Một bài luận về thơ Việt Nam đương đại

Thảo luận trong 'Tủ sách Thi ca' bắt đầu bởi Ban Tang Du Tử, 19/10/14.

Moderators: Ban Tang Du Tử
  1. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT


    Đầu tiên, nếu không nói đến đồng ý không đồng ý với quan điểm của tác giả bài viết, thì đây là một tư liệu tốt để người đọc có cái nhìn tổng quan hơn một chút về thi ca Việt Nam hiên nay. Mà, theo như tôi thấy không có nhiều tư liệu, nhận định về chúng.

    Cuối cùng, đây thực sự là một bài viết chi tiết và mạch lạc, dẫn chứng phong phú. Đáng để đọc.

    Xin giới thiệu với các bạn một bài luận về thơ Việt Nam đương đại tôi tình cờ đọc được trên mạng.


    ***********************

    Nhận diện các trào lưu thơ Việt đương đại



    1. Nhập nhằng hạn từ “Thơ Trẻ”

    Như cụm từ “thơ hiện đại”, “thơ trẻ” là hạn từ có thể được sử dụng cho một nền thơ, ở bất cứ giai đoạn nào, trong bất kì đất nước nào. Việt Nam không là ngoại lệ. Từ thập niên 60, 70 và vân vân... Nhưng có lẽ Thơ Trẻ được dùng với tần số cao là khoảng thập niên 90 của thế kỉ XX. Từ đó, nó xuất hiện ngày càng đậm đặc trên các phương tiện thông tin đại chúng và cả trong giới khoa bảng. Đậm đặc và lạ. Lạ ở người dùng nó không cần đến thao tác phận định thời điểm xuất hiện/ độ tuổi của nhà thơ. Có, nhưng rất thi thoảng và nhất là không rõ ràng. Nên đã từng xảy ra hiện tượng không ít nhà Thơ Trẻ trẻ từ đầu thập niên 90 của thế kỉ trước đến cuối thập niên thứ nhất của thế kỉ sau mà vẫn còn... trẻ![1]

    Đầu năm 1993, Hoàng Hưng dự báo “phiên đổi gác” thơ Việt Nam bằng vài người viết mới: Chinh Lê, Lê Thu Thuỷ, Lê Viết Hoàng Mai, Nhật Lệ, Nguyễn Quyến, tuổi trung bình từ 20-25.[2] Nghĩa là rất trẻ. Bởi thời Thơ Mới, các nhà thơ làm nên cuộc cách mạng thơ Việt cũng vào lứa tuổi đó. Mười năm sau, tại một Bàn tròn văn học (lấy mốc năm 1991),[3] Dương Tường đặt niềm tin vào bốn khuôn mặt hoàn toàn mới khác. Mới và trẻ:

    “Trong thơ, tôi có cảm tình với bốn cây bút trẻ là Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải và Nguyễn Hữu Hồng Minh. Tôi nghĩ họ là những giọng thơ đáng hứa hẹn.”

    Họ là các nhà Thơ Trẻ. Bốn cái tên (sau đó có điền thêm Ly Hoàng Ly) được lặp đi lặp lại rất nhiều lần bởi Nguyễn Trọng Tạo, và... mãi mười lăm năm sau vẫn chưa dứt. Lạ là trong năm nhà Thơ Trẻ này, ngoài Ly Hoàng Ly sinh năm 1975, ba người còn lại đều sinh cùng năm 1972, riêng Vi Thùy Linh nhỏ tuổi nhất: 1980. Nghĩa là họ hơn kém nhau đến năm, tám tuổi.

    Nếu thế hệ thơ trẻ thứ nhất cùng độ tuổi và xuất hiện cùng thời điểm, thì thế hệ thơ trẻ thứ hai được nhấn vào xuất hiện cùng thời điểm là chính. Đa phần trong số họ hôm nay chuẩn bị bước sang tuổi tứ thập rồi.

    Như vậy Thơ Trẻ giai đoạn này dường đã mở rộng phạm vi, nó cần sự kết hợp ba yếu tố: cùng lứa tuổi [trẻ], trình làng tác phẩm cùng thời điểm, và nhất là có ý hướng cách tân, đổi mới, đổi gác đầy “chất trẻ.” Xin lưu ý: không cần cùng hệ mĩ học mà chỉ “cách tân” thôi, cũng đủ.

    Chính nơi điểm này xảy ra sự nhập nhằng. Thế các nhà thơ làm thơ cùng hệ mĩ học, cho ra đời các tác phẩm thuộc hệ mĩ học này xê xích chút đỉnh về thời điểm, nhưng tuổi đời cách biệt thì sao? Các nhà thơ hậu hiện đại Việt,[4] có thể gọi là thế hệ thơ trẻ thứ ba (giai đoạn 2001-2006), xuất hiện đồng thời với văn chương mạng tiếng Việt và phong trào in photocopy, trải dài từ thế hệ 6X: Đặng Thân (1964), Lê Anh Hoài, Lê Vĩnh Tài (1966), Lê Thị Thấm Vân (1968); sang 7X: Như Huy (1971), Nguyễn Hoàng Tranh (1976), Lý Đợi (1978), Bùi Chát (1979); và cả 8X: Nguyễn Thế Hoàng Linh (1982)...

    Hay các “khuôn mặt thơ mới”,[5] thế hệ thơ trẻ thứ tư, xuất hiện/ có tác phẩm nổi bật - tạm lấy năm 2006 làm mốc - từ khi cao trào sáng tác thuộc hệ mĩ học hậu hiện đại chuyển hướng, tuổi từ 20-30, như Jalau Anưk (sinh 1975), Trần Lê Sơn Ý (1977), Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (1979), Lynh Bacardi, Lê Hưng Tiến (1981), Nguyệt Phạm, Tuệ Nguyên (1982), Lam Hạnh (1983), Tiểu Anh (1984), Nhã Thuyên (1986), Bỉm (1987), Du Nguyên (1988), Lưu Mêlan (1989), Đỗ Trí Vương (1990); thậm chí có người cho ra tác phẩm đầu tay rất muộn. Muộn, nhưng đầy dấu ấn sáng tạo, như: Phan Thị Vàng Anh (1968), Lê Hải (1959), Nguyễn Viện (1949) hay Vũ Thành Sơn (1955)... Bởi môi trường ra mắt tác phẩm hay do nhiều nguyên nhân khác nhau, họ đã có mặt muộn. Gọi họ bằng ngôn từ nào cho ổn thỏa?

    Thơ Trẻ, một hạn từ đầy nhập nhằng là vậy.

    2. Vài nhận định bất cập về Thơ Trẻ

    Ảo tưởng về quá khứ

    Không kể các phát biểu vô bằng, nói theo, nói lấy được của dăm cây viết chuyên hay không chuyên về thơ Việt đương đại hay Thơ Trẻ,[6] không ít phát ngôn nghiêm túc nhưng còn mang nặng ảo tưởng về quá khứ. Quá khứ luôn là đẹp so với hiện tại. Thời trước làm quan cũng thế a? Nghĩa là “thời nay”, nạn tham ô hối lộ đang tràn lan quan trường, không sạch sẽ như “thời trước.” Thời hiện tại so với thời Nguyễn Khuyến không khác gì. Văn chương cũng vậy. So sánh với thơ đương đại, một nhà thơ đã nhận định:

    “Thơ Việt Nam theo tôi, chỉ duy nhất thời kì Thơ Mới (1930-1945) đã hòa vào dòng thơ thế giới, cụ thể hơn là thơ ca Pháp (...). Vậy thơ Việt Nam đương đại ở đâu? Xin thưa, thơ chúng ta vẫn chậm so với thơ khu vực và thế giới, chưa có diện mạo riêng, dòng chảy chưa được định hình.”[7]

    Những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Bích Khê... học trường lãng mạn, tượng trưng của Pháp muộn mất 80 năm. Chẳng những thế, họ mới chỉ góp mặt mỗi người một, hai tập thơ rồi, hoặc chuyển hướng sáng tác hoặc nửa đường đứt gánh, trong khi Vigny, Lamartine, Hugo, Musset, Verlaine, Baudelaire,... đã dựng nên một sự nghiệp văn chương khổng lồ. Vừa chậm ở thời điểm tiếp nhận, vừa quá mỏng về dung lượng tác phẩm. Ngay giai đoạn khởi đầu sôi động của trào lưu hiện đại với đại biểu sáng chói: G. Apollinaire (1880-1918), thế hệ Thơ Mới vẫn cứ muộn. Thì làm gì có thể gọi là “hòa vào dòng thơ thế giới”?

    Còn thơ Việt đương đại? Chưa đề cập đến chuyện hay dở, chủ nghĩa hậu hiện đại hay thơ tân hình thức đang xảy ra ngoài kia, các nhà thơ Việt đã biết tiếp nhận và vận dụng vào các sáng tác của mình. Họ chưa muộn với các trào lưu nghệ thuật của các nền văn học tiên tiến trên thế giới; nếu có, chỉ một, hai thập kỉ là cùng. Với các nước trong khu vực thì càng chưa muộn.

    Bằng lối nhìn tương tự, phê bình sự “non yếu” của Thơ Trẻ, vài nhà phê bình khuynh hướng ngoảnh lại ca ngợi thành tựu của thế hệ thơ chống Mỹ hay thơ hậu chiến: Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm... Sự thể tỏ lộ sự thiếu cập nhật thông tin bên cạnh tâm lí sợ sai trong đánh giá, nhận định sáng tác mới, khuôn mặt mới.

    Diện mạo thơ Việt đương đại trong đó có Thơ Trẻ vẫn chưa được đối xử sòng phẳng.


    Sai lầm mang tính nhận thức luận


    Tiêu biểu cho dạng sai lầm này là phát biểu của một nhà thơ kiêm nhà phê bình:

    “Theo quan điểm của tôi, người ta chỉ tìm tòi khi người ta tập viết, mà tập viết thì chưa thành nhà văn được (...), viết văn mà còn phải tìm tòi, còn phải tập, phê bình mà còn phải theo phương pháp này phương pháp khác thì là chưa tới. Đừng để quần chúng phải thưởng thức những tác phẩm còn “ương”, chưa tới ấy.”[8]

    Tìm tòi và thể nghiệm, thử nghiệm và khai phá vùng đất mới, đề tài và lối viết mới là hành động tất yếu của mọi nghệ sĩ chân chính. Chối từ mọi lặp lại, chối từ ăn theo hay ăn mòn vào thành tựu của người khác và của chính mình. Ngay khởi đầu cuộc viết hay khi dở chừng bế tắc sáng tạo. Chính hành động “tìm tòi và thể nghiệm” ấy đã tạo nên bước ngoặt mới cho một đời sáng tác, thay đổi dòng chảy của một trào lưu văn chương, hay làm nên cuộc cách mạng với một nền văn học. Làm cho văn học phong phú, đa dạng và lí thú hơn.

    Hành trình sáng tạo là hành trình của tiếp nhận, chối bỏ, tìm tòi và thể nghiệm. Thơ Mới tiếp nhận thơ Pháp, chối bỏ thơ Đường luật và hát nói, tìm tòi và thể nghiệm thủ pháp lãng mạn và tượng trưng để làm nên “một thời đại trong thi ca” Việt. Thơ Sáng tạo chối bỏ Thơ Mới, thơ hậu hiện đại chối bỏ thơ Sáng tạo... cứ thế. Chối bỏ ở đây không phải là “chôn”, “đưa tang” hay vứt đi tất cả mà là, tiếp nhận, tìm tòi khai phá và chuyển hướng sáng tạo. Hành trình này xảy ra giữa các thế hệ, trong một thời kì, thậm chí nơi mỗi nghệ sĩ. Có nhà thơ chẳng những thay đổi phong cách tác phẩm mà còn thay đổi cả hệ mĩ học sáng tác. Chế Lan Viên đi từ tượng trưng (Điêu tàn) sang hiện thực xã hội chủ nghĩa (Ánh sáng và phù sa). Hàn Mặc Tử chuyển từ cổ điển (Thơ Đường luật) sang lãng mạn (Gái quê) qua tượng trưng và siêu thực (Thơ điên, Thượng thanh khí...) chỉ trong thời gian ngắn. Hàn Mặc Tử như một Picasso trong hội họa. Liên tục tìm tòi, chinh phục và chối bỏ thành tựu của chính mình, để còn tìm tòi và chinh phục nữa. Cézanne trong mĩ thuật là tên tuổi lớn, lớn và dũng cảm. Sau thành công theo ấn tượng thời kì đầu, không hài lòng với lối thể hiện của hệ mĩ học này, ông thách thức chính không gian của các nhà ấn tượng và chuyển hẳn sang trường tân ấn tượng. Để tạo nên bước chuyển đó, ông phải “tập” – rất nhiều. Núi Sainte-Victoire được vẽ đi vẽ lại nhiều lần từ năm 1885 đến 1906 là những bài “tập” bất hủ. Nếu Cézanne cứ xoa tay hài lòng mà vẽ “theo” ấn tượng đi, không chịu “tập”, thì làm gì ông “đã khai mào cho một cuộc cách mạng về hình thể dẫn tới nghệ thuật hiện đại.”[9]

    Không học, không tập, không tìm tòi, hỏi thơ Việt sẽ đi về đâu? Giậm chân tại chỗ là cái chắc.

    “[N]gười ta chỉ tìm tòi khi người ta tập viết... viết văn mà còn phải tìm tòi, còn phải tập...”

    là phát ngôn không biết mình đang nói gì!

    Sự tìm tòi của Thơ Trẻ ở Việt Nam đã phải chịu cảnh bị phân biệt đối xử, là vậy.

    Vội vã và hời hợt của thao tác khái quát

    Ở khía cạnh khác, nhà báo-nhà thơ Lê Thiếu Nhơn trong “Mùa hào hứng cách tân thơ trẻ”, đã khái quát rằng “thơ trẻ đang thịnh hành hai khuynh hướng: thơ mông lung và thơ khẩu ngữ.” Sau đó anh kê thêm: “dòng thơ tân-cổ-điển.” Dẫn chứng cho đại biểu của nỗi mông lung kia là Nguyễn Quyến. Nhưng “lối viết này thì nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tương đối thuận tay hơn.”[10] Thơ khẩu ngữ thì ba cây bút thơ Song Phạm, Trần Lê Sơn Ý và Lãng Thanh được nêu ra bảo chứng. Dòng thơ tân-cổ-điển lại là Lãng Thanh. Thế thôi, chấm hết.

    Trường phái thơ mông lung xứ Trung Hoa độc đáo mà chủ soái là nhà thơ Cố Thành (1956-1993) lôi về đặt bên dòng tân cổ điển ở Hoa Kì của người chủ xướng Frederick Turner tuyên ngôn hay ho nhưng đến nay vẫn chưa có tác phẩm nào gọi là đáng đọc,[11] thì được; chớ “thơ khẩu ngữ”, không ai biết nó là gì! Bởi dẫu sao mông lung với tân cổ điển là chủ nghĩa, trường phái có tuyên ngôn, còn “khẩu ngữ” chỉ là một thủ pháp đơn thuần, không hơn.

