có Jerry. Chính Jerry luôn là kẻ dường như bao giờ cũng biết đúng phóc chỗ nấp của các con hươu, nhờ vào một giác quan thân bí nào đấy. Bác sĩ mê mẩn vì con chó. Còn tôi thì, thật vô liêm sỉ, trong khi ông bác sĩ bị hút hết tâm trí vào sự khéo léo và tinh khôn của con chó của tôi thì tâm trí tôi lại bị xâm chiếm bởi sự quyến rũ của cô vợ ông ta, Hellen. Hellen và tôi chẳng mấy chốc đã thường cùng nhau đi tách riêng ra trong những chuyến săn, bỏ lại ông bác sĩ một mình.

    Tôi cứ như mù lòa, không thể thấy rằng những gì tôi đang làm là sai trái, là không thể tha thứ. Hellen và tôi không bỏ phí chút thì giờ nào.

    Một lần, trong đám cây thưa giữa khu rừng, khi chúng tôi đang ôm nhau tay trong tay thì tôi chợt nhận thấy Jerry ngồi ngay trước mặt mình. Nó chăm chăm theo dõi chúng tôi với đôi mắt chứa đựng cái cảm xúc mà mọi đôi mắt người đều dường như đang nói: “Đừng làm thế, ông chủ ! Đừng làm thế !”.

    - Anh muốn nói là, vợ Henry hỏi, con chó lúc nào cũng bám theo gót anh và theo dõi anh ư?

    - Chính thế.

    Bất cứ đi đâu với cô ta, bất cứ khi nào nói chuyện vói cô ta, tôi chỉ việc quay đầu lại là thấy ngay Jerry. Nó bao giờ cũng nằm, ghếch đầu trên hai chân trước, hoặc không thì ngồi. Nó không bao giờ rời mắt khỏi tôi, theo dõi mọi cử động của tôi, luôn luôn với cái nhìn phản đối và tang thương ấy trong mắt. Lạy Chúa, bây giờ nhớ lại, tôi vẫn có cảm giác như lúc đó, con chó đang nói với tối thực sự, nó cảnh cáo tôi.

    Còn về Hellen, vợ bác sĩ, thì cô ta là một trong những sinh linh nhỏ nhắn, nhẹ dạ nhất, dễ bị xiêu lòng trước những lời lẽ đường mật và những lời hứa hẹn. Trong tay tôi, cô ta như một thứ đất sét mềm mại. Thế nhưng dù sao ông chồng cô ta cũng còn sờ sờ ra đấy. Nếu mà ông ta phát giác ra chúng tôi thì sao. Nhưng hình như con quỉ tội lỗi trong tôi không hề biết thế nào là giới hạn cả. Tôi quyết định là phải dẹp ông bác sĩ đi, cần phải như vậy. Cuối cùng, tôi nghĩ ra một mưu mô để dọn ông bác sĩ khỏi đường đi của mình. Tôi chưa bao giờ, đúng hơn là không thường xuyên, bắn trượt một con hươu hay một con ngỗng đang bay nào. Tôi bảo với Hellen là tôi đã có giải pháp mau chóng đem lại tự do cho cô ta. Dĩ nhiên tôi không kể gì về kế hoạch gì của tôi cả. Tôi chọn thời điểm thích hợp.

    Hôm ấy, ông bác sĩ vạch lối đi xuyên qua bụi thông, Lần theo dấu vết một con hươu, khẩu súng cầm hờ trong tay. Cũng thận trọng khi lần về phía con thú, tôi bám sát ông ta. Kế hoạch của tôi hiện lên rõ mồn một trước mắt. Hellen đang ở cách tôi đủ xa, và bên cạnh tôi như thường lệ, là con chó săn, Jerry. Kế hoạch của tôi là bắn cùng lúc với ông ta. Mọi chuyện sẽ xong xuôi trong một tích tắc. Hellen sẽ coi đó chỉ là một tai nạn săn bắn bình thường mà thôi. Tôi đã sẵn sàng. Nòng súng tôi hướng về phía bác sĩ Rolland, ông ta đang quay lưng về phía tôi.

    Có tiếng một cành cây gãy do chân hươu. Tôi dán mắt vào ông bác sĩ. Ông ta bước thêm một bước. Rồi dừng lại, bất động. Bây giờ thì ông ta ắt phải là mục tiêu hoàn hảo nhất.

    Tôi nâng súng lên. Thận trọng quan sát ông ta. Phát súng của ông ta sẽ là hiệu lệnh của tôi. Khoảnh khắc ấy đã đến.

    Ôn g ta nâng súng. Một giây trôi qua. Sự yên lặng tàn khốc. Tay tôi kéo cò nhè nhẹ, rồi mạnh thêm, và rồi bóp hẳn. Tôi thấy lửa vọt ra khỏi họng súng và nghe một tiếng nổ to. Một đám lông phóng vút lên và loáng một ánh răng nanh.

    Bác sĩ Rolland vụt hạ súng xuống và quay lại nhìn tôi. Nòng súng của tôi vẫn còn bốc khói.

    - Thì ra anh cũng thấy con hươu đó, ông ta nói.

    Và ông ta nhìn thẫy cái gì đang nằm giữa chúng tôi, trên đám lá rừng, Jerry. Con chó nằm dó, đầu đặt giữa hai chân truớc, và đôi mắt vẫn còn nhìn chằm chằm vào tôi từ trong vũng máu.

    Bác sĩ chạy lại phía Jerry và nhìn xuống với cái nhìn hết sức đau đớn:

    - Thật kinh khủng, thật kinh khủng, ông ta lẩm bẩm, con vật đẹp đẽ nhường ấy... Mà Henry này, anh hẳn cảm thấy khủng khiễp lắm phải không. Thôi, đừng tự trách mình nữa. Tai nạn là chuyện thường.

    Và ông ta đi lại chỗ tôi với vẻ mặt ấm áp nhất mà cũng đau đớn nhẩt. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, chẳng nói năng, không thể cử động được nữa. Cuối cùng ông ta nói :

    - Anh Henry, con chó hẳn đã phải nhảy một cú không thể có để lao lên chắn viên đạn ấy.

    Rồi Henry bảo vợ khoát tay mình. Xe của họ lăn bánh chầm chậm trên xa lộ ướt át. Trời tối dần và vẫn cứ mưa. Mỗi lúc một đưa họ đi xa khỏi nấm mộ ấy và mang Jerry lại gần hai vợ chồng họ hơn.


    NGUYỄN THỊ HẠNH (Lược dịch)
     
  4. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    THIÊN THẦN TÌNH NGUYỆN

    Truyện của Tam Mao (Đài Loan)


    LTS : TAM MAO LÀ MỘT CÂY BÚT NỮ NỔI TIẾNG CỦA ĐÀI LOAN TỪ NHỮNG NĂM 70. TÊN TUỔI CỦA BÀ, CÙNG VỚI QUỲNH DAO, LÂM THÚC HOA, KIM HẠNH CHI ĐÃ TRỞ NÊN HẾT SỨC QUEN THUỘC VỚI NGUỜI HOA TRÊN THẾ GIỚI, KỂ CẢ Ở TRUNG HOA LỤC ĐỊA.

    TAM MAO TÊN THẬT LÀ TRẦN BÌNH, SINH NGÀY 26/3/1943 TẠI TRÙNG KHẢNH, TỨ XUYÊN, TRUNG QUỐC. NĂM LÊN 6, TAM MAO THEO GIA ĐÌNH SANG ĐÀI LOAN. TAM MAO LÀ MỘT TÁC GIẢ MẠNH MẼ, SÔI NỔI CẢ TRONG CUỘC ĐỜI LẪN SÁNG TÁC. HẦU NHƯ BÀ ĐÃ DÀNH NỬA THỜI GIAN SỐNG CỦA MÌNH ĐỂ DI CHU DU BỐN BIỂN NĂM CHÂU. BÀ ĐÃ VIẾT VÀ DỊCH NHIỀU TÁC PHẨM VỚI MỘT VĂN PHONG MỚI MẺ, THẤM ĐƯỢM TÌNH NHÂN ÁI VÀ SỰ CẢM THÔNG SÂU SẮC ĐẶC BIỆT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ Á ĐÔNG.

    THÁNG 10/1990, BÀ ĐÃ TRỞ VỀ THĂM LẠI TRUNG QUỐC VÀ ĐÃ ĐƯỢC ĐÓN TIẾP NỒNG NHIỆT. 11 THÁNG SAU, NGÀY 19/11/1991, TRÁI TIM NHÂN ÁI NÀY ĐÃ NGỪNG DẬP VĨNH VlỄN TẠI ĐÀI BẮC. DƯỚI ĐÂY KTNN XIN GIỚI THIỆU MỘT TRONG NHỮNG TRUYỆN NGẮN ĐẶC SẮC CỦA BÀ.

    Trước đêm lễ Giáng sinh mấy hôm, đứa bé láng giềng đã mang đến tặng tôi một hình nộm thiên thần làm bằng giấy bồi.

    Nó đứng ngoài cổng, tựa người lên hàng rào, nói với tôi :

    - Đây là hình giả làm bằng giấy, chứ trên đời này làm gì có thiên thần phải không cô ?

    Tôi nhìn vào mắt nó rồi nói :

    - Có chứ ? Thiên thần có thật. Và cô đây đã có những hai thiên thần.

    Thằng bé tò mò nhìn tôi :

    - Ở đâu ?

    - Phải con quen biết cô sớm một chút, thì con sẽ thấy họ còn ở chung với cô. Nhung tiếc quá. Bây giờ thì không còn.

    Thằng bé tròn mắt nhìn tôi.

    - Thế bây giờ họ đi đâu rồi ?

    - Đi đâu à ? Tôi hướng mắt về chân trời xa - Đấy, họ ở phía dưới cái cánh sao đó một chút.

    - Cô nói thật, chứ không gạt con chứ?

    - Thật mà.

    - Con không tin, nếu thật sự có thiên thần, chẳng ai lại dại gì bỏ di.

    - Tại con không biết, chứ lúc đó... cô cũng không biết, cô dại lắm. Hai thiên thần kia lúc nào cũng chăm sóc che chở cô...

    - Làm gì có người ngày ngày sống chung với thiên thần mà lại không biết ?

    - Vậy mới lạ, mà không phải chì một mình cô, nhíều người như vậy lắm...

    - Thiên thần họ thường sống vói trẻ con. Vậy lúc đó cô còn nhỏ ?

    - Ừ.

    - Nhưng tại sao họ lại thương trẻ con như vậy ?

    - Bởi vì trước khi giao trẻ con cho họ chăm sóc, Thượng đế đã lén lấy một phần trái tim cùa thiên thần đặt vào lồng ngực đứa bé. Vi vậy chỉ cần nghe tiểng đập của trái tim đứa bé, là thiên thần đã cảm động đến độ muốn khóc òa lên ngay.

    - Thiên thần thích khóc lắm à ? Hẳn họ chẳng vui gì lắm ?

    - Ừ, họ hay khóc, nhưng đó là vì quá thương những đứa trẻ mà họ che chở bảo vệ. Có khi họ phải rơi lệ suốt một đời... Nhưng vì họ bận lắm, có lúc họ phải nuốt cả nước mắt vì không có thời gian sử dụng khăn tay, họ cũng sợ nước mắt làm ướt đứa bé, rồi nó lại ngã bệnh.

    - Cô nói ngoa rồi, làm gì có thiên thần nào lại ngu như thế ?

    Thằng bé cười lớn góp ý, khi nghe tôi nói vậy. Nhưng tôi mặc, tiếp tục nói.

    - Và rồi, có một ngày nào đó. Đứa bé được chăm sóc kia cũng sẽ trưởng thành, lúc đó nó nói với vị thiên thần : Bây giờ tôi đi đây. Xin quý vị đừng lẩn quẩn bên chân làm quấy rầy tôi nữa.

    Thằng bé ngạc nhiên.

    - Thế thiên thần trả lời sao ?

    - Thiên thần ư? Họ chỉ lặng lẽ nhìn nhau rồi mang hết bửu bối trên người ra, trao cho đứa bé. Và đứa bé kia thật vô tình. Nó quảy hành lý trên vai, rồi đi thẳng, không màng cả chuyện quay đầu lại.

    Thằng bé hàng xóm có vẻ cảm động.

    - Rồi thiên thần kia đã vào nhà, đóng kín cửa lại và khóc ?

    - Họ làm gì có thời gian đó ? Họ vội vã giương cánh bay cao lên bầu trời, nhìn theo hướng đứa bé đi. Đứa bé còn trẻ. Xin lỗi. Bây giờ nó đã là người trưởng thành nên nó đi rất nhanh và rất xa... Còn thiên thần thì bây giờ già quá rồi. Mặc dù đã mệt mỏi, nhưng họ vẫn cố gắng theo dõi. Cho đến lúc nó chỉ còn là một chấm đen rồi mất hẳn họ mới chịu quay về nhà, bây giờ mới khép cửa lại, tắt đèn, rồi yên lặng ngồi bên nhau, và họ mới rảnh rỗi mà khóc.

    - Thế người trưởng thành kia đi đâu ?

    - Chuyện đó thì cũng không có gì quan trọng. Chỉ tội cho hai thiên thần kia. Họ đã mất đứa bé, có nghĩa là đã mất một phần trái tim... Họ cảm thẫy trống trải, vì dưới đôi cánh của họ chẳng còn cái gì để họ che chở. Đúng ra thì họ có quyền nghỉ ngơi, nhưng mà... Con biết không ? Vì đôi cánh đó sử dụng lâu ngày quá, nên cơ bắp gần như bị chai cứng đi, bây giờ có muốn khép lại cũng không được.

    - Thế còn... Người đã ra đi đó ? Không lẽ anh ta chẳng nhớ gì tới những vị thiên thần đã chăm sóc che chở cho mình ?

    - Ồ... Có chứ ? Những lúc trời trở gió hoặc mưa bão, chắc chắn anh ta cũng nhớ đến đôi cánh đã chở che cho mình. Có thể là anh ta cũng đã khóc một trận cho đã nư, cho quên...

    - Ý cô muốn nói là... cái con người kia chỉ nhớ đến sự ích lợi của đôi cánh, chứ không thật sự thương nhớ đến bản thân của hai vị thiên thần kia ?

    Câu hỏi của cậu bé hàng xóm làm cho tôi ngẩn ra hồi lâu. Tôi run rẩy cầm hình nộm thiên thần trong tay, mắt hướng về phía biển xa trong hoàng hôn và không nói được lời nào.

    Mãi đến lúc có một cơn gió thổi qua, tôi mới nói :

    - Sau đó, thì anh ta cũng có nghĩ đến chứ...

    - Lúc nào ?

    - Lúc mà anh ta hiểu ra là... mãi mãi mình sẽ không còn quay lại với thời gian đã mất. Và anh ta nhớ...

    - Tại sao không quay lại ?

    - Bởi vì... anh chàng ấy, một buổi sáng giật mình tình dậy, chợt phát hiện là dưới nách mình lại mọc ra đôi cánh. Có nghĩa là anh ta cũng đã biến thành thiên thần.

    - Ồ, vậy thì hay biết mấy ? Cỗ cánh không phải là có thể bay về nơi cũ sao ?

    - Tại con không biết, cái đôi cánh mới mọc ra đó không phải là để bay, mà nó chỉ được sử dụng như một dụng cụ để che chở mưa nắng thôi.

    - Sao kỳ vậy ? Đôi cánh đó mọc ra để che chở cho cái gì ? Công việc của vị thiên thần mới này với những thiên thân cũ có khác nhau không ?

    - Chẳng khác nhau. Lúc đó dưới dôi cánh có một mái nhà nhỏ. Một gia đình. Có những đứa bé Thượng đế mới giao lại. Có tình yêu mà cũng có nước mắt.

    Thằng bé hàng xóm của tôi nghe vậy, kết luận :

    - Vậy thì làm thiên thần cũng khổ quá chứ đâu sướng gì ?

    - Ừ, khổ lắm chứ ! Nhưng họ lại lấy cái khổ đó làm hạnh phúc.

    Nghe tôi nói, thằng bé hàng xóm chăm chú nhìn tôi, một lúc rồi nó hòi :

    - Cô nói... cô thật sự có những hai thiên thần như vậy à ?

    Tôi gật đầu.

    - Đúng vậy !

    - Thế sao cô không về ở chung với họ ?

    - Cô đã nói với con rồi. Không làm sao quay về được. Khi mà ta đã giác ngộ

    ra thì mọi thứ đã muộn màng...

    Thằng bé hàng xóm lắc đầu.

    - Thật tình con không hiểu cô định nói gì...

    - Một ngày nào đó lớn lên rồi con sẽ hiểu. Bây giờ thì con chưa biết, cho đến lúc, cha con, mẹ con...

    Tôi chưa nói dứt câu, thì thằng bé đã cắt ngang :

    - Cha con à ? Suốt ngày ông ấy đi làm, tối còn phải di dạy thêm, không có lúc nào ông ấy ở không để ở nhà chơi với con... Còn mẹ con ư? Bà ấy chỉ biết cơm nước, giặt giũ, lau nhà, quét dọn rồi càu nhàu... Rõ chán !

    Thằng bé đang nói đến đẩy thì bên kia nhà mẹ cậu xuất hiện trước cửa, lớn tiếng nói vọng qua :

    - Minh ơi ! Con làm gì đó ? Vô ăn cơm đi con !

    - Đấy, cô thấy không ? Thằng bé có vẻ bực dọc - Mẹ con lúc nào cũng vậy, càu nhàu mãi ! Suốt ngày cứ bắt con cơm với nước ! Chán chết!

    Và thằng bé đứng thẳng người lại, gật đầu chào tôi rồi quay lưng chạy về nhà. Vừa chạy vừa nói :

    - Nếu con mà có hai thiên thần giống như cô, thì con đã không phải sống trong cảnh địa ngục thế này.

    Minh ơi ! Bây giò thì con chưa biết. Và sau này khi con hiểu ra... thì mọi sự e rằng cũng đã muộn màng rồi con ạ !


    LIÊU QUỐC NHĨ dịch
     
    meetdak, hungbc1010 and amylee like this.
  5. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NHỮNG NGƯỜI BẠN LÔNG VŨ

    Truyện ngắn của CLARK HOWARD


    Đứng lặng lẽ bên chiếc giường rộng mênh mông, Curson nhìn xuống thi thề ông lão Haffer. Vậy là mọi sự rốt cuộc đã kết thúc, gã nghĩ. Sau ba mươi năm dài, rốt cuộc tất cả đã kết thúc.

    Ba mươi năm đằng đẵng, có thể như thế được sao? Cả nửa đời người đã tiêu phi tại thái ấp Haffer này sao? Nửa đời người làm thân nô lệ cho lão già tai ác, cộc cằn mà giờ đây, ở cái tuổi tám mươi mốt bất kham, đang nằm nhăn nhúm, co quắp và chết trước mắt gã.

    Curson khẽ quay đầu nhìn vào tấm gương lớn treo phía trên bàn giấy của lão già. Gã, James Curson, chỉ mới là đứa bé trai mười lăm tuổi khi từ miền bắc Ái Nhĩ Lan đến đây hầu hạ lão già độc tài và ti tiện này. Có phải thật đã có thời gã từng là cậu nhỏ James Curson mắt to, má hồng và đầy hăm hở đó không? Soi mặt trong gương bây giờ, gã đâu còn thấy đôi mắt rõ to, đâu còn nỗi hăm hở thiết tha, đâu còn chút dư âm nào của tuổi trẻ nữa. Gã chỉ còn thấy một bản mặt phong sương, đỏ ké, với đôi mi mắt ti hí nhìn vô hồn, lạnh lẽo.

    Ông đối với tôi thật tệ mạt quá, lão già ạ, gã thầm nghĩ, vừa ngó xuống xác chết. Đúng vậy, thật là tệ mạt. Gương mặt tôi giờ đây cũng tàn ác như ông, tâm tri tôi cũng hắc ám và ủ ê như ông nữa. Tôi khác xa mẫu người mà ông nội tôi kỳ vọng khi, trên giường hấp hối, ông cụ đã trối trăn bảo tôi phải đến tìm ông. Ông nội tôi chỉ nhớ đến ông dưới hình ảnh vị thiếu tá Haffer oai phong lẫm liệt mà cụ đã từng phục vụ dưới quyền, trong cuộc chiến tranh trên lục địa. May phước mà ông cụ chẳng bao giờ gặp lại ông - con người đã thay đổi hẳn của ông - sau chiến tranh, sau khi ông lấy vợ, sau khi ông sa đà vào thói nghiện rượu whisky. Và cũng may phước lả ỏng cụ không còn sống để gặp lại tôi nữa. Nhìn tôi mà xem: bốn mươi sáu tuổi, không vợ con, không tiền bạc, không cả miếng đất cắm dùi.

    Đôi mắt Curson ứa lệ. Tại sao ta phải lưu lại đây chứ? Há ta không phải là một con người tự do muốn đi đâu tùy ý sao? Chà, đúng ta là như vậy mà. Nhưng trong quá khứ thì đâu có phải luôn luôn là như thế! Có lúc ta chỉ là Jamie, một thẳng bé con. Rồi khi ta lớn lên, nhờ ý chí sắt thép của lão già, ta vẫn chỉ là một đứa bé con về mặt tinh thần. Thái ấp Haffer biến thành nhà tù của ta. Lão chủ thái ấp là kẻ canh tù.

    Curson quệt nước mắt rồi bước trở lại cánh cửa mở vào mảnh sân trong mà mấy phút trước đó gã mới bước vào để đến căn phòng này. Gã đang bước qua sân để đi cho lũ chim hét ăn thì chợt lão già gọi giật giọng:

    “Cur” - cái giọng khản đặc đờm dài đó gào lên.

    Cur - cái tên duy nhất lão già luôn gọi gã, kể từ ngày gã còn là thằng bé Jamie lần đầu tiên đến thái ấp Haffer này.

    “Thì ra mảy là cháu nội của lão Vincent Moriarty đó hả?”, vị điền chủ trạc ngũ tuần, có bộ râu ngạnh trê, tráng kiện, hỏi, đứng cao lững thững bên trên gã. “Chà, lại là một thằng nhãi con ăn mặc nhếch nhác như tổ đỉa nữa chứ! Tên mày là Curson hả? Được rồi, bởi vì mày trông cứ y như một con chó lai, tao sẽ gọi mày là thằng Cur. Này, Cur, tít bên kia ngôi nhà này mày sẽ thấy các tàu ngựa. Mày sẽ bắt đầu làm đứa coi sóc tàu ngựa cho tao. Và mày sẽ ngủ với lũ ngựa cho xứng với thân phận mày. Thôi bây giờ hãy cút đi, Cur!”.

    Vậy là từ ngày ấy đã bắt đầu cái tên Cur, và cũng từ đó gã đã chết tên. Thậm chí cho đến lúc lâm chung, thậm chí khi lão đã bị nghẹn thờ vì máu đã đặc lại trong động mạch xơ cứng ở lồng ngực, vẫn chỉ là cái tên Cur. Gã lắc đầu buồn bã và suy nghĩ: “Trong những giây phút cuối của cuộc đời lão, khi lão trông thấy ta đi ngang qua sân, biết ta là con người duy nhất lão còn trông thấy lần chót, ta cứ ngỡ lão sẽ chào ta một lần duy nhất bằng cái tên Jamie. Hay là James. Hay cùng lắm là Curson. Nhưng vẫn cộc lốc là Cur mà thôi!”.

    Ba mươi mốt năm làm kiếp một con chó lai, gã cay đắng nghĩ, lúc đứng ở cửa sân ngắm mặt trởí mọc phản chiếu trên những lớp sương giá ở sân cỏ phía đông - khu đất mênh mông này đổ dốc thoai thoải xuống những cánh rừng vây tứ vi. Những cánh rừng này nhắc Curson nhớ đến lũ chim hét đang chờ bữa ăn điểm tâm. Ỷ nghĩ này mang lại nụ cười ranh mãnh cho gã giữa lúc tâm hồn gã chứa chan đắng cay. Ít ra đó cũng là một điều gã đã qua mặt được lão chủ. Bao nhiêu năm nay, gã đá từng lẻn vào phòng trữ thực phẩm lấy cắp các thứ hạt lúa mì và hắc mạch để đem cho lũ chim hét ăn. Vào chính lúc này đây, gã đang thủ sẵn trong túi một gói giấy chứa đầy ba vốc hạt. Gã gọi đó là sự xám hối thực hiện hộ cho một lão già gian ác suốt đời lấy chuyện bắn chim làm trò tiêu khiển.

    Thở dài sườn sượt, Curson quay lại giường để nhìn Ngài Malcolm Haffer quá cố một lần cuối. Chà, mấy tiếng đó sao nghe khoải cái lỗ nhĩ quá. Sẽ chẳng bao giờ còn phải nghe cái tên Cur nữa - vì chẳng còn ai khác trong cái thái ấp này dám gọi gã xách mé như vậy. Những đứa gia nhân khác sợ gã một nước. Với lại, họ cũng chẳng dính dấp gì đến gã. Tất cả bọn họ đều làm việc trong nhà, còn gã là kẻ trông coi sân bãi và hiếm bao giờ bước vào tòa dinh cơ bề thế này, trừ những lúc lấy cắp thức ăn cho chim ở phòng trữ thực phẩm. Cho nên gã cũng chẳng liên quan gì với bọn tôi tớ khác. Một vài đứa gia nhân đã hầu hạ trong nhà này hàng chục năm mà gã còn chẳng biết tên nữa là. Quả thật, bây giờ ngẫm lại, gã chẳng có bạn bè nào khác, ở đây hay tại bất cứ đâu. Ít nhất thì cũng chẳng có đứa bạn nào trong cái giống người. Gã chỉ có đám bạn là hai mươi bốn con chim hét.

    Đó cũng là lỗi của ông nữa đó, con quỷ già kia ạ, gã nghĩ. Vừa nhìn xuống xác chết. Thoắt nhiên, một cơn thịnh nộ buốt cóng xoắn lấy gã trong thoáng chốc, và suýt nữa gã đã tát vào mặt người chết. Nhưng đôi mắt lão Haffer vẫn mở trừng trừng ngước nhìn gã, đôi mắt đó chặn bàn tay gã lại nửa vời. Gã lay lắt cảm nhận một tia rơi rớt của nỗi kinh sợ thâm căn cố đế đối với lão Haffer, nỗi sợ đã mọc rễ trong người gã biết bao lâu nay. Nỗi sợ này chỉ thoáng qua nhanh, và mặc dù nó đã đè bẹp được sự can đảm gã cần có để có thể đánh vào cái thây ma kia, nhưng nó vẫn cho phép Curson nở được một nụ cười căm hận và thốt lên được một tiếng chửi thề.

    Lúc gã quay lưng đi, gã chợt nhận ra chiếc nhẫn. Mặt nhẫn bằng vàng, hình chữ nhật, có chạm huy hiệu trung đoàn xưa kia của Haffer. Ngay tâm nhẫn, biểu trưng cho quả địa cầu mà trên đó mặt trời của đế quốc Anh không bao giờ lặn, là một viên hồng ngọc lớn đỏ như màu máu.

    “Đẹp chứ hả thằng nhỏ?” - Hatter đã hỏi gã vào một ngày cách đây 20 năm. “Đây là mót viên ngọc ba mươi ca-ra toàn bích, mỗi ca-ra trị giá đúng một ngàn bảng Anh. Nó lại không một chút tì vết nữa, đáng giá gấp đôi một viên kim cương cùng trọng lượng. Tao đã tước lấy nó từ dải khăn trùm đầu của một tiểu vương ngay sau khi tao đâm lút kiếm vảo cổ họng hắn. Đó là vào cái thời bọn người thờ voi đang gây khó khăn cho Nữ hoàng ở xứ Ấn Độ. Ôi chao! Cuộc chiến đó mới thật vinh quang làm sao! Nhưng mà ngữ mày làm sao biết được những chuyện đó chứ, có đúng không hả, thằng nhóc? Chỉ có người Anh mới tôn sùng vinh quang, còn mày là dân Ái Nhĩ Lan, phải không ranh con? Ừ phải, mày là bọn Ái Nhĩ Lan, đúng rồi. Thôi cút xuống chuồng ngựa đi, Cur!”

    Mắt Curson nheo lại khi gã nhìn săm soi chiếc nhẫn. Ba mươi ca-ra. Toàn bích! Không chút tì vết! Một ngàn bảng Anh mỗi ca-ra! Ba mươi ngàn bàng Anh!

    Một thời gian ngắn sau lần Haffer kể cho gã nghe lai lịch viên ngọc nọ, Curson cùng chủ lên Luân Đôn lo một vài việc vặt. Trong lúc gã chờ ngoài phòng đợi của một cửa hiệu kim hoàn đông khách, thì Haffer trò chuyện với người chủ hiệu trong phòng riêng. Cánh cửa mở hé nên Curson nghe hết được đầu đuôi câu chuyện.

    “Tôi muốn đặt ông làm một chiếc nhẫn giả giống hệt như chiếc nhẫn này. - Haffer ngỏ lời. - Để đeo mỗi khi tôi cưỡi ngựa đi săn. Tôi sợ làm trầy viên ngọc khi đang làm công việc gì đó.”

    “Hẳn vậy rồi, thưa ngài.” Nhà kim hoàn đáp. “Tôi có thể làm một chiếc nhẫn nạm vàng có nhận một hột đá corumdum tổng hợp với giá xấp xỉ 100 bảng Anh.”

    “Đồng ý.” Haffer tán thành.

    Nhiều lần trong những năm sau đó, Curson đã trông thấy đôi nhẫn đó nằm cạnh nhau trong một chiếc hộp da cất ở ngăn kéo trên cùng bàn giấy của lão chủ. Có một lần, lúc mang vào trả đôi ủng đi ngựa vừa mới đánh xi bóng lộn cho chủ, gã đã trông thấy ông ta chuẩn bị đi cưỡi ngựa bằng cách tháo chiếc nhẫn ông ta đang đeo và đặt nó vào phía bên phải hộp da. Ông nhấc chiếc nhẫn giả ở phía bên trái hộp rổi mang vào cũng ngón tay đó. Curson nhớ lại câu chuyện gã đã nghe lỏm được về viên hồng ngọc thật có thể bị sứt mẻ khi đeo đi cưỡi ngựa. Và gã suy luận rằng chiếc nhẫn giả để bên trái hộp, còn chiếc nhẫn thật ở bên phải. Vì những lý do nào đó, gã chẳng bao giờ quên được sự kiện ấy.

    Theo chỗ gã biết, ngoải bản thân gã ra, không một ai biết chút gì về chiếc nhẫn giả này. Ồ, dĩ nhiên là còn người chủ hiệu kim hoàn nữa chứ, nhưng giờ đây rất có thể ông ta đã chết rồi. Chắc chắn không kẻ nào trong đám gia nhân biết được. Chúng chẳng bao giờ dám léo hánh tớí bàn giấy của ngài Malcolm cả. Có thể một vài người bạn của lão chăng? Khó lòng có chuyện đó. Lão già ôn dịch này chẳng bao giờ công nhận là lão đang đeo nhẫn giả rẻ tiền, dù chỉ vì lý do “cẩn tắc vô ưu” cũng vậy.

    Vậy thì xét kỹ mọi khả năng, Curson quyết đoán, sẽ chẳng còn ai khác biết về chiếc nhẫn thứ hai. Cũng chưa một ai khác biết được lão chủ đã chết, hoặc giả gã - Curson, lúc đó đang có mặt tại phòng lão Haffer cả. Lúc đó, trời vẫn còn chưa sáng rõ, lũ tôi tớ đang tất bật trong nhà bếp ở mãi đằng sau. Không ai trông thấy gã lấy thức ăn cho chim và đi dọc theo khu đất phía đông trên lối ra bìa rừng.

    Đúng! Gã nghĩ nhanh, đầy hăm hở. Đúng vậy! Để trả giá cho ba mươi mốt năm làm thân trâu ngựa! Và cái giá này cũng đâu phải là tồi: gần một ca-ra hồng ngọc thượng hạng đền bù cho mọi năm hôi hám, khốn khổ khốn nạn!

    Bỗng chốc, nguổn can đảm chan chứa tràn dâng qua suốt các mạch máu gã, gã chụp lấy bàn tay phải xác chết rồi xẳng xớm lôi mạnh chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay đã lạnh cóng. Gã áp sát chiếc nhẫn lên mặt, săm soi nhìn kỹ vẻ đẹp mát rượi của nó. Màu nhẫn đỏ như máu, với những chiếc lá hình kim bằng đồng đỏ bé xíu tết thảnh một ngôi sao tí hon trên đỉnh nhẫn. Đẹp thật, Curson nghĩ.

    Thế rồi rồi ý tưởng thoạt đến trong trí gã: biết đâu chiếc nhẫn này không phải là chiếc nhẫn bằng ngọc thật? Đổ ngu, gã tự rủa mình, dám mày đang là một thằng ngốc đứng đây chiêm ngưỡng một miếng thủy tinh cũng không chừng!

    Gã bước nhanh lại bàn giấy của lão Haffer và lấy chiếc hộp da ra. Mở nắp hộp lên, gả mỉm cười trông thấy chiếc nhẫn kia ở bên mé trái hộp, nơi vẫn để chiếc nhẫn giả. Dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi, gã tự trách mình, đây chính là một bằng chứng nữa cho thấy suy luận ban đầu của gã là chính xác. Không có lý do gì để lão già này không đeo chiếc nhẫn thật khi đi ngủ cả, lão đâu có thể làm hư hại gì nó trong lúc ngủ cơ chứ?

    Curson cười bối rối ngó chiếc nhẫn gã đang cầm, rồi cẩn thận cất nó vào túi. Gã lấy chiếc nhẵn giả ra khỏi hộp, rồi cất chiếc hộp vảo bàn giấy. Trở lại giường gã cố trấn áp nỗi sợ hãi đang chạy suốt xương sống gã khi nghĩ đến việc gã mới làm vừa rồi. Thật nhanh, gã ấn chiếc nhẫn giả vào ngón tay lão Haffer.

    Rồi đó, gã nghĩ, xát hai lòng bàn tay vào vạt áo để lau sạch sự va chạm với xác chết vừa rồi. Rồi đó, giờ đây chúng ta coi như huề, thưa ngài Malcolm Haffer. Sau bao nhiêu năm chết bầm này, rốt cuộc chúng ta coi như xong.

    Thọc tay vào túi, gã nắm chặt lấy vật báu giữa mấy ngón tay run lẩy bẩy, rồi hối hả bước ra khỏi cửa sân.

    Curson đi áp sát chiều dài ngôi nhà rồi cắt một đường chéo góc băng qua sân cỏ, ra đến ngoại vi lãnh địa. Gã chỉ cảm thấy hoàn toàn yên tâm khi đã vào sâu trong cánh rừng ven biên sân cỏ của thái ấp. Đến lúc đó, tinh thần gã bắt đầu phấn chấn hẳn, nỗi run rẩy của mấy ngón tay đã giảm xuống thành một cử chỉ ve vuốt nhẹ nhàng cái tài sản mà chúng đang nắm giữ. Nó sẽ đưa ta về miền bắc Ái Nhĩ Lan, gã hân hoan nghĩ - dĩ nhiên là sau khi ta đã viếng thăm một chủ hiệu kim hoàn kín tiếng ở thủ đô Luân Đôn. Chà, sau đó là trở về xứ sở thân yêu, và trong suốt quãng đời còn lại, gã sẽ được người ta gọi là điền chủ Curson. Gã cười lớn, âm thanh của tiếng cưởi thật lạc điệu giữa cảnh tịch mịch muôn thuở của khu rừng rậm đầy rêu phong mà gã đã đâm ra quen thuộc hằng bao nhiêu năm nay. Chính tại nơi đây, gã đã từng trốn lánh cảnh đời khắc nghiệt của thái ấp Haffer, chính tại nơi đây, gã đã tìm thấy những giây phút bình an về mặt thể chất của mặc cảm thiếu thốn cái dũng khí của người đàn ông, của thân phận hoàn toàn vô dụng đối với mọi người, trừ ra mỗi một lão chủ Haffer đáng tởm. Và cũng chính tại đây, lần đầu tiên, gã đâm ra quen biết lũ chim hét.

    Lúc đầu chỉ có mỗi một con - một con chim béo tốt, mỏ hồng, đôi mắt tròn xoe soi mói, lông đen nhánh như màu trời đêm không trăng sao. Curson đi vào rừng, ngồi xuống một khúc cây đã đốn ngã, ăn mấy chiếc bánh bích quy và thịt bò nguội gã thuổng được ở nhà bếp. Con chim sà xuống bên cạnh, đứng nhìn gã. Curson không để ý tới nó, cứ tiếp tục ăn. Lúc này con chim đã nhẩy lại gần hơn. Curson bẻ mấy mẩu bánh bích quy ném về phía nó nhưng trước khi mấy mẩu bánh chạm đất, con chim đã cất cánh bay vút đi. Curson lầu bầu mấy tiếng trong miệng, rồi lại tiếp tục ăn.

    Ăn xong, gã đứng lên, trông thấy con chim đã bay vụt đi, gã bước đến chỗ nó đứng khi nãy, rải mấy vụn bánh ăn thừa xuống đất. Lúc quay về khu đất thái ấp, gã ngoái lại và trông thấy - đúng như gã đã dự đoán - con chim kia quay lại để ăn mấy vụn bánh.

    Nhiều lần sau đó, cứ mỗi khi gã vào rừng để dùng bữa, Curson lại được chính con chim hét đó đến viếng. Trong một giai đoạn, nó vẫn còn bay đi mỗi khi gã giơ tay ném mấy mẩu bánh. Mãi rồi, Curson hiểu ra, thôi không phác những động tác đột ngột nữa thì con chim chỉ khẽ lùi lại, rồi cuối cùng nó chẳng nhúc nhích nữa, chẳng còn tỏ dấu hiệu sợ sệt ân nhân của nó nữa.

    Thế rồi một ngày nọ, Curson đang trong phòng chứa thực phẩm của tòa dinh cơ thì gã chợt nẩy ý nghĩ lấy thóc ra nuôi chim. Gã vốc một nắm lúa mạch bỏ vào túi và khi đã vào rừng rồi, gã dọn quang một khoảnh đất, rồi rải thóc thành một đụn nhỏ. Gã mới đi được nửa đường đến chỗ khúc cây quen thuộc thì con chim nọ đã có mặt chén bằng thích. Curson chưa ăn xong bữa thì thêm hai con chim nữa, cũng lông đen, mỏ hồng hệt như con đầu tiên, đến tham gia.

    Ngày hôm sau, thêm vài con nữa. Sau đó, lại thêm mấy con khác. Chẳng mấy chốc, đã có mười hai, mười lăm, rồi hai mươi con. Giờ đây, theo chỗ Curson đếm được - vì chúng cứ nhảy nhót liếng thoắng đâu có đứng yên - thì có đến hai mươi bốn con tất cả.

    Giờ đây, giữa chim và người không còn e dè nhau nữa. Những con chim hoang dã này kết thành đàn quanh đôi chân gã hệt như những con bồ câu đã thuần dưỡng vậy. Còn Curson nuôi chúng ăn hằng ngày, luôn thận trọng cử động thật nương nhẹ, tự nhiên.

    Lúc này đây, gã băng rừng đến khúc cây. Gã thôi cười, ngại lũ chim đâm hoảng trước âm thanh lạ lùng đó. Chúng chưa bao giờ nghe gã cười lớn, và cũng chưa bao giờ có ai khác trong cái thái ấp Haffer này từng nghe gã cười trong suốt bao nhiêu năm, kể từ ngày gã đặt chân đến thái ấp, gã nghĩ. Nhưng chuyện đó bây giờ đã là quá khứ rồi, gã tự nhủ trong niềm hoan hỉ. Khi ta đã là điền chủ Curson rồi thì những ngày đen tối không còn nữa. Chỉ còn toàn là rượu whisky Ái Nhĩ Lan, đàn bà Ái Nhĩ Lan và các ca khúc Ái Nhĩ Lan - nhờ cái món trang sức nhỏ bé này đây.

    Gã móc chiến nhẫn ra khỏi túi tiền rồi lấy vạt áo lau thật bóng viên ngọc. Sáng chói, đẹp thật, gã nghĩ. Sáng chói như ba mươi ngàn bảng Anh. Sáng chói như một dinh cơ bề thế ở miền bắc Ái Nhĩ Lan. Sáng chói như một vì sao cô đơn mà một thằng bé tên Jamie đã có thời ao ước. Sáng chói, sáng chói thật !

    Đến khúc cây, Curson ngồi xuống. Gã nâng chiếc nhẫn xoay khắp các hướng ánh sáng, nhìn nó bắt lấy ánh dương quang rồi rải nguồn sáng đó bên trong những đường cong huyền ảo. Chà, đúng là điều kỳ diệu cùa một vật không lớn hơn đầu ngón tay cái của gã, vậy mà giá trị của nó đủ để biến một con chó cún thành một ông vua.

    Curson cảm nhận có vật gì đó di động cạnh gã và gã quay ngoắt lại. Trên mặt đất cách gã vài tấc là ba con chim hét đang nhìn gã. Gã cười toe toét rồi đặt chiếc nhẫn xuống khúc cây, kế chỗ gã ngồi. Gã rút trong túi ra cái gói giấy chứa đủ các thứ hạt kiều mạch và lúa mì đến lưng nửa túi. Trút một ít ra lòng bàn tay, gã đưa bàn tay ra. Thế là lũ chim nhảy đến tiu tít ăn. Mấy mỏ chim tạo những cảm giác sắc cạnh, buồn buồn như kiến cắn chạy suốt qua cườm tay gã.

    “Chà, đói dữ hở các chú ?” Curson thì thầm nhỏ nhẹ. Mấy con khác hạ cánh gần đó, nhảy đến thoăn thoắt bằng các động tác nẩy bật, liến thoắng của chúng. Curson thọc tay kia vào túi giấy, rồi rải thêm thức ăn xuống đất cho lũ chim mới đến. Những con nữa lại lượn đến và chẳng mấy chốc, cả một bầy chim vây kín quanh chân gã. Con này nhảy lên con kia để mổ lấy, mổ để các hạt thức ăn. Curson rải một vốc nữa lên đám chim rồi theo bản năng, gã lại sa đà vào trò chơi đếm chim xưa nay. '

    ... “mười ba - mười bốn - mười lăm - không, con đó ta đếm rồi mà - xem nào, mười lăm - mười sáu - bốn con nữa là hai mươi - hai mươi mốt - hai con nữa là hai mươi ba - hừm!”

    Gã biết chắc chắn rằng dạo gần đây có tất cả hai mươi bốn con, sao bây giờ lại thiếu một con. Gã nhìn quanh tìm con chim vắng mặt, sau đó, gã liếc sang phải, sang trái, rồi nhìn xuống khúc cây gã đang ngồi - và con chim vắng mặt kia rồi - nó đang nhảy tanh tách ra phía đầu khúc cây. Đen tuyền và mỏ hồng. Xinh xắn biết bao nhiêu. Với chiếc nhẫn hồng ngọc ngậm nơi mỏ.

    Curson mờ mắt nhìn, mồm gã há hốc.Trong thoáng chốc, đầu gối gã run lên. Thế rồi, thuần túy theo bản năng và thiếu hẳn sự suy nghĩ chín chắn, gã làm một cử chỉ vô cùng tai hại. Gã đứng bật dậy, lao người như tên điên về phía con chim đang thối lui kia, rồi ngã sấp mặt xuống đất vừa lúc tên trộm bé choắt, đen tuyền kia cùng với hai mươi ba đồng loại của nó hoảng hốt tung cánh bay lên.

    “Ồ không !” Curson nói yếu ớt.

    Gã lăn người lại rồi quỳ gối lên. Thận trọng nào, gã tự nhắc mình. Cứ bình tĩnh nào. Chúng sẽ quay lại mà. Cứ cử động thật thong thả là ổn.Trong túi còn khối thức ăn mà, mi có thể dụ chúng trở lại mà. Curson chậm rãi đứng thẳng người dậy, đưa mắt nhìn trời, xong lại nhìn quanh. Trên một cành cây cách đầu gã khoảng bảy mét, gã bỗng thấy lũ chim đậu thành một hàng dài, nhìn gã chăm chăm. Gã mỉm cười, cứ như thể lũ chim sẽ hiểu được ý nghĩa của nét biểu lộ tình cảm ấy, rồi gã thò tay vào túi thực phẩm. Thong thả, gã bắt đầu rải hạt thật hào phóng quanh rẻo đất. Suốt lúc đó, mắt gã không ngừng nhìn từ con chim này đến con chim khác, đếm đếm, tìm tìm.

    Thế rồi gã trông thấy chiếc nhẫn. Chính con chim đứng cuối hàng đang ngậm chiếc nhẫn đó. Vàng ánh và sáng chói - và chiếu lòa một sắc đỏ như màu máu. Con chim nhỏ nhoi đó đang ngậm chặt nó nơi mỏ. Và tất cả hai mươi bốn con chim đó đều lặng lẽ nhìn gã trừng trừng, gần như báo trước một điềm gở.

    “Đây này, các bạn chim”, Curson khẽ van vỉ, vừa thẫn thờ vãi hạt ra chung quanh. “Các bạn chim quý hóa - đây này - thức ăn ngon cho các bạn đây này”

    Con chim đầu tiên thoắt vỗ cánh bay di. Con thứ hai theo đuôi. Rồi con thứ ba. Curson nhìn chúng bay lên các ngọn cây, bay mãi lên trời cao...

    “Không, ồ, không !” Curson van xin.

    Con thứ tư, thứ năm, thứ sáu - vút bay mất dạng.

    Bảy, tám, chín, mười - từng con một, gần như theo một đội hình chính xác, chúng lìa cành bay tìm vùng trời tự do bao la. Từng con một - cho đến khi chỉ còn lại lác đác vài con.

    “Không !” Curson phẫn nộ hét tướng. “Đồ lũ chim ranh khốn kiếp, đồ khốn...!”

    Gã nhặt một khúc củi to dưới đất rồi phóng lên cành cây nơi con chim áp chót vừa tung cánh bay Khúc củi sượt ngang con chim cuối cùng, chỉ cách nó có một thước. Con chim nọ không buồn nhúc nhích, không vẫy cánh nao núng. Nó cứ bình chân như vại yên vị nơi nó vẫn đậu từ trước. Một tia hi vọng bừng lên trong tim Curson.

    “Đừng, đừng. Ta xin lỗi chú chim nhỏ. Làm ơn đi, đây này, chú chim nhỏ ạ!’

    Con chim cuối cùng trừng mắt nhìn Curson trong khoảnh khắc. Thế rồi, với chiếc nhẫn vẫn ngậm trên mỏ, nó yểu điệu bay đi, nhập đàn cùng những con khác.

    Curson đứng lặng câm, mặt xám ngoét như tro, đăm đăm nhìn lũ chim bay khoan thai cho đến khi chúng chỉ còn là những chấm nhỏ xíu trên trời xanh. Gã cứ nhìn trừng trừng lên trời như thế một lúc rõ lâu, sau khi đã tuyệt mù bóng chim...

    Ít hôm sau đó, tất cả lũ gia nhân đều tề tựu đông đủ tại phòng làm việc rộng thênh thang của dinh cơ Haffer để nghe tuyên đọc di chúc của chủ nhân.

    “... - Về phần James Curson, người đầy tớ và kẻ canh giữ đất đai trung tín của tôi”, vị luật sự đọc, “để đền bù cho sự trung thành tuyệt đối của anh ta đối với tôi qua suốt bao nhiêu năm, dủ đã từng phải cam chịu tính khí luôn gắt gỏng cùng thói nhục mạ tai ác của tôi, tôi di tặng cho anh ta vật sở hữu thân yêu duy nhất của tôi dưới hình thức một chiếc nhẫn biểu hiện cho đời quân nhân có gắn một viên hồng ngọc trên nền bằng vàng”.

    Curson tiến đến bên bàn giấy, nơi có vị luật sư và nhân vật được ủy thác đang ngồi, để nhận chứng thư sở hữu cùng quyền chấp hữu chiếc hộp da có đựng chiếc nhẫn thứ hai của lão chủ.

    Nghi thức tuyên đọc chúc thư kết thúc, Curson trở về chỗ ở lo thu xếp hành trang. Có một chuyến xe buýt sớm đi Luân Đôn và gã nhất định phải đáp cho kịp chuyến xe đó. Gã chỉ còn mong là chiếc nhẫn giả gã vừa thừa hưởng đó vẫn còn đáng giá một trăm bảng Anh.


    PHẠM XUÂN THẢO dịch từ 4 and 20 Blackbirds của Clark Howard
     
    meetdak, hungbc1010 and amylee like this.
  6. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NGƯỜI TÌNH - VÕ SĨ

    Truyện của LOUIS GOLDING


    Đây là câu chuyện về một võ sĩ đấu tay không để giành giải. Hắn đã từng làm xà ích và yêu say đắm một phu nhân quyền quý cao sang. Vì ái mộ nàng, hắn đã thách đấu với một nhà vô địch. Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi. Hơn hai thế kỷ đã trôi qua. Đây là một câu chuyện cổ, song cũng là chuyện hiện đại. Nó cổ điền, khi xảy ra ở vườn treo Babylon trong tình huống một phu nhân thuộc triều đình Nebuchadnezzar mỉm cười với chàng vệ sĩ vạm vỡ đứng canh cổng. Và nó cũng sẽ là chuyện mới mẻ nhất sẽ xảy ra trong vụ xì căng đan ở New York tuần sau, khi có một thiếu phụ trong giới thượng lưu lên đường cùng với gã tài xế của mình và không thấy trở lại nữa.

    Trận đấu quan trọng và cũng là trận sau chót của George Stevenson đã diễn ra vào tháng hai năm 1741. Đây không đơn thuần là đấu để giành chức vô địch Anh quốc, trận này là cao điểm của một câu chuyện tình thơ mộng, đầy bi thảm mà các bạn có thể tìm thấy trong những trang thơ cháy bỏng của bất kỳ một thi sĩ lãng mạn nào đó. Trước đó không đầy hai năm nào ai biết tới hắn; nếu có biết, thì cũng chỉ biết một cái chuồng ngựa nằm trong khuôn viên cùa một dinh thự lớn ở Carthwaite, vùng Yorkshire. Những tên đầu gấu trong làng biết đến hắn và rất gờm hắn. Hắn có trái đấm như một chiếc búa tạ. Những người đàn ông đến thăm ngôi nhà lớn này biết đến hắn, bởi vì mặc dù gã mã phu này không được học hành, hắn vẫn là một cánh tay đắc lực như một chiếc gậy dài và một thanh gươm to bản, chẳng khác nào nhiều trang nam nhi khác đầy năng lực đi lên Luân Đôn để vào học Học viện nổi tiếng của ông Frigg. Các bà khách cũng biết hắn. Khi người ta đưa họ đi tham quan khu chuồng ngựa, điều dễ thấy là họ để ý ngay đến anh chàng mã phu đẹp trai như Apollo và mạnh mẽ như Hercules. Họ càng biết tới hắn vì hắn phớt lờ không thèm để ý đến họ. Hắn cứ chăm chú chải lông ngựa và thì thào điều gì đó vào tai ngựa tuồng như hắn đang đứng với đàn ngựa giữa sa mạc Tartary vả trong vòng ngàn dặm không thấy bóng dáng một phụ nữ nào. Đám phu nhân rúc rích cười, đỏ bừng mặt, rồi cáu kỉnh bỏ đi. Còn hắn vẫn tiếp tục chải những con ngựa: “Nào Bess! Hãy đứng yên nào!”.

    Song trong số phụ nữ đó có một người xem hắn cũng chẳng hơn một gốc cây, ngọn cỏ. Đó là phu nhân Turleigh, nữ chủ nhân trẻ trung của ngôi nhà. Khi nàng bảo hắn thắng yên cương cho ngựa, giọng nàng lạnh như băng. Với tư cách của một tên mã phu, hắn biết nàng cũng như đôi giày biết chân của chủ nó vậy, chiếc giày đó sẽ được sử dụng hoặc bị liệng sang một bên, nếu cần.

    Hắn không biết và chồng nàng cũng chẳng hay, rằng mỗi khi gã phu điển trai giúp nàng trèo lên ngựa thì sự đụng chạm của hắn như ngọn lửa thiêu đốt mọi huyết mạch của nàng. Có đôi ba người khách thấy hoài nghi gì đó. Họ không thể không để ý thấy rằng khi gã Stevenson trẻ tuổi giúp nàng lên ngựa, đôi má nàng từ từ đỏ bừng, dù nàng có cố né tránh và ngây đờ như ngọn roi trong tay nàng. Họ nhận thấy đầu óc nàng đang vẩn vơ tận đâu đâu, bất chấp chàng kỵ sĩ hào hoa phong nhã nhất có tán tụng nàng bằng lời lẽ bay bươm mấy cũng mặc.

    Song tất nhiên, nếu họ có để ý thấy điều gì, họ cũng chẳng trách cứ nàng. Nàng không còn ở vào tuổi phải quá khổ hạnh. Không phải mọi đàn ông đều có thể thề bồi rằng họ chưa từng một lần hôn vụng trộm các cô hầu gái của vợ mình. Không phải tất cả mọi phu nhân đều có thể thề rằng chỉ có vòng tay cùa chồng mới ôm ấp họ mà thôi.

    Còn đối với phu nhân Turleigh, con người đáng thương này, nàng càng ít bị trách cứ hơn so với đa số bọn họ. Nàng là vợ kế của một người mà nàng chỉ đáng tuổi con gái ông ta. Ông ta có cách yêu riêng, mà cũng không thể không yêu được. Song ông còn yêu ngựa nhiều hơn. Ông lấy giống ngựa đẹp nhất ở Yorkshire. Ông càng yêu ngựa bao nhiêu thì trông ông càng giống ngựa bấy nhiêu, và người ông cũng hôi như ngựa. Ông là một thương nhân, luôn luôn đi Luân Đôn vắng. Không ai biết có những loại hàng gì hấp dẫn khiến ông đi Luân đôn thường xuyên như vậy. Không bao giờ ông đưa vợ đi theo. Không biết có phải vì ông ghen với những nét duyên dáng của nàng đến nỗi ông sợ chúng sẽ bị những lưỡi hái ở Luân Đôn tróc tỉa mất, hoặc giả có thể ông cho rằng nàng sẽ là nhân vật thừa ở đó, vậy nàng ở nhà là hơn. Nàng còn trẻ. Nàng xinh đẹp. Nàng lại cô đơn.

    Thế là nàng phải lòng anh chàng phó xà ích (lúc này y đã được đề bạt từ mã phu lên chức vụ này). Điều này trước đây đã từng xảy ra và sẽ còn xảy ra.

    Ngày mờ đầu mùa đông năm 1739 tuyết trắng xóa. Chính ngày đó sẽ kết thúc một cách lạ lùng, êm dịu và cay đắng quan hệ giữa một phu nhân trâm anh và một kẻ đầy tớ hạ tiện. Hôm đó Sir Richard đi Luân Đôn. Ông ta thường đi Luân Đôn vắng. Tối hôm đó phu nhân Turleigh sẽ đi vũ hội. Suốt cả ngày nàng đã đấu tranh tư tưởng xem có nên đi hay không. Nàng đã chán ngấy mấy cái điệu nhảy menuet, gavottepavane lắm rồi. Nhưng nếu ngồi ở nhà, nàng sẽ chán ngán chẳng kém. Mấy cô đầy tớ gái đứng quanh, xốn xang, thì thào lo ngại. Trong những ngày như vậy, tính khí nàng hết sức thất thường. Cuối buổi chiều vợ lão xà ích chính xin được vào gặp nàng. Đã hai tiếng đổng hồ bác ta cố gượng đứng dậy. Chân bác ta sưng vù vì bị thống phong. Không thể bước đi nổi. Làm cách nào bây giờ, thưa bà ?

    Nàng biết làm sao đây ? Đôi mắt nàng rực lửa giận dữ. Nàng dậm chân xuống đất điên cuồng.

    - Bảo hắn chuẩn bị xe ngựa ngay tức thì! - Nàng hét lên. Rồi bất ngờ dừng lại. Tim nàng dường thót lại trong giây lát. Nàng vội quay đi để người đàn bà kia khỏi để ý thấy sự thay đổi nhanh chóng trên đôi má nàng, vừa tái mét đó, lại bỗng đỏ bừng ngay.

    - Ta tha cho chồng mụ - Nàng nói, cố giữ giọng hết sức lãnh đạm - Bảo Stevenson chuẩn bị xe ngựa! Y sẽ thay chồng mụ, đưa ta đi.

