Hoàn thành Cuộc chiến trường kỳ của Đặng Tiểu Bình

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi Niigata, 15/2/23.

  1. Niigata

    Niigata Lớp 6

    Cuộc chiến trường kỳ của Đặng Tiểu Bình

    Xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, 1979–1991

    Hiểu Trương

    Nhà xuất bản Đại học Bắc Carolina Chapel Hill

    Sách xuất bản tiếng Anh, tác giả là nhà nghiên cứu người Trung Quốc đưa ra các dũ kiện và nhận định từ góc độ của Trung Quốc chắc chắn sẽ khác với chúng ta về cuộc chiến biên giới

    Chương 1: Cội Nguồn Xung đột Trung-Việt
    Chương 2: Đặng Tiểu Bình và quyết định chiến tranh của Trung Quốc
    Chương 3: Lập kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc xâm lược
    Chương 4: Máu đổ trên miền biên giới phía Bắc Việt Nam
    Chương 5: Đánh giá lại cuộc chiến năm 1979
    Chương 6: Xung đột biên giới kéo dài hàng thập kỷ, 1980–1990
    Chương 7: Trong bóng tối của xung đột biên giới
    Chương 8: Con đường chấm dứt xung đột
    Kết luận: Hồi tưởng cá nhân về Chiến tranh biên giới của Trung Quốc, việc nối lại quan hệ hữu nghị với Việt Nam và những tác động đối với các vấn đề Đông Á
    Giới thiệu
    Vào giữa tháng 2 năm 1979, thế giới bàng hoàng khi lực lượng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) bất ngờ tấn công xâm lược nước láng giềng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đối với nhiều nhà quan sát bên ngoài, hai quốc gia này dường như là đồng minh vững chắc, và cuộc xâm lược càng gây ngạc nhiên hơn bởi vì, theo lời của nhà cầm quyền Trung Quốc ở Bắc Kinh, CHND Trung Hoa đã tham chiến để “dạy cho Việt Nam một bài học” mà nước này sẽ không bao giờ quên. Trong 29 ngày tiếp theo, PLA đã chiến đấu ác liệt với quân đội và dân quân Việt Nam. Mặc dù người Việt Nam đã chiến đấu ngoan cường, làm chậm bước tiến của PLA và gây thương vong nặng nề, nhưng quân đội Trung Quốc vẫn kiên định tấn công, chọc thủng các tuyến phòng thủ được thiết lập vội vàng của Việt Nam. Khu vực biên giới bị tàn phá khi cuộc tấn công quân sự phá hủy cơ sở hạ tầng dân sự và san bằng thủ phủ của 3 tỉnh. Cuộc xâm lược kết thúc với việc Bắc Kinh tuyên bố chiến thắng. Hai quốc gia cộng sản, từng được gọi là “vừa là đồng chí vừa là anh em”, sau đó bước vào một mối thù kéo dài hơn thập kỷ với đổ máu nhiều hơn dọc theo biên giới của họ.
    Bối cảnh của một cuộc chiến tranh biên giới
    Kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, Trung Quốc đã phát động hai cuộc chiến tranh quy mô lớn—một ở Triều Tiên chống lại Hoa Kỳ, Hàn Quốc và các đồng minh Liên Hợp Quốc, và cuộc chiến tranh với Việt Nam vào năm 1979. Bắt đầu từ cuối Những năm 1980, người ta đã viết nhiều về sự tham gia của CHND Trung Hoa trong Chiến tranh Triều Tiên nhờ bầu không khí chính trị thoải mái hơn dưới thời Đặng Tiểu Bình và những người kế nhiệm ông cũng như việc công bố nhiều tài liệu quan trọng. Thật trùng hợp, vào đầu những năm 1990, nhiều tài liệu từ Liên Xô cũ cũng có sẵn, soi sáng thêm vai trò của quốc gia đó trong cuộc xung đột Triều Tiên.
    Tuy nhiên, đáng tiếc là cuộc chiến với Việt Nam đã trở thành lịch sử bị lãng quên ở Trung Quốc do sự nhạy cảm liên tục của chính phủ đối với chủ đề này. Nhận thức và hiểu biết của công chúng hiện nay về lý do tại sao Trung Quốc tấn công Việt Nam khác rất ít so với thời điểm xảy ra cuộc xâm lược - tức là cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam là một cuộc phản công tự vệ do lực lượng phòng vệ biên giới PLA tiến hành nhằm đáp trả “tham vọng bá quyền và khiêu khích” của Việt Nam dọc biên giới.

    Các nhà sử học Chiến tranh Lạnh phần lớn đã bỏ qua thực tế rằng cuộc chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam đã làm rạn nứt mối quan hệ mật thiết giữa hai nước đã tồn tại hơn hai thập kỷ. Thay vào đó, các học giả tập trung vào sự cạnh tranh giữa hai siêu cường - Hoa Kỳ và Liên Xô - từ cuối những năm 1940 đến đầu những năm 1970. Thật vậy, thập kỷ cuối cùng của Chiến tranh Lạnh đã chứng kiến một số cuộc xung đột liên quan đến các nước cộng sản, bao gồm cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia Dân chủ (Campuchia), cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc và cuộc xâm lược của Liên Xô vào Afghanistan. Nhưng cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam khiến cộng đồng quốc tế sửng sốt nhất. Đặc biệt, nó đã khuấy động các hệ tư tưởng trong thế giới cộng sản, những người có truyền thống lý luận (theo hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác) rằng chiến tranh luôn là sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc và do đó, các nước xã hội chủ nghĩa sẽ không đánh nhau. Có lẽ còn gây sốc hơn nữa là ý kiến cho rằng, giống như các cuộc chiến tranh biên giới của Trung Quốc với Ấn Độ năm 1962 và với Liên Xô năm 1969, Trung Quốc, chứ không phải đối thủ của mình, đã chọn leo thang khủng hoảng và sử dụng vũ lực.
