Hoàn thành R Cover of night (Màn đêm) - Linda Howard

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi halucky, 27/2/15.

  1. halucky

    halucky Lớp 11

    Ôi đau thương là đây. Lỡ đưa bài lên rồi nên không dừng được. Đã tự nhủ tránh xa CIA, FBI thế mà ngay từ đầu đã đầy súng đạn. Đây là cái tội không chịu đọc trước khi dịch. Truyện này kỳ thật, ít truyện của L.H mà mình thấy nhân vật phụ còn được miêu tả nhiều hơn nhân vật chính. Đã thế lời lẽ lại khó chuyển dịch nữa
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    hongdkh, ttha, Ly Thy and 9 others like this.
  2. linhhaman

    linhhaman Mầm non

    Thêm comment cổ động cho halucky. Cố lên bạn ơi, ngưỡng mộ bạn quá đi.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    ttha, halucky and Breeze like this.
  3. Carrot7411

    Carrot7411 Mầm non

    Mừng vì bạn dịch tiếp truyện này, mình đã trông đợi quá chừng. Cảm ơn bạn.
    Nhưng "trơ trọi" chứ đừng "chơ chọi", bạn nhé.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    ttha and halucky like this.
  4. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 18 (halucky)

    NEENAH RÍT LÊN, HOẢNG HỐT VÒNG CÁNH TAY ÔM CHẶT Creed khi cơ thể nặng nề của ông đè bà xuống tấm thảm trải sàn. Hiệu ứng từ vụ nổ làm rung chuyển toàn bộ ngôi nhà, cơn mưa bụi từ đám mây nghẹt thở trút xuống hai người. Creed phủ cánh tay lên đầu bà, cố giữ bà hoàn toàn bên dưới mình, che chắn cho bà khỏi bất cứ mảnh vụn nào đang rơi xuống.

    Rồi không gian trở nên yên lặng, một sự tĩnh lặng ù tai đến lạ kỳ.

    “Đ-động đất ư?” bà hổn hển.

    “Không. Một vụ nổ.”

    Creed ngẩng đầu, không nhìn thấy gì ngoại trừ bóng tối. Không còn ánh sáng – một ngạc nhiên lớn. Vụ nổ chắc đã làm đứt dây điện đi qua dòng suối ở chỗ cây cầu.

    Rồi một tiếng răng rắc rõ nét đầy khó hiểu. Nó làm máu ông lạnh toát, rồi đồng thời cửa sổ phía trước vỡ tung bắn những miếng kính xuống như mưa. Ông cảm thấy vài phát châm chích nhưng bỏ qua chúng khi một loạt tiếng súng đùng đoàng vang lên. Ông sẵn sàng di chuyển, hai mươi ba năm rèn luyện đối mặt với tiếng súng trường mặc dù ông đã rời khỏi quân ngũ gần tám năm, kéo Neenah dọc theo bên dưới mình khi ông nửa bò nửa trườn ra khỏi phòng khách đang rơi vào tình thế nguy hiểm, hướng về hành lang ngắn nhưng an toàn hơn ông đã thấy khi bước vào. Ông chả nhìn thấy cái quái gì trong bóng tối đột ngột, nhưng cảm nhận phương hướng của ông vẫn tuyệt vời.

    Neenah im lặng hoàn toàn trừ hơi thở gay gắt. Bà đeo bám lấy ông như một con khỉ và cố gắng trợ giúp bằng cách đẩy đi bàn chân mình. Bà cũng nhận ra âm thanh của súng trường; sau tất cả, bà từng lớn lên quanh những người vẫn săn bắn để làm thực phẩm.

    Ông không chắc những viên đạn đến từ nơi nào, không biết ông hay Neenah là mục tiêu, hoặc cả hai không phải là mục tiêu cụ thể mà đây chỉ là một trường hợp ở không đúng lúc không đúng chỗ. Ngay lúc này “tại sao” không quan trọng, chỉ “ở đâu” – nơi các viên đạn bay tới. Ông không thể mù quáng chạy ra ngoài; ông cần bảo vệ Neenah.

    “Nhà bếp ở đâu?” ông đằng hắng cổ họng, lắng nghe từng loạt súng vang lên. Có vẻ giống một cuộc chiến tranh kinh khủng ngoài kia. Nhà bếp sẽ bảo vệ tốt nhất, với một dãy các đồ dùng nấu bếp bằng kim loại. Một viên đạn cỡ nòng lớn từ một khẩu súng trường hỏa lực mạnh sẽ xuyên thủng nhiều bức tường trừ khi nó bị hãm lại bởi thứ gì đó như cái tủ lạnh. Ông vẫn có ý định nằm lại trên sàn, ngay cả nếu Neenah có một hàng toàn bộ tủ lạnh lót trên tường nhà bà.

    “Em – em không biết,” bà lắp bắp, thở hổn hển. “Em - Ta đang ở đâu thế?”

    Bà mất phương hướng, không có gì lạ. Creed siết chặt cánh tay trái quanh bà.

    “Ta đang ở trong hành lang; chân em chĩa về phía cửa trước.”

    Bà im lặng một lúc, hơi thở nặng nhọc khi bà gắng sức sắp xếp lại vị trí các căn phòng.

    “À – được rồi. Bên phải anh. Đằng trước, và bên phải. Nhưng em cần tới phòng ngủ.”

    Ông lờ đi ý tưởng; một phòng ngủ không có nhiều sự bảo vệ.

    “Nhà bếp an toàn hơn.”

    “Quần áo. Em cần quần áo.”

    Creed dừng lại. Có một vụ nổ lớn, kẻ nào đó đang bắn vào họ, mà bà lại muốn thay đồ? Như một lời bình luận thấm đầy a xít luộc chín lưỡi ông, nhưng ông kìm chế lại. Đây không phải một trong những thuộc cấp của ông; đây là Neenah … và bà từng là một nữ tu. Có lẽ một cựu nữ tu vô cùng khiêm tốn. Lạy Chúa, ông hy vọng không phải vậy, nhưng –

    “Em sẽ làm gì chứ,” ông mạo hiểm, cảm giác thận trọng vì ông sợ rằng mình đụng chạm tới vài quy tắc của nữ tu sĩ.

    “Em không thể chạy trốn trong chiếc váy ngủ và áo choàng này được, ít nhiều cũng mang đôi dép trong phòng ngủ chứ!”

    Không may, điều đó có ý nghĩa, chưa đề cập tới chuyện nhiều đêm gần đây trời trở nên lạnh giá. Ông muốn rút lui tới một nơi an toàn để đánh giá tình hình, nhưng ông nhận thức sâu sắc rằng mình không thể ra lệnh cho bà giống như với cấp dưới của mình. Đối mặt với thực tế ấy, Creed chuyển ưu tiên của mình sang giúp bà làm cái điều bà muốn an toàn nhất có thể.

    “Được rồi, sắp có một cơ hội thay quần áo.”

    Theo sau một loạt súng trường, một vòng tròn khác bị đục xuyên qua bức tường phòng khách. Creed duỗi phẳng bà phòng trường hợp viên đạn kế tiếp xuống thấp hơn, để trọng lượng của ông đè nghiến bà xuống sàn. Bà thật mềm mại bên dưới ông, cái cách ông đã tưởng tượng trong nhiều năm trời, ý nghĩ một trong những viên đạn kia xé nát bà quá kinh hoàng. Ông đã tham gia chiến đấu trong chiến tranh, để mất những binh lính của mình theo nhiều hình thức bạo lực, cho dù là một viên đạn, một quả bom, một con dao hay một tai nạn khi thao tập, mỗi mất mát đều để lại một vết sẹo trong tâm hồn ông; bản thân ông như bị giết chết, và đó là một kiểu khác của vết sẹo – nhưng tất cả, ông đều chịu đựng với một sự cam chịu bên trong, điều đó cho phép ông tiếp tục hành động. Mặc dù vậy, nếu có bất cứ chuyện gì xảy đến với Neenah, ông đơn giản là không chịu được. Bởi vậy ông lên tiếng, “Em ở lại trong nhà bếp – nằm sát xuống sàn nhà nơi an toàn nhất. Tôi sẽ lấy quần áo và đem tới cho em.”

    “Anh không biết nó ở đâu; anh sẽ mất nhiều thời gian hơn – “

    Trước khi kết thúc câu nói, bà cố gắng luồn lách thoát khỏi ông.

    Choáng váng, ông nhận ra bà đang cố bảo vệ mình. Cú sốc khiến ông có một chút thô bạo với bà khi ông ngăn chặn nỗ lực luồn lách của bà, giữ bà chắc chắn bên dưới ông.

    Bà đẩy vai ông, ngực bà căng ra chạm vào ngực ông.

    “Ông Creed … Joshua – em cần thở!”

    Ông giảm bớt trọng lượng đè lên bà, nhưng không đủ để bà trượt khỏi bên dưới ông. Ông có thể chọc tức bà, ông nghĩ, hoặc ông có thể giữ bà còn sống. Ông cúi đầu sát tai bà.

    “Như thế này: Kẻ nào đó đang bắn vào chúng ta với khẩu súng trường hỏa lực mạnh, đây là trò chơi của tôi không phải của em. Công việc của tôi là đưa chúng ta thoát khỏi đây còn sống. Việc của em là làm theo đúng lời tôi. Sau khi chúng ta an toàn, em có thể tát vào mặt tôi hay đá vào cẳng chân tôi, nhưng cho tới lúc đó tôi là ông chủ. Rõ chứ?”

    “Tất nhiên em hiểu,” bà nói với vẻ điềm tĩnh lạ thường, trong hoàn cảnh đó hít một hơi thở sâu đã là khó rồi. “Em không cho rằng mình là con ngốc. Chỉ là hợp lý khi em có thể lấy quần áo của mình nhanh hơn anh, bằng cách đó an toàn hơn cho cả hai chúng ta, vì nếu anh nhận một viên đạn trong lúc săn tìm đôi giầy cho em, thì cơ hội của chính em ra khỏi đây còn sống sẽ đi tong. Đúng thế không?”

    Bà đang tranh luận với ông. Một trải nghiệm vừa mới lạ vừa khiến ông giận sôi lên. Một lần nữa – thất vọng hơn là bà có lý. Ông treo mình ở đó phía trên bà, giằng xé giữa sự lô gic và bản năng áp đảo phải bảo vệ bà bằng mọi giá.

    Với một cử động đột ngột, dứt khoát ông lăn khỏi bà rồi cáu kỉnh, “Nhanh lên đấy. Nếu em có đèn pin, cầm lấy nó, nhưng đừng bật. Không được đứng dậy. Trườn bằng bụng nếu có thể, bò bằng đầu gối nếu buộc phải làm, nhưng trong mọi tình huống không được đứng lên. Rõ chưa?”

    “Đã rõ,” bà trả lời. Giọng bà hơi run, nhưng bà đã kiểm soát được bản thân. Creed buộc phải để bà di chuyển đi xa, theo dõi bà qua những âm thanh bà tạo ra khi bà lê thân mình trên hai khuỷu tay, và đào sâu những ngón chân vào tấm thảm để đẩy đi. Một lần ông nghe thấy tiếng gì đó như một lời lầm bầm chửi rủa, nhưng ông khá chắc những nữ tu, cho dù là cựu nữ tu, không chửi thề, nên ông có khả năng mắc sai lầm.

    Ông sôi sục trong lớp mồ hôi bóng láng, chờ đợi bà, biết rằng bất cứ lúc nào viên đạn đều có thể xé toạc những bức tường như thể chúng được làm bằng giấy. Cho đến lúc này những viên đạn đã găm vào vị trí phía cao trên đầu, chủ ý để bắn vào người đang đứng. Mọi người ở Trail Stop đều là dân thường; họ không được đào tạo để tự động nằm xuống đất. Thay vào đó họ có thể chạy, không nhất thiết theo hướng tốt nhất. Họ có thể còn cố gắng nhìn ra ngoài cửa sổ, điều ngu xuẩn nhất trong tình huống này. Hoặc họ chộp lấy đèn pin và bật lên, càng chỉ ra vị trí của mình cho các tay súng. Ông cần ra khỏi đây, tổ chức lại họ, ngăn họ khỏi làm cái điều vớ vẩn ngu ngốc.

    Ít nhất Cal ở ngoài đó, trừ khi cậu ấy dính đạn ngay phút đầu tiên – điều mà khó có thể xảy ra. Bóng ma chết tiệt đó có một giác quan thứ sáu về sự sống còn. Cả đội đều học được về sự sắc nhạy của cậu ấy, vì hết lần này đến lần khác, cậu ấy làm vài điều trông có vẻ vô nghĩa ngay giây phút đầu nhưng chỉ năm giây sau, hoặc giữ được mạng sống hoặc đặt cậu ấy vào vị trí lợi thế nhiều hơn. Nếu Cal nhảy lên, cả đội sẽ nhảy cùng cậu. Và nếu phải di chuyển bí mật từ điểm A đến địa điểm B, Creed chưa từng thấy ai làm tốt hơn. Cal sẽ tập hợp những người còn sống, tổ chức họ, giữ họ nơi an toàn nhất trong khả năng; rồi cậu ấy sẽ đi tìm những người bị thương, người bị mất tích.

    Neenah lâu quá. “Em đang làm gì đấy?” ông hỏi gay gắt, gần như bao gồm cả sự thôi thúc theo sau và lôi bà trở lại nhà bếp.

    “Thay quần áo” tiếng bà trả lời cũng sắc nét ngang bằng. Lông mày ông nhướn lên một chút. Vị nữ tu có tính nóng nảy đấy. Vì vài lý do, điều đó có một tí ngông cuồng; ông thích thế. Creed hiểu về bản thân đủ để nhận ra rằng mình không bao giờ có thể chịu đựng được một cái thảm chùi chân.

    “Chỉ lấy quần áo thôi rồi mang chúng vào nhà bếp để thay. Đừng để bản thân bị thương vì ở đó lâu hơn cần thiết.”

    “Em không thể thay đồ trước mặt anh!”

    “Neenah.” Ông hít một hơi sâu, xoay sở để tiêm sự kiên nhẫn vào tông giọng. “Trời tối. Tôi không nhìn thấy gì. Mà ngay cả nếu tôi có thể … thì sao chứ?”

    “Thì sao chứ?”

    “Ừ, làm sao đâu. Dù thế nào, tôi lên kế hoạch lột trần em khá sớm.”

    Được rồi, ông đã có sự khéo léo của một con khỉ đột. Nếu bà có trút giận vào mặt ông, ông biết rằng ngay lúc này mình đang lãng phí thời giờ.

    Bà không bùng nổ. Thay vào đó bà di chuyển rất, rất khẽ khàng, như thể bà đang nín thở. Sự tạm ngừng diễn ra quá lâu, nỗi tuyệt vọng bắt đầu dâng lên trong cổ họng ông. Sau đó, những âm thanh không thể nhầm lẫn của bà đang bò lại phía ông.

    Trái tim ông gần như bị túm chặt, thật vậy nó gần như ngừng đập.

    Ông nói dối về việc không nhìn thấy gì. Lúc đầu, trước khi điều chỉnh tầm nhìn, ông không nhìn được cái khỉ gì, nhưng bây giờ ông lờ mờ nhận thấy khung cửa ra vào và cửa sổ, hình dạng sẫm mầu của đồ nội thất. Nếu ông nhìn thấy, thì bà cũng sẽ nhìn thấy – nên bà sẽ biết chính xác ông nhìn thấy rõ bao nhiêu. Không chi tiết, tất nhiên, nhưng chắc chắn chiều dài nhàn nhạt của đôi chân trần. Bà đã mặc áo sơ mi, còn quần jean, giầy và áo khoác được bà lôi vào cùng. Có thể bà đã mặc quần lót, có thể không. Ông chiến đấu với thôi thúc trượt bàn tay lên mông bà để khám phá. Ông thậm chí phải chiến đấu với thôi thúc mạnh mẽ hơn là cuộn bà nằm ngửa, làm cho mình một chỗ giữa đôi chân trần kia. Nếu từng có giây phút khó khăn, thì đây là lúc đó, nhưng lập tức ham muốn tình dục của ông không muốn nghe theo kỹ năng của ông.

    Bà bò qua ông vào nhà bếp, trong bóng tối ông nhận ra độ trắng của chiếc quần lót phía trước mình, vậy là giải quyết được câu hỏi có hay không quần lót. Ông đang theo sau trước khi nhận thấy, như bị hút bởi cục nam châm. Bất kể gã đàn ông máu đỏ nào sẽ đều theo sau một người phụ nữ với cặp mông mang quần lót đang bò ngay trước mặt mình, ông ngẫm nghĩ, và một lần nữa ông đấu tranh chống lại thôi thúc vồ lấy nó. Trước tiên phải giữ bà an toàn, sự đụng chạm để sau đã.

    Trong nhà bếp, bà ngồi trên sàn, xỏ tất, rồi đến quần jean và đôi giày. Áo sơ mi của bà sáng màu, nó không giúp ích trong trường hợp này, nhưng chắc như địa ngục ông không gửi bà quay lại để thay đâu; dù sao bà còn mặc áo khoác nữa.

    “Đèn pin?” ông hỏi, thắc mắc liệu bà có quên.

    “Em đút trong túi áo khoác.” Bà kéo đèn pin ra khỏi túi và đưa qua cho ông.

    Ông cố nén một tiếng thở dài khi bàn tay to xù nắm quanh cái ống thanh mảnh; nó không lớn hơn nhiều một cái bút điện. Ông không thể dùng nó cho tới khi họ an toàn, tất nhiên, ánh sáng cỡ này cơ bản thực hiện được nhiệm vụ duy nhất là hướng người cầm nó về phía trước, không thể trợ giúp cho họ trên đường vượt qua mặt đất gồ ghề. Tuy nhiên, chút ánh sáng ít ỏi còn tốt hơn không có gì.

    “Ổn rồi, trượt ra ngoài bằng cửa sau và rời khỏi đây thôi.”

    Chiếc bộ đàm của Teague xì xào, một giọng nói cất lên từ loa phát thanh.

    “Chim ưng, cú mèo đây. Chim ưng, cú mèo đây.”

    Cú mèo là Blake, đang nắm giữ vị trí bắn xa nhất. Teague dời khỏi Goss và Toxtel, đang chăm sóc phần còn lại phía sau sự yểm trợ. Nhiều người bên bờ kia của con suối có súng trường, không một phút nào hắn quên điều đó. Hắn vặn nhỏ bộ đàm vì tiếng ồn dễ truyền đi xa trong đêm; hắn chắc như quỷ không muốn chỉ vị trí của mình cho vài tay súng may mắn. Một tảng đá lớn nhô ra kiên cố giữa hắn và cộng đồng, hắn ấn nút ‘talk’ trả lời.

    “Chim ưng đây. Nói đi.”

    “Chim ưng, cái tên chú bảo Billy theo sau? Cháu vừa trông thấy gã, chỉ phòng trường hợp chú cần biết nơi gã ở. Gã bước vào tòa nhà hai tầng, thứ ba bên phải – “

    Đó là cửa hàng thực phẩm, Teague nhẩm tính, cố dồn đầu óc vào sơ đồ bố trí. Nơi đó đóng cửa lúc năm giờ chiều, vậy Creed làm gì ở đó nhỉ? Không phải chuyện đấy quan trọng; hắn chỉ tò mò mà thôi.

    “Ừ, rồi thế nào?”

    “Gã chỉ ở đó vài phút; rồi đi ra, cuốc bộ tới ngôi nhà đầu tiên bên phải. Chưa rời đi, ít nhất là không tới trước khi chú bắt đầu điệu nhảy. Cháu khá bận rộn kể từ lúc đó, nhưng vẫn cố canh chừng gã, và cháu chưa nhìn thấy thứ gì chuyển động. Cháu gửi vài viên đạn tới chỗ đó, có lẽ trúng gã rồi.”

    “Có thể. Cám ơn về thông tin. Tiếp tục bắn vào những ngôi nhà đó, và bất cứ thứ gì cháu nhìn thấy di chuyển.”

    Teague trượt lại chiếc bộ đàm vào thắt lưng, rồi quay lại địa điểm của hắn ở gần Goss. Nằm sấp xuống một vị trí chắc chắn trên mặt đất, hắn nâng vũ khí lên, chĩa ống ngắm vào ngôi nhà trong diện nghi vấn.

    Cẩn thận hắn quét ống ngắm hồng ngoại từ trái sang phải, tìm kiếm dù một dấu hiệu nhiệt phát lộ. Bản thân ngôi nhà sáng lên bởi nhiệt độ bên trong nó, khiến việc phân biệt nhiệt độ cơ thể người khó khăn hơn – khó khăn hơn, nhưng không phải là không thể. Blake có thể lạc quan rằng mình bắn trúng Creed, nhưng Teague không đồng ý kiến đấy. Creed sẽ áp sát sàn nhà trước khi tiếng súng nổ ra ấy chứ, rồi ngay lập tức tìm kiếm vật che chắn tốt nhất.

    Ít nhất còn một người khác, có thể hơn nữa, ở trong ngôi nhà, đồng bọn của hắn không đề cập tới người sống ở đó, không cần thiết. Quan trọng là Creed sẽ đánh giá tình hình và kéo tới một chỗ an toàn hơn. Ông ta chắc chắn sẽ không đơn giản đi ra theo lối cửa trước – thế nghĩa là ông ta sẽ luồn cửa sau.

    Suy nghĩ của Teague nhảy ngay tới ý tưởng có thể hạ gục Creed như trái anh đào trên cây. Tất nhiên, ông ta có thể đã rời khỏi ngôi nhà, nhưng thời gian trôi qua chưa lâu, chỉ khoảng mười phút, và là Creed, đầu tiên ông ta sẽ tổ chức mọi người trong nhà lại. Teague day day môi mình, rồi quyết định, hắn lôi bộ đàm ra, liên lạc với bạn mình.

    “Chim ưng đây. Tôi đang di chuyển tới bên phải, cố gắng xâm nhập vào vị trí nhìn thấy được đằng sau ngôi nhà đầu tiên.”

    Tiếp tục báo trước cho những người còn lại về sự di chuyển của hắn là một ý tưởng hay, để không ai trong số chúng vô tình thổi bay đầu hắn.

    Hắn lặp lại thông tin tương tự cho Goss, người gật đầu một cái dứt khoát trước khi quay sự chú ý trở lại với nhiệm vụ. Teague bị ấn tượng bởi Goss, không phải vì gã đã làm gì đó đặc biệt, mà bởi vì gã dường như ngay lập tức nắm bắt được lý do bất kể chuyện gì hắn thực hiện.

    Teague chưa thể di dời tất cả thứ đó đi xa về phía bên phải, khoảng bảy mươi yard hoặc ít hơn, trước khi mặt đất thình lình sụp xuống dòng sông mất tăm. Bên này đường chẳng có gì ngoài những tảng đá trên một mặt dốc đứng; nếu hắn đặt một bước sai lầm, hắn sẽ nhận lấy rủi ro là một mắt cá chân bị trật hay ít nhất là bong gân đầu gối, mà có lẽ là gãy xương. Rêu khiến những tảng đá trơn trượt, và việc di chuyển chậm lại, cộng với hắn phải vác khẩu súng trường và phải chăm sóc cái ống ngắm nặng kinh người gắn trên nó. Hắn không thể dùng đèn pin mà không để lộ vị trí của mình, càng làm cho việc đi lại chậm chạp hơn. Cứ mỗi phút trôi qua, hắn càng nhận biết rằng Creed có thể trốn thoát, nhưng hắn chẳng thể làm gì gấp rút được. Mẹ kiếp, nếu Blake chỉ cần nói với hắn nơi Creed ở trước khi cây cầu bị thổi bay –

    Cuối cùng, khi hắn đặt súng trường lên vai, kiểm tra góc độ, hắn nhìn thấy được phía sau ngôi nhà, hay ít nhất một phần của nó. Góc ngắm không phải tốt nhất, nhưng hắn đã đi xa nhất khả năng rồi. Hắn ổn định phía sau một tảng đá, tựa nòng súng lên mặt đá để giữ vững nó, hướng ống ngắm vào ngôi nhà, và chờ đợi.

    Không viên đạn nào bay tới từ địa điểm này. Creed tự động ghi nhận nơi xuất phát của những viên đạn đang dần trở nên quen thuộc, nếu ông muốn ước lượng bằng mắt tình hình, vị trí hợp lý nhất sẽ là từ gần đằng sau góc của ngôi nhà. Ông có lẽ thừa nhận khả năng rằng chúng có ống ngắm công nghệ cảm biến ánh sáng sao, ông không mong đợi cảm biến hồng ngoại vì nó đắt kinh khủng, và thực sự bất tiện. Ông di chuyển thận trọng khi tới gần góc… (ống ngắm chiếu tia hồng ngoại thuộc thế hệ 0 – công nghệ chiếu tia hồng ngoại chủ động. Ống ngắm lợi dụng ánh sáng tự nhiên như trăng sao thuộc thế hệ 1 – loại này gọn nhẹ hơn nhưng bị hạn chế trong những đêm không trăng sao hoặc nhiều mây).

    Một dấu hiệu nhiệt to đùng đột ngột xuất hiện gần ngôi nhà, di chuyển nhanh chóng, rồi lao vụt vào phía sau thứ gì đó và biến mất. Chửi thề dưới hơi thở, Teague theo dõi tiếp bằng ống ngắm, cố gắng giữ dấu chữ thập ổn định, hắn sẽ mất cảnh giác nếu nổ súng lúc này, về cơ bản hắn sẽ bắn vào mục tiêu không rõ ràng – và còn cảnh báo cho Creed vị trí của mình. Hắn phải chờ để có phát súng tốt hơn.

    Chúa ơi, dấu hiệu nhiệt đó trông thật kì dị, giống loài nhện khổng lồ vậy. Vẫn chưa trấn tĩnh, não Teague mất vài giây trước khi nó làm sáng tỏ tín hiệu mắt hắn gửi tới và dịch ra đó là hai người, đang di chuyển gần như đồng thời, với một người to lớn ở phía sau dựa ngay sát vào người nhỏ hơn ở đằng trước. Bốn cái chân, bốn cái tay, thân mình dày đặc biệt: là hai người.

    Ngay lúc này hắn dùng ống ngắm công nghệ cảm biến ánh sáng sao thay vì loại hồng ngoại, nên hắn có thể nói chính xác họ đang ẩn nấp sau thứ gì. Một chiếc ô tô, khả năng thế; đậu khôn ngoan ở đó, gần cửa sau. Mặc dù vậy, không hề có dấu hiệu nhiệt phát ra từ cái đống màu đen mà gã nhìn được, nên nếu nó là một chiếc xe ô tô, nó đã đậu ở đó đủ lâu để động cơ nguội đi. Quá tệ; khối động cơ của chiếc xe là thứ lá chắn rất tốt, chắc chắn đủ để dừng bất kể viên đạn nào của chúng.

    Nhưng bằng cách nổ súng, hắn khiến cho Creed có một cảm nhận sai lầm về sự cảnh giác. Nghĩ rằng chúng không nhìn thấy, Creed sẽ mất thận trọng trong bước di chuyển tiếp theo. Lần này, Teague sẽ sẵn sàng.

    Một mảnh sáng trong ống ngắm thu hút sự chú ý của hắn; rồi nó nhảy nhót khỏi tầm mắt. Khỉ thật. Họ đang làm gì thế? Có khi đang thay đổi tư thế, xoay sở loanh quanh và sẵn sàng cho lần chạy tiếp. Họ sẽ không chạy trở lại về phía ngôi nhà, cũng không tiến tới cây cầu, vậy chỉ còn lại hai hướng. Ai đó đang ở cùng với Creed, ai đó ông ta đang cố bảo vệ - một người nhỏ nhắn hơn. Một phụ nữ ư? Một cách hợp lý, ông ta sẽ tìm tới nơi có sự che chắn tốt hơn, nhiều tường ngăn hơn, và khoảng cách xa hơn giữa họ và những tay súng, thế nghĩa là ông ta sẽ kéo về phía dòng sông.

    Thời gian trôi qua – mất nhiều thời gian quá. Creed chờ đợi cái khỉ gió gì chứ - Giáng sinh chắc? Teague kiểm tra mặt đồng hồ dạ quang và thấy rằng đã ba mươi tư phút trôi qua kể từ lúc Blake gọi điện thông tin về Creed, có thể bốn tư, bốn lăm phút tính từ khi cây cầu bị đánh sập. Lúc này tiếng súng trường không còn vang lên nữa, vì tất cả người dân hoặc cúi xuống, ẩn sau chỗ trú núp, hoặc đã rút lui khỏi phạm vi tầm ngắm của ống ngắm. Lác đác vài viên đạn chỉ để nhắc nhở họ hãy ở yên nơi đang trú ngụ. Khả năng đó là điều Creed quyết định thực hiện.

    Không, ẩn nấp sau chiếc xe – Teague gần như chắc chắn đó là thứ họ đang trốn sau – là quá hạn chế, không tránh khỏi cái lạnh, lại không thức ăn, nước uống. Creed sẽ dời đi, nhưng ông ta đúng là một tên khốn kiên trì, kiên trì hơn Teague từng phỏng đoán.

    Kim phút trên chiếc đồng hồ của hắn dịch chuyển hết phút này đến phút khác. Năm mươi phút tính từ lúc cây cầu bị thổi bay. Hắn cũng sẽ kiên nhẫn, Teague nghĩ ngợi – còn kiên nhẫn hơn, vì hắn biết họ đang ở đó.

    Năm ba phút.

    Đúng thế. Kia rồi! Dấu hiệu nhiệt lấp đầy màn hình, rõ ràng và sáng sủa, cả hai người cúi thấp, di chuyển rất nhanh. Hắn hít một hơi, thở ra một nửa, rồi kéo cò súng ngay khi hình thù phát sáng biến mất.

    Một phần giây sau đó, một tia sáng lóe lên sáng hơn bất kể thứ gì từng xuất hiện nơi nửa dưới màn hình ống ngắm của hắn, tảng đá phía trước nổ bung bắn tung tóe trước mặt hắn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/6/15
  5. tienbach2013

    tienbach2013 Mầm non

    Hơn nửa chặng đường rồi, cố gắng lên em nhé! Cảm ơn em rất nhiều!
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    Breeze thích bài này.
  6. kimduyen

    kimduyen Lớp 1

    Mấy ngày nghỉ lễ dài ghê gớm, mong chờ mòn mỏi luôn
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    Breeze thích bài này.
  7. Carrot7411

    Carrot7411 Mầm non

    Hồi hộp quá.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
  8. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 19 (halucky)

    CREED NGHE TIẾNG SÚNG TRƯỜNG LẠCH TẠCH và cảm thấy một phát nhói đau vào chân trái, ngay trên mắt cá, trong khi ông và Neenah đúng hơn vẫn còn giữa không khí. Một phần giây kế tiếp là tiếng BÙM trầm sâu và họ hạ cánh với tiếng phịch đến ghê người trên mặt đất phía sau nhà bơm nước, tiếp đất quá vất vả nên ông không thể vòng cánh tay ôm giữ lấy bà, cú va chạm khiến bà lăn vòng vòng. Chân ông cảm giác như bị một gã khổng lồ đập một nhát búa vào, một tiếng gằn thô bạo của cơn đau xé họng lọt qua hàm răng nghiến chặt. Theo bản năng ông cuộn người, chộp lấy cẳng chân mặc dù ông sợ hãi thứ sẽ tìm thấy.