    Tối hôm đó tại vũ hội, không một phụ nữ nào rực rỡ và xinh đẹp như nàng. Bàn chân nàng nhỏ nhắn nhất, khéo léo nhất. Đôi má nàng đỏ bừng bừng. Có lẽ đó là vì khí lạnh mà nàng đã ngồi xe để băngqua. Cũng có thể vì một tinh thần nhiệt cuồng nào đó đã xâm chiếm lòng nàng. Đám đàn ông nhìn nàng, rồi quay sang ngó các bà vợ của họ, đoạn lại phải quay nhìn chỗ khác vì chán ngán. Họ tự hỏi: “Can cớ gì khiến cái lão già keo kiệt đó có thể bỏ nàng mà đi nhì? Sao lão lại có thể đang tâm làm một việc như vậy?”.

    Nàng cáo từ ra về trước tất cả mọi người. Họ phải thông cảm cho nàng. Nàng phải vượt qua mười dặm đường. Mà con đường thì đầy sương giá và rất khó đi. Đêm đó lại không có trăng.

    - Mời phu nhân đi thêm một điệu nhảy nữa. - Họ van vỉ nàng - Chỉ một điệu nữa thôi.

    Song nàng quyết không nhượng bộ. Nàng đang háo hức muốn ra đi trong đêm tối, giữa màn sương giá buốt với chỉ có sao trời. Một chuyến phiêu lưu thực sự đang đợi nàng.

    Một đỉều mà ai cũng để ý thấy rằng người đánh xe cho nàng hôm nay không phải là cái lão xà ích bụng phệ, mũi đỏ mọi lần. Gã này khác, trông điển trai hơn. Đám phụ nữ thì thào to nhỏ với nhau đằng sau những chiếc quạt. Còn đám đàn ông thúc cùi chỏ vào nhau.

    - Thưa phu nhân - Họ năn nỉ - Chúng tôi không thể để quý bà ra về mà không có người tháp tùng. Đường về Carthwaite tối tăm, nguy hiểm lắm! Vẫn thường có bọn cướp đường lởn vởn quanh vùng này! Chúng biết rõ tin tức về buổi vũ hội đêm nay. Vậy hãy cho phép chúng tôi được tháp tùng bà về, có được không? - Vài tiếng nói lao xao.

    - Xin đa tạ - Nàng nói, rồi ngẩng cao đầu - Tôi đã có người tháp tùng đảm bảo rồi - Một lát sau, nàng tự trách cứ về sự khinh suất là buột miệng nói ra câu vừa rồi. Nàng bước ngang qua phòng, vẻ đường bệ như bà hoàng Maria Theresa vậy.

    Thế là họ dấn bước vào đêm đen uy nghi. Phu nhân ngồi trong xe, còn gã xà ích trẻ tuổi ngồi trên thùng xe. Tiếng vó ngựa tạo nên âm thanh êm tai trên đường đ cứng. Những quả chuông treo trên giây cương ngựa kêu leng keng. Bầu trời như một trái lê lớn tối đen, điểm xuyết những đốm sao lấp lánh. Gã trai trẻ chưa bao giờ cảm thấy kiêu hãnh như lần này. Người thiếu phụ cũng chưa từng bao giờ thấy sung sướng như lần này. Cuối cùng, họ cũng đã được đi cùng nhau. Chỉ có hai người, trong một đêm đen với sao trời.

    Lóc cóc! Lóc cóc! Tiếng vó ngựa khua vang. “Ta yêu! Ta yêu”. Tiếng thì thầm trong tim. Lóc cóc! Lóc cóc! Tiếng vó ngựa lại vang lên. “Lạy Chúa! Nàng là người đàn bà đẹp nhất xứ sở này”. Gã xà ích trẻ nhủ thầm và vung roi ngựa lên giữa chòm sao Lạp Hộ.

    Chiếc xe ngựa băng băng qua những lùm cây, bụi cỏ, qua những cánh rừng lớn, những hàng rào xanh, qua những thân cây đứng trơ trọi. Bỗng một sự việc kỳ lạ khiến hắn sững người. Có phải là gốc cây không? Hay một đống rạ? Vậy là cái gì? Cây đâu có chuyển động! Thế mà vật này lại chuyển động. Đúng là một con ngựa rồi. Có người cưỡi! Lại một người nữa! Một người nữa. Lạy chúa! Bọn cướp đường!

    Bóng đen thứ nhất tiến lại gần, song gã xà ích rất nhanh, không cho hắn kịp hành động. Hắn rút khẩu súng lục ra khỏi bao, nhanh như một con rắn, tấn công liền. Một phát! Hai phát! Tên cướp ngã bổ nhào. Hai tên kia áp sát tới. Có tiếng súng chát chúa ngang mang tai hắn. Máu hắn sôi lên vì giận dữ và niềm kiêu hãnh đang bừng trong huyết quản.

    - Này thì tao tặng mày! Hắn quất mạnh roi ngựa. Tặng mày nữa! Những con ngựa lồng lên. Chiếc roi vẫn quất vun vút qua mặt hai tên cưỡi ngựa, qua tấm lưng ngựa sùi đầy bọt. Hai con ngựa lại lồng lên hất chủ của chúng lăn xuống đất.

    - Lạy Đức Mẹ! Phu nhân Turleigh rên rỉ - Lạy Đức Mẹ, hãy cứu giúp con.

    Rồi bất ngờ, sự kinh hoàng đã quá mức nàng có thể chịu nổi, nàng thét lên mấy tiếng liền, sau đó lăn ra giữa đám vải trăng trắng lờ mờ ở một góc xe ngựa. Tiếng kêu thất thanh của nàng đã đập mạnh vào màng nhĩ của Stevenson. Hắn nhảy ra khỏi thùng xe, lao lên như một con hổ đói tới chỗ tên cướp thứ hai. Thằng khốn nạn! Hắn thét to, rồi dùng báng súng giáng mạnh vào mặt tên cướp. Rồi lại vung roi lên. Tên cướp thứ ba đã đặt tay vào cò súng. Song cú đấm tay trái của George còn nhanh hơn. Nó đã từng đốn gục nhiều tên côn đồ ở Yorkshire, trước đây. Đêm nay nó làm cho chiếc quai hàm của tên cướp Yorkshire nứt toác làm đôi.

    Sau đó hắn quay lại gọi to:

    - Phu nhân ơi! Mọi việc ổn cả rồi! Bọn chúng đã bị thanh toán gọn hết trơn!

    Song không thấy nàng lên tiếng.

    - Phu nhân ơi! Hắn lại gọi to lần nữa. Nàng rên rỉ khe khẽ. Gã xà ích phải làm gì đây khi bà chủ của hắn đang ngất xỉu trong xe? Tiếng động gì thế nhỉ? Có phải tiếng cành cây gãy chăng? Hay vẫn còn một tên cướp nữa lản quất đâu đây?

    Sau đó có một tiếng nói êm ái, mảnh mai như tiếng chim hót giữa buổi sớm mai vượt qua trời tối đen:

    - Vào trong này - Tiếng nói đó gọi như vậy - Vào đây an ùi tôi đi. Tôi sợ lắm.

    Thế là gã xà ích đã vào trong xe, an ủi bà phu nhân cao quý. Ngay sau đó họ đi về nhà. Chẳng còn tên cướp đường nào nữa.

    Một tuần sau sự kiện đó, người xà ích đã nghỉ hưu. Bệnh thống phong của lão quá trầm trọng không cho lão tiếp tục phục vụ. George Stevenson, gã xà ích đã bước vào thay chỗ lão.

    Y còn bước vào thay thế một nhân vật khác trong gia đình Turleigh - đó là thay chỗ cho ông chủ mình. Y đã thực hiện nhiệm vụ này trong gần hai năm, mặc dù ông Turleigh từ chối không muốn tin điều đó. Lão không tin được rằng gã xà ích của lão có thể láo xược đến mức quái đản như vậy, càng không tin rằng vợ lão lại có thể phản bội. Dù rằng lão đã phản bội vợ lão ngay từ ngày cưới, lão cũng thấy khó có thể tin điều như vậy. Lão tiếp tục uống mỗi ngày ba chai porto. Lão tiếp tục những vụ hẹn ước bí mật ở Luân Đôn.

    Đến một hôm, lão bảo phải đi Luân Đôn, nhưng chỉ đi đến giáo khu gần đó rồi lão quay về ngay. Gã xà ích không cùng với tên mã phu ở trong nhà để xe ngựa. Vợ lão cũng không thấy cùng với bà quản gia ở trong bếp. Họ đang cùng nhau trong phòng ngủ của nàng. Lão Turleigh không đủ sức hạ đo ván được Geerge. George là vô địch ở Yorkshire kia mà. Bộ mặt lão Turleigh tím lại. Lão lộn cả ruột. “Mày cút đi!” Lão gầm lên - “Đồ rác rưởi hôi thối”.

    Vì vậy George Stevenson phải đi Luân Đôn với một chiếc ví dày cộm được vị phu nhân của hắn nhét vào tay lúc hắn lên đường:

    - Anh yêu ạ, tôi sẽ viết thư - Nàng thì thào - Khi nào biết được địa chỉ, tôi sẽ viết thư ngay. Thôi, tạm biệt, người tình cùa tôi!

    Tiếng tăm về người xà ích - võ sĩ - tình nhân đã nổi như cồn trước khi hắn tới. Hắn đã đến làm vệ sĩ cho một ông hoàng. Song tất cả những lời tán dương đó đối với hắn chảng có giá trị gì. Nhiều tháng trôi qua, hắn chẳng nhận được một tin tức gì về người phu nhân xinh đẹp ở xứ Yorkshire. Thế là thế nào? Phải chăng người chồng dữ tợn của nàng đã canh giữ nàng cẩn mật? Hoặc giả nàng đã tìm được một người khác an ủi nàng, một thanh niên cao to, khỏe mạnh hơn Stevenson? Nghĩ tới đó, hắn nắm chặt tay lại và nghiến chặt răng. Mẹ kiếp! Giá như hắn gặp được gã kia, cái thằng khốn nạn đó, người đã cướp người tình của hắn, hắn sẽ đập nát mặt gã ra thành một đống thịt nhão. Mẹ kiếp, nhất định là như vậy!

    Thế rồi ngày tháng dần trôi, vẫn không một phong thư nào tới. Hắn đã cố quên nàng trong vòng tay của những người đàn bà khác thuộc đủ hạng người, thượng lưu có, hạ tiện cũng có; song điều đó chỉ càng làm cho con tim hắn nhức nhối khôn nguôi. Hắn chỉ cảm thấy dễ chịu hơn khi đứng giáp mặt với đối thủ của mình trên võ đài chăng dây tứ phía. Hắn dứ dứ bằng nắm tay phải, rồi tung ra nắm đấm tay trái, dồn tất cả sự ranh mãnh và căm giận vào trận đấu. Hắn có cảm giác như mỗi lần giáng những trái đấm, lúc vào cằm, lúc vào ngực đối thủ, thì lúc đó hắn đang đấu vì nàng. Thế mà nàng vẫn không thèm viết cho hắn một dòng thư nào.

    Hắn hiểu rằng hắn không thể viết thư cho nàng ở Carthwaite. Tất nhiên sẽ không một lá thư nào tới được tay nàng. Nếu hắn trở lại Yorkshire, ôngTurleigh sẽ tống hắn vào ngục với tư cách một tên lưu manh,một kẻ đi phá phách sự yên tĩnh. Vậy phải làm sao đây? Bằng cácch nào hắn có thể nhắc cho nàng nhớ đến mình, làm thế nào để cho nàng phải chú ý? Có cách nào khiến nàng nhận thấy là hắn đã sủng ái nàng, hiện nay và mã mãi sau này?

    Giá như hắn liều mình cứu chủ là quận công Prederick xứ Wales khỏi bị chết đuối hoặc chết thiêu trong căn nhà bốc cháy, thì nàng sẽ biết được tin đó. Nếu một con gấu chạy nhào ra đường phố, hắn sẽ bắt nó lại và sẽ bóp chết nó... nhưng chẳng có một con gấu nào chạy ra phố. Quận công Prederick cũng tuyệt nhiên không chịu dấn thân vào nơi nước sâu, lửa bỏng cho hắn nhờ...

    Thế rồi Jack Broughton, một võ sĩ xuất sắc nhất lúc bấy giờ đã tạo cho hắn một cơ hội bấy lâu mong chờ. Cơ hội để cho hắn tỏ rõ khí phách và cho hắn xuất hiện trước sự chú ý của bàn dân thiên hạ. Ngày 1 tháng giêng năm 1741, trên một tờ nhật trình có tên gọi là Bưu điện bay Broughton đã thách đấu với bất kỳ võ sĩ nào trong thời hạn ba tháng, để giành chức vô địch Anh quốc.

    Jack Broughton không chỉ là võ sĩ xuất sắc của một thời, mà là một trong những võ sĩ xuất sắc của mọi thời. Chính anh đã cho ra đời luật thi đấu giành giải đầu tiên và nâng môn võ tử dưới tận cùng của sự dã man mà lúc đó nó đang sa lầy trong đó, đưa lên địa vị của một nghệ thuật, một khoa học trong sáng. Gần đây anh ta đã lập một nhà tập thể thao ở đường Tòa án Tottenham vói sự hợp tác nhiệt thành của một nửa giới quý tộc.

    Một tháng rồi hai tháng trôi qua, dường như không một người nào ở Anh dám bước ra võ đài để tỷ thí với Jack Broughton, con người có đôi mắt ranh mãnh và trái đấm như búa tạ. Thế nhưng ở tận Clerkenwell, chàng xà ích Yorkshire đang chờ thời. Hắn đang luyện tập chạy, nhảy và ăn trứng sống, thịt sống. Hắn đợi cho đến lúc gần hết thời hạn ba tháng, lúc đó mới nhận lời thách đấu, bởi vì hắn hiết rằng sự chấp nhận vào phút cuối cùng mới mang kịch tính cao. Chính vì lý do đó, hắn đã đưa ra lời chấp nhận hết sức khiêu khích này. Hắn muốn cho mọi người phải bàn tán xôn xao từ Westminster đến Ranelagh. Hắn muốn tiếng vang sẽ thấu lên tận phía bắc đến ngôi làng ngái ngủ ở Yorkshire kia. Vì thế hắn thảo ra bức thư sau đây về việc giành giải quán quân:

    “Thưa ông Broughton.

    Ông cho rằng ông là một võ sĩ xuất sắc ư? Có thể là như vậy. Song ở Clerkenwell này còn có người nói rằng thời kỳ đấu trường của ông đã qua rồi, không còn tích sự gì trừ trường hợp để phô phang những oanh liệt một thời. Một tháng nữa kể từ ngày hôm nay, tôi sẽ gặp ông. Nếu ông không tới, ông là một thằng hèn. Nếu ông không hạ được tôi, ông là một thằng bịp bợm. Nếu tôi quật ngã ông, ông chỉ còn là một cái xác không hồn”.

    George Stevenson có lý. Chỉ trong vài ngày, tin tức về trận đấu sắp xảy ra giữa nhà vô địch và anh xà ích đã trở thành đề tài của toàn tỉnh. Từ các ông hoàng bà chúa đến những phu phen, đĩ điếm chỉ bàn độc nhất một đề tài này. Đa số mọi người đều ngã về Broughton. Các bà không hình dung nổi gã xà ích vốn là một nhân tình hào hoa kia, liệu sẽ thua trong tư cách một võ sĩ đấu trường như thế nào. Quận công xứ Cumberland ủnghộ Broughton, còn ông hoàng xứ Wales lại ủng hộ Stevenson. Các chính trị gia, tư bản ngân hàng, các chị thợ giặt, các cậu phụ việc, mỗi người đều tự đứng về một phe. Song đó không phải là điều mà Stevenson quan tâm. Giá như hắn được biết nàng đứng về phía hắn thì sẽ không một kẻ nào quật ngã nổi hắn đâu...

    Trận đấu lớn sẽ diễn ra tại khu thể thao của George Taylor, một trong những võ sĩ anh tài thời đó. Hôm đó nhằm một ngày tháng hai ấm áp nhưng ẩm ướt. Mọi con đường đã nhão như cháo quánh vì người xem lũ lượt dậm lên đó từ trước lúc rạng đông. Cảnh tượng bên trong thật khác thường, ở khu vực dành cho quần chúng, người ta đội lên nhau. Ở khu bao lơn, nơi hai vị hoàng thân đang ngồi, mỗi người kè kè mấy phu nhân được sủng ái. Đám phụ nữ liếc mắt đưa tình, cười gượng gạo và phe phẩy quạt. Hai vị hoàng thân pha trò với họ, đập nhẹ vào lưng họ. Hai võ sĩ giống như những con thú cảnh giác, đang chờ đợi thời cơ.

    Trước hết có cuộc trình diễn múa kiếm, đấu vật và đấu gậy, trước khi trận đấu chính thức bắt dầu. Khán giả thấp thỏm, huýt sáo. Họ muốn được chứng kiến các nhà vô địch. Cuối cùng, tiếng kèn bạc cất lên, vừa du dương lại vừa chói tai. Im lặng một hồi. Sau đó hai trọng tài và người trưởng đài trèo lên võ đài. Vẫn im lặng như tờ. Khi George Stevenson tử phòng tiền sảnh bước ra hắn nhảy cẫng lên như một con hươu khỏe lên võ dài. Có tiếng hô lớn trong đám khán giả chúc tụng hắn. Song hắn không để ý đến họ. Hắn quay về khu bao lơn, nơi các ông hoàng bà chúa, các nhà quý tộc cùng phu nhân đang ngồi. Có lẽ do một sự tình cờ tuyệt diệu nào đó, nàng đã biết tin. Nàng đã từ nơi xa xôi tới đây.

    Song, hỡi ơi, không thấy nàng ở đó...

    Jack Broughton đã lên vũ đài. Mái nhà rung bần bật trước tiếng tung hô náo nhiệt. Hai võ sĩ quay lại, đưa mắt thận trọng nhìn nhau, trong khi các quan chức thông qua các thủ tục, rồi họ cũng rời võ đài.

    Trận đấu rất căng thẳng. Broughton có lợi thế về chiều cao và đánh xa, còn Stevenson, mặc dù có dáng lặc lè, song nhanh nhẹn hơn. Không phải tự nhiên hắn có thể dằn ngửa được những tên đầu gấu ở Yorkshire ra đất, từng đứa một. Hai người đang đứng dối diện nhau, chân hơi khuỳnh khuỳnh, họ vừa chờ đợi, vừa giữ thăng bằng trên gót chân. Broughton tung đòn trước. Anh ta dứ bằng tay trái và giáng mạnh trái đấm khủng khiếp bằng tay phải. Stevenson nhảy né sang bên. Sau đó hắn lại chồm lên trước và đấm rất khéo léo vào cằm đối thủ. Hắn cố khai thác lợi thế vừa rồi. Hắn dồn hết sinh lực vào một cú bổ vào đầu đối thủ, nhưng bị trượt. Hắn suýt bổ nhào ra phía trước thì đúng lúc nắm đấm của Broughton nhắm trúng cổ họng, hất hắn nhào ngược trở lại. Đôi mắt hắn hoa lên trong một lớp sương mù. Hắn phản công lại: lúc bên phải, lúc bên trái, liên tiếp giáng vào người nhà vô địch. Cả hai trái đấm đều trúng. Nhà vô địch cũng chống trả thận trọng. Sau khi gạt được những trái đấm như đàn ong vò vẽ kéo tới, Stevenson giữ lấy thắt lưng Broughton, kẹp chặt như một giọng kìm, và tìm cách hạ anh ta đo ván. Tuy nhiên Broughton sành môn vật hơn hắn. Dường như anh ta đã dứt được một cơ bắp ra khỏi vị trí thường ngày của nó và thoát khói vòng tay khóa chặt của đối phương. Stevenson lại đang rơi vao vòng tay anh ta. Anh ta ôm chân hắn kéo khỏi mặt đất, quật hắn ngã xuống, tưởng chửng hắn có bao nhiêu xương là tan nát bấy nhiêu.

    Hiệp thứ nhất kết thúc. Đã lâu rồi ở Luân Đôn người ta mới được chứng kiến một trận đấu ác liệt như vậy. Khán giả hào hứng, căng thẳng như một dây cung. Stevenson không một mảy may nhụt chí. Hắn lao lên, va chạm rồi lại giật người lại. Hiệp hai diễn ra cũng không kém phần dữ dội so với hiệp một. Stevenson đã đấm một cú tay trái kinh hồn trúng mũi nhà vô địch khiến máu tuôn ra xối xả. Hoàng thân ngồi trên bao lơn cười sằng sặc khoái trá. “Xáp tới! Xáp tới!” Ông ta hét to. Mấy phu nhân ngồi cạnh toát mồ hôi, cũng đang cười rổn rảng. Broughton ngã vật ra sàn đúng lúc hiệp hai vừa kết thúc.

    Hiệp ba...

    Họ lại lao vào nhau, va chạm và bật trở lại. Trận đấu dâng cao như ngọn triều lớn. Stevenson đánh trúng nhiều hơn, song Broughton cũng đánh trái nào ra trái đó. Broughton bị trúng mắt thì Stevenson cũng trúng sườn. Mắt Broughton lại bị dính đòn lần nữa. Lại một lần nữa, và lần này thành công, Stevenson lao lên, quật Broughton ngã lăn ra sàn. Broughton lại chồm dậy được.

    Nhưng tại sao đột nhiên Stevenson đứng trân trân giữa võ đài, buông thõng tay, không đỡ đòn nữa? Tại sao? Hắn ngước nhìn lên khán đài. Hắn vừa trông thấy một bóng người giữa đám quý tộc và phu nhân xinh đẹp.

    Đỡ đi, kìa! - Ông hoàng, kẻ báo trợ của y kêu lên - Đỡ đi, kìa, lạy Chúa...

    Song tiếng kêu quá chậm. Broughton đã giáng một cú tay trái tưởng như nghiến vụn cả hàm răng hắn ra. Stevenson lắc đầu. Hắn chợt nhớ ra. Hắn đang đứng giữa võ đài. Hắn đang đấu với Jack Broughton dữ tợn, một võ sĩ kỳ tài của thế kỷ. Một hoàng thân đang hậu thuẫn hắn, một đám đông khán giả tới xem đang cổ vũ hắn. Hắn có nghĩa vụ với họ. Hắn giơ tay lên đỡ đòn. Hấn lại dùng tay trái ra đòn phản công.

    Song hắn thấy nản lòng quá chừng. Đôi mắt hắn mờ đi.

    Một phu nhân ngồi ở bên khu bao lơn mà lúc bắt đầu trận đấu chưa thấy hiện diện ở đó. Nàng đi kèm vởi một kỵ sĩ, người này không phải là chồng nàng. Chồng nàng là cái lão thương gia bụng phệ, mũi cà chua ở Yorkshire kia. Tên lão là Turleigh. Người đàn ông đi cùng nàng không phải là lão ta. Hắn là nhân tình của nàng. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng hắn là nhân tình của nàng. Nàng dụi dụi chiếc cằm nhỏ nhắn của nàng vào vai hắn. Họ đang thì thào với nhau điều gì và nhìn vào tận mắt nhau... cứ như là họ đang hú hí với nhau trong khuê phòng của đôi lứa ở Yorkshire, chứ không phải giữa đấu trường đang náo loạn.

    Trong giây lát đau đớn, chàng võ sĩ đáng thương kia đã nhìn thấy hết. Hắn vụt hiểu ra lý do vì sao hắn không được một mảy may tin tức của nàng. Hắn hiểu rằng hắn thật là khờ khạo vả lúc này hắn cũng đang khờ khạo mang xác ra làm trò cười giữa võ đài. Thắng hay thua, trận đấu này đối với hắn chẳng có ý nghĩa gì cả. Hy vọng tốt đẹp đã tiêu tan rồi.

    Tiếng người hò reo náo loạn vang đến tận những ngọn cây cao, thế mà chẳng vang đến tai hắn chỉ như những lời nói thì thào. Hắn loạng choạng trên võ đài, không biết làm gì nữa. Một trái đấm như cú đá của con ngựa hoang giống trúng tim hắn. Chân hắn khuỵu xuống. Hắn nằm rũ ra như chiếc lá vàng rơi năm trước.

    Hắn không còn trông thấy Jack Broughton quỳ xuống bên cạnh, cũng chẳng biết rằng anh ta đang dùng tay sờ thử xem tim hắn có còn đập không. Hắn cũng chẳng nghe thấy tiếng Jack Broughton thề rằng sẽ không bao giờ thi đấu nữa.

    Thế nhưng Jack Broughton vẫn tiếp tục thi đấu nhiều trận khác sau đó. Chỉ có hắn, George Stevenson, đã từng được một phu nhân xinh đẹp yêu dấu, rồi bị bỏ rơi như một chiếc giày rách, chỉ có hắn là không bao giờ còn đấu võ được nữa. Không đầy một tháng sau, hắn chết. Chính bàn tay nhỏ nhắn, trắng trẻo hơn bàn tay Jack Broughton đã quật ngã hắn.


    BÁ KIM dịch

    (Theo nguyên tác tiếng Anh Bare-Knuckle Lover của Louis Golding trích trong Short Stories của Nhà xuất bản Chênes)
     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  7. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NGÔI NHÀ BÚP BÊ

    Truyện ngắn của KATHERINE MANSFIELD (NewZealand)



    Trở lại thành phố sau chuyến viếng thăm gia đình Burnell, bà Hay gửi cho bọn trẻ một ngôi nhà búp bê. Nó to đến nỗi Pat và người đánh xe phải khiêng vào đặt tận sân trong, kê trên hai chiếc thùng gỗ cạnh cửa phòng ăn. Ở đó nó sẽ không bị suy suyển gì vì đang là mùa hè. Lẽ ra mùi sơn phải bay hết trước lúc nó được đem vào. Vì, vẫn còn mùi sơn bay ra từ ngôi nhà búp bê - bà Hay thật tốt bụng và tử tế quá, nhưng cái mùi sơn đã làm mọi người phát bệnh: đó là ý kiến của dì Beryl. Thậm chí ngay từ lúc chưa bóc giấy bọc ra. Và khi đã bóc rồi thì...

    Ngôi nhà búp bê đứng đó: bóng lên một màu xanh đậm có điểm những chấm sáng vàng. Hai ống khói nhỏ cứng cáp gắn trên mái nhà sơn đỏ sọc trắng, và cánh cửa ánh lên màu vecni vàng trông như những lát kẹo nhỏ. Bốn cửa sổ - cửa sổ thật đấy - được chia thành những ô nhỏ bởi những vệt rộng màu xanh lá cây. Lại có cả cánh cổng bé tí, sơn vàng, với những cục sơn đông lại còn treo trên mép. Nhưng ngôi nhà nhỏ tuyệt vời, thật tuyệt vời. Còn ai phiền gì mùi sơn nữa? Chính nó là một phần của niềm vui, một phần của sự tươi rói đó. “Mở nó ra đi, mau lên”. Cái móc khóa ở bên gắn quá chặt. Pat nạy bật nó lên bằng con dao díp của anh ta, làm cả ngôi nhà rung lên bần bật, và tụi trẻ đứng đó, ngay lập tức nhìn chằm chằm vào bên trong: phòng khách, phòng ăn, bếp và hai buồng ngủ. Đó chính là cách mở cửa một ngôi nhà! Tại sao tất cả các ngôi nhà lại không mở theo cách đó? Thật khoái trá làm sao khi nhòm qua khe cửa vào một tiền sảnh be bé, nơi có đặt một giá treo mũ và hai cái ô! Phải chăng đó chính là những gì bạn nóng lòng muốn biết về một ngôi nhà, khi bạn đặt tay trên nắm cửa.

    “ Ồ-ồ”, bọn trẻ nhà Burnell reo lên. Thật quá diệu kỳ, quá đỗi lạ lùng đối với chúng. Chúng chưa bao giờ thấy cái gì như thế trong đời. Tất cả các căn phòng đều được dán giấy. Những bức tranh treo tường, vẽ trên giấy có khung mạ vàng hẳn hoi. Tất cả các phòng, trừ nhà bêp, đều được phủ thảm đỏ. Những chiếc ghế trong phòng khách bọc nhung đỏ, trong phòng ăn bọc nhung xanh; những chiếc bàn, những chiếc giường có phủ vải trải giường, một chiếc nôi, một chiếc lò, một chạn bát với những chiếc đĩa nhỏ xíu và một chiếc bình to. Nhưng cái mà Kezia thích hơn tất cả, thích khủng khiếp, là chiếc đèn. Nó đứng trên cái bàn đặt giữa phòng ăn; một chiếc đèn thanh tú, thon thả với chao đèn hình cầu màu trắng. Thậm chí nó có vẻ sắp được thắp lên, mặc dẫu rõ ràng là không thể thắp nó được. Nhưng bên trong đèn có một cái gì giống như dầu cứ sóng sánh khi bạn lắc nó.

    Búp bê bố và búp bê mẹ nằm dài thượt và cứng đơ như thể vừa ngất xỉu trong phòng khách; hai đứa con nhỏ của họ nằm ngủ trên gác, trông quá to trong ngôi nhà đó. Trông chúng chả hợp với ngôi nhà. Nhưng chiếc đèn thì tuyệt. Nó như mỉm cười với Kezia và nói: “Tôi sống ở đây đấy”. Chiếc đèn là thật.

    Lũ trẻ nhà Burnell thật khó mà đến trường cho thật nhanh sáng hôm sau. Chúng nóng lòng để kể với lũ bạn, để miêu tả, tất nhiên là huênh hoang, về ngôi nhà búp bê của chúng, trước khi chuông vào lớp kịp reo.

    “Để tao nói”, Isabel bảo. “Vì tao lớn nhất. Chúng mày có thể thêm vào sau đó. Nhưng tao phải nói trước”.

    Chả có gì để bàn cãi. Isabel luôn luôn chơi trội, nhưng luôn đúng; còn Lottie và Kezia biết rất rõ những quyền hành khi người ta là chị cả. Chúng chạy lướt qua những bụi cỏ dại ven đường và chẳng nói thêm gì.

    “Và tao cũng sẽ chọn đứa nào được đến xem đầu tiên. Mẹ cho tao chọn”.

    Vì đã có thỏa thuận là khi nhà búp bê còn đặt ở sân trong, chúng có thể rủ lũ bạn học, mỗi lần hai đứa, đến xem. Tất nhiên chỉ xem thôi, không ở lại uống trà, cũng không được đi lại lung tung trong nhà. Chỉ được đứng im lặng trong sân mà xem Isabel giới thiệu những thứ đẹp đẽ ấy, trong khi Lottie và Kezia theo dõi một cách thú vị.

    Nhưng dù hối hả đến mấy, khi chúng chạy đến hàng cọc rào sơn hắc ín chỗ sân chơi của bọn con trai, thì chuông vào học cũng đã đổ hồi. Chúng chỉ đủ thời giờ giật mũ xuống và lao vào hàng, trước khi bắt đầu điểm danh. Không sao, Isabel cố làm ra vẻ, bằng cái nhìn thật quan trọng và bí mật, nó che miệng thì thào với mấy đứa con gái đứng gần: “Có chuyện nói với mày. Giờ chơi”.

    Giờ chơi đến, và Isabel bị bao vây. Bọn con gái trong lớp gần như phải đánh nhau để dành chỗ đứng gần Isabel, để nắm tay nó, để bước đi cùng với nó, rạng rỡ tươi cười một cách bợ đỡ; được làm người bạn đặc biệt của nó. Nó gần như đang thiết triều dưới gốc những cây thông lớn bên cạnh sân trường. Bọn con gái xô đẩy; huých nhau, ép chặt lại với nhau và cười rúc rích. Và chỉ có hai đứa đứng ngoài vòng vốn là hai đứa bao giờ cũng đứng ngoài; chị em Kelvey. Chúng biết là tốt hơn nên tìm chỗ nào đứng gần chị em nhà Burnell.

    Vì sự thật là ngôi trường mà chị em Burnell đang học chẳng phải nơi mà cha mẹ chúng muốn chọn, nếu như còn có cái để mà chọn. Nhưng làm gì có. Đó là ngôi trường duy nhất trong vòng mấy dặm. Và kết quả là tất cả những trẻ con hàng xóm, mấy đứa bé gái nhà ông chánh án, bọn trẻ con chủ hiệu, con nhà người bán sữa... buộc phải học lẫn với nhau chưa nói đến cũng một số lượng như thế những đứa con trai láo lếu và thô lỗ. Tuy nhiên cũng có một lằn ranh được vạch ra ở đâu đó. Nó được vạch ra ở chị em nhà Kelvey. Nhiều đứa trẻ, trong đó có trẻ con nhà Burnell không được phép nói chuyện với chúng. Chúng bước qua trước mặt chị em Kelvey mà mặt vác lên trời, và cái cung cách khinh khỉnh ấy nằm trong mọi hành vi cư xử. Chị em nhà Kelvey bị tất cả mọi người xa lánh. Ngay đến cô giáo cũng có giọng riêng để nói vớỉ chúng và dành nụ cười đặc biệt cho những đứa trẻ khác, khi Lil Kelvey lại gần bàn cô với một bó hóa trông tầm thường đến phát khiếp.

    Chúng là con gái của người đàn bà thợ giặt nhỏ bé, nhanh nhảu và lam lũ, ngày ngày đi từ nhà này qua nhà khác để giặt thuê. Tưởng thế đã đủ gớm ghiếc rồi. Nhưng còn ông Kelvey ở đâu? Không ai biết chắc, nhưng người ta bảo rằng ông ta đang ở tù. Vậy ra chúng là con gái của một mụ thợ gịặt và một gã tội phạm. Thật đẹp mặt cho những ai đánh bạn với chúng. Nhưng điều không hiểu nổi là tại sao bà Kelvey lại để sự khốn khổ lộ rõ ra như thế? Sự thật là chúng được mặc bằng những mảnh vụn mà người ta cho mụ ở những nơi mụ đến làm. Lil chẳng hạn, một đứa trẻ mập và thô, có những nốt tàn nhang lớn, đến lớp trong bộ quần áo cắt từ chiếc khăn trải bàn bằng hàng giả xec màu xanh lá cây của nhà Burnell với những ống tay áo bằng nhung đỏ lấy từ tấm rèm nhà Logan. Mũ của nó nằm vắt vẻo phía trên chiếc trán cao, vốn là chiếc mũ người lớn, trước đây là của cô Lecky, chủ sự bưu điện. Nó được cuốn lên ở phía sau và được sửa lại bằng một ống chỉ lớn màu đỏ tươi. Trông nó ăn mặc mới kỳ quái làm sao! Không thể nào nín cười được. Con em nó, Else, vận một chiếc áo dài trắng, giống như váy ngủ, và đi một đôi ủng con trai. Nhưng dù Else có mặc gì đi chăng nữa thì trông nó cũng lạ lùng. Nó gầy như một bộ xương khô, với mái tóc cắt ngắn và đôi mắt to nghiêm trang - một con cú màu trắng! Chưa ai thấy nó cười bao giờ, cũng rất ít khi thấy nó nói. Nó đi qua cuộc đời, gắn chặt vào Lil, với một mẩu váy của Lil xoắn chặt trong tay. Lil đi đâu, nó theo đấy. Trên sân chơi, trên đường đến trường và về nhà, bao giờ cũng là Lil đi trước và Else bám theo sau. Chỉ khi nào muốn điều gì, hay khi mệt đứt hơi, Else mới giật giật áo chị nó, và Lil mới dừng bước, quay lại. Chị em nhà Kelvey lúc nào cũng hiểu nhau.

    Bây giờ chúng đang lởn vởn ở ngoài kia, ai cấm được chúng nghe lỏm. Khi bọn con gái quay lại cười khinh bỉ, như thường lệ, Lil mỉm một nụ cười ngượng ngập và ngốc nghếch, còn Else chỉ giương mắt nhìn.

    Lại giọng Isabel, rất kiêu hãnh, tiếp tục kể: “Tấm thảm gây một ấn tượng kỳ thú, những chiếc giường cũng vậy, có cả khăn trải giường thật, và chiếc bếp lò có cả ghi lò”.

    Khi nó nói hết, Keria thêm vào: “Chị còn quên chiếc đèn, Isabel”. “Ờ phải”, Isabel nói: “Có một chiếc đèn cực kỳ xinh xẻo, làm toàn bằng thủy tinh vàng, chao đèn màu trắng, đứng trên bàn trong phòng ăn. Không thể phân biệt nó với chiếc đèn thật”.

    “Chiếc đèn tuyệt vời nhất”, Keria thốt lên. Nó cho rằng Isabel tán dương chưa đủ xứng với chiếc đèn. Nhưng chẳng có ai để ý. Isabel đang chọn hai đứa chiều nay về cùng để xem. Nó chọn Emmie Cole và Lena Logan. Nhưng khi những đứa khác biết rằng tất cả bọn chúng rồi sẽ đến lượt, chúng không biết làm gì để tỏ hết nỗi lòng với Isabel. Lần lượt từng đứa một đến ôm eo Isabel để tiễn nó. Chúng có nhiều điều cần phải thầm thì với Isabel những điều bí mật: “Isabel là bạn của mình”.

    Chỉ có hai chị em nhà Kelvey là bỏ đi lặng lẽ, chúng chẳng còn gì để nghe nữa.

    Ngày lại ngày trôi qua, càng có nhiều trẻ con được đến xem nhà búp bê, danh tiếng của nó càng thêm lừng lẫy. Nó trở thành chủ đề của mọi cuộc trò chuyện, như một cái mốt. “Mày đã được xem nhà búp bê của chị Burnell chưa? Ôi, dễ thương thật chứ nhỉ”. “Thế mày chưa được xem à? Ồ,tuyệt lắm”.

    Ngay cả những giờ ăn cũng được dành để nói chuyện đó. Bọn con gái ngồi dưới những gốc thông ăn những chiếc bánh kẹp thịt cừu dày dặn, những lát bánh mì lớn phết bơ. Trong lúc đó chị em nhà Kelvey, Else bám chặt Lil, luôn luôn ngồi, gần đến mức có thể, vừa lắng nghe vừa gặm những chiếc bánh kẹp mứt bọc trong giấy báo, có chấm thứ nước xốt đỏ lừ.

    “Mẹ ơi”, Kezia hỏi, “con cho chị em nhà Kelvey đến xem một lần thôi, được không?”

    “Tất nhiên là không, Kezia”.

    “Sao không hả mẹ?”.

    “Đi đi, Kezia. Chính con phải biết tại sao?”.

    Cuối cùng, tất cả đã được đến xem, chỉ trừ hai chị em chúng. Vào ngày đó, chủ đề ấy đã trở nên khá nhạt nhẽo. Vào giờ ăn, bọn trẻ đứng túm tụm dưới các gốc thông, và bỗng nhiên, khi chúng thấy chị em nhà Kelvey đang gặm bánh mì trong giấy báo, luôn luôn chỉ có hai đứa với nhau, luôn luôn nghe ngóng; thì chúng muốn chơi thật ác. Emmie Cole bắt đầu thầm thì:

    “Lil Kelvey sẽ đi làm đầy tớ khi nó lớn lên”.

    “Ồ-ồ... thật kinh khủng”, Isabel Burnell vừa nói vừa đưa mắt cho Emmie, Emmie nuốt một cách đầy ý nghĩa, và gật đầu với Isabel giống như nó thường thấy mẹ nó làm trong những dịp tương tự.

    “Thật đấy - thật đấy - thật đấy”, nó nói.

    Lúc ấy đôi mắt nhỏ của Lena Logan loé lên: “Tao hỏi nó nhá?”.

    “Thôi, đừng” - Jessie May can.

    “Phù, tao tóc sợ”, Lena nói. Tự nhiên nó kêu ré lên rồi nhảy múa trước mặt cả bọn. “Xem đây. Hãy coi tao. Nhìn tao đây!”. Rồi nó lướt đi trên một chân, kéo lê chân kia, tay che miệng cười khúc khích. Nó lướt tới trước mặt chị em Kelvey.

    “Có đúng là mày sẽ đi làm đầy tớ khi mày lớn lên không, Lil Kelvey?”

    Lil ngừng ăn ngước nhìn lên. Nó bọc vội mẩu bánh ăn dư dấu đi. Else ngừng nhai. Cái gì vậy?

    Im lặng như chết. Nhưng thay vì trả lời, Lil mỉm cười ngượng nghịu và ngây ngô. Hình như nó chẳng lấy làm phiền lòng vì câu hỏi. Lena thất vọng biết bao. Bọn con gái bắt đầu cười khúc khích.

    Lena không thể chịu nổi điều đó. Nó đặt bàn tay lên môi, rít lên một cách hằn học:

    “Á, à, cha mày đang ở trong tù”.

    Nói được ra điều đó thật là một sự kiện phi thường; lũ con gái chạy tản ra, khoái trá như điên. Một đứa kiếm được sợi dây thừng dài và chúng bắt đầu nhảy. Chưa bao giờ chúng nhảy cẫng lên đến thế, chạy tới chạy lui nhanh như thế, và dám nói những câu táo tợn như sáng hôm nay.

    Buổi chiều Pat đưa xe ngựa đến đón chị em Burnell về nhà; ở nhà đang có khách. Isabel và Lottie là hai đứa thích có khách, chạy vội lên gác thay quần áo. Còn Kezia lẻn ngay ra sau nhà. Không có ai ở đó, thế là nó bắt đầu đánh đu trên cánh cổng lớn sơn màu trắng. Lát sau nó phát hiện thấy trên đường hai chấm nhỏ, đang lớn dần lên và đang tiến lại phía nó. Bây giờ nó đã thấy rõ một cái phía trước, một cái phía sau. À, bây giờ nó đã thấy rằng đó chính là chị em nhà Kelvey. Kezia ngừng đu. Nó tụt xuống khỏi cánh cổng và có vẻ muốn chạy đi. Nó do dự. Hai chị em. Hai chị em Kelvey đến gần hơn, bên cạnh chân chúng, những cái bóng của chúng rất dài, trải ngang qua con đường với những cái đầu trên bụi cỏ gai. Kezia lại leo lên cổng. Nó đã quyết ý. Nó tiếp tục đu như trước.

    “Hello!”, Nó chào vọng tới hai đứa đang đi qua. Hai đứa kia ngạc nhiên quá đứng hẳn lại. Lil mỉm nụ cười ngốc nghếch. Else nhìn chằm chằm.

    “Chúng mày có thể vào xem nhà búp bê của tao, nếu chúng mày muốn”.

    Kezia nói, rồi nó quệt một ngón chân trên mặt đất. Nhưng nghe thấy thế Lil đỏ mặt và lắc đầu quầy quậy.

    “Sao không?”, Kezia hỏi.

    Lil thở hổn hển rồi nói: “Mẹ đằng ấy bảo với mẹ tôi rằng đằng ấy không được nói chuyện với chúng tôi”.

    “Ồ, được thôi”, Kezia nói. Nó không biết trả lời như thế nào.

    “Không sao đâu. Chúng mày có thể đến xem nhà búp bê của chúng tao. Vào đi. Không ai thấy đâu”.

    Nhưng Lil lắc đầu càng mạnh hơn.

    “Thế chúng mày không muốn à?”, Kezia hỏi.

    Bỗng chiếc váy của Lil bị giật mạnh một, hai lần, nó ngoảnh lại. Else đang nhìn nó bằng cặp mắt mở rộng và nài nỉ, trán nó nhăn lại. Nó muốn vào. Lil ngập ngừng nhìn Else một lát. Else lại kéo mạnh váy nó lần nữa. Nó dợm bước vào. Kezia dẫn đường. Chúng bước theo sau như hai con mèo hoang, vượt qua mảnh sân đến chỗ đặt ngôi nhà búp bê.

    “Nó đây”, Kezia nói.

    Một thoáng im lặng. Lil thở rõ mạnh, như thể khịt mũi. Else đứng im như một hòn đá.

    “Tao mở cho chúng mày xem”, Kezia dịu dàng bảo. Nó mở khóa và hai đứa nhìn vào bên trong.

    “Kia là phòng khách và phòng ăn, và đây là...”.

    “Kezia!”. Ôi, vừa mới cứ bắt đẩu...

    “Kezia!”

    Đó là giọng dì Beryl. Chúng nó ngoảnh lại. Đứng trên cửa sau là dì Beryl đang nhìn trừng trừng như không tin nổi mắt mình.

    “Sao cô dám cho lũ ranh con nhà Kelvey vào trong sân?”. Bà ta nói bằng giọng lạnh lùng và ghê sợ. “Cô cũng biết rõ như tôi rằng cô không được chuyện trò với chúng. Cút ngay, lũ kia, cút ngay đi. Đừng có bao giờ đến đây nữa”. Dì Beryl quát. Bà ta bước vào sân và xua chúng như xua gà. “Cút ngay tức khắc”. Bà ta quát một cách lạnh lùng và hống hách.

    Chúng chẳng đợi nói đến lần thứ hai. Mặt đỏ bừng vì xấu hổ, rúm lại với nhau, Lil tất tưởi như mẹ nó, Else bàng hoàng ngơ ngác. Bằng cách nào đó chúng vượt qua chiếc sân rộng, và chen qua chiếc cổng trắng.

    “Đồ con gái hư thân, khó bảo”. Mụ lầm bầm về phía Kezia, và bước đến ngôi nhà búp bê đóng sầm cửa lại.

    Một buổi chiều thật khó chịu. Một bức thư của Willie Brent, lời lẽ đầy hăm dọa, nói tối nay nếu mụ không đến với gã ở Bãi Pullman thì tự gã sẽ đến tìm mụ, vào thẳng cửa trước, để hỏi lý do! Nhưng lúc này sau khi đã nạt được mấy con chuột con nhà Kelvey và rầy la đích đáng cô chủ Kezia, mụ thấy lòng nhẹ nhõm đi nhiều. Mụ xấn xổ bước lên nhà trên.

    Hai đứa trẻ nhà Kelvey khi đã chạy khá xa nhà Burnell mới ngồi xuống nghỉ trên một ống cống đặt ở bên đường. Hai gò má Lil vẫn còn đỏ rực. Nó bỏ mũ xuống đặt trên đầu gối. Hai đứa mơ màng nhìn ra xa, qua bãi cỏ, qua khe nước hẹp, tới hàng cọc nơi những con bò nhà Logan đang đứng chờ vắt sữa. Chúng đang nghĩ ngợi gì?

    Elsa bỗng lay khuỷu tay thúc thúc chị nó. Lúc này nó đã quên hẳn mụ già bẩn tính. Nó lấy một ngón tay chọc vào mũ của Lil, và mỉm một nụ cười hiếm hoi:

    “Em đã trông thấy chiếc đèn”.

    Cả hai đứa lại im lặng.


    HÙNG THẢI dịch
     
    meetdak and amylee like this.
  8. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CUỘC SĂN ĐUỔI

    TRUYỆN NGẮN CỦA GENE POLLOCK (MỸ)


    Allen Tipton sợ. Thực vậy, anh ta luôn luôn sợ máy bay, nhưng giờ đây không phải chỉ vì độ cao mà anh ta ngồi chết cóng xuống ghế. Bề ngoài anh ta ra vẻ dửng dưng, nhưng bên trong ruột gan anh ta đã mềm nhũn ra như sứa.

    Anh ta liếc trộm ông chủ đang ngồi mé bên kia buồng lái. Trên ghế phi công của chiếc phi cơ riêng loại nhỏ, Robert W.Welling ngồi tự tin, thoải mái, bay rất vững tay. Hẳn Welling phải cảm nhận được tia nhìn của Allen nên ông quay lại mỉm cười.

    “Sắp đến rồi” - ông tuyên bố - “Năm, mười phút nữa thôi là chúng ta đã trông thấy túp lều rồi”. Allen thầm cảm ơn trời. Ít nhất nếu chuyện đó xảy ra thì chân anh ta cũng đã được đứng trên đất.

    “Tôi cứ mong cho chóng đến nơi”, Allen đã nói dối. Nếu có điều gì anh ta dứt khoát mong cho đừng đến thì đó chính là điều này. Suốt 5 năm qua, kể từ ngày Allen Tipton đến làm việc cho công ty United Electronics, Robert W.Welling, chủ tịch công ty, đã tỉnh bơ coi như không biết đến anh ta. Thế mà bỗng dưng, không một lời báo trước, không một chút lý do, ông ta lại đích thân gửi giấy mời anh ta cùng đi săn với ông. Vậy là Welling đã biết, hoặc đã ngờ vực rồi. Đối với Allen lời mời của Welling chắc chắn phải là một cái lệnh.

    “Nó kìa”, Welling nói, chỉ tay xuống dưới.

    Allen miễn cưỡng nhìn sang bên cạnh. Trong phạm vi tầm mắt anh có thể thấy, vùng đất bên dưới trắng xóa một màu hoang sơ, chỉ thỉnh thoảng được điểm xuyết bằng mấy rặng thông cằn cỗi rồi bị vạch dài phũ phàng bởi con sông băng giá. Ngay phía dưới, thấp thoáng sau lùm thông anh ta đã trông thấy được túp lều.

    “Nó dư chỗ cho năm, sáu người ở thoải mái, nhưng chuyến này không hiểu sao tôi không khoái đám đông”, Welling giải thích, “nên tôi nghĩ hay nhất là loại hết mấy người kia ra”.

    Allen nghĩ mình hiểu được tý do tại sao, và lý do dó không phải như ông chủ vừa nói.

    “Đi đông thì chỉ tổ mất thời gian vào mấy chuyện đánh bài, nhậu nhẹt, thức khuya....Tôi thì chỉ muốn được nghỉ ngơi cho giãn gân giãn cốt một chút thôi. Khi ta lên tới địa vị cao nhất thì mọi việc đâm ra căng thẳng. Thiên hạ luôn theo sát ta bén gót, những mong kéo ta xuống”.

    “Tôi hiểu”, Allen đáp, dù anh ta chẳng thể hiểu gì hết. Anh ta chưa bao giờ phải đương đầu với một tình huống như thế này.

    “Giữ chặt mũ nào”, Welling nhắc nhở với một nụ cười như biện bạch, “ta đáp xuống đây”.

    Allen cố che giấu nỗi sợ, thế nhưng khi Welling bớt tốc độ và tiếng động cơ đang ù ù ngon trớn bỗng lịm dần thành thứ âm thanh khằng khặc rên rỉ, anh ta cuống cuồng bám chặt lấy hai bên thành ghế. Cũng may, Welling mải bận với thao tác hạ cánh nên không để ý thấy, hoặc giả nếu có để ý, ông ta cũng không biểu lộ chút gì ra bên ngoài.

    Allen cố nhắm mắt để khỏi trông thấy cảnh mặt đất đang lao dần tới thật nhanh những nỗi mê đắm cuốn hút muôn thuở của con người đối với cái chết, đặc biệt là cái chết của chính mình, đã bắt mắt anh ta phải mở to và bắt sự chú ý của anh ta phải dán chặt lấy vùng chao mờ bạc trắng đang lướt qua dưới cánh máy bay. Càng trượt tuyết của máy bay đã tiếp đất, làm bắn tung bụi tuyết mù mịt cả hai bên. Allen thở ra thật sâu, sức ghì vào ghế đã lơi lỏng, và anh ta mỉm cười. Welling cho máy bay trượt đến gần túp lều rồi tắt máy.

    “Tôi sẽ lo buộc máy bay còn anh hãy tháo hành lý xuống đi”, ông ta bảo lúc mở tung cánh cửa ra. Ông ra phải gập đôi người lại mới chui được ra khỏi cửa phòng lái. Cao lớn, to xương và nặng nề, nhưng ông vẫn di chuyển với một uy lực và nét ung dung mà Allen không thể không ngưỡng mộ.

    Allen bò toài người xuống vùng đất ngập tuyết một cách vụng về. Cái lạnh buốt cóng khiến toàn thân anh ta thoắt rùng mình. Anh ta đập hai tay vào hai cạnh sườn rồi đi bọc qua ngăn chứa hành lý.

    Đang hí húi làm việc thì chợt anh ta có cảm giác bị theo dõi. Anh ta ngước lên thì trông thấy Welling đang đứng cạnh máy bay nhìn anh chăm chăm. Anh ta há hốc mồm.

    “Xin lỗi đã làm anh giật mình”, Welling nói.

    “Tại tôi bị bất ngờ”, Allen giải thích yếu ớt. “Tôi sê đi lấy bình ga butane và lo nối vào bếp nấu và lò sưởi”, Welling nói, “Chẳng lý do gì chúng ta lại không tận hưởng một bữa ăn nóng sốt ngon lành và một căn lều ấm áp đêm nay. Anh mang mấy túi hành lý vào lều đi”. “Vâng, thưa ông Welling”, anh ta đáp. “Bỏ cái tiếng thưa ông Welling đó đi. Là bạn săn bắn với nhau, chỉ cần gọi tôi là Bob được rồi”.

    “Vâng, thưa ông, Bob. Tôi hiểu”.

    “Dẹp luôn cái tiếng thưa ông nữa đi”. “Được rồi, Bob”, Allen vâng lời.

    Đêm đó, sau bữa ăn nóng sốt ngon lành do Welling nấu nướng một cách xuất sắc, hai người nói chuyện về công ty United Electronics, Allen cố tỏ ra sáng suốt khôn ngoan, nhưng anh ta không sao tỏ ra tập trung được.

    “Nhưng ta đâu có lên đến tận đây để bàn chuyện làm ăn”, rốt cuộc Welling nói. “Anh cứ tự nhiên dùng rượu bourbon đi, còn tôi đi ngủ đây”, ông ta đứng dậy, vươn vai, rồi băng ngang phòng đi đến chỗ giá súng, ông lấy cây súng trường xuống.

    “Chắc phải chùi dầu thằng bé này, biết đâu mai chẳng có dịp phải dùng đến nó”, ông vừa nói vừa đi về phòng ngủ của mình rồi đóng cửa lại.

    Allen rót cho mình một ngụm bourbon. Từ bên kia căn phòng, Alice Welling đang cười với anh ta từ bức ảnh chụp khổ 20 x 25 đặt trên mặt lò sưởi khổng lồ bằng đá granit. Allen bước tới và nâng ly.

    “Nào, hỡi cô Alice bé nhỏ ở xứ thần tiên, xin uống mừng câu chuyện của chúng ta”, anh ta nói khẽ rồi nốc cạn ly whisky. Alice vẫn cứ cười. Cô ta có thừa khả năng để cười mà. Chồng cô, chủ tịch công ty United Electronics, rất trung thành tận tụy với người vợ trẻ mỹ miều của mình. Ông ta cũng rất ư hào phóng. Mới hôm qua đây, ông vừa tiễn cô ta sang Âu châu để nghỉ mát dài ngày. Cũng chính hôm đó ông ta lại gợi ý rằng Allen Tipton có muốn đi nghỉ cuối tuần tại căn lều săn bắn của ông không.

    Allen rót thêm một ngụm rượu nữa và chế vào rượu một chút nước. Đôi tay anh ta run rẩy lúc nâng ly rượu lên, thế rồi một tiếng động lạ chận anh ta lại giữa trớn uống. Anh ta thận trọng ngoái lại nhìn. Phải ngót một phút rồi anh ta mới nhận được tiếng động đó là gì. Welling đang ngáy như sấm ở phòng kế bên.

    Allen bỏ ly rượu xuống. Anh ta cần ngủ, chứ không phải cần rượu. Welling đã lập tâm giết anh và dàn dựng việc đó giống như một tai nạn. Nếu anh muốn tiếp tục sống, anh cần phải hết sức tỉnh táo. Con người đang nằm ở phòng kế bên là một tay săn bắn tuyệt luân, đây là vùng sinh sát của ông ta, và Allen phải để ông ta đi bước trước. Dù sao đi nữa, rất có thể là anh ta lầm.

    Allen rút cây súng trường của mình ra khỏi giá và lắp đạn vào. Anh bước về phòng mình. Cửa phòng không có khóa nhưng có một then cài lớn. Anh cài chặt then lại. Căn phòng ngột ngạt nên anh ra phía cửa sổ để mở hé cửa. Anh thất vọng khi khám phá ra cửa sổ đã được niêm chặt vĩnh viễn, một khung kính dầy gấp đôi với một lỗ không khí để cách nhiệt. Anh vặn thấp lò sưởi ga xuống, không còn cách nào khác để có được nguồn không khí tươi mát.

    Anh cởi nhanh quần áo rồi chui vào mền. Vừa nằm trong bóng tối anh ta vừa suy nghĩ. Anh ta không phải là đồ hèn, nhưng mà anh ta sợ. Anh không muốn chết, dù sao thì cũng chưa. Cuộc đời còn đẹp quá. Anh ăn lương cao trong chức vụ kế toán trưởng của công ty United, anh có một căn hộ sang trọng, một xe hơi thể thao... và nhiều người đàn bà. Không nhiều lắm, nhưng cũng đủ. Anh đã lỡ lầm một lần, với vợ của Welling.