    Tại sao Trung Quốc tấn công Việt Nam năm 1979? Câu trả lời ngay lập tức của Bắc Kinh cho câu hỏi này là một loạt các hành động khiêu khích đã buộc CHND Trung Hoa phải hành động chống lại “giấc mơ đế quốc” bá quyền của Hà Nội ở Đông Nam Á: Việt Nam bị cáo buộc vi phạm biên giới của Trung Quốc và xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc; sự ngược đãi người gốc Hoa sinh sống tại Việt Nam; và sự thân mật ngày càng tăng của Việt Nam với Liên Xô, lúc đó đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình sang Đông Nam Á.
    Cơ sở lý thuyết chính thống không đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho các nhà sử học và nhà phân tích đang tìm kiếm những lời giải thích sâu sắc hơn. Các nghiên cứu hiện có đưa ra nhiều lập luận khác nhau—mục tiêu thực sự của Bắc Kinh liên quan đến việc chuyển hướng áp lực quân sự của Hà Nội ra khỏi Campuchia và trói buộc các lực lượng của họ trên mặt trận thứ hai; Bắc Kinh tìm cách làm mất uy tín của Liên Xô như một đồng minh đáng tin cậy để đáp lại mối quan hệ hiệp ước Việt-Xô mới. Tuy nhiên, tất cả những diễn giải này đều do thiếu tài liệu từ cả CHND Trung Hoa và CHXHCNVN.
    Học liệu trước về chiến tranh
    Học liệu hiện có về xung đột Trung-Việt có thể được phân loại thành hai nhóm: các công trình học thuật được viết trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và những công trình xuất hiện từ năm 2000. Cố gắng hợp lý hóa cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, Trung Quốc phòng thủ của Gerald Segal ( 1985) đặt câu hỏi cho người Trung Quốc mới sự thông minh của lãnh đạo trước những quyết định có vẻ hấp tấp và ngạo mạn của họ liên quan đến “sức mạnh quân sự vượt trội” của Việt Nam. King C. Chen's China's War with Vietnam (1987) đưa ra quan điểm ngược lại, lập luận rằng Đặng Tiểu Bình đã đưa ra một quyết định hợp lý và tinh vi sau khi cân nhắc lâu dài và tranh luận lặp đi lặp lại trong giới lãnh đạo CHND Trung Hoa về các vấn đề trong nước và quốc tế. Cuốn The Indochina Tangle (Đông Dương Rắc rối) của Robert Ross (1988) xác định mối lo ngại hàng đầu trong quyết định tấn công Việt Nam của Trung Quốc là mối đe dọa tiềm ẩn của Liên Xô hơn là tranh chấp biên giới hay bất kỳ khác biệt nào khác. 8 Trung Quốc và Việt Nam của William Duiker (1986) mô tả xung đột Trung-Việt bắt nguồn từ mối quan hệ rắc rối giữa hai nước cộng sản trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần thứ hai, khiến Việt Nam liên minh với Liên Xô chống lại Trung Quốc vào năm 1978.
    Sau khi chuyển giao thế kỷ, sự quan tâm trở lại đối với triển vọng chiến lược của Trung Quốc và logic đằng sau việc sử dụng vũ lực của nước này đã mang lại một số nghiên cứu mới và quan trọng về cuộc chiến với Việt Nam. Tiêu biểu nhất là China's Use of Military Force (2003) của Andrew Scobell , John Wilson Lewis và Xue Litai's Imagineed Enemies (2006), và A History of the Chinese Modern Army (2007) của Li Xiaobing . Một đặc điểm chung của những nghiên cứu này là cách họ xử lý chủ đề này trong một phân tích rộng hơn nhiều về văn hóa chiến lược của Trung Quốc, cách tiếp cận quốc gia của Trung Quốc đối với chiến tranh và các nỗ lực hiện đại hóa quân đội. Cuốn sách duy nhất dành riêng cho việc nghiên cứu xung đột Trung-Việt là Chiến lược quân sự Trung Quốc trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba (2007) của Edward C. O'Dowd, trong đó lập luận rằng hoạt động yếu kém và kém hiệu quả của PLA đã ngăn cản Trung Quốc đạt được mục tiêu chiến lược là đuổi Việt Nam ra khỏi Campuchia. Trung Quốc và Việt Nam của Brantly Womack (2006), Trung Quốc, Campuchia và Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình của Sophie Richardson (2009) Nicholas Khoo (2011). Trong khi nhấn mạnh rằng “những nhận thức sai lầm trong các mối quan hệ bất cân xứng” đã góp phần tạo nên “sự thù địch không thể nguôi ngoai” giữa Trung Quốc và Việt Nam trong 25 năm, Womack lập luận rằng xung đột Trung-Việt cuối cùng đã kết thúc vì “chính sách ngoại giao nước nhỏ dai dẳng và giàu trí tưởng tượng” của Việt Nam. Richardson cho rằng kể từ năm 1979, giới lãnh đạo Trung Quốc thời hậu Mao đã đặt Campuchia vào vị trí trung tâm trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc, dẫn đến việc Bắc Kinh không chỉ trì hoãn việc bình thường hóa quan hệ CHND Trung Hoa-Liên Xô và CHND Trung Hoa-CHXHCNVN mà còn “thực sự làm tổn hại đến cả sự phát triển kinh tế và lãnh thổ. Khoo trình bày một lời giải thích mang tính phân tích về sự xuất hiện của xung đột Trung-Việt trong những năm 1970, coi sự thù địch giữa hai đồng minh cũ này là “thiệt hại tài sản thế chấp” do quan hệ Trung-Xô xấu đi kể từ đầu những năm 1960.