    “Cứt thật! Mẹ kiếp!”

    Ống quần của ông đã dính nhớp nháp máu, ông cảm thấy hơi ấm của vũng máu trong bốt mình. Ông bóp chặt bàn tay lên vết thương mạnh nhất có thể, hơi ngạc nhiên bàn chân vẫn còn gắn liền. Ông đã chứng kiến quá nhiều vết thương gây ra bởi những vũ khí cỡ nòng lớn, thực sự nhìn thấy những cánh tay, cẳng chân bị thổi bay, nên trong khoảnh khắc đầu tiên ông nhận thức được mình đã trúng đạn, thật là xỉ nhục nhưng ông đành cam chịu thiệt hại mà ông đoán được. Mặc dù bàn chân ông vẫn còn nơi cuối cẳng chân chứ không nằm lại nơi nào đó cách vài feet, thiệt hại vẫn nghiêm trọng và đó là điều ông sẽ tìm ra khi ông tháo phần còn lại của chiếc bốt.

    Chiếc bốt quả có đang gây ra trở ngại cho ông vì tạo áp lực lên vết thương; cần phải tháo bỏ nó ngay, thật nhanh.

    Neenah lồm cồm bò tới với ông, vỗ vỗ tay lên ngực và vai ông.

    “Joshua? Anh ổn chứ? Chuyện gì thế?”

    “Mẹ kiếp cái chân trái tôi bị dính đạn,” ông càu nhàu trong đau đớn; rồi một tiếng thì thầm từ lương tâm ông chỉ vừa đủ để bản thân nó nghe được. “À, ừ - xin lỗi.”

    “Em đã nghe thấy từ mẹ kiếp trước đấy,” bà nói nhanh nhẩu. “Em có dùng từ ấy một hay hai lần. Đèn pin đâu rồi?”

    “Trong túi áo bên phải của tôi.” Ông nằm ngửa trên mặt đất, lục trong túi áo, lôi ra cả đèn pin và con dao. “Tháo bốt tôi ra để tôi không phải chịu áp lực.”

    “Tôi sẽ làm.”

    Cả hai người đều giật nảy mình khi giọng nói thứ ba phát ra ngay sau họ.

    Bàn tay phải của Creed tự động với tới vũ khí mà không có ở đó; bóng đen quỳ xuống trên một đầu gối, phun những giọt nước lên họ khi anh làm vậy. Tiềm thức của Creed căng ra khi tiếng súng thứ hai ông nghe được, một tiếng nổ sâu, rồi mọi thứ rơi trở lại vị trí.

    “Cậu đúng là tên khốn lén lút, cậu ở đâu ra thế?”

    “Ở bờ suối,” Cal trả lời, răng anh va lập cập vì lạnh. Anh đặt khẩu súng săn xuống đất, cầm lấy con dao của Creed, và đưa cái đèn pin nhỏ cho Neenah. “Chiếu nó lên chân ông ấy,” anh chỉ đạo, và Neenah ngay lập tức vâng lời.

    “Tại sao mấy tay súng không nhìn thấy cậu?” Creed hỏi.

    “Tôi đoán chúng có ống ngắm hồng ngoại thay vì loại nhìn xuyên đêm; chúng bỏ lỡ những mục tiêu cụ thể dù trong phạm vi hiệu quả của hồng ngoại. Vì thế tối mới ướt và lạnh cóng.”

    Bằng cách đó đánh mất dấu hiệu nhiệt của cậu ấy, Creed nghĩ. Những tia sáng trắng và nóng của cơn đau đâm xuyên qua cẳng chân ông khi Cal cắt rời chiếc bốt, ông không thể tránh khỏi một tiếng kêu chói tai. Để đánh lạc hướng bản thân, Creed nghĩ về rủi ro Cal đã nhận lấy về mình, đánh cược với khả năng rằng các tay súng không có thiết bị nhìn xuyên đêm. Chuyện gì xảy ra nếu cậu ấy phỏng đoán sai?

    “Cậu là tên khốn may mắn đấy,” ông nói, rồi cắn răng ngăn lại tiếng rên khi Cal kéo chiếc bốt bị phá hủy ra.

    “Không may mắn đâu,” Cal lơ đãng trả lời. “Tạm tạm thôi.”

    Câu trả lời hóm hỉnh nhưng không chối cãi được mà Creed nghe được hàng trăm lần trước đây đưa ông quay về nhiều năm đã lùi xa, về lúc họ phải trải qua những nhiệm vụ trong bóng đêm, đặt mông mình vào nhiều tình huống cam go, rồi cuối cùng cũng thoát được nhờ sự kết hợp giữa kĩ năng, kỷ luật, rèn luyện, và thuần túy may mắn. Creed ngạc nhiên thấy Neenah quỳ bên cạnh Cal, vẻ mặt lo lắng nhưng bàn tay vững vàng giữ lấy chút ánh sáng; trong một khoảnh khắc, ông mong chờ nhiều người tụ tập xung quanh.

    Ông liếc nhìn chân mình, và thành thật bất ngờ. Máu đang chảy trông đến nghê người, nhưng vết thương, trong khi đủ xấu, không tệ bằng một nửa ông tưởng.

    “Hẳn phải bật ra và vỡ tan,” ông nói, ý chỉ viên đạn. Ông thấy một phần thay vì một lỗ tròn hoàn hảo.

    “Có lẽ.” Cal xoay chân ông. “Đây là chỗ viên đạn thoát ra. Giống như mảnh đạn đập phải xương và bật sang bên cạnh.”

    “Chỉ cần quấn nó lại để ta rời khỏi cái nơi khỉ ho này.”

    Có vẻ xương bị gãy bởi tác động của viên đạn. Creed biết mình chưa thoát khỏi nguy hiểm, vì máu vẫn chưa ngừng chảy, có khả năng bị nhiễm trùng, vấn đề với phần thịt bị xé rách, vân vân; nhưng nhìn chung không trầm trọng so với những gì ông tưởng tượng. Ông từng chứng kiến một người bị mất chân do bị bắn vào đùi. Dù thế nào, suy đi tính lại, ông cảm thấy hết sức vui mừng.

    “Chúng ta lấy gì để quấn đây?”

    Neenah hỏi, tình trạng hoảng loạn bắt đầu lộ rõ trong giọng nói. Cho tới lúc này bà đã chống đỡ một cách đáng ngưỡng mộ, nhưng bọn xấu vẫn ở ngoài kia và có thể đã đến gần hơn trong vài phút vừa qua, ông bị thương, Cal thì không thể vừa cản trở đối phương vừa giúp ông cùng lúc.

    Lặng lẽ Cal lột bỏ áo khoác và áo sơ mi ngấm nước, nửa thân mình anh ánh lên ẩm ướt trong ánh sáng phản chiếu yếu ớt. Dùng con dao của Creed, anh cắt đứt một ống tay áo sơ mi, cắt một đường nhỏ để xé gần hết miếng vải. Anh đặt đoạn cuối còn lành lên vết thương nơi viên đạn đi ra, chỗ mà máu chảy nhiều hơn nơi viên đạn đi vào, và bắt đầu quấn hết vòng này đến vòng khác quanh chân Creed, chồng các lớp vải lên nhau và thít chặt nó, cuối cùng thắt một nút chắc chắn trên vết thương.

    “Tốt nhất tôi có thể làm rồi,” anh lên tiếng, trượt phần còn lại chiếc sơ mi vào người. Cal nên cởi quần áo ướt ra, Creed biết thế, để chống lại việc hạ thân nhiệt; đêm rất lạnh, mặc đồ ướt sẽ lấy đi hơi ấm của một người nhanh hơn so với không mặc gì. Lý do duy nhất Cal không làm thế là giữ cho những thiết bị cảm ứng hồng ngoại không phát hiện ra mình.

    “Cậu có gặp bọn bắn súng không?” Creed hỏi.

    “Nếu tôi không, tôi khó mà tới đây được.” Cal cầm lấy đèn pin từ tay Neenah, tắt đèn, trượt nó vào túi mình. “Điều này dự báo là sẽ khó khăn, ít nhất là quãng đầu tiên, vì ngay cả tôi hạ được một tên, những tên khác vẫn có những góc bắn hiệu quả vào chúng ta khi ta bắt đầu di chuyển. Ta phải tới chỗ kia,” anh nói, chỉ ra phía dòng sông. “Có nhiều ngôi nhà chắn giữa ta và chúng, cộng thêm khoảng cách.”

    Cal run run vì lạnh khi anh giúp Creed đứng thẳng dậy, đưa mình vào vị trí bên trái Creed để đỡ lấy phần trọng lượng cái chân bị thương, rồi nhặt khẩu súng săn lên bằng tay trái. Creed sẽ lo lắng nếu ông không từng nhìn thấy Cal bắn bằng tay trái trước đây. Tất cả thuộc cấp của ông đã được rèn luyện cho những hoàn cảnh thế này.

    “Anh ấy không thể đi được đâu!” Neenah nói đầy cảnh báo.

    “Chắc chắn ông ấy có thể,” Cal trả lời. “Ông ấy còn lại một cẳng chân lành lặn. Neenah, trùm áo khoác ướt của tôi lên đầu. Tôi biết nó không dễ chịu, nhưng nó hạn chế rất nhiều dấu hiệu nhiệt của bà.” Không phải tất cả, nhưng đủ để gây khó xử trong chốc lát cho một tay súng.

    “Đi thôi, lính thủy,” Creed nói, gắng hết sức mình cho một chuyến đi mà ông biết là sẽ dài, giá rét lẫn đau đớn.

    Cate và những người khác đã di chuyển tới nhà của Richardson mà không bị bất kỳ thương tích hay tổn thất nào, mặc dù vài lần tiếng đạn loẹt xoẹt ngay gần khiến họ trúng phải bụi đất. Trượt chân, tháo chạy, ngã bổ nhào, nhưng ngay lập tức nhảy dựng lên chạy tiếp, họ giống như những người dân tị nạn trong tình cảnh hỗn loạn – thực ra chẳng khác xa sự thật là mấy. Họ mang theo những gì có thể, chăn và áo khoác mà Cate lấy được, cả hộp sơ cứu Cal để lại. Cate mang nó, mặc dù nó nặng và cứ đập vào chân cô. Cô hy vọng hộp dụng cụ không phải tạo nên một sự khác biệt giữa sự sống và cái chết cho một ai đó, nhưng cũng đau đớn nhận thức rằng chuyện có thể xảy ra, nên cô không dám bỏ chiếc hộp.

    Nhà Richardson được xây cất trên sườn đất dốc xuống dòng sông và, như một may mắn, là căn nhà duy nhất ở Trail Stop có một tầng hầm trọn vẹn. Vài ngôi nhà cổ có đào hốc bên dưới để dự trữ rau quả, nhưng chất lượng của đồ cất ở đó không đạt bằng tầng hầm, nếu buộc phải nhồi nhét, nó có thể chứa được ít người tuy không thể được tới hai mươi hay nhiều hơn với số người đang kéo tới nhà Richardson. Ngôi nhà lờ mờ hiện ra trước họ trong đêm, tất cả những bức tường xám nhợt và ô cửa sổ tối đen.

    “Perry!” Walter gọi ầm ĩ khi họ tới gần ngôi nhà. “Walter đây! Ông và Maureen ổn không?”

    “Walter?” Giọng nói phát ra từ sau ngôi nhà, họ liền quay về hướng đó. Một ánh đèn chiếu xuyên qua mặt đất gồ ghề, lướt qua khuôn mặt họ như thể Perry muốn nhận dạng họ để trấn an bản thân. “Chúng tôi ở trong hầm. Tiếng ầm ầm quái quỷ gì thế? Kẻ nào đang bắn những loạt đạn, và tại sao lại mất điện? Tôi cố gắng gọi tới văn phòng cảnh sát trưởng, nhưng điện thoại cũng hỏng.”

    Các đường dây chắc bị cắt đứt, Cate rùng mình sợ hãi khi nhận ra Mellor và Huxley đã đi xa thế nào trong việc tìm kiếm sự trả thù. Tất cả chuyện này có vẻ không thực, chẳng hề tương xứng với những gì chúng bị chọc tức; hai gã này đúng là không có đầu óc.

    “Vào đây với chúng tôi,” Perry nói, dùng đèn pin chỉ lối đi. “Vào trong tránh rét. Tôi đã bật lò sưởi chạy bằng dầu hỏa; nó đang xua đi không khí lạnh.”

    Với vẻ biết ơn nhóm người loạng choạng hướng tới, len qua cánh cửa ngoài hầm. Giống như hầu hết những căn hầm, cái này lấp đầy bởi một mớ lộn xộn của từng loại, đồ đạc không dùng đến, quần áo, và đồ hoàn toàn bỏ đi. Có mùi ẩm mốc; sàn hầm lộ ra lớp bê tông. Nhưng cái lò sưởi chạy dầu hứa hẹn hơi ấm tuyệt vời, và một cây đèn dầu cũng được Richardson thắp sáng. Ánh đèn vàng vọt mờ mờ đã đẩy bóng tối khổng lồ vào trong góc, so với màn đêm lạnh lẽo, chút ánh sáng này dường như thật diệu kỳ. Maureen vội vã đi tới, một phụ nữ thấp, phục phịch như con gà mái xám, lục tục vẻ cảm thông.

    “Lạy Chúa tôi, làm sao mọi người xoay sở được?” bà hỏi không nhằm cụ thể vào người nào. “Tôi có ít nến ở trên gác, và một cây đèn khác. Tôi sẽ đi lấy chúng và thêm chăn – “

    “Tôi sẽ đi,” chồng bà cắt ngang. “Em ở dưới đây và giúp họ ổn định chỗ. Em có biết ấm pha cà phê cũ ở đâu không? Sẽ mất thời gian, nhưng ta có thể đun cà phê trên lò sưởi.”

    “Nó bên dưới chậu rửa. Rửa sạch nó nhé – ôi không, chờ đã, ta đâu có nước. Ta không thể pha cà phê.”

    Giống như mọi nhà khác ở Trail Stop, nhà Richardson có một giếng nước, và một máy bơm bơm nước lên từ đó. Không điện, không máy bơm. Walter Karl có một máy phát dùng khi mất điện, và ông ấy vẫn hào phóng cho hàng xóm của mình dùng nước giếng nhà mình; nhưng nhà ông nằm gần những tay súng nhất, mà tới đó lúc này lấy nước thì quá là nguy hiểm.

    Pern Richardsons không vì thế mà khó xử.

    “Chúng ta có một gầu múc,” ông chỉ rõ, “và có vài sợi dây quanh đây. Tôi cho là mình vẫn nhớ cách kéo nước. Nếu ai đó muốn giúp tôi, ta sẽ có cà phê không lâu nữa đâu.”

    Ông và Walter đi khỏi hoàn thành cái việc vặt đó, Maureen nhanh chóng cầm đèn pin và biến lên trên gác. Cate chần chừ vừa đủ một giây rồi theo sau.

    “Cháu sẽ mang giúp các thứ, bà Richardson,” cô nói khi trèo lên bậc thang trên cùng và bước vào nhà bếp.

    “Tại sao, cám ơn, hãy gọi tôi là Maureen. Chuyện gì đang diễn ra thế? Tiếng động ầm ĩ đấy là gì? Nó làm rung chuyển cả ngôi nhà.”

    Bà đặt đèn pin trên nóc tủ, giữ nó cân bằng để nó chĩa lên trần nhà, soi sáng toàn bộ căn phòng, rồi cầm cái giỏ giặt đồ trống không mang ra khỏi bếp.

    “Kiểu một vụ nổ. Cháu không biết chúng nổ cái gì.”

    “Chúng ư? Cháu biết kẻ gây ra chuyện này?” Maureen hỏi bén nhọn khi bà hối hả quanh bếp thu thập đồ dùng cần thiết, đặt chúng vào trong chiếc giỏ.

    “Cháu nghĩ đó là hai gã chĩa súng vào cháu và Neenah thứ Tư vừa rồi. Bà đã nghe về nó đúng không?”

    Chậm chạp Cate cố nhớ xem Maureen có phải là một người trong đám đông kéo đến chật ních nhà mình tối đó. Cô không nhớ mình nhìn thấy bà.

    “Chúa nhân từ, mọi người đều đã nghe chuyện. Perry có vài xét nghiệm phải làm ở bệnh viện Boise hôm đó –“

    “Cháu mong ông ấy không có vấn đề gì.”

    “Ông ấy ổn, chỉ là ít vấn đề với dạ dày do ăn quá nhiều đồ cay rồi lên giường luôn. Ông ấy chẳng bao giờ nghe ta nói. Lần này bác sĩ nói với ông ấy cùng cái điều ta nhắc đi nhắc lại nhiều năm qua, sau tất cả nó đột ngột trở thành một cẩm nang hữu ích. Thỉnh thoảng ta muốn đá cho ông ấy một cái, nhưng thế đấy, đó là người đàn ông dành cho cháu.” Bà lấy những chiếc cốc cà phê bằng nhựa cách nhiệt khỏi tủ, thêm vào giỏ. “Giờ, lấy những cái chăn và tấm đệm. Chúng ta có thể đưa những chiếc ghế trong phòng ăn xuống, cho mọi người một chỗ để ngồi, nhưng ta sẽ để cánh đàn ông làm. Tại sao hai gã đàn ông quay lại thế?”

    Mất một giây Cate mới nhận ra chủ đề mà đầu óc Maureen đã chuyển hướng tới. “Cháu không biết, trừ khi chúng giận dữ với việc tốt nhất Cal đã làm cho chúng. Cháu chỉ không biết chúng muốn cái gì.”

    “Đó là chuyện của những kẻ tầm thường và điên rồ; trừ khi cháu cũng tầm thường và điên rồ, chúng chẳng có ý nghĩa gì với cháu.”

    Bất chấp mọi chuyện, Cate thấy mình dễ chịu một cách kỳ cục với những lý luận ấm áp của người phụ nữ này về con người, cuộc sống, hoàn cảnh hiện thời của họ, và nhiều thứ khác khi cô theo bà đi khắp nhà, thu thập chăn đắp và khăn, gối tựa, đệm ngồi, đồ dùng mà hai người có thể giúp mang lại sự thoải mái hơn trong tầng hầm. Cô nhớ phải cúi thấp xuống và cũng lưu ý Maureen làm như thế, khiến việc di chuyển đặc biệt bất tiện, cô biết những viên đạn bay được qua một quãng xa nên cô không chắc ngôi nhà thực sự an toàn.

    Họ thực hiện nhiều chuyến đi lên xuống cầu thang tầng hầm, cầm mọi thứ chuyển xuống cho những người giúp sức tiếp tục bên dưới.

    “Tốt rồi,” Maureen cuối cùng lên tiếng, “chỉ còn rời những miếng đệm ghế sô pha.” Bà bắt đầu hướng về phòng khách.

    Dạ dày Cate xoắn lại với nỗi hoảng sợ đột ngột, cô chộp lấy cánh tay Maureen.

    “Đừng, đừng lên đó.” Cô cao hơn và khỏe hơn Maureen, cô kéo bà tới cầu thang. “Căn phòng quá lộ liễu, chúng ta đã quá may mắn khi ở được đây lâu thế, rồi còn bật đèn pin chiếu sáng xung quanh.”

    Bỗng dưng cô tuyệt vọng muốn trở xuống dưới hầm, da cô bị châm chích như thể cô cảm nhận một viên đạn đang bay tới chỗ mình, nó xuyên qua không khí và đục thủng những bức tường nhanh hơn tốc độ của âm thanh, dẫn thẳng tới chỗ cô giống như chính nó có trí não, không quan trọng cô cúi thấp và thu mình thế nào, nó vẫn sẽ theo cô.

    Với một tiếng hét chói tai cô phóng vào Maureen, để vai mình dẫn hướng, đôi chân đẩy đi, cô đè cả hai sát xuống sàn nhà ngay khi cửa sổ phòng khách vỡ tan tành, rồi cô nghe tiếng rên rỉ yếu ớt giận dữ chỉ một phần giây trước khi bức tường bị xé toạc với âm thanh thhttt!

    Đó là tiếng nổ sâu, phẳng tẹt của đạn súng trường.

    Mauren thét lên. “Chúa tôi! Ôi Chúa tôi! Chúng bắn vào cửa sổ!”

    “Maureen!” là tiếng Perry phát ra hoảng sợ từ dưới tầng hầm, rồi tiếng ầm ầm của chân ông trên cầu thang khi ông vội vã hướng lên.

    “Chúng tôi không sao!” Cate chỉ ra. “Quay lại đi, chúng tôi đang xuống!”

    Không suy nghĩ, cô chống tay dậy, chộp lấy lưng áo Maureen, nâng bà dậy đồng thời đẩy bà đi, nỗi khiếp sợ tiếp thêm cho cô sức mạnh mà cô không biết mình sở hữu. Tất cả cô làm được là đẩy Maureen về phía Perry, người tất nhiên là không lùi bước, ông loạng choạng gần như ngã xuống nhưng được cứu nhờ đám người phía sau ông, họ cũng vội vàng theo lên gác. Cate ném bản thân qua ngưỡng cửa và chạy xuống vài bậc, nơi cô cúi lom khom để chắc chắn đầu mình ở dưới mặt đất. Cô run rẩy dữ dội, thần kinh đảo lộn bởi nguy hiểm cận kề.

    “Cate không cho em vào phòng khách,” Maureen nức nở trên ngực chồng. “Cô ấy cứu mạng em, cô ấy cản em. Em không hiểu sao cô ấy biết, nhưng cô ấy đã –“

    Cate cũng đâu biết vì sao. Cô ngồi trên bậc thang, khum bàn tay lại, vùi mặt mình vào đấy, run rẩy, răng va vào nhau lập cập. Cô chưa hết run khi ai đó – Sherry, cô cho là vậy – choàng cái chăn quanh cô, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết giục cô rời khỏi cầu thang đến ngồi lên tấm đệm đặt dưới nền hầm.

    Đầu óc cô mù mờ sau đó, kiệt sức bởi cơn sốc. Cô lắng nghe tiếng rì rầm trò chuyện xung quanh mà chẳng hiểu gì, cô quan sát ngọn lửa màu xanh của lò sưởi chạy dầu, đợi bình lọc cà phê lỗi mốt loại dùng đi cắm trại họ đặt trên lò sưởi bắt đầu sôi để pha cà phê, và cô chờ đợi Cal. Anh nên quay về rồi mới phải, cô nghĩ mông lung, xoay cái nhìn chằm chằm về phía cửa, ước sao nó mở ra.

    Ít nhất một giờ sau – cô cho rằng nó hẳn là một giờ, trừ khi tiến trình của thời gian có gì đó sai sót trầm trọng – cuối cùng cánh cửa bên ngoài cũng mở, một nhóm ba người lảo đảo bước vào. Cô nhìn thấy một cái đầu với mái tóc sậm vàng lộn xộn, khuôn mặt tái xanh đi vì lạnh; cô thấy ông Creed, cánh tay ông vòng sang vịn vào vai Cal và Neenah-

    Cate liền quăng cái chăn và nhảy tới, gia nhập cùng những người khác đỡ lấy, ngăn ba người khỏi ngã xuống nền. Một sự hỗn loạn của những tiếng kêu suýt xoa lẫn những câu hỏi khi trọng lượng thân mình của ông Creed rời khỏi Cal và Neenah, ông được hạ xuống vài tấm đệm; rồi Cal lảo đảo, trượt ngã, Cate thấy mình liều mạng kẹp chặt lấy anh, chèn vai mình vào nách anh, cố chống đỡ anh đứng lên.

    “Joshua trúng đạn,” Neenah hổn hển, khuỵu gối xuống, hít lấy từng ngụm lớn không khí. “Còn Cal đang đông cứng; cậu ấy đã ở dưới nước.”

    “Hãy cởi quần áo ướt của cậu ấy ra,” Walter nói, đỡ Cal khỏi Cate. Sống ở nơi đây, tất cả họ đều biết cách đối phó với vấn đề hạ thân nhiệt. Chưa đầy vài giây ai đó đã giữ một cái chăn trước Cal trong lúc xoay sở, giúp lột bỏ bộ quần áo ướt cứng đờ. Được lau khô một cách thô bạo, anh không một lời phản đối; rồi một cái chăn ấm quấn quanh anh khi anh ổn định bên cạnh lò sưởi. Bình lọc bắt đầu sôi, Cate cho đường vào một trong những chiếc cốc cách nhiệt, rót cà phê lên. Cà phê mới chỉ hơi ngấm, nhưng nó nóng và nó là cà phê nên nó sẽ có tác dụng.

    Cal đang run dữ dội, răng va lập cập; không có cách nào anh cầm nổi chiếc cốc. Cate ngồi xuống bên cạnh, cẩn thận giữ chiếc cốc trên môi anh, hy vọng không đánh đổ cà phê và làm bỏng anh. Anh điều khiển uống một ngụm rồi nhăn mặt vì độ ngọt của đồ uống.

    “Tôi biết anh không thích đường trong cà phê,” cô nói nhẹ nhàng. “Dù thế nào cứ uống đi.”

    Anh không thể phản ứng nhiều vì toàn bộ cơ thể đã tham gia vào cuộc chiến chống lại cái lạnh, nhưng anh sụp cằm xuống như một cái gật và uống một ngụm nữa. Cô đặt chiếc cốc sang bên, đứng sau anh, xoa lưng, bờ vai và cánh tay anh mạnh nhất có thể mà không hoàn toàn đánh bật cái chăn.

    Tóc anh bị ướt, đêm tối trở nên lạnh hơn nên các tinh thể băng đá đã bắt đầu hình thành trên đầu. Cô làm ấm một chiếc khăn phía trên lò sưởi; dùng nó chà xát đầu anh cho tới khi tóc chỉ còn ẩm. Đến lúc việc đó hoàn thành cơn rung lắc giảm xuống một chút, mặc dù thỉnh thoảng xương và răng anh vẫn kêu lạch cạch. Cô đưa anh thêm cà phê; anh giơ tay tự giữ lấy cốc và cô để anh làm.

    “Chân anh thấy thế nào?” cô hỏi.

    “Tôi không biết, tôi chẳng cảm thấy gì.”

    Giọng anh nhỏ tí, hoàn toàn mệt mỏi. Cơn rung lắc toàn thân dữ dội đã đem lại kết quả là chấm dứt tình trạng kiệt sức của anh. Anh lắc lư tại chỗ, mí mắt trĩu nặng.

    Cate chuyển tới ngồi cạnh chân anh, vén cái chăn. Nhấc một bàn chân của anh lên, cô chà mạnh và thổi vào từng ngón, rồi lặp lại với bàn chân kia. Khi chúng không còn trắng vì lạnh, cô quấn chúng trong khăn ấm.

    “Anh cần nằm xuống,” cô nhắc anh.

    Cố gắng anh lắc đầu, nhìn về chỗ Neenah đang chăm sóc ông Creed.

    “Tôi cần phải xem làm gì được cho Josh.”

    “Anh không thể làm bất cứ thứ gì ngay lúc này đâu, cân nhắc bản thân mình xem.”

    “Ừ, được mà. Cho tôi một cốc cà phê khác – lần này đen nhé – và cái gì đó để mặc, tôi sẽ ổn trong năm phút thôi.”

    Đôi mắt xám nhạt chớp chớp nhìn cô và cô đọc thấy sự quyết tâm không thể lay chuyển trong đó.

    Anh thực sự cần một giấc ngủ, nhưng trong tình huống không thể nói được bằng lời ngay lúc này, cô biết anh sẽ không ngủ cho tới khi anh làm cái điều anh cho là cần thiết. Cách nhanh nhất để anh nằm xuống, vâng, là giúp anh.

    “Một cốc cà phê, có ngay.”

    Cô pha thêm cà phê, khi cô làm cô nhìn những người hàng xóm và bè bạn xung quanh tầng hầm. Họ lo lắng, mất phương hướng, nhưng hơn tất cả, họ ngồi ổn định và chú tâm vào việc của mình. Vài người sắp xếp tấm đệm, gối và phân phát chăn đắp, một số đang kiểm kê vũ khí và đạn dược họ có, Milly Earl đang xem xét chỗ thức ăn, còn Neenah trông nom ông Creed. Họ đã cắt đứt ống quần của ông, đắp cho ông một chăn ấm ngoại trừ cái chân trúng đạn, giờ nó đang được kê trên gối. Neenah cẩn thận lau rửa vết thương nhưng có vẻ lúng túng không biết làm gì tiếp theo.

    Cate tới gần Maureen và lưu ý Cal cần quần áo. Những chiếc quần jean Maureen moi được từ chiếc hộp bụng quá rộng, nhưng dùng được. Perry thực hiện một cuộc lục soát bất ngờ trên gác – bằng đầu gối và hai bàn tay, trong bóng tối – rồi trở lại với đồ lót cùng tất sạch, và một áo len chui đầu ấm áp. Bên dưới chăn, Cal mặc đồ lót rộng thùng thình vào, rồi tung chăn ra để mặc quần áo cho nhanh.

    Cate không để bản thân nhìn chòng chọc vào cơ thể gần như trần truồng của anh, nhưng cô không thể ngăn một cái nhìn, cô chú ý thấy rằng miếng băng bướm cô cẩn thận dán khi trước đã rơi mất, hai vết thương đang tiếp tục rỉ máu. Sherry trông thấy cô, nghiêng người lại gần thì thầm, “Đó là một người đàn ông.”

    “Vâng.” Cô lẩm bẩm trả lời, “anh ấy là vậy.”

    Khi mặc xong quần áo, anh di chuyển chậm chạp tới chỗ ông Creed đang nằm, yêu cầu hộp sơ cứu. Cate gắng hết sức mình, tự nhắc bản thân kiềm chế cơn buồn nôn, lại gần giúp đỡ.

    “Tôi làm được gì không?” cô hỏi, quỳ xuống bên cạnh anh.

    “Tôi không chắc lắm. Để tôi xem tổn thương thế nào.”

    Neenah chuyển tới phía đầu ông Creed, khuôn mặt bà trắng bợt khi Cal xem xét hai vết thương và cẩn thận chọc vào phần xương bên dưới. Creed kìm lại một tiếng chửi thề, uốn cong lưng, nên Neenah với tới nắm tay ông. Những ngón tay to xù nắm chặt ngón tay bà với một áp lực khiến bà nhăn nhó.

    “Tôi nghĩ xương bị gãy,” Cal nói, “nhưng tôi không cảm thấy nó bị xê dịch. Tôi phải tìm mảnh đạn—“

    “Có mà cậu dám,” Creed ngắt lời.

    “—hoặc sự nhiễm trùng sẽ lấy mất chân ông ấy,” Cal kết thúc.

    “Mẹ--“ Creed phóng ánh mắt từ Neenah sang Cate và ngậm chặt hàm lại.

    “Ông còn dẻo dai, ông chịu đựng được thôi,” Cal nói thiếu vẻ đồng cảm rõ ràng. Rồi anh liếc qua Cate. “Tôi cần nhiều ánh sáng hơn, thật nhiều.”