    Allen có cảm giác mình vừa thiu thiu ngủ thì Welling đã gõ cửa đánh thức anh ta dậy.

    “Dậy đi”, Welling gọi, “tôi đã rán sẵn thịt giăm-bông trong chảo rồi đó”.

    Allen lầu bầu ngồi dậy, cố rút mắt ra khỏi cơn buồn ngủ. Mùi thịt rán thơm nồng xộc vào mũi anh. Thu hết can đảm để chống lại cái lạnh, anh thòng chân xuống sàn lều, chạy nhanh ra lò sưởi và vặn lửa lên. Trong bóng tối nhá nhem, anh mặc vội quần áo rồi đi ra cửa. Anh cố kéo then cửa cho thật khẽ khàng, nhưng mấy ngón tay tê cóng đã phản bội anh. Then cửa mở đánh sầm một tiếng. Lúc anh bước ra khỏi phòng thì Welling đang nhướng mày nhìn anh.

    “Đây, uống cái này đi, nó sẽ giúp anh tỉnh táo”, ông ta bảo sau đó một lúc, vừa rót cà phê nóng bốc khói vào một chiếc tách.

    Allen uống chất nước đắng và đầu óc anh ta bắt đầu tỉnh táo ra. “Trời vẫn còn tối. Mấy giờ rồi?” anh ta hỏi.

    “Cần phải vào rừng sớm, Allen ạ”, Welling giải thích, “Cần phải đến được vị trí vào lúc bình minh thì cuộc săn mới có kết quả tốt nhất”.

    “Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy”, Allen đáp.

    “Bỏ mấy quả trứng này vào bụng, anh sẽ cảm thấy dễ chịu hơn”, Welling gợi ý.

    Sau bữa điểm tâm, họ xuất phát, chủ nhân dẫn đường băng qua vùng tối. Allen phải theo sát để khỏi bị lạc. Anh nhìn tấm lưng to như cái phản phía trước mặt. Nỗi cám dỗ hãy bắn ông ta thật quá mạnh mẽ, nhưng giết người chỉ là hạ sách, chỉ là biện pháp cuối chẳng đặng đừng mà thôi. Giả thử anh ta lầm thì sao? Giả thử Welling không biết chút gì về chuyện anh và Alice thì sao?

    Bình minh vừa ló dạng ở phía dông thì Welling ra lệnh ngừng. “Tôi sẽ để anh ở lại đây”, ông ta nói, “Anh cứ đi tiếp con đường mòn này, khi nào tìm được chỗ nấp tốt thì chiếm lấy ngay. Nếu như đến khoảng, cứ cho là mười giờ đi, mà chúng ta chẳng săn được gì thì chúng ta trở lạỉ lều, rũ bớt cái lạnh, rồi chiều nay lại tiếp tục”. Welling bỏ đi vào vùng tối nhập nhoạng. Hai mươi thước xa, ông ta chỉ còn là một bóng mờ, ở khoảng cách năm mươi thước, ông ta mất hút vào bóng tối.

    Allen run lẩy bẩy. Cuộc săn bắt đầu. Anh lơ mơ nhớ lại đã từng đọc câu chuyện về một người lấy chuyện săn đuổi những người khác làm thú tiêu khiển. Anh tất tả đi giữa cảnh vật buổi rạng đông. Những rặng cây, đầy vẻ ma quái dưới áo tuyết trắng, lơ lửng trên đầu anh. Anh thấy được hơi thở mình như những cụm khói lãng đãng trước mũi, lạnh giá. Anh dừng bước, bẻ ngoặt sang góc phải vào một lối mòn rồi cắm đầu chạy. Anh liếc vội ra sau và nhận tra rằng anh đang lưu lại dấu vết mà một kẻ tài tử cũng dư sức theo dõi. Welling thì rõ ràng đâu có phải là một tay mơ.

    Bên trên anh, về phía trái, xuất hiện một rặng đá. Anh trèo lên. Khi lên đến chỗ đá nhô ra, anh thận trọng đi bọc theo, đặt chân trên những chỗ trơ trụi nơi gió đã thổi bạt tuyết đi. Năm phút sau anh thấy cái anh đang cần, một thân cây ngã. Từ rặng đá anh nhẩy lên cây, rồi chạy ngược thân cây lên đến tận cành. Anh ngồi xổm nơi cành cây mọc um tùm nhất rồi nghỉ ngơi chờ đợi. Từ vị trí đó, anh quan sát được rất rõ địa thế chung quanh.

    Anh căng mắt quan sát thật kỹ mọi hướng. Giờ đây anh ngừng di chuyển, cái lạnh buốt cóng lại len lách dưới y phục, tấn công vào cơ thể anh. Khi mặt trời đã lên cao, Allen trông thấy con mồi đầu tiên. Con vật to lớn đi hiên ngang ra giữa trảng trống cách anh không đầy một trăm thước, và trước khi anh kịp nhận ra mình đang làm gì, anh đã kê súng lên vai chuẩn bị bóp cò.

    Anh thong thả hạ súng xuổng. Anh đang định làm gì vậy? Muốn tiếp tay cho người ta giết anh sao? Chỉ cần một phát súng cũng đủ cho Welling biết đích xác anh đang ở đâu.

    Con nai đường hoàng, bệ vệ đi xuống triền khe núi, rồi băng qua thềm thung lũng. Ba mươi phút sau đó, Allen mới nghe tiếng súng của Welling. Anh nhìn đồng hồ. Bảy giờ. Anh trở lại tư thế chờ, bắp thịt căng thẳng, các giác quan cảnh giác.

    Buổi sáng trôi qua chậm chạp. Thêm ba con mồi nữa đi ngang tầm bắn của Allen, nhưng anh chẳng buồn chú ý. Đôi bàn chân anh đau nhức vì lạnh. Anh hà hơi vào đôi tay để giữ hơi ấm cho chúng. Cứ vài phút anh lại nhìn đồng hồ. Đúng chín giờ bốn mươi lăm phút thì tiếng nói của Welling đã cất lên ngay đằng sau anh.

    “Chỗ nấp của anh thật là tuyệt”, ông ta nói, còn Allen quay lại như một cơn lốc, thất kinh hồn vía. Welling đang ngồi trên thân cây, súng của ông hầu như chĩa thẳng mũi về phía anh. “Chắc chắn anh phải là một nhà săn bắn giỏi hơn chỗ tôi tưởng”.

    “Trông nó giống một vị trí nấp tốt”, Aller nói. Làm sao Welling đến gần sát được như vậy mà anh không hề nghe thấy chút gì?

    “Anh có trông thấy gì không?” Welling hỏi.

    “Không, nhưng tôi có nghe thấy một phát súng”, Allen trả lời.

    “À, chính tôi bắn đó. Tôi bắn một con mồi đang chạy, nhưng hụt trong gang tấc. Có lẽ ta nên về lều kiếm chút gì bỏ bụng đã”.

    Allen trườn ra khỏi chỗ nấp và Welling đứng lên. Trên đường về, Welling tìm cách luôn đi sát sau anh ta một, hai bước. Cảm giác về ngày tận số đã đến cứ ám lấy Allen khiến anh không rút ra được. Người đàn ông này đang chơi trò mèo vờn chuột với anh đây. Welling muốn thấy anh sụp đổ, ngã gục, đau khổ.

    Đến giờ đi săn buổi chiều, Allen lấy cớ đau đầu để không đi. Anh cần thời gian suy nghĩ. Một cách miễn cưỡng nhưng vẫn lịch sự, Welling chấp nhận sự thoái thác của anh, rồi ông vui vẻ ra đi săn đuổi “con mồi” của ông.

    Từ cửa sổ trước nhà, Allen nhìn thấy Welling khuất dạng sau rặng thông. Ngay khi ông ta khuất dạng, anh ta vội lục soát khắp căn lều. Anh không thể nào vào rừng lại được, buổi sáng nay đã chứng tỏ điều ấy. Chắc anh phải đến giết Welling trong đêm mới xong, vẩn đề là bằng cách nào? Anh trở lại phòng khách, không tìm ra giải pháp giúp anh giải quyết vấn đề.

    Có thể đơn giản mở tung cửa rồi bắn chết ông ta đang khi ông ta ngủ không? Căn phòng tối quá, nhỡ bắn hụt thì sao? Ông ta ngủ ngáy như kéo gỗ, hẳn là một người ngủ ngon giấc. Cố thể lén đến sát ông trong bóng tối rồi dùng dao đâm chết ông ta không? Nội nghĩ đến điều đó anh ta đã sởn cả gai ốc.

    Allen lấy súng xuống khỏi giá, đá một chiếc ghế đến cạnh lò sưởi, rồi ngồi xuống đợi, lưng đấu vào mặt lò sưởi bằng đá granit. Lần này anh không được để bị tấn công bất ngờ nữa. Anh đợi suốt buổi chiều. Mãi tối mịt Welling mới bước qua ngưỡng cửa bếp, vào lều.

    “Chả thấy con gì cả”, Welling tuyên bố. Ông đứng phía trong cửa, khẩu súng cắp trên tay. “Cơn nhức đau của anh ra sao rồi?”

    “Đỡ nhiều rồi”, Allenđáp.

    “Tốt, vậy thì tôi mong là anh không phiền chuyện nấu ăn tối nay chứ? Tôi mệt phờ râu rồi”.

    “Tôi làm được mà”, Allen đáp, thận trọng đặt khẩu súng xuống.

    Anh rán khoai tây, nướng thịt bò, rồi mở một hộp đậu. Welling ăn ngấu nghiến. Allen chỉ ăn qua quýt mấy cọng đậu, vừa nói chuyện này chuyện nọ cho phải phép. Welling trả lời nhã nhặn, nhưng nói ít.

    “Thịt nướng ngon lắm”, Welling khen sau đó. “Thôi, bây giờ tôi phải đi viết gấp cho Alice một lá thư rồi đi ngủ đây. Tôi muốn sáng mai ta khởi hành vào rừng sớm rồi sau đó bay về thành phố. Tôi vẫn mong kiếm cho anh được một con mồi đầu tiên”.

    “Có lẽ ngày mai chúng ta gặp may hơn”, Allen trả lời.

    “Mong là như vậy”, Welling đáp lúc ông đứng dậy khỏi bàn ăn. Ông nhặt cây súng lên rồi bước về phòng ngủ. Ông ngừng ở cửa và ném về phía Allen một cái nhìn khó hiểu. “Chúc ngủ ngon, Allen”, ông ta bước vào phòng và Allen nghe thấy tiếng chốt cửa cài chặt lại.

    Anh ta thấy chai bourbon xuống và rót cho mình một ly đúp. Anh thong thả nhấm nháp từng ngụm, suốt lúc đó không ngừng nhìn kẽ sáng nhỏ hắt ra từ phòng của Welling. Sau vài phút, khoảng thời gian vừa đủ để viết một lá thư, ánh đèn tắt phụt. Hai mươi phút sau đó, tiếng thở đều đều phát ra qua khung cửa.

    Allen cố suy nghĩ. Mỗi ý nghĩ đều chạy vòng tròn quanh óc anh, rồi rốt cuộc lại trở về chỗ khung cửa đã cài then. Anh không tìm ra được cách nào vượt qua cánh cửa ấy. Anh có làm gì đi nữa thì dứt khoát điều đó cũng phải trông giống như một tai nạn mới được. Nếu anh phóng hỏa túp lều, Welling có thể trốn thoát. Hơn nữa, làm thế không chừng anh đã bị chết cóng vì lạnh trước khi được tiếp cứu. Chắc chắn là anh không thể lái máy bay thoát ra. Không, chắc chắn phải tìm cách khác. Anh rùng mình, ớn lạnh. Anh bước lại phía lò sưởi và cúi xuống vặn ngọn lửa lên.

    Anh lưỡng lự, mê man nhìn ngọn lửa. Thay vì vặn ga lên, anh lại tắt đi. Anh trở về phòng mình và tắt lò sưởi trong phòng. Anh bước khẽ đến cửa bếp rồi lách ra ngoài trời đêm.

    Ánh trăng thượng huyền giúp anh tìm thấy bồn chứa ga nằm dưới đất, bên cạnh cửa sau. Anh cúi xuống ngắt ga trong vòng hai giây, vừa đủ thời gian cho ngọn lửa tắt nơi lò sưởi trong phòng Welling. Tiếng ngáy hòa điệu với một âm thanh khác, đó là tiếng hơi ga thoát ra khỏi các vòi phun mở ngỏ. Allen mang theo chai rượu bourbon vào giường với mình. Rượu sẽ cung cấp sức nóng cho anh qua đêm nay.

    Anh nằm trên giường uống rượu. Anh nghe được tiếng ngáy yếu mỏng cùng tiếng ga thoát ra qua bức vách. Nếu mùi ga butane không đánh thức được Welling thì coi như anh đã thực hiện được một tội ác hoàn hảo. Sáng mai, anh sẽ phát hiện ra ông chủ anh nằm chết trên giường do tai nạn lò sưởi bị nghẹt. Anh sẽ ngồi yên ở đó cho đến khi được tiếp cứu, cứ như thế mà làm.

    Anh uống thêm ngụm rượu nữa. Anh vẫn còn nghe tiếng ngáy đều đều từ phòng bên vọng ra. Anh cố không để ý tới những âm thanh đó, nhưng có vẻ như chúng trở nên lớn hơn. Anh chụp chiếc gối lên đầu, âm thanh đó lại xuyên thấu vào óc anh. Anh ngồi dậy. Có gì mà anh phải quan tâm đến Welling chứ? Há không phải ông ta đã âm mưu đưa anh ra đây để giết anh hay sao? Mặc xác ông ta chứ! Thế nhưng rốt cuộc, Allen không còn chịu nổi nữa. Anh nhảy xuống giường, chạy vào bếp chụp lấy một cái rìu, chạy lại phía cửa phòng của Welling rồi thẳng cánh, ở nhát rìu thứ tư, cánh cửa bật mở và mùi khí butane bủa chụp lấy anh.

    Anh thối lui vào phòng khách, để cho hơi ga thoát ra. Anh lấy khăn tay che mặt rồi mới bước vào phòng ông chủ. Welling nằm yên trên giường. Trông ông như đang ngủ say, chỉ có điều không có tiếng ngáy. Allen kéo tấm ra đắp mặt người chết lại.

    Anh chớm bước ra khỏi phòng thì chợt nhìn thấy bức thư nằm trên bàn giấy của Welling:

    “Alice thân yêu nhất,

    Em nói có lý, cưng à. Gã Tipton đúng là người thích hợp cho chức phó chủ tịch công ty. Theo đề nghị của em, bọn anh đã bay lên tận túp lều săn bắn này và anh đã được dịp quan sát anh ta trực tiếp. Allen sợ máy bay đến chết khiếp và săn bắn thì cũng chẳng giỏi giang gì, nhưng chắc chắn anh ta có đủ nghị lực để làm bất cứ việc gì. Có lẽ suốt đời anh ta sẽ không bao giờ đi săn bắn nữa, nhưng khi cần phải có những quyết định sống còn, anh dám mang cả sự nghiệp của anh ra mà đánh cá rằng anh ta có đủ khả năng đảm đương được.

    Anh nhớ em lắm, và ước mong...”

    Nhưng phần thư còn lại chẳng có gì quan trọng nữa.


    PHẠM XUÂN THẢO dịch (Từ tác phẩm “The Time of his life” của Gene Pollock)
     
    vuivui2013, amylee and meetdak like this.
  9. hungbc1010

    hungbc1010 Lớp 6

    Bạn có thể bổ sung thông tin truyện đăng trên tạp chí số mấy được không? Cám ơn bạn!
     
  10. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Quãng năm 2010-2012 mình scan 1 loạt, sau đó gần đây mới chuyển sang text nên cũng không để ý số mấy, năm nào bạn ạ.
     
    hungbc1010 thích bài này.
  11. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TRUYỆN MỘT CON CHÓ TỐT

    Tác giả: James Stephent (Ireland)
    Lê Vĩnh Thọ dịch

    Truyện một con chó tốt (The Story of a Good Dog) do Alice S.Morris tuyển chọn và giới thiệu trong tập Những chuyện dị thường (the Ucommon Reader). James Stephent (Ireland) sinh ở Dublin cùng ngày, cùng giờ và cùng một thành phố như người bạn thân nhất của ông là James Joyces, người đã cách mạng hóa những kỹ thuật viết truyện hư cấu, giới thiệu “dòng ý thức”, sáng tạo từ ngữ và thí nghiệm với cú pháp. Là một thành viên lỗi lạc của phong trào Phục hưng, James Stephent là người phát ngôn của tinh thần Ireland. Truyện Cái bình vàng (The Crock of Gold) của ông vẫn là tác phẩm kinh điển nổi tiếng.





    Một người đàn ông tôi đã từng quen biết rất rõ đã kể cho tôi câu chuyện này. Ông ta là hạng người rất chân thật, nhưng hay kể lể cặn kẽ, tỉ mỉ nên có lẽ ông ta đã thêm mắm thêm muối đôi chút vào câu chuyện.

    Ông ta kể: ai cũng có một con mèo hoặc một con chó tốt nhất, con vật ấy vẫn lưu lại trong tâm hồn, khi những ký ức rất thân thương khác đã phai mờ và người ta quả quyết nói rằng: “Đó là con chó tốt nhất”. Đã có những con Faire, Tommy, Guzzle và Spot, và chúng đều là những con chó tốt đến nỗi khó mà tin rằng còn có con nào tốt hơn, thế nhưng con chó tốt nhất của tôi không có tên gì hết, nó vâng lời khi nghe một tiếng huýt sáo nho nhỏ. Nó không bao giờ sủa; nó không hề gây bất cứ tiếng đọng nào, ngoại trừ, thỉnh thoảng nó phát ra cái tiếng nghe như tiếng súc miệng khe khẽ từ đâuú đó trong bụng nó - hầu như anh không thể nghe được cái tiếng đó - và cái tiếng đó biểu lộ cơn thống khoái của nó. Tội nghiệp người bạn cũ thân yêu của tôi, nó chẳng có nhiều điều đáng lấy làm khoái trá: nó chỉ khoái để mà khoái, thế thôi.

    Đây là trường hợp chúng tôi gặp nhau. Bấy giờ trời đã xế chiều và tôi đang lang thang hết phố nay đến phố khác. Tôi đang tìm kiếm một cái gì đó. Một trong những điều tôi tìm kiếm là việc làm, nhưng lần này tôi đang tìm kiếm một cái gì khác - và thình lình tôi thấy cái đó. Nó ở trong mõm một con chó: non nửa ổ bánh mì, và con chó ngậm nó đang len lét đi ngược lên một ngõ hẻm. Nó là một gã chó sục lớn, một loại chó săn, và tôi đang âm thầm bám sát theo nó để có được một phần của bất cứ điều gì sắp xảy ra. Tôi bắt kịp nó ở cuối đường hẻm, và nó thốt ra vài tiếng càu nhàu rất khẽ như có ý dò hỏi tôi. “Bỏ xuống”, tôi bảo và nó nhả cái đó xuống.

    Nó ngồi xổm cách tôi mấy bước, nó nhìn miếng bánh mì và nó nhìn tôi, rồi nó gãi. Tôi bẻ nửa ổ bánh mì thành hai phần suýt soát nhau và tôi đưa cho nó cái phần lớn hơn. Nó nhìn tôi, nó nhìn miếng bánh mì, và tôi hiểu rằng nó đang cố tìm hiểu xem có một sự đánh lừa nào chăng. Rồi nó gãi dữ dội, và khi tôi bắt đầu ăn, nó cũng bắt đầu ăn. Thỉnh thoảng nó ngừng lại để nhìn kỹ tôi và rồi nó, khe khẽ phát ra cái thứ tiếng súc miệng lạ thường từ đâu đó trong bụng nó, biểu lộ cơn thống khoái vả nó lại bắt đầu ăn bánh mì.

    Bánh mì mới ngon lảm sao! Tôi nhớ là đã nghĩ rằng bánh ngọt chỉ ngon chưa bằng một nửa ổ bánh mì và miếng bánh mì này là miếng ngon nhất chưa từng có; tôi có thể ăn một trăm ổ như thế và rồi tôi có thể ăn cả con chó.

    Trời đã chạng vạng, thế nên tôi co quắp nằm ngủ ngay tại chỗ, con chó lần đến bên tôi một cách rất thận trọng vả cuối củng nằm ép sát vào người tôi, nó phát ra cái tiếng súc miệng một lúc và nó gãi hầu như suốt đêm. Tôi chẳng quan tâm đến điều gì cả. Tôi đã có một người bạn; và nó càng ít quan tâm hơn bởi vì nó cũng đã có một người bạn.

    Sáng hôm sau, tôi mới hiểu ra vì sao nó gãi. Nó mắc chứng xà mâu, ghẻ lở từ đầu đến chân. Nó hầu như là một khối thịt đầy vảy. Một con mắt của nó đã mù. Nó nhỏ hơn tôi khoảng ba tuổi - nghĩa là nó đã khá già, và nó nhìn tôi bằng cái con mắt còn khá tốt với một lòng trìu mến nhân từ mà một con chó tốt dành cho con chó con tốt nhất của nó. Nó biết rằng tôi là một kẻ kém cỏi, bất tài và nó rất sung sướng về điều đó bởi vì nó đã quyết định rằng ban ngày nó sẽ nuôi tôi và ban đêm sưởi ấm cho tôi. Trời sắp lập đông, u ám và mưa lất phất, chúng tôi đã cùng nhau lang thang nay đây mai đó và chúng tôi cẩn thận tránh né mọi người. Tôi không muốn gặp người ta vì họ không muốn cho tôi việc làm, và nó không muốn gặp người ta vì họ ném đá vào nó.

    Trong hơn hai tháng, bất cứ cái gì tôi ăn đều do nó mang về. Nó thật tài tình. Nó biết ở đâu có những mẩu bánh mì. Đôi khi chẳng có gì cả, nhưng phần lớn các ngày đều có một chút gì đó. Chắc là tôi đã đói lắm nhưng hồi ấy tâm hồn tôi bay bổng khoảng một dặm một phút và nó khinh bỉ những cái dạ dày.

    Một buổi sáng, con chó tốt bụng của tôi lên đường đi săn như thường lệ. Rồi, mới đi được vài bước nó bỗng dừng lại. Nó trở lại và dúi đầu vào người tôi. Rồi nó lại ra đi, và lại dừng bước. Thế rồi, thình lình, nó ngẩng đầu lên trời và tru lên - lần đầu tiên tôi nghe nó phát ra cái âm thanh đó! Nó tru và tru mãi như thể nó đang cố gắng tru cho chết phứt đi. Tim tôi như muốn vỡ tung ra vì hãi hùng. Tôi chạy đến với nó và ôm mặt nó, tôi thấy ngay chuyện chẳng lành.

    Con mắt còn lại của nó cũng hỏng rồi. Nó hoàn toàn mù. Nó không thể đi săn nữa. Nó đang tru lên không phải vì chính thân phận nó; nó đang tru lên vì nó không thể đi lùng kiếm cái gì đó cho tôi ăn. Nó chẳng quan tâm gì đến bản thân nó, cũng như tôi, lúc bấy giờ chẳng quan tâm gì đến bản thân mình. Quả là nó đã muốn tru lên cho chết phứt đi nhưng đôi tay tôi đang vỗ về, dỗ dành nó, và trong chốc lát nó đứng lặng im và run rẩy.

    Tâm hồn tôi có một giang sơn nhỏ bé riêng của nó, một cõi mông lung, kỳ ảo, vô thưởng, nơi mà không có gì đứng yên trong hơn một phút, nhưng tâm hồn tôi không biết gì cả về những vấn đề thực tế, nó không biết làm gì cả. Làm sao tôi nuôi được con chó của tôi, nó già nua, mù lòa và bị bệnh tật gặm nhấm gần chết?

    Tôi bồng nó lên - nó chẳng nhẹ nhõm gì - và tôi bước đi, cứ bước đi mãi. Bên trên những cánh đồng ở bên đường và bên trên chúng tôi là bầu trời ảm đạm: cuộc đời là một cái hộp và chúng tôi là hai con chuột đang ở trong một cái bẫy. Tôi đến một thị trấn, thấy có một tiệm thuốc tây; cửa mở. Tôi đặt con chó đằng sau cánh cửa rồi bước vào. Một thanh niên - có lẽ lớn hơn tôi mười tuổi - đứng đằng sau cái quầy, và tôi nói với anh ta: “Ông làm ơn giết giùm con chó của tôi mà không làm cho nó đau đớn được không?”.

    Anh ta là một người miền Bắc cứng cỏi, khuôn mặt nghiêm khắc. Anh ta nhìn tôi từ đầu tới chân với đôi măt như hai viên đạn.

    Anh ta nói: “Cậu sẽ trả cho tôi bằng gì đây?”.

    Tôi đáp: “Tôi không có tiền”.

    Anh ta nói: “Tôi không có thứ thuốc độc không làm cho đau đớn”.

    Tôi nhìn hàng chai lọ trên quầy vả nhìn lên nhưng bức tường, rồi chợt có hứng tôi nghĩ ra những lời lẽ khôn khéo đến mức láu cá.

    Tôi nói: “Ông là một người uyên bác. Chẳng có việc nào như thế mà ông không làm được”.

    Hai viên đạn lại trở thành đôi mắt.

    Anh ta nói: “Con chó làm sao?”

    “Nó già và mù lòa và đang hấp hối vì chứng xà mâu”.

    “Con vật ấy đâu?”,

    Tôi chỉ và anh ta sải chân bước ra nhìn.

    Anh ta nhìn chằm chằm vào con vật đang nằm thu mình và nói:

    “Trời ơi, mang nó đi ngay!”.

    Tôi theo ông ta vào tiệm.

    Tôi nói: “Ông hãy nghe tôi. Đó là con chó tốt nhất đời. Nó đã nuôi dưỡng tôi trong hơn hai tháng”.

    Anh ta nói: “Cậu đã ăn những gì lấy từ miệng thứ đó à?”

    Tôi đáp: “Vâng. Sáng nay nó đã mù hẳn và nó đang hấp hối vì kinh sợ rằng nó không thể nuôi tôi”.

    Người thanh niên nhìn tôi như thể tôi đã điên loạn.

    Tôi nói: “Ông biết cách lảm mọi việc. Hãy làm điều này cho con chó tốt nhất đời”.

    Anh ta quay phắt lại, lấy một xấp giấy báo và đặt trên nền nhà. Anh ta ra lệnh: “Cho nó nằm trên đó”. Tôi bế con chó lên - nó chỉ còn là một khối thịt mềm nhũn run rẩy vì kinh hãi.

    Người thanh niên đi vào đằng sau quầy và trong khoảng năm phút anh ta trở ra, mang theo một cái bát.

    Anh ta nhìn con chó, nét mặt dịu lại và nói: “Trời ơi! Có sữa ấm, bánh mì và đường - chó thích đưởng. Và có thêm cái gì khác nữa vừa đủ để kết liễu những đau khổ của nó trong nháy mắt”.

    Tôi đặt cái bát trước mũi con chó. Nó ngửi rồi lại ngửi. Và rồi với một niềm vui lạ lùng, nó bắt đầu tớp và ăn trong khi tôi vỗ ve, vuốt ve nó. Nó đang nếm một thứ thực phẩm mà có lẽ đã sáu bảy năm rồi nó không biết mùi, kể từ khi ông chủ xa xưa của nó tống nó ra đường và ném đá vào nó cho đến khi nó bỏ đi.

    Người thanh niên nói: “Mang nó ra đường rầy. Trong vòng chưa đến nửa giờ, nó sẽ đi”.

    Thế nên tôi ngồi giữa đám bụi cây với nó và nó bắt đầu bày việc ra mà làm rồi xóa đi nhũng việc đã bày; nó, bắt đầu ngủ rồi nó bắt đầu thức, và nó bắt đầu phát ra cái thứ tiếng súc miệng một cách vui vẻ rồi nó bắt đầu quên đi những điều này và quên tất cả.

    Nó quên sự mù lòa, tuổi tác và nỗi sợ hãi. Nó đã quên cái đói, nó quên tôi, nó quên gãi, nó quên chính cuộc đời. Nó nằm duỗi ra một chút một cách khoan khoái rồi một cơn rùng mình nhè nhẹ lướt qua người nó và thế là nó đi.

    Tôi đẩy nó lút sâu vào bụi rậm rồi bỏ đi, lại hoàn toàn cô độc, nhưng tôi thiết tưởng anh sẽ đồng ý rằng khi tôi nói nó là con chó tốt nhất của tôi, tôi không lầm lẫn chút nào trong vấn đề rất quan trọng đó.

    Ít lâu sau, tôi có việc làm - đó là lời người đàn ông đã kể cho tôi câu chuyện này.
     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  12. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NGƯỜI CÓ SỐ GIÀU…

    Truyện ngắn của JEAN RAY


    Vừa chợt tỉnh giấc, Herbert đã nghe thấy tiếng “soạt” lạnh người của tấm trải giường vừa bị rách. Không kìm được một cử chỉ bực bội, anh nhớ ngay đến bản nội quy khắc nghiệt mà bà Bubson dán trong mỗi căn phòng của nhà trọ này, trong đó mục 12 ghi rõ:

    Rách nhỏ ở tấm trải giường: 8 xu

    Rách vừa: 1 hào

    Rách lớn: 1 hào 8 xu

    Thế mà lần này chỗ móc rách phải kể là vào loại nghiêm trọng, vì Herbert cảm thấy cả cái xù xì nhốp nháp của chiếc chăn len đến vuốt ve cẳng chân. Mà tất cả tài sản anh có hiện nay chỉ vượt hơn con số định mệnh một hào tám kia chừng vài xu thôi. Anh lẩm bẩm:

    - Không. Không thể như thế này được nữa. Bữa qua, ta đã làm một bữa tiệc nhẹ, ăn đứng với một con cá mòi ướp muối và một chiếc bánh nhỏ. Hôm nay thì sẽ là một chiếc bánh nhỏ, không có cá mồi, và ngày mai, chắc sẽ hít thở sương mù của đô thị thay cho cháo.

    Anh từ từ đúng dậy, mặc quần áo với những động tác nghèo nàn của một người máy.

    Hàng ngàn ngón tay của trận mưa đang dạo một khúc dương cầm trên cửa kính. Herbert rùng mình nghĩ đến cả một ngày mai nữa phải sống trong cái ẩm ướt chết người của sương mù quyện với mưa này.

    Anh lại nhìn thấy cái cảnh đám đông muôn thuở, im lặng và tất bật bị hút xuống các ga xe điện ngầm, le lói một thứ ánh sáng trắng lạnh lẽo của các bóng đèn điện lớn tỏa ra. Anh lại nhìn thấy vẻ mặt nhợt nhạt, khỉnh khỉnh của những tên hầu bàn trong các phòng ăn lộng lẫy vàng son, va bóng tối âm âm của những cửa hàng thịt, cá nướng, ăn liền. Anh cũng lại nhìn thấy cái cảnh mười ngàn người thất nghiệp như anh, đang căng mắt đọc những tin tức rao vặt trên tờ Thời Thế.

    Và trên tất cả những lầm than hàng ngày đó, anh lại nghe thấy cái giọng chát chúa của bà Bubson đòi tiền. Anh nhớ lại hôm qua, một chiếc xe hơi Limousin tuyệt vời, một chiếc Rolls-Royce, đã đỗ lại bên cạnh anh, sát đến gần như quệt cả vào người anh. Hai bóng đèn điện nhỏ xíu chiếu sáng một khoang xe, đẹp như phòng khách của phụ nữ, căng bằng nhung màu xám phạt, trong có những giò phong lan ghê gớm, trề môi ra như những con chó xồm, đang nằm rũ rượi trong một bình cắm nặng nề bằng bạc. Anh đã suýt kêu thét lên vì ghen tức và đau khổ...

    - Chiều nay, vào lúc năm giở - anh nói một cách lạnh lùng - ta sẽ phải giàu có hay là ta sẽ tự sát.


    *


    Vào giờ trưa, anh ăn một chiếc bánh nhỏ, và uống một tách nước trà còn ấm. Đến hai giờ ướt như chuột lột, và run lên như cầy sấy, anh phải lánh vào một thứ hành lang ống. Ở đó có một gã sâu rượu dễ thương đã mời anh một ngụm whisky, tu một cách hữu nghị ngay vào miệng chai, vừa uống vừa nghe gã nói huyên thuyên về thảnh phố Capetown, và vùngVeld của xứ Transvaal (1).

    Từ ba đến bốn giờ, anh đi tìm sự giàu có bằng cách lang thang dọc theo một bến cảng bề bộn những chiếc tàu chở hàng dơ dáy.

    Đến bốn giờ, anh trở về nhà và, như một triết gia, trèo lên giường nằm chờ sự giàu có đến.

    Và anh chờ. Với một niềm hy vọng điên rồ, mất trí, không tin rằng sự giàu có lại có thể bác bỏ tối hậu thư của anh đối với cuộc đời.

    Cuối cùng những âm thanh êm dịu, nức nở, vọng đến qua màn sương mù: chiếc đồng hồ Westminster đang hát lên báo hiệu năm giờ.

    Anh đứng dậy, đi ra phía cửa sổ, mở toang hai cánh cửa.

    Sương mù dày đặc đã che hết khoảng không, chẳng còn thấy chóng mặt nữa. Người ta có thể chìm sâu vào đó, như vào trong một chiếc nệm lông mênh mông...

    Rất đơn giản, Herbert nhảy xuống...

    Mùi ête làm lạnh toát hai lỗ mũi; hai thái dương kêu ro ro như ong, nhưng anh chẳng cảm thấy đau đớn gì hết.

    Anh nhận ra một vài bộ sắc phục cảnh sát và cái khung cảnh lạnh lẽo, dơ dáy của một đồn cảnh sát.

    - Hắn hoàn toàn không việc gì cả - một giọng nói vang lên đằng sau anh - nhưng tôn ông thì chết ngay.

    Lúc đó, Herbert nhìn thấy, ở cách anh hai thước, một hình thể được trùm dưới một tấm “ra” với một đôi chân đi giày da verni thò ra. Theo bản năng, anh hiểu ngay là cần phải nói dối.

    - Tôi ngã - anh thì thầm.

    - Ngã thế nào? Một tiếng nói ở đằng sau anh.

    - Tôi nghe thấy có tiếng động ngoài phố, sương mù làm cho tôi không nhìn rõ, tôi nghiêng người ra, và...

    - Có thể là rất đúng như thế - Có tiếng của một giọng nói khác, nhưng lần này rất dịu dàng. Không thể bắt gã nghèo khổ đáng thương này phải chịu trách nhiệm về việc ông chủ yêu quý của tôi đi qua đúng lúc ấy. Sự thương tiếc của tôi là vô hạn, nhưng tôi không thể căm giận anh ta được, cũng như tôi không đòi hỏi một sự trừng phạt nào. Thưa ngài Chánh cảnh sát tư pháp, tôi sẽ đưa con người cùng khổ này về bằng xe hơi của tôi.

    - Thưa tôn ông, cử chỉ này thật xứng đáng với tâm hồn cao cả của tôn ông, tiếng nói thứ nhất trả lời.

    Herbert cảm thấy mình được nâng dậy và anh nhắm mắt lại. Anh gần như kêu lên vì kinh ngạc, khi mở mắt ra thấy mình nằm trên nệm của một chiếc xe hơi sang trọng. Anh nhận ra màu xám nhạt của nhung, và những giò phong lan trong chiếc bình cắm bằng bạc. Một thanh niên ăn bận rất lịch sự ngồi cạnh anh và đang mỉm cười với anh.

    - Tên tôi lả Graham Westlock, vả tôi không phải là một người vô ơn.

    - Nhưng, thưa tôn ông...

    - Anh sẽ hiểu ngay tức khắc khi tôi nói với anh rằng, bằng cách lao từ tầng ba xuống, anh đã rơi trúng vào Bá tước Hawley Westlock!

    - Nhà đại phú Bá tước Westlock?

    - Đúng thế! Một vài trăm triệu. Gia đình cổ xưa, keo kiệt khủng khiếp, vì trong cái thời tiết không thể tưởng tượng được này, mà vẫn đi bộ để tiết kiệm tiền xe... Thế mà ngài Westlock quá cố ấy lại là ông chú tôi, và chính vừa rồi là lúc ngài đi lại nhà luật sư để quyết định việc hoàn toàn truất quyền thừa kế của tôi.

    - Ôi!

    - Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ? Bạn thân mến - hãy để cho tôi được gọi bạn như thế - Xin cho phép tôi được tặng bạn cái ngân phiếu mười ngàn bảng này. Vào lúc này, đó là tất cả những gì tôi có trong tay, nhưng tuần sau, tôi lại sẽ có được niềm vui trao cho bạn một ngân phiếu khác với số tiền cũng như thế. Và sau nữa, tôi là một người biết ơn, tôi sẽ mãi mãi lưu tâm đến bạn.

    Xe chạy vài phút trong im lặng...

    - Ôi! Herbert thì thầm - Chiếc xe hơi mới tuyệt làm sao!

    - Nó làm bạn vừa lòng à? Thế thì nó là của bạn đó, bạn thân mến... Không, không, xin bạn đừng từ chối, bạn không làm tôi phải thiếu thốn nó đâu. Tôi chỉ yêu thích những loại xe của các hãng Pháp thôi.


    *

    Herbert kết thúc buổi tối trong một nhà hàng thịt cá nướng rất “xịn”. Đêm hôm đó thấy có mặt anh tại một vũ trường mở “chui” rất đắt tiền! Ở đó có một người phụ nữ Ý sắc đẹp hiếm có chú ý đến anh.

    Anh tỉnh dậy trong một khách sạn hạng nhất và mơ màng về những thú vui của bọn giàu có ở đô thị.

    Chợt nhớ lại nguồn gốc của mình là người xứ Ecosse (2), anh lựa chọn việc mua một biệt thự có đầy đủ tiện nghi ở gần vùng Leith, một đôi ngựa tai dài, và một khẩu súng săn thật đẹp.

    Thêm nữa, anh sẽ bán lại chiếc Limousin.


    NGÔ VĂN QUỸ dịch từ nguyên bản: La fortune d’Herbert


    (1) Transvaal là một tỉnh của Nam Phi có nhiều mỏ sản xuất vàng và kim cương lớn nhất thế giới (người dịch)

    (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) Người xứ Ecosse có tiếng là căn cơ, keo kiệt (người dịch)

     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  13. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TRONG MỘT CÁNH RỪNG

    Truyện của RYUNOSUKE AKUTAGAWA (Nhật)

    PHAN MỸ MY LAN dịch

    từ bản dịch tiếng Anh “In A Grove”của Takashi Kojima



    Giới thiệu: Ryunosuke Akutagawa sinh năm 1892 và tự sát vào năm 1927. Ông sống tại Tokyo, theo học trường đại học tại đó, sau trở thành phóng viên. Trong số những tác phẩm đầu tay của ông có những bản dịch các tác phẩm của phương Tây, đặc biệt là thơ của William Butler Yeats và các tác phẩm văn xuôi của Anatole France.

    Những tác phẩm của ông - bao gồm một trăm truyện ngắn và những bàỉ văn ngẫu hứng - là những tác phẩm văn xuôi có tính giản dị, khách quan và chính xác tỉ mỉ.

    “In A Grove”, với những lời khai mâu thuẫn, đặt ra một dấu hỏi với những gì ta cho là sự thật hoặc hư cấu, là tương tượng hoặc hiện hữu, một lối biện chứng hoàn toàn khớp với tính cách lệch lạc và cái nhìn hay thay đổi của Akutagawa về thực tại.


    LỜI KHAI CỦA MỘT NGƯỜI CƯA GỖ VỚI SĨ QUAN CẢNH SÁT CAO CẤP

    Vâng, thưa ngài. Tôi chính là người đã tìm ra xác chết. Như mọi ngày, sáng hôm nay tôi vào rừng để cưa cây tuyết tùng, và rồi tôi nhìn thấy xác chết nằm trong một cánh rừng tại một thung lũng bên dãy núi. Chính xác ở đâu ư? Cách lộ Yamashina vào khoảng 150m. Đó là một cánh rừng hẻo lánh đầy tre và tuyết tùng.

    Xác chết nằm ngửa, mặc kimono lụa màu xanh nhạt, đầu mang khăn gấp nếp theo kiểu người Kyoto. Một nhát kiếm duy nhất đã xuyên thủng lồng ngực. Lá tre rơi rụng xung quanh nhuốm đỏ màu máu. Không, máu không còn chảy nữa. Tôi tin rằng vết thương đã khô miệng. Một con mòng hút máu bám vào đó, chẳng thèm động đậy khi tôi đi đến.

    Ngài hỏi tôi có thấy một thanh kiếm hoặc bất cứ một cái gì đại loại thế?

    Không, thưa ngài, không. Tôi chỉ tìm thấy một sợi thừng tại gốc tuyết tùng gần đó. Và... à, ngoài sợi thừng, tôi tìm thấy một cây lược. Tất cả chỉ có thế. Rõ ràng anh ta đã đánh nhau trước khi bị giết bởi vì cỏ và lá tre bị giẫm nát cả một vùng.

    “Có ngựa gần đó ư?”

    Không, thưa ngài. Một con người đi vào đó cũng đã là khó khăn rồi, huống chi là ngựa.

    LỜI KHAI CỦA MỘT NHÀ SƯ VỚI SĨ QUAN CẢNH SÁT CAO CẤP

    Vào lúc nào ư? Thưa ông, lúc ấy vào khoảng giữa trưa. Con người bất hạnh ấy đang trên đường từ Sekiyama đến Yamashina. Anh ta đi bộ, cùng đi là một phụ nữ ngồi trên lưng ngựạ, người mà khi đó tôi được biết là vợ ông ta. Cô ấy mang một tấm mạng che mặt. Tất cả những gì tôi nhìn thấy là màu áo của cô ấy, màu hoa cà. Con ngựa cô cưỡi màu nâu đỏ có bờm đẹp đẽ. Chiều cao của cô ấy à? À, vào khoảng 1 mét 45. Vì là nhà sư tôi ít quan tâm đến các chi tiết về phụ nữ. Người đàn ông mang theo kiếm và cung tên! Và tôi nhớ rằng anh ấy có khoảng hai mươi mũi tên trong túi.

    Tôi không ngờ rằng rồi ra anh ấy lại gặp nạn. Cuộc sống của con người thật phù du, như giọt sương sớm hoặc một ánh chớp. Tôi không biết dùng lời gì để bày tỏ mối thương cảm của tôi đối với anh ấy.

    LỜI KHAI CỦA MỘT VIÊN CẢNH SÁT VỚI SĨ QUAN CẢNH SÁT CAO CẤP

    Người mà tôi đã bắt ư? Hắn ta là một tên cướp nổi tiếng tên Tajomaru. Khi tôi bắt hắn, hắn đã bị ngã ngựa. Hắn đang rên rỉ trên một cây cầu tại Awataguchi. Vào lúc nào ư? Xẩm tối ngày hôm qua. Phải thú nhận rằng ngày hôm trước tôi đã cố bắt hắn nhưng không may hắn trốn thoát. Lúc ấy hắn mặc một kimono màu xanh đậm và mang theo bên người một thanh kiếm tầm thường, và như ngài thấy, hắn đã đoạt cung tên đâu đó. Ngài nói rằng cây cung này và những mũi tên kia trông giống của người chết ư? Thế thì Tajomaru đúng là kẻ giết người. Cây cung được uốn cong bằng một sợi dây da, túi tên cẩn sơn mài màu đen, và mười bảy mũi tên có cắm lông chim ưng - tôi tin tất cả đều thuộc về anh ấy. Vâng, thưa ngài, con ngựa, như ngài nói, có màu nâu hơi đỏ và cái bờm xinh đẹp. Cách cây cầu đó một khoảng tôi tìm thấy con ngựạ bị buộc bên vệ đường, dây cương dài buông thõng. Chắc hẳn ý trời đã làm cho hắn ngã ngựa.

    Trong tất cả những tên cướp lảng vảng quanh vùng Kyoto, tên Tajomaru này đã gây cho phụ nữ nhiều nỗi thống khổ nhất. Mùa thu năm ngoái một bà đến phía sau núi Pindora gần ngôi đền Toribe, áng chừng là đi viếng đền, đã bị giết, cùng với một cô gái. Ngưởi ta đã nghi ngờ đây là tội ác của hắn. Nếu tên tội phạm này đã giết anh ấy, ông không thể kể ra hết hắn đã làm gì vợ anh ấy. Xin quý ông xét xử vụ án này.

    LỜI KHAI CỦA MỘT PHỤ NỮ ĐÃ LUỐNG TUỔI VỚI SĨ QUAN CẢNH SÁT CAO CẤP

    Vâng, thưa ngài. Đây là tử thi con rể tôi. Cháu nó không phải là người vùng Kyoto. Cháu là một kiếm sĩ tại thị trấn Kokufu tỉnh Wakasa. Tên cháu là Kanazawa no Takehiko, hai mươi sáu tuổi. Tâm tính cháu hiền hòa, tôi tin chắc cháu không làm gì để người khác tức giận.

    Con gái tôi ư? Cháu tên Masago, mười chín tuổi. Cháu rất nhanh nhảu, đáng yêu, nhưng tôi đoán chắc cháu chưa hề quen biết ai ngoại trừ Takehiko. Khuôn mặt cháu nhỏ nhắn, thuôn dài, da sẫm màu, có một nốt ruồi ở đuôi mắt trái.

    Ngày hôm qua Takehiko đi về Wakasa với con gái tôi. Thật xui xẻo làm sao mọi việc lại kết thúc đau buồn như vậy! Điều gì đã xảy ra cho con gái tôi? Tôi cam chịu trước số mạng con rể tôi, nhưng số phận của con tôi làm tôi lo lắng đến phát bệnh, ơn trời xin vẫn còn lưu lại dấu vết để tìm ra cháu. Tôi căm thù tên cướp Tajomaru, cho dù nó là ai đi nữa. Không chỉ con rể tôi, mà còn con gái tôi... (Những lời sau đó đẫm đầy nước mắt).

    LỜI THÚ TỘI CỦA TAJOMARU

    Tôi đã giết anh ta, nhưng không giết người vợ. Cô ta đi đâu? Tôi không biết. À, hượm một tí. Không hình phạt nào khiến tôi phải thú nhận những gì tôi không biết. Giờ đây khi mọi việc trở lại trong trí, tôi sẽ kể cho ông nghe tất cả.

    Ngày hôm qua vào khoảng xế trưa tôi đã gặp hai vợ chồng đó. Khi ấy một cơn gió nhẹ thổi chao đi tấm khăn che mặt, thế là tôi thoáng thấy cô ta. Lập tức, nó choán lấy tôi. Có lẽ vì một lý do, cô ta trông giống một búp bê đáng yêu. Tôi bèn quyết định mình phải chiếm đoạt cô ta cho dù phải giết người chồng.

    Tại sao ư? Đối với tôi giết người không phải là điều ghê gớm như ông nghĩ. Khi một người đàn bà bị chiếm đoạt, chồng cô ta phải chết. Tôi dùng thanh gươm vẫn mang bên hông để giết người. Tôi là kẻ duy nhất giết người ư? Ông, ông không dùng kiếm. Ông giết người bằng quyền lực của ông, bằng tiền bạc của ông. Đôi khi ông giết họ, lấy cớ là ông làm điều tốt cho họ. Đúng là họ không chảy máu. Họ rất khỏe mạnh, nhưng cũng vậy thôi, ông đã giết họ. Khó nói ai tội nặng hơn ai, ông hay tôi. (cười mỉa)

    Nhưng tốt hơn là có thể chiếm đoạt một người đàn bà mà không giết chồng cô ta. Thế là tôi đã quyết định. Nhưng không thể thực hiện trên con lộ Yamashina. Tôi lập mưu dụ họ đi vào các dãy núi.

    Khá dễ dàng, tôi trở thành bạn đồng hành của họ. Và tôi bảo họ rằng có một mô đất trong ngọn núi ở đằng kia, và rằng tôi đã đào nó lên và tìm thấy nhiều thanh kiếm quý. Tôi tiếp tục nói với họ rằng tôi đã chôn chúng trong một cánh rừng sau ngọn núi, và rằng tôi muốn bán chúng với giá rẻ cho bất cứ ai muốn mua. Rồi... ông thấy đó, lòng tham thật khủng khiếp, đúng không?

    Anh ta bắt đầu bị lung lay bởi những gì tôi nói trước khi ý thức được điều đó. Chưa đầy nửa giờ sau họ quay ngựa đi cùng tôi về phía dãy núi.

    Khi anh ta đi đến bìa rừng, tôi nói rằng kiếm báu được chôn trong đó, và bảo họ đi vào xem. Người đàn ông không phản đối, anh ta mờ mắt vì tham. Người đàn bà nói rằng cô ta sẽ ngồi chờ bên ngoài với con ngựa. Đương nhiên cô ta nói thế khi nhìn thấy cánh rừng dày đặc. Nói thật, tôi dự định sẽ làm đúng như tôi muốn, vì thế tôi và anh ta đi vào rừng, để cô ta ở lại một mình.

    Cánh rừng chỉ toàn là tre. Vào khoảng 50 mét trước mặt là một nhóm tuyết tùng. Đây là một nơi thuận lợi để ra tay. Hăng hái đi sâu vào rừng, tôi đơn giản nói dối là kho báu được chôn dưới bụi tuyết tùng. Khi nghe tôi nói thế, anh ta mở rộng đường đi hướng về bụi tuyết tùng. Đi một chốc, các gốc tre thưa dần và chúng tôi đến nơi có một số tuyết tùng mọc thành hàng. Ngay khi đến đó, tôi túm lấy anh ta từ phía sau. Dầu là một kiêm sĩ dày công luyện tập và khá mạnh, nhưng bị tấn công bất ngờ anh ta không làm gì được. Tôi nhanh chóng cột anh ta vào một gốc tuyết tùng. Lấy thừng ở đâu ư? Nhờ trời, là cướp, nên tôi luôn mang theo một sợi thừng, vì tôi có thể sẽ phải leo tường bất cứ lúc nào. Dĩ nhiên là dễ dàng bịt miệng anh ta bằng lá tre rụng đầy quanh đó.

    Sau khi đã giải quyết anh ta, tôi đi gặp người vợ, bảo cô ta đến với chồng vì dường như anh ấy ngã bệnh bất ngờ. Không cần phải nói, mưu kế này cũng trót lọt. Người đàn bà cởi chiếc nón cói đi sâu vào rừng theo sự dìu dắt của tôi. Ngay khi trong thấy chồng, cô ta rút ra một con dao găm nhỏ. Tôi chưa hề thấy người đàn bà nào hung tợn thế. Nếu không đề phòng tôi đã bị một nhát đâm vào sườn. Tôi lách người tránh, nhưng cô ta vẫn tấn công kịch liệt. Cô ta có lẽ sẽ đâm tôi bị thương nặng hoặc giết chết. Nhưng tôi là Tajomaru. Tôi cố đánh rơi con dao mà không phải rút kiếm ra. Không vũ khí, người đàn bà quyết liệt trở nên yếu ớt. Ít ra tôi đã có thể thỏa mãn sự thèm muốn của mình mà không lấy mạng người chồng.

    Vâng,... không lấy đi mạng sống của người chồng. Tôi đã không muốn giết ông ta. Tôi sắp chạy ra khỏi cánh rừng, để mặc người đàn bà khóc vùi. Rồi thì cô ta điên cuồng níu lấy tay tôi. Với những lời ngắt quãng, cô ta nói rằng hoặc là chồng cô hoặc tôi phải chết. Cô ta nói thà chết đi còn hơn nỗi nhục này có đến hai người biết, rằng muốn làm vợ của bất cứ ai còn sống sót. Khi ấy một khát vọng dữ dội giết anh ta chiếm lấy tôi. Nói với ông thế này, rõ rằng ông sẽ nghĩ tôi là con người hung tợn hơn ông. Nhưng bởi vì ông không trông thấy mặt cô ta vào lúc đó. Nhất là đôi mắt cháy bỏng. Khi nhìn tận mặt cô ta, tôi muốn cô ta trở thành vợ của tôi cho dầu tôi có bị sét đánh. Tôi muốn cô ta là vợ tôi... chỉ niềm khao khát này chiếm lấy tâm trí tôi. Nó không đơn thuần là dục vọng như ông nghĩ. Nếu vào lúc đó ngoài dục vọng không còn khao khát nào nữa, chắc hẳn tôi đã không ngần ngại đánh ngã cô ta rồi chạy đi. Rồi thì kiếm tôi khỏi vấy máu con người đó. Nhưng lúc ấy, trong cánh rừng tăm tối, chăm chăm vào mặt cô ta, tôi quyết định giết anh ta trước khi rời nơi ấy.

    Nhưng tôi không muốn chơi xấu. Tôi cởi trói và bảo anh ta cùng tôi đấu kiếm. (Sợi thừng tìm thấy dưới gốc cây tuyết tùng là do tôi quẳng ra). Đầy căm tức, anh ta rút ngay thanh kiếm và hung hăng nhảy vào tôi nhanh như chớp, không nói một câu. Không cần phải kể cuộc đấu của chúng tôi đã diễn ra như thế nào. Hai mươi lăm nhát... hãy nhớ điều đó. Bây giờ vẫn còn ấn tượng. Không ai dưới gầm trời này có thể đỡ được hai mươi nhát kiếm của tôi. (Cười thích thú)

    Khi anh ta bị bại, tôi hạ thấp mũi kiếm đang nhỏ máu, quay về phía người vợ. Nhưng vô cùng ngạc nhiên, cô ta đã biến mất. Tôi tự hỏi cô ta chạy đi đâu. Tôi dã tìm kiếm khắp trong những cụm tuyết tùng. Tôi lắng tai nghe, nhưng chỉ có tiếng rên rỉ từ cổ họng người đàn ông đang hấp hối.

    Ngay khi chúng tôi bắt đầu trận đấu, cô ta đã chạy qua cánh rừng để kêu cứu. Nghĩ thế, tôi biết đó là chuyện sinh tử của mình. Cướp thanh kiếm và cung tên, tôi chạy ra con lộ bên núi. Ở đó tôi nhìn thấy con ngựa vẫn đang lặng lẽ gặm cỏ. Chỉ phí lời kể về những chi tiết sau đó, trước khi đi vào thị trấn, tôi đã quẳng thanh kiếm. Tất cả là thế. Tôi biết rồi thì tôi cũng bị treo cổ, thế thì cứ quy cho tôi hình phạt nặng nhất. (Vẻ bướng bỉnh)

    LỜI THÚ TỘI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẾN ĐỀN SHIMIZU

    Sau khi cưỡng bức tôi, người đàn ông mặc kimono xanh nhìn chồng tôi cười nhạo báng. Chồng tôi chắc hẳn kinh hãi lắm! Dẫu cho anh ấy cố vùng vẫy trong cơn tuyệt vọng, sợi thừng càng hằn sâu vào da thịt. Tôi loạng choạng đi về phía chồng, nhưng tên cướp lập tức đánh ngã tôi. Vào lúc ấy tôi nhìn thấy môt vẻ gì đó không thể diễn tả được trong mắt chồng tôi. Một điều gì đó ngoài sức diễn tả... đôi mắt khiến tôi đến giờ còn run rẩy. Cái nhìn của chồng tôi đã nói lên tất cả. Không là giận dữ, cũng chẳng buồn rầu... chỉ lạnh lẽo. Một cái nhìn miễn cưỡng. Đánh gục tôi mạnh hơn cả cú đánh cùa tên cướp.

    Khi tôi tỉnh dậy, người đàn ông mặc đồ lụa xanh đã đi. Tôi chỉ nhìn thấy chồng tôi vẫn bị trói vào gốc tuyết tùng. Tôi khó nhọc ngồi dậy và nhìn vào mặt anh ấy. Nhưng vẫn vậy, mắt anh vẫn như trước.

    Trong mắt anh ấy, ngoài sự khinh miệt còn là căm ghét. Nhục nhã, đau khổ và tức giận... tôi khôngbiết làm sao để diễn tả tâm trạng mình lúc ấy. Lảo đảo, tôi đi về phía chồng.

    “Takejiro , tôi nói với anh ấy, “đến nông nỗi này, em không thể chung sống với anh được nữa. Em quyết định mình phải chết,... nhưng anh cũng phải chết. Anh đã nhìn thấy nỗi ô nhục này. Em không thể để anh sống”.

    Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.Anhấyvẫnnhìntôi,ghê tởmvà khinh miệt. Tim tôi tan nat. Tôi tìm thanh kiếm của anh ấy. Chắc hẳn tên cướp đã lấy đi rồi. Cũng không thấy cung tên của anhấy đâu cả. May thay, cây dao găm của tôi đang nằm dưới chân. Đưa dao cao khỏi đầu, tôi nhắc lại: “Bây giờ em giết anh, rồi sẽ lập tức theo anh”.


    Khi nghe những lời này, anh ấy khó nhọc mấp máy môi. Dĩ nhiên tôi không nghe được vì miệng anh bị nhét đầy lá. Nhưng chỉ liếc nhìn, tôi hiểu lời anh. Không đoáihoài đến tôi, cái nhìn ấy là: “Giếttôi đi”. Tê tái, tôi đâm mạnh con dao găm xuyênqua kimono, thấu đến ngực.


    Tôi lại ngất đi. Khi tôi tỉnh dậy, anh ấy, vẫn còn bị trói, đã thởhơi cuối cùng.Một vệt nắng sắp tắt xuyên qua khóm tuyết tùng hắt vàogương mặt nhợt nhạt của anh ấy. Cố dằn cơn thổn thức, tôi cởi sợi dây trói. Và... và điều gì đã đến với tôi? Tôi không có đủ can đảm để kể ông nghe. Dầu sao, tôi đã không có đủ sức mạnh để tự sát.Tôi đã đâm vào cổ, tôi đã nhảy xuống hồ dưới chân ngọn núi, tôi đã cố giết mình bằng nhiều cách. Không thể tự kết liễu đời mình, tôi vẫn còn sống, không trung thực. (Một nụ cười lặng lẽ). Tôi thật chẳng ra gì, cho dầu thánh thần nhân từ nhất cũng không thể tha thứ cho tôi. Tôi đã giết chổng của mình. Tôi đã bị cưỡng hiếp. Tôi còn có thể làm gì? Tôi... tôi (tiếng nức nở dữ dội).


    CÂU CHUYỆN CỦA NGƯỜI BỊ GIẾT QUA LỜI ĐỒNG CỐT

    Sau khi chiếm đoạt, tên cướp bắt đầu dỗ dành vợ tôi. Tôi, dĩ nhiên, không nói gì được, cả người bị trói chặt vào gốc tùng. Nhưng tôi nháy mắt ra hiệu cô ấy nhiều lần để nói rằng “Đừng tin vào quân cướp”. Tôi muốn vợ tôi hiểu điều ấy. Nhưng vợ tôi ngồi uể oải trên đám lá tre, chỉ nhìn đăm đắm vào vạt áo. Rõ ràng cô ta đang lắng nghe tên cướp. Tôi đau đớn vì hờn ghen. Trong khi đó tên cướp tiếp tục khôn khéo nói, từ vấn đề này sang vấn đề khác. Cuối cùng hắn trơ trẽn đề nghị. “Một khi cô đã bị vấy bẩn, cô không thể nào tiếp tục sống hạnh phúc với chồng cô. Thay vì thế sao em không là vợ tôi? Vì quá yêu nên tôi đã xúc phạm đến em”.

    Trong khi tên cướp nói, vợ tôi ngước nhìn như đang trong cơn mê. Chưa bao giở cô ta đẹp như thế. Trong khi tôi đang bị trói, người vợ xinh đẹp của tôi đã nói gì với tên cướp? Tôi đã chết, nhưng tôi không bao giờ ngừng căm hận và hờn ghen khi nhớ đến câu trả lời của cô ta... “Thế thì dẫn tôi theo bất cứ nơi nào ông đến”.

    Tất cả tội lỗi của cô ta không chỉ có thể. Nếu chỉ có thế, tôi đã không quá khổ đau. Khi đang đi ra khỏi cánh rừng như trong mơ, tay trong tay tên cướp, cô ta thình lình tái nhợt đi, chỉ tay vào tôi khi ấy đang bị trói chặt vào gốc tùng, và nói: “Giết anh ta đi. Bao giờ anh ta còn sống, tôi không thể trở thành vợ của anh”. “Giết anh ta đi”, cô ta gào lên mãi như phát điên. Ngay đến bây giờ những lời hăm dọa đó cũng khiến tôi muốn đâm đầu xuống vực sâu thăm thẳm. Đã từng có những lời ghê sợ như thế tuôn ra từ cửa miệng một con người hay chưa? Đã có ai phải nghe, cho dù một lần, những lời nói đáng nguyền rủa thế chưa? Dù chỉ một lần... (Một tiếng kêu thảng thốt đầy khinh miệt). Nghe những lời này, tên cướp tái mặt. “Giết anh ta đi”, cô ta la lên, bấm lấy tay hắn ta. Nhìn chăm vào cô ta, hắn không trả lời có hoặc không... nhưng tôi chưa kịp nghĩ đến câu trả lời của hắn thì cô ta đã bị đánh ngã sóng soài trên đám lá tre. (Một lần nữa lại la lên khinh miệt). Lặng lẽ vòng tay trước ngực, hắn nhìn tôi nói: “Anh sẽ làm gì với nó? Giết hay để nó sống? Anh chỉ cần gật đầu. Giết nó hả?”. Chỉ những lời đó cũng đủ để tôi tha thứ tội lỗi của hắn.

    Trong khi tôi đang do dự, cô ta ré lên và chạy biến vào rửng.

    Sau khi cô ta chạy đi, hắn lượm thanh kiếm, và cung tên của tôi lên. Chỉ một nhát hắn cắt đứt dây trói. Tôi nhớ hắn còn lẩm bẩm: “Kế đến là số phận của mình”. Rổi hắn đi khỏi cánh rừng. Sau đó là hoàn toàn yên lặng. Không, tôi đã nghe ai đó khóc, cởi hết dây trói cho mình, tôi chăm chú lắng nghe, và tôi biết rằng đó là tiếng khóc của chính tôi. (Yên lặng một lúc lâu)

    Toàn thân rã rời, tôi đi khỏi gốc tuyết tùng. Trước mặt tôi là con dao găm sáng loáng vợ tôi đã đánh rớt. Tôi nhặt lấy, đâm vào ngực mình. Máu vọt lên trong miệng tôi, nhưng tôi không thấy đau. Khi ngực tôi lạnh giá, mọi thứ trở nên yên lặng như xác chết trong nấm mồ. Yên ắng làm sao! Không có đến cả một tiếng chim hót nơi nấm mồ này trong thung lũng của dãy núi. Chỉ sót lại ánh nắng còn nấn ná trên ngọn tuyết tùng và trên đỉnh núi. Nắng nhạt dần, cho đến khi không còn nhìn thấy tuyết tùng và tre nữa. Tôi nằm đó, chung quanh lặng ngắt như tờ.

    Rồi có ai đó bò đến gần tôi. Tôi cố gắng nhìn xem. Nhưng xung quanh tối đen. Ai đó... ai đó đã nhẹ nhàng rút dao găm ra khỏi ngực tôi. Lúc ấy máu lại một lần nữa trào lên miệng tôi. Và tôi mãi mãi đắm chìm trong bóng tối. *
     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  14. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    HÃY TIN VÀO CỚM

    Truyện của OCTAVUS ROY COHEN
    LÊ TÂN dịch
    (Theo “Always Trust A Cop” trong “Những truyện ngắn hay nhất từ 1940 - 1989” do Eleanor Sullivan tuyển chọn, xuất bản năm 1997).




    Giọng nói ở đầu kia điện thoại:

    - Tao đang ở phi trường Los Angeles

    Nhưng Johnny Norton không cảm thấy như thế. Anh cứ ngỡ giọng nói đó đang vượt hàng chục ngàn cây số bên kia đại dương để đến tai anh, cứ như từ hòn đảo nóng bỏng phía Nam Thái Bình Dương. Anh đã từng nghe giọng nói đó sáu năm trước, lúc đêm khuya, trong hố cá nhân: “Mày làm sao vậy, Johnny? Sao mà im thin thít vậy?”

    Giờ đây vẫn giọng đó trong đường dây:

    - Mày làm sao vậy, Johnny? Sao mà im thin thít vậy?

    Johnny trấn tĩnh. Anh nói:

    - Tex Graham!

    Giọng nói đẩu kia la lên:

    - Tex đây chứ còn ai! Mày tưởng ai?

    - Ôi, bạn thân! Lâu quá rồi...

    - Chứ không phải tao hứa sẽ gặp mày sau khi tụi mình ra khỏi hòn đảo thối tha đó sao! Mày thế nào, thằng kia?

    Ngoại trừ khi gọi bạn thân “ thằng kia”, Tex luôn nói chuyện theo lối lính thủy, rất cổ, rất tình cảm.

    - Tao khỏe lắm, mày thì sao?

    - Tiến triển tốt. Mày có mánh mung gì không? Lấy vợ chưa?

    - Rồi, mới cưới được sáu tháng, sống ở Hollywood.

    - Tao biết rồi, thấy tên mày trong danh bạ điện thoại. Công dân gương mẫu chứ hả? Việc làm thế nào?

    - Việc rất tốt.

    - Hay lắm. Tao sẽ bay tiếp lúc 2 giờ sáng mai, mày có xe hơi chứ?

    - Có.

    - Đến đón tao, đưa vợ mày theo luôn nhé. Chúng ta đi ăn tối rồi đi dạo mát một vòng. Từ chỗ mày đến đây bao lâu?

    - Có thể 40 phút.

    - Tốt, tao chờ trong tòa nhà hãng hàng không Mỹ, này, mong gặp lại mày lắm lắm đấy, nhất là trong lúc này - hết cảnh máy bay Nhật bắn trên đầu chúng mình!

    Johnny gác máy. Anh nặng khoảng 90 ký, tóc nâu, mắt xanh, 28 tuổi. Đứng dựa lưng vào tường, Johnny nhìn Mary, vợ anh. Mắt cô cũng xanh biếc như mắt anh, cũng tóc nâu như anh. Anh nói:

    - Tex Graham đấy.

    - Trời ơi!

    - Hắn đấy, đang ở phi trường, mời chúng ta ăn tối.

    Cô đứng sát lại anh, đặt một tay lên tay anh.

    - Làm thế nào? Johnny, em lo lắm!

    Anh nói.

    - Anh phải làm việc, em yêu, anh là cảnh sát mà.

    Vâng, anh là một cảnh sát. Cô biết anh là cảnh sát viên đẹp trai nhất trong lực lượng cảnh sát Los Angeles. Thật lạ, cô say đắm anh, và cũng bị mê hoặc bởi màu xanh sắc phục của anh, bởi quân hàm mạ vàng và bạc của anh, cả dây lưng da màu đen và áo sơ-mi không một vết nhăn của anh. Cô nhìn anh, hỏi:

    - Súng của anh đâu?

    - Ở chỗ Eddie Morgan. Anh ấy thay hai má gỗ báng súng mới cho anh. Ngày mai mới xong.

    Qua ánh mắt vợ, anh hiểu.

    - Không phải như em lo nghĩ đâu, em yêu. Tex không biết anh là cớm. Anh sẽ mặc thường phục.

    - Chắc là khó nghĩ lắm phải không anh?

    - Dĩ nhiên.

    - Anh buộc phải đi à?

    - Không còn cách nào khác. Mọi việc được sắp xếp từ lâu rồi. Vai trò của anh là nhận diện Tex cho FBI.

    - Tại sao chứ? Họ không có ảnh của anh ta sao?

    - Vì người của văn phòng địa phương không biết hắn, mà hắn thì có thể khác đi so với ngày chụp những bức ảnh đó. Nhưng không thể thay đổi nhiều đến mức anh không nhận diện được.

    Cô thấy buồn cho Johnny. Sự phân công này thật nghiệt ngã. Anh không bao giờ nói với cô nhiều về chiến tranh, nhưng mọi chuyện anh kể lại - tất cả mọi chuyện buồn vui - đều có Tex Graham. Cô nhìn anh quay số điện thoại.

    - FBI?... Connor có đó không?... Hilton thì sao?... Anh có thể kiếm một trong hai hộ tôi được không?... Hẳn rồi, rất quan trọng... Đây là sĩ quan Norton, phân ban Hollywood... người họ tìm đang ở trong thành phố... không, tôi sẽ đi, bảo họ liên lạc với Trung úy. Tôi sẽ báo tin về cho ông ấy.

    Anh gọi tiếp về đồn, gặp trung úy;

    - Johnny Norton, thưa trung úy. Ông nhớ vụ Tex Graham mà FBI đã trao dổi với chúng ta chứ?

    - Gã ở trong Hải quân với anh phải không? Gã mà họ muốn bắt vì cướp của vả giết người ở Oklahoma chứ gì?

    - Vâng, hắn sẽ rời khỏi thành phố này lúc 2 giờ sáng mai. Connor và Hilton, hai cảnh sát đặc nhiệm của FBI, tôi vừa gọi nhưng họ đi vắng. Họ đang lùng Tex ráo riết. Tôi nhắn lại người trực, bảo họ liên lạc với ông ngay khi trở về.

    - Có gì khẩn cấp không, Johnny?

    - Tôi sắp đi gặp Tex ở phi trường quốc tế, trong tòa nhà của hãng máy bay Mỹ. Hắn mời vợ chồng tôi đi ăn tối, nếu chúng tôi không về nhà thì có thể chúng tôi ăn ở nhà hàng của phi trường. Việc biến chuyển thế nào, tôi sẽ phôn cho ông ngay.

    - Có cần tôi gởi thám tử đến đó không?

    - Tùy ông, thưa trung úy. Nhưng đây là con cá của FBI, và tôi phải mặc thường phục.

    - Anh biết đang nói chuyện với ai không?

    - Trời ơi, thưa trung úy, tôi biết! Tôi có thích dính vảo chuyện này đâu! Tất cả những gì họ muốn ở tôi là báo tin cho họ ngay nếu Tex liên lạc với tôi và giúp họ nhận diện hắn. Bắt hắn là việc của họ, tôi không tham dự.

    Viên trung úy chào tạm biệt. Johnny gác máy. Anh cởi sắc phục, treo ngay ngắn trên mắc trong tủ âm tường của căn hộ xinh xắn. Anh mặc vào một áo thun thể thao, quần jean, áo khoác da, thay đôi giầy đen bằng một đôi nâu. Nhìn Mary, anh cười gượng, cố quên đi công việc tồi tệ này.

    Cô hiểu. Là vợ, cô luôn hiểu cách mà chồng cảm nhận mọi việc, cô nói:

    - Đó là lý do em đi với anh.

    - Em không cần phải đi.

    Cô bước lại, nắm tay chồng.

    - Lý do em đi với anh là vì khi mọi chuyện đã qua, anh sẽ rất buồn, em phải ở bên anh.

    Johnny cảm động, cám ơn vợ. Vụ này dường như không có vẻ gì là nguy hiểm. Chỉ là một tấn tuồng của riêng FBI. Mary nói:

    - Đừng để tình cảm làm anh nhụt chí, em biết việc anh sắp làm thì chẳng vui vẻ chút nào, nhưng đó là nhiệm vụ của anh.

    - Anh biết, nhưng anh vẫn mong hắn biến đi nơi nào khác thì hay hơn. FBI đã sắp đặt y như vậy khắp nơi trên đất Mỹ này rồi, tất cả những nơi mà Tex có một người bạn. Điều đau lòng là... trời ơi... anh rất thương hắn em à!

    - Có đúng anh ta là kẻ giết người không?

    - Chắc chắn. Nhưng hồi trong lính hắn có như vậy đâu!

    Đúng. Hắn có như thế đâu. Anh nhớ lại những ngày trong quân đội, những ngày thực tập gian nan, khắc nghiệt ở Panama. Rồi ở đảo. Những lúc thăng trầm của mặt trận. Anh không thể nào quên hình ảnh Tex Graham, người gan lì nhất trong đội quân cũng nổi tiếng gan lì nhất. Anh cũng được tôn vinh vì là bạn thân nhất của Tex.

    Nhưng, Tex đã từng là kẻ sát nhân, ngay trong Hải quân. Nhưng bạn phán xét mọi việc ở một chuẩn mực khác thì sao? Công việc của anh là giết, nếu anh muốn sống. Chiến tranh là thế. Ngay cả ở Tarawa lúc đó cũng có những cuộc chạm trán lẻ tẻ vì anh và Tex thường phải đi tuần tra những vùng hẻo lanh, khốc liệt ở đó. Chỉ có anh và hắn bấy giờ. Chỉ có hắn và anh, người bạn chí cốt của hắn, và vài người khác, thay phiên tuần tra. Bắn giết, bạn buộc phải làm, và cố quên đi những chuyện ấy sau này.

    Không khó đối với Tex để làm quen với cuộc sống ở những miền đất lạ đó. Hắn nói hắn có khả năng chịu đựng mọi thử thách, rằng hắn không bận tâm đến những chuyện nhỏ nhặt như chiến tranh. Rừng già nhiệt đới ư? Không hề gì, hắn không thích, nhưng hắn quen rồi. Không bao lâu sau, hắn dạy Johnny và các chiến hữu khác trong trung đội mọi thứ cần thiết để chiến đấu, để sống còn. Họ thăng chức cho hắn và rất có thể đã giáng chức hắn nếu hắn không quá cần thiết trong những cuộc tuần tra và do thám. Bất cứ cái gì hắn theo đuổi, hắn đều đạt được.

    Hắn và Johnny luôn luôn thân thiết. Họ trò chuyện rất nhiều mỗi khi thời gian hiếm hoi cho phép. Nhưng thật lạ lùng vì hai cá tính khác hẳn: Johnny biết phải biết quấy, trong khi Tex thì có thành kiến về mọi thứ.

    Anh cố xua đuổi ý nghĩ vẩn vơ ra khỏi đầu, tự an ủi rằng Tex đang đùa. Nhưng anh biết đấy là sự thật hiển nhiên. Anh cần phải biết thêm...

    Trong lúc đang lái xe đến phi trường, Johnny nói vắn tắt cho Mary biết tình hình. Anh cũng nói rằng họ đưa Tex rời khỏi Tarawa trên cáng cứu thương và đó lả lần sau củng anh trông thấy Tex. Anh cũng không được tin gì về hắn cho đến mới đây. Nhưng tin tức về cuộc sống của hắn lạị là chuyện khác.

    Johnny không biết hắn có giữ tính khí thất thưởng như xưa, như những ngày chiến tranh không. Nhưng chắc chắn hắn đã sa lầy từ sau ngày chiến thắng quân Nhật. Khoảng sáu vụ, vừa cướp, vừa giết người ở Oklahoma. FBI phải vào cuộc. Họ lấy thông tin về Tex bằng mọi cách. Họ liên lạc với tất cả nhũng người họ được tin là bạn thân của Tex, trong đó có Johnny. Một ngày nào đó, tại một nơi nào đó, họ lập luận rằng Tex có thể liên lạc với một người trong số họ. Và họ đã tính đúng. Tex đã tìm đến Johnny. Mary bỗng hỏi:

    - Anh này, em vẫn lo lắng một điều, anh có chắc là Tex không hề biết anh là cảnh sát không?

    - Chắc chứ, vì nếu biết thì hắn đã không phôn kiếm anh.

    Vụ việc có vẻ hoang đường đối với cô. Việc Johnny của cô và gã Tex Graham này đã từng là bạn thân, khó mà tin nổi: một người thì đàng hoàng mẫu mực, một người thì coi trời bằng vung. Người này tự hảo mình là cớm chân chính, căm ghét điều tội lỗi và những tên tội phạm. Người kia thì sống bạt mạng dầu phải đối diện với họng súng.

    Cũng đâu hề gì nhỉ? Việc Johnny phải làm thì đơn giản thôi: chỉ gặpTex và cầm chân hắn cho đến khi FBI xuất hiện, rồi anh nhận diện hắn cho họ. Đó là việc Johnny không muốn làm, nhưng anh không thể làm gì khác. Một khi bạn đã là cảnh sát thì bạn không thể cân nhắc là có nên để cho một tên sát nhân thoát hay không, dẫu hắn là bạn thân nhất. Một điều hiển nhiên là bạn ghét việc bắt hắn, nhưng cũng không hề muốn giúp hắn. Bạn mong sao có ai khác làm việc ấy. Nhưng khi không có ai, bạn chỉ còn cách lên đường theo mệnh lệnh.

    Trời vừa sẫm tối thì họ đến phi trường. Johnny cảnh giác:

    - Em phải thật thản nhiên, Tex nhạy lắm đấy. Đừng để hắn cảm nhận được rằng em đang chờ đợi điều gì đó sắp xảy ra.

    - Có gay go lắm không anh?

    - Không đâu. Tex không biết những người ấy. Họ sẽ áp sát hắn từ hai phía trước khi hắn biết chuyện gì xảy ra.

    Anh lái xe một tay, tay kia nắm lấy tay vợ, tiếp:

    - Anh không để báo chí lấy em làm tin giật gân đâu, tin anh đi.

    Cô gật đầu nhưng trong thâm tâm cô vẫn thấy lo lắng. Không phải lo cho sự nguy hiểm của bản thản vì cô tin lời chồng là sẽ không có xô xát hay chạm súng, mà cô lo lắng vì chồng đang mang tâm trạng nặng nề. Rõ ràng anh không muốn dính vào vụ này chút nào.

    Phi trường sáng choang. Họ tìm chỗ đậu xe rồi cùng xuống xe đi bộ. Họ đi qua khu vực của các hãng hàng không TWA, United, Western và Pan-American, rồi đến tòa nhà của hãng hàng không American. Đó là một cao ốc nhỏ, có nhiều quầy, người phục vụ, thư ký, quầy báo chí và rất nhiều loa gắn trên các vách tường thông báo các chuyến bay đến và đi, mời hành khách kiểm tra vé và cân hành lý.

    Họ vào trong. Một người đàn ông đứng dậy từ một cái ghế nệm bọc da và lao về phía họ. Hắn khoảng 30, vóc người gần giống Johnny, tóc đen mắt cũng đen láy, phong thái rất tự tin, như có thể sống và xoay xở ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.

    Hắn ôm chầm lấy Johnny, lắc anh dữ dội. Hắn gọi anh bằng những cái tên lạ hoắc, thốt lên những lời khá thô tục nhưng rõ ràng chứa chan tình cảm. Rồi hắn quay nhìn Mary, Johnny nói:

    - Vợ tao đấy.

    Tex chìa bàn tay to lớn, rắn chắc với cô, nói rằng hắn rất vui được biết cô và huyên thuyên rằng làm thế nào cô lại lấy một gã vừa thiên thần vừa ác quỉ như Johnny Norton. Giọng hắn nhừa nhựa như dân Texas. Nhìn hắn quá vô tư, quá mừng rỡ khi gặp lại người bạn thân thời chiến mà cô thấy buồn cho hắn.

    Tex bắt đầu kể cho cô nghe những chuyện về Johnny. Rằng anh là người cực kỳ lãng mạn, hay bàn luận về đàn bà và hắn quá lộng ngôn nên cô biết hắn đang đùa. Trong lúc đó, cô thấy Johnny liếc nhìn về phía cửa, trông chờ các thám tử của FBI xuất hiện và ra tay. Anh hỏi Tex:

    - Ăn gì chứ? Mày đói không?

    - Có khi nào mày thấy tao chịu để bụng đói chưa?

    - Có một nhà hàng khá hay ở ngay đây.

    - Khỉ! Tao vốn sống bởi các nhà hàng, nhất là nhà hàng ở các phi trường. Mày có bằng lòng để bà xã mày cho tao ăn một bữa do cô ấy làm không? Tao chỉ ở đây đến hai giờ sáng là phải đi.

    Đó chỉ là lời hắn nói, nhưng Johnny hiểu xa hơn thế.

    Tex đã lẩn trốn suốt thời gian qua. Hắn đang bị truy nã. Hắn không thể nào biết trước nơi nào và lúc nào họ tóm được hắn vì thế viễn cảnh trải qua vài giờ nơi công cộng ắt hẳn làm hắn căng thẳng. Dĩ nhiên, Johnny muốn chọn nơi công cộng hơn và anh cố tình lần lữa. Anh nói:

    - Buồn rồi bạn ơi! Mary không có dự định làm bếp tối nay!

    Tex cười với Mary:

    - Không cả với người bạn cũ của chồng hay sao?

    Thế là Mary đáp rằng cô sẵn sàng làm một bữa đón tiếp hắn. Tex tỏ ra thích lắm, cứ như con nít. Hắn nói sẽ thật thoải mái được nghỉ ngơi ở nhà Johnny, được ăn một bữa do vợ Johnny làm, được vài giờ hàn huyên tâm sự.

    Mary thấy chồng có vẻ không thích diễn biến của sự việc. Cô biết anh đang rủa thầm viên trung úy đã không bám sát, tìm cách liên lạc với FBI, đang bực tức vì người của FBI không có mặt ở phi trường. Cô e rằng Johnny sẽ tự bỏ cuộc nên cô giành lấy sự kiểm soát nhất thời. Cô nói sẽ cùng về nhà và trên đường về cô sẽ ghé siêu thị mua bia và vài thứ cho bữa ăn. Johnny hiểu ngay ý định của vợ. Anh chấp nhận ngay.

    Cầm lái mà Mary kinh ngạc vì cuộc trò chuyện của hai người đàn ông. Ngộ nghĩnh vì những chi tiết vụn vặt của những câu chuyện ngày họ trong quân đội. Họ cười vang vì những điều chẳng làm cô buồn cười chút nào và cô cũng tinh ý để hiểu rằng họ cười vui vì những điều họ biết với nhau mà không cần nói ra.

    Họ thấy một siêu thị còn mở cửa và Mary nói với hai người ngồi chờ cô trong xe:

    - Cứ ở đấy nhé, tôi sẽ ra ngay.

    Sau khi biết chắc họ không đi theo, cô vào một cabin điện thoại phía sau siêu thị, gọi về đồn cảnh sát Hollyvvood, xin gặp trung úy chỉ huy. Cô xưng danh rồi hỏi lý do bị trì hoãn. Viên trung úy nói:

    - Đó là điều tôi đang muốn biết, bà Norton. Tôi vừa nhận đuợc phôn của thám tử FBI ở phi trường, hỏi các vị đang ở đâu.

    Cô nói vắn tắt mọi chuyện và cho biết phải nương theo diễn biến sự việc để Tex không nghi ngờ có điều bất thường. Ngoài ra, Johnny không có súng trong khi chắc chắn Tex có súng trong người. Cô cho biết cả ba sắp về nhà, và cô sẽ làm bữa tối cho Tex. Sau đó họ sẽ ở đó trò chuyện cho đến giờ Tex trở lại phi trường. Viên trung úy hứa:

    - Tôi sẽ liên lạc ngay với đội cảnh sát đặc nhiệm, có thể họ sẽ bao vây nhà ông bà ngay sau khi ông bà và hắn vào trong.

    - Ông biết chỗ chưa?

    - Chưa, chúng tôi chỉ biết địa chỉ.

    - Tầng một, hướng Bắc của building. Chỗ chúng tôi nằm phía sau chung cư. Có một dãy phía trước vả hai dẫy giống y nhau phía Nam.

    Cô hạ giọng:

    - Có khó khăn lắm không, trung úy?

    - Không, nếu nơi đó không có bà. Có thể chúng tôi sẽ gởi vài thám tử của chúng tôi đến để trợ giúp nhóm của FBI. Họ sẽ bao vây tòa nhà khắp bốn phía. Bà đừng quá lo: họ sẽ không xông vào đâu. Không thể liều lĩnh kiểu đó - nổ súng trong căn hộ nhỏ mà trong đó có một người đàn bà và một cảnh sát.

    - Làm thế nào họ bắt hắn được?

    - Khi hắn rời khỏi nhả. À, bà Norton... sẽ có một nguời của tôi phía sau tòa nhà, làm thế nào để tìm cách ra ngoài, bà hiểu chứ, viện cớ đi bỏ rác hay làm gì đó? Bà nói cho người đó biết diễn biến trong nhà.

    - Tôi sẽ lấy cớ đi bỏ túi rác, nếu tôi nghĩ ra cớ khác tôi sẽ...

    - Tốt, nhưng bà phải đóng vai thật khéo, tên Graham này “hắc” lắm, cẩn thận!

    Cô gác máy, đi mua vài chai bia, một ổ bánh mì và vài thứ nữa mà cô không cần đến, cốt cho có nhiều thứ để hợp lý hóa sự vắng mặt khá lâu của cô. Vào trong xe, thấy chồng liếc nhìn, cô gật đầu rất kín đáo. Họ bắt đầu nốt đoạn đường về nhà.

    Cô suýt nói vớí viên trung úy rằng cô rất lo sợ. Bây giờ nghĩ lại, cô nhận thấy mình lo âu nhiều hơn sợ hãi. Lo âu vì cô biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng không biết chuyện sẽ đến như thế nào, bao giờ, và ở đâu. Cô tự nhắc nhở mình là gã đàn ông to lớn đang ngồi cạnh cô lả một tên sát nhân, và, chuyện sắp đến phải đến: giờ phút hắn bị bắt, cuộc đời hắn coi như xong. Cô sợ hãi vu vơ, sợ chồng cô đột nhiên phản bội. Và cô có một nỗi sợ khác, lớn hơn hai điều trên: cô sợ những thám tử sẽ bao vây chung cư.

    Johnny Norton hoạt động trong lực lượng vũ trang, và anh đã không có mặt tại đồn Hollywood một thời gian dài. Anh biết khá nhiều các thám tử tầng dưới, nhưng anh thường nói với cô là anh rất ít gặp họ. Họ rất ít liên hệ với nhau: thám tử và cảnh sát trong lực lượng vũ trang. Vài cơ hội hiếm hoi anh lên tầng trên để báo cáo hoặc gặp những kẻ tình nghi lên đó, những lúc phải gặp vị chỉ huy và Johnny luôn mặc sắc phục.

    Một điều nữa, Johnny làm việc ban ngày. Một vài thám tử anh biết, và họ biết anh, cũng cùng lịch làm việc. Họ đổi phiên tuần tra lúc năm giờ chiều. Còn những người đến sau đó là người lạ đối với anh, anh cũng là người lạ với họ.

    Không, những thám tử phiên tuần tra đêm không hề biết anh. Người của FBI biết anh vì họ đã trực tiếp gặp anh để bàn bạc vụ này. Nhưng hai cảnh sát đặc nhiệm đó không thể cùng lúc ở bốn phía của chung cư. Nếu có rắc rối xảy ra, ắt sẽ có nguy hiểm vì một trong những cảnh sát sẽ không biết ai là Tex Graham, ai là Johnny Norton.

    Họ đã đến nhà, đậu xe bên lề đường, cùng vào chung cư. Johnny bật đèn, Tex nói:

    - Căn hộ đẹp quá. Chúng ta chưa bao giờ có chỗ như vậy lúc còn ở đảo phải không Johnny?

    Johnny xác nhận rồi chỉ chiếc ghế tốt nhất của họ cho Tex, chìa bao thuốc lá mời hắn, bảo hằn cứ tự nhiên như ở nhà hắn. Mary đỡ lấy mũ và áo khoác của hai người, đem treo trong tủ áo gần phòng ngủ. Cô vào nhà bếp làm món ăn. Cô nghe họ trò chuyện, vẫn chủ đề cũ: chiến tranh, những điều cùng nhau trải qua. Tex châm một điếu thuốc mới. Hắn nói:

    - Cuộc đời thật hay, chẳng ai ca thán gì, chỉ lao vào cuộc sống như lao vào cuộc chiến, không quan tâm gì khác. Lúc tao bị thương ở Tarawa, sướng cứ như được vé đi du lịch!

    - Họ làm gì với mày?

    - Băng bó tạm chờ đội cứu thương. Tao phải chờ đợi suốt năm tiếng cực hình, cứ nghĩ lính Nhật sẽ tóm được mình. Chúng ghét lính hải quân Mỹ ghê lắm.

    - Không, họ không ghét lính hải quân Mỹ đâu.

    - May sao, người mình đến kịp. Họ tiêm cái gì đó và tao tỉnh lại trong bệnh viện dã chiến. Kế đến, tao được chuyển về căn cứ, rồi lên tàu, đến tổng hành dinh ở Úc. Thế mới thú chứ! Mày thì không bị một vết trầy nhỏ phải không?

    - Ừ, nhưng cả trung đội nhớ mày kinh khủng, cả đội tuần tra cũng mất hẳn không khí như khi có mày.

    Mary nghe tiếng được tiếng mất. Cô chăm chú làm bếp. Sườn heo, đậu nướng, măng tây, bánh mì, cà phê, xà lách… cô lấy ba cái bánh kẹp nhân táo khỏi tủ lạnh cho tan bớt băng rồi bỏ lò nướng lại làm món tráng miệng.

    Cô muốn ra ngoài, để nói chuyện với bất cứ ai đang canh chừng ngoài đó, nhưng cô sợ. Tex rất nhạy, có thể hắn sẽ thấy hơi hám khác lạ, có thể sẽ theo cô xem chuyện gì bên ngoài. Tất cả cô có thể làm là đến cửa sổ phía sau, nhìn qua mành ở góc bồn rửa. Thấp thoáng trong bóng tối, cô thấy một người đàn ông cầm súng. Người của FBI hay cớm? Cô không biết. Nhưng họ đã có mặt. Đằng trước, đằng sau, các phía. Vậy là không có cơ hội cho Tex thoát. Họ sẽ tóm hắn, hoặc bắn hắn. Trong lúc hắn đang vô tư ba hoa trong kia, thì tai họa đang treo lơ lửng trên đầu hắn. Coi như hắn chết chắc. Thật không thích hợp chút nào với giọng cười vui vẻ mà cô nghe vọng đến từ phòng bên.

    Cô không biết họ đang cười vì chuyện gì, nhưng chắc hẳn là chuyện thân tình xưa cũ, vì họ nói với nhau rất khẽ. Đó là chuyện đời tư của Johnny, những chuyện phiếm mà cô không bao giờ biết. Cô chợt nghĩ phải chi Tex là người khác thì Johnny đã vui biết bao.

    Bữa ăn trôi qua bình yên. Mười giờ thì chấm dứt. Họ cùng vào phòng khách. Bên ngoài không một tiếng động.

    Cô có thể nhận thấy sự căng thẳng trong ánh mắt Johnny. Cô cũng như anh, không biết chuyện sẽ diễn ra như thế nào, nhưng cô đã biết nhiều hơn anh: họ đang đợi ngoài kia. Và điều đó sẽ làm anh phiền muộn hơn. Có đôi lúc dường như anh không nghe Tex đang nói gì. Cũng có đôi lúc anh nhìn cô, nhưng cô không dám mạo hiểm ra hiệu cho anh, dù là dấu hiệu trấn an. Cô chỉ biết mỉm cười để Johnny tin là mọi chuyện đã ở trong tầm kiểm soát.

    Thời gian như chống lại họ. Những cây kim đồng hồ trên lò sưởi nhích dần, mỗi lúc mỗi gần hơn giờ mà Tex nói sẽ lên đường. Đó là điều làm cô sợ. Đó là thời khắc mà tấn tuồng sẽ được trao vào những bàn tay khác. Cô thôi không buồn cho Tex nữa. Tất cả cô nghĩ đến lúc này là sự lo lắng cho sự an toàn của Johnny.

    Sớm muộn gì cũng sẽ có cuộc chạm súng. Phải có. Và khi chuyện đó xảy ra, Johnny sẽ ngớ ngẩn tìm cách khống chế Tex, dù là tay không. Nhiệm vụ. Johnny lúc nào cũng quan tâm đến trách nhiệm. Và cô biết anh sẽ làm mọi cách để bảo vệ cô nếu có rắc rối xảy ra...

    Tex đứng dậy, bước vào phòng lớn. Cô thấy hắn mở tủ áo, nơi cô treo áo và mũ của cả hai trong đó lúc nãy. Hắn lục trong túi áo hắn rồi trở lại với bao thuốc lá mới.

    Tex cười với họ rồi bước đến cửa sổ phía Bắc. Hắn kéo màn cửa ra một chút xíu, nhìn ra ngoài, nói:

    - Hai bồ ở chỗ này cảnh đẹp quá.

    Rồi hắn trở lại, ngồi xuống ghế, bóc bao thuốc lá, châm một điếu. Xong, hắn thò tay vào túi áo rút ra khẩu colt 45 dùng trong quân đội. Nhìn thẳng Johnny, hắn nói nhẹ nhàng:

    - Mày là cớm phải không? Bạn thân?

    Johnny giả vờ ngạc nhiên hỏi tại sao hắn lại nghĩ thế.

    - Tao mở tủ lấy thuốc lá, thấy bộ sắc phục cảnh sát trong tủ, tên mày trên ngực áo.

    Johnny cố gượng cười, hỏi:

    - Làm cớm thì tệ lắm sao?

    - Chứ còn gì nữa! Giọng hắn chán nản, tiếp: - Nhất là khi có mấy gã nữa bên ngoài. Tao thấy hai thằng lúc nhìn ra cửa sổ, một thằng cầm súng. Mày biết rồi phải không, Johnny?

    Johnny đành xác nhận và nói rằng Tex nên đầu hàng thì hay hơn. Đây là lời tệ nhất Johnny phải nói, quyết định khử người bạn thân cũ.

    Tex nói:

    - Bạn thân mà chơi thế đấy, Johnny! Mày làm tao chán quá, nhưng tao không dùng nhà của mày làm bình phong đâu.

    Johnny nghẹn lời. Anh hỏi vì cớ quái quỉ gì mà hắn lại kiếm anh:

    - Họ tính toán cả rồi, liên lạc với tất cả những người mày quen, sắp đặt hết rồi.

    - Bao nhiêu thằng bên ngoài?

    - Tao không biết.

    Mary xen vào:

    - Quá nhiều để anh có cơ hội đấy Tex. Hắn lắc đầu:

    - Một người luôn luôn có cơ hội miễn là còn thở. Johnny, mày biết chúng tìm tao vì sao chứ?

    - Cướp của, giết người.

    - Thế thì tao tiêu rồi.

    Im lặng một chút, hắn tiếp:

    - Nếu chúng có ý định xông vào thì đã làm rồi, như vậy có nghĩa là tao an toàn nếu ở trong này.

    Johnny xác nhận điều đó.

    - Nhưng tao không thể ở đây mãi được. Tao phải tìm cách chuồn.

    - Không có đường thoát đâu, Tex.

    - Để bị tóm chẳng khoái chút nào đâu, Johnny. Mày còn nhớ lần tụi mình bị phục kích trên đảo không, lần đầu tiên chúng ta đi tuần tra với nhau? Rõ ràng là chết chắc, nhưng chúng ta chẳng thoát đó sao?

    - Cũng đôi khi gặp may.

    - Này, đó là đêm tao thấy khoái mày, lính mới mà tỏ ra lì dữ! Cũng phải thôi, đã được huấn luyện tơi bời ở Panama rồi còn gì... Bây giờ mày vào cảnh sát, tao dám cá mày là thằng cừ nhất, phải không?

    Johnny không biết nói gì. Khoảng một phút sau, Tex quay nhìn Mary, hỏi:

    - Cô phôn cho họ lúc chúng ta dừng ở siêu thị?

    Mary gật đầu.

    - Họ nói sao?

    - Họ chỉ nói sẽ bao vây nơi này.

    Tex hỏi Johnny:

    - Súng của mày đâu?

    Johnny cho biết anh không có súng, gởi người bạn thay báng gỗ mới.

    - Ối trời, mày cũng điên y như tao, đi bắt một thằng như tao mà không có súng!

    Johnny nói rằng anh không ngờ, vừa về tới nhà thì nhận được phôn của Tex.

    - Tụi mày định chộp tao bằng cách nào?

    - Tao không biết. Hai người của FBI dự định được cài ở phi trường. Tao cố lần lữa chờ họ nhưng chẳng có ma nào xuất hiện, quỉ thật! Tex, tao biết mày cừ lắm nên đành phải xuôi theo mày suốt tối nay nếu không thì mày đánh hơi thấy ngay.

    - Chứ sao!

    Hắn có vẻ đăm chiêu.

    - Johnny, mày giúp tao thoát khỏi nơi đây.

    - Không nổi đâu.

    - Gì mà không nổi. Tao không biết cấu trúc tòa nhà này. Mày biết. Chắc là có một lối ra mà bọn cớm không mai phục.

    - Không đâu, Tex. Mày dư hiểu là những tay cỡ đó không thể bỏ sót chuyện nhỏ như thế.

    - Nghĩ xem, bạn thân. Sẽ dễ chịu hơn nếu mày nghĩ ra cách cho tao thoát. Tao muốn nói là tao không ở đây mãi đuợc.

    - Chứ mày định làm gì?

    Tex thoáng vẻ bối rối, nói:

    - Tao không muốn vợ mày dính vào vụ này, Johnny, nhưng không còn đường nào khác.

    - Nghĩa là...

    - Ừ, chúng không xông vào là vì cô ấy, chúng cũng không liều lĩnh để xảy ra chạm súng khi còn có cô ấy. Tao sẽ đi ngay bây giờ, mang cô ấy theo, chúng mà gây cản trở thì tao sẽ bắn cô ấy. Tao không đùa đâu.

    Đúng, hắn không hề nói đùa. Hắn sẽ làm thế vì đó là đường thoát duy nhất. Tex nói vói Mary:

    - Cô hiểu cho tình thế của tôi…

    Mary nói cô hiểu, nhưng cô nhấn mạnh rằng hắn có nỡ bắn một nguời đàn

    bà hay không.

    - Sao không? Đó là cơ may duy nhất của tôi, tin tôi đi, Mary.

    Johnny nói với Mary hãy tin Tex. Rồi anh nói với Tex:

    - Nhưng mày nghĩ xem, mày sẽ được gì? Chỉ được thở thêm một thời gian ngắn ngủi nữa, sớm muộn gì họ cũng bắt được mày.

    - Đó là chuyện sau này. Bây giờ thì không. Này, bạn thân, mày chớ có dại dột làm điều gì có thể hại cho cô ấy, tao không hề muốn nói với mày những lời như vậy, nhưng sự thật là thế.

    - Tao hiểu, Tex, nhưng còn một điều... tao vẫn không hiểu mày có thoát nổi không. Thành thật nhé, tao nghĩ ra một cách.

    - Cái gì?

    - Để tao ra nói với họ, hoặc phôn cho các sếp, bảo họ rút lui.

    - Nhưng chúng sẽ bám đuôi tao.

    - Hẳn rồi.

    Mary hết nhìn người này rồi lại nhìn người kia. Hai người bạn cũ nói năng không còn tình cảm nhưng nhỏ nhẹ. Khó mà tin đuợc mạng sống cô đang bị đe dọa. Đấy, trong tấn tuồng này, Tex không có cơ may nào, Johnny ở giữa. Dường như mọi chuyện như trong mơ khi hai người đàn ông đùa cợt với những điều sẽ xảy ra ở thế giới bên kia.

    Cô nói, với sự điềm tĩnh bất ngờ:

    - Chúng ta bị vây chặt xung quanh đây phải không, Tex? Họ không làm gì miễn là chúng ta còn cùng ở với nhau. Họ có thể bao vây nơi đây không biết đến bao giờ, mà chúng ta thì không thể ngồi mãi vậy được.

    - Chắc chắn rồi, như tôi đã nói, cô và tôi sẽ cùng đi ra. Chúng ta sẽ đi thật sát bên nhau, súng của tôi dí vào lưng cô. Như thế chúng sẽ không bắn, cũng không thể cứu cô.

    Johnny nói:

    - Tao đã nghĩ hết nước, Tex... mọi ngón chúng ta biết trong chiến tranh... nhưng mày nên biết, họ cũng có ngón của họ.

    Tex gật đầu:

    - Mày làm tao bị dính, tốt thôi, buồn cười thật... mày đưa tao vào tình thế này, nhưng tao không hề buồn mày chút nào.

    Johnny nói anh không quan tâm đến chuyện gì khác ngoài sự an nguy của Mary.

    - Đó là điều tao tính đến, Johnny, mày có thể liều lĩnh khi có mình mày với tao, nhưng khi có cô ấy thì không. Cô ấy dễ thuơng lắm, nhưng không phải có vợ đẹp là may mắn hoàn toàn đâu.

    Đồng hồ trên lò sưởi vẫn chạy đều. Thời gian đỉnh điểm đang đến gần họ. Tex dựa lưng vào ghế nhưng không xao lãng sự cảnh giác. Có vẻ như hắn không muốn nói chuyện nên vợ chồng Johnny cũng im lặng. Họ nhìn nhau và Mary mỉm cười. Không phải cô muốn cười mà muốn cho chồng biết cô không sợ.

    Nhưng cô sợ. Rất sợ. Cô đã sợ hãi suốt buổi tối, ngay cả lúc rời phi trường, cả lúc nhìn qua cửa sổ thấy người thám tử với khẩu súng. Cô biết mọi chuyện đã an bài.

    Năm phút trôi qua. Tex nói nhẹ nhàng:

    - Mày thẳng thắn với tao chứ, Johnny?

    - Chắc chắn, vì Mary.

    - Mấy thằng dưới kia là thám tử phải không?

    - Ừ.

    - Mày trong lực lượng vũ trang, mặc sắc phục, có biết nhiều cớm chìm không? Chắc là ít?

    - Rất ít.

    - Bao nhiêu tên?

    - Rất ít, những người của phiên tuần tra đêm thì hoàn toàn không biết.

    - Chúng ta hãy đi xem một vòng, mày chỉ việc nhìn xem, nhìn kỹ xem có đứa nào mày quen không.

    Johnny đứng dậy. Mary cũng đứng dậy theo. Tex theo sát họ, súng chĩa vào lưng họ. Johnny làm theo lời hắn rồi trở lại phòng, nói:

    - Tao không quen cả ba người mà tao có thể nhìn rõ dưới đó, những người khuất trong bóng tối thì không biết.

    - Chắc đấy nhé, Johnny, kế hoạch tao đang tính mà đi sai tức mày đã làm hại Mary đấy.

    - Tao chơi thẳng thắn với mày mà Tex, tao không hề biết những người phía trước và hai bên hông nhà. Nếu mấy người của FBI thì tao biết họ và họ biết tao.

    Tex suy nghĩ một lúc rồi nói chậm rãi:

    - Được, kế này sẽ được, chắc chắn.

    Johnny chờ đợi.

    - Mày nhớ hồi trong lính tụi mình thỉnh thoảng mặc đồ của nhau không?

    - Ăn nhậu gì ở đây?

    - Bây giờ thử làm thế thì sao nhỉ?

    Johnny nói không hiểu Tex muốn gì.

    - Thế này nhé, nếu tao mặc sắc phục của mày, đưa Mary ra bằng cửa sau, chúng sẽ tin tao là mày, Mary cũng đóng kịch cho chúng tin. Nếu những tên đằng sau không biết mày thì tao thoát. Nếu mày lừa dối tao thì Mary sẽ là lá chắn cho cuộc đọ súng, vì thế mày phải thật chắc chắn.

    Johnny nói một cách đăm chiêu:

    - Có thể mưu đó thành công, Tex, nhưng tao thấy vẫn không ổn.

    - Sao chứ?

    - Mày sẽ nói với những người phía đó mày là tao, nhưng làm sao họ tin ngay được?

    - Vì chúng không biết chuyện gì diễn ra nơi đây. Vì chúng không biết tao đã phát giác ra mày là cớm. Sẽ không có vẻ gì bất thường cho họ cũng như chỗ tao và Mary. Tao sẽ nói là Tex sắp ra bằng cửa trước, rằng tao và Mary phải trở vào nhà. Chúng sẽ tin tao vì nghĩ tao là mày. Chúng sẽ di chuyển quanh nhà báo tin cho nhau. Trong lúc đó tao và Mary sẽ đi tiếp đến con đường kế.

    - Rồi sau đó?

    - Tao sẽ vẫy một chiếc xe. Bất cứ tài xế nào cũng phải dừng lại khi cớm vẫy. Tao sẽ bắt hắn lái đến nơi tao muốn. Thế nào, bạn thân?

    Johnny nói kế hoạch đó phần đầu có vẻ xuôi, nhưng về chuyện chiếc xe... khó đấy, chỉ trong vài phút, lệnh khẩn cấp sẽ được phát đi, đuổi theo một chiếc xe hơi có một cô gái và một cảnh sát...

    - Chúng sẽ không thấy tụi tao, Mary và tao sẽ nằm xuống sàn. Cô ấy sẽ không nhúc nhích, cả tên tài xế cũng phải theo lệnh tao, được chứ?

    - Mày không làm...

    Johnny ngập ngừng, nhìn Mary rồi nhìn Tex, ánh mắt cầu khẩn.

    - Vợ mày ư? Tao không đụng đến móng tay cô ấy nếu cô ấy ngoan ngoãn. Này, bạn ơi, tao thích cô ấy lắm, cô ấy hay lắm. Sao, còn gì mày thấy không ổn với kế hoạch của tao?

    - Mày buớc ra ngoài với Mary, chĩa súng vào lưng cô ấy, như thế không hay chút nào.

    - Không, không! Tao chỉ sẵn sàng thôi, vì tao là mày mà, sao lại chĩa súng vào cô ấy được, điên à! Chúng tao sẽ đi đến chỗ hai tên đó và báo tin rằng mày đang trong nhà tắm, rằng họ phải khẩn truơng...

    Hắn nhún vai, tiếp:

    - Dĩ nhiên không phải kế hoạch nào cũng hoàn hảo, tao thừa nhận điều đó, nhưng đó là những gì tao có thể nghĩ được và tao không thể ngồi mãi ở đây.

    Johnny có vẻ thảm não. Anh nhìn vợ và nói anh không biết làm gì hơn. Anh khuyên cô:

    - Đừng làm chuyện gì dại dột, anh hiểu Tex, anh ấy sẽ làm điều anh ấy nói.

    Cô hứa không làm gì gây hại cho đôi bên, nhưng cô lo lắng cho Johnny. Tex hỏi tại sao. Cô đáp cương quyết:

    - Sau khi chúng ta thoát, Johnny ra ngoài, họ sẽ lầm, họ sẽ bắn anh ấy.

    Johnny nói:

    - Em yêu, anh sẽ ở yên trong này, sẽ phôn về đồn báo tin cho họ biết. Khi họ được lệnh cho hành động kế tiếp thì em và Tex đã đi xa.

    Tex gật đầu tán thành:

    - Càng kéo dài thời gian càng tốt, bạn thân, nhưng chớ quên Mary trong tay tao.

    Tex đổi quần áo. Bộ sắc phục gần như vừa vặn. Hắn bỏ khẩu súng của hắn vào bao súng trống của Johnny, nói:

    - Không bao giờ tao nghĩ mình lại ăn mặc như thế này!

    - Mày để tao nhìn lần nữa mấy người phía sau cho chắc nhé.

    Tex đứng sát cạnh anh. Anh phải chắc chắn, tính anh vẫn thế xưa nay. Hai thám tử phía sau, anh đã thấy họ ở tầng hai tại đồn, nhưng chưa biết tên họ. Chưa hề giao du với nhau. Anh nói điều đó với Tex.

    Họ nhìn nhau. Johnny nói:

    - Lo cho Mary đấy, hứa nhé?

    - Yên tâm.

    Cô mỉm cười với chồng:

    - Mọi chuyện sẽ ổn thôi.

    Johnny trở vào phòng. Tex nói gì đó với Mary. Hắn mở cửa, cùng cô bước ra ngoài, vào đêm đen. Cánh cửa đóng lại sau lưng họ.

    Johnny đứng bất động. Căng thẳng. Chờ đợi. Anh đã bị đẩy ra khỏi tấn tuồng. Không biết làm gì ngoài việc chờ đợi và lo lắng về người vợ yêu.

    Im lặng. Một thinh lặng tưởng chừng như vĩnh cửu. Rồi anh nghe tiếng quát tháo và tiếng xô xát. Đó là điều anh chờ đợi. Chạy nhanh xuống bếp, xô tung cánh cửa, anh phóng ra ngoài. Ánh đèn pin làm lóa mắt anh. Mọt giọng nói lạ hoắc từ một người đàn ông anh không thấy mặt:

    - Đứng im đó, ông bạn!

    Anh cứng người.

    Một người nhào đến anh trong bóng tối, và hai tay Mary ôm lấy cổ anh. Cô khóc nức nở:

    - Johnny... trời ơi... Johnny...

    Ánh đèn pin tắt ngấm. Anh ôm chặt Mary, vỗ về trấn an cô. Anh thấy có đến bảy, tám bóng người lờ mờ phía trước, rồi ba người tiến về phía anh. Một nguời hỏi:

    - Đây là Tex Graham phải không?

    Johnny xác nhận. Vâng, Tex đấy. Mắt anh quen dần với bóng tối. Anh có thể thấy hai tay Tex đã bị còng ra phía sau. Hắn nói:

    - Tao không nghĩ mày dám đem vợ mày ra mà chơi liều như thế.

    Johnny không nói gì. Tex tiếp:

    - Tao cứ nghĩ mày nói thật là mày không quen hai thằng phía sau nhà.

    - Tao nói thật mà, Tex.

    - Đừng có đùa nữa! Tao và cô ấy đi thẳng đến chỗ gã này, định tìm câu chuyện để lừa hắn. Chuyện gì xảy ra mày biết không? Tao không kịp làm gì cả thì nó đã làm rồi! Nó chụp lấy tay tao, nói gì đó với mấy tên kia và cả bọn xúm lại tao! Nếu không nhẵn mặt mày thì sao chúng biết tao giả dạng?

    Johnny nói:

    - Tao đã nói là tao hoàn toàn thẳng thắn với mày mà, Tex, nhưng tao biết chắc chắn chuyện sẽ diễn ra như vậy.

    Tex nói hắn vẫn không hiểu.

    Johnny nói:

    - Khi mày đề nghị dùng sắc phục của tao, tao giả vờ phản đối. Nhưng ngay từ đầu, tao muốn nó diễn ra.

    - Nhưng tại sao? Tại sao chứ?

    - Vì một điều chính mày đã nói, Tex. Mày nói những người bạn ngoài này không biết chuyện gì diễn ra trong nhà. Đúng. Nhưng điều quan trọng số một mà họ không biết là gì? Là họ không biết mày đã phát giác ra tao là cớm. Làm sao họ biết nổi? Họ vẫn tin rằng mày chưa biết tao là cớm.Vì thế, khi bất cứ người nào trong sắc phục cảnh sát bước ra khỏi cánh cửa đó, tao tin họ biết ngay người đó không phải là tao. Họ không bao giờ tin rằng tao cởi bỏ thường phục để mặc vào sắc phục ngay trước mắt một người đang bị FBI truy nã mà người đó không biết tao là một cảnh sát!
     
    meetdak and amylee like this.
  15. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CON NGƯỜI NGUY HIỂM

    Truyện trinh thám của Edward D. Hoch (Mỹ)
    Phan Trác Hiệu dịch


    Bà Abby Tenyon đang trải qua một một cơn ác mộng. Trong khi một gã đàn ông đeo mặt nạ vung tay nện tới tấp vào mặt bà với quả đấm to lớn mang găng thì bà vùng vẫy trong tấm chăn để cố thức tỉnh. Bà cảm nhận sự đau đớn của từng cú đấm giáng vào mặt bà, bà cố kêu lên và tự hỏi không hiểu tại sao Ron, chồng bà, đang nằm ngủ trên cái giường đôi kế bên, lại không ra tay ứng cứu bà?

    Cuối cùng, những cú đấm chấm dứt, bà chập chờn trong nỗi sợ chết. Và rồi, sau đó một lúc, bà tỉnh dậy, biết là trời đã sáng. Bà cựa quậy trên giường, cảm thấy đau nhức ở mặt và đầu.

    Bà cố mở mắt trái và không thể nào làm được.

    Điều gì đã xảy ra cho bà?

    Bà khó khăn mở con mắt phải và nhìn thấy chồng bà vẫn còn nằm ngủ say trên chiếc giường đôi. Bà gọi: “Ron! Ron!”. Ron cựa mình nhưng vẫn không thức giấc. Đồng hồ trên bàn ngủ chỉ 8 giờ 14 phút. Kể từ buổi khởi đầu cuộc vận động tranh cử, chưa bao giờ chồng bà thức dậy trễ như hôm nay.

    Bà ráng sắc kêu to: “Ron!”.

    Chồng bà chậm chạp thức giấc và trợn tròn đôi mắt khi nhìn thấy vợ:

    - Chúa ơi! Abby, mặt em sao vậy?

    - Em bị thương, Ron! Có điều gì khủng khiếp đã xảy ra với em!

    Ron nhảy ra khỏi giường và ôm chặt lấy vợ.

    - Em nằm mơ thấy một gã đàn ông đánh đập em!

    Ron Renyon đưa tay ngay về phía điện thoại.


    ***

    Đối với các sự kiện không mấy nghiêm trọng, đại úy Léopold thường giao cho hai nhân viên cấp dưới - Fletcher hoặc Connie - phụ trách việc điều tra. Nhưng với sự việc vừa xảy ra của bà vợ ông Ron, một trong hai ứng cử viên của kỳ bầu cử bổ sung vào Quốc hội sắp tới, nhằm thay thế một ông nghị sĩ mới đột ngột từ trần, thì đại úy Leopold tự thấy mình phải đảm trách.

    Nửa giờ sau khi nhận được cú điện thoại cấp báo của ông Ron, đại úy Léopold đã có mặt ở căn phòng của khách sạn. Ông bác sĩ của khách sạn vừa chăm sóc xong bà vợ của Ron, bà ta đang ngồi thu mình như một đứa trẻ trên cái giường rộng.

    Ông bác sĩ vừa đi ra cửa vừa nói:

    - Bà đang bị chấn thương tâm thần, tôi đã cho bà uống thuốc làm dịu. Bà sẽ thư giãn và có thể ngủ được.

    - Thưa bác sĩ, bà Ron bị thương như thế nào?

    - Người ta đã đánh vào mặt bà. Mắt bị thâm tím và mặt bị sưng. Nhưng không có gì trầm trọng. Vài ngày nữa sẽ hết. Ông bác sĩ nói với giọng bình thản, dường như ông đã từng nhiều lần chứng kiến những tình cảnh tương tự.

    - Bà ấy có nói ai đánh bà ấy không?

    Ron trả lời:

    - Một gã đàn ông đeo mặt nạ, với cái găng tay đánh quyền Anh. Vợ tôi đã tưởng đang nằm mơ.

    - Vợ ông có kêu lên không? Ông không nghe gì cả sao?

    Ron thừa nhận: - Tôi không nghe gì cả, mặc dầu xưa nay tôi là người tỉnh ngủ.

    Sau khi ông bác sĩ đi ra khỏi phòng, đại úy Léopold đến ngồi bên cạnh bà Ron. Căn phòng được bài trí trang nhã, nhìn thẳng xuống dòng sông. Nơi đây là khách sạn lịch sự nhất của thanh phố, xứng đáng là chỗ tạm trú cho vợ chồng ông Ron trong thời kỳ vận động tranh cử. Đại úy Léopold không biết gì nhiều về đôi vợ chồng này, ngoài những thông tin trên báo chí. Ông Ron, 39 tuổi, là một chuyên gia tài chính đã rất thành đạt trong nghề nghiệp, cùng với bà vợ xinh xắn, vừa đến thành phố này để thử thời vận trong kỳ bầu cử bổ sung của Quốc hội sắp tới. Giờ đây, bà vợ không còn chút gì gọi là xinh xắn. Bà đang ngồi cuộn mình trong tấm chăn, trên mặt bắt đầu hiện rõ những vết sưng bầm tím.

    Léopold nói: - Xin bà cho tôi biết điều gì xảy ra?

    Hình như chưa hết hoảng sợ, bà trả lời lắp bắp: - Tôi... tôi đang ngủ, rồi... rồi tôi... tôi mơ thấy...

    Ông chồng phải nói xen vào - Bà ấy vẫn tưởng đó là một cơn ác mộng, chỉ là một cơn mơ khủng khiếp. Bà chưa hoàn toàn ý thức được các sự việc đã xảy ra.

    Leopold tỏ vẻ hoài nghi: - Ngay cả khi bà bị đánh?

    Ron giải thích: - Tôi cho là chúng tôi đã ăn phải thuốc mê. Tôi cũng không nghe gì cả. Tối hôm qua, sau cuộc họp, về đến khách sạn, chúng tôi đã dùng bữa trước khi đi ngủ. Hẳn là các món ăn đã bị trộn thuốc mê.

    Léopold lấy sổ tay ra ghi chép

    - Ông, bà có bị mất trộm không?

    - Không.

    - Bà có bị... lạm dụng tình dục không?

    - Không.

    - Ông cho là người ta đánh thuốc mê cả hai vợ chồng ông chỉ là để đánh đập vợ ông?

    - Không có cách suy nghĩ nào khác.

    - Ông có những kẻ thù có khả năng làm việc ấy không?

    - Trong chính trường, người ta luôn luôn có kẻ thù. Nhưng tôi thấy không có ai đồi bại đến mức đánh đập vợ tôi.

    - Thế còn bà, có ai oán giận gì bà không?

    Abby lắc đầu: - Tôi không biết... Tôi không biết gì cả. Tất cả là một cơn ác mộng...

    Khuôn mặt bà đã sưng vù lên đến mức đôi mắt híp lại, bà lục lọi trong túi xách để kiếm kính đeo.

    Ron nói: - Đây là kỳ nghỉ cuối tuần lần chót của chúng tôi trước ngày bầu cử, Abby sẽ xuất hiện nhiều lần cùng với tôi trước cử tri. Ông có nghĩ rằng người ta gây tổn thương cho Abby để phá hoại chương trình vận động của chúng tôi?

    Léopold trả lời: - Tôi chưa thể có kết luận. Xin bà Abby kể lại tường tận cho tôi nghe “cơn ác mộng” của bà! Léopold ghi chép tỉ mỉ vào sổ tay trong khi bà Abby chậm chạp nói về cơn ác mộng.

    - Người ta đánh bà với cái găng tay quyền Anh, có nghĩa là muốn lưu lại dấu vết trên bộ mặt bà mà không gây nên tổn thương quá trầm trọng.

    - Tại sao? Bà Abby hỏi.

    Ông chồng hỏi tiếp: - Và tại sao họ phải mất công đánh thuốc mê và lẻn vào phòng chúng tôi trong khi họ có thể tấn công Abby ngoài đường phố?

    Léopold đărn chiêu suy nghĩ về câu hỏi này.

    - Có lẽ họ đã chọn cách thức này để mọi ngươi không tin tưởng vào những lời tường thuật của ông, bà.

    - Ông muốn nói gì vậy?

    - Ông có chú ý đến thái độ hoài nghi của ông bác sĩ không?

    Dưới mắt ông ấy, cảnh tượng vùa qua không có gì là mới mẻ hoặc kỳ quặc. Với ông ấy, đây chỉ là trường hợp một bà vợ bị ngược đãi vẫn thường xảy ra...

    - Ông muốn nói là...

    - Một phần lớn dư luận công chúng sẽ tưởng tượng là ông đã đánh đập vợ và sau đó, vợ chồng ông đã bịa ra câu chuyên thức ăn bị trộn thuốc mê va gã đàn ông đeo mặt nạ để đối phó với kỳ bầu cử sắp tới.

    Ron Tenyon đi qua đi lại trong văn phòng, nét mặt đầy vẻ phẫn nộ.

    - Đối thủ của tôi không bao giờ làm như vậy. Ông Crystal là một người rất đáng quý mến.

    - Không nhất thiết phải là ông Crystal. Những cổ động viên của ông ta có thể làm mà ông ta không hề biết đến.

    - Vậy thì chúng ta phải ngăn ngừa báo chí đăng tin về sự việc này.

    - Không phải là điều dễ dàng!

    - Tôi sẽ nói Abby bị cảm cúm!

    Ngay lúc ấy chuông điện thoại reo. Ron nhấc máy, giọng nói của ông mỗi lúc mỗi khẩn trương. Sau khi đặt máy xuống, vẻ mặt căng thẳng, ông nói với Léopold: - Ông đại diện của tôi! Ông ta cho tôi biết nhiều phóng viên báo chí đã gọi điện thoại đến cho ông ấy để dò hỏi thêm các chi tiết sự việc tối hôm qua!

    - Đã có kẻ nào đó thông báo cho họ!

    - Hẳn là tên hành hung?

    - Hoặc là một nhân viên khách sạn. Cũng có thể là ông bác sĩ!

    - Bây giờ thì không còn giữ bí mật gì được nữa!

    Quả nhiên sự việc ấy đã được đăng trên trang nhất của tất cả các tờ báo ra ngày chủ nhật.

    Và hai ngày sau, Ron Tenyon thất bại trong cuộc bầu cử với khoảng cách kém hơn đối thủ một ngàn một trăm phiếu!

    Ngay sau ngày bầu cử, đại úy Léopold cho gọi trung úy Fletcher đến văn phòng.

    - Tôi muốn nói chuyện với anh.

    - Về câu chuyện của ông Ron, phải không đại úy?

    Léopold gật đầu: - Chỉ cần hơn năm trăm người không xét đoán lầm ông ta thì ông ta đã thắng cử!

    - Như vậy là đại úy nhận xét ông ta đã là nạn nhân của những thông tin lệch lạc?

    - Chắc chắn là vậy. Tạị sao báo chí và công chúng đã vội bác bỏ lời tường thuật của vợ chồng ông ấy?

    - Đại úy nên nhớ rằng câu chuyện bị đánh thuốc mê, gã đàn ông đeo mặt nạ lẻn vào phòng đã bị khóa chặt từ bên trong, không bị mất gì... khó lòng làm cho công chúng tin tưởng vào những lời tường thuật ấy!

    - Đúng là câu chuyện ấy có vẻ hoang đuờng, khiến cho công chúng dễ nghi ngờ là ông Ron đã đánh vợ!

    - Đại úy có nghi ngờ gì ông Crystal, đối thủ của ông Ron không?

    - Ông ấy có vè đàng hoàng. Nhưng đã có một số người rất quan tâm đến cuộc bầu cử này. Mọi người đều biết rõ ông Ron chống đối việc duy trì và phát triển các sòng bạc trong tiểu bang, ngược lại ông Crystal lại ủng hộ. Nếu ông Ron đắc cử, ông sẽ vận động Quốc hội không thông qua đạo luật mới về các sòng bạc.

    - Như vậy là các ông chủ của những casino đã thuê người của xã hội đen làm việc này?

    - Đúng vậy. Tuy nhiên, cách thức đánh thuốc mê, đeo mặt nạ, đánh đập không gây thương tích trầm trọng... không phải là cách thức của lũ du đãng võ biền. Với chúng, thường là dứt điểm một cách thô bạo.

    - Đại úy có muốn tôi đảm nhận vụ này không?

    - Anh có thể lùng sục tìm hiểu thêm về các đầu mối liên quan.

    - Đại úy có thể gợi ý cho tôi nên bắt đầu từ đâu không?

    - Anh có thể bắt đầu từ khách sạn. Nếu vợ chồng ông Ron bị đánh thuốc mê, thì thuốc mê hẳn là nằm trong các món ăn của khách sạn. Kẻ có chìa khóa căn phòng của vợ chồng ấy có nhiều khả năng là người của khách sạn. Anh thử tìm hiểu xem trong số nhân viên của khách sạn, có tên cựu phạm nhân nào không?

    Fletcher đứng dậy: - Vậy thì tôi đi ngay tới đó, chào đại úy!


    ***

    Thỉnh thoảng, cảnh sát cũng gặp may mắn trong các cuộc điều tra. Đó cũng là trường hợp của trung úy Fletcher. Chỉ sau hai hôm, Fletcher đã phát hiện được một cựu phạm nhân đã có hai tiền án về trộm cắp, tên là Carl Forsyth, đang là một nhân viên trong nhà bếp của khách sạn. Điều may mắn thứ hai xảy ra ngay tiếp đó. Vào một buổi tối tháng 5, khi Fletcher xuất hiện trước mặt Carl Forsyth trước cửa căn nhà riêng của hắn và tự giới thiệu mình là sĩ quan cảnh sát, thì hắn có một phản ứng rất bản năng. Rút ngay từ trong túi áo một khẩu súng lục, hắn nhắm vào người Fletcher và bóp cò, súng bị tắc không nổ. Tức thì báng súng của Fletcher chặt mạnh vào bàn tay hắn, khẩu súng của hắn văng xuống đất.

    Ít lâu sau khi Fletcher giải hắn về trụ sở cảnh sát, đại úy Léopold nói chuyện với hắn: - Carl, anh đang là một kẻ tái phạm. Tấn công bằng vũ khí, mưu toan giết người, chống lại sĩ quan cảnh sát đang thừa hành công vụ, với tất cả những tội ấy, chắc chắn anh sẽ trở lại nhà tù trong một thời gian khá lâu đấy!

    - Tôi tưởng ông ấy là một tên côn đồ (Carl vừa nói vừa giơ bàn tay băng bó lên). Thực là xui xẻo, tôi chỉ muốn tự vệ, thế mà bàn tay lại bị gãy xương.

    - Ai đã trả tiền cho anh để đánh thuốc mê vợ chồng ông Ron và hành hung bà ta?

    - Tôi không hiểu ông muốn nói gì?

    - Này Carl! Anh làm việc ở nhà bếp của khách sạn. Là người có nhiều khả năng nhất đã trộn thuốc mê vào thức ăn của họ, đã dùng chìa khóa của khách sạn hoặc chìa khóa vạn năng để lẻn vào phòng trọ của họ, đã đeo mặt nạ trước khi đánh đập bà Abby, sau đó, chính anh đã gọi điện thoại đến tòa soạn các báo để thông tin ông Ron đã đánh vợ!

    - Ông đang buộc tội tôi quá oan ức đấy, đại úy ạ!

    - Ai đã thuê mướn anh, Carl. Chúng tôi chỉ cần một cái tên.

    - Tôi sẽ không nói gì nữa trước khi luật sư của tôi tới đây!

    Và sự chờ đợi bắt đâu...

    Samuel Juge, luật sư của Carl, là một người tinh khôn, lão luyện, chuyên cãi cho giới trộm cướp.

    Samuel đến gặp đại úy Léopold: - Bao giờ thì ông thả thân chủ của tôi? Luận cứ buộc tội không đứng vững!

    - Sao? Hắn đã rút súng và nhằm bắn trung úy Fletcher đang thừa hành công vụ!

    - Nhưng súng có nổ đâu!

    - Chỉ vì súng bị tắc!

    - Thân chủ của tôi đã lầm tưởng Fletcher là một tên du đãng sắp tấn công anh ta!

    - Ông đừng ngụy biện nữa. Carl không có giấy phép mang súng và đang ở trong thời kỳ tự do tạm thời sau khi vừa mới ra tù. Chừng ấy thôi cũng đủ để đưa anh ta trở lại sau song sắt.

    Luật sư Samuel suy nghĩ, cân nhắc lợi, hại. Cuối cùng, ông hỏi:

    - Vậy các ông muốn gì?

    - Tòa án sẽ trả lời cho ông.

    - Nghe này, đại úy! Chính trung úy Fletcher đã đệ đơn tố cáo Carl mang vũ khí trái phép.

    Léopold sửa lại: - Tố cáo âm mưuu giết người!

    - Có phải cảnh sát đang rất quan tâm đến sự việc của vợ chồng ông Ron?

    - Đúng vậy. Chúng tôi cần biết rõ kẻ nào đã thuê Carl làm việc ấy!

    - Không thể được. Carl quá khiếp sợ, không thể nói điều ấy. Chính vì vậy mà anh ta đã vội rút súng khi bất ngờ chạm trán thanh tra Fletcher. Anh ta luôn nơm nớp lo ngại kẻ thuê mướn sẽ thủ tiêu anh ta để bịt đầu mối!

    - Đó là chuyện riêng của anh ta!

    - Không bao giờ anh ta chịu cung khai trước tòa. Cảnh sát các ông đâu có bảo vệ được cho anh ta, dù là ở trong nhà tù!

    Đại úy Léopold chậm rãi nói, nhấn mạnh từng chữ một: - Chúng ta có thể đặt giả thuyết là Carl sẽ không phải cung khai trước tòa. Anh ta chỉ cần viết một cái tên trên một mảnh giấy và giao nó cho ông mang lại đây cho chúng tôi. Sẽ không có một dấu vết nào trong tập hồ sơ của phiên tòa.

    Luật sư Samuel đứng dậy, vừa đi vừa suy nghĩ.

    - Tôi không biết chắc anh ta có chịu viết không? Nếu viết, anh ta sẽ được đánh đổi điều gì?

    - Có thể thanh tra Fletcher sẽ rút đơn tố cáo anh ta đã rút súng bắn vào ông ấy.

    - Cả sự việc của vợ, chồng ông Ron nữa chứ?

    - Không, về sự việc này anh ta sẽ bị xét xử.

    - Vậy thì khó lòng thương lượng lắm!

    - Ông nên hỏi ý kiến anh ta. Chắc ông thừa biết đối với một kẻ đã hai lần ở tù, nay lại mang vũ khí trái phép, rút súng bắn cảnh sát đang thừa hành công vụ, thì khó lòng thoát khỏi án tù chung thân.

    Luật sư Samuel chia tay với Léopold. Hai giờ sau, ông ta trở lại và đưa cho đại úy Léopold một mảnh giấy trắng. Ông nói: - Tôi không hề đọc mảnh giấy này. Nếu ông nhắc nhở gì đến nó trước tòa án, tôi sẽ chối là thân chủ của tôi chưa bao giờ viết nó. Léopold cầm mảnh giấy lên xem và thấy hai chữ được viết rất nắn nót, đều đặn: “Jules Dermain” kèm theo một địa chỉ ở New York.

    ***

    Phải mất hai tuần lễ Léopold và Fletcher mới hoàn tất hồ sơ về Jules Dermain ở New York. 63 tuổi , sinh ở Pháp, di cư sang Mỹ sau Thế chiến thứ hai, Jules Dermain rất thành đạt trong ngành sáng tạo và sản xuất các trò chơi. Trong các mối quan hệ xã hội, hoàn toàn không có dấu vết gì về sự dính líu giữa ông và xã hội đen. Không lẽ Carl đã khai dối? Đại úy Léopold phải đi New York.

    Ngôi nhà của Dermain là một trong những ngôi nhà kiên cố, xinh đẹp được xây dựng từ thế kỷ XIX bao bọc xung quanh công viên Stuyvesant Park.

    Dermain tiếp Léopold trên một căn phòng ở trên gác đầy sách, báo và các mẫu trò chơi. Với thân hình mảnh dẻ, màu tóc bạc trắng, ông ta có vẻ như một giáo sư.

    - Thưa đại úy, tôi có thể giúp gì được cho ông? Hình như ông không làm việc ở New York?

    - Đúng vậy. Tôi đã công tác ở đây mấy năm, sau đó chuyển về Connecticut, làm việc trong đội cảnh sát hình sự. Tôi đến đây để điều tra về một tội ác mới xảy ra.

    Léopold kể lại tỉ mỉ về sự việc cùa vợ, chồng ông Ron, và cuối cùng, kẻ hành hung phạm tội, khi bị bắt, đã khai báo cái tên Jules Demain.

    Dermain ngồi im lặng lắng nghe lời kể của Léopold, trên môi luôn thoảng một nụ cười, dường như ông đang thích thú được nghe một câu chuyện vui. Khi Léopold nói xong, ông ta hỏi: - Ông có nghĩ là tôi có quan hệ gì với ông Ron và bà vợ trẻ của ông ta?

    - Tôi nghĩ có thể là không? Nhưng kẻ hành hung đã khai báo tên ông trong cuộc điều tra. Vì vậy, một cách không chính thức, tôi đến gặp riêng ông để tìm hiểu.

    - Tên tôi đã bị khai báo trong cuộc điều tra! Do ai vậy?

    - Tôi không được phép tiết lộ với ông.

    Dermain vẫn giữ nụ cười mỉm trên môi. Ông chặc lưỡi và nói:

    - Lại một gã đần độn làm mướn không biết cách lau sạch các dấu vết dơ bẩn của mình! Điều tôi lo ngại đã xảy ra!

    Léopold kinh ngạc đến sững sờ: - Ông công nhận là ông đã biết rõ các sự việc này ngay từ đầu?

    - Tại sao lại không? Ông đến đây một cách không chính thức, vậy thì mọi lời nói của tôi trong cuộc gặp gỡ này đều không có giá trị pháp lý, ông chẳng có gì để buộc tội tôi!

    Léopold tự nhủ lẽ ra mình không nên có cuộc viếng thăm không chính thức này. Nhưng đã lỡ đến, thì phải cố khai thác tối đa.

    - Ông thừa nhận là đã thuê Carl đánh thuốc mê vợ chồng ông Ron rồi lẻn vào phòng của khách sạn đánh đập bà ấy?

    - Tại sao lại không thừa nhận? Đại úy nên biết là tôi luôn luôn có một cái gì đó để bán. Công việc của đại úy là giải quyết các tội ác, còn công việc của tôi là sáng tạo ra chúng. Hai chúng ta cùng ở hai mặt của một tấm huân chương, người này tạo nên vấn đề và người kia thanh toán vấn đề. Tôi rất sung sướng được gặp đại úy, giống như một tác giả viết tiểu thuyết được tiếp xúc với các độc giả của mình vậy. Tôi rất thích được gặp những người như đại úy, những tài trí đi tìm đáp số cho những bài toán bí ẩn của tôi! Tôi phải thừa nhận đại úy là người khám phá ra được nhanh nhất manh mối về một bài toán của tôi.

    - Ai đã mua của ông trò chơi bịt mặt này?

    - Những người muốn phát triển các sòng bạc trong tiểu bang của ông. Tôi không chú ý đến tên tuổi của họ. Họ đã thách thức tôi làm thế nào để ông Ron không được đắc cử. Có thể làm tất cả, trừ giết chết. Tôi nghĩ đến những lời vu khống hàng ngày đăng trên các tờ báo lá cải. Tuy nhiên, tôi đã cho hành động một cách gián tiếp. Tôi chỉ cần cho tạo nên một số sự kiện mập mờ, rất thật nhưng lại rất khó tin. Carl, nhân viên trong nhà bếp của khách sạn, là cánh tay thích hợp nhất để thực hiện kế hoạch này. Sau đó, như đại úy đã biết, khi các sự kiện được đăng lên trang nhất của các báo, công chúng vốn hay hoài nghi đều suy luận là ông Ron đã đánh vợ, và ông ta đã bị thất cử. Trò chơi của tôi đã thành công mỹ mãn!

    Léopold đã nhiều lần đối đầu với những tên trộm cướp và những kẻ sát nhân, nhưng chưa gặp một ai như Jules Dermain. Ông ta khoe khoang, hãnh diện về tội ác của mình và không ngần ngại mô tả nó với một sĩ quan cảnh sát.

    - Ông rất dũng cảm khi kể lại tất cả cho tôi nghe. Nhưng ông sẽ nói gì với lời cung khai của Carl trước tòa án?

    Nụ cười tinh nghịch vẫn còn nằm dai dẳng trên đôi môi của Dermain: -Tôi rất ngạc nhiên nếu hắn tố cáo tôi.

    - Tại sao vậy?

    - Tại vì tôi rất có uy thế trong xã hội đen. Dù ở trong tù, Carl cũng vẫn cảm thấy không được an toàn tuyệt đối. Nếu hắn ta im lặng, hắn sẽ chỉ bị ở tù năm, ba năm, sau này còn được hậu đãi. Nếu hắn ta nói ra, hắn sẽ bị giết. Hình phạt của Mafia bao giờ cũng thảm khốc hơn hình phạt của luật pháp.

    Đại úy Léopold trầm ngâm suy nghĩ, Dermain nói tiếp:

    - Tuy vậy, thiết kế một đề án giết người kích thích rất nhiều sự hào hứng so với cái trò chơi trẻ con như sự việc của ông bà Ron. Cách đây khá lâu, người ta đã đặt mua của tôi một kế hoạch ám sát. Một người rất giàu có, bị nhiều quốc gia truy lùng, đến lẩn trốn ở Ireland. Ông ta mua một mảnh đất rộng lớn ở vùng quê, cho xây một ngôi nhà đồ sộ, kiên cố được bao bọc xung quanh bởi một đường hầm vững chắc.

    - Và người ta đã tìm đến ông để nhờ tiêu diệt kẻ lẩn trốn ấy?

    - Đúng vậy; bằng bất cứ cách nào. Không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Ngôi nhà rất kiên cố, có thể chịu đựng được sức công phá của các quả bom, đặt chân vào đường hầm là vướng ngay phải hồi chuông báo động điện tử, ông ta luôn được một hàng rào vệ sĩ bao quanh và không bao giờ bước chân ra khỏi nhà, trừ một cuộc dạo bộ ngắn ngủi hàng ngày trong đường hầm. Ngôi nhà thường xuyên được khép kín bằng những cánh cửa thép. Đại úy thử nghĩ xem, làm thế nào để giết được ông ta?

    - Tôi không tổ chức các tội ác, tôi chỉ biết giải quyết chúng.

    - Tất nhiên là vậy, nhưng đại úy cứ thử động não một chút.

    - Có thể tấn công bằng trực thăng không?

    - Không có chỗ nào cho trực thăng đáp xuống, đường hầm nối liền với các chân tường.

    - Có thể mua chuộc một người giúp việc?

    - Tất cả đều trung thành với chủ nhân cho đến hơi thở cuối cùng, họ đã từng cùng nhau vào sinh ra tử trong lửa đạn.

    - Bỏ chất độc vào thực phẩm cung cấp hàng ngày?

    - Bao giờ cũng có người nếm trước thức ăn của ông ta, giống như với các vị vua chúa ngày xưa vậy.

    - Tôi không còn nghĩ ra được cách nào khác!

    - Đại úy bỏ cuộc khá dễ dàng đấy! Thực sự, lời giải đáp rất đơn giản. Tôi đã đọc sách và được biết người ta có thể huấn luyện các con rắn bò dọc theo các đường hầm. Sau khi quan sát con đường hầm của đối tượng, tôi cho dựng lên một con đường hầm tương tự bằng những tấm ván gỗ. Tôi gửi mua năm con rắn cực độc, dạy chúng bò dọc theo đường hầm và tấn công người. Chúng vượt qua dễ dàng sự kiểm soát của con mắt điện tử. Về nguyên tắc, ở Ireland không có rắn nên đối tượng của tôi đã không đề phòng đối với loại tấn công bằng nọc độc này. Chúng tôi đã thả rắn vào con đường hầm của ngôi nhà ông ta vào giờ ông ấy đi dạo bộ, và ông ta đã chết một cách nhanh chóng!

    Léopold suy nghĩ một lúc và nói: - Tôi chẳng tin mảy may vào câu chuyện hoang đường này. Nhưng tôi cũng phải thừa nhận ông là con người nguy hiểm nhất thế giới!

    Dermain cười phá lên: - Tất nhiên là ông không nên tin câu chuyện này. Cũng như đừng tin tôi đã thuê tên Carl đánh đập bà Ron. Chúng chỉ là những trò chơi của trí tuệ. Tôi vừa trải qua gần một tiếng đồng hồ dễ chịu cùng đại úy. Giờ thì tôi xin phép ông giải quyết một số công việc.

    Trước khi bước ra khỏi cửa, Léópold dừng lại và hỏi Dermain: - Nếu muốn giết ông, người ta phải làm cách nào?

    Lại thêm một tiếng cười thích thú! Đứng sát bên một cái tivi ở cuối phòng, Dermain trả lời: - Đại úy không phải là người đầu tiên hỏi tôi câu hỏi ấy. Tôi không bước chân ra khỏi nhà. Tuy nhiên, tôi vẫn có thể bị giết chết. Cái máy ghi hình từ nối với cái tivi này thường được lập chương trình trước cả tuần lễ. Đủ điều kiện và thời gian để người ta lén gài chất nổ vào một cuộn băng cát-xét để giết tôi.

    - Ông đã áp dụng trò chơi này chưa?

    - Chỉ mới có hai lần. Một ông tổng giám đốc trở thành gánh nặng cho công ty của ông ta và một vị thượng nghị sĩ có quá nhiều kẻ thù! Cảnh sát không kết luận được đó là tai nạn hay ám sát!

    Trên đường trở về, đại úy Léopold cảm thấy tâm trí bất ổn. Ông không khẳng định được Dermain đã nói dối hay nói thật? Rất có thể, với trí tưởng tượng phong phú của một người chuyên sáng tạo các trò chơi, Dermain đã dựng lên những câu chuyện giết người huyền hoặc? Nhưng nếu là sự thật thì phải làm gì đây?


    ****

    Về đến trụ sở, Léopold chỉ thị ngay cho nữ trung úy Connie bắt liên lạc với cảnh sát Ireland, đề nghị cho biết: từ trước đến nay, trên đất nước được xem như là không có rắn này, có người chủ trang trại nào bị rắn cắn chết không?

    Hai ngày sau, Connie đến gặp Léopold.

    - Cảnh sát Ireland đã trả lời.

    - Chắc là không có sự kiện ấy?

    - Có đấy. Một người Đức tên là Von Buff, bị tình nghi là cựu đảng viên Quốc xã, bị rắn cắn chết ở vùng Cork vào năm 1958. Không ai biết được những con rắn độc này từ đâu đến?

    Leopold bỗng cảm thấy hơi choáng váng: - Tôi biết. Quả là phi lý nhưng lại là sự thật!

    - Hình như đại úy có vẻ khó ở?

    - Không, không, tôi vẫn khoẻ mà!

    Ngồi lại một mình, Léopold tự hỏi mình sẽ làm gì đây? Gọi điện thoại cho cảnh sát New York? Nhưng sẽ nói với họ điều gì? Những trò chơi giết người mà Dermain đã huênh hoang mô tả đều nằm ngoài phạm vi của thành phố New York!

    Một tuần lễ sau, ông Ron đến gặp Léopold. Ông nói: - Tôi muốn biết cuộc điều tra đã tiến hành đến đâu?

    - Tên Carl đã thừa nhận tội lỗi. Ông Samuel, luật sư của hắn, đang tìm cách thương luợng với văn phòng ông thị trưởng.

    - Hắn sẽ bị kết án bao nhiêu năm tù? Hai hoặc ba?

    - Hắn đã tái phạm lần thứ ba. Lần này nó bóc lịch lâu đấy.

    - Và kẻ đã thuê mướn hắn?

    - Hắn được thuê bởi những người muốn phát triển sòng bạc, không muốn ông đắc cử. Hẳn là ông không ngạc nhiên khi biết điều này?

    - Điều làm tôi ngạc nhiên là ông chỉ cho tôi biết sơ lược có vậy. Ông biết tên tuổi của họ chứ?

    - Tôi chỉ biết được một người, nhưng không thể tố cáo ra trước tòa án.

    - Tại sao?

    - Bởi vì người ấy rất thông minh. Có lẽ đó là tên tội phạm thông minh nhất trong những tên tôi đã gặp từ trước đến nay.

    Ông Ron mỉm cười: - Một vị giáo sư của tội ác?

    Đây là lần đầu tiên Léopold thấy ông Ron mỉm cười. Léopold trả lời với vẻ nghiêm túc: - Có thể nói như vậy. Cảnh sát chúng tôi không muốn phải đối đầu với những người như vậy. Vì rất khó kết tội được chúng. Riêng con người này đặc biệt nguy hiểm vì hắn sẵn sàng mang tài năng hủy diệt của hắn phục vụ cho tất cả những ai bỏ tiền ra mua. Những người muốn ông thất cử thừa tiền để làm điều ấy.

    - Thất cử là một việc, còn đánh đập vợ tôi lại là một việc khác. Không bao giờ tôi tha thứ cho chúng!

    - Bà nhà đã khoẻ hẳn chưa?

    - Mặt đã hết sưng, nhưng đó chỉ là một khía cạnh của vấn đề. Các bạn thân của tôi giờ đây cũng vẫn nghi hoặc tôi dù lời thú tội của tên Carl đã được đăng trên các tờ báo!

    Léopold trầm ngâm một lúc rồi nói: - Tôi rất thông cảm với nỗi khổ tâm của ông, vậy nên tôi tiết lộ cho ông vài điều...

    Léopold kể cho Ron nghe về Dermain và kết luận: - Đó là một đối thủ rất quỷ quyệt và nguy hiểm của chúng ta. Tôi đã kiểm tra về câu chuyện rắn độc ở Ireland, đúng là như vậy!

    - Nếu cảnh sát không bắt giữ y, y vẫn tiếp tục giết người!

    - Đúng vậy, nhưng chúng tôi có thể làm được gì?

    - Các ông hãy ngăn cản hắn hoạt động!

    - Bằng cách nào? Không lẽ ám sát hắn?

    - Tại sao lại không?

    Khi Ron nói câu ấy, đại úy Léopold nhận thấy ông ta không nói đùa!

    ***

    Chưa bao giờ Léopold có hành động giết nguời, trừ lúc thừa hành công vụ, mà chỉ trong trường hợp tự vệ chính đáng. Ông rất tôn trọng luật pháp, vì vậy, ông không dung thứ mọi cuộc ám sát, dù là ám sát một gã tội phạm nguy hiểm như Dermain.

    Ngày hôm sau, Ron lại đến gặp Léopold và nói: - Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi muốn gặp mặt Dermain!

    - Để rút súng và bắn trả thù cho vợ ông?

    - Nếu đó là cách duy nhất để trừ khử một người như hắn.

    - Đó không phải là một giải pháp tốt.

    - Nếu ông không đi với tôi, tôi sẽ đi một mình.

    - Không thể được. Lẽ ra tôi không nên nói với ông về Dermain.

    - Nếu tôi không đi, vợ tôi cũng sẽ đi!

    - Ông nói cho bà ấy biết rồi sao?

    - Tôi đã nói. Abby có quyền được biết, vì bà ấy đã bị đánh đâp, vì bà ấy có một người chồng bị vu khống, khinh miệt một cách oan ức. Nếu cảnh sát không làm gì được, thì tôi phải đảm trách việc trừng trị kẻ ác.

    - Là cảnh sát, tôi không thể đứng yên khi ông tấn công Dermain.

    - Ông hãy dàn xếp cho tôi được gặp Dermain.

    - Nếu ông hứa với tôi là không sử dụng bạo lực?

    Ron lưỡng lự một chút và trả lời: - Tôi hứa.

    - Ông sẽ nói với Dermain điều gì?

    - Tôi muốn ông ấy cho tôi biết tên những nguời đã trả tiền cho ông ta.

    - Thôi được, tôi sẽ có gắng giúp ông.

    Chiều hôm ấy, Léopold gọi điện thoại cho Dermain. Đầu dây bên kia, Dermain vẫn tỏ ra rất lịch thiệp nhưng rất thận trọng. Không hề đả động đến rắn độc ở Ireland, đến thuốc mê, mặt nạ, vụ đánh đập... ở khách sạn. Ông ta đề phòng cuộc nói chuyện bị ghi âm.

    Sau vài câu trao đổi mở đầu về thời tiết, Dermain nói: - Tôi có thể làm gì giúp đại úy?

    - Ông Ron muốn được gặp ông. Tôi sẽ cùng đi với ông ấy.

    - Gặp để làm gì?

    - Ông ta muốn đặt mua ông một cái gì đấy.

    Một tiếng cười nhỏ trên đường dây.

    - Đại úy có nghĩ rằng tôi nhận lời không?

    - Nếu ông sợ cuộc nói chuyện sẽ bị ghi âm, chúng ta có thể gặp nhau tại cái đài nước của công viên ở trước nhà ông, tiếng nước chảy sẽ át mọi tiếng nói.

    - Riêng đại úy có lợi lộc gì trong cuộc gặp mặt này?

    Một câu hỏi khó trả lời cho Léopold.

    - Có lẽ... tôi sẽ ngăn được một vụ giết người.

    Lại một tiếng cười nhỏ trên đường dây: - Tôi tin tưởng đại úy. Trưa mai, tôi sẽ gặp ông Ron và đại úy gần cái đài nước của công viên.

    ***

    Léopold cùng với Ron đi chuyến tàu suốt chạy đến New York, khởi hành vào lúc 9 giờ. Trên tàu, Ron nói: - Tôi đã báo cho Abby biết. Bà ấy cũng muốn đi.

    - Hãy để bà ta ra khỏi việc này. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra.

    - Tôi đã hứa là tôi sẽ tự chủ được mà!

    - Nhưng Dermain đã không hứa gì cả.

    Sau 90 phút, tàu đến New York. Hai người thả bộ đi đến công viên Stuyvesant Park, họ đã có mặt ở điểm hẹn trước giờ thỏa thuận với Dermain, Léopold chỉ cho Ron nhìn ngôi nhà của Dermain.

    - Đứng trên tầng một trông xuống, ngôi nhà ông ta giống như một trò chơi bằng các-tông. Một cái cửa ra vào ở phía Đông, một cái ở phía Tây, cái máy nước ở giữa, ta có thể tưởng tượng ra những con cờ di chuyển dọc theo những lối đi.

    - Hẳn là ông ta ngồi trên đó suốt ngày để trù tính những kế hoạch giết người.

    - Tôi nghĩ là...

    Đại úy Léopold đột ngột ngưng nói. Dù còn 20 phút nữa mới đến 12 giờ, cánh cửa lớn của ngôi nhà Dermain đã mở rộng để ông ta bước ra ngoài.

    Ron hỏi: - Phải ông ta không?

    Léopold khẳng định: - Đúng là ông ta.

    Dermain dừng chân ngay trước cửa nhà để mở hộp thư và ông ta lấy ra một bao thư khá dày. Ông có vẻ hơi ngạc nhiên nhưng rồi ông cũng đút nó vào túi áo. Rồi ông bước xuống các bậc thềm, đi qua đường, bước đến công viên.

    Ron hỏi Léopold: - Chúng ta ra gặp ông ấy chứ?

    - Không, tôi đã hẹn gặp ở đài nước này.

    Họ lặng nhìn Dermain lững thững đi đến cửa công viên, vẻ nhàn hạ như người đi dạo bộ. Khi Dermain sắp bước tới cửa, Léopold giật mạnh tay Ron:

    - Có phải vợ ông đây không?

    - Trời ơi! Abby!

    Đúng là Abby. Bà xuất hiện không rõ từ đâu và đang chạy về phía Dermain. Léopold thấy bà thọc tay vào túi xách trong lúc Ron thét lên: - Đừng, Abby, đừng!

    Léopold chồm lên phía trước, hòng đuổi kịp Abby. Abby dừng lại sau cửa công viên khi Dermain sắp bước vào. Bà ta đã quẳng túi xách và hai tay nắm chặt một khẩu súng nhỏ tự động chĩa về hướng cái cửa. Dermain đang bước qua cửa, đứng khựng lại khi thấy Abby và khẩu súng. Khi Abby bóp cò, Léopold đã kịp vật ngã bà, cả hai lăn xuống đất, viên đạn không đi trúng đích. Nhưng Léopold bỗng hoảng hốt nhìn thấy Dermain vụt biến mất trong một quầng lửa chói lòa, tiếp theo là một tiếng nổ rung chuyển cả công viên. Rồi khói tỏa ra nồng nặc, những mẩu gỗ, sắt và thịt người bắn ra tung toé khắp nơi. Khi mặt đất hoàn toàn yên tĩnh, Léopold lồm cồm ngồi dậy, nhìn về phía cửa công viên. Cái sọt giấy đã nổ tung ngay lúc Dermain bước qua trước mặt nó. Nơi Dermain vừa đứng, nay chỉ còn một cái hố rộng.

    ***

    Cảnh sát New York phong tỏa một vùng rộng lớn của công viên, để tìm kiếm dấu vết của vụ ám sát và nhặt nhạnh những mẩu vụn của thi thể Dermain. Tuy đã tận mắt chứng kiến tai nạn, Léopold vẫn tự hỏi đây có phải là một trò chơi mới của Dermain? Ông ta có đánh tráo một người khờ khạo nào khác, thay thế ông ta đi đến công viên hứng chịu cái chết một cách vô thức, để ông ta ung dung lẩn trốn sang Nam Mỹ sống một cuộc đời mới với một lý lịch mới không?

    Hai ngày sau, trung úy Philips, thuộc cảnh sát New York, phụ trách điều tra vụ ám sát, đến gặp Léopold và nói: - Các dấu vân tay trên tử thi trùng khớp với các dấu vân tay của Dermain. Chắc chắn là ông ta đã chết trong vụ nổ vừa rồi. Công viên có hai cửa ra, vào; mỗi bên đều có đặt một cái sọt giấy. Sọt giấy phía Đông đã nổ, chúng tôi đã kiểm tra sọt giấy phía Tây, đã phát hiện trong sọt một gói thuốc nổ dẻo, đã tháo ngòi nổ được khởi động bằng điều khiển từ xa nhưng phạm vi điều khiển rất hạn hẹp.

    - Cỡ 30 mét?

    - Chỉ 3 mét thôi.

    - Không thể được. Abby và tôi đều nằm cách xa ông ấy gần 10 mét, ngoài chúng tôi ra, không có ai đến gần Dermain vào lúc đó.

    Philips rút trong túi áo mọt cái đĩa nhỏ bằng kim loại hình tròn cỡ một đồng 10 cent: - Đây là một sản phẩm mới nhất của bọn khủng bố quốc tế. Tiếp xúc với nó trong vòng 3 mét, ngòi nổ khởi động. Chúng tôi đã tìm thấy nó nằm trong một bao thư lớn nằm trong túi áo đã cháy sém của Dermain.

    Léopold kêu lên: - Đúng là bức thư mà Dermain đã đút vào túi áo trước khi đi qua công viên. Ông ấy có vẻ ngạc nhiên khi nhận được nó. Bao thư có đựng gì nữa không?

    - Một cái thư đặt mua một trò chơi!

    ***

    Phiên toà đầu tiên xử tên Carl diễn ra rất nhanh chóng. Sau khi bị cáo thừa nhận đã phạm tội, phiên tòa tạm hoãn, một tuần sau sẽ xử tiếp. Leopold và thanh tra Fletcher đã đến dự phiên tòa. Họ nhìn theo Carl và luật sư Samuel bước ra khỏi phòng xử. Fletcher nói: - Hắn đã nhận tội, vụ án này xem như kết thúc sớm. Léopold vẫn tỏ vẻ đăm chiêu: - Tôi vẫn thấy có một cái gì đó không ổn. Anh thử nhớ lại xem. Khi tên Carl rút súng ra bắn anh, anh đã dùng báng súng của anh đánh gãy bàn tay của hắn?

    - Đúng vậy, tay nó đã được băng bó trước khi bị giải về trụ sở cảnh sát.

    - Mọi người chúng ta đều thuận hoặc tay phải hoặc tay ưái. Bàn tay cầm súng cũng là bàn tay cầm bút. Bàn tay cầm súng của tên Carl đã gãy xương, nó không thể nào viết được tên, họ của Jules Dermain và địa chỉ của ông ta với nét chữ nắn nót, ngay ngắn và đều đặn như vậy được. Đó là chữ viết của luật sư Samuel.

    - Tại sao ông ta lại làm vậy?

    Léopold nhấn mạnh từng chữ một: - Tại vì chính ông ta đã thuê Carl, và cũng vì vậy mà ông ta đã cài bom giết Dermain để bịt đầu mối.

    - Đại úy căn cứ vào đâu?

    - Dermain phải có trong người cái bao thư ấy khi bước qua cửa công viên. Nếu không, chất nổ trong sọt giấy trở nên vô dụng. Bao thư ấy không được đến quá sớm vì Dermain sẽ để nó ở nhà trước giờ đến điểm hẹn. Nó đã được đút vào hộp thư trước 12 giờ trưa chỉ vài chục phút. Những người biết giờ giấc và nơi hẹn, ngoài Dermain, có tôi, anh, Connie, ông Ron và bà vợ. Anh và Connie không hề rời khỏi thành phố, ông Ron ở cạnh tôi từ sáng sớm, còn bà vợ, nếu định giết Dermain bằng bom, thì đã không rút súng bắn ông ta. Chỉ có một người được Dermain thông báo rõ điểm hẹn và giờ giấc, đó là luật sư Samuel, người đã mua trò chơi ma quái của Dermain. Samuel không hề muốn có cuộc gặp gỡ này, dù trong lần gặp tôi, Dermain đã bảo vệ ông ta.

    - Tại sao Samuel cung cấp cho chúng ta cái tên Jules Dermain?

    - Bởi vì, để giảm nhẹ tội cho tên Carl, Samuel buộc phải làm điều ấy. Ông ta không lo ngại gì cho Dermain vì Dermain và tên Carl chưa bao giờ gặp nhau. Ông ta tin vào trí thông minh và tài ứng xử của Dermain. Ông không ngờ Dermain quá tự phụ đến mức thách thức với cảnh sát, rất nguy hiểm!

    - Tại sao ông ta giết Dermain?

    - Ông ta lo sợ Dermain sẽ tiết lộ cho ông Ron biết ông ta đã trả tiền cho Dermain và thuê mướn tên Carl.

    - Chúng ta biết vậy nhưng không có chứng cứ để buộc tội ông ta!

    - Có thể có. Tôi sẽ đến trại giam nói chuyện với tên Carl. Nếu hắn chịu tố cáo Samuel, hắn sẽ được nhẹ tội. Còn anh, anh hãy đến ngân hàng kiểm tra các khoản thu, chi của Samuel...

    Trong phiên tòa, trước lời tố cáo của tên Carl, luật sư Samuel khăng khăng phủ nhận. Ông hùng hồn tuyên bố: - Đây là những lời vu khống bỉ ổi của một tên du đãng. Hắn căm thù tôi vì đã không lo liệu cho hắn được trắng án.

    Nhưng đến khi Fletcher trưng ra trước tòa các chứng từ ghi rõ các khoản tiền mà ông ta đã gửi cho Dermain, ông ta đành phải thú nhận hết mọi tội lỗi.

    Nhìn theo Samuel bị áp giải vào trại giam, Léopold chạnh nhớ đến Dermain và tự nhủ: - Đáng tiếc cho Dermain. Ông ta dùng trí thông minh tuyệt đỉnh để sáng tạo nên những trò chơi của quỷ dữ và đã bị hủy diệt vì các trò chơi giết người ấy!
     
    meetdak, amylee and Lan Giao like this.
  16. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHIẾU BÍ

    Truyện ngắn của JEFFREY ARCHER
    Lưu Văn Hiến dịch


    Mọi ánh mắt đều hướng về người phụ nữ vừa bước vào phòng.

    Một số đàn ông chiêm ngưỡng người đẹp từ trên xuống dưới. Tôi thì lại bắt đầu từ cổ chân nàng mà nhìn lên.

    Nàng mang một đôi giày nhung đen gót cao và mặc một chiếc đầm bó sát màu đen, cao hơn đầu gối một khoảng, đủ để phô bày đôi chân thon thả tuyệt vời. Ánh mắt tôi dừng lại ở chiếc eo thanh mảnh và thân hình nhỏ nhắn đầy sức sống của nàng. Nhưng tôi thấy choáng ngợp bởi gương mặt trái xoan, đôi môi nũng nịu và cặp mắt to xanh biếc của nàng, long lanh dưới những lọn tóc đen mượt mà. Sự hiện diện của nàng ở khung cảnh này lại càng đặc biệt. Người ta có thể đổ dồn ánh mắt như thế ở một buổi tiếp tân, một buổi tiệc cocktail, ngay cả ở dạ vũ từ thiện. Nhưng ở một giải cờ vua thì...

    Tôi theo dõi từng cử chỉ của nàng, không tài nào tin được rằng nàng có thể là một kỳ thủ. Như để chứng minh rằng tôi đã lầm, nàng chậm rãi bước lại bàn đăng ký của câu lạc bộ và ký tên vào sổ. Người ta đưa cho nàng số của đối thủ thách đấu trong ván mở màn. Tất cả những người chưa được phân đối thủ đều chờ xem liệu nàng sẽ ngồi vào chỗ đối diện ở bàn cờ của anh ta hay không.

    Nữ kỳ thủ xem số đối thủ của mình và đi lại bàn của một trung niên ngồi ở góc phía xa căn phòng, người này trước đây là chủ tịch câu lạc bộ, nhưng nay đã qua thời sung súc. Tôi là tân chủ tịch của câu lạc bộ và do đó chịu trách nhiệm đôn đốc các ván đấu vòng tròn.

    Đó là tối thứ sáu cuối cùng trong tháng trong căn phòng lớn ở tầng trên của tòa nhà Mason’s Arms ở phố High. Người chủ nhà đã cho bố trí ba chục chiếc bàn thi đấu và món ăn thức uống sẵn sàng. Có ba hay bốn câu lạc bộ cờ khác trong quận cử khoảng nửa tá vận động viên đến thi đấu, cho chúng tôi cơ hội thi thoảng gặp đấu thủ mới. Luật thi đấu khá đơn giản, mỗi nước đi chỉ đựơc tối đa một phút đồng hồ, như thế một ván ít khi kéo dài hơn một giờ, và nếu sau ba mươi phút không bên nào ăn được một quân tốt thì ván cờ được quyết định là hòa. Ai thua sẽ phải đãi người thắng một chầu uống trong giờ nghỉ, và mỗi người có thể thách đấu hai lần.

    Một gã đàn ông mang kính cận trong bộ đồ xanh đậm bước lại chỗ tôi. Chúng tôi mỉm cười, bắt tay nhau. Tôi tưởng hắn là luật sư, nhưng đã đoán nhầm: hắn thật ra là nhân viên kế toán của một hãng văn phòng phẩm ở Woking.

    Tôi không mấy chú ý vào khai cuộc kiểu Moscow của hắn vì mải dán mắt vào cô gái áo đen. Một lần bắt gặp ánh mắt tôi, nàng tặng tôi một nụ cười khó hiểu, nhưng sau đó dù cố gắng đến đâu tôi cũng không thể khiến đôi môi nàng hé mở thêm lần nữa. Mặc dù mất tập trung nhưng tôi vẫn tìm được cách thắng gã nhân viên kế toán, chắc hắn không biet rằng có nhiều cách thoát ra khỏi vòng vây của bảy quân tốt.

    Đến giờ nghỉ giải lao đã có đến ba hội viên của câu lạc bộ mời nàng uống rượu trước khi tôi kịp đến quầy. Tôi biết không hy vọng gì đấu ván thứ hai với nàng vì tôi còn phải thách đấu với chủ tịch một câu lạc bộ cờ khác. Cuối cùng nàng đấu với gã nhân viên kế toán.

    Tôi thắng đối thủ mới của mình sau hơn bốn mươi phút một chút, và trong vai trò chủ tịch, bắt đầu quan tâm đến những cặp khác còn đang thi đấu. Tôi chọn trước lộ trình để chắc chắn rằng nó dẫn đến bàn của nàng. Tôi thấy gã kế toán đang thắng thế, và khi tôi đến nơi nàng đã mất quân hậu và thua ván cờ.

    Tôi tự giới thiệu mình và nhận thấy cái bắt tay với nàng đầy xúc cảm. Chúng tôi len lỏi qua đám đông để đến quầy. Nàng cho tôi biết tên nàng là Amanda Curzon. Tôi gọi một ly rượu vang đỏ theo yêu cầu của nàng và một ly bia cho mình. Tôi bắt đầu câu chuyện bằng cách an ủi thất bại của nàng.

    “Ván rồi ông thi đấu ra sao?”. Nàng hỏi tôi.

    “Cũng thắng được ông ấy”, tôi nói, “Nhưng rất khít khao. Thế còn ván đầu của cô với ông cựu chủ tịch câu lạc bộ?”

    “Bí cờ” Armanda nói, “Nhưng tôi nghĩ ông ấy chỉ lịch sự với tôi thôi”.

    Tôi nói với nàng: “Lần trước đấu với ông ta chúng tôi cũng bí cờ”.

    Nàng mỉm cười: “Có lẽ chúng ta phải đấu với nhau một dịp nào đó?”

    “Tôi sẽ trông chờ dịp ấy”, tôi nói khi nàng uống cạn ly.

    Bỗng nhiên cô gái nói với tôi: “Thôi tôi phải về đây. Phải đón chuyến xe lửa cuối cùng về Hounslow”.

    “Cho phép tôi đưa cô về”, tôi nói rất lịch sự, “Ít nhất thì chủ tịch câu lạc bộ cũng có thể làm điều ấy”.

    “Nhưng đi như thế chắc là ngược hướng nhà ông nhiều lắm?”

    “Không đâu”, tôi nói bừa, vì Hounslow ở xa hơn căn hộ của tôi đến hai mươi phút đi xe.

    Tôi nốc cạn ly bia và giúp Amanda mặc áo khoác vào. Trước khi ra về, tôi cảm ơn người chủ nhà về sự chuẩn bị chu đáo cho tối hôm đó.

    Chúng tôi ra bãi đậu xe. Tôi mở cửa chiếc Scirocco của tôi cho nàng trèo vào.

    “Quả là một sư cải tiến nho nhỏ về phương tiện đi lại ở London”, nàng nhận xét khi tôi ngồi vào chỗ. Tôi mỉm cười, lái xe ra con đường dẫn về phía Bắc. Chiếc đầm màu đen càng thu ngắn hơn trên đùi nàng khi nàng ngả người tựa vào lưng ghế. Nàng không có vẻ ngượng ngùng vì điều đó.

    “Hãy còn sớm lắm”, tôi nói lấp lửng sau một vài nhận xét vu vơ về buổi tối ở câu lạc bộ. “Cô có thời gian tạt vào uống chút gì không?”

    “Nhưng phải nhanh thôi”, nàng trả lời, nhìn vào đồng hồ tay. “Mai tôi bận suốt ngày”.

    “Tất nhiên rồi”, tôi nói, hy vọng nàng không nhận thấy tôi đang vòng xe lại, chẳng có vẻ gì đi về hướng Hounslow cả.

    “Cô làm trong thành phố hả?”, tôi hỏi nàng.

    “Vâng. Tôi làm tiếp tân cho một hãng địa ốc ở quảng trường Barkeley”.

    “Tôi ngạc nhiên vì cô không làm người mẫu thời trang”.

    “Trước đây tôi đã làm nghề đó”, nàng trả lời mà không giải thích gì thêm. Nàng dường như hoàn toàn lơ đãng đối với con đường chúng tôi đang đi khi nàng kể về kế hoạch đi nghỉ của nàng ở đảo Ibiza, Tây Ban Nha. Khi đến nơi, tôi đậu xe, đưa Amanda qua cổng trước và vào căn hộ. Ở tiền sảnh tôi giúp nàng cởi áo khoác ngoài trước khi đưa nàng vào phòng khách.

    “Cô muốn dùng gì?”, tôi hỏi.

    “Tôi sẽ uống rượu vang, nếu ông có một chai khui sẵn”. Nàng trả lời, từ tốn dạo quanh căn phòng ngăn nắp lạ thường. Chắc là mẹ tôi đã tạt qua hồi sáng, tôi nghĩ với vẻ biết ơn.

    “Đây chỉ là góc nhỏ của một anh chàng độc thân thôi”, tôi nói, nhấn mạnh từ “độc thân” trước khi đi xuông bếp. Tôi thấy nhẹ nhõm hẳn khi thấy một chai vang trong tủ rượu. Tôi đem chai rượu cùng hai cái ly ra vài phút sau đó, và bắt gặp nàng đang ngắm nghía bàn cờ của tôi, và sờ tay vào những quân cờ bằng ngà xếp theo một ván cờ tôi đã chơi trước đó qua đường bưu điện.

    “Bộ cờ đẹp quá”, nàng nhận xét khi tôi đưa nàng ly rượu. “Ông tìm thấy nó ở đâu vậy?”

    “Ở Mexico”, tôi nói, không giải thích thêm rằng tôi đã giành được nó khi thắng một giải đấu cờ trong kỳ nghỉ ở đó. “Tôi chỉ tiếc là chúng ta chưa có dịp đấu cờ với nhau”.

    Nàng nhìn đồng hồ tay. “Đủ thời gian cho một ván đấu nhanh”, nàng nói và ngồi vào chỗ sau những quân cờ ngà xinh xắn.

    Tôi nhanh chóng ngồi đối diện nàng. Nàng mỉm cười, nhặt lên một quân tượng trắng, một quân tượng đen và giấu ở sau lưng. Chiếc đầm nàng mặc càng chật hơn và đôi vú nàng căng lên dưới làn vải áo. Rồi nàng đưa hai nắm tay ra trước mặt tôi. Tôi chạm khẽ vào bàn tay phải và nàng mở nắm tay để lộ ra quân trắng.

    “Mình có đặt cược gì không nhỉ?” Tôi vui vẻ hỏi. Nàng mở xách tay ra xem.

    “Tôi chỉ còn vài bảng thôi”, nàng nói.

    “Tôi chỉ bắt kèo dưới thôi”.

    “Ông nói vậy nghĩa là sao?”. Nàng hỏi.

    “Cô có đề nghị gì không?”

    “Ông muốn gì?”

    “Nếu cô thắng sẽ được mười bảng”.

    “Còn nếu tôi thua?”

    “Cô cởi một thứ gì đó ra”.

    Tôi ân hận ngay khi nói dứt câu và chờ nàng tặng một tát tai nảy đom đóm mắt. Tuy nhiên nàng chỉ nói, “Chỉ chơi một ván cũng chẳng hại gì”.

    Tôi gật đầu đồng ý và nhìn trân trân vào bàn cờ.

    Nàng chơi cũng không đến nỗi tệ - loại mà dân trong nghề gọi là nghiệp dư - mặc dù lối khai cuộc Roux của nàng có vẻ hơi bài bản. Tôi tìm cách làm cho ván đấu kéo dài hai mươi phút và hy sinh một số quân mà không quá lộ liễu. Khi tôi nói “Chiếu bí”, nàng bật cười và tuột đôi giày khỏi chân mình.

    “Uống ly nữa nhé?” Tôi hỏi mà không mấy hy vọng. “Dù sao cũng chưa đến mười một giờ”.

    “Được. Một ly nhỏ nữa thôi và tôi phải về ngay”.

    Tôi vào nhà bếp, lát sau trở lại đem theo chai rượu và rót vào ly của nàng.

    Nàng nhíu mày: “Tôi chỉ muốn nửa ly thôi”.

    “Tôi chỉ ăn may thôi”, tôi nói, vờ như không nghe, “sau khi quân tượng của cô bắt được quân mã của tôi. Thắng rất sít sao”.

    “Có lẽ thế”, người đẹp trả lời.

    “Chơi một ván nữa nhé?” tôi dọ ý nàng.

    Cô gái hơi do dự.

    “Thắng ăn cả ngã về không nhé?”

    “Ông nói vậy nghĩa là sao?”

    “Hai mươi bảng hay một món trang phục khác?”

    “Tối nay sẽ chẳng ai thua nhiều cả, phải không?”

    Nàng kéo ghé ngồi còn tôi xoay lại bàn cờ, và cả hai chúng tôi bắt đầu xếp lại quân cờ.

    Ván thứ hai kéo dài hon một chút vì tôi phạm một sai lầm ngớ ngẩn lúc đầu, để quân hậu bị uy hiếp, và phải mất một số nước đi để giải vây. Tuy vậy, tôi vẫn kểt thúc đuợc ván cờ dưới ba mươi phút và còn tìm được cách rót đầy ly của nàng mà nàng không biết.

    Nàng nhìn tôi mỉm cười và kéo áo đầm lên đủ để tôi thấy phần trên của đôi vớ dài trên đùi nàng. Nàng tháo móc treo ra và chậm rãi lột đôi vớ ra khỏi chân rồi thả chúng xuống cạnh chỗ tôi ngồi.

    “Tôi suýt nữa là thắng được ông”. Nang nói.

    “Chỉ một chút nữa thôi”, tôi đáp lại. “Cô muốn một cơ hội để gỡ lại không? Lần này tôi cuộc năm mươi bảng”. Tôi đề nghị, ra vẻ hào phóng.

    “Cơ hội thắng càng lúc càng cao cho cả hai bên”, nàng đáp, và sắp lại bàn cờ. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết nàng đang nghĩ gì. Dù điều đó là gì đi nữa, nàng dại dột thí cả hai quân xe ngay từ đầu và ván cờ kết thúc chóng vánh sau có vài phút.

    Một lần nữa nàng lại kéo áo đầm lên nhưng lần này lên trên cả eo nàng. Mắt tôi dán chặt vào cặp đùi nàng trong lúc nàng cởi bỏ đai treo vớ và giơ nó lên cao quá đầu tôi trước khi thả nó xuống cùng chỗ với đôi vớ dài của nàng bên cạnh tôi.

    “Khi tôi bị mất quân xe thứ hai”, nàng nói, “Tôi chẳng còn hy vọng gì”.

    “Tôi đồng ý. Vì thế để cho công bằng phải cho cô một cơ hội nữa”, tôi vừa nói vừa nhanh chóng sắp lại bàn cờ. “Dù sao”, tôi nói thêm, “lần này cô có thể thắng một trăm bảng”. Nàng nhoẻn miệng cười.

    “Tôi thật sự phải về nhà”, nàng vừa nói vừa đi quân tốt lên. Khi tôi đưa quân tốt của mình vào thế phản công thì nàng lại nở nụ cười khó hiểu hồi tối.

    Đó là ván cờ hay nhất mà cô gái đã chơi trong suốt tối hôm ấy, và các nước đi kiểu Warsaw của nàng làm tôi mất hơn nửa tiếng đồng hồ với ván cờ. Thật ra tôi suýt nữa đã thua sớm do rất khó tập trung trước chiến lược phòng thủ của nàng. Một đôi lần Amanda tắc lưỡi khi nàng tưởng đang thắng thế, nhưng rồi hiển nhiên nàng chưa từng thấy Karpov phong thủ kiểu Sicile và thắng cuộc từ một vị trí tưởng chừng không thể được.

    Cuối cùng tôi tuyên bố: “Chiếu bí”.

    “Quỷ tha ma bắt”. Nàng nói, và đứng lên quay lưng lại tôi: “Ông phải giúp tôi một tay”.

    Tôi run rẩy với tay qua và từ từ kéo chiếc khóa xuống cho đến tận eo nàng. Một lần nữa tôi khao khát chạm tay vào làn da mịn màng đó. Nàng quay phắt lại đối diện tôi, khẽ nhún mình duyên dáng, và chiếc đầm rơi xuống nhẹ nhàng như khi người ta tháo bỏ tấm khăn che một bức tượng. Nàng nghiêng người tới và khẽ chạm bàn tay vào má tôi, ngay lập tức tôi như bị điện giật. Tôi rót hết rượu trong chai vào ly của nàng và vào nhà bếp, lấy cớ để rót thêm cho tôi. Khi tôi trở lại nàng vẫn ngồi yên. Trên người nàng chỉ còn hai mảnh nhỏ trang phục lót mỏng tanh mà tôi hy vọng sẽ thấy rời khỏi chỗ.

    “Tôi không nghĩ rằng cô sẽ chơi thêm ván nữa?” tôi hỏi, cố không tỏ ra tuyệt vọng.

    “Đã đến lúc anh phải đưa tôi về”, nàng khúc khích cười.

    Tôi trao cho nàng một ly rượu nữa. “Một ván nữa thôi”, tôi nài nỉ. “Nhưng lần này phải là cả hai mảnh”.

    Nàng bật cười. “Không đời nào”, nàng nói. “Tôi không thể để thua được”.

    “Sẽ là ván cuối cùng”, tôi đồng ý. “Nhưng lần này hai trăm bảng và chúng ta cuộc cả hai mảnh còn lại”. Tôi chờ một lúc, hy vọng số tiền cược lớn sẽ hấp dẫn được nàng. “Lần này chắc cô phải gặp may. Trước sau cô đã suýt thắng ba lần”.

    Nàng uống một ngụm nhỏ rượu làm như đang cân nhắc đề nghị của tôi. “Thôi được”, nàng nói. “Một ván chót”.

    Cả hai chúng tôi cố không để lộ ý nghĩ của mình về việc chuyện gì sẽ xảy ra nếu như nàng lại thua.

    Tôi không thể giữ tay mình khỏi run khi sắp lại bàn cờ. Tôi tập trung tư tưởng, hy vọng nàng không nhận thấy là suốt đêm tôi chỉ uống một ly vang. Tôi quyết tâm kết thúc ván cờ càng nhanh càng tốt.

    Tôi đưa quân tốt của mình lên một ô. Nàng phản công, đưa quân tốt của mình lên hai ô. Tôi biết chắc nước đi tiếp theo của mình phải là gì, và vì thế ván cờ kết thúc chỉ sau mười một phút.

    Tôi chưa bao giờ bị thua một ván cờ nào một cách toàn diện như thế trong đời. Amanda hoàn toàn thuộc một đẳng cấp khác hẳn tôi. Nàng đoán trước mọi nước đi của tôi và có những nước thí tôi chưa bao giờ gặp, thậm chí chưa bao giờ được biết.

    Đến lượt nàng nói “Chiếu bí”, và cùng với nụ cười bí ẩn, nàng tiếp thêm, “Quả thật anh đã nói lần này tôi gặp may”.

    Tôi cúi đầu không tin nổi. Khi tôi nhìn lại, nàng đã mặc lại chiếc đầm tuyệt đẹp, và đang nhét vớ dài cùng đai treo vớ vào xách tay. Vài giây sau nàng mang giày vào.

    Tôi lấy quyển sổ chi phiếu, viết vào tên “Amanda Curzon” và thêm con số “200 pounds”, điền ngày và ký tên. Trong khi tôi làm việc đó nàng sắp lại các quân cờ ngà vào đúng y chỗ cũ của chúng khi nàng mới đến.

    Nàng ngả người tới và khẽ khàng hôn lên má tôi. “Cảm ơn anh”, nàng nói, bỏ tấm chi phiếu vào túi xách. “Lúc nào đó ta phải đấu lại thôi”. Tôi vẫn nhìn trân trối vào bàn cờ trong nỗi hoài nghi khi có tiếng cửa trước đóng lại sau lưng nàng.

    “Đợi đã”, tôi vừa nói vừa chạy vội ra cửa. “Làm sao cô về nhà được?”.

    Tôi ra vừa kịp thấy nàng chạy xuống cầu thang, và về phía một chiếc BMW cửa mở sẵn. Nàng trèo vào xe, cho phép tôi chiêm ngưỡng thêm lần nữa đôi chân thon thả của nàng.

    Nàng mỉm cười khi cửa xe đóng lại.

    Gã nhân viên kế toán rảo bước về phía cửa xe bên kia, ngồi vào chỗ, nổ máy xe và đưa nữ kỳ thủ vô địch về nhà.
     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  17. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    KHUYẾT ĐIỂM HOÀN HẢO

    Truyện ngắn của Jilly Cooper

    Lê Tân dịch



    Nắm lấy gói đồ, Penny lao qua cửa trước, khéo léo tránh người công nhân đang làm việc ở lưng chừng cầu thang nhưng lại đâm bổ vào vị giám đốc kinh doanh đang ra khỏi văn phòng cùng với một khách hàng quan trọng. Lắp bắp xin lỗi, cô phóng tiếp lên cẩu thang, rón rén đi qua văn phòng giám đốc và len lét bước vào văn phòng mình.

    Cô Piggott, thư kỷ kỳ cựu của giám đốc điều hành, nhìn đồng hồ đeo tay, vẻ mặt bực bội. Cô nói, hơi cao giọng:

    - Ba giờ chín phút rồi, cô đi làm hay đi chơi vậy nhỉ?

    Penny, thư ký phụ của giám đốc điều hành, liến thoắng:

    - Trời ơi... tôi xin lỗi, cô Piggott, chỉ vì tôi thấy cái áo đầm tuyệt vời này rồi tôi lại thấy đôi giày này rất hợp với cái áo trong cửa hiệu đang giảm giá, cũng trong cửa hiệu đó tôi thấy cái kéo tỉa cây này và tôi nghĩ chắc cô thích nó lắm.

    Vẻ mặt cô Piggott bớt cau có. Cô nói:

    - Cô chu đáo lắm. Bao nhiêu để tôi trả lại tiền cho cô?

    - Không, tôi tặng cô.

    Penny tuột nhanh đôi giày, buông mình xuống ghế, đổ tung những thứ trong gói đồ trên cái bàn giấy bừa bãi của cô.

    - Tôi có mua mấy cái bánh nhân kem đây này, ba cái, để lỡ mà ông ấy...

    Cô khinh khỉnh chỉ tay vào cánh cửa từ phòng họ thông qua một phòng khác, tiếp:

    - ... trở lại làm việc đúng giờ.

    - Ông ấy trở lại rồi và đã cho gọi cô từ lúc hai giờ.

    Penny tái mặt.

    - Ông McInnes trở lại rồi ư? Chết tôi! Ông ấy có giận dữ không?

    - Chưa bao giờ tôi thấy ông ấy xuề xòa như vậy.

    Giọng cô Piggott có vẻ khó chịu. Penny thở dài, lấy cái lược trong túi xách chải lại những lọn tóc quăn đỏ hung của mình.

    - Tôi ước sao ông Fraser đáng kính vẫn còn ở đây. Ông ấy thật dễ chịu.

    Ông Fraser điều hành văn phòng công ty Joshua McInnes ở Luân Đôn này đựợc ít lâu. Ông là người dễ tính nhưng không có năng lực và ông mau chóng được cho về hưu vào mùa thu rồi. Ông già Joshua McInnes, biết tất cả hoạt động của công ty tự bên kia Đại Tây Dương, rất bực bội nên đã phái con trai út của ông, Jake McInnes, đến đây để tái lập trật tự của chi nhánh công ty.

    Mới đầu, văn phòng ở Luân Đôn này không hiểu họ bị trừng phạt vì tội gì. Cậu chủ trẻ Jake McInnes mổ xẻ từng công việc của các phòng ban, mổ xẻ khả năng của từng người và chỉ sau sáu tháng, mọi việc đâu vào đấy, mọi người đều răm rắp. Dần dần, họ nhận ra rằng công việc của công ty tiến triển trơn tru hơn trước nhiều. Đơn đặt hàng đến dồn dập, nhà máy hoạt dộng không ngừng nghỉ. Chỉ sau sáu tháng dưới sự điều hành của cậu chủ trẻ, nhân viên văn phòng và công nhân nhà máy có việc làm ổn định ít nhất trong ba năm tới.

    Mọi người không còn dựa tường tán gẫu bất cứ lúc nào Jake McInnes bước vào hành lang. Mọi người đi vào nề nếp - mọi người, trừ Penny, chỉ vì cô không có năng lực một cách thảm hại.

    Ông Fraser đã giữ cô lại như một người được yêu thích. Một văn phòng kinh doanh phải có một bóng hồng kiều diễm làm cảnh chứ! Ông thấy cô có ích khi nhớ hết ngày sinh nhật của mọi người trong văn phòng công ty, biết những chuyện lặt vặt mà không ai có thể biết. Đôi khi ông giao cho cô những giấy tờ mà ông chỉ ký tên nhưng không đọc.

    Ông nhấn mạnh mỗi khi cô Payne, trưởng phòng nhân sự, nổi giận đòi đuổi Penny:

    - Penny xinh đẹp và cô ấy làm tôi trẻ lại. Đâu có ai ở đây pha cà phê ngon hơn cô ấy? Nhờ cô ấy mà phòng họp lúc nào cũng có hoa tươi và cũng nhờ cô ấy mà không khí ở đây thật tuyệt vời.

    Nhưng giờ đây ông Fraser đã ra đi, Jake McInnes thay thế và mọi người đánh cá với nhau về thời gian ngắn ngủi mà Penny có thể tồn tại ở nơi này.

    Hôm nay Penny quyết định phiêu lưu đến siêu thị một chuyến trong giờ ăn trưa vì cô nghĩ cậu chủ trẻ sẽ trở lại muộn sau bữa trưa.

    - Xin chào, cậu McInnes, cậu dùng bữa trưa rồi chứ?

    Penny hỏi giọng căng thẳng khi cô bước vào văn phòng giám đốc. Jake McInnes nhìn cô từ trên xuống rồi nói:

    - Ngồi xuống.

    Jake khoảng ba mươi, dáng người vạm vỡ. Tóc đen dày, mắt nâu sâu thẳm, cằm rộng. Nụ cười bí hiểm thoáng nở trên cái miệng rộng khiến cô nghĩ cậu chủ trông giống găng-tơ Ý hơn một doanh nhân Mỹ.

    Họ nhìn nhau qua cái bàn giấy khổng lồ.

    - Bây giờ là ba giờ hai mươi phút. Tôi nhớ giờ ăn trưa là từ mười hai rưỡi đến một rưỡi phải không?

    Penny lúng lúng:

    - Tôi xin lỗi, vì tôi thấy cái áo đầm này quá đẹp và sau dó...

    Ông chủ trẻ cáu kỉnh:

    - Tôi không muốn nghe lời thanh minh. Tôi đã bảo cô Payne cắt hai giờ lương của cô tuần này.

    Cầm tập giấy của Penny, anh tiếp:

    - Cô phải làm việc trong lúc tôi vắng mặt. Những bức thư này cô đánh máy và trình bày đẹp lắm.

    Penny tươi mặt:

    - Ồ, vậy à?

    Ông chủ trẻ gật đầu, nhỏ nhẹ:

    - Có điều đáng buồn là chúng chẳng đề cập đến những điều cốt yếu tôi đọc cho cô viết.

    Penny co rúm người như thể bị chàng trai quất cho một roi. Anh ta tiếp:

    - Cô không biết viết tốc ký à?

    Penny thú nhận:

    - Không, nhưng tôi viết thường cỏn nhanh hơn tốc kỷ, và viết thường tôi mới diễn đạt được ý chính của vấn đề. Ông Fraser chưa bao giờ phàn nàn tôi cả.

    Cô hơi lên giọng ở câu cuối. Jake nói:

    - Chuyện đó không làm tôi ngạc nhiên đâu.

    Anh ta ngồi xem xét mớ giấy tờ suốt nửa tiếng sau, cho đến khi sự tự tin của cô hoàn toàn tan biến. Jake xé tất cả những tờ giấy rồi ném vào sọt rác.

    Mặt đỏ như gấc, Penny đứng dậy. Nhưng Jake chưa buông tha cô:

    - Một điều nữa, lần sau nếu có đặt phòng ở khách sạn, cô nhớ lấy phòng đơn nghe chưa. Tôi không muốn suốt ngày hội họp rồi đêm đến phải nằm giường đôi với ông Atwater!

    Penny không nhịn được, cười phá lên và vội im bặt vì nét mặt hầm xuống của ông giám đốc trẻ. Anh nói thêm khi cô sắp đến cửa:

    - Một điều cuối, đừng đi chân không vào phòng tôi!


    * * *


    - Ông ấy giận dữ phải không?

    Cô Piggott hỏi. Penny đáp:

    - Chỉ không bằng lòng chút thôi.

    Valerie từ phòng đánh máy vừa đến với khay trà. Cô bưng một tách vào phòng Jake rồi trở ra, mắt mơ màng:

    - Có phải anh ấy rất đẹp trai không Penny, nhất là khi nhìn bồ? Tôi thì chẳng hy vọng gì mình có diễm phúc khi quá nhiều đàn bà sành sỏi đến gặp gỡ vả đón anh ta ở phòng tiếp tân. Cái cô nàng Ellerington tuần qua trông cứ như minh tinh màn bạc nhỉ? Mà này... Penny, cứ hy vọng mình có chỗ trong trái tim anh ta một lúc nào đó cũng đâu có hại gì phải không?

    Penny đáp cộc lốc:

    - Tôi thấy chị cần đi bác sĩ thần kinh rồi đấy!

    Valerie vênh mặt, liếc nhìn bức ảnh chàng trai trên bàn Penny, gương mặt rất đẹp trai bị che khuất phần nào bởi bộ râu quai nón khá dài. Cô châm biếm:

    - Tốt thôi, từ khi bồ mê cái anh chàng ấm ớ với móng tay bẩn này thì tôi thấy bồ không có cơ hội với tới cậu chủ Jake nữa!

    Penny gắt:

    - Francis không có móng tay bẩn! Mà chị cũng không được so sánh anh ấy với ông Jake! Frands rất dịu dàng, rất ngọt ngào và không hay công kích người khác!

    - Không hay công kích người khác mà tuần rồi lại ném tờ áp phích vào mặt người cảnh sát ở vụ biểu tình trên quảng trường Trafalgar!

    Penny khinh khỉnh:

    - Đó là chuyện khác. Anh ấy chỉ biểu lộ rằng anh ấy không thích bất bạo động!

    - Biểu lộ như thế thì thật kỳ quái đấy!

    Cô Piggott xen vào vì chẳng những cô không thích bề ngoài, hay quan điểm chính trị của anh ta mà cô ghét cay đắng thái độ thất thường của anh ta đối với Penny.

    Ngay lúc đó điện thoại réo vang. Penny vồ lấy ống nghe.

    - Hello... văn phòng McInnes, Francis! Anh yêu! Là anh đấy à? Trời ơi, nghe tiếng anh thật ấm cả lòng!

    Cô nhìn Valerie và Piggott, vẻ mặt kiêu hãnh.

    Nửa tiếng sau cô miễn cưỡng đặt ống nghe xuống, khẽ nhún vai mê mẩn, vùi mặt vào hai lòng bàn tay nói gọn lỏn:

    - Anh ấy gọi đấy.

    Cô Piggoti nói ngay:

    - Và tôi cũng nghe sếp gọi đấy. Cậu McInnes vào đây hai lần rồi đùng đùng đi ra mà cô có hay biết gì đâu.

    Penny thở dài:

    - Lại McInnes, cậu chủ hóc búa! Ôi chị Piggott ơi, Francis vẫn còn yêu tôi. Tội cho là anh ấy nguội cái đầu rồi. Có một cuộc biểu tình thứ bảy này và anh ấy muốn tôi tham gia.

    Piggott sợ rằng câu chuyện của Penny với anh chàng Francis kia sẽ kéo dài bất tận nên cô cầm lẩy cái bánh nhân kem thứ ba nói là đem cho Valerie để giải hòa Penny và Valerie.

    Suốt nửa tháng kế tiếp Penny cố gắng hết sức tỏ ra năng lực trong công việc nhưng cô phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác về việc được giao. Cô đặt bàn sai nhà hàng, sắp xếp lịch họp sai ngày và làm đổ nguyên tách cà phê vào bàn phím máy vi tính của Piggott. Cô càng căng thẳng hơn vì Francis không phôn lại văn phòng. Sự an ủi duy nhất là anh ta hứa đưa cô đi xem nhạc kịch tối thứ sáu tới.

    Sáng thứ sáu. Sau khi ghé hiệu làm tóc, cô đến văn phòng muộn hơn mọi ngày. Jake McInnes cho gọi cô ngay lập tức. Giọng anh mệt mỏi:

    - Penny!

    - Vâng, cậu cần gì ạ?

    - Tuần rồi tôi có viết hai bức thư, một bức cho cha tôi biết những yêu cầu của Atkinson khó được chấp thuận nhưng chúng ta sẽ giải quyết mọi việc ổn thỏa vào cuối tháng, bức kia cho Atkinson, không đáp ứng ngay yêu cầu của ông ta mà dể dò xét xem thế nào, đúng chứ?

    - Vâng, cậu đã ký cả hai bức thư đó.

    - Và cô đã bỏ lầm thư này vào phong bì kia. Bây giờ thì đi ra, đi ngay và nhớ là cô Emma McBride có phôn đến thì bảo tôi không có ở đây nghe chưa!

    Cuối buổi sáng, điện thoại bàn Penny reo. Một giọng nhỏ nhẹ:

    - Làm ơn cho tôi nói chuyện với Jake?

    Chết rồi, cậu chủ bảo không muốn nói chuyện với ai nhỉ? Cô thận trọng:

    - Ai đấy?

    Giọng nói đầu kia nhẹ nhàng:

    - Chuyện riêng.

    Penny bỗng sáng suốt:

    - Con chó nhỏ của cô thế nào rồi?

    - Nó khỏe, Penny, cám ơn.

    Ắt hẳn là cô Ellerington. Cô ấy có một con chó Bắc Kinh. Penny đành phó mặc

    may rủi:

    - Vâng, thưa cô Ellerington, cậu McInnes nói không muốn tiếp chuyện với một người mà tôi không nhớ là ai, cô hay cô Emma, hay có thể là cô Lusty... Tôi sẽ hỏi lại cậu ấy nhưng cậu ấy đang rất giận tôi sáng nay. Dạo này cô không còn yêu cậu ấy chứ?

    - Còn, nhưng sắp hết rồi.

    Giọng nói đầu kia có vẻ bực bội, tiếp:

    - Tôi nghĩ cô nên cho tôi nói chuyện với ông ấy thì hơn.

    Hai phút sau, Jake McInnes ra khỏi văn phòng. Và đây là lần đầu tiên anh ta mất bình tĩnh vì Penny và cũng là lần đầu tiên cô sợ mất cả hồn vía.

    - Liệu mà dẹp bức ảnh bạn trai cô đi!

    Anh quát.

    - Đây là văn phòng làm việc chứ không phải phòng triển lãm!

    Cô Piggott nói sau khi Jake đóng sầm cửa:

    - Tôi chưa bao giờ thấy cậu ta đóng cửa kiểu đó. Có lẽ cậu ta dính với cô Ellerington thật rồi!

    - Tôi thì thấy mình nên tìm việc nơi khác thì hơn.

    Vừa gỡ bức ảnh ra khỏi khung, Penny bơ phờ nói. Piggott gật đầu:

    - Như thế có lẽ hay hơn. Tôi thấy báo sáng nay có đăng cần người ở mục rao vặt đấy. À, tôi phải đến nha sĩ, trở về sớm thôi.

    - Đi đi, mong chị không đau nhiều.

    Nói rồi Penny cắm cúi vào mục rao vặt ở tờ nhật báo. Không có gì gợi sự hiếu kỳ của cô và thình lình:

    “Giám đốc điều hành cần một trợ lý kiêm thư ký, làm việc chăm chỉ, thông minh, giỏi tốc ký và vi tính. Lương 8.000 bảng trở lên cho người thực sư có năng lực. Hộp thư 9873.”

    Mức lương gấp hai lần hiện nay! Có nghĩa là cô có thể sắm những quẩn áo mà cô vẫn thèm muốn. Hai con mèo cưng của cô sẽ được ăn gan hằng ngày.

    Thư xin việc mất vài phút. Cô mường tượng ông chủ mới của mình sẽ như ông Fraser, tốt bụng và biết đánh giá đúng người - một ông chủ đang chờ một người đem lại sinh khí cho văn phòng ông ta. Cô kể lể với ông ta về những bất đồng của cô với ông chủ hiện thời, tự ca tụng khả năng mình. Hài lòng, cô dán phong bì, tự tay đem đến tòa báo trong giờ ăn trưa.


    * * *


    Quá trưa hôm đó, Jake McInnes phải đương đầu với một trong những cuộc chiến gay go nhất trong nghề nghiệp của anh. Anh dựa người vào lưng ghế, cố thư giãn một chút. Dọc hai bên bàn họp là các doanh nhân người Anh lớn tuổi. Anh đang trình bày những điểm chính của việc cải tổ mà anh dự định tiến hành, những cải cách mà anh phải làm cho họ thấy, tự họ nhận thấy đúng đắn, do chính anh đề ra chứ không phải do ảnh hưởng cùa cha anh, nếu không thì anh chỉ là con bù nhìn do cha anh đặt vào công ty.

    Khi cuộc thảo luận đi sâu hơn, anh thắng thế dần, sự phản đối không còn nữa, thậm chí anh còn nhận được sự tán thưởng. Khi anh vừa đề câp đến vấn đề vận chuyển thì Charles Atwater, giám dốc điều hành thương mại, sửng sốt như không tin vào mắt mình. Qua làn khói xì gà dày dặc, ở cửa cái, một con thỏ nhảy vào. Ông vội vã lấy kính. Đúng là một con thỏ. Ông huých nhẹ vào giám đốc đối ngoại ngồi bên cạnh.

    - Nhìn kia!

    - Trời đất!

    Ông giám đốc đối ngoại dụi mắt, nghĩ thầm từ nay không uống nhiều bia trong bữa trưa nữa.

    Jake McInnes nhìn về phía họ, hỏi:

    - Các vị có ý kiến gì?

    Ông Atwater cười phá lên, chỉ con thỏ lúc này đã đến gần ghế của McInnes.

    Huyên náo.

    - Hay quá, một con thỏ!

    - Ê, dễ thương quá, bắt nó đi!

    - Chắc là nó muốn một ghế trong hội đồng quản trị!

    - Thì ông nhường ghế cho nó đi!

    Họ cứ như một đám học sinh tiểu học, McInnes thầm nghĩ, cố trấn tĩnh, ông Atwater nói:

    - Làm sao nó vào đây được?

    McInnes nói:

    - Tôi biết.

    Anh nắm lấy hai tai con vật đang hoảng sợ, tiếp:

    - Xin lỗi quí vị, tôi ra ngoài một chút.

    Anh thấy Penny đang quì dưới sàn, nhìn vào gầm tủ hồ sơ.

    Cô nhìn lên, má đỏ bừng, một vết bẩn trên mũi. Cô kêu lên mừng rỡ:

    - Ồ, ông tìm thấy nó, tôi cứ sợ nó chạy ra dường!

    McInnes nghẹn họng khi Penny đỡ lấy con vật, vỗ về nó:

    - Ngoan, ngoan nhé, bé yêu... mi sợ lắm phải không?

    - Penny, ở đâu cô có con thỏ này?

    Mắt Penny rưng rưng:

    - Ở chợ. Nó là con cuối cùng. Người bán nói sẽ làm thịt nó nếu không có ai mua.

    Một nụ cười thoáng qua trên mặt Mclnnes.

    - Được rồi, cô nên mua cho nó một cái chuồng thì hơn.

    - Hôm nay thứ sáu. Tôi không còn đồng nào cả.

    Jake McInnes mở ví đưa cô một tờ hai mươi bảng.

    - Hãy mua một cái chuồng ngay đi và tôi muốn tất cả thư từ phải đánh máy hoàn tất khi tôi họp xong.

    Nửa giờ sau, con thỏ được thả vào trong cái chuồng xinh xắn màu xanh nhạt, hạnh phúc nhấm nháp mớ rau xà lách trong khi Penny vội vã đánh máy. Chuông điện thoại reo. Francis. Penny la lên:

    - Anh yêu, sao lại vậy! Em đã chuẩn bị rồi mà!

    Giọng Francis bối rối:

    - Anh không thể đi được.

    Penny nói như rên:

    - Tại sao chứ? Anh đã hứa rồi mà!

    Francis nói rằng anh phải nhận nhiệm vụ đứng cản không cho người vào sở làm trong một cuộc bãi công...

    - Được, em đi với anh.

    - Không, không... chỉ là một cuộc bãi công nhỏ thoi.

    Penny tức tối:

    - Em không tin! Anh đã có người khác! Đó là con nhỏ tóc vàng! Francis, anh đối với em như vậy sao!

    - Em nghĩ sao tùy em, anh sẽ phôn sau.

    Tiếng cúp máy. Penny hoang mang. Mọi việc đảo lộn dồn dập. Chỉ trong một ngày, cô sắp mất việc, và sắp mất người yêu. Cô lẩm bẩm:

    - Không ai yêu mình... không ai cần mình… trời ơi, Francis!

    Cô xé tờ giấy đang đánh máy, lắp vào tờ mới, gõ phím điên loạn.

    Anh yêu, anh yêu! Em buồn lắm! Em không nói là em nghi ngờ anh. Em chỉ thất vọng...

    Một cái bóng đổ trên trang giấy. Penny nghiêng người tới trước để che những dòng chữ.

    - Cô đang làm cái quái gì vậy?

    Giọng Jake McInnes như những phát súng. Penny bật khóc. Cô úp mặt trên mớ giấy tờ, khóc rưng rức. Jake không nói gì, lẳng lặng ngồi lên mép bàn cô Piggott, châm một điếu thuốc, chờ cô nín. Cô nói sau khi đã nguôi ngoai:

    - Tôi xin lỗi.

    - Chuyện gì vậy? Người yêu?

    Penny gật đầu buồn bã.

    - Anh ấy không đưa tôi đi chơi tối nay. Tôi nghĩ anh ấy có bồ khác, một cô tóc vàng trong nhóm hay xuống đường biểu tình.

    Jake McInnes chăm chú nhìn những móng tay mình.

    - Tốt, thế thì chúng ta đi chơi tối nay...

    Penny hốt hoảng.

    - Ồ, không... không phải cậu chủ có hẹn với cô Ellerington sao? Cô ấy có giận tôi vì cú diện thoại đó không?

    - Cô ấy “không có khả năng” theo như lời cô Piggott của chúng ta.

    Penny cười. Jake tiếp:

    - Như tôi nói, chúng ta đã xong việc hôm nay, nhưng còn việc khác hay hơn. Tôi đề nghị chúng ta nên sắp xếp lại những thứ bừa bãi ở đây.

    Anh chỉ những giấy tờ và những thứ lẩm cẩm bừa bãi trên bàn và quanh chỗ Penny.

    - Khay nào đựng công văn đến của cô?

    - Vâng, hai cái phía ngoài cùng.

    Cô đáp mà trong lòng tràn ngập sợ hãi mơ hồ. Không biết có chuyện gì sau khi cậu chủ đọc những công văn đó hay không.


    * * *


    Cuối cùng, cô cảm thấy nhẹ nhõm. Jake McInnes rõ ràng đã dễ chịu với cô hơn và trong lúc cùng Jake thu dọn lại mọi thứ, cô tìm thấy những thứ tưởng đã mất: hộ chiếu của cô, những vé xe buýt tháng và một thanh sô-cô-la.

    Hai tiếng sau, những bàn giấy, tủ hồ sơ, kệ sách... được thu dọn gọn gàng. Cô sung sướng nói:

    - Sáng mai cô Piggott sẽ giật mình cho mà coi.

    Jake nói:

    - Hãy cố gắng giữ mọi thứ ngăn nắp như vậy nhé, bây giờ chúng ta đáng được hưởng một bữa tối thật ngon.

    - Tôi còn nhiều thức ăn ở nhà.

    - Tôi biết. Những hộp cá trong tủ lạnh chứ gì. Đừng có ngây ngô nữa, sửa soạn lại mặt mũi đi.

    Penny kinh hoảng khi thấy mặt mình trong gương. Nước mắt làm son phấn nhòe nhoẹt. Một đốm bẩn trên mũi. Cô vội vã lau mặt, trang điểm lại.

    Jake McInnes đưa cô đến một nhà hàng cực kỳ sang trọng.

    - Mời ông vào bàn riêng, thưa ông McInnes.

    Người bồi bàn dẫn họ vào một góc kín đáo. Penny thầm nghĩ có lẽ McInnes rất thường đến nơi này, thoải mái gọi những loại rượu đắt tiền và không tiếc lời ca tụng nàng Clare Ellerington kiều diễm.

    Jake gọi thức uống và họ dọn kèm theo với những đĩa củ cải mà cô rất muốn bỏ túi cho con thỏ. Cô nói:

    - Tôi thấy đói vì được ăn ở nơi đẹp như vậy... Bấy lâu nay tôi cứ bị rối trí vì Francis... Mỗi khi đi ăn với anh ta thì tôi chẳng ăn được gì cả. Bây giờ thì có lẽ chia tay rồi. Lẽ ra tôi phải biết ngay khi anh ta không thật tình với tôi...

    Người bồi bưng lê tàu cho Penny và sò cho Jake. Họ im lặng ngồi ăn. Penny thấy người đàn bà bàn kế bên nhìn Jake đăm đăm. Bà ta nhìn gì mà chăm chú vậy? Cô thầm nghĩ và cô nhìn Jake. Vai rộng, đôi cánh tay vạm vỡ, mái tóc đen dầy. Bỗng anh ngước nhìn cô và thấy cô đang nhìn anh chăm chú.

    - Sao?

    Anh hỏi, vẫn giọng ông chủ như đang ở văn phòng. Penny đỏ mặt.

    - Tôi không ngờ giám đốc đẹp trai như vậy.

    - Cô không nên nói điều đó với giọng ngạc nhiên như vậy, có vẻ như tâng bốc.

    - À... ý tôi muốn nói là tất cả các cô trong phòng đánh máy đều mụ người vì giám đốc, tôi thì được miễn vì tôi đang yêu Francis. Hơn nữa tôi không bao giờ được người hay bắt nạt tôi quan tâm.

    - Tôi hiểu rồi, có vẻ như cô đe dọa tôi. Từ nay tôi sẽ chuyển cô qua phòng đánh máy để cô thích tôi nhé?

    - Ồ, không... tôi thích giám đốc rồi... kể từ bữa tối này... tôi rất thích cậu chủ.

    Anh nhìn cô một hồi lâu rồi chậm rãi nói:

    - Cô làm tôi tưởng cứ như mình vừa đoạt được giải Nobel Hòa bình.

    Penny nhìn anh không chớp mắt, muốn quay đi nơi khác mà không được. Hai má cô càng đỏ hơn. Người bồi bàn mang món thứ hai đến giúp họ trở về hiện tại. cầm nĩa, Pennynói:

    - Ồ... món này trông hấp dẫn quá.

    Nhưng vài phút sau, cô nhìn đĩa thức ăn còn nguyên của mình, nhỏ nhẹ nói:

    - Cậu chủ... tôi vô cùng xin lỗi, tôi không ăn được, không hiểu tại sao... tôi đói lắm, nhưng món này đắt quá...

    Jake nhẹ nhàng:

    - Ăn đi Penny, đừng bận tâm.

    Khi anh mỉm cười, cô thấy những nếp nhăn mệt mỏi nơi khóe mắt anh, như thiếu ngủ. Bỗng nhiên cô thấy bẽn lẽn, một cái gì đó làm người cô gai gai. Suốt đường về nhà bằng xe hơi, cô ngồi cách xa anh, chuồng thỏ làm ranh giới giữa họ.

    Jake không hôn tử biệt cô khi dừng xe trước cửa nhà cô. Anh chỉ nói:

    - Hãy đi ngủ sớm để sáng ra tỉnh táo mà làm việc.

    Một mình trong căn nhà nhỏ, cô không ngủ. Cô thơ thẩn trong nhà, trò chuyện với hai con mèo và con thỏ, uống cà phê liên tục và nghĩ không biết giữa Francis và Jake ai đẹp trai hơn? Cô cố xua đuổi cảm giác hạnh phúc mơ hồ len lén đến trong lòng cô.


    * * *


    - Chào cô Piggott, cái răng thế nào rồi?

    - Hãi hùng! Lão nha sĩ đào xới trong miệng tôi cả giờ! Cậu chủ muốn gặp cô ngay đấy.

    - Tôi cũng nghĩ thế.

    Penny nói với giọng ra vẻ quan trọng. Nhưng Piggott cảnh cáo ngay:

    - Liệu mà đi đứng đàng hoàng, tôi thấy mặt cậu ta ngầu lắm đấy.

    Mặt Jake lạnh băng khi Penny bước vào. Cô rạng rỡ:

    - Con thỏ khỏe lắm. Nó ăn nhiều...

    Jake nạt:

    - Ngồi xuống. Cô phải giải thích những bức thư này.

    Anh ta giơ hai bức thư kẹp giữa hai ngón tay. Penny thở dài:

    - Chết rồi! Tôi lại phạm sai lầm gì vậy?

    Giọng Jake êm ái:

    - Tôi đọc cho cô nghe nhé.

    “Thưa ngài, theo như yêu cầu của ngài về việc cần một trợ lý kiêm thư ký, tôi thấy mình hội đủ những điều kiện lý tưởng cho công việc của ngài”'

    Penny nói:

    - Ồ, cậu chủ đang định tìm một thư ký mới? Thế thì sẽ có những cuộc cãi vã kinh khiếp giữa cô ta, tôi và cô Piggott.

    Jake tiếp:

    - “Tôi ưa thích những công việc phức tạp và tìm kiếm một việc gay go nhưng hấp dẫn, đầy thử thách mà tôi có thể theo đuổi suốt đời!”.

    Penny nói:

    - Tôi sẽ đuổi cô ta ngay, cô ta có vẻ quá đáng lắm!

    - Vậy à? Tốt, nghe tiếp. “Tôi cực kỳ chu dáo và tỉ mỉ trong mọi việc làm của mình và tôi thường hành dộng theo sáng kiến riêng mình”.

    Vẻ kinh hoảng hiện trên mặt Penny:

    - Ồ, không... sao lại thế được!

    Jake vẫn nhẹ nhàng:

    - Bây giờ đến chỗ hay nhất: “Lý do tôi bỏ công việc hiện nay của tôi là vì ông giám đốc điểu hành (một người cực kỳ hắc ám) mới về thay thế theo lệnh ông tổng giám đốc vốn là cha ông ta đang điều hành tổng công ty ở Mỹ. Thành thật mà nói, ông giám đốc mới này là một người chuyên chế và bạo ngược nhất mà tôi từng thấy. Ông ta đã đuổi thẳng cánh mười hai đồng nghiệp của tôi - những người đáng thương đã nhiều năm cống hiến công sức cho công ty này. Tôi e rằng tôi sẽ là người kế tiếp phải ra đi, vì ông ta thường xuyên gây gổ, bắt nạt và hành hạ tôi không chút xót thương.”

    Penny đưa hai tay ôm mặt. Jake nghiêm nghị nhìn cô:

    - Bấy nhiêu đó đủ truy tố cô rồi. Toàn lời lẽ bôi nhọ từ đầu đến cuối. May mắn là tôi đọc nó trước tiên vì hôm nay tôi đến sớm nhất. Chưa ai biết cả.

    Penny lắp bắp:

    - Tôi xin iỗi... thật tình xin lỗi...

    - Tôi nhận lời xin lỗi đó.

    Và cô bàng hoàng hơn khi Jake ngả người vào lưng ghế, cười phá lên:

    - Cô làm việc bằng sáng kiến riêng của cô, với sự chu đáo và tỉ mỉ... Ôi, Penny ơi... Penny!!!

    Anh cười rũ rượi.

    Xấu hổ, nước mắt rưng rưng, Penny nói:

    - Làm sao tôi biết cậu chủ sẽ xem thư ấy... rồi tối qua lại quá tử tế với tôi trong khi lúc nào cậu chủ cũng lăm lăm tìm người khác thay chỗ tôi... nói chung cậu rất tàn...

    - Tàn nhẫn, chuyên chế, bạo ngược...

    Không nhịn được, Jake tiếp tục cười nghiêng ngả. Penny khóc nức nở:

    - Tôi sẽ đi, tôi sẽ rời khỏi công ty đáng ghét này của cậu ngay bây giờ.

    Cô đứng dậy nhưng trước khi đến cửa, Jake nắm tay cô:

    - Bình tĩnh, trước khi ra khỏi đời tôi thì cô hãy đọc bức thư này. Phòng lễ tân đối ngoại vừa chuyển cho tôi.

    Penny nhìn bức thư, hồ nghi:

    “Ông Jake thản mến,

    Cám ơn bức thư cửa ông. Chỉ để xác nhận thêm rằng chúng ta sẽ nhận cô thư ký xinh đẹp của ông nếu ông thật sự cho cô ta thôi việc - nhưng với điều kiện là cô ta phải đẹp mê hồn như ông đã cho biết. Hiện nay phòng đánh máy của chúng tôi có một chỗ trống và cô ta sẽ kiêm luôn cả việc của phòng tiếp tân chỗ chúng tôi.

    Thân ái,

    Jim Stokely”

    Penny đặt bức thư xuống bàn, chậm rãi nói:

    - Vậy ra cậu đã thuyên chuyển tôi.

    Jake gật đầu.

    - Để tôi có thể yên tâm lảm việc ban ngày và ngủ ngon ban đêm. Tôi nghĩ cô thích hợp hơn nếu tôi chuyển cô qua phòng lễ tân đối ngoại của công ty dó.

    Penny vẫn bàng hoàng:

    - Đẹp mê hồn... phòng đối ngoại... cậu chủ không đuổi tôi à?

    Jake lắc đầu buồn bã:

    - Cả đêm qua tôi chỉ nghĩ đến em, nhớ đến hình ảnh em vui đùa với con thỏ đó và tôi nhận ra rằng thật hoài phí nếu cứ để cho em làm thư ký cả đời. Em phải được sống ở một vùng ngoại ô, trông nom một căn nhà đẹp với những thú nuôi xinh xắn và sẽ có con cái với một người đàn ông may mắn.

    - Tôi viết bức thư đó vì tôi rất giận cậu chủ. Tôi cứ nghĩ cậu chủ ghét bỏ tôi.

    - Ghét bỏ em! Tôi bị choáng ngay từ lúc bước vào văn phòng cũ của ông Fraser lần đầu tiên. Lúc đó giữa trưa, em đang sơn móng tay, nhạc ở radio xập xình bên cạnh vả ánh nắng chiếu dài trên tóc em.

    Anh tiến đến cô. Vẻ mặt anh khiến cô lùi lại cho đến khi cô bị dồn đến cạnh bàn anh. Anh ôm chặt lấy cô. Cô hoảng hốt:

    - Không... người khác nhìn thấy...

    - Tại sao không được? Anh là chủ ở đây mà?

    Và anh hôn cô đắm đuối.

    - Jake... Jake...

    - Anh không muốn em làm việc ở đây nữa vì anh không muốn em làm hại đến quan hệ giữa anh với các nhân viên. Chúng ta sẽ nói chuyện này sau bữa trưa.

    Vẫn ôm cô, anh rướn người bấm nút điện thoại nội bộ:

    - Cô Piggott, tôi phải đi ăn trưa và không về văn phòng chiều nay. Cô trông nom mọi việc cho tôi, cho cô toàn quyền.

    Giọng Piggott the thé:

    - Nhưng, cậu chủ, cậu phải họp ở đây mà!

    - Hủy bỏ! Tôi có cuộc họp quan trọng hơn!

    Anh tắt máy và quay sang Penny. Cô Piggott lao vào phòng như con lốc:

    - Nhưng thưa cậu chủ, làm sao tôi thông báo được với từng ấy người đừng đến theo giờ...

    Cô chợt im bặt khi thấy Penny trong vòng tay Jake.
     
    vuivui2013, meetdak and amylee like this.
  18. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    KỲ NGHỈ ĐÔNG SÓNG GIÓ

    Truyện của Jeffrey Archer
    Biên dịch Lưu Văn Hiến


    Chúng tôi gặp Patrick Travers lần thứ nhất ở Verbier trong kỳ nghỉ đông. Sáng thứ bảy đó chúng tôi đang chờ ghế cáp treo thì một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi nhường chỗ cho Caroline, nhờ đó chúng tôi có thể cùng lên núi. Ông ta nói sáng hôm ấy đã hoàn tất hai lần trượt và không ngại chờ chuyến sau. Tôi cảm ơn ông ta rồi không nghĩ gì đến chuyện đó nữa.

    Lần nào cũng vậy, khi lên đến đỉnh dốc vợ tôi và tôi đi theo những lối riêng, cô ấy đến đường trượt A để gặp Marcel, huấn luyện viên của những tay trượt tuyết cự phách - cô ấy đã chơi trượt tuyết từ năm lên bảy - còn tôi đến đường trượt B để gặp bất kỳ huấn luyện viên nào đang rảnh rỗi - tôi đến năm bốn mốt tuổi mới bắt đầu học trượt tuyết - thật ra ngay cả đường trượt B vẫn là quá khó đối với tôi, mặc dù tôi không dám thừa nhận điều này, nhất là với Caroline. Chúng tôi luôn luôn gặp lại nhau tại trạm chờ cáp treo sau khi đã hoàn tất những lần trượt của riêng mình.

    Tối hôm ấy chúng tôi tình cờ gặp lại Travers tại quầy bar của khách sạn. Vì ông ta có vẻ lẻ loi nên chúng tôi đã mời ông ta dùng bữa tối. Ông ta tỏ ra là một anh chàng vui tính và chúng tôi trải qua một buổi tối thú vị. Ông ta tâng bốc vợ tôi một cách nhẹ nhàng mà không bao giờ vượt quá giới hạn, và vợ tôi có vẻ thích thú trước sự quan tâm đó. Đã nhiều năm nay tôi đã quen với việc bọn đàn ông bị thu hút bởi sắc đẹp của Caroline, và tôi không bao giờ quên rằng mình may mắn. Trong bữa tối chúng tôi biết Travers là một thương gia ngân hàng có văn phòng trong thành phố và một căn hộ ở quảng trường Eaton. Ông ta cho biết đã từng được nhà trường cho đi chơi ở Verbier vào cuối những năm 50, và từ đó năm nào ông ta cũng đến đây. Ông ta vẫn tự hào luôn là người đầu tiên đón cáp treo mỗi sáng, hầu như lần nào cũng chiến thắng các tay trượt tuyết địa phương.

    Travers có vẻ quan tâm thật sự về việc tôi có một phòng tranh nhỏ ở West End, vì ông ta là một nhà sưu tầm tranh, chuyên sưu tầm những tác phẩm của trường phái ấn tượng, ông ta nói thế. Ông ta hứa rằng khi quay lại London sẽ tạt qua xem cuộc triển lãm sắp tới của tôi.

    Tôi đoan chắc với Travers rằng ông ta sẽ được nồng nhiệt đón chào, nhưng rồi chẳng nghĩ gì đến chuyện đó nữa. Thật ra từ lúc ấy đến cuối kỳ nghỉ tôi chỉ gặp lại ông ta có vài lần, một lần ông ta đang nói chuyện với vợ một người bạn tôi, người này có một cửa hàng bán thảm phương Đông, và sau đó tôi thấy ông ta theo Caroline trượt xuống đường trượt A đầy nguy hiểm.

    Sáu tuần sau đó tôi gặp lại ông ta tại phòng tranh của tôi, và phải mất vài phút mới nhớ lại tên ông ta. Tôi đã phải cố tìm trong ký ức phần giúp nhớ lại những cái tên, kỹ năng mà các chính khách luôn cần đến.

    - Edward, rất vui được gặp lại anh, ông ta nói. Tôi đọc tờ Independent thấy bài khen phòng tranh của anh và nhớ là anh đã có nhã ý mời tôi đến xem tranh.

    - Patrick, rất vui là anh đến được, tôi đáp, vừa kịp nhớ lại tên ông ta.

    - Tôi không phải là người hợm hĩnh, ông ta bảo tôi, nhưng tôi sẵn sàng đi bất cứ đâu để xem tranh của Vuillard.

    - Anh đánh giá cao ông ấy à?

    - Ồ vâng. Tôi vẫn so sánh ông ấy với Pissaro và Bonnard, và ông ấy vẫn là họa sĩ ấn tượng thiệt thòi nhất vì chưa được đánh giá đúng mức.

    - Tôi đồng ý, tôi trả lời. Nhưng phòng tranh của tôi từ lâu đã nghĩ về Vuillard như thế.

    - Bức Người phụ nữ bên cửa sổ giá bao nhiêu? Ông ta hỏi.

    - Tám mươi ngàn bảng.

    - Nó làm tôi nhớ đến một bức tranh của ông ấy ở Metropolitan, ông ta vừa nói vừa xem các bản vẽ lại trong catalogue.

    Điều đó gây cho tôi ấn tượng, và tôi bảo Travers là bức tranh của Vuillard ở New York đã được vẽ trong vòng một tháng sau bức tranh mà ông ta rất ngưỡng mộ.

    Ông ta gật đầu. “Thế còn bức khỏa thân nhỏ?”

    - Bốn mươi bảy ngàn.

    - Nếu tôi không nhầm thì đây là bà Hensell, vợ một người bạn, người tình thứ hai của Vuillard. Người Pháp luôn tỏ ra văn minh hơn chúng ta về lĩnh vực này. Nhưng bức tranh tôi thích nhất là bức này, ông ta nói thêm, chắc chắn là một trong những kiệt tác của ông ấy, ông ta quay lai nhìn bức tranh sơn dầu lớn vẽ một cô gái trẻ chơi piano, mẹ cô đang cúi xuống giở một trang trong tập nhạc.

    - Tuyệt vời. Tôi có thể hỏi giá bao nhiêu được không?

    - Ba trăm bảy chục ngàn bảng, tôi nói, tự hỏi giá đó có vượt quá khả năng

    của ông ta hay không.

    - Edward, quả là một buổi triển lãm siêu hạng, có tiếng người nói ở sau lưng tôi.

    - Percy! Tôi thốt lên, quay nhìn lại. Tôi tưởng anh đã nói là không đến được.

    - Tất nhiên tôi có nói thế, anh bạn ạ, nhưng tôi đã quyết định không ngồi lì mãi ở nhà, thế là tôi đến đây để chôn nỗi buồn của mình trong rượu sâm banh.

    - Đúng lắm, tôi nói. Rất tiếc về chuyện Diana, tôi nói thêm trong khi Percy đi tiếp. Khi tôi quay lại để tiếp tục câu chuyện với Travers thì không thấy ông ta đâu cả. Tôi nhìn quanh phòng và thấy ông ta đứng nói chuyện với vợ tôi ở góc xa phòng tranh, một ly sâm banh trong tay. Vợ tôi mặc một chiếc áo đầm màu xanh hở vai mà tôi cho là hơi quá hiện đại. Mắt Travers dường như dán chặt vào một chỗ dưới bờ vai cô ấy khoảng một gang tay.

    Tôi lẽ ra đã chẳng nghĩ gì về chuyện đó nếu như ngoài vợ tôi ông ta còn nói chuyện với bất cứ ai.

    Lần tiếp theo tôi gặp Travers là khoảng một tuần sau, khi tôi lãnh tiền mặt ở ngân hàng về. Ông ta lại đứng trước bức tranh sơn dầu của Vuillard vẽ hai mẹ con cạnh chiếc đàn piano.

    - Anh Patrick, chào anh, - tôi nói khi đến chỗ ông ta.

    - Hình như tôi không thể dứt ra khỏi bức tranh đó. - Ông ta tuyên bố, nhìn vào hai phụ nữ trong tranh.

    - Điều đó cũng dễ hiểu thôi.

    - Anh có thể cho tôi sống với bức tranh này trong một hai tuần lễ để có quyết định cuối cùng không? Tất nhiên tôi sẽ vui lòng đặt cọc.

    - Tất nhiên là được, - tôi nói. - Tôi sẽ cần xác nhận của ngân hàng nữa, còn tiền cọc là hai mươi lăm ngàn bảng.

    Ông ta đồng ý không hề do dự với cả hai yêu cầu trên, nên tôi hỏi ông ta muốn tôi giao tranh đến địa chỉ nào. Ông ta đưa tôi một danh thiếp cho thấy địa chỉ ông ta tại quảng trường Eaton. Sáng hôm sau ngân hàng của ông ta xác nhận là khách hàng của họ sẽ không gặp khó khăn gì với ba trăm bảy ngươi ngàn bảng.

    Trong vòng hai mươi bốn giờ sau bức tranh của Vuillard đã được đem đến nhà ông ta và treo trong phòng ăn ở tầng trệt. Chiều hôm đó ông ta điện lại cảm ơn tôi và mời Caroline và tôi đến dùng bữa tối; ông ta bảo rằng muốn tham khảo ý kiến chúng tôi về bức tranh.

    Với cơ may ba trăm bảy mươi ngàn bảng tôi không nghĩ rằng có thể từ chối lời mời của ông ta, dù sao Caroline cũng có vẻ háo hức muốn nhận lời, cô ấy giải thích rằng muốn thấy nhà ông ta ra sao.

    Chúng tôi dùng bữa tối với Travers ngày thứ năm sau đó. Hóa ra chúng tôi là những khách mời duy nhất, và tôi còn nhớ lúc đó đã ngạc nhiên vì Travers vợ không có mà bạn gái cũng không. Ông ta là một chủ nhà chu đáo, và bữa ăn mà ông ta chuẩn bị quả là tuyệt. Tuy vậy, lúc đó tôi cho rằng ông ta đã hơi quá quan tâm đến Caroline, mặc dù cô ấy tỏ ra thích điều đó. Có lúc tôi phải tự hỏi nếu mình bỗng nhiên biến mất thì liệu hai người ấy có biết hay không.

    Khi chúng tôi về Travers nói rằng ông ta hầu như đã quyết định mua bức tranh, điều này khiến tôi nghĩ rằng tối hôm ấy ít nhất cũng đã đem lại một điều gì đó.

    Sáu ngày sau bức tranh được trả lại với một lá thư kèm theo nói rằng ông ta không còn thích nó nữa. Travers không giải thích lý do, mà chỉ viết ở cuối thư rằng ông ta hy vọng sẽ trở lại để xem những bức tranh khác của Vuillard. Tôi thất vọng trả lại tiền cọc cho ông ta, nhưng ý thức được rằng khách hàng đôi khi cũng trở lại, có khi hàng tháng, có lúc hàng năm sau.

    Nhưng Travers thì không bao giờ.

    Khoảng một tháng sau tôi đã biết tại sao hắn không trở lại. Lúc đó tôi đang ăn trưa tại chiếc bàn lớn ở câu lạc bộ của tôi, chiếc bàn đã được giành cho các hội viên đến một mình, điều bình thường ở hầu hết các hội đoàn nam giới. Percy Fellows là người tiếp theo vào phòng ăn, và ngồi đối diện tôi. Từ lần triển lãm tranh của Vuillard tôi chưa gặp lại để trò chuyện cùng ông ta, mà lần trước cũng chẳng nói được gì nhiều. Percy là một trong những nhà buôn đồ cổ được trọng vọng nhất ở nước Anh, và tôi có lần đã làm được một phi vụ với ông ta, đổi một bức phong cảnh Hà Lan của Utrillo lấy một chiếc bàn viết của vua Charles đệ nhị.

    Tôi lặp lại rằng tôi rất buồn khi nghe chuyện của Diana.

    “Chuyện như thế bao giờ cũng kết thúc bằng ly dị,” ông ta giải thích. “Cô ta đã ra vào xoành xoạch mọi phòng ngủ của London. Tôi đã thấy mình giống một thằng điên, và gã Travers chó chết đó chỉ là giọt nước cuối cùng”.

    - Travers ư?, tôi ngạc nhiên hỏi.

    - Patrick Travers, người đàn ông tôi đã nêu tên trong đơn xin ly dị. Anh có bao giờ gặp gã ấy chưa?

    - Tôi chỉ biết tên thôi, - tôi ngập ngừng, muốn biết nhiều hơn trước khi thừa nhận mối sơ giao.

    - Thật buồn cười, - ông ta nói. - Tôi tin chắc là đã gặp hắn ở buổi triển lãm.

    - Nhưng anh nói hắn là giọt nước cuối cùng nghĩa là sao? - tôi hỏi, cố đánh lạc hướng ông ta.

    - Chúng tôi đã gặp thằng cha ấy ở Ascot, thế đấy. Gã ăn trưa cùng chúng tôi, thỏa thuê uống sâm banh của tôi, ăn kem dâu của tôi, và trong vòng chưa đến một tuần đã lên giường với vợ tôi. Nhưng như thế đã thấm vào đâu.

    - Chưa thấm vào đâu à?

    - Gã còn dám đến cửa hàng của tôi và đặt một khoản tiền cọc lớn để mượn một chiếc bàn thời vua George, rồi gã mời vợ chồng tôi đến ăn tối để cùng ngắm nó. Sau khi đã có đủ thời gian để ngủ với Diana gã trả lại chiếc bàn bị vấy bẩn. Anh bạn, trông anh không khỏe lắm. Bộ thức ăn có vấn đề sao? Từ khi đầu bếp Harry bỏ qua làm cho nhà hàng Carlton thì món ăn ở đây không còn được như trước nữa. Tôi đã nhiều lần phản ảnh vói câu lạc bộ nhưng...

    - Không, không sao, - tôi nói. - Tôi chỉ cần một chút không khí trong lành thôi. Percy, xin lỗi anh nhé.

    Khi từ câu lạc bộ trở về, tôi tự nhủ phải cho gã Travers một bài học.

    Sáng hôm sau tôi chờ thư đến và xem tất cả các phong thư gửi cho Caroline. Không có gì bất thuờng cả, nhưng rồi tôi cho rằng Travers không ngu đến nỗi tự cáo giác mình bằng giấy mực. Tôi cũng bắt đầu nghe ngóng các cuộc điện đàm của cô ấy, nhưng hắn không ở trong số những người gọi, ít nhất cũng là trong lúc tôi ở nhà. Tôi còn kiểm tra cả đồng hồ chiếc Mini của Caroline xem cô ấy có lái xe đi đâu xa không, nhưng quảng trường Eaton thì nào có xa! Thường thì nguời ta thua cuộc chỉ vì đã không lâm trận, tôi quyết định thử chúng tôi không quan hệ trong một tuần, thế mà cô ấy chẳng hề thắc mắc. .

    Tôi tiếp tục canh chừng Caroline thật gắt thêm hai tuần nữa, nhưng hiển nhiên là Travers đã chán cô nàng khi trả lại bức tranh. Điều này càng làm tôi tức giận.

    Thế là tôi lên một kế hoạch trả thù mà vào lúc đó đối với tôi thật phi thường, dù tôi cho rằng sau vài ngày tôi sẽ vượt qua được, thậm chí quên hẳn nó nữa. Nhưng tôi đã không quên: Dầu gì đi nữa thì ý nghĩ đó đã trở thành một nỗi ám ảnh. Tôi bắt đầu tự thuyết phục rằng mình có nghĩa vụ khử Travers trước khi hắn làm hoen ố gia đình bất kỳ bạn bè nào khác của tôi.

    Trước đó suốt đời tôi chưa bao giờ phạm pháp. Những khoản phạt đậu xé lố giờ làm tôi bực bội, tôi chúa ghét những kẻ xả rác bừa bãi, và tôi đóng thuế nghiêm chỉnh ngay ngày thông báo thuế đựng trong chiếc phong bì đáng sợ được nhét vào hộp thư nhà tôi.

    Tuy vậy, một khi tôi đã quyết định phải làm gì thì tôi lập kế hoạch thật tỉ mỉ. Lúc đầu tôi định bắn Travers, những khám phá ra rằng việc xin giấy phép mang súng khó khăn biết chừng nào, và dẫu tôi làm được điều đó thì hắn cũng sẽ chết mà chẳng đau gì lắm, tôi không định cho hắn được chết dễ dàng như thế. Rồi ý nghĩ đầu độc đến với tôi - nhưng điều đó đòi hỏi phải có toa thuốc, nghĩa là có nhân chứng - và tôi vẫn không thể chứng kiến cái chết từ từ mà tôi mong muốn. Tôi nghĩ đến việc bóp cổ, nhưng điều này đòi hỏi quá nhiều lòng can đảm - chưa kể là hắn lớn con hơn tôi, và vì thế tôi có nguy cơ trở thành kẻ bị bóp cổ. Còn việc dìm hắn chết đuối thì có thể phải mất hàng năm để dụ hắn đến gần sông suối, mà tôi chưa chắc đã dám nán lại để chắc chắn là hắn sẽ chìm luôn. Tôi còn nghĩ đến việc cán chết tên khốn đó, nhưng phải bỏ ý định này khi nhận ra rằng hầu như chẳng có cơ hội nào, hơn nữa tôi cũng chẳng có thời gian dừng xe lại để xem hắn đã chết thật chưa. Tôi rất nhanh chóng nhận ra rằng muốn giết người mà được bình yên vô sự thật khó biết bao.

    Tôi thức suốt đêm tham khảo tiểu sử của những kẻ sát nhân, nhưng vì bọn chúng đều bị bắt và bị kết án, công trình ấy chẳng đem lại cho tôi chút tự tin nào. Tôi quay sang đọc tiểu thuyết trinh thám, loại truyện dường như luôn chứa đựng một chút ngẫu nhiên, những điều may mắn, và những sự bất ngờ mà tôi không muốn liều, cho đến khi tôi đọc được dòng chữ khích lệ sau đây của Conan Doyle: “Bất kỳ ai bị người mưu hại mà lại có một thói quen nhất định nào đó thì sẽ dễ trở thành nạn nhân hơn”. Và tôi nhớ lại thói quen mà Travers hết sức tự hào về nó. Tôi phải chờ cơ hội đó thêm sáu tháng, nhưng điều đó cũng cho tôi thời gian để hoàn thiện kế hoạch của mình. Tôi tận dụng quãng thời gian chờ đợi bắt buộc đó bằng cách mỗi khi Caroline đi đâu vắng hơn 24 tiếng, tôi lại tập trượt tuyết ở dốc trượt khô tại Harrow.

    Tôi dễ dàng biết được khi nào Travers sẽ quay lại Verbier, và tôi đã chuẩn bị kế hoạch nghỉ đông sao cho nó chỉ trùng với kỳ nghỉ của hắn có ba ngày, một khoảng thời gian đủ cho tôi lần đầu phạm tội.

    Caroline và tôi đến Verbier vào ngày thứ sáu thứ nhì của tháng giêng. Cô ấy đã hơn một lần bình phẩm về thần kinh của tôi, và hy vọng là kỳ nghỉ sẽ giúp tôi thư giãn. Tôi không dám thú nhận với vợ tôi rằng chính ý nghĩ về kỳ nghỉ đã làm đầu óc tôi căng thẳng. Mọi việc càng tệ hơn, khi Caroline hỏi tôi trên chuyến bay đến Thụy Sĩ rằng liệu tôi có nghĩ rằng Travers sẽ đến Verbier không.

    Buổi sáng đầu tiên sau khi đến chúng tôi đi ghế cáp treo lên núi vào lúc mười giờ ba mươi và, khi đến đỉnh dốc, Caroline đến trình diện Marcel. Trong khi cô ấy lướt đi cùng Marcel thì tôi trở lại đường trượt B cùa mình. Như mọi khi, chúng tôi thỏa thuận gặp lại nhau ở trạm chờ cáp treo, hoặc vào lúc ăn trưa.

    Trong những ngày sau đó tôi ôn đi ôn lại kế hoạch mà tôi đã hoàn thiện trong đầu và thực tập công phu tại Harrow cho đến khi tin chắc là chẳng còn gì sai sót. Đến cuối tuần thứ nhất tôi tin chắc là mình đã sẵn sàng.

    Tối hôm trước khi Travers đến, tôi là người rời đường trượt sau cùng. Ngay cả Caroline cũng nhận ra rằng tôi đã tiến bộ nhiều trong môn trượt tuyết, và cô ấy đề nghị Marcel cho tôi tập ở đường trượt A với những khúc quanh gắt hơn và độ dốc lớn hơn.

    - Có lẽ sang năm, - tôi nói thế, cố tỏ ra vui vẻ, và trở lại đường trượt B.

    Trong buổi sáng cuối cùng tôi tập đi tập lại ở dặm đầu tiên của đường trượt mải đến nỗi quên giờ ăn trưa với Caroline.

    Đến chiều tôi xem đi xem lại vị trí các lá cờ đỏ đánh dấu dường trượt, và khi đã yên tâm là người trượt cuối cùng đã về nghỉ tôi nhổ khoảng ba chục lá cờ và cắm chúng lại theo một lộ trình mà tôi đã tính toán cẩn thận. Việc cuối cùng của tôi là kiểm tra tuyến đường tôi đã chuẩn bị trước khi đắp một gò tuyết lớn cách điểm tôi đã chọn khoảng hai chục bước chân. Khi mọi việc đã xong tôi chậm rãi trượt xuống núi trong ánh hoàng hôn nhạt nhòa.

    - Anh định giành huy chương vàng Olympic hay sao vậy? - Caroline hỏi khi tôi trở về phòng. Tôi đóng cửa nhà tắm để khỏi phải trả lời cô ấy.

    Một giờ sau đó Travers đến.

    Tôi chờ đến tối rồi đến gặp hắn ở quầy bar. Khi mới thấy tôi hắn có vẻ căng thẳng, nhưng tôi đã nhanh chóng làm hắn yên lòng. Chẳng bao lâu sự tự tin cố hữu trở lại với hắn, điều này càng làm tôi cương quyết thực hiện kế hoạch của mình. Tôi bỏ hắn ở quầy bar vài phút trước khi Caroline xuống ăn tối để cô ấy không thấy chúng tôi gặp gỡ.

    - Anh ăn ít quá, thật không giống anh chút nào, nhất là khi anh đã bỏ ăn trưa. - Caroline nhận xét khi chúng tôi rời phòng ăn tối hôm ấy.

    Tôi không bình phẩm gì khi chúng tôi đi qua chỗ Travers ngồi ờ quầy bar, tay hắn để trên đầu gối một phụ nữ trung niên vô tội khác.

    Đêm hôm đó tôi không chợp mắt một giây nào, và tôi bò ra khỏi giường ngay trước sáu giờ sáng hôm sau, cẩn thận để không làm Caroline thức giấc. Mọi thứ vẫn nằm nguyên trên nền nhà tắm y như tôi đã đặt chúng tối hôm trước. Vài phút sau tôi mặc quần áo và đã sẵn sàng. Tôi leo xuống cầu thang phía sau khách sạn, tránh không dùng thang máy, và lẻn ra ngoài bằng cửa thoát hiểm, lần đầu tiên biết được cảm giác của một tên trộm ra sao. Tôi đội mũ len kéo sụp xuống tận mang tai và đeo một đôi kính trượt tuyết che mắt: giờ đây ngay cả Caroline cũng không thể nhận ra tôi.

    Tôi đến trạm cáp treo bốn mươi phút trước khi nó đến giờ mở cửa. Khi tôi đứng sau căn nhà nhỏ chứa máy móc để vận hành cáp treo tôi biết rằng giờ đây mọi việc tùy thuộc vào việc Travers giữ đúng thói quen của hắn. Tôi không chắc có thể tiến hành trôi chảy nếu như kế hoạch phải dời lại đến hôm sau. Trong khi chờ đợi tôi giậm chân trên tuyết mới rơi, và đập tay vào ngực để giữ ấm. Thỉnh thoảng tôi lại nhìn quanh, hy vọng sẽ thấy hắn sải bước đến gần. Cuối cùng một chấm đen xuất hiện bên vệ đường ở chân đồi, một đôi ván trượt trên vai. Nhưng nếu đó không phải Travers?

    Vài phút sau tôi bước ra khỏi nơi trú ẩn để gặp người đàn ông đang đến. Đó là Travers, và hắn không giấu nổi ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Tôi bắt đầu một cuộc trò chuyện vu vơ rằng tôi không ngủ được, và tôi nghĩ mình có thể trượt vài vòng trước khi đến giờ cao điểm. Giờ đây điều duy nhất tôi cần là cáp treo bắt đầu đúng giờ. Khoảng bảy giờ vài phút một thợ máy đến và guồng máy khổng lồ đầy dầu mỡ bắt đầu quay.

    Hai chúng tôi là những người đầu tiên ngồi lên ghế cáp treo đưa chúng tôi lên cao, vượt qua một khe núi sâu. Tôi cứ quay đầu lại mãi để tin chắc là không có người nào trong tầm quan sát.

    Thường thì tôi hoàn tất được một vòng trượt trước khi bất kỳ ai đến, Travers nói thế khi ghế treo lên đến điểm cao nhất. Tôi quay nhìn lại để chắc chắn là đã ra khỏi tầm nhìn của người thợ máy điều khiển cáp treo, rồi nheo mắt nhìn xuống từ độ cao bảy mươi mét, tôi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu một người ngã lộn cổ xuống khe núi. Tôi bắt đầu thấy chóng mặt và ước gì đã không nhìn xuống.

    Ghế cáp treo rung động từ từ đưa chúng tôi lên đến điểm dừng chân.

    - Mẹ kiếp, - tôi nói khi hai chúng tôi nhảy xuống ghế. - Marcel chưa đến.

    - Ông ta chẳng bao giờ đến giờ này cả, - Travers nói, bắt đầu đi về phía dốc trượt cao cấp. 1

    - Hãy còn quá sớm đối với ông ta.

    - Tôi không nghĩ là anh sẽ cùng trượt xuống với tôi?, - tôi gọi với theo Travers.

    Hắn dừng chân quay nhìn lại với vẻ ngờ vực. 1

    - Caroline nói là tôi đã sẵn sàng để cùng trượt với anh, - tôi giải thích, - nhưng tôi không chắc lắm, và sẽ rất cảm ơn ý kiến của một người khác nữa. Tôi đã nhiều lần phá kỷ lục của chính mình ở đường trượt B, nhưng tôi không muốn tự làm mình bẽ mặt trước vợ tôi.

    - A, tôi...

    - Giá như Marcel ở đây thì tôi đã hỏi ông ta rồi. Và trong trường hợp nào đi nữa thì anh cũng là tay trượt giỏi nhất mà tôi biết.

    - À, nếu anh... - hắn bắt đầu.

    - Chỉ một lần thôi, rồi anh có thể dùng hết kỳ nghỉ của anh ở đường trượt A. Anh còn có thể xem chuyến này như để làm nóng vậy mà.

    - Tôi cho là có thể làm thế một lần để thay đổi, - hắn nói.

    - Chỉ môt lần thôi, - tôi lặp lại. - Tôi chỉ cần có thế. Rồi anh có thể cho tôi biết tôi đủ sức chưa. - Tôi bẳt đầu mang ván trượt vào.

    - Hay là ta đua nhé?, - hắn nói thế làm tôi ngạc nhiên. Tôi không thể phàn nàn; mọi quyển sách nói về chuyện sát nhân đều cảnh báo tôi chuẩn bị cho tình huống ngoài dự kiến. - Đó là cách ta có thể tìm ra xem anh đã sẵn sàng chưa, hắn nói tiếp một cách xấc xược.

    - Nếu anh muốn thế. Đừng quên là tôi nhiều tuổi hơn và ít kinh nghiêm hơn anh, - tôi nhắc hắn. Tôi nhanh chóng kiểm tra ván trượt của mình vì tôi biết phải đi trước hắn.

    - Nhưng anh đã quá rành đường trượt B rồi, - hắn trả đũa. - Tôi thì chưa nhìn thấy nó bao gíờ.

    - Tôi sẽ đồng ỷ trượt thị, nếu anh đồng ý đánh cá, - tôi đập lại.

    Lần đầu tiên tôi thấy hắn tỏ ra quan tâm.

    - Bao nhiêu? hắn hỏi.

    - Ồ, không có gì thô tục hơn tiền bạc, - tôi nói. - Người thắng sẽ phải cho Caroline biết sự thật.

    - Sự thật ư? - hắn nói, có vẻ ngỡ ngàng.

    - Phải, - tôi nói, và lao vút xuống dốc trước khi hắn kịp trả lời. Tôi khởi đầu khá tốt khi trượt quanh các lá cờ đỏ, nhưng khi liếc nhìn về phía sau tôi thấy hắn nhanh chóng lấy lại thăng bằng và đang đuổi theo rất sát. Tôi biết lả phải luôn dẫn trước hắn trong chặng đầu của đường trượt, nhưng tôi đã thấy hắn đang rút ngắn khoảng cách.

    Sau khoảng nửa dặm rượt đuổi hắn hét lên, “Anh sẽ phải trượt nhanh hơn nhiều mới hòng thắng được tôi”. Câu nói huênh hoang của hắn càng làm tôi cố dẫn trước, nhưng tôi làm được điểu đó chỉ nhờ lợi thế thông thuộc mọi ngã rẽ và khúc quanh của chặng đường đó. Khi tôi biết chắc sẽ đến điểm quyết định trước Travers tôi bắt đầu thư giãn một chút. Dù tôi đã từng rèn luyện trên chặng đương hai trăm mét sắp tới đến năm chục lần mỗi ngày trong mười ngày qua, tôi biết rằng lần này là lần quyết định.

    Tôi liếc nhìn lại thì hắn chỉ còn cách tôi chừng ba chục mét. Khi gần đến chặng đường đã chuẩn bị trước tôi bắt đầu giảm tốc độ, hy vọng hắn không nhận thấy, hoặc không nghĩ rằng tôi run sợ. Tôi giảm hẳn tốc độ khi đến đầu chặng đường đó, cho đến khi nghe thấy tiếng thở hổn hển của hắn sau lưng. Rồi, thật bất ngờ, ngay trước khi vào đường trượt đó tôi lao thẳng vào đụn tuyết đắp sẵn và dừng hẳn lại. Travers lướt qua tôi với vận tốc sáu mươi kilô mét giờ, và vài giây sau bay vọt qua khe núi với một tiếng rú thất thanh mà tôi sẽ chẳng bao giờ quên được. Tôi không dám nhìn xuống khe núi vì biết rằng tất cả xương cốt của hắn đã gãy nát khi đâm xuống tuyết ở độ sâu hàng trăm mét phía dưới.

    Tôi thận trọng san bằng đụn tuyết đã cứu sống tôi và cố leo trở lên núi thật nhanh, gom lại ba mươi lá cờ mà tôi đã cắm để đánh dấu đường trượt giả. Rồi tôi cắm chúng lại vào đúng vị trí ban đầu của đường trượt B, cách đường trượt giả chừng vài trăm mét. Khi xong việc tôi trượt xuống núi, cảm giác như mình là vô địch thế vận hội. Xuống đến chân núi tôi kéo mũ trùm kín đầu và để nguyên kính che mắt. Tôi tháo ván trượt và ung dung đi về khách sạn. Tôi vào lại bằng cửa sau và đến bảy giờ bốn mươi đã trở vào giường.

    Tôi cố kiểm soát nhịp thở, nhưng phải mất một lúc mạch tôi mới trở lại bình thường. Vài phút sau Caroline thức giấc, quay sang ôm tôi.

    - Chà, - cô ấy nói, - anh lạnh cóng rồi. Anh không đắp chăn hay sao vậy?

    Tôi bật cười - Chắc là em đã giành chăn của anh đấy.

    - Anh đi tắm nước nóng đi.

    Tôi nhanh chóng đi tắm và sau dó làm tình với Caroline, rồi tôi mặc lại y phục, kiểm tra lại để chắc chắn là đã không để lại dấu vết gì về chuyến đi hồi sáng sớm. Xong tôi xuống dùng điểm tâm.

    Khi Caroline rót cà phê lần thứ nhì cho tôi, tôi nghe thấy tiếng còi xe cứu thương đến và sau đó chạy đi.

    - Hy vọng không phải là một tai nạn nghiêm trọng lắm, - vợ tôi vừa nói vừa rót cà phê.

    - Sao cơ? - tôi hỏi, hơi cao giọng, liếc nhìn lên từ tờ Times ngày hôm trước.

    - Tiếng còi hụ đó, ngốc ạ. Hẳn là trên núi phải có tai nạn rồi. Chắc là Travers, - cô ấy nói.

    - Travers ấy à, - tôi nói, giọng còn cao hơn lúc nãy.

    - Patrick Travers đó. Đêm qua em thấy hắn ở quầy bar. Em không nói với anh bởi vì anh biết đó, em chẳng ưa gì hắn.

    - Nhưng sao lại là Travers? - Tôi hồi hộp hỏi.

    - Chẳng phải hắn luôn khoe là sáng nào cũng lên đỉnh núi đầu tiên đó sao? Còn trước cả huấn luyện viên nữa.

    - Vậy sao?

    - Anh hãy còn nhớ chứ? Lần đầu mình đến đây đã gặp hắn khi lên núi, lúc đó hắn đã trượt được ba vòng.

    - Thế à?

    - Edward, sáng nay anh lơ mơ thật. Anh có xuống giường lộn bên không vậy? - cô ấy vừa cười vừa hỏi.

    Tôi lặng thinh.

    - Chà, em chỉ mong đó là Travers, - Caroline vừa nói vừa nhấm nháp cà phê. - Em chẳng bao giờ ưa thằng cha đó.

    - Tại sao không? - tôi ngạc nhiên hỏi.

    - Hắn đã một lần tán tỉnh em, - cô ấy nói, giọng tỉnh khô.

    Tôi nhìn cô nàng trân trối, không nói nên lời.

    - Anh không hỏi chuyện gì xảy ra sau đó sao?

    - Anh bàng hoàng quá không biết nói gì, - tôi đáp.

    - Tối hôm ở phòng tranh hắn cứ xun xoe mãi bên cạnh em, rồi hắn mời em ăn trưa sau lần cùng tụi mình ăn tối. Em bảo hắn hãy biến đi, - Caroline nói. Cô ấy khẽ chạm vào tay tôi.

    - Em chưa hề nói chuyện đó với anh vì em nghĩ đó có thể là lý do hắn trả lại bức Vuillard, và điều đó làm em cảm thấy mình có lỗi.

    - Nhưng anh mới là người có lỗi, - tôi nói, lúng túng cầm miếng bánh mì nướng.

    - Ồ không, anh yêu ạ, anh có lỗi gì đâu. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu như em muốn phản bội anh thì cũng không phải với hạng thằn lằn như hắn. Lạy Chúa, không đâu. Diana đã cảnh báo em phải dè chừng hắn. Cái ngữ đó chẳng hợp với em chút nào.

    Tôi ngồi đó hình dung ra cảnh Travers được đưa vào nhà xác, hay tệ hơn thế, vẫn còn bị vùi dưới tuyết, biết rằng mình chẳng làm gì được.

    - Anh biết không, em nghĩ thực sự đã đến lúc anh thử đường trượt A đấy, Caroline nói khi dùng điểm tâm xong. - Khả năng trượt tuyết của anh đã tiến bộ vượt bực.

    - Ừ, - tôi đáp, hơi trầm ngâm một chút. Tôi không nói thêm lời nào khi chúng tôi đi đến chân núi.

    - Cưng ơi, anh ổn chứ? - Caroline hỏi khi chúng tôi lên dốc bên nhau trên ghế cáp treo.

    - Tốt, - tôi nói, không dám nhìn xuống khe núi khi chúng tôi lên cao. Travers có còn ở dưới đó không, hay đã vào nhà xác?

    - Thôi đừng có làm ra vẻ sợ sệt như trẻ con nữa. Sau tất cả những cố gắng của anh tuần rồi thì anh đã sẵn sàng cùng trượt với em, - cô ấy trấn an tôi.

    Tôi mỉm cười yếu ớt. Khi lên đến nơi, tôi nhảy ra khỏi ghế hơi quá sớm, và mới bước đi một bước tôi biết ngay là mình đã bị trặc chân.

    Caroline không tỏ ra thương xót chút nào. Cô ấy cho là tôi cố ý giả vờ để khỏi phải thử đường trượt cao cấp. Cô ấy trượt xuống dốc còn tôi đau đớn quay lại bằng cáp treo. Khi xuống đến nơi tôi liếc nhìn người thợ máy nhưng anh ta chẳng buồn để mắt đến tôi. Tôi đi cà nhắc đến trạm cứu thương. Vài phút sau Caroline cũng vào.

    Tôi kể lại với cô ấy việc nhân viên trực cho rằng tôi có thể bị nứt xương và đề nghị tôi đi gặp bác sĩ ngay.

    Caroline nhíu mày, cởi ván trượt và đi gọi taxi để đưa tôi đến bệnh viện. Quãng đường không dài và cách lái xe qua những khúc quanh trơn trợt của người tài xế cho thấy ông ta rất thông thuộc đường đi.

    - Xin bà vui lòng đợi ở ngoài, - một nhân viên nói khi người ta đưa tôi vào phòng chụp X quang.

    - Vâng, nhưng liệu tôi có còn gặp lại người chồng đáng thương của tôi không? - cô ấy nói đùa khi ngươi ta đóng cửa phòng lại.

    Tôi vào căn phòng được trang bị đầy máy móc hiện đại điều khiển bởi một vị bác sĩ trong trang phục đắt tiền. Tôi bảo ông ấy chuyện xảy ra với tôi, và ông ta nâng bàn chân đau của tôi lên máy X quang. Vài phút sau ông ta xem tấm phim chụp lớn.

    - Xương không bị nứt, - ông ta trấn an tôi, chỉ tay vào phim. - Nhưng nếu ông vẫn còn đau thì tôi sẽ băng chặt mắt cá lại cho ông. - Rồi vị bác sĩ treo tấm phim của tôi lên cùng với năm tấm khác trên giá.

    - Hôm nay tôi đã là bệnh nhân thứ sáu rồi sao? - tôi nhìn dãy phim và hỏi.

    - Không đâu, - ông ta vừa cười vừa nói. - Năm tấm kia là của cùng một người. Tôi nghĩ ông ta chắc đã cố bay qua khe núi, rõ thật điên rồ.

    - Bay qua khe núi ư?

    - Vâng, chắc là để khoe khoang, tôi nghĩ thế, - ông ta vừa băng chân cho tôi vừa nói. - Năm nào cũng có tai nạn, nhưng anh chàng đáng thương này bị gãy hết hai chân, một tay, và sẽ còn một vết sẹo dễ sợ trên mặt để ông ta nhớ mãi sự ngu xuẩn của mình. Theo tôi ông ta sống được là may rồi.

    - Sống được là may ư? - Tôi yếu ớt nhắc lại.

    - Vâng, nhưng chỉ vì ông ta không biết việc mình làm. Đứa con mười bốn tuổi của tôi trượt tuyết qua khe núi đó và có thể đáp xuống nhẹ nhàng như một con mòng biển đáp xuống nước vậy. Còn ông ta thì trái lại, - vị bác sĩ chỉ tay vào các tấm phim X quang, sẽ không thể trượt tuyết lại trong kỳ nghỉ này đâu. Đúng ra ông ta ít nhất sáu tháng nữa mới có thể đi lại được.

    - Thật sao? - tôi hỏi.

    - Còn ông, - vị bác sĩ nói thêm, sau khi đã băng cho tôi xong, - chỉ cần chườm đá chỗ đau ba giờ một lần và thay băng mỗi ngày một lần. Chỉ cần hai ngày, tối đa ba ngày là ông có thể trượt tuyết lại được.

    - Tối nay chúng tôi về rồi, - tôi vừa nói vừa nhăn nhó đứng dậy.

    - Thật là đúng lúc, - ông ta cười.

    Tôi vui vẻ đi cà nhắc ra khỏi phòng X quang, thấy Caroline đang xem tạp chí Elle.

    - Trông anh có vẻ hài lòng nhỉ, - cô ấy ngẩng lên nói.

    - Đúng vậy. Thì ra không gì xui xẻo cho bằng bị gãy một tay, hai chân, và lãnh một cái sẹo trên mặt.

    - Em ngốc thật, - Caroline nói, - Em tưởng anh chỉ bị bong gân thôi.

    - Không phải anh, - tôi bảo Caroline. Travers đấy - tai nạn hồi sáng, em còn nhớ không? Chiếc xe cứu thương đó. Tuy nhiên họ cam đoan với anh là hắn sẽ qua khỏi, - tôi nói thêm.

    - Tiếc thật, - cô ấy nói, khoác tay tôi. - Sau tất cả những chuyện anh đã cực khổ bày ra, em đã hy vọng rằng anh sẽ thành công.


    Dịch từ tập “A Twist in the Tail”
     
    meetdak and amylee like this.
  19. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHUYẾN BAY ĐỊNH MỆNH

    Truyện ngắn của Jeffrey Archer
    Biên dịch Lưu Văn Hiến


    Hamid Zebari mỉm cười khi nghĩ đến việc Shereen, vợ hắn, đưa hắn ra sân bay. Năm năm trước, khi vừa đến Mỹ họ không tin rằng việc này là khả dĩ, nhưng nay Hamid bắt đầu tin rằng bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra.

    “Bố ơi, bao giờ bố về?” Nadim hỏi từ băng ghế sau, nơi nó được cài dây lưng an toàn cạnh May, em gái nó. Con bé còn quá nhỏ không hiểu được tại sao bố nó lại đi.

    “Chỉ hai tuần thôi, bố hứa đấy. Không lâu hơn đâu”, bố chúng trả lời. “Và khi bố về chúng ta sẽ đi nghỉ”.

    “Hai tuần là bao lâu?” thằng con trai hỏi.

    “Mười bốn ngày,” Hamid vừa cười vừa trả lời con.

    “Và mười bốn đêm,” vợ hắn vừa nói vừa ghé xe vào lề dưới bảng hiệu của hàng không Thổ Nhĩ Kỳ. Hamid ra khỏi xe, xách hành ly trong cốp xe ra, đặt chúng xuống vỉa hè rồi chui vào băng ghế sau. Hắn ôm đứa con gái trước, rồi đến đứa con trai. Bé May đang khóc - không phải vì hắn đi xa, mà vì bé luôn khóc khi xe dừng đột ngột. Hắn cho con bé sờ hàng râu mép rậm rạp của mình, và thường thì việc này làm con bé nín khóc.

    “Mười bốn ngày,” thằng bé lặp lại. Hamid ôm vợ, và cảm thấy bụng vợ mình hơi gồ lên với cái thai của đứa thứ ba.

    “Mẹ con em sẽ ra đón anh ở đây,” Shereen nói với theo trong khi chồng bà ta đang cho tiền người phu khuân vác ở sân bay.

    Khi sáu cái rương rỗng của hắn đã được kỷ gứi, Hamid biến vào nhà ga, và đi về quầy của hàng không Thổ Nhĩ Kỳ. Vì năm nào hắn cũng đáp chuyến bay đó hai lần, hắn không cần phải hỏi thăm cô gái ở quầy vé.

    Khi hắn đến khu hành khách đi, một nữ nhân viên hàng không Thổ Nhĩ Kỳ đang gắn ký hiệu chuyến bay 014, New York - London - Istanbul lên bảng thông báo. Thời gian khởi hành dự kiến, mười giờ mười.

    Hamid rảo bước đến quầy bar của nhà hàng và gọi cà phê cùng hai quả trứng ốp la và khoai tây chiên.

    Hamid nuốt miếng khoai tây chiên thứ nhì - hắn chưa quen với tập quán rưới sốt cà chua vào bất cứ món ăn gì - và uống một ngụm cà phê nhạt nhẽo vô vị. Hắn chỉ mong được tái ngộ món cà phê Thổ đậm đà uống bằng tách sứ. Hắn trả tiền và để lại một đô trong chiếc khay thiếc nhỏ.

    “Mời hành khách ngồi từ dãy 35 đến 41 lên máy bay”.

    Hamid cầm cặp lên vả đi về hành lang dẫn đến chuyến bay 014. Một nhân viên hàng không Thổ kiểm tra thẻ và cho hắn qua.

    Hắn được xấp chỗ ngồi ở cạnh lối đi gần cuối hạng bình dân. Chỉ mười chuyến nữa thôi, hắn tự nhủ, là hắn sẽ có thể bay Pan Am hạng nhất. Đến lúc đó hắn sẽ đủ khả năng làm như thế.

    Lần nào cũng vậy, khi bánh máy bay rời khỏi đường băng là Hamid lại nhìn ra cửa sổ, quan sát quê hương thứ hai của mình biến khỏi tầm nhìn, và câu chuyện cũ lại về trong tâm trí hắn.

    Đã gần năm năm trôi qua từ khi tổng thống sa thải hắn khỏi nội các, khi hắn mới giữ chức vụ Bộ trưởng nông nghiệp được hai năm. Mùa thu năm đó mất mùa lúa mì, và người dân bị thiếu đói. Phải có người để đổ trách nhiệm, và con vật hy sinh hiển nhiên là Bộ trưởng nông nghiệp. Cha của Hamid, một nhà buôn thảm, chỉ muốn hắn nối nghiệp mình, và trước khi qua đời đã cảnh báo hắn đừng nhận Bộ nông nghiệp, vì ba Bộ trưởng trước đó đều bị sa thải với cùng lý do, và một thời gian ngắn sau đó cả ba đều biến mất - mà ở quê hương hắn ai cũng biết “biến mất” nghĩa là gì. Nhưng Hamid vẫn nhận. Vụ mùa năm đầu rất dồi dào, và dẫu sao, hắn tự thuyết phục mình, thì nông nghiệp cũng là nấc thang danh vọng đưa hắn đi xa hơn. Chẳng phải tổng thống đã từng gọi hắn là “người bạn thân thiết của tôi” đó sao? Khi ba mươi hai tuổi người ta vẫn tin rằng mình bất tử.

    Nhưng cha Hamid đã chứng tỏ là mình đúng, và chỉ có những người bạn đúng nghĩa của Hamid - bạn bè tan biến như tuyết dưới nắng khi hắn bị sa thải - giúp hắn trốn đi.

    Khi còn làm bộ trưởng, Hamid đã thận trọng có mỗi một điều, đó là hàng tuần rút tiền từ tài khoản ngân hàng nhiều hơn nhu cầu một chút. Rồi hắn đổi số tiền dư đó với những kẻ buôn tiền ngoài phố lấy đôla, mỗi lần đổi với một kẻ khác nhau, và không bao giờ đổi nhiều để tránh bị nghi ngờ.

    Khi bị sa thải, hắn kiểm tra số tiền giấu dưới nệm giường. Hắn đếm được mười một ngàn hai trăm hai mươi mốt đôla.

    Ngày thứ năm sau đó, hắn và vợ hắn - lúc đó đang có thai - đi xe buýt đến Erbil. Hăn để chiếc Mercedes của mình đậu hớ hênh trước nhà hắn ở ngoại thành, và không đem theo hành lý - chỉ hai hộ chiếu, một cuộn đôla mà vợ hắn giấu trong người, và một ít đồng nội tệ vừa đủ để đi xe đến biên giới.

    Sẽ chẳng ai tìm họ trên chiếc xe buýt đến Erbil.

    Khi đến Erbil, Hamid cùng vợ đi taxi đến Sulaimania, dùng gần hết chỗ nội tệ còn lại để trả tiền xe. Họ qua đêm tại một khách sạn nhỏ xa trung tâm thành phố. Cả hai đều không ngủ mà đợi mặt trời lên, rọi ánh nắng qua khung cửa sổ không có rèm che.

    Ngày hôm sau, một chiếc xe buýt khác đưa họ qua những ngọn đồi của Kurdistan, đến Zakho vào lúc xế chiều.

    Chặng cuối của cuộc hành trình là lâu nhất. Họ được đưa qua những ngọn đồi chập chùng trên lưng những con la, với giá hai trăm đôla - gã buôn lậu người Kurd chẳng màng đến nội tệ. Mờ sáng hôm sau gã đưa vị cựu bộ trưởng và vợ qua biên giới an toàn, để họ đi bộ đến ngôi làng gần nhất trên đất Thổ. Tối hôm đó họ đến Kirmizi Renga, và qua một đêm không ngủ nữa tại nhà ga địa phương, chờ chuyến xe lửa đầu tiên đến Istanbul.

    Hamid và Shereen ngủ suốt chặng đường dài đến thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, và sáng hôm sau thức dậy đã trở thành người tỵ nạn. Địa chỉ đầu tiên Hamid đến thăm trong thành phố là ngân hàng Iz, tại đó hắn ký gửi mười ngàn tám trăm đôla. Điểm thứ nhì là sứ quán Mỹ, tại đó hắn xuất trình hộ chiếu ngoại giao và yêu cầu được tỵ nạn chính trị.

    Sứ quán thu xếp cho Hamid và vợ ở trong một khách sạn hạng nhất. Họ hứa với Hamid là sẽ báo tin lại cho hắn sớm nhất, nhưng không cho biết lúc nào. Hắn quyết định dùng thời gian chờ đợi để thăm các tiệm bán thảm ở phía Nam thành phố, nơi cha hắn trước đó lui tới rất thường xuyên.

    Nhiều nhà buôn vẫn còn nhớ cha Hamid - một người chân thật, thích mặc cả và uống vô khối cà phê, đồng thời cũng thường kể chuyện đứa con trai làm chính trị. Họ đều thích kết bạn với hắn, nhất là khi họ biết ý định của hắn sẽ làm gì khi định cư tại Hoa Kỳ.

    Gia đình Zebaris được cấp thị thực trong vòng một tuần và đáp máy bay đến Mỹ do chính phủ Mỹ đài thọ chi phí, bao gồm cả tiền hành lý thặng dư của hai mươi ba tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ.

    Sau năm ngày bị CIA tra hỏi gắt gao, hắn được tự do để bắt đầu cuộc đời mới. Hắn cùng vợ và hai mươi ba tấm thảm đáp xe lửa đi New York.

    Hamid phải mất sáu tuần mới tìm được một cửa hàng thích hợp ở phía Đông Manhattan để bán thảm. Khi hắn đã ký hợp đồng thuê nhà năm năm, Shereen bắt đầu kẻ cái tên mới Mỹ hóa của họ trên cửa ra vào.

    Hamid phải mất gần ba tháng mới bán được tấm thảm thứ nhất, và số tiền dành dụm ít ỏi của hắn hầu như đã cạn. Nhưng đến cuối năm thứ nhất, hắn đã bán được mười sáu tấm thảm, và nhận ra rằng chẳng bao lâu nữa hắn sẽ phải quay lại Istanbul để mua thêm hàng.

    Kể từ đó bốn năm đã trôi qua, và gia đình Zebaris giờ đây đã dời đến một cơ ngơi khác ở phía Tây, với một căn hộ nhỏ trên cửa hàng. Hamid cứ nói mãi với vợ rằng đây chỉ lả bước khởi đầu. Hẳn lúc này đã tự xem mình là một công dân Mỹ. Hắn chấp nhận thực tế là chẳng bao giờ có thể trở về quê hương khi Tổng thống còn nắm quyền. Nhà và tài sản của hắn đã bị nhà nước tịch biên, và hắn đã bị kết án tử hình vắng mặt. Hắn không tin rằng sẽ còn thấy lại quê hương.

    Sau một chặng dừng ở London, may bay hạ cánh xuống sân bay Ataturk của Istanbul sớm hơn vài phút so với lịch bay. Hamid lấy phòng ở một khách sạn nhỏ như thường lệ, và lập phương án tối ưu để sự dụng thời gian cho hai tuần sau đó. Hắn thấy vui được gặp lại không khí náo nhiệt, tấp nập của thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ.

    Có đến ba mươi mốt nhà buôn mà hắn muốn gặp, vì chuyến này hắn hy vọng đem về New York ít nhất sáu mươi tấm thảm. Sẽ có mười bốn ngày để uống thứ cà phê Thổ đậm đả, nhiều giờ mặc cả, do một nhà buôn thường chào giá cao gấp ba lần giá Hamid muốn mua - hoặc giá mà nhà buôn đó thật sự mong được nhận. Nhưng quá trình mặc cả không có lối tắt, và đó là điều Hamid - cũng như cha hắn - lấy làm thích thú.

    Đến cuối tuần thứ hai Hamid đã mua được năm mươi bảy tấm thảm với giá hơn hai mươi mốt ngàn đô một chút. Hắn đã rất thận trọng chỉ chọn mua những tấm thảm có nhiều người thích nhất ở New York, vả hắn tin rằng lô thảm này sẽ bán được suýt soát một trăm ngàn đôla ở Mỹ. Chuyến đi thảnh công đến nỗi Hamid tự thưởng mình bằng cách đáp chuyến bay Pan Am để về New York sớm hơn.

    Hắn mong gặp Shereen và hai con ngay khi máy bay chưa cất cánh, và người nữ tiếp viên Mỹ với giọng New York và nụ cười thân thiện càng làm cho hắn thấy như đã ở nhà. Sau khi bữa trưa được phục vụ, và đã quyết định không xem phim trên máy bay Hamid chợp mắt và mơ về những điều hắn có thể thành đạt ở Hoa Kỳ, miễn là có thời gian. Hắn mỉm cười và mãn nguyện ngủ một giấc thật say.

    “Thưa quý bà, quý ông”, một giọng miền Nam trầm vang lên trên loa phóng thanh, “đây là hoa tiêu trưởng. Tôi xin lỗi đã xen ngang vào chương trình chiếu phim, hoặc đã quấy rầy những vị đang nghỉ, nhưng chúng ta đang găp một sự cố nhỏ ở một động cơ bên cánh trái. Quý vị không có gì phải lo, nhưng giới thẩm quyền Hàng không Liên bang yêu cẩu chúng ta hạ cánh ở một sân bay gần nhất để xử lý sự cố trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Chúng ta sẽ mất tối đa là một tiếng đồng hồ, và chúng ta sẽ lại bay. Quý vị có thể tin rằng chúng tôi sẽ cố gắng tối da để bù lại thời gian bị mất”.

    Bỗng nhiên Hamid choàng tỉnh.

    “Chúng ta sẽ không rời khỏi máy bay, bởi vì đây là một chuyến dừng ngoài chương trình. Tuy nhiên, quý vị vẫn có thể kể lại cho thân nhân ở nhà là đã viếng thủ đô của...”

    Hamid cám thấy toàn thân tê liệt, và đầu hắn gục về phía trước. Tiếp viên chạy vội đến bên hắn.

    “Ông có sao không, thưa ông?” cô gái hỏi.

    Hắn ngước lên và nhìn thẳng vào mắt cô gái. “Tôi phải gặp hoa tiêu trưởng ngay. Ngay lập tức”.

    Cô tiếp viên không nghi ngờ gì về nỗi lo lắng của người khách, nhanh chóng đưa hắn ra phía trước, lên cầu thang dẫn đến khu hạng nhất và đến khoang lái.

    Cô ta gõ cửa khoang lái, mở nó ra và nói, “Hoa tiêu trưởng có một hành khách cần nói chuyện gấp với ỏng”.

    “Đưa ông ấy vào”, giọng miền Nam trả lời. Hoa tiêu trưởng quay lại nhìn Hamid, lúc này đang run lẩy bẩy. “Thưa ông, tôi có thể giúp gì cho ông?” ông ta hỏi.

    “Tên tôi là Hamid Zebari. Tôi là công dân Mỹ”, hắn bắt đầu nói. “Nếu ông hạ cánh ở đấy tôi sẽ bị bắt, bị tra tấn và bị xử tử”. Hăn lắp bắp nói. “Tôi là một người tỵ nạn chính trị, và ông phải hiểu rằng chế độ này sẽ không ngần ngại giết tôi”.

    Viên hoa tiêu chỉ cần nhìn Hamid một lần cũng đủ nhận ra rằng hắn không cường điệu.

    “Jim, anh lái nhé”, ông ta nói với viên hoa tiêu phụ, “để tôi nói chuyện với ông Zebari. Hãy gọi tôi ngay khi ta được phép hạ cánh”.

    Viên hoa tiêu cởi dây lưng an toàn, và đưa Hamid vào một góc khuất ở khu hạng nhất.

    “Hãy từ tử kể lại cho tôi nghe”, ông ta nói.

    Hamid giải thích tại sao hắn phải rời khỏi quê hương, và hắn đã định cư ở Mỹ như thế nào. Khi hắn kể xong, viên hoa tiêu lắc đầu mỉm cười. “Ông đừng sợ gì hết”, ông ta trấn an Hamid. “Không ai phải rời khỏi máy bay, do đó hộ chiếu của hành khách cũng sẽ không bị kiểm tra. Khi động cơ được sửa xong, chúng ta sẽ cất cánh lại và bay tiếp ngay, ông cứ ở lại đây trong khu hạng nhất, như thế ông có thể nói chuyện với tôi bất cứ luc nào, nếu như ông vẫn thấy lo.”

    Liệu người ta có thể lo lắng đến đâu? Hamld tự hỏi, khi viên hoa tiêu để hắn lại và quay vào khoang lái. Hắn lại run bắn lên.

    “Thưa quý khách, hoa tiêu trưởng nói đây, để báo cho quý khách thông tin mới nhất. Chúng ta đã được phép hạ cánh, và đã bắt đầu giảm độ cao, dự kiến sẽ hạ cánh trong hai mươi phút nữa. Sau khi đáp chúng ta sẽ đi về cuối đường băng để chờ các nhân viên kỹ thuật. Ngay khi giải quyết xong sự cố nhỏ này, chúng ta sẽ cất cánh bay tiếp”.

    Một loạt tiếng thở phào vang lên, trong khi Hamid bấu chặt lấy tay ghế. Hắn tiếp tục run lật bật suốt hai mươi phút sau đó, và suýt nữa ngất đi khi bánh máy bay chạm mặt đất, nơi hắn chào đời.

    Hắn nhìn chăm chú ra cửa sổ khi máy bay chạy trên đường băng về nhà ga mà hắn đã quá quen thuộc. Hắn có thể nhìn thấy những tên lính gác vũ trang trên nóc nhà ga và ở cửa ra sân đậu máy bay. Hắn thì thầm cầu nguyện.

    Mười lăm phút sau đó sự tĩnh lặng chỉ bị phá vỡ khi một chiếc xe hơi chạy qua khoảng sân rộng và dừng lại dưới cánh máy bay bên trái.

    Hamid nhìn hai nhân viên kỹ thuật mang những túi đồ nghề cồng kềnh ra khỏi xe, leo lên một chiếc cần cẩu nhỏ và được nâng lên ngang tầm cánh máy bay. Họ bắt đầu tháo ốc vít các tấm nắp che một động cơ. Bốn mươi phút sau họ xiết ốc lắp lại các tấm che động cơ và được hạ xuống đất. Chiếc xe quay đầu chạy về nhà ga.

    Hamid cảm thấy nhẹ nhõm, nếu không nói là thư thái. Hắn cài lại dây lưng an toàn, tràn trề hy vọng. Nhịp tim hắn tụt từ 180 một phút xuống khoảng 110 một phút, nhưng hắn biết nó sẽ chỉ trở lại bình thường khi máy bay cất cánh và hắn tin chắc là họ sẽ không phải quay lại. Vài phút sau vẫn không có chuyện gì xảy ra, và Hamid lại thấy lo âu. Rồi cửa khoang lái mở ra, và hắn thấy viên hoa tiêu đi về phía hắn, vẻ mặt nghiêm trọng.

    “Ông nên nhập bọn với chúng tôi ở khoang lái”, viên hoa tiêu thì thầm. Hamid cài dây lưng an toàn và cố đứng dậy. Hắn loạng choạng đi theo viên hoa tiêu vào khoang lái, hai chân mềm nhũn, cửa đóng lại sau lưng họ.

    Viên hoa tiêu không phí một lời nào. “Các nhân viên kỹ thuật không tìm ra chỗ hỏng hóc. Kỹ sư trưởng của họ phải một tiếng nữa mới rảnh, vì thế họ ra lệnh cho ta xuống máy bay và chờ ở khu quá cảnh đến khi ông ta làm xong việc”.

    “Tôi thà chết trong một tai nạn máy bay còn hơn,” Hamid buột miệng.

    “Ông Zebari, đừng lo, chúng tôi đã nghĩ ra cách giải quyết vấn đề cho ông. Chúng tôi sẽ cho ông mặc một bộ đồng phục dự phòng của tổ lái. Điều đó sẽ cho phép ông ở với chúng tôi suốt thời gian đó, và sử dụng các phương tiện của phi hành đoàn. Sẽ không ai đòi xem hộ chiếu cua ông”.

    “Nhưng nếu có người nhận ra tôi...” Hamid nói.

    “Một khi ông đã cạo đi bộ râu mép đó, mặc đồng phục tổ lái, mang kính râm, và đội mũ kết thì ngay cả mẹ ông cũng không biết ông là ai”.

    Dùng kéo, tiếp theo là kem cạo râu, rồi đến dao cạo, Hamid cạo bỏ hàng râu mép rậm rậm hắn đã từng rất tự hào, để lại ở môi trên một vệt màu trắng nhợt như kem vani. Tiếp viên trưởng bôi kem trang điểm của cô ta lên cho chỗ da đó để nó tiệp màu với màu khuôn mặt của Hamid. Hamid không mấy tin tưởng, nhưng sau khi hắn thay bộ đồng phục của hoa tiêu phụ và soi mình trong gương của nhà vệ sinh, hắn phải thừa nhận rằng hầu như sẽ chẳng một ai có thể nhận ra hắn.

    Các hành khách là những người đầu tiên rời khỏi máy bay, và được xe buýt của sân bay đưa vào nhà ga chính. Rồi một chiếc xe nhỏ ra đón tổ bay, họ luôn đi thành một toán và che chắn Hamid để chắc rằng hắn lúc nào cũng được bao quanh. Hamid càng lúc càng căng thẳng hơn khi chiếc xe chạy lại gần nhà ga.

    Tên cảnh vệ không tỏ vẻ quan tâm gì đến tổ bay khi họ vào nhà ga và ngồi trên các băng ghế gỗ trong gian sảnh có tường màu trắng. Vật trang trí duy nhất là một bức chân dung vĩ đại của Tổng thống trong bộ quân phục, Hamid không đủ can đảm nhìn vào ảnh của “người bạn thân thiết”.

    Một tổ bay khác cũng ngồi gần đó chờ lên máy bay của họ, nhưng Hamid hoảng sợ đến nỗi không dám bắt chuyện với bất cứ ai.

    “Họ là người Pháp”, tiếp viên trưởng thông báo với hắn. “Tôi sẽ thử xem lớp ngoại ngữ đêm của tôi có đáng tiền không”. Cô ta ngồi xuống một chỗ trống bên cạnh viên hoa tiêu trưởng của chiếc máy bay Pháp, và thử hỏi một câu đơn giản.

    Viên hoa tiêu trưởng người Pháp đang bảo cô ta rằng họ sẽ bay đến Singapore qua ngả New Delhi, thì Hamid nhìn thấy gã: Saad al - Takriti, trước đó là cận vệ của Tổng thống, bước vào sảnh. Với cấp bậc đeo trên vai áo thì gã nay dường như phụ trách an ninh sân bay.

    Hamid cầu khấn cho gã đừng nhìn về phía hắn. Al - Takriti ung dung dạo qua căn phòng, liếc nhìn các tổ bay Pháp và Mỹ, mắt gã dừng lại trên đôi chân của các nữ tiếp viên.

    Hoa tiêu trưởng chạm vào vai Hamid, và hắn suýt nữa nhảy cẫng lên vì hoảng sợ.

    “Không sao, không sao. Tôi muốn cho ông biết viên kỹ sư trưởng đang ra máy bay, như thế sẽ không còn lâu nữa đâu”.

    Hamid nhìn qua chỗ chiếc máy bay Air - France, và thấy một chiếc xe hơi dừng lại dưới cánh trái của chiếc Pan Am. Một người mặc bộ đồ bảo hộ màu xanh ra khỏi xe và leo vào chiếc cần cẩu nhỏ.

    Hamid đứng dậy để nhìn cho rõ hơn, và ngay lúc đó Saad al - Takriti đi trở vào sảnh. Gã đứng phắt lại, và hai người đàn ông nhìn nhau chòng chọc trong khoảnh khắc, trước khi Hamid nhanh chóng ngồi lại vào chỗ cạnh hoa tiêu trưởng. Al - Takritl biến vào một căn phòng có dấu hiệu “Cấm vào”. “Tôi nghĩ gã đã nhận ra tôi”, Hamid nói. Kem trang điểm bắt đầu chảy xuống môi hắn. Hoa tiêu trưởng nghiêng người sang phía tiếp viên trưởng của mình và xen vào câu chuyện của cô ta với hoa tiêu trưởng Pháp. Cô ta lắng nghe chỉ dẫn của sếp mình, rối thử hỏi anh chàng người Pháp một câu hóc búa hơn.

    Saad al Takriti ra khỏi văn phòng và bắt đầu sải bước về phía viên hoa tiêu Mỹ. Hamid chỉ muốn ngất xỉu.

    Không buồn liếc nhìn Hamid, Al - Takriti cao giọng, “Hoa tiêu trưởng, tôi yêu cầu ông cho tôi xem danh sách hành khách, số nhân viên phi hành của chuyến bay, và hộ chiếu của họ”.

    “Hoa tiêu phụ của tôi giữ tất cả hộ chiếu”, hoa tiêu trưởng đáp. “Tôi sẽ cho lấy”.

    “Cảm ơn ông”, al - Takriti nói. “Khi ông đã thu đủ số, vui lòng mang đến văn phòng tôi để tôi kiểm tra từng cuốn một. Trong khi đó, làm ơn yêu cầu tổ bay của ông ở lại đây. Họ không được, trong bất kỳ trường họp nào, rời khỏi tòa nhà nếu không được phép của tôi”.

    Hoa tiêu trưởng đứng dậy, chậm rãi đến chỗ hoa tiêu phụ và hỏi hộ chiếu. Rồi ông ta ra một lệnh làm hắn hết sức ngạc nhiên. Viên hoa tiêu mang hộ chiếu vào văn phòng cùng lúc một chiếc xe buýt ghé vào bên ngoài khu quá cảnh để đón tổ bay Pháp ra máy bay.

    Saad al - Takriti đặt mười bốn sổ hộ chiếu lên bàn trước mặt gã. Gã có vẻ thích thú chậm rãi kiểm tra từng cuốn một. Khi đã kiểm xong chồng sổ, gã tuyên bố với vẻ ngạc nhiên giả tạo, “Tôi thật sự tin, hoa tiêu trưởng ạ, rằng tôi đếm được mười lăm nhân viên phi hành mặc đồng phục Pan Am”.

    “Ông hẳn đã nhầm rồi”, viên hoa tiêu nói. “Chúng tôi chỉ có mười bốn người thôi”.

    “Vậy tôi sẽ phải kiểm tra lại kỹ càng hơn, phải không, ông hoa tiêu? Vui lòng trả hộ chiếu lại cho chủ sở hữu của chúng. Nếu như có người không có hộ chiếu, tất nhiên người đó sẽ phải trình diện tôi”.

    “Nhưng điều đó trái với luật quốc tế”, viên hoa tiêu nói, “tôi tin là ông biết. Chúng tôi đang quá cảnh, và do đó, theo nghị quyết 238 của Liên hiệp quốc, về mặt pháp lý chúng tôi không ở trên đất nước ông”.

    “Ông hoa tiêu ơi, hãy để dành hơi đi đã. Chúng tôi chẳng dùng được nghị quỵết vào việc gì ở đây cả. Và, như ông đã chỉ ra rất đúng, đối với chúng tôi thì các ông chẳng hề có mặt ở đây”.

    Viên hoa tiêu nhận ra là ông ta chỉ phí thì giờ và không thể dọa dẫm lâu hơn được. Ông ta cầm chồng hộ chiếu lên và để al - Takriti dẫn mình trở lại sảnh. Khi họ vào phòng thì các nhân viên tổ bay Pan Am đang ngồi rải rác ở các băng ghế bỗng đứng cả dậy và bắt đầu đi qua đi lại, đồng thời nói chuyện với nhau bằng giọng cực kỳ lớn.

    “Hãy bảo họ ngồi xuống”, al - Takriti rít lên, trong khi tổ bay đi lung tung tới lui trong sảnh.

    “Ông bảo sao?” viên hoa tiêu hỏi, một tay khum lại che tai.

    “Bảo họ ngồi xuống!” al - Takriti hét lên.