    Chưa có căn bản về trào lưu nghệ thuật cùng các biến động của nó mà đã vội vã ứng dụng chúng vào nền thơ đang kì sôi động rồi khái quát, nhân khái quát kia sinh ra quả nhận định này là khó tránh:

    “... nếu nhìn thật thiện chí thì rõ ràng thơ trẻ đã bứt khỏi dòng chảy thi ca mang đậm dấu ấn thế hệ trước, để mở một lối đi riêng.”

    Nguyễn Quyến thuộc thế hệ thơ sau Nguyễn Quang Thiều, nghĩa là nhà Thơ Trẻ. Đi sau, nhưng lại làm thơ cùng khuynh hướng thơ mông lung như Nguyễn Quang Thiều, lại không “thuận tay” bằng, thì làm gì có chuyện “bứt khỏi”! Còn các nhà Thơ Trẻ khác đã “bứt khỏi” ra sao, đã “mở một lối đi riêng” như thế nào, thì không thấy dẫn tên tuổi hay tập thơ nào ra để bảo chứng.

    Thành tựu của Thơ Trẻ mãi chưa được nhận diện đúng như nó là.

    3. Nhận diện Thơ Việt đương đại



    Chính bởi sự thể nhập nhằng và mơ hồ trong việc sử dụng dụng ngữ Thơ Trẻ, nên tôi muốn dùng cụm từ Thơ Việt đương đại và Các Khuôn mặt thơ mới hơn. Thơ Việt đương đại bao hàm Thơ Đổi mới (thơ của các nhà thơ thời kì đổi mới, 1986-2000), Thơ Hậu đổi mới (1996-2005) và Các Khuôn mặt thơ mới là những cây bút xuất hiện từ năm 2006.[12] Ở đây có sự chồng lắp về thời điểm – không vấn đề gì cả. Mỗi thời đại thơ là một tiếp nhận và thay đổi. Dòng chảy của thi ca vừa liền mạch vừa chuyển hướng đồng thời - mỗi thế hệ, từng tác giả. Đã xảy ra hiện tượng không hiếm cây bút thế hệ 8X, 9X vẫn còn xài lại các thủ pháp đã lưu kho. Hoặc, các nhà thơ đã thành danh bất ngờ chuyển hệ mĩ học sáng tạo. Trần Tiến Dũng, Mai Văn Phấn và Lê Vĩnh Tài là rất tiêu biểu.[13]



    15 năm qua (1996-2010), nhất là thời điểm văn chương mạng ra đời (2002), thơ Việt phát triển theo năm dòng chính:




    - Thơ “cổ truyền”, là thơ hậu Thơ Mới cùng đủ loại biến thái với các cách tân nửa vời, sáng tác quẩn quanh trong hệ mĩ học cũ, cảm thức cũ... đang in tràn khắp mặt báo, đã tạo khủng hoảng thừa, khiến người đọc ngán ngẩm thơ. Ngoài các loại thơ theo thể thơ truyền thống như lục bát, tám chữ, bảy chữ, thơ mười hai chân... không khó nhận mặt, thuộc trường phái này còn có thơ “cách tân” lạc hậu các loại.



    Mai Văn Phấn giai đoạn chuyển hướng từ hậu lãng mạn sang hiện đại mang đậm di chứng của một thời. Qua những phong kín, mê sảng, tái sinh, phục sinh, vong linh, kí ức, trí nhớ, huyệt mộ, u mê, hốc mắt, oan khiên, sám hối, mặt trời mù, thác loạn, quánh đặc, nỗi kiếp côn trùng... người đọc rất dễ nhận ra dấu chân của thế hệ vừa đi qua. Cuối thế kỉ trước, chúng còn tràn ngập Thơ tự do.[14]



    Thử trưng dẫn một tác giả “thơ miền Nam nối dài” Khiêm Lê Trung:[15] nguyền rủa truyền kiếp, khoảng tối dài, nhịp ca ứ máu, phơi giấc mơ, nụ cười trăng, hồn rượu hát, gầy guộc thời gian, pha loãng trí nhớ, trí nhớ cong oằn, khoảng trời rách, vũng tối ươn ướt, nhơn nhớt thời gian, màu sương hoang, đọa đày, mộng mị, hư vô, chốn héo, ẩm ướt, rớm máu, khói tình... Thứ ngôn từ mòn sáo của thơ tự do miền Nam thuở thập niên sáu mươi xưa cũ vẫn còn khả năng ám ảnh không ít cây bút, vô tình đẩy thơ vào chân tường hũ nút. Đậm nổi hơn là Văn Cầm Hải, với những:

    anh và em bức tường phiên âm

    viên gạch đẻ hoang

    mê man nhật thực

    mặt âm ty mềm mại muôn màu giới tính

    anh và tôi không gian

    hiện thực nhạy cảm

    lật mặt thế giới

    chiếc la bàn hoang hoải...

    (Văn Cầm Hải, “Pink Floyd – Sự hồn nhiên tường đá”)



    Nhất là “Sinh tồn” với la liệt những nhiệm màu, trầm tư sinh khí, thắp sáng dương gian, rụng cánh đơm hoa, song mây, thuở nào xanh xao, má hồng, tiếng khóc vạn kỉ... Nữa, người ta còn thấy chúng lây lan, biến tướng và sống dai dẳng ở vài khuôn mặt mới, trẻ. Vi Thùy Linh với bao nhiêu từ mòn nhẵn: xé lòng, linh giác, sự định đoạt của số phận, hạnh phúc an bài, dấu của định mệnh, con người là nỗi đau, vắt mình đến giọt sống cuối cùng, đau đớn tột cùng, vòng quay hối hả, đường hò hẹn, đỉnh cao im lặng, giọt đêm, khuông nhạc, mắt sông thao thức, nỗi buồn nằm nghiêng, bóng tối òa vỡ, lời tím...![16] Tôi nhấn mạnh – mới, trẻ. Bởi từ Mai Văn Phấn (sinh 1955) sang thế hệ đầu 7X là Văn Cầm Hải, Đỗ Thượng Thế của Trích tôi [17] đến Vi Thùy Linh cách quãng ba thế hệ nhưng vẫn một dòng “cách tân” ấy.

    - Thơ tân hình thức (new formalism poetry), là phong trào thơ do Khế Iêm khai sinh ở Mĩ vào năm 2000 (chủ yếu đăng ở Tạp chí Thơ, Hoa Kì), truyền bá sang Việt Nam, được các thi sĩ không chính lưu ở Sài Gòn tích cực hưởng ứng, tạo không khí thơ sôi động một thời.

    “Đặc tính của thơ hiện đại được bàn cãi nhiều nhất là tính khó hiểu và tối nghĩa của nó”, Delmore Schwartz nhận xét.[18] Bất kì bài thơ nào, tập thơ nào của tác giả nào, cứ là khó hiểu với tối nghĩa. Vậy, thơ để làm gì? Khế Iêm ý hướng thiết lập lại quan hệ giữa thơ và người đọc, kéo người đọc trở lại với thơ. “Tân hình thức như một thời lãng mạn mới, một trật tự mới hay một nền ca dao mới trong một xã hội bình đẳng và dân chủ, lôi cuốn người đọc, làm phong phú đời sống và ngôn ngữ tự nhiên.”[19] Tân hình thức “kết hợp với một số yếu tố và kĩ thuật của thơ tự do, phá vỡ những âm hưởng Tiền Chiến, chấm dứt nửa thế kỷ dậm chân tại chỗ của thơ Việt.”[20] Là tham vọng chính đáng của mọi nhà thơ. Hấp dẫn đấy chứ!

    Sẵn sân chơi là tạp chí Thơ, tân hình thức lôi cuốn gần trăm người làm thơ đã và chưa thành danh chịu chơi nhập cuộc. Từ Đoàn Minh Hải (sinh 1941), Nguyễn Đình Chính (1946), Nguyễn Đạt, Lưu Hy Lạc sang Trần Tiến Dũng, Nguyễn Thị Khánh Minh, Đỗ Minh Tuấn, Đỗ Kh., Nguyễn Thị Ngọc Nhung đến Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán, và mới nhất Bỉm (sinh 1987). Nghĩa là trải dài bốn thế hệ!

    Vần, lặp lại với vắt dòng, yếu tố tính truyện và ngôn ngữ đời thường, là các thủ pháp đã lưu kho, nhà thơ tân hình thức tái chế lại. Nhiều nhà thơ Sài Gòn đã triệt để vận dụng nó, như là một trong những thủ pháp nghệ thuật, chứ chưa có nhà thơ chuyên trị tân hình thức. Cho dù vần và lặp lại nguy cơ [và đã từng] đưa thơ vào sự quẩn quanh, nhàm chán; yếu tố tính truyện đã xô rất nhiều bài thơ trở thành lan man và nhảm; ngôn ngữ đời thường khiến không ít người làm thơ lạm dụng ngôn từ dung tục từ đó tầm thường hóa thơ, tân hình thức vẫn hiến cho người đọc không ít bài thơ đặc sắc.

    Nhưng tân hình thức vẫn cứ bị dị nghị, ngay từ khai cuộc, trong lẫn ngoài nước. Trong nước, nó chịu phận ngoài lề, góp mặt với đời qua hình thức in photocopy. Sau thời gian im ắng, một thế hệ tân hình thức mới xuất hiện: Bỉm, Biển Bắc, Giảng Anh Yên (sinh 1984), Thiền Đăng, Nguyễn Tất Độ với tập thơ Bướm sáu cánh, [21] mang sinh khí khác cho tân hình thức.

    Tân hình thức Việt đang đổi khác. Để tồn tại, nó cần phải đổi khác.

    - Thơ nữ quyền luận, khai mào từ khá sớm với Dư Thị Hoàn, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Khánh Mai, Vi Thùy Linh... cùng vài tên tuổi khác. Nó vẫn còn khá mờ nhạt và bị lẫn với thơ hậu lãng mạn. Qua sáng tác của họ, người đọc ý thức hơn về sự có mặt của phái nữ, cùng với quyền được biểu lộ tình yêu [nhất là] qua thân xác của họ. Thế thôi. Phải đợi đến nhóm Ngựa Trời xuất hiện tại Sài Gòn bằng tập thơ Dự báo phi thời tiết, vấn đề nữ quyền trong văn chương mới hiển lộ rõ hơn. Nhưng ngay cả vài nhà thơ ý thức nữ quyền mạnh, trong sáng tác, thỉnh thoảng họ cứ giẫm đạp lên dấu vết còn lưa lại của lãng mạn hậu thời. Em so với anh, liễu yếu đào tơ bên cạnh nam nhi phong độ... luôn luôn chịu thế lép; hay “nhà phê bình, anh [ông] phải”... là cách nghĩ truyền đời của chế độ nam quyền và phụ quyền độc đoán áp đặt lên ngôn ngữ, không ít nhà thơ nữ quyền luận Việt Nam vẫn xài. Vô tư! Đây là ngộ nhận rất tai hại – ngộ nhận về ngôn ngữ. Cả Đoàn Minh Châu, tác giả nữ được xem là mang yếu tố nữ quyền nhất trong các khuôn mặt mới, vẫn vậy. Dù trong hành động viết hay thái độ cho ra mắt tác phẩm, thi sĩ này đã rất khác:

    “Khác với những nhà thơ nữ như Thảo Phương, ca ngợi ‘người đàn bà do đàn ông sinh ra’ ; như Vi Thùy Linh đặt người bạn tình là tất cả ý nghĩa đời sống; những nhà thơ trong nhóm Ngựa Trời với tập Dự báo phi thời tiết được giới thiệu, hỗ trợ bằng những “uy tín” trên văn đàn của phái nam, Đoàn Minh Châu xuất hiện không hình ảnh, không tiểu sử, không tựa, bạt hay nhận định phê bình của ai. Cô đơn và kiêu hãnh như thế hệ nhà văn – nhà thơ nữ tự chủ phải thế, một tinh thần cần tôn trọng và khích lệ trong thế kỷ 21 mới mở ra này.”[22]

    Khác, nhưng vẫn còn xa vời vợi với một Nguyễn Thị Hoàng Bắc hay Lê Thị Thấm Vân trước đó khá lâu.[23] Lại lưu ý, Nguyễn Thị Hoàng Bắc thuộc thế hệ 5X, Lê Thị Thấm Vân 6X, Vi Thùy Linh 8X và Đoàn Minh Châu 8,5X! Văn chương nữ quyền với thế hệ trẻ hôm nay ghi nhận một bước thụt lùi lớn.

    Nữ quyền luận không phải là làm thơ mang nội dung nữ quyền mà là: ý thức, phản kháng và giải trung tâm. Giải trung tâm ngay tại trung tâm ngôn ngữ sử dụng. Ý thức sáng rỡ và chấp nhận thân phận người nữ như là một đặc thù tâm sinh lí nhưng dũng mãnh phản kháng lại mọi bất công mang tính lịch sử và văn hóa dành cho nữ giới:

    “Để người đàn bà dễ leo.” Anh nói. “Không phải, để cả hai cùng dễ leo.” Em nói.

    (Lê Thị Thấm Vân, “Căn phòng 2.2 - âm thanh sóng”)

    Nữ quyền luận hậu hiện đại đẩy tư tưởng này dấn thêm một bước quyết liệt hơn. Virginia Woolf: “Thật nguy hiểm cho nhà văn nào khi viết lại nghĩ về giới tính của mình.” Nghĩa là giải trung tâm toàn triệt. Khía cạnh nào đó, Phan Huyền Thư và Đinh Thị Như Thúy đã thể hiện được tinh thần nữ quyền luận hậu hiện đại này trong các sáng tác mới nhất của mình. Hay các nhà thơ nữ làm thơ khách quan: Khánh Phương và Phan Thị Vàng Anh, chẳng hạn.


    - Thơ thị giác (visual poetry) trong đó thơ trình diễn (poetry performance) là một nhánh nổi bật. Thơ thị giác kết hợp thơ với ảnh chụp, với hình vẽ, video... đã được Đinh Linh, Đỗ Kh., Tam Lệ, Lê Văn Tài... thực hiện thành công từ vài năm trước. Năm 2001, tại quán cafe EraWine - TP Hồ Chí Minh, họa sĩ Như Huy là người khơi mào cho thơ trình diễn Việt Nam, bằng một màn trình diễn thơ trước... ít khán giả. Không vấn đề gì cả. Đó là phần số dành cho mọi thử nghiệm. Mãi năm 2005, Hà Nội mới biết đến loại hình nghệ thuật mới này qua chương trình Chiều buông đầy những tiếng thở dài của nhà thơ Dương Tường tại L’Espace (Trung tâm Văn hóa Pháp). Chỉ từ năm 2007, với sự hỗ trợ đắc lực của Hội đồng Anh, sau đó là Trung tâm văn hóa Pháp, Thơ trình diễn mới rộ lên. Sau đó, qua nỗ lực của các tên tuổi nổi tiếng như Roger Robinson, Francesca Beard của Anh, Jean-Michel Maulpoix, André Velter của Pháp kết hợp với các nhà thơ Việt Nam: Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương, Vi Thùy Linh, Trương Quế Chi, Ly Hoàng Ly, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Thanh Xuân... rồi tại Sân Thơ Trẻ ở Văn Miếu vào năm 2008 và 2009, thơ trình diễn đã tiến những bước đáng kể.[24]


    Thế nhưng, tìm đâu sợi dây kết liên giữa nhà thơ trình diễn và khán giả để tương tác trúng tiết tạo hiệu quả nghệ thuật cao thì, vẫn chưa có câu trả lời. Có lúc nhà thơ mang “thơ truyền thống” ra trình diễn, lối trình diễn lắm khi gượng ép, khiên cưỡng; người xem thơ trình diễn cảm thấy tẻ nhạt, bức bối hay nghĩ nó đã từng có mặt đâu đó trong truyền thống diễn xuất của Việt Nam – hát bội hay tuồng, nhưng kém ở phần diễn. Không ít lần mối liên kết giữa người trình diễn - tác phẩm thơ - khán giả không được liền lạc, để một khán giả đã kêu lên: Đó “không phải là trình diễn thơ, cũng không phải là thơ trình diễn” (Trịnh Lữ).