    Ánh sáng từ những cây nến và ngọn đèn dầu không thích hợp để tiến hành công việc, nên Sherry đứng sau Cate cầm đèn pin siêu sáng của Cal chiếu vào chân Creed. Cầm cái kẹp lấy trong hộp dụng cụ, Cal bắt đầu, còn Creed thì chửi rủa. Anh tìm thấy một mảnh đạn vỡ và một mẩu da giầy của Creed, cộng với một mẩu vải tất bé tí lẫn máu đông. Lúc anh kết thúc, mặt Creed trắng bệch, rịn đầy mồ hôi.

    Neenah nắm chặt tay Creed trong suốt cuộc thử thách, thì thầm động viên và lau mặt cho ông bằng mảnh vải ướt. Cate đưa Cal bất cứ thứ gì anh yêu cầu, rồi giữ cái chảo bên dưới vết thương khi anh xối nước rửa nó tỉ mỉ. Cô chao đảo một lần, phải quay mặt đi khi anh bắt đầu khâu, mặc dù cô không biết tại sao một cái kim đâm xuyên qua phần da thịt đang há miệng lại khiến cô buồn nôn thế.

    Cô thắc mắc anh học cách khâu một vết thương khi nào, anh có được kỹ năng sơ cứu ở đâu, nhưng đó là những câu hỏi chờ đợi trả lời vào một ngày khác.

    Nhanh chóng sau đó, kháng sinh cần thiết để vết thương ngậm miệng, nên Creed nuốt vào mấy viên thuốc, cả kháng sinh lẫn giảm đau, và một miếng băng được quấn chặt quanh cẳng chân dưới của Creed.

    “Tôi sẽ nẹp nó vào ngày mai, chống đỡ cho cái xương,” Cal nói khi mệt lử đứng dậy. “Ông ấy sẽ không đi đâu tối nay.”

    “Tôi chắc chắn anh ấy sẽ không cố,” Neenah lên tiếng.

    “Tôi nằm ngay đây, và tôi nghe thấy em đấy.” Creed gắt gỏng, nhưng ông quá kiệt sức nên không còn phản đối khi Neenah ngồi ổn định bên cạnh mình.

    “Tôi cần ngủ vài tiếng,” Cal nói, nhìn xung quanh tìm một góc yên tĩnh.

    “Có thể sắp xếp được,” Cate lên tiếng. Cô và Sherry túm lấy hai cái chăn và một cái gối, Cate lấy thêm quần áo cũ từ chiếc hộp Maureen đã mở, trải chúng thành một cái đệm gồ ghề. Họ kéo thêm vài cái hộp làm thành một phần vách ngăn, xếp chồng chúng mỗi bên, rồi phủ một cái rèm cũ lên những cái hộp tạo thành một hàng rào ngăn được ánh sáng, và ít nhất một chốn khá kín đáo.

    Cal quan sát tất cả không giấu được sự kinh ngạc.

    “Một cái chăn trên sàn nhà là được rồi,” anh nói. “Tôi từng ngủ ở nơi còn gồ ghề hơn nhiều.”

    “Có lẽ,” Cate trả lời, “nhưng tối nay anh không phải thế.”

    “Ngủ ngon,” Sherry lên tiếng. “Này, Cal, đừng nghĩ mình phải làm mọi thứ. Những người khác đã tụ họp và trông chừng phần còn lại của đêm. Cậu có thể ngủ lâu hơn là vài giờ. Họ sẽ đánh thức cậu nếu có chuyện xảy ra.”

    “Tôi sẽ nghe lời,” anh nói, và Sherry dời đi tham gia cùng những người khác.

    Cate đứng đó ngượng nghịu, bỗng dưng không biết nói hay làm gì. Cô lẩm bẩm “Ngủ ngon” rồi bắt đầu theo Sherry nhưng Cal nắm lấy cổ tay cô. Cô đông cứng người, nhìn chằm chằm vào anh, không thể quay đi đâu khác. Bất ngờ trái tim cô đập rộn rã trong lồng ngực. Ánh mắt xanh xám của anh lướt trên mặt cô, nấn ná nơi khuôn miệng.

    “Em cũng mệt mà,” giọng anh khẽ khàng, với sức mạnh đột ngột anh kéo cô xuống, vào chiếc ổ tạm thời của mình. “Hãy ngủ cùng tôi.”
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  9. kimduyen

    kimduyen Lớp 1

    Cảm ơn halucky nhiều. Không biết nói gì để động viên tinh thần halucky cả. Thôi thì cố gắng thật nhiều để mọi người có góc thư giãn nhé
     
    ttha, NHTB, thanhbt and 2 others like this.
  10. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 20 (halucky)

    ĐẦU ÓC CATE TRỐNG RỖNG.

    “G-gì cơ?”

    Cô lắp bắp, hoàn toàn mất phương hướng khi bỗng dưng nghĩ tới bản thân đang nằm ngửa trên đống chăn – thực ra được tạo bởi những bộ quần áo cũ, nhìn chằm chằm từ dưới lên cái màn phủ trên hai chồng hộp. Cô cảm thấy một chút lố bịch về cái giường tạm thời thoải mái ra sao, và bên trong cái lều tự tạo tối thế nào. Ngay cả tiếng rì rầm đều đều của cuộc trò chuyện từ hai mươi người có dư trong tầng hầm với họ dường như im bặt.

    “Ngủ cùng tôi,” anh lặp lại nhẹ nhàng, duỗi dài trong không gian chật hẹp và đặt đầu mình lên gối bên cạnh cô. Giọng anh rất nhỏ, mục đích chỉ cô nghe được. Ánh mắt anh gặp cô, đầy mê hoặc bằng chiều sâu như pha lê, cô đánh mất khả năng suy nghĩ, gần như nín thở. Như thể cô nhìn thấu tận tâm hồn anh, cảm nhận sự kết nối mạnh mẽ hơn cả họ đang quan hệ tình dục. Gần như không nhận ra, cô đưa tay, khẽ chạm vào môi anh, cảm nhận sự mềm mại ẩm ướt mỏng manh của nó bên dưới những đầu ngón tay. Anh nắm lấy tay cô, những ngón tay anh lạnh và cứng rắn nhưng vô cùng dịu dàng, xoay nó lại để anh chạm môi vào khớp tay cô trong nụ hôn ngọt ngào nhất, nhẹ nhàng nhất mà cô từng nhận được.

    Nằm thân mật ở đây cạnh anh thật khiến cô bối rối; cô cảm thấy anh dọc theo cơ thể mình theo cách mà cô chưa từng cảm nhận với bất cứ ai kể từ khi Derek mất. Những năm dài cô đơn đã làm mờ đi ký ức của việc nằm quá gần một người đàn ông đến mức ngực họ hòa quện vào nhau, để cô cảm nhận hơi ấm làn da anh, tiếng đập mạnh mẽ, vững vàng của trái tim anh. Họ vẫn mặc đầy đủ quần áo - ồ, cô mặc bộ đồ ngủ vải flannel, và còn chiếc áo len dày cô xỏ vào trước chuyến đi tới nhà Richardson, cô được bao bọc – nhưng không hiểu sao cô thấy không được bảo vệ giống như mình không mặc gì vậy. Cô nhận thức sâu sắc những người hàng xóm ở bên ngoài hàng rào nhỏ tí này, đang quan sát, đánh giá và thắc mắc chuyện gì đang diễn ra giữa người đàn ông chăm chỉ và người góa phụ.

    Má cô đỏ ửng khi cô tự vấn bản thân. Mọi thứ thay đổi quá nhanh đến nỗi lúc này đây cô không biết như thế nào hay tại sao, thậm chí là cái gì thay đổi. Tất cả cô biết là quý ông nhút nhát Harris dường như biến mất, như thể ông không hề tồn tại, và thế chỗ là Cal, một người lạ vác súng săn, biết khâu vết thương, người mà nhìn cô như muốn cô trần truồng.

    Duh, tâm trí cô thì thầm. Anh là một người đàn ông. Đàn ông luôn muốn phụ nữ khỏa thân; đó là con người họ và cách họ làm. Đơn giản như vậy.

    Nhưng cách cô cảm nhận không đơn giản thế. Cô thấy mơ hồ, rối loạn, lo lắng và chống lại mọi thứ. Và Cal cũng không phải một người đơn giản. Rất nhiều người có tính cách thâm trầm sâu kín, nhưng tính cách sâu kín của anh hiển nhiên sánh ngang với hồ Lốc ness. Cô nên bò khỏi đây, ngủ một mình. Anh sẽ không ngăn cô; anh sẽ chấp nhận quyết định cô chọn. Nhưng nói với bản thân điều cô nên làm và cô làm nó là hai việc hoàn toàn khác nhau, trong khi cô làm được việc thứ nhất, việc thứ hai rõ ràng vượt xa khả năng của cô.

    “Hãy ngừng suy nghĩ,” anh lẩm bẩm, chạm một ngón tay vào trán cô. “Chỉ một lúc thôi. Ngủ.”

    Anh thật đáng sợ. Anh mong đợi cô ngủ cạnh mình trong khi mọi người ngoài kia quan sát chân họ, xem những ngón chân có chỉ về cùng một hướng. Sự mệt mỏi ngấm vào tận xương cô, nhưng cô không nghĩ mình nhắm mắt được.

    “Tôi không thể ngủ ở đây!” cô thì thầm nài nỉ, cuối cùng buộc giọng nói phải làm việc. “Mọi người sẽ nghĩ – “

    “Có vài thứ tôi nên nói với em, để sau đã.” Giọng anh nghe buồn ngủ, mí mắt sụp xuống. “Ngay lúc này, chỉ ngủ một lúc thôi. Tôi vẫn còn lạnh, mà ngày mai sẽ thật khó chịu. Làm ơn. Tôi cần em bên cạnh mình đêm nay.”

    Anh rét và mệt mỏi. Lời khẩn nài đi thẳng tới tim cô, xuyên qua nó.

    “Cuộn người lại,” cô thì thầm, rồi với một tiếng lầm bầm nỗ lực anh làm theo, quay lưng mình về phía cô. Cô kéo cái chăn thứ nữa, đắp cho cả hai, ngả người với cái màn che phủ đôi chân thò ra của họ. Bàn chân cô lạnh cứng, theo bản năng cô rúc chúng vào bít tất của anh khi cô cong người áp vào lưng anh.

    Anh gần như rơi vào giấc ngủ, nhưng vẫn phát ra tiếng thở dài bằng lòng và nép mình vào gần cô hơn. Cate co một tay gối đầu, tay kia vắt qua thắt lưng anh, nhét đùi mình khít khao vào đường cong nơi mông anh. Từ từ cô nhớ ra vết cắt trên vai và cánh tay anh cần được chăm sóc lần nữa, nhưng hơi thở của anh đã chậm và sâu chỉ trong ba mươi giây, cô không muốn đánh thức anh dậy.

    Hơi ấm bắt đầu lan tỏa, đưa cô vào giấc ngủ mơ màng. Cách xa bức tường tạo bởi những chiếc hộp, giọng nói đã ngớt hẳn khi mọi người ổn định tại chỗ mình tìm được. Như Sherry nói, cánh đàn ông đã bố trí một hệ thống phòng thủ, được giấu một cách kín đáo ở đây, không viên đạn nào chạm tới được chỗ họ. Họ tương đối an toàn cho tới sáng, lúc đó họ sẽ tìm hiểu chính xác chuyện gì đang diễn ra. Chẳng có lý do tại sao cô không nên ngủ.

    Cô xích lại gần lưng anh hơn, di chuyển bàn bàn tay tự do, trượt nó từ thắt lưng anh, qua bụng anh lên tới ngực. Cảm nhận nhịp đập đều đều của trái tim anh, cô đi vào giấc ngủ.

    Một lúc lâu sau khi trúng đòn, Teague di chuyển khó khăn tới chỗ ngồi. Hắn không nhìn thấy gì; máu cứ thế trào ra từ vết thương trên trán, vào cả hai mắt và khiến hắn mù mờ. Đau đớn nghiền, giã vào đầu hắn như tiếng búa của quỷ xa tăng. Cái quái gì đã xảy ra? Hắn không biết tên kia ở đâu; bàn tay gã dò dẫm, không tìm thấy gì quen thuộc, chỉ toàn đá là đá. Tên đó ở bên ngoài, gã nhìn rõ hơn. Nhưng ở đâu và tại sao?

    Hắn chờ, kinh nghiệm nói với hắn rằng ký ức sẽ quay lại khi hắn hoàn toàn tỉnh táo. Cho tới lúc đó, hắn ấn bàn tay lên vết cắt nham nhở, làm chậm lại quá trình mất máu, lờ đi cơn đau do áp lực gây nên.

    Điều đầu tiên hắn nhớ ra là một tia sáng nhá lên chói kinh khủng, rồi một tiếng đùng đoàng khi một nắm đấm khổng lồ thụi vào đầu.

    Súng, hắn nghĩ, rồi loại bỏ ý tưởng. Nếu bị trúng đạn vào đầu, hắn đâu còn nằm đây để mà thắc mắc. Bỏ qua súng bắn, nhưng hơi có liên quan. Mặt hắn như nướng trên lửa, toàn bộ da bị tróc. Viên đạn hoa cà hẳn trúng vào tảng đá ngay dưới hắn, tàn phá hắn bằng mấy mảnh đá bắn ra.

    Ngay khi từ đạn hoa cà hình thành trong đầu, hắn liên tưởng tới ‘súng săn’ và mọi mảnh ghép trong bộ nhớ rơi đúng vị trí. Đó là tiếng đùng đoàng hắn nghe được, theo sát gót tiếng súng của chính hắn đến nỗi hai tiếng như chồng chéo lên nhau.

    Hắn tự hỏi có ai khác nghe thấy tiếng súng săn; sao không ai gọi bộ đàm tới kiểm tra hắn? Vài giây trôi qua, suy nghĩ của hắn vẫn còn lờ đờ trước khi hắn nhận ra mình đã bất tỉnh nên không nghe được tiếng bộ đàm ngay cả ai đó cố gắng liên lạc với hắn.

    Bộ đàm. Ừ. Hắn đưa tay tìm nó chỗ thắt lưng, nơi nó cần có mặt; hắn sờ soạng với bàn tay ướt máu, rồi đột nhiên sự cảnh giác khiến hắn đông cứng. Nếu đánh rơi bộ đàm, hắn sẽ không thể tìm thấy nó. Cẩn thận, chắc chắn là mình đã nắm chặt, hắn chuẩn bị nhấn nút ‘talk’ – rồi dừng lại.

    Hắn có thể gọi sự giúp đỡ. Khỉ thật, hắn cần giúp đỡ. Nhưng – hắn không phải không lo liệu được. Hắn có thể tự mình tiến hành việc này. Nếu bạn chỉ huy một bầy sói, bạn không được để lộ sự yếu đuối cũng như phải tự nhấm nháp sự sống còn. Billy sẽ không quay lưng lại hắn, Troy cũng thế, nhưng không quá chắc về Blake. Càng không chắc về Toxtel và Goss – chắc chắn chúng sẽ chống lại hắn chỉ trong một phút giờ miền Đông. Nếu hắn không tự chuồn khỏi sườn núi khỉ gió này, nếu hắn phải tiến hành công việc thay vì cuốc bộ dưới hơi thở, bọn chúng sẽ soi ra được hắn đang yếu đi, không đủ sức để chỉ huy nữa.

    Được thôi. Hắn phải tự mình thực hiện công việc. Hắn hít vài hơi thở sâu, buộc bản thân phải tập trung, cho qua cái đau đớn đang nghiền giã nơi đầu mình, sự choáng váng và tinh thần hoảng loạn. Hắn phải hoạt động.

    Đầu tiên, cần thiết nhất là hắn phải cầm máu. Dù sao vết thương ở đầu luôn luôn chảy nhiều máu kinh khủng, nên hắn có thể mất một lượng máu đáng kể trong thời gian ngắn, có khi đã mất rồi. Hắn phải áp nhiều lực lên vết thương, thật nhiều áp lực, không quan trọng nó đau thế nào.

    Hắn biết mình bị chấn động, có lẽ phần não tổn hại sẽ ngày càng xấu hơn, ngón tay hắn lần sờ chỉ ra rằng vùng quanh vết thương sẽ sưng vù lên nhanh chóng. Thế là tốt, từ những gì hắn nghe được, nếu vết sưng xuất hiện bên trong não, thế mới là tồi tệ. Hắn có thể xoay sở với một chấn động; hắn từng bị thế trước đây.

    Teague gắng dựa lưng vào tảng đá phía sau, co hai chân lên, chống bàn chân xuống vững nhất có thể. Cúi người về phía trước, hắn cố đặt khuỷu tay phải lên đầu gối, ấn cổ tay vào vết thương, dùng toàn bộ cơ thể tạo ra áp lực hơn là đạt được bằng cách chỉ dùng sức lực của cánh tay. Hắn lờ đi cơn đau đang bùng nổ trong đầu, giữ thật chặt trong khi tập trung thở và vượt qua cơn đau quằn quại.

    Trong lúc ngồi đó, hắn bắt đầu vuốt cẳng tay trái qua mặt, cố lau đi vết máu trên hai mắt. Vấn đề nằm ở vết máu, thứ quái quỷ đó đã đông lại, rồi khô đi, thật khó kinh người để lau sạch. Hắn cần có nước để rửa mặt. Thứ mà có cả tấn dưới đáy của đống đá chết tiệt này, nhưng xuống đó là việc hắn chẳng thèm nghĩ tới trong ánh sáng rõ ràng ban ngày ngay cả khi không bị chấn thương. Không, hắn phải quay lại con đường.

    Ngoài việc ấn mạnh lên vết thương, hắn bị giới hạn trong những việc có thể làm cho mình. Tin tốt là, càng ngồi đây lâu, đầu hắn càng tỉnh táo. Vẫn còn đau kinh khủng nhưng hắn đang suy nghĩ mạch lạc hơn.

    Tin xấu là, càng ngồi lâu, càng thấy lạnh.

    Mất máu đẩy hắn vào cơn sốc, hắn sẽ bị hôn mê. Mặt khác, nhiệt độ cơ thể phải duy trì ở khoảng ba mươi, ngay cả giữa thời tiết thấp dưới mức đóng băng. Tất nhiên hắn thấy lạnh, cũng như vấn đề hạ thân nhiệt đáng lo ngại. Hắn phải biến khỏi mấy tảng đá này, càng nhanh càng tốt. Đầu hắn đau tệ hơn khi cố gắng di chuyển, nhưng đặt lên cân đo, đau đớn còn khá hơn chết dần chết mòn.

    Hắn bỏ bàn tay, đợi xem máu có tiếp tục chảy xuống mặt không. Hắn cảm thấy một giọt nhỏ xuống liền ngay lập tức lau nó đi, rồi ấn bàn tay lại lên vết thương. Máu chưa cầm lại, nhưng dứt khoát có chậm hơn.

    Súng trường. Súng trường của hắn đâu? Hắn không thể để nó lại đây. Vì một điều, cái ống ngắm cảm biến nhiệt đắt kinh khủng gắn trên đó. Một lý do khác, dấu vân tay của hắn in đầy ở trên. Nếu nó trượt xuống những tảng đá về phía dòng suối, hắn không có khả năng lấy lại nên ai đó khác sẽ phải quay lại lấy, ngay bây giờ chuyện đó có nghĩa là bọn chúng phải để ngỏ một vị trí ngắm bắn không ai kiểm soát, hắn không muốn thế.

    Điều gì đó về vị trí ngắm bắn khiến hắn khó chịu, nhưng hắn không thể nghĩ ra. Mặc dù vậy, nó cứ đến với hắn. Giờ cứ quên nó đi – tập trung tìm súng trường đã.

    Dùng bàn tay trái, hắn cảm nhận mặt đất xung quanh, nhưng trống không. Hắn phải dùng đèn pin thôi. Hắn đâu thích thế, không muốn lộ vị trí của mình cho cái tên ngu ngốc bắn hắn … được thôi, tên ngu ngốc đó đã biết nơi hắn rồi, nếu không thì sao gã có thể bắn vào hắn? Một dấu hỏi to đùng: Làm thế nào gã biết?

    Teague dừng việc tìm kiếm khẩu súng trường, tập trung lại câu hỏi, vì nó dường như cực kỳ quan trọng. Hắn không dùng đèn pin di chuyển tới đây, nên tên bắn súng phải có ống kính nhìn xuyên đêm chứ nhỉ? Thiết bị đó không khó kiếm được, phải chăng đó là lợi thế để vài người ở Trail Stop, hay tất cả mọi nơi, có được nó? Creed, có thể lắm; hắn tưởng tượng được Creed có tất cả các thể loại đó. Nhưng Creed không bắn hắn, Creed còn đang ra sức xoay sở bảo vệ vài ả đàn bà –

    A, chết tiệt. Câu trả lời nở hoa trong đầu hắn. Không phải Creed rời khỏi ngôi nhà cùng ả đàn bà. Creed đã chuồn ra ngoài qua cửa sau, chuyển tới một địa điểm chuẩn bị yểm hộ cho hai người kia. Khi hắn kéo cò, họng súng lóe lên để lộ vị trí của hắn, thế là Creed nổ súng. Đơn giản như thế đó. Chẳng cần tới thiết bị nhìn xuyên đêm.

    Creed có lẽ vẫn ở ngoài kia, chờ đợi ai đó lộ tiếp vị trí của mình.

    Nhưng ông ta ở bên kia bờ suối, vì lội qua nó ở khu vực này là bất khả thi. Bờ suối dốc đứng, dòng nước gầm thét bên dưới, đủ mạnh để cuốn phăng người khỏe nhất, quăng anh ta vào những tảng đá ở lòng suối. Dòng suối (Stream) đúng là cách dùng từ sai trong trường hợp này, vì nó khiến người ta liên tưởng tới một dòng nước chảy chậm rãi, hiền hòa, mà điều này chắc chắn là không phải. Nó giống như một dòng sông nhỏ (mini river) – còn tệ hơn ý. Thêm vào đó nó lạnh buốt xương vì nó được tiếp nước do tuyết tan từ dãy núi.

    Teague đánh giá tình hình. Hắn ở phía sau vỏ bọc đặc chắc, xung quanh là đá, còn đầu hắn thấp hơn tảng đá trước mặt. Hắn phải chấp nhận mạo hiểm bật đèn pin lên tìm khẩu súng. Hắn có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách che gần hết mặt kính.

    Lần sờ, dùng bàn tay trái, hắn kéo đèn pin khỏi cái móc ở thắt lưng, cẩn thận đặt những ngón tay lên mặt kính, chia nó làm hai phần, chỉ cho phép một tia sáng mảnh lọt qua. Hắn thả tay phải khỏi vết thương, dùng nó ấn nút bật trên trục đèn, hắn không thấy chút máu tươi nào chảy ra, nên hắn không bận tâm duy trì áp lực.

    Lượng sáng quá yếu ớt, chỉ vừa đủ tạo nên sự khác biệt, nhưng nó khiến hắn cảm thấy tốt hơn, có thể nhìn thấy vài thứ, và trấn an hắn rằng mắt hắn còn hoạt động. Đầu tiên hắn chú ý tới rất nhiều màu đỏ quanh mình: vệt đỏ chạy xuống tảng đá trước mặt, trên hòn đá nhỏ hơn hắn đang ngồi, trải lên cả rêu và những chiếc lá rụng. Quần áo hắn ẩm ướt và nhớp nháp máu. Hắn đã để lại một đống bằng chứng DNA ở đây, nhưng khó có thể vớt nó lên và đặt trở lại cơ thể hắn.

    Chuyện này làm tăng giá đấu. Hắn không được để sự ngờ vực dù là nhỏ nhất tấn công bản thân lúc này, hoặc khiến hắn chếnh choáng. Sau đấy, hắn phải tống khứ nó đi một thời gian, nó chọc tức hắn.

    Mẹ kiếp Creed. Ông ta đã vượt trước trong cuộc chạm trán đầu tiên của họ, ông ta đáng bị nguyền rủa nếu lặp lại nó lần nữa.

    Ánh sáng yếu ớt cuối cùng gặp kim loại và phản xạ lại, Teague dừng nó lại chỉ vừa đủ lâu để xác định nơi cây súng của hắn nằm; rồi hắn tắt đèn. Khi hắn bị đánh trúng, khẩu súng trường bị bật lên rồi rơi xuống cách vài feet, nằm đè lên hòn đá phía trên hắn. Hắn phải rời khỏi vị trí được bảo vệ, có vẻ hắn không có lựa chọn. Hắn không thể di chuyển nhanh. Hắn suy nghĩ một phút, rồi hình dung, và tiến hành.

    Nhìn chung, di chuyển thẳng từ đây như nhận một nhát búa đập vào đầu. Cảm giác rất giống thế. Đầu hắn nổ tung trong đau đớn; hắn buồn nôn ngay cả tay đã cầm súng, hắn buộc bản thân phải tiếp tục vì chờ đợi vài phút không khiến mọi thứ khá hơn tí nào. Ngay khi tay chạm vào báng súng, hắn sụp ngã trở lại hòn đá, hổn hển.

    Không phát súng săn nào nổ vào hắn, quấy rầy sự khổ sở nghe như một ý tưởng hay, nên hắn không biết nên thấy nhẹ nhõm hay hối tiếc nữa.

    Sau vài phút, hắn duỗi người. Đến lúc phải biến khỏi đống đá này, bất kể phải trả giá nào. Chống mình đứng dậy, hắn lảo đảo không vững; rồi bước một bước. Cơn đau không tệ như khi hắn nhào tới cây súng, vẫn không giống chuyến đi dã ngoại.

    Hắn sẽ làm được. Và trước khi điệu nhảy này chấm dứt, hắn sẽ chơi lại Creed – sẽ thành công.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  11. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 21 (halucky)

    KHI TEAGUE TỚI GẦN CON ĐƯỜNG, hắn lấy bộ đàm ra khỏi thắt lưng và bật lên.

    “Chim cắt, chim ưng đây.”

    Chim cắt là Billy. Hắn dùng loài chim săn mồi đặt tên không vì lý do gì khác hơn đó là điều đầu tiên lọt vào tâm trí. Hắn là chim ưng, Billy là chim cắt, Troy là đại bàng, còn Blake là cú mèo. Suy nghĩ về điều đó, hắn hy vọng Blake không thấy xúc phạm bị gọi là cú mèo, vì cú mèo có thị lực tốt nhất, hắn đang yếu hơn so với hắn nghĩ nếu hắn đang lo lắng về chuyện vớ vẩn này.

    “Cứ nói, chim ưng.”

    “Một khẩu súng săn nổ tung tảng đá ngay phía trước tôi, tôi bị dính đòn nên đang quay trở lại. Tôi cần giúp đỡ. Gặp tôi tại chỗ cây cầu.”

    Billy ở gần nhất, và là người an toàn nhất để lôi kéo vào. Hai vị trí xa nhất giờ đây là nguy kịch nhất, vì chúng không còn kiểm soát được lối thoát có khả năng nhất. Teague không nghi ngờ ai đó, hoặc vài kẻ nào đó, đi loanh quanh cố gắng dùng mưu lừa chúng. Có lẽ không phải đêm nay, nhưng sớm thôi.

    “Mười – bốn.” Billy trả lời, Teague cất bộ đàm. Chúa ơi, hắn đứng không nổi nữa, nhưng hắn còn phải tiếp tục bước đi ít nhất là vài phút. Hắn phải cuốc bộ ra khỏi đây nơi Toxtel và Goss có thể nhìn thấy hắn, nghĩa là hắn cần trợ giúp. Hắn không điện đàm báo cho hai gã đó vì hắn không tin chúng cho đến khi hắn ném cái mông chúng đi, cộng thêm hắn không muốn chúng nghe mọi chuyện giữa hắn nói với mấy tên tay chân. Hắn sẽ đi mà không báo trước cho chúng.

    Điều không may là, ngay cả sau khi rời khỏi đây, hắn không có cơ hội nằm xuống để nghỉ ngơi; còn điều tốt nhất hắn có thể là nuốt vài viên aspirin và hy vọng cơn đau đầu giảm bớt.

    Ngay trước khi chồi lên khỏi bụi cây, hắn gọi khẽ, “Đang di chuyển.” Khiến chúng cảm giác như đang ở một căn cứ quân sự, hay đại loại thế. Thật chẳng ra sao. Hắn từng ở vài căn cứ quân sự trong đời mình, nhưng chưa khi nào khinh xuất như lần này.

    Toxtel và Goss đảm trách hai vị trí cách đó chưa đầy năm yard, vì Teague không hình dung có bất kỳ hoạt động nào ở chỗ cây cầu, hắn để hai tên làm điều chúng muốn, để chúng nghĩ mình vẫn đang chỉ huy.

    Chả tên nào trong chúng quay lại nhìn khi hắn tới gần; chúng vẫn đang ngập trong adrenaline, cơ bắp căng lên khi chúng chờ đợi ai đó cố lẻn qua dòng suối. Hắn không thể đổ lỗi cho chúng về điều đó, người có kinh nghiệm hơn sẽ học cách thư giãn một chút.

    “Ông tóm được ai không?” Goss hỏi. “Tôi nghe thấy một tiếng súng.”

    Điều đó khẳng định cảm giác của Teague rằng phát súng săn theo sát phát súng của hắn, gần như là đồng thời.

    “Tôi trông thấy một người, nhưng tên nào đó khác may mắn bắn một viên gần sát tôi.”

    Goss liếc nhìn qua vai và, ngay cả trong bóng tối, có thể nói rằng khuôn mặt Teague gần như bị máu che phủ.

    “Mẹ kiếp!” Gã đứng bật dậy, xoay xung quanh, khiến Toxtel bắt đầu cảnh giác. “Ông bị trúng đạn vào đầu ư?”

    “Không, nó là vết xước, không phải vết thương trúng đạn. Tên nào đó nổ súng săn vào tảng đá ngay phía trước tôi, mảnh đá văng tung tóe.” Hắn xoay sở để giọng nói nghe hờ hững.

    “Súng săn?” Toxtel hỏi dứt khoát, cũng đứng dậy, bước tới chỗ hai tên. “Tôi tự hỏi liệu có phải cậu bé của chúng ta,” gã nói với Goss, xác nhận nghi ngờ của Teague rằng một trong những thằng bé lớn tuổi khó nhằn ngoài kia đã từng xen ngang vào công việc của chúng.

    “Tôi biết kẻ đó,” Teague nói với chúng. “Ông ta tên là Creed. Một tên khốn khó nhằn, cựu quân nhân, làm nghề dẫn đường quanh đây.”

    “Trông ông ta thế nào? Không cao to, khoảng sáu feet, thân mình gầy nhom? Tóc hơi dài? Đôi mắt ma quái, như được làm bằng thủy tinh hay đại loại thế.”

    Huh. Teague không nhớ ra có ai giống như lời mô tả. Một điều chắc chắn, dù vậy, cậu bé của chúng không phải Creed.

    “Không. Creed là một tên to con, cơ bắp. Mái tóc hoa râm cắt ngắn. Vẻ ngoài đóng bộ giống kiểu vẫn còn trong quân ngũ.”

    “Không phải ông ta. Ông chắc Creed này là người bắn mình chứ?” Toxtel hỏi.

    “Gần như chắc chắn.”

    Hắn nói ‘gần như’ vì hắn không thực sự nhìn thấy Creed, nhưng ruột gan hắn mách bảo đấy không thể là ai khác.

    “Nhưng ông nói đó là một khẩu súng săn.” Toxtel khăng khăng.