    Viên hoa tiêu miễn cưỡng ra lệnh, và một lát sau mọi người đều ngồi xuống. Nhưng họ vẫn tiếp tục gào lên nói chuyện với nhau.

    “Và bảo họ câm miệng đi!”

    Viên hoa tiêu chậm chạp đi quanh phòng, bảo từng người một trong tổ của ông ta nói nhỏ lại.

    Mắt Al-Takritt rà soát các băng ghế trong khu quá cảnh, trong khi viên hoa tiêu nhìn ra sân đậu và thấy chiếc máy bay Pháp đang đi về cuối đường băng.

    Al - Takriti bắt đầu đếm, và bực bội nhận ra chỉ có mười bốn nhân viên tổ bay Pan Am trong phòng. Gã bực tức nhìn chăm chú quanh phòng, kiểm tra lại lần nữa.

    “Tất cả mười bốn người hình như đều có mặt”, viên hoa tiêu nói sau khi đã trả xong hộ chiếu cho tổ bay.

    “Người đàn ông ngồi cạnh ông đâu rồi?” al - Takriti hỏi, chỉ tay về phía viên hoa tiêu.

    “Ông muốn nói hoa tiêu phụ thứ nhất của tôi?”

    “Không. Kẻ trông giống như người A rập cơ”.

    “Tổ của tôi không có ai người A rập cả”, viên hoa tiêu đoan chắc với gã.

    Al - Takriti sải bước tới chỗ tiếp viên trưởng.

    “Ông ta đã ngồi cạnh cô. Môi trên ông ta có bôi mỹ phẩm lúc đó bắt đầu chảy ra.”

    “Người ngồi cạnh tôi là hoa tiêu trưởng của chiếc máy bay Pháp”, tiếp viên trưởng nói. Ngay tức khắc cô ta nhận ra sai lầm của mình. Saad al - Takriti quay lại và nhìn ra cửa sổ thấy chiếc máy bay Air France ở cuối đường băng chuẩn bị cất cánh. Gã nhấn vội vào một nút trên chiếc điện thoại cầm tay khi động cơ phản lực của máy bay khởi động, và quát vào điện thoại những mệnh lệnh bằng tiếng mẹ đẻ của gã. Viên hoa tiêu không cần biết tiếng A rập cũng hiểu gã nói gì.

    Lúc này toàn bộ tổ bay Mỹ chăm chú nhìn về chiếc máy bay Pháp, chỉ mong nó di chuyển, trong khi giọng al - Takriti càng lúc càng cao.

    Chiếc 747 của Air France nhích nhẹ về phía trước và bắt đầu lăn bánh. Saad al -Takriti văng tục, rồi chạy ra khỏi tòa nhà và nhảy vào một chiếc xe jeep đang đợi sẵn. Gã chỉ tay về chiếc máy bay và ra lệnh cho tên lái xe đuổi theo. Chiếc xe jeep phóng đi, vừa tăng tốc vừa len lỏi qua các máy bay đang đậu. Khi ra đến đường băng chắc nó phải chạy đến một trăm bốn mươi cây số giờ, và trong một trăm mét sau đó nó chạy song song với chiếc may bay Pháp, với al - Takriti đứng ở băng ghế trước, bám chặt vào kính chắn gió và vung nắm đấm về phía buồng lái máy bay.

    Viên hoa tiêu Pháp đáp lại gã bằng một cái chào ngắn gọn, và khi các bánh máy bay rời mặt đất, khu quá cảnh vang lên tiếng hò reo.

    Viên hoa tiêu Mỹ mỉm cười và quay sang tiếp viên trưởng của mình. “Điều đó chỉ chứng minh giả thuyết của tôi là người Pháp sẵn sàng làm bất cứ gì để có thêm một hành khách”.

    Sáu tiếng sau đó Hamid Zebari đáp xuống sân bay New Delhi, và gọi điện ngay cho vợ để kể lại chuyện mới xảy ra. Sáng sớm hôm sau Pan Am đưa hắn về New York - ghế hạng nhất. Khi Hamid xuất hiện từ nhà ga sân bay, vợ hắn nhảy ra khỏi xe và ôm chầm lấy hắn.

    Nadim quay kính cửa sổ xuống và tuyên bố, “Bố ơi, bố nói sai rồi. Hai tuần trở thành mười lăm ngày”. Hamid cười với con trai, nhưng con gái hắn òa khóc, mà không phải vì xe ngừng đột ngột.

    Nó khóc vì hoảng sợ thấy mẹ mình ôm một người đàn ông lạ hoắc.


    Dịch từ “Do not pass go”
     
    meetdak and amylee like this.
  20. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TÊN TRỘM LƯỢC CỦA NGƯỜI ĐẦU HÓI

    Truyện ngắn của Edward D. Hoch (Mỹ)
    Lê Tân dịch từ The Thief of the Bald Man’s comb


    Đã hơn một năm qua kể từ khi Nick Velvet gặp Sandra Paris, tay trộm chuyên nghiệp nổi tiếng hơn Nick. Sự cạnh tranh giữa Sandra Paris - có biệt danh Nữ hoàng Trắng - và Nick đã đi đến một thỏa thuận và một mối quan hệ khá dễ thương, cả hai đều cố tránh xâm phạm đất làm ăn của nhau. Nhưng khá là ngạc nhiên khi nàng mời Dick đến ăn sáng tại Waffle House trên đường 22.

    - Chào, Sandra, trông em quyến rũ quá!

    Nick chào nàng khi đang lách người vào trong. Nàng mỉm cười đáp lại.

    - Sáng sớm đã được khen rồi!

    - Vì em quá hấp dẫn, không phải sao?

    Hắn liếc nhìn bảng thực đơn rồi gạt nó qua bên.

    - Em đang làm gì vậy? Dạo này anh không thấy báo chí nhắc nhở vụ nào có vẻ dính đến em.

    - Nghề nghiệp của chúng ta tốt nhất là đừng để báo chí đánh hơi được, anh dư hiểu mà, Nick.

    Họ gọi thức ăn. Vừa nhâm nhi ly nước cam, nàng tiếp:

    - Em muốn thuê anh làm một vụ.

    - Bất thường đấy. Sau lần em nhờ anh vụ viện bảo tàng...

    - Lần này khác hẳn. Một người đàn bà nhờ em một vụ với tiền công rất cao. Nhưng em không hoàn thành nổi, mà em thì không muốn từ chối số tiền đó và cũng không muốn thú nhận với bà ta là em bỏ cuộc.

    - Kể cho anh nghe chi tiết đi, Sandra.

    - Đấy là một nơi miền Nam, sau những ngọn đồi. Anh sẽ biết chính xác địa điểm nếu anh đồng ý làm vụ này. Người đàn bà đó nhờ em đánh cắp một cái lược...

    - Có giá trị chứ?

    - Không, một cái lược bỏ túi tầm thường mà người đàn ông đó luôn luôn mang theo mình.

    - Hắn là ai?

    - Tên hắn là Willie Ranklin. Hắn và hai người em trai sống ở nơi hẻo lánh nhất của vùng đồi đó. Rất hiếm khi lên thành phố. Có lời đồn hắn làm rượu lậu nên sống ẩn dật như thế.

    - Thời buổi này mà còn có người làm rượu lậu à? Nghe cứ như bốn, năm mươi năm trước!

    - Chẳng hiểu nổi, nhưng hắn sống xa lánh mọi người. Anh em nhà hắn sống ở một nhà máy xay bỏ hoang bên sông Casaqueek. Em đã đến đó tuần trước đấy, Nick.

    Nàng chống tay lên bàn, nghiêng người về phía Nick. Nick thấy nàng căng thẳng nhưng duyên dáng hơn bao giờ hết.

    - Hình như đó là đất của đàn ông chứ không dành cho đàn bà, thật lạ. Không bao lâu sau khi em vào tỉnh, mọi người đều biết. Một buổi sáng sớm em đến bên cái giếng nước...

    - Trước bữa điểm tâm.

    - Hẳn rồi! Trước bữa điểm tâm! Rắc rối em gặp là hai phát súng trường bắn sát em đến nỗi em cảm thấy tiếng gió của nó. Trở lại chỗ để xe trong tỉnh thì ai đó làm bánh xe em xẹp lép. Sáng hôm sau em thấy một con chó chết trên băng sau xe của em. Thế là em chuồn!

    - Vì thế em muốn bỏ cuộc?

    - Em có nói em bỏ cuộc đâu, Nick, nhưng việc này cần có đàn ông vì hóa trang thành đàn ông thì... quá khó.

    - Bao nhiêu?

    - Thù lao của anh như mọi khi.

    - Em nhận được bao nhiêu, Sandra?

    Nàng mím môi, rồi nói nhỏ nhẹ.

    - Năm mươi ngàn.

    - Vậy thì anh lấy bốn mươi ngàn.

    - Cái gì! Thù lao mọi khi của anh là...

    - Em cần anh chứ?

    - Dĩ nhiên!... Thôi được.

    - Bây giờ nói cho anh rõ về người đàn ông với cái lược. Hắn trông ra sao?

    - Williie Franklin là anh cả. Tất cả những gì em biết chỉ là một bức ảnh bọn họ chụp vào ngày sinh nhật thứ bảy mươi của bà mẹ năm ngoái. Em có mang theo đây!

    Nàng đưa cho Nick bức ảnh màu chụp ba người đàn ông mặc áo sơ-mi, quần bò, đang nheo mắt trong ánh nắng. Người đứng giữa đầu hói gần như trọc. Người bên phải có bộ ria mép cắt tỉa công phu, trong khi người thứ ba râu ria lởm chởm. Sandra nói:

    - Người để râu là em út, Jud Franklin, gần ba mươi. Bên phải là Jessie, khoảng ba mươi lăm. Willie là người đứng giữa.

    - Người hói đầu à?

    Nick hỏi một cách hồ nghi. Sandra thở dài.

    - Đúng thế. Em muốn nhờ anh đánh cắp cái lược của gã hói đầu đó.


    ***


    Hai hôm sau Nick bay xuống miền Nam, đến đồi Casaqueek, thuê một chiếc xe hơi đi ra phi trường - đến nơi hành sự. Hắn định đi thẳng đến đó bằng xe hơi nhưng e rằng biển số New York của hắn rất dễ gây sự chú ý trên những con đường làng hẻo lánh ven đồi miền quê phía Nam này.

    Đông Alum, nơi hắn đến, là một làng nhỏ bên sông Casaqueek với một quán rượu, một của hàng bách hóa, một trạm cứu hỏa, và một nhà thờ. Vỏn vẹn có thế, chiếm bốn góc của ngã tư đường chính. Nick cho rằng có Đông Alum thì ắt có Tây Alum, có thể phía bên kia chiếc cầu gỗ lung lay, nhưng chẳng thấy gì khi hắn qua cầu. Cho xe vào cho đậu bên cạnh bar rượu, hắn vào quán. Có vẻ như đây là nơi thích hợp để bắt đầu công việc.

    Người pha rượu là một người đàn ông trung niên tên André mà Nick cho rằng có thể hắn phiêu bạt đến từ Tây Alum. Đặt cái ly và chai bia trước mặt Nick, hắn hỏi:

    - Vừa mới đến?

    - Tìm gia đình Franklin. Tôi đến từ thủ đô để giải quyết yêu cầu bồi thường bảo hiểm của họ.

    - Bà già sống phía trên đường Post. Quẹo phải, ngay chỗ rẽ đầu tiên khi vừa qua cầu. Đi khoảng một cây số thì sẽ thấy nhà của họ bên trái.

    - Những người con trai cũng ở đó?

    - Thỉnh thoảng. Họ thường ở đâu đó trên đồi. Bà già sống với người đàn ông nô bộc da đen.

    - Ông Franklin chết rồi à?

    - Chết vì bệnh ung thư từ lâu.

    Nick uống cạn ly bia rồi trở lại xe. Lái xuống phía dưới con đường một chút, hắn thấy bảng chỉ đường đến khách sạn nhỏ, nơi Sandra Paris đã ở. Không sợ việc có thể nhận được một con chó chết trong xe, hắn đến khách sạn đặt phòng rồi trở lại cầu, lái về hướng nhà gia đình Franklin.

    Ngôi nhà vườn khoảng ba mẫu vuông nằm trên sườn đồi. Một con chó Đức cột dây sủa inh ỏi khi hắn dừng xe trước cổng. Một bà già tóc bạc phơ xuất hiện ở cửa trước mắng con chỏ rồi hỏi Nick:

    - Ông cần gì?

    - Tôi tìm ông... à...

    Nick vừa nói vừa vờ xem xét giấy tờ trong cái cặp nhỏ.

    - ... ông Franklin... Willie Franklin, về việc đòi bồi thường bảo hiểm.

    - Willle là con trai tôi, đứa lớn. Tôi không biết gì về chuyện nó đòi bồi thường bảo hiểm cả.

    - Bà Franklin...

    - Tôi là Cassy, mọi người gọi tôi như thế.

    Bà mỉm cười và Nick có thể nhìn thấy tàn dư của một sắc đẹp lộng lẫy trên khuôn mặt đó, cho dù bà ta đã bảy mươi mốt.

    - Vâng, thưa bà Cassy, con trai bà có nhà chứ?

    - Willie không sống ở đây, nó có chỗ trên đồi với các em nó.

    - Xin bà vui lòng chỉ giúp.

    - Nó không thân thiện vớiI khách vãng lai lắm đâu, cả tôi cũng không bao giờ đến đó.

    - Anh ấy sẽ thân thiện với tôi, thưa bà. Tôi mang hóa đơn bồi thường thiệt hại do bão gây ra cho nhà xưởng của anh ấy.

    - Thiệt hại cho nhà máy?

    Bà nhíu mày, cố nhớ. Một sợi tóc bạc vướng ngang mặt, bà gạt nhẹ nó sang bên.

    - Nó chưa hề nói gì với tôi.

    - Có lẽ không cần thiết, anh ấy không muốn bà bận tâm chăng? Nhà xưởng đó của bà?

    Bà chỉ tay về phía đỉnh đồi.

    - Không... nó ở phía đó.

    - Xin bà hiểu cho, phải có chữ ký của anh ấy tôi mới giao hóa đơn, đó là lý do chúng tôi không gởi bằng đường bưu diện.

    - Có lẽ Gus giúp được ông.

    Nói rồi bà vẫy người đàn ông da đen cao lớn vừa xuất hiện ở cửa.

    - Gus, ông đây đang tìm Willie, coi xem anh có giúp ông ấy được không. Tôi phải đưa con Lucky vào nhà.

    Tóc Gus gần như bạc bằng bà chủ nhưng Nick đoán ông ta không quá sáu mươi. Da ông ta hơi trắng nhưng tóc, môi và những nét chung chung thì không thể lầm là người da trắng được. Trông ông ta có vẻ suốt đời làm việc chân tay. Ông ta hỏi:

    - Tôi có thể giúp gì cho ông?

    - Tôi là Nicholas, ở văn phòng bảo hiểm đời sống và pháp lý của tiểu bang. Tôi đem hoá đơn cho ông Willie Franklin nhưng ông ấy phải ký tên. Ông có thể giúp tôi đến chỗ ông ấy?

    - Cả mấy đứa đều không thích người lạ.

    - Không sao, họ sẽ thích tôi!

    Gus ngẫm nghĩ rồi nói:

    - Ngươi ta đồn chúng hay bắn vào người lạ.

    - Họ sẽ không bắn tôi nếu có ông đi cùng.

    Nick móc ví.

    - Coi đây, tôi muốn mau xong việc, chỉ cần giao xong hóa đơn mấy ngàn đô-la này là tôi đi ngay.

    Gus nhún vai.

    - Tôi sẽ đưa ông đi. Cứ để xe hơi ở đây. Con đường ngắn nhất là đi thẳng lên đồi. Nick khóa xe rồi đi bộ cùng người đàn ông da đen, leo lên ngọn đồi và họ trông thấy con sông ngoằn ngoèo uốn khúc chia hai vùng quê. Nick nói:

    - Cảnh đẹp quá!

    - Mùa xuân còn đẹp hơn nhiều.

    - Ông chắc đã thấy nhiều mùa xuân ở đây?

    Gus quay lại nhìn Nick.

    - Tôi sống với ông bà Franklin gần cả đời. Lúc tôi đến họ mới có một con.

    - Ông Franklin đâu?

    - Chết vì bệnh ung thư mười lăm năm rồi. Bà ấy sống một mình từ đấy. Tôi làm tất cả những gì tôi có thể làm được cho bà ấy, mấy thằng con trai không quan tâm đến mẹ chúng.

    - Bà ấy không có con gái sao?

    Người nô bộc da đen lắc đầu.

    - Có một đứa con trai nữa, tên Tom, rời bỏ gia đình năm mười bảy tuổi, nghe đâu đi lập nghiệp ở miền Tây.

    - Lâu chưa?

    - Mười hai năm rồi. Nó ở giữa Jessie và Jud. Tôi chăm sóc cả bốn anh em chúng đấy.

    - Họ không thường xuyên về nhà với bà mẹ à?

    - Chúng sống trên đồi, chỗ nhà máy xay cũ. Willie và bà mẹ không hạp nhau, cả ba đứa đều chưa lập gia đình.

    - Mỗi gia đình thường có một chuyện không vui.

    Họ khó nhọc leo lên đồi trong im lặng. Lát sau, họ thấy chỗ rẽ nhánh của con sông phía dưới. Gus nói, chỉ ngón tay xương xẩu về phía trước:

    - Đó.

    Nick thấy một căn nhà lớn toàn bằng gỗ ngay cạnh bờ sông. Các khung cửa sổ đều sơn trắng và một bánh quay cối xay gió màu vàng. Căn nhà thuộc kiểu xây dựng của kỷ nguyên khác, nhưng hình như cũng được trau chuốt cho sáng sủa. Khi họ bắt đầu xuống đồi, Nick thoáng thấy bóng người bên cửa ra vào cối xay. Và gần như ngay lập tức, một phát súng nổ vang.

    Nick nằm rạp xuống đất nhưng Gus cười.

    - Ông chưa quen với lối sống miền quê. Nếu hắn muốn bắn ông thì hắn chờ ông đến gần hơn nữa. Hắn chỉ cảnh cáo vì không biết chúng ta là ai.

    Ông già da đen bước đến bìa rừng, giơ tay vẫy và la lớn. Nick thấy gã đàn ông râu ria - chắc là Jud, ngưòi trẻ nhất - đặt khẩu súng xuống và lui vào bên trong. Nếu mình không bị bắn thì ắt hẳn mình sẽ được tiếp đón. Nick nghĩ thầm.

    Mất gần mười phút nữa để xuống đường đồi khá dốc, về phía căn nhà. Đến gần căn nhà hơn Nick mới thấy nó hư nát hơn nhìn ở xa. Cả lớp sơn có vẻ sáng sủa cũng bị bong tróc khá nhiều.

    Hai người ra gặp họ. Jud vẫn cầm khẩu súng, nhưng im lặng. Người kia, có bộ râu rất tỉa tót, mắt xanh như bà mẹ, hỏi:

    - Ông mang ai đến đây vậy, Gus?

    - Ông này là người của hãng bảo hiểm, đem hóa đơn cho Willie, bồi thường thiệt hại của nhà máy xay.

    Hai gã nọ liếc nhìn nhau, bối rối.

    - Chẳng có thiệt hại gì ở đây cả.

    Nick nhanh nhẩu:

    - Do bão. Có đơn đòi bồi thường và được chấp thuận, có lẽ do mẹ các ông đứng đơn và quên mất. Tôi là Nicholas ở văn phòng bảo hiểm đời sống...

    - Hỏi xem Willie có biết chuyện này không.

    Jessie nói với em hắn. Jud quay đi, vẫn cầm khẩu súng. Gus có vẻ bồn chồn, nói với Jessie:

    - Tôi phải trở về nhà, bà ấy sợ ở một mình.

    Jessie nhìn Nick bằng đôi mắt xanh nhạt.

    - Ông biết đường về chứ, ông Nicholas?

    - Tôi nghĩ không khó.

    - Về đi Gus, chúng tôi sẽ gặp ông sau.

    Khi người đàn ông da đen nhanh nhẹn leo lên đồi, Jessie mỉm cười.

    - Ở tuổi đó mà khỏe thật, ông ta gần bảy mươi rồi đấy.

    - Trông ông ta trẻ hơn nhiều.

    - Lúc trẻ ông ta đẹp trai có tiếng. Chúng tôi nghĩ lẽ ra ông ta phải theo đuổi cái gì lớn lao hơn là chôn cuộc dời ở dây.

    - Tôi thấy sống ở đây êm ả hơn.

    Nick nhận xét. Có mùi gì thoang thoảng mà Nick chưa hề biết. Hắn tự hỏi nhà máy xay lậu này đang sản xuất cái gì.

    Jud trở lại, vẫn cầm khẩu súng.

    - Anh ấy không biết gì về vụ bảo hiểm cả, cũng không có thiệt hại gì ở đây. Có lẽ lầm lẫn rồi.

    Nick lấy hóa đơn trong cặp.

    - Đây, tất cả đã được ký và đều hợp lệ. Ba ngàn năm trăm bốn mươi đô-la cho đơn đòi bồi thường. Tôi cần chữ ký của ông ấy.

    Jessie chìa tay.

    - Tôi đem đến cho Willie và bảo anh ấy ký tên nhé. Anh ấy đang bận.

    - Ông ấy bận lắm à?

    - Công việc mà, ai có việc nấy.

    - Xin lỗi, biên lai phải được ký trước mặt tôi, thủ tục của hãng chúng tôi là thế.

    Họ có vẻ bí, cùng vào trong nhà, xì xầm trao đổi. Lát sau người anh, Jessie, bước ra và nói:

    - Theo tôi.

    Nick vào nhà và cùng gã em lên cầu thang. Gian chính của căn nhà xưởng được dành làm nơi ở khá tiện nghi. Có một TV và một dãy những khẩu súng săn. Cửa sổ trông ra sông, phong cảnh khá đẹp. Nhà bếp tiện nghi và phòng ăn ở đầu kia của căn phòng lớn. Không thấy có không khí của phụ nữ ở đây.

    Jessie dẫn đường lên cầu thang gỗ đến tầng hai. Nick thấy những cửa ra vào chia cách các phòng ngủ. Nhà tắm chiếm phần khá rộng của tầng này. Ở phía kia, nhà kho cũng rộng, Nick cố liếc nhìn vào khi Jessie mở cửa.

    - Willle, ít phút thôi nhé.

    Một người đàn ông hói đầu mập mạp bước ra. Hắn nhìn Nick với vẻ tức giận cố nén.

    - Tại sao mày dẫn anh ta đến đây?

    - Anh ta phải nhìn thấy anh ký vào biên lai, nêu không thì anh ta không chịu đi.

    Hắn làu bàu chút nữa rồi chìa tay với Nick.

    - Tôi là Willie Franklin, anh cần gì tôi?

    Nick bắt tay và đưa ra thẻ nhân viên bảo hiểm.

    - Có đơn đòi bồi thường thiệt hại do bão...

    - Không hề có thiệt hại gì cả.

    - Có lẽ mẹ của ông đứng đơn và quên.

    - Đây không phải tài sản của bà ấy.

    - Không sao, tôi chỉ cần chữ ký và giao tiền cho ông. Tôi bận lắm.

    Nick đoán gã hói đầu khoảng bốn mươi tuổi, tuy dáng người mập và cái đầu hói làm hắn già hơn. Hắn cầm giấy lãnh tiền và biên lai, đọc kỹ. Nick không bao giờ tin những tên lừa đảo khi hắn sắp móc túi chúng nên hóa đơn về số tiền là đồ thật. Jessie đề nghị:

    - Chúng ta hãy hỏi mẹ về việc này.

    Willie Franklin cười toét.

    - Việc quái gì phải hỏi! Của trên trời rơi xuống thì cứ nhận, người đời nói thê mà. Ai cho mượn viết coi?

    Nick cố tình lần lữa không đưa ra cây viết của mình, sau cùng, Willie phải lục trong túi quần của hắn. Hắn mặc cái quần lính cũ kỹ, hai bàn tay mập của hắn lôi ra trong hai cái túi to những thứ lỉnh kỉnh rồi thả lại vào túi ngay. Nick kịp nhìn thấy một cái lược bỏ túi nhỏ màu đen. Willie lấy được cây bút bic và cẩn thận ký tên.

    - Rồi, ông bạn vừa lòng chưa?

    - Tốt. Tôi còn phải đi nơi khác.

    Nick trao giấy lãnh tiền cho hắn khi nhận lại biên lai. Jud bỗng nói:

    - Khoan đã, làm sao chúng tôi biết ông có phải là cớm hay không, đến dò la nơi đây?

    - Tôi chỉ là người của hãng bảo hiểm.

    Nick cố trấn an họ.

    - Dù các ông có lò rượu lậu ở đây thì cũng chẳng có ý nghĩa gì với tôi.

    Mấy anh em nhà Franklin cười ha hả và Willie xua tay.

    - Đi, đi mau và đừng có trở lại đấy. Chúng tôi canh gác ngày đêm, đừng để chúng tôi lầm ông với hươu nai đấy.

    Khi Nick xuống sườn đồi dốc trở vể nhà bà Cassy, hắn nghe một tiếng súng và tiếng cành cây gãy phía trước. Viên đạn không nhằm vào hắn, chỉ cố ý đuổi hắn.


    ***


    Việc đầu tiên Nick làm khi về đến khách sạn là phôn cho Sandra Paris ở New York. Vừa nghe tiếng nàng, hắn nói ngay:

    - Anh gặp khó khăn, không nghiêm trọng lắm nhưng sẽ đỡ cho anh nhiều nếu anh được nói chuyện với người đàn bà đã thuê em.

    - Tại sao lại như vậy?

    - Anh đã đến chỗ nhà xưởng hôm nay, và cũng như em đã trải qua. Mấy tên đó có vẻ thích chơi súng lắm, anh muốn biết có phải chúng sẵn sàng bắn người không.

    - Qua trao đổi với bà khách hàng thì em tin chúng rất nguy hiểm, đó là lý do em muốn rút lui. Không những em sợ súng mà còn sợ cả cái vụ quỉ quái này, Nick, em thích những phi vụ ở thành phố hơn cái miền quê chết tiệt đó.

    - Em cho anh số phôn của bà ta được không?

    - Không, nếu bà ta chưa đồng ý.

    - Thử hỏi bà ấy coi, rồi gọi lại anh.

    Hắn cho nàng số phôn của khách sạn.

    Không đầy mười phút sau, nàng gọi lại.

    - Bà ấy tên Dusty Wayne, hát nhạc đồng quê và nhạc miền Tây cho một quán bar ở Gunnerville. Nơi đó cách chỗ anh khoảng ba mươi cây số. Anh có thể gặp bà ấy tối nay, khoảng sau tám giờ. Em nói với bà ấy anh là người đàn ông lớn tuổi và rất quyến rũ.

    Hắn thấy có sự hài hước trong giọng nàng. Hắn đáp, thấy cổ họng mình khô khốc.

    - Cám ơn.

    - Khỏi phải cám ơn. Tên quán bar là Hardy, nằm ngay đẩu đường chính, rất dễ thấy.

    - Anh sẽ đến.

    Tối hôm đó Nick tìm thấy Gunerville không chút khó khăn. Quán Hardy có vẻ là một quán rượu bên đường kiểu cổ hơn là một quán bar, với chỗ đậu xe rộng rãi và bảng hiệu néon xung quanh. Chỗ đậu xe gần như kín làm hắn có cảm tưởng hôm nay là ngày cuối tuần.

    Bên trong toàn những bàn nhỏ và một sàn nhảy. Nick gọi bia, đứng cạnh quầy rượu, lắng nghe giọng hát ngọt ngào của ca sĩ đang hát nhạc đồng quê. Cô ta mặc quần ống túm bằng da hoẵng, đánh guitar thùng. Nick cứ ngỡ mình đang sống ở thập niên 60. Hắn đưa mảnh giấy nhỏ nhờ người bồi bàn đem lại cho cô ta và ngay sau đó cô ta đặt cây đàn xuống cái ghế nhỏ trên sân khấu, xin phép khán giả nghỉ giải lao.

    Cô ta đến chỗ Nick và hỏi:

    - Anh là Nick Velvet?

    - Vâng.

    - Tôi là Dusty Wayne.

    Gần bên Nick mới thấy cô ta quyến rũ kiểu tinh nghịch, có lẽ tuổi cô ta khoảng ba mươi lăm, tóc cắt ngang trán, để dài gần tới mí mắt. Cái quần da hoẵng ôm vừa người, thật xinh xắn.

    - Tôi ngưỡng mộ giọng hát của cô, gợi nhớ Loretta Lynn.

    - Cám ơn.

    Cô ta cười, hai lúm đồng tiền trên má.

    - Sandra nói anh rất dễ thương.

    - Làm sao cô quen Sandra?

    - Từ thưở đi học. Chúng tôi học cùng lớp ở đại học một năm nhưng sau đó tôi bỏ học để rong ruổi đây đó với cây guitar.

    - Cô biết tôi đến đây làm gì chứ?

    Cô ta liếc nhanh hai bên quầy rượu.

    - Chúng ta kiếm bàn đằng kia nhé, tôi muốn nói chuyện riêng tư một chút.

    Nick theo cô ta đến một bàn xa khuất chỗ đông, sát tường. Cô ta ngồi xuống ghế, châm thuốc hút rồi nói với vẻ lúng túng.

    - Tôi chỉ yên lòng khi biết rõ về cái lược đó.

    - Kể cho tôi nghe. Tại sao nó quí giá đối với cô?

    - Tôi không biết nó quí giá hay không cho đến khi tôi được trông thấy nó. Ngày ấy khi vừa vào nghề hát, tôi yêu một người trong mấy anh em nhà Franklin - Tom Franklin. Anh ấy nhỏ hơn tôi sáu tuổi, năm đó anh ta mười bảy, và là người đẹp trai nhất trong bọn họ. Da đen, tóc quăn, ánh mắt như hớp hồn người. Chúng tôi dự định ra đi cùng nhau, ngao du khắp miền đất nước, hát nhạc đổng quê. Rồi một ngày nọ, anh ấy... biến mất. Anh Willie bảo rằng Tom bỏ nhà đi, hình như đến miền Tây để lập nghiệp.

    - Chuyện cái lược thế nào?

    - Tôi đang kể đây, Tom luôn ray rứt với đầu tóc của anh ấy. Tôi cho rằng anh ấy muốn có mái tóc giống Elvis, nhưng khốn nỗi tóc anh ấy quá quăn. Tuy vậy, tôi vẫn tặng anh ấy một cái lược và anh ấy luôn mang trong người. Nó có khắc tên tắt anh ấy, T.F. Anh ấy coi nó như là một lá bùa may mắn, không hề rời nó, và nếu có đi miền Tây thì cũng phải mang theo nó, chắc chắn. Anh ấy có thể bỏ tôi, nhưng bỏ cái lược đó thì không. Hai tháng trước đây, có một người ở Tây Alum cho tôi biết ông ta tình cờ gặp Willie Franklin tại một nhà thuốc tây bên kia đồi Casper, ông ta có cái lược đó trong túi, làm rơi nó xuống đất khi móc tiền ra.

    - Có thật đấy, tôi đã nhìn thấy nó.

    - Ông bạn tôi lấy làm lạ vì người hói đầu gần trọc như Willie mà lại dùng lược, và tôi cũng nghĩ thế.

    Dusty châm điếu thuốc khác.

    - Một đêm, tôi chợt nghĩ đến Tom, nghĩ đến cái lược. Từ lâu tôi vẫn không tin chuyện Tom bỏ đi mười hai năm trước, đi mà không có một lời với tôi.

    - Cô nghĩ chuyện gì đã xảy ra?

    Dusty thở gấp.

    - Tôi nghĩ Willie đã giết Tom và chôn anh ấy đâu đó. Anh em họ như có thù hằn nhau. Có thể tôi không bao giờ chứng minh được điều đó, nhưng tôi muốn biết. Nếu Willie đang giữ đúng cái lược đó trong người, tôi có thể chứng minh được mọi chuyện.

    - Cô trả rất nhiều tiền để tìm sự thật.

    - Tôi thực hiện được hai đĩa CD, tổ chức được vài chương trình nhạc hội nên cũng có chút tiền. Bây giờ tôi đã có gia đình, nhưng đôi khi tôi cũng nghĩ đến Tom và muốn biết thật sự chuyện gì đã xảy ra cho anh ấy. Tôi muốn biết sự thật. Đối với tôi thì số tiền tôi bỏ ra xứng đáng lắm.

    - Tôi sẽ làm hết sức giúp cô.

    Nick hứa và chào tạm biệt.

    Sáng hôm sau, Nick lái xe đến phía trên sông, cách Tây Alum vài dặm, thuê một cái xuồng, nói ba hoa rằng hắn đi câu. Hắn chèo nhẹ nhàng trên sông Casaqueek, ước lượng dòng chảy rồi chèo vào bờ cách căn nhà xưởng khoảng hai cây số. Tiến về căn nhà lúc đêm xuống có thể sẽ nguy hiểm. Hắn không rành việc đi trong rừng nhưng đủ hiểu rằng chỉ cần dẫm gãy một cành cây trên đất sẽ hại đến tính mạng vì những gã kia có súng. Đột nhập vào khu nhà đổ bằng đường sông an toàn hơn nhiều.

    Hắn có nhiều việc phải làm hôm đó. Trước hết phải tìm một cuốn niên lịch ở thư viện của tỉnh, coi kỹ giờ trăng lên. May mắn là hôm đó trăng non nên sẽ rất ít ánh sáng. Việc kế là đi tìm một con mèo hoang. Hắn đã để ý hai con lang thang trên đường và không bao lâu sau hẳn đã nhử được một con vào bẫy bằng cách riêng của hắn.

    Trước lúc nửa đêm, hắn lên đường bằng chiếc xuồng cùng với con mèo trong một cái túi chắc chắn. Hắn chèo sát bờ, tránh vùng giữa sông vì nơi đó thường rất dễ lộ, dù là dưới ánh trăng non. Không bao lâu, căn nhà xưởng hiện ra trong màn đêm. Vẫn còn ánh đèn nhà dưới. Hắn không biết họ để đèn suốt đêm theo thói quen hay có người còn thức, đang làm việc. Trong bóng tối, Nick cập xuồng sát bờ, gần cối xay gió và chờ đợi.

    Sự cẩn trọng của hắn được tưởng thưởng vì khoảng mười lăm phút sau, Jud ngất ngưởng xuất hiện ở cửa trước, nhìn ra màn đêm. Nick thấy hắn cầm chai bia. Lát sau hắn ngửa cổ nốc cạn rồi đóng cửa, tắt đèn. Không bào lâu sau, đèn một căn phòng trên lầu bật sáng, khoảng mười phút sau thì đèn tắt. Nick chờ thêm nửa tiếng nữa mới rời xuồng, mang theo cái túi đựng con mèo.

    Mở khóa cửa trước đối với hắn chẳng có gì khó. Lách nhẹ vào, hắn đóng cửa lại không gây một tiếng động nhỏ. Mọi thứ trong căn phòng đã in trong đầu hắn qua lần đến đây vừa rồi, hắn nhẹ nhàng lần mò trong bóng tối đến cái bàn giấy, cầm lấy cái đèn để bàn, rồi hắn nghĩ chọn chai bia có lẽ hay hơn. Đặt cái đèn xuống, hắn cầm lấy chai bia. Mang cả chai bia và túi đựng mèo lên cầu thang, đến tầng hai, hắn thì thầm: “ Mèo ơi, ra ngoài nhé”, hắn nghiêng mình qua cầu thang, thả con mèo qua miệng túi xuống cái ghế bành phía dưới, khoảng hơn ba mét. Ngaysau đó, hắn buông cái chai, nhưng nhắm chỗ trống trên sàn gạch. Một tiếng vỡ loảng xoảng trong bóng tối.

    Nick chạy nhanh vào căn phòng nơi Willie làm việc, nấp sau cánh cửa. Tiếng anh em Franklin la ó rồi tiếng họ vùng dậy. Một tiếng la.

    - Cái gì thế? Lấy súng!

    Họ chạy ra cầu thang, bật đèn. Willie, đầu nhẵn thín, giằng lấy khẩu súng trong tay một gã em hắn, dẫn đường xuống nhà. Nick rời chỗ nấp, vội vã tót vào căn phòng ngủ gần nhất mà hắn tin chắc Willie vừa từ trong đó chạy ra. Lướt ánh đèn pin tí hon lên đồ đạc, lên giường, Nick biết mình không lầm. Cái lược ở đó, cùng với những đồng bạc lẻ, một con dao nhíp, một cái khăn tay. Hắn cầm cái lược lên xem và thấy hàng chữ: T.F.

    - Một con mèo! Đồ chết tiệt!

    Tiếng la vọng lên từ nhà dưới.

    - Jud, mày lên lầu sau cùng, mày để mèo vào nhà phải không?

    Jud cãi phăng.

    - Không hề có con mèo nào ở đây khi em lên lầu.

    - Chứ làm sao nó vào được? Ném nó ra ngoài ngay nếu không tao cho nó một phát bây giờ!

    Nick biết đó là giọng Willie ra lệnh cho các em hắn. Ở im trong chỗ nấp, hắn biết chắc chắn nếu bọn chúng mà tìm kiếm thì chỗ này chúng không thể bỏ qua. Không lâu sau đó, con mèo bị ném ra ngoài và anh em chúng lục tục kéo nhau lên phòng ngủ. Jud vẫn khăng khăng:

    - Em chắc chắn là không có nó trong nhà lúc em lên lầu mà!

    Bọn chúng yên vị trong phòng riêng hồi lâu nhưng Nick vẫn ở im tại chỗ nấp khoảng nửa tiếng. Cuối cùng, hắn rời chỗ nấp, rón rén bước về phía cầu thang. Đế giầy hắn đạp lên cái gì đó gây ra tiếng xoèn xoẹt. Nó vướng vào đế giầy hắn. Gỡ vật đó ra khỏi đế giầy, hắn bỏ nó vào trong túi áo. Nhưng Jessie đã nghe.

    - Mày đó hả Jud?

    Willie la lên từ phòng bên cạnh.

    - Câm đi, thằng trời đánh, co biết tao đang ngủ không!

    - Anh Willie, hình như có người ngoài kia.

    Nick biết mình phải thật nhanh. Hắn xuống cầu thang, ra khỏi cửa ngay khi ánh đèn bật sáng choang. Lẩn trong bóng tối đến chỗ cái xuồng bên bờ sông, hắn thấy Willie đứng cạnh Jud dưới ánh đèn ngay bên cửa ra vào. Jessie nói:

    - Hắn thoát rồi.

    Giọng Willie thật trầm tĩnh nhưng dễ sợ.

    - Không sao, tao biết ai rồi. Sáng mai hắn sẽ chết.



    ***



    Nick trả xuồng chỗ cho thuê rồi phôn cho Sandra Paris. Nàng hỏi:

    - Công việc ra sao rồi?

    - Em nợ anh bốn mươi ngàn đô-la.

    - Tốt, em sẽ bay ngay và chúng ta gặp nhau ở phi trường Atlanta. Anh sẽ có tiền và giao cái lược đó cho Dusty Wayne là việc của em.

    - Đồng ý, đúng hẹn nhé.

    - Khoan, em phải coi lại chuyến bay, phôn lại em hai tiếng nữa nhé, nếu không kịp chuyến bay tối nay thì sớm mai.

    Nick vừa ra khỏi cabin điện thoại công cộng thì một chiếc xe cảnh sát trờ tới sát hắn. Viên cảnh sát hỏi ngay khi đang xuống xe.

    - Ông là Nicholas?

    Nick thót cả tim gan. Nếu họ biết cái tên giả hắn đang dùng tức là có rắc rối rối.

    - Vâng, chính tôi.

    - Ông có đến nhà bà Franklin hôm kia?

    - Vâng, tôi đến để giải quyết việc bảo hiểm...

    - Đi với tôi, cảnh sát trưởng muốn nói chuyện với ông.

    - Chuyện gì vậy?

    - Một vụ giết người. Một người đàn ông da đen tên Gus Adam làm việc cho bà Franklin.

    Trên đường đến văn phòng cảnh sát trưởng, theo sau xe của viên cảnh sát, Nick chỉ biết chắc một điều là Willie chưa biết ai đánh cắp cái lược.

    Cảnh sát trưởng là một người đàn ông nhỏ con, ăn nói cũng nhỏ nhẹ và hình như không phải ông sinh trưởng ở đây. Tên ông là Garvey. Ông nói ngay khi Nick vào.

    - Ông Nicholas, tôi không thấy hồ sơ nào về ông ở hãng bảo hiểm đời sống của tiểu bang. Không phải tên ông là Nicholas chứ?

    - Vâng, tên giả, đôi khi trong công việc người ta dùng tên khác.

    - Bà Franklin nói ông đến chỗ bà ta thứ ba vừa qua để giao một giấy lãnh tiền cho con trai bà ấy.

    - Đúng.

    - Và Gus Adam đưa ông đến căn nhà xưởng chỗ ba người con trai bà ta làm việc.

    - Đúng. Tôi chỉ biết ông ta tên Gus.

    - Thật tệ nếu ông không biết nhiều về ông ta. Một người rất dễ thương, vùng này ai cũng yêu mến.

    - Ông ấy đúng là rất dễ mến.

    - Có người đã giết ông ta sáng nay.

    Cảnh sát trưởng Garvey nhìn Nick.

    - Bắn ông ta qua cửa sổ căn nhà nhỏ trong khuôn viên nhà bà Franklin. Ông ta chết ngay trong nhà bếp. Ông có nghĩ ai đã giết Gus không?

    - Không, làm sao tôi biết được?

    - Một người như Gus không thể có kẻ thù, hơn nữa, ông ta gần bảy mươi rồi, quỉ thật!

    - Có thể ông ta chết vì lạc đạn? Những người đi săn trong rừng, ở đây nhiều rừng...

    - Bây giờ không phải mùa săn. Ông ta có nói với ông điều gì về những sự đe dọa nào đó?

    - Chắc chắn ông ta không nói với người gặp gỡ lần đầu về chuyện riêng tư.

    Người cảnh sát nhìn Nick đăm đăm rồi nói.

    - Ông ở lại tỉnh này một hai ngày phòng trường hợp tôi cần đến ông.

    - Tôi muốn đến chia buồn cùng bà Franklin trước khi rời nơi đây.

    Hắn đứng dậy định đi thì một ý nghĩ chợt nảy trong đầu.

    - Khi tôi đến nhà máy xay của anh em nhà Franklin, tôi có cảm tưởng anh em nhà đó đang làm chuyện gì bất hợp pháp... có thể họ lảm rượu lậu đấy.

    Người cảnh sát cười.

    - Đó là ý tưởng khôi hài của Willie khi dùng nơi bỏ hoang đó. Tôi đã đến tận nơi xem xét rồi, không có rượu lậu. Hắn có hai bộ máy gì đó dùng trong viện bào chế, rất cổ lỗ, nhưng rượu lậu thì không.

    Nick không quan tâm đến vẻ hài hước của viên cảnh sát hói đầu trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này. Hắn nói cho có vẻ thành thật.

    - Lúc nào tôi cũng sẵn sàng nếu ông cần.



    ***



    Có nhiều xe hơi đậu trước của nhà bà Franklin khi hắn ghé thăm sau bữa trưa. Vào nhà hắn thấy bà Cassy Franklin trong trạng thái gần như suy sụp, đang được những người láng giềng bên cạnh chăm sóc. Không thấy ba người con trai của bà ta. Bà nhận ra Nick ngay.

    - Ông Nicholas.

    - Tôi sắp đi khỏi vùng này thì nghe tin. Gus là một người đàn ông thật sự, tôi xin chia buồn vì ông ta chết một cách thương tâm như vậy.

    - Ông ấy giúp việc nhà cho tôi gần bốn mươi năm, tôi không biết làm gì nếu không có ông ấy!

    - Bao giờ cử hành lễ tang, thưa bà?

    - Thứ bảy. Ông ấy sẽ được khâm liệm ngày mai tại nhà tang lễ của tỉnh.

    - Tôi sẽ đến nếu tôi còn ở đây.

    Đó là điều tối thiểu hắn có thể làm cho người đã chết thay cho hắn.

    Hắn trở lại trạm điện thoại công cộng cạnh cây xăng hắn đã gọi lúc trước. Có lẽ đây là trạm đện thoại công cộng duy nhất trong tỉnh, ở New York, Sandra Paris đang chờ phôn của hắn.

    - Hơn hai tiếng rồi, Nick, dễ cũng gần ba tiếng đấy ông ạ!

    - Anh xin lỗi, có chút rắc rối ở đây. Một người đàn ông bị giết mà nguyên nhân một phần do anh: Chúng cho rằng ông ta lẻn vào nhà chúng để đánh cắp cái lược.

    - Sao lại thế?

    - Anh cũng không hiểu, nhưng anh phải ở lại đến ngày mai, để làm vui lòng ông cảnh sát trưởng ở đây.

    - Đừng để bị bắt nhé, Nick. Em không lôi nổi anh ra khỏi nhà tù lần nữa đâu.

    - Anh sẽ cẩn thận.

    - Có lẽ em phôn cho Dusty biết chuyện thì hay hơn. Người chết là ai vậy?

    - Một người đàn ông da đen tên Gus Adams, làm việc cho bà Franklin.

    - Anh nghĩ mấy gã con trai bà ta giết ông ấy?

    - Một tên thôi - Willie. Phải chi có cách nào anh chứng minh được...

    - Cẩn thận nhé.

    Nàng cúp máy.

    Nick ra khỏi trạm điện thoại, trở về chỗ đậu xe. May mắn là lần này không có xe cảnh sát chờ sẵn. Thò tay vào túi kiếm chìa khóa và hắn thấy có vật lạ trong túi. Đó là một loại lọ thuốc con nhộng bằng gelatin dùng cho dược phẩm, xẹp lép. Hắn sực nhớ đó là vật hắn gỡ ra khỏi đế giầy trong bóng tối đêm trước. Hắn cũng nhớ một chuyện khác. Một người bạn của Dusty Wayne đã gặp Willie Franklin tại một nhà thuốc tây.

    Nick nghĩ đến lúc hắn đến thăm đáp lại cảnh sát trưởng Garvey.



    ***



    Viên cảnh sát cần biết chắc hơn. Ông lắng nghe câu chuyện của Nick rồi lắc đầu.

    - Có thể ông đúng, Nicholas, nhưng tôi cần chứng cớ để bắt hắn.

    - Thế thì bắt mấy người em hắn vậy, xem họ chịu khai hay không.

    - Về tội gì?

    Nick thở dài, cảm thấy thất vọng vì nỗ lực cống hiến cho luật pháp không thành.

    - Vậy thì, thưa ông cảnh sát trưởng, Willie có thể không làm rượu lậu, nhưng hắn đang làm việc g đó mờ ám, nếu không tại sao họ bắn vào người lạ đến gần chỗ họ? Theo tôi thì hắn nạp vào những vỏ thuốc này một chất bất hợp pháp, ma túy chẳng hạn.

    - Hãy chứng minh điều đó, nếu đúng thì tôi sẽ bắt hắn trong vòng một tiếng.

    - Tôi sẽ chứng minh được nếu tôi lọt được vào căn nhà của họ.

    Viên cảnh sát mỉm cười.

    - Lúc này thì ba anh em họ đang ở chỗ bà mẹ.

    Nick mỉm cười đáp lại. Có sự thông hiểu giữa họ.


    ***



    Nhà máy xay hoàn toàn im lặng khi hắn đến đó nửa giờ sau. Cửa trước hình như dễ mở hơn trong ánh sáng ban ngày và hắn không để mất thì giờ. Lấy tất cả các mẫu những vỏ thuốc nào hắn có thể tìm thấy, cùng với một thứ bột xốp đựng trong những cái thùng to có dán nhãn “Bột”.

    Khi rời căn nhà, hắn đi dọc theo bờ sông, tránh không chạm trán anh em Franklin trong trường hợp họ trở về.

    Cảnh sát Garvey xem xét kỹ những mẫu thuốc Nick đưa cho ông lúc quá trưa hôm đó.

    - Cảnh sát tiểu bang có thể phân tích thứ này cho tôi ngay nếu tôi có yêu cầu khẩn cấp.

    Nick mỉm cười.

    - Hình như ông còn ghét anh em Franklin hơn tôi.

    - Có thể, ông Nicholas.

    Nick trở lại khách sạn và thấy một người khách đang chờ hắn tại bãi đậu xe. Dusty Wayne đang ngồi trong chiếc xe hơi thể thao.

    Hắn nói, nghiêng mình qua cửa xe.

    - Tôi dám cá cô đang tìm tôi.

    - Lên xe đi, chúng ta sẽ nói chuyện

    Nick lên ngồi cạnh cô ta.

    - Cô nói chuyện với Sandra rồi?

    Dusty gật đầu.

    - Đó là lý do tôi đến đây. Anh có đem theo cái lược không?

    Hắn đưa cái lược ra. Cô ta cầm lấy. Rõ ràng cô ta bị kích động mạnh khi xem xét kỹ cái lược. Rồi những giọt nước mắt lăn dài trên má cô ca sĩ. Tuy hiểu nhưng hắn vẫn hỏi.

    - Đúng không?

    - Đúng, vậy là Willie đã giết Tom.

    - Nhưng tại sao chứ? Anh giết em ruột...

    - Chuyện xảy ra lâu rồi, để tôi kể cho anh nghe về...

    - Biết đâu Tom làm rơi cái lược hoặc cho Willie khi bỏ nhà đi.

    - Không. Đây là món quà đầu tiên tôi cho anh ấy. Anh ấy rất quí nó. Có thể anh ấy vứt nó đi nếu lúc đó anh ấy ở tuổi ba mươi lăm, nhưng năm đó Tom mới mười bảy, tuổi mộng mơ...

    - Tôi có cuộc hẹn với cảnh sát trưởng sáng nay, cô hãy đi với tôi.

    - Không ai có thì giờ nghe câu chuyện của tôi đâu.

    - Tôi tin họ sẽ nghe.


    ***


    Họ có mặt tại văn phòng cảnh sát trưởng lúc chín giờ. Viên cảnh sát kéo ghế cho Dusty.

    - Rất hân hạnh, tôi rất thích giọng hát của cô.

    Cô cười nhưng không tươi.

    - Cám ơn ông. Phải chi chúng ta gặp gỡ trong một dịp vui vẻ hơn.

    Viên cảnh sát nhìn Nick.

    - Ông đến hơi sớm đấy, cảnh sát tiểu bang chưa liên lạc với phòng thí nghiệm.

    - Ông gọi họ không được sao?

    - Ừ, để thử xem.

    Ông với lấy ống nghe. Sau vài phút chờ đợi, ông được chuyển đường dây đến phòng thí nghiệm và ông ghi chép nhanh trong cuộc đàm thoại. Gác máy, ông mỉm cười. Nick đoán.

    - Một loại thuốc bất hợp pháp?

    Viên cảnh sát lắc đầu.

    - Không, hoàn toàn hợp pháp. Một loại thông dụng, tuy đắt tiền, thuốc chữa bệnh tim.

    - Cái gì?

    Viên cảnh sát mỉm cuời vì vẻ ngạc nhiên của Nick.

    - Nhưng nó bị chia đôi rồi trộn với thứ bột đó, thứ bột ông đem về. Willie và hai em hắn đang bao che thuốc chữa bệnh giả mạo, thu lợi rất lớn.

    - Có hại cho người dùng không?

    - Vô cùng nguy hiểm! Có thể gây chết người ở một số trường hợp.

    - Ông định làm gì?

    - Cảnh sát tiểu băng định hành động ngay hôm nay. Nhưng chúng tôi không thể đưa ra việc ông đột nhập vào đó để thu thập chứng cớ để bắt chúng, vì chúng sẽ đòi lệnh khám nhà đúng theo luật. Chúng tôi phải tìm cách chấm dứt việc làm của chúng và tìm xem chúng đang bán thuốc với số lượng lớn hay chỉ bán cho những nhà thuốc riêng lẻ.

    Dusty xen vào.

    - Ông thử tách riêng Jud và Jessie để hỏi xem, cho chúng biết sẽ được khoan hồng nếu kể cho ông nghe về những án mạng.

    - Thưa cô, tôi không cần sự chỉ dẫn của cô.

    Nói rồi ông nhíu mày.

    - Những án mạng nào? Gus Adams hay ai khác?

    - Anh và em của họ, Tom. Anh ta biến mất mười hai năm trước. Người ta nói là anh ta bỏ nhà đi nhưng tôi không bao giờ tin chuyện đó.

    Willie Franklin không có ở nhà máy xay khi cảnh sát ập vào. Jud và Jessie chối phăng mọi việc, nhưng ngay sau đó chúng không dám nhận lấy tội lỗi của Willie về mình. Quá trưa hôm đó cả hai ký vào tờ khai xác nhận Willie đã bắn Gus Adams.

    Nick lắng nghe lời khai của chúng qua cuộn băng ghi âm. Hắn hỏi.

    - Tại sao anh các người giết Gus?

    - Anh ấy cho rằng ông Gus lẻn vào nhà để đánh cắp một cái lược.

    - Cái lược gì?

    - Lược của em tôi, Tom. Willie giữ nó, mang theo trong người thường xuyên. Chúng tôi không biết tại sao, thật điên khùng!

    - Chuyện gì xảy ra cho Tom?

    - Willie giết nó lâu rồi, khoảng mười hai năm trước.

    - Các người tưởng chúng tôi tin chuyện đó à?

    - Tôi có thể chỉ các ông chỗ chôn nó, ngay sau cối xay gió cạnh bờ sông.

    - Willie đâu?

    - Đi mua thuốc ở tỉnh. Anh ấy sẽ có mặt ở đám tang tối nay.


    ***


    Nick phôn cho Sandra Paris cho nàng biết hắn đã giao cái lược cho Dusty.

    - Cô ấy rất vui, cảnh sát địa phương đang bố ráp chờ Willie.

    - Tốt! Em đã thỏa thuận với Dusty về chuyện tiền nong. Chị ấy sẽ trả bằng

    ngân phiếu, em sẽ trả anh sau.

    - Anh lấy một nửa thôi, hai mươi ngàn, trả lại cô ta phần còn lại của anh.

    - Cái gì vậy hử?... Việc làm từ thiện à?

    - Vì cô ấy trả tiền cho tình yêu - yêu một cậu bé đã chết cách đây mười hai năm.

    - Vậy mới đúng là anh đấy, Nick!

    Họ lái xe vào chỗ đậu ngay khi nhà tang lễ vừa mở cửa. Gus Adams không có họ hàng, Cassy Franklin là bà chủ và cũng là người thân duy nhất đối với ông ta. Bà đứng cạnh quan tài chưa đóng nắp, tiếp đón từng người đến chia buồn. Nick biết bà chưa được cho biết về việc bắt giam Jus và Jessie.

    Willie Franklin ngồi ở góc xa trong căn phòng. Hắn đứng dậy khi nhận ra Nick và bước về phía Nick. Rồi hắn lại ngạc nhiên khi thấy Dusty Wayne bước vào, mặc một bộ đồ toàn màu đen. Cô lên tiếng.

    - Xin chào, Willie.

    - Cái gì...? Dusty, cô đấy à?... Lâu quá rồi...

    Trán hắn rướm mồ hôi.

    Người lên tiếng tiếp theo là cảnh sát trưởng, giọng ông rõ ràng.

    - Willie, tôi bắt ông vì tội giết người.

    - Giết người? Giết ai?

    - Hai người, Gus Adams và Tom, em của ông.

    Hắn định phóng chạy qua họ, băng qua chỗ đặt quan tài, hướng về cửa. Cảnh sát tóm lấy hắn khi hắn mới chạy được vài bước, và nhanh chóng còng tay hắn.

    Nick hỏi hắn khi hắn đang bị dẫn đi.

    - Willie, chúng tôi biết lý do ông giết Gus, nhưng tại sao ông giết em ruột mình?

    Hắn nhìn trừng trừng Nick như thể mới gặp Nick lần đầu. Có lẽ hắn nghĩ Nick cũng là cảnh sát tiểu bang. Và cũng có lẽ hắn đang thầm nguyền rủa mấy gã em đã để cho Nickvào nhà xưởng.

    Nhưng hắn bỗng quay lại nhìn người đàn ông da đen trong quan tài, và ngay khoảnh khắc đó, Nick nhớ lại sự miêu tả về Tom Franklin - da đen, tóc quăn, đẹp trai có tiếng...

    Willie nói, buồn bã:

    - Năm đó nó mười bảy tuổi... nó giống cha nó y như tạc.
     
    vnn1269, tducchau, sucsongmoi and 2 others like this.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này