    Sự không biện biệt giữa hành động trình diễn đương đại với các kiểu diễn cổ điển của chính nhà thơ lẫn khán giả đã gây ngộ nhận về thơ trình diễn. Trong khi ý hướng của thơ thị giác là dùng yếu tố trình diễn (cơ thể, vận động, biểu cảm của nhà thơ) hoặc vật thể (sắp đặt), kể cả các thứ khác (vốn được các nghệ sĩ xuất thân tạo hình hoặc nghệ sĩ tổng hợp khác hay dùng) để tạo một cảm quan thơ mới. Nghĩa là yếu tố thị giác kết hợp với yếu tố thơ để làm nên một tác phẩm nghệ thuật mới lạ, nhưng vẫn thuộc phạm trù thơ.


    Sân Thơ Trẻ tại Văn miếu - Hà Nội, tháng 2-2010, bên cạnh thơ sắp đặt của Huỳnh Lê Nhật Tấn và Nhã Thuyên, Lê Anh Hoài làm được như thế qua tác phẩm Nhu cầu - với chiếc xe máy được viết, vẽ, dán, sơn, gắn cánh, được treo bằng xích trong chiếc lồng [sơn] vàng óng, được phủ vải đỏ trước khi mở ra cho khán giả xem... tạo được hiệu quả nghệ thuật khác lạ, thú vị.


    Nhưng tại sao thơ thị giác nói chung mãi ăn theo các trung tâm hay các dịp lễ hội? Tại quán cà phê, công trường, góc phố... nó hoàn toàn vắng bóng. Tại sao?


    - Và cuối cùng, vào đầu thiên niên kỉ, từ sự chuyển động thơ ca qua những tìm tòi khai phá, với bao hi vọng lẫn hụt hẫng ấy, đột ngột nảy sinh một biến cố, biến cố mang trong mình khả tính cách mạng. Đó là trào lưu thơ hậu hiện đại. Đây chắc chắn là trào lưu khởi phát sớm nhất và được [người đọc cấp tiến] kì vọng hơn cả trong thời kì hậu đổi mới. Nó được khơi mào từ giữa thập niên cuối của thế kỉ XX và nở rộ cùng văn chương mạng tiếng Việt. Hậu hiện đại chủ động tồn tại bên lề sinh hoạt văn học dòng chính qua hình thức mạng internet và cả ở dạng in photocopy.

    Và chúng đã làm nên cuộc thay đổi lớn.

    Toàn cầu hóa, vách ngăn trong ngoài không còn, nhất là khi văn hóa internet ra đời, các website văn chương cấp tập nở rộ, phương tiện ấn hành mới mở ra không gian mênh mông cho nhà thơ thể hiện và nhanh chóng đưa tác phẩm mình đến với người đọc khắp mọi nơi trên thế giới. Thế hệ nhà thơ hậu hiện đại xuất hiện làm cuộc giải trung tâm toàn triệt thơ Việt lâu nay gò mình trong vùng chật hẹp, bó buộc.

    Đặng Thân, Lê Anh Hoài, Mai Văn Phấn, Tam Lệ hay Nguyễn Viện, Vũ Thành Sơn, Trần Tiến Dũng, Trần Wũ Khang, Như Huy, Lê Hải; Bùi Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, Khúc Duy, Lynh Bacardi hay Lê Vĩnh Tài, Jalau Anưk, Bỉm, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh; từ Nguyễn Đăng Thường, Lê Văn Tài, Nguyễn Hoàng Nam, Đỗ Kh, Đỗ Quyên, Vương Ngọc Minh, Đinh Linh, Khải Minh, Đỗ Quyên cho đến Nguyễn Tôn Hiệt, Nguyễn Đức Tùng, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Hoàng Tranh, Lê Nghĩa Quang Tuấn,...

    Bắc hay Nam, trong hay ngoài nước, nam hay nữ, dân tộc thiểu số/dân tộc đa số, chính thống/phi chính thống, tác phẩm in có giấy phép của nhà xuất bản hay in photocopy, in giấy hay phát hành trên mạng, nhà thơ đã là hay chưa là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, sống ở trung tâm văn hóa lớn hay đang cư trú nơi các vùng sâu vùng xa hẻo lánh... tất tần tật. Tất cả cùng tự thức self consciousness trong chân trời của tự do sáng tạo trong thế giới toàn cầu hóa, ở đó mỗi cá nhân được thể hiện trọn vẹn mọi khả năng của mình. Bất kì đâu, bất kì hình thức nào, phương cách nào...

    Mười lăm năm phát triển, nhà thơ hậu hiện đại Việt vận dụng mọi thủ pháp tiếp nhận từ đồng nghiệp trên thế giới để sáng tạo nhiều loại thơ chưa từng có mặt trong truyền thống thơ ca Việt Nam trước đó: Phỏng nhại, siêu hư cấu sử kí, thơ phụ âm, thơ graphic, thơ thực hiện, thơ cụ thể, thơ phân thân, thơ động tác, thơ tịnh tiến, vân vân. Không ít nhà thơ viết truyện rất ngắn mà cứ xếp nó vào mục thơ, có kẻ viết thơ như viết tiểu luận ngôn ngữ. Hậu hiện đại giải khu biệt hóa và phi tâm hóa ngay trong các thể loại.

    Tất cả xuất phát từ cảm thức hậu hiện đại. Cảm thức thế giới là hỗn độn, nhận thức thế giới của con người luôn đầy thiếu khuyết, các thiếu khuyết được diễn dịch một cách chủ quan bằng giải trình ngôn ngữ (discourse). Chúng hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân. Bất tín nhận thức, hậu hiện đại coi đại tự sự (grand narratives) như là thứ huyền thoại mang ở tự thân sự bạo động từng thao túng cuộc sống nhân loại, khiến họ ngày càng chìm sâu hơn trong nỗi vong thân. Bên cạnh thức tỉnh nhân loại tự thức trước những giấc mơ đại tự sự, hậu hiện đại thúc đẩy con người trực diện với chính thời đại mình đang sống, một thứ hiện thực thậm phồn (hyper-reality).[25] Nhà hậu hiện đại giải-mơ mộng của nhà lãng mạn, giải ảo tưởng của nhà lí tưởng, hủy trung tâm để thiết lập nhiều trung tâm nhỏ lẻ khác, đặt đại tự sự vào thế chông chênh để nó luôn tự xét lại mình, vượt bỏ nhà hiện đại để đưa thơ ca kết nối lại với truyền thống... Do đó, có thể khẳng định rằng chính nhà hậu hiện đại bám hiện thực hơn mọi nhà hiện thực [chủ nghĩa] nào bất kì.

    Có nhà phê bình nào lắng nghe được tiếng thơ của họ?

    Mười lăm năm, họ có đó. “Cũ như giấc mộng và mới như cái hiện tiền” (Trúc Thiên).

    Lứa tuổi nào bất cứ, thơ họ vẫn đầy “chất trẻ” và mang hơi thở đương đại.[26]

    *

    Còn hơn là bao nhiêu nhà Thơ [tuổi] Trẻ khác, tuổi rất trẻ nhưng vẫn ở lại với dòng cổ truyền hay cách tân dính đầy dấu vết kẻ đi trước.

    Như vậy, nhận diện sòng phẳng thơ đương đại, không phải cứ là thơ [của tuổi] trẻ; và muốn nhận định công bằng thơ đương đại, không thể không “đi vào trong” nó. Đi vào trong hệ mĩ học sáng tạo của mỗi nhà thơ, để đánh giá. Dù đại bộ phận nhà thơ Việt Nam vẫn viết theo cảm tính, hay viết theo trường phái nhưng chưa tiếp nhận đầy đủ tinh thần và thủ pháp của hệ mĩ học của trường phái đó; và dù không ít nhà thơ thay đổi vài hệ mĩ học khác nhau trong các thời kì sáng tác của mình, nhà phê bình không thể không rạch ròi chúng.

    Toàn cầu hóa, bao nhiêu trào lưu sáng tác tràn vào Việt Nam. Nhiều cách tiếp cận và thể hiện khác nhau, ở mỗi nhóm văn chương, mỗi tác giả, mỗi thời đoạn. Năm dòng thơ khác nhau phát triển và cùng tồn tại trong mười lăm năm của một nền thơ, dù chưa phải là nhiều, nhưng chắc chắn không nhà phê bình nào có thể quán xuyến chúng. Nhà phê bình chỉ có thể đi sâu vào các sáng tác của một hệ mĩ học để làm phê bình, không thể khác.

    Một nhà phê bình Nga (báo Văn nghệ, 2008) đề nghị khá thực tế rằng mỗi nhà phê bình cần theo dõi khoảng trăm nhà văn mình yêu thích. Nhiều hơn thì không kham nổi, còn ít hơn thì bạn chưa đủ tầm là nhà phê bình. Cả nước cần năm, sáu nhà phê bình như thế. Khi các nhà này “đấu tranh” với nhau, văn đàn chắc chắn sẽ sôi động lên. Sự thể rất có ích cho phát triển văn học. Ngoảnh lại văn học Việt Nam mươi năm qua, có nhà phê bình nào đã làm được công việc đơn giản đó: theo dõi sát sao 100 nhà văn “của” mình? Thêm: Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam có sẵn sàng là diễn đàn cho cuộc đấu tranh kia chưa? Câu trả lời dứt khoát là: không và chưa! Chúng ta vẫn còn chưa có một diễn đàn đúng nghĩa. Các cuộc trao đổi văn học mấy năm qua chỉ là thứ cãi cọ vụn vặt, không rốt ráo, do đó chẳng đi tới đâu cả.

    Không và chưa, nên chúng ta dung dưỡng các phát biểu tùy tiện đầy cảm tính, bất cập nên rất bất công về mọi loại sáng tác. Không thể đứng từ mĩ học này để phán xét thơ thuộc hệ mĩ học khác. Càng không thể nhấn vào một số tác giả hay tác phẩm chưa tiêu biểu thuộc một hệ mĩ học nào đó để phê phán chính tư tưởng của hệ mĩ học đó. Một nghệ sĩ chỉ có thể vượt bỏ một trào lưu nào đó bằng cách nhận ra khuyết điểm căn bản của các đại biểu lớn nhất của trào lưu đó.

    Chỉ khi đó, chúng ta mới tránh khỏi nỗi vội vã của khái quát, niềm hời hợt của nhận định lẫn sự bất công của thái độ đối với mọi nỗ lực sáng tạo của nhóm tác giả, tác giả hay tác phẩm văn chương.

    Chỉ khi đó thôi, văn học Việt Nam mới có cơ hội vượt vũ môn để đi ra biển lớn.

    Inrasara. Sài Gòn, 9-4-2010.

    (TheoTienve.org)



    __________

    Chú thích:

    [1]Mới nhất, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật trong “Vận mệnh thơ như vận mệnh con người” (Tienve.org, 26-6-2010) còn kêu cả Trần Tuấn sinh năm 1967 là “nhà thơ trẻ”!

    [2]Hoàng Hưng, “Thơ Việt Nam đang chờ phiên đổi gác”, báo Lao Ðộng, Xuân 1993.

    [3]“Mười năm trên giá sách văn chương”, (Bàn tròn văn học - lấy mốc năm 1991), báo Sinh viên Việt Nam, số 4, 4-11-2003.

    [4]Inrasara, “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại”, Tienve.org, 2-2009.

    [5]Inrasara, “Thơ Việt đương đại, các khuôn mặt mới”, Inrasara.com, 12-2009.

    [6]Về thơ đương đại có xu hướng cách tân, nhiều nhà phê bình không đọc, hay đọc lỗ mỗ nhưng vẫn đưa ra nhận đinh; cũng có không ít người có đọc nhưng không hiểu thơ thuộc hệ mĩ học khác lạ, hay hiểu nhưng vì bảo thủ hay nhiều lí do khác nhau, đã xét đoán đầy thiên kiến, thiếu công bằng.

    [7]Mai Văn Phấn, “Về thơ Việt Nam đương đại”, tạp chí Thơ, số 1, 2010.


    [8]Đinh Quang Tốn, “Tôi không thần thánh hóa nghề văn” (Bình Nguyên Trang thực hiện), báo Văn nghệ, 27-2-2010. Xem thêm: “Sẽ có một phiên đổi gác cho thơ”, nhà thơ Hoàng Hưng trả lời phỏng vấn trên Vietvan.vn, 2010 (Yên Thi thực hiện): “Rồi sẽ có một “phiên đổi gác cho... thơ” bắt nguồn từ những cây bút trẻ. Tôi tin thế. Họ là những con người năng động và chịu khó tìm tòi (Inrasara nhấn mạnh), đổi mới trong cả tư duy lẫn nhận thức về thời cuộc.” Nghĩa là “tìm tòi” từ bao giờ mãi là thuộc tính của sáng tạo.

    [9]Great modern Masters, Time Warner Books, London, 2003; Xem thêm: Wendy Beckett, Lịch sử hội họa, Lê Thanh Lộc dịch, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996, tr. 304-308.

    [10]Lê Thiếu Nhơn, “Mùa hào hứng cách tân thơ trẻ”, Hội thảo khoa học Đời sống Văn học - Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh thời kì hội nhập tại TP Hồ Chí Minh, 16-10-2007.

    [11]Frederick Turner, “Chủ nghĩa Tân cổ điển và văn hóa”, Nguyễn Tiến Văn dịch, Thotanhinhthuc.org, 2007.

    [12]Bộ Thơ Việt đương đại gồm 4 tập: Thơ Đổi mới, một khởi đầu mới (12 tác giả), 20 năm Thơ Dân tộc thiểu số Việt Nam (10 tác giả), Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại (24 tác giả) và Các Khuôn mặt thơ mới (20 nhà thơ xuất hiện sau 2006).

    [13]Thay đổi hệ mĩ học sáng tác là khó, nhưng không phải không thể. Mai Văn Phấn từ Gọi nắng (1992) qua Vách nước (2003) đến Hôm sau (2009), hay Trần Tiến Dũng từ Khối động (1997), Hiện (2000) chuyển hệ sang Bầu trời lông gà lông vịt (eBook, 2003) và Hai đóa hoa trên trán cho công dân hạng hai (2006), hoặc Lê Vĩnh Tài từ Hoài niệm chiều mưa (1991) bước sang Vỡ ra mưa ấm (2005) đến Đêm & những khúc rời của Vũ (2008) và Thơ hỏi thơ (2008). Hay tầm lớn hơn: “Trong lịch sử hội họa, Picasso là người gây ra nhiều lời mỉa mai cay độc nhất và cũng được ca ngợi nhất. Toàn bộ nền hội họa thế kỉ XX chịu sự chi phối của tác phẩm của ông, mà tác phẩm của ông thì thay đổi đến mức mỗi một thì kì (sáng tác) của ông cũng đủ cung cấp toàn bộ tác phẩm cho một họa sĩ khác” (J. Charpier & P. Séghers, Nghệ thuật hội họa, Lê Thanh Lộc dịch, NXB Trẻ, 1996, tr. 396.