    Các vấn đề, thắc mắc và tranh chấp
    Cuốn sách này đề cập đến nhiều câu hỏi mà các học giả khác về nghiên cứu Trung Quốc hiện đại và an ninh quốc tế đã đặt ra nhưng bổ sung những hiểu biết sâu sắc từ các tài liệu và bằng chứng mới và chưa từng có từ Trung Quốc. Những câu hỏi này bao gồm: Tại sao CHND Trung Hoa tấn công CHXHCNVN vào năm 1979? Mục tiêu của Bắc Kinh trong cuộc xâm lược năm 1979 và xung đột biên giới với CHXHCNVN trong thập niên 1980 là gì? Những yếu tố nào cuối cùng đã góp phần vào việc kết thúc Chiến tranh Lạnh giữa hai quốc gia cộng sản ở châu Á? Nó hồi tưởng lại mười ba năm thù địch giữa Trung Quốc và Việt Nam, lập luận rằng mối quan hệ mật thiết trước đây của hai nước mong manh hơn nhiều so với vẻ ngoài của nó. Người Trung Quốc và người Việt Nam đã thể hiện sự cay đắng và hận thù sắc tộc đối với nhau trong nhiều thế kỷ. Liên minh Trung-Việt được hình thành phần lớn bởi vì vào thời điểm đó họ có chung một kẻ thù: Hoa Kỳ. Liên minh chắc chắn sẽ sụp đổ bắt đầu từ cuối những năm 1960, khi Bắc Kinh coi Liên Xô, chứ không phải Hoa Kỳ, là kẻ thù lớn nhất.
    Liên minh Liên Xô-Việt Nam năm 1978 đã khiến Bắc Kinh coi Hà Nội như một đại diện thuận tiện cho chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Quan trọng hơn, sự thay đổi như vậy trong bối cảnh địa chính trị đã thuyết phục các nhà lãnh đạo Bắc Kinh rằng an ninh vật lý của Trung Quốc đang gặp nguy hiểm, điều đó cũng có nghĩa là ưu tiên quốc gia mới được thông qua của Trung Quốc—cải cách kinh tế—cũng sẽ bị đe dọa bởi môi trường an ninh ngày càng bất lợi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn đã gắn những cân nhắc trong nước với các chính sách đối ngoại và quan hệ đối ngoại của quốc gia, hợp lý hóa rằng việc gây chiến với Việt Nam sẽ giúp CHND Trung Hoa thiết lập một mối quan hệ chiến lược chống Liên Xô mới với các nước phương Tây. Để đổi lấy việc củng cố quan điểm chống Liên Xô của phương Tây, Bắc Kinh sẽ nhận được phần thưởng dưới hình thức hỗ trợ công nghệ và tài chính cho chương trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình.
    Xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam dẫn đến hoạt động quân sự lớn nhất do PLA tiến hành bên ngoài biên giới Trung Quốc. Nghiên cứu này cũng xem xét các câu hỏi về vai trò và hoạt động của PLA trong cuộc xung đột để hiểu cách Bắc Kinh sử dụng vũ lực để đạt được các mục tiêu quốc tế và trong nước này. Nó bao gồm một cuộc thảo luận về chiến lược quân sự của Trung Quốc và sự chuẩn bị cho cuộc tấn công cũng như quan điểm của PLA về các hoạt động quân sự. Ngoài ra, nghiên cứu khám phá những hậu quả chính trị và quân sự của cuộc xung đột và những bài học mà chính Trung Quốc rút ra. Mặc dù bị người Việt Nam xử lý một cách thô bạo trong các cuộc xung đột biên giới, PLA đã hoàn thành các mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh bằng cách chuyển hướng sự chú ý của Việt Nam sang áp lực quân sự mới ở biên giới phía bắc của họ, từ đó làm suy yếu chủ nghĩa phiêu lưu của Việt Nam ở Đông Nam Á.
    Tuy nhiên, cuộc chiến cũng bộc lộ nhiều thiếu sót và điểm yếu trong PLA, cho thấy nó là một lực lượng lỗi thời với kinh nghiệm chiến đấu lạc hậu; những người lính được huấn luyện kém; một lực lượng không quân và hải quân lỗi thời; và một hệ thống chỉ huy và kiểm soát cồng kềnh, thừa nhân viên và cồng kềnh. Trả lời các câu hỏi về những gì đã xảy ra trên chiến trường không chỉ giúp chúng ta hiểu cách thức tiến hành chiến tranh của CHND Trung Hoa mà còn cho thấy khuynh hướng sử dụng vũ lực của các nhà lãnh đạo Trung Quốc để chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì mục đích trong nước. Nhìn chung, cuộc chiến tranh với Việt Nam năm 1979 đã làm tăng đáng kể đòn bẩy của Đặng Tiểu Bình trong việc tập hợp sự ủng hộ cả dân sự và quân sự cho các chương trình phát triển kinh tế của ông ta. Do đó, nghiên cứu này lồng ghép diễn ngôn về cuộc xung đột quân sự Trung-Việt và hậu quả của nó vào lịch sử rộng lớn hơn của Trung Quốc trong những năm đầy kịch tính kể từ năm 1978. Tóm lại, trong khi cuộc chiến với Việt Nam ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Việt, nó đã ảnh hưởng đáng kể đến cán cân trong nước của quyền lực giữa các thể chế dân sự và quân sự bên trong Trung Quốc có lợi cho sự phát triển kinh tế.
    Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, từ góc độ an ninh quốc tế, xung đột Trung-Việt đã định hình Chiến tranh Lạnh bằng cách làm nghiêng hẳn cán cân chống lại Liên Xô trong những năm 1980. Chiến tranh Việt Nam kết thúc có nghĩa là Hoa Kỳ không còn hiện diện nhiều ở Đông Nam Á nữa. Tuy nhiên, trước sự thù địch ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Liên Xô—cũng như đồng minh của Liên Xô, Việt Nam—mối quan hệ chiến lược mới của Bắc Kinh với Washington đã tạo điều kiện cho Hoa Kỳ tái gia nhập khu vực, dẫn đến sự xuất hiện của một cấu trúc quan hệ quốc tế mới. các mối quan hệ duy trì sự cân bằng quyền lực khu vực trên thực tế. Lo sợ quyền bá chủ khu vực ngày càng tăng của Việt Nam, rất ít quốc gia ở Đông Nam Á phản đối cuộc xâm lược của Trung Quốc hoặc ủng hộ chế độ Pol Pot bị lật đổ (và khét tiếng). Tại Campuchia, cuộc xung đột quân sự của Trung Quốc với Việt Nam không chỉ giúp Khmer Đỏ tồn tại mà còn ngăn cản Thái Lan thân phương Tây rơi vào vòng ảnh hưởng của Việt Nam. Khi Trung Quốc và Hoa Kỳ đối mặt với cùng một kẻ thù—Liên Xô—mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington dần được cải thiện sau năm 1979, với việc Hoa Kỳ cung cấp cho Trung Quốc công nghệ tiên tiến và thậm chí cả các hệ thống vũ khí. Mặc dù hai nước chưa bao giờ thành lập một liên minh chính thức, nhưng họ đã cùng nhau chống lại các chương trình hạt nhân của Liên Xô (ví dụ, thiết lập các trạm nghe điện tử chung ở tây bắc Trung Quốc) và cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Xô. Những lo ngại về địa chính trị và an ninh chắc chắn đã cung cấp lý do chính cho cuộc xâm lược Việt Nam từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1979 của Trung Quốc và các cuộc đụng độ biên giới tiếp diễn trong suốt những năm 1980. Tuy nhiên, cải cách kinh tế trong nước và nhu cầu cải tổ PLA cũng biện minh cho quyết định sử dụng vũ lực đối với Việt Nam. Nhiệm vụ cải cách kinh tế của Bắc Kinh, đòi hỏi một chính sách cởi mở với thế giới bên ngoài, đã cải thiện vị thế quốc tế của Trung Quốc. vị trí chiến lược, đảm bảo rằng giới lãnh đạo Trung Quốc duy trì lập trường không khoan nhượng đối với Liên Xô, do đó, đảm bảo rằng họ sẽ không khoan nhượng đối với những mong muốn bá quyền của Việt Nam. Mặc dù hiệu suất của PLA trên chiến trường tạo ra nhiều kết quả khác nhau, nhưng cuộc chiến đã tạo ra loại kết quả chiến lược mà Đặng mong muốn và dự đoán, bao gồm cả lợi ích lâu dài quan trọng nhất mà ông tìm kiếm—đó là sự thù địch của Bắc Kinh đối với cả Hà Nội và Moscow nên đã thay đổi bản chất của cuộc cạnh tranh giữa các siêu cường trong Chiến tranh Lạnh đến mức nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự thất bại cuối cùng của Liên Xô, loại bỏ những gì từng là mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh của CHND Trung Hoa.
    Đặng Tiểu Bình và xung đột Trung-Việt
    Trung Quốc tiến hành cuộc chiến chống lại Việt Nam giữa một vòng tranh giành quyền lực mới ở Bắc Kinh, khi Đặng Tiểu Bình mới được phục chức gần đây lên nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Lần đầu tiên trong lịch sử CHND Trung Hoa, PLA tham chiến không phải dưới thời người sáng lập Mao Trạch Đông, mà dưới thời Đặng Tiểu Bình, người được bảo trợ lâu năm của vị chủ tịch quá cố. Không giống như Mao, Đặng chỉ giữ chức phó chủ tịch ĐCSTQ và Quân ủy Trung ương (QUTW), cơ quan chỉ huy quân sự cao nhất của PLA. Tuy nhiên, Đặng có tiếng nói cuối cùng về các vấn đề an ninh quốc gia, trong khi các nhà lãnh đạo khác phục vụ cùng ông hành động giống như những trợ lý của ông hơn là những người ra quyết định. Nhưng Đặng đã đóng những vai trò gì trong cuộc chiến tranh của Trung Quốc chống lại Việt Nam, và trí tuệ của ông phù hợp – hay không phù hợp – với những người tiền nhiệm của ông ở mức độ nào? Có phải xung đột quân sự Trung-Việt không thể tránh khỏi bất kể ai đang lãnh đạo Trung Quốc trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh? Các tài liệu hiện có về Đặng Tiểu Bình chủ yếu tập trung vào vai trò của ông trong chính sách cải cách và mở cửa kinh tế của Trung Quốc, bỏ qua vai trò của ông trong cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam và hậu quả của nó.
    Theo truyền thống quan liêu của ĐCSTQ, Bộ Chính trị và Ủy ban Thường vụ có quyền chỉ huy tối cao và tối cao trong việc tiến hành chiến tranh, trong khi QUTƯ chỉ có thẩm quyền đối với quân đội Trung Quốc sau khi Bộ Chính trị và Ủy ban Thường vụ đưa ra quyết định của họ. Nhưng địa vị cấp cao và cuộc đời binh nghiệp lâu dài của Đặng trong ĐCSTQ đã cho phép ông ta hành động trên các thể chế này. Với sự ủng hộ của cả hai đầu sỏ chính trị trong đảng và các tướng lĩnh kỳ cựu của PLA, ông nổi lên vào cuối năm 1978 với tư cách là kiến trúc sư thực sự của các chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc. Chính sách đối ngoại của Đặng tiếp tục theo bước chân của Mao, với Liên Xô được coi là kẻ thù chính của Trung Quốc. Tuy nhiên, Đặng đã đi xa hơn bằng cách liên kết các chính sách và hành động chống Trung Quốc của Việt Nam - chẳng hạn như liên minh mới giữa Moscow và Hà Nội và cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam - với mối đe dọa ngày càng tăng của Liên Xô đối với quốc gia của Trung Quốc. Bảo vệ. Vào thời điểm đó, Đặng Tiểu Bình tin rằng quyền bá chủ của Liên Xô gây ra một mối nguy hiểm rất thực tế và ngày càng gia tăng đối với thế giới và rằng Hoa Kỳ đã không phản ứng đủ kiên quyết. Ông tin rằng cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ là đóng góp lớn của Bắc Kinh trong việc thúc đẩy một mặt trận thống nhất quốc tế chống lại bá quyền.