    Teague vừa kịp kìm lại cơn giận dữ. Tại đây hắn đang đứng trước mặt chúng mặt phủ đầy máu, mà tất cả Toxtel nghĩ tới là cái tên đã xen ngang chúng.

    “Có nhiều hơn một người mang súng săn trên đời,” hắn nói ngắn gọn. “Tôi đoán ít nhất mười tên trong chúng ở bên kia bờ suối, cộng thêm một loạt súng trường và súng lục.”

    Toxtel xoay lưng lại, rõ ràng khó chịu vì Teague bị bắn bởi người nào đó khác hơn là kẻ thù cá nhân của Toxtel.

    Goss nhìn Toxtel, rồi quay về Teague nhún vai. “Ông trông thảm hại quá. Cần giúp gì không?”

    “Không. Tôi đang đi tới nơi hạ trại để lau rửa.”

    Ít nhất Goss đã đề nghị giúp đỡ, hơn hẳn cái đồ đê tiện Toxtel, Teague quay trở lại đối mặt với lối đi dẫn tới con đường rồi rẽ vào một khúc cong. Billy bước ra khỏi tán lá bên kia đường, âm thầm gia nhập cùng hắn. Một khi chúng thoát khỏi tầm nhìn của Toxtel và Goss, Billy giúp hắn nốt phần còn lại của chuyến đi, kéo một tay hắn qua vai mình, chống đỡ lấy một nửa trọng lượng của Teague. Vì Billy không phải một gã to con, tới được khu trại quả là chật vật.

    Chúng đã dựng một cái lều nhỏ cách cây cầu khoảng một trăm yard – hay nơi cây cầu từng có mặt – trong một chỗ trũng lòng chảo khuất nẻo, không thể nhìn thấy từ con đường. Cảm giác đơn thuần nhắc rằng chúng cần một nơi nghỉ ngơi, để pha cà phê, để ăn uống, đặc biệt nếu chuyện này kéo dài hơn một ngày, điều mà Teague đã dự kiến. Billy bỏ hắn đủ lâu để chui vào lều thắp đèn lồng, rồi trở ra dìu Teague vào trong, việc đó đòi hỏi phải cúi đầu, càng khiến cho thế giới quay cuồng khủng khiếp hơn trước đấy.

    “Điên thật,” Teague nói uể oải lún xuống chiếc ghế trại, quá yếu để nghĩ ra một lời chửi rủa sáng tạo hơn.

    “Ông nên nằm xuống,” Billy gợi ý, bận rộn mở một bao nhựa đựng dụng cụ sơ cứu mà không biết Goss hay Toxtel đã chất vào nên hắn không có ý kiến về thứ gì bên trong.

    “Nếu làm thế, tôi không thể dậy được.”

    “Vậy đừng dậy cho tới khi ngủ vài tiếng. Không có chuyện đâu. Tôi chẳng thấy ai di chuyển khoảng một giờ rồi. Họ kéo nhau trốn hết, chờ đợi cho trời sáng. Nên chẳng có gì xảy ra cho tới sáng. Tã lót,” gã đăm chiêu, đẩy Teague vào sự hỗn loạn cho đến khi hắn mệt mỏi lấy cái hộp nhựa từ tay Billy. “Tôi đoán chúng có đồ để sơ cứu. Chắc đây là đồ dùng để lau rửa vết cắt đúng không? Có vài cái khăn ướt tuy không nhiều lắm. Dù sao, chưa đủ để lau sạch ông đâu.”

    Teague nhún vai, nghĩ về điều khả dĩ hơn. “Chẳng có gì nói là không cả. Có viên aspirin nào không?”

    “Có chứ, chắc rồi. Ông muốn bao nhiêu viên?”

    “Bốn, để bắt đầu.” Hắn không cho rằng hai viên có thể tạo một vết lõm cho cái đầu đau này.

    “Aspirin làm loãng máu.”

    “Phải chấp nhận rủi ro. Tôi cần thứ gì đó.”

    Billy lấy một chai nước, mở nó, rồi dốc bốn viên thuốc vào lòng bàn tay, đưa chúng cho Teague, hắn thận trọng nuốt hết cùng một lúc, cố gắng di chuyển đầu càng ít càng tốt.

    Billy bắt đầu thao tác với những cái khăn ướt như tã lót của trẻ em, lau sạch vết máu nên gã có thể nhìn thấy thiệt hại.

    Khi cẩn thận lau quanh vết cắt lớn nhất trên đỉnh trán của Teague, gã lẩm bẩm, “Đây là cái trò ngu ngốc nhất tôi từng thấy. Nói tôi hay lần nữa tại sao chúng ta đang làm trò này.”

    “Tiền.”

    “Đúng, nhưng nó không đủ để đặt cược mạng sống của ta. Thổi bay cây cầu, bắt giữ toàn bộ cộng đồn làm con tin – chuyện này chẳng dẫn tới đâu, theo nhiều cách khác nhau nó chẳng vui tí nào. Thậm chí không cần vất vả suy nghĩ, tôi có bốn hay năm cách tốt hơn lấy được thứ các gã trai muốn, ít rủi ro hơn nhiều.” Billy giữ giọng mình nhỏ, thật nhỏ nên những lời nói không vượt qua ranh giới của cái lều.

    Chúng đang phải trả giá quá đắt. Teague dự định vứt bỏ điều gì đó khỏi đầu, nhưng những tên khác không cần biết về nó. Danh dự giữa những quân trộm cướp là thứ hoang đường, nên hắn chẳng cần duy trì nó. Như các tên còn lại đều biết, chúng nhận được một trăm nghìn đô tròn trĩnh, chia làm bốn phần, mỗi tên hai lăm nghìn cho vài ngày làm việc, Toxtel vớ ngay cơ hội có được khoản chi phí cho màn kịch lớn này.

    “Rủi ro đối với chúng ta là tối thiểu,” hắn nói. “Chúng ta không để bị nhìn thấy, và không ai trong số những người ngoài kia có ý tưởng nào là chúng ta tham dự.”

    “Hai gã thô lỗ kia từ Chicago biết ta tham gia đấy.”

    “Đấy là ông đang giả định chúng còn sống để mà khai.”

    Một nụ cười nhăn nhở nhanh chóng xuất hiện trên khuôn mặt Billy, rồi cũng nhanh chóng nhạt đi.

    “Chúng không còn sống, chúng không thể trả tiền cho ta.”

    “Thế mới cần dàn dựng. Ta sẽ được trả tiền khi ả đàn bà kia sắp xếp đưa chúng thứ chúng muốn. Toxtel muốn chờ cho tới khi gã thực sự nhận được đồ mới thực hiện giao dịch, nhưng tôi còn lâu mới đồng ý. Gã có thứ mình muốn, rồi bắn vào tất cả chúng ta mà không thèm chớp mắt để khỏi phải trả tiền. Nên chúng ta phải được trả trước.”

    “Gã tin rằng ta vẫn còn ở quanh đây sau khi ta nhận tiền ư?”

    “Tôi không chắc, nhưng hắn không có lựa chọn.”

    “Khi nào ta làm chuyện đó.”

    Khi nào hắn có ý định giết Toxtel và Goss ư? Teague ngẫm nghĩ.

    “Sau khi chúng nhận được thứ chúng muốn. Nếu chúng sẵn sàng trả nhiều tiền cho thứ này, thì dù nó là gì, ta cũng nên quan tâm đến. Nghĩ xem, thời điểm sẽ được sắp đặt để bàn giao, ta phải đóng gói mọi thứ và che đậy dấu vết để ta có thể luồn lách ra khỏi nơi khỉ ho này lúc đó. Sẽ mất thời gian để những người kia lội qua suối tìm kiếm sự giúp đỡ, và trong lúc đó, chúng ta đã biến mất rồi. Một khi Toxtel có thứ mình muốn, chúng cũng sẽ rút lui, khi đó ta đã đang chờ chúng. Nổ súng vào chúng, bỏ lại cái xác. Chúng là hai tên duy nhất biết ta có tham gia. Chúng ta sạch sẽ.”

    “Vậy ai giết chúng, rồi, liệu chúng có là hai tên duy nhất?”

    “Giả thiết hợp lý nhất là chúng có đối tác thứ ba, kẻ chơi hai mặt với chúng. Đó là cách công việc diễn ra. Tin tôi đi.”

    Billy im lặng, rồi khi gã kiểm tra vết thương của Teague.

    “Cần phải khâu,” cuối cùng gã nói, “nhưng nó đã ngừng chảy máu. Đến sáng, ông có muốn làm một chuyến tới phòng khám trong thị trấn không? Nó không phải vết thương do súng gây ra, nên nó không cần báo cáo.”

    “Có thể. Tôi sẽ quyết định sau.”

    Vài viên kháng sinh sẽ có ích, cộng với bác sĩ có thể cho hắn ít thuốc giảm đau đích thực. Luôn có người ngã ở dãy núi này; chẳng có gì bất thường cả.

    Billy chấm một ít thuốc mỡ kháng sinh vào vết cắt, dán một miếng băng lên.

    “Hy vọng ta không phải cắn nhiều hơn nhai. Có người chết ngoài kia, Teague; khi chuyện này cuốn đi thì cảnh sát sẽ tới đây, họ sẽ kéo tất cả các điều tra viên của bang vào việc, cộng với vài người của Liên bang nếu họ cần. Đây sẽ trở thành tin tức sốt dẻo, và có vài con chó săn dò tìm ta đấy.”

    “Họ sẽ đoán nhiều người nữa tham gia vào, nhưng ta đã cẩn thận không để ai nhìn thấy ngoài hai gã kia, không gì được viết ra, không cú điện thoại nào được ghi lại để mà lo lắng. Nếu chúng chết, chúng không còn liên quan tới ta. Chúng ta sẽ được trả bằng tiền mặt. Trừ khi ta xử lý tình huống kém, để bị nhận diện, chúng ta không sao.”

    Billy suy xét một hồi rồi gật đầu. “Tôi hiểu. Nhưng – mẹ kiếp! Tên nào nghĩ ra cái trò điên rồ này?”

    “Toxtel. Gã và Goss xông tới, cho rằng chúng là những người mạnh mẽ nhất quanh đây, rồi phát hiện ra không phải thế. Toxtel bị một tên khó nhằn chĩa súng săn vào. Không phải đoán, gã chưa từng bẽ mặt như thế trước đây, hắn có cái tôi quá lớn nên không nhìn thấy gì nữa.”

    Billy càu nhàu. Cả hai người bọn chúng từng chứng kiến nó trước đây, và chín lần trong mười tình huống trở thành một mớ hỗn tạp. Nếu Teague không từng trải qua, hắn sẽ không đề cập đến.

    “Ông nghĩ chuyện này kéo dài bao lâu?”

    “Tôi cho rằng ít nhất bốn đến năm ngày,” Teague nói. Toxtel có lẽ lầm tưởng những người dân địa phương sẽ nhanh chóng trói Cate Nightingale và ném cho lũ sói, nhưng Teague biết điều tốt hơn. Họ rất cứng đầu, và họ sẽ xây một hàng rào bảo vệ quanh cô ta. Mặc dù, có vài điểm, khi cái giá phải trả không ngừng tăng cao, quý cô Nightingale sẽ nhượng bộ và đưa cho hai gã trai bất kể thứ gì chúng muốn mà cô ta đang cất giữ.

    Khả năng duy nhất của một kết quả nhanh chóng mà hắn nhìn ra là cô ta có thể nhượng bộ thứ đầu tiên, nhưng theo kinh nghiệm của hắn, người mà cố ép người khác không thực sự có trách nhiệm công dân, hay bất cứ tên gì bạn muốn gọi nó. Không, nếu cô ta đang cố gắng ghi điểm, cô ta sẽ không từ bỏ ngay lập tức. Cô ta sẽ nói dối, từ chối, lảng tránh, cho tới khi cô ta nghĩ mình đi đủ xa để không người hàng xóm nào chĩa mùi dùi vào mình – sau đó cô ta bắt đầu bào chữa, giải thích, làm ra vẻ tốt nhất có thể, rồi cuối cùng cô ta mới chịu khuất phục.

    Teague hy vọng cô ta giữ mọi chuyện đủ lâu, mặc dù – chỉ đủ cho hắn tỉnh táo hơn và cái tên khốn Creed được chăm sóc.

    Creed sẽ phải hối tiếc vì kéo cò súng đêm nay. Sự đáp trả sẽ rất khó chịu.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  12. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 22 (halucky)

    CATE NGÁI NGỦ, MỞ MẮT RA và phát hiện mình đang nhìn chằm chằm vào gáy Cal. Không một giây khó hiểu; ngay lập tức cô nhận ra nơi mình đang ở và ai đang nằm bên cạnh mình. Một luồng cảm xúc lẫn lộn tràn ngập cô, những ấn tượng, cảm giác và suy nghĩ, tất cả đến quá nhanh cô không sao sắp xếp được. Những sự kiện lướt qua cô, không cho cô thời gian để phân tích hay đánh giá về quyết định của mình; kết quả của việc mất kiểm soát vừa đáng sợ vừa thú vị. Có vài điều đã xảy ra giữa cô và Cal khi cô chưa sẵn sàng cho bất cứ điều gì xảy đến, với bất cứ ai, nhưng lúc này sự thay đổi đó đã bắt đầu, giống như một quả cầu tuyết đang trên đà tăng tốc khi nó lăn xuống một đỉnh núi.

    Cô không cho rằng anh dịch chuyển tí nào kể từ khi đi vào giấc ngủ, bằng chứng về sự kiệt sức của anh lấp đầy trong cô với cả sự dịu dàng lẫn cảm giác che chở đến mãnh liệt. Cô muốn tựa đầu mình vào lưng anh, nhưng chợt nhớ ra những vết cắt anh đang mang và không muốn làm anh đau. Cô nhìn mái tóc bù xù, muốn chạy những ngón tay qua nó, nhưng anh cần một giấc ngủ đầy đủ, cô không muốn đánh thức anh. Cô muốn trượt bàn tay vào trong lưng quần jean quá rộng anh đi mượn, để khám phá chỗ phồng lên cô nhìn thấy bên dưới quần lót khi anh thay đồ, rồi nhu cầu tình dục rõ ràng đột ngột phá hủy cô.

    Cô chưa từng muốn quan hệ với bất kỳ ai kể từ khi Derek mất. Cô không muốn tách rời nhu cầu tình dục, đúng, nhưng không phải với bất kỳ ai – thậm chí trong một thời gian dài cô không hề muốn nó. Cú sốc và nỗi buồn đau đã giết chết nhục cảm trong cô, cô đã quá tê liệt, quá tập trung vào nhiệm vụ nặng nề là vượt qua chúng đến nỗi không buồn thương tiếc sự mất mát một phần của chính mình. Sau một năm hay lâu hơn thế, nhu cầu của cô dần dần nổi lên – rồi lại chìm xuống, tách rời ra, dù sao nó có tồn tại. Trong chừng mực của hoạt động tình dục, cô không muốn nó, không muốn sự động chạm cơ thể cũng như được động chạm. Nhu cầu quá đột ngột xâm nhập vào cô khiến cô nhói đau, như thể cô đang phản bội Derek, như thể cô hoàn toàn để anh đi.

    Có lẽ cô như vậy. Có lẽ thời gian đã dần dần mang anh xa khỏi cô, để rồi cô không chú ý thời điểm anh mờ dần khỏi tâm trí. Không phải từ trái tim cô – cô vẫn luôn luôn yêu anh, nhưng giờ đây tình yêu đó đã đứng lại, những chi tiết mãi mãi bị phong tỏa và không thay đổi. Cuộc sống thì không hề tĩnh tại; nó vận động, nó đổi thay, nó vẫn như thế thay vì trở thành một ký ức dấu yêu tha thiết, thứ đã trở thành sợi vải thêu dệt nên con người cô. Vì cô yêu Derek, cô đã trở thành con người cô lúc này. Và người phụ nữ mới mẻ đó đã đứng thăng bằng trên danh giới giữa một bên là sợ hãi, một bên là kích thích và có lẽ cả sự đổi thay của cuộc sống. Cô không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng ít nhất cô sẵn sàng khám phá.

    Giả thiết là cả cô và Cal còn sống. Trong khoảng thời gian ngái ngủ, ngẫm nghĩ về nhu cầu và cảm xúc bỗng dưng sống lại, về một mối quan hệ mới chưa rõ ràng, cô đã quên mất tình cảnh kỳ quặc, đáng lo ngại của họ. Thực tại đâm sầm trở lại; cùng lúc, toàn bộ đêm trước dường như không thực. Sự việc kiểu này chỉ không xảy ra. Nó vượt xa kinh nghiệm của cô nên cô không có điểm so sánh, không có manh mối để làm gì hay biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

    Cô chăm chú lắng nghe: nếu bình minh đã đến thì cô không thể xác nhận. Mọi người xung quanh họ còn chưa thức dậy, hoặc ít nhất cố gắng làm thế. Vài tiếng ngáy ngắt quãng sự yên lặng, cô còn nghe thấy ai đó đang chuyển đổi tư thế. Một lần có một tiếng thì thầm khe khẽ, cô nghĩ có thể thuộc về Neenah, người đang chăm sóc Joshua Creed.

    Cal với ra sau bên dưới chăn đắp, đặt bàn tay lên hông cô, lặng lẽ kéo cô gần hơn với mình.

    Những giọt nước cay xè đôi mắt khi cô nép lại gần anh, gần nhất có thể. Đây là – là điều cô bỏ lỡ nhiều nhất, sự đồng hành tĩnh lặng trong đêm, nhận thức rằng mình không đơn độc. Họ không có nhiều như những nụ hôn, nhưng bằng cách nào đó, ở một mức độ nào đó, họ đã thực sự kết nối. Cô cảm thấy nó chắc chắn như cô biết cặp sinh đôi không sao, hay khi họ rơi vào rắc rối. Cô không phải nhìn vào chúng, không phải nghe tiếng chúng; cô chỉ biết mà thôi.

    “Ngủ lại đi,” anh thì thầm nhẹ nhàng. “Em cần nghỉ ngơi đầy đủ.”

    Cô muốn anh ôm mình, muốn cảm nhận vòng tay anh quanh mình. Khi anh ôm cô và Neenah sau vụ việc đáng sợ với Mellor, lần đầu tiên trong một thời gian dài Cate cảm thấy … thỏa mãn. Không chỉ vì Cal đã bảo vệ họ, cô sửng sốt khi nhận ra rằng đó là một phần phản ứng của cô; vài phản ứng nguyên thủy mà rõ ràng chưa hề biến mất. Phần lớn nhất của nó, mặc dù vậy, là bỗng dưng cô thấy quá cô đơn.

    Những lời yêu cầu anh ôm cô run rẩy trên bờ môi, nhưng cô giữ chúng lại. Nếu anh ôm cô, nếu anh đặt bàn tay lên cơ thể cô, cô nghi ngờ mọi việc chỉ dừng ở đó. Anh là một người đàn ông, và anh muốn cô. Một cái rùng mình khoái cảm đi qua cô khi cô hoàn toàn thừa nhận thực tế đáng ngạc nhiên đó. Anh có lẽ là người nhút nhát – không, cô thậm chí còn không chắc về điều đó nữa, vì một người nhút nhát sẽ không mặc quần áo trước mặt người khác như cách anh đã làm. Anh dứt khoát là người ân cần, chu đáo, theo cái cách anh giữ lưng mình quay vào cô. Họ được bao quanh bởi nhiều người, trong khi những chồng hộp và cái màn có thể tạo ra một chốn nhỏ riêng tư, nhưng rõ ràng không đủ cho bất cứ sự thân mật tình dục nào. Bàn chân của hai người thò ra ngoài chồng hộp, nếu Cal đột nhiên chuyển động đằng sau cô, cô biết những suy đoán rằng điều đó còn tiếp tục. Người khác trong tầng hầm này đã tỉnh giấc, đang lắng nghe những tiếng động sột soạt và những lời thì thầm.

    Tình dục công khai – hay nửa công khai đi nữa – không phải thói quen của cô, nên cô rất biết ơn sự thận trọng của anh. Cô rất muốn cảm nhận anh ở phía sau mình, cảm nhận cánh tay anh vòng quanh, nhưng cô cũng biết, nếu anh ôm cô, bàn tay anh sẽ nhanh chóng trượt xuống phía trước đũng quần pijama của mình.

    Ý nghĩ đã đẩy đầu dây thần kinh của cô vào niềm vui sướng bộc phát, khiến cô thình lình thúc vào anh. Ôi, Chúa ơi, cô muốn anh chạm vào mình, muốn cảm nhận những ngón tay dài của anh trượt vào trong cô, muốn điều đó đến mãnh liệt đến nỗi cô phải cắn môi ngăn lại một tiếng rên.

    Anh với tay ra sau một lần nữa, nhẹ nhàng vỗ về mông cô.

    Nỗi khao khát cùng cực ngay lập tức biến thành tiếng cười tắc nghẹn. Anh không thể nào biết cô đang nghĩ gì, cảm giác của cô ra sao, nhưng cái vuốt ve dịu dàng đó dường như muốn nói, “Cứ tiếp tục. Chúng ta đều hiểu mà.”

    Rồi cô nhớ ra, giật mình lộ tẩy, gò má nóng bừng. Sau cùng có lẽ anh biết. Một chút hài lòng nở rộ, cô mỉm cười khi trôi giạt trở lại giấc ngủ.

    Goss quan sát bầu trời phía đông dần dần sáng lên. Gã mệt mỏi nhưng không hề buồn ngủ; gã cho rằng tình trạng không tỉnh táo sẽ ảnh hưởng đến nhiều việc.

    Đêm qua khá ấn tượng và dữ dội. Những người đó trông như xác chết. Không ai trong số họ quan tâm tí nào đến ai đó còn sống hay đã chết. Gã nhìn thấy điều đó trong mắt họ, nhận ra từng biểu hiện vì gã cũng giống thế mỗi lần soi gương.

    Teague có vẻ khá thảm hại đêm qua, nhưng hắn vẫn trụ vững, sự thể hẳn tồi tệ hơn bề ngoài. Điều Goss quan tâm là tay bắn súng săn; nó cũng thu hút sự chú ý của Toxtel nữa. Teague khẳng định ông Creed này là kẻ nổ súng, nhưng hắn đâu nhìn thấy chứ, nên chứng tỏ Teague đang phỏng đoán – và bụng dạ Goss nói rằng Teague đã đoán sai.

    Ông Creed này được đánh giá là một tay khá cừ, Teague đã thừa nhận không biết tí gì về gã đàn ông chăm chỉ cũng như gã ta là người thế nào. Tuy vậy, cả Goss lẫn Toxtel đã trực tiếp nếm mùi tên khốn. Goss biết hạn chế của bản thân, gã biết mình không phải típ người dành thời gian đáng kể cho các hoạt động ngoài trời, nhưng đồng thời, gã đã làm rất tốt và gã có thính giác tuyệt vời. Chưa ai – chưa một ai – từng thành công trong việc lén lút đánh úp gã trước đây, đặc biệt khi gã đã canh chừng, cảnh giác. Ngoại trừ cái tên chăm chỉ khốn kiếp đã thành công. Goss không nhớ chuyện gì, không chút tiếng động dù nhỏ nhất, không hề cảm nhận luồng không khí chuyển động; như thể gã bị một bóng ma tấn công.

    Toxtel đúng là hoảng sợ. Công nhận, gã đã bận rộn với hai ả đàn bà, nhưng bản năng của gã cũng như của Goss thôi. Gã không hề nghe tiếng tên chăm chỉ di chuyển như bay lên cái cầu thang cũ ọp ẹp, để rồi khi quay lại mới phát hiện ra một nòng súng săn chĩa vào mình. Một sự thừa nhận rất không giống Toxtel, khi gã nhận xét, “Anh là một tên khốn lạnh lùng, Goss, nhưng tên này … tên này khiến anh trông giống chú thỏ Phục sinh.”

    Súng săn … tên bắn súng đã ở nơi mà gã không nên có mặt … Cược rằng Creed và tên chăm chỉ có những điểm chung? Đêm qua gã đã ở ngoài kia, gần hơn Goss tưởng. Goss muốn tên đó tới gần, vì tên đó nợ gã một cú đánh vào đầu, nhưng gã muốn biết khi tên đó tới gần. Ý nghĩ về việc tên khốn ngồi ngoài kia, bằng cách nào đó lại vô hình với ống ngắm cảm biến nhiệt ra trò của Teague, gây cho Goss cảm giác khó chịu. Teague đã quyến luyến Creed như kiểu Creed là một ông kẹ vậy, còn tên kia giống một thằng cha hoang dã chỉ trực hành động, liệu có ai đó Teague không coi là một nhân tố đưa vào bài toán.

    Nói chung là, Goss hài lòng với cách mọi thứ khởi đầu. Vài người đã chết ngoài kia, đủ để một cuộc tranh cãi lớn sẽ được khuấy động. Sớm hay muộn, ai đó hoặc vài người nào đó từ các trang trại xung quanh sẽ cần mua đồ của cửa hàng kim khí, trong khi họ có thể đến mua thì việc “cây cầu biến mất” là lời xin lỗi cho khoảng thời gian chờ đợi, cuối cùng họ sẽ kể chuyện cho người khác, lời lẽ nhanh chóng lan truyền, điều tiếp theo là văn phòng đường cao tốc chính thức của bang sẽ ghé qua. Rồi mọi thứ sẽ trở nên kinh khủng. Cách duy nhất để chuyện đó không xảy ra là cô ả Nightingale từ bỏ ngay và giao cho chúng ổ di động.

    Bất chấp chuyện gì xảy ra, Yuell Faulkner sẽ mò xuống. Vụ giết người đêm qua là lời bảo đảm. Bằng việc đánh mất quan điểm và để mọi việc đi quá xa, Toxtel đã khởi động một chuỗi các sự kiện mà không thể dừng được hoặc làm chệch hướng. Gã có lòng tin, mặc dù kế hoạch của Toxtel là quá mức cần thiết, gã có mọi kỳ vọng về một thắng lợi và trốn thoát một cách sạch sẽ, vì tên thật của chúng không được biết đến, và chúng cũng đã bỏ đi xa trước khi người dân địa phương cuốc bộ đi tìm sự trợ giúp. Thẻ tín dụng Faulkner dùng thanh toán cho B và B là một điểm mấu chốt; Goss biết rõ điều đó. Gã cũng biết bản thân mình là một nguyên nhân thổi căng khuôn mặt Faulner; một mẩu bằng chứng quan trọng ‘vô tình’ bị bỏ lại phía sau, một cuộc gọi nặc danh tới các nhà chức trách, sẽ bảo đảm điều đó. Gã không thấy có cách nào mà Toxtel lại không tiếp tục, trong khi Goss không có điểm gì phản đối Hugh, gã cũng không có tình cảm với Hugh. Toxtel có thể là vật hy sinh. Và Kennon Goss sẽ biến mất mãi mãi; đây là lúc cho một cái tên khác, một danh tính khác.

    Việc đầu tiên Cal làm khi thức dậy là cột chặt dây giầy.

    “Trời sáng hẳn rồi,” anh nói với Cate, đã ngồi dậy khi anh rời khỏi cái giường tạm thời. Vài người khác trong tầng hầm cũng đang cựa quậy.

    Maureen đi tới thắp ngọn đèn dầu để mọi người có thêm ánh sáng.

    “Tôi sẽ ra ngoài xem xét xung quanh, liệu có thể tìm thấy ai khác,” Cal nói.

    Creed tỉnh dậy, chống mình trên khuỷu tay. Những quầng thâm bên dưới đôi mắt đã biến mất.

    “Tôi vừa nghĩ,” ông nói với Cal. “Chúng ta sẽ lên kế hoạch khi cậu quay về.”

    Cal gật đầu rồi trượt khỏi cửa hầm. Bên ngoài, anh gật đầu chào Perry Richardson, đang ngồi ở góc bức tường chắn, khẩu súng trường săn hươu vững vàng trong cánh tay.

    “Có gì không?” anh hỏi, mặc dù anh biết rõ chẳng có rắc rối nào.

    Perry lắc đầu.

    “Tôi hy vọng vài người khác lần được tới đây, nhưng tới lúc này khá là yên tĩnh.”

    Vẻ mặt lo lắng của ông nói lên rằng ông lo sợ không còn nhìn thấy ai vì những cư dân còn lại đều chết hết rồi.

    “Đủ tồi tệ,” Cal nói kiên quyết, “nhưng không đến mức đó. Mọi người sẽ nằm sát xuống đất bất kể nơi đâu hơn là chấp nhận rủi ro lao ra ngoài trời.”

    Nhiệm vụ của anh sáng nay là tìm những người đó, đưa họ an toàn về đây.

    “Bao nhiêu--?” Perry không hoàn thành nổi câu hỏi, nhưng Cal hiểu điều ông muốn nói.

    “Tôi thấy năm người tối qua. Tôi hy vọng đó là tất cả.”

    Năm người bạn, đang nằm nơi họ ngã xuống. Anh không thể đến với họ đêm qua, không biết họ là ai, nhưng bất kể danh tính của họ, mọi người đều là bạn của nhau. Anh có khả năng tìm thấy nhiều hơn trong ánh sáng ban ngày, mặc dù anh khó có thể tới được hết với họ cho đến đêm nay.

    “Năm ư,” Perry nói khẽ, lắc lắc đầu khi nỗi đau khổ ngập đầy đôi mắt. “Chuyện gì đang diễn ra với những người xấu số?”

    “Tôi không biết, nhưng theo tôi dự đoán sẽ có vài việc để làm với hai tên khốn đã uy hiếp Cate và Neenah.”

    Nếu đúng là chúng, thì chúng đã có thêm trợ giúp. Cal đếm được bốn vị trí bắn, bao gồm một tên cạnh nhà Neenah.

    “Nhưng chúng muốn gì chứ?”

    Cal lắc đầu. Cate đã đưa chúng đồ đạc của Layton, nên điều duy nhất còn lại là để trả thù, mà theo như anh lo ngại, đó là lý do cực kỳ dớ dẩn để tấn công cả một cộng đồng. Sau chuyện đó, nếu chúng phải chứng tỏ cặp bi của chúng lớn hơn của anh; anh là người chúng nên đối mặt, chứ không phải những người nghèo khổ kia đang nằm trên nền đất. Toàn bộ chuyện này đã vượt quá giới hạn.

    Nếu hai gã này không gây ra chuyện, thì nó thực sự vô nghĩa, và anh sẽ hoàn toàn ở trong bóng tối.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/6/15
    ttha, hoahuynh2011, NHTB and 13 others like this.
  13. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 23 (halucky)

    CAL CHUYỂN ĐỘNG DƯỚI sàn nhà của Contreras, trườn bằng bụng qua bùn, rác rưởi lẫn mạng nhện. Tất cả các loài sâu bọ đều yêu thích không gian tối tăm, ẩm thấp an toàn bên dưới một ngôi nhà, và ngôi nhà này không khác so với phần lớn các ngôi còn lại, nhiều chỗ tối tăm và ẩm thấp. Điều khả dĩ là anh không bị những con bọ hay nhện làm phiền.