    [14]Thơ Tự do, thơ in chung, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999.

    [15]Phần 1, Vách nước, NXB Hải Phòng, 2003. Xem thêm: Inrasara, “Mai Văn Phấn: Ra đi sau tiếng kẹt cửa”, Tienve.org, 2003.

    [16]Nhã Thuyên, “Thơ nữ: Giới là một vấn đề”, website Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn, 16-3-2010.

    [17]Đỗ Thượng Thế, Trích tôi, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009.

    [18]Delmore Schwartz observed in 1941 that “the characteristic of modern poetry which is most discussed is of course its difficulty, its famous obscurity.” Dẫn lại từ Khế Iêm, “Vũ điệu không vần”, bản thảo.

    [19]Tạp chí Thơ, số 20, 2001, tr. 70.

    [20]Tạp chí Thơ, số 18, 2000, tr. 94.

    [21]Bướm sáu cánh, tập thơ năm tác giả: Biển Bắc, Bỉm, Thiền Đăng, Nguyễn Tất Độ, Gyảng Anh Iên, NXB Tân hình thức, Sài Gòn, 2008. Mới đây tân hình thức đã xuất hiện đầy chính thống qua ấn phẩm tuyển thơ của 22 tác giả cả trong lẫn ngoài nước: Thơ kể, NXB Lao động, Hà Nội, 2010.

    [22]Nguyễn Tiến Văn, “Về tập thơ M – N & Z của Đoàn Minh Châu”, Damau.org, 2-2-2009.

    [23]Inrasara, “Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’”, Song thoại với cái mới, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2008, tr. 92-121.

    [24]Dẫn theo Tuấn Nhi, “Vụng về thơ trình diễn”, báo Thể thao - Văn hóa, 9-2-2009.

    [25]“Hiện thực thậm phồn” là chữ của Hoàng Ngọc-Tuấn dịch thuật ngữ hyper-reality. Xem “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại”, in trong cuốn Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua Thực Tiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết (California: Văn Nghệ, 2001).

    [26]Có thể kể thêm Thơ dân tộc thiểu số sáng tác bởi các cây bút người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa hay đã hòa nhập vào dòng chảy của đời sống hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc qua cách nghĩ và lối thể hiện đặc sắc. Mươi năm qua, khi thơ của các dân tộc thiểu số phía Bắc dừng lại, thi thoảng chỉ xuất hiện một, hai nhà thơ đáng kể như Bùi Tuyết Mai, thì ở miền Trung, hàng loạt cây bút người Chăm nhập cuộc văn chương tiếng Việt đầy tự tin. Trà Vigia, Trần Wũ Khang (sinh 1957), Jalau Anưk, Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên,... Tất cả tạo nên giọng đặc thù, hoàn toàn khác so với thơ của các tác giả dân tộc thiểu số trước đó. Nên, việc nhận định thơ [dân tộc thiểu số] Chăm là mộc mạc, chân chất, “đậm đà bản sắc dân tộc”, không gì hơn là một lười biếng tư duy qua lối viết xuôi tay đầy định kiến (Xem thêm: Inrasara, “Sáng tác Chăm hiện đại - thơ tiếng Việt”, Inrasara.com, 2010).
     
  2. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Thi đàn Việt, nhìn trên dòng sông lịch sử dài dằng dặc và đen ngòm ấy, lâu lâu ta sẽ thấy được một cái cọc nhọn- tác phẩm bất hủ. . . Còn lại sẽ trôi theo dòng chảy và chôn vùi. . . Có lẽ do mình đọc thơ hiện đại khá ít, nên chưa biết tới một bài nào xứng làm cọc cả . Đối với riêng mình, yêu Thơ mới sâu lắm rồi, không dứt ra được. . .
     
  3. Latiku

    Latiku Lớp 3

    Mình đồng ý với bạn.
    Nguyên nhân: Tự do sáng tác là tiêu chuẩn hàng đầu để nhà thơ cho ra các tác phẩm của mình. Sống trong sự gò bó làm sau mà làm thơ hay được?
     
    whatcsvt100 thích bài này.
  4. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    HIỆN TƯỢNG VÈ HÓA, VĂN XUÔI HÓA VÀ CŨ HÓA THƠ… CẦN BÁO ĐỘNG
    NGUYỄN TRỌNG TẠO
    Khi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ. Tức là nghệ thuật thơ khác và cao hơn ca dao bình dân. Đó là một điểm rất đáng chú ý trong việc phân biệt thơ với các thể loại văn vần hay văn xuôi, từ, phú mà dân gian vẫn thường sử dụng. Như ta đều biết, thơ được xây dựng bằng một thứ “ngôn ngữ lạ hóa” mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc còn gọi là “ngôn ngữ quái đản” đã phát triển ở giai đoạn cao, chứa đựng các đặc tính không thể thiếu, đó là nhạc điệu, truyền cảm, hàm súc và giàu tính biểu tượng.
    Nhưng thời đại thông tin công nghệ phát triển hiện nay, sự ngộ nhận về thơ xuất hiện nhan nhản trên thế giới ảo (và cả trên những bản in giấy), không những ít được các nhà phê bình chỉ ra bản chất thật giả của thơ mà còn được các cư dân mạng kém hiểu biết về nghệ thuật này tung hứng chia sẻ không tiếc lời. Chính vì thế mà sự ngộ nhận về thơ ngày càng gia tăng hơn bao giờ hết.
    Một nguy cơ nữa là thị hiếu độc giả thơ ngày càng ngả dần về nhu cầu giải trí, ngại đọc loại thơ cao siêu bác học mà ưa thích một tinh thần ngộ nghĩnh đùa tếu kiểu dân gian, nên các loại thơ-vè phát triển rầm rộ như nấm sau mưa. Ta dễ dàng nhận thấy nhiều bài thơ-vè được truyền tụng và được đón nhận vô cùng nồng nhiệt:
    Xưa kia da sắt mình đồng
    Nói năng hoa mỹ, như rồng phun mưa
    Bây giờ như cải muối dưa
    Bao nhiêu thần dược vẫn chưa ngóc đầu
    Cuộc đời chìm nổi bể dâu
    Từ “oanh” đến “liệt” gần nhau thôi mà
    Nay mai về với ông bà
    Ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân!
    Hoặc:
    Sáu mươi là tuổi dậy thì
    Bảy mươi là tuổi bước đi vào đời
    Tám mươi là tuổi ăn chơi
    Chín mươi tuổi mới ngước trời xem sao
    Một trăm tuổi vẫy tay chào
    Các em ở lại, anh vào website…
    Phải nói, những bài thơ-vè đùa tếu như thế là khá xuất sắc. Nhưng phải chăng đó là thơ? Có lẽ những người làm thơ, hay người yêu thơ đích thực không ai nghĩ thơ là như thế. Đó là một hiện tượng xâm thực thơ, đi ngược lại sự phát triển của nghệ thuật thơ. Dưới đây, tôi xin đơn cử một số hiện tượng xâm thực thơ cần báo động trong nền thơ của chúng ta hiện nay.
    1. HIỆN TƯỢNG “VÈ HÓA THƠ”
    Có lẽ “trường phái thơ Bút Tre” đã tạo được hiệu quả mạnh mẽ vài ba chục năm nay. Tôi còn nhớ năm 1984 đi cùng nhạc sĩ Văn Cao qua Vĩnh Phúc gặp nhà thơ Bút Tre, Nguyễn Thụy Kha nói “trường phái Bút Tre địch được trường phái Bùi Giáng trong nam”. Nay nhìn lại thì thấy trường phái Bút Tre không những “địch đươc” mà còn đang thắng thế. Thật vậy, làng thơ hôm nay không chỉ có Bút Tre mà còn có cả Hậu Bút Tre: Bút Tre Trẻ, Bút Tre Xanh, Bút Tre Non, Bút Nứa, Bút Sậy, Bút Luồng, v.v…Trường phái này được nồng nhiệt đón nhận và ca ngợi không tiếc lời:
    Tham quan, du lịch, nghỉ hè
    Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu.
    Và khẳng định:
    Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
    Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre…
    Vẫn biết văn học dân gian vô cùng đa dạng và thông mình, hóm hỉnh, nhưng văn học dân gian và văn học viết là hai phạm trù khác nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Dù có tạo ra những ảnh hưởng không dễ phân biệt, nhưng không bao giờ chúng chồng khít lên nhau. Bởi văn học dân gian sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ “thực dụng”, còn văn học viết sử dụng ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện trong văn xuôi, hay ngôn ngữ “lạ hóa” trong thơ.
    Điều dễ thấy hiện nay là ngôn ngữ thực dụng đang lấn át, xâm thực thơ không thương tiếc, nó hăm hở biến thơ thành hò vè hay văn xuôi có vần.
    Nhà chị công nhân
    Nửa tôn nửa ngói
    Nhà mẹ anh hùng
    Nghĩa tình xây mới…
    Những loại thơ như thế, nó kéo thơ xuống với ngôn ngữ quần chúng bình dân mà hơn nửa thế kỷ trước các nhà thơ đã thi đua “lột mình” phục vụ đại chúng, để rồi sau đó nhiều người thức tỉnh với nhóm “nhân văn giai phẩm” nhằm làm một cuộc cách mạng thơ… bất thành vì những định kiến chính trị. Riêng điều này thì nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn lại sớm nhận ra, và họ cũng đã có một số đóng góp nhất định để đẩy lùi dần ngôn ngữ thơ thực dụng nhan nhản một thời. Đó là sự trả giá cho những non nớt trong quan niệm nghệ thuật phục vụ chính trị theo hướng đại chúng.
    Ngày nay, những người thơ đích thực không còn ấu trĩ như xưa, nhưng chính đời sống dồn nén của kinh tế thị trường nửa mùa đã khiến đại bộ phận công chúng lơ là thơ phú, và thị hiếu của họ bị bào mòn, chai cứng với thơ, nảy ra nhu cầu giải trí “mì ăn liền”, khiến không ít nhà thơ hạ mình mua tiếng vỗ tay giá rẻ. Còn những “nhà thơ nghiệp dư” viết thơ theo cảm tính thì ngộ nhận giữa thơ và vè, cũng góp một phần không nhỏ vào công cuộc “vè hóa thơ” trên khắp thi đàn. Vì thế mà cánh đồng thơ cỏ nhiều hơn lúa, cỏ lấn át lúa, cỏ đè bẹp lúa để mang về cho thơ một mùa thơ-vè cỏ dại… Tôi có thể dẫn ra nhiều bài thơ-vè, nhiều tập thơ-vè… nhưng có thể không dẫn ra thì nhiều người cũng đã biết. Vấn đề quan trọng là chúng ta, cả người làm thơ và người đọc thơ phải ý thức sâu sắc rằng, nguy cơ “vè hóa thơ” đã và đang diễn ra với một cường độ mạnh, cực mạnh rất đáng báo động.
    2. HIỆN TƯỢNG “VĂN XUÔI HÓA THƠ”
    Không kể thời tiền sử sáng tạo ra lối kể chuyện thơ, thì thơ văn xuôi đã xuất hiện từ thế kỷ XIX ở phương Tây. Mãi đến cuối thế kỷ XX, câu chuyện thơ văn xuôi vẫn còn được tranh cãi nảy lửa. Theo một ý kiến được ủng hộ của Jean Claude thì “Bài thơ văn xuôi được cô đúc bởi đối tượng hỗn hợp và bất xác tín của ngôn ngữ thơ, trong khi đó, văn xuôi biến đổi đối tượng tiềm tàng (cô đúc) của nó để đặt nó vào cái thực tại hỗn hợp. Thơ xóa sạch mọi dấu vết hay dấu mốc nhận dạng, trong khi văn xuôi, ngược lại, nhân chúng lên gấp bội, bắt ốc vít bù loong chúng vào nhau thật chắc”. Nghe có vẻ phức tạp thế, nhưng cũng không khó hiểu, bởi thơ có đặc trưng của thơ và văn xuôi có đặc trưng của văn xuôi. Phân biệt các lãnh địa này, nhà ngôn ngữ Nguyễn Phan Cảnh cũng viết: "Tạo hình chủ yếu là vương quốc của văn xuôi nhưng có một khoảng trời giành riêng cho sử thi và thơ ứng dụng, còn biểu hiện, trước hết là lãnh địa của thơ nhưng lại cắt một phần đất cho văn xuôi trữ tình".
    Tôi đồ rằng nhiều nhà thơ “hiện đại” của ta chưa hiểu thấu điều đó, nhưng đã vội vàng nhảy vào thơ văn xuôi với những trường phái tân hình thức, hậu hiện đại của Tây của Mỹ nên đã mang đến một hậu họa cho thơ mà lại ngộ nhận rằng, mình đang song hành cùng thơ đỉnh cao thế giới. Tôi đã đọc nhiều thơ văn xuôi của các nhà thơ ta cả trẻ lẫn già, và tôi thử nối lại các xuống dòng, thì thấy hầu hết đều là văn xuôi chứ không phải thơ, thậm chí lại còn lủng củng hơn cả văn xuôi. Ví dụ một đoạn thơ, tình cờ tôi mở ra trên bàn viết: “Anh bế em lên như bế cả con sông Hồng phù sa trần truồng tràn ra biển lớn một mùa màng phì nhiêu còng bóng mẹ gieo gặt. Những vì sao thiên hà rơi đầy mắt em mắt anh ướt lòe ánh sáng xua bóng đêm đè xuống vai ta rần rần châu thổ. Anh đi đây những thiên hà đang vẫy gọi anh…”.
    Với lối nói ngoa ngôn mê sảng như vậy, nhà thơ có thể giết chết cả ngàn trang giấy mà chả biết để làm gì. Nhiều nhà thơ trẻ, nhà thơ già cũng đã được phủ dụ, ru ngủ bằng những trang văn xuôi như vậy mà tưởng mình là tiên phong thi sĩ . Ở đây phải tỉnh táo mà nhận ra rằng, văn xuôi đang xâm thực thơ vô tội vạ. Đó chính là hành động “văn xuôi hóa thơ” hiệu quả nhất.
    Không ai bắt mọi nhà thơ Việt đều phải viết thơ lục bát, dù lục bát là một thể thơ đã thấm vào hồn cốt dân tộc Việt. Nhưng làm được một câu thơ lục bát cho đúng vần đúng điệu đối với một số nhà thơ là không phải dễ, chứ chưa nói đến việc làm một câu lục bát hay để đời. Ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng làm được thơ văn xuôi hiện đại, hậu hiện đại ngoa ngôn mê sảng như không ít người thiêu thân vào loại thơ này trên thi đàn nhân danh cách tân đổi mới. Nói vậy, tôi không nhằm phán xét những bài thơ văn xuôi hay hay dở, mà muốn cùng các nhà thơ nhận chân bản chất của thơ dù nó thuộc trường phái nào, cổ điển hay hậu cổ điển, hiện đại hay hậu hiện đại; đồng thời cũng báo động cho những ai đang đeo đuổi loại hình thơ văn xuôi hãy cảnh giác với sự dễ dãi, phô trương hình thức. Thực ra các thể loại, các trường phái không có tội, mà tội lớn là sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới luôn mai phục ở phía trước.
    3. HIỆN TƯỢNG “CŨ HÓA THƠ”
    Năm 1990, trong một cuộc trò chuyện tâm đắc với nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến về thơ, anh có một nhận định vô cùng bất ngờ thú vị đối với tôi: "Thơ trước hết phải mang tới một cái gì khác cổ điển (trước nó), nhưng chỉ có khác thì khó đọc, mà chỉ có cổ điển thì đọc thấy nó tẻ. Thơ nào đọc thấy khang khác mà vẫn phảng phất cổ điển thì đấy là thơ đích thực mang tới giá trị mới. Nhưng cái khác ở thơ thật khó giải thích rõ ràng, có khi người ta chỉ cảm được nó mà thôi”.
    Tôi nghĩ, nhận định của anh Hoàng Ngọc Hiến là rất thận trọng và mới mẻ. Giới ghiên cứu, phê bình chưa thấy ai nói thế. Người làm thơ chắc cũng ý thức mơ hồ về điều đó, nhưng đến khi nghe anh Hiến nói thì mới ngẫm lại mình, và thấy đó là một nhận định thật sáng giá.
    Có một thực tế là những nhà thơ cách tân thường chạy theo cái mới, cái lạ, cái độc đáo chưa từng có, như muốn cắt đứt với quá khứ. Nhưng nghệ thuật lại có ký ức của nó. Ngay cả khi anh muốn làm một cuộc bạo động chữ thì cũng không thể cắt đứt với ký ức ngôn ngữ của chính nó. Còn khi anh đã cắt đứt hoàn toàn với ký ức nghệ thuật thì chính anh sẽ rơi vào khoảng chân không, xa rời ký ức của con người, và như vậy thì chỉ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn xa lạ với cuộc sống. Đó chính là sự thất bại mà nhiều nhà cách tân cực đoan đã mắc phải.
    Ngược lại, nhiều nhà thơ lại chỉ viết theo bản năng mà ít chú trọng đến sự nghiền ngẫm về văn hóa thơ quá khứ và hiện tại của nhân loại, nên cái anh tưởng là mới lạ lại hóa ra thành cũ kỹ đến sáo mòn. Đó là căn bệnh phổ biến của thơ ta gần đây. Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân. Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi thải của quên lãng. Có người biết điều đó, và họ khẳng định họ không làm thơ mà chỉ ghi lại những cảm xúc cá nhân, in ra làm kỷ niệm. Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…Đối tượng này nhiều vô kể, thậm chí có thể che lấp cả những giá trị thơ đích thực không phải lúc nào cũng có. Đây cũng là nguyên nhân xói mòn giá trị của thơ, khi nó trở thành hiện tượng “cũ hóa thơ”.
    Tóm lại, những hiện tượng xâm thực thơ như đã kể trên là hoàn toàn có thật, nó đang diễn ra hàng ngày chung quanh ta. Đó là những hiện tượng ăn lấn, xói mòn và hủy hoại sự phát triển của thơ trong một thời đại mà “người người làm thơ, nhà nhà làm thơ” rầm rộ khắp hang cùng ngõ hẻm. Để thay cho lời kết, tôi xin dẫn hai câu lục bát của “Hậu Bút Tre” Bảo Sinh, cũng là tâm trạng của tôi khi viết bài này:
    Đêm nằm nghĩ mãi không ra
    Tại sao thằng ấy lại là nhà thơ?
    Hà Nội, 9.2011
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/10/14
    Giana, Ban Tang Du Tử and Latiku like this.
  5. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    Ngày 23.10.2014
    MẠN ĐÀM VỀ THƠ.
    Đoàn Tùng Nguyễn


    Nhân được đọc trên trang của anh Nguyễn Cường(một bạn FB của tôi)- một bài share của nhà thơ Trần Mạnh Hảo về hiện trạng “thơ bị xâm thực” khiến tôi phải suy nghĩ nhiều. Vì vậy cho tôi được mạn phép các anh có vài lời của một kẻ “ngoại đạo”.
    Trước khi có đôi điều, tôi xin được có vài lưu ý:
    - Trước hết tôi không phải là một nhà nghiên cứu, hay lý luận gì cả về văn- thơ. Tôi chỉ được đào tạo bài bản để làm công tác khoa học và quản lý. Càng không phải nhà thơ, nhà văn dù dưới một hình thức danh hiệu nào cả
    - Bài viết có thể khá dài nhưng lại mượn diễn đàn FB là một điều không thuận lợi. Nhưng tôi coi đây là một suy nghĩ và tâm sự với nhiều người bạn yêu thơ trên FB. Ai có thời gian quan tâm thì đọc. Tôi không coi đây là tranh luận.
    - Vì những lí do trên, xin mọi người đừng chê trách tôi về bố cục của bài này không giống một bài lí luận văn nghệ, mà trông nó có thể giống một báo cáo khoa học hay báo cáo phân tích tài chính…
    Vậy xin được mạn đàm:
    Với suy nghĩ của tôi, THƠ là :
    1) THƠ là tiếng nói của cuộc sống:
    Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh thơ là tiếng nói THẬT SỰ của cuộc sống. Cuộc sống có đủ các cung bậc Hỉ-Nộ-Ái-Ố thì thơ cũng đủ các cung bậc. Thơ là những lời tự tình, cũng là những lời phản kháng, thơ cũng là tiếng nói bi ai…
    Nghe những điều này có vẻ duy lý luận nhưng càng nghiền ngẫm lại, càng không thể nói khác được. Nếu xét thơ ở khía cạnh là tiếng nói của cuộc sống thì mọi niêm luật của thơ ca chả mang ý nghĩa gì cả. Một bài thơ dù có đúng niêm luật, ngôn từ vang lên dù có lanh- kanh như tiếng của phalê hay kim-cương đi chăng nữa nhưng chẳng cho người ta một cảm nhận nào về cuộc sống, làm rung động lòng người thì rồi bài thơ đó cũng chóng bị người đời lãng quên đi mà thôi. Trái lại, có những bài thơ có vẻ trần trụi, thô thiển nhưng sau khi đọc, nó cứ để lại lòng ta vương vấn một điều gì đó. Thơ là tiếng nói của cuộc sống nên phụ thuộc rất nhiều vào cách cảm nhận của người viết và cả cảm nhận và cách cảm nhận của người đọc nữa. Quá trình đó có thể như một công thức thế này:
    Người viết + Cảm nhận cuộc sống = Thơ + + Cảm nhận của người đọc >> Tồn tại.
    Chính vì thế, xin ví dụ: Nếu như cách đọc lướt một cách “hiện đại” của nhiều người trên FB hiện nay, nhất là các bạn trẻ không biết về quá khứ thì có thể “chê” thơ của Phạm Tiến Duật là …dở hơi- khi đọc lướt qua câu đầu tiên trong bài “Tiểu đội xe không kính” của anh. Câu ấy thế này: “Xe không kính, không phải vì xe không kính”…Đấy. Đó là lời nói thật sự về những chiếc xe trong chiến trường đấy. Không thể nói khác được. Nhưng Phạm Tiến Duật đã chọn một sự thật để làm tứ thơ. Phải đọc kĩ, đọc hết bài thơ của anh mới thấy được cái hay bi tráng của nó. Một sự thật không chút gượng gạo:
    “Không có kính không phải vì xe không kính
    Bom giật, bom rung . Kính vỡ đi rồi
    Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất. Nhìn trời. Nhìn thẳng
    Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”….

    Thơ là tiếng nói của cuộc sống. Không thể làm giả được. Nếu “Nhà Thơ” Phạm Tiến Duật trước đây không là một anh lính lái xe thì cả đời ông cũng không thể viết được một câu thơ, một bài thơ chân thực như vậy !!!

    2.THƠ thể hiện cá nhân người viết một cách chính xác và trung thực nhất. THƠ là một công cụ của tinh thần trước cuộc sống.

    Trước hết, theo tôi, không thể coi thơ là một NGHỀ để mà chọn. Người ta có thể cân nhắc, hoặc vô tư chọn cho mình một nghề để bước vào đời với tư cách như một bác sỹ, kỹ sư hay giáo viên …chẳng hạn. Dù mỗi cá nhân có quyết định đúng hay sai thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời này mà chúng ta đang tồn tại vẫn phải chấp nhận cả những bác sĩ , kĩ sư, giáo viên giỏi bên cạnh các giáo viên, bác sĩ, kĩ sư dốt đó thôi ?!
    Với thơ thì không. Thơ không phải một nghề ! Mà chính cuộc sống đã chọn ra mỗi cá nhân để mà trao cho họ nhiệm vụ làm ra những bài thơ cho đời. Những bài thơ phù hợp với mỗi cá nhân người làm thơ, không ai giống ai.
    Có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có trường chuyên nghiệp đào tạo ra người viết văn thơ. Tôi không tin cho lắm vào việc trường này sẽ đào tạo ra các nhà văn, nhà thơ hay. Mà chính là cuộc sống và tâm hồn của mỗi cá nhân mới có thể tạo ra chính họ. Nói một cách hơi ngược và thô thiển thì chính các câu thơ mới tạo ra được …nhà thơ. Người ta biết đến Phùng Quán vì câu thơ: “Yêu ai cứ bảo là yêu/Ghét ai cứ bảo là ghét/Dù ai ngon ngọt nuông chiều/Cũng không nói yêu thành ghét/Dù ai cầm dao dọa giết/Cũng không nói ghét thành yêu”. Người ta biết đến Trần Dần,. Lê Đạt bởi những câu thơ: “…chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” và “…mang bục công an đặt giữa trái tim người”. Cuộc đời họ, hoàn cảnh cá nhân của mỗi người, nhận thức và phản kháng của họ trước cuộc đời đã thôi thúc họ làm được những câu thơ như vậy trong quá trình cuộc đời này gọi họ là nhà thơ.
    Chúng ta đừng nhầm lẫn cái danh hiệu nhà thơ mà những kẻ hám danh mơ tới. Vì cái việc họ làm không phải làm thơ
    Nhưng thơ luôn lại là một sự TỰ DO dễ dàng lựa chọn nhất cho tất cả mọi người để tự thể hiện mình. Họ có thể làm thơ để tự sướng, tự tâm sự, tỏ thái độ trước cuộc đời và kể cả để khoe khoang. Nhưng không phải bất cứ ai làm thơ cũng đều ham hố và tranh giành cái danh hiệu “Nhà Thơ” với các thi sĩ thành danh, chuyên nghiệp !
    Tôi nghĩ rằng, cuộc sống luôn vận động, vì thế chúng ta phải chấp nhận các biến thái và các đặc trưng của thời đại và giai đoạn chúng ta đang sống. Giống như việc chúng ta không chấp nhận ca từ và hình thức Rock, Rap của lớp trẻ mà cứ bắt chúng hát những bài “xưa”. Chúng ta không thể quay lưng với công nghệ để cứ bắt mọi người đọc báo chí chính thống, hay phải ngồi thư viện mà không chấp nhận để mọi người cứ dán mắt vào màn hình máy tính hay điện thoại.
    Chúng ta lo ngại về những biến tướng không tốt của thơ ca và số lượng người làm thơ với số lượng “khủng” của các bài thơ và các trang thơ trên mạng ư?
    Với tôi, chẳng hề có cảm giác lo ngại này. THƠ là CUỘC SỐNG. Cái gì không phải là thơ thì nó sẽ phải tự chết như nó chưa hề được sinh ra. Cuộc sống này chính là người mẹ hiền của thơ ca. Nếu thực sự cuộc sống không sinh ra các loại thơ “giả cầy” mà chỉ là do bọn háo danh gây ra thì sao ta phải lo ngại ???
    Tôi nói thơ là công cụ của tinh thần trước cuộc sống là với cái ý rằng các nhà thơ làm thơ như người họa sĩ dùng cái bút vẽ của mình, hay giống như một chiến binh sử dụng vũ khí của mình để “hùa” theo một cái sự yêu ghét nào đó mà thôi. Đã là sử dụng công cụ thì nó phải có người điêu luyện, người vụng dại; người thô thiển và người tinh tế. Có nghĩa là, dù ông Picatso có lấy chân mình để vạch trên cát vài nét vẽ nguyệch ngoạc thì vẫn khác xa xo với người họa sĩ mới vào nghề- suốt ngày chăm chỉ trong xưởng vẽ. Nghệ thuật, hay thi ca cũng vậy. Nó là ý tưởng, là tinh thần, là tinh hoa của cuộc sống này. Với ý nghĩa là công cụ của tinh thần trước cuộc sống thì thi ca đôi lúc vẫn bị người ta mang ra để sản xuất …hàng giả.
    Chúng ta không nên phán xét hay lo ngại về cái thô lậu của những ai đó đam mê thơ, thích làm thơ nhưng không có “nghiệp” thơ, không có tâm hồn thơ. Tự họ sẽ đào thải chính họ. Và thế mới chính là CUỘC ĐỜI NÀY, là THƠ !!! Chẳng có gì trên đời này là vĩnh cửu, kể cả thơ. Và cơ thể của chúng ta cũng vậy, cũng sẽ tàn, sẽ chết. Nhưng trước lúc chết, cơ thể chúng ta luôn sản sinh ra những kháng thể để chống lại sự xâm nhập, phá hoại của vi trùng, đó sao ??? Và tinh thần của một ai đó còn sống mãi với muôn đời khi các sản phẩm tinh thần của họ xứng đáng mãi được vinh danh sao, khi mà thể xác của họ không thể là vĩnh cửu??? Sản phẩm tinh thần của họ, thử hỏi trong đó có thơ không?
    Thơ là công cụ của tinh thần trước cuộc sống thì đương nhiên thơ- chính là thứ công cụ tạo ra các sản phẩm tinh thần bất diệt.

    Hai điều trên tôi nói- nếu theo ngôn từ khoa học bây giờ thì người ta gọi là các yếu tố “Nội hàm” của thơ ca. Các yếu tố nội hàm này không liên quan gì đến ( hay ít liên quan) đến các vấn đề được nêu trong bài của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Vì các điều nêu ra trong bài của anh Hảo liên quan nhiều đế các yếu tố “ngoại hàm” của thơ ca. Tôi xin nhắc lại, tôi không muốn tranh luận trong bài viết này của tôi.

    3.THƠ là một thực thể tồn tại theo kiểu loại hình văn hóa phi vật thể.
    Nếu công nhận điều này thì thơ cũng được coi như hát Quan Họ- dù có duy trì thế nào để giữ được truyền thống thì vẫn phải chấp nhận những tác động biến cải của cuộc sống.
    Xưa. Sau những vụ mùa thắng lợi, người nông dân hát hò vui vẻ với nhau chơi. Rồi thành hội. Hội với những không gian thanh bình yêu ả của làng quê, của những “lúng liếng” của “Liền anh, liền chị”. Cứ thế, cứ thể, rồi thành bản sắc văn hóa của từng vùng, miền. Rồi thành lễ hôi của cả nước tham dự-người đông như kiến, chật cả một vùng quê thì việc các liền anh, liền chị hát bằng Micro, sử dụng wifi …là chuyện thường.
    Hình tượng chút thế để thấy các yếu tố ngoại hàm tác động đến thơ ca cũng là chuyện đương nhiên. Cuộc sống đổi thay thì thơ ca phải thay đổi. Thơ ca thay đổi theo chiều hướng tốt hay xấu ra sao thì đó lại liên quan đến việc chúng ta- mỗi con người trong cuộc sống này quan tâm và nhìn nhận về thơ ca như thế nào. Lỗi không phải tại thơ ca, không phải tại những người làm thơ ca. Mà lỗi ở tại chính chúng ta- những người đã góp phần tạo ra cuộc sống này-một cuộc sống mang bản sắc tốt-xấu bởi chính chúng ta.
    Thơ ca không phải là một thực thể vô tri để cho bất cứ thứ gì “xâm thực”. Tôi không hề lo lắng điều đó! Tôi chỉ lo mỗi chúng ta- chính chúng ta để cho cuộc sống này “xâm thực” tâm hồn, “xâm thực” tình cảm và đạo đức của chúng ta rồi để lại những “vết sẹo” cho thơ ca mà thôi.
    Thay vì lo lắng cho thơ Vn thì chúng ta cứ bình tĩnh mà chọn tìm trong cái biển cát ấy những giọt kim sa.
    Nếu chúng ta yêu thơ thì đừng ngại ngùng gì việc chửi bọn đạo thơ, bọn giả thơ háo danh.
    Với tôi, tất cả những người dám làm thơ (dù hay, dù dở) nhưng làm cho chính mình, như cuộc sống của mình mà không ham hố trở thành nhà thơ đều đáng yêu cả. Tôi yêu những người nói ra chính mình, dù lời vụng dại….Tôi yêu…

    Tái bút: Xin các nhà thơ quá cố tha lỗi cho tôi nếu tôi trích dẫn chưa được thật chính xác thơ của các ông. Nhưng thơ của các ông- tôi yêu và đã in vào tâm khảm tôi. Mặt khác, tôi không có thói quen vừa viết, vừa giở sách ra tra cứu.
    Cám ơn và xin lỗi anh Nguyễn Cường, nhà thơ Trần Mạnh Hảo và các bạn yêu thơ trên FB- nếu tôi đã có bất cứ một điều gì đó không phải, động chạm tới quý vị.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/10/14
    viettran_ru and Ban Tang Du Tử like this.
  6. whatcsvt100

    whatcsvt100 Lớp 8

    mới đọc chiều nay, tiện tay coppy về cho mọi người đọc thử :)
     
    Last edited by a moderator: 12/3/15
  7. Latiku

    Latiku Lớp 3

    Cám ơn bạn đã chia sẻ. :)
     
    whatcsvt100 thích bài này.
  8. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Hai khuynh hướng trái chiều, một chê bai một bênh vực. Đọc xong thì thấy bài nào cũng có lý do xác đáng. Nhưng với riêng cá nhân mình thì thấy muốn biết được thơ hay phải có những bài thơ hay. Nghĩa là không thể bắt cả một thế hệ mới mở mắt tự lặn ngụp để tìm kiếm, lựa chọn đánh già trong một thế giới không có một bài thơ hay nào thâm chí không có một bài thơ nào (Dù có rất nhiều thứ được gọi là thơ) để tìm một bài thơ hay.

    Nếu văn học Việt Nam dừng lại trước phong trào Thơ Mới, thì có lẽ lớp hậu sinh như chúng ta đây sẽ chẳng bao giờ biết được cái rạo rực của những câu: "Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ" (Xuân Diệu). Rõ ràng chúng ta được định hình từ những chuẩn mực thơ ca của thế hệ trước. Điều đó thật khó tránh khỏi và thật quan trọng.

    Còn như thế nào là thơ hay, như thế nào là thơ? Có rất nhiều thứ để làm cho thơ khác hẳn với các hình thức văn chương khác: từ ngữ, cấu trúc...Thế nhưng thơ ca có một đặc điểm riêng biệt là giai điệu. Thiếu giai điệu không còn là thơ.

    Nếu xét cùng các thể loại có giai điệu ( đơn cử như vè...) thì giai điệu của thơ lại hàm chứa cảm xúc sâu lắng.

    Vì vậy nếu thiếu giai điệu và cảm xúc sâu lắng thì khó để phong vị thơ cho môt bài viết. Vì thế nên một câu giống câu văn xuôi: " Có mấy người đi qua thương nhớ mà quên được nhau..." (Nguyễn Phong Việt) vẫn được rộng rãi mọi người chấp nhận cho là thơ. Bởi trong câu đó đọc lên nó sẽ thành nhịp như thế này: 3 - 4- 2 -2. Nhịp 3-4 là nhịp của thể thơ 7 chữ như :

    " Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
    Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh" (Nguyễn Trãi)

    Còn về cảm xúc rõ ràng nó đã chạm vào được những thổn thức của những người đã trải qua những mối tình đấy thôi. Tuy nhiên với lối sử câu như vậy, cảm xúc thực sự không bằng hai câu của Nguyễn Trãi. Sự thiếu cô đọng khiến cảm xúc cũng dàn trải ở chiều ngang.

    Thời gian sẽ giữ lại những khối vàng ròng, nhưng dù sao thế hệ đương đại cũng không nên để vàng thau lẫn lộn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/10/14
    viettran_ru, whatcsvt100 and Latiku like this.
  9. Latiku

    Latiku Lớp 3

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Posted on Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link by Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Con cóc trong hang

    Con cóc nhảy ra

    Con cóc nhảy ra

    Con cóc ngồi đó

    Con cóc ngồi đó

    Con cóc nhảy đi

    Yêu thơ, thuộc khá nhiều thơ, tôi có thói quen hay đọc thơ, khe khẽ, một mình, nhất là vào những buổi chiều, đi làm về, nhìn nắng ngẩn ngơ vàng, lòng bỗng dưng, nói như Xuân Diệu, ‘hiu hiu khẽ buồn’. Những lúc ấy, dù không mong, thơ vẫn hiện về, thầm thì, như một lời đồng điệu. Thường là thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử và nhiều nhà thơ khác, trước năm 1945; những bài thơ ngọt ngào vô hạn, đọc lên, ngỡ có hương thơm thoang thoảng quanh mình và ngỡ lòng mình, giống như Hồ Dzếnh ngày nào, hoá thành rừng, thành mây, đầy một niềm chiều.

    Thế nhưng, lạ, dễ đã mấy năm rồi, không hiểu tại sao, càng ngày tôi càng mất dần cái thói quen thơ mộng ấy. Tôi vẫn đọc thơ nhưng hầu như bài thơ nào đang đọc dở dang cũng đều bị cắt ngang bởi một bài thơ rất vô duyên: ‘Thơ con cóc’. Từ đâu đó, tận trong tiềm thức, bài ‘Thơ con cóc’ nhảy chồm ra, giành giật, chen lấn, xô đẩy, cuối cùng, thật oái oăm, bao giờ nó cũng thắng thế.

    Một buổi trưa không biết ở thời nào

    Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao…

    Con cóc trong hang

    Con cóc nhảy ra…

    Cứ thế. Có thể nói, suốt mấy năm nay, cơ hồ tôi không đọc trọn vẹn một bài thơ nào ngoài bài ‘Thơ con cóc’. Bận bịu quá, quên đi thì thôi, còn hễ nhớ đến thơ thì bao giờ cũng thế, bài ‘Thơ con cóc’ lại hiện ra, sừng sững, án ngữ hết mọi nẻo đường, không cho bài thơ nào khác có được cái quyền được ngâm nga nữa. Quái.

    Mà quái thật. Đâu phải tôi không biết đó là một bài thơ dở, cực kỳ dở, hơn nữa, với người Việt Nam, còn là điển hình của cái dở nói chung. Mỗi lần bắt gặp bài thơ nào kém cỏi, chỉ có vần điệu ê a mà tình ý hoặc rỗng tuếch hoặc nhạt nhẽo, người Việt chúng ta – trong đó có tôi, dĩ nhiên – thường có thói quen phán: ‘Thơ con cóc!’. ‘Thơ con cóc’, do đó, được coi là lời chê bai nặng nề nhất, một sự phủ định hoàn toàn. Tôi biết. Biết vậy mà vẫn bị nó ám ảnh mãi. Xua, nó không đi. Nó cứ phục kích đâu đó, trong một ngóc ngách nào của tâm hồn, chực có cơ hội, những lúc ‘tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn’, lại hiện ra, thoạt đầu, như một sự nghịch ngợm, sau, dần dần, thật lạ lùng, cứ như một lời đồng điệu.

    Vâng, như một lời đồng điệu. Tôi mơ hồ cảm thấy bài ‘Thơ con cóc’ đã nói hộ giùm tôi bao nhiêu niềm u uẩn, cứ day dứt trong lòng. Những nỗi niềm ấy nhoi nhói đòi phát ngôn, đòi tìm tri âm mới sau khi đã giã từ những người bạn cũ, rất mực hiền lành, chỉ quen một điệu ‘ví dầu cầu ván đóng đinh’… ‘ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung’… Từ sự cảm nhận mơ hồ này, dần dần, tôi khám phá ra một điều, là, trái hẳn những định kiến quen thuộc của chúng ta lâu nay, bài ‘Thơ con cóc’ không chừng là một bài thơ hay.

    Mà đâu chỉ có một mình tôi nhận ra điều đó. Dường như, tự thâm tâm và một cách thiếu tự giác, rất nhiều, nếu không nói là hầu hết người Việt Nam đều công nhận như thế. Có hai chứng cứ:

    (i) một là, mọi người đều ghi khắc mãi bài thơ ấy vào trí nhớ;

    (ii) hai là, mọi người đều coi nó là điển hình của cái dở nói chung.

    Trong số những bài thơ khuyết danh tại Việt Nam, dễ không có bài thơ nào được nhiều người nhớ như bài ‘Thơ con cóc’. Ngay cả những người hoàn toàn hờ hững với thơ ca cũng thuộc lòng bài thơ ấy. Trong ngôn ngữ của chúng ta, chữ ‘Thơ con cóc’ được dùng để chỉ sự nôm na, cọc cạch cũng như chữ Hoạn Thư chỉ sự ghen tuông, chữ Thúc Sinh chỉ sự sợ vợ, chữ Tào Tháo chỉ sự gian hùng.

    Hai sự kiện này hoàn toàn mâu thuẫn với những lời lẽ bỉ thử chúng ta dành cho bài ‘Thơ con cóc’ vì lý do giản dị: một tác phẩm văn học đã trở thành điển hình và được mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác, ghi nhớ thì không thể nào dở được. Trong khi cái dở, nói như Hoài Thanh, ‘không tiêu biểu gì hết’,[1] điển hình, một thuật ngữ quen thuộc trong trào lưu Tân cổ điển, được Engels và sau đó, giới nghiên cứu văn học mác xít mượn lại, là cái gì có tính khái quát cao, thể hiện bản chất sự vật, là đại diện cho số đông và do đó, chỉ có thể là kết quả của tài hoa và trí tuệ. Hạng người đểu giả và đồi bại trong tình yêu bao giờ cũng nhan nhản trong cả cuộc đời lẫn văn chương ở mọi thời nhưng phải đợi đến ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, trong vài câu, với vài nét chấm phá, mới thành một điển hình: Sở Khanh. Hạng người hợm mình và láu cá hẳn không hiếm trong xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những buổi giao thời, được nhiều nhà văn quan tâm phản ánh, nhưng phải đợi đến ngòi bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng nó mới thành một điển hình: Xuân tóc đỏ. Khuôn mặt ‘hao hao như mặt lợn’, trên đó gắn cái mũi ‘vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành’, một đôi môi như ‘miếng thịt trâu xám ngoách’ phải nhờ Nam Cao mới trở thành một điển hình cho cái xấu nói chung, cái Xấu viết hoa: Thị Nở.

    Về phương diện giá trị điển hình, hình tượng con cóc không hề thua kém hình tượng Sở Khanh, Xuân tóc đỏ hay Thị Nở. Về phương diện sức sống, nó cũng đã vượt qua bao nhiêu thử thách, từ đời này qua đời khác, cứ tồn tại hoài. Không ngoa chút nào nếu gọi ‘Thơ con cóc’ theo cách nói quen thuộc đã thành sáo ngữ của chúng ta là bài thơ ‘vượt thời gian’. Nhà văn Nhất Linh, trong quyển Viết và đọc tiểu thuyết, đã coi tính chất ‘vượt thời gian’ là cơ sở chắc chắn nhất để xác định một tác phẩm lớn. Nhà thơ Xuân Diệu có cách ví von khá thú vị:

    Chiếc thuyền thơ thả trong biển thời gian, lúc đầu mới hạ thuỷ còn chao lên chao xuống, gió bão từng kỳ làm chòng đi chành lại, cứ cho thăng trầm mỗi đợt là mất hai mươi năm đi, thì trải qua năm đợt hai mươi năm, mà vẫn cứ giong lèo giương buồm phơi phới, như vậy có thể nói được rằng: từ đây vào bất hủ được rồi.[2]

    Bài ‘Thơ con cóc’ ra đời đã lâu, lâu lắm, được Trương Vĩnh Ký sưu tập, in trong quyển Chuyện đời xưa xuất bản lần đầu tiên năm 1866, cho đến bây giờ, vượt xa thời hạn Xuân Diệu đã nêu, vẫn còn âm vang trong lòng mọi người, còn gì mà ngờ nữa?

    Tôi đoán, sẽ có người biện bạch, cho hiện tượng ‘vượt thời gian’ của bài ‘Thơ con cóc’ xuất phát từ những nguyên nhân khác, không phải là giá trị nghệ thuật của nó, chẳng hạn, vì nó ngắn nên dễ nhớ, vì nó dở đến cực độ của cái dở hoặc vì nó gắn liền với một câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng.[3] Theo tôi, những luận cứ này đều không vững. Đồng ý ngắn thì dễ nhớ nhưng không phải cứ hễ ngắn là được người ta nhớ. Có khối bài thơ ngắn hơn hoặc bằng bài ‘Thơ con cóc’. Thơ 14 chữ của Thi Vũ hoặc thơ mini của Trần Dần, chẳng hạn. Còn cái dở thì hiếm gì, đầy dẫy, có bài nào được nhớ đâu? Trong ngôn ngữ xưa nay, chúng ta thường nói: làm thơ hay như Đỗ Phủ, phóng túng như Lý Bạch, giản dị như Bạch Cư Dị, đẽo gọt kỳ khu như Giả Đảo, nhưng không hề có cách nói nào đại loại như làm thơ dở như ông A bà B. Tuyệt đối không. Đã dở thì bị diệt vong, bị tiêu tán tức khắc, không còn lại gì cả, kể cả một cái tên, đừng nói gì là nguyên vẹn một tác phẩm. Bài ‘Thơ con cóc’ được tồn tại cũng không phải nhờ câu chuyện tiếu lâm gắn liền với nó nếu không muốn nói, ngược lại, câu chuyện tiếu lâm ấy sở dĩ còn được lưu truyền là nhờ bài ‘Thơ con cóc’. Có ba lý do để khẳng định điều này: một là, nếu bỏ bài thơ đi, câu chuyện sẽ trở thành hoàn toàn nhảm nhí và vô nghĩa; hai là, đã nhiều người dùng lại câu chuyện ấy, chỉ thay đổi những lời thơ xướng hoạ, có những lời thơ tục, vui và ngộ nghĩnh hơn bài ‘Thơ con cóc’ nhiều,[4] song tất cả đều rơi hút vào quên lãng; ba là, rất nhiều người chỉ nhớ bài ‘Thơ con cóc’ nhưng lại không nhớ được câu chuyện tiếu lâm kia, nghĩa là, nói cách khác, với họ, bài ‘Thơ con cóc’ được ghi nhận như một tác phẩm độc lập.

    Như vậy, có thể nói, qua việc nhớ bài ‘Thơ con cóc’, việc coi ‘Thơ con cóc’ như là một điển hình của cái dở, từ trong vô thức, chúng ta đã thừa nhận giá trị của nó, đã linh cảm được đó là một bài thơ hay. Song có lẽ vì cái hay của nó quá lạ, khác hẳn những cái hay chúng ta quen thưởng thức, cho nên lý trí chúng ta tự nhiên đâm ngờ vực, cuối cùng, lý trí thắng thế: bài thơ bị liệt vào loại dở. Sự hàm oan của bài ‘Thơ con cóc’, do đó, gắn liền với sự hàm oan của một quan điểm thẩm mỹ. Khôi phục giá trị của bài ‘Thơ con cóc’ cũng có nghĩa là đặt thành nghi vấn đối với những quan điểm thẩm mỹ quen thuộc, đang giữ vai trò thống trị trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lâu nay.

    Bài ‘Thơ con cóc’ hay ở chỗ nào?

    Trước hết và có lẽ cũng hiển nhiên hơn hết, đó là bài thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó, có thể coi ‘Thơ con cóc’ cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị Nở là điển hình của cái Xấu, ‘Thơ con cóc‘ sẽ là điển hình của cái Dở. Chỉ riêng ở khía cạnh này, ‘Thơ con cóc’ đã là một cái gì khá mới mẻ và đầy táo bạo, khác hẳn mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật miêu tả, từ đó, hình thành một lối đi độc đạo trong sáng tác: mọi người đều chăm chăm chọn những nhân vật đẹp, những khung cảnh đẹp. Văn học dân gian và tiểu thuyết thoát ly ra khỏi quan điểm hẹp hòi này khá sớm có lẽ do bản chất dân chủ của chúng. Thơ cứ đắm đuối mãi trong cõi mộng mơ. Cái xấu, cái tầm thường bị gạt qua một bên, trở thành lãnh địa dành riêng cho thơ trào phúng.

    Ngay trong giới hạn của thơ trào phúng, cho đến nay, người ta cũng chỉ thành công trong việc khắc hoạ những cái xấu theo nghĩa đạo đức học hoặc xã hội học, tức những nhân vật, những sự kiện lố bịch, nhố nhăng, chướng tai gai mắt, nhưng lại không thành công trong việc miêu tả cái xấu theo nghĩa thẩm mỹ học. Tất cả những bài thơ phê phán cái dở đều… khá dở. Còn lại, chỉ còn lại trong suốt lịch sử văn học Việt Nam, hai câu thơ này của Hồ Xuân Hương:



    Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông

    Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông.



    Nhưng Hồ Xuân Hương, trong hai câu thơ này, không có chủ tâm nói về cái dở. Bà chỉ nhằm chế diễu sự bất tài mà thôi.

    Như thế, có thể coi bài ‘Thơ con cóc’ là bài thơ duy nhất thành công trong việc nêu bật đặc điểm của những bài-thơ-thị-nở vốn ê hề, xưa cũng như nay, trong cũng như ngoài nước.

    Tuy nhiên, giá trị bài ‘Thơ con cóc’ không phải chỉ có như vậy. Đọc bài thơ một cách nghiêm chỉnh như đọc một bài thơ trữ tình và quên đi câu chuyện tiếu lâm ngớ ngẩn chung quanh nó, chúng ta sẽ phát hiện ra một số điều rất lạ.

    Trước hết, về phương diện kết cấu, bài thơ rất ngắn, chỉ có sáu câu, lại được cắt ra làm ba đoạn. Câu đầu của đoạn sau lặp lại nguyên vẹn câu cuối của đoạn trước. Thành ra, trừ câu đầu và câu cuối, tất cả các câu thơ còn lại đều xuất hiện hai lần, cách nhau một quãng ngắt hơi, một quãng im lặng dài vì là thuộc hai đoạn thơ khác nhau. Cái quãng ngắt hơi ấy tạo ra cảm giác nghiêm trang, trịnh trọng cho cái động tác được miêu tả. Đây chỉ là một kỹ thuật thông thường khi kể chuyện, đặc biệt những chuyện có vẻ ly kỳ, rùng rợn. Thế nhưng, khác với các câu chuyện ma, chẳng hạn, sau mỗi lần người kể lặng im để tạo tâm thế căng thẳng, hồi hộp cho người nghe hoặc người đọc là một chi tiết bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ, bài ‘Thơ con cóc’, ngược lại, sau mỗi lần ngắt hơi, lại lặp lại nguyên văn những điều đã nói. Điều này tạo nên một cảm giác nghịch lý: nó vừa nghiêm trang, trịnh trọng lại vừa rất nhàm, rất nhảm.

    Tính chất nghịch lý ấy lại được nhìn thấy ở một phương diện khác: hình tượng ‘con cóc’, lặp đi lặp lại sáu lần, chiếm nửa số lượng từ vựng trong bài, luôn luôn đứng làm chủ ngữ trong mọi câu thơ, nổi bật, uy nghi, vừa như một tượng đài lại vừa như một quyền lực. Nửa số từ vựng còn lại chỉ vừa đủ để diễn tả bốn động tác căn bản của con cóc: ở trong hang, nhảy ra, ngồi lại và cuối cùng, nhảy đi. Những động tác này không những nhàm, nhảm mà còn vô nghĩa nữa. Sự vô nghĩa này lại được cố tình trình bày một cách trịnh trọng: yếu tố hài hước của bài thơ được khơi dậy từ đây; lý do chính khiến ‘Thơ con cóc’ bị coi là điển hình của cái dở nằm ở đây. Và cũng từ đây, chúng ta thấy được chủ đề của bài thơ: nó không phải là bài thơ tả con cóc mà, qua con cóc, bài thơ nói về những sự trịnh-trọng-vô-nghĩa.

    Sự kết hợp giữa hai yếu tố trịnh trọng và vô nghĩa góp phần mở rộng trường liên tưởng của bài thơ: với loài cóc, chỉ có thể có sự vô nghĩa chứ không có sự trịnh trọng. Trịnh trọng là khái niệm dùng cho con người, một loài vật có trí tuệ và khả năng tự giác để gán cho hành động của mình một giá trị nào đó có khi chính nó không có.

    Bài ‘Thơ con cóc’, như thế, đang nói về con người. Về tôi. Về chị. Về anh. Về tất cả chúng ta. Trong cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một cách cực kỳ nghiêm cẩn. Chúng ta đắn đo trước khi khởi sự. Đã đành. Chúng ta còn có thói quen tự chiêm ngưỡng mình lúc đang hành động. Chúng ta tự khoác lên chúng ta cơ man những hào quang lấp lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả, để tô vẽ việc làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn dịch về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời. Huyền thoại lên ngôi. Ảo ảnh che khuất hiện thực. Lê Duẩn và những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1975, khi hứa hẹn chỉ trong vòng 10, 15 năm Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc, là nạn nhân của chính cái nhìn tự mê hoặc của họ: thay vì nhìn đất nước Việt Nam như một xứ sở tan nát sau cuộc chiến tranh khốc liệt và dai dẳng, họ chỉ nhìn nó như là sự anh hùng và sự sáng suốt, những khả năng có thể làm được phép lạ. Hiện nay, Đảng cộng sản cứ tiếp tục sống trong thế giới phi thực ấy khi họ khăng khăng khẳng định chỉ có họ mới đủ sức cứu vãn đất nước và một mực từ chối yêu cầu dân chủ hoá chế độ. Và cả chúng ta nữa, liệu chúng ta có thoát khỏi sự diễn dịch về hành động bỏ nước ra đi của chúng ta để nhìn thẳng vào thực tế của cuộc đời? Bài ‘Thơ con cóc’ nhắc nhở chúng ta một sự thật: cuộc đời là cái nó là chứ không phải cái nó được nghĩ là. Bỏ hết những tính từ lộng lẫy, những sự diễn dịch đầy chủ quan, và do đó, đầy ảo tưởng, cuộc đời nào cũng chỉ còn lại vài động tác căn bản, đại khái nhảy vào, nhảy ra, thế thôi. Ừ, thì cuối cùng cũng chẳng ra làm sao cả. Ở trong nước nhảy vọt qua Indonesia; từ Indonesia nhảy vọt qua Pháp, rồi từ Pháp lại nhảy vọt qua Úc, tưởng làm được điều gì ghê gớm lắm; té ra, không, chỉ ngồi ỳ một chỗ với áo cơm, với nợ nần, với mộng tưởng, với nhớ nhung lan man, chờ một ngày lại nhảy đi nữa.

    Mà đi đâu? Bài thơ mở ra bằng một không gian hẹp, xác định và không chừng ấm áp lắm: cái hang. Các động từ kế tiếp đều là những động từ chỉ phương hướng, rõ ràng: nhảy ra, ngồi đó. Ở câu cuối cùng, bài thơ đóng lại bằng một động từ không phương hướng để mở ra một không gian vô định: nhảy đi. Đi đâu? Ai mà biết. Chỉ nhảy đi. Vậy thôi. ‘Bể vô tận sá gì phương hướng nữa’ (Vũ Hoàng Chương). Trời đất bao la, ai hơi đâu theo dõi cóc làm gì. Khác với tất cả những từ ở trên kết thúc bằng những nguyên âm mở (a/o), động từ ‘nhảy đi’ kết thúc bằng một nguyên âm hẹp, hẹp nhất trong các nguyên âm: i. Nó gợi nhớ cái âm hao áo não ê chề trong thơ của Tú Xương ngày nào:

    Tấp tểnh người đi, tớ cũng đi

    Cũng lều cũng chõng cũng vô thi

    (Đi thi)
    Bụng buồn còn biết nói năng chi

    Đệ nhất buồn là cái hỏng thi

    (Thi hỏng)
    Con đường đi vào cõi Hư không mênh mông và tịch lặng, như thế, lại là một con đường hẹp. Và ngậm ngùi. Vô cùng ngậm ngùi.

    Trong văn học dân gian, rất gần với bài ‘Thơ con cóc’ là bài ca dao:



    Cái kiến mày đậu cành đào

    Leo phải cành cọc leo vào leo ra

    Cái kiến mày đậu cành đa

    Leo phải cành cọc leo ra leo vào.

    hoặc bài đồng dao:

    Ông Nỉnh ông Ninh

    Ông ra đầu đình

    Ông gặp ông Nảng ông Nang

    Ông Nảng ông Nang

    Ông ra đầu làng

    Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh.

    Bài đồng dao này được nhà văn Bình Nguyên Lộc khen hay, hơn nữa, còn có ngầm ý cho Tản Đà cũng không thể làm nổi.[5] Tôi đồng ý. Có điều, chủ đề của bài đồng dao chỉ là sự chật chội, tù túng, quẩn quanh trong đời sống cộng đồng thôn xã Việt Nam ngày xưa cũng như chủ đề bài ca dao trên chỉ là sự bế tắc, cùng quẫn, khốn khó của những thân phận con ong cái kiến trôi giạt giữa đời. Nó không có cái ‘bận tâm lớn’, cái ‘băn khoăn siêu hình’ – chữ của nhà văn Võ Phiến[6] — như bài ‘Thơ con cóc’. Ở phương diện này, có lẽ gần hơn với bài ‘Thơ con cóc’ là bài ‘Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi‘ của Nguyễn Đức Sơn:

    Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi

    Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ

    Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi

    Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô

    Chân rục rã tôi đi luồn ra núi

    Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.

    Nguyễn Đức Sơn loăng quăng líu quíu đi luồn vô luồn ra trong núi cũng giống như con cóc cứ nhảy, rồi ngồi, rồi lại nhảy đi. Thế thôi. Hai bài thơ đều có cùng một chủ đề: sự vô nghĩa của kiếp người. Đi đâu cũng thấy hư vô. Chất ngất trước mắt. Rợn ngợp trong lòng.

    Cùng một chủ đề, nhưng rõ ràng bài ‘Thơ con cóc’ mạnh và sắc hơn bài thơ của Nguyễn Đức Sơn nhiều. Họ Nguyễn, tuy mỏi mệt và tuyệt vọng đến não nề, nhưng tâm hồn ít ra cũng còn chút thanh thản đủ để nhìn ngắm ngoại cảnh chung quanh mình, từ bãi cỏ, cành cây đến nắng tàn; hơn nữa, còn chú ý đến thời gian, thoạt đầu, chỉ là chiều tà, sau, dần dần, biến thành hoàng hôn đang thoi thóp. Chút điểm trang trong hình thức câu thơ, dù rất nhạt, cũng đủ làm cho cảm xúc của Nguyễn Đức Sơn nhẹ đi, lênh ra. Như một niềm hiu hắt. Chỉ là một niềm hiu hắt. Mà như thế bài thơ lại có cái gì chênh vênh: hình tượng đi ‘luồn vô, luồn ra’ trong núi như muốn nói điều gì dữ dội hơn nhiều.

    Bài ‘Thơ con cóc’, ngược lại, trần trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói gì là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. Và cũng có thể nói, nó tàn nhẫn nữa. Nó xoá bỏ hết mọi son phấn và loại trừ hết tất cả cảm xúc thừa thãi để bắt người đọc một mình sững sờ đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời. Không thể có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa. Nó có phần giống thứ ngôn ngữ Albert Camus dùng khi viết Người xa lạ: rời, tẻ, lạnh, không chỉ những từ thêu thùa, đẩy đưa mà cả những từ nối, những từ có chức năng diễn giải, phân tích cũng bị tước hết.

    Không phải tôi chủ trương văn chương, muốn hay, phải cực kỳ giản dị. Có cái đẹp giản dị và có cái đẹp đài các, đầy son phấn. Ở đây, vấn đề không phải là từ ngữ mà là thái độ: đặc điểm nổi bật nhất của ‘Thơ con cóc’ là sự tự kiềm chế khi nói đến một chuyện cực cùng bi thảm.

    Các nhà phê bình văn học hay đả kích trường-phái-thơ-thị-nở vụng về, ngọng nghịu hoặc trường-phái-thơ-đồ-chiểu khệnh khạng, lúc nào cũng lên gân, làm thơ cứ như giảng bài hoặc như bắn súng mà thường quên đi hoặc có khi đồng tình với trường-phái-thơ-thuý-kiều đến nay vẫn là dòng chủ đạo trong nền thơ Việt Nam, đẹp thì cũng có thể gọi là đẹp, nhưng là một cái đẹp rất sáo, rất cũ, đặc biệt, rất ru em và rất dầm dề. Ru em ở nhạc điệu: lúc nào cũng du dương, cũng nhè nhẹ, cũng à ơi. Dầm dề ở cảm xúc: động một chút là thở than, là rơi nước mắt, là ‘Ôi Kim lang, hỡi Kim lang’.

    Việt Nam không phải là dân tộc duy nhất theo ‘đạo’ thuý kiều. Đó là hiện tượng khá phổ biến trên thế giới ở thế kỷ trước, gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn, xuất phát từ cái nhìn duy cảm, thói quen thi vị hoá và niềm say mê gãi những vết mụn âu sầu trong hồn mình. Thoạt đầu, nó là một cuộc cách mạng, chống lại tính chất duy lý, tính chất quy phạm, sự sùng bái cái đẹp vĩnh cửu và bất biến của chủ nghĩa cổ điển, mở ra con đường mới cho văn học bằng cách đưa ra một cái nhìn mới đối với vai trò của trí tưởng tượng, một thái độ mới đối với thiên nhiên, nhưng càng về sau tính chất sáng tạo càng phôi pha dần, các nhà thơ biến thành những chuyên viên đi sụt sùi trước những nấm mồ vô chủ, khóc lặng lẽ dưới mưa, ngẩn ngơ khi hoàng hôn xuống, lâu lâu lại gào lên não nuột: ‘Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm / Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em.’..

    Ở Tây phương, người ta từ bỏ thói quen sướt mướt này khá sớm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, các nhà thơ trong nhóm Thi Sơn (Parnassians) của Pháp đã chủ trương đè nén cảm xúc và đề cao cái nhìn khách quan trong thơ; từ đầu thế kỷ 20, các nhà thơ thuộc phái Duy hình tượng (Imagism) của Anh và Mỹ đề ra một số nguyên tắc làm thơ, trong đó, về phương diện ngôn ngữ, nguyên tắc đầu tiên là không dùng tính từ, những từ, theo họ, chỉ làm nhão cảm xúc chứ không gợi ra điều gì cả; T.S. Eliot đưa ra quan niệm phi ngã trong thơ: nhà thơ không phải là người có một cá tính để thể hiện mà là người có một phương tiện đặc biệt để dùng: ngôn ngữ. Riêng ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn được du nhập khá muộn màng, từ đầu thập niên 30, từ đó, nó cứ mãi mãi giữ địa vị thống trị trong thơ. Những thành tựu huy hoàng của Thơ Mới đã điều kiện hoá cách cảm thụ văn học của chúng ta. Ý thức thẩm mỹ của chúng ta trở thành hẹp hòi, phiến diện và cứng nhắc. Trong khi nhiều nhà thơ vẫn còn loay hoay dưới bóng của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… phần đông độc giả của thơ vẫn mang nguyên tâm trạng và tâm thế của thời 32-45.

    Thay đổi một cách cảm bao giờ cũng khó khăn hơn là thay đổi một cách nghĩ, do đó, nói chung, những sự thay đổi trong thơ bao giờ cũng chậm chạp và nhiều trăn trở hơn các lãnh vực nghệ thuật hoặc các thể tài văn học khác. Nói theo ngôn ngữ chính trị, không ở đâu có nhiều thành phần lạc hậu, bảo thủ và phản động như là thế giới thơ. Từ thập niên 20, văn xuôi đã chuyển mình trong khi thơ cứ ì ạch mãi trong lối mòn. Đầu thập niên 30, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn ra đời được hoan nghênh tức khắc, nhưng cùng lúc, phong trào Thơ Mới xuất hiện kéo theo bao nhiêu là tiếng la ó, phản đối, phần lớn từ những người làm thơ hoặc tự nhận là yêu thơ. Cuối thập niên 50, ở miền Nam, chúng ta làm thân dễ dàng với câu văn xuôi của Mai Thảo song đến tận cuối thập niên 70 và không chừng đến cả hiện nay nữa, rất nhiều người trong chúng ta vẫn ngỡ ngàng trước những câu thơ của Thanh Tâm Tuyền. Sau năm 1975, ở hải ngoại, chúng ta đón nhận sự táo bạo trong truyện ngắn của Trần Vũ một cách đầy thiện cảm nhưng lại ngờ vực những cố gắng làm mới thơ của Chân Phương, Đỗ Kh.. Sau năm 1986, ở trong nước, truyện dài và truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn, thay đổi khá nhiều với những thể nghiệm thông minh và tài hoa của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, riêng thơ, trừ một số ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi, vẫn tiếp tục ầu ơ như cũ. Dường như, trong thơ, sau khi lột bỏ chiếc áo tứ thân, cho đến tận bây giờ, đa số trong chúng ta vẫn mặc hoài chiếc áo dài Le Mur, cái mốt của thời Thơ Mới. Thơ, do đó, thay vì là sứ giả của tương lai, lại biến thành một thứ viện bảo tàng chất chứa các di chỉ một thời xưa cũ, cái thời, nói như Thường Quán, trong bài ‘Xưa thơ’:

    Xưa thơ niềm bình dị nắng trời cổ lục

    Màu gió xanh câu hát níu câu hò

    Chảy mãi suối nguồn núi sông uốn khúc

    Nước đưa người qua bến nắng thơm tho…



    …Chỗ trú của thơ là nơi nào trong tóc bỏ đuôi gà kia thầm lặng

    Nắng thả rơi lên một lá trúc đào.



    Buồn.



    (Ðã in trong cuốn Thơ, v.v… và v.v…, Văn Nghệ xuất bản tại California, 1996)
    _________________________

    [1]Hoài Thanh và Hoài Chân (1967), Thi nhân Việt Nam, Thiều Quang (tái bản), Saigon, tr. 329.

    [2] Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 2, nxb Văn học, Hà Nội, tr. 227.

    [3]Câu chuyện có thể tóm tắt đại khái như sau: Có ba anh học trò dốt, một hôm, nhìn một con cóc, nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh. Anh thứ nhất đọc: Con cóc trong hang / Con cóc nhảy ra. Anh thứ hai tiếp: Con cóc nhảy ra / Con cóc ngồi đó. Anh thứ ba nối lời: Con cóc ngồi đó / Con cóc nhảy đi. Làm xong bài thơ, tự trầm trồ khen mình giỏi, rồi sực nhớ lời người xưa nói kẻ tài hoa thường mệnh yểu, ba anh rất lo, sai tiểu đồng ra phố mua sẵn ba cái quan tài. Ngoài phố, nghe lời tiểu đồng kể lại, một khách qua đường dặn: – Mày mua luôn giùm tao một cái nữa, để lỡ cười quá, tao chết mất.

    [4]Ví dụ lời thơ trong truyện ‘Thơ cái chuông': Chùa này có cái chuông / Đánh tiếng kêu boong boong / Treo lên như cái vại / Ấy nó vốn bằng đồng. hoặc trong truyện ‘Thơ con ngựa': – Chậu nước thả cây kim / Cha tôi cưỡi ngựa chạy như chim / Chạy đi chạy lại cây kim chưa chìm. – Lò than để cái lông / Cha tôi cưỡi ngựa chạy như giông / Chạy đi chạy lại, cái lông chưa hồng. – Mẹ tôi xáng cái địt / Cha tôi phi ngựa chạy như hít / Chạy đi chạy lại cái đít mẹ tôi chưa khít.

    [5] Nhà văn Bình Nguyên Lộc trả lời phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, Văn số 199 ra ngày 1.4.1972, tr. 12.

    [6] Võ Phiến (1989), Tạp bút, Văn Nghệ, California, tr. 51-59.
     
    Henry Ngời, Giana, chis and 2 others like this.
  10. Giana

    Giana Mầm non

    Nếu bạn tổng hợp lại các bài phê bình này thành ebook thì còn dễ sử dụng và có ích hơn nhiều. Cảm ơn đã chia sẻ.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  11. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Hi. Mình chỉ biết có 1 bài . Nên bó tay.:). Nên đợi khi nào topic được chừng chục cuốn thì mình sẽ thực hiện ý tưởng này. Cảm ơn đã gợi ý.
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/3/15
    Giana thích bài này.
  12. viettran_ru

    viettran_ru Lớp 7

    Ông này viết bài lủng cà lủng củng...có lẽ ảnh hưởng của da cam!Vừa chê thơ dạng Bút tre xong,cuối cùng lại công khai mượn 2 câu lục bát của “Hậu Bút Tre”

    Đêm nằm nghĩ mãi không ra
    Tại sao thằng ấy lại là nhà thơ?

    để chửi cả làng thế mới củ chuối!
     
    Henry Ngời and whatcsvt100 like this.
  13. Henry Ngời

    Henry Ngời Mầm non

    Giao mùa
    Tháng Ba hãm hiếp nàng Xuân
    Mưa rào bẽn lẽn xếch quần chạy qua
    Con đò vưỡn thói giăng hoa
    Rủ rê bông gạo la cà ven đê
    Thác loạn tập thể bọn ve
    Rên la ầm ĩ ai dè giữa sân
    Phượng già nom rất cù lần
    Cũng ti hí mắt bần thần xem phim

    Một mình tôi mải mê tìm
    Gọi tên mùa Hạ mày chìm nơi mô?

    Các anh chị cho tôi xin ý kiến bài thơ như này có thể được gọi là thơ và nếu là thơ thì nó thuộc thể loại gì?
    Chân thành cảm ơn!
     
    TrongNghia thích bài này.
  14. Giana

    Giana Mầm non

    Theo mình, bài này vẫn là 1 bài thơ . Thơ lục bát chăng? Hay như bài viết trên là thơ-vè ( thấy có 1 ví dụ lấy vần như lục bát nhưng xếp vào thơ-vè, thật ra cũng là lục bát thôi mà???)
     
    Henry Ngời and TrongNghia like this.
  15. Ban Tang Du Tử

    Ban Tang Du Tử Moderator Thành viên BQT

    Theo tôi thì đây là một bài viết dưới dạng thơ, nhưng là thơ dở, thiếu phẩm chất.
    Theo tôi thì thơ là phải đẹp. Bài này không đẹp. Nên nếu xét dưới dạng thơ, thì tôi không thích.
     
    Henry Ngời and TrongNghia like this.
  16. Henry Ngời

    Henry Ngời Mầm non

    Thanks!
    Tôi đang rất băn khoăn về một người bạn. Tôi sẽ hỏi ý kiến nhiều người nữa.
    Thanks!
     
    TrongNghia thích bài này.
  17. TrongNghia

    TrongNghia Lớp 6

    Tôi đồng cảm với Du tử về nội dung bài giao mùa trên và riêng cá nhân tôi không thích, tránh dùng các từ như hãm hiếp, xếch quần, thác loạn tập thể ….(chắc do yêu cầu nghề nghiệp và thói quen được giáo dục). Nhưng khách quan khoa học mà nói thì tôi công nhận tác giả có trí liên tửơng phong phú, mạnh dạn sáng tạo khi dùng từ. Trong kính nhi viễn chi tôi ghi nhận các điểm mạnh của tác giả bài nầy.
     
    Last edited by a moderator: 9/5/15
    Henry Ngời thích bài này.
  18. Se Sẻ Nâu

    Se Sẻ Nâu Lớp 6

    Thơ gì mà nghe khiếp quá. Thiết tưởng thơ phải là phần đỉnh cao, là phần đẹp nhất của văn học. Thơ là kết quả của chiêm nghiệm, của cảm xúc. Từ trái tim đi thẳng đến trái tim. Kiểu thơ này có mà hãm hiếp tập thể nàng Thơ chứ không mỗi nàng Xuân. Tội nghiệp nàng Thơ bầm giập quá đỗi qua mấy chục năm bị mang đi oánh lộn, rồi đi làm kinh tế, rồi đi tuyên truyền v.v.. Chẳng biết bi giờ nàng còn hồn vía gì không nữa...
    Nói vậy thôi, lâu lâu vẫn đọc được một bài thơ từ trái tim, chẳng hạn như bài này :

    TRĂNG NGHẸN - thơ HOÀI TƯỜNG PHONG

    (TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI 1 CUỘC THI THƠ ĐBSCL NĂM 2009 - rồi bị rút lại và bị ném đá tơi bời bởi chữ "nghẹn" cũng là chữ đắt nhất trong cả bài thơ. Nhưng cũng nhờ bị ném đá dữ thế nên những kẻ dốt thơ như Sẻ này mới biết đến… Hị hị...)

    Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
    Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
    Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
    Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.

    Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
    Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
    Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
    Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.

    Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
    Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
    Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
    Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.

    Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
    Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
    Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
    Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.

    Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
    Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
    Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
    Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.

    Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
    Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
    Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
    Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.

    Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
    Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
    Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
    Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

    Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
    Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
    Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
    Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.
     
  19. Henry Ngời

    Henry Ngời Mầm non

    Tôi chỉ biết anh này trên mạng, nói chuyện bình thường nhưng khi xem thơ của anh ta tôi thấy ngạc nhiên quá vì bản thân anh ta hoàn toàn bình thường mà thơ thì có vẻ bệnh hoạn.
    Mặc dù vậy tôi vẫn thấy có gì đó hay hay, chỉ là có gì đó không đúng trong kiểu thơ vè này mà tôi không nhận định được, có thể bởi tôi đã tiếp xúc với anh ta nên không thể có cái nhìn khách quan về thơ kiểu này của anh ta do vậy tôi mới băn khoăn về nhân cách cũng như tư tưởng của anh ta.
    Các anh chị liệu có đánh giá tư cách nhân cách anh ta qua thơ được không?
    Anh ta còn rất nhiều bài thơ kiểu này, nó có vẻ bệnh hoạn nhưng có gì đó rất cuốn hút tôi, nhiều khi tôi thấy bất lực khi đánh giá về anh bạn này.
    Tôi xin đưa một bài khác nhẹ nhàng hơn của anh ta, không phải để tuyên truyền cho anh ta mà để các anh chị có cái nhìn thêm để đánh giá dùm tôi chứ tôi thì mông lung quá. Thật lòng cảm ơn ạ.

    Giao mùa (Thu mất tri...-chữ của anh ta)

    Tháng sáu rình thu ở cuối trời
    Nàng thu chửa kịp "uối duồi uôi"
    Đỏ trời hoa phượng rơi như thể
    Trinh tiết nàng thu lấm bụi đời

    Tháng sáu dìu thu tới mẹ rồi
    Bảy buồn nên vãi những mưa rơi
    Hẹn hò với bảy sao quên nhỉ
    Hồn nhiên để Sáu dắt vào đời.

    Thơ anh ta loanh quanh luẩn quẩn với nhục dục và các đối tượng mang vác lại đều là những mùa những tháng. Liệu có phải bệnh hoạn không? Tâm hồn anh ta có vấn đề phải không các anh chị? Hoặc trong cuộc sống các anh chị đã gặp những trường hợp như vậy bao giờ?
     
    Zhiqiang thích bài này.
  20. Henry Ngời

    Henry Ngời Mầm non

    Về bài Trăng nghẹn, nếu coi chữ nghẹn đắt nhất cả bài thơ thì làm giảm giá trị bài thơ quá.
    Tổng hòa bài này khi đọc lên đến đoạn cận cuối đã nghẹn rồi, chữ nghẹn chẳng cần viết lên cũng nghẹn. Bài trên mang tính kể, liệt kê nhưng xen kẽ là những trải lòng chân chất nên hay nhưng không có sự đặc biệt điểm nhấn, nó dàn trải quá. Tôi nghĩ cũng hay nhưng không xuất sắc. Thơ dạo này buồn quá phải không các anh chị?
     
    Giana and Zhiqiang like this.
Moderators: Ban Tang Du Tử

Chia sẻ trang này