    Đặng cũng cảm thấy rằng Trung Quốc đang bị chèn ép giữa mối đe dọa của Liên Xô từ phía bắc và mối đe dọa của Việt Nam từ phía nam, do đó gây nguy hiểm cho “Bốn Hiện đại hóa” của Trung Quốc (công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và quốc phòng). Đối mặt với tình hình kinh tế tồi tệ trong nước, Đặng đã thay thế các chính sách cấp tiến của Mao bằng “cải cách và mở cửa” ( gaige kaifang ). Ông tin rằng nếu Trung Quốc không có hành động quân sự chống lại Việt Nam (nước tự xưng là “cường quốc quân sự mạnh thứ ba thế giới”), thì cả Moscow và Hà Nội sẽ ngày càng gây hấn dọc biên giới Trung Quốc, tạo ra sự xáo trộn và mất tập trung không mong muốn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến Trung Quốc. phát triển kinh tế. Hơn nữa, Đặng nhìn thấy một hệ quả có thể dùng để biện minh cho hành động quân sự của Trung Quốc chống lại Việt Nam: việc Bắc Kinh sử dụng vũ lực chống lại Việt Nam, kẻ thù cũ của Washington và là đồng minh thân cận của Moscow, sẽ thuyết phục các nước phương Tây rằng Trung Quốc là một quốc gia đáng tin cậy và có trách nhiệm với có giá trị chiến lược, xứng đáng là đồng minh trong cuộc đấu tranh chống bành trướng bá quyền của Liên Xô. Ông kết luận rằng phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, chắc chắn sẽ thưởng cho Trung Quốc sự hỗ trợ về tài chính và công nghệ rất quan trọng đối với các chương trình phát triển kinh tế của Bắc Kinh. Sức hấp dẫn của cơ sở lý luận này đảm bảo rằng bất kỳ hậu quả tiêu cực nào – chẳng hạn như việc Bắc Kinh ủng hộ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ – đều ít gây hậu quả đối với Đặng.
    Kể từ khi Mao qua đời vào năm 1976, chủ nghĩa bè phái và tranh giành quyền lực gay gắt đã chia rẽ giới lãnh đạo CHND Trung Hoa, khiến họ không chú ý đến những thách thức khác của quốc gia, đặc biệt là cải cách kinh tế. Bộ máy quan liêu của đảng và chính phủ, cồng kềnh và thừa nhân viên với nhiều người nổi lên trong Cách mạng Văn hóa, được coi là một trở ngại lớn đối với cải cách kinh tế. Đặng hiểu rằng cuộc chiến với Việt Nam đã cung cấp cho ông phương tiện tốt nhất để huy động cả quốc gia. Ông đặc biệt cần PLA, trụ cột quyền lực của ĐCSTQ, đi cùng với chương trình cải cách kinh tế của mình.
    Tuy nhiên, vào cuối những năm 1970, PLA không còn là quân đội đã đưa ĐCSTQ lên nắm quyền vào năm 1949; nó đã được mở rộng quá mức, lỗi thời, không được đào tạo và trang bị kém. Và kết quả của việc tham gia Cách mạng Văn hóa là nó đã đánh mất sự tôn trọng và tình cảm của người dân Trung Quốc và bị mang tiếng là lạm dụng quyền lực. Đặng cân nhắc thêm hai cân nhắc: hành động quân sự sẽ giúp khôi phục danh tiếng và hào quang huyền thoại của PLA và cho phép PLA lấy lại các kỹ năng và chuyên môn chiến đấu đã mất, điều mà ông cho là quan trọng đối với cuộc chiến với Liên Xô mà ông dự đoán sẽ nổ ra vào giữa những năm 1980. Thành tích kém cỏi của PLA trên chiến trường Việt Nam đã xác thực những lo ngại của ông và cho phép ông tổ chức lại quân đội ngay sau chiến tranh, dẫn đến một sự thay đổi lớn về quyền lực ở Bắc Kinh.
    Sự kiểm soát chặt chẽ của Đặng đối với đảng, chính phủ và PLA cho phép ông hạn chế các cuộc đấu đá nội bộ mang tính bè phái và gây rối và đưa quân đội đi theo cách suy nghĩ của ông về các vấn đề như hiện đại hóa và chiến lược. Với sự hỗ trợ của PLA đối với các chương trình trong nước và chính sách mở cửa của mình, Đặng đã lãnh đạo quốc gia trong nỗ lực đạt được Bốn Hiện đại hóa và phát triển kinh tế. Năm 1985, khi đất nước cần chi nhiều tiền hơn cho phát triển kinh tế, Đặng đã thuyết phục PLA chấp nhận cắt giảm mạnh chi tiêu quân sự.