    Anh dừng lại ở từng tấm lưới thông khí, cẩn thận cử động đầu nhanh gọn để nhòm ngó, phòng trường hợp một trong những tay súng quét ống ngắm cảm biến nhiệt rồi chú ý thấy một trong những tấm lưới ở móng nhà sáng hơn những nơi khác. Bắt được hình ảnh của anh sẽ không là gì hơn sự may mắn – bất lợi về phần anh, tốt cho chúng. Ống ngắm không có tầm nhìn rộng, nên nó không bao quát được một vùng lớn; những tay súng phải liên tục di chuyển nó, càng tăng lợi thế cho Cal. Để lẩn tránh một camera cảm biến nhiệt hình ảnh gắn cố định sẽ khó khăn hơn nhiều.

    Những tay súng thỉnh thoảng vẫn nổ súng buộc người dân phải cúi đầu xuống, không di chuyển loanh quanh. Trò chơi trí tuệ. Ở một vài vị trí, chúng phải dừng bắn, cố gắng suy đoán, chắc chắn điều mình muốn, mặt khác không có vị trí nào cho chúng bao quát toàn bộ thảm cảnh này.

    Tiến tới từ phía sau ngôi nhà, anh thoáng bắt gặp Mario Contreras đang nằm nửa trên, nửa dưới mái hiên cửa trước, bên trái. Anh không thấy dấu hiệu nào của Gena và Angelina bé nhỏ, cũng như nghe thấy tiếng họ trả lời khi anh gọi tên. Bây giờ anh đang cố gắng tìm họ, liệu họ có trở thành Vua trên hiên trước, thoát khỏi cái nhìn vội vã của anh.

    Anh cảm thấy khó chịu – khó chịu và tức giận. Mario đưa con số thương vong anh xác định bằng trực quan lên tới bảy. Norman Box đã chết, Lanora Corbett cũng thế. Mouse Williams sẽ không bao giờ huyên thuyên trở lại, giọng nói the thé đó đã trở thành biệt danh của ông. Jim Beasley đã nằm xuống với khẩu súng trường trong tay khi cố gắng bắn trả. Tương tự với Andy Chapman. Maery Last, bà lão nhỏ nhắn ngọt ngào ở độ tuổi bảy mươi, đang nằm trên con đường phía trước nhà bà. Chậm chạp bởi chứng viêm khớp, bà không thể di chuyển nhanh như những người khác. Bạn bè, tất cả bọn họ, anh sợ rằng mình còn tìm thấy nữa. Gena và Angelina ở đâu? Lạy Chúa, nếu cô bé xinh xắn, đáng yêu đó chết --

    Anh gạt bỏ ý nghĩ, không muốn dự đoán điều tồi tệ nhất. Cảm ơn Chúa cặp sinh đôi đã về nhà với mẹ của Cate. Nếu chúng ở lại đây, nếu có chuyện xảy xa với hai tên tiểu quỷ, anh hẳn hóa điên mất.

    Anh tiếp tục bò hết lưới này đến lưới khác, không nhìn thấy ai nữa trong sân. Không Gena, không Angelina. Thế chưa phải họ đã an toàn; họ có thể ở trong nhà, đã chết, hay làm Vua trên hiên nhà nơi mà anh không nhìn thấy được.

    Anh tìm thấy vài người còn sống; sợ hãi, hoang mang, nhưng còn sống. Hai người ở đây, bốn người ở kia, vài người ở một mình – anh không buồn đếm nữa, chuyện đó để sau đã. Anh bảo tất cả họ hướng về ngôi nhà của Richardson, hướng dẫn họ lối đi an toàn nhất, và cách nào vượt qua khu vực trống trải. Mọi người cần ở cùng một nơi, để họ được chỉ bảo. Vài kế hoạch đã hình thành trong đầu anh, và anh biết Creed đang tính toán một hành động; khi họ biết chính xác vị thế của mình, họ sẽ quyết định phải làm gì.

    Anh tìm cách chui ra khỏi dưới gầm ngôi nhà, cố gắng rũ bùn đất khỏi quần áo. Anh lại ướt và lạnh, mặc dù mặt trời đang tỏa thứ ánh nắng kỳ diệu, hứa hẹn hôm nay ấm hơn đáng kể so với hôm qua. Bốt của anh còn ẩm từ vụ lội suối, bàn chân anh đang đông cứng. Anh có thể làm gì đó với quần áo Richardson cho anh mượn, cũng như với đôi giầy, nhưng như thế anh cần quay lại chỗ ở của mình. Trước nhất, anh phải xong việc tìm kiếm mọi người.

    Anh nhặt khẩu súng săn, anh dựa nó vào tường cạnh cửa trườn sát móng, nhàn nhã bước lên bậc cấp, cẩn thận khom người thấp xuống phòng trường họp một trong những viên đạn vô tình bay tới. Kiểm tra cửa sau, anh không ngạc nhiên khi tay cầm xoay dễ dàng; phần lớn mọi người ở Trail Stop không bận tâm khóa cửa, Cate là một trong số ít làm vậy, nhưng cô có con nhỏ để mà bỏ phiếu cho mạo hiểm, cô cẩn thận để bọn chúng không mở cửa đi lang thang vào ban đêm.

    Anh đang ở trong bếp ăn, căn phòng anh biết rất rõ vì anh đã giúp Mario lắp đặt tủ bếp và bàn nấu nướng cho Gena. Cô đã háo hức như một đứa trẻ vì có một căn phòng rộng rãi hơn, một căn bếp trông đẹp đẽ.

    “Gena,” anh gọi khẽ. “Cal đây.” Một lần nữa, không có câu trả lời.

    Trườn bằng bụng là an toàn nhất, nên anh nằm sát xuống sàn nhà, ôm khẩu súng trong vòng tay khi anh di chuyển vào phòng khách. Anh nửa chờ đợi tìm thấy thi thể họ ở đó, nhưng căn phòng trống rỗng. Cửa sổ bị bắn vào từ bên ngoài, anh phải cẩn thận không để bản thân bị cắt bởi những mảnh vỡ tung tóe khi anh soi tìm vết máu trên sàn. Không một ai. Anh kiểm tra hiên trước. Nó trống không.

    Tiếp đến anh tìm ở phòng ngủ. Mario và Gena dùng căn phòng phía trước, Angelina ở phòng nhỏ hơn phía sau. Cả hai phòng không có ai. Một lần nữa, căn phòng phía trước, cửa sổ trúng đạn. Giữa hai phòng ngủ là phòng tắm, anh hy vọng tìm thấy họ đang chen chúc trong bồn tắm hay thứ gì đó. Cũng không gặp may.

    Họ ở nơi quái quỷ nào chứ? Nơi duy nhất anh chưa ngó tới là gác mái. Anh điên cuồng mong rằng họ không trèo lên đấy, vì nơi đó quá nguy hiểm, nhưng vài người, khi đối mặt với nguy hiểm, tự động chạy xa nhất có thể. Anh nghiên cứu trần nhà, và nó ở đó, ngay trên đầu anh, trong một khoảng nhỏ giữa hai phòng ngủ: một cầu thang kéo – thả. Nếu họ ở trên đó, hẳn Gena đã kéo cầu thang lên.

    Trần nhà chỉ cao tám feet nên anh dễ dàng chạm tay tới đoạn dây và kéo cầu thang gấp xuống.

    “Gena?” anh gọi với lên trên bóng tối. “Angelina? Hai người trên đó không? Cal đây.”

    Sự im lặng bị phá vỡ bởi giọng nói nhỏ run run, “Daddy?”

    Anh thở dài nhẹ nhõm. Ít nhất, Angelina còn sống. Anh hắng giọng.

    “Không, cháu yêu, không phải Daddy. Chú là Cal. Mẹ cháu ở trên đó không?”

    “Uh-huh,” cô bé trả lời. Có tiếng trườn bò phát ra; rồi khuôn mặt nhỏ nhắn đầy vệt nước mắt xuất hiện nơi đầu cầu thang. “Nhưng mẹ bị đau, và cháu sợ lắm.”

    A, chó chết. Kiên quyết Cal trèo lên cầu thang, gần như cho rằng mình sẽ tìm thấy Gena đang nằm trong vũng máu. Nếu cô ấy trúng đạn, nó chắc xảy ra trong lúc cô ở trên gác mái, vì anh không nhìn thấy vết máu nào dưới gác. Angelina bò lùi lại khi anh lên tới đỉnh cầu thang, nhường chỗ cho anh. Cô bé mặc quần áo ngủ và chân đi trần, đã làm anh lo lắng cho tới khi anh nhìn thấy chồng quần áo cũ được lôi ra ngoài chiếc hộp; cô bé dùng quần áo làm chăn đắp.

    Phòng gác mái chưa hoàn thiện; gỗ ép mới ốp được một nửa, trong khi nửa còn lại lộ ra những thanh rầm gác lên nhau tạo thành những ô riêng biệt kích thước hai nhân sáu. Sàn nhà nhồi nhét đầy đồ đạc: một hộp cây thông nô en buộc chặt, đồ chơi cũ, cái nôi trẻ em lột bỏ hết vải phủ, hộp đựng đồ bỏ đi. Vẫn khom người, anh lần lối đi qua đống bừa bộn tới bên Gena đang ngồi tựa vào chiếc tủ com mốt cũ. Angelina bò lại cạnh mẹ, Gena vòng cánh tay ôm con, giữ cô bé gần mình.

    Gena trắng bệch như bóng ma, khi Cal quỳ xuống bên cạnh cô, anh kiểm tra máu nhưng không thấy tí nào. Gác mái lờ mờ, chỉ chút ánh sáng lọt qua khe hở trên mái nhà và các lỗ thông hơi, quá tối để anh khẳng định được nhiều. Anh cầm cổ tay cô kiểm tra mạch đập; nó rất nhanh nhưng mạnh, cô không bị sốc.

    “Cô đau ở đâu?”

    “Mắt cá chân tôi.” Giọng cô quá yếu, gần như không nghe được. “Tôi bị trật khớp.” Cô hít một hơi sâu, run rẩy thở ra. “Mario..?”

    Cal khẽ lắc đầu, khuôn mặt cô nhăn nhó khi nỗi sợ hãi lớn nhất của cô đã được xác nhận.

    “Anh – anh ấy bảo chúng tôi trốn ở đây trong khi anh ấy xem chuyện gì xảy ra. Tôi đợi cả đêm, mong anh ấy quay lại đón chúng tôi, nhưng –“

    “Mắt cá chân nào?” Cal hỏi, cắt ngang cô. Cô có cả cuộc đời để than khóc cho chồng mình, còn anh có nhiều việc phải làm, và chỉ làm trong một thời gian ngắn.

    Cô ngập ngừng, đôi mắt ngập đầy nước, rồi chỉ vào chân phải. Cal nhanh chóng kéo ống quần lên xem xét vết thương. Câu trả lời là: xấu. Mắt cá chân cô sưng phồng làm chiếc tất căng chặt, vết bầm tím sẫm màu lan rộng lên trên mép vải. Cô không được thăm khám, chỉ định nằm yên trên giường khi tiếng súng bắt đầu, vì cô đã mặc quần jean và đi giày thể thao, trời lạnh cô không thể bỏ lại đôi giầy. Thế là tốt, nếu làm vậy, cô không thể quay lại đem nó theo. Hành động đó sẽ làm trì hoãn việc ẩn nấp.

    “Trời lạnh,” Angelina xen vào, đôi mắt đen mở to nghiêm nghị khi cô bé ngả đầu vào mẹ. “Và tối nữa. Mẹ có đèn pin, nhưng nó tắt rồi.”

    “Nó kéo dài đủ lâu cho chúng tôi tìm hộp quần áo cũ, chúng tôi dùng nó giữ ấm,” Gena nói, kéo dài hơi thở lẩy bẩy khi cô cố gắng không sụp đổ trước mặt con gái mình.

    Cal không thốt được lời nào về cảnh tượng kinh hoàng. Cô đã bật đèn pin và để nó sáng ư? Quả là quá may mắn cả hai mẹ con cô còn sống, nếu ánh nắng mặt trời chui qua được các khe hở, thì ánh sáng bên trong cũng có thể lọt qua chúng ra ngoài trong đêm. Thực tế gác mái không bị lấp đầy các lỗ hổng do trúng đạn chứng thực cho anh rằng những tay súng dùng ống ngắm cảm biến nhiệt thay vì ống nhòm xuyên đêm; tầm ngắm trong đêm sẽ được khuếch đại dù tia sáng mờ nhạt nhất lọt qua những khe hở này, thắp sáng căn gác như một dấu hiệu đèn nê ông và chỉ ra, “Bắn vào đây!”

    Mọi việc họ làm đều sai sót, nhưng bằng cách nào đó họ đều còn sống. Ôi con người. Đôi khi mọi thứ chỉ diễn ra theo cách như vậy.

    “Tất cả chúng tôi đều tụ tập ở chỗ Richardson,” anh lên tiếng. “Tầng hầm của họ hoàn toàn an toàn. Nó quá nhỏ cho mọi người ở đó, nhưng cố vẫn được cho tới khi Creed và tôi xử lý vài việc.”

    “Xử - lý ư? Gọi cảnh sát! Đó là việc các anh nên làm!”

    “Điện thoại bị cắt rồi. Điện cũng mất. Chúng ta bị mắc kẹt.” Vừa nói anh vừa nhìn quanh, cố gắng tìm xem có vật gì hữu ích trên đây để cô dùng thay cái nạng. Nada. Anh phải nghĩ ra cái gì đấy, nhưng giải quyết việc quan trọng trước. “Được rồi, ta cần rời khỏi gác mái; không an toàn ở trên đây. Angelina cần mặc quần áo ấm vào và đi giầy –“

    “Tôi không đi được đâu,” Gena nói. “Tôi mệt lắm.”

    “Cô có cuộn băng sơ cứu không, tôi dùng quấn quanh mắt cá chân để hỗ trợ? Tôi sẽ kiếm thứ gì đó cho cô dùng như cái nạng, nhưng cô phải bước đi. Cô không có lựa chọn đâu. Sẽ đau kinh khủng, nhưng cô phải làm thôi.”

    Ánh mắt kiên định của anh hướng vào cô, nói với cô rằng không có lời nào phàn nàn về tình huống này đâu.

    “Băng sơ cứu ư? A… tôi nghĩ đã. Trong phòng tắm.”

    “Tôi sẽ lấy nó.”

    Anh xuống cầu thang mất khoảng vài giây, giật mở các ngăn đồ trang điểm trong phòng tắm cho đến khi tìm thấy cuộn băng sơ cứu. Trong lúc ở phòng tắm, anh nhìn vào tủ thuốc thấy một lọ aspirin, anh liền đút bỏ túi; rồi quay lại gác mái.

    “Uống hai viên aspirin,” anh nhắc, đưa lọ thuốc cho Gena. “Không có nước, nên hãy nhai nó nếu cô không nuốt chửng cả viên được.”

    Nghe lời, cô nhai, bộ mặt nhăn nhó ghê sợ, trong khi anh quấn quanh mắt cá chân nhanh gọn và hiệu quả.

    “Kế hoạch thế này: tôi bế Angelina xuống trước, đưa cô bé vào nhà bếp thay quần áo –“

    “Tại sao là nhà bếp?”

    “Được bảo vệ nhiều hơn. Chỉ nghe và làm theo tôi nói, vì tôi không có thời gian để giải thích chi tiết. Tôi quay lại đón cô, một khi hai người an toàn, tôi sẽ tìm thứ gì đó cho cô dùng làm nạng.”

    “Mario còn giữ cây ba toong của cha anh ấy.” Môi cô run rẩy khi đề cập tới chồng mình, rồi cô hít nó vào và tiếp tục. “Trong tủ ở phòng khách.”

    “Được, tốt lắm.”

    Không hiệu quả như một cái nạng, nhưng còn hơn không có gì, anh không phải mất thời gian quý báu vào việc chế biến cái gì đó tương tự. Đứng nhỏm dậy, anh nắm tay Angelina.

    “Đi thôi, dế con, xuống cầu thang nào.”

    “Dế con?” Cô bé khúc khích, ngoảnh lại. “Mẹ ơi, chú ấy gọi con là dế con.”

    “Mẹ thấy rồi, con yêu.” Cô xoa đầu con gái. “Đi với chú Cal và làm theo chú bảo, thay quần áo trong nhà bếp trong khi chú ấy giúp mẹ xuống cầu thang. Được chứ?”

    “Vâng ạ.”

    Cal đặt Angelina giữa anh và thang gỗ, nên cô bé không sợ ngã, hướng dẫn cô bé bước xuống từng nấc một. Khi chú ý thấy cửa sổ phòng khách bị vỡ, cô bé nói, “Nhìn kìa!” đầy phẫn nộ, bắt đầu vào trong phòng nhưng anh ngăn lại. Điều cuối cùng anh muốn là để cô nhìn qua cửa sổ thấy thi thể cha mình, cũng như những mảnh kính vỡ cứa đứt bàn chân trần của cô bé.

    “Cháu không được vào đó,” anh giải thích, hướng cô bé về phòng ngủ. “Mảnh kính trên sàn nhà sẽ cứa đứt chân cho dù cháu đi giầy.”

    “Nó cắt đứt cả giầy ạ?”

    “Đúng thế. Đó là những mảnh kính đặc biệt.”

    “Wow,” cô bé thốt lên, đôi mắt mở to, khi chăm chú ngó lại những mảnh kính trong câu hỏi.

    Quần áo của bé gái, anh nhận ra, cơ bản cũng giống của bé trai, toàn màu hồng. Anh tìm thấy quần jean và một áo len chui đầu, một đôi giầy thể thao xinh xắn với dây buộc màu hồng, bít tất in hình hoa, và một áo khoác lông cừu có mũ cũng màu hồng.

    “Cháu tự mặc đồ được không?” anh hỏi, hướng dẫn bé vào nhà bếp.

    Cô bé gật đầu, vẻ ngượng ngùng.

    “Cháu mặc quần áo trong phòng ngủ, không phải trong nhà bếp.”

    “Lần này mẹ muốn cháu thay đồ trong nhà bếp,” anh trả lời. “Mẹ đã nói rồi, cháu nhớ chứ?”

    Cô bé gật đầu, rồi lại hỏi, “Tại sao ạ?”

    Ôi, chết mất, giờ anh biết nói thế nào đây? Những trải nghiệm với người mẹ của mình dội về, anh lôi ra một câu trả lời cũ rích: “Vì mẹ bảo thế.”

    Rõ ràng Angelina đã nghĩ về sắc lệnh trên cao đó từ trước. Cô bé thở dài, ngồi xuống sàn bếp.

    “Thôi được, nhưng chú không được nhìn đấy.”

    “Không đâu. Chú sẽ lên đón mẹ xuống. Đừng rời khỏi nhà bếp. Ở nguyên chỗ đấy.”

    Trút hơi thở dài chịu đựng, anh bò lại cầu thang, nhìn lên thấy Gena đang ngồi trên ô trống.

    “Tôi đang cố,” cô giải thích, lập bập đặt bàn chân xuống nấc thang thứ hai trong khi cánh tay bám chặt vào mỗi cạnh của ô trống để cô xoay người. Anh đang nghĩ tới việc hạ cô xuống bằng sợi dây thừng, nhưng chết tiệt, cô đã ở trên cầu thang rồi.

    Không có cách nào để cô xuống mà không dùng đến mắt cá chân bị trật. Lần đầu tiên dồn trọng lượng lên nó, cô không sao ngăn lại một tiếng gằn đau đớn rồi nhanh chóng nuốt nó lại. Lần cố gắng tiếp theo, cô cắn chặt môi đơn giản buộc bản thân chịu đựng cơn đau trong khoảng thời gian ngắn khi nó đưa cô xuống bậc dưới với bàn chân lành lặn. Cô nghỉ ở đó, chờ cho cơn đau giảm xuống, rồi lặp lại. Cal giữ thang cố định nhất khả năng, anh không thể leo lên giúp cô vì cái thang mỏng manh không được chế tạo để mang nhiều trọng lượng. Khi cô xuống tới vị trí đủ để anh chạm vào eo cô, anh đơn giản nhấc cô ra khỏi bậc thang, bế cô vào nhà bếp, đặt lên một chiếc ghế kê gần bàn.

    Angelina đang xỏ giày, liền đứng bật dậy chạy về phía mẹ mình. Gena ôm con vào lòng, mái tóc vàng hoe cúi xuống mái tóc đen của Angelina.

    “Tôi sẽ đi lấy ba toong,” anh nói, đi vào phòng khách. Cái gậy được nhét rất sâu trong tủ, nhưng anh tìm thấy nó chỉ trong khoảng thời gian ngắn, mang lại cho Gena.

    “Ta ra ngoài bằng cửa sau. Tôi bế Angelina. Tôi biết mắt cá chân đau, Gena, nhưng cô phải theo kịp tôi.”

    “Tôi sẽ cố,” cô nói, khuôn mặt vẫn trắng bệch trông như cô có thể ngất xỉu bất cứ lúc nào. Cô không cho phép mình nhìn quá lâu, chỉ là thoáng qua về phía phòng khách, cô sợ sẽ nhìn thấy Mario, và cô biết mình không thể chịu đựng được.

    “Đôi lúc ta phải bò. Chỉ làm theo tôi thôi.”

    Anh không có thời gian giải thích về các khúc quanh co anh sẽ dẫn đi, nó giúp họ thoát khỏi ống ngắm cảm ứng nhiệt. Dù thế nào, tia hồng ngoại hoạt động không hiệu quả giữa một ngày nắng ấm, vì sự khác biệt về nhiệt độ giữa không khí môi trường xung quanh và cơ thể con người không rõ lắm. Sau hai ngày giá lạnh bất thường, hôm nay ấm hơn đáng kể. Điều đó, cùng với thực tế rằng, mắt người không thể quan sát nhiều vật một lúc trong bán kính rộng như thế khi các tay súng quét ống kính, sẽ giúp họ tới được nhà Richardson mà rơi vào tình huống nguy hiểm ít nhất. Vài nơi không có vật che chắn thì Gena phải nỗ lực hết mình. Người thứ hai chạy qua luôn luôn gặp nguy hiểm hơn người đầu.

    Anh có nhiều việc để làm, nhiều người hơn phải tìm, nhưng anh gạt bỏ mọi thứ khỏi tâm trí, đơn giản tập trung vào nhiệm vụ trong tầm tay. Nó mất nhiều thời gian – quá nhiều thời gian, nhưng Gena đang làm hết khả năng. Cuối cùng anh đưa họ tới một nơi anh có thể để họ lại không cần tới mình.

    “Anh bỏ chúng tôi ở đây ư?” Gena hổn hển, khi anh nói với cô rồi quay lại.

    “Cô làm được mà; chỉ còn vài trăm yard nữa thôi. Tôi vẫn chưa tìm thấy nhà Starkey, cũng như nhà Young.”

    Mặc cô phản đối, anh bỏ cô lại, rồi khom lưng bước đi.

    Trước khi tiếp tục cuộc tìm kiếm, anh lần đường về cửa hàng thực phẩm. Áp vào tường sau tòa nhà, anh phóng đầu mình, ngó nghiêng xung quanh, nhanh chóng nghiên cứu cầu thang dẫn lên phòng ở của mình, và góc độ sẽ phơi bày anh ra trước làn đạn súng trường. Cầu thang quá mạo hiểm, nhưng nó là lối vào duy nhất; không có lối khác từ bên trong cửa hàng.

    Hãy còn.

    Dùng báng súng săn, anh đập bể ổ khóa dầu cánh cửa nhà kho phía sau; các cư dân ở Trail Stop có thể không khóa cửa, đâu nghĩa là họ không bảo vệ sản nghiệp của mình. Bên trong nhà kho là một loạt đồ anh dùng để bổ củi sưởi trong mùa đông – thứ đã xếp cả đống lớn ngay bên ngoài cánh cửa – còn tốt như cái rìu nhỏ anh dùng để chẻ những mẩu bé làm củi mồi.

    Cầm rìu, anh đi vào phòng chính của cửa hàng, nghiên cứu trần nhà, nhẩm tính sơ đồ bố trí căn phòng phía trên.

    Anh muốn tránh xa bất kể đường ống nước nào, tức là phải dịch sang trái. Phòng tắm của anh trực tiếp ở trên phòng tắm cửa hàng, một điều khá lô gic. Phòng bếp nhỏ tí nhưng thuận tiện của anh (nếu nó đủ lớn để coi là thuận tiện), cũng ở bên trái. Không may, còn lại là quầy thu tiền, nó có thể cho anh một bệ đỡ ổn định, vững chắc khi leo lên.

    Anh nhìn kỹ trần nhà, làm phép tính. Trần nhà tầng một cao mười feet. Anh thì chưa tới sáu feet. Nghĩa là anh cần kê thêm bên dưới ba feet nữa mới dùng được cái rìu. Ôi, khỉ thật, tất cả những bao thức ăn gia súc kia nên phát huy tác dụng thay vì chỉ nằm im một chỗ.

    Anh bận rộn nâng những cái bao nặng năm mươi pound. Mỗi lớp phía trên được xếp chồng theo hướng ngược lại với lớp phía dưới, tạo ra một bệ đỡ kiên cố. Khi làm xong, anh toát đầy mồ hôi và khát nước, nhưng anh không dừng lại. Thay vào đó, anh trèo lên chồng bao, giữ chân đứng vững, bắt đầu vung rìu.

    Chồng bao thức ăn không hoàn toàn ổn định, khiến anh gặp một chút bấp bênh, anh không thể di chuyển chân, không thể đặt toàn bộ sức lực vào từng nhát rìu. Bởi những hạn chế đó, mất nửa giờ anh mới đục được một lỗ hổng kích cỡ người chui được qua trần và sàn nhà phía trên. Đánh giá nó đủ rộng, anh cẩn thận quỳ xuống đặt cái rìu dựa vào chồng bao; đoạn đứng dậy, nhún gối, nhảy lên.

    Anh bắt lấy mép lỗ hổng nham nhở, treo mình ở đó vài giây, để cơ thể đung đưa theo kiểm soát, rồi uốn cong cơ bắp ở cẳng tay trên và bờ vai, đu thân mình lên. Dưới sức căng, vết cắt mà Cate đã nhẹ nhàng chăm sóc đêm trước bắt đầu rỉ máu lần nữa.

    Khi lên tới đủ cao, anh nhấn thêm một chút sức lực, đủ để cho phép anh chèn một cánh tay lên sàn nhà. Chống cánh tay kia, anh đẩy và nâng bản thân qua lỗ hổng, lăn tròn trên sàn phòng ngủ.

    Nhanh chóng anh lột đồ, để quần áo ướt và bẩn nằm lại nơi chúng rơi xuống.

    Khi chui trở lại cửa hàng, anh đã mặc đồ đi săn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  14. meocontb

    meocontb Lớp 2

    Cảm ơn @halucky. Tốc độ quá. Sắp kết thúc rồi.
     
    halucky thích bài này.
  15. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 24 (halucky)

    MỖI LẦN CÁNH CỬA BÊN NGOÀI MỞ RA dạ dày Cate lại thít chặt, trái tim đập rộn lên khi cô ngước nhìn, hy vọng trông thấy người đàn ông gầy gầy với mái tóc bù xù bước vào. Khi hết lần này đến lần khác đều không phải là anh, thần kinh cô ngày càng căng thẳng, cho tới lúc cô buộc phải làm bản thân xao lãng hoặc phát điên.

    Cô cố giữ mình bận rộn, chỉ là không có nhiều việc để làm trong một căn hầm với quá nhiều người đói, khát, và cần một phòng vệ sinh. Ít nhất, về phần khát dễ dàng được chăm sóc nhờ Perry và cái gầu múc nước của ông, Cate và Maureen làm hết khả năng với khẩu phần ăn, nhưng Maureen đã không chuẩn bị thức ăn cho nhiều người như thế; bà thậm chí còn không có đủ một ổ bánh mì trong tay. Họ đun và quấy súp trên chốc cái lò sưởi chạy dầu, phết vô tội vạ bơ đậu phộng lên một đống bánh quy giòn để có một hỗn hợp protein nhanh chóng. Mặt khác, mất điện, họ bị giới hạn trong những việc có thể làm được.

    Tình huống phòng vệ sinh là khó giải quyết hơn cả, vì nó liên quan tới việc dời khỏi tầng hầm an toàn leo lên trên, nơi có ít sự bảo vệ, tuyệt vọng cuối cùng từng người vẫn phải bò lên. Điện mất không chạy được máy bơm, việc dội nước bao gồm cả việc xách một xô nước theo bạn để đổ vào toa let, đồng nghĩa là Perry luôn bận rộn kéo nước lên từ giếng. Thậm chí Creed cũng phải xoay sở cà nhắc lên cầu thang trước sự khiếp đảm của Neenah, nhờ cây ba toong của Gena.

    “Viên đạn hôm qua là may mắn đấy,” Creed nói, dừng trên lối lên khi Neenah kể lại tiếng kêu gần đấy của Maureen. “Chúng là một loạt đạn bắn ra nhắm vào một mục tiêu nhằm đạt hiệu quả mong muốn, trong bóng tối, khiến ta mất thăng bằng. Hôm nay chúng chưa bắn nhiều vì chúng phải tính toán xem muốn lãng phí bao nhiêu đạn dược. Tất nhiên, chúng cho thể đi xa để kiếm thêm, trong khi ta thì không. Tôi cho rằng chúng đang bắn thì bắt gặp Cal.”

    Creed nhìn quanh, một kiểu im lặng theo nghĩa vụ bao trùm mọi người. Ông bắt gặp Cate đang đứng ở chân cầu thang, khuôn mặt trắng bệch như thể bị đấm vào bụng.

    Cô biết mọi người đi tới sáng đó đều nói là được tìm thấy nhờ Cal, được giải cứu nhờ Cal, được Cal chăm sóc, được Cal chỉ dẫn tới đây. Cô tưởng tượng anh như một linh mục chạy quanh quẩn các con chiên. Ai ngờ được, anh ở ngoài kia, hứng chịu những viên đạn.

    Creed nhăn nhó khi nhìn thấy vẻ mặt cô, liền lẩm bẩm, “Khỉ thật,” dưới hơi thở. Rồi: “Cate, cậu ấy sẽ được phù hộ. Tốt hơn hẳn cái lũ mất hết tính người cố giết cậu ấy.”

    Cô cảm thấy choáng váng, giơ tay giữ thăng bằng. Creed nhăn mặt lần nữa, rõ ràng nhận ra lời bày tỏ cuối cùng không thực sự làm yên lòng, bèn giải thích.

    “Ý tôi là – tôi ở cùng binh đoàn lính thủy đánh bộ với cậu ấy. Tôi hiểu cậu ấy đang làm gì.”

    Cô chẳng cảm thấy tốt hơn. Đoán được là Creed cũng nhận ra việc mình vừa nói, dù sao ông không thường bị bắn. Có lẽ nếu cô không phải một góa phụ, cô sẽ có cái nhìn lạc quan hơn, nhưng cô bỗng dưng mất chồng khi còn quá trẻ. Cái chết không đúng lúc vẫn xảy ra – mặc các bác sĩ đã chiến đấu cứu mạng Derek. Giờ đây mọi người đang cố gắng tích cực giết chết Cal; làm sao cô yên tâm cho được?

    Cô cảm tưởng vừa mới gặp anh, điều gì đó vừa bùng nổ giữa hai người. Mọi thứ đều mới mẻ, kích thích và rung động đầy hứa hẹn. Cô không thể mất anh lúc này.

