Tự truyện Chân trần Chí Thép - James G.Zumwalt

Thảo luận trong 'Tủ sách Hồi ký - Tiểu sử' bắt đầu bởi Song Ngư, 30/9/13.

Moderators: SLASH.ROCK4U
  1. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    Trong cuộc chiến mang hình hài một ván cờ di động và chống di động, hệ thống phòng không không là ngoại lệ. Cuộc cờ đó đa phát triển lên một tầm cao mới vào ngày 24 tháng 7 năm 1965, khi Bắc Việt bắt đầu triển khai tên lửa đất đối không SA-2 vào hệ thống phòng không. Các phi công Mỹ đã hoàn toàn bị bất ngờ.

    Ông Văn giải thích: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi sử dụng SA-2 và loại vũ khí này đã đem về thành công lớn. Các phi công Mỹ rất kinh ngạc. Lúc bấy giờ chúng tôi bắn một phi đội F-4 ở cách Hà Nội chừng 60 cây số về phía Tây. Ba chiếc rơi. Chúng tôi lập tức loan tin về thành công này trên đài phát thanh. Ngày 24 tháng 7 đã được chọn làm ngày truyền thống của lực lượng phòng không là để nhớ tới sự kiện này”.

    Sau cuộc tấn công ngày 24 tháng 7 năm 1965, vào ngày hôm sau còn có một cuộc không kích nữa.

    “Người Mỹ ném bom ngay đúng vị trí hôm trước để trả thù vụ tập kích tên lửa”, ông Văn nói. “Nhưng lần này chúng tôi không dùng tên lửa mà chỉ dùng súng cao xạ. Quyết định chỉ dùng súng được đưa ra sau khi chúng tôi nhận định rằng máy bay Mỹ sẽ trở lại và bay ở độ cao thấp – quá thấp nên tên lửa không phát huy tác dụng. Chúng tôi đã bắn cháy năm máy bay. Sau cuộc không kích đó, chúng tôi biết người Mỹ sẽ tiếp tục truy tìm các căn cứ tên lửa. Vì thế, chúng tôi đã làm những trận địa tên lửa giả toàn bằng tre. Chúng tôi thậm chí còn triển khai quân gần đấy để đánh lừa họ”.

    Sự bối rối của người Mỹ trước các trận địa tên lửa giả vài năm sau đã được tướng William W. Maimer, Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự của Mỹ tại Việt Nam về không quân (MACV), thừa nhận:

    “Số lượng các căn cứ tên lửa đất đối không (SAM) khá ổn định trong suốt một thời gian dài, khoảng 175 hay 200 căn cứ. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng con số này là một mối đe dọa thực sự bởi có thể nhiều căn cứ được xây dựng hôm nay nhưng hôm sau lại bỏ trống. Dù chúng tôi đã tăng cường do thám nhưng cũng rất khó để biết được có bao nhiêu căn cứ hoạt động thực sự”.

    Tên lửa SA-2 được chuyển đến Hà Nội nhiều tháng trước khi được triển khai thực sự vào tháng 7 dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia và kỹ thuật viên Liên Xô. Giới chuyên gia Xô viết nhận định người Việt Nam cần được đào tạo ít nhất một năm để có thể vận hành tốt loại tên lửa này. Tuy nhiên, nhóm người Việt Nam đầu tiên được Liên Xô đào tạo đã trở nên thành thạo rất nhanh. Những người này sau đó trở thành lực lượng hướng dẫn chuyên nghiệp cho các thế hệ vận hành tên lửa tương lai.

    “Phía Liên Xô bảo rằng chúng tôi cần một năm huấn luyện”, ông Văn kể. “Nhưng khi khóa đào tạo mới bắt đầu, chúng tôi sớm nhận ra rằng vận hành loại tên lửa này không quá khó. Mọi người dự tính chỉ cần bốn tháng để hoàn thiện các kỹ năng. Rốt cuộc chúng tôi chỉ mất có ba tháng”.

    Phía Liên Xô chỉ dạy người Việt Nam cách thức vận hành các dàn tên lửa chứ họ không trực tiếp tham gia chiến đấu.

    “Chuyên gia Liên Xô có mặt trong những lúc xảy ra chiến sự, nhưng họ luôn đứng cách xa trận địa tên lửa”, ông Văn chỉ rõ. “Họ giúp chúng tôi khắc phục bất cứ lỗi kỹ thuật nào xảy ra trong lúc chiến đấu nhưng không nhất thiết họ phải có mặt tại trận địa. Chúng tôi được họ giúp đỡ rất nhiều”.

    Sự xuất hiện của tên lửa SA-2 trong cuộc chiến đã khiến các phi công Mỹ đối mặt với nhiều hiểm nguy hơn. Một ước lượng trong thời kỳ đầu cho hay tỷ lệ chính xác của SA-2 là cứ 100 quả tên lửa được bắn đi thì có 61 máy bay rơi. (Tỷ lệ này một lần nữa lại không khớp với báo cáo của người Mỹ).

    Ông Văn kể về quá trình tuyển chọn kỹ thuật viên vận hành tên lửa SA-2: “Mỗi khi cần lập thêm một nhóm học viên vận hành tên lửa, chúng tôi lại chọn các chiến sĩ từ nhiều đơn vị - vận tải, pháo binh, v.v. Họ được tuyển dụng từ nhiều chuyên ngành khác nhau”. Điều này xuất phát từ niềm tin rằng mỗi người lính là một bộ phận của đội ngũ phòng không, bất kể người đó thuộc ngành nào, và họ cần được trang bị thêm kiến thức về chiến thuật không chiến của Mỹ.

    Việc bắt kịp năng lực và chiến thuật không quân của Mỹ là một thách thức thực sự cho những người làm công tác huấn luyện bên phía Việt Nam. “Người Mỹ có rất nhiều loại máy bay và vận dụng nhiều chiến thuật khác nhau”, ông Văn giải thích. “Họ liên tục thay đổi chiến thuật để khiến chúng tôi bối rối, vì thế chúng tôi cũng phải điều chỉnh cách đánh. Đôi khi chúng tôi điều chỉnh tầm cao; lúc khác lại điều chỉnh cách đánh chặn. Dù người Mỹ thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì chúng tôi cũng có thể điều chỉnh cách đánh phù hợp. Trong vài trường hợp, người Mỹ không thay đổi gì bởi chiến thuật đang áp dụng đã khá hiệu quả. Chẳng hạn, chúng tôi đã từng bắn vào máy bay SR-71 nhưng chưa bao giờ thành công”. (SR-71 là một loại máy bay do thám của Mỹ đã phát huy hiệu quả cao trong hàng chục năm hoạt động. Tầm bay của nó rất cao, các loại tên lửa trong kho vũ khí của Hà Nội không thể với tới được).

    Trong ván cờ phòng không mà hai bên đã chơi, rất nhiều phương pháp và đối pháp đã được đưa vào áp dụng để giành lợi thế.

    Một đối pháp được áp dụng đó là đánh vào rađa hỗ trợ tên lửa SA-2. Sau khi quả tên lửa SA-2 được phóng đi, rađa mặt đất sẽ quyết định đường bay của nó. Rađa này phát ra xung điều khiển có tác dụng “lái” tên lửa tới mục tiêu. Cách thức này giúp tên lửa có độ chính xác cao nhưng đồng thời cũng tạo ra kẽ hở. Do dàn rađa mặt đất phải phát sóng để dẫn đường cho tên lửa nên phi công Mỹ đã triển khai một đối pháp hiệu quả. Thiết bị điện tử đặc biệt gắn trên máy bay cho phép phi công phát hiện được các xung điều khiển ngay khi nó vừa được phát ra từ mặt đất, từ đó có thể dò tìm đến dàn rađa. Có thể vào thời điểm máy bay dò ra nơi đặt rađa thì tên lửa đất đối không đã được bắn đi, nhưng nếu phi công thành công trong việc phá hủy rađa trước khi tên lửa bay tới mục tiêu thì cũng có thể khiến quả SA-2 vừa được phóng ra ấy “bị mù” – biến một quả tên lửa đang được điều khiển thành một viên đạn không được điều khiển. Do rađa và dàn tên lửa SA-2 thường được đặt chung một chỗ, phi công có thể phá hủy cả hai cùng lúc. Trong hoàn cảnh ấy, người đi săn – tức dàn tên lửa – đã trở thành kẻ bị săn tìm.

    Sau khi bị mất nhiều dàn SA-2, người Việt Nam bắt đầu nhận diện được chiến thuật mà phía Mỹ đang áp dụng. Từ đó, họ đã đưa ra đối pháp của mình để triệt phá chiến thuật của Mỹ.

    Với việc người Mỹ lợi dụng các xung điều khiển của rađa đối phương đê phát hiện mục tiêu, phía Việt Nam thấy rằng muốn chống lại đối pháp đó thì họ phải triệt tiêu lợi thế của kẻ thù. Nhưng nếu không sử dụng xung điều khiển, tên lửa phòng không sẽ bị mù. Làm thế nào để các xung điều khiển không bị người Mỹ lợi dụng mà vẫn có thể dẫn đường tên lửa SA-2 tới mục tiêu?

    Và người ta đã đi đến quyết định rằng, thay vì cho rađa phóng xung điều khiển đồng thời với việc phóng tên lửa, vốn có thể giúp phi công có thời gian tối đa để định vị và tấn công căn cứ rađa, những người vận hành có thể phóng tên lửa trước mà không phát xung điều khiển – tức là phóng tên lửa theo hình thức phi điều khiển. Sau khi quả SA-2 đạt được một độ cao nhất định nào đó thì người vận hành mới bật rađa, cho phát ra xung điều khiển, qua đó biến một quả đạn “mù” thành một tên lửa có điều khiển. Thường thì chỉ đến chặng cuối hành trình của tên lửa, người vận hành mới bắt đầu phát xung điều khiển dẫn nó tới mục tiêu. Cách thức này không giúp dẫn đường tên lửa trong chặng đầu nhưng nó lại điều khiển ở giai đoạn quan trọng nhất – khi tên lửa tiếp cận mục tiêu. Bằng cách ấy, nó khiến phi công Mỹ không có đủ thời gian để định vị nơi phát ra xung điều khiển để từ đó tiêu diệt mục tiêu.

    Người Việt Nam còn triển khai nhiều phương pháp khác.

    “Rất nhiều lần người Mỹ tìm cách gây nhiễu hệ thống rađa tên lửa của chúng tôi”, ông Văn cho biết. “Khi họ làm vậy, chúng tôi quyết định không sử dụng rađa SA-2 nữa mà dùng loại khác, chẳng hạn rađa dùng cho súng phòng không. Chúng tôi biết rằng người Mỹ không có khả năng gây nhiễu đồng thời tất cả các loại rađa khác nhau. Việc phát triển các chiến thuật để đối phó với sự vượt trội về công nghệ của họ là một nhiệm vụ thường trực. Rốt cuộc, ngay cả Liên Xô cũng phải học những chiến thuật này của chúng tôi. Về mặt công nghệ, người Liên Xô là thầy của chúng tôi; nhưng về mặt thủ thuật, chúng tôi là thầy của họ”.
     
  2. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***




    Người Việt Nam biết rõ rằng nỗ lực phòng không của họ có thể thu được thành công nhờ vào việc nắm bắt chiến thuật của phi công Mỹ.


    “Người Mỹ thường xuyên sử dụng một chiến thuật đặc biệt”, ông Văn kể. “Máy bay của họ cất cánh từ tàu sân bay, sau đó bay dọc bờ biển, tìm đến một cửa sông lớn rồi theo dòng sông xâm nhập vào đất liền, khi bay trên mặt nước họ thường hạ độ cao tới mức thấp nhất. Thế là chúng tôi bố trí các đơn vị phòng không trong một cự ly đủ gần để có thể bắn thẳng vào vùng máy bay bay trên mặt sông. Đơn vị phòng không của chúng tôi đóng bên cạnh khu dân cư địa phương, thường là nằm cả hai bên bờ sông. Người dân địa phương cũng dùng súng trường để bắn máy bay. Trong vòng một năm, một trung đội phòng không đã bắn rơi hai máy bay”.


    Ngay cả dân thường cũng tìm hiểu chiến thuật không quân của Mỹ. Đại tá Lê Thành Chơn, một sĩ quan không quân Bắc Việt phụ trách dẫn đường và nghiên cứu chiến thuật của quân Mỹ, kể lại: “Chúng tôi áp dụng rất nhiều phương pháp để chống người Mỹ. Có khi chúng tôi lập một điểm phòng không trên cầu hoặc trên mái nhà. Đến lúc người Mỹ sử dụng nhiều máy bay F-111, người dân đã quan sát chiến thuật và hành trình của loại máy bay này. Khi có tin báo máy bay đang đến, họ chốt tại các gò đất cao ngay bên dưới đường bay để bắn. Phương cách này đã thu được kết quả với việc người dân dùng vũ khí nhỏ bắn hạ được một chiếc F-111”.


    Một người đặc biệt am tường hệ thống phòng không của Hà Nội là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. “Chúng tôi chiến đấu phòng không với quyết tâm, trí thông minh và tính sáng tạo cao”, Đại tướng giải thích. Những phẩm chất này, theo ông, được thể hiện rõ nhất trong nỗ lực bắn hạ máy bay B-52 vốn bay rất cao.


    “Làm sao để bắn B-52”, ông phân tích. “Vẫn là nhờ vào quyết tâm, trí thông minh và sáng tạo… Đó thực sự là thách thức lớn. Loại máy bay này có thiết bị gây nhiễu sóng, làm giảm khả năng chiến đấu của chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã thích ứng với điều đó. Đôi khi phải mất mười một quả tên lửa mới bắn được một chiếc máy bay; nhưng lúc khác chúng tôi thành công với chỉ hai quả tên lửa. Đó chính là lòng can đảm và trí thông minh – trí thông minh xuất phát từ cấp chỉ huy cao nhất cũng như những đơn vị ở chiến trường – và thậm chí đôi khi nó xuất phát từ một người. Chúng tôi khẳng định rằng đây là cuộc chiến toàn dân”.


    Việc B-52 ném bom Hà Nội đã khiến nhiều dân thường phải sơ tán. Người con trai của ông Giáp nằm trong số đó. Vị đại tướng đã chia sẻ câu chuyện về việc người con trai của mình, sau khi được sơ tán khỏi thành phố để đảm bảo an toàn, đã bắt gặp một chiếc B-52 rơi. Lục lọi trong đống xác máy bay, người con trai tướng Giáp tìm thấy một số vật dụng và sau đó mang về cho cha ở Hà Nội.


    “Con trai tôi mang về hai bộ tài liệu”, ông Giáp nói. “Một tập rất dày, của Bộ Quốc phòng, trên bìa có dòng chữ in ‘Lưu hành nội bộ, không được đưa ra khỏi Bộ Quốc phòng’. Khi nhận được tài liệu này, tôi liền viết thêm ở bên dưới: ‘Ngoại trừ Bộ Quốc phòng Việt Nam’. Tài liệu thứ hai rất dài và trong đó có các mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Không quân. Mệnh lệnh chỉ đạo đánh phá các cơ sở phòng không, cả thật lẫn giả, cùng nhiều mục tiêu khác ở trong và xung quanh Hà Nội. Phi công được lệnh rút lui an toàn sau khi hoàn tất nhiệm vụ. Nhưng tôi đã thêm vào rằng các phi công không thể rút lui an toàn – thay vào đó họ phải tới Hà Nội Hilton”.


    Vị đại tướng kể một câu chuyện để chứng minh cho trường hợp “chỉ một người” cũng có thể hạ máy bay.


    “Khi mới bắt đầu bắn phá miền Bắc, Không quân Mỹ sử dụng chiến thuật bay thấp. Ban đầu chúng tôi gặp khó khăn. Có lần tôi đã tới gần vĩ tuyến 17 để gặp những người bắn rơi máy bay bằng súng trường hoặc súng máy. Trong nhóm đó có một nữ sinh mười tám tuổi. Cô ấy kể ngày nào cũng quan sát máy bay và cô đã nhận ra rằng những chiếc máy bay khi tới một điểm giữa hai ngọn núi liền hạ tới một độ cao nào đó. Cô liền chọn một điểm thích hợp và đợi khi máy bay hạ xuống độ cao đó thì nổ súng bắn rơi. Cô ấy bảo rằng đó là một quy luật đơn giản. Tôi nói rằng cô ấy là một nhà triết học thực thụ - vì nhà triết học luôn biết các quy luật. Sau đó tôi đã kể câu chuyện ấy với Chủ tịch Hồ Chí Minh”.






    ***




    Đại tá Chơn cũng kể lại một trong những trường hợp làm rơi máy bay Mỹ đáng kinh ngạc nhất trong cuộc chiến – sự kiện mà người ta chẳng cần bắn một viên đạn nào cả.


    “Chúng tôi triển khai chiến thuật sử dụng khí cầu cho hệ thống phòng không”, ông Chơn cho hay. Những chiếc khí cầu này có đường kính từ hai tới bốn mét, được làm bằng cao su và bơm loại khí nhẹ hơn không khí. Chúng tôi thả hàng ngàn khí cầu tại một số điểm nhất định, ở độ cao khác nhau, từ 180 đến 200 mét, với dây nối xuống đất để giữ ổn định.


    Địa điểm được chọn để triển khai khí cầu là những nơi được dự đoán nằm trong không trình hoạt động của phi công Mỹ, hoặc nơi mà người Việt Nam muốn dụ đối phương tới.


    Trong trường hợp sau, khí cầu được sử dụng ban ngày. Chúng được sắp xếp để buộc phi công Mỹ khi sử dụng chiến thuật tiếp cận thấp phải bay theo một lối khác so với dự định. Khi tiến vào khu vực này, phi công sẽ gặp quá nhiều khí cầu nên không thể bắn rơi hết được. Vì thế anh ta buộc phải lượn máy bay lên một hành lang duy nhất không có khí cầu – là một lối đi mà những người dưới mặt đất đã tính toán kỹ. Hành lang bay này sẽ dẫn phi công tới đúng khu vực nơi pháo cao xạ và tên lửa phòng không đang đợi sẵn.


    Người ta còn thả khí cầu ở những nơi phi công Mỹ thường sử dụng chiến thuật tiếp cận thấp đối với một số mục tiêu cụ thể. Ở những nơi này, nhiều khí cầu được thả lên trời để ngăn đường tiếp cận của phi công. Người ta thả khí cầu vào ban đêm với mục đích tạo ra một khu vực nguy hiểm ngay trong đường bay của những chiếc máy bay tốc độ cao. Một khi máy bay tới quá gần, quả khí cầu có thể bị cuốn vào trong động cơ phản lực, khiến máy bay rơi. Theo ông Chơn, chiến thuật này đã thành công ít nhất một lần vào năm 1967, trên bầu trời thị trấn Phủ Lý ở tỉnh Hà Nam, nằm về phía Nam Hà Nội trên vùng đồng bằng sông Hồng.


    “Chúng tôi bố trí khí cầu để tạo ra một vùng bao phủ khá dài”, ông Chơn mô tả. “Ban đêm chúng tôi thả khí cầu lên và đến sáng thì kéo xuống. Quả khí cầu cao nhất nằm ở độ cao khoảng 200 mét, thấp nhất là 50 mét. Cự ly giữa các quả cầu không quá 50 mét. Đêm nọ, có một chiếc A-6 của Mỹ bay vào vùng trời này và một quả khí cầu bị cuốn vào động cơ. Máy bay rơi. Chiến thuật này chỉ thành công một lần bởi sau đó các phi công đã tìm cách tiếp cận ở tầm cao hơn”.


    Ông Chơn nói rằng chiếc máy bay đó bay quá thấp nên phi công không kịp nhảy ra.


    “Chúng tôi sử dụng tất cả các chiến thuật khả dĩ để chống Mỹ”, ông Chơn giải thích. “Trong trường hợp này, do chúng tôi lặp đi lặp lại một chiến thuật nên người Mỹ đã biết đường tránh”.


    Khi tiến hành nghiên cứu, ban đầu người ta đã định đặt thuốc nổ vào khí cầu. Tuy nhiên, phương pháp này đã không được áp dụng.


    Chiến thuật sử dụng khí cầu rốt cuộc đã bị bỏ, xuất phát từ một quyết định ngoài mong đợi.


    “Một anh lính phụ trách việc thả khí cầu vào ban đêm và kéo xuống vào buổi sáng rốt cuộc đã nản”, ông Chơn giải thích. “Anh ta cảm thấy rằng tất cả những việc mình làm chẳng đem lại kết quả gì nhiều. Cho đến cuối năm 1967, đơn vị của anh ta đã góp phần bảo vệ nhà máy điện Yên Phụ bằng cách thả bóng ngăn những chiếc A-4 bay thấp, mang bom từ Hàng không mẫu hạm vào đánh nhà máy điện duy nhất của Hà Nội”. Rốt cuộc nhà máy điện cũng bị trúng bom. Nhưng ông Chơn khẳng định nhà máy điện chỉ mất điện có 6 giờ và nó vẫn bảo đảm điện cho Thủ đô suốt cuộc chiến tranh.


    Ông Văn rất tự hào về việc đất nước ông, dù thiếu công nghệ, vẫn đạt được thành công trong nỗ lực phòng không trước một siêu cường thế giới.


    “Người Việt Nam từng có một lịch sử chiến tranh rất lâu dài”, ông diễn giải. “Vì thế, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm. Chiến đấu hàng chục năm chống người Nhật Bản và người Pháp, rồi sau đó là người Mỹ nên đối với chúng tôi đó như là một lẽ thường. Người ngoài cuộc sẽ khó mà hiểu được làm sao chúng tôi có thể hoàn thành những sứ mệnh ấy”.
     
  3. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    KHÔNG CHIẾN TRÊN BẦU TRỜI NỘI BÀI


    Ông Lê Thành Chơn luôn tỏ ra rất tự tin. Sau khi đã trải qua hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, có lẽ ông có quyền tự tin như thế.

    Sinh năm 1942, ông gia nhập Việt Minh từ năm mười hai tuổi. Những bạo tàn mà quân Pháp giáng xuống đầu người dân đã nung nấu trong Chơn quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước mình.

    Từng tham gia công tác trinh sát, ông Chơn nhớ lại lần đầu tiên chứng kiến trực tiếp hành động dã man của quân Pháp mà không thể làm gì được do sợ lộ bí mật đơn vị: “Có lần, lính lê dương Pháp trói dựng đứng một phụ nữ Việt Nam rồi mổ bụng bà để moi gan. Lần khác, tôi thấy lính Pháp đá dồn dập vào một phụ nữ mang thai”.

    Sau khi quân Pháp thất trận, Chơn ra Hà Nội, để lại một người mẹ và hai em gái ở miền Nam. Sự dịch chuyển này đã dẫn đến những ngã rẽ trong gia đình nhiều năm về sau, tương tự như thời Nội chiến Mỹ, khi anh em ruột chiến đấu cho chính quyền miền Nam còn bản thân Chơn phục vụ miền Bắc. “Nhiều gia đình có con cái ở hai chiến tuyến”, ông Chơn giải thích. “Sự khác biệt ở đây là, trong khi tại miền Bắc, chúng tôi chiến đấu cho lý tưởng thì tại miền Nam, người ta bị ép phải đi lính”.

    Năm 1958, Chơn vào Trường Không quân ở Cát Bi, Hải Phòng, học lái YAK-18 (cùng với phi công huấn luyện). Đầu năm 1962, ông được gửi sang Trung Quốc học ba năm về điều hành bay và kỹ thuật chiến đấu hiện đại. Đối với Chơn, đó là khoảng thời gian lãng phí. “Trên thực tế, khi trở về Việt Nam, tôi không thể sử dụng các kỹ thuật của Trung Quốc để chống người Mỹ”, ông nhớ lại.“Chương trình huấn luyện không chiến của Trug Quốc dựa vào những kinh nghiệm chống Mỹ mà họ có được thời chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, thời chiến tranh Triều Tiên thì Mỹ làm gì có công nghệ máy bay tân tiến như tại Việt Nam”. Một trong những khác biệt nữa đó là, trong chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến trên không là sự đối đầu giữa các lực lượng không quân cân bằng, trong khi tại chiến tranh Việt Nam, quân Bắc Việt ít máy bay hơn nhiều so với Mỹ.

    Ông Chơn cũng chê phi công Liên Xô. Ông cho biết khi máy bay Mỹ sắp oanh kích Hà Nội, các cố vấn Liên Xô tỏ ra rất lo lắng. Chơn rất ngạc nhiên khi những phi công không tham chiến này tỏ ra lo sợ, bởi lâu nay ông thường tin rằng người Liên Xô được huấn luyện rất kỹ về điều đó. Mới làm quan sát viên mà đã hồi hộp rồi thì không biết khi trở thành phi công đánh trận sẽ thế nào, Chơn băn khoăn.

    Được các đồng minh đào tạo phi công, nhưng chính người Việt Nam đã tự phát triển các chiến thuật đánh Mỹ. Ông Chơn, lúc bấy giờ mới là thiếu tá không quân, dành nhiều thời gian để tìm hiểu chiến thuật của Mỹ và sáng tạo ra các đối pháp. Ông tin rằng chìa khóa thành công trong việc đối đầu với người Mỹ chính là khả năng triển khai đấu pháp “bất kỳ khi nào chúng tôi muốn” chứ không để người Mỹ làm chủ thế trận. Ông đã trở thành một sĩ quan dẫn đường trong chiến thuật không chiến.

    Ông Chơn thừa nhận việc không quân miền Bắc tổn thất nặng nề trong thời kỳ đầu “là do phi công được huấn luyện theo cách đánh của người Trung Quốc; nhưng rồi chúng tôi bắt đầu sử dụng chiến thuật của chính mình”.

    Chấp nhận đối mặt với cả sự vượt trội về công nghệ lẫn khả năng triển khai quân nhanh chóng của Không lực Mỹ, phi công Việt Nam tập trung áp dụng các chiến thuật vốn đã thu được thành công trên mặt đất – “chiến thuật đánh chớp nhoáng”. Ông Chơn cho biết các phi công được dạy, nếu có thể thì nên tránh lộ diện khi gặp quân địch vượt trội về số lượng, hãy chờ đến lúc được chuẩn bị kỹ càng khả năng chiến đấu cũng như tận dụng yếu tố khách quan để chiếm lợi thế. Phi công được huấn luyện tận dụng các yếu tố như mây, mặt trời, thậm chí núi non trong trường hợp bay thấp. Ông Chơn nói rằng việc triển khai thành công các chiến thuật này đã dẫn tới chiến thắng vào tháng 9 năm 1966 trong cuộc đụng đầu với máy bay Mỹ.



    ***


    Tháng 9 năm 1966, một nhóm máy bay gồm mười hai chiếc F-105 của Không quân Mỹ định tấn công hai chiếc MIG-17 đóng ở sân bay Nội Bài gần Hà Nội. Nhưng có một điều người Mỹ không hề biết, đó là hai chiếc máy bay mục tiêu kia đã được chuyển đến một căn cứ không quân khác ở Hà Bắc trước khi quân Mỹ dự định oanh kích. Khi tiến tới bầu trời Nội Bài, phi đội máy bay Mỹ tách ra ba tốp, mỗi tốp bốn chiếc.

    Có hai ngọn núi nằm ở phía Bắc sân bay; chếch về hướng Tây Bắc là núi Tản Viên cao 893 mét; về hướng Đông Bắc là Tam Đảo cao 1.020 mét. Hai ngọn núi này cách nhau chừng 40 cây số.