    Sức mạnh cá nhân của Đặng đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Theo Mao, Đặng có tính cách “thép”, khiến ông không muốn thỏa hiệp và khó hòa đồng hoặc thậm chí làm việc cùng. Quyết định gây chiến với Việt Nam của Trung Quốc chắc chắn bị ảnh hưởng bởi nhận thức của ông về mối đe dọa của Liên Xô, mối đe dọa vừa chân thực vừa nguy hiểm, cũng như nhận thức của ông rằng Hoa Kỳ quá mềm mỏng trong các giao dịch với Liên Xô. Đặng luôn sở hữu và thể hiện sự cứng rắn tiềm ẩn trong việc theo đuổi lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Ông không khoan nhượng về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam vì ông tin rằng mối quan hệ thù địch giữa hai nước chỉ xuất phát từ các chính sách chống Trung Quốc của Hà Nội. Do đó, sau chiến tranh năm 1979 và trong suốt những năm 1980, Trung Quốc duy trì lập trường cứng rắn và cứng rắn đối với Việt Nam, không thay đổi chính sách cho đến khi Hà Nội thừa nhận sai lầm của mình và chấp nhận mô hình/khuôn khổ an ninh khu vực của Đặng Tiểu Bình—một Đông Nam Á trung lập—được coi là quan trọng đối với lợi ích quốc gia của Trung Quốc .
    Là một người theo chủ nghĩa hiện thực chính trị, ông tin rằng, “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột.” Do đó, ông đã định hình chính sách đối ngoại của Trung Quốc trên cơ sở chủ nghĩa thực dụng khôn ngoan, chứ không phải ý thức hệ mù quáng. Nhấn mạnh cải cách kinh tế là ưu tiên hàng đầu của quốc gia, Đặng quan tâm đến việc cải thiện và tăng cường quan hệ với các quốc gia mà từ đó nền kinh tế Trung Quốc có thể hưởng lợi. Mối quan hệ thù địch của Bắc Kinh với Moscow, đặc biệt là Hà Nội, không quan trọng lắm trong các chương trình phát triển nội địa của Trung Quốc. Điều quan trọng hơn đối với giới lãnh đạo Trung Quốc là các nguyên tắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đối với Campuchia, biên giới Trung-Xô và Afghanistan. Đặng sẽ chấm dứt sự thù địch của Trung Quốc đối với Liên Xô và Việt Nam chỉ khi Moscow và Hà Nội đầu hàng những nguyên tắc này – nghĩa là, nếu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Liên Xô rút quân khỏi biên giới Trung Quốc và ra khỏi Afghanistan.
    Đặng đã không ra lệnh cho PLA ngừng các hoạt động quân sự ở biên giới phía bắc của Việt Nam cũng như không chấp thuận chuyến thăm của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc (để đàm phán nối lại quan hệ giữa hai nước) cho đến sau khi khối cộng sản Đông Âu sụp đổ vào năm 1990. của Chiến tranh Lạnh ở châu Âu đã đặt Hà Nội vào một tình thế khó xử, và ngày càng lo ngại về sự tồn tại của chủ nghĩa cộng sản ở chính Việt Nam. Việc Hà Nội chấp nhận quan điểm của Bắc Kinh đối với Campuchia—một điều kiện tiên quyết để trở lại bình thường giữa hai nước—là điều không thể tránh khỏi. Với quyền lực chỉ huy áp đảo của Đặng trong giới lãnh đạo CHNDTH, chiến tranh với Việt Nam năm 1978–79 trở nên không thể tránh khỏi một khi Đặng đã lên đến vị trí lãnh đạo tối cao của CHND Trung Hoa. Do đó, cuộc xung đột Trung-Việt có thể được gọi là Cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình, và nó đã trở thành một trong những cuộc xung đột kéo dài nhất trong Chiến tranh Lạnh.
    Cấu trúc, trọng tâm và ý nghĩa
    Cuốn sách tám chương này bắt đầu với phần tổng quan (Chương 1) về sự can dự của CHND Trung Hoa vào Việt Nam để đặt nền tảng cho một phân tích sâu hơn về xung đột Trung-Việt trong bối cảnh lịch sử. Tập trung vào những năm 1960 và 1970, chương thảo luận về sự không tin tưởng và nghi ngờ giữa người Trung Quốc và người Việt Nam có thể là phản ánh của sự căng thẳng ngầm giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong các cuộc chiến tranh chống Pháp và Hoa Kỳ. Sau nhiều năm cống hiến các nguồn lực của Trung Quốc cho nỗ lực chiến tranh của Hà Nội, người Trung Quốc đã tạo ra cho mình một kẻ thù mới, khi hai nước sau đó tham gia vào một cuộc xung đột kéo dài hơn một thập kỷ. Chương thứ hai xem xét cách quản lý của Bắc Kinh đối với mối quan hệ đang xấu đi với Việt Nam vào năm 1978, tập trung vào việc quyết định tiến hành chiến tranh dựa trên tư duy chiến lược coi quan hệ đối tác Xô-Việt là mối đe dọa đối với an ninh Trung Quốc và hợp tác Trung-Mỹ như một phương tiện. để cải thiện vị trí chiến lược của Trung Quốc và tạo điều kiện cải cách kinh tế với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Bởi vì quyết định chiến tranh của Trung Quốc dựa trên niềm tin rằng một cuộc tấn công của Trung Quốc vào một đồng minh của Liên Xô phục vụ cho các lợi ích quốc tế và trong nước sống còn của Trung Quốc, nên có rất ít khả năng ngăn chặn được xung đột vũ trang Trung-Việt.