    Quên đi mấy việc lặt vặt, Creed tập tễnh xuống cầu thang, nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của cô. Khuôn mặt chai sạn của ông đầy sự ân cần, đôi mắt màu hạt dẻ ánh lên vẻ hiểu biết khi ông làm ấm bàn tay cô trong tay mình.

    “Cậu ấy sẽ ổn thôi. Tôi không biết những kẻ bắn vào ta là ai, nhưng tôi hứa không ai trong số chúng lại gần cậu ấy được. Cal không phải một lính thủy bình thường, cậu ấy là lính trinh sát. Tôi không biết cháu có hiểu không, nó nghĩa là—“ Ông dừng lại, cô lắc đầu ý nói không. “À, tức là cậu ấy là một chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, ở một trình độ cao mà không thể bị giết.”

    Cảm xúc khuấy đảo trong cô, lo sợ, tức giận và cả bối rối khi cô hấp thu một phần sự việc. Cô không thể giúp đỡ bản thân; phải bám vào tay ông để đứng vững, ngước lên nhìn ông để được cam đoan một lần nữa.

    “Ông Creed, cháu—“

    “Gọi tôi là Josh,” ông nhắc. “tôi cho rằng mọi người ở đây đều có một tên gọi thân mật, đúng không?”

    “Josh,” cô nói, hơi xấu hổ vì cô cũng giữ một khoảng cách với ông. “cháu – bác”

    Cô dừng lại vì cô đang lắp bắp, và cô không có ý tưởng rõ ràng về điều định nói. Đi tìm anh ấy? Mang anh ấy quay về an toàn và lành lặn? Vâng, đó là điều cô muốn. Cô muốn Cal bước vào qua cánh cửa đó.

    “Nghe này.” Ông siết chặt tay cô, rồi vỗ nhẹ lên chúng. “Cậu ấy đang làm cái việc cậu ấy làm tốt nhất, là tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra.”

    “Nhưng đã hàng giờ--“

    “Mọi người vẫn đang kéo đến, đúng không? Cậu ấy hướng dẫn họ, nên cháu biết cậu ấy không sao. Roy Edward,” ông gọi, nâng cao giọng mình. Thành viên cao tuổi nhất nhà Starkey là người mới đến gần đây nhất. “Lần cuối cùng ông nhìn thấy Cal là khi nào?”

    Roy Edward ngó qua Milly Earl, người đang lau mặt cho ông. Ông và Judith, vợ ông, thâm tím và đầy vết bẩn do ngã. Họ không có đôi chân nhanh nhẹn; cả hai té ngã vài lần, nhưng, nhờ vài phép màu nhỏ, họ không bị gãy cái xương nào.

    “Không hơn một giờ,” ông trả lời. Ông già đang kiệt sức, giọng nói yếu ớt. “Chúng tôi là những người cuối cùng, cậu ấy bảo thế. Cậu ấy đang đi thu thập vài thứ trước khi quay lại đây.”

    Những người cuối cùng. Sự choáng váng rời khỏi nỗi khổ sở của chính cô, Cate nhìn quanh vào những người có mặt ở đây, nhận ra còn nhiều người không thấy. Mọi người trong tầng hầm đều làm như thế, sẽ không có thêm hàng xóm đến nữa để mà than khóc và chào đón. Mario Contreras. Norman Box. Maery Last. Andy Chapman. Jim Beasley.

    Lanora Corbett. Mouse William. Họ mất bảy người – bảy!

    Lặng lẽ Creed tập tễnh bước lên cầu thang. Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt Neenah khi bà đi cùng ông, cho ông một sự trợ giúp để ông không gây hại thêm cho chân mình.

    “Chúng ta không thể để họ chỉ nằm ở đấy,” Roy Edward tuyên bố, điều gì đó quyết liệt xâm nhập vào giọng nói già cả nheo nhéo của ông. “Họ là người của chúng ta. Chúng ta phải làm gì đó ngay cho họ.”

    Một lần nữa im lặng bao trùm khi, từng người một, họ nhận ra trách nhiệm to lớn nằm ngay trước mặt mình. Tìm và mang về các thi thể là một nhiệm vụ dễ nản lòng, thậm chí nếu làm được, vì không có điện, chẳng có cách nào giữ được họ. Im lặng, họ phải làm gì đó. Hôm nay thời tiết ấm áp, thế nghĩa là sự cần thiết phải hành động càng vô cùng cấp bách.

    “Tôi có máy phát điện,” cuối cùng Walter lên tiếng. “Tất cả chúng ta đều có tủ đông lạnh. Mọi người, ta sẽ tìm ra cách nào đó.”

    Nhưng máy phát của Walter đang nằm phía bên kia của cộng đồng, gần những tay súng nhất – di chuyển đi lại những tủ đông là công việc đòi hỏi hai người và buộc họ phải ra ngoài.

    Gena không thể chịu đựng được thêm nữa, ngay cả vì Angelina. Cô vùi mặt vào lòng bàn tay, nức nở với những âm thanh hết sức mủi lòng, toàn bộ cơ thể cô phập phồng. Cate nhớ lại mình, cũng từng thế, đã khóc như vậy, cô lại gần Gena, ngồi xuống, vòng cánh tay quanh cô ấy. Chẳng có từ ngữ nào giúp giảm bớt nỗi đau, nên cô không nói gì. Khuôn mặt Angelina nhăn nhó, đôi mắt to đen bắt đầu ậc tràn nước.

    “Mẹ ơi, đừng khóc!” Cô bé vỗ về chân Gena, vừa trao đi vừa tìm kiếm niềm an ủi. “Mẹ ơi!”

    Cate cũng kéo Angelina vào. Hai đứa con của cô quá nhỏ, không ý thức được khi Derek chết, quá nhỏ để nhớ anh và rơi nước mắt vì anh, nhưng Angelina thì khác. Khi cô bé hiểu rằng cha mình đã ra đi và không bao giờ quay lại, không gì trong thế giới lụi tàn này ngoại trừ thời gian sẽ đem lại cho cô bé niềm an ủi.

    “Sao chị làm được?” Gena nức nở, từ ngữ đặc sệt vì nước mắt, nghẹn lại bởi tiếng nấc khiến Cate gần như không hiểu cô. “Làm thế nào chị xoay sở được?”

    Làm thế nào bạn hoạt động được khi toàn bộ cơ thể bạn bị nỗi đau tinh thần thiêu đốt? Làm sao bạn hoạt động ngày này qua ngày khác khi một cái hố khổng lồ đã xé toạc cuộc sống của bạn? Bạn có tiếp tục mỉm cười, cười vang, và thưởng thức niềm vui?

    “Chỉ làm thôi,” Cate trả lời êm ả. “Vì chẳng có lựa chọn nào. Chị có cặp sinh đôi. Em có Angelina. Đó là lý do em phải làm.”

    Cánh cửa bật mở và Cal bước vào.

    Anh đã thay quần áo. Đồ anh mặc cô nghĩ là bộ đồ đi săn hươu: chiếc quần vải thô màu rằn ri, áo phông cổ tròn màu xanh xám ô liu, và chiếc áo sơ mi khoác ngoài mở cúc cùng màu quần. Anh cũng xỏ một đôi bốt mềm hiệu Gore-Tex, một con dao đi rừng đút trong bao đeo ở thắt lưng, khẩu súng săn với dây đeo quàng qua vai trái, và một khẩu súng trường có ống ngắm lớn đính kèm trong tay phải. Anh chuẩn bị đi săn hươu, mặc dù, anh không đội mũ lưỡi chai hay áo gi lê săn bắn màu cam sáng.

    Mọi thứ trong cô sụp đổ hoàn toàn. Những gì anh mặc nói với cô ầm ĩ hơn bất cứ lời nào rằng anh có ý định đi tìm hiểu xem kẻ bắn họ là ai. Cô buông Gena đứng dậy, kích động bởi nỗi hoảng sợ đóng băng không kiểm soát được đang xâm chiếm lấy mình. Cô muốn gào lên; cô muốn tóm lấy anh, buộc chặt lại để anh không thể rời đi. Cô phản đối để anh làm chuyện này; cô không thể nhìn anh bước đi biết rằng ngoài kia có một khả năng lớn là anh sẽ không quay trở lại –

    Ánh mắt anh đụng ánh mắt cô. Cô thấy anh nắm bắt vẻ mặt trắng bệch, căng thẳng của mình. Cẩn thận anh đặt cả hai vũ khí ở một vị trí an toàn, nơi chúng không bị đụng vào rồi len lỏi qua chỗ đông người đang huyên náo, để tới bên cô. Mọi người nói với anh, vỗ nhẹ lên vai anh, và anh gật đầu, trả lời và trao đổi những lời chào mừng, nhưng anh không hề dừng lại, không hề do dự trên đường mình đi.

    Khi tới được với cô, anh cầm tay cô và nói, “Em ổn cả chứ?”

    Cô cảm thấy mình sẽ tắc nghẹn mất nếu cố gắng thốt ra một lời. Một cái lắc đầu nhưng dứt khoát.

    Anh nhìn xung quanh, không thấy chỗ nào riêng tư dù chỉ một giây.

    “Theo tôi nào.”

    Lặng người, cô làm theo, hầu như không nhận biết chuyện gì quanh mình khi cô kéo lê theo chân anh, không nhìn thấy gì ngoại trừ lưng anh. Anh dẫn cô ra ngoài, tới nơi có ánh nắng ấm áp, nhưng dừng lại để họ vẫn được bảo vệ nhờ khúc tường cong. Quay lại nghiên cứu cô bằng ánh mắt xanh xám, kiên định.

    “Có chuyện gì?”

    Có chuyện gì á? “Quần áo anh,” cô buột miệng, không thể nêu ra một lý do mạch lạc hơn.

    Hoang mang, anh nhìn xuống mình. “Quần áo của tôi?”

    “Anh chuẩn bị đi tìm kiếm bọn chúng, đúng không?”

    Sự thể được sáng tỏ. “Chúng ta không thể chỉ ngồi đây,” anh bĩnh tĩnh nói. “Phải có ai làm gì đó.”

    “Nhưng không phải anh! Tại sao phải là anh?”

    “Tôi không biết ai khác có thể. Nhìn quanh xem. Mario là người đàn ông trẻ nhất, cậu ấy đã chết. Josh làm được việc này thì đã bị gãy xương chân. Mọi người khác đều già cả và không khỏe mạnh. Tôi là lựa chọn hợp lý nhất.”

    “Vứt mẹ cái hợp lý đi!” cô nói dữ dội, túm lấy áo sơ mi của anh bằng cả hai tay. “Tôi biết tôi không có quyền nói bất cứ điều gì bởi vì chúng ta không phải – chúng ta chưa phải—“ Cô lắc lắc đầu, đấu tranh với hàng nước mắt dâng trào đột ngột. “Tôi không thể mất … không lần nữa --.”

    Anh dừng những lời nói lảm nhảm, rời rạc của cô lại bằng cách cúi xuống, đặt miệng mình lên miệng cô.

    Bờ môi anh mềm, thật mềm. Nụ hôn dịu dàng, tìm kiếm. Môi anh di chuyển trên môi cô, nghiên cứu, dò hỏi, và cô ngửa đầu trả lời.

    “Em có quyền,” anh thì thầm, đóng khung khuôn mặt cô trong bàn tay mình, những ngón tay trượt vào tóc cô khi anh trao cô một loạt những nụ hôn mời mọc, đói khát, như thể anh đang dự tiệc miệng cô. Cô bám chặt cánh tay anh, đào những ngón tay vào cơ bắp căng cứng, gân guốc, níu chặt lấy cuộc sống thân thương khi cô chùng mình dựa vào anh.

    Lưỡi anh thong thả thâm nhập, đụng chạm, vuốt ve và dụ dỗ như anh có tất cả thời gian trên đời mà không nghĩ ra cách nào tốt hơn sử dụng nó.

    Cô chưa từng được hôn … thỏa mãn như thế trước đây.

    Anh đã bị khuấy động; cô cảm nhận được vật đàn ông của anh to lớn, cứng ngắc chọc vào mình. Cô mong đợi hông anh chuyển động, nhưng anh vẫn đứng yên ngoại trừ lưỡi anh, và bờ môi mềm thật mềm. Hơi ấm sức sống bừng lên trong cô, xua đi nỗi sợ hãi, cơn tức giận rằng anh sẽ chấp nhận mạo hiểm khi mà họ đang lơ lửng bên mép thứ gì đó thật tuyệt vời, cô khó mà tin được.

    Rời miệng cô, anh ấn những nụ hôn lên gò má, thái dương cô, đôi mắt cô, rồi quay trở lại đôi môi cho nhiều thêm nữa.

    Nếu anh làm tình cũng thong thả như anh hôn – ồ, lạy Chúa.

    “Chúng ta nên quay lại vào trong,” anh thì thầm trên môi cô, rồi tựa trán mình lên trán cô. “Anh có rất nhiều việc phải làm.”

    Cô lùi lại, nhìn vào đôi mắt xanh nước biển của anh. Chúng điềm tĩnh như mọi khi, nhưng bây giờ cô nhận ra điểm sắt đá trong con người này. Anh không gây ấn tượng sâu sắc; anh không phải là người thu hút sự chú ý – vì anh không cần nó. Anh cực kỳ chắc chắn về bản thân và năng lực của chính mình. Anh sẽ mạo hiểm cuộc sống của mình vì mọi người mà không một giây do dự.

    Cô ở ngoài đó và tranh luận cho tới khi họ đưa ra lợi ích của mình, anh đã xoay người cô và bằng cách nào đó lùa cô lại vào tầng hầm. Rất nhiều khuôn mặt mỉm cười hiểu biết hướng về họ, nhưng đó không phải là vẻ ngạc nhiên, cân nhắc theo cách anh hành động đêm qua, và họ vừa hôn nhau bên ngoài cánh cửa. Cái làm cô ngạc nhiên là không ai, hoàn toàn không có ai, có vẻ ngạc nhiên. Hình như cô là người duy nhất gặp rắc rối trong việc bắt kịp tốc độ của chuyện này, mặt khác, cô là người duy nhất bị che mắt.

    Theo cái cách gần như là chọc tức cô mà hầu hết cánh đàn ông khác đang làm, anh đã hòa nhập hoàn toàn với hoạt động đang diễn ra, tụ tập với Creed và người khác. Thậm chí Creed còn có một quyển sổ và đang dùng bút vạch ra thứ gì đó bằng vài nét phác thảo. Mọi người xúm quanh lắng nghe.

    “Cây cầu biến mất rồi,” Cal đang nói. “Đó chính là vụ nổ. Điện mất ngay trước lúc đó, tức là chúng cắt đứt dây. Điện thoại cũng mất tín hiệu. Từ cách các tay súng đã sắp đặt mọi việc, ý định của chúng là không muốn ta tìm sự trợ giúp ngoại trừ leo lên dãy núi. Chúng muốn cô lập ta, bao vây ta.”

    “Nhưng quỷ tha ma bắt tại sao chúng gây ra tất cả chuyện này?” Walter càu nhàu, chạy bàn tay qua mái tóc mỏng dính trong tâm trạng thất vọng.

    “Tôi không trông thấy tên nào, nhưng theo tôi suy đoán là hai tên từ tuần trước quay lại mang theo quân tiếp viện, và đòi thứ chúng muốn – “ Cal nhún vai, “Tôi ý nói chúng muốn tôi.”

    “Vì cậu hạ chúng?”

    “Và đập vào đầu một tên,” Neenah thêm vào. Bà đang ngồi trên nền bê tông lạnh lẽo cạnh Creed. Bà vẫn chưa rời khỏi ông kể từ đêm qua.

    “Tôi không nói nó có lý,” Cal trả lời. “Vài người để cái tôi can dự vào, rồi trở nên hằn học.”

    “Nhưng chuyện này – chuyện này đã vượt quá xa, đúng là điên rồ,” Sherry phản đối. Bảy người đã chết. Chuyện này vượt quá xa cái tôi bị đè bẹp. “Nếu chúng điên như thế, tại sao chúng không chỉ tóm lấy cậu, lôi ra đâu đó và đá huỳnh huỵch vào mông cậu?”

    “Tôi đâu dễ mà đá được,” anh nói ôn tồn. “Có thể đây là cách một băng nhóm tội phạm nói ‘Đừng xía vào việc của người khác.’ Tôi chỉ không biết thôi.”

    “Băng nhóm tội phạm ư? Cậu nghĩ đó là một băng nhóm?” Milly xen vào.

    Câu hỏi đó kiếm được cái nhún vai khác. “Tôi phải nói nó có khả năng.”

    “Địa hình chống lại chúng ta,” Creed nói, kéo cuộc trò chuyện quay lại chủ đề. Ông chỉ vào bản sơ họa ông vừa vẽ nhanh. “Con sông khiến cho mọi hoạt động bên này là không hiệu quả. Hiện tại nó chảy quá xiết để lội qua được bất kỳ chỗ nào quanh đây, còn những tảng đá sẽ đập tan chiếc thuyền nào đó thành từng mảnh chỉ trong vài giây. Thượng nguồn là một hẻm núi dựng đứng mà không ai lởn vởn gần được, nên hướng đó cũng bế tắc.”

    “Vùng đất bán đảo Trail Stop có hình dáng như trùng đế giày,” Cal tiếp tục. “Cây cầu ở phần đuôi, bên này là con sông. Ở đó không có đất liền cho ta triển khai, con sông là barie tự nhiên. Ngay đây” anh chạm vào bản phác họa của Creed – “là dãy núi chỉ có dê mới vượt qua được. Nó đổ xuống bên này đế giày, có một rãnh cắt vào dãy núi, nơi chặn đứng được những tay súng. Chúng có ống ngắm cảm biến nhiệt, thứ làm việc hiệu quả nhất vào ban đêm, nhưng giữa ban ngày chúng không dùng đến ống ngắm. Tôi sẽ phải đợi cho tới đêm, lội xuống nước để làm suy giảm dấu hiệu nhiệt của mình.”

    “Mất bao lâu để cậu vượt qua rãnh cắt đó?” Sherry hỏi.

    “Tôi không phải trèo qua rãnh cắt. Tất cả tôi làm là vượt qua một trong những tay súng, rồi luồn sau chúng đi ra con đường.”

    Cô hít vào một hơi, nghe rõ tiếng hổn hển. Cô không phải một nhà chiến thuật, nhưng cô biết anh đã lạnh như nào đêm qua, gần như mất hết thân nhiệt. Mà nước thì không hề ấm lên tí nào kể từ lúc đó. Ai biết được phải chôn chân trong dòng suối bao lâu, đợi chờ thời điểm tốt? Rồi anh phải đi bộ hàng dặm trong bộ quần áo ướt, lạnh giá đó, anh sẽ mất thân nhiệt nhiều hơn theo từng giây. Và nếu anh bị một trong những tay súng bên kia bờ suối nhìn thấy, anh sẽ bị bắn chẳng khác nào một con thú, anh sẽ quá lạnh để mà né tránh chúng. Tại sao không có ai nói không chứ, chuyện này quá nguy hiểm? Tại sao họ sẵn sàng để anh mạo hiểm tính mạng của bản thân mình?

    Vì, như anh đã chỉ ra, không còn ai khác nữa. Creed bị thương. Mario đã chết. Tất cả những người khác đều ở độ tuổi trung niên và già yếu, và người già nhất thực sự không khỏe mạnh.

    Ngoại trừ cô.

    “Không,” cô lên tiếng, vì chẳng ai khác sẽ làm. “Không. Nó quá nguy hiểm, và đừng nói với tôi nó không phải,” cô nói dữ dội khi Cal mở miệng định làm thế. “Anh nghĩ chúng sẽ không ngồi chờ ai đó cố gắng làm việc này sao? Anh gần như không thể đi bộ đêm qua, anh đã đông cứng vì bị ngâm dưới nước. Và chuyện gì sẽ xảy với chúng tôi nếu anh bị giết?”

    “Anh cho rằng chúng sẽ bỏ đi, vì anh là người chúng muốn.”

    Sự bình tĩnh của anh khiến cô muốn hét lên, túm lấy anh, lắc anh vì dám quá vô tình với mạng sống của mình. Cô đứng đó với hai bàn tay nắm chặt trong khi tất cả những người đàn ông chết dẫm kia chằm chằm nhìn cô như thể cô không hiểu gì. Cô không hiểu, được thôi, và cô không muốn sống như thế một lần nữa.

    “Anh không biết về điều đó. Chúng ta không biết chắc chắn chúng là ai và chúng muốn gì. Chuyện gì xảy ra nếu không phải là chúng muốn làm gì đó với anh? Mà ngay cả nếu đúng thế, điều gì khiến anh nghĩ rằng chúng chỉ đơn giản đóng gói và rời đi? Chúng đã giết bảy người, tất cả chúng ta đều đồng ý rằng đó là một hành động dã man để làm. Chỉ vì anh có cái thứ gì đó của chúng. Nó là thứ gì đó khác, hẳn là thế. Chúng ta chỉ không biết mà thôi.”

    Anh ân cần đánh giá cô, rồi gật đầu. “Em nói đúng. Hẳn còn điều gì đó khác.”

    “Anh có đảm bảo vượt qua được chúng mà không bị phát hiện?”

    “Không, anh không dám chắc chuyện đó.”

    “Nên chúng tôi không thể mạo hiểm đánh mất anh, Cal. Chúng tôi không thể. Chúng tôi không tự lo liệu được, chúng tôi ghét thế, nhưng bọn chúng đang chiếm ưu thế.”

    Tuyệt vọng cô tìm kiếm vài ý nghĩ thoáng qua, cách nào đó không liên quan tới việc Cal phải mạo hiểm đặt cược mạng sống mình, vào nhiệm vụ mà đang đè nặng anh. Anh có lý, trong việc đưa ra cách trực tiếp nhất là xuyên qua những tay súng. Nếu có cách nào đó họ leo được lên và vượt qua---

    “Chúng ta không thể chỉ ngồi và chờ đợi,” Creed nói. “Chúng ta không chuẩn bị cho một cuộc bao vây, và đó là cách này---“

    Cate cảm thấy như giọng mình phát ra từ bên ngoài.

    “Có cách khác,” cô nghe bản thân nói. Mọi người ngậm miệng và nhìn vào cô, cô thấy mình đang di chuyển về phía trước. Sâu thẳm bên trong cô một giọng nói nhỏ hoảng loạn cất lên không, không nhưng bằng cách nào đó cô không thể dừng những bước chân khi cô đẩy qua một nhóm người chọc mạnh ngón tay cô vào dãy núi mà Cal đã đánh giá là chỉ có dê mới làm được. “Tôi có thể leo lên dãy núi đó. Tôi là một người leo núi, anh biết mà, anh đã nhìn thấy dụng cụ của tôi. Nó được giữ an toàn” – đó không hoàn toàn là sự thật, nhưng cô cứ tiếp tục – “chúng sẽ không mong đợi chúng ta thử lộ trình đó, nên chúng sẽ không theo dõi. Không ai bị bắn, không ai phải đem cổ mình ra như một con cừu hiến tế.”

    “Cate,” Cal bắt đầu. “Em có hai con nhỏ.”

    “Tôi biết,” cô nói, nước mắt dâng lên. “Tôi biết.”

    Và cô muốn chứng kiến chúng trưởng thành. Cô muốn chăm sóc chúng, được bế cháu ngoại và có tất cả hàng triệu thứ khác mà các bậc cha mẹ đều mơ ước. Nhưng cô không thể không run sợ với thực tế rằng anh hành động theo kế hoạch của anh, nó thậm chí cho phép chúng tấn công anh dễ dàng hơn. Mọi người ở đây đều có thể chết, và như thế những đứa con của họ sẽ mất mẹ. Dù nguy hiểm thế nào, cô không cho rằng leo lên núi nguy hiểm bằng đề xuất của Cal.

    “Cô ấy đúng,” Roy Edward cắt ngang. Tất cả mọi người đổ dồn về phía người đàn ông cao tuổi. Ông đang ngồi trên một trong những chiếc ghế ăn mà họ đã đưa xuống đêm qua. Tay trái và nửa khuôn mặt bên trái của ông tím thẫm từ sau cú ngã, nhưng miệng ông là một đường kiên định. “Điều cậu muốn làm rất nguy hiểm, cậu bé, tôi không hiểu được tại sao cậu nghĩ chúng ta sẵn sàng hy sinh cậu để bảo vệ mạng sống của chính chúng ta.”

    Có tiếng xì xào tán thành. Cô thật sự biết ơn ông già cau có này đến độ có thể ôm lấy ông.

    “Vượt qua dãy núi theo hướng đó sẽ mất nhiều thời gian,” Cal chỉ ra.

    “Nếu cậu cứ đi theo hướng đó, đúng, nhưng dãy núi này bị xuyên thủng bởi những hầm mỏ bị bỏ hoang.” Roy Edward kéo mình đứng lên, lẩy bẩy bước lại chỗ họ. “Ta biết vì cha ta làm việc trong một cái hầm, ta chơi ở đó khi còn bé. Từng có nhiều đường mòn từ vết cắt tỏa đi các nơi, một trong số chúng bắt đầu từ đó. Có cảm giác chúng không thể leo lên được từ phía bên kia, đúng không? Theo ta nhớ, một hay hai hầm mỏ cũ đó xuyên hoàn toàn qua cái khe trong dãy núi. Không biết sau nhiều năm chúng có hình dạng thế nào, nhưng nếu cháu đi qua được một trong số chúng, sẽ tiết kiệm được đáng kể thời gian.” Ông dùng ngón trỏ run rẩy vạch một đường ngang dãy núi tới vết cắt và nhìn lên Cate. “Ngay cả nếu các hầm mỏ bị lấp, điều mà ta đang lo, cháu có thể tiến hành theo lộ trình của cháu, vượt qua rãnh cắt. Cháu đã ở quá cao, những tên khốn đó không thể nhìn thấy. Vì có một lớp cây cối rập rạp che phủ. Một khi cháu vượt qua, cháu đã ở phía sau chúng rồi.”

    Cô lau những giợt nước mắt, quay lại đối mặt với Cal. “Tôi sẽ đi,” cô run rẩy nói. “Không quan trọng anh làm gì, tôi sẽ đi.”

    Anh im lặng trong giây lát, đôi mắt xanh xám chăm chú nghiên cứu khuôn mặt cô và anh đọc thấy sự liều lĩnh đến tuyệt vọng ở đó. Anh liếc nhìn Creed, cô không đọc được thông điệp truyền đi giữa hai người.

    “Được rồi,” cuối cùng anh lên tiếng vẫn bình tĩnh theo cách của mình, như thể cô sẽ đi vào cửa hàng tạp hóa. “Nhưng anh sẽ đi cùng em.”

     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  16. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 25 (halucky)

    CATE LẤY LÀM NGẠC NHIÊN – đâu chỉ là ‘đi’ leo núi đá; nó là chuyện đòi hỏi điều kiện, sự chuẩn bị và kinh nghiệm – rồi cô nhớ lại cuộc trò chuyện giữa hai người khi Cal mở cánh cửa gác mái sau khi cô làm gãy chìa khóa, chỉ cách đây vài ngày. Vài ngày. Lạy Chúa, quá nhiều sự kiện xảy ra khiến như thể hàng tuần đã trôi qua.

    “Anh nói anh từng leo núi.”

    Leo núi có khác so với leo núi đá, mặc dù các dụng cụ là giống nhau. Cô cho rằng, về cơ bản nó có cùng nguyên tắc, chỉ khác nhau về kỹ thuật.

    “Chủ yếu là leo núi,” anh chữa lại. “Vài lần leo núi đá.”

    Creed lật giở vài trang giấy, cầm bút lên.

    “Được rồi, hãy lập một danh sách các đồ cần thiết để không bỏ sót thứ nào. Cháu nghĩ mất bao lâu để leo qua rãnh cắt và tới máy điện thoại?” Ông nhìn Cate khi nói, vì cô là người có kinh nghiệm leo trèo ở đây.

    Tất cả các cuộc leo núi cô đã thực hiện trước đây đều là leo ban ngày, nhưng cô biết về địa hình mà họ đang đề cập đến. Dãy núi lờ mờ phía sau nhà cô, nên cô nhìn thấy chúng mỗi ngày. Cô có thể nhìn vào vách đá và nghĩ, “Tao đã leo lên mày rồi đấy.” Cô biết mất bao lâu để đi tới chỗ chúng, và bao lâu để trèo lên. Ở một vài nơi việc leo lên còn dễ dàng hơn lộ trình mà cô và Derek đã vạch ra, nhưng thử thách trong leo trèo luôn được họ tán thành. Những kí ức ùa về, những hình ảnh tinh thần rõ ràng về chính xác cái việc cô đề xuất thực hiện, leo lên núi và cuốc bộ đường dài mà họ sẽ đối mặt.

    Cuối cùng cô nói, “Cháu nghĩ một ngày rưỡi, hoặc đến hai ngày, tới được vị trí ở đó chúng cháu có thể bắt đầu đi bộ. Nó cách rãnh cắt bao xa, Roy Edward?”

    Ông khịt mũi. “Theo đường chim bay, khoảng năm dặm, nhưng cháu đâu phải một con quạ. Tất cả đi đi lại lại, ta xem xét nó khoảng mười lăm, hai mươi dặm.”

    “Chỉ có vài giờ chiếu sáng mỗi ngày,” Cal lên tiếng. “Chúng tôi không thể dùng đèn. Nên … hai ngày đi bộ đường dài, đó là đoạn đường nặng nhọc. Tổng cộng bốn ngày tới rãnh cắt.”

    Bốn ngày. Cate cảm thấy dạ dày nhộn nhạo. Đó là hành trình dài, quá dài. Quá nhiều điều có thể xảy ra trong quãng thời gian dài đó—

    Neenah với tay nắm lấy tay cô. “Chúng tôi sẽ ổn thôi,” bà nói kiên quyết. “Chúng tôi sẽ không nhượng bộ cho dù chúng muốn hay chúng làm gì đi nữa.”

    “Không sai,” tiếng của Walter. Ông trông mệt mỏi, tất cả bọn họ đều vậy, nhưng cơn giận dữ vẫn không hề giảm bớt trong đôi mắt. Họ bị tấn công, bạn bè họ bị giết, ông không có ý giơ tay lên đầu hàng. “Hầu hết chúng tôi có súng trường hoặc súng săn; chúng tôi có đạn dược – và thêm nữa ở cửa hàng tạp phẩm nếu cần tới. Chúng tôi có thức ăn và cả nước uống. Nếu những tên khốn kia nghĩ rằng ta là một mục tiêu dễ dàng, chúng phải nghĩ lại.”

    Một điệp khúc ngầm của “Đúng,” “chắc chắn,” và “phải đấy” lấp đầy tầng hầm, cùng những cái đầu gật gật.

    Cal gãi gãi quai hàm. “Theo cách đó – Neenah, bà có một lượng lớn bao thức ăn gia súc nặng năm mươi pound ở phía sau cửa hàng.”

    “Ừ, tôi bắt đầu tích trữ vào kho cho mùa đông. Sao thế?”