    Một tốp máy bay Mỹ tiếp cận sân bay Nội Bài từ hướng Tây Nam ở độ cao 1.500 mét. Một tốp khác, lợi dụng ngọn núi Tản Viên để tránh bị phát hiện, tiếp cận mục tiêu từ phía Đông Bắc của ngọn núi ở độ cao 600 mét. Tốp thứ ba lợi dụng Tam Đảo làm lợi thế để tiếp cận mục tiêu từ hướng Tây Bắc ở độ cao 500 mét.

    Khi toàn bộ máy bay Mỹ tập trung vào sân bay Nội Bài, hai chiếc MIG bốc lên từ sân bay ở Hà Bắc để thực hiện một cú đánh bất ngờ nhằm vào tốp F-105 thứ ba. Chúng tiếp cận tốp thứ ba từ hướng Đông Nam dãy Tam Đảo.

    Khi đang đột kích từ phía sau lưng mục tiêu thì những chiếc MIG bị phát hiện. Tốp F-105 liền thả thùng xăng phụ để đón đánh hai chiếc MIG. Nhưng, theo ông Chơn, khi các chiếc F-105 kịp xoay xở thì chiếc MIG thứ nhất đã ở phía trên lưng tốp thứ ba rồi. Đạn của chiếc MIG bắn trúng một máy bay Mỹ, buộc phi công phải nhảy dù.

    Tương tự, chiếc MIG thứ hai đưa một chiếc F-105 vào tầm ngắm. Nó cũng lập tức ghi điểm khi chiếc máy bay Mỹ thứ hai bị bắn rơi. Hai chiếc MIG phóng vù đi ngay tức thì. Cả hai viên phi công Mỹ đều bị bắt sống trên mặt đất.

    (Ông Chơn cho biết một trong hai phi công là Thiếu tá Jim Cutler; người còn lại chỉ được biết qua cái tên “Damon”).

    Ông Chơn nói rằng thành công này là nhờ vào khả năng làm mất thế chủ động của phi công Mỹ, buộc người Mỹ phải đối đầu với những chiếc MIG một cách thụ động.
     
  4. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    PHẦN 6
    MẤT TÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG




    Có lẽ không vấn đề nào liên quan đến chiến tranh Việt Nam lại khơi gợi nhiều xúc cảm bằng câu chuyện về những người vẫn còn bị coi là mất tích trong khi làm nhiệm vụ (Missing In Action – MIA). Hầu hết người Mỹ đều biết rõ về MIA, nhưng chủ yếu là những mất mát bên phía mình. Họ hầu như không hề biết về vấn đề MIA bên phía Việt Nam – kể cả những nỗ lực của chính quyền Hà Nội trong việc giải quyết các trường hợp MIA của Mỹ lẫn những tác động của nó đối với người Việt Nam, và rộng hơn, toàn bộ vấn đề MIA. Loạt chuyện sau đây tập trung vào phương diện này.


    Các cựu chiến binh Việt Nam hiểu rất rõ về vấn đề MIA của Mỹ - một số người thậm chí còn biết rõ trường hợp thương vong và mất tích đầu tiên của lính Mỹ là vào ngày tháng nào. Vì thế, kèm theo sau đây là câu chuyện về trường hợp mất tích đầu tiên của lính Mỹ và lời cảnh báo ít được quan tâm mà người này đã gửi tới thượng cấp trước ngày định mệnh.










    ĐẠI BÀNG GÃY CÁNH




    Là phóng viên chiến trường, ông Trần Công Tấn đã chứng kiến nhiều khía cạnh của cuộc chiến tranh. Từ Hà Nội ở miền Bắc tới Đồng Hới và Nhân Trạch ở miền Trung, ông đã ghi chép lại các chuyến đi và những quan sát của mình trong hàng chục cuốn nhật ký chiến tranh. Ông đặc biệt quan tâm tới các trận không kích và phi công của những máy bay bị bắn rơi. Đôi khi, theo các trang nhật ký tiết lộ, những phi công đó sống sót và bị bắt; nhưng đôi khi họ lại thiệt mạng.


    Rút một cuốn nhật ký ra, ông Tấn đưa lên mũi ngửi và nhăn mặt: “Nó vẫn còn mùi khói lửa” – nhiều thập niên sau khi ra đời, những trang nhật ký ấy vẫn còn phảng phất mùi vị của chiến tranh.




    ***




    Một mục nhật ký ghi lại cuộc không kích do mười hai chiếc F-105 thực hiện vào tuần đầu tiên của tháng 2 năm 1965 ở Đồng Hới, một thị trấn với chừng 50.000 người. Một số mục tiêu quân sự bị trúng bom, nhiều nhà cửa và khu chợ của thị trấn cũng bị tàn phá.


    Một chiếc F-105 bị trúng đạn cao xạ và người phi công buộc phải nhảy ra. Chiếc máy bay đâm chúi xuống đất chỉ cách trận địa pháo 700 mét. Bộ đội ngay lập tức tỏa ra bắt phi công.


    Viên phi công là Thiếu tá Robert H. Schumaker. Anh này nói được tiếng Pháp, nên những người nói được tiếng Pháp lập tức tới thẩm vấn. Nhưng rồi cuộc tra hỏi đã bị gián đoạn khi dân làng giận dữ vây quanh viên phi công. Sợ rằng không thể kìm giữ được dân làng, những người bắt giữ đã nhanh chóng chuyển tù binh đi nơi khác. (Hồ sơ của Bộ Quốc phòng Mỹ cho hay Robert H. Schumaker được trả tự do cùng các tù nhân khác vào năm 1973.).




    ***




    Nhật ký của Tấn còn đề cập tới một phi công trẻ người Mỹ nữa; anh này kém may mắn hơn.


    Sau khi Schumaker bị bắt, một nhóm năm máy bay của Hải quân Mỹ, trong đó có chiếc do Trung úy Edward Andrew Dickson lái, tấn công một phi trường gần Đồng Hới. Theo ông Tấn, tốp máy bay lướt qua trên đầu những chiếc thuyền gần bờ trên đường tiếp cận mục tiêu. Sau khi hoàn tất vụ không kích, máy bay trở ra biển, xả súng xuống đoàn thuyền.


    Máy bay bay rất thấp, cách mặt biển chỉ chừng 50 mét. Ở độ cao như vậy, chúng trở thành mục tiêu của lưới lửa bủa ra từ các trận địa cao xạ trên bờ cũng như súng trường trên thuyền. Máy bay của Dickson trúng đạn. Nó loạng choạng rồi đâm xuống biển. Trước khi máy bay biến mất, một chiếc dù bung ra. Đoàn thuyền liền vào cuộc truy tìm viên phi công nhưng không thấy.


    Vài ngày sau, ngư dân làng Nhân Trạch, tỉnh Quảng Bình, phát hiện ra một điều rùng rợn. Xác một viên phi công Mỹ dạt lên bờ, trên người vẫn còn đính chặt chiếc dù. Theo quan sát lúc đó thì người này bị thương nặng khi bật ra khỏi máy bay và các vết thương đã giết chết anh ta. Thi thể người này không còn nguyên vẹn do quá trình phân hủy xảy ra nhanh chống trong điều kiện nắng nóng, sóng biển mạnh cùng với sự tấn công của sinh vật biển.


    Người ta tìm thấy nhiều vật dụng trên người viên phi công, trong đó có một khẩu súng ngắn, tiền Mỹ, hình ảnh gia đình, một chiếc đồng hồ, một lá cờ Mỹ nho nhỏ, một thẻ quân nhân và một mảnh kim loại khắc thông tin nhân thân. Mặt sau lá cờ Mỹ có một thông điệp được viết bằng nhiều thứ tiếng: “Tôi là một người Mỹ. Hãy giúp tôi thức ăn và nơi ở. Hãy giúp đưa tôi trở về nước Mỹ. Chính phủ chúng tôi sẽ tưởng thưởng cho quý vị”. (Đây là một thông điệp được các phi công Mỹ mang theo bên mình để có thể cầu cứu sự giúp đỡ từ dân thường trong trường hợp máy bay bị bắn rơi).


    Ông Tấn đã phác họa hình viên phi công trong cuốn nhật ký của mình. Từ thẻ quân nhân người chết, ông ghi lại những thông tin sau:


    “Tên: Edward A. Dickson
    Số: 9520447
    Cấp bậc: Trung úy, Hải quân Mỹ
    Ngày sinh: 3 tháng 9 năm 1937
    Nhóm máu: A”


    Người ta đào một hố sâu hai mét gần một cây dừa trên bãi biển, cách nơi người chết dạt vào chừng năm mươi mét để an táng. Ông Tấn quan sát dân làng khiêng thi thể từ bờ biển, đặt xuống huyệt chôn rồi đánh dấu bằng một tấm bia gỗ khắc tên Dickson.


    Bà Nay, một người dân địa phương có chồng chết trong cuộc chiến chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, cắm hương lên ngôi mộ. Trang nhật ký cho biết vừa cắm hương, bà vừa cầu nguyện cho người lính trẻ nước Mỹ phải nằm xuống ở một nơi rất xa quê nhà: “Cầu cho hương hồn chú được trở về với gia đình bên Mỹ”.
     
  5. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***


    Hồi đó tôi đã tìm hiểu tại văn phòng phụ trách quân nhân mất tích (MIA) ở Hà Nội và câu trả lời là Dickson vẫn còn nằm trong danh sách MIA. Khi được hỏi về những thông tin chi tiết liên quan tới nơi chôn cất, Tấn bảo rằng ông nhớ rất rõ bởi nơi đó có những đặc điểm rất dễ nhận ra. Ông phác họa một sơ đồ về bãi biển Nhân Trạch. Ông nói địa điểm này rất dễ nhận ra bởi có một con lạch chạy xuyên qua giữa bãi biển tạo thành một bán đảo nhỏ. Hồi đó cây dừa nơi Dickson được chôn cao chừng năm mươi thước. Tôi đã thử đối chiếu bản miêu tả của Tấn với một bản đồ quân sự thì thấy ông đã chỉ chính xác. Một con lạch, tạo nên bán đảo nhỏ như đã nói, được thể hiện rõ ràng trong một bản đồ cũ.

    Khi đi dọc Quốc lộ 1 từ Sài Gòn ra Hà Nội sau lần phỏng vẫn ông Tấn – người lái xe đã dẫn tôi tới Nhân Trạch – và tôi quyết định tìm kiếm xem có nhận ra được nơi chôn cất hay không. Nỗ lực thất bại. Khi tôi tới nơi, người trưởng thôn ở đó bảo rằng cần phải xin phép chính quyền Hà Nội mới có thể thực hiện việc tìm kiếm. Vị trưởng thông còn cho biết Đội tìm kiếm quân nhân mất tích Mỹ đã tới Nhân Trạch trước đó ba tháng sau khi nhận được thông tin về việc một phi công Mỹ từng được chôn cất tại bãi biển này nhưng rốt cuộc chẳng tìm thấy gì cả. Thời gian đã xóa đi mọi dấu vết của ngôi mộ.

    Đến Hà Nội vào ngày 19 tháng 6 năm 1995, tôi liên hệ với văn phòng MIA của Mỹ để thông báo về trang nhật ký của ông Tấn, trong đó có kể việc chôn cất Trung úy Dickson. Như người trưởng thôn đã kể và văn phòng MIA tái khẳng định, tổ tìm kiếm đã tới Nhân Trạch nhưng chẳng thể tìm thấy mộ Dickson. Dù thế, thông tin của ông Tấn trở thành bằng chứng đầu tiên về vụ chôn cất. Văn phòng MIA nói rằng họ sẽ liên hệ với Tấn để hỏi xem liệu ông có thể giúp họ thực hiện một cuộc tìm kiếm nữa hay không.

    Vài ngày sau, tôi ghé thăm Phòng lưu trữ của quân đội ở Hà Nội để xem hình ảnh chiến trường trong Chiến tranh Việt Nam. Căn phòng chứa hàng ngàn bộ ảnh chiến trường được chụp thời chiến tranh. Không thể kiểm tra hết tất cả các tập ảnh, tôi nhờ người phụ trách chọn hai bộ ảnh để xem. Bà ấy mang đến hai tập ảnh đặt xuống trước mặt tôi. Khi vừa mở xem bộ đầu tiên, một tấm hình đặc biệt đập vào mắt tôi. Trong hình, một nhóm dân làng Việt Nam đang đứng trên bãi biển kiểm tra thi thể một phi công Mỹ nằm trên cát – dù vẫn còn dính vào người anh ta. Dòng chú thích cho biết quân nhân Mỹ trong hình là Trung úy Dickson, vốn được người dân địa phương phát hiện khi trôi dạt vào bờ ở Nhân Trạch.

    Chưa thể khẳng định rằng trí nhớ của ông Tấn về vụ chôn Trung úy Dickson có dẫn tới những thông tin chi tiết hơn để xác định trường hợp mất tích của quân nhân này, nhưng có thể nói phát hiện trên ít nhất cũng là một bước tiến gần hơn tới giải pháp. Điều này chỉ có thể được thực hiện nếu Hà Nội sẵn sàng cho người Mỹ được tiếp xúc một cách thoải mái với các cựu chiến binh Việt Nam. Tinh thần hướng tới hợp tác giữa những cựu thù trong thời buổi mà bình thường hóa quan hệ đang nẩy mầm chắc chắn sẽ giúp tăng cường các cuộc tiếp xúc, qua đó phát quang lộ trình làm rõ các trường hợp mất tích khác.


    ***


    Nhật ký của ông Tấn còn ghi lại sự kiện hai máy bay Mỹ rơi trong một ngày.

    Sáng ngày 3 tháng 3 năm 1965, một đợt máy bay Mỹ oanh tạc vùng phụ cận Đồng Hới. Hai chiếc bị bắn rơi; hai phi công nhảy dù. Dân địa phương hè nhau đi bắt.

    Ngay sau khi máy bay bị bắn cháy, pháo thủ trên trận địa cao xạ trông thấy một chiếc trực thăng từ biển bay vào để cứu phi công. Lúc 10 giờ 35, người ta phát hiện một người Mỹ đang hái quả mọng trong rừng ăn và tìm cách leo lên đồi. Ngay lập tức đơn vị quân đội tuần tra được thông báo để truy đuổi. Dân làng cũng thấy một chiếc dù đẫm máu. (Nhật ký ông Tấn viết rằng dân làng thấy rất nhiều máu, họ không chắc là viên phi công bị thương nặng khi máy bay rơi hay bị cọp vồ).

    Cuối ngày hôm đó, một phi công bị thương ở chân đã bị nhóm tuần tra ba người bắt giữ khi anh ta đang xem bản đồ bằng nhựa. Người ta lấy tấm bản đồ để rịt vết thương. Nhóm bắt giữ tước súng của anh ta và bắn lên trời ba phát để thông báo cho những người khác. Khi viên phi công kêu đói, anh ta đã được dân làng cho ăn.

    Viên phi công khai mình là Trung úy Hayden J. Lockhard của Không quân Mỹ. Các cuộc thẩm vấn sau đó cho thấy anh ta quê ở Ohio và phục vụ Không quân Mỹ hai năm trước khi được điều tới Việt Nam. Khi được hỏi về người phi công còn lại, Lockhard nói đó là “Ronca”, nhưng anh này đã thiệt mạng. (Tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết Hayden James Lockhard bị bắn rơi máy bay và bị bắt, cuối cùng được trả tự do đồng thời với Schumaker. Tuy nhiên, không tìm thấy người nào có tên là “Ronca”).

    Khi Lockhard bị giải vào làng, một phụ nữ có chồng vừa chết trong đợt không kích đã cầm dao tấn công. Ông Tấn kể rằng mình đã phải ngưng bút trong chốc lát để nhảy vào bảo vệ viên phi công. Ông giải thích cho người phụ nữ kia biết rằng khi đang ngồi trên máy bay thì viên phi công là kẻ thù của nhân dân, nhưng một khi đã trở thành tù binh thì anh ta phải được bảo vệ. Người phụ nữ sụp xuống khóc.

    Chuyện liên quan tới người phụ nữ này, theo ông Tấn, cho thấy lòng vị tha của người Việt Nam. Dù mới trải qua bi kịch gia đình trong ngày hôm ấy, người phụ nữ sau đó đã xách một con gà tới chỗ ông Tấn và bảo “hãy làm thịt nấu cháo cho gã phi công kia ăn bởi có lẽ hắn không quen thức ăn Việt Nam”.
     
  6. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    NIỀM HY VỌNG DÀI LÂU




    Nếu có thể rút được một bài học từ cuộc chiến Việt Nam, có lẽ đó là: không ai chiến thắng trong chiến tranh. Đối với người lính trên chiến trường, đối với người dân bị cuốn vào cuộc chiến, đối với người thân mòn mỏi chờ ngày trở về của con em, chiến tranh đều gieo đau thương tang tóc. Niềm đau, nỗi thống khổ, những chịu đựng ám ảnh tất cả. Với hầu hết những người liên quan, cuộc chiến là một cơn ác mộng rốt cuộc đã chấm dứt.


    Đối với những người mất đi người thân, đối với những người vĩnh viễn tàn phế, đối với những người ủng hộ chính quyền Sài Gòn và sau đó phải đi cải tạo dài ngày, mọi sự đã rõ ràng. Đối với họ, món nợ đã được trả - mà cái giá của nó thì họ đã hiểu rõ. Nhưng đối với một số người khác, mọi việc vẫn chưa có gì rõ ràng – và như một hệ quả, họ tiếp tục phải chịu đựng. Đối với họ, mỗi ngày qua đi mà vẫn chưa biết về tung tích của người thân thì cuộc chiến tranh ở Việt Nam vẫn còn nguyên nỗi ám ảnh.


    Thật khó mà đo được nỗi đau của những gia đình có người thân mất tích trên chiến trường. Dù cuối cùng cuộc chiến đã cướp đi của tôi một người anh trai, nhưng tôi vẫn được an ủi phần nào khi biết được anh ấy chết vào lúc nào và ở đâu. Những gia đình có con em mất tích phải chung sống với nỗi đau dai dẳng khi không biết được người thân đã ngã xuống chiến trường trong hoàn cảnh nào hoặc không tìm được hài cốt của họ.


    Đi dọc Việt Nam và nói chuyện với hàng trăm cựu chiến binh, tôi thấy họ luôn sẵn sàng góp phần giải quyết số trường hợp mất tích còn lại với hy vọng sẽ giúp xoa dịu nỗi đau của những gia đình có con em mất tích. Sự sẵn sàng của họ là rất chân thực. Họ, và chính phủ của họ, nhận thấy rằng sẽ không đạt được điều gì – và có thể sẽ mất rất nhiều – nếu thiếu hợp tác. Lá thư đề ngày 13 tháng 11 năm 1995 do Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Walter B. Slocombe gửi tới Thượng nghị sĩ Strom Thurmond, được viết sau khi ông Slocombe rà soát lại các trường hợp mất tích, đã công nhận sự hợp tác của chính quyền Hà Nội: “Cuộc rà soát toàn diện không phát hiện bằng chứng nào cho thấy Việt Nam cố ý giấu thông tin về bất cứ trường hợp nào”.




    ***




    Để thảo luận sâu hơn về vấn đề quân nhân mất tích, đòi hỏi chúng ta phải hiểu nhiều thuật ngữ được áp dụng đối với các trường hợp quân nhân không thể trở về từ cuộc chiến và những vấn đề pháp lý liên quan tới mỗi trường hợp.


    Những quân nhân vắng mặt trong khu vực chiến sự rơi vào một trong ba trường hợp. Nếu xác định đã bị bắt, anh ta sẽ được liệt vào danh sách tù binh chiến tranh (prisoner-of-war – POW); nếu xác định bị giết khi đang làm nhiệm vụ (killed-in-action – KIA) nhưng không tìm thấy thi thể (body not recovered – BNR), anh ta sẽ được liệt vào danh sách KIA/BNR; và nếu không thể biết anh ta đã bị bắt hoặc bị giết, trường hợp này sẽ nằm trong danh sách mất tích khi đang làm nhiệm vụ (missing-in-action – MIA). Thông thường, để cho tiện, người ta sử dụng cụm từ “không xác định được” (unaccounted for) cho cả ba trường hợp nói trên.


    Tình trạng “không xác định được” của một quân nhân sẽ được chuyển thành “xác định được” một khi có ba trường hợp sau xảy ra: (1) anh ta sống sót trở về; (2) xác định được thi thể của anh ta; (3) thu thập đủ chứng cứ để xác định rằng không thể xảy ra hai trường hợp trên.


    Sự sắp xếp POW, KIA/BNR và MIA có tầm quan trọng không chỉ ở khía cạnh phân loại các quân nhân “không xác định được” vào những nhóm chính xác. Tầm quan trọng của nó còn nằm ở khía cạnh pháp lý cũng như những phúc lợi đi kèm có được tiếp tục hay chấm dứt tùy theo tình trạng cụ thể của một cá nhân. Chẳng hạn, các khoản chi trả và phúc lợi sẽ tiếp tục được áp dụng đối với các trường hợp POW và MIA, còn KIA/BNR thì không. Tương tự, rất nhiều vấn đề pháp lý nảy sinh liên quan tới người phối ngẫu của quân nhân “không xác định được”. Người phối ngẫu của một quân nhân thuộc dạng POW hoặc MIA không thể đứng tên chuyển nhượng những tài sản sở hữu chung với chồng/vợ - trong trường hợp này là quân nhân vẫn còn ở trong tình trạng “không xác định được” – bởi có thể xảy ra khả năng là người kia còn sống, cần phải có chữ ký của anh ta/cô ta mới thực hiện được việc chuyển nhượng. Trong khi đó, người phối ngẫu của một trường hợp KIA/BNR có thể đứng tên chuyển nhượng vì có chứng cứ khẳng định cái chết của quân nhân.


    Luật pháp Mỹ yêu cầu mỗi năm phải có sự rà soát lại tình hình MIA để xem từng trường hợp cụ thể, qua đó giúp quyết định giữ nguyên tình trạng mất tích hay xác định tình trạng chết của một quân nhân. Đối với một số người phối ngẫu, những cơn ác mộng đó kéo dài nhiều năm trời sau khi chiến tranh qua đi.


    Vào lúc chiến tranh kết thúc, một nửa số quân nhân thuộc nhóm “không xác định được” thực ra đã chết. Phần lớn các trường hợp mất thi thể là hậu quả trực tiếp của các hoạt động thù địch vào thời đó. Tuy nhiên, có một số trường hợp lạ lùng là thi thể của quân nhân Mỹ đã nằm trong sự kiểm soát của người Mỹ và sau đó mới “bị mất”.


    Sau đây là một ví dụ về trường hợp trước – có nghĩa là các hoạt động thù địch khiến không thể quy tập hài cốt được – liên quan tới một vụ rơi máy bay trên lãnh thổ quân địch. Chiếc máy bay ấy khi thực hiện bổ nhào, cùng với nhiều chiếc khác, đã đâm thẳng xuống đất. Phi công ở những máy bay kia không hề thấy chiếc dù nào được bung ra. Vì thế, tình trạng của phi công nọ được ghi là KIA/BNR.


    Còn đây là một ví dụ về trường hợp sau – có nghĩa là chính phủ Mỹ mất sự kiểm soát đối với hài cốt mà lúc đầu họ cất giữ - liên quan tới sự kiện một chiếc trực thăng sa vào vùng hỏa kích của kẻ thù khi đang đáp xuống để vận chuyển người chết và bị thương. Thi thể một người lính đã được chuyển lên máy bay. Khi máy bay vội vã rời nơi đáp và bay qua khu vực có quân thù, thi thể nọ tuột khỏi máy bay và rơi xuống đất. Do súng địch bắn rất rát nên người ta không thể xuống để quy tập thi thể đó được.


    Còn một ví dụ nữa về tình huống sau, liên quan tới một sự cố khá lạ sau khi xác một người lính được đưa tới nơi quy tập ở căn cứ không quân Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn. Do nhà xác đã chật chỗ, thi thể nọ được đặt tạm trong bưu điện của căn cứ. Sau đó, nhân viên nhà xác tới bưu điện để nhận xác người chết thì phát hiện nó đã biến mất. Tới ngày hôm nay, người ta vẫn không có thông tin về hài cốt quân nhân này.


    Ngoại trừ một số ít trường hợp, còn lại thì tất cả những quân nhân “không xác định được” vào thời điểm kết thúc chiến tranh đều được xếp vào loại MIA. Chỉ có chừng hơn ba chục người vào thời điểm đó không được coi là KIA/BNR hay MIA mà là POW.
     
  7. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***




    Một cựu quan chức Lục quân Mỹ phụ trách tìm kiếm MIA chia sẻ một câu chuyện cho thấy thiện chí hợp tác của Hà Nội trong việc giải quyết các trường hợp MIA/POW còn lại cũng như tinh thần sẵn sàng theo đuổi vai trò dẫn dắt mới.


    Quan chức này cho biết vào năm 1994, Nhóm tìm kiếm MIA nhận được tin báo rằng có người trông thấy một tù binh Mỹ tại một ngôi làng xa xôi. Tin báo cho biết tù binh này là một “người Mỹ da sậm bị xích” và bị một nhóm cầm súng áp giải.


    Theo các điều khoản trong thỏa thuận giữa Mỹ và Việt Nam về vấn đề tìm kiếm MIA, để kiểm tra khu vực trên, người Mỹ phải báo cáo với quan chức Việt Nam trước và phía Hà Nội phải phúc đáp kịp thời trước đề nghị đó. Nhóm tìm kiếm MIA liền thông báo cho chính quyền và phía Hà Nội đã ngay lập tức cho phép thanh sát khu vực hẻo lánh được cho là có việc cầm giữ tù binh. Chỉ chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, Nhóm tìm kiếm MIA đã dùng trực thăng bay tới ngôi làng.


    Phản ứng nhanh chóng của hai phía đã tạo điều kiện cho Nhóm tìm kiếm MIA làm sáng tỏ vấn đề. Như tin báo, một người đàn ông da sậm cùng dây xích đã được tìm thấy – nhưng anh ta không phải tù binh Mỹ. Anh này là một người dân miền núi làm nghề gỗ - lúc ấy anh ta đang quấn dây xích dùng để buộc gỗ quanh người. Những người cầm súng đứng đó không phải để canh giữ anh ta; họ ở đấy để bảo vệ thợ xẻ khỏi bị bọn cướp đột nhập từ bên Campuchia sang tấn công.


    Tin báo không đúng sự thật, nhưng nó cho thấy Hà Nội phản ứng rất nhanh trong việc giúp người Mỹ thẩm định tính xác thực của thông tin. Những tin báo kiểu này cũng cho thấy cơ sở để những tin đồn về tù binh Mỹ còn bị cầm giữ tồn tại. Một hệ quả không may của những tin đồn ấy là việc các gia đình có quân nhân “không xác định được” tiếp tục nuôi dưỡng hy vọng rằng người thân yêu của mình có thể còn sống – để rồi sau cùng hy vọng sụp đổ.




    ***




    Trong hai thập niên, việc không thể làm sáng tỏ hơn hai ngàn trường hợp mất tích của quân nhân Mỹ đã trở thành vật cản trong quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Washington và Hà Nội. Nhưng việc Việt Nam tăng cường hợp tác đã dẫn tới quyết định của Tổng thống Clinton vào tháng 7 năm 1997 về tái lập quan hệ ngoại giao đầy đủ. (Trước động thái thiết lập ngoại giao này, Tổng thống Clinton, trong bước đi đầu tiên của mình, đã dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Ông đã hỏi ý kiến của cha tôi, với tư cách là một tư lệnh thời chiến tranh Việt Nam, liệu cha tôi có ủng hộ hành động đó không. Cha tôi đã ủng hộ và vận động Tướng William Westmoreland cùng đưa ra thông điệp ủng hộ chấm dứt cấm vận. Cha tôi sau đó tiếp tục ủng hộ ông Clinton về việc tái lập quan hệ ngoại giao, nhưng Westmoreland thì không). Chính việc tham khảo ý kiến của đại đa số người Mỹ tham gia vào nỗ lực làm sáng tỏ các trường hợp quân nhân mất tích trong chiến tranh, kể từ năm 1988, cùng với động thái tăng cường hợp tác của Hà Nội đã dẫn tới quyết định bình thường hóa quan hệ của Tổng thống Clinton.


    Vài tuần trước khi Tổng thống Clinton công bố quyết định, tôi đã nói chuyện với nhiều nhà điều tra thuộc Nhóm tìm kiếm MIA; họ dù không muốn nêu tên nhưng đều chia sẻ quan điểm cá nhân về các nỗ lực hợp tác của Việt Nam.


    “Khi phía Hà Nội không chịu hợp tác vào thời kỳ đầu”, một nhà điều tra nói, “thì chúng ta có trách nhiệm báo cáo với người dân Mỹ về thái độ đó – và chúng ta đã làm. Giờ đây, khi Hà Nội hợp tác toàn diện, chúng ta cũng phải có trách nhiệm báo cáo thực tế đó tới người dân Mỹ. Chúng ta đã báo cáo rất tốt khi xảy ra tình trạng bất hợp tác ban đầu; đáng tiếc là chúng ta đã không làm tốt việc báo cáo về nỗ lực hợp tác sau này”.


    Một nhà điều tra khác nói rằng việc viện dẫn sự bất hợp tác của Hà Nội để chống đối quyết định của ông Clinton là không có cơ sở. “Những nhà hoạch định khi xem xét về thái độ hợp tác của Hà Nội đã không được cung cấp thông tin kỹ thuật một cách đầy đủ để có thể đưa ra quyết định đúng”, ông nói.


    Giới điều tra cũng cho rằng báo chí Mỹ đôi lúc lệch lạc khi luôn tìm cách vẽ lên chân dung người Việt Nam một cách tiêu cực. Một ví dụ điển hình đó là bài viết khẳng định Hà Nội không cho phép thực hiện việc tìm kiếm trong một khu vực.


    “Công bằng mà nói thì chúng tôi chưa bao giờ bị từ chối tiếp cận nơi mình muốn”, nhà điều tra trên cho hay, “ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt ở vùng hẻo lánh khi việc thâm nhập là không khả thi”. Hầu hết các trường hợp không được phép xâm nhập đều xuất pháp từ hai nguyên nhân sau: (1) địa điểm muốn xâm nhập nằm gần căn cứ quân sự, và (2) tọa độ của địa điểm là do người Mỹ “phán đoán” dựa trên vị trí cuối cùng được biết đến của chiếc máy bay hoặc cá nhân trước khi mất tích – mà tính chính xác của kiểu phán đoán này bị các quan chức Việt Nam bác bỏ (một cách chính đáng).


    “Thông thường chúng tôi không biết đích xác nơi máy bay rơi”, nhà điều tra người Mỹ thừa nhận. “Vì thế, điều duy nhất chúng tôi có thể làm là dựa vào thông tin lưu trữ về vị trí cuối cùng của người đó trước khi mất tích. Đó có thể là vị trí của chiếc máy bay khi lần cuối cùng còn giữ được liên lạc, cũng có thể là vị trí của mục tiêu nơi chiếc máy bay thực hiện cuộc tấn công cuối cùng trước khi mất tích. Trong các trường hợp như thế, chúng tôi chỉ có thể sử dụng phương pháp phán đoán”.


    Trong nhiều trường hợp, việc xác định vị trí máy bay rơi không phải là một môn khoa học chính xác. “Ví dụ về trường hợp chiếc C-47 rơi vào tháng 12 năm 1964 tại Lào cho thấy chúng tôi đã phán đoán sai nhường nào”, nhà điều tra chia sẻ. “Máy bay đang làm nhiệm vụ ban đêm thì mất tích. Các nhà phân tích sử dụng phương pháp xác định tọa độ của chiếc máy bay khi phi công thực hiện cuộc liên lạc cuối cùng với mặt đất trước khi mất tích để định vị nơi máy bay có thể đã rơi. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ tìm thấy gì cả. Sau này, khi ông Clinton dỡ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, một cựu chiến binh Việt Nam đã báo cáo với chính quyền rằng ông ta từng tới một số nơi máy bay rơi ở Lào thời chiến tranh. Một trong số đó là địa điểm rơi của chiếc C-47 mà chúng tôi đang tìm kiếm. Cựu chiến binh này có một cuốn nhật ký thời chiến tranh ghi lại tọa độ rơi của máy bay. Lúc bấy giờ, sau khi nhận thấy tất cả số người trên máy bay đều đã thiệt mạng, ông ghi chú lại tình trạng của tất cả thi thể cũng như tên và mã số theo thẻ quân nhân. Rốt cuộc chúng tôi đã tìm thấy chiếc C-47 rơi gần Xepone, Lào, trên Đường 9, phía Tây Khe Sanh – cách nơi mà các nhà phân tích phán đoán tới hơn 140 cây số”.


    Nhìn một cách tổng thể về công tác tiếp cận của các nhóm tìm kiếm, giới điều tra cho biết nhiều trường hợp vẫn còn nằm trong danh sách mất tích là do thủ tục quan liêu. Đây là nguyên nhân của nhiều trường hợp mà người ta cho rằng phải đòi hỏi sự quyết liệt từ Hà Nội. Đặt các trường hợp đó vào danh sách “không sáng tỏ vì lý do thủ tục”, với việc không thu thập thêm được chứng cứ mới nào khiến quân nhân vẫn bị liệt vào dạng mất tích, khiến cả hai bên đều phiền hà. Chẳng hạn, trước khi quyết định khép lại một trường hợp, nhóm tìm kiếm cần phải thực hiện một cuộc kiểm tra trực tiếp tại địa điểm được biết đến cuối cùng của quân nhân mất tích hoặc máy bay rơi. Thủ tục này được tiến hành trước hết là để khẳng định với các gia đình có phi công mất tích rằng, dù không thể thật sự tìm được địa điểm máy bay rơi, người ta cũng đã tiến hành kiểm tra trực tiếp tại vị trí lần cuối cùng phi công thông báo về mặt đất hoặc rađa mặt đất ghi nhận được. Vì thế, nhóm được yêu cầu trở lại và kiểm tra dữ liệu về không trình của máy bay để xác định điều kiện điểm cuối cùng máy bay còn giữ liên lạc trước khi rơi. Được trang bị một hệ thống nối với vệ tinh có thiết bị xác định tọa độ và định vị toàn cầu GPS cho phép người ta xác định chính xác một tọa độ nào đó trên mặt đất, nhóm tìm kiếm sẽ tới đúng tọa độ được ghi lại trong cơ sở dữ liệu. Tại đây, người ta sẽ thực hiện một cuộc tìm kiếm vòng tròn, với tâm là vị trí có tọa độ được xác định và tỏa ra một bán kính hợp lý, để từ đó có thể tìm ra manh mối liên quan tới vụ rơi máy bay.


    Kiểu tìm kiếm này có thể dẫn đến một kết quả tích cực nào đó khi thi thể được phát hiện, nhưng hầu hết đều chẳng có thu hoạch nào. Kết quả tích cực có thể giúp khép lại vụ việc, nhưng đồng thời kết quả tiêu cực cũng có thể dẫn tới việc khép lại một trường hợp khi người ta có cơ sở để kết luận rằng việc tìm kiếm là vô vọng. Tuy nhiên, nếu không thể tổ chức được một cuộc tìm kiếm vòng tròn trực tiếp như thế, người ta sẽ không thể đóng hồ sơ vụ việc.


    Yêu cầu thực hiện một cuộc kiểm tra trực tiếp tại địa điểm được ghi nhận cuối cùng ấy là rất hợp lý nhưng đôi khi lại không. Trong vài trường hợp, việc buộc chính quyền Việt Nam giải quyết những trường hợp không thể có chứng cứ cũng thật là thiếu công bằng.


    Một trong những trường hợp đó là vụ mất tích của một quân nhân Mỹ tại vịnh Cam Ranh, một căn cứ hải quân được Mỹ sử dụng trong suốt chiến tranh. Cuộc sống tại vịnh Cam Ranh dễ dàng hơn nhiều so với trong rừng. Các quân nhân thường tận dụng thời gian rảnh rỗi để đi bơi. Có một quân nhân đi tắm biển đã bị sóng cuốn. Dù cố công tìm kiếm nhưng người ta đã không thể tìm thấy thi thể anh này. Nguyên nhân cái chết được xác định là chết đuối. Tuy nhiên do không vớt được xác, quân nhân này vẫn bị liệt vào danh sách “không xác định được”, kể cả khi chiến tranh đã kết thúc. Để khép lại hồ sơ vụ việc sau nhiều năm, các nhà điều tra được điều đến kiểm tra trực tiếp khu vực quanh vị trí cuối cùng còn xác định được của anh này. Nhóm tìm kiếm Mỹ đã phải trở lại bờ biển vịnh Cam Ranh, nơi lần cuối cùng người ta nhìn thấy quân nhân kia trước khi anh ta chết đuối.


    Ai cũng biết rằng một cuộc tìm kiếm tại vị trí cuối cùng còn xác định được trong trường hợp này là vô ích bởi chẳng thể tìm được điều gì về một nạn nhân chết đuối hàng thập kỷ trước. Thêm vào đó, vịnh Cam Ranh ngày nay là một căn cứ hải quân của Việt Nam nên người nước ngoài bị hạn chế xâm nhập. Vì lẽ đó mà Nhóm tìm kiếm Mỹ bị chính quyền Việt Nam từ chối tiếp cận. Đây là điều có thể hiểu được – bởi vì trường hợp mất tích của quân nhân này xảy ra khi quân Mỹ còn kiểm soát vịnh Cam Ranh và lúc đó người Mỹ đã tiến hành tìm kiếm kịp thời ngay sau khi người kia chết đuối nhưng chẳng thể tìm được điều gì.


    Việc yêu cầu tiếp cận một mục tiêu quân sự nhạy cảm của Việt Nam sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ vụ mất tích chỉ để hoàn tất một thủ tục là điều không hợp lý. Sự cứng nhắc của các thủ tục trong những trường hợp này đã tạo ra khó khăn cho đại diện MIA của cả hai phía.


    (Không thể giải quyết vụ này và bốn vụ khác, người ta đã đi đến quyết định rằng mỗi bên cử một đại diện ngồi lại để đưa ra giải pháp. Cuối cùng sự hợp lý đã thắng thế. Đối với trường hợp nói trên, người ta đã đi đến quyết định rằng các chuyên gia tìm kiếm sẽ tiếp xúc với người dân địa phương sống xung quanh vịnh Cam Ranh để hỏi xem họ từng biết bất cứ điều gì về vụ chết đuối hoặc giả họ có từng biết đến việc một thi thể quân nhân Mỹ bị dạt vào bờ hay không. Sau vài cuộc phỏng vấn, phía Việt Nam đoan chắc rằng nhóm tìm kiếm người Mỹ không phải là gián điệp và cho phép họ vào căn cứ để thực hiện việc tìm kiếm quanh tọa độ các vị trí cuối cùng được xác định. Đối với bốn vụ việc còn lại, với tất cả tài liệu phía Việt Nam đều bác bỏ các vị trí cuối cùng mà giới phân tích Mỹ đưa ra. Người ta đã thống nhất rằng những địa điểm mà phía Việt Nam gợi ý sẽ được ưu tiên kiểm tra trước, một khi không tìm ra địa điểm máy bay rơi thì sẽ bàn tiếp tới khả năng nhóm tìm kiếm tiếp cận các khu vực hạn chế).
     
  8. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***




    Một trong những vụ khiến người Việt Nam thất vọng nhất đó là trường hợp mất tích của một quân nhân Mỹ có tên Joseph Grainger.


    Grainger là một quan chức của Văn phòng Đối ngoại trực thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ làm việc tại Việt Nam. Ngày 8 tháng 8 năm 1964, trong khi đang ở bên ngoài Sài Gòn, xe của ông bị Việt Cộng chặn lại. Ông và tài xế người Philippine bị bắt. Người lái xe sau đó được thả còn Grainger vẫn bị giam giữ. Năm tháng sau, ông bị bắn chết khi đang tìm cách trốn chạy. Quân Việt Cộng chôn ông tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Việt Nam.


    Theo thỏa thuận của Hiệp định Paris năm 1973 nhằm chấm dứt sự hiện diện của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, chính quyền Hà Nội đồng ý cung cấp cho Washington danh sách của tất cả các tù binh Mỹ chết trong thời gian giam giữ (chính thức được gọi là “Danh sách chết trong thời gian giam giữ”). Tên của Grainger nằm trong danh sách này với ngày chết được ghi là 17 tháng 3 năm 1965, bảy tháng sau khi ông bị bắt.


    Suốt mười lăm năm sau khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, hầu như không có tiến triển gì trong việc làm sáng tỏ các trường hợp mất tích của người Mỹ. Năm 1987, Tổng thống Ronald Reagan bổ nhiệm cựu Tổng Tham mưu trưởng, Tướng John W. Vessey, Jr., làm phái viên tới Việt Nam để phụ trách việc đàm phán giải quyết các trường hợp mất tích còn lại. Hai bên thống nhất sẽ phối hợp cùng nhau điều tra. Vào năm sau, nhiều thông tin đã được chuyển giao trong đó có trường hợp của Grainger.


    Cuộc điều tra riêng của phía Hà Nội đối với trường hợp Grainger đã dẫn đến kết quả sau: Người dân địa phương được hỏi cho biết Grainger được chôn gần trại tù binh nơi ông ta từng bị giam giữ. Tuy nhiên theo dân làng, quân Việt Nam Cộng hòa đã bay trực thăng đến đây, quật mồ và trở hài cốt đi vào năm 1967. Quan điểm của phía Hà Nội là vụ Grainger phải được khép lại bởi hài cốt đã được chuyển cho chính phủ Mỹ. Washington bác bỏ thông tin từ Hà Nội về trường hợp của Grainger, bởi vì một cuộc rà soát về danh sách tử vong do quân đội Mỹ lập từ thời chiến tranh đã không tìm thấy chứng cứ hỗ trợ cho kết luận của Hà Nội.


    Lập trường của chính phủ Mỹ vào năm 1988 là Grainger vẫn nằm trong danh sách mất tích. Chính quyền Hà Nội được yêu cầu tiếp tục điều tra.


    Tới tháng 6 năm 1992, vụ Grainger vẫn không có gì tiến triển. Một nhóm hỗn hợp Mỹ và Việt Nam cùng tiến hành cuộc điều tra mới. Người ta đã phỏng vấn lại các nhân chứng trước đây. Họ cũng có những câu trả lời tương tự, đồng thời cung cấp thêm vài chi tiết mới. Họ được biết một lính chiêu hồi (lính Việt Cộng đầu hàng chính quyền Sài Gòn) đã dẫn quân Việt Nam Cộng hòa tới nơi chôn. Người lính chiêu hồi, trước đây làm việc tại nơi giam giữ tù binh vào thời điểm Grainger chết và đã tham gia chôn cất ông, khẳng định lính Việt Nam Cộng hòa đã quật mồ vào tháng 4 năm 1967.


    Một giải pháp cho vụ Grainger dường như là bất khả, khi mà Hà Nội lặp lại quan điểm cũ rằng hài cốt người này đã được giao trả - trong khi phía chính quyền Mỹ bác bỏ. Cuối cùng, vào đầu năm 1994, một Nhóm tìm kiếm hài cốt đặc biệt (SRT), gồm đại diện Mỹ và Việt Nam, đã yêu cầu Bộ Quốc phòng (DoD) cùng Bộ Ngoại giao (DoS) Mỹ phối hợp kiểm tra bởi vì Grainger là một nhân viên của Văn phòng Đối ngoại nên ông ta làm việc cho DoS chứ không phải là DoD.


    Một đại diện của DoS đã liên hệ với người vợ góa của Grainger để giải thích về khó khăn đang gặp phải trong việc tìm kiếm hài cốt của chồng bà này ở Việt Nam. Bà Grainger thông báo với quan chức nọ rằng hài cốt chồng bà không nằm ở Việt Nam mà ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở Washington, D.C. từ tháng 5 năm 1966. Người Việt Nam dù nhớ nhầm thời điểm hài cốt được đưa đi, nhưng họ đã nhớ chính xác việc quy tập hài cốt. (Grainger là một cựu Đại úy Không quân, đủ tiêu chuẩn được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Bia mộ ghi ngày mất của ông là 12 tháng 1 năm 1965).


    Ngày 23 tháng 5 năm 1994, Trợ lý bộ trưởng phụ trách quan hệ công chúng của Bộ Quốc phòng đã có thông báo hướng dẫn về vụ Grainger, trong đó thừa nhận sai sót. Vậy là hai mươi mốt năm sau khi tên của Grainger xuất hiện trong “Danh sách chết trong thời gian giam giữ”, ông đã được xác định là không mất tích.




    ***




    Nhiều trường hợp quân nhân không xác định được đến nay vẫn chưa thể giải quyết và, như lập luận từ phía Hà Nội, cho thấy một sự bất cập.


    Một phần tương đối nhỏ các vụ này đã được Nhóm tìm kiếm hài cốt đặc biệt phân loại đẻ giải quyết. Đây là những trường hợp có tài liệu về việc một quân nhân Mỹ từng bị Việt Nam giam giữ ở một nơi nào đó. Vì thế, phía Việt Nam phải giải thích sự thay đổi địa điểm giam giữ cuối cùng của quân nhân vẫn nằm trong danh sách mất tích. Nhóm tìm kiếm hài cốt đặc biệt cũng liệt vào danh sách “không xác định được” những quân nhân: Nằm trong “Danh sách chết trong thời gian giam giữ”; xuất hiện trong các tấm ảnh cho thấy họ bị bắt giữ; được Chính phủ Mỹ liệt vào danh sách bị giết khi đang làm nhiệm vụ (KIA) nhưng chưa quy tập được hài cốt; được giới chức địa phương xác định rằng chính quyền trung ương đã tìm thấy hài cốt nhưng hài cốt chưa được quy tập.


    Sau đây là ví dụ về một trường hợp chưa được giải quyết như thế, dựa vào một hình ảnh do Thông tấn xã Việt Nam chụp sau khi một máy bay Mỹ rơi vào giữa thập niên 1960. Máy bay rơi tại một khu vực lầy lội ở thành phố Vinh, gần nhà ga xe lửa. Theo các phi công Mỹ khác cùng bay trong ngày hôm ấy, chiếc máy bay này thực hiện động tác bổ nhào rồi rơi luôn. Hình ảnh của xác máy bay là bằng chứng rõ ràng rằng phi công không thể sống sót. Các hình ảnh cho thấy xác máy bay với khói tỏa ra từ một cái hố trên mặt đất – có nghĩa là máy bay đâm xuống rất mạnh. Tuy nhiên, tấm ảnh có nhiều thông tin khả dụng nhất là hình ảnh khá rõ của một chiếc mũ phi công bị vỡ gắn với một cái tai người cùng một mảng da đầu. Ngoài ra thì không thấy thêm bộ phận cơ thể nào nữa.


    Kết luận hợp lý đối với những tấm ảnh trong trường hợp này là máy bay lao với tốc độ cao, phi công không đủ thời gian để nhảy ra – một kết luận được các phi công Mỹ chứng kiến vụ rơi máy bay ủng hộ. Một vụ va chạm với tốc độ cao như vậy có thể khiến xác của viên phi công biến mất, không còn lại thứ gì để nhận dạng.


    Tuy nhiên, do có một bộ phận cơ thể được nhìn thấy trong tấm hình, phía Hà Nội bị buộc phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về thi thể viên phi công. Hiện phi công này vẫn nằm trong danh sách không xác định được, bất chấp một kết luận hợp lý là không thể tìm thấy được một bộ phận nào có thể nhận dạng được của anh ta trong vụ rơi máy bay.


    (Gần ba mươi năm sau, địa điểm máy bay rơi đã được khai quật. Người ta phát hiện chiếc ghế bật của phi công vẫn còn nằm đúng vị trí, một bằng chứng chứng minh nhận định của các nhân chứng là phi công đã không thể thoát ra. Xăng còn dư lại trong cái hố được tạo ra khi máy bay đâm xuống tiềm ẩn mối nguy cơ cho những người tìm kiếm một khi muốn mở rộng khai quật. Vì thế, việc khai quật đã bị bỏ dở và không có phần hài cốt nào được tìm thấy).
     
  9. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***




    Những người Mỹ phụ trách các trường hợp mất tích còn lại tại Việt Nam đã làm tất cả trong nỗ lực mang đến câu trả lời cho các gia đình có quân nhân mất tích. Với tinh thần trách nhiệm đối với quân nhân mất tích, họ quyết tâm kiểm tra mọi manh mối. Nhiều lúc, tinh thần trách nhiệm này khiến họ đặt ra các đòi hỏi vô cùng nặng nề đối với chủ nhà Việt Nam. Thế nên cũng cần hiểu rằng để đáp ững những đòi hỏi lớn lao trong việc giải quyết các trường hợp mất tích còn lại, người Việt Nam đã thể hiện một lòng bao dung đáng kinh ngạc.


    Có lẽ minh họa rõ nhất lòng bao dung ấy là câu chuyện về phi công Frank Nelson và phi công phụ William Charles (Tên hai người đã được đổi để đảm bảo quyền riêng tư của gia đình).


    Nelson và Charles bị bắn rơi vào tháng 12 năm 1965. Người ta tin rằng Charles thiệt mạng ngay khi máy bay rơi còn Nelson sống sót, dựa theo một bức hình chụp anh sau đó trong một bệnh viện ở Việt Nam. Trong hình, Nelson nằm trên giường, người quấn băng, một ống thở đặt vào khí quản đã được mở, hai mắt nhắm nghiền. Một bác sĩ và bốn y tá (trong đó một người bị làm mờ) đứng cạnh bệnh nhân.


    Nelson không qua khỏi do thương tích quá nặng và tên anh ta sau đó có trong “Danh sách chết trong thời gian giam giữ” do phía Hà Nội cung cấp năm 1973. Hồ sơ được phía Việt Nam cung cấp sau đó cho biết Nelson đã được an táng tại nghĩa trang ở tỉnh Quảng Ninh.


    Do các chứng cứ hình ảnh cho thấy rõ ràng Nelson, ở lần cuối cùng được biết tới, vẫn còn sống trong vòng giam giữ của chính quyền Việt Nam nên vụ việc được giao cho Nhóm tìm kiếm hài cốt đặc biệt (SRT).


    Nhóm hỗn hợp đã mở một cuộc điều tra, rà soát lại tất cả các tài liệu sẵn có. Tài liệu không chính thức chứng minh rằng Charles chết tại hiện trường và được chôn tại một làng gần đấy. (Hài cốt cuối cùng đã được quy tập). Hồ sơ cũng cho biết Nelson bị bắt sống và do thương tích quá nặng nên được chuyển tới Bệnh viện Hữu nghị Việt – Tiệp ở Hải Phòng. Sau đó anh ta chết tại bệnh viện và được chôn cất. Nhưng SRT không thể tìm được một nhân viên nào hiện còn làm việc tại bệnh viện trên mà biết câu chuyện về Nelson.


    Không có tiến triển trong điều tra, SRT phải làm lại từ đầu. Kiểm tra lại tấm hình, nhóm cho rằng nơi điều trị cho Nelson không phải là Bệnh viện Hữu nghi Việt – Tiệp mà là một bệnh viện huyện ở Quảng Ninh. SRT mới chuyển tầm ngắm. Tại bệnh viện huyện ở Quảng Ninh, các nhà điều tra đã gặp hầu hết những nhân viên y tế có mặt trong tấm hình chụp cùng Nelson. Họ xác nhận Nelson đã không được chuyển tới Bệnh viện Hữu nghị bởi theo quy định, những trường hợp bị thương nặng được chuyển đến bệnh viện được trang bị tốt hơn. Vì thế, sau khi được điều trị ban đầu tại bệnh viện huyện, Nelson được chuyển lên Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh. Một y tá có mặt trong tấm hình đã trực tiếp chuyển Nelson đến đó. Nhưng ngay sau khi đến bệnh viện mới, Nelson đã không qua khỏi.


    Các thành viên SRT đã tới Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh và sớm gặp được những nhân viên y tế còn nhớ tới sự kiện một phi công Mỹ chết khi vừa được đưa tới đây. Họ cho biết có hai người đã phụ trách việc chôn cất Nelson ở nghĩa địa ngay sau bệnh viện.


    Các nhà điều tra đã có được thông tin về hai người chôn cất kia. Một người là Hoa kiều và không còn làm việc ở bệnh viện; người còn lại đã chết vài năm trước. Vì vậy, dù đã lần ra nghĩa trang nơi Nelson được chôn nhưng nhóm tìm kiếm vẫn không gặp được một nhân chứng nào có thể chỉ rõ chính xác vị trí chôn cất. Tiếp tục tìm hiểu, SRT xác định rằng có thể Nelson đã được táng trong một khu vực riêng ở nghĩa trang. Thế là họ xin phép khai quật chỗ này, và thật ngạc nhiên, đề nghị của họ đã được đáp ứng.


    Cuộc khai quật được tiến hành trước sự chứng kiến của dân địa phương. Nhóm tìm kiếm sau đó đã đào được hài cốt của một đứa trẻ nhỏ trong một nấm mồ không dấu tích. (Các thành viên SRT đã chi tiền túi mua quan tài và bia mộ để tái táng). Tuy nhiên, họ không thể tìm ra hài cốt của Nelson. Thế là anh này vẫn nằm trong danh sách mất tích.


    Không tìm được hài cốt của Nelson nhưng SRT vẫn rất hài lòng với sự hợp tác của chính quyền Hà Nội trong suốt quá trình điều tra. Họ chỉ ra rằng nếu câu chuyện này đảo ngược lại, tức là phía Hà Nội xin phép khai quật trong một nghĩa trang Mỹ để tìm kiếm người mất tích của họ, thì không có gì chắc chắn Chính phủ Mỹ sẽ dễ dàng cho phép như thế - và trong trường hợp cho phép, chắc chắn dân chúng sẽ rất giận dữ.




    ***




    Một bi kịch khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam đó là, trên thực tế, hầu hết các trường hợp mất tích đều không bao giờ được tìm thấy. Một nhà điều tra ví von rằng việc tìm kiếm cũng giống như “đề nghị cảnh sát điều tra một cái chết đã xảy ra ba mươi năm về trước – mà có rất ít, thậm chí không có, bằng chứng, nhân chứng và rất ít hoặc không có hồ sơ liên quan”. Đó thực sự là bài toán nan giải; thế nhưng chúng ta hầu như không do dự trong việc áp đặt những yêu cầu đó đối với người Việt Nam.




    ***




    Người Mỹ và Việt Nam hiện nay đã có thể chia sẻ với nhau nhiều điểm chung. Các gia đình có quân nhân mất tích, bất kể họ đứng ở phe nào trong cuộc chiến, luôn không nguôi hy vọng rằng hài cốt của người thân yêu sẽ sớm trở về với gia đình.


    Vào thời điểm cuốn sách này được viết, 1.800 quân nhân Mỹ vẫn còn nằm trong diện mất tích tại Việt Nam. Con số này về phía người Việt Nam, theo như các thông tin được đưa ra lần đầu trong cuộc gặp giữa cha tôi và tôi với Đại tướng Giáp ở Hà Nội vào tháng 9 năm 1994, là 300.000 quân nhân mất tích. Để có thể hiểu tác động tương đối của vấn đề MIA lên dân số của hai quốc gia, thiết nghĩ nên so sánh theo tỷ lệ. Dựa trên dân số năm 1975 của Bắc Việt và nước Mỹ - lần lượt là 26 triệu và 210 triệu người – tỉ lệ chênh lệch thật kinh khủng: trong khi trung bình 116.700 người Mỹ mới có một người mất tích thì tỷ lệ này đối với người Việt Nam là cứ 87 người thì có một trường hợp chịu cảnh mất tích.


    Nếu tỷ lệ này là ngang nhau, nước Mỹ phải có tới 2,4 triệu người thuộc diện MIA!


    Việc quy tập hài cốt người thân là rất quan trọng đối với cả người Việt Nam lẫn người Mỹ. Một chuyến thăm về vùng nông thôn Việt Nam đã cho tôi thấy văn hóa truyền thống trong việc đưa hài cốt người thân yêu trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Giữa cánh đồng lúa, các thành viên đã khuất của gia đình, dòng tộc được chôn cất ngay nơi mà người thân đang sống của họ canh tác. Phương thức an táng này có một ý nghĩa đặc biệt đối với người Việt Nam về sự tiếp nối vòng đời. Khi được chôn cất trên đất canh tác của gia đình, linh hồn người đã khuất sẽ thẩm thấu vào đất; đất nuôi cây trồng; và khi các thành viên đang sống thu hoạch hoa màu để ăn, linh hồn người chết sẽ theo đó đi vào cơ thể người đang sống, điều này giúp cho linh hồn của người đã khuất sống mãi.




    ***






    Nguyễn Ngọc Hùng là một trong những người vẫn còn chờ đợi tin tức của một người thân yêu. Ông Hùng và người em trai nhập ngũ cùng lúc. Trong khi ông sống sót qua các cuộc chiến khốc liệt thì người em trai lại không thể trở về.


    Mãi tới năm 1973, khi gặp những người lính cùng đơn vị với em trai, ông Hùng mới biết về cái chết xảy ra trước đó sáu năm. Cho tới hôm nay, nỗi đau không tìm được hài cốt người em vẫn khiến ông Hùng rơi lệ. Nhưng bất chấp bi kịch lớn ấy, ông Hùng cũng như nhiều người Việt Nam khác vẫn đang tìm kiếm người thân mất tích, không hề nuôi dưỡng lòng hận thù đối với kẻ thù cũ.


    “Cơ thể người Việt chúng tôi nhỏ lắm”, ông nói. “Nếu cứ chứa chất thù hận thì đâu còn chỗ cho tình yêu thương”. Ông Hùng giải thích rằng bản chất của người Việt không cho phép nỗi đắng cay và lòng hận thù che khuất hy vọng vào tương lai.


    Nhắc lại quá khứ, ông Hùng giải thích thái độ hướng về tương lai của người Việt Nam đối với nước Mỹ: “Trong lịch sử, mỗi khi chiến thắng Trung Quốc, chúng tôi lại cử sứ sang gặp vua Trung Quốc để xin lỗi về chiến thắng mà chúng tôi giành được đối với quân của ông ta và xin ông ta tha thứ”. Đối với người Việt Nam, sự khiêm tốn của người chiến thắng là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng quan hệ tương lai với kẻ chiến bại.




    ***




    “Cựu Chiến Binh” (“Veterans”) là một nguyệt san dành cho quân nhân xuất ngũ. Mấy mươi năm sau chiến tranh, tờ tạp chí vẫn tràn ngập thông tin về những người mẹ tìm con, vợ tìm chồng, con cái tìm cha hoặc anh chị em tìm nhau. Mỗi một mẩu tin đều có thông tin về quân nhân mất tích, chẳng hạn lần cuối cùng được nhìn thấy hoặc đơn vị của anh ta trước thời điểm mất tích.


    Những tin này được xuất bản hằng tháng, được xếp vào một mục mà tờ tạp chí dành riêng cho các quân nhân mất tích trong cuộc chiến. Không thể đủ giấy để in tất cả các yêu cầu đăng tải, vì thế người ta phải đăng vào số tháng sau, mà tháng nào cũng có tình trạng quá tải như vậy. Hàng ngàn tin tìm người thân tồn đọng, và con số này tiếp tục tăng lên sau mỗi ngày.


    Trong số ra tháng 5 năm 1995, Tạp chí Cựu Chiến Binh đăng lời giới thiệu trong mục Nhắn tìm đồng đội: “Nước ta hiện có hơn 300.000 hài cốt liệt sĩ chưa được quy tập. Gần đây, nhân dân các địa phương và các cựu chiến binh đã phát hiện nhiều hài cốt và đã quy tập về nghĩa trang quốc gia ở thành phố - nhưng con số này quá nhỏ bé so với số hài cốt vẫn còn mất tích. Tạp chí Cựu Chiến Binh mở mục mới để đăng tin nhắn của các gia đình tìm người thân hoặc các cựu chiến binh tìm đồng đội đã hy sinh trong chiến tranh. Ủy ban Trung ương Đảng đã chỉ đạo rằng công tác quy tập hài cốt phải hoàn tất trong vài năm tới. Với tinh thần thấu hiểu những tình cảm mà gia đình và đồng đội dành cho những chiến sĩ mất tích, đội ngũ biên tập của tòa soạn quyết thực hiện chỉ thị của Ủy ban Trung ương Đảng bằng cách mở mục ‘Nhắn tìm đồng đội’ với mục đích thu thập thông tin phục vụ việc quy tập hài cốt liệt sĩ”.


    Ở Việt Nam cũng như ở Mỹ, đối với cha mẹ, vợ con của những người lính không thể trở về, niềm hy vọng vẫn kéo dài mãi rằng một ngày nào đó trong tương lai, họ sẽ biết về số phận của người thân yêu.
     
  10. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    BIẾT TRƯỚC, CHẾT TRƯỚC




    Nhiều cựu chiến binh Việt Nam mà tôi có dịp phỏng vấn biết rõ một dấu mốc trong quan hệ Mỹ - Việt mà hầu hết người Mỹ không biết: thời điểm người lính Mỹ đầu tiên thiệt mạng và mất tích. Mỗi năm, lễ kỷ niệm ngày Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc đã lấn át sự kiện tưởng niệm quân nhân Mỹ đầu tiên ngã xuống tại Việt Nam. (Vào năm 1996, Quốc hội Mỹ chính thức xác nhận ngày khởi đầu chiến tranh Việt Nam là 28 tháng 2 năm 1961 – cái ngày mà người ta cho rằng nước Mỹ đã chịu tổn thất đầu tiên về nhân mạng – bởi trên thực tế không có một lời tuyên chiến chính thức nào được đưa ra. Tuy nhiên, sự thực xung quanh cái chết của một trung tá Lục quân trẻ tuổi cho thấy rằng ông xứng đáng nhận được sự ghi nhận mơ hồ này).


    Cái chết của bất kỳ người lính nào đang phụng sự Tổ quốc là một bi kịch cá nhân, nhưng sự mất mát nhân mạng đầu tiên của nước Mỹ tại Việt Nam, xét trên nhiều phương diện, lại là một bi kịch quốc gia. Đó là một bi kịch quốc gia báo hiệu cho “sự khởi đầu cho điểm khởi đầu” trong hành trình của nước Mỹ tới vũng lầy Đông Nam Á. Đó là bi kịch của một lời cảnh báo bị rơi vào quên lãng: lời cảnh báo mà một người lính đầy trách nhiệm đã cố gắng đưa ra trước khi ngã xuống. Đó là bi kịch của cơ hội bị đánh mất: tức là một thất bại, theo sau cái chết của quân nhân này, trong việc xây dựng mối quan hệ đồng minh vốn đã từng tồn tại giữa nước Mỹ và Việt Nam hai tháng trước đó.




    ***




    Một phần tư thế kỷ sau ngày xâm lăng Việt Nam vào năm 1858, người Pháp đã áp đặt chế độ thực dân. Gần nửa thế kỷ sau, Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ đầy uy tín của dân tộc Việt Nam chào đời – người về sau đã thành công trong việc nhen lên ngọn lửa của tinh thần dân tộc tại đất nước này.


    Vào thời điểm mà Chiến tranh Thế giới thứ hai phát khởi tại châu Âu, một loạt các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ của người Việt Nam chống lại giới chủ thực dân đã nổ ra. Khi Paris rơi vào tay người Đức năm 1940, sự kiểm soát của người Pháp đối với Việt Nam cũng lung lay.


    Nhật Bản đã tận dụng sự lụn bại đó của Pháp tại Việt Nam. Họ chiếm ngay vùng Bắc Đông Dương, dưới danh nghĩa là được người Pháp “chuẩn thuận” nhưng trên thực tế là do người Pháp không đủ khả năng ngăn cản. (Vào ngày 29 tháng 7 năm 1941, Pháp và Nhật ký “Hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương” cho phép quân Nhật sử dụng hầu hết các sân bay và cảng biển quan trọng ở Việt Nam. Văn kiện này chính thức công nhận sự hiện diện quân sự của Nhật Bản trên toàn Đông Dương). Tuy nhiên, tới tháng 8 năm 1944, quân Đồng minh sắp sửa giải phóng Paris. Nhận thấy rằng những ngày chiếm đóng với danh nghĩa được Pháp “chuẩn thuận” đang sắp kết thúc, Tokyo một lần nữa ra tay. Tháng 3 năm 1945, Nhật giải tán chính phủ Pháp ở Đông Dương, tuyên bố Việt Nam “độc lập”.


    Người Việt Nam không coi trọng tuyên bố này. Họ nhận thấy mình chỉ là con tốt trong bàn cờ mà người Nhật đang chơi để hợp pháp hóa sự chiếm đóng Việt Nam. Họ cũng biết rằng, với khả năng quân Nhật sáp bại vong, quân Pháp sẽ sớm tìm cách tái áp đặt sự kiểm soát đối với Việt Nam. Từ góc độ của người Việt Nam , tuyên bố của Nhật Bản có nghĩa là giờ đây họ phải đối mặt với hai kẻ ngoại xâm chứ không chỉ một.


    Ngày 7 tháng 5 năm 1945, Đức đầu hàng Đồng minh. Với việc chiến tranh kết thúc ở châu Âu, quân Đồng minh hướng tới việc tung ra một đòn quyết định cuối cùng nhằm đánh bật Nhật Bản ra khỏi cuộc chiến. Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã lập các chiến dịch để hỗ trợ nỗ lực này.


    Tháng 7 năm 1945, OSS phát động một chiến dịch nhằm hỗ trợ lực lượng Việt Minh vốn được trang bị thô sơ và đang suy yếu của Võ Nguyên Giáp, lúc này đang tham gia đánh Nhật. Một đơn vị OSS có mật danh “Con Nai” nhảy dù xuống khu căn cứ trong rừng của ông Giáp ở miền Bắc Việt Nam để trợ giúp ông này và ông Hồ Chí Minh chống Nhật. (Trớ trêu thay, nhóm Con Nai đã giúp cứu sống ông Hồ Chí Minh, vốn lúc đó đang bị sốt rét, lị và nhiều bệnh khác hành hạ, cận kề với cái chết).


    Ngay sau khi gặp ông Giáp và bàn luận phương thức trợ giúp cho lực lượng của người Việt Nam, nhóm Con Nai lên kế hoạch dùng máy bay thả đạn dược và vũ khí xuống khu căn cứ trong rừng. Họ cũng bắt đầu huấn luyện chiến thuật và sử dụng vũ khí cho đội quân của ông Giáp. Chẳng bao lâu, Việt Minh và các binh sĩ Mỹ đã chiến đấu bên nhau, tth một loạt cuộc công đồn Nhật.


    Ngày 24 tháng 7 năm 1945, Tổng thống Truman và những lãnh đạo khác của phe Đồng minh tham dự Hội nghị Postdam để bàn luận về nhiều chủ đề, trong đó có chủ đề về số phận của Việt Nam sau khi Nhật Bản bại trận. Họ quyết định rằng nên lấy vĩ tuyến 16 để chia Việt Nam ra làm hai, với quân Tưởng Giới Thạch kiểm soát miền Bắc, quân Anh kiểm soát miền Nam. Chưa đầy một tháng sau, vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, quân Nhật đầu hàng, và chính thức tuyên bố đầu hàng vào ngày 2 tháng 9. Như đã thống nhất tại Postdam, quân Tưởng Giới Thạch và quân Anh lần lượt tiến vào Hà Nội và Sài Gòn.


    Giữa lúc quân Anh do Trung tướng Douglas D. Grecey tiến vào Sài Gòn, một nhóm OSS khác do Trung tá Lục quân Mỹ A. Peter Dewey, 28 tuổi, chỉ huy được điều tới hỗ trợ. Tới nơi vào ngày 4 tháng 9, nhiệm vụ của nhóm là giải phóng cho những quân nhân Đồng minh đang bị bắt làm tù binh và tìm kiếm người Mỹ mất tích. Dewey rất hợp với nhiệm vụ này. Ông có nhiều phẩm chất và kỹ năng tốt, trong đó có việc nói tiếng Pháp trôi chảy nhờ thời gian hoạt động tại Pháp ngay trong lòng quân Đức. Trớ trêu thay, khả năng nói tiếng Pháp trôi chảy rốt cuộc đã góp phần dẫn tới cái chết của ông ba tuần sau đó.


    Trong khi Dewey là một sự lựa chọn tốt để đại diện cho nước Mỹ tại Việt Nam thì Gracey lại không phải là một sự lựa chọn tốt để đại diện cho nước Anh. Từng đối mặt với người dân thuộc địa trong phần lớn binh nghiệp của mình, Gracey không mấy thiện cảm với họ. Ông được lệnh giữ lập trường trung lập về chính trị trong vấn đề độc lập của Việt Nam trước sự kiểm soát của người Pháp. Tuy nhiên, mối cảm tình mà Gracey dành cho Pháp rốt cuộc đã giúp họ tái lập sự kiểm soát tại phần lớn miền Nam Việt Nam, trái ngược với mệnh lệnh duy trì trung lập.


    Gracey cũng được lệnh giải giới quân Nhật và duy trì trật tự tại Sài Gòn. Nhưng ngay lập tức ông đã thực hiện một loạt hành động cực kỳ thiếu tế nhị đối với người Việt Nam. Đầu tiên, khi ông Hồ Chí Minh gửi phái đoàn từ Hà Nội vào gặp Gracey, vị tướng Anh đã đường đột tống họ ra khỏi văn phòng của mình. Thứ hai, ông áp dụng thiết quân luật đối với người Việt Nam, lựa chọn lính Pháp và tù nhân Nhật Bản được giải phóng để thực thi thiết quân luật.


    Dewey rất lo ngại về các kế hoạch mà Gracey đang tiến hành cũng như sự thiếu tế nhị của ông này đối với người Việt Nam. Ông thấy rằng Gracey đang hướng tới một thảm họa, thổi bùng thêm ngọn lửa thù hận trong lòng người Việt Nam nhằm vào phương Tây. Rõ ràng Dewey và Gracey đang nhìn vào Việt Nam từ hai góc độ rất khác nhau; và chắc chắn họ sẽ phải đụng độ nhau. Dewey liên tục gửi báo cáo về Washington trong đó chỉ trích vị tư lệnh người Anh ngày một dữ dội. Mệt mỏi trước sự chỉ trích của Dewey cũng như công việc của một vị tư lệnh của lực lượng chiếm đóng, Gracey đã lệnh cho Dewey rời Việt Nam.


    Dewey mới chỉ tới Việt Nam được ba tuần, nhưng chừng đó cũng đủ để ông hình thành một niềm tin mạnh mẽ về đất nước này. Ông tin rằng bất cứ quốc gia nào rắp tâm chiếm đóng Việt Nam hoặc tự ý duy trì sự hiện diện ở đây sẽ phải chuốc lấy tai ương. Đó là niềm tin mà Dewey đã nêu rõ trong bản báo cáo cuối cùng gửi về Washington trước khi ông ra đi. Trong báo cáo, ông đã có đánh giá như một lời tiên tri:


    “Nam Kỳ đang bốc cháy; người Pháp và Anh sẽ bị kết liễu tại đây, và chúng ta phải chạy khỏi Đông Nam Á”.


    Sự ra đi của Dewey, rốt cuộc đã đi vào lịch sử, được Stanley Karnow ghi lại trong cuốn sách của mình – VIỆT NAM: MỘT LỊCH SỬ (VIETNAM: A HISTORY), do Penguin (USA) Inc. xuất bản:


    “Rạng sáng 26 tháng 9 năm 1945, Dewey chuẩn bị ra đi… Ông tới sân bay Sài Gòn cùng một đồng nghiệp (người Pháp), Đại úy Herbert J. Bluechel, nhưng máy bay hoãn chuyến. Sau đó, họ trở lại ngay trong buổi sáng để kiểm tra lịch bay; Dewey ngồi sau vô lăng chiếc xe jeep – vốn bị Gracey cấm treo cờ Mỹ với lý lẽ rằng chỉ có ông ta (Gracey), trong vai trò tư lệnh khu vực, mới có quyền treo cờ trên xe. Trước đó, Việt Minh đã bắn bị thương một sĩ quan OSS khác (cũng ngồi trên một chiếc xe không treo cờ tương tự) và Dewey rất lo ngại về điều này. Ông chạy đường tắt qua sân gôn Sài Gòn. Đột nhiên, ông thấy một mớ cây bụi nằm chắn giữa đường. Ông cho xe thắng lại và chạy vòng để lách qua chướng ngại vật, chợt phát hiện ba người Việt Nam đứng ở rãnh mương bên đường. Ông giận dữ chửi họ bằng tiếng Pháp. Tưởng rằng ông là sĩ quan Pháp, họ đáp trả bằng một tràng súng máy làm bay mất phần sau hộp sọ của ông. Bluechel, không mang theo vũ khí, nhanh chóng chạy thoát; khi đang chạy, một viên đạn đã làm bay mũ của ông”.


    Người Pháp đổ lỗi cho Việt Minh gây ra cái chết này; Việt Minh lại đổ lỗi cho người Pháp và Anh. Ông Hồ Chí Minh, sau khi nhận ra sai sót nghiêm trọng ấy, đã viết thư cho Tổng thống Truman để chia buồn. Trong thư có đoạn: “Sự việc này có thể do người Anh hoặc người Pháp kích động, nhưng cũng có thể là những nhầm lẫn do tối trời… Chúng tôi vô cùng xúc động trước tin này và sẽ làm tất cả để tìm ra và trừng trị thủ phạm”.


    Thật trớ trêu, người đầu tiên tiên đoán được sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là một thảm họa cũng trở thành người Mỹ đầu tiên thiệt mạng vì chủ trương can thiệp sâu của nước này. Cái chết của Dewey đồng thời đánh một dấu mốc khác: bởi thi thể bị thất lạc nên ông cũng là người Mỹ đầu tiên mất tích (MIA) thời hậu Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Việt Nam.


    Cái chết của Trung tá Dewey có thể xuất phát từ một nhầm lẫn không may, nhưng nó đã tạo ra một bước ngoặt trong tiến trình Mỹ can thiệp vào Đông Nam Á. Khi mà Washington tiếp tục tiến đến vũng lầy, hàng loạt sai lầm trong hoạch định chính sách đã xảy ra, đẩy người Mỹ lún sâu. Việc Mỹ không rút quân khi mà viễn cảnh chiến thắng tắt ngấm rốt cuộc đã khiến có thêm hàng ngàn binh sĩ của hai phía thiệt mạng.


    Dewey là người có viễn kiến vĩ đại. Hai mươi năm trước khi người lính Thủ quân lục chiến đầu tiên của Mỹ đặt chân xuống Đà Nẵng, ông đã xác quyết rằng Mỹ không nên can thiệp quân sự vào Việt Nam. Tương tự, chắc chắn ông là người biết khi nào thì nước Mỹ, vỗn đã rút ra khỏi vũng lầy sau khi thất bại, chấp nhận bàn tay hữu nghị chìa ra từ phía kẻ thù cũ. Nếu còn sống vào năm 1995 khi Tổng thống Clinton quyết định bình thường hóa quan hệ giữa hai quốc gia, Dewey chắc hẳn phải thừa nhận tầm quan trọng của việc xây dựng mối quan hệ mới với Việt Nam theo sau cuộc chiến tranh vốn dĩ đã biến đồng minh một thời thành ke thù không đội trời chung.


    Ngày 6 tháng 8 năm 1995, lần đầu tiên sau bốn mươi năm, văn phòng đại diện ngoại giao của Mỹ tại Hà Nội đã được nâng cấp lên thành đại sứ quán, đánh dấu một điểm sáng trong quan hệ Mỹ - Việt. Có lẽ Trung tá A. Peter Dewey, bằng linh hồn chứ không phải thể xác, là một trong những quan sát viên cho sự kiện này. Nếu quả thực như thế, chắc hẳn ông đã gật đầu vui vẻ để biểu thị sự tán đồng lặng lẽ của mình.
     
  11. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    PHẦN 7​
    VĂN CÔNG



    Nếu như lính Mỹ có thể thưởng thức các chương trình của USO[SUP]1[/SUP] trong suốt cuộc chiến thì binh lính Việt Nam cũng thường được xem đội ngũ văn công lưu động biểu diễn. Thông điệp mà các đoàn văn công Việt Nam truyền tải tới khán giả thường rất khác so với thông điệp mà USO truyền tải tới lính Mỹ, nhưng đối với tất cả các binh sĩ tham gia cuộc chiến thì nghệ sĩ của cả hai phía đều đã mang đến một sự thư giãn tạm thời nhưng quý giá, giúp họ giải tỏa bớt căng thẳng của cuộc chiến kinh khiếp. Câu chuyện sau đây được đúc kết từ các cuộc phỏng vấn với nhiều nghệ sĩ Việt Nam, những người đã hiến dâng khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời để biểu diễn dọc Đường mòn Hồ Chí Minh và trên chiến trường miền Nam.





    TIẾP TỤC BIỂU DIỄN


    Ngay từ đầu đời, Lê Thu Lượng đã nhận ra thực tế khắc nghiệt đối với những con người sinh trưởng trong một đất nước chiến tranh liên miên. Là đứa con duy nhất trong gia đình, cô không bao giờ biết mặt cha mẹ. Cô sinh tháng 12 năm 1947, vào buổi đầu cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp của Việt Nam, và mới hai tuổi thì đã thành mồ côi. Cha cô, một người lính Việt Minh, đã thoát khỏi sự giam cầm của người Pháp để rồi lại chết trong rừng sâu. Trong điều kiện không có thuốc men, ông bị sốt rét đánh gục. Chưa đầy một năm sau, mẹ của Lượng cũng qua đời – bà là nạn nhân trong một cuộc ném bom của quân Pháp. Cái chết của cha mẹ chưa phải là bị kịch chiến tranh cuối cùng mà Lượng phải hứng chịu.

    Nếu có một định hướng trong nỗi đau thì có lẽ cái chết của cha mẹ khi Lượng đang ở tuổi ấu thơ đã tạo ra một lối đi cho cuộc đời cô. Được bà ngoại nuôi nấng và lớn lên trong tiếng ru của bà, cô bé đã sớm có niềm đam mê những giai điệu dân ca. Ở tuổi mười hai, cô bé nghèo trong một làng nhỏ thuộc khu vực Vĩnh Linh đã sớm phát lộ những phẩm chất của một nghệ sĩ dân ca.

    Tài năng của cô được chính quyền biết đến. Lượng sớm được tuyển vào đội văn công để phục vụ hoạt động phát thanh và tuyên truyền. Giọng ca huyền diệu cùng với ánh mắt thiên thần của cô đã trở thành một thứ vũ khí đặc biệt – cô biểu diễn cho khán giả những bài ca về niềm say mê, truyền cảm hứng cho họ về chiến thắng cuối cùng, về sự thống nhất của Tổ quốc.

    Ban đầu Lượng biểu diễn ở các thôn xóm, sau đó cô tham gia một đoàn văn công 45 người tới Hà Nội biểu diễn cho bộ đội. Rồi cô xung phong gia nhập đoàn văn công quân đội và vào Nam công tác từ tháng 3 năm 1967. Rời Hà Nội cùng với một đoàn văn công gồm các tài năng thuộc nhiều thể loại, từ ca sĩ tới nghệ sĩ múa, từ diễn viên chính kịch tới diễn viên hài, Lượng sớm nhận ra sự khắc nghiệt của chiến tranh khi cô phải đi bộ dọc Đường mòn Hồ Chí Minh.

    Sự kiện đoàn văn công rời Hà Nội đánh dấu giai đoạn tám năm công tác với trách nhiệm nặng nề - cuộc sống của Lượng cùng các nghệ sĩ đồng đội luôn đầy thử thách về thể chất và tinh thần.

    Đoàn đi dọc Đường mòn vào Nam, tới mỗi binh trạm đều nghỉ lại. Là nghệ sĩ, không giống như lính thông thường, họ thường ở lại nhiều ngày tại mỗi binh trạm để biểu diễn. Đối với những người lính không có gì ngoài sự khắc nghiệt của chiến tranh, sự xuất hiện của các đoàn văn công là nguồn cổ vũ tinh thần lớn lao.

    Thông thường, các buổi diễn được tổ chức ngoài trời. Lính tráng ngồi xung quanh một sân khấu dã chiến, có người trèo lên cây cối xung quanh để xem. Sân khấu thường được dựng dưới tán cây rừng để giúp nghệ sĩ biểu diễn cũng như bộ đội ngồi xem khỏi bị máy bay địch phát hiện. Không ai có thể hình dung về những tổn thất nếu máy bay phát hiện ra. Một đám đông bị máy bay tấn công giữa ban ngày chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc. Đôi lúc các buổi văn nghệ diễn ra dưới hầm để phục vụ những thương bệnh binh không thể lên mặt đất được.

    Dù ở đâu thì các buổi biểu diễn cũng luôn được chào đón nồng nhiệt. Đối với các nam quân nhân chưa từng gặp phụ nữ trong nhiều năm, sự xuất hiện của đoàn văn công là một dịp tuyệt vời. Sự chào đón của lính tráng xuất phát từ lòng yêu thích nghệ thuật hay từ sự ngưỡng mộ sắc đẹp của Lượng và các nữ văn công khác có lẽ là một trong những bí ẩn của Đường mòn.

    Hành trình Nam tiến của đoàn kết thúc trên đoạn Đường mòn giữa Quảng Trị và Thừa Thiên, nơi đã trở thành căn cứ hoạt động của họ. Được biết đến với tên gọi đoàn văn công “Trị-Thiên”, Lượng và các nghệ sĩ đồng đội thường xuyên đi khắp vùng, xuôi ngược theo Đường mòn để biểu diễn cho các đơn vị bộ đội.

    Năng khiếu chính của Lượng là hát, nhưng cô cũng chứng tỏ tài năng trong nhiều thể loại khác.

    “Tôi hát mọi thể loại, ngoài ra còn biểu diễn hài kịch và chính kịch”, cô nói. Dù hình thức như thế nào thì các buổi biểu diễn thường có một chủ đề chung – đó là sự hy sinh cá nhân vì sự nghiệp chung. Chỉ có hy sinh bản thân mới mong đạt được mục tiêu thống nhất đất nước.

    “Có một vở hài kịch mà tôi thường đóng kể chuyện một phụ nữ lớn tuổi bắt tù binh”, Lượng kể. “Câu chuyện nhấn mạnh rằng cuộc chiến tranh này là cuộc chiến toàn dân. Bối cảnh của vở kịch là một ngôi làng nhỏ. Rất nhiều lính địch tấn công vào làng, bắt gà và dê của bà cụ kia. Bà cụ đã bắt được nhiều lính địch trước khi họ bị quân giải phóng đánh đuổi”.

    Lượng cũng tham gia chính kịch. Một vở kịch có nhan đề “Lá cờ”, theo cô là rất xúc động. Trong vở kịch, một bà cụ mù lòa, dù làng đã bị quân địch chiếm đóng nhưng vẫn tiếp tục cất giữ một lá cờ cộng sản trong nhà. Lòng trung thành với miền Bắc lấn át nỗi sợ hãi rằng quân địch có thể phát hiện ra lá cờ cũng như sự ủng hộ của bà dành cho chính quyền Hà Nội. Trong phân cảnh cuối cùng, khi chiến tranh kết thúc, bà cụ đem lá cờ ra khỏi nơi cất giấu và tự hào cắm lên mái nhà.
    _______________________________
    1. USO (United Service Organizations Inc. – Tổ chức Dịch vụ Liên Bang) là một tổ chức tư nhân chuyên cung cấp các dịch vụ giải trí và cổ động cho quân đội Mỹ.
     
  12. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***


    Để hiểu được vị trí trang trọng của nghệ thuật, cần phải nhìn nhận một thực tế rằng. Trong chiến tranh, đối với Hà Nội, các nghệ sĩ biểu diễn có vai trò quan trọng không kém những người lính chiến đấu ngoài mặt trận.

    “Đối với người chiến sĩ trên mặt trận thông tin, lời bài hát hay chủ đề một vở kịch chính là vũ khí chiến đấu”, ông Nguyễn Thế Linh, người chỉ huy một đoàn văn công biểu diễn dọc Đường mòn giai đoạn 1964-1975, nhấn mạnh. “Không trực tiếp chiến đấu nhưng chúng tôi chăm sóc tinh thần cho chiến sĩ. Đơn vị của chúng tôi tuy nhỏ nhưng hoạt động hiệu quả và có đóng góp rất quan trọng. Tất cả những bài hát, bài thơ, vở kịch đều hướng tới khích lệ tinh thần chiến sĩ. Mỗi một tiết mục đều nhằm mục đích giải thích rõ tại sao chúng tôi lại chiến đấu – và quan trọng hơn, tại sao chúng tôi phải chiến thắng”.

    Khó mà hiểu một cách cặn kẽ về nỗ lực đưa nghệ thuật tham gia vào các nỗ lực chiến đấu bên phía Bắc Việt. Trong khi người lính Mỹ nghe các ca khúc về quê nhà, người thân mà họ để lại sau lưng, cũng như bi kịch của chiến cuộc (chẳng hạn bài “Đâu rồi những bông hoa?” [SUP]1[/SUP], người lính Bắc Việt lại nghe những bài ca ái quốc, những khúc hát giành chiến thắng cho Tổ quốc, niềm vinh quang được cầm súng và được chết cho đất nước. Các bài hát mà người lính Bắc Việt được nghe hiếm khi nói về nỗi đau hoặc mất mát của cá nhân – vì điều đó chỉ khiến người lính bị phân tâm trong sứ mệnh giành chiến thắng.

    Thông điệp gửi cho người lính ngoài chiến trường hay gia đình họ ở quê hương đều có chung nội dung. Nó giải thích cho người lính “lý do tồn tại” – rằng anh ta có mặt ở đây để hy sinh cho Tổ quốc. Và dù cho có chung cội nguồn, nhưng những bài ca của miền Nam rất khác so với miền Bắc. Trong khi binh lính Sài Gòn luôn nghĩ về tình cảm lãng mạn, lính Bắc Việt chỉ tập trung vào chiến trường.

    Nghệ thuật khích lệ động cơ chính trị của lính miền Bắc, đồng thời cũng là một hình thức giải trí. “Nghệ thuật là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa”, ông Linh giải thích. “Quân đội nhân dân của chúng tôi luôn tập trung cao độ cho nhiệm vụ chiến đấu nên rất cần nghệ thuật để thư giãn. Chúng tôi không thể thờ ơ với món ăn tinh thần này. Trong chiến tranh, vũ khí và khí tài hiện đại là rất quan trọng – nhưng yếu tố con người lại càng quan trọng hơn”.

    Ông Linh nói rằng nước Mỹ thất bại trong cuộc chiến vì đã không hiểu con người và lãnh đạo Việt Nam. “Người Mỹ đã không hiểu được yếu tố con người trước khi tham chiến”, ông chia sẻ. “Họ không hiểu nghệ thuật của chúng tôi. Nghệ thuật khích lệ tinh thần bộ đội và truyền cho họ nguồn động lực để vượt qua khó khăn gian khổ. Thời khắc khó khăn nhất của cuộc chiến là những lúc thiếu thực phẩm. Chúng tôi có thể sống nhiều ngày với chỉ một nhúm thức ăn. Tình hình tồi tệ đến mức chúng tôi đã tính đến phương án cho phụ nữ trở ra Bắc, nhưng âm nhạc đã khích lệ họ ở lại. Đó là lý do tại sao chúng tôi có thể chiến đấu suốt mười một năm. Thời đó thật gian khó. Nhưng chúng tôi vẫn vượt qua bao khó khăn, trong đó có phần nhờ vào nguồn cảm hứng từ âm nhạc, từ những bài hát, bài thơ. Lời ca là một đội quân vô hình nhưng rất hùng mạnh. Vai trò của văn nghệ quan trọng tới mức nhiều người lính chiến, trong giai đoạn khan hiếm thực phẩm, vẫn sẵn sàng nhường phần ăn cho nghệ sĩ để đảm bảo họ đủ sức khỏe biểu diễn”.

    Vị Tư lệnh trưởng lực lượng Đường mòn Hồ Chí Minh, Tướng Đồng Sĩ Nguyên, thừa nhận tầm quan trọng của nghệ thuật như là một công cụ truyền động lực. Sau một trận đánh đẫm máu trong trung đoàn dưới quyền chỉ huy của ông gần như tổn thất hoàn toàn, ông đã triệu tập nhà thơ Phạm Tiến Duật, người đang làm việc ở sở chỉ huy. Đã gần nửa đêm khi thi sĩ gặp vị tư lệnh. Sau khi thông báo cho ông Duật về tổn thất vừa qua, Tướng Nguyên chỉ đạo nhà thơ viết một bài về sự hy sinh của trung đoàn. Ông Duật hiểu rõ mục đích của việc làm ấy – thông qua hình thức nêu gương hy sinh của các chiến sĩ trung đoàn, vị tư lệnh muốn thổi lên tinh thần chiến đấu cho những người lính sống sót qua trận đánh cũng như cho chính bản thân ông. “Tướng Đồng Sĩ Nguyên hiểu rất rõ tác dụng quan trọng của văn chương”, ông Duật nhận xét.



    ***


    Là một nghệ sĩ biểu diễn, Lượng rất hiểu tầm quan trọng của việc thích ứng với hoàn cảnh. Thời gian biểu luôn phải linh động bởi một khi có thông báo máy bay sắp ném bom thì buổi diễn phải tạm ngưng.

    “Rất nhiều lần các vụ ném bom đã làm gián đoạn buổi diễn”, cô cho biết. “Nhưng một khi bom ngưng, chúng tôi lại tiếp tục”. Ban đầu Lượng rất sợ bom nhưng cô nhanh chóng học cách thích nghi. “Trong trận ném bom đầu tiên, tôi cực kỳ hoảng sợ. Sau một thời gian, tôi nhận ra rằng nếu có chuyện gì xảy ra với bản thân thì những anh chàng trẻ tuổi tốt bụng kia sẽ chăm sóc cho tôi – vì thế tôi bắt đầu phấn đấu để biểu diễn thật tốt và coi chuyện bom đạn là bình thường”.

    Lượng kể rằng một chàng trai đã có cảm tình với cô và cô cũng có cảm tình với anh. Tên anh là Trương Chí Thành – Chính ủy Trung đoàn 6. Anh đã xem một số buổi diễn của cô. Họ gặp nhau vào tháng 10 năm 1967 sau khi Thành chủ động bắt chuyện.

    Tuổi Thành hơn gấp đôi tuổi cô nhưng Lượng vẫn yêu mãnh liệt. “Anh ấy cao và rắn rỏi”, cô nhớ lại. “Anh cao hơn những người trung bình và rất đẹp trai với mái tóc húi cua. Đơn vị của anh được tặng thưởng huân chương cao quý vì có thành tích chiến đấu tốt”.

    Chuyện yêu đương trong rừng rậm giữa muôn ngàn quân không hề đơn giản. Và tình hình càng trở nên khó khăn hơn khi đơn vị của Thành chuyển đến đóng quân ở một địa điểm cách xa hàng chục cây số. Khoảng cách xa đến nỗi phải mất một ngày một đêm thì Thành mới đến được binh trạm của Lượng. Tuy nhiên, khoảng cách không hề ngăn cản tình yêu – nó đơn thuần chỉ là một khó khăn mà họ phải vượt qua.

    “Chúng tôi rất yêu nhau”, Lượng giải thích. “Anh ấy thường viết thư tình cho tôi. Đêm nào cũng có giao liên mang thư tới cho tôi”. Nhưng rồi định mệnh đen tối lại tìm đến với Lượng lần nữa. Tháng 12 năm 1967, cô và Thành ôm nhau lần cuối. “Tôi đang bị sốt rét; sốt rất nặng. Anh đến thăm, mang theo ít đường và đồ ăn. Chúng tôi nói với nhau về những ước mơ. Anh bảo rằng đến lúc hết chiến tranh sẽ sắm một chiếc xe để có thể chở tôi đi biểu diễn khắp đất nước. Chúng tôi bịn rịn chia tay”.

    Những lá thư tình tiếp tục được giao liên mang tới, cho đến ngày đơn vị Thành rời khu vực. Lá thư cuối cùng Thành gửi kèm theo một gói quà. Gói quà gồm một hũ dưa muối – do lính tráng tự làm, một chiếc khăn tay và một đôi bít tất. Lượng cho biết có một lá thư xin lỗi. Thư viết: “Trong thời kỳ chiến tranh khắc nghiệt này, anh không có gì khác để tặng em ngoài những món quà nhỏ này. Anh gửi tới cô văn công của anh một chút quà cho ngày Tết”.

    Đơn vị Thành rời đi, sau đó cùng với các đơn vị khác thực hiện cuộc tấn công Tết Mậu Thân vào ngày 31 tháng 1 năm 1968. Ngày hôm đó, hàng loạt cuộc tấn công đã được phát động nhằm vào quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tại Sài Gòn và các khu vực lân cận. Khi lực lượng của Thành đang rút lui thì thảm họa giáng xuống. Anh và đồng đội di chuyển dọc bờ sông mà không biết rằng họ đã bị lộ. Chỉ sau vài phút, một đơn vị pháo của kẻ thù đóng cách đấy vài cây số nhận được tin báo. Khi Thành nghe tiếng pháo xé gió thì đã quá muộn. Anh và nhiều đồng đội bị trọng thương. Mười ngày sau khi Lượng nhận được lá thư cuối cùng của Thành, anh qua đời.

    Các thành viên trong đội văn công biết tin Thành chết ngay sau đó nhưng họ tìm cách giấu Lượng. Khi cô liên tục hỏi tin tức về Thành, người ở sở chỉ huy nói rằng đơn vị của anh đã tiến sâu vào Nam. Nhiều tháng trôi qua, đến một ngày nọ, trong một lần nói chuyện với bạn cùng diễn, sự thật đã lộ diện. Lượng choáng váng. Trong sự khắc nghiệt của số phận, cuộc chiến đã mang tình yêu lớn lao nhất đến cho Lượng rồi cũng tước đi của cô mối tình ấy. Một câu chuyện tình thật đẹp đã kết thúc trong bi kịch.

    Tám năm sau, khi cuộc chiến đã kết thúc, Lượng cưới người giao liên thường mang thư của Thành tới cho cô.
    _________________________________
    1. “Where Have All The Flowers Gone?” là một bài hát rất thịnh hành vào thập niên 1960, do Pete Seeger và Joe Hickerson viết lời, theo giai điệu một bài dân ca Mỹ.
     
  13. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    ***


    Cuộc sống trong rừng rất khó khăn với phụ nữ. “Với đàn ông cuộc sống vốn đã khó khăn, với phụ nữ thì càng khó khăn gấp bội”, Lượng tâm sự. “Chúng tôi phải giải quyết các khó khăn của phụ nữ mà không có bất kỳ tiện nghi cơ bản nào… Đối với phụ nữ thì cuộc sống khó khăn gấp năm lần đàn ông”.

    Môi trường chinh chiến trong rừng đã gây ra tổn hại nặng nề cho phụ nữ cả về thể xác lần tinh thần. Đối với những người quen với cuộc sống đô thị, tác động càng lớn hơn. Không còn được hưởng những tiện nghi thành thị, da họ trở nên chai sạn đi do phải lao động nặng nhọc cộng với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Đối với nhiều người, thời kỳ cơ cực kéo dài tới chín năm. Nhiều người vào rừng khi còn nhỏ tuổi, đến lúc kết thúc chiến tranh, chợt nhận ra rằng cơ thể của họ đã bị rút cạn sức thanh xuân.

    Hầu hết phụ nữ phục vụ trên Đường mòn giữ nguyên tắc đạo đức rất nghiêm ngặt. Quan hệ tình dục trước hôn nhân là điều tuyệt đối cấm kỵ. Nhiều phụ nữ tuân thủ nghiêm ngặt đạo lý này đã phải sống đơn chiếc suốt cuộc đời sau khi trở về từ chiến trường. Cuộc sống khắc nghiệt trong rừng đã bào mòn cơ thể họ, khiến họ không còn hấp dẫn được cánh đàn ông xuất ngũ vốn có xu hướng tìm kiếm những phụ nữ trẻ hơn và mảnh mai hơn. Có một chuyện kể về 40 phụ nữ trên Đường mòn luôn cố gắng giữ gìn sự trong trắng và hai mươi năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, họ vẫn còn độc thân, không được các nam đồng đội ngày ấy có tình cảm yêu đương.



    ***


    Tuy nhiên, nữ văn công lại khác. Do nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với binh sĩ nam nên rất nhiều nữ nghệ sĩ đã lấy chồng khi đang công tác trên Đường mòn. Chị Phạm Thị Thu Hồng kể về một cuộc gặp gỡ dẫn đến hôn nhân như thế. Là một ca sĩ, ở tuối hai mươi hai, năm 1963 chị được điều vào Nam biểu diễn cho bộ đội trên tuyến đường mòn cách không xa thành phố Huế. Hồng công tác ở đây cho đến khi những cơn sốt rét rừng đẩy chị ra Hà Nội vào năm 1972.

    “Tôi gặp người chồng tương lai trên chiến trường miền Nam năm 1963. Tôi là ca sĩ còn anh là nhà quay phim đang làm phim tài liệu. Anh tên là Nguyễn Hồng Sáu. Dù đã xem nhiều buổi diễn của tôi nhưng anh Sáu không bao giờ bắt chuyện. Thế rồi vào một buổi chiều khoảng hai năm sau lần đầu tiên gặp nhau, anh vào rừng kiếm rau. Anh chỉ mang theo lưỡi lê và trong lúc mải mê kiếm rau thì bị rắn độc mổ vào cổ. Anh chạy tới trại chúng tôi. Tôi và một diễn viên khác cùng nhau trị thương. Chúng tôi cho anh uống thuốc để ức chế chất độc. Còn một viên chúng tôi bẻ làm đôi rồi tán bột, sau đó xoa vào vết cắn để ngăn chất độc lan ra. Trong lúc chữa bệnh, tôi mới biết rằng hai chúng tôi ở cùng làng. Khi chữa xong, anh hỏi liệu tôi có thể ghé đến trại của anh vào tối hôm đó hay không”.

    Chị Hồng đã tới thăm người bệnh bất đắc dĩ của mình vào tối hôm ấy. Sau đó thì anh thừa nhận là đã thương thầm nhớ trộm chị trong một thời gian dài. Anh không biết làm cách nào để ngỏ lời cho đến khi tai nạn rắn cắn xảy ra anh mới có cơ hội bày tỏ.

    Tuy nhiên, về phía Hồng thì tình yêu không đến nhanh chóng. Dù trở thành bạn thân, mãi ba năm sau Hồng mới xiêu lòng trước bệnh nhân cũ. Họ cưới nhau sau khi chị được điều về Hà Nội vào năm 1972 vì lý do sức khỏe.



    ***



    Nữ văn công ở trong trại riêng, tách biệt với nam đồng đội. Đôi lúc vì lý do an ninh hoặc đơn giản là để giúp đỡ phụ nữ vượt qua khó khăn của cuộc sống lán trại, một ít thành viên nam được điều sang ở chung. Dù vậy cũng không bao giờ có vấn đề gì xảy ra liên quan tới giới tính. Nam giới tôn trọng sự riêng tư của phụ nữ và ngược lại.

    Đôi khi phụ nữ mời đàn ông tới lán mình cùng ăn cơm. Cô Lượng kể về một sự cố xảy ra liên quan tới một trong những lần mời như thế. Sau khi giặt đồ lót và đem phơi, các nữ văn công nấu chè – một món tráng miệng chế biến từ đậu. Buổi tối hôm đó, các vị khách nam tới. Họ ngồi quanh bếp lửa, chè trong chảo lớn đã sôi và bắt đầu được múc ra các bát nhỏ. Khi múc đến những bát cuối cùng, cái vá chạm phải một vật gì lổn nhổn dưới đáy nồi. Nhìn kỹ, các đầu bếp phát hiện ra đó là một món đồ lót phụ nữ. Rõ ràng là khi không ai để ý thì có một món đồ lót đã tuột khỏi dây phơi gần bếp và rơi tõm vào nồi! Phát hiện ra nguyên liệu đặc biệt của nồi chè, cánh đàn ông vẫn cứ ăn ngon lành.



    ***


    Bất cứ ai từng xuôi ngược Đường mòn đều có một câu chuyện kể về tình trạng thiếu lương thực. Dù văn công thường xuyên ở binh trạm, nơi lương thực khá phong phú, thì đôi lúc vẫn thiếu ăn như thường. Cô Lượng kể: “Có lần thiếu lương thực, chúng tôi phải vào rừng kiếm cái gì đó để ăn. Tìm được một ít nấm, chúng tôi liền nấu ăn mà không hề biết rằng đó là nấm độc. Cả nhóm đã bị ngộ độc và phải nhập viện… Sau Tết Mậu Thân 1968, lương thực càng khan hiếm. Chúng tôi đói liên miên. Không có muối, thuốc men, không có thức ăn. Mọi người phải thường xuyên vào rừng kiếm ăn. Chúng tôi săn thú rừng, có khi giết cả voi. Vơi cho nhiều thịt nhưng thịt dở tệ”.



    ***


    Chị Phạm Thị Thu Hồng kể về một tình huống trớ trêu mà chị và đồng đội phải đối mặt giữa lúc đang đói quặn ruột vì không được cấp đủ lương thực:

    “Mỗi người chúng tôi được mang theo một khẩu phần ăn khẩn cấp trong ba lô. Khẩu phần này gồm một chiếc bánh quy cứng mà phải có lệnh của thủ trưởng mới được ăn. Để biết chắc rằng không ai vi phạm quy định, người chỉ huy thường kiểm tra ba lô của mọi người.

    Lần đó chúng tôi đi dọc Đường mòn xuôi vào Nam. Trong nhiều ngày qua, ai nấy đều được ăn rất ít nên đói cồn cào. Thế là nhóm chúng tôi bàn cách lén lôi bánh ra ăn. Khi cả đoàn nghỉ chân, tôi quyết định bốn chúng tôi sẽ cùng ăn chung một chiếc bánh của một người và nếu bị phát hiện thì tôi sẽ đứng ra nhận trách nhiệm. Thế là chúng tôi lấy một chiếc bánh ra. Mọi người nói chuyện ồn ào trong khi bẻ bánh làm bốn để người chỉ huy khỏi phát hiện. Sau đó mọi người ăn vội vã rồi độn lá khô vào bao bánh để người chỉ huy tưởng rằng bánh vẫn còn”.

    Sự việc không bị phát hiện trong nhiều ngày. Nhưng rồi một hôm người chỉ huy kiểm tra. Bốn đồng phạm nhìn nhau lo lắng khi chiếc ba lô thứ nhất được mở ra. Đến lúc người chỉ huy kiểm tra ba lô thứ hai, bốn cô gái đã tìm cách tráo cái ba lô thứ nhất. Không ngờ người chỉ huy phát hiện ra sự đánh tráo. Khi được hỏi ai đã ăn mất khẩu phần khẩn cấp, chị Hồng đứng ra nhận trách nhiệm. Giữa lúc chị đang cố gắng phân bua về cơn đói của mọi người thì người chỉ huy liên tục khiển trách. Thông thường Hồng không phải là người hay cãi lệnh cấp trên nhưng trong trường hợp này chị đã có phản ứng khác thường. Chị quyết định đi một nước cờ mạo hiểm; chị yêu cầu người chỉ huy cũng mở ba lô ra cho mọi người kiểm tra trước khi tiếp tục quở trách. Cô nàng chỉ huy im lặng; chị Hồng bèn tiến đến và mở ba lô cô này ra. Cái mẹo mực của Hồng đã thu được kết quả - túi xách người chỉ huy cũng không còn bánh. Thấy rằng Hồng cùng những người khác chỉ mới ăn chung một chiếc bánh còn riêng mình thì ăn nguyên một chiếc, cô nàng chỉ huy mới bỏ qua vụ việc.



    ***


    Cuộc sống của văn công trên Đường mòn không đơn thuần là diễn xong rồi ngồi đợi đến buổi diễn kế tiếp. Thông thường họ phải làm nhiều việc mỗi ngày. Đôi khi họ phải tải hàng quân nhu từ nơi này đến nơi kia. Có một hôm, cô Lượng tham gia tải vũ khí từ một căn cứ trên núi về binh trạm. Khi đang cõng hàng xuống núi, nhóm của cô gặp một nhóm khác đi ngược lên. Nhóm này có một vài tù binh Mỹ đang được chuyển ra Hà Nội. Lượng và các đồng đội bèn dừng chân biểu diễn cho những người kia xem, trong đó có cả tù binh Mỹ. Đây là lần đầu tiên chạm mặt người Mỹ. Cô nhớ lại rằng hồi đó gặp họ cô hầu như chẳng có cảm xúc gì – không thù oán cũng chẳng thương cảm.

    Hầu hết các lần Lượng tham gia tải hàng quân nhu dọc Đường mòn đều không gặp sự cố lớn nhưng một vài thành viên khác lại không có may mắn ấy. Trong khi đang tham gia tải lương thực, hai nghệ sĩ đã thiệt mạng trong một đợt ném bom.



    ***


    Đối với hàng triệu người lính xuôi ngược dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, họ biết rằng ở một nơi nào đó giữa chốn gian khổ và hiểm nguy này, có những niềm cảm hứng – trong hình hài của các nghệ sĩ biểu diễn – đang chờ đợi họ. Họ biết những nghệ sĩ như Lê Thu Lượng, Phạm Thị Thu Hồng hay Nguyễn Thế Linh vẫn tiếp tục đi lại dọc Đường mòn, chờ đợi để biểu diễn văn nghệ nhằm truyền cảm hứng cho họ tiến tới ngày thắng lợi. Những người sống sót không bao giờ lãng quên vai trò quan trọng của văn công trong toàn cuộc kháng chiến.
     
  14. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    PHẦN 8​
    ĐIỀU KHÔNG MONG ĐỢI


    Trong quá trình thu thập dữ liệu cho cuốn CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP, đôi khi tôi bất ngờ bắt gặp một câu chuyện đăc biệt. Trong bốn câu chuyện sau đây, Người Ám Sát thu hút tôi nhất khi một mảng riêng tư được phơi bày.




    NGƯỜI ÁM SÁT


    Đôi khi số phận đẩy chúng ta vào một con đường không hề định trước – tương tự như chuyến trở lại Việt Nam đã làm thay đổi thái độ của tôi trước kẻ thù cũ. Sự kỳ lạ của số phận cũng đã dẫn tôi tới cuộc gặp gỡ với Thiếu tướng Trần Hải Phụng. Trong cuộc phỏng vấn với ba người này, tôi rất kinh ngạc khi biết được rằng một phần tư thế kỷ về trước, ông suýt chút nữa đã giáng thảm họa lên gia đình chúng tôi.

    Vì muốn tìm hiểu về địa đạo Củ Chi – hệ thống hầm ngầm ở mạn Tây Bắc Sài Gòn được người Việt Nam sử dụng suốt chiến tranh – tôi lên kế hoạch phỏng vấn người đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của địa đạo ấy. Ông lag vị tư lệnh quân địa đạo Củ Chi, Tướng Phụng.

    Từng chiến đấu dưới địa đạo thời chống Pháp từ thập niên 1940 nên ông Phụng biết rất rõ hệ thống này. Ông đã kể tỉ mỉ về lịch sử địa đạo, cách thức thiết kế, xây dựng, việc chuyển đổi tính năng từ một căn cứ phòng thủ sang bàn đạp tấn công, v.v. – Tất cả đều được đề cập trong cuốn sách này.

    Ông Phụng giải thích cho tôi biết rằng nhiệm vụ của ông trong chiến tranh bao gồm tổ chức và chỉ huy các cuộc đột kích vào nhiều loại mục tiêu tạo Sài Gòn và vùng kế cận – những cuộc tấn công chỉ được tiến hành theo sau một kế hoạch cặn kẽ và có sự phối hợp nhịp nhàng. Tôi chăm chú nghe ông liệt kê ra một loạt mục tiêu mà ông từng tấn công: “… Dinh Tổng thống, đài phát thành, Đại sứ quán Mỹ, tổng hành dinh hải quân…”. Khi ông Phụng nói đến mục tiêu cuối cùng ở trên, tôi đã cắt ngang với một loạt câu hỏi:

    “Ý ông là Tổng hành dinh của Hải quân Mỹ?”, tôi chất vấn.

    “Đúng vậy”, ông đáp. Khi ông đáp lại bằng một nụ cười, tôi thấy con người này dường như biết rõ những câu hỏi mà tôi sắp đưa ra.

    “Đó là Tổng hành dinh Hải quân Mỹ ở Sài Gòn?”, tôi hỏi tiếp.

    “Đúng thế”, ông lại đáp.

    “Đó là năm 1969?”, tôi lại hỏi.

    “Đúng rồi”, ông lại cười. (Tôi thấy mình giống như một chuyên gia chất vấn trong chương trình truyền hình “Nghề của tôi là gì?” nổi tiếng thời thập niên 1950/1960, trong đó người hỏi sẽ tiếp tục đặt câu hỏi chừng nào người trả lời còn đưa ra những câu khẳng định).

    “Mục đích của cuộc tấn công đó là gì?”, tôi chất vấn và nín thở chờ câu trả lời.

    “Để giết vị đô đốc chỉ huy Hải quân Mỹ ở Việt Nam”, ông đáp.

    Tôi cần một câu trả lời cuối cùng để xua đi cái hoàn cảnh trớ trêu này. Tôi không chắc lúc đó mình thực sự muốn biết câu trả lời ấy.

    “Ông có biết người đó là ai không?”, tôi hỏi.

    “Có chứ, ông ấy là cha của ông”.

    Không thể tin được. Tôi nhớ lại lần đầu tiên nhận được tin về vụ tấn công hồi mùa xuân năm 1969. Vụ việc diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 1969. Khi đó tôi đang nghe đài phát thanh, đến phần điểm tin chiến sự. Dù nhiều năm đã trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ rõ lời phát thanh viên hôm ấy: “Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự cho Việt Nam vừa cho biết có một nỗ lực ám sát nhằm vào tư lệnh Hải quân Mỹ ngay tại tổng hành dinh ở Sài Gòn. Không có báo cáo về thương vong”.

    Tôi không thể nghe phần tiếp theo của bản tin – sau khi bị sốc vì phần mở đầu này. Phải mất nhiều tiếng đồng hồ tôi mới gọi điện được đến trụ sở của cha tôi và biết ông vẫn bình an.

    Nhiều năm sau, tôi đã có dịp nói chuyện trực tiếp với người chịu trách nhiệm mưu sát cha tôi và qua đó có thể sắp xếp lại những tình tiết của câu chuyện mà tôi chỉ biết rất mơ hồ vào thời đó.

    Ông Phụng đã dành nhiều tuần để lên kế hoạch sau khi người của ông thoe dõi hoạt động tại trụ sở của cha tôi. Tổng hành dinh COMNAVFORV ở trung tâm Sài Gòn có tường bê tông rất dày, cao hơn hai mét bao quanh. Bốn mặt giáp với các con phố đông đúc. Tường che có tác dụng bảo vệ an ninh tương đối tốt, không những ngăn sự xâm nhập của Việt Cộng từ bên ngoài mà còn che đậy cho hoạt động bên trong. Nhưng điều mà người Mỹ không hề biết, đó là quân của ông Phụng đã theo dõi cơ sở này khá kỹ từ các vị trí thuận lợi cả từ bên trong và ngoài khu nhà – trinh sát bên ngoài được một điệp viên bên trong hỗ trợ. Sau nhiều lần quan sát kỹ, ông Phụng phát hiện ra một kiểu hoạt động đặc thù của những con người bên trong khu trụ sở.

    Là Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Việt Nam, cha tôi làm việc theo một lịch trình khá cố định. Ông thường bắt đầu một ngày bằng việc chạy bộ bên trong khuôn viên trụ sở vào lúc sáng sớm, tiếp đó là họp với nhân viên. Tùy vào nội dung bản báo cáo về chiến sự diễn ra vào đêm hôm trước mà ông có thể ở lại trụ sở hoặc bay trực thăng ra gặp những người đang chiến đấu ngoài mặt trận.

    Như đã nói ở Phần mở đầu, ngay sau khi tới nhận nhiệm vụ, cha tôi đã triển khai một chiến lược chiến tranh mới trên hệ thống sông nước Việt Nam. Chiến lược này đã mang lại hiệu quả lớn cho Hải quân trong việc ngăn chặn sự tiếp vận của Việt Cộng vào miền Nam. Quân nhu bị cắt đứt, hoạt động của Việt Cộng ở vùng đồng bằng giảm xuống, thương vong của Lục quân Mỹ cũng giảm. Ông Phụng biết rõ thành công của cha tôi.

    Cha tôi thường tới căn cứ ở trong rừng để thăm các thủy thủ vừa chiến đấu đêm hôn trước và các chuyến thăm kết thúc vào cuối buổi sáng. Sau đó, cha tôi trở về trụ sở, triệu tập thêm một cuộc họp nữa để rút kinh nghiệm. Buổi họp kết thúc vào giờ ăn trưa. Tuy nhiên, cha tôi cùng một vài nhân viên thường tập thể dục chứ không ăn trưa. Khuôn viên trụ sở có một sân bóng chuyền nằm sát vách tường ngăn cách với một đường phố tấp nập. Những pha bóng sôi nổi hằng ngày giúp các nhân viên tạm thời quên đi không khí chiến tranh xung quanh.

    Điều đáng tiếc là bên trong khuôn viên, nhiều người tỏ ra chủ quan. Trong thời chiến, chủ quan sẽ dẫn đến thảm họa. Cha tôi luôn hối thúc hạ cấp không được chủ quan – ông lệnh cho họ phải thường xuyên thay đổi chiến thuật và lịch trình làm việc để khiến kẻ thù khó đoán định được để mà lợi dụng. Nhưng có vài lần hiếm hoi cha tôi không thực hiện được điều mà ông chủ trương.

    Khi nhận được thông tin tình báo về hoạt động của cha tôi, Tướng Phụng liền lên kế hoạch hành động. Ông biết rằng để cho cú đấm thành công, cần phải hội đủ một số yếu tố quan trọng.

    Trước hết là yếu tố bất ngờ. Cần phải tiếp cận mục tiêu ở cự ly rất gần trước khi tung ra cú đánh. Ông Phụng cho rằng phải sử dụng một lực lượng gọn nhẹ.

    Tiếp theo, ông Phụng cũng hiểu rõ dùng một lực lượng nhỏ để đột kích khu trụ sở chẳng khác gì tự sát. Dù đoán vành đai an ninh khá lỏng lẻo, ông vẫn nghĩ rằng cần phải sử dụng một lực lượng lớn hơn để tấn công trực tiếp, nhưng phương cách này lại làm giảm yếu tố bất ngờ.

    Cuối cùng, cần có kế hoạch rút lui cho nhóm hoạt động. Phương tiện hỗ trợ rút lui cần phải gọn nhẹ để các tay súng có thể tiếp cận dễ dàng và rút đi trong chớp mắt.

    Kế hoạch cuối cùng của ông Phụng có cả ba yếu tố trên. Ông lập một nhóm tấn công gồm hai người, yêu cầu phải thực hiện tất cả những công đoạn đã được vạch ra.

    Hóa trang cẩn thận, hai sát thủ đi trên một chiếc xe gắn máy. Một người cầm lái, người kia ngồi phía sau ôm theo một bọc trước bụng. Xế trưa một ngày rất nóng vào tháng 5, chiếc xe gắn máy hòa vào dòng người tấp nập trên đường phố áp với trụ sở COMNAVFORV, phía bức tường che chắn sân bóng chuyền.

    Hai người biết rõ cần đi bao xa dọc con phố này sẽ đến được vị trí tương ứng với sân bóng chuyền phía bên trong bức tường. Nội gián bên trong khu trụ sở là một đầu bếp, người này đã lén đánh dấu trên bức tường bên ngoài chỗ sân bóng chuyền. Tới được nơi này, những kẻ tấn công chỉ còn cách mục tiêu một bức tường bê tông cao hơn hai mét.

    Người ngồi phía sau xe liếc nhanh qua đám lính gác. Một người lính đứng ở góc đường tỏ ra mất tập trung. Khi lái xe giảm tốc độ, ngay lập tức, người ngồi sau quẳng cái bọc ôm trước bụng – là một bọc thuốc nổ - qua bức tường, nhằm vào sân bóng chuyền bên trong khuôn viên.

    Người này định vị và ném rất chính xác, khối thuốc nổ rơi ngay giữa sân. Chiếc xe máy lập tức rồ ga, lách qua dòng người đang chạy chầm chậm trên đường để thoát khỏi sự truy đuổi.

    Vài giây sau, một tiếng nổ chấn động khu dinh thự. Đất và mảnh vỡ bay tứ tung ra cả con phố bên cạnh khiến mọi người nháo nhào tìm nơi ẩn nấp.

    Cuộc tấn công mà ông Phụng chỉ đạo là kết quả của hàng tháng trời thu nhập tin tức và lên kế hoạch cẩn thận. Vụ tấn công đã diễn ra trót lọt – nhưng thất bại. Cha tôi vẫn tuân theo các hoạt động thường nhật nhưng ông Phụng lại mắc sai sót. Vị tướng này chỉ phạm một sai lầm đơn giản nhưng rất hệ trọng – ông đã không thể xác định được vị trí của mục tiêu trước khi phát động tấn công.

    Ngay trước khi các nhân viên chuẩn bị chơi bóng chuyền, cha tôi được triệu tập tham dự cuộc họp tại trụ sở Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam. Vì thế, trận bóng thường lệ bị hủy vào phút chót. May mắn cho cha tôi nhưng không may cho ông Phụng là khối thuốc đã nổ trên mặt sàn trống trơn.

    Lúc tôi phỏng vấn xong, Tướng Phụng đứng dậy bắt tay: “Khi nào gặp lại cha anh, cho tôi gửi lời xin lỗi”, vị tướng nói. “Nhưng cũng hãy nói cho ông ấy rằng tôi chỉ thực hiện nhiệm vụ của một người lính”. Là một quân nhân, tôi hiểu rõ điều ông Phụng nói. Tôi cảm ơn về lời xin lỗi và nói thêm: “Thật may là ông đã đánh hụt mục tiêu!”.

    Tôi muốn nói về sự trớ trêu và những cảm xúc trong thời khắc ấy. Tôi đang đứng đối diện với người từng tìm cách giết cha tôi hai mươi bảy năm về trước. Nhưng, tôi đang bắt tay ông trong tình ái hữu. Khi Tướng Phụng đã đi, tôi trải qua một cảm xúc nữa. Trong tôi trỗi dậy lòng trắc ẩn và sự tha thứ cho kẻ thù cũ bởi tôi biết rõ rằng ông ấy chỉ làm nhiệm vụ của một người lính.

    Cuộc phỏng vấn Tướng Phụng diễn ra trước khi cha tôi qua đời; đêm hôm đó, tôi đã gọi điện từ Sài Gòn để thuật lại câu chuyện cho ông. Sau cùng, tôi nói: “Nhưng mà cha ơi, con đã cho ông ấy địa chỉ mới của cha rồi!”. Tôi nghe vọng lại từ đầu dây bên kia giọng cười nồng ấm.
     
  15. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    VỀ MỘT LẦN BẮT PHI CÔNG


    Nhiều năm sau chiến tranh, Trung sĩ Nguyễn Ngọc Huân đọc được bài viết về một cựu tù binh Mỹ trên báo chí Việt Nam. Bài báo nói về phi công Hải quân John S. McCain ở bang Arizona mới vừa đắc cử thượng nghị sĩ liên bang. Theo bài viết, máy bay của McCain bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội vào ngày 26 tháng 10 năm 1967. Ông Huân nhớ rất rõ: số phận đã mang ông tới Hà Nội một tháng trước đó, cho phép ông tham gia vụ bắt giữ một phi công Mỹ vào ngày hôm ấy.

    Trong lúc đọc báo, Huân nhớ lại cái ngày 26 tháng 10 năm 1967 và kể về xảm giác khi, trong một khoảnh khắc, đã nắm trong tay tính mạng của con người sau này sẽ trở thành một thượng nghị sĩ khả kính của nước Mỹ. Ngày hôm ấy, khi chiếc máy bay bị bắn cháy và viên phi công bung dù giữa bầu trời Hà Nội, ông Huân, với tất cả sự giận dữ, đã chuẩn bị tinh thần để giết người Mỹ này ngay lập tức.

    Ông nhớ cảnh lửa phụt ra từ máy bay, viên phi công nhảy ra phía trên một hồ nước nhỏ ở trung tâm Hà Nội. Ông lao tôi hồ nước, giương súng lên trong khi viên phi công vẫn còn lơ lửng ở độ cao vài trăm mét. Hướng nòng súng về phía người phi công đang bất lực, ông khẽ đặt ngón tay lên cò.

    “Nếu hôm đó tôi bóp cò thì ông người Mỹ này đã không bao giờ có một sự nghiệp chính trị như hôm nay”, ông Huân nghĩ bụng khi đọc bài báo về cuộc tranh cử của ông McCain. Ý nghĩ ấy luôn hiện lên trong đầu Huân kể từ khi McCain đắc cử nghị sĩ và tên tuổi ông được báo chí Việt Nam nhắc đến thường xuyên, trở thành một trong những cựu tù binh nổi tiếng nhất.

    Sau đây là những hồi tưởng của Huân về việc ông có mặt tại Hà Nội trong thời khắc đặc biệt đó và đã tham gia vụ bắt giữ một viên phi công trẻ tuổi người Mỹ đang bị thương vào một ngày tháng 10.

    Những ai từng biết đến vụ phi công John McCain bị bắt sẽ sớm nhận ra rằng câu chuyện mà ông Huân kể có nhiều điểm khác biệt. Và trong một sự tiết lộ đáng kinh ngạc, có thể thấy rằng cả hai câu chuyện đều là thật, dù có một ngoại lệ lớn.



    ***


    Cuộc đời binh nghiệp của Huân bắt đầu vào tháng 4 năm 1963, khi ông được biên chế vào một trong những sư đoàn nổi tiếng nhất của quân lực Bắc Việt – Sư 308. (Người Pháp đã đầu hàng Sư đoàn 308 tại Điện Biên Phủ vào năm 1954). Tháng 5 năm 1964, ông được biên chế vào Đoàn 959, hoạt động tại căn cứ ở Sầm Nưa, Lào. Đơn vị này có hai nhiệm vụ cơ bản: hướng dẫn xe quân sự đi qua vùng này và bảo vệ an ninh cho sĩ quan cấp cao. Ông Huân làm rất tốt nhiệm vụ, chưa bao giờ để mất một chiếc xe hay một sĩ quan cấp cao nào.

    Công tác bảo vệ sĩ quan cấp cao đến thăm được giao cho các nhóm đặc trách gồm ba người. Đội bảo vệ chỉ giới hạn ba thành viên bởi nếu có quy mô lớn hơn, họ rất dễ gây chú ý. Mỗi thành viên của đội được huấn luyện sử dụng nhiều loại vũ khí nhỏ.

    Thông thuộc địa hình cũng như được cung cấp thông tin tình báo mới nhất về hoạt động của địch trong khu vực, Huân và đồng sự luôn đảm bảo an toàn cho người và xe trên đường ra chiến trường. Nhưng trong khi luôn thành công trong việc tránh chạm trán với lực lượng mặt đất với kẻ thù, ông cũng không thể tránh được không kích.

    “Hồi ở Lào, chúng tôi bị ném bom thường xuyên”, ông Huân kể. “Địch liên tục thả bom cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi thậm chí không ngủ được”.

    Bản thân ông Huân may mắn sống sót qua các trận ném bom nhưng nhiều đồng đội của ông không có may mắn ấy. Ông không thể quên những đợt ném bom và những người bạn đã mất. Những ký ức đó lại trỗi dậy mạnh mẽ vào một ngày tháng 10 năm 1967, khi ông đứng giương súng sẵn sàng kết liễu viên phi công mất khả năng kháng cự đang hạ xuống mặt đất.

    Đầu tháng 10 năm 1967, nhóm cận vệ của ông Huân tháp tùng một sĩ quan cấp tướng, cùng với thư ký riêng, đầu bếp và bác sĩ của ông này từ Lào sang Hà Nội dự họp. Họ khởi hành vào tuần đầu tiên của tháng 10, lúc đi bộ lúc đi xe dọc Đường mòn Hồ Chí Minh.

    Ông Huân phát hiện ra rằng tháp tùng cho một vị tướng có nhiều thuận lợi, chẳng hạn như được ưu tiên xe cộ, đường sá. Các ưu tiên này cho phép nhóm hoàn tất hành trình chỉ trong một tuần. Khi tới Hà Nội, ông Huân được nghỉ ngơi tương đối thoải mái tại một doanh trại quân đội trong thời gian vị tướng dự họp.

    Sáng 26 tháng 10, Hà Nội khá thưa người, ông Huân nhớ lại. Có nhiều thông tin dự báo máy bay Mỹ sẽ oanh tạc trong tuần nên nhiều cư dân đã rời khỏi thành phố. Bản thân Huân thì chẳng thấy lo lắng gì bởi ông đã vượt qua vô số vụ ném bom khi còn ở trong rừng. Thêm nữa, ông cũng muốn tập trung hưởng thụ một tiện nghi mà ông chưa bao giờ có được – tắm vòi hoa sen nước nóng.

    “Hồi đó chúng tôi trẻ và hăng đánh nhau lắm”, ông Huân thừa nhận. “Chúng tôi luôn tận dụng cơ hội để chiến đấu, sẵn sàng lao về phía hiểm nguy”.

    Lúc 10 giờ sáng, Huân đi tắm, không thèm quan tâm tới còi báo động máy bay đang rúc lên. Tiếp nối còi báo động là âm thanh súng phòng không liên hồi. Bực mình vì chuyện tắm táp bị gián đoạn, Huân chạy ra ngoài xem sự tình. Nhìm lên trời, ông thấy một chiếc máy bay vừa trúng đạn.

    “Nhìn về hướng đông, tôi thấy một chiếc bốc cháy và phi công đã bung dù trên hồ Trúc Bạch”, Huân nhớ lại. Ông liền chạy vào doanh trại xách khẩu AK-47 nạp đầy đạn. Súng trong tay, ông lao về phía chiếc dù đang sà xuống.

    “Giống như cái lò xo bị nén vừa được buông ra, tôi lao theo đường tắt, chạy hết tốc lực tới đền Quán Thánh trên đường Thanh Niên. Khi tôi tới bờ hồ, chiếc dù vẫn còn lơ lửng ở độ cao cả trăm mét. Tôi thấy nét mặt viên phi công có vẻ đau đớn”.

    Giữa lúc viên phi công từ từ hạ xuống, ông Huân giương súng lên.

    “Lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ đến các đồng chí đã chết trong rừng ở Lào khi những phi công Mỹ như thế này ném bom. Họ gây ra cho chúng tôi rất nhiều tổn thất. Cơn giận trong người tôi cứ thế dâng lên”.

    Với một sự bộc trực đáng kinh ngạc, ông Huân kể: “Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến việc bắn chết viên phi công. Thậm chí tôi còn muốn khiến anh ta chịu nhiều đau đớn trước khi chết. Tôi đặt tay lên cò súng và tìm vị trí thuận lợi để nổ súng. Tôi chỉ nghĩ tới việc giết viên phi công… tất cả những gì cần làm là siết cò và tay kia sẽ chết”.

    Tuy nhiên, khi viên phi công hạ thấp xuống nữa, có một điều gì đó ngăn cản Huân trong vai trò một kẻ hành quyết – ông thấy mình không thể kết liễu người Mỹ kia. Súng vẫn chĩa thẳng nhưng ông Huân cố nén giận và lặng lẽ nhìn viên phi công đáp xuống.

    “Khi bước những bước cuối cùng đến vị trí có thể xả súng, tôi nhớ tới mệnh lệnh của sĩ quan chỉ huy – rằng tất cả tù binh đều phải được đối xử nhân đạo”, ông Huân nhớ lại. “Sự lưỡng lự trong chốc lát đó đã cứu sống viên phi công”.

    “Có một ít cây cối quanh hồ và chiếc dù vướng vào cành cây kêu sột soạt”, ông kể. “Anh ta rơi xuống bên bờ hồ, ngã ngửa ra, một chân duỗi thẳng còn đầu gối chân kia nhô lên… Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta. Nét hoảng hốt hiện rõ. Ban đầu tôi cho rằng anh ta sợ tôi nổ súng nhưng nhìn kỹ thì có vẻ như không phải thế. Tôi vẫn chĩa súng vì sợ rằng anh ta có thể mang vũ khí. Khi tôi thấy anh ta có vẻ nhợt nhạt, tôi biết rằng người này đã bị thương”, cơn giận của Huân chùng xuống, thay vào đó là một niềm trắc ẩn.

    Điều gì khiến ông quyết định, vào phút chót, không bắn? Huân cho rằng có hai nhân tố tác động một cách không điều kiện vào quyết định ấy – sự chuyên nghiệp của một người lính và sự thấu hiểu hoàn cảnh của người phi công kia. “Tôi chỉ hành xử như một người lính chuyên nghiệp”, ông giải thích, “trong đó có việc phải cảm thông với con người”.

    Nhận thấy rằng người tù binh không thể kháng cự, ông Huân liền cởi bộ đồ bay của anh ta ra. Ông nhận thấy viên phi công bị thương nặng ở chân.

    “Tôi thấy bắp chân anh ta bị thủng. Lỗ thủng to tới mức tôi có thể thấy mạch máu bên trong. Sau khi tôi cởi bộ đồ bay, anh ta chỉ còn lại đồ lót. Tôi thét gọi một cô gái trẻ gần đấy mang băng tới. Cô ấy chạy đi tìm băng và một cô gái khác băng bó cho anh ta. Giữa lúc đó thì tôi lục soát tư trang và tịch thu một khẩu súng ngắn chứa một viên đạn. Tôi còn tìm thấy chìa khóa, ảnh, một con dao nhỏ, một số tiền Mỹ (21 USD) và một tấm kim loại khắc tên. Vài phút sau, một chiếc xe chạy tới, mọi người cáng anh ta lên xe và đưa đi”.

    Đó là lần cuối cùng ông Huân nhìn thấy người phi công ấy. Mãi đến nhiều năm sau, khi đọc tin một cựu tù binh Mỹ bị bắn rơi máy bay trên bầu trời Hà Nội vào ngày 26 tháng 10 năm 1967 vừa đắc cử thượng nghị sĩ, ông mới kể với bạn bè rằng đấy chính là John McCain mà ông đã tham gia bắt giữ thuở xưa. Ông tiếp tục kể về vụ bắt giữ phi công McCain và báo chí Việt Nam đã đăng tải câu chuyện này.

    “Lần đầu tiên tôi nhận thấy rằng mình không chỉ bắt giữ mà còn suýt bắn chết ngài nghị sĩ tương lai của nước Mỹ”, ông Huân bày tỏ. Từ khi ông McCain đắc cử thượng nghị sĩ, nhiều binh sĩ ở Hà Nội đã đua nhau khẳng định rằng chính mình đã bắt ông này thời chiến tranh.

    Ông Huân tỏ ra chân thực nhưng có thể thấy rằng câu chuyện của ông rất khác so với những gì chúng ta biết về vụ bắt phi công McCain. Đúng là McCain bị thương nặng vào ngày đó – nhưng xương đầu gối phải bị vỡ và gãy hai tay – chứ không phải bị thương ở bắp chân. Ông ấy nhảy dù phía trên một cái hồ ở Hà Nội và rơi xuống nước chứ không phải trên bờ. Một nhóm binh sĩ, chứ không phải một người duy nhất, đã bơi ra bắt ông và sau khi bị bắt ông đã bị đám đông cuồng nộ đâm lưỡi lê và đánh vào vai, không hề có một cô gái trẻ băng bó vết thương.

    Dù có quá nhiều điểm khác biệt như thế, Huân vẫn khẳng định những gì ông kể là chính xác – vụ bắt giữ đã xảy ra đúng như lời ông miêu tả.

    Nếu là thực, thì chỉ có duy nhất một cách giải thích cho câu chuyện của ông Huân.

    Sáng 26 tháng 10 năm 1967, hai mươi máy bay Mỹ đã tấn công một loạt mục tiêu ở Hà Nội. Chiếc A-4E Skyhawk của McCain không phải là chiếc duy nhất bị bắn rơi hôm ấy – còn hai chiếc nữa cũng bị bắn rơi, một F-8 Crusader và một A-4E Skyhawk khác. Phi công hai chiếc máy bay kia cũng nhảy dù và bị bắt. Một trong hai người phi công kia khi được hỏi đã nói rằng ông không phải là nhân vật trong câu chuyện của Huân, phi công còn lại thì không muốn tiết lộ. Vì thế, không thể xác định được rằng liệu người này có phải là phi công mà ông Huân bắt hôm đó hay không.

    Bản thân ông Huân không hề biết rằng vào ngày 26 tháng 10 năm 1967 có tới ba phi công Mỹ bị rơi máy bay và bị bắt sống. Ông luôn nghĩ hôm đó chỉ có một phi công bị bắt mà thôi. Và do báo chí khi đề cập đến Thượng nghị sĩ John McCain thường nhắc tới ngày máy bay bị bắn và ông bị bắt nên Huân luôn khẳng định rằng McCain từng là tù nhân của mình.

    Tới hôm nay, ông Huân đã biết rằng người phi công mà ông cho rằng là McCain hóa ra không phải. Nhưng cho dù không còn khẳng định rằng mình từng bắt giữ ông McCain, ông Huân cũng cảm thấy thanh thản khi nghĩ về ngày ấy, ngày mà ông đã quyết định không kéo cò, để cho một người phi công Mỹ tiếp tục cuộc sống.
     
  16. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    CÁI NHÌN MỚI VỀ CUỘC CHIẾN


    NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, cuốn tiểu thuyết của một cựu chiến binh miền Bắc – Bảo Ninh, là tác phẩm văn chương đầu tiên viết về cuộc xung đột tại Việt Nam từ góc nhìn của đối phương. Nhân vật chính tên Kiên trở về sau chiến tranh, luôn “trăn trở với những cảnh bạo tàn mà anh từng chứng kiến, để từ đó nói lên ý nghĩa của cái chết, tình yêu và mất mát – cũng như chính sự sống sót của anh”.

    Sau khi cuốn sách xuất hiện tại Mỹ, một nhà phê bình văn học bình luận: “Cơn chấn động đầy bạo lực của chiến tranh đã tạo ra những cơ hội đau đớn cho nhiều tiểu thuyết vĩ đại chào đời. Cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất nói về trải nghiệm trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất – mà nhiều người cho rằng về bất cứ cuộc chiến nào – đó là MẶT TRẬN PHÍA TÂY YÊN TĨNH[SUP]1[/SUP], do một người Đức viết. Cuốn sách không chỉ là thông điệp đối với những người đồng hương của tác giả mà còn đối với bất cứ ai tham chiến. NỖI BUỐN CHIẾN TRANH của Bảo Ninh có thể không phải là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất về Chiến tranh Việt Nam, nhưng câu chuyện đầy sức mạnh về những cuộc đời bị chiến tranh hủy hoại đã nhận được nhiều sự khen ngợi quốc tế và dường như là một thông điệp có sức thuyết phục cả đối với người Mỹ lẫn những người đồng bào của tác giả”.

    Nhà phê bình này chưa gặp Bảo Ninh bao giờ. Chính vì thế, ông cũng không biết rằng nhận xét của mình chính xác đến nhường nào. Sau khi đọc NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, tôi đã gặp Bảo Ninh để trao đổi về, giữa nhiều vấn đề, động cơ thôi thúc ông viết cuốn sách ấy. Khi phỏng vấn Ninh, tôi nhanh chóng nhận ra từ đâu mà ông đã vẽ nên nhân vật chính của mình – bởi Kiên có rất nhiều điểm chung với người sáng tạo ra nhân vật ấy.

    “Chúng tôi đều lớn lên ở Hà Nội và đều chiến đấu ở Tây Nguyên. Nhưng Kiên dũng cảm chứ không như tôi”, ông nói một cách khiêm tốn. Đó là Ninh khiêm tốn; bởi đã xung phong nhập ngũ trước tuổi, nên ông – tương tự nhân vật hư cấu Kiên – thực sự là một người dũng cảm.

    Sinh trưởng tại Hà Nội, thuở nhỏ, Ninh đã chứng kiến trận ném bom đầu tiên. Trải nghiệm đó nung nấu trong con người ông ước nguyện phụng sự đất nước. Vì thế năm 1969, ở tuổi 17, ông tình nguyện nhập ngũ. Vì ưới tuổi nên ông cần sự cam kết của cha mẹ. Cha ông đồng ý còn mẹ thì không. Thế rồi ông cũng tìm được cách để gia nhập quân đội.

    Ông so sánh mình với người cựu chiến binh trẻ tuổi Ron Kovic trong bộ phim “Sinh ngày 4 tháng 7”.

    “Còn rất trẻ nhưng tôi luôn khát khao chiến đấu”, ông nhớ lại. “Tôi thấy mình có nghĩa vụ cầm súng dù mới mười bảy tuổi. Đất nước đang bị chia cắt – tinh thần dân tộc tổn thương nghiêm trọng. Chúng tôi phải chiến đấu cho sự thống nhất đất nước – thanh niên tập hợp dưới ngọn cờ dân tộc”.

    Ninh nhận ra rằng thanh niên Mỹ cũng có động cơ chiến đấu nhưng đó là một động cơ hoàn toàn khác, và rốt cuộc ông thấy rằng động cơ đó hoàn toàn sai. “Người Mỹ được cổ vũ đánh cộng sản… nhưng chúng tôi không phải cộng sản”, Ninh nói. “Tôi không thấy mình cộng sản chút nào. Người Mỹ đang chiến đấu chống lại những người dân tộc chủ nghĩa tại Việt Nam – không phải cộng sản. Nhưng thân phận người lính thì nước nào cũng giống nhau”, ông kết luận. “Dù về mặt cá nhân có dị biệt, nhưng rốt cuộc, khi đối mặt với cái chết, chúng tôi cũng tương tự nhau”. (Phát biểu của Ninh tương đồng với lời của đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ thời Chiến tranh Thế giới thứ hai, ông Abbot Low Moffat, chủ nhiệm Ban Đông Nam Á. Ông nhận xét về vị lãnh tụ của Việt Nam: “Tôi chưa bao giờ gặp một người Mỹ, dù là quân nhân, nhân viên của OSS, nhà ngoại giao hay nhà báo nào không có niềm tin rằng: Hồ Chí Minh là nhân vật dân tộc chủ nghĩa đầu tiên và lỗi lạc nhất của Việt Nam”).

    Nhớ về những ngày huấn luyện, ông Ninh kể: “Tân binh của bất kỳ quân đội nào cũng phải được huấn luyện. Họ được rèn luyện để quên đi cuộc sống và gia đình ở hậu phương, được dạy kỹ năng bắn súng, tinh thần chấp hành mệnh lệnh, chịu đựng gian khổ… chúng tôi chỉ biết bắn nhau”.

    Sau ba tháng huấn luyện, Bảo Ninh được điều vào Nam. Ông và đồng đội đã trải qua cuộc thử lửa đầu tiên rất sớm trước khi đến đích. “Dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, chúng tôi thường xuyên bị ném bom”, ông kể.

    Khi đến Tây Nguyên, Bảo Ninh được phân công ở trong một tổ ba người – trực thuộc một đội chiến đấu mười hai người. Đôi khi đơn vị của ông chiến đấu ở quy mô đại đội, nhưng thường thì hoạt động theo tiểu đội mười hai người.

    Bảo Ninh có cảm nhận khác nhau về khả năng chiến đấu của các đơn vị quân Mỹ mà ông đối mặt. Ông rất nể phục một số đơn vị Lục quân, chẳng hạn Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, đơn vị mà “chúng tôi luôn muốn tránh”; các đơn vị khác thì không thiện chiến bằng hoặc có hoạt động dễ dự đoán. Đề cập tới trường hợp thứ hai, ông Ninh nói: “Dù là tân binh nhưng chúng tôi cũng nhanh chóng nhận ra rằng hoạt động của một số đơn vị Mỹ là rất dễ dự đoán”. Ông đưa ra một ví dụ về cách thức Lục quân Mỹ đặt pháo trên chiến trường: “Lính Mỹ không mấy linh hoạt. Họ tới bằng trực thăng, đáp xuống một ngọn đồi, phát quang mọi thứ, đặt trận địa pháo và sau đó bắn bừa bãi”.

    Ninh kể về trải nghiệm chiến đấu đầu tiên: “Đó là một trận đánh nhỏ mà qua đó tôi nhận ra rằng đánh đấm thật khác xa trong phim – chúng tôi cứ bắn nhau và chạy”.

    Tiểu đội của Ninh được chia thành bốn tổ ba người, trong đó mỗi tổ chịu trách nhiệm một số mục tiêu nhất định. Là lính trẻ, ông được phân công về chung tổ với người chỉ huy tiểu đội. Ngay sau khi nhập ngũ, tiểu đội hoạt động ở khu vực Plei Me, nơi có khoảng 200 quân Mỹ đang chốt trên một vùng đất cao. Vành đai phòng ngự của Mỹ được đánh dấu bằng các hố cá nhân. Ban ngày, tiểu đội của ông định vị chính xác các hố cá nhân. Khi màn đêm buông xuống, bốn tổ vào vị trí chiến đấu. Tiểu đội trưởng sử dụng một khẩu phóng lựu M-79 thu được, sẽ ra hiệu tấn công.

    Khi bắt đầu quen với bóng đêm, các binh sĩ định vị lại mục tiêu tấn công của tổ mình. Bài học chiến đấu đầu tiên của Ninh là “lính Mỹ rất dễ mất cảnh giác”. Một người lính Mỹ bất cẩn đã tạo sơ hở để tiểu đội dễ dàng tiếp cận mục tiêu. Nấp trong hố cá nhân, anh này vô tình tiết lộ vị trí của mình khi châm thuốc hút. Ninh còn rút ra bài học chiến đấu thứ hai, rằng “trong chiến đấu, ai hút thuốc ban đêm là tự sát”.

    Viên chỉ huy chĩa khẩu M-79 về phía điếu thuốc đang cháy rực trên môi người lính khinh suất – và khai hỏa. Khi quả đạn nổ ngay mục tiêu, các thành viên khác của tiểu đội đồng loạt xả súng vào mục tiêu của mình. Dù không thấy rõ mục tiêu nhưng Ninh vẫn bắn. Khi bên kia bắn trả, tiểu đội của Ninh lập tức rút lui. Quân Mỹ bắn pháo sáng soi rõ một vùng rộng lớn. Nhưng ánh sáng đó chỉ cho thấy các vị trí chiến đấu trống không của đơn vị vì cả tiểu đội đã rút vào rừng. Sáng hôm sau, bốn tổ chiến đấu gặp nhau tại địa điểm hẹn trước. Không có tổn thất nào.

    Đây không phải là lần đầu tiên tiểu đội của Ninh lợi dụng sự mất cảnh giác của lính Mỹ. Một sớm nọ, tiểu đội ngạc nhiên phát hiện lính Mỹ tụ họp ngoài trời, quỳ gối trước một người đang đứng giảng giải điều gì đó. Nhóm của Ninh hiếm khi bắt được một mục tiêu “tập thể” như vậy. Họ xả súng ngay lập tức. Về sau, ông mới biết rằng nhóm lính kia đang hành lễ ngày Chủ nhật. Ông thấy thật là trớ trêu khi người ta bị giết chết trong lúc đang cầu Thượng Đế che chở. Sự kiện này ban đầu khiến Ninh trăn trở nhưng rồi ông đã chấp nhận nó – bởi vì đó là tất cả những gì ông có thể làm. “Chiến tranh là tàn bạo và bất hợp lý”, ông kết luận.

    Là một người đọc nhiều sách, khi được hỏi rằng cuốn nào có ảnh hưởng lớn đối với tác phẩm của mình, Ninh đã kể về một cuốn sách có ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đối với ông. Ông đọc cuốn sách ấy thời chiến tranh, sau một cuộc kỳ ngộ. Năm 1973, đơn vị của ông đọ súng với quân Việt Nam Cộng hòa. Khi trận đánh kết thúc, Ninh và đồng đội lục soát trên chiến trường. Ninh lục ba lô một người lính Việt Nam Cộng hòa tử trận để tìm thức ăn. Trong số những vật dụng mà ông tìm thấy, có một cuốn sách. Ông nhét sách vào túi nhưng chẳng có thời gian để đọc. Đến lúc có cơ hội đọc, Ninh thấy thật là trớ trêu khi cuốn sách mà ông có được sau một trận đánh đẫm máu lại truyền tải thông điệp phản chiến mạnh mẽ. Cuốn sách gây cho ông cảm xúc mãnh liệt, để về sau ông viết NỖI BUỒN CHIẾN TRANH.

    Khi được hỏi nhan đề cuốn sách, Ninh nói rằng đó là MẶT TRẬN PHÍA TÂY YÊN TĨNH – chính là cuốn mà nhà phê bình người Mỹ nọ đã liên hệ tới khi bình luận về NỖI BUỒN CHIẾN TRANH!

    Cuộc chiến kết thúc, Ninh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm, cả phim ảnh lẫn văn chương, đề cập tới chiến tranh Việt Nam và người lính chiến ở cả hai phía. Ông nhận thấy bộ phim “Trung đội” của Mỹ khá hay nhưng không công bằng khi miêu tả lính miền Bắc Việt Nam là những người tàn bạo. Ninh tin rằng cả hai phía đều có những cá nhân độc ác, nhưng tập thể thì không. Tương tự như lòng can đảm, ông nói, tàn bạo là một tính cách cá nhân.

    Ở trang bìa cuốn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH có đoạn giới thiệu về Bảo Ninh: “Thời chiến tranh Việt Nam, ông phục vụ tại Lữ đoàn thanh niên 27 anh hùng. Trong năm trăm người lên đường ra mặt trận cùng đơn vị năm 1969, ông là một trong mười người sống sót”.

    Bảo Ninh nói rằng lời giới thiệu có thể là một sự cường điệu xuất phát từ óc tưởng tượng của nhà xuất bản. Ninh xác nhận khoảng ba tới bốn trăm thanh niên trong vùng nhập ngũ cùng lúc nhưng ông không rõ bao nhiêu người sống sót qua cuộc chiến.

    Ở cả Kiên và Bảo Ninh, người ta có thể nhận thấy những tác động mạnh mẽ của chiến tranh lên cuộc đời của họ. Sau quãng tuổi trẻ hồn nhiên bị tước đoạt, họ trở về nhà để nhặt nhạnh và chắp ghép lại từng mảng cuộc sống. Câu chuyện này không quá dị biệt đối với phần đông người Mỹ trở về từ cuộc chiến ấy. Trở lại đời thường sau chiến tranh, cựu chiến binh cả hai phía đều có những ước nguyện và nỗi niềm tương đồng – đó là nhiệm vụ chu toàn cuộc sống cho bản thân và gia đình; đó là được sống trong hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc. “Chiến tranh luôn tàn bạo và bất hợp lý, nhưng có lẽ ‘nỗi buồn chiến tranh’ lớn nhất mà chúng ta nhận thấy sau cuộc chiến, đó chính là giữa ta và kẻ thù tương đồng nhau tới nhường nào”, Ninh đúc kết.
    _______________________________
    [COLOR=red]1.[/COLOR] [COLOR=maroon][I]Mặt trận phía Tây yên tĩnh[/I] hay [I]Phía Tây không có gì lạ[/I] (tiếng Đức: Im Westen nichts Neues) là cuốn tiểu thuyết phản chiến của Erich Maria Remarque (1898-1970), một cựu chiến binh Đức từng tham gia Thế chiến thứ nhất. Tác phẩm ra mắt lần đầu vào năm 1928.[/COLOR]
     
  17. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    CỬA VIỆT CÁT BAY


    Tống Huy Tịnh nhập ngũ năm 1971 ở tuổi 18. Anh từng tham gia dân quân nên chỉ cần được huấn luyện thêm một thời gian ngắn trước khi xuôi Đường mòn Hồ Chí Minh vào Nam.

    Tịnh may mắn hơn nhiều người khác vì hành trình của anh chỉ mất chưa đầy một tháng. Anh đi tàu từ Hà Nội vào Vinh, rồi từ đó đi xe tải vào sông Gianh. Mọi người cùng đợi trời tối để qua phà Long Đại.

    Sau khi qua sông, đơn vị của Tịnh – Sư đoàn 320 – đi bộ trong chặng cuối vào Nam. Theo nguyên tắc chung – được thiết kế nhằm hạn chế tổn thất trong các trận ném bom dọc Đường mòn – sư đoàn được chia ra thành nhiều đơn vị nhỏ, cấp đại đội.

    “Tôi nhớ rõ nhất là thời điểm đơn vị chia nhỏ ra trong chặng hành quân cuối cùng”, Tịnh kể. “Chúng tôi tạm biệt nhau và không biết bao giờ mới có thể gặp lại. Nói lời tạm biệt còn nặng nề hơn cả việc di chuyển dọc đường Trường Sơn”.

    Mang theo ba lô nặng tới 50 cân là một thách thức thể lực thực sự. “Khi leo lên con dốc dựng đứng, chúng tôi phải dùng dây thừng”, Tịnh kể. Sau hành trình mệt nhọc, họ tới Lào.

    Với kinh nghiệm tham gia dân quân, chàng trai trẻ Huy Tịnh được cử làm tiểu đội trưởng. Sư đoàn ngay lập tức tham gia những trận đánh lớn nên chàng tiểu đội trưởng trẻ tuổi nhanh chóng trở thành một chiến binh dày dạn kinh nghiệm. Nhưng một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất đối với Tịnh đó là việc đón tân binh. Anh biết rằng phần lớn họ đến đây là để thay thế số vừa chết hoặc bị thương, những người mà anh cũng mới tiếp nhận vài ngày trước.

    Suốt hai năm sau đó, sư đoàn của Tịnh thường di chuyển từ Lào qua Quảng Bình, rồi Vĩnh Linh và cuối cùng là Quảng Trị. Tháng 1 năm 1973, đơn vị đến Cửa Việt. Chính tại nơi này, sư đoàn được giao một nhiệm vụ đặc biệt – tấn công tàu của Hạm đội 7 Hải quân Mỹ.

    Cửa Việt nằm ngay bờ biển. Quân Việt Nam Cộng hòa thường hoạt động dọc bờ biển này với sự hỗ trợ của tàu Hải quân Mỹ ở cận bờ, vốn luôn bị sư đoàn của Tịnh theo dõi chặt chẽ. Sư đoàn được lệnh dồn hỏa lực vào những chiếc tàu này.

    Đó là một nhiệm vụ khó khăn. Tịnh nhớ rằng tàu Mỹ thường ngang nhiên chạy tới chạy lui song song với đường bờ biển, đôi khi chạy theo từng hàng hai chiếc một. Do lo ngại rằng quân Việt Nam Cộng hòa có thể dùng tàu để đổ bộ nên sư đoàn thường xuyên bắn quấy rối. Nhiệm vụ của Tịnh là gửi thông điệp cho Hải quân Mỹ rằng bất kỳ cuộc đổ bộ nào cũng sẽ phải đối đầu với một hỏa lực rất mạnh.

    Trung đoàn của Tịnh, được chia thành nhiều đơn vị chiến đấu cấp trung đội, có nhiệm vụ bắn quấy rối. Lợi dụng bóng đêm, các tổ chiến đấu tiến tới vị trí cách mép nước biển chừng một cây số. Suốt đêm, họ tìm cách thọc sâu ra bờ biển. Để phòng thủ trước bất kỳ cuộc tấn công đổ bộ nào từ biển, đơn vị của Tịnh được trang bị sáu xe tăng. Xe tăng được chôn xuống cát, ngập tới tận tháp pháo và được ngụy trang bằng lá cây.

    Sáng hôm sau, Tịnh ngạc nhiên khi thấy rằng đơn vị của anh chỉ cách vị trí của quân Việt Nam Cộng hòa có một cây số. Thông thường, sau khi phát hiện như vậy thì đơn vị sẽ lập tức chủ động khai hỏa. Tuy nhiên, Tịnh được lệnh là không để lộ quy mô của đơn vị mình. Chỉ khi quân Việt Nam Cộng hòa khai hỏa trước thì mới nổ súng đáp trả.

    Phía Việt Nam Cộng hòa cũng đã phát hiện ra đơn vị Tịnh vào buổi sáng hôm đó nhưng không phát động tấn công. Tịnh không hiểu nguyên do. Anh cho rằng có lẽ quân bên kia cũng được lệnh không nổ súng để tránh bị lộ quy mô đơn vị.

    “Thật kỳ lạ”, Tịnh nhớ lại. “Tình hình lúc đó cứ như thể hai bên đã có thỏa thuận ngừng bắn vậy. Đôi lúc chúng tôi nổ súng vào ban đêm nhưng tới 3 giờ sáng thì tất cả ngưng chiến đấu”.

    Vũ khí duy nhất có thể quấy rối tàu của Hải quân Mỹ là DKZ 82, một loại súng cối tầm xa thường được sử dụng để chống tăng. Mỗi tổ chiến đấu trong trung đoàn được trang bị một khẩu. Một buổi tối nọ, các tổ vào vị trí dọc bờ biển để có thể tấn công tàu. Họ chờ đợi mục tiêu tiến vào tầm bắn.

    Khi mắt đã bắt đầu quen với bóng tối, các thành viên nhìn ra phía đường chân trời để tìm tàu Hải quân Mỹ đi qua. Tàu chiến Mỹ luôn tuân thủ nguyên tắc không bật đèn nên chỉ có thể thấy được hình ảnh mờ mờ mà thôi. Việc dùng DKZ 82 để bắn xe tăng vốn đã khó, nhưng sau đó Tịnh nhanh chóng nhận ra rằng dùng loại súng này để bắn vào những chiếc tàu mờ xa trên biển còn khó gấp bội.

    Các tổ chiến đấu được phép khai hỏa bất kỳ lúc nào. Tổ của Tịnh nhanh chóng phát hiện ra một mục tiêu. Tuy nhiên trước khi nổ súng họ đã nghe tiếng nổ của DKZ 82 ở các vị trí khác dọc bờ biển. Tịnh biết rằng giờ đây vấn đề thời gian là cực kỳ quan trọng. Tổ của Tịnh phải nổ súng và nhanh chóng chuyển tới vị trí chiến đấu khác – bởi vì con mồi ngay sau đó sẽ trở thành kẻ săn mồi, khi mà chiếc tàu chiến mục tiêu sẽ sớm phản công. Thế là khẩu DKZ 82 của họ gầm lên, sau đó họ lập tức chuyển tới vị trí mới đã được chọn sẵn.

    Nhưng những phát đạn trả đũa đã không xuất hiện như dự đoán. Tịnh nhận thấy rằng vị trí của đơn vị khá gần với nơi đóng quân của lính Việt Nam Cộng hòa vô hình trung lại là một lợi thế. Chiếc tàu chiến kia sợ bắn nhầm vào quân Việt Nam Cộng hòa gần đó nên đã chọn giải pháp im lặng.

    Trong hai tuần kế tiếp, đơn vị của anh tiếp tục hoạt động theo cách thức này, chỉ thay đổi thời gian tấn công sau mỗi đêm. Tịnh thấy tình cảnh thật lạ lùng: “Ban đêm, chúng tôi nhả đạn vào những chiếc tàu Mỹ không dám bắn trả; ban ngày, chúng tôi nghỉ ngơi ngay trong tầm mắt của các binh sĩ miền Nam”.

    Trong sáu chiếc tăng của đơn vị Tịnh, năm chiếc đã bị quân Việt Nam Cộng hòa bắn hủy sau vài cuộc đọ súng chừng mực vào ban đêm. Về sau, đụng độ gia tăng. Bấy giờ, với hai năm kinh nghiệm chiến đấu, Tịnh đã trở thành một chiến binh dày dạn trận mạc, được chuẩn bị kỹ càng – ít nhất là trong suy nghĩ của anh – để đối phó với bất kỳ tai ương nào. Nhưng rồi anh nhanh chóng nhận ra rằng, cuộc chiến trên bãi biển Cửa Việt có một khía cạnh mà anh chưa hề được chuẩn bị.

    Khi giao tranh tạm ngưng trong chốc lát, cả hai phía tranh thủ thực hiện một nhiệm vụ khó khăn, nhưng rất cần thiết, đó là chôn người chết. Một khu vực ở trên bãi biển được sư đoàn của Tịnh chọn làm nghĩa trang. Các nhóm mai táng thường được điều đi để chôn cất người tử trận. Có một lần Tịnh đi theo đoàn mai táng. Việc chôn cất đồng đội ngã xuống chẳng phải là điều gì mới lạ đối với Tịnh, nhưng khi thực hiện công việc này tại Cửa Việt, anh nhanh chóng nhận ra một thực tế ghê người.

    Thông thường, chỉ vài ngày sau khi được chôn, các thi thể lại lộ ra trên mặt đất. Nhìn xác người đang trong quá trình phân hủy là một điều thật ghê khiếp. Không phải con người mà chính là thiên nhiên đã quật mộ. Gió lớn thường xuyên ở Cửa Việt đã tàn phá bãi biển, thổi bay lớp cát dày trên bề mặt và làm lộ thiên các thi thể vừa được chôn. Bằng cách ấy, thiên nhiên tại Cửa Việt đã phơi trần sự khủng khiếp của chiến tranh mà con người muốn chôn giấu. Một khi gió làm lộ thiên thi thể nào thì các nhóm mai táng tìm cách chôn cất lại.

    “Tôi thực hiện việc này rất nhiều lần”, Tịnh kể. “Đôi khi chúng tôi chôn rất sâu nhưng gió vẫn quật lên. Có khi phải chôn đi chôn lại tới lần thứ ba, thứ tư và thật là khủng khiếp khi nhìn thấy thi thể của một người bạn đang phân hủy”.

    Nhiều năm sau khi cuộc chiến đi qua, hình ảnh thi thể bị phân hủy của bạn bè dưới những ngôi mộ cát vẫn còn in đậm trong tâm trí Tịnh.

    “Nhiều lần tôi vẫn còn nhìn thấy gương mặt của họ”, Tịnh nói.
     
  18. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    PHẦN 9​
    HIỆN THÂN CỦA “CHÍ THÉP” –
    Đường mòn Hồ Chí Minh và Địa đạo Củ Chi




    Một vài ý kiến tại Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi.

    Không nơi nào mà quyết tâm được thể hiện rõ như thái độ những người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh và Địa đạo Củ Chi. Hiểu được quyết tâm duy trì Đường mòn cũng như bám trụ tại Địa đạo Củ Chi chính là hiểu được “chí thép” của họ.

    Sau đây là câu chuyện lịch sử về quá trình hình thành và phát triển của Địa đạo Củ Chi và Đường mòn, trước hết là thông qua trải nghiệm của những người từng sống và chiến đấu ở đấy – những trải nghiệm đó là câu chuyện về lòng quyết tâm, tính kiên trì, sự khéo léo, những khó khăn, chịu đựng và sự hy sinh bản thân. Đó chính là ý chí thép đặc trưng và rất đặc biệt của người Việt Nam, vốn đã thôi thúc họ tiến lên để giành chiến thắng trong cuộc chiến trước người Mỹ - cuộc chiến mà nước Mỹ thiếu một quyết tâm tương xứng.





    ĐƯỜNG MÒN VÔ ĐỊCH
    (VÀ VÔ HÌNH)


    Giới thiệu

    Một điều không thể chối cãi đó là Đường mòn Hồ Chí Minh là chìa khóa thành công của Hà Nội trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trên thực tế, sau chiến tranh, khi được hỏi rằng nếu người Mỹ làm điều gì trong cuộc chiến thì đã có thể thu được một kết quả khác, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời rằng một khi cắt đứt được Đường mòn thì có thể đạt được thành công lớn hơn.

    Đường mòn Hồ Chí Minh là một mạng lưới đường sá, điện thoại và ống dẫn dầu dài hàng ngàn cây số, xuyên qua rừng núi, nhiều khi vượt ra khỏi biên giới Việt Nam, sang Lào và Campuchia trước khi trở lại Việt Nam; thông qua tuyến đường này, Hà Nội đã lưu chuyển người, trang thiết bị chi viện cho chiến trường miền Nam.

    Giai đoạn đầu cuộc xung đột, trước khi người Mỹ tham chiến, sự tồn tại của Đường mòn được giữ bí mật rất tốt.

    Nhưng sau một thời gian, khi người và hàng hóa tiếp tục chảy vào miền Nam – mà không được vận chuyển bằng con đường Bắc – Nam dọc bờ biển rất dễ đi – chính quyền Sài Gòn bắt đầu nhận ra rằng Hà Nội rõ ràng đang sử dụng một lộ trình khác. Nhận biết lộ trình chính xác của Đường mòn là một trò chơi “trốn tìm” rất khó, không chỉ đối với quân miền Nam mà cả với người Mỹ. Hà Nội đã thành công lớn trong công tác giữ bí mật con đường này suốt thời chiến tranh bằng việc sử dụng các kỹ thuật đánh lừa đầy sáng tạo (nhiều lúc biến một số đoạn Đường mòn trở nên “vô hình”) cũng như tránh phổ biến thông tin về mạng lưới đường ngay trong chính lực lượng của mình.

    Sau khi Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4 năm 1975, thành tựu của Hà Nội trong việc bảo vệ bí mật về Đường mòn đã được biết đến rộng rãi. Vị tư lệnh Đường mòn, Tướng Đồng Sĩ Nguyên, khi trông thấy một bản đồ về hệ thống đường này tại tổng hành dinh quân đội Sài Gòn đã cười một cách hài lòng. Dù chính phủ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã biết đến sự tồn tại của Đường mòn hơn một thập niên trước ngày Sài Gòn sụp đổ, tấm bản đồ trên cho Tướng Nguyên thấy rằng kẻ thù của ông không hề biết tới một bộ phận lớn mạng lưới đường bộ này.

    Khi phát hiện ra một số phần của Đường mòn Hồ Chí Minh, người Mỹ chợt nhận thấy họ đang bị kéo vào một cuộc đua ý chí với Hà Nội. Đây là cuộc đọ sức giữa một bên là quyết tâm của Hà Nội trong việc duy trì Đường mòn với bên kia là nỗ lực của Washington về phá hủy hoặc giảm lượng lưu thông trên hệ thống đường này. Để đạt được mục đích, Mỹ đã quyết định triển khai chiến dịch ném bom lớn nhất trong lịch sử - một chiến dịch được thiết kế để phá hủy Đường mòn, để ngăn chặn lưu thông và đánh tan nhuệ khí đối phương. Tuy nhiên, dù không biết bao nhiêu bom đạn đã được ném xuống đây thì rất nhiều phần của con đường vẫn không hề hấn gì – tương tự như ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng của Hà Nội.

    Lập Đường mòn Hồ Chí Minh không phải là một ý tưởng mới. Gần hai thế kỷ trước, Hoàng đế Huệ(Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ) đã hình dung về một con đường như thế trong cuộc chiến chống quân Thanh. Hệ thống đường này là một phương tiện hữu hiệu để đối phó với kẻ thù mạnh hơn vốn đang chiếm cứ các vùng đất dễ đi lại của Việt Nam, chẳng hạn miền duyên hải. Trước đó chừng bốn trăm năm, danh nhân Nguyễn Trãi đã đúc kết: “Để có thể lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, phải buộc đối phương đánh theo cách mà chúng ta muốn”.

    Đúc kết này luôn được các lãnh đạo Việt Nam, vốn đã thấm nhuần các bài học của Nguyễn Trãi, tương tự Hoàng đế Huệ, quán triệt. Là những người thông làu lịch sử, họ nhận thấy – bằng sự hiệu quả của Đường mòn – một cơ hội để buộc quân thù phải chiến đấu theo cách mà người Việt Nam muốn. Trong khi đó, những người Mỹ kém may mắn đã không biết rút ra bài học này từ lịch sử Việt Nam.

    Lẽ ra người Mỹ cần phải nghiên cứu lịch sử Việt Nam để từ đó có thể cảnh báo cho giới lãnh đạo thời thập niên 1960 về hệ quả mà lực lượng mặt đất của Mỹ phải lãnh lấy khi tham chiến. Nếu không thay đổi được các quyết định, việc làm này cũng có thể giúp người Mỹ chuẩn bị kỹ càng hơn để đối phó với những gì ở phía trước, giúp họ hiểu hơn về tinh thần dân tộc và chí khí của người Việt Nam.

    Những con người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh là bằng chứng rõ nhất về tinh thần đó. Vượt qua bao gian nguy của cuộc sống trong rừng, nỗi buồn khổ vì xa cách gia đình mà đối với nhiều người kéo dài suốt cuộc chiến; vượt qua vô số trận ném bom dữ dội, nhiều người lính này đã giúp giữ được con đường huyết mạch ra tiền tuyến trong suốt cuộc chiến tranh.

    Phát triển Đường mòn là một thành tựu đáng kinh ngạc. Công việc này thể hiện tinh thần xả thân vì đại nghiệp và là minh chứng rõ nhất cho tinh thần dân tộc – hay còn gọi là “chí thép” – của người Việt Nam. Sự tồn tại của con đường là một thách thức đối với khả năng của Mỹ trong việc làm gián đoạn – nhưng không thể ngăn chặn – cuộc hành quân của Hà Nội tới thắng lợi.



    ***


    Trong nhiều thế kỷ, các quân đội xâm lăng Việt Nam đã phải hứng chịu một bài học đắt giá – địa hình đất nước này có vẻ như tạo thuận lợi cho lực lượng xâm lược nhưng thực ra quân phòng thủ mới nắm giữ lợi thế. Nhìn qua bản đồ sẽ biết điều đó. Việt Nam là một đất nước trải dài 1.609 km. Về chiều ngang thì nơi hẹp nhất vào khoảng 50-70 km và nơi rộng nhất là 200 km. Địa hình hẹp và bằng phẳng, trải dài chủ yếu trên miền duyên hải phía đông giúp quân xâm lược có được một tuyến đường lý tưởng để từ phương Bắc thọc sâu xuống phương Nam dễ dàng.

    Nước xâm lược Việt Nam thường xuyên nhất chính là Trung Quốc, vốn có quân đội đông đảo hơn những người Việt Nam bảo vệ Tổ quốc rất nhiều. Với nguồn tài nguyên có giới hạn, Việt Nam buộc phải phát triển chiến lược phòng thủ để đánh quân xâm lược theo cách của mình. Chiến lược này bao gồm việc lợi dụng rừng núi ở phía Tây. Bằng cách đó, người Việt Nam có thể che giấu các cuộc hành quân, chủ động chọn thời điểm và địa điểm đột kích kẻ thù. Vì thế, việc mở một con đường bí mật để chuyển người và trang thiết bị từ phía Bắc và phương Nam là một bước đi tất yếu.

    Được dân miền Bắc gọi là Đường Trường Sơn – đặt theo tên dãy núi mà nó đi qua – mạng lưới đường này sau đó được người Mỹ biết đến với tên gọi Đường mòn Hồ Chí Minh. (Cách gọi “đường” hay “đường mòn” không mấy chính xác, bởi vì hình thức “đường mòn” chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn ban đầu, sau đó người ta đã nhanh chóng phát triển thành một hệ thống đường rộng lớn).

    Có thể thấy rõ là kết cục của cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã được quyết định không phải bởi những gì diễn ra trên chiến trường miền Nam, cũng không phải ở những đợt ném bom xuống Hà Nội ở miền Bắc – mà bằng những gì diễn ra dọc Đường mòn Hồ Chí Minh. Sự tồn tại của con đường này là một minh chứng về sự khéo léo, tinh thần chiến đấu ngoan cường và quyết tâm không bao giờ tắt của một dân tộc sẵn sàng chịu mọi hy sinh để giành thắng lợi cuối cùng.

    Trong giai đoạn đầu tìm hiểu để viết cuốn sách này, tôi đã có cơ hội đầu tiên nhìn từ bên trong – cũng như tiếp cận được một manh mối đầy thách đố - về sự khéo léo của những nhà thiết kế Đường mòn. Tôi đã gặp một quý ông Hoa kiều cao tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh (ngày trước là Sài Gòn), người đã sống phần lớn cuộc đời mình ở Việt Nam. Trong câu chuyện, tôi bày tỏ dự định viết về cuộc chiến tranh từ góc nhìn của người Việt Nam. Khi nghe điều này, mắt ông sáng lên. Ông gợi ý rằng khi gặp cựu quân nhân Việt Nam, tôi nên hỏi họ về những chiếc cầu và những con đường “vô hình” trên Đường mòn Hồ Chí Minh. Không cho biết thêm nhiều chi tiết nữa nhưng rõ ràng ông đã khơi gợi sự quan tâm của tôi.

    Sau này tôi mới nhận ra rằng rất ít cựu chiến binh Việt Nam biết tường tận về những chiếc cầu “vô hình” và số người biết rõ về những con đường “vô hình” thậm chí còn ít hơn. Tôi đã phải thực hiện hàng chục cuộc phỏng vấn trước khi có thể hiểu được ngụ ý của quý ông Hoa kiều kia. Chi tiết về sự vô hình của Đường mòn sẽ được đề cập ở cuối chương này. Đó là những tiết lộ đáng kinh ngạc về cách thiết kế tài tình nhưng đơn giản được áp dụng đối với Đường mòn. Tôi được biết thêm rằng sự tài tình đó là nguyên tắc chứ không phải là ngoại lệ đối với những người chịu trách nhiệm duy trì Đường mòn Hồ Chí Minh.

    Nếu hiểu rõ khối lượng to lớn công việc cần thực hiện để duy trì chức năng của Đường mòn, chúng ta sẽ có sự tôn trọng đúng mực đối với những người làm nhiệm vụ ở đây. Việc duy trì khả năng hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên trong suốt cuộc chiến, dưới điều kiện khắc nghiệt mà họ phải đối mặt, với tai họa khủng khiếp mà con người lẫn thiên nhiên gieo lên đầu họ, là một bằng chứng xác thực về sức mạnh tinh thần.

    Ý chí thép ở đây chính là hình ảnh những người lính – trong giai đoạn đầu tiên – đi bộ dọc Đường mòn, với hàng hóa trên vai, băng qua hàng ngàn cây số đủ mọi địa hình mà không hề nề hà khó khăn gian khổ, chỉ tâm niệm một điều là làm sao đến được chiến trường miền Nam nhanh nhất. Âm thầm, cẩn trọng, họ đi dọc Đường mòn. Mỗi bước chân của họ đều bị bủa vây bởi hiểm nguy rình rập; đó là những trận ném bom của quân thù, những căn bệnh nguy hiểm, móng vuốt của thú dữ hay sự khan hiếm lương thực. Nhiều người trong số họ không bao giờ trở về.
     
  19. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    Khai sinh tuyến đường bộ bí mật vào miền Nam.

    Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève đánh dấu cuộc chiến chống Pháp kết thúc sau trận đánh Điện Biên Phủ. Đất nước Việt Nam bị chia cắt và ngay sau đó, Hà Nội muốn thông qua hiệp thương để thống nhất Bắc – Nam. Khi chính quyền ở cả miền Bắc lẫn miền Nam đều có các hoạt động vũ lực; rồi chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch khủng bố nhằm vào những người có cảm tình với miền Bắc, Hà Nội nhận định rằng một cuộc xung đột quân sự có thể là bước đi cần thiết cuối cùng để đạt được những gì mà đàm phán đã thất bại.

    Tháng 1 năm 1959, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam triệu tập một cuộc họp để bàn về thống nhất đất nước. Cuộc họp dẫn tới quyết định cần phải lập một tuyến đường bí mật để vận chuyển người, vũ khí, lương thực, v.v., từ miền Bắc vào miền Nam.

    Với việc thông qua Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường mòn Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực. Trần Công Tấn, một nhà văn, sử gia và là người đi lại thường xuyên trên Đường mòn thời chiến tranh, cho biết quyết định đã được đưa ra là “Hà Nội sẽ gửi quân chi viện cho miền Nam” bởi vì cuộc thanh trừng của chính quyền Sài Gòn được Mỹ hỗ trợ. (Washington bắt đầu huấn luyện cho quân đội miền Nam từ năm 1955). Nghị quyết đã phát quang lộ trình lập một tuyến đường bí mật từ miền Bắc (với điểm đầu nằm phía Nam Hà Nội) tới miền Nam, để thông qua đó có thể tiếp viện phục vụ cho việc giải phóng miền Nam.

    Để xây dựng lộ trình ban đầu cho tuyến đường, chính quyền Hà Nội chọn một quân nhân xuất sắc trong chiến tranh chống Pháp, Đại tá Võ Bẩm. Bẩm được chọn vì ông quá thông thuộc khu vực này, từng không biết bao nhiêu lần đi lại ở đây khi tham gia chiến đấu trong lực lượng Việt Minh.

    Đại tá Bẩm chỉ huy Đoàn 559 – đơn vị lấy tên theo tháng và năm thành lập: tháng 5 năm 1959. Đoàn 559 trở thành đội quân tiên phong mở Đường mòn, được giao nhiệm vụ lên kế hoạch, xây dựng và tổ chức vận hành tuyến đường này.

    Đoàn 559 ban đầu chỉ có Tiểu đoàn 301. Đơn vị này được thành lập từ khoảng 500 người tình nguyện. Họ là những người không chỉ thông thuộc khu vực Đường mòn sẽ đi qua mà còn quen biết dân làng và các cơ sở kháng chiến trong vùng. Trước khi cuộc chiến chống Mỹ kết thúc, quân số của Đoàn 559 có lúc lên tới hơn 100.000 người.

    Bước đầu tiên của ông Bẩm trong việc thiết lập Đường mòn là kết nối một loạt lối đi và đường nhỏ được hình thành theo bước chân của thú rừng, dân địa phương, lái buôn và dân buôn lậu. Trên thực tế, những đường mòn này chỉ là một số “điểm và vạch” trên bản đồ mà ông Bẩm giờ đây đang kết nối lại với nhau. Ông muốn tận dụng địa hình đặc thù xung quanh để bảo mật tuyến đường đồng thời giảm thời gian di chuyển. Nếu không thể đạt được cả hai yêu cầu trên, ông sẽ chọn ưu tiên cái trước.

    Một vài người tham gia đã ghi nhật ký về giai đoạn xây dựng những tuyến Đường mòn đầu tiên. Những trang viết này cung cấp một bức tranh khá rõ nét về sự hoang vắng của khu vực này.

    (Thái độ khẩn trương của chính quyền Hà Nội trong việc mở Đường mòn có thể thấy được qua việc giao thêm nhiệm vụ thứ hai cho nhóm tiên phong. Họ đến đây không chỉ mở những con đường đầu tiên mà còn tranh thủ chuyển hàng tiếp tế và vũ khí vào Nam. Có thể thấy rằng họ muốn tận dụng từng giây phút để thực hiện công việc tiếp vận).



    ***


    “Mùa xuân năm ấy (1959), một nhóm khảo sát gồm hai sĩ quan và ba người nữa khởi hành tại rừng Khe Hó dưới chân dãy Trường Sơn, ngay phía Bắc vĩ tuyến 17. Dẫn đường cho họ là một thanh niên Vân Kiều mang theo rựa và nỏ tre có tên tẩm thuốc độc.

    Sáu người chia thành hai nhóm nhỏ, băng rừng hướng về phía Nam. Vào chập tối, họ dừng chân bên một nương ngô. Một cụ già Vân Kiều xuất hiện giữa nương ngô, dẫn họ đi về căn chòi nhỏ của mình.

    Sáng sớm hôm sau, người dẫn đường ở bờ Bắc sông Bến Hải (con sông ngăn chia miền Bắc và miền Nam ở vĩ tuyến 17) trở về, còn cụ già mới gặp hôm trước dẫn mọi người tiến về phía Nam.

    Ngày này qua ngày khác, đoàn người tiếp tục cuộc hành trình với sự dẫn đường của những người Vân Kiều, có khi là một người đàn ông trung niên lầm lì, có khi là một chàng trai hoạt bát khoác áo vải thô, lúc khác lại là một cụ già phì phèo tẩu thuốc lá với chiếc nỏ trên vai và bó tên sau lưng. Đôi khi người dẫn đường là một cô gái quần áo rực rỡ… Những người Vân Kiều ấy – đã sống từ ngàn xưa trên rừng Trường Sơn; họ luôn biết cách liên lạc với nhau ở cả hai bờ sông Bến Hải bất chấp gần đây chính quyền Sài Gòn đã tăng cường hoạt động chia cắt. Từ năm 1954 đến 1958, họ làm giao liên chuyển tin tức về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam ra miền Bắc và chuyển những lời cổ vũ động viên của đồng bào miền Bắc vào miền Nam.

    Đoàn tiền trạm lập một cơ sở bí mật ở miền Tây Thừa Thiên. Sau khi nghỉ một đêm, họ hối hả quay trở lại, lần này không có người dẫn đường nên họ sử dụng bản đồ, đuốc và trí nhớ để từ tìm đường đi.

    Khi họ về đến Khe Hó, một đoàn người thồ gánh đã tập trung ở đấy, sẵn sàng lên đường.

    Đội thồ hàng xuất phát vào một buổi sáng tháng 5 năm 1959.

    Đoàn người cẩn trọng đi xuyên qua vùng rừng ở sườn Đông dãy Trường Sơn, tiến xa về phương Nam. Sau mỗi đoạn đường, người ta thường tách một nhóm nhỏ ra để lập chốt. Phương pháp này là để tạo ra những kíp người chịu trách nhiệm một khu vực nhất định. Các chốt tiếp vận nằm dưới tán cây rừng, thường bao gồm không quá ba chòi nhỏ, tương tự loại chòi mà bà con dựng lên để canh nương rẫy. Ban đêm, trong mõi căn chòi, chừng năm người ngủ trên sàn, một số người khác ngủ trên võng, số còn lại nằm dưới đất.

    Ngày này qua ngày khác, trên các tuyến đường, những đoàn người miệt mài đi, mang theo trên lưng đạn dược, súng ống và hàng hóa được gói trong những tấm vải không thấm nước… Thông thường, mỗi người cõng chừng 50 cân. Có người cõng tới 80 cân trèo đèo vượt suối trên một chặng đường dài.

    Để đảm bảo bí mật, họ phải thường xuyên thực hiện các biện pháp cảnh giác, không lưu lại bất cứ dấu vết nào… Mỗi khi thoáng thấy người đốn củi, họ sẽ đi đường vòng để tránh chạm mặt…

    Con đường này có một điểm về sau được gọi là “nơi thử thách thần kinh”. Đó là điểm giao với phòng tuyến Đường 9 chạy từ Khe Sanh xuống Hạ Lào. Con đường chiến lược này len lỏi qua các căn cứ địch và thường xuyên được bảo vệ nghiêm ngặt. Các đoàn xe tải thường băng qua Đường 9 vào lúc chạng vạng hoặc sau nửa đêm đến trước khi trời sáng. Dẫn đường cho xe là những giao liên thông thuộc địa hình với sự hỗ trợ của đường dây điện thoại bí mật. Điểm giao nhau này nằm giữa hai căn cứ địch, gần đến mức có thể nghe được tiếng nói cười của binh lính ở đấy.

    Nhằm tránh để lại dấu vết trên đường nhựa, tài xế xe tải sử dụng một suối nước rộng nằm bên xa lộ, xuất phát từ đầu nguồn sông Thạch Hãn. Thuyền tam bản nấp sẵn dưới suối sẽ chở hàng sang bờ Nam để trạm tiếp vận gần đấy tiếp sức đưa hàng ra mặt trận.

    Tháng 8 năm 1959, trong một cánh rừng già ở dãy Trường Sơn nằm phía Tây Thừa Thiên, đại diện Mặt trận Cách mạng miền Nam đã nhận lô vũ khí đầu tiên từ miền Bắc chuyển vào. Khối lượng không lớn, chỉ 280 kg, nhưng các chiến sĩ miền Nam vô cùng xúc động khi cầm trên tay những vũ khí đã được vận chuyển trong điều kiện hết sức gian khó và nguy hiểm”.



    ***


    Trong giai đoạn đầu tiên, người ta đã hoàn tất việc nối các tuyến ở miền Bắc Việt Nam với tỉnh Quảng Ngãi ở phía Nam – quê hương Đại tá Bẩm. Sau đó, Tiểu đoàn 301 xẻ một con đường xuyên qua Quảng Ngãi, đồng thời thiết lập thêm nhiều chốt công tác dọc đường, biến lối đi bộ ban đầu thành đường có thể cho xe chạy. Khi hoàn tất vào năm 1964, với những chuyến xe đầu tiên, con đường này giúp tăng đáng kể lượng tiếp vận cho miền Nam.

    Chỉ trong ba tháng cuối năm 1959, Tiểu đoàn đã chứng minh được giá trị chiến lược của Đường mòn với việc vận chuyển hơn 21.000 vũ khí loại nhỏ từ Hà Nội vào Quảng Ngãi.

    Năm 1959, dòng người và hàng chảy vào Nam theo Đường mòn bắt đầu. Dòng chảy đó tiếp diễn liên tục trong suốt mười sáu năm cho tới ngày Việt Nam thống nhất.
     
  20. Song Ngư

    Song Ngư Sinh viên năm I

    Bí mật bị khám phá – chiến dịch ném bom bắt đầu

    Hàng chục ngàn người đã lưu thông qua Đường mòn Hồ Chí Minh ở giai đoạn đầu nhưng sự tồn tại của con đường này vẫn nằm trong vòng bí mật. Chính quyền Sài Gòn nghi ngờ có một con đường bí mật nào đó bởi có hai hiện tượng rõ ràng: (1) du kích quân ở miền Nam đại hội trang bị súng ống và đồ quân dụng rất tốt; (2) những loại vũ khí và đồ quân dụng này không được chuyển theo tuyến đường Nam – Bắc dọc bờ biển. Chính quyền miền Nam đã tăng cường chiến dịch truy tìm Đường mòn trong các vùng rừng rậm và núi cao. Khi được cảnh báo về các chiến dịch này (thời chiến tranh, quân miền Nam và người Mỹ thường có thông báo trước khi mở chiến dịch), Hà Nội tạm ngưng vận chuyển để tìm kiếm một lộ trình mới hẻo lánh và xa hơn về phía Tây. Điều trớ trêu là nỗ lực của Sài Gòn – khiến bên kia phải dịch chuyển Đường mòn sang phía Tây – đã giúp Hà Nội tận dụng lợi thế địa hình cũng như rừng rậm để thiết lập một tuyến đường an toàn và bền hơn, từ đó có thể tăng cường chi viện cho miền Nam.

    Ngay cả khi người ta biết đến sự tồn tại của Đường mòn, phần lớn hoạt động tại đây vẫn nằm trong bí ẩn. Tuyến đường được tổ chức như thế nào? Hoạt động vận tải được thực hiện ra làm sao? Các đoàn xe nhập vào và rời khỏi Đường mòn tại đâu? Lượng lưu thông cho phép của con đường là bao nhiêu, v.v. Ngay cả các thiết bị chụp không ảnh tinh vi của Mỹ cũng không tìm thấy câu trả lời.

    Tới năm 1965, người Việt Nam nhận thấy rằng phía Mỹ đã biết được sự tồn tại của Đường mòn khi máy bay gia tăng ném bom ở một vài tuyến. Một trong những người từng chứng kiến các trận ném bom kiểu này là Đại tá Hồ Minh Trí – chỉ huy Sư đoàn 473, đơn vị chịu trách nhiệm duy trì và bảo vệ một trong những tuyến dài nhất của Đường mòn.

    “Năm 1965, Đường mòn bị máy bay Mỹ phá khá nặng”, ông Trí nhớ lại. “Máy bay thường xuyên bắn phá… Có lúc chúng tôi tốn thất nhiều nhân mạng”.

    Khi xe cộ gia tăng hoạt động trên tuyến đường này, cũng là lúc máy bay Mỹ tăng cường ném bom.

    “Người Mỹ ném tất cả các loại bom mà họ có nhưng chúng tôi vẫn tin rằng con đường vẫn sẽ tồn tại”, Đại tá Trí nói đầy tự hào. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng hoạt động vận tải trên Đường mòn thường phải trả giá đắt. “Trong giai đoạn 1965-1966, chỉ có bốn mươi phần trăm lượng xe về tới đích”, ông ước lượng. Tới năm 1967, con số này chỉ còn hai mươi phần trăm. Việc tìm hiểu chiến thuật của Mỹ cũng như thực hiện một loạt biện pháp khác giúp gia tăng khả năng phòng thủ; ông Trí cho biết tình hình đã thay đổi đáng kinh ngạc khi tỉ lệ lưu thông suôn sẻ lên tới tám mươi phần trăm từ sau năm 1968.

    Ông Trí nói rằng bom đạn không giết được quyết tâm của người Việt Nam. Đường mòn vẫn tiếp tục vươn xa – nếu một phần bị bom phá hủy thì người ta sẽ làm một con đường khác thay thế ngay trong đêm.

    Nghe ông Trí nói chuyện, ta có thể hình dung rằng sự phát triển của con đường này không khác gì dòng nước chảy từ trên đồi cao xuống: nếu gặp vật cản trước mặt, dòng nước sẽ bị gián đoạn trong chốc lát – nhưng không bao giờ ngừng chảy – rồi tiếp tục vượt qua chướng ngại vật để chảy xuống.



    Những ngày đầu – Cõng hàng ra mặt trận

    Phan Lương Trực là một người lính tiên phong trên Đường mòn. Năm 1964, ông Trực, lúc bấy giờ là trung tá, đã mất năm tháng để đi bộ hết Đường mòn trong một chuyến công tác. Nhiều năm sau, khi đã là thiếu tướng, ông nói rằng “đấy là một trong những chuyến đi khó khăn nhất đời tôi”.

    Bên cạnh thách thức về thể chất là những vấn đề về tinh thần. Máy bay ném bom thường xuyên là một thử thách lớn cho thần kinh con người. Nhiều khi bom đạn đã đẩy người lính tới bờ vực suy sụp. Ông Từ Sơn, người có chuyến đi đầu tiên trên Đường mòn vào năm 1964, còn lưu giữ cuốn nhật ký viết về những trải nghiệm ở đấy. Trong cuốn nhật ký, ông đã ghi lại cuộc trao đổi với một người thuộc đơn vị khác bị lạc sau trận ném bom.

    “ ‘Chúc may mắn’, mình nói thế với anh ấy.

    ‘Em mong là sẽ gặp may’, anh đáp một cách chân thật. ‘Kinh nghiệm cho em thấy một người có thể có hai mươi bốn tâm trạng khác nhau trong hai mươi bốn giờ của một ngày. B-52 thì ngày nào mà chả rải bom. Nhưng hình ảnh người bạn thân chết ngay trước mặt khiến em kinh hãi vô cùng, thậm chí em còn nghĩ tới đào ngũ. Nhưng vài giờ sau đó em đã quyết định sẽ đi tìm đơn vị. Và em cũng không biết sau vài giờ nữa thì mình nghĩ gì. Hiện tại thì em phải đi kiếm đơn vị thôi’ ”.

    Tướng Trực kể lại một thách thức khác. “Khi đi dọc Đường mòn, tôi phải tự mang theo thức ăn vì thực phẩm luôn khan hiếm”, ông nói. Các binh trạm không thường xuyên có thực phẩm để cung cấp nên phần lớn người đi dọc Đường mòn phải tự dự trữ thức ăn cho mình. Mỗi người lính được khuyên phải mang theo ít nhất mười cân gạo. Khi đến binh trạm, người nào không còn đủ mười cân gạo sẽ được nhận thêm – nhưng chỉ trong trường hợp ở đấy có gạo để bổ sung. Thường thì mọi người phải chuẩn bị tâm lý không được tiếp tế trong một thời gian dài.

    “Chúng tôi mang theo bột nước mắm để trong một cái hộp đặc biệt, khi dùng thì cho vào cơm và trộn với nước”, ông Trực kể tiếp.“Chúng tôi còn ăn rau rừng và đôi khi bắt được thú rừng dọc đường…, có voi, nai, trăn, chồn và hổ, dù thịt hổ rất dở. Có khi chúng tôi mang theo gạo cho một chuyến đi rất dài. Nhiều lúc đồng bào dân tộc cung cấp cho chúng tôi các loại thực phẩm như bắp và sắn”.

    Binh lính thường ghé vào bản làng để đổi thức ăn. Ông Trực kể về lần ngã giá với hai đứa trẻ dân tộc miền núi.

    “Trước chuyến đi, tôi được phát một lọ vitamin. Nhưng nếu mang nguyên cả cái lọ đi theo thì sẽ rất nặng. Vì thế tôi dùng bao cao su đựng vitamin rồi bỏ vào ba lô.

    Hôm nọ, tôi tới một làng miền núi định đem áo quần, thuốc lá hoặc bất cứ thứ gì đổi lấy trái cây. Nhưng tôi và anh bạn thân chẳng thấy thứ gì để đổi cả, đành phải rời làng. Lúc nghỉ chân dưới gốc cây, tôi lôi bao cao su chỉ còn hai viên vitamin ra để nhai. Ngay lúc ấy, có hai đứa trẻ làng vừa hái trái cây rừng đi về ngang qua chỗ chúng tôi, mang theo hai nải chuối.

    Tôi đem một chiếc áo ra đổi nhưng chúng từ chối. Sau đó tôi đem ra một chiếc quần đùi, chúng vẫn lắc đầu. Vì quá thích hai nải chuối, tôi mới nảy ra ý định lấy chiếc bao cao su ra thổi lên để trao đổi với bọn trẻ. Chúng đồng ý ngay lập tức. Thế là chuyện đổi chác diễn ra êm đẹp; chúng tôi đem chuối ra ăn còn hai đứa trẻ đem đồ chơi ra thổi, rồi cho xì hơi, rồi lại thổi.

    Sau khi ăn chuối xong, tôi cảm thấy như mình vừa đánh lừa bọn trẻ. Thế là tôi gọi hai đứa lại. Nhưng chúng lại tưởng chúng tôi muốn đòi lại chiếc “bóng bay” nên chạy mất. Chúng tôi phải vào tận làng để đưa áo quần cho cha mẹ chúng. Họ cảm ơn rối rít. Lúc chúng tôi chia tay, hai đứa trẻ vẫn còn vui thú với món đồ chơi mới”.

    Có lần, ông Trực tới một con suối. Ở góc suối, ông thấy dấu vết có người vừa vo gạo xong. Người kia vô ý để rơi vãi ít gạo trên bờ suối. Trong thời buổi thiếu lương thực trầm trọng, ông Trực liền nhặt nhanh hết số gạo rơi vãi, rồi cho những hạt vàng này vào phần gạo dự trữ của mình.

    “Chúng tôi luôn quý trọng từng hạt gạo”, ông Trực nói.

    Trong những ngày đầu của cuộc chiến, bộ đội thường di chuyển theo từng đoàn lớn. Năm 1964, đội hành quân của ông Trực có tới ba trăm người. Đoàn được tách ra thành ba nhóm nhỏ, mỗi nhóm một trăm người. Các nhóm đi cách nhau vài cây số.

    Khi máy bay gia tăng ném bom dọc Đường mòn, gây ra nhiều tổn thất về sinh mạng, các nhóm hành quân thường được chia nhỏ hơn nữa – có khi chỉ gồm ba người. Khái niệm “càng đông càng an toàn” không tồn tại dọc Đường mòn – bởi vì đông người có thể khiến máy bay dễ phát hiện – tức là dễ dẫn tới chết chóc
     
Moderators: SLASH.ROCK4U

Chia sẻ trang này