    Chương 3 và 4 xem xét cách PLA lên kế hoạch cho trận chiến chống lại Việt Nam, bao gồm chiến lược quân sự của Trung Quốc, sự chuẩn bị cho cuộc tấn công và quan điểm của PLA về các hoạt động quân sự. Chương 5 xem xét những hậu quả chính trị và quân sự của cuộc xung đột và những bài học rút ra theo bản thân người Trung Quốc. Chương 6 trình bày về các cuộc xung đột biên giới trong những năm 1980, phân tích cách thức Trung Quốc theo đuổi chính sách “chảy máu trắng Việt Nam” thông qua sự cô lập quốc tế và các mối đe dọa về lực lượng quân sự trong khi sử dụng những xung đột này để huấn luyện chiến đấu cho nhiều quân đội PLA hơn. Chương 7 xem xét kỹ lưỡng các cuộc xung đột biên giới ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế và xã hội của hai tỉnh biên giới, Quảng Tây và Vân Nam, và cách PLA sử dụng các cuộc xung đột để kích thích hiện đại hóa quân đội và xây dựng lại danh tiếng của mình. Chương này cũng thảo luận về cách các phương tiện truyền thông Trung Quốc, bao gồm cả văn học, phim ảnh và âm nhạc, đưa tin về cuộc xung đột và những hiện vật văn hóa về chiến tranh này đã ảnh hưởng như thế nào đến xã hội Trung Quốc trong những năm 1980. Chương cuối cùng đề cập đến các sự kiện dẫn đến việc chấm dứt chiến sự và khôi phục quan hệ bình thường giữa Trung Quốc và Việt Nam từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990. Nó minh họa cách Đặng vẫn chơi cứng rắn với ban lãnh đạo mới của Việt Nam (những người tìm cách cải thiện mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc), buộc Hà Nội phải thừa nhận những sai lầm chính sách của mình và chấp nhận các điều kiện của Bắc Kinh để nối lại quan hệ của họ cùng lúc thế giới cộng sản đang sụp đổ .
    Nhìn chung, cuốn sách này thu hẹp khoảng cách giữa các nghiên cứu tập trung quá hẹp vào cuộc chiến năm 1979 và các nghiên cứu xem xét quá rộng về quan hệ Trung-Việt. Dựa trên nghiên cứu về các tài liệu và hồi ký mới được giải mật của Trung Quốc và hồi ký của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc cũng như các cựu chiến binh, cuốn sách này bổ sung một khía cạnh mới cho văn học về chính sách đối ngoại và an ninh quân sự và quốc tế của Trung Quốc hiện đại. Nó giải quyết các vấn đề như hành vi chính sách; quyết định; kế hoạch quân sự; chỉ huy và kiểm soát; chiến đấu và chính trị; chiến thuật chiến đấu và hiệu suất; vai trò của giới lãnh đạo Bắc Kinh, cụ thể là Đặng Tiểu Bình; quy mô và các loại hình chiến đấu; và những ảnh hưởng và di sản của cuộc xung đột. Cuộc chiến của Trung Quốc với Việt Nam không chỉ liên quan đến thể chế quân sự Trung Quốc và hiểu biết của chúng ta về việc sử dụng lực lượng quân sự của Trung Quốc mà còn làm sáng tỏ các cuộc thảo luận đương đại về vai trò của Trung Quốc trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và xa hơn nữa khi tiềm năng quân sự của PLA đã tăng lên đáng kể. Những sự tiếp nối quan trọng trong chiến lược và chiến thuật của PLA và trong cách tiếp cận chiến tranh của Trung Quốc bắt đầu từ cuộc chiến tranh với Việt Nam năm 1979 và vẫn đúng trong thế kỷ 21. Ví dụ, PLA vẫn sử dụng các tư tưởng quân sự của Mao và Đặng làm kim chỉ nam cho chiến lược và chiến thuật hiện tại của họ, và quân đội Trung Quốc vẫn là một lực lượng vũ trang dưới sự kiểm soát của đảng dựa trên tuyên truyền và nhồi sọ chính trị. Những đặc điểm độc đáo trong cách tiếp cận chiến tranh của Trung Quốc đã rõ ràng vào năm 1979 và vẫn là trọng tâm cho đến ngày nay.
    Lưu ý về các nguồn tài liệu Trung Quốc liên quan đến tác phẩm này
    Mặc dù nghiên cứu về xung đột Trung-Việt trong văn khố Trung Quốc vẫn chưa thể thực hiện được khi viết bài này, nhiều tài liệu lưu hành nội bộ (bao gồm các bài phát biểu của ban lãnh đạo và các báo cáo phân loại sau hành động của các đơn vị PLA tham gia cuộc xâm lược và các cuộc xung đột biên giới sau đó) đã sẵn sàng để các học giả từ bên ngoài Trung Quốc kiểm tra. Giống như hầu hết các tổ chức quân sự, PLA dành nỗ lực để tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của mình, bao gồm các phương pháp hoạt động, tinh thần quân đội và các vấn đề trong các hoạt động chiến đấu. Một nguồn chính là tuyển tập gồm hai tập do Tổng cục Chính trị xuất bản, tập hợp các báo cáo từ các đơn vị khác nhau về vai trò của công tác chính trị của PLA trong chiến đấu và phản ứng của quân đội đối với công tác chính trị trên chiến trường. Một tài liệu khác là tuyển tập tài liệu do Bộ phận Cán bộ Bộ Chính trị Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân khu Quảng Châu biên soạn. Nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về những vấn đề mà hệ thống cán bộ gặp phải trong chiến dịch dọc biên giới năm 1979. Những báo cáo khác là các báo cáo sau hành động về các hoạt động quân sự của các quân đội riêng lẻ và các nhánh khác nhau của lực lượng vũ trang. Ví dụ: các bản tóm tắt được chọn đã được tuyển tập bởi Quân đoàn 43 và 55, và các tài liệu được chọn về chủ đề đặc biệt của pháo binh đã được xuất bản bởi trụ sở của Pháo binh Quân khu Côn Minh. Một số mục này có trong DuiYue ziwei huanji zuozhan ruogan zhuanti jingyan huibian (Tuyển tập các tài liệu chọn lọc về chủ đề đặc biệt của cuộc phản công trong tự vệ chống lại Việt Nam ). 20 Tuyển tập các báo cáo của Quân đoàn 1 cung cấp những hiểu biết sâu sắc về chiến lược và chiến thuật quân sự do PLA sử dụng cũng như các vấn đề xảy ra trong các cuộc xung đột với Việt Nam dọc biên giới Vân Nam vào giữa những năm 1980.