    “Không, thậm chí một viên đạn xuyên giáp có thể đi qua một bao cát, đó là lý do quân đội dùng chúng. Ta không có cát, nhưng ta có những bao thức ăn này. Thức ăn không tốt bằng cát – nó không được đóng bao chặt như cát – nhưng chồng hai hàng sát nhau ta sẽ có một rào chắn hiệu quả.” Anh dừng lại. “Tiện thể, tôi đã đục một lỗ trên trần nhà.”

    Bà chớp mắt, rồi mỉm cười. “Tất nhiên cậu làm vậy rồi, tôi thắc mắc làm thế nào cậu lên phòng mình được.” Bà chỉ vào quần áo anh. Nếu một cái lỗ trên trần nhà có làm phiền bà, bà không thể hiện ra.

    Cal nhìn quanh tầng hầm. “Tất cả mọi người không cần phải ở đây đâu; quá chật chội, và không cần thiết. Chúng ta sẽ chọn ra những ngôi nhà an toàn nhất, những ngôi nhà ít bị phơi bày nhất rồi tỏa ra. Ta có thể dùng những bao thức ăn củng cố thêm bức tường có khả năng bị trúng đạn. Theo cách đó ta sẽ hành động tốt hơn và quan sát tốt hơn. Đào vài đường hào để ta đi từ nơi này đến nơi khác an toàn. Chúng không cần sâu hay dài đâu, chỉ đủ dài để vượt qua những khu vực trống trải và đủ sâu để cúi đến thắt lưng.”

    “Ta cũng cần thực phẩm nữa, chăn đắp, quần áo. Nhiều người cần thuốc men,” Sherry lên tiếng. “Chỉ cho chúng tôi cách di chuyển từ nơi này đến nơi khác mà không bị bay mất mông, chúng tôi sẽ thu thập mọi thứ.”

    “Tôi sẽ lấy – “ anh bắt đầu, nhưng bà giơ tay lên ngăn anh lại.

    “Tôi không nói lấy nó, tôi nói chỉ cho chúng tôi cách lấy nó. Nếu cậu không nói, chúng tôi sẽ khá là vô dụng khi cậu vắng mặt. Chúng tôi phải chuẩn bị tiếp quản nơi này.”

    “Cháu có dư nhiều chăn đắp và gối,” Cate nói. “Thức ăn nữa. Còn một số đáng kể đệm có thể dùng để bảo vệ nếu cần làm thế. Hoặc nếu không, lôi chúng xuống nằm ngủ cũng được.”

    “Đệm là ý tưởng hay đấy,” Cal nói. “để ngủ. Đừng ngủ trên giường. Kéo đệm xuống đặt dưới sàn.”

    “Có thứ gì khác chúng ta dùng để gia cố thêm cho bức tường không?” Milly hỏi.

    “Những thứ như là hộp báo cũ, nếu ông còn giữ chúng. Những quyển sách, xếp thật chặt trong một chiếc hộp. Gối tựa không tốt tí nào; nó không đặc chắc. Đồ nội thất cũng không tốt. Hãy nghĩ tới việc như cuộn các tấm thảm lại thật chặt, buộc chúng khi cuộn xong, dựng chúng dựa vào bức tường dễ trúng đạn.”

    “Ai có bàn pi a với mặt bằng đá phiến không?” Creed hỏi.

    “Tôi có,” có tiếng trả lời, Cate nhìn quanh thấy Roland Gettys giơ bàn tay lên một chút. Ông hiếm khi nói nhiều, thường chỉ lắng nghe cuộc trò chuyện với một nụ cười thoảng qua trên gương mặt, trừ khi có người hỏi ông một câu hỏi trực tiếp.

    “Mặt đá phiến của bàn pi a là một lá chắn tuyệt vời nếu ông dựng mặt nó lên.”

    “Nó nặng cả tấn,” Roland nói, gật đầu.

    Creed nhìn Cal. “Tôi sẽ quan tâm tổ chức việc này. Cậu và Cate đi và lấy những thứ cần thiết.” Ông cúi xuống quyển sổ. “Những thứ tôi vừa viết ra chính xác chẳng có gì. Cháu có cần làm một danh sách không?”

    “Không cần đâu, với những dụng cụ leo núi thì không cần,” Cate trả lời. “Cháu có thể đóng gói nó khi nhắm mắt.” Cô cũng cần thứ gì đó mặc ngoài bộ đồ ngủ, nhưng cô gần như quên mất.

    “Như vậy,” Cal nói, chìa tay mình ra cho cô.

    “Em thu xếp dụng cụ leo núi còn anh sẽ đóng gói mọi thứ khác. Đi nào.”

    Quay về nhà mình dường như dễ dàng hơn cuộc tháo chạy của cô đêm qua – cô không phải chạy. Đôi dép trong nhà mỏng manh không mang lại cho đôi chân nhiều sự bảo vệ, nên cô vui mừng cẩn thận khi cô và Cal trượt từ vật chắn này tới vật chắn khác. Tuy nhiên, cẩn thận, nghĩa là mất thời gian hơn, và họ phải ở ngoài đó lâu hơn, bị đặt vào tình thế nguy hiểm nhiều hơn. Quả là vô cùng đáng sợ khi biết rằng ai đó đang ngồi bên kia đỉnh núi cách xa hơn nửa dặm có thể theo dõi cô di chuyển qua một ống ngắm, nới lỏng ngón tay trên cò súng ---

    Nghĩ đến đó, cô dừng lại rùng mình. Dường như nhận thức được từng cử động nhỏ nhất của cô, vị trí của cô, mọi lúc, Cal dừng chân và ngoái lại.

    “Sao thế?”

    Cate nhìn quanh. Trong một khoảng khắc, họ hoàn toàn an toàn. Cal tận dụng từng vật cản một, từ những khối đá đến thân cây, và ngôi nhà tới những nơi trũng trên mặt đất. Ngay lúc này họ đang ẩn sau vài tảng đá cao tới thắt lưng. Nó không giống như đêm qua, khi cô và Maureen ở trên tầng một của ngôi nhà, chỉ có bức tường gỗ giữa họ và một viên đạn.

    “Tôi chỉ nghĩ có ai đó đang quan sát chúng ta, những tay súng có thể nhìn thấy ta.”

    “Không thể. Không phải ngay lúc này.”

    “Tôi biết. Nhưng đêm qua – khi Maureen và tôi ở trên gác – tôi cảm giác viên đạn đang bay đến, tôi hốt hoảng đẩy bà xuống. Chuyện đó thật kỳ quặc. Tôi thực sự cảm nhận được, như thứ gì đó gây nhột giữa xương bả vai tôi. Cửa sổ vỡ, rồi sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng súng. Ngay lúc này tôi có cảm giác tương tự, nhưng chẳng có cách nào một viên đạn xuyên qua những tảng đá này, đúng không?”

    “Không đâu, ta an toàn ở đây.” Anh lại gần cô, cúi xuống, xem xét xung quanh, một biểu hiện chăm chú trong đôi mắt. “Nhưng đừng coi nhẹ cảm giác ấy, đặc biệt trong một tình huống chiến đấu. Anh cảm nhận nó sau gáy. Anh luôn luôn nghe theo. Tất nhiên chúng sẽ thay đổi một chút. Sẽ mất thời gian, nhưng nếu em cứ sợ hãi, chúng ta sẽ không có cơ hội nào.”

    Cô gật đầu, hài lòng một cách ngớ ngẩn rằng anh hiểu điều cô đang nói tới. Anh nghiên cứu mặt đất một lúc, rồi nằm sấp xuống, bắt đầu trườn đi theo một góc chín mươi độ theo một khe hẹp mà cô không chú ý. Bộ đồ ngủ sẽ bảo vệ cô, cô nghĩ, rồi nằm xuống bò theo anh.

    Billy Copeland cẩn thận quét ống ngắm đi đi lại lại. Gã cho rằng mình nhìn thấy một bộ quần áo lóe lên quanh vài tảng đá. Khoảng cách ở tít tận phía kia kỹ năng của gã, nhưng một phát đạn may mắn cũng tốt như một phát đạn khéo léo, và trong bất kỳ trường hợp nào, như Teague đã giải thích, chúng đang ở giai đoạn thuận lợi nhất của hoạt động: Tiếp tục tác động tới thần kinh họ, họ sẽ bị kiệt sức. Ông thực sự không phải bắn trúng mục tiêu để nhắc nhở họ rằng họ có thể bị sờ tới từ một khoảng cách xa đáng sợ.

    Quyết định mà gã phải chọn là có hay không nổ súng vào một mục tiêu không rõ ràng. Một mặt, chúng đã nổ cả đống đạn đêm qua, và bây giờ bản năng mách bảo gã hãy kiểm soát từng viên một. Mặt khác, thật là hài hước khi khiến ai đó vãi đái trong quần khi họ nghĩ rằng họ ẩn nấp đủ tốt.

    Ngón tay gã bắt đầu siết chặt trên cò súng, nhưng rồi gã nới lỏng áp lực.

    Không, không trừ khi gã chắc chắn nhìn thấy gì đó. Không lãng phí cảm xúc vào một viên đạn.

    Ngôi nhà của cô hoàn toàn yên ắng. Ngay cả vào ban đêm khi bọn trẻ đang ngủ trong giường, Cate cũng nghe thấy tiếng o o yếu ớt của các thiết bị, cảm giác mơ hồ rằng ngôi nhà còn sống. Không phải lúc này. Nó trống vắng, tối và lạnh lẽo một cách kỳ lạ, mặc dù ánh nắng đang chiếu xuống, vì cô đã kéo tất cả rèm cửa lại khi mặt trời lặn ngày hôm qua. Những tấm rèm không chỉ giữ ánh sáng không chiếu vào, nó còn ngăn cản ngôi nhà ấm lên.

    “Đưa anh chìa khóa cửa gác mái nào,” Cal nói. “Anh sẽ mang xuống tất cả dụng cụ leo núi trong khi em thay quần áo.”

    “Tôi nghĩ mình sẽ đi lấy các dụng cụ.”

    “Em đã có quá nhiều nỗi sợ hãi rồi. Ở đây an toàn hơn. Gác mái không được bảo vệ tí nào.”

    Cô nhướn lông mày. “Chuyện đó giúp tôi cảm thấy tốt hơn, bằng cách nào chứ? Anh sẽ ở trên đấy còn gì.”

    “Đúng vậy. Còn em sẽ ở trong phòng em. Chỉ cách đây không lâu, em trông sẵn sàng chiến đấu với nửa bang này để ngăn anh khỏi ra ngoài đêm nay, và anh đã lắng nghe em. Đó là lý do anh cảm thấy rất đúng đắn, trong tình huống này, em sẽ lắng nghe anh.” Giọng anh kiên quyết, còn biểu hiện trong đôi mắt thì lạnh băng và rõ ràng.

    Lời giải thích làm xẹp xuống mọi sự phản đối của cô. Cô nhăn mặt nhìn anh rồi đi tới chiếc bàn kê ở tiền sảnh lấy chìa khóa.

    “Từng có ai tranh luận với anh chưa?”

    “Anh không tranh luận. Lãng phí thời gian và hơi sức. Mặc dù, anh lắng nghe những ý kiến.” Anh ở ngay sau cô, giơ tay ra đón lấy chìa khóa.

    Cô đưa nó cho anh mà không phản đối, nhưng khi anh bắt đầu leo lên gác cô hỏi, “Anh có từng phát điên không?”

    Anh dừng lại, nhìn xuống cô. Trong bóng tối mờ mờ đôi mắt xanh xám của anh giống như pha lê, không một chút sắc xanh.

    “Có chứ, anh đã phát điên. Khi anh phát hiện tên khốn Mellor đang đe dọa em bằng khẩu súng, anh có thể xé hắn thành từng mảnh với bàn tay không của mình.”

    Dạ dày cô thít chặt với một nút buộc của cơn sốc, vì cô tin từng lời anh nói. Cô với tay chộp lấy trụ cầu thang, những ngón tay bám chặt vào gỗ. Cô nhớ lại biểu hiện trong mắt anh, cái cách những ngón tay siết chặt trên cò súng.

    “Anh sẵn sàng bắn hắn đúng không?”

    “Đừng nhắm một vũ khí vào ai nếu em không có ý định kéo cò,” anh nói, rồi leo lên những bậc thang. “Ở bên dưới trong lúc em thay quần áo,” anh gọi với lại.

    Sau một lúc Cate theo anh lên cầu thang, rẽ phải trở vào phòng ngủ của mình. Răm rắp, cô cúi xuống hết khả năng mà vẫn đi bộ được. Cô không lo sợ lúc này, nhưng điều đó không có nghĩa gì hết. Không gì xảy ra bên ngoài những tảng đá; đêm qua là một sự trùng hợp quái đản, không hơn.

    Nếu cô cứ tiếp tục nói với bản thân như thế, một ngày nào đó cô có thể tin nó. Cảm giác sợ hãi quá mạnh mẽ, quá gần gũi.

    Cô xua đi những ý nghĩ ngoại trừ những ý nghĩ về việc chuẩn bị cho chuyến thử thách gian khổ trước mắt. Một chuyến leo trèo giải trí là công việc nặng nhọc, nhưng vui vẻ, và cô luôn luôn biết rằng vào cuối ngày, cô sẽ được tắm nước nóng, có bữa ăn nóng sốt, và được ngủ trong một chiếc giường đẹp đẽ, thoải mái. Cô đã đi cắm trại một lần, và không hề thích nó.

    Khi leo núi, cô thường mặc quần thun co giãn (spandex pants), áo thun sát nách và áo lót thể thao bó gọn bên dưới, cùng đôi giày leo núi. Điều đắn đo đầu tiên là đôi giày, vì giày leo núi không dùng đi bộ được. Ngược lại, giày đi bộ không thuận lợi cho leo trèo. Cô luôn để lại giày thể thao ở một địa điểm, rồi đổi sang giày leo núi. Không làm thế lần này được, vì họ sẽ không leo xuống trở lại. Họ phải mang theo thức ăn, nước uống, chăn đắp cũng như dụng cụ leo núi, cộng với bất kể thứ vũ khí nào mà Cal cho rằng anh cần đến.

    Cô hít một hơi thật sâu, không để bản thân nghĩ rằng việc này là bất khả thi. Họ sẽ khắc phục bằng cách không trèo lên thẳng đứng; họ sẽ tìm một lối lên thực sự dễ dàng nhất – vẫn sẽ như địa ngục, nhưng chắc chắn không ở cùng mức độ như địa ngục.

    Cô không có đôi giày đi bộ đường dài nào, nên lựa chọn duy nhất của cô là giày thể thao. Thay vì chọn quần thun co giãn (spandex pants), cô dự định có lẽ mất ba đến bốn đêm trên núi, ở độ cao đó thường lạnh run người khi đêm xuống ngay cả giữa mùa hè; nên cô chọn quần nỉ thể thao (sweatpants). Cô có một cái với túi có khóa kéo, nên cô chọn nó, trải nó ngang giường. Cô thêm vài đôi tất, cộng với quần lót sạch. Có lẽ hơi ngớ ngẩn, nhưng cô không thể đối mặt với việc mặc cùng một chiếc quần lót trong bốn ngày. Cô lấy hai chiếc. Một chiếc sơ mi cổ tròn vải lụa, nhét vào. Một chiếc áo khoác nỉ có mũ trùm đầu, có thể buộc quanh eo. Cô nhét son dưỡng môi vào một bên túi quần, rồi mò quanh ngăn đồ lót cho tới khi tìm thấy con dao nhíp Thụy sĩ cũ của mình; nhét nó vào ngăn túi còn lại.

    Tiếp đến cô chải tóc, kéo nó ra sau, giữ nó gọn gàng, an toàn theo kiểu đuôi ngựa trong cái băng đô quấn tóc; để tóc kẹt vào bất kì dụng cụ leo núi nào đều sẽ đau đớn. Cô đứng đó trong một phút, cố gắng nhớ xem mình còn quên thứ gì. Có cần thêm bộ đồ giữ nhiệt, phòng trường hợp đêm trở nên quá lạnh không nhỉ? Chúng sẽ quá nóng để mặc vào ban ngày, nhưng ban đêm thì khác. Trên thực tế, nó sẽ đựng vừa trong chiếc túi ngoài của áo khoác nỉ.

    Khi nghĩ rằng mình có mọi thứ, cô mặc quần áo vào. Hai đôi tất, một mỏng một dày. Thêm vài đôi nữa nhét trong túi quần. Đến quần, giầy và cuối cùng cô buộc áo khoác nỉ quanh eo. Để kiểm tra, cô vươn dài người, vặn xoắn cơ thể xem quần áo có cản trở chuyển động cơ thể. Không hề, cô sẵn sàng đi.

    Điểm dừng tiếp theo: nhà bếp.

    Cal bước vào bếp trong lúc cô đang chia đồ ăn điểm tâm vào từng túi nhựa có kéo khóa. Anh chất đầy các thiết bị, đai leo, khóa hãm, vòng nối, mỏ kẹp, túi phấn và một cuộn dây mỏng.

    “Cuộn dây này bao lâu rồi?” anh hỏi.

    Chỉ lúc đó, tim cô rơi tõm xuống dạ dạy. “Ôi không,” cô nói khẽ. “Nó đã năm năm rồi.”

    Dây sợi tổng hợp kém đi theo thời gian, ngay cả nó không được dùng đến, cuộn dây này thì đã qua sử dụng. Cô và Derek rất chăm chút cuộn dây của họ, giặt tay trong bồn tắm, giữ chúng tránh ánh nắng mặt trời, nhưng cô đâu ngăn được cuộc tuần hành của thời gian. Họ không thể leo núi với cuộn dây này; đơn giản là thế. Một sợi dây cũ có thể dùng trong top – roping nhưng không được trong lead – climbing, cô không muốn dùng chúng, chấm hết.

    “Walter có ít dây tổng hợp ở cửa hàng,” anh nói. “Có lẽ không chính xác thứ ta cần, nhưng mới hơn nó. Anh sẽ đi lấy. Dài bao nhiêu nhỉ?”

    “Bảy mươi mét.”

    Anh gật đầu. Anh không hỏi dày bao nhiêu, nên cô đoán Walter có duy nhất một cuộn dây thôi. Họ sẽ dùng bất kỳ thứ gì có ở đấy.

    Anh biến mất ra ngoài, cô rời chỗ thức ăn, kiểm tra các thiết bị. Cô đã không chạm vào nó kể từ khi cất nó lên gác mái ba năm trước, khi cô chuyển đến đây. Anh không mang mũ bảo hiểm xuống, cô hiểu tại sao: chúng có màu sắc quá sáng, dễ bắt mắt. Nhiều người leo núi không đội mũ bảo hiểm, nhưng cô và Derek thì luôn luôn.

    Niềm đam mê trước đây ùa về khi cô sắp xếp các dụng cụ, trong một phút cô cảm thấy niềm phấn khích lôi kéo, sắc màu của mặt trời, độ cao, kỹ năng và sức mạnh khi cô tì vào mặt đá. Cô đã bị ngã, tất nhiên. Derek cũng thế. Vì mọi người leo núi cô biết đều vậy. Nhưng sợi dây luôn luôn ở đấy, và đó là lý do cô không muốn leo núi với sợi dây cũ.

    Cô buộc bản thân tránh xa các dụng cụ, quay lại việc chuẩn bị đồ ăn. Nước uống là một vấn đề lớn, nó rất nặng. Một ga lông nước nặng tám pound, chưa kể đến trọng lượng thùng đựng. Cô có vài chai nước, nhưng không thuận lợi để mang theo. Họ cần một túi da đựng nước, thứ có thể cất trong ba lô, nhưng cô không nghĩ ra cách nào để ứng biến một cái.

    Có lẽ Roy Edward sẽ biết nếu có một thác nước trên núi. Có đấy, chắc chắn, ngoài con suối lớn hơn ra, nó tạo nên một phần đường biên của Trail Stop trước khi hòa vào dòng sông.

    Cal trở lại với cuộn dây trên vai. Anh nhìn vào những thứ cô chuẩn bị và gật đầu.

    “Anh đã chuẩn bị ít đồ trong lúc đi lấy dây. Anh có diêm trong một hộp chống thấm nước, vài thứ khác kiểu thế. Chăn thì sao nhỉ?”

    “Những cái tôi có dày lắm,” cô trả lời. “Tôi định đi lấy những cái khác, nhưng nó vẫn quá dày để mang theo trong khi ta leo núi.”

    Anh gật đầu. “Anh có hai cái chăn mỏng tại chỗ ở của mình, và một tấm đệm ngủ cuộn chặt lại được. Được rồi, thế thôi. Ta có thể dùng nhiều đồ hơn nhưng lại không thể mang chúng theo. Đi thôi. Vào lúc ta sẵn sàng lên đường, không còn nhiều ánh sáng mặt trời đâu.”

    “Ta sẽ làm gì? Ta không thể leo núi trong bóng tối.”

    “Ta sẽ tìm nơi nào đó nghỉ lại, chỉ mất hai giờ thôi. Dù ta có thể làm gì hôm nay, ta sẽ tiết kiệm từng ấy thời gian cho ngày mai.”

    Anh đúng về điều đó, và anh đã có một kỷ luật nhanh nhẹn trong từng hành động, ngay cả giọng nói của anh, nó nói với cô rằng anh biết chính xác điều anh đang làm. Anh từng làm việc này trước đây, có lẽ trong một tình cảnh khốc liệt.

    Khi họ quay lại nhà Richardson, họ thấy Creed đã tổ chức những người khác với cùng kiểu hoạt bát mà Cal đã thể hiện. Trong khi Cal chỉ cho mấy người lối đi an toàn nhất để di chuyển xung quanh, các góc họ nên sử dụng, và nơi nào nên cảnh giác, Creed lo liệu vấn đề về nước uống.

    Theo Roy Edward có vài con suối trong dãy núi, thứ sẽ giúp ích, nhưng họ vẫn phải giải quyết vấn đề về những cái chai. Creed có vẻ trầm ngâm. Điều tiếp theo Cate biết, Maureen đang cắt ống chân của chiếc quần bó giữ nhiệt của Perry. Bà buộc một đầu, nhét những chai nước vào ống quần bị cắt như thể đang nhồi thuốc vào nòng pháo. Khi mỗi ống quần đầy, bà buộc nó lại, rồi tạo dáng thành cái đai có thể quàng qua vai và ngực, sao cho trọng lượng phần nước nằm trên lưng họ, Cate đeo thử. Nó nặng hơn là cô có thể thoải mái, nhưng nó sẽ vơi dần khi họ uống.

    Cal quay lại với hai cái chăn và thứ mà cô mong là một chiếc đệm ngủ, hóa ra giống cái thảm tập yoga hơn. Một cái chăn được cuộn lại và cột vào cô, trong khi anh mang cái thảm và chăn còn lại. Anh đeo đai nước, nhăn nhở với giải pháp tình thế, rồi nhìn Creed.

    “Nơi nào gần nhất chúng tôi có thể tìm sự trợ giúp sau khi leo qua rãnh cắt.”

    “Chỗ của tôi,” Creed trả lời. “Từ hiên sau nhà, tôi có thể trông thấy rãnh cắt. Mặt khác, một trang trại của những chàng công tử bột cách đường cao tốc sáu hay bảy dặm, và chỗ của Gordon Moons xa hơn một chút theo hướng ngược lại. Nếu tìm thấy nơi tôi ở, cậu có thể dùng điện thoại ở đó, nhưng cậu phải dùng bản đồ, lính thủy.”

    Cal cười toe toét.

    “Nếu ông tình cờ biết về tọa độ, tôi có một thiết bị GPS cầm tay.” Anh vỗ nhẹ vào túi quần vải thô bên đùi phải.

    Một điệu cười trả lời chậm chạp xòe rộng trên khuôn mặt Creed.

    “Hình dung về chuyện đó, tình cờ tôi cũng có một cái. Dùng nó chỉ dẫn để khỏi lạc đường không hẳn là tốt đâu, đúng không?”

    “Ông nhớ tọa độ không?”

    “Như mèo kitty có cặp mông? Nhớ nó như ngày sinh nhật tôi.”

     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  17. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 26 (halucky)

    “ÔNG ĐANG LÀM CÁI QUÁI GÌ Ở ngoài kia thế hả?”

    Toxtel càu nhàu Teague lúc vừa đi bộ về sau khi đổi gác với Billy. Goss đang nghỉ ngơi sau lều, vì gã đổi ca với Toxtel lúc nửa đêm. Giờ là lúc chúng ngồi nghỉ theo lệ thường, và là lúc tình trạng hoạt bát giảm sút đi.

    Teague trông thật kinh khủng và có vẻ tệ hơn, nhưng hắn đang đi lại, hắn có ý định đổi chỗ của mình. Khối u trên trán quá lớn hắn không thể đội mũ lên, một áp lực dù nhỏ nhất cũng khiến đầu hắn như muốn nổ tung, hắn chỉ là vui mừng không phải chịu đựng một cái mũ. Cơn đau cả ngày không suy giảm, nhưng khi gã kiểm tra con ngươi bằng gương chiếu hậu thì thấy cả hai vẫn có cùng kích cỡ, hắn cho rằng mình không sao; hắn chỉ phải chịu đựng cho qua cơn đau thôi. Cứ bốn tiếng đồng hồ hắn nổ lốp bốp hai viên thuốc chống viêm giảm đau hạ sốt, nuốt chửng chúng.

    Teague liếc nhìn về phía cộng đồng đang trong vẻ vắng lặng. Từ nơi hắn đứng, hắn nhìn thấy vài thi thể đang nằm tại nơi họ ngã xuống. Nếu có nhiều chuyện đã xảy ra cả ngày hôm đó, hắn không thể nói gì.

    “Ý anh là sao?”

    “Ông cho rằng ít nhất họ cũng cố tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng chẳng kẻ nào thò mũi ra cả hay hò hét, kêu la.”

    “Chờ cho tới ngày mai,” Teague trả lời. “Tôi hình dung Creed đang chỉ dẫn họ cố gắng làm gì đấy. Chúng có lẽ không đợi đến ngày mai, mà làm luôn đêm nay. Ta phải cảnh giác.”

    Hắn nhìn chằm chằm vào đống đổ nát của cây cầu; hắn sẽ không ngạc nhiên nếu bắt gặp Creed đang đứng phía bờ bên kia, súng săn đặt trên vai chĩa nòng vào mình … Khỉ thật, hắn phải ngừng suy nghĩ về Creed, để bản thân ngừng chú tâm tới ông ta. Hắn không ngu ngốc, hắn không hạ thấp Creed, nhưng tên khốn đó đâu phải một siêu nhân. Ông ta làm rất tốt công việc của mình, chấm hết. Ồ, Teague nghĩ, hắn cũng vậy đấy chứ.

    “Tôi không thích nó,” Toxtel lên tiếng. Gã, cũng thế, đang nhìn chằm chằm vào cây cầu. “Họ nên trả lời những gì ta đòi hỏi.”

    “Đừng quên, những anh chàng của tôi nổ súng vào họ quá thường xuyên. Họ chẳng kiếm đâu ra cơ hội mà ngẩng đầu. Ngày mai, ta chỉ bắn nếu nhìn thấy một mục tiêu.”

    “Có cách mẹ nào ta nói chuyện với họ không?”

    Những gã trai thành thị này không biết tí gì sao? “Ngay khi một người trong số họ buộc lá cờ làm hiệu, ta biết ông ta muốn đàm phán, đó là lúc ta nói chuyện.”

    Hắn rời đi, trèo lên nơi Billy đang cắm chốt, chuyến di chuyển ngoằn ngoèo hơn, vì hắn biết rõ có vài tên thợ săn hươu già có thể quan sát thấy mình qua ống ngắm, chờ đợi cho một phát đạn may mắn. Hắn chắc chắn họ không có cơ hội, ngay cả hắn nghĩ rằng khó có khả năng ai trong số họ có hỏa lực mạnh để chạm tới vị trí này. Mặt khác, hắn lấy làm ngạc nhiên Creed đã xoay sở tới gần mình thế nào đêm qua; hắn không để ông ta lặp lại lần hai đâu.

    Billy quá kiệt sức, vì Teague không thay ca cho gã suốt cả ngày; gã cuộn khỏi vị trí nằm sấp; gã đã nằm sõng soài như thế trên mặt đất gồ ghề nhiều giờ rồi.

    “Tạ ơn Chúa. Ông cảm thấy tốt hơn tí nào chưa?”

    “Tôi đây. Có gì thú vị không?”

    “Tôi cảm giác có rất nhiều chuyển động đang diễn ra phía sau những chướng ngại vật. Blake và Troy có cùng suy nghĩ. Thỉnh thoảng tôi thoáng thấy gì đó, nhưng không đủ để nói là gì. Và luôn luôn là sau vật che chắn đặc chắc nên tôi không rõ, tôi chẳng nhìn thấy gì ngay cả đến một con chó hay một con mèo.”

    “Ông nổ súng để khiến họ cúi đầu xuống?”

    “Vài lần đúng, vài lần không. Tuân thủ mục tiêu tránh lãng phí đạn.”

    Teague hiểu ý gã. Hắn ổn định vị trí gần khẩu súng trường trên cái chăn Bill đã trải lên mặt đất, phủ lên cả những chiếc lá và cành thông, giúp phiên trực dài thoải mái hơn. Pin dự phòng cho ống ngắm cảm biến nhiệt để trong tầm tay, cũng như bình ủ cà phê và một gói bánh quy giòn nếu hắn cần thêm năng lượng. Ít nhất đêm nay không lạnh bằng đêm qua, nên hắn không phải run rẩy lẩy bẩy, khiến cơn đau đầu như búa bổ.

    “Không ai cố gắng tìm và nhặt mấy cái xác về,” Billy nói, nghe chừng lo lắng. “Chuyện đó làm tôi không yên.”

    “Nếu họ làm, sẽ là đêm nay. Họ sẽ phải đợi cho trời tối.”

    “Họ hẳn đã hiểu ra ta có ống ngắm đặc biệt, đó là cách ta bắn trúng họ đêm qua.”

    “Ừ, có lẽ họ đã kiếm ra thứ gì đó di động được để họ trốn phía sau. Ta sẽ biết thôi.”

    “Ông sẽ nổ súng nếu họ tới kéo cái xác về?”

    Teague cân nhắc câu hỏi. “Tôi không nghĩ vậy. Blake đã vào vị trí chưa?”

    “Cậu ta đã giải cứu cho Troy cách đây khoảng nửa giờ.”

    “Tôi sẽ điện đàm cho nó. Cứ để họ lấy cái xác. Tôi không biết họ sẽ làm gì với chúng, tôi không nghĩ nó dễ chịu đâu, giữ mấy cái xác nằm xung quanh chỉ tổ thu hút ruồi nhặng và chuyển màu đen thôi. Đặt thêm chút áp lực lên họ.”

    “Sẽ như vậy.” Billy duỗi dài cơ thể, rồi cúi mình lần theo lối phía sau Teague, hướng về lều. “Chúc vui vẻ đêm nay.”

    Teague cẩn thận ôm khẩu súng trường, quay ống ngắm hồng ngoại, nhớ về quãng thời gian đêm qua. Đêm qua, Trail Stop được thắp sáng bởi những dấu hiệu nhiệt; đêm nay chẳng có gì. Những ngôi nhà không bừng sáng vì nhiệt, không vật thể bé nhỏ nào chạy xung quanh phát ra tia sáng tạo thành mục tiêu hoàn hảo cho chúng. Cân nhắc cảm giác của đầu mình, hắn hy vọng đêm nay yên tĩnh như này thì tốt.

    Cate kiểm tra đồng hồ đeo tay dạ quang mà Cal cho cô mượn, vì cái của cô không phát sáng. Bảy rưỡi. Cô kéo tấm chăn lên sát vai mình, nhìn chăm chú lên bầu trời nhiều mây, vui mừng vì đêm nay mát mẻ chứ không lạnh. Cô sẽ thích hơn nếu có một chút ánh trăng hiền hòa. Mắt cô đã từ lâu làm quen với bóng tối, nhưng không phải tối hoàn toàn. Cô không muốn đi tới đâu mà mình không nhìn thấy rõ, nhưng cô có thể nhận ra một hình dáng hay một bóng người. Miễn là không có thứ gì di chuyển, không nghe thấy bất kỳ tiếng động va chạm nào, cô thấy ổn.

    Cal đang nằm nghiêng, ngủ trên tấm đệm mỏng mà anh mang theo, chăn kéo lên tới cằm. Họ đeo đồng hồ, ít nhất trong đêm đầu tiên, vì họ phải trông chừng lối đi dẫn tới vị trí này. Cate nhận ca đầu; vì ca từ nửa đêm đến sáng là vất vả nhất, anh bảo thế, anh sẽ nhận ca đó.

    Anh rơi vào giấc ngủ quá nhanh, quá dễ dàng, càng khiến cô lúng túng. Cô ước chi có đủ ánh sáng để được ngắm nhìn anh, nhưng rồi cô phải bằng lòng với việc lắng nghe anh thở. Anh chuyển tư thế một hay hai lần, nhưng phần lớn thời gian còn lại anh nằm yên. Vì không có chuyện gì xảy ra thu hút sự chú ý của cô, sau một hồi cô ngừng nhìn chằm chằm vào âm thanh của màn đêm, từng tiếng sột soạt khẽ khàng, từng cơn gió thoảng qua, khi những động vật và côn trùng ăn đêm bắt đầu công việc. Thay vì thế, cô nghĩ về anh.

    Cal đã nói Trail Stop có hình dạng giống trùng đế giày. Những lời nói kỳ quặc cứ lởn vởn trong đầu khi cô theo anh xuống đường dốc thẳng đứng hướng về dòng sông. Cate còn nhớ trùng đế giày là gì, từ bài học sinh học thời phổ thông, nhưng cách lựa chọn từ ngữ nhắc nhở cô về một khía cạnh khác của sự phức tạp trong một con người trọn vẹn.

    Những ngày vừa qua có một sự khai sáng, cho tới khi cô cảm giác như thể mình là một kẻ mù quáng nhất, kém hiểu biết nhất ở Trail Stop. Vài ngày trước đây, cô còn nhìn anh như một người không tồn tại: nhút nhát đến phát phiền, ăn nói ngập ngừng, nhưng sửa chữa được mọi thứ. Anh là một người cố gắng làm thật nhiều nghề, cô khám phá ra rằng trong khi anh có thể là một người trầm tính, anh không hề nhút nhát; trên thực tế, anh nói nhiều, có giáo dục và dứt khoát. Anh từng ở trong quân đội, điều tiếp theo mà cô không biết, nhưng rõ ràng anh thuộc một đơn vị chuyên biệt.

    Mọi người khác ở Trail Stop có vẻ biết rất rõ về anh. Sao cô không chú ý thấy sự khác biệt trong cách cô nhìn anh và cách mọi người nhìn anh? Tất nhiên, họ quen anh lâu hơn, nhưng vẫn – cô thấy như thể mình vẫn bỏ sót vài mảnh ghép lớn, vải mảnh ghép nhiệm màu sẽ đưa mọi thứ ăn khớp vào tâm điểm.

    Phần đuôi của trùng đế giày nghiêng xuống dưới, một điều là tốt vì hai lý do: nó cung cấp một nơi trú ẩn, và đoạn dốc xuống dòng sông tuy đột ngột nhưng không cao. Ở vị trí cao nhất, bờ dốc gần như dốc đứng và tới bảy mươi feet, nhưng tại đây điểm cuối phía đông nó giảm xuống chỉ còn bốn mươi feet, thoải hơn, nghĩa là họ có thể trèo xuống mà không cần dây thừng. Cal dùng một cái cuốc chim phạt những chỗ để chân vững chắc vào trong đất bẩn, nên cả hai đi xuống trong tư thế gần như thẳng đứng.

    Tới gần con sông, tiếng gầm của dòng nước khiến cuộc trò chuyện là không khả thi trừ khi họ hét lên, nên cô phải tập trung khỏi bị trượt chân khi họ dàn xếp trên những tảng đá lởm chởm. Không có bờ sông, không giống theo chiều hướng mọi người thường nghĩ. Sát mép nước toàn là đá: hòn to, hòn nhỏ, hòn tròn nhẵn, hòn sắc cạnh. Có vị trí chắc chắn, có vị trí lắc lư. Có vài chỗ trơn trượt. Có chỗ vừa lắc lư vừa trơn trượt, và đó là những hòn nguy hiểm nhất. Cô phải chắc chắn có ít nhất một bàn tay bám chắc trước khi đặt trọng lượng của mình lên hòn đá nào. Tốc độ phải duy trì chậm, rất chậm, đến độ cô bắt đầu lo lắng họ không thể tới mặt đất thân thiện trước khi trời tối, nhưng rồi họ tới chân núi vừa kịp lúc. Cal tìm thấy một chỗ nhô ra được bảo vệ và đó là nơi họ dừng lại.

    Không giống buổi đi cắm trại. Chỉ có hai người bọn họ, ngồi đấy trên mặt đất trong bóng tối, ăn nhẹ tí đồ đựng trong túi nhựa và uống chút nước. Rồi anh trải đệm, nằm xuống ngủ, để lại cô một mình với cả mớ ý nghĩ.

    Đến nửa đêm cô gọi. “Cal” và chỉ có thế, anh tỉnh dậy, không cần cô phải lay anh hay nhắc lại tên mình. Anh ngồi dậy, vươn vai và ngáp.

    “Sao anh làm thế được?” cô hỏi, giữ giọng mình thấp vì âm thanh dễ vọng xa trong đêm.

    “Làm gì?”

    “Tỉnh dậy nhanh thế.”

    “Luyện tập, anh đoán vậy.”

    Cô trả anh đồng hồ, anh đeo nó lại cổ tay mình trong khi cô duỗi dài trên tấm đệm. Cô đã tự hỏi liệu nó có thoải mái như bề ngoài. Không hề. Nó là một tấm đệm mỏng trên mặt đất ghồ ghề, cô cảm nhận từng rễ cây từng hòn đá; tuy nhiên, còn tốt hơn ngủ trên mặt đất, vì nó xua bớt cái giá lạnh.

    Cô trải chăn của mình để đắp khi anh lấy một chai nước, ngồi xuống nơi cô đã ngồi. Cô cố gắng ngủ thiếp đi, nếu không ngay lập tức được như anh, thì ít nhất cũng sau năm đến mười phút. Mười lăm phút sau cô vẫn cựa quậy.

    “Nếu em không nằm yên, giấc ngủ sẽ không đến,” anh nói, nghe thích thú.

    “Tôi không phải một người giỏi đi cắm trại; Tôi không thích ngủ trên mặt đất.”

    “Trong những tình huống khác nhau—“ Anh dừng lại.

    Cô chờ anh nói gì đó khác, nhưng anh cúi người để rơi điều mình định nói hơn là giải thích rõ ràng.

    “Trong những tình huống khác – là sao?” cô thúc bách.

    Thêm sự im lặng, chỉ bị phá vỡ bởi một làn gió nhẹ thổi xào xạc qua những thân cây. Anh chỉ là một hình dáng lờ mờ trong bóng tối, nhưng cô cảm nhận được anh ngẩng đầu lên, lắng nghe tiếng gì đó. Anh hẳn không nghe thấy cái gì đáng báo động, vì cơ thể anh nhanh chóng thả lỏng. Lời anh phát ra khẽ khàng.

    “Em có thể ngủ trên anh.”

    Máu dồn trong cơ thể khiến cô thấy choáng váng. Vâng. Vâng, đó là điều cô muốn, điều cô thèm khát. Cô lắng nghe cơ thể lên tiếng, nhưng chỉ nhẹ nhàng nói, “Hoặc ngược lại.”

    Anh hít vào rời rạc, còn cô mỉm cười trong bóng tối. Thật là tuyệt khi cô có thể đối xử với anh đúng cái điều anh vừa làm với cô.

    Anh đổi chỗ đôi chân, như thể anh không thoải mái. Cuối cùng anh lẩm bẩm gì đó, đứng dậy, vặn mình trước khi thận trọng ngồi lại. Cate cười khúc khích.

    “Tôi xin lỗi,” cô buộc bản thân nói, mặc dù cô chẳng ăn năn tí nào.

    “Anh nghi ngờ đấy.” Giọng anh nghe vẻ chế giễu. “Em nên có một cái trong một thời gian ngắn, chỉ để biết nó thuận tiện thế nào.”

    “Nếu tôi có một cái, anh sẽ không cảm thấy khó chịu.”

    “Anh nói trong một thời gian ngắn. Anh dứt khoát không muốn em có một cái lâu dài.”

    “Tôi không cần cái nào hết.” Con tiểu quỷ bên trong thúc cô thêm vào, “Vì anh sẽ để tôi sử dụng cơ thể mình đúng không?”

    Cuốn xuống một hơi thở khác, rồi đến vài hơi thở khó khăn. Anh nói, “Chết tiệt,” và đứng dậy lần nữa.

    Lần này cô không thể nén được tiếng cười nấc cục.

    “Có vài lần anh nghe thấy Tucker giống như thế,” anh nói. “Chúng không giống em nhiều lắm, nhưng thỉnh thoảng cách chúng nói về điều gì đó, hoặc giữ cái đầu – đó là lúc anh nhìn thấy em trong chúng.”

    Chỉ thế thôi trái tim cô thít lại. Cô không nhìn thấy con mình kể từ sáng thứ Sáu, và giờ đã là đêm Chủ nhật. Mặc dù, chúng không sao; đó mới quan trọng. Chúng an toàn. Và Cal là người duy nhất từng nói rằng chúng nhắc anh nhớ đến cô. Nếu anh muốn thay đổi chủ đề bằng cách kể về bọn trẻ, cô đang sẵn sàng.

    “Anh có một lời thú tội muốn nói ra,” anh lẩm bẩm.

    “Về cái gì?”

    Anh hắng giọng. “Anh có một – uh – anh đã nói vài câu không nên nói trước mặt chúng.”

    Cate ngồi nhỏm dậy trên tấm đệm, mừng vì anh không nhìn thấy khuôn mặt mình.

    “Như là … mẹ kiếp?” cô tỏ rõ sự nghi ngờ.

    “Anh đập nhát búa vào ngón tay cái,” anh nói, nghe vẻ vô cùng ngập ngừng. “Anh – uh – anh nói một loạt thập cẩm các chữ cái về mọi thứ.”

    “Như là?” cô hỏi lại, bằng cách nào đó điều khiển giữ giọng mình nghiêm nghị.

    “À, anh – Cate, anh là một lính thủy, nếu điều đó cho em vài gợi ý.”

    “Chính xác tôi chuẩn bị được nghe các con mình nói gì?”

    Anh chịu thua, sụm vai xuống. “Em muốn nghe cả từ hay chỉ là chữ viết tắt?”

    Ố ồ. Cô biết anh đề cập tới chữ viết tắt, nó hẳn là những từ xấu xa. “Viết tắt đi.”

    “Anh bắt đầu với g.d” (g.d = god damned: khốn kiếp)

    “Và gì nữa?”

    “Um … m.f và s.o.b” (motherfucker và son of a bitch: mẹ nhà mày và đồ khốn)

    Cô chớp mắt. Cô có thể hình dung những từ này bật ra từ miệng hai đứa bé bốn tuổi – có lẽ khi mẹ cô trong cửa hàng tạp hóa với chúng.

    “Anh nghe thấy tiếng cười khúc khích, nhìn quanh, và chúng ở đó, vểnh cả hai tai. Anh không nghĩ ra được việc gì khác để làm, nên ném cái búa, nhảy lên và la lớn, ‘tôi là một thằng ngốc chết tiệt!’ Chúng cho rằng chuyện đó thật vui nhộn, đặc biệt khi anh dặn chúng ‘thằng ngốc chết tiệt’ là một câu rất, rất xấu để nói, và chúng không bao giờ nên nói, cũng như anh không bao giờ nên nói trước mặt chúng, từ đó chỉ nói khi chúng thực sự phát điên.” Anh dừng lại. “Anh đoán nó hiệu quả.”

    “Tôi đoán nó phát huy tác dụng,” cô nói yếu ớt. Anh chắc chắn biết đầu óc bọn trẻ hoạt động thế nào. Chúng nhanh chóng quên đi những từ coi là không phải xấu, và tập trung vào những từ anh bảo chúng là thực sự xấu. Cô nên biết ơn Chúa về những gì mình đang có.

    Cô bụm tay lên miệng khi cơ thể rung rung vì cười, cười khúc khích rồi cười hô hố. Tại khoảnh khắc ấy, cô nghe thấy giọng nói đầy ngượng ngùng của anh, thích thú tưởng tượng ra hình ảnh anh đang phát ra một tràng chửi thề thì đột nhiên bắt gặp gương mặt như bị thôi miên của hai cậu bé, cô lật ngược mình, đầu óc trôi lơ lửng – rồi thiếp đi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  18. phamjnn

    phamjnn Lớp 8

    Trời ơi, tốc độ thật đó, nể @halucky thật thôi :'( Mình cả tháng nay ko dịch thêm được chữ nào cả. Cố lên nha! Ủng hộ bạn hết mình :*

    @phamjnn : Viết đúng chính tả nha bạn. Bạn đọc quy định về comment trong box dịch tại Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (teacher.anh)
     
    Last edited by a moderator: 27/5/15
    halucky thích bài này.
  19. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 27 (halucky)

    KHI TRỜI SÁNG, TEAGUE đứng dậy vặn vai, vui mừng vì đêm đã qua mà không có chuyện gì. Hắn buộc bản thân phải cảnh giác suốt ca trực để rồi biết rằng Creed không lên kế hoạch nào, nếu có đấy là lúc mọi việc diễn ra; đồng hồ sinh học của một người ở mức thấp nhất trong những giờ phút đó – ít nhất với những kẻ vừa chờ đợi vừa quan sát. Teague đã trông ngóng bất cứ điều gì, thậm chí chỉ vài hoạt động như thử đột nhập. Nhưng hết giờ này đến giờ khác hắn quét ống ngắm qua lại mà không thấy lóe sáng dấu hiệu nhiệt của con người. Blake cũng thắc mắc, điện đàm thường xuyên cho Teague hỏi có thấy gì không, nhưng không có gì hết.

    Bầu trời bình minh u ám, những đám mây ảm đạm xà xuống thấp đang cuồn cuộn trên đỉnh núi như một bức màn che. Nhiệt độ ấm hơn duy trì cả đêm, nhưng giờ một cơn gió lạnh gai người bắt đầu thổi. Thời tiết tháng Chín không ổn định vì đó là thời điểm giao mùa. Teague kiểm tra mức cà phê trong bình ủ nhiệt; nó đang xuống thấp. Hắn cần thêm nữa nếu cơn gió này tiếp tục thổi.

    Hắn liếc ngang về phía Trail Stop. Nó như một thị trấn ma, không có chuyển động nào xung quanh. Không, chờ đã – hắn chắc chắn nhìn thấy vài làn khói bốc lên từ phía xa xa. Thật khó để khẳng định, vì bầu trời xám xịt và, với những đám mây đang xà xuống ngọn núi, mọi vật hòa lẫn với nhau, nhưng – chết tiệt, đúng, đó là khói. Ai đó có một ngọn lửa đang cháy trong lò sưởi. Đó là nơi mọi người sẽ ở, nơi bọn họ được sưởi ấm, khéo còn đun nóng súp, pha cà phê ấy chứ. Hắn bấm nút bộ đàm.

    “Blake. Kiểm tra hướng dòng sông, mấy ngôi nhà xa nhất. Thấy khói không?”

    Đôi mắt Blake tinh tường hơn của hắn, đáng tin tưởng hơn. Blake trở lại với câu trả lời chỉ sau vài giây.

    “Là khói, không cách nào khác. Muốn cháu thử một viên vào đó không?”

    “Ta không nghĩ cháu có tầm bắn quang đãng, quá nhiều vật cản giữa đây và đó. Ta biết ta không có.”

    Một phút trôi qua, Blake trên điện đàm một lần nữa. “Tầm ngắm không rõ. Dùng ống nhòm của cháu kiểm tra rồi.”

    “Ta biết mà.”

    Teague ngồi lại trên cái chăn, một lần nữa nghiên cứu con đường và các ngôi nhà gần mình nhất. Cảm giác khó chịu cứ nhấn nhử xương sống hắn. Hôm nay có cái gì đó thật ma quái về nơi này, có thể do sắc xám của buổi sáng và những đám mây xà thấp khiến hắn cảm giác bị bao vây. Con đường vắng vẻ có gì đó không ổn. Hắn cứng người, nhìn chằm chằm. Con đường trống không, hoàn toàn.

    Mấy cái xác đã biến mất.

    Hắn không tin vào mắt mình. Hắn chớp mắt, nhìn chăm chú, nhưng chúng không kỳ diệu xuất hiện trở lại. Những cái xác không cánh mà bay.

    Hắn nhặt bộ đàm. “Blake,” hắn nói bằng giọng khàn khàn.

    “Có mặt,” giọng Blake.

    “Mấy thi thể mất rồi.”

    “Cái--?” Blake hẳn phải tự mình kiểm tra lại, vì gã thốt ra, “Cứt thật.

    Teague vẫn nhìn chằm chằm, không thể tiếp nhận sự việc. Bằng cách quái nào chứ--? Creed. Mẹ kiếp Creed. Ông ta đã phát hiện ra chúng có ống ngắm cảm biến nhiệt thay vì ống ngắm nhìn xuyên đêm, nên bày ra vài cách cho dân địa phương di chuyển xung quanh mà không bị phát hiện. Hình ảnh nhiệt không phải là luôn luôn hiện rõ; lội xuống nước ngụy trang cho dấu hiệu nhiệt của bạn là biện pháp đánh lừa tốt nhất. Nhưng nếu họ lội xuống suối phía bên phải, dòng nước lởm khởm đầy đá là đá và thực tế là không thể vượt qua; rồi họ còn cả một quãng đường dài phải đi để tới được cái xác, đến lúc đó dấu hiệu nhiệt của họ đã xuất hiện trở lại rồi. Tương tự thế, họ không thể đi về phía trái, vì nếu vậy sẽ đặt họ vào ngay sân trước của Blake, gã sẽ nhìn thấy họ trước khi họ xuống tới dòng suối.

    Vậy thì, còn vài cách khác.

    Hắn nheo mắt, xem xét địa điểm, rồi nhặt ống nhòm quét một lượt từ ngôi nhà này đến ngôi nhà khác, dừng lại ở nơi, từ khoảng cách này, trông giống một đoạn tường thấp. Làm gì có một bức tường ở đó lúc trước. Hắn đã lưu ý mọi thứ như thế khi thăm dò. Bên cạnh đó, đỉnh không bằng phẳng. Thay vì một bức tường, nó giống như những bao cát hơn.

    Chà, đồ khốn. Đám dân địa phương đã bận rộn cả đêm qua. Hắn ngoan cố thấy mừng rằng họ không cuộn người trèo qua và đùa giỡn với cái chết; hắn sẽ xấu hổ trước mặt hai gã trai thành phố nếu họ làm thế. Hắn đã nói rằng họ rất khó nhằn, và điều này chứng minh hắn đúng. Họ đã củng cố vị trí của mình và trang bị cho bản thân một cách di chuyển an toàn. Đằng sau những bao kia, không viên đạn nào chạm tới họ.

    Hắn cầm điện đàm lần nữa.

    “Blake. Nhìn các đoạn tường thấp kia. Đấy không phải tường. Ta thấy giống những bao cát.” Ngay khi nói thế, hắn nhận ra chúng không gần với những bao cát. Thứ gì khác kia, thứ gì đó đựng trong bao. Thức ăn gia súc, hỗn hợp bê tông, hay thứ gì tương tự. Không quan trọng; tác dụng đều giống nhau.

    Blake nhìn. “Chúng ta sẽ làm gì?” cuối cùng gã hỏi, rõ ràng đồng ý với nhận xét về bao cát.

    “Không thể làm gì khác hơn điều chúng ta đang làm đâu. Đừng để bất kỳ ai xoay sở vượt qua cháu: giữ họ cho tới khi họ giơ tay chịu đưa thứ hai gã trai thành phố muốn.”

    Có thể lâu hơn so với gã dự định, điều đó không tốt. Toàn bộ kế hoạch bấp bênh này có thể sụp đổ bất cứ lúc nào nếu ai đó quyết định thò mũi ra sai thời điểm. Đó là một rủi ro hắn chấp nhận, nhưng hắn không cho phép tình huống này kéo dài vô hạn định. Hắn sẽ giữ nguyên thời gian biểu của mình, bất kể hai gã trai thành phố nghĩ gì.

    “Cột dây chưa?”

    “Cột rồi.”

    Với sự đảm bảo thầm lặng mà Cal dành cho mình nếu cô ngã, Cate vươn người trên vách đá. Cal đã tìm thấy một đường đi an toàn hơn, vì leo trèo trên đá là lãng phí thời gian, nhưng anh không tìm được lộ trình nào mà họ không phải phơi mình ra trước làn đạn súng trường. Cô lấy làm mừng vì nó không là một chặng đường leo trèo lởm chởm hơn và cao hơn, vì không ai trong họ được luyện tập, cũng như cả hai đều không mang giày leo núi. Hình thức bề ngoài của cô không thuận lợi cho leo núi; cơ chân khỏe mạnh nhờ việc trèo lên xuống cầu thang mỗi ngày, nhưng sức mạnh phần cơ thể phía trên có lẽ chỉ bằng một nửa so với khi cô leo núi thường xuyên.

    Thời tiết không tuyệt vời cho leo núi; gió đang nổi lên, những đám mây ngày càng xà xuống thấp hơn. Nếu trời bắt đầu mưa, họ không thể quay trở xuống và chờ cho thời tiết đẹp lại; họ phải bấm vào những tảng đá, cho dù mưa làm cho đá trơn trượt. Họ phải cẩn thận hơn. Cô cảm ơn Chúa đây là một chặng đường leo núi trở lại dễ dàng. Khoảng một trăm yard, có thể một trăm hai mươi yard lên tới đỉnh – và không dựng đứng.

    Những người leo núi khác đã ở đó trước họ; chốt ghim, mỏ kẹp đã găm vào đá ở nhiều vị trí khác nhau. Vài người leo núi tháo chúng khi họ đi, để lại tảng đá như lúc họ tìm thấy, nhiều người khác chẳng bận tâm. Thường thường Cate không tin tưởng một cái chốt ghim mà không phải tự bản thân cô – hay Derek cắm – nhưng để đẩy nhanh tốc độ cô đã chuẩn bị sử dụng một vài cái cắm trước nếu họ cảm thấy chúng chắc chắn.

    Cả hai người họ đều có đai đeo và nối dây với nhau vững vàng. Vì cô có kinh nghiệm nhất, cô dẫn đầu sợi dây; cô thu xếp dò đường, khi cô leo lên, tự nhiên, hết chiều dài đoạn dây, cô dừng lại và anh theo sau. Với vòng dây sắp đặt như thế, anh sẽ bắt được cô nếu cô rơi. Khi cô dừng lại, cô trở thành chốt giữ và sẽ giữ được anh nếu anh rơi.

    Một phần trong cô hồ hởi được quay trở lại với núi đá, thậm chí một vách đá dễ dàng. Đó là sự thư giãn, cuộc chơi của cơ bắp, sức khỏe và kỹ năng của cô đối với vách đá. Đồng thời, tận sâu trong xương cốt cô biết rằng đây là lần cuối cùng cô leo núi – ít nhất cho tới khi những đứa con của cô trưởng thành – và lý do duy nhất cô đang làm việc này là vì sự nghiêm trọng của hoàn cảnh. Cô hiểu đây là lần cuối cùng cô được trải nghiệm cảm giác rùng mình đặc biệt này, cô chú ý đến từng khoảnh khắc, từng tiếng kẽo kẹt, mùi vị, âm thanh, từng lời thì thầm của sợi dây, của làn gió táp vào khuôn mặt, mặt đá gồ ghề, mát lạnh bên dưới những đầu ngón tay. Mỗi lần nhìn quanh và nhận ra mình leo cao thế nào, cô cảm thấy hài lòng đến mãnh liệt.

    Cô kiếm được một chỗ đứng vững chắc, thiết lập một vật chèn, rồi leo nhanh. Với dấu hiệu của cô, Cal bắt đầu leo tới, bám sát lộ trình mà cô đã vạch ra. Cô quan sát từng cử động của anh, khóa hãm sẵn sàng trong tay phòng trường hợp anh trượt ngã. Đôi bốt của anh còn không phù hợp cho leo núi bằng đôi giày thể thao của cô, nên mỗi cử động của anh đều nguy hiểm. Sức mạnh cơ thể phía trên của anh bù đắp phần nào cho đôi bốt. Mặc kệ gió lạnh, anh cởi áo khoác, cuộn nó lại trước khi nhét vào đám đồ anh buộc bằng dây da phía sau lưng, nên cô nhìn thấy cơ bắp căng phồng và dây chằng trên cánh tay trần của anh. Sức mạnh của một người leo núi nằm ở cơ bắp gân guốc, dẻo dai, như cuộn dây thép, chứ không phải vẻ đồ sộ của người tập thể hình. Cánh tay của Cal trông như thể anh leo núi cả đời mình vậy.

    Một màn sương lạnh quét qua họ, trong một phần giây, tầm nhìn giảm xuống bằng không như đám mây nhấn chìm ngọn núi.

    Cô biết anh vẫn ở đấy, cô cảm nhận được anh trên đầu dây, nhưng cô không nhìn thấy anh.

    “Cal!”

    “Anh vẫn ở đây.”

    Giọng anh bình thản như thể họ đang đi tản bộ. Một ngày gần đây cô cần nói chuyện với anh về điều này; nó không tự nhiên chút nào.

    “Tôi không thấy anh, nên hãy nói chuyện với tôi, khỉ thật. Kể với tôi mọi việc anh làm, từng bước. Tôi phải được biết.”

    Anh buộc phải nói chuyện đều đều với cô cho tới khi gió thổi màn sương mờ đi, một lần nữa anh xuất hiện trong tầm nhìn. Đó là cách mọi việc diễn ra trong giờ kế tiếp, với màn sương mờ thổi đến và đi như những đám mây thấp nuốt chửng họ. Tới một điểm, màn sương giống như màn bụi nặng nề, cả hai người dừng lại mặc vào chiếc áo poncho mỏng, rẻ tiền nhưng ít nhất giữ phần lớn quần áo của họ khô ráo. Đó là vật dụng giúp họ chống lại cơn mưa, vì áo poncho khá nhẹ, vậy mà leo lên vẫn khó khăn khi mặc nó. Nên đơn giản họ chờ cho màn sương mờ bay đi lần nữa. Cởi áo poncho, hai người leo tiếp.

    Thời tiết làm chậm họ đáng kể, đến mười giờ sáng họ chạm tới đỉnh của vách đá, chẳng phải là nơi gần với độ cao mà họ cần đạt. Trải dài trước mặt họ là một sườn dốc dày đặc cây cối; địa hình sẽ đưa họ về hướng bắc thay vì hướng tây bắc, hướng họ cần đi, nhưng họ buộc phải đi theo vùng đất và sự hạn chế của nó.

    Sau đó, họ nhấm nháp ít nước, ăn nhiều đồ ăn hơn, rồi bước ra xa trả lời tiếng gọi của tự nhiên trong riêng tư, họ cẩn thận cuộn dây lại, khoác chúng trên vai, tiếp tục hành trình, lần này với Cal dẫn đầu. Một cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi. Họ mặc lại áo poncho, và hành quân tiếp.

    Lên tiếng đi!” Toxtel bùng nổ, khum bàn tay quanh miệng cho âm thanh truyền xa.

    Đúng là đùa cho vui, Goss nghĩ, chứ gã chẳng biết có ai nghe thấy ở khoảng cách đó. Tất cả cái đám người kia đã biến mất, thoát khỏi tầm nhìn như thể họ chưa từng tồn tại. Ngay cả mấy thi thể cũng đi luôn. Sáng nay khi gã và Toxtel chú ý lần đầu tiên đến chuyện đó, chúng hơi mất bình tĩnh, vì Teague đã đặt niềm tin vào ống ngắm cảm ứng nhiệt yêu thích của hắn, vậy mà bằng cách nào đó, đám dân nhà quê đã vượt mặt hắn. Đến lúc cho bước tiếp theo, trước khi những người kia có cơ hội giở trò khác.

    Toxtel đã rống lên đến mười lăm phút rồi, chẳng hề có một chuyển động dù thoáng qua ở bờ bên kia. Gã chắc đã xì hơi trong gió, vì tất cả hiệu quả mà gã đang có.

    Sau nửa tiếng đồng hồ, giọng Toxtel khàn đi, cuối cùng một bàn tay vẫy vẫy mẩu vải trắng xuất hiện trước cánh cửa ngôi nhà đầu tiên. Toxtel hét lên lần nữa, rồi vẫy cờ của mình, một ông già lê bước ra hàng hiên.

    Ông già trông như gần chín mươi, Goss nghĩ trong sự hoài nghi, theo dõi khi ông ta cần mẫn lần đường xuống bậc cấp, lảo đảo bước qua hàng trăm yard tới đống đổ nát của cây cầu. Đây là người tốt nhất họ cử đi ư? Nhưng tại sao lại cử người tốt nhất? Sao lại chấp nhận rủi ro nhất? Suy nghĩ về điều đó, ông già là một lựa chọn quá thông minh.

    “Các người muốn gì?” ông ta hỏi cáu kỉnh, trông bất bình vì phải đi đến tận đây.

    Toxtel đưa ngay ra yêu cầu. “Ả đàn bà Nightingale có thứ chúng tôi đang tìm. Nói cô ta đưa ra, chúng tôi sẽ thu dọn và rời đi.”

    Ông già nhìn chằm chằm như muốn xẻ đôi chúng, cử động hàm giống như đang nhai ý tưởng. Cuối cùng ông nói, “Tôi sẽ truyền đi thông điệp,” và quay lưng, trở lại lối đi cũ, thờ ơ với những chuyện khác mà họ còn phải trao đổi. Chúng cẩn thận đặt bản thân sau vật chắn, quan sát cho tới khi ông ta một lần nữa ra khỏi tầm nhìn.

    “Anh làm được cái khỉ gió gì với chuyện đó chứ?” Toxtel hỏi câu hỏi tu từ.

    “Họ đang tức giận” là câu trả lời của Goss.
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/7/15
  20. meocontb

    meocontb Lớp 2

    Lại có chương mới. Yêu @halucky nhiều lắm.
     
    uyenki, halucky and Breeze like this.

Chia sẻ trang này