Kỷ niệm với nhà văn Sơn Nam (Huỳnh Kim)

Thảo luận trong 'Tủ sách Tuỳ Bút - Biên Khảo' bắt đầu bởi Foli, 4/10/13.

Moderators: SLASH.ROCK4U
  1. Foli

    Foli Lớp 11

    Kỷ niệm với nhà văn Sơn Nam


    Tác giả: Huỳnh Kim

    Trước năm 1975, nhà tôi ở chung con hẻm nhỏ với nhà văn trên đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình, TP.HCM. Tôi vào bộ đội rồi chuyển sang nghề báo. Phóng sự đầu tiên tôi nhờ ông đọc, viết về đảo Phú Quốc gởi báo Quân đội nhân dân, hồi năm 1986. “Chú Tám dạy tôi viết báo với”, tôi nói, và cho tới giờ, tôi vẫn thực hành lời dạy viết báo của nhà văn Sơn Nam từ dạo đó:“Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”.

    Dự trại viết văn của tỉnh An Giang năm 1993, chúng tôi theo nhà văn vào xã Tây Phú thuộc huyện Thoại Sơn. Trong lúc chúng tôi loay hoay với mấy cái báo cáo tổng kết về chuyện đi khai hoang vùng tứ giác, thì nhà văn Sơn Nam đã lội lòng vòng quanh chợ xã. Quay về, ông chỉ hỏi anh bí thơ xã mấy câu mà nghe xong thấy... quá nể: “Có gái giang hồ vào tứ giác tìm tình yêu hay không?”; “Có người nông dân bất mãn? Có anh cán bộ cường hào?”; “Điện thoại bàn đã gọi ra quốc tế nhưng sách báo về xã sao thấy còn ít quá?”...

    Khi nghe anh bí thơ xã kể chuyện bà con nông dân lập miếu Thần Nông, 17 tháng 3 âm lịch hằng năm họ cúng tạ ơn trời đất, tổ tiên và cây lúa, nhà văn Sơn Nam nói: “Đó là đạo. Làm ruộng là đạo, giữ đất là đạo. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được. Tôi lội chợ Tây Phú, thấy có đánh bi-da, có tiệm vàng, có cái kéo rèn từ Phú Tân đưa qua, có bộ xa-lông tre lấy mẫu từ Mộc Hóa, có cô bán quán quê Đồng Tháp, có thầy giáo quê Thanh Hóa... Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. Khi ghé thăm chùa, thăm khu di chỉ văn hóa Óc-Eo, cánh nhà báo chúng tôi lăng xăng hỏi nhà chùa đủ chuyện thì nhà văn Sơn Nam lặng lẽ thắp nhang trước bàn thờ Phật, cúng dường nhà chùa và bố thí cho người nghèo chung quanh chùa.

    Là một nhà văn nổi tiếng nhưng hễ rảnh rang là ông hay la cà với mọi người, nhất là với giới bình dân. Có lần tôi về Sài Gòn ghé thăm khi ông đang nằm trên giường bệnh. Ông gầy lắm, da bọc xương, nhưng nói chuyện thì tỉnh táo, ánh mắt vui. Ông khuyên tôi nên coi bộ phim “Mê-kông ký sự” mà theo ông thì còn gặp được những hình ảnh văn hóa gốc của nhiều dân tộc thiểu số chưa bị “con người hiện đại” can thiệp. Ông nói rất lạc quan: “Nếu còn sống được tới 85 tuổi, tôi sẽ viết tiếp câu chuyện này, ở hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu của đồng bằng sông Cửu Long”.

    [​IMG]

    (Nhà văn Sơn Nam và bút tích của ông)

    Tôi đang giữ tập truyện “Hương Rừng Cà Mau” do Nhà xuất bản Trẻ tái bản lần đầu tiên sau ngày giải phóng, tháng 11-1986, in giấy vàng khè, giá 25 đồng, có chữ ký tặng bằng bút bi màu đỏ của nhà văn Sơn Nam. Tôi cũng đang treo bên kệ sách ở nhà, bút tích của nhà văn Sơn Nam chép bài thơ thay lời tựa tập truyện “Hương Rừng Cà Mau”. Lần đó, tôi nhớ vào ngày 15-01-2001, sau khi ghé thăm báo Cần Thơ, nhà văn về nhà tôi chơi. Sau đó, ông chép lại bài thơ vào mặt sau một tờ lịch lớn và ký tặng vì biết tôi rất thích bài thơ đó. Tôi tò mò hỏi chú viết bài thơ trong hoàn cảnh nào, ông nói: “Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi; hồi đó chánh quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến”.

    Tôi nhớ nhất câu chuyện này. Hồi giữa tháng 3-1990, nhà văn Sơn Nam về Cần Thơ để chuẩn bị cho một công trình nghiên cứu về chùa Nam Nhã. Lúc này ông đã 64 tuổi, thường xuyên đi về miền Tây. Biết tôi đã chuyển qua làm ở báo Quân khu 9 và cộng tác với mấy tờ báo ở Sài Gòn, Hà Nội, ông nhắn tôi đi uống cà phê đêm rồi về nhà tôi chơi. Lâu ngày gặp nhau, không hiểu sao tôi vẫn muốn nghe ông nói chuyện về miền Tây, về đồng bằng sông nước mà khi đó dù đã cưới vợ quê gốc Cần Thơ, lúc nào tôi cũng thấy mình thiếu cái... cốt cách miền Tây. Tôi còn nhớ đã hỏi ông như thế này:

    - Cái cốt cách người đồng bằng mình, theo chú Tám, là sao?

    Ông trả lời:

    - Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa. Ông vua mà không nhân nghĩa thì sẽ bị cái nhân nghĩa của nhân dân “cách cái mạng”. Hàng xóm có đám ma, mình góp tiền lo đám, dù người đó lúc còn sống mình không ưa. Không phải chỉ ông vua chết, mình mới cúng. Người ăn mày chết, mình cũng cúng. Đứa trẻ chết, mình cúng. Người ăn cắp, người đói chết, mình cúng. Xưa, công chúa Thuận Thiên than lạnh với cha, vua Lý Thánh Tông họp quần thần bảo: Trẫm thương dân như thương công chúa. Công chúa mặc hai lớp áo cung đình còn than lạnh, huống hồ là muôn dân của trẫm bị cầm tù vì nghèo vì dốt. Nay trẫm lệnh phải phát đủ quần áo để muôn dân được ấm. Đó không phải là mị dân, cái gốc của nó là nhân nghĩa Việt Nam.

    Ông còn nói thêm về cái hiện trạng sống thiếu nhân nghĩa xung quanh ta. Tôi giật mình nghĩ lại mình. Lúc đó là đã mười bốn năm kể từ ngày ba tôi mất. Lúc đó, đời lính đã tạm yên, không còn ra mặt trận 979 nữa, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện thờ phượng ba tôi, tất cả để một mình mẹ già của tôi ở Sài Gòn lo nhang khói. Mà hai vợ chồng tôi lúc đó là đảng viên, lúc nào cũng nghĩ mình sống có ích, có nghĩa với dân với nước! Có ngờ đâu, có những lúc thấy tâm hồn trống vắng cô đơn kỳ lạ mà không làm sao hiểu nổi. Như là đêm hôm đó, tôi lập cập tiễn ông già 64 tuổi ra khỏi căn nhà “gia binh” già nua của mình, gió đêm lạnh ngắt.

    (Nguồn: Website Hậu Giang Online)


    Posted by goldfish
     
  2. Foli

    Foli Lớp 11

    Vài mẩu chuyện khó quên với tác giả Hương rừng Cà Mau [HR][/HR] “Đừng đạo đức giả”

    Năm 1975, gia đình nhà văn Sơn Nam còn ở trong con hẻm nhỏ đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình. Nhà tôi cách nhà ông ba căn; bà con trong hẻm hay kêu ông là “ông Tám”, tôi cũng gọi ông là “chú Tám”. Sống trong con hẻm đó, đa phần là dân miền Trung gốc Quảng Nam như tôi, nên có chuyện gì liên quan tới tánh nết người Nam bộ, tôi hay “trà dư tửu hậu” với ông để… so đọ lại với những nhân vật trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của ông. Năm 1976 khi nhập ngũ, tôi cất trong ba lô cuốn truyện chứa bao nhiêu số phận con người và tập quán phương Nam hấp dẫn ấy với hi vọng thế nào mình cũng có dịp… gặp họ.

    Tới năm 1986, nhà xuất bản Trẻ muốn tái bản Hương rừng Cà Mau nhưng tác giả không còn cuốn nào để đưa đi in lại. Tôi tặng ông cuốn sách có nhiều kỉ niệm đó, bản do Trí Đăng in trước 1975 - nơi tôi làm thợ xếp chữ và tự mình xếp chữ tập truyện này (hồi xưa còn xếp chữ chì chứ chưa xếp chữ vi tính như bây giờ). Tới chừng sách in ra, ông để dành một cuốn, chờ tôi về nghỉ phép, ký tặng bằng bút bi màu… đỏ. Giờ tôi còn giữ cuốn sách in trên giấy vàng khè này. Góc bìa sau sách đề giá 25 đồng, trên có in bức kí họa tác giả, dưới chú thích: “Sơn Nam tên thật Phạm Minh Tày, sinh năm 1926 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang). Tham gia kháng chiến chống Pháp, công tác văn nghệ tại Khu 9. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam…”.

    Tánh tình giản dị của “chú Tám” và những nhân vật trọng nghĩa khinh tài trong Hương rừng Cà Mau thấm thía quá; cái tánh hay “lý sự Quảng Nam” trong tôi nghe chừng cũng bớt dần. Nhưng tới khi cấp trên giao nhiệm vụ về Quân khu 9, tức vùng đồng bằng sông Cửu Long, công tác thì tôi thấy vừa mừng vừa lo. Mừng vì nghĩ là từ đây mình sẽ được sống với cái không khí của… hậu Hương rừng Cà Mau. Còn nỗi lo thì tôi đem đi hỏi ông: “Chú Tám ơi, tôi sắp về miền Tây công tác. Tôi nên sống làm sao đây?”. Cũng như mọi lần, ông nói liền chẳng cần suy nghĩ: “Đừng có đạo đức giả”.

    Cho tới giờ, đã xuất ngũ và trải qua lắm cay đắng ngọt bùi ở nhiều vùng trong nước, tôi nghiệm lại, cái điều mà nhà văn Sơn Nam nói đó, quả là chí lý.

    “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”

    Đó là câu cuối trong bài thơ không đề viết “thay lời tựa” cho cuốn Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam. Bài thơ dài 28 câu viết về cái thuở tiền nhân xưa từ miền Trung tha hương vào khai hoang mở cõi phương Nam. Đó là một bài thơ độc đáo hiếm thấy của nhà văn Sơn Nam mà nhiều người đã thuộc lòng vì cái điệu buồn chất chứa trong từng âm điệu, câu chữ.

    Nhưng có lẽ ít ai biết bài thơ đó nhà văn viết khi nào và ở đâu. Một hôm, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, ông ghé thăm báo Cần Thơ và nhắn tôi qua chơi. Tôi chở ông về nhà mình, giở cuốn Hương rừng Cà Mau có chữ ký tặng bằng mực đỏ của ông ngày nào, rồi hỏi:

    - Bài thơ này chú Tám làm hồi nào vậy?

    Ông nheo nheo mắt, nói:

    - Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi. Hồi đó chính quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến.

    Rồi ông ngồi chép lại cả bài thơ trên mặt sau một tờ lịch lớn. Nét chữ của một ông già 75 tuổi mà bay bướm quá chừng. Cuối bài thơ, ông ghi: “Viết thơ này từ năm 1961, nay chép lại tặng Huỳnh Kim, bờ sông Hậu”. Tôi đã nhờ thợ phủ la-mi-na và ép tờ lịch ấy lên một tấm gỗ để lưu giữ được lâu dài bút tích của nhà văn Sơn Nam.

    Tôi treo kỉ vật này trên tường kế bên kệ sách và gắn kề bên nét chữ của ông, một chiếc lá cây khô hoang dã đã lìa cành tự khi nào. Chiếc lá ấy, nét chữ ấy, mỗi lần nhìn lên, như nghe có tiếng người xưa vọng lại:

    Trong khói sóng mênh mông
    Có bóng người vô danh
    Từ bên này sông Tiền
    Qua bên kia sông Hậu
    Mang theo chiếc độc huyền

    Năm tháng đã trôi qua
    Ray rứt mãi đời ta
    Nắng mưa miền cố thổ
    Phong sương mấy độ qua đường phố
    Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…

    HUỲNH KIM
    (Văn nghệ Sông Cửu Long)​


    Posted by hoi_ls
     
Moderators: SLASH.ROCK4U

Chia sẻ trang này