    Ngoài ra, hồi ký của các sĩ quan quân đội cấp cao cũng như của các cựu chiến binh hiện đã có sẵn. Nổi bật nhất là hồi ký của Zhou Deli, Yige gaoji canmouzhang de zishu (Hồi ức cá nhân của một tham mưu trưởng cấp cao) , và hồi ức của ông về tướng Xu Shiyou, tư lệnh Quân khu Quảng Châu, trong cuộc chiến với Việt Nam, Xu Shiyou de zuihou yizhan (Trận chiến cuối cùng của Xu Shiyou ). Là tham mưu trưởng của Quân khu Quảng Châu vào thời điểm xảy ra cuộc tấn công, Chu có vị trí đặc biệt để quan sát cách thức Bộ Tổng tham mưu hỗ trợ lãnh đạo ĐCSTQ trong việc đưa ra các quyết định định hình chiến lược quân sự cũng như lập kế hoạch và chỉ đạo các hoạt động từ Quảng tây. Zhang Zhen, một trong những sỹ quan cấp tướng hàng đầu của Đặng Tiểu Bình với tư cách là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (GLD) và sau đó là Phó Tổng tham mưu trưởng từ năm 1979 đến 1985, đã xuất bản cuốn hồi ký với nhiều nhận định sâu sắc của mình vào năm 2003. 23 Các nguồn hữu ích khác là tiểu sử của Yang Yong và Wang Shangrong. Cả hai người đều là Phó Tổng tham mưu trưởng, hỗ trợ Đặng trong việc lập kế hoạch và tổ chức các hành động quân sự vào năm 1978 và 1979.
    Từ năm 1978 đến năm 1991, Đặng Tiểu Bình là nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của đảng, nhà nước và quân đội Trung Quốc, đưa ra mọi quyết định quan trọng. Các ấn phẩm các tác phẩm quân sự của ông ( Deng Xiaoping junshi wenji ) và biên niên sử về cuộc đời ông ( Deng Xiaoping nianpu ) chứa các bài viết, bài phát biểu và bài nói chuyện của ông là nền tảng cho việc nghiên cứu quân đội Trung Quốc. Những tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị về suy nghĩ của Đặng về cuộc xung đột Trung-Việt, cho phép tạo ra mối tương quan giữa quyết định gây chiến với Việt Nam và các chính sách đối nội và đối ngoại của ông. Biên niên sử về cuộc đời của Ye Jianying, Chen Yun, Li Xiannian và Nie Rongzhen cũng cung cấp thông tin về thời điểm diễn ra các sự kiện và vai trò của họ trong việc ra quyết định của Trung Quốc về chiến tranh. Nhiều tài liệu trong số này là các đoạn trích và chỉ có ở các phiên bản đã chỉnh sửa. Một số văn bản đầy đủ có sẵn từ các trang web của Trung Quốc, trong đó hữu ích nhất là ZhongYue zhanzheng beiwanglu (Bản ghi nhớ về Chiến tranh Trung-Việt), mặc dù nó đã không thể truy cập được kể từ năm 2011.
    VÌ CHÚNG TÔI THIẾU TRUY CẬP ĐẦY ĐỦ hồ sơ của PLA, việc xác thực tính khách quan của các tài khoản Trung Quốc là một vấn đề. Bằng chứng từ các nguồn do chính phủ kiểm soát luôn mang tính tư lợi, nhằm định hình lịch sử theo hướng có lợi cho họ. Nó đặc biệt là một thách thức đối với những người theo học các chuyên ngành liên quan đến quân sự. Trong quá trình nghiên cứu trước đây của tôi về sự tham gia của Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, tôi nhận ra rằng hồ sơ quân sự của Trung Quốc phần lớn được xây dựng dựa trên các báo cáo được đưa ra sau trận chiến. Do sự căng thẳng, mệt mỏi và phấn khích của chiến đấu, ký ức về một sự kiện có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực tâm lý, thể chất và trí tuệ của người tham gia. Các ghi chép về các sự kiện phức tạp luôn có sai sót và mâu thuẫn, mặc dù những người viết các tường thuật đã cố gắng tạo ra một câu chuyện có ý nghĩa dựa trên cách diễn giải của họ. Tình hình trở nên tồi tệ hơn bởi sự tham gia của vinh quang và thành công cá nhân cũng như mong muốn tạo ra một hình ảnh tích cực cho mục đích tuyên truyền. (Trong quá trình nghiên cứu gần đây tại văn khố tỉnh Vân Nam, tôi nhanh chóng nhận ra rằng những thông tin được công bố sẵn có chỉ là một giọt nước trong thùng so với những gì tôi thấy ở đó.) Truyền thống giữ bí mật quân sự ăn sâu và nghi ngờ bất cứ ai sống ở phương Tây có nghĩa là tôi có rất ít quyền truy cập vào các nguồn tài liệu lưu trữ. Vì vậy, tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải hết sức thận trọng về tường thuật của Trung Quốc về các sự kiện trong khi vẫn để ngỏ cách diễn giải của mình trong khi chờ đợi thông tin mới.[​IMG]
     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 15/2/23
    tuanaundk, hoa2005, khanh911 and 24 others like this.
  2. Bất đồng quan điểm giữa Việt Nam và Trung Quốc về cách thức tiến hành cuộc chiến với Hoa Kỳ tại Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link trở nên rõ rệt. Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ tiếp tục Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Việt Nam muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước.
     
    angoc1234 thích bài này.
  3. Có thể nói TQ luôn coi VN như sân sau của mình, một kiểu thuộc địa kiểu mới. Nhưng sau ctranh biên giới, VN tự lập tự cường, tách khỏi tư duy nước lệ thuộc xưng thần từ xưa
     
    angoc1234 and Do dai hoc NEU like this.

Chia sẻ trang này