Dân gian Phạm Công Tân Truyện (1971) <PDF>

Thảo luận trong 'Tủ sách Văn học trong nước' bắt đầu bởi khiconmtv, 1/6/15.

Moderators: Bọ Cạp
  1. khiconmtv

    khiconmtv Cử nhân

    Image 001.jpg

    Phạm Công Tân Truyện

    Phạm Công Tân Truyện là tiểu thuyết truyền kì, nguyên văn là bản Nôm, khắc năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ tám (1919) do nhà Phúc Văn Đường tàng bản.
    Bản Phạm Công Tân Truyện này do Hoàng Văn Phúc và Nguyễn Quang Xỹ phiên âm và chú giải.


    Download:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    Last edited by a moderator: 24/11/17
    123phat, hoangtuna, camapkss and 7 others like this.
  2. kissssss

    kissssss Mầm non

    Bác khiconmtv giúp mình reset lại link đi. Mình cần tìm mấy quyển cổ văn của tủ sách cổ văn này lắm. Đa tạ bác!
     
  3. camapkss

    camapkss Lớp 1

    Mong bạn @khiconmtv fix link lại dùm mình với. Xin cám ơn bạn rất nhiều!
     
  4. Heoconmtv

    Heoconmtv Moderator Thành viên BQT

    Đã fix lại link download rồi nhé!
     
    camapkss thích bài này.
  5. camapkss

    camapkss Lớp 1

    Xin cám ơn bạn @Heoconmtv rất rất nhiều!
     
  6. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    Một dịch bản khác
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Phạm Công – Cúc Hoa là một truyện thơ chữ Nôm trong văn học Việt Nam. Truyện thơ này gồm 4.610 câu thơ lục bát, xuất hiện khoảng từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là một trong những truyện thơ Nôm có số lượng câu nhiều nhất. Từ trước đến nay, tác giả của Phạm Công-Cúc Hoa vẫn bị coi là khuyết danh. Đến tận cuối năm 2009, qua một bản in khắc gỗ, người ta mới có cơ sở để xác định tác giả truyện thơ này là Dương Minh Đức Thị[1].Bài thơ nhắc đến các nhân vật trong các truyền thuyết của Trung Quốc như Tề Thiên Đại Thánh, Thái Tử Na tra…, thậm chí tên các nước như Tề, Triệu, Trịnh, Ngụy là những nước thời Chiến Quốc bên Trung Quốc cũng được nhắc đến. Tóm tắt nội dung: Phạm Công là thái tử con Ngọc Hoàng, được Ngọc Hoàng sai xuống đầu thai một gia đình hai vợ chồng già, nghèo khó nhưng ăn ở hiền lành, phúc đức. Sau khi cha mất, chàng dắt mẹ đi ăn xin. Để thử tấm lòng nghĩa hiếu của chàng, Phật biến thành một ông lão vô gia cư được Phạm Công nhường cơm rồi các Tiên Nữ ở trên cung đình cũng xuống để quyến rũ, mua chuộc nhưng không được. Phạm Công tìm đến trốn quan trường, xin trọ học, ngày ngày đút cơm cho mẹ, bản thân mình thì ăn rau. Cúc Hoa, con gái quan phủ thấy vậy cảm động đem lòng yêu rồi xin cha mẹ cho lấy Phạm Công làm chồng. Khi Cúc Hoa có bầu thì Phạm Công đi thi. Sau khi đỗ Trạng nguyên, vua định gả Công chúa và truyền ngôi cho, nhưng chàng từ chối vì đã có vợ. Vua giận bắt đi đầy sang Hung Nô. Ở Hung Nô, vua Hung Nô cũng muốn gả con gái nhưng Phạm Công vẫn một mực từ chối, bị vua Hung Nô chặt tay, chặt chân, khoét mắt. Ngọc Hoàng biết truyện bèn ra tay cứu giúp, dùng thần dược chữa lành lặn cơ thể và đôi mắt. Sau khi được thả, Phạm Công tìm đường về quê cũ nhưng chẳng may đi lạc vào nước Tề. Ở đây, chàng cũng bị ép lấy công chúa, rất may được công chúa là người độ lượng, biết phải trái xin tha nên vua nước Tề đồng ý cho đi. Phạm Công cùng vợ sum họp được ít lâu thì Cúc Hoa mất để lại 2 con nhỏ Tiến Lực và Nghi Xuân. Giặc giã nổi lên, vua nước Trịnh sai Phạm Công đi đánh dẹp. Từ chối không được, chàng buộc phải mang hài cốt vợ và dắt 2 con cùng ra trận. Tướng giặc là Sầm Hưng của nước Ngụy sau khi nghe Phạm Công kể nội tình thì động lòng nên quyết định lui quân. Sau Phạm Công lấy Tào Thị làm vợ kế rồi lên trấn thủ ở Cao Bằng. Ở nhà Tào Thị ngoại tình, đối xử tệ bạc với con chồng khiến Tiến Lực và Nghi Xuân bỏ nhà đi ăn xin. Qua phủ ông bà ngoại nhưng ông bà cũng không nhận ra. Trong một đêm, Cúc Hoa từ cõi âm ti hiện về, xót thương 2 con nàng bèn viết một lá thư trách chồng rồi buộc vào gấu áo của con.Đến một quán nhỏ gần Cao Bằng, chủ quán đồng ý cho hai anh em ngồi lại, hàng ngày xin tiền khách mua cơm ăn. Ở đây, Tiến Lực và Nghi Xuân gặp lại cha. Lúc đầu Phạm Công không nhận ra con nhưng sau khi nghe Tiến Lực kể đầu đuôi câu chuyện và đọc bức thư của Cúc Hoa thì biết là con mình nên vừa mừng vừa tủi. Phạm Công mang con về gửi ông bà ngoại. Chàng về nhà đuổi Tào Thị đi. Tào Thị sau đó bị sét đánh chết. Phạm Công xin cáo quan để xuống âm phủ tìm vợ. Được công chúa Xuân Dung nước Trịnh, Tề Thiên Đại Thánh và Diêm Vương giúp đỡ, Phạm Công xuống được âm ti và tìm được vợ. Cúc Hoa được tái sinh, trở lại dương thế, “vu quy” với Phạm Công. Phạm Công cũng được vua Trịnh gả công chúa Xuân Dung và nhường ngôi vua cho. Bài thơ nằm trong Maurice Durand Collection có một kết thúc khác: Phạm Công gặp lại Cúc Hoa trong bối cảnh rất trớ trêu. Phạm Công như lạc vào cõi tiên, thấy cảnh đẹp, nước trong thì cùng ngựa hồng xuống tắm. Cùng lúc đó 30 thị nữ của Cúc Hoa cũng đến tắm. Thấy Phạm Công là đàn ông thì lấy làm kinh ngạc, chửi bới Phạm Công thậm tệ rồi về tâu bẩm với công chúa Cúc Hoa. Cúc Hoa nổi giận mở phiên tòa xét xử xem ai có lỗi. Bài thơ kết thúc bằng việc Hà Bá lên làm chứng xem việc gì đã xảy ra. Bài thơ bị bỏ lửng lơ và kết thúc này có vẻ không hợp lý, không giống với nguyên bản. Không rõ là ai viết.

    Phạm Công – Cúc Hoa

    Phạm Công – Cúc Hoa là một truyện thơ chữ Nôm trong văn học Việt Nam. Truyện thơ này gồm 4.610 câu thơ lục bát, xuất hiện khoảng từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là một trong những truyện thơ Nôm có số lượng câu nhiều nhất. Từ trước đến nay, tác giả của Phạm Công-Cúc Hoa vẫn bị coi là khuyết danh. Đến tận cuối năm 2009, qua một bản in khắc gỗ, người ta mới có cơ sở để xác định tác giả truyện thơ này là Dương Minh Đức Thị[1].

    Nội dung
    Phạm Công là chàng trai con nhà nghèo, phải đi làm công để nuôi bố mẹ. Cha chết, Phạm Công phải đi ăn mày để tiếp tục phụng dưỡng mẹ đến khi mẹ chết. Là người hiếu học, Phạm Công xin thụ giáo Quỷ cốc tiên sinh. Ở đây, Phạm Công được Cúc Hoa là bạn đồng môn, cũng là con gái của tri phủ, yêu thương.
    Hai người cưới nhau, khi Cúc Hoa có thai thì Phạm Công lên kinh thành ứng thi. Phạm Công đã gặp nhiều gian truân khổ ải, bị quốc vương các nước khác ép lấy công chúa nhưng Phạm Công đều từ chối. Nhưng nhờ công chúa nước Triệu nhân hậu, Phạm Công được trở về quê hương làm nguyên soái, đoàn tụ cùng Cúc Hoa, họ có hai con là Nghi Xuân (con gái) và Tiến Lực (con trai).
    Cúc Hoa lại không may qua đời ở tuổi 30. Phạm Công tái giá với Tào Thị và phải lên Cao Bằng làm trấn thủ. Tào Thị ở nhà ngoại tình, hành hạ, ngược đãi Nghi Xuân và Tấn Lực. Cao điểm, thị cùng người tình bàn mưu giết hại hai con chồng, khiến hai đứa phải trốn khỏi nhà đi ăn xin.
    Trong một đêm, Cúc Hoa từ cõi âm ti hiện về gặp hai con và gửi thư tin cho Phạm Công biết. Sau ba năm trấn thủ, Phạm Công trở về đuổi Tào Thị đi. Tào Thị sau đó bị sét đánh chết. Được công chúa Xuân Dung nước Trịnh, Tề Thiên Đại Thánh và Diêm Vương giúp đỡ, Phạm Công xuống được âm ti và tìm được vợ. Cúc Hoa được tái sinh, trở lại dương thế, “vu quy” với Phạm Công. Phạm Công cũng được vua Trịnh gả công chúa Xuân Dung và nhường ngôi vua cho [2]

    01. Tâm Thành Thấu Đến Tận Trời
    Trời cao thăm thẳm chín tầng
    Tuy cao muôn trượng mà gần tấc gang
    Xét soi thiện ác đôi đàng
    Trắng đen chẳng lẫn rõ ràng gương trong
    Ngẫm xem thiên địa chí công ( 5 )
    Dở hay cũng bởi tự lòng mà ra
    Xưa nay những kẻ thảo hòa
    Trước thì lam lũ sau đà thành nhân:

    Có người ở phủ Quỳnh Vân
    Tuổi cao sống cảnh cơ hàn không con ( 10 )
    Vợ chồng hái củi trên non
    Đem về đi bán héo hon tháng ngày
    Lão bà lòng thảo dạ ngay
    Mình đà cơ cực mà hay giúp người
    Thành tâm cúng lễ khắp nơi ( 15 )
    Đêm ngày cầu khấn phật trời đoái thương
    Một hôm đang hội đúc chuông
    Có bao nhiêu cúng chẳng lường đói no
    Về nhà chân mới bước vô
    Chồng liền hỏi vợ nhỏ to mấy lời: ( 20 )
    “Tiền còn nhiều ít mình ơi
    Xin mình nói lại cho tôi hay cùng”
    Bấy giờ vợ mới bảo chồng:
    “Củi bán được bốn mươi đồng chưa tiêu
    Chùa quê sãi rách vách xiêu ( 25 )
    Thiếp trông thấy cảnh tiêu điều mà thương
    Vậy nên cúng cả đúc chuông
    Ấy điều làm phúc mọi đường chớ lo”
    Chồng nghe thấu hiểu nguyên do
    Thấy lòng vui vẻ bằng cho bạc vàng ( 30 )
    Buổi chiều chuông đánh kêu vang
    Muốn dưa đơm cúng khói nhang ngọt ngào
    Chuông ngân thấu đến thiên tào
    Động tai thượng đế xôn xao buổi chầu
    Ngọc hoàng khe khẽ gật đầu ( 35 )
    Phán truyền: “Chư tướng hãy mau tâu bày
    Ai cúng dưới đó hôm nay
    Tiếng chuông lên mãi tận đây vẫn rền
    Bách thần tinh tú quần tiên
    Đâu người cầu khấn chùa chiền nói ra” ( 40 )
    Kim tinh Thái Bạch tâu qua:
    “Dưới trần gian có một nhà họ Dương
    Vợ chồng cơ khổ trăm đường
    Hái rau kiếm củi lễ thường chẳng quên
    Xét trong cung số dân hèn ( 45 )
    Đã lo đói rách lại phiền không con
    Phép trời chuyển động càn khôn
    Xin người đổi số cho tròn mới hay”
    Ngọc hoàng phán: “Sự đã vầy
    Khanh nào giải được tâu bày xem sao” ( 50 )
    Hai bên Bắc đẩu Nam tào
    Tâu: “Xin việc ấy cứ giao mụ bà
    Chúng thần thay số người ta
    Con nhờ bà mụ thuận hòa đôi tay”
    “Các khanh hãy nói ta hay ( 55 )
    Trong cung con trẻ hôm nay có còn”
    Chín mươi bà mụ tâu luôn:
    “Lúc này trai gái chẳng còn một ai”
    Ngọc hoàng chép miệng thở dài:
    “Gái trai chẳng có liệu bày gì đây( 60 )
    Âu là sẵn thái tử nay
    Cho làm con của nhà này tiếc chi”
    Lệnh truyền thái tử tức thì
    Rời nơi cung cấm ra đi phen này
    Vào nhà Dương thị đầu thai ( 65 )
    Làm người nối dõi đêm ngày thần hôn
    Thái tử sụp lạy nỉ non:
    “Cha ơi có xót cho con chăng là
    Thiếu gì vọng tộc thế gia
    Mà cho con trẻ vào nhà hàn môn ( 70 )
    Hái rau kiếm củi sườn non
    Xin cha nghĩ lại cho con ở cùng”
    Ngọc hoàng phán bảo ung dung:
    “Nó đói khổ thật nhưng lòng có nhân
    Vậy nay con giáng xuống trần ( 75 )
    Làm con nhà ấy có phần còn hay”
    Thái tử trong dạ đắng cay
    Nước mắt chan chứa tâu ngay đan trì:
    “Cha cho xuống cõi trần kia
    Mấy năm cha lại gọi về chính ngôi?”( 80 )
    Ngọc hoàng phán định một lời:
    “Cha cho con xuống hai mươi năm về”
    Thái tử quỳ xuống chỉnh tề:
    “Hai mươi năm về thì cũng như không
    Tuổi nào trả nghĩa đền công( 85 )
    Báo ơn cúc dục yên xong mọi bề”
    Ngọc hoàng nước mắt dầm dề:
    “Đúng sáu mươi tuổi lại về với ta”
    Thái tử lạy mẹ lạy cha
    Rời nơi thượng giới dặm xa cõi trần.( 90 )

    —————————————————–

    Canh ba giờ tý rõ ràng
    Dương thị mộng thấy rồng vàng bám lưng
    Trong mình sáng tỏ như gương
    Đến khi thức giấc tỏ tường trước sau
    Vợ chồng ghi tạc ơn sâu( 95 )
    Càng chăm làm lụng càng giàu từ bi.

    —————————————————–

    Khai hoa nay đã đến kỳ
    Một trai thanh tú dung nghi khác vời
    Vợ chồng chăm chút không ngơi
    Đến ngày đầy tháng lễ trời tạ công( 100 )
    Lều tranh nến sáng nhang xông
    Bàn thờ chỉ có tôm đồng tép rang
    Vợ chồng nước mắt hai hàng
    Vái dâng lễ mọn Ngọc hoàng chứng tri
    Lòng thành thấu đến đan trì( 105 )
    Mười hai bà mụ tức thì đến nơi
    Nhác trông thấy cỗ nực cười:
    “Thế mà hương khói cứ trời bay lên”
    Chứng xong quay gót thượng thiên
    Ngọc hoàng phán hỏi: “Băng miền bao xa( 110 )
    Vợ chồng họ Phạm tuổi già
    Cỗ bàn nó cúng mụ bà những chi?”
    Mười hai bà mụ tâu quỳ:
    “Nhà nó tân khổ trọn bề thủy chung
    Đem ra tinh những tôm đồng( 115 )
    Với lại rau muống bày cùng tép rang
    Thành tâm sống cảnh cơ hàn
    Ước gì lại được thiên nhan đoái hoài”
    Ngọc hoàng nước mắt chảy dài:
    “Dương gian cực khổ đọa đày thân con.( 120 )
    Nghĩa càng day dứt hao mòn
    Xót tình phuj tử héo hon lòng già”.

    02. Phạm Công Hết Lòng Với Cha Mẹ
    Tuổi chàng nay đã lên ba
    Mẹ cha mới đặt tên là phạm Công
    Vợ thường than thở với chồng:( 125 )
    “Gian nan gặp bước cực lòng bấy nay
    Sinh con cơ khổ làm vầy
    Để cho đói khát đêm ngay xót xa”
    Phạm Công tuổi mới mười ba
    Cha mẹ thì già yếu đuối ai nuôi( 130 )
    Tưởng xem cơ sự ngậm ngùi
    Phải đi ở mướn mà nuôi cả nhà.

    ———————————————–

    Phạm Công vừa chẵn mười ba
    Tuổi thơ sớm chịu phôi pha ưu phiền
    Một năm ở có năm tiền( 135 )
    Lấy cơm nhà chủ giấu liền vào trong
    Đem về cha mẹ đỡ lòng
    Còn mình chỉ có tôm đồng nước ao
    Mẹ cha trong dạ bào hao
    Số phải đói khổ biết bao giờ rồi( 140 )
    Càng đi khấn phật cầu trời
    Tu nhân tích đức trọn đời cùng nhau.

    ————————————————

    Người ta chịu khổ mãi đâu
    Ba rồng xuống rước ông chầu thiên cung
    Lão ông than thở cực lòng:( 145 )
    “Bà ơi ráng để con không thua người”
    Nói thôi thân thể rụng rời
    Ba hồn bảy vía xa chơi non bồng
    Dương thị đau đớn khôn cùng
    Kêu trời vạch đất giọt hồng nhỏ sa( 150 )
    Phạm Công tuổi mới mười ba
    Lấy gì tang chế cho cha phen này
    Lão ông chết đã ba ngày
    Mời thầy địa lý nhưng thầy không nghe:
    “Cha mày hái củi xưa kia( 155 )
    Ai hòng trông cậy mà đi theo mày”
    Lại đến mời sãi đàng này
    Sãi cũng chê khó chẳng ai đến cùng
    Phạm Công nước mắt ròng ròng
    Khấn trời phù hộ rủ lòng thương cha( 160 )
    Vừa làm phù thủy trừ tà
    Làm thầy tìm đất cùng là ma chay
    Đem cha táng ở gốc cây
    Vái lạy trời đất tỏ bày thiết tha.

    ——————————————-

    Phạm Công thưa với mẹ già:( 165 )
    “Con đi kiếm củi phương xa phen này
    Cố làm lấy một tuần chay
    Cho cha siêu độ lên mây chầu trời
    Dù phải kiếm củi suốt đời
    Con đây cũng chẳng sợ ai chê cười”( 170 )
    Mẹ rằng: “Đừng thế con ơi
    Kiếm củi thì lại suốt đời cháo rau”
    Phạm Công nước mắt tuôn sầu:
    “Làm trai là phải dãi dầu xông pha
    Chứ ai sinh đẻ con ra( 175 )
    Bây giờ lụy đến mẹ già hổ ngươi
    Nuôi con ngần ấy năm trời
    Mẹ cha phải chịu một đời long đong
    Công cha nghĩa mẹ ghi lòng
    Làm sao trả đặng ơn cùng tổ tiên”( 180 )
    Cơm nắm chỉ có mấy viên
    Lưng đeo bầu nước tìm miền làm ăn
    Đói lòng áo rách che thân
    Đưa tay dắt mẹ dời chân lên đường.
    03. Phật Di Đà Và TIên Nữ Thử Lòng Phạm Công
    1-

    Bốn ngày rong ruổi dặm trường( 185 )
    Giữa trưa nắng gắt định dừng gốc đa
    Mẹ con gặp một cụ già
    Phơ phơ đầu bạc nước da đồi mồi
    Phạm Công trông thấy ngùi ngùi:
    “Xin ông thư thả ta ngồi nghỉ ngơi”( 190 )
    Nghe thôi ông cụ mừng vui:
    “Ba ngày chịu đói không người đoái thương
    May thay có bậu qua đường
    Hãy xin bớt miệng sẻ nhường cho ta”
    Phạm Công nghe nói xót xa( 195 )
    Sẵn lưng cơm nắm mở ra tức thì
    Miệng cười: “Ông hãy ăn đi
    Giữa trưa ông có việc gì ra đây”
    Cụ già thong thả giãi bày:
    “Hiếm hoi sinh được mụn trai đầu lòng( 200 )
    Thỏa niềm rày ước mai mong
    Tìm thầy cho học, theo vòng nghĩa nhân
    Theo thầy vừa được ba xuân
    Về nhà cưới vợ thành thân vuông tròn
    Gia tài phá sạch chẳng còn( 205 )
    Hôm mai khốn đốn vì con vung tiền
    Những tin con thảo dâu hiền
    Ai ngờ hết của chúng liền đuổi đi
    Dâu con sỉ nhục ê chề
    Cực lòng lão phải tính bề tha phương”( 210 )
    Phạm Công nước mắt rưng rưng:
    “Công cha nghĩa mẹ như rừng như non
    Thấy người con tưởng thân con
    Chuỵên người thảm thiết héo hon lòng này
    Thôi còn ba nắm cơm đây( 215 )
    Xin ông cầm lấy đường dài dùng qua
    Ví dù con có lỡ ra
    Con xin nơi khác mẹ già cũng no”
    Cụ già nghe nói nhỏ to:
    “Ơn chàng tốt bụng mà cho như vầy( 220 )
    Lòng chàng nhân hậu khôn tày
    Cho nên lão lấy cơm này một viên”
    Dứt lời cơm vẫn còn nguyên
    Lão ông thôi đã biến liền vời xa
    Chẳng ngờ là Phật Di Đà( 225 )
    Thoắt về tâu với vua cha Ngọc hoàng
    Cùng quan văn võ hai hàng:
    “Chẳng ai ân nghĩa bằng chàng Phạm Công”
    Tiếng đồn đã đến cửu trùng
    Lại còn vang tới thủy cung động đình.( 230 )

    2-

    Ngọc hoàng muốn thấu sự tình
    Truyền đòi tiên nữ đăng trình viễn phương
    Tiên nữ vâng lệnh lên đường
    Xuống xem lòng dạ cõi dương thế nào
    Phất phơ lơi lả yếm đào( 235 )
    Mắt trần ai biết người nào tiên cung
    Bấy giờ vừa gặp Phạm Công
    Đương tay dắt mẹ đi rong đường làng
    Tiên nữ bèn đón lấy chàng:
    “Xin ai chớ có vội vàng đi ngay( 240 )
    Em là người ở phương tây
    Mẹ cha ép uổng em nay lấy chồng
    Chỉ vì tạo hóa bất công
    Bắt em phải chịu cực lòng nơi đây
    Nghe chàng hiếu nghĩa xưa nay( 245 )
    Dặm trường ròng rã bốn ngày không ngơi
    Nhân duyên đành bởi sự trời
    Nên nay lại gặp có nơi tương phùng”
    Phạm Công nghe nói hãi hùng
    Tay liền dắt mẹ băng chừng nẻo xa:( 250 )
    “Vợ chồng việc ấy xin tha
    Tôi đâu quên chuyện cụ già hôm xưa”
    Tiên nữ lời đã lọc lừa
    Ve chàng chẳng được về thua tức thì
    Ngọc hoàng phán hỏi vân vi:( 255 )
    “Phạm Công nó nói điều gì với ngươi?”
    Tiên nữ quỳ xuống đáp lời:
    “Cõi trần khó kiếm được người thứ hai
    Hạ tiên theo nói cả ngày
    Đem lời ngon ngọt xoắn dây tơ hồng( 260 )
    Nhưng chàng hiếu thảo lạ lùng
    Chẳng tưởng trai gái vợ chồng chút chi
    Cứ khăng khăng dắt mẹ đi
    Dương gian dễ có ai bì Phạm Công”
    Ngọc hoàng nghe cũng mừng lòng( 265 )
    Phán rằng: “Bậy ấy anh hùng không sai
    Thế gian những kẻ anh tài
    Xưa nay chưa thấy ai người chê tiên
    Khá khen hiếu nghĩa vẹn tuyền
    Rành rành phò mã trạng nguyên sau này”.( 270 )

    04. Phạm Công Tìm Học Thầy Quỷ Cốc
    Cúc Hoa Cảm Mến Phạm Công
    Trường thầy Quỷ Cốc gần đây
    Môn sinh thụ giáo xưa rày rất đông
    Mẹ con nghe nói nức lòng
    Lần theo độc đạo núi sông cách vời
    Tới nơi trong dạ bồi hồi( 275 )
    Đói nghèo thầy có nhận lời cho chăng
    Muốn hỏi chẳng dám hé răng
    Thoắt thôi thầy đã ra sân gọi vào
    Mẹ con khép nép thưa chào
    Lạy trình sư phụ thấp cao mấy lời:( 280 )
    “Nghe đồn thầy dạy hơn người
    Xin đem cháu đến nương nơi mưa nhuần
    Mẹ con gặp bước gian truân
    Xin thầy thương đến cho phần bảo ban”
    Giọng thầy lạnh nhạt nhặt khoan:( 285 )
    “Ta thờ đạo thánh đem thân làm thầy
    Dặm nghìn bay đã đến đây
    Nếu ta không dạy xót mày về không
    Âu là ta cũng rộng lòng
    Cho vào ngồi đó cố công học hành( 290 )
    Trưởng tràng! Cho nó chiếu manh
    Chớ cho chiếu lành mà phí chiếu ta”
    Phạm Công nghe nói xót xa
    Trưởng tràng lại lấy mực ra bắt mài
    Chàng mài không được như ai( 295 )
    Trưởng tràng quát ngắn quát dài một phen
    Phạm Công cay đắng phận hèn
    Cúi đầu nhịn nhục lệ liền tuôn rơi
    Rằng: “Anh không biết sự đời
    Chớ nên phỉ báng thân tôi làm gì( 300 )
    Lộc trời uống rượu trong ly
    Mỗi người một chén mất đi đằng nào
    Giàu nghèo như thể chiêm bao
    Sự nay đã vậy việc sau khó lường
    Thấy người khốn khó cùng đường( 305 )
    Chẳng thương thì cũng xin đừng nặng tay”
    Trưởng tràng mặt đỏ tía tai:
    “Đừng ai cho nó học bài làm chi
    Lấy màn che kín đèn đi
    Thế là nó phải chịu bề ngồi không( 310 )
    Đêm thầy dạo bước tràng trung
    Thoạt trông mắt đã rưng rưng bùi ngùi
    Phạm Công cầm sách dựa ngồi
    Chờ cho chớp giật mấy hồi sáng ra
    Coi theo mà học thiết tha.( 315 )
    Nhận ra cậu bé mẹ già mồ côi
    Ân cần thầy bảo mấy lời:
    “Con cứ vào đó mà ngồi học đi
    Thầy cho cơm áo no nê
    Con chăm học tập lấy nghề ấm thân”( 320 )
    Vừa cười vừa nói lần lần:
    “Tài này phò mã tất gần chẳng xa”
    Trưởng tràng cười khẩy ba hoa:
    “Làm nên phò mã chúng ta vào chầu
    Nó mà có số sang giàu( 325 )
    Chúng ta làm đứa lính hầu cũng xong”
    Phạm Công bước vào nhà trong
    Đốt đèn lên học nặng lòng tri ân
    Ngày ngày cơm nước thầy ban
    Thịt thà nhường mẹ mình toàn rau dưa.( 330 )

    ———————————————————

    Hai mươi bốn hiếu đời xưa
    Chuyện ngàn năm trước bây giờ còn đây
    Với người hiếu nghĩa thảo ngay
    Trời kia cũng muốn cho hài nhân duyên
    Cúc Hoa tính nết dịu hiền( 335 )
    Con quan tri phủ giá nên ngọc ngà
    Ngời ngời độ tuổi mười ba
    Mi cong mắt sáng làn da mịn hồng
    Kinh sử thuộc hết làm lòng
    Thầy cho thay mặt dạy trong học đường( 340 )
    Thấy chàng hiếu nghĩa thì thương
    Cúc Hoa cảm kích lòng thường chạnh đau
    Châu trần tính chuyện dài lâu
    Nỗi lòng dám tỏ gót đầu hôm mai
    Ba đông đèn sách dùi mài( 345 )
    Ai nào biết được lòng ai chăng là
    Lâu ngày nhớ mẹ nhớ cha
    Nàng xin thầy được thăm nhà một phen
    BAo nhiêu sách vở bút nghiên
    Nàng đà gói ghém dành riêng cho chàng( 350 )
    Ra về trong dạ ngổn ngang
    Xót xa duyên số nhỡ nhàng một khi

    ——————————————————–

    Nhớ chàng luống những sầu bi
    Trong mình mang mối tình si nặng nề
    Dật dờ tỉnh tỉnh mê mê( 355 )
    Nhác đường học tập trễ nghề cửi canh
    Tướng công những rõ sự tình
    Ngắm nhìn thì thấy ra hình ủ ê:
    “Sao con đi học mới về
    Vì đâu nên nỗi mình ve gầy mòn( 360 )
    Trước đây má phấn môi son
    Bảnh bao nét ngọc vuông tròn mặt hoa
    Sau ngày đi học phương xa
    Nghìn vàng thân ấy bỗng ra thế này”
    Ông bà ngẫm nghĩ thương thay:( 365 )
    “Ai đày đọa trẻ cho cay đắng già
    Con ta như thể bông hoa
    Phải khi tròn bóng phơi ra mặt trời
    Chuyện này chẳng phải chuyện chơi”
    Cho người đi khắp mọi nơi mời về( 370 )
    Mời thầy chiếu kính tứ bề
    Bảy già ba trẻ vị chi mười người
    Lễ dâng khấn phật cầu trời
    Đỡ đâu chẳng thấy gầy thời hơn xưa
    Ông bà hôm sớm thẫn thờ( 375 )
    Chữa hoài không đặng bỏ lơ sao đành:
    “Chiếu kính việc đã không thành
    Âu là đi bói cho rành biết sao”.

    ———————————————————–

    Vợ chồng bàn định thấpcao
    Phu nhân sang chợ tìm vào bói xem( 380 )
    Năm quan tiền lễ đặt lên
    Nhờ thầy xem quẻ bình yên thế nào
    Trước là gọi hạn gọi sao
    Sau xem phúc đức xem vào thê nhi”
    Thầy gieo quẻ xuống một khi( 385 )
    Chắp tay cung kính thầm thì khấn ngay
    Thoắt thôi thầy đã giải bày:
    “Cứ trong bản mệnh quẻ này bình yên”
    Phu nhân đủng đỉnh nói thêm:
    “Nữ nhi trẻ nó ngày đêm trong phòng( 390 )
    Từ ngày đến học tràng trung
    Bỗng dưng mang bệnh hình dung âu sầu”
    Lầm rầm thầy khấn trước sau
    Cầm tiền gieo xuống gật đầu nói ngay:
    “Cứ xem trong tuổi tuất này( 395 )
    Bệnh sao cơn tỉnh cơn say lạ kỳ
    Chẳng phải nội ngoại cô dì
    Vong chú vong bác vong gì cũng không
    Chẳng tà ma cũng chẳng vong
    Quẻ này là quẻ phải lòng ai đây( 400 )
    Cho nên ngọa bệnh làm vầy
    Không tin bà hỏi tuổi này mà coi”
    Phu nhân vội vã đáp lời:
    “Con tôi nào phải là người nết hư”
    Nói rồi từ tạ bốc sư( 405 )
    Nhanh chân thẳng trở dặm dư về nhà.

    ————————————————————

    Phu nhân hỏi nhỏ Cúc Hoa:
    “Nay con có phải trăng hoa ai cùng?”
    Nàng rằng: “Đâu có lạ lùng
    Con măng sữa đã phải lòng người ta( 410 )
    Năm nay con mới mười ba
    Nào con có dám trăng hoa vật vờ.”
    “Nghe lời bói toán bâng quơ
    Mẹ còn mang tấm lòng ngờ bấy nay
    Có gì con cứ tỏ bày( 415 )
    Đừng để cha mẹ đêm ngày xót xa
    Mấy nơi vọng tộc thế gia
    Lâu nay săn đón mẹ cha chuyện này.”
    Nàng rằng: “Có một chàng trai
    Đồng môn gần gụi suốt hai năm liền( 420 )
    Phận hèn nhưng chí không hèn
    Học theo ánh chớp thay đèn, nết na
    Bữa ăn dâng kính mẹ già
    Mình thì cơm muối cơm cà vài lưng
    Người hiếu nghĩa nghĩ mà thương( 425 )
    Lâu dần lại thấy vấn vương trong lòng
    Xa rồi nhớ nhớ mong mong
    Chập chờn mơ tưởng tơ hồng cùng ai.”
    Ông bà nghe kể một hai
    Rưng rưng nước mắt thở dài giây lâu:( 430 )
    “Sao con chẳng nói từ đầu
    Để phải cúng bái lao đao bấy chầy
    Đã ra duyên sự làm vầy
    Cũng bằng chim phượng đỗ cây ngô đồng
    Lòng con nhất quyết tơ hồng( 435 )
    Mẹ cha cũng phải chiều lòng chứ sao
    Chẳng tham gác tía lầu cao
    Thì ta gọi đến mà trao xích thằng.”

    05. Phạm Công Được Gọi Đến Nhà Cúc Hoa
    Nàng Giúp Tiền Bạc Cho Chàng Để Làm Lễ Cưới
    Cúc Hoa nghe nói vui mừng
    Cúi đầu lạy tạ cảm lòng mẹ cha ( 440 )
    Thoắt thôi trở gót phòng hoa
    Gọi con hoàn lại dặn qua mấy lời:
    “Bay lên trường học tức thời
    Thấy người áo rách hãy mời về ngay
    Những người áo đỏ hây hây( 445 )
    Chớ nên rước họ tới đây làm gì”
    Liễu hoàn vâng lệnh ra đi
    Quá trưa đã tới gần kề tràng môn
    Toàn người áo đỏ đông ngòm
    Áo rách chẳng có đứng chồn cả chân( 450 )
    Trở đi trở lại tần ngần
    Thấy người dắt mẹ bước lần bờ sông
    Liễu hoàn nhẹ nhõm trong lòng:
    “Chàng kia có phải Phạm Công chăng là?”
    Phạm Công liền bảo mẹ già:( 455 )
    “Cớ sao lại có đàn bà gọi chi”
    Chàng bèn nói lại một khi:
    “Nhà cô nào đó hỏi gì đến tôi”
    Liễu hoàn lễ phép đáp lời:
    “Nữ tỳ đâu dám bắt Người gọi cô( 460 )
    Chuyện gì không biết nhỏ to
    Mà quan tri phủ dạy vô đòi chàng”
    Phạm Công trong dạ bàng hoàng:
    “Người đòi hay dở cô tường hay không”
    Hoàn rằng: “Phép nước chí công( 465 )
    Can chi quan phải bàn cùng với tôi”
    Phạm Công nét mặt kém tươi:
    “Nếu quan tri phủ sai thời có nha
    Cớ sao lại bảo đàn bà
    Tôi nay tiến thoái thật là khó thay”( 470 )
    Liễu hoàn ngon ngọt giãi bày:
    “Nếu sao tôi sẽ chịu thay cho chàng”
    Phạm Công chưa hết ngỡ ngàng:
    “Quan mà gọi tới ắt thường khảo tra”
    Cuối cùng đành dắt mẹ già( 475 )
    Bước vào lạy tạ gần xa tứ bề
    Đồng môn hạng nhất hạng nhì:
    “Anh em ở lại tôi đi phen này”
    Lên thềm quỳ lạy trình thầy:
    “Ngẫm tình sư đệ con nay tủi thầm”( 480 )
    Đồng môn họp lại bàn ngầm:
    “Ví dù quan phủ giam cầm Phạm Công
    Chúng ta phải thật đồng lòng
    Góp tiền sang chạy mở gông cho chàng”
    Cười vui thầy nói rõ ràng:( 485 )
    “Nó đi hẳn được vẻ vang phen này”
    Chàng theo cô gái đi ngay
    Tay gầy dắt mẹ một giây không rời
    Trập trùng đồi núi dặm khơi
    Chiều tối tới đặng gần nơi công đường( 490 )
    Chòi canh rải rác khắp vùng
    Bốn bề vời vợi bịt bùng tường cao
    Liều mình chàng mới bước vào
    Cửa quan tri phủ người nào chẳng ghê
    Tướng công quay mặt ra hè( 495 )
    Hỏi: “Chàng nho sĩ mới về tới đây
    Chiếu hoa sắp sẵn lầu tây
    Mẹ con nho sĩ vào đây thư ngồi
    Cơm canh đã chín cả rồi
    Ăn xong rồi sẽ có lời gửi trao”( 500 )
    Nàng nhìn qua bức trướng đào
    Lòng càng ưa nét thanh cao bội phần
    Thấy chàng có dáng băn khoăn
    Tướng công cười mỉm lại gần ung dung:
    “Cúc Hoa một dạ thủy chung( 505 )
    Còn chi nghi ngại nói ông nghe chừng”
    Phạm Công quỳ xuống rưng rưng:
    “Cả nhà cơ cực cùng đường bấy nay
    Thân con như thể ăn mày
    Có đâu chữ nghĩa sánh tày người ta”( 510 )
    Tướng công nói rõ gần xa:
    “Quý lòng ham học thôi mà sá chi
    Con ta ham nết nhân nghì
    Cho nên mới gọi chàng về tới đây
    Từ khi thụ giáo trường thầy( 515 )
    Bốn trăm đồng học đông tây anh tài
    Nó chẳng nhòm ngó đến ai
    Thấy chàng nnho sĩ lòng hoài nhớ thương
    Về nhà phiền muộn trăm đường
    Thuốc thang chẳng bớt võ vàng dung nhan( 520 )
    Nay chàng muốn kết phượng loan
    Xuyến vàng ba cặp mới hoàn nhân duyên”
    Phạm Công nghe nói lòng phiền
    Đất bằng phút chốc nổi liền phong ba
    Cáo đâu dám sánh liên hoa( 525 )
    Cú nào dám đọ tiên nga mỹ miều
    Nghĩ mình chút phận hẩm hiu
    Bạc vàng chẳng có tính chiều nào xong
    Cúc Hoa ngồi ở nhà trong
    Nghe cha nói vậy mà lòng ngổn ngang( 530 )
    Thấy Người thách bạc thách vàng
    Dặn hoàn ra bảo kẻo chàng sợ e:
    “Đừng bó tay chớ bỏ về
    Khó khăn em liệu mọi bề êm xuôi
    Canh ba thanh vắng không người( 535 )
    Bấy giờ em sẽ có lời thưa qua.”

    ————————————————-

    Căn cơ vốn tính đàn bà
    Tay hòm chìa khó cửa nhà điền trang
    Bao nhiêu hòm bạc hòm vàng
    Mẹ cha giao cả cho nàng lâu nay( 540 )
    Trống lầu vừa điểm canh hai
    Cúc Hoa bèn lẻn ra ngoài đứng trông
    Thấy người ngủ hết tây đông
    Bảo chàng vào đấy liệu chừng một phen:
    “Xin chàng chớ ngại chớ phiền( 545 )
    Nửa ngày thu vén đã yên cả rồi
    Nhờ chàng chuyển đỡ mà thôi”
    Phạm Công nghe nói bồi hồi không yên
    Cúc Hoa thấy thế bèn khuyên:
    “Chấp kinh thì phải tòng quyền mới qua( 550 )
    Xưa nay lắm bậc tài hoa
    Mà đành chịu để đàn bà chê quê”
    Phạm Công lòng vẫn rụt rè
    Nghe nàng cũng quyết một bề cho xong
    Cúc Hoa liền mở cửa phòng( 555 )
    Cho xem vàng bạc bên trong sẵn sàng
    Trấn an nàng rỉ tai chàng:
    “Của riêng em đó vô vàn thiếu chi
    Mai kia có xảy chuyện gì
    Mặc em lo liệu chàng thì yên tâm”( 560 )
    Canh tư rồi lại canh năm
    Hai người chuyên được bốn trăm quan tiền
    Đến khi gà gáy liền liền
    Bạc vàng lấy đủ đã yên một niềm
    Nàng lo đóng cửa thật êm( 565 )
    Chàng thì nhón gót bậc thềm bước sang
    Ngoài kia tiền xếp ngổn ngang
    Xuyến vòng đủ hết bạc vàng thiếu đâu
    Canh năm trống điểm trên lầu
    Chân trời ửng đỏ một màu phía xa( 570 )
    Phạm Công quỳ lạy ông bà
    Đái đồng long cổn xô sa xuyến vàng
    Xiêm y ba bộ rỡ ràng
    Phạm Công khi ấy vẻ vang ai bì
    Tướng công phán hỏi tức thì:( 575 )
    “Của đâu nói rõ mọi bề ông hay”
    Phạm Công lúng túng thưa bày:
    “Con vừa đi mượn trường thầy nơi xa”
    Tướng Công bấm độn xem qua:
    “Quẻ này là quẻ của ta thực rồi( 580 )
    Tý sửu dần mão ngọ mùi
    Trong nhà có trộm chẳng nguời đâu xa
    Trường thầy sao những của ta”
    Bèn gọi đầy tớ: “Bay ra bắt vào”
    Phạm Công luống cuống sợ sao( 585 )
    Nghe lời nàng phải tù lao phen này
    Cúc Hoa nhìn thấy thương thay
    Lạy cha lạy mẹ giãi bày vân vi:
    “Ví dù có xảy chuyện gì
    Tội con con chịu can chi đến chàng( 590 )
    Nhà ta lỉnh kỉnh bạc vàng
    Chàng thì đói rách bỏ làng ra đi
    Tơ hồng nguyệt lão đã xe
    Duyên trời đã định phu thê trọn đời
    Thỏa lòng ước nguyện lứa đôi( 595 )
    Con đâu trộm cắp để rồi cho ai
    Kim ngân quý vật một hai
    Là cha mẹ để cho ngày cưới con”
    Lạy cha lạy mẹ nỉ non:
    “Chuyện này âu cũng tại con nhiều bề( 600 )
    Nếu cha chẳng có thương vì
    Tội con con chịu chàng thì xin tha”
    Ông bà ôm lấy Cúc Hoa:
    “Tơ duyên trời định con ta chắc rồi
    Buổi đầu ướm hỏi thử chơi( 605 )
    Xem chàng nho sĩ ra người thế nao”.

    ——————————————————-

    Ba ngày rộn rã vui sao
    Lễ mừng ăn hỏi kẻ vào người ra
    Cầu xin tiên tổ gần xa
    Độ trì hai kẻ thuận hòa trước sau( 610 )
    Cầu xin Bắc đẩu Nam tào
    Chứng cho đôi lứa bên nhau trọn đời
    Bà tri phủ lại ngỏ lời
    Muốn ông xem tuổi cho đôi vợ chồng
    Tướng công mới bảo Phạm Công:( 615 )
    “Tuôi gì có nhớ nói cùng cha hay”
    Phạm Công tính đốt ngón tay:
    “Tuổi con mười tám thực nay tuổi dần”
    Tướng công nét mặt trầm ngâm:
    “Con ta tuổi tuất có phần hợp đây( 620 )
    Tuất dần sum họp hôm mai
    Trăm năm chữ thọ sánh vai chữ tình”
    Nói vầy nhưng bụng đinh ninh:
    “Cứ xem hai tuổi thực tình khắc nhau
    Sống chung chẳng mấy dài lâu( 625 )
    Mẹ già cũng sắp về chầu tổ tiên
    Cơ trời nghĩ thật linh thiêng
    Ta đành giữ miệng cho yên cửa nhà”.

    06. Phạm Công An Táng Mẹ Và Di Táng Cha
    Quả nhiên chỉ mấy ngày qua
    Xem ra sức khỏe Dương bà sút mau( 630 )
    Phạm Công trí quẫn lòng đau
    Cưới xin tính chuyện hoãn vào dịp sau
    Lão bà nghe nói thều thào:
    “Vì con mẹ chẳng khi nào tiếc chi
    Các con hãy lấy nhau đi( 635 )
    Mẹ tám mươi tuổi lo gì thác oan
    May nay gặp chốn quyền môn
    Được dâu phú quý cho con nương nhờ
    Tình duyên chớ để hững hờ
    Hay chi cái cảnh đợi chờ phượng loan”( 640 )
    Cúc Hoa cũng thấy bàng hoàng:
    “Tâm thành thì được trời ban phúc mà
    Xin chàng gác chuyện nguyệt hoa
    Trăm năm kết tóc duyên ta vội gì”
    Phạm Công một dạ kiên trì( 645 )
    Mười hôm ròng rã không hề gió trăng
    Đêm ngày cầu khấn quỷ thần
    Nhưng không ngăn đuợc người thân lìa đời
    Phạm Công vật vã kêu trời:
    “Mẹ con chưa đựoc thảnh thơi ngày nào( 650 )
    Trời ơi trời ở trên cao
    Liệu trời có thấu nỗi đau bời bời
    Mẹ con đói khổ một đời
    Con nay mát mặt thì Người xa con”
    Cúc Hoa hiếu nghĩa sắt son( 655 )
    Tóc mây chấm đất cắt còn ngang vai.

    —————————————————–

    Sực nghe tin dữ đến nơi
    Ông bà tri phủ kịp thời tới ngay
    Xuất tiền sắm sửa lễ bày
    Minh tinh nỉ tía gỗ dày áo quan( 660 )
    Linh xa sơn đỏ thếp vàng
    Nhiễu điều phủ lấy hai hàng gấm bao
    Câu đối thêu lụa hồng đào
    Tám mươi cờ xí giương cao rõ ràng
    Xung quanh đèn đuốc sáng choang( 665 )
    Giữa thì sãi vãi hai hàng tụng kinh
    Phạm Công ra trước minh tinh
    Tướng công mới nói sự tình vân vi:
    “Đó đây cách trở nhiều bề
    Hãy rước linh cữu đưa về cố hương( 670 )
    Vui gì cái cảnh tha phương
    Xa nơi chòm xóm thân thương sum vầy”
    Đoàn người rong ruổi dặm dài
    Rước đưa linh cữu mười ngày tới nơi.

    ——————————————————-

    Chàng cho xem đất hẳn hoi( 675 )
    Mồ xây khoáng đạt gần nơi chùa làng
    Cúc Hoa mới hỏi chồng rằng:
    “Thi hài thân phụ xưa chàng chôn đâu
    Muốn cho con cháu dồi dào
    Hài cốt cha mẹ táng vào một nơi”( 680 )
    Phạm Công mừng rỡ đáp lời:
    “Thi hài dạo ấy anh vùi gốc cây
    Nàng đã bảo vậy thì nay
    Ta đem di táng về đây gần kề
    Có lục liễu có thanh hòe( 685 )
    Thêm phần cao ráo thêm bề phong quang
    Trong quan ngoài quách vững vàng
    Hoa văn đắp nổi trông càng thanh tao”.

    ———————————————————

    Phạm Công ruột xót như bào
    Không ngơi cầu khấn trời cao đất dày( 690 )
    Suốt trong ba tháng mười ngày
    Đèn nhang cúng lễ tỏ bày thành tâm
    Mong hồn cha mẹ cõi âm
    Đặng bề siêu thoát đặng phần thảnh thơi
    Chàng bèn chọn tháng chọn nơi( 695 )
    Dựng đàn tươm tất kịp thời làm chay
    Thỉnh kinh niệm phật đêm ngày
    Hoa thơm đàn tế nhang bay mộ phần
    Nỗi đau rồi cũng vợi dần
    Ba mươi sáu tháng tới tuần mãn tang.( 700 )

    ———————————————————-

    Nhà còn mỗi chiếc xuyến vàng
    Mẹ cho ngày cưới giữ giàng phòng xa
    Cúc Hoa đã phải mang ra
    Bán đi báo hiếu cho cha mẹ chồng
    Nàng bèn nói với Phạm Công:( 705 )
    “Thiếp xin giải tỏ thủy chung như vầy
    Việc nhà mặc thiếp ra tay
    Xin chàng cứ học cho hay muôn phần
    Khen chàng hiếu trọng tình thâm
    Ba năm tang chế toàn nằm giường không( 710 )
    Chịu chàng lòng dạ kiên trung
    Chỉ lo vô hậu ngại ngùng mai sau
    Vợ chồng tình nghĩa dài lâu
    Trăm năm gắn bó trước sau thuận hòa”.

    07. Phạm Công Từ Biệt Vợ Đi Thi
    Tình chồng nghĩa vợ mặn mà
    Chưa đầy ba tháng nàng đà mang thai
    Phạm Công tính chuyện đường dài
    Bèn cầm tay vợ một hai tỏ bày:
    “Lo cho phụ mẫu vơi đầy
    Bạc tiền hết sạch bấy chầy còn chi
    Khai hoa nở nhụy tới kỳ
    Lấy gì cho mẹ lấy gì cho con”
    Cúc Hoa nghe nói nỉ non:
    “Cầu trời cho đặng vuông tròn sẽ hay”
    Chợt nghe chiếu chỉ định ngày
    Khoa thi vua mở ở ngay kinh kỳ
    Sinh đồ nô nức ra đi
    Công danh vẫy gọi quản gì đường xa
    Phạm Công lo lúc khai hoa
    Vắng chàng mình vợ ở nhà ai nuôi
    Cúc Hoa thủ thỉ: “Chàng ơi
    Có đi mới có tin vui báo về
    Thai sinh trời đất định kỳ
    Ở nhà mặc thiếp cứ đi theo người”.

    —————————————————-

    Thấy nàng đã nói hết lời
    Phạm Công quyết chí sắp dời chân đi
    Nàng rằng: “Còn tấm lụa kia
    Âu là thiếp cắt xiêm y cho chàng”
    Phạm Công nghe nói càng thương
    Rằng: “Anh đã có áo trường mặc đây
    Lụa con em giữ mà may
    Anh thêm yên dạ những ngày quan san”
    Cúc Hoa nước mắt chứa chan:
    “Xin chàng ăn mặc cho sang bằng người
    Người ta gấm vóc cả đời
    Lượt là năm tháng đủ mùi ăn chơi
    Chàng thì áo xống tả tơi
    Không bằng chúng bạn hổ ngươi lắm mà
    Có chiếc áo cưới lụa sa
    Lâu nay thiếp giữ mượt mà trong rương
    Âu là ta khấn âm dương
    Về ai nấy mặc chứ đừng duỗi ra”.
    Tiền gieo ba lượt cả ba
    Đất trời không nói áo là về ai
    Cúc Hoa bèn cắt làm hai
    Phạm Công lấy nửa cho hài đôi bên:
    “Anh còn có sáu đồng tiền
    Ra đi để lại cho em ba đồng”
    Bùi ngùi nước mắt ròng ròng
    Giờ lâu mới bước thẳng giong lên đường.

    ————————————————————

    Sinh đồ nom thấy khinh thường
    Đem lòng rẻ rúng xem phường trẻ trâu:
    “Thằng này mày định đi đâu
    Liệu mày có muốn gánh hầu đây thuê”.
    Chàng rằng: “Chớ có nói mê
    Mỗ đây thư thái tội gì hầu bay”
    Sinh đồ vào quán đông tây
    Ăn ngon ngủ ấm dặm dài lai kinh
    Phạm Công tối đến nằm đình
    Sinh đồ ca cẩm: “Chúng mình nhục lây”
    Phạm Công bèn đáp lại ngay:
    “Bọn bay đâu được ở tày mỗ đây
    Rồng vờn lân múa hạc bay
    Có hồ xanh nước có cây chọc trời
    Trần ai ai biết anh tài
    Thì đem cảnh sắc mà mời tướng khanh”.

    ————————————————————

    Phạm Công đang giữa lộ trình
    Bấm tay nhớ đến ngày lành giỗ cha
    Khi đi dặn vợ ở nhà:
    “Lưng cơm dĩa muối em hòa kính dâng”
    Một mình đất khách bâng khuâng
    Công ơn dưỡng dục lòng hằng khôn quên
    Tương rau cơm thính mọn hèn
    Giữa đường lặng lẽ cơm đèn cúng cha
    Tâm thành động đến cõi xa
    Việc chi cứ phải khấn ra thành lời.

    08. Phạm Công Hai Lần Đỗ Trạng Nguyên,
    Cả Hai Lần Đều Bị Kết Tội Vì Không Chịu Lấy Công Chúa
    Phạm Công Được Trời Phật Cứu
    1 –

    Phạm Công đi tiếp một hơi
    Hai mươi ngày lẻ tới nơi kinh kỳ
    Bảy nghìn sĩ tử vào thi
    Rớt dần gần hết liệu bề hồi hương( 790 )
    Phạm Công văn tứ khác thường
    Đứng đầu đỗ trạng phố phường nức tên
    Ngụy vương truyền gọi vào liền
    Sắc ban áo mũ trạng nguyên sáng ngời
    Cuối cùng vua mới ngỏ lời:( 795 )
    “Trẫm thiếu thái tử nối ngôi trị vì
    Trời cho được một nữ nhi
    Mày ngài mắt phượng dung nghi ai tày
    Mới mười ba tuổi năm nay
    Trẫm gả cho trạng sum vầy thất gia”( 800 )
    Nói rồi dẫn trạng đi ra
    Sang vườn thượng uyển trăm hoa ngạt ngào
    Muôn hồng ngàn tía lao xao
    Cành xanh gió động vẫy chào trạng nguyên
    Công chúa vâng lệnh vua truyền( 805 )
    Phấn son trang điểm bước lên thềm ngà
    Cung thiềm hé bóng Hằng Nga
    Bá quan nhìn thấy mặt hoa rỡ ràng
    Công chúa đứng trước đền vàng
    Tay bưng chén ngọc mời chàng trạng nguyên( 810 )
    Nàng rằng: “Trời định nhân duyên
    Đôi ta kết hợp phỉ nguyền thừa long”
    Tay vua đỡ lấy chén hồng
    Trao cho quan trọng tỏ lòng ái nhi
    Phạm Công cầm lấy tức thì( 815 )
    Tưởng đâu chàng sẽ cạn ly vui mừng
    Ai dè chàng hắt sau lưng
    Công chúa nom thấy mặt bừng tía tai
    Sắc kia há thẹn với tài
    Hai hàng văn võ ai ai lắc đầu( 820 )
    Công chúa ren rén vào chầu
    Sự tình tâu hết trước sau không hòa
    Lệnh truyền tân trạng vào tòa
    Hỏi: “Sao khinh rẻ con ta dường này
    Cớ gì rượu đã vào tay( 825 )
    Đỡ lấy rồi lại tính bài hắt đi
    Hay là không xứng hiền thê
    Con ta chẳng đáng trạng thì nói qua”
    Phạm Công quỳ tấu thực thà:
    “Vợ thần thai nghén ở nhà sắp sinh( 830 )
    Chưa tường no đói dữ lành
    Vui gì mà lại thị thành ăn chơi”
    Công chúa nằng nặc một lời
    Tâu xin giam trạng tức thời không tha
    Triều đình thương hại tâu qua( 835 )
    Xin vua tha giết bắt ra đi đày
    Phạm Công thảng thốt đắng cay
    Ước gì bay được về ngay quê nhà:
    “Thấu chăng em hỡi Cúc Hoa
    Thân anh tù tội nơi xa lạc loài( 840 )
    Tưởng đi múa bút khoe tài
    Vợ chồng qua được những ngày cháo rau
    Nghĩ đời tốt đẹp ngờ đâu
    Phải cơn ác mộng khi nào thoát đây
    Em còn trẻ dại thơ ngây( 845 )
    Lại đang thai nghén đợi ngày khai hoa
    Đau lòng chưa hỡi Cúc Hoa
    Phạm Công xưa đó nay là phạm nhân
    Lòng anh thương xót muôn phần
    Mà chỉ biết khấn trời gần trời xa( 850 )
    Cầu xin hồn phách mẹ cha
    Độ trì em bước được qua nhịp cầu”
    Thoắt thôi vua phán bãi chầu
    Phạm Công từ giã công hầu dời chân
    Đi kèm có đám quân quan( 855 )
    Giải người tù tội bước lần nẻo xa.

    2 –

    Dặm nghìn tới xứ Ô qua
    Phạm Công giờ đã rời xa kinh kỳ
    Hung Nô đang mở khoa thi
    Kén tài phò mã tính bề truyền ngôi( 860 )
    Bảng treo khắp hết mọi n o ưi
    Bốn phương sĩ tử ngươi người về thi:
    “Ai mà đỗ trạng đan trì
    Ngôi vàng trẫm sẽ nhường vì ngay cho”
    Bốn nghìn năm chục sinh đồ( 865 )
    Ngổn ngang lều chỏng thành đô đông ngòm.
    Ngứa tay không chịu đứng dòm
    Vì cơ hàn vẫn còn ôm mộng vàng
    Đang tù tội muốn vẻ vang
    Hay vì gì nữa hỡi chàng Phạm Công( 870 )
    Chỉ thấy chàng lại ung dung
    Phun châu nhả ngọc tranh hùng một phen
    Và chàng lại đỗ trạng nguyên
    Đỗ xong mới kịp nghĩ nên giấu tài
    Biết mình vồ ngắn buông dài( 875 )
    Bíêt mình đã chuốc lấy tai họa rồi
    Hung Nô hoan hỉ truyền mời
    Rước quan trạng tới tươi cười ban khen
    Bá quan ca ngợi trạng nguyên
    Rồng bay bút pháp, vô biên văn tài( 880 )
    Phạm Công rạng rỡ cân đai
    Thoắt quên tai họa tháng ngày trải qua
    Đang vui vua phán lời ra:
    “Trẫm có công chúa tài hoa khác vời
    Dung nhan cá lặn nhạn rơi( 885 )
    Trẫm gả cho trạng trọn đời bên nhau”
    Phạm Công sụp lạy: “Muôn tâu
    Chuyện nhà thần đã trước sau vẹn tròn
    Một vợ cùng với hai con”
    Công chúa bước hỏi dồn thấp cao:( 890 )
    “Vợ chàng bé lớn con đâu
    Chàng bao nhiêu tuổi buổi đầu tam khôi
    Hỏi chàng có muốn sánh đôi
    Hay là chẳng muốn ngỏ lời cho minh”
    “Cúi xin lượng cả thấu tình( 895 )
    Tao khang đã có thần đành xin thôi”
    Hung Nô cơn giận bời bời
    Truyền giam quan trạng vì lời nói ngoa
    Gông cùm treo kẹp chẳng tha
    Xem còn chờ được vợ nhà nữa không( 900 )
    Hung Nô tức tối gạn gùng:
    “Nào ngươi có chịu làm chồng con ta?”
    Trạng rằng: “Tâu lạy quốc gia
    Công chúa xếp hạng tiên nga đền rồng
    Ngôi cao tột bậc triều trung( 905 )
    Dân hèn không xứng được cùng sánh đôi
    Hỡi ôi công chúa hỡi ôi
    Ai làm nên nỗi hại tôi thế này”
    Hung Nô tím cả mặt mày
    Mắng rằng: “Ta chịu thằng này khó xong”( 910 )
    Lôi đình một trận cuồng phong
    Truyền quân trị tội Phạm Công chớ chầy
    Quân vâng hiệu lệnh chặt tay
    Khoét hai con mắt rứt mày xẻo tai
    Đục cả hai hàm răng nhai( 915 )
    Phạm Công đau đớn rên hoài không nguôi.

    3 –

    Chàng bèn nhẩm sớ thành lời
    Tay cụt chắp lại vái trời gần xa
    Du thần hôm ấy đi qua
    Thấy tình cảnh ấy biết là có oan( 920 )
    Liền về tâu đấng Ngọc hoàng
    Kíp truyền chư vị sửa sang vào tòa
    Trước đòi đức Phật Di Đà
    Sau đòi đến cả Phật bà Đức ông
    Các vị đều tới hội đồng( 925 )
    Đòi cả La hán lo công chuyện này
    Người cưỡi hạc kẻ rẽ mây
    Thảy đều có mặt ở ngay bệ rồng
    Pháp quan đọc sớ Phạm Công
    Đặng cho chư vị hội đồng xác minh( 930 )
    Ngọc hoàng nghe sớ giật mình
    Gớm thay tội ác sinh linh cõi trần
    Liền sai hỏa tốc chư quân
    Lệnh cho tra xét xử phân việc này
    Phật bà nghìn mắt nghìn tay( 935 )
    Phật tổ cũng phải tính bài ra đi
    Quan Âm bay đến tức thì
    Ngọc hoàng chủ tọa đan trì hỏi tra
    Ba onhiêu sự ác khui ra
    Tội hình chồng chất chẳng tha được nào( 940 )
    Lệnh truyền binh mã thiên tào
    Ầm ầm kéo xuống tiến vào thành đô
    Thế quân như nước vỡ bờ
    Vua Hung Nô sợ cơ đồ tan hoàng
    Chỉnh tề áo mũ vội vàng( 945 )
    Cúi đầu nghe lệnh pháp quan thiên đình:
    “Trị dân lý phải trên tình
    Phép đâu có phép khổ hình chặt tay”
    Bá quan khi ấy giãi bày:
    “Lệnh vua ban xuống đó đây thi hành( 950 )
    Vua xuống trạng lấy con mình
    Trạng lại chẳng chịu thực tình khó khoan”
    Pháp quan mới hỏi rõ ràng:
    “Hàm răng có đục hay chàng cáo oan”
    Hung Nô sợ quá nói tràn:( 955 )
    “Vì hiềm việc khác cáo gian việc này”
    Pháp quan mới bảo rằng: “Nay
    Đòi Thổ công đến bắt khai cho cùng
    Pháp quan cứ phép chẳng dung
    Thổ công cầm bút viết cung đàng hoàng( 960 )
    Ngày giờ ghi chép rõ ràng
    Nhục hình tàn hại thân chàng Phạm Công
    Ép lấy công chúa không xong
    Chỉ vì bẽ mặt mà mong hại người
    Lúc này chứng cớ đủ rồi( 965 )
    Pháp quan dõng dạc mấy lời sau đây:
    “Việc vua làm thật quá tay
    Kiếm vàng ấn ngọc nộp ngay đem về”
    Hung Nô nghe nói mẩn mê
    Mặt rồng thất sắc nằn nì thấp cao( 970 )
    Pháp quan về lại thiên tào
    Khấu đầu dâng ấn nộp trao sân rồng
    Ngọc hoàng dạy: “Đem vào trong!
    Tay răng tai mắt Phạm Công thế nào”
    Hỏi rồi bèn phán trước lầu:( 975 )
    “Lấy bình tiên được mau mau băng miền
    Chữa cho thân thể trạng nguyên
    Để chàng trọn vẹn bình yên lại nhà
    Chân tay mình mẩy thịt da
    Mặt mày tai mắt lại là như xưa”( 980 )
    Phạm Công thoát nạn sững sờ
    Ơn nhờ trời phật ơn nhờ mẹ cha
    Dặm xa rảo bước về nhà
    Bồn chồn không biết Cúc Hoa thế nào
    Nghìn trùng cách trở xiết bao( 985 )
    Thương nhau sông rộng núi cao quản gì
    Miễn là gặp đặng thê nhi
    Thở than ôm ấp vỗ về hàn huyên.

    09. Phạm Công Đỗ Trạng Nguyên Lần Thứ Ba
    Gia Đình Đoàn Tụ
    Cúc Hoa Mất
    Phạm Công suy nghĩ triền miền
    Bước dồn hai tháng tới miền Đăng Châu( 990 )
    Lòng chàng xiết nỗi thảm sầu
    Thủy chung mắc tội tài cao cơ hàn
    Nghĩ trời cũng thật đa đoan
    Vẽ toàn danh lợi cho toàn éo le
    Niềm riêng chẳng dám giãi giề( 995 )
    Gặp khoa thì lại tính bề tiến thân
    Sinh đồ cười nói râm ran
    Kinh kỳ cờ quạt hân hoan mời chào
    Phạm Công nghĩ: “Mất gì đâu
    Qua đây nhân tiện ta vào thi chơi( 1000 )
    Làm trai sinh ở trên đời
    Áo xiêm cũng phải quyện lời núi sông”
    Sinh đồ kéo đến rất đông
    Tràng môn ghé mắt, Phạm Công ngó vào
    Quân quan mới hỏi: “Người nào”( 1005 )
    Rằng: “Người ngoại quốc cũng vào thi đây”
    Bút thần rồng múa phượng bay
    Nhanh tay dệt gấm miệt mài thêu hoa
    Sĩ lâm ai dám sánh qua
    Bá quan khanh tướng cho là tài cao( 1010 )
    Phạm Công được xếp đỗ đầu
    Trạng nguyện ngôi ấy công hầu cầm tay
    Vua truyền rước trạng vào ngay
    Phán đem mũ mãng cân đai cho chàng
    Bệ rồng bèn phán rõ ràng:( 1015 )
    “Trẫm có công chúa vẻ vang mọi điều
    Da ngà mắt phượng mỹ miều
    Nhân duyên chưa định sớm chiều nơi nao
    Nay trẫm thấy trạng anh hào
    Nên lòng trẫm muốn kết giao đời đời( 1020 )
    Ví dù y được như lời
    Trẫm sẽ cho trạng nối ngôi cửu trùng”
    Phạm Công nước mắt ròng ròng:
    “Phu thê thần vẫn thủy chung một lời”
    Trịnh vương cơn giận sục sôi( 1025 )
    Chỉ truyền khanh tứong các nơi về châu:
    “Chiểu theo phép nước trước sau
    Bắt trạng nguyên bỏ vạc dầu không tha”
    Được tin công chúa bước ra
    Khấu đầu tâu với vua cha cửu trùng:( 1030 )
    “Con nay hổ phận má hồng
    Trạng nguyên đã có đèo bòng trước kia
    Mong cho thi đỗ mà về
    Võng điều đón rước vinh quy lại nhà
    Con là công chúa kiêu sa( 1035 )
    Thiếu gì đăng đối mà ta ép người
    Xin cha lượng cả khoan thai
    Tha cho quan trạng về nơi gia đình”
    Trịnh vương lời lẽ phân minh
    Phán rằng: “Công chúa tiễn hành chàng xa( 1040 )
    Trẫm phong chức trọng khôi khoa
    Ngay sau ta mất thay ta trị vì
    Phong làm phò mã đan trì
    Cho quyền tiết chế tước thì quận công
    Muốn bao thủy bộ mặc lòng( 1045 )
    Bóng cờ rợp đất tiếng cồng vang non”
    Trạng nguyên bái biệt triều môn
    Thong dong người ngựa bước dồn nẻo quê.

    —————————————————————

    Thấy chồng sao mãi chẳng về
    Cúc Hoa trong dạ có bề hồ nghi:( 1050 )
    “Kinh thành người đẹp thiếu chi
    Hay là chàng đã quên đi những ngày
    Con thì non nớt trong thai
    Chồng thì xa vắng cậy ai bây giờ
    Chờ khi sinh nở sớm trưa( 1055 )
    Tránh sao cho khỏi gió mưa thất thường”
    Còn đang than thở nhớ thương
    Phạm Công đâu đã viễn phương trở về
    Cúc Hoa chuyển dạ canh khuya
    Bụng đau quằn quại tức thì khai hoa( 1060 )
    Phạm Công chân bước vào nhà
    Hai tay ôm lấy Cúc Hoa khóc ròng:
    “Em ôi có thấu tình không
    Xa nhau ngần ấy mà lòng đắng cay
    Bây giờ anh đã về đây( 1065 )
    Mong sao bù lại những ngày khổ đau”
    Lân bàng kẻ trước người sau
    Đem cho thịt cá dọn lau cửa nhà
    Tình làng nghĩa xóm chan hòa
    Lại mừng quan trạng phương xa mới về( 1070 )
    Gia đình nay đặng đề huề
    Sinh con xinh đẹp tràn trề lộc quan
    Cúc Hoa mê mẩn tâm thần
    Thuốc thang ba bữa tỉnh dần nói ra:
    “Chàng ôi có thấu chăng là( 1075 )
    Bấy lâu vò võ quê nhà nhớ thương
    Lo chàng lại bén tơ vương
    Có the quên lụa, có vàng quên thau”
    Phạm Công lòng những quặn đau
    Nguồn cơn kể lể rầu rầu vân vi:( 1080 )
    “Sân rồng anh đến tâu quỳ
    Vua thấy đỗ trạng tức thì gả con
    Biết anh một dạ sắt son
    Vậy mà họ còn ra sức ép duyên
    Hung Nô thì nổi cơn điên( 1085 )
    Xẻo tai khoét mắt chặt liền hai tay
    Thấu tình lời sớ tâu bày
    Trời ban cho một bình đầy thuốc tiên
    Thân anh lại được hoàn nguyên
    Nhờ trời lại được băng miền về đây( 1090 )
    Thủy chung lòng vẫn một hai
    Lại thương em phải mang thai nặng nề
    Lòng nào tưởng sự nguyệt huê
    Mà em lo lắng nọ kia thêm phiền”
    Cúc Hoa quỳ xuống thưa liền:( 1095 )
    “Một đời gặp đấng chồng hiền yên thân
    Chàng mà ăn ở có nhân
    Trên đầu nhật nguyệt quỷ thần chứng tri”
    Nói thôi ngồi tựa màn the
    Thấy con tướng mạo có bề thanh cao( 1100 )
    Vợ chồng nhìn ngắm vui sao
    Đặt tên Tiến Lực mai sau dõi dòng
    Mớm nuôi lòng những mừng lòng
    Coi hơn ngọc quý vàng ròng trời trao.

    ——————————————————

    Lầu son gác tía ra vào( 1105 )
    Lọng tàn rực rỡ quân hầu râm ran
    Vinh hoa bõ lúc gian truân
    Chữ tình thêm đậm thêm xuân từng ngày
    Ba năm mai trúc vui vầy
    Cúc Hoa đã lại đến ngày có thai( 1110 )
    Trời cho đủ tháng đủ ngày
    Sinh được nữ tử gọi rày Nghi Xuân
    Nét hoa tươi tắn vô ngần
    Nửa phần giống ngoại nửa phần giống cha
    Nghi Xuân vừa mới lên ba( 1115 )
    Còn như Tiến Lực tuổi đà lên năm
    Cúc Hoa trong dạ mừng thầm
    Vợ chồng đã được bảy năm sum vầy
    Cục đời vinh hiển là đây
    Dù che ngựa cưỡi tớ thầy phởn phơ( 1120 )
    Một đêm trời đẹp tháng tư
    Hiên lầu chồng vợ nằm chờ trăng lên
    Hai con yên ngủ kề bên
    Thiu thiu nàng thấy ứng liền chiêm bao
    Tự nhiên có tấm lụa đào( 1125 )
    Bay ngang qua mặt giạt vào tận tay
    Sáng choang như thể ban ngày
    Nửa đêm giờ tý đúng ngay đêm rằm
    Cúc Hoa trở dậy toan cầm
    Hai tay với lấy bay ầm lên mây( 1130 )
    Cúc Hoa mất vía buông tay
    Tỉnh ra than khóc giải bày khúc nhôi:
    “Hỡi chàng phò mã thư ngồi
    Xin chàng giải hộ thiếp tôi mộng này”
    Phạm Công thảng thốt nói ngay:( 1135 )
    “Lụa là tinh lạc nguy thay điềm rồi
    Số em sắp phải về trời
    Vợ chồng sẽ phải cách vời âm dương”
    Nghĩ cơn gia biến khôn lường
    Nhìn con nàng thấy xót thương muôn vàn( 1140 )
    Phạm Công trong dạ bàng hoàng
    Truyền quân mười đứa sắp hàng hai bên
    Chung quanh gươm mác cắm liền
    Đêm ngày nghiêm ngặt giữ gìn Cúc Hoa
    Than rằng: “Tình nghĩa đôi ta( 1145 )
    Trời xanh tác hợp trăng già xe duyên
    Anh hùng sánh với thuyền quyên
    Vinh hoa phú quý bách niên duyên hài
    Ai ngờ lưới bỗng xa chài
    Ai ngờ trúc héo cho mai hao mòn( 1150 )
    Bỡn đùa ông tạo trẻ con
    Biển khơi bỗng hóa ra cồn dâu xanh
    Loan xa phận ấy đã đành
    Tuyền đài ai rửa khối tình cho tan”
    Cúc Hoa châu lệ chứa chan( 1155 )
    Mở rương lấy lụa ra bàn toan khâu
    Hai bóng đen bỗng bước vào
    Giục nàng phải kíp đi mau không chầy
    Phép quan chẳng có riêng tây
    Dẫu cho gia sự làm vầy cũng khoan( 1160 )
    Đầy nhà chớp giật sấm ran
    Cúc Hoa kinh sợ phân trần vân vi:
    “Chẳng may gặp phải cơn nguy
    Xin người thư thả cho thì đội ơn
    Đang khi gang tấc sống còn( 1165 )
    Thương chồng vạn bội xót con muôn phần
    Ai hay thiên địa xoay vần
    Đang bình yên bỗng ầm ầm phong ba
    Khéo trêu ngươi hỡi trăng già
    Tơ duyên đức đoạn ai mà nối cho( 1170 )
    Thương con mất mẹ bơ vơ
    Thương chồng đơn chiếc ai lo đỡ đần”
    Nói thôi lệ thấm đầy khăn
    Phạm Công rên rỉ khôn ngăn giọt hồng
    Hai người đứng đợi sốt lòng( 1175 )
    Giục rằng: “Việc định phép không được chầy”
    Cúc Hoa phách lạc hồn bay
    Van rằng: “Xin hãy chờ giây phúc nào”
    Hai người tức giận càu nhàu
    Thúc nàng kíp liệu cho mau về chầu( 1180 )
    Câu liêm gươm mộc kề đầu
    Nàng còn ngồi gắng tay hầu bồng con
    Phạm Công khóc lặng từng cơn
    Xót con côi cút, cô đơn phận mình.

    10. Phạm Công Mang Thi Hài Vợ, Cõng Con Ra Trận
    Cả Nước Để Tang Cúc Hoa
    Bởi đâu ra sự bất bình( 1185 )
    Bất ngờ có giặc bắc kinh lăng loàn
    Đem quân vào đến Ngọc Quan
    Trịnh vương lo sợ đã toan lánh mình
    Họp bàn văn võ triều đình
    Cử binh dẹp tới Ngụy thành mới xong( 1190 )
    Bá quan tâu với cửu trùng:
    “Chúng thần ai dám địch cùng Sầm Hưng
    Quan trạng là bậc tôi trung
    Song toàn văn võ lẫy lừng xưa nay
    Sẽ vì xã tắc ra tay”( 1195 )
    Vua sai sứ giả về ngay phủ Quỳnh
    Đòi trạng nguyên đến đế kinh
    Sắc phong nguyên soái liễu chinh giặc ngoài
    Sứ giả vâng lệnh kíp đòi
    Sự tình nói hết đầu đuôi tỏ tường( 1200 )
    Phạm Công lòng nặng đau thương
    Vợ đi con dại chiến trường làm sao:
    “Ngươi về tâu với trong trào
    Xin sai các tướng lược thao gồm tài”
    Sứ giả bèn trở về ngay( 1205 )
    Khấu đầu tâu lại sự này vân vi:
    “Vợ trạng vừa mới mất đi
    Vậy nên trạng bảo sứ về tâu vua
    Chiến chinh chẳng sợ được thua
    Chỉ vì vợ mất con thơ buồn rầu”( 1210 )
    Vua rằng: “Những kẻ công hầu
    Chữ trung phải giữ làm đầu mới nên
    Thế giặc như nước triều lên
    Thế nào cũng phải trạng nguyên mới rồi”
    Các quan tâu rộng một lời:( 1215 )
    “Trạng nguyên là bậc tài trời dị nhân
    Giặc nay đã kéo đến gần
    Họa trong gang tấc, ba quân trông vào”
    Sứ giả truyền tiếp lệnh sau
    Phạm Công nghe nói ruột đau như chà( 1220 )
    Hai tay ôm xác Cúc Hoa
    Hai con khóc lóc theo cha không rời
    Sẻ đàn tan nghé thương ôi
    Anh lên năm tuổi, em thời lên ba
    Phạm Công thương xót Cúc Hoa( 1225 )
    Đem thi hài đến chương tòa đế kinh
    Trịnh vương đang ngự long đình
    Nhác thấy rùng mình ớn lạnh thấu xương
    Than rằng: “Quái gở lạ thường
    Thây ai đem đến triều đường thế sao( 1230 )
    Đang khi giặc mới tiến vào
    Trạng đem ma đến xui nào xui hơn”
    Phạm Công tâu rõ nguồn cơn:
    “Người có đoái đến lòng thần hay chăng
    Bởi vì thần sợ vô bằng( 1235 )
    Không cho vợ đến ngờ rằng nói sai
    Rồi Người lại bảo vô loài
    Ngại đi đánh giặc dối bài vợ đau”
    Trịnh vương phán giọng rầu rầu:
    “Người như quốc trạng kể đầu trung lương( 1240 )
    Bây giờ trạng cứ lên đường
    Ở nhà trẫm dựng đàn tràng làm chay”
    Phạm Công ruột héo bầy chầy
    Vội vàng quỳ xuống lòng đầy hàm ân:
    “Bệ rồng đã cậy đến thần( 1245 )
    Thì dù có phải liều thân quản gì”
    Trịnh vương nhẹ giọng vỗ về:
    “Trẫm khuyên trạng gắng mà đi phen này
    Vợ trạng lánh gót cung mây
    Nay cho phép giữ thi hài kề bên( 1250 )
    Chồng đâu vợ đó cho liền
    Trước sau trọn vẹn lời nguyền cùng nhau
    Nắm xương giữ để về sau
    Kẻo e lưu lạc dãi dầu cỏ hoa”.

    ——————————————–

    Phạm Công vâng lệnh bước ra( 1255 )
    Vai mang thi thể Cúc Hoa lên đường
    Đem quân năm vạn rõ ràng
    Cờ mao trống trận ầm vang cõi ngoài
    Hai con thì cõng hai vai
    Ngựa hồng giáp trụ ra ngay trận tiền( 1260 )
    Quân Ngụy đóng chặt như nêm
    Có hai danh tướng càng thêm nức lòng
    Sầm Hưng Quách Quốc đột xông
    Lớn tiếng quát hỏi Phạm Công tên gì:
    “Xưng danh cho biết ngay đi( 1265 )
    Hễ còn giấu ẩn thân mi tan tành”
    Trạng rằng: “Mỗ ở Trịnh thành
    Cũng chưa bày hết tinh danh cửa nhà
    Chẳng may vợ mỗ mới qua
    Triều đình cử mỗ phải ra trận này( 1270 )
    Vai mang thi thể vợ đây
    Hai con bé dại thơ ngây biết gì
    Vâng theo hoàng chiếu ra đi
    Quốc gia lâm nạn quản chi gia đình
    Can qua mỗ quyết liều mình( 1275 )
    Mong sao trọn vẹn nghĩa tình hiếu trung”
    Mắt trông ai chẳng đau lòng
    Vai mang xác vợ tay bồng con thơ
    Tướng Ngụy nước mắt như mưa
    Nghĩa chàng tiết nghĩa có thừa không sai( 1280 )
    Cả hai quăng giáo thở dài
    Ai ganh chi kẻ ôm hài cõng con
    Sầm Hưng thấu hiểu nguồn cơn
    Lại gần tính chuyện vuông tròn thủy chung:
    “Tôi xin giúp trạng nên công( 1285 )
    Chém cho thủ cấp đưa ông giảng huề
    Giống tôi đầu khác đem về
    Lỗi thì tôi chịu danh thì phần ông
    Người đâu tiết nghĩa lạ lùng
    Trận tiền tử địa con bồng xót xa”( 1290 )
    Sầm Hưng Quách Quốc lệnh ra
    Truyền quân nước Ngụy mã xa quay về.

    ———————————————————-

    Ngụy vương mới hỏi sự kỳ:
    “Làm sao trận mạc trở về quá mau
    Hay là thua bọn Trịnh châu( 1295 )
    Để cho đến nỗi quân đầu tướng tan”
    Chư tướng quỳ tấu rõ ràng:
    “Chúng thần mạn phép thiên nhan nghị hòa
    Quân kia đánh chác thật thà
    Đại binh đóng chặt hằng hà hai bên( 1300 )
    Có một danh tướng trung hiền
    Ngôi cao chức trọng ở miền Trịnh châu
    Vốn là nguyên soái tại trào
    Văn chương tuyệt bút lược thao gồm tài
    Chẳng may vợ tướng lìa đời( 1305 )
    Vai mang xác vợ tay thời bồng con
    Thương người ăn ở có nhân
    Nên hòa tướng ấy đem quân trở về”
    Ngụy vương cũng thấy nể vì:
    “Trung trinh dạ ấy khó bề chuyển lay( 1310 )
    Được như tướng ấy nơi đây
    Có bao nhiêu vị các ngài kể ra”.

    ———————————————————-

    Phạm Công người ngựa dặm xa
    Ngày đêm mải miết băng qua về trào
    Bá quan văn võ vào chầu( 1315 )
    Thấy trạng về tới nộp đầu Sầm Hưng
    Vừa nhìn thấy mắt thấy răng
    Lắm người khiếp hãi ngã lăn ra nhà
    Trịnh vương hả dạ cười khà
    Nói lời phán định trước tòa thong dong:( 1320 )
    “Khen thay phò mã Phạm Công
    Sức thần bảo vệ núi sông thành trì”
    Bá quan ai cũng nể vì
    Trận tiền chém được tức thì Sầm Hưng
    Thở phào nhẹ nhõm lòng mừng( 1325 )
    Ngụy vương mất tướng hết đường xấu chơi
    Phạm Công tâu thực một lời:
    “Tài thần thô thiển nhờ trời giúp công
    Vậy nên chưa kịp giao phong
    Nó chém đầu khác lộn sòng sang cho”( 1330 )
    Bá quan nghe nói trầm trồ
    Trịnh vương xúc động gật gù ngợi khen
    Vua xem thế giặc đã yên
    Cho thi hài vợ trạng nguyên an phần
    Sắc truyền thủy bộ chư quân( 1335 )
    Thuyền ba mươi chiếc lần lần lướt qua
    Cả triều văn võ cùng ra
    Chỉnh tề tang phục đưa ma vợ chàng
    Uy nghi súng lớn hai hàng
    Lệnh nghiêm cả nước để tang tức thì( 1340 )
    Từ kẻ chợ đến thôn quê
    Thảy đều khăn áo ai bi tỏ bày
    Trạng nguyên công đức ai tày
    Quân quan đưa đón cờ bay rợp trời
    Phạm Công trong dạ bồi hồi( 1345 )
    Xót hai con chịu một đời mồ côi
    Vợ hiền mai táng xong xuôi
    Chàng bèn dời gót quay lui về nhà.

    11. Cúc Hoa Hiện Về Khuyên Phạm Công Lấy Tào Thị
    Bây giờ kể đoạn Cúc Hoa ( 1350 )
    Cùng hai người xuống đến tòa âm cung
    Vua cha nước mắt rưng rưng
    Ba mươi năm ấy ngàn trùng cách xa
    Mừng công chúa trở lại nhà
    Truyền cho cung nữ đàn ca tưng bừng ( 1355 )
    Khắp nơi thảm tía trướng hồng
    Hoa tươi hương đậm đèn lồng lung linh
    Cúc Hoa đầu cúi lặng thinh
    Lòng còn mang nặng nghĩa tình trần gian
    Thương con côi cút ngỡ ngàng
    Thương chồng sớm phải gian nan ưu phiền ( 1360 )
    Nửa đường đứt mối tơ duyên
    Nghĩa mai nợ trúc báo đền chưa xong
    Hồn tuy đã xuống âm cung
    hãy còn day dứt nhớ nhung cõi đời
    Nỗi nàng sầu thảm khôn vơi ( 1365 )
    Nỗi chàng lửa dập sóng vùi khôn an.

    —————————————————-

    Những mong siêu thoát phần nàng
    Phạm Công cho dựng đàn tràng làm chay
    Liền trong ba tháng mười ngày
    Tụng kinh niệm phật nhang bay ngút trời ( 1370 )
    Một đêm trăng sáng tỏ ngời
    Cúc Hoa hiện đến vào nơi cô phòng
    Đang khi đèn đuốc sáng choang
    Cha con ông trạng nằm trong trướng đào
    Lời nàng năn nỉ thấp cao: ( 1375 )
    “Chàng ơi con hỡi làm sao bây giờ
    Sao chàng vẫn cứ đợi chờ
    Tề gia nội trợ chàng nhờ vào ai
    Sao không kiếm bạn trúc mai
    Trước nuôi con nhỏ sau hài nhân duyên ( 1380 )
    Thiếp về kiếp ấy đã yên
    Âm dương đôi ngả hàn huyên khôn vầy
    Khuyên chàng cưới vợ liền tay
    Đừng ham phú quý chưa cay trăm đường
    Rồi ra nó chẳng kính nhường ( 1385 )
    Con chồng dì ghẻ thói thường lạ chi”
    Cúc hoa căn dặn chi li
    Gót sen thoắt đã quay về âm cung
    Phạm Công chợt tỉnh giấc nồng
    Ngủ mê mà vẫn mơ mòng hôm mai ( 1390 )
    Chập chờn cơn tỉnh cơn say
    Thân này đâu nhẽ có ngày gặp tiên
    Ngỡ là chưa hết trần duyên
    Nên nàng sống lại cho tuyền nghĩa xưa
    Đêm ngày thương nhớ nhẩn ngơ ( 1395 )
    Chàng bèn tính chuyện thẩn thơ tìm tòi
    Quẩn quanh khắp bốn phương trời
    Trần hoàn đâu lại có người cửu nguyên
    Vợ chồng tình nghĩa khó quên
    Đêm khuya nàng mới hiện lên khuyên chàng: ( 1400 )
    “Tơ duyên đã trót nhỡ nhàng
    Trăm năm ai dám phụ phàng với ai
    Chẳng qua số phận an bài
    Xin đừng nghĩ đến những ngày phân ly
    Sớm tìm nơi khác bù trì ( 1405 )
    Cửa nhà êm ấm em đi yên lòng
    Trước là con có người trông
    Sau duyên loan phượng lại hồng như xưa
    Lòng em mong mỏi sớm trưa
    Mấy lời thành thật xin thưa cùng chàng”. ( 1410 )
    Phạm Công mộng thấy rõ ràng
    Càng nghe nàng nói lòng càng thêm đau
    Sáng ra Tiến Lực rầu rầu
    Trình cha soi xét trước sau mấy lời:
    “Mẹ con về lại đêm rồi ( 1415 )
    Giục tìm mẹ khác chăm nuôi đỡ đần
    Mẹ con tuy đã lìa trần
    Lòng còn xót trẻ chịu phần đơn côi
    Xin cha nghĩ lại đôi hồi
    Tìm người thay mẹ trông coi cửa nhà” ( 1420 )
    Phạm Công bèn nói dàn hòa:
    “Các con thong thả cho cha đợi ngày”
    Hương hoa ngũ quả đem bày
    Khấn rằng: “Chẳng dám đơn sai nghĩa tình
    Cúc Hoa em hỡi có linh ( 1425 )
    Lời em dặn thể lòng anh não nùng
    Anh thề có ánh trăng trong
    Dốc lòng ở vậy cho xong một đời
    Nếu anh chẳng có nghe lời
    Hóa ra phụ bạc với người cửu nguyên ( 1430 )
    Muốn cho chung thủy vẹn tuyền
    Âm dương xin quẻ xem nên thế nào”
    Phạm Công gieo xuống ba hào
    Ba lần đều được dồi dào cả ba
    Đêm khuya nàng lại hiện ra ( 1435 )
    Bảo cho chàng biết kẻo mà còn nghi:
    “Có người dòng dõi lễ thi
    Tên là Tào Thị dung nghi dịu dàng
    Khen thay giá đáng ngàn vàng
    Gặp cơn gia biến nhỡ nhàng bao phen ( 1440 )
    Hái rau ngoài nội nghèo hèn
    Xin chàng ra đón kết duyên châu trần”
    Phạm Công suy tính xa gần
    Lời nàng đã vậy mộng thần dám sai
    Bấy giờ mới quyết một bài ( 1445 )
    Rước nàng Tào Thị cho ai vui lòng
    Tưởng đâu trạng có đèo bòng
    Ấm êm chăn gối thong dong mọi bề
    Đâu ngờ chểnh mảng sớm khuya
    Thu qua đông lại không hề trăng hoa. ( 1450 )

    12. Phạm Công Đi Trấn Cao Bằng, Để Hai Con Ở Lại Với Tào Thị
    Mẹ Ghẻ Đuổi Con Chồng Đi Ăn Mày
    Một hôm chín bệ truyền ra
    Cho đòi quan trạng về qua kinh thành
    Này đây sắc dụ rành rành:
    “Cao Bằng nhậm chức trấn thành biên khu
    Sao cho có cương có nhu ( 1455 )
    Bốn phương yên ổn ấm no thì về”
    Phạm Công tâu trước đan trì:
    “Thần đi đánh giặc mới về chưa bao
    Bây giờ lại phải xông vào
    Cao Bằng hiểm trở vùng cao xa vời” ( 1460 )
    Trịnh vương mới phán một lời:
    “Quốc gia lâm sự cậy người trung lương
    Nay sai ra trấn biên cương
    Dân yên rồi hãy hồi hương lo gì
    Mai sau trẫm có nhường vì ( 1465 )
    Bấy giờ trạng phải hết nghì trị dân”
    Phạm Công trong dạ tần ngần
    Khấu đầu từ tạ dời chân ra về
    Đôi hàng châu lụy não nề
    Gọi hai con đến vỗ về bảo ban: ( 1470 )
    “Vua sai cha trấn ải quan
    Mồ mẹ con khó chu toàn khi xa
    Nên hai con phải theo cha
    Ta đem hài cốt Cúc Hoa theo cùng
    Chồng đâu vợ đó mới xong ( 1475 )
    Vẹn tuyền chung thủy, thỏa lòng nhau xưa”
    Bấy giờ Tiến Lực ngây thơ
    Đứng ngay dưới án trình thưa mọi đàng:
    “Xin cha đừng nghĩ ngổn ngang
    Chôn đâu để đó vững vàng mới yên ( 1480 )
    E khi cất xuống đào lên
    Một phen bộc lộ một phen thảm sầu”
    Phạm Công nghe nói gật đầu
    Chứa chan giọt ngọc dàu dàu lòng son
    Tào Thị ngồi khóc nỉ non: ( 1485 )
    “Thiếp xin nuôi đỡ hai con cho chàng
    Dù khi thiếp có phụ phàng
    Trên đầu nhật nguyệt hai vầng xét soi”
    Chàng bèn nói lại một lời:
    “Con ta không thể để người khác trông ( 1490 )
    Dì ghẻ mà nuôi con chồng
    Ắt là có bữa kiến ong đọa đày”
    Tào Thị mới đáp như vầy:
    “Tôi xin hết nghĩa giãi bày cùng ông
    Con vợ cũng như con chồng ( 1495 )
    Tôi đâu lại ở ra lòng nước mây
    Mai kia trấn thủ về đây
    Con đà ăn học giỏi hay đủ mười”
    Phạm Công nghe nói mỉm cười:
    “Nếu không lập thệ ai người ta tin” ( 1500 )
    “Vái cùng Hậu thổ Hoàng thiên
    Từ nay ai kẻ ác hiền chứng tri
    Thiếp tôi nếu có điều gì
    Dưới thì Thập điện trên kia Ngọc hoàng”
    Nói thôi vái lạy tam quang ( 1505 )
    Cùng là tam giáo thành hoàng yêu ma
    Ôm con chàng chực khóc òa:
    “Hai con hãy ở lại nhà cha đi”
    Phạm Công dời gót ủ ê
    Lực Xuân khóc lóc nằn nì theo cha ( 1510 )
    Chàng bèn ra mộ Cúc Hoa
    Hai hàng lệ nhỏ thiết tha khấn rằng:
    “Vua sai anh nhậm Cao Bằng
    Núi non trùng điệp rừng giăng khắp miền
    Hồn em nếu có linh thiêng ( 1515 )
    Thì về coi sóc điền viên cửa nhà
    Tào Thị hoặc có sai ngoa
    Em vả vào miệng điêu toa cho chừa”
    Nói thôi ra lệnh phất cờ
    Ba quân phấn chấn reo hò ra đi ( 1520 )
    Đường dài lắm dốc nhiều khe
    Tay vin mỏm đá đầu kê lưng trời
    Đội mưa nắng đổ mồ hôi
    Sau hơn một tháng tới nơi thị thành
    Chuông voi nhạc ngựa tập tành ( 1525 )
    Nhịp nhàng trống trận rập rình quân canh
    Phạm Công buồn nhớ gia đình
    Gượng vui cũng phải ra hình uy nghiêm
    Dàn binh đóng trại đã yên
    Tứ dân cảm kích trạng nguyên hiền tài ( 1530 )
    Man di lần lượt hôm mai
    Thần phục quan trạng ân dày đức cao.

    ——————————————————–

    Xa nhà trạng có hay nào
    Hai con phó thác họ Tào trông coi
    Gặp bà dì ghẻ lạ đời ( 1535 )
    Ăn ở chẳng phải ra người thủy chung
    Chồng đi chưa được hai đông
    Tào Thị cư xử ra lòng ghét ghen
    Đọa đày con trẻ triền miên
    Trăm bề cay đắng ưu phiền thảm thương ( 1540 )
    Bắt đi kiếm củi trên rừng
    Bắt cả hai đứa bỏ trường chăn trâu
    Ngày ngày mưa nắng dãi dầu
    Nghi Xuân tức tối lầu bầu bao đêm:
    “Nếu dì còn ức hiếp thêm ( 1545 )
    Anh em mình cũng chẳng thèm ở đây”
    Lực rằng: “Nói vậy không hay
    Đừng tính chuyện bỏ nơi này mà đi
    Khuyên em em hãy nhớ ghi
    Phận con mình phải thờ dì thờ cha ( 1550 )
    Nếu không là lỗi ở ta
    Những điều anh nói thực thà phải nghe
    Bỏ nhà cực khổ trăm bề
    Nay đây mai đó ê chề xót xa”.

    ———————————————————

    Này đoạn Tào Thị ở nhà ( 1555 )
    Tưởng đâu con nít dễ mà biết chi
    Kể từ trạng bước chân đi
    Phòng không Tào Thị lắm khi la đà
    Trạng nguyên trấn thủ phương xa
    Ông không ăn chả nhưng bà ăn nem ( 1560 )
    Gặp chàng trai trẻ bắt quen
    Hai người đắm đuối ở liền bên nhau
    Phải khi Tiến Lực đi đâu
    Nghi Xuân ngó thấy trước sau hỏi dì:
    “Cha tôi chinh chiến chưa về ( 1565 )
    Thế ai nói chuyện rầm rì đêm qua”
    Tào Thị nhân đấy được đà:
    “Ai xui mày đặt chuyện ra lạ lùng
    Ba đây là gái có chồng
    Sao mày lại dám nói không cho bà ( 1570 )
    Đêm hôm khóa chặt cửa nhà
    Bà biết mặt dọc hay là mặt ngang
    Hổ mang lại giống hổ mang
    Đúng là con ruột của nàng Cúc Hoa”
    Nghi Xuân tức quá khóc òa: ( 1575 )
    “Dì đâu biết mặt Cúc Hoa thế nào
    Mẹ tôi vụng dại hay sao
    Mà dì nhiếc móc ra vào không ngơi
    Duyên may vả lại gặp thời
    Cho nên dì mới được ngồi cùng cha ( 1580 )
    Mẹ tôi thác đã ra ma
    Sao dì nỡ nhiếc Cúc Hoa hỡi dì
    Cho dù dì lớn hơn đi
    Lớn mình lớn mẩy hơn chi ai mà
    Tôi bé cũng thể con nhà ( 1585 )
    Dì thì lớn thật nhưng là thứ dân”
    Tiến Lực về đến đầu sân
    Góp lời: “Gì chớ ác tâm ác hành”
    Tào Thị hét: “Lũ trẻ ranh
    Chúng bay gán ghép tội tình cho tao ( 1590 )
    Nuôi ong tay áo mãi sao
    Khôn hồn liệu kiếm đường nào xéo đi”
    Nghi Xuân nổi giận tức thì:
    “Lấy gươm ta chém chết dì đi thôi”
    Tào Thị rên xiết: “Hỡi ôi ( 1595 )
    Trời có chứng giám cho tôi chăng là”
    Tiến Lực liền kéo em ra:
    “Những lời anh dặn em đà quên sao
    Ở ăn ngày tháng ra vào
    Phải lo gìn giữ cọp nào thương dê ( 1600 )
    Nên chi phải đợi cha về
    Bấy giờ hãy dở chuyện gì có cha
    Không nghe nên lỗi phép nhà
    Để họ có cớ đuổi ta ra đường”.
    Áo quần tơi tả thảm thương ( 1605 )
    Anh em len lỏi phố phường xin ăn
    Đêm về tìm chỗ trú chân
    Bình minh sực giấc ruột gan cồn cào
    Đang nắng gắt chợt mưa rào
    Ướt như chuột lụt đẫm vào lại khô ( 1610 )
    Quanh vùng ai cũng gọi cho
    Anh em nhờ vậy được no đôi phần
    Tào Thị tìm cách cấm ngăn:
    “Ai cho Tiến Lực Nghi Xuân ăn mày
    Dân thì ta chém đầu ngay ( 1615 )
    Quân không tuân lệnh từ rày cắt lương”
    Bà con bụng vẫn xót thương
    Nhưng ai cũng khiếp giáo gươm lệnh bà
    Không dám cho trẻ vào nhà
    Đàn ông răng nghiến, đàn bà rưng rưng ( 1620 )
    Nghi Xuân Tiến Lực cùng đường
    Xin đình xin chợ quanh vùng long đong.

    ——————————————————–

    Tào Thị hãm hại cho chồng
    Phép vua luật nước đều không sá gì
    Vênh vênh váo váo ai bì ( 1625 )
    Khi ra giáo dựng khi về gươm đeo
    Quân quan đồng báo vào triều
    Dân tình quanh đấy cũng đều chê bai:
    “Vợ ông phò mã ghê thay
    Cứ như vương tướng suốt ngày ngựa voi ( 1630 )
    Kiệu tàn võng lọng rong chơi
    Hai bên quân kéo rợp trời nghênh ngang”
    Lời tâu thấu đến ngai vàng
    Trịnh vương bèn phán rõ ràng như sau:
    “Vợ trạng đã mất từ lâu ( 1635 )
    Lấy đâu võng lọng lấy đâu lệnh bà”
    Quân quan rằng chuyện thực thà
    Trạng mới cưới vợ về nhà lần sau
    Phải người nham hiểm cơ cầu
    Hai con quan trạng dắt nhau ăn mày ( 1640 )
    Vua nghe bèn thét mắng ngay:
    “Can chi việc ấy chúng bay rầy rà
    Chuyện này đợi trạng về nhà
    Tùy nghi xử phán dàn hòa sẽ hay
    Bây chừ ta chẳng nghe bay ( 1645 )
    Mất lòng phò mã bấy này phù trì”
    Quan tâu chẳng đặng mà đi:
    “Thôi ta đành chịu một bề cho xong
    Việc đà tâu đến ngai rồng
    Đâu ẫn hoàn đó trong lòng ức ghê”. ( 1650 )

    13. Cúc Hoa Hiển Linh Gặp Con,
    Cháu Đến Xin Nhà Ông Bà Ngoại
    Anh em Tiến Lực ra đi
    Chẳng còn ở lại làm chi chốn này
    Dẫn em vượt chặng đường dài
    Mười ngày sau đã về ngay quê nhà
    Nhận ra mộ mẹ từ xa ( 1655 )
    Tiến Lực chạy tới khóc òa: “Mẹ ơi
    Sao mẹ sớm bỏ về trời
    Để chúng con phải thành người xin ăn”
    Đêm về lạnh lẽo tối tăm
    Anh em co quắp ổ nằm cỏ lau ( 1660 )
    Em chìm trong giấc ngủ sâu
    Anh thức một mạch sang đầu canh hai
    Cúc Hoa nước mắt chảy dài
    Âm dương đôi ngả tháng ngày vời xa
    Bấy giờ mới mở mộ ra ( 1665 )
    Nhìn hai con dại xót xa ngậm ngùi
    Lại gần nàng lặng yên ngồi
    Nửa đêm tới sáng không rời hai con:
    “Mẹ xa gần bốn năm tròn
    Nhà mình vẫn đó sao còn đi dâu” ( 1670 )
    Nghe tiếng mẹ ruột như bào
    Nghi Xuân Tiến Lực ôm nhau khóc òa:
    “Từ ngày mẹ bỏ đi xa
    Cha em dì ghẻ về nhà đến nay
    Tưởng là thay mẹ ai hay ( 1675 )
    Dì dắt bỏ học dì đày chăn trâu
    Cho nên chẳng được ở lâu”
    Cúc Hoa nghe nói lòng đau như dần
    Ôm con sờ nắn tay chân
    Thấy toàn xương xẩu than thân trách trời: ( 1680 )
    “Mẹ đi suốt mấy năm rồi
    Những mong con được mấy hồi cả khôn”
    Còn đang than thở nỉ non
    Xóm xa gà đã ồn ồn gáy lên
    “Hai con ở lại cho yên ( 1685 )
    Mẹ về âm phủ cõi tiên đấy mà”
    Nghi Xuân ôm mẹ xót xa:
    “Sao mẹ lại bỏ con mà đi đâu”
    Cúc Hoa nhìn trước ngó sau:
    “Hai người theo mẹ đã vào đến đây” ( 1690 )
    Hai người vội vã khoát tay:
    “Con thơ nói vậy đi ngay sao đành
    Vua cha chắc cũng thể tình
    Nàng cứ nán lại một mình thong dong”
    Cúc Hoa nước mắt ròng ròng ( 1695 )
    Nghe gà gáy giục mà lòng tái tê
    Lấy khăn phủ mặt xưa kia
    Viết thư để lại vân vi trách chồng
    Xem qua nàng thấy đau lòng
    Cột vào dải áo con phòng khi rơi: ( 1700 )
    “Thư đây mẹ đã buộc rồi
    Hai con ở lại mẹ thời phải đi”
    Bộ hành qua lại rầm rì
    Ôm con nàng vẫn chưa về âm cung
    Mọi người thấy sự lạ lùng: ( 1705 )
    “Đàn bà nào ở nơi cùng hoang đây”
    Cúc Hoa đáp lại như vầy:
    “Thương con thơ dại lòng này héo hon
    Ra đi chúng khóc nỉ non
    Ngồi lại bắt chấy cho con cả ngày” ( 1710 )
    Ghé tai nàng nói con hay:
    “Ở đây thổ lộ người đầy trước sau
    Hai con quay mặt trở vào
    Bên đầu còn chấy khuất nào thấy chi”
    Con nghe quay mặt tức thì ( 1715 )
    Cúc Hoa nàng đã biến đi đàng nào
    Thấy tay vắng ngắt trên đầu
    Ngó ra chẳng thấy mẹ đâu nữa mà
    Lực rằng: “Mẹ thực hồn ma
    Có đâu ở đặng cùng ta chốn này” ( 1720 )
    Anh em nước mắt tuôn đầy
    Chơ vơ bên mộ đắng cay muôn vàn.

    —————————————————-

    Đường xa hiểm trở bội phần
    Anh em đói lả lê chân ngày ngày
    “Kìa dinh quan lớn cao vầy ( 1725 )
    Âu là ta nghỉ chốn này xem qua”
    Quân canh thét mắng dầm dà:
    “Dinh quan tri phủ vốn là nơi đây
    Bởi đâu hành khất qua ngày
    Đi đâu thảm thiết lòng này ấu nhi” ( 1730 )
    Bước vào đến cửa liền quỳ:
    “Xin Người thí bỏ kể chi ít nhiều”
    Tướng công nét mặt đăm chiêu
    Đặt sách xuống án trông theo tức thì:
    “Con ai thơ dại thế kia ( 1735 )
    Mà cha mẹ bỏ cho đi ăn mày
    Các con vào cả trong đây
    Hai đứa quỳ mỏi thế này mãi thôi
    Mình trần ướt đẫm mồ hôi”
    Cảm thương tuổi nhỏ không người trông nom ( 1740 )
    Nhìn hai đứa trẻ gầy còm
    Tự nhiên thấy chúng như con cháu nhà
    Tướng công nghĩ ngợi gần xa
    Con ai mà giống Cúc Hoa làm vầy
    Nó giống bàn chân bàn tay ( 1745 )
    Giống cả mũi miệng lông mày hằm răng
    Điệu đi dáng đứng đàng hoàng
    Sao mà nó giống y chàng Phạm Công
    Lại gần rộn rực trong lòng:
    “Con ai cốt cách khi không ăn mày” ( 1750 )
    Phu nhân nén tiếng thở dài
    Lắc đầu xẳng giọng nói ngay một hồi:
    “Rể ta đô đốc cao ngôi
    Có đâu con nó cuộc đời lang thang
    Tướng công suy ngẫm lằng nhằng ( 1755 )
    Trông gà hóa cuốc, nhìn thằng thành ong
    Cho trẻ bát gạo là xong
    Gọi là có chút tỏ lòng xót xa”
    Con hầu lấy gạo đem ra:
    “Này đây đấu gạo quan bà cho bay” ( 1760 )
    Tiến Lực lễ phép giãi bày:
    “Chúng con bé dại thơ ngây vụng về
    Chẳng phải là chúng con chê
    Nhưng không biết nấu cách gì mà ăn
    Nếu nhà còn có dư phần ( 1765 )
    Cho cơm nhiều ít dịu cơn đói này”
    Bát cơm nóng hổi trong tay
    Anh bèn quay mặt đưa ngay em cầm
    Em cầm thôi lại tần ngần:
    “Em còn chịu được anh ăn cho rồi” ( 1770 )
    Tiến Lực mới bảo: “Em ơi
    Cứ ăn đi đã anh thời kiếm sau”
    Thấy hai đứa trẻ nhường nhau
    Phu nhân bèn bảo con hầu cho thêm
    Ăn xong sụp lạy trước thềm ( 1775 )
    Tiến Lực đi trước dẫn em ra đường
    Tướng công từ bấy cảm thương
    Xót xa hai trẻ dặm trường xin ăn
    Anh em cứ thế lê chân
    Leo đồi lội suối muôn phần thảm thê ( 1780 )
    Chim kêu vượn hót tứ bề
    Bốn ngày ròng rã cùng về Phú Xuân
    Anh em vào chợ nghỉ chân
    Phố phường trông thấy ân cần hỏi han
    Thương thay hai trẻ bần hàn ( 1785 )
    Không cha không mẹ lang thang tháng ngày
    Anh em bàn định từ nay
    Cùng nhau ở lại chốn này đợi cha
    Ai trông thấy cũng xót xa
    Kẻ cho người cấp dần dà thành quen ( 1790 )
    Mỗi ngày xin đặng vài tiền
    Đủ ngày hai bữa ngóng tin cha về.

    14. Phạm Công Gặp Con Trên Đường Về Triều
    Tào Thị Gỡ Tội Trước Phạm Công Rồi Bị Trời Xử
    Biên thùy trấn nhậm một bề
    Phạm Công nay đã vỗ về trung quân
    Một hôm ngồi ở trung quân ( 1795 )
    Tự nhiên cảm thấy băn khoăn trong lòng
    Bấm tay đã được ba đông
    Hoa đào xòe nụ vọng phong khoe màu
    Trạng cho mang sớ về trào
    Vua cho trở lại Đăng Châu tức thì ( 1800 )
    Vội vàng thu xếp ra đi
    Xa gần các xứ kéo về rất đông
    Khắp miền trên bộ dưới sông
    Đón đưa bái vọng tỏ lòng tri ân
    Truyền cho nhổ trại rút quân ( 1805 )
    Người người hớn hở hoa xuân cắm đầy
    Bấy lâu cách biệt buồn thay
    Nay mai sắp được sum vầy vợ con
    Bõ khi xa vắng héo hon
    Buồn thiu giữa cảnh núi non xa nhà ( 1810 )
    Phố phường kéo đến hằng hà
    Đua nhau cá thịt rượu trà tiễn đưa
    Quân quan lẫm liệt không vừa
    Mà nay vui nhộn cười đùa không ngơi
    Phú Xuân vừa mới tới nơi ( 1815 )
    Lệnh ra nghỉ lại rong chơi một ngày
    Cho quân ăn uống vui vầy
    Chơi bời hát xướng bỏ ngày quan san
    Phố phường nô nức chen chân
    Đi xem quan trạng Cao Bằng hồi hương. ( 1820 )

    ———————————————————-

    Nghi Xuân Tiến Lực chưa tường
    Mấy nhà tốt bụng chỉ đường bảo ban:
    “Hiện đang có đám quân quan
    Hãy đến xin họ mà ăn tháng ngày”
    Nghe người bảo vội đi ngay ( 1825 )
    Dắt Nghi Xuân tới ăn mày tướng công
    Theo chân nhà bếp vào cùng
    Nhiều mâm thịt cá nhiều chung rượu đầy
    Tiến Lực cung kính thưa ngay:
    “Dám xin câu bếp thương hai trẻ nghèo ( 1830 )
    Còn cơm dư dật ít nhiều
    Xin cho một bát hẩm hiu đỡ lòng”
    Hai người nghe nói liền trông
    Tự nhiên ứa lệ trong lòng xót xa:
    “Thấy chúng mà nhớ người nhà ( 1835 )
    Con bà phò mã Cúc Hoa thêm rầu”
    Bảo rằng: “Nào lẹ lên nào
    Tướng công nhân đức cứ vào đừng lo
    Xin xong bay lại trở vô
    Lấy cơm ta sẽ thêm cho đừng phiền” ( 1840 )
    Tiến Lực nhắm hướng nhà trên
    Tay dắm em dại bước lên thềm quỳ
    Bàn quan mâm cỗ đầy phè
    Cao lương mỹ vị tứ bề thơm ngon
    Trạng nguyên chưa biết thiệt hơn ( 1845 )
    Thoạt trông lệ đã ứa luôn lưng tròng
    Tự nhiên rạo rực trong lòng
    Sẻ cơm rồi bảo hầu phòng cho ngay
    Tiến Lực đỡ lấy trên tay
    Bưng ra chỗ vắng khoan thai lệ nhòa: ( 1850 )
    “Mẹ ơi mẹ hỡi Cúc Hoa
    Có thiêng về hưởng cơm hòa hai con”
    Anh em khấn khứa nỉ non
    Hai hàng nước mắt trào tuôn bồi hồi
    Trạng nguyên cho lính tới nơi ( 1855 )
    Kêu hai đứa trẻ vào chơi đỡ buồn
    Anh em nghe nói theo luôn:
    “Trình quan lớn gọi chúng con việc gì?”
    Trạng nguyên bèn hỏi tỉ tê:
    “Có còn cha mẹ quán quê nơi nào” ( 1860 )
    Tiến Lực nhìn xuống nghẹn ngào:
    “Mẹ cha con ở làng Hào, Quỳnh Vân
    Nói ra xấu hổ muôn phần”
    Trạng nguyên nghe nói tần ngần hồ nghi:
    “Sự đâu có sự lạ kỳ ( 1865 )
    Trẻ cùng ta ở một quê một làng”
    Lựa lời trạng nói khẽ khàng:
    “Vì đâu mà phải nhỡ nhàng tới đây
    Nói ông tiền gạo cho ngay
    Chẳng cần giấu giếm chuyện này làm chi” ( 1870 )
    Tiến Lực nhìn trạng não nề:
    “Cha con cũng chẳng kém gì ông đâu
    Vốn là sang cả công hầu
    Oai danh lừng lẫy đâu đâu biết tài
    Mẹ con bất hạnh chầu trời ( 1875 )
    Cha đi viễn trấn ở nơi Cao Bằng”
    Trạng nguyên lại hỏi nữa rằng:
    “Cha quyền tước ấy tên hằng gọi sao?”
    Lực thưa: “Chẳng giấu ông nào
    Trạng nguyên ba nước đỗ đầu Phạm Công ( 1880 )
    Một mình năm chức vua phong
    Trong tay năm vạn binh hùng phương xa
    Mẹ con tên gọi Cúc Hoa
    Con quan tri phủ cửa nhà giàu sang
    Hẩm hiu thân phận nhỡ nhàng ( 1885 )
    Phôi pha sớm đã suối vàng thảm thay
    Cha đi bước nữa không may
    Gặp phải Tào Thị người nay chẳng lành
    Vắng chồng làm chuyện gian manh
    Con chồng đày đọa ác hành đuổi đi ( 1890 )
    Chúng con có bức thư ni
    Xin trình quan lớn người thì xem qua”
    Nhìn khăn phủ mặt Cúc Hoa
    Đọc dòng chữ viết lệ nhòa từng nơi
    Chàng ôm con khóc nghẹn lời ( 1895 )
    Mừng mừng tủi tủi đầy vơi bấy chầy
    Truyền đem quần áo cho thay
    Theo đoàn người ngựa về ngay phủ đường.

    —————————————————————

    Quân quan rong ruổi dặm trường
    Mười ngày tới đặng quê hương ông bà ( 1900 )
    Phạm Công xuống ngựa từ xa
    Hai con theo sát gót cha bước vào
    Tướng công thấy lạ lùng sao
    Nhác trông hai đứa hôm nao ăn mày:
    “Bữa kia chúng đã đến đây ( 1905 )
    Thoạt nhìn ta nhận ra ngay cháu nhà
    Đâu rồi mẹ chúng Cúc Hoa
    Làm sao mà để con ra thế này?”
    Phạm Công sụp lạy cầm tay:
    “Cha đừng hỏi nữa con đây đau lòng ( 1910 )
    Vợ con sớm xuống âm cung
    Để hai con dại đèo bòng bấy nay
    Bởi con viễn trấn lâu ngày
    Cho nên mới có sự này dở dang”
    Ông bà tri phủ bàng hoàng ( 1915 )
    Ôm choàng lấy cháu thở than một hồi:
    “Cúc Hoa phận bạc con ơi
    Đi đâu chẳng nói một lời cùng ta
    Chẳng thương cha mẹ tuổi già
    Lấy ai nương tựa gần xa sau này ( 1920 )
    Giận khi trẻ mới tới đây
    Ta đã n hìn thấy giống tày Cúc Hoa
    Ngán thay cho cái mụ già
    Cháu đến chẳng được của bà nửa câu”
    Phạm Công nghe nói tuôn châu ( 1925 )
    Nghẹn lời giải tỏ gót đầu gần xa:
    “Hai cháu ở với ông bà
    Coi như có bóng Cúc Hoa sớm chiều
    Để con phụng mệnh về triều
    Sau ghé thăm cảnh đìu hiu cửa nhà ( 1930 )
    Từ đường làm lễ trình qua
    Rồi ra xem mộ Cúc Hoa thế nào
    Còn chuyện Tào Thị bấy lâu
    Cũng cần gạn hỏi trước sau tỏ tường”.

    ——————————————————–

    Phạm Công kíp phải lên đường ( 1935 )
    Lạy cha lạy mẹ yên cương sẵn sàng
    Ngựa quen đường cũ chạy hăng
    Mấy ngày quân đã tới gần kinh đô
    Chờ ngày nộp sớ tâu vua.
    Chồng về Tào Thị sợ lo trăm bề ( 1940 )
    Ngày sinh nở đã gần kề
    Mặt thì trát phấn bụng thì nịt khăn
    Tóc tai sợi dọc sợi ngang
    Vội vàng ra rước gặp đoàn ngựa xe
    Phạm Công trở gót ra về ( 1945 )
    Quân quan đưa đón bạn bè đến đông
    Chàng mời tất cả vào trong
    Yết diên thết đãi thỏa lòng khải ca
    Xong xuôi mới hỏi việc nhà
    Tào Thị kể lể gần xa mấy lời: ( 1950 )
    “Chàng đi thiếp chịu lẻ loi
    Ngày thời tơ tưởng đêm thời khát khao
    Khác nào hạn đời mưa rào
    Cho nên vóc liễu xanh xao võ vàng”
    Phạm Công dò hỏi khẽ khàng: ( 1955 )
    “Bao nhiêu phấn sáp sao nàng không thoa
    Cớ sao đầu tóc lòa xòa
    Phải chăng quên mất mình là vợ quan?”
    Nàng rằng: “Bồ liễu tân toan
    Chồng đi trấn nhậm quan san chưa về ( 1960 )
    Vui gì tô điểm mặt huê
    Khi chồng mưa nắng dãi dề sao đang
    Bấy lâu bỏ phấn xa nhang
    Ăn chay cầu khấn cho chàng về nay”.
    Phạm Công bèn hỏi lại ngay: ( 1965 )
    “Nghi Xuân Tiến Lực ngày rày ở đâu?”
    Nàng rằng: “Nghe nói thêm rầu
    Ba mẹ con vẫn chung nhau một giường
    Ai ngờ chúng nó ương ương
    Tung chăn đạp gối cãi thừong quá đa ( 1970 )
    Thiếp cho đi học phương xa
    Nhưng chúng lại bỏ về nhà chăn trâu
    Đàn bà dạy được con đâu
    Nói thời mang tiếng cơ cầu chẳng hay
    Áo cũ thiếp lại cho may ( 1975 )
    Thôi thì là lượt liền tay ấy mà
    Mình thiếp lo liệu việc nhà
    Nghi Xuân tắm rửa ngày ba bốn lần
    Nâng niu quý báu muôn phần
    Bữa thường dỗ mãi mới ăn cho rồi ( 1980 )
    Thiếp giận lỡ nói một lời
    Không ngờ hai đứa băng vời ra đi
    Cho tìm khắp hết chợ quê
    Thuê người yết bảng gọi về bây nay”
    Phamj Công cau mặt thở dài: ( 1985 )
    “Chúng đi đã được bao ngày nhớ không?”
    Tào Thị xỉ mũi khóc ròng:
    “Mới đi sáu bữa trong lòng chẳng yêu
    Thương con thiếp nặng ưu phiền
    Lo dò chưa thấy lo tìm chưa ra”. ( 1990 )
    Phạm Công nghe nói cười khà:
    “Ơn nàng ăn thực ở thà chẳng chơi”.
    Lả lơi vừa nói vừa cười
    Hỏi: “Sao nàng lại một người hóa hai?”
    Nàng rằng: “Chớ có mỉa mai ( 1995 )
    Hay chàng nghi thiếp có ai ở nhà?”
    Đáp liền: “Chồng ở nơi xa
    Canh khuya hồn lẻn về nhà nằm bên.”
    Quân hầu phục dịch ngày đêm
    Vào trình quan trạng nỗi niềm bấy lâu ( 2000 )
    Kẻ người người gửi xôn xao
    Thiết tha sau trước thấp cao đầy nhà:
    “Từ ông trọng nhậm phương xa
    Chẳng ai đáo để như bà thương ôi
    Thấy ông quyền cả cao ngôi ( 2005 )
    Bà cũng sắm sửa ngựa voi đi về
    Đày cô với cậu ê chề
    Cô phải chăng ngỗng cậu thì chăn trâu”
    Trạng rằng: “Ta rõ trước sau
    Thôi đừng nói nửa thêm đau lòng vàng ( 2010 )
    Đó là ta ướm thử nàng
    Con ta hai đứa lang thang ăn mày”
    Tào Thị quỳ xuống chắp tay:
    “Rộng dung làm phúc tội này xin tha
    Khi ông trấn thủ phương xa ( 2015 )
    Nghi Xuân mắng mỏ tôi đà quá thôi”.
    Trạng đi thăm mộ vợ coi
    Mồ hoang cây dại từng nơi lòa xòa
    Tay dang ôm mộ Cúc Hoa
    Khóc rằng: “Em hỡi anh đã về đây ( 2020 )
    Bởi anh xa vắng lâu ngày
    Nơi đây lạnh lẽo chẳng ai ngó ngàng
    Mộ phần không một nén nhang
    Hai con nhỏ phải lang thang không nhà
    Nhưng thôi những đứa sai ngoa ( 2025 )
    Đã có thiên địa mấy tòa xét soi”
    Trở về không nói một lời
    Xót xa thương vợ bồi hồi nhớ con
    Chong đèn vò võ tấc son
    Miệt mài làm sớ thức tròn năm canh ( 2030 )
    Gặp Tào Thị lúc bình minh
    Bảo rằng: “Thu xếp về nhanh quê nàng
    Chia đôi của cải bạc vàng
    Mặc lòng chọn lấy mà mang đi cùng”
    Tào Thị nghe nói thẹn thùng: ( 2035 )
    “Ơn Người tha giết lại dung cho về
    Tài vật chẳng dám một ly
    Gái hư chồng bỏ ai vì nữa đâu
    Tưởng điều ân ái thêm sầu
    Dại khờ thai nghén dãi dầu cỏ hoa ( 2040 )
    Chẳng cần hầu hạ vào ra
    Lạy chàng xin trở về nhà từ nay”.

    ————————————————

    Dường như trời ở đâu đây
    Nàng đi vừa tới gần cây đa làng
    Chớp lòe sét đánh tan hoang ( 2045 )
    Thân trơ chết cứng giữa đàng ai hay
    Thiên lôi trở lại tầng mây
    Hổ lang bèn đến chốn này tha đi

    15. Phạm Công Từ Quan Đi Tìm Cúc Hoa
    Phạm Công trong dạ não nề
    Đem quân về tới kinh kỳ Đăng Châu ( 2050 )
    Chàng bèn dâng sớ quì tâu:
    “Chúng thần viễn trấn bấy lâu đã về
    Biên cương yên ổn mọi bề
    THị thành phát đạt thôn quê được mùa”
    Bá quan văn võ bấy giờ ( 2055 )
    Đều khen quan trạng giúp cho vuông tròn
    Thấy trạng nét mặt héo hon
    Trịnh vương phán hỏi nguồn cơn một lời:
    “Ngỡ là về lại thì vui
    Sao trạng ngồi lặng ngùi ngùi vậy thay ( 2060 )
    Quyền cao chức trọng dường này
    Sao không mừng cảnh vui vầy cùng ta”
    Phạm Công quỳ xuống thiết tha:
    “Thần muốn nộp chức về nhà mà thôi
    Vì chưng gia sự rối bời ( 2065 )
    Vợ đà mất sớm con thời thơ ngây”
    Vua rằng: “Hãy nói ta hay
    Vì đâu bối rối mặt mày kém tươi
    Ba năm viễn trấn tái hồi
    Về chưa ấm chỗ đã đòi thôi quan ( 2070 )
    Tưởng là chầu chực ngai vàng
    Vua tôi gần gụi ta càng thong dong”
    Phạm Công tâu trước bệ rồng:
    “Đội ơn thánh thượng đoái lòng cỏ cây
    Con thơ vợ thác bấy chầy ( 2075 )
    Âm cung thần muốn xuống ngay tìm nàng”
    Triều đình văn võ đáp rằng:
    “Người trần ai dám mơ màng âm ty”
    Trịnh vương khuyên nhủ một khi:
    “Dương gian xuống đấy làm chi lạ lùng” ( 2080 )
    Cầm tay giải tỏ ung dung:
    “Chẳng hay trạng có muốn cùng với ta
    Đảm đương gánh nặng sơn hà
    Mọi nhà an ổn mọi nhà ấm no
    Vua tôi mọi việc chung lo ( 2085 )
    Trạng là người của trời cho nước mình
    Trạng người chính đại quang minh
    Trạng người trung hậu nghĩa tình trước sau
    Dương gian chẳng có vợ sao
    Hiện nay công chúa giá cao trong đền ( 2090 )
    Bước vào độ tuổi thành niên
    Âu là ta gả cho nên vợ chồng”
    Phạm Công quỳ trứoc bệ rồng:
    “Dẫu tiên hạ giới mặc lòng tưởng chi
    Lòng thần muốn xuống âm ty ( 2095 )
    May ra gặp vợ cùng về lo toan”
    Biết không đổi được ý chàng
    Vua trách sao đã vội vàng ra đi:
    “Lân bang gây chuyện nọ kia
    Hoặc khi xảy đến điều gì cậy ai ( 2100 )
    Trẫm thì chưa có con trai
    THiếu người kế cị hôm mai trị vì
    Nỡ nào trạng bỏ mà đi
    Vua tôi biết thuở nào về vui chung
    Cầm tay ứa lệ đôi dòng: ( 2105 )
    “Bỗng dưng cách trở nghìn trùng xót xa”
    Phạm Công từ tạ trở ra
    Về Quỳnh Vân để ông bà hay tin
    Đầu đuôi kể hết sự mình
    Nỗi niềm thương vợ quyết tình tìm đi: ( 2110 )
    “Ở nhà hai cháu ấu nhi
    Vui cùng cha mẹ bù trì sớm hôm
    Ông bà nghe nói hoảng hồn
    Xót thương chàng quá đau buồn liều thân:
    “Vợ con sớm phải lìa trần ( 2115 )
    Giờ con lại định băng ngàn tìm đi”
    Trạng rằng: “Sống thác quản chi
    Có tìm thấy vợ mọi bề ới an”
    Lại quay nhìn hỏi hai con:
    “Theo cha có muốn gặp hồn Mẹ Hoa” ( 2120 )
    Ông bà tri phủ phân qua:
    “Con đi cháu phải ở nhà mới xong”
    Chia tay trở lại triều trung
    Lập đàn chiếu kính âm cung đi tìm
    Trịnh vương cám cảnh thương tình ( 2125 )
    Quyết bề theo trạng Diêm thành xem sao
    Triều đình nghe tỏ âm hao
    Hai bên văn võ cùng vào gián can:
    “Người là hoàng đế dương gian
    Uy linh bốn bể giàu sang chín trùng ( 2130 )
    Sơn hà nhân vật cậy trông
    Nỡ nào bỏ chốn bệ rồng đi nay”
    Vua rằng: “Ta ở lại đây
    Ai người canh thiếp đêm ngày cho ta”
    Chiếu ban tới tấp gần xa ( 2135 )
    Tìm ngừoi chiếu kính tới tòa âm ty
    Canh chừng quan trạng thiếp đi
    Việc xong quan tước tức thì vua ban
    Dân tình sôi nổi tính toan
    Người bàn kế nọ kẻ bàn kế kia: ( 2140 )
    “Ngồi canh người xuống âm ty
    Họa nhiều phúc ít, nhỡ thì nguy lây”
    Chiếu ban đã được ba ngày
    Chẳng ai dám nhận việc này mà mong
    Bấy giờ công chúa trong cung ( 2145 )
    Thương tình quan trạng nên lòng xót xa
    Khẽ khàng nàng mới bước ra
    Khấu đầu làm lễ vua cha tức thì:
    “Con xin cầm kính trạng đi
    Gọi là ân nghĩa để ghi sau này” ( 2150 )
    Vua rằng: “Quái gở lắm thay
    Ba ngày ban chiếu chẳng ai vào chầu
    Sao con mua lấy lo âu
    Đào tơ liễu yếu vả sau còn chồng”
    Nàng rằng: “Thương kẻ anh hùng ( 2155 )
    Trung trinh nghĩa ấy thực lòng bề tôi”
    Vua rằng: “Chẳng phải chuyện chơi
    Sau này khi trạng về rồi tính sao
    Phari nên nghĩ trước nghĩ sau
    Kẻo khi phí uổng công lao đợi chờ” ( 2160 )
    Nàng rằng: “Bệ hạ đừng lo
    Bao giờ đến đó trời cho kinh quyền”
    Thấy con khảng khái một niềm
    Hẳn rằng duyên nợ xui nên thế này
    Thương con xót trạng cả hai ( 2165 )
    Thôi đành chấp nhận rủi may cơ trời
    Vua bèn bảo trạng mấy lời:
    “Âm dương cách biệt con người khó phân
    Thương trạng nặng nghĩa châu trần
    Nên cho công chúa ngồi cầm kính theo ( 2170 )
    Thăm xong kíp phải về triều
    Kẻo ta trông đợi nhìêu điều ưu tư”
    Phạm Công lạy tạ ơn vua
    Cậy nhờ pháp thuật pháp sư nhiệm mầu
    Công chúa nét ngọc rầu rầu: ( 2175 )
    “Chàng ơi hãy ráng đi mau mà về”
    Trống chuông rầm rĩ tứ bề
    Trận đồ sắp đặt chỉnh tề phân minh
    Thầy sai thiên tướng thiên binh
    Đánh trạng nguyên hết sức mình không xong ( 2180 )
    Hai ngày cúng khắp tây đông
    Đồng không thiếp được, phách không lìa hồn
    Uy danh trạng thực như đồn
    Lung lay chẳng chuyển vái van chẳng rời
    Ai ai cũng nói một lời: ( 2185 )
    “Cúng thêm vàng lễ kịp thời mới xong”
    Công chúa nghe bảo rằng: “Không
    Xưa nay lễ bái tự lòng mà ra
    Phạm Công quốc trạng tài ba
    Phải sai các tướng thật là uy linh” ( 2190 )
    Pháp sư nghe rõ sự tình
    Cầu đến chư vị nổi danh oai hùng
    Kíp xin thái tử thủy cung
    Áp vào mà đánh Phamj Công cho rồi
    Hồi lâu vẫn thấy trạng ngồi ( 2195 )
    Thì ra các vị nhà trời sợ ông
    Cho nên chẳng chuyển được đồng
    Pháp sư là kẻ rối lòng trước tiên
    Trời sai Đại Thánh Tề Thiên
    Xuống ngay để đánh ngã liền Phạm Công ( 2200 )
    Tề Thiên hăng hái thẳng xông
    Đánh ngã ngựa hồng cùng trạng một khi.

    16. Hồn Phạm Công Du Địa Phủ
    1 –

    Phạm Công chưa kịp nghĩ suy
    Ngựa hồng đã tới biên thùy Long vương
    Nghe tù kêu khóc bốn phương ( 2205 )
    Rầm rập quỷ sứ đầy đường ghê sao
    Chàng bèn tế ngựa xông vào
    Quân canh mấy đứa thét gào răng nhe:
    “Nơi đây là ngục An Tỳ
    Có tội mà chết dẫn về giam ngay ( 2210 )
    Việc chi ông đến chốn này?”
    Lựa lời trạng mới giải bày trước sau:
    “Ta là tể tướng Trịnh châu
    Xuống đây tìm vợ bấy lâu cách vời
    Xin cho mở ngục ra coi ( 2215 )
    Cúc Hoa mệnh phụ có nơi cửa người”.
    Giám ngục lễ phép rước mời
    Dẫn đường quan trạng tới nơi xem liền
    Thấy người trong ngục thảm phiền
    Gầy gò nhơ nhuốc gông xiềng kêu la ( 2220 )
    Mấy nơi kinh khiếp vào ra
    Tưởng rằng đây có Cúc Hoa thêm sầu
    Chung quanh lửa nấu vạc dầu
    Tìm nàng chẳng thấy biết đâu chốn nào
    Phạm Công mới hỏi trước sau: ( 2225 )
    “Điện này tùy thuộc vị nào Long vương
    Muốn ra mắt hỏi tỏ tường
    Làm ơn xin hãy vẽ đường cho ta”
    Quỷ bèn chỉ trỏ gần xa
    Phạm Công bước tới tòa nhà bên kia ( 2230 )
    Chàng Cả ra đón tức thì:
    “Phò Mã chắc có việc gì xuống đây”
    Phạm Công từ tốn giãi bày:
    “Vợ tôi sớm xuống cõi này Diêm la
    Tên nàng là ả Cúc Hoa ( 2235 )
    Có đang giam cấm trong tòa hay không
    Xin Người thứ lỗi đột xông
    Bảo cho tôi rõ vâng mòng trước sau”
    Chàng Cả tra sổ lắc đầu:
    “Cúc Hoa hồn ấy không vào nơi đây” ( 2240 )
    Phạm Công nghe nói thở dài:
    “Thảo nào tìm mãi tìm hoài không ra”
    Lại đi xem xét gần xa
    Thấy người bị tội rên la kêu gào
    Bốn bề lửa cuốn rào rào ( 2245 )
    Tứ chi trói chặt ném vào ghê thay
    Cháy chân thôi lại cháy tay
    Xương da máu thịt từ rày thành tro
    Thấy người bị tội thêm lo
    Mịt mùng tìm vợ hỏi dò không ra ( 2250 )
    Phạm Công bước tới lân la:
    “Tù này khi sống tội đà phạm chưa”
    Quỷ sứ cứ thực trình thưa:
    “Tù này nói thiếu nói thừa bấy lâu
    Đặt điều vu khống hiểm sâu ( 2255 )
    Đến lúc chết xuống dẫn vào giam đây”
    Phạm Công nhìn sang phía tây
    Hỏi có bao cửa nơi đây cần tìm
    Chàng Cả hắng giọng đáp liền:
    “Cửa này là cửa đầu tiên thôi mà ( 2260 )
    Còn cửa Chàng Hai Chàng Ba
    Chàng Tư gần đó xa là Chàng Năm”
    Mịt mùng hun hút cõi âm
    Phạm Công ớn lạnh khấn thầm Cúc Hoa
    Chàng bèn bái tạ trở ra ( 2265 )
    Ngựa hồng nước kiệu tà tà chạy đi.

    —————————————————-

    Trịnh vương hỏi kính tức thì:
    “Lộ trình của trạng hướng về phương nao”
    Công chúa vội vã quỳ tâu:
    “Chàng Cả tiếp trạng trên lầu Long vương ( 2270 )
    Đây không thấy Cúc Hoa nương
    Trạng lại lên đường tìm kiếm các nơi”.

    2 –

    Phạm Công đến cửa thứ hai
    Ngục tối từng dãy rụng rời mắt trông
    Đội chậu máu ngồi bàn chông ( 2275 )
    Vạc dầu sùng sục lửa hồng liếm quanh
    Phạm Công ngỡ có vợ mình
    Vội vàng bước tới trần tình trước sau
    Quỷ sứ quát mắng phủ đầu:
    “Chàng nào táo tợn cửa lầu đột xông ( 2280 )
    Cửa này là cửa Long cung
    Bọn tù nặng tội giam cùng nơi đây”
    Phạm Công nghe nói vào ngay
    Thử tìm nàng ở chốn này may ra
    Hay đâu thấy những mụ già ( 2285 )
    Lưng buộc vào cột kêu la nhộn nhàng
    Phạm Công bèn hỏi khẽ khàng:
    “Cõi dương chúng phạm rõ ràng tội chi”
    Giám ngục phải trái phân bì:
    “Bọn này trần thế chắc gì đã hay ( 2290 )
    Mua nhiều bán ít xưa nay
    Lúc mua đong đầy lúc bán đong vơi
    Bởi tham nên đã hại người
    Tội mình mình chịu kêu thời kêu ai
    Thóc lép đong vơi cho vay ( 2295 )
    Khi đòi thóc chắc đong đầy mới thôi
    Tính ra vốn một lãi mười
    Làm cho dương thế lắm người lao đao”
    Chăm chăm nhìn trước ngó sau
    Tìm hoài mà có thấy nào Cúc Hoa ( 2300 )
    Phạm Công châu lệ chan hòa
    Chàng Hai đủng đỉnh bước ra khỏi lầu
    Lại gần hỏi nhỏ một câu:
    “Hẳn quan phò mã người đâu cõi trần”
    Trạng rằng: “Vợ phải thác oan ( 2305 )
    Bỏ hai con dại dương gian bấy chầy
    Cho nên thương nhớ lâu ngày
    Từ miền xa đến nơi đây tìm tòi”
    Chàng Hai sốt sắng tươi cười:
    “Vợ quan phò mã sinh thời tên chi” ( 2310 )
    Hỏi rồi chú ý lắng nghe
    Lát sau dẫn trạng cùng đi vào tòa
    Lần lần lật sổ ra tra:
    “Buồn thay vợ trạng không qua chốn này
    Nếu như giam cấm nơi đây ( 2315 )
    Thì trẫm cho phép về ngay với chồng”
    Phamj Công bái biệt não lòng
    Thẫn thờ lên ngựa sang vùng Chàng Ba.

    ———————————————————-

    Trịnh vương sốt ruột lân la:
    “Xuân Dung con hỡi trạng đà đến đâu” ( 2320 )
    Tức thì công chúa quỳ tâu:
    “Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Hai
    Tìm nàng chẳng thấy tăm hơi
    Lệ châu chan chứa mấy hồi sầu bi
    Tạ từ trạng sắp ra đi ( 2325 )
    Chàng Ba chưa rõ hướng về nơi nao”

    ———————————————————-

    Chàng Hai chỉ dẫn thấp cao:
    “Đường đi khủng khiếp dẫn vào Chàng Ba
    Bao nhiêu cạm bẫy giăng ra
    Dám xin tính hết gần xa mọi đường ( 2330 )
    Hiểm nguy hẳn trạng khó lường
    Cầu mỏng như giấy bắc sang Ngân hà
    Dưới sông toàn những mãng xà
    Thấy người cất cổ bằng ba con sào
    Đùng đùng sấm thét mưa gào ( 2335 )
    Quan trạng khó nỗi đi sao vẹn tuyền”
    Phạm Công nghe đáp lại liền:
    “Dù cho rắn rết hàng nghìn quản chi
    Đến đây mà lại quay về
    Làm sao giữ được trọn bề thủy chung” ( 2340 )
    Chàng Hai mới nói: “Mặc lòng
    Ở đây quán xá thì không có rồi
    Lòng thương quan trạng lắm thôi
    Muốn ban cho yến ăn rồi sẽ đi
    Nhưng ăn là khó nỗi về ( 2345 )
    Chẳng biết cho trạng vật gì đặng yên
    Biếu trạng một quả đào tiên
    Của bà Vương mẫu ban truyền xuống cho
    Ăn vào mấy tháng vẫn no
    Người đuợc cứng cáp không lo trở trời” ( 2350 )
    Phạm Công ăn một nửa quả thôi
    Một nửa cho ngựa xong rồi ra đi
    Ăn xong khỏe mạnh tức thì
    Ngựa hồng nó mới từ bi trong lòng
    Phạm Công bèn hỏi ngựa hồng: ( 2355 )
    “Đường xa ngàn trùng đi tiếp hay lui?”
    Ngựa hồng lẩm bẩm ngùi ngùi:
    “Đến đây mà lại chịu lùi sao đang”
    Người nghe cũng thấy vững vàng
    Nhảy lên mình ngựa tìm đường đi qua ( 2360 )
    Mênh mang một dải Ngân hà
    Mắt vừa nom thấy lòng đà ghê ghê
    Mặt cầu khấp khểnh lè tè
    Chân cầu rắn rết đầy phè bâu đen
    Ngựa hồng chỉ biết đứng yên ( 2365 )
    Run run gõ móng liền liền hí vang
    Cầu dài ván ghép mỏng tang
    Bước lên sao đặng mà sang sông này
    Phạm Công xuống ngựa tháo hài
    Chắp tay quỳ xuống vái dài gần xa ( 2370 )
    Khấn trời lại khấn Cúc Hoa
    Cho chàng mọc cánh bay qua cầu vồng
    Bởi chàng hiếu hạnh thủy chung
    Mãng xà lặn xuống mà không làm gì
    Bấy giờ trạng mới ra đi ( 2375 )
    Ngựa hồng cẩn trọng liệu bề bước qua
    Than rằng: “Em hỡi Cúc Hoa
    Em đi đâu mất cho ta cực tình”
    Khấn cầu thiên địa quang minh
    Vái trình Hà bá vái trình Thổ công ( 2380 )
    Khỏi cầu trạng mới mừng lòng
    Tưởng mãng xà nuốt giữa sông Ngân hà.

    3 –

    Bấy giờ đến cửa Chàng Ba
    Tường vàng mái bạc mấy tòa chan chan
    Phạm Công trong dạ bàng hoàng ( 2385 )
    Thấy bao thảm cảnh kêu van tứ bề
    Ngựa hồng sợ chẳng dám đi
    Nhà thì lửa cháy đất thì chuyển rung
    Tiếng rên tiếng hú không ngừng
    Phạm Công nghe thấy cảm thương lệ nhòa ( 2390 )
    Tù đông nghĩ có Cúc Hoa
    Liều mình đi tới may mà gặp chăng
    Quỷ sứ sát khí đằng đằng:
    “Người nào dám đến nói năng gạn gùng”
    Phạm Công vội cởi tấc lòng: ( 2395 )
    “Vì thương nhớ vợ nên chồng phải đi
    Gian nan vất vả quản chi
    Theo chân nàng xuống âm ty tìm về”
    Ngắt lời, giám ngục tỉ tê:
    “Vợ chàng trần giới tên gì bảo ta” ( 2400 )
    Phạm Công lễ phép trình qua:
    “Người đời vẫn gọi Cúc Hoa tên nàng”
    Giám ngục bước một khẽ khàng
    Dẫn chàng tới trước ngai vàng quỳ tâu:
    “Trạng nguyên phò mã Đăng Châu ( 2405 )
    Từ xa lặn lội đến chầu thiên nhan
    Vợ trạng đã phải thác oan
    Nay trạng rời chốn trần gian đi tìm
    Qua hai cửa vẫn im lìm
    Cúi xin bệ hạ kiếm thêm khu mình” ( 2410 )
    Tìm hoài chẳng thấy bóng hình
    Vua khuyên ngưng tạm lộ trình nghỉ ngơi
    Phạm Công buồn bã buông lời:
    “Vợ tìm chẳng thấy ngồi chơi làm gì”
    Bụng chàng nhớ lại một khi ( 2415 )
    Hôm qua tìm vợ đường đi xa gần
    Nhìn thấy những kẻ thanh tân
    Gông cùm kìm kẹp kêu van ầm nhà
    Chàng bèn lựa lúc hỏi qua:
    “Tội kia dương thế xưa đà sao đây” ( 2420 )
    Giám ngục rầu rĩ thưa bày:
    “Tại nơi trần giới theo trai bỏ chồng”
    Phạm Công nghe nói mủi lòng:
    “Đam mê cho lắm đèo bòng khổ thân”
    Thấy cảnh hành tội ngoài sân ( 2425 )
    Chẻ đầu cưa đoạn róc dần thịt xương
    Hóa ra là bọn cướp đường
    Chết xuống phải tội ngục trường Diêm la
    Đàng kia có một đàn gà
    Mỏ dài cựa sắc lấy đà xông vô ( 2430 )
    Mổ lia lịa một bọn tù
    Tứ chi gông chặt đầu u mặt bầm
    Cõi trần tham lại còn thâm
    Thấy trứng gà ấp liền cầm hết đi
    Cho nên thác xuống âm ty ( 2435 )
    Bắt cho gà mổ thân thi đêm ngày
    Chàng nhìn thấy ở phía tây
    Có một bọn nữa ngồi nhai bên hồ
    Tay vừa vốc nước lên tu
    Miệng vừa nhổ xuống hu hu kêu trời ( 2440 )
    Hỏi ra mới biết là người
    Cõi trời ăn uống tứ thời đổ tung
    Làm ra hạt thóc nhọc lòng
    Chúng lại tống táng xuống hồ xuống sông
    Chết rồi vẫn phải tù đồ ( 2445 )
    Bắt nhai những thứ cơ hồ vứt đi
    Mới hay rằng chốn âm ty
    Công bằng khôn tả chẳng gì bỏ qua
    Tìm hoài chẳng thấy Cúc Hoa
    Phạm Công châu lệ chan hòa thương thay ( 2450 )
    Chàng Ba mới bảo như vầy:
    “Ba ngày trạng hãy ở đây dần dà
    Cửa này không có Cúc Hoa
    Thì trạng phải xuống tới tòa đàng kia”.

    ——————————————————–

    Trịnh vương phán hỏi vân vi: ( 2455 )
    “Xuân Dung con hỡi trạng đi phương nào
    Ngồi đồng ba tháng gian lao
    Có còn thấy trạng ra vào bảo cha”
    Xuân Dung chậm rãi tâu qua:
    “Trạng nguyên hiện được Chàng Ba rước mời ( 2460 )
    Trên tòa cơm nước chưa thôi
    Ăn xong trạng xuống lâu đài Chàng Tư
    Lúc này cửa ấy lờ mờ
    Nhìn mà chưa thấy chàng vô xứ nào”.

    4 –

    Phạm Công trong dạ nôn nao ( 2465 )
    Cầm cương thúc ngựa phóng ào tên đưa
    Thoắt vào đến cửa Chàng Tư
    Ngựa dừng lại thở đợi chờ bên trong
    Ngạt ngào những vị hương xông
    Trong thành chẳng có một gông tù nào ( 2470 )
    Nơi nơi xanh liễu thắm đào
    Bốn bề dân sự làm sao mặc lòng
    Phạm Công mới hỏi ngựa hồng:
    “Hãy xem tù ngục có không, bạn hiền”
    “Cửa này như thể cõi tiên” ( 2475 )
    Ngựa cất tiếng hí vang miền thành đô
    Nóng lòng gặp được Chàng Tư
    Phạm Công xuống ngựa bước vô tâu trình
    Giãi bày sau trước phân minh
    Xin tìm vợ thác trọn tình keo sơn ( 2480 )
    Chàng Tư lời lẽ ân cần:
    “Sao mà quan trạng thâm ân dường này
    Làm quan chức tước tước cao vầy
    Thiếu gì nữ sắc trần ai mời chào”
    Chàng Tư lại nói thấp cao: ( 2485 )
    “Hễ trạng nhìn thấy ngục nào kiếm ngay
    Lòng ta chẳng tiếc mảy may
    Xin trạng chớ có nơi đây nghi ngờ”
    Ngựa hồng cạnh chủ bấy giờ
    Cũng giương đôi mắt thăm dò đăm đăm ( 2490 )
    Đàn bà kể tới mấy trăm
    Lăn đùng ra chết hằng năm vô vàn
    Bởi vì sống ở dương gian
    Canh khuya tắm lạnh cảm hàn như chơi
    Nắng trưa không nón đầu phơi ( 2495 )
    Chết uổng rồi lại kêu trời rằng oan
    Chàng Tư mới nói nhặt khoan:
    “Cho gọi mỹ nữ a hoàn ra đây
    Đặng cho quan trạng xem ngay
    Cúc Hoa vợ trạng chốn này có chăng ( 2500 )
    Kẻo ta chẳng thực cùng chàng
    Tùy chàng nhận lấy mặt nàng Cúc Hoa
    Nào nào công chúa bước ra
    Để chàng nhận diện cho ta yên lòng”
    Tìm hết đằng tây đằng đông ( 2505 )
    Chẳng nơi nào thấy bóng hônfg Cúc Hoa
    Cuối cùng vua mới nói ra:
    “Có khi phải xuống dưới tòa Chàng Năm”
    Phạm Công trong dạ chăm chăm
    Dù phải tìm khắp cõi âm cũng tìm. ( 2510 )

    ———————————————————-

    Trịnh vương lòng chẳng được yên
    Phán hỏi công chúa trạng nguyên nơi nào
    Nàng liền mạch lạc quỳ tâu:
    “Trạng nguyên còn ở duới lầu Chàng Tư
    Chốn này không có bóng tù ( 2515 )
    Thấy đàn bà tắm nô đùa ven sông
    Chàng Tư giúp trạng hết lòng
    Vẫn chưa có đặng vân mòng Cúc Hoa
    Đường về Chàng Năm khá xa
    Lúc này chưa rõ trạng ra hướng nào”. ( 2520 )

    ———————————————————–

    Phạm Công bước khỏi lầu cao
    Buồn lòng chẳng biết lối nào tìm đi
    Chàng Tư nhỏ nhẹ vân vi:
    “Từ đây đến đấy đường nguy hiểm mà
    Bao nhiêu rồng lửa mãng xà ( 2525 )
    Quấn quanh lúc nhúc nghĩ đà ghê sao
    Tứ bề chớp giật gió gào
    Liệu chàng còn biết lối nào mà đi”
    Phạm Công đáp lại tức thì:
    “Đến đây mà lại quay về sao nên ( 2530 )
    Tử sinh số mệnh tại thiên
    Gian nan đến mấy cũng xin cam lòng”
    Bấy giờ mới bảo ngựa hồng:
    “Nếu không đi đặng liều chừng về thôi”
    Ngựa hồng chững chạc đáp lời: ( 2535 )
    “Tìm bà tôi chẳng đôi hồi vấn vương”
    Nhanh chân người ngựa lên đường
    Đi đựơc một lúc thì vương mãng xà
    Vừa nhìn thấy trạng đi qua
    Nó liền băng tới đầu đà cất cao ( 2540 )
    Rồng lửa hìen thảo làm sao
    Né mình nhường lối khác nào người thân
    Mãng xà thấy thế phân vân
    Cúi đầu chép miệng âm thầm bò đi
    Ngựa hồng qua được một khi ( 2545 )
    Vội tung bốn vó liệu bề rời xa.

    ———————————————————–

    Thêm một tháng nữa trôi qua
    Bấy giờ mới tới được tòa Chàng Năm
    Bốn bề lửa cháy ầm ầm
    Hai bên cấm cửa binh âm áp vào ( 2550 )
    Gió to ngọn lửa càng cao
    Phạm Công cưỡi ngựa thẳng vào bản doanh
    Quân canh sau cửa hoành hành
    Gươm trần chúng tuốt chung quanh sáng lòa:
    “Chém đầu đi quách không tha ( 2555 )
    Tên nào chẳng biết vào tòa Chàng Năm”
    Phạm Công quát lại rầm rầm:
    “Hãy nói với hắn ta cần gặp ngay
    TA là người ở trên mây
    Ngọc hoàng dạy xuống nơi đây khám tù ( 2560 )
    Lệnh trời đâu phải chuyện đùa
    Chúng mày lếu láo chẳng vừa ý ta”
    Quân canh thôi quát thôi la
    Vội vàng quay gót vào tòa Chàng Năm
    Chàng Năm nổi nóng lầm bầm: ( 2565 )
    “Thói người trần giới cõi âm xem thường
    Oai nghiêm nhất chốn công đường
    Dù là sứ giả Ngọc hoàng đến đây
    Dù là người ở trên mây
    Trói mà đánh tuốt nơi này không tha ( 2570 )
    Một mình một ngựa xông pha
    Thằng nào dám đến mà tra chốn này”
    Phạm Công bước xuống chắp tay
    Trông chàng lễ độ mà đầy quyền uy
    Chàng Năm thấy vậy tức thì ( 2575 )
    Trải hai hàng chiếu lễ nghi chào mời
    Ngỡ là thiên sứ trên trời
    Bá quan văn võ đồng thời bước ra
    Phạm Công quỳ xuống khoan hòa:
    “Tôi người trần giới rất xa chốn này ( 2580 )
    Cúc Hoa là vợ xưa nay
    Mới ba mươi tuổi chẳng may lìa đời
    Để hai con dại mồ côi
    Nhớ thương tôi xuống tìm tòi âm cung
    Nghĩ rằng có ở ngục trong ( 2585 )
    Nên đà mạn phép đột xông kiếm nàng”
    Triều đình ai cũng ngỡ ngàng
    Chàng Năm nước mắt hai hàng thương thay:
    “Thế mà trạng chẳng bảo ngay
    Lại nói thiên sứ xuống đây khám tù” ( 2590 )
    PHạm Công thú thật cùng vua:
    “Không dùng chước ấy khó vô nơi này”
    Vua cười truyền ở cửa ngay
    Cho chàng xem hết đặng hay chân tình
    Tù đông phải đến hàng nghìn ( 2595 )
    Chẳng ai giống mặt giống hình mà mong
    Phạm Công cùng với ngựa hồng
    Tìm nàng chẳng thấy rầu lòng bước ra
    Oang oang tiếng quát gần xa
    Giám ngục từng đám khảo tra trong ngoài ( 2600 )
    Thấy đoàn con gái hoang t hai
    Mặc đồ nhơ uế rạc rài héo hon
    Nhác trông thân thể gầy mòn
    Nước nôi không có nuôi con cực lòng
    Cả đoàn bị cấm xuống sông ( 2605 )
    Mẹ con ghẻ lở tắm trong vũng bùn
    Phạm Công nhìn thấy hãi hùng
    Bước vào tâu với bệ rồng phân minh:
    “Hoang thai là chuyện tội tình
    chứ đâu có phải tội hình xưa nay ( 2610 )
    Đời mẹ lầm lỗi đã vầy
    Hay gì cái vịec đọa đày đời con
    Trời sinh có nước có n on
    Phải năng tắm rửa mới luôn an hòa”
    Chàng Năm gật gật nghe ra ( 2615 )
    Truyền tha tất cả đàn bà hoang thai
    Phạm Công tìm mãi tìm hoài
    Cúc Hoa chẳng thấy lệ dài chứa chan
    Thấy đoàn phù thủy kêu van
    Binh âm khảo đả nhộn nhàng như ong ( 2620 )
    Chuông treo trống buộc đầu gông
    Phạm Công bèn hỏi cõi dương tội gì
    Chàng Năm mặt vẫn lầm lì:
    “Bọn thầy phù thủy chuyên bề gian ngoan
    Khua chuông gõ trống rộn ràng ( 2625 )
    Lại còn thét mắng Long vương đêm ngày
    Ai người biết được bọn này
    Đảo điên mà định làm thầy thế gian”
    Phạm Công bộc bạch nguồn cơn:
    “Làm thầy chẳng lẽ lại nhờn với ma ( 2630 )
    Không cho thét mắng kêu la
    Làm sao đuổi quỷ xua tà cho an
    Nói xằng vâng lệnh Ngọc hoàng
    Sai tà làm bệnh tìm đường kiếm ăn
    Chúng đà dại dột muôn phần ( 2635 )
    Cúi xin lượng cả gia ân khoan hồng”
    Chàng Năm cũng thấy mủi lòng
    Cả đoàn phù thủy cuối cùng được tha
    Phạm Công nhìn kỹ nhận ra
    Sư mô một bọn trong tòa lô nhô ( 2640 )
    Cạo đầu dối thế mơ hồ
    Cũng đang giam chấp tù đồ kêu rên
    Tiếng rằng tụ tập đạo thiền
    Mắt lo nhìn gái mồm quen thịt thà
    Chúng đi quyên góp người ta ( 2645 )
    Nói rằng tô tượng cùng là đúc chuông
    Tiền nong của khách thập phương
    Đem về nuôi béo một phường gian ngoan
    Cõi dương tội đã rõ ràng
    Cho nên thác xuống vẫn đang lao tù ( 2650 )
    Phạm Công rằng: “Thật hư vô
    Lòng tà niệm phật sớm trưa ích gì”
    Ngó quanh trong dạ sầu bi:
    “Cúc Hoa không biết giạt về nơi đâu?”
    Một mình ra tới phía sau ( 2655 )
    Thấy lũ thầy bói lao nhao khóc ròng
    Chậu thau lật úp bên gông
    Một tay cầm quẻ người trông la đà
    Một tay rờ túi xuýt xoa
    Trước là kiếm lễ sau là độ thân ( 2660 )
    Cả đời đi kiếm miếng ăn
    Ngờ đâu thác xuống mang thân tội đày
    Phạm Công bước lẹ vào đây
    Lựa lời chàng mới tâu ngay thực thà:
    “Bởi chưng trời đất dựng ra ( 2665 )
    Quyền đâu đến quẻ bói khoa ở đời
    Thế gian vạn kẻ có tài
    Lỗi thầy bói chỉ ở lời thốt ra
    Dở hay tiền định thôi mà
    Ví dù không nói cũng ra làm vầy” ( 2670 )
    Chàng Năm mới bảo từ nay
    Thầy bói khỏi phải tội đày lao lung.

    ——————————————————-

    Đã hơn bốn tháng vua dương
    Đêm ngày cầu khấn trời thương trạng cùng
    Miệng hỏi nước mắt rưng rưng: ( 2675 )
    “Lộ trình của trạng theo phương hướng nào?”
    Xuân Dung công chúa liền tâu:
    “Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Năm
    Người đâu đại lượng từ tâm
    Phù thủy thầy bói trong tầm Diêm la ( 2680 )
    Chàng xin cho họ được tha
    Kính tối chưa thấy trạng ra phương nào.”
    Trịnh vương nước mắt tuôn trào
    Ngồi kính bốn tháng trạng sao chưa về
    THương nàng công chúa nhiều bề ( 2685 )
    Thức ròng bốn tháng người thì xanh xao.

    ———————————————————

    Phạm Công nhìn trước ngó sau
    Lạ lùng bèn hỏi một câu như vầy:
    “Lương y sao chẳng thấy đây
    Cùng là thầy dịch chốn này cũng không” ( 2690 )
    Chàng Năm mới nói thực lòng:
    “Lương y thầy dịch về cùng người ngay
    Họ có làm hại chi ai
    Mà bắt bớ họ về đày Diêm la”
    Một mình quan trạng trở ra ( 2695 )
    Gặp đoàn bán mắm kêu la bên hồ
    Âm ty chịu cảnh tù đồ
    Hai tay chặt cục nhuốc nhơ một đời
    Buôn mắm muốn đựơc nhiều lời
    Bao nhiêu nước cốt ngon thời chắt ra ( 2700 )
    Chỉ bán có thứ nước pha
    Lãi ăn cho lắm oan gia nỗi gì
    Tiền là tiền thật lấy về
    Mắm thì mắm giả dung chi kẻ tà
    Phạm Công qua đó trở ra ( 2705 )
    Thấy đoàn thầy mã ở tòa cửa đông
    Tội hình giáng xuống chẳng dung
    Thân kia phải đánh búa đồng tan xương
    Phạm Công mới hỏi tỏ tường:
    “Người ở trần giới đã vương tội gì” ( 2710 )
    Giám ngụcd dáp lại tức thì:
    “Làm nghề thợ mã cũng nghề gian ngoan
    Đồ mã chẳng có ruột gan
    Lấy tiền nói dối dương gian đã dày”
    Vợ chàng không có nơi đây ( 2715 )
    Phạm Công bèn hỏi liệu bài quay ra
    “Khu trẫm không có Cúc Hoa
    Mời trạng xuống cửa vua cha bên này
    Đất người thoáng đãng phía tây
    Đất người không có một ngày cùm gông”. ( 2720 )

    6 –

    Phạm Công lên ngựa ruổi rong
    Vòng vèo mấy khúc tới vùng vua cha
    Tứ bề đào mận nở hoa
    Suối trong nước lặng chan hòa ánh dương
    Bấy lâu ảm đạm một phương ( 2725 )
    Đến đây động phủ Long vương chói lòa
    Dập dìu đàn hát xướng ca
    Bá quan văn võ bước ra mời chào
    Long vương phán hỏi một câu:
    “Chẳng hay quan trạng dãi dầu việc chi?” ( 2730 )
    Phạm Công quỳ xuống đan trì
    Khấu đầu làm lễ tức thì trình qua:
    “Vợ tôi tên gọi Cúc Hoa
    Mới ba mươi tuổi xưa đà xuống đây
    Đi tìm hơn bốn tháng nay ( 2735 )
    Vẫn chưa gặp được lòng này xót xa”
    Long vương nghe nói cười xòa:
    “Hãy ăn yến đã Cúc Hoa thấy liền”
    Bá quan văn võ cùng khuyên:
    “Rồi trạng sẽ gặp vợ hiền ngay thôi” ( 2740 )
    Phạm Công bèn ngỏ một lời:
    “Vợ tìm không thấy ngồi chơi làm gì”.

    ——————————————————-

    Trịnh vương hết đứng lại đi
    Phán hỏi công chúa: “Trạng về phương nao”
    Xuân Dung sức lực tiêu hao ( 2745 )
    Bốn tháng thức trắng ngồi chầu ăn chay
    Nàng vẫn tỉnh táo tâu ngay:
    “Trạng nguyên mới đến cửa này Long vương
    Còn nghe tiếng nói tỏ tường
    Cả triều náo nức chào mừng trạng nguyên” ( 2750 )
    Công chúa lại nói tiếp liền:
    “Tòa vàng lặng lẽ sao nhìn vắng tanh”
    Vua hỏi: “Trạng có về nhanh”
    Nàng bèn quỳ tấu phân minh nhẹ nhàng:
    “Long vương yến tiệc mời chàng ( 2755 )
    Ắt là biết đặng đâu nàng Cúc Hoa”.

    ——————————————————–

    Trạng rằng: “Dạ thật an hòa
    Nếu gặp lại vợ tại nhà quân vương”
    Long vương đáp giọng vui mừng:
    “Ra ngươi vẫn nhớ quá chừng Cúc Hoa ( 2760 )
    Trẫm có công chúa trong tòa
    Mới mười tám tuổi tiên sa non bồng
    Ngồi thì đua nở hoa hồng
    Đứng thì ngào ngạt hương xông hoa nhài
    Đi thì én liệng bướm bay ( 2765 )
    Hình dung nhan sắc cũng tày Cúc Hoa
    Gả cho trạng để giao hòa
    Nhường vì ngôi báu vua cha dưới này”
    Phạm Công lễ phép giãi bày:
    “Dù là tiên nữ mặt mày như hoa ( 2770 )
    Dù là bắc đẩu sao sa
    Tôi cũng chẳng thiết huống là con vua
    Thủy chung giữ đạo ngàn xưa”
    Long vương nhìn trạng, từ từ vuốt râu:
    “Vợ trạng tuyệt sắc hay sao ( 2775 )
    Trạng nói mặc trạng ai nào tin qua
    Con ta mắt phượng da ngà
    Chảy dài suối tóc mượt mà lưng ong”
    Phạm Công quỳ trước bệ rồng:
    “Tìm chưa thấy vợ trong lòng xót xa ( 2780 )
    Nếu như tính chuyện nguyệt hoa
    Thiếu gì người đẹp ngọc ngà dương gian”
    Long vương mới phán rõ ràng:
    “Gả nàng công chúa thêm nàng Cúc Hoa”
    Phạm Công đáp lại khoan hòa: ( 2785 )
    “Xin Người đừng nói nguyệt hoa thêm rầu”
    Long vương bèn phán ậm ào:
    “Số chàng còn phải dãi dầu quan san
    Ba năm rong ruổi gian nan
    Mới mong gặp đựoc vợ chàng Cúc Hoa” ( 2790 )
    Phán rồi vua trở vào tòa
    Phạm Công nước mắt chan hòa ra đi.

    ——————————————————–

    Thủy cung công chúa sầu bi
    Nói cùng quan trạng tỉ tê mấy lời:
    “Cha thiếp nói dối chàng thôi ( 2795 )
    Cúc Hoa đã ở gần rồi chàng ơi
    Mười ngày chàng sẽ tới nơi
    Bõ công lặn lội không ngơi bấy chầy
    Thiếp đưa chàng quá một ngày
    Tới Diêm quan phủ thấy ngay thôi mà ( 2800 )
    Việc thời phải có mẹ cha
    Đưa chàng chẳng tiện đường xa thương chàng
    Phạm Công nhỏ nhẹ bảo nàng:
    “Có chăng trở lại đền vàng hẵng hay”
    Công chúa bèn đáp lời ngay: ( 2805 )
    “Dù không trở lại nơi đây mặc lòng
    Rồi ra chàng nhớ hay không
    Riêng thiếp thì vẫn vô cùng xót thương
    Chàng ơi đến đó nhiều đường
    Một khi lạc bước không phương đôi hồi ( 2810 )
    Nhiều tinh quỷ lắm chàng ơi
    E khi nó đón chàng thôi giữa đường
    Làm sao tránh chuỵên bất thường
    Âu là viết sắc cho chàng đi qua
    Nửa chừng có gặp yêu ma ( 2815 )
    Cùng là tinh thủy thảy đà phải thôi”
    Những đang ngần ngại bồi hồi
    Nàng đà phát sắc xong xuôi mọi bề
    Phạm Công lĩnh sắc tức thì
    Nhìn nàng mà lệ phân kỳ rưng rưng. ( 2820 )
    Đưa trạng thêm mấy độ đường
    Xốn xang ước được dặm trường cùng ai
    Công chúa lặng lẽ thở dài:
    “Gối rêu nằm đất từ nay thương chàng
    Chiếu đà trải dọc trải ngang ( 2825 )
    Xót thay quan trạng tàn vàng bỏ không”
    Phạm Công vuốt má ngựa hồng
    Cả hai hớn hở trong lòng ra đi
    Đường xa trở ngại sá gì
    Chẳng may lạc bước khó bề trở tay. ( 2830 )

    16. Hồn Phạm Công Du Địa Phủ
    1 –

    Phạm Công chưa kịp nghĩ suy
    Ngựa hồng đã tới biên thùy Long vương
    Nghe tù kêu khóc bốn phương ( 2205 )
    Rầm rập quỷ sứ đầy đường ghê sao
    Chàng bèn tế ngựa xông vào
    Quân canh mấy đứa thét gào răng nhe:
    “Nơi đây là ngục An Tỳ
    Có tội mà chết dẫn về giam ngay ( 2210 )
    Việc chi ông đến chốn này?”
    Lựa lời trạng mới giải bày trước sau:
    “Ta là tể tướng Trịnh châu
    Xuống đây tìm vợ bấy lâu cách vời
    Xin cho mở ngục ra coi ( 2215 )
    Cúc Hoa mệnh phụ có nơi cửa người”.
    Giám ngục lễ phép rước mời
    Dẫn đường quan trạng tới nơi xem liền
    Thấy người trong ngục thảm phiền
    Gầy gò nhơ nhuốc gông xiềng kêu la ( 2220 )
    Mấy nơi kinh khiếp vào ra
    Tưởng rằng đây có Cúc Hoa thêm sầu
    Chung quanh lửa nấu vạc dầu
    Tìm nàng chẳng thấy biết đâu chốn nào
    Phạm Công mới hỏi trước sau: ( 2225 )
    “Điện này tùy thuộc vị nào Long vương
    Muốn ra mắt hỏi tỏ tường
    Làm ơn xin hãy vẽ đường cho ta”
    Quỷ bèn chỉ trỏ gần xa
    Phạm Công bước tới tòa nhà bên kia ( 2230 )
    Chàng Cả ra đón tức thì:
    “Phò Mã chắc có việc gì xuống đây”
    Phạm Công từ tốn giãi bày:
    “Vợ tôi sớm xuống cõi này Diêm la
    Tên nàng là ả Cúc Hoa ( 2235 )
    Có đang giam cấm trong tòa hay không
    Xin Người thứ lỗi đột xông
    Bảo cho tôi rõ vâng mòng trước sau”
    Chàng Cả tra sổ lắc đầu:
    “Cúc Hoa hồn ấy không vào nơi đây” ( 2240 )
    Phạm Công nghe nói thở dài:
    “Thảo nào tìm mãi tìm hoài không ra”
    Lại đi xem xét gần xa
    Thấy người bị tội rên la kêu gào
    Bốn bề lửa cuốn rào rào ( 2245 )
    Tứ chi trói chặt ném vào ghê thay
    Cháy chân thôi lại cháy tay
    Xương da máu thịt từ rày thành tro
    Thấy người bị tội thêm lo
    Mịt mùng tìm vợ hỏi dò không ra ( 2250 )
    Phạm Công bước tới lân la:
    “Tù này khi sống tội đà phạm chưa”
    Quỷ sứ cứ thực trình thưa:
    “Tù này nói thiếu nói thừa bấy lâu
    Đặt điều vu khống hiểm sâu ( 2255 )
    Đến lúc chết xuống dẫn vào giam đây”
    Phạm Công nhìn sang phía tây
    Hỏi có bao cửa nơi đây cần tìm
    Chàng Cả hắng giọng đáp liền:
    “Cửa này là cửa đầu tiên thôi mà ( 2260 )
    Còn cửa Chàng Hai Chàng Ba
    Chàng Tư gần đó xa là Chàng Năm”
    Mịt mùng hun hút cõi âm
    Phạm Công ớn lạnh khấn thầm Cúc Hoa
    Chàng bèn bái tạ trở ra ( 2265 )
    Ngựa hồng nước kiệu tà tà chạy đi.

    —————————————————-

    Trịnh vương hỏi kính tức thì:
    “Lộ trình của trạng hướng về phương nao”
    Công chúa vội vã quỳ tâu:
    “Chàng Cả tiếp trạng trên lầu Long vương ( 2270 )
    Đây không thấy Cúc Hoa nương
    Trạng lại lên đường tìm kiếm các nơi”.

    2 –

    Phạm Công đến cửa thứ hai
    Ngục tối từng dãy rụng rời mắt trông
    Đội chậu máu ngồi bàn chông ( 2275 )
    Vạc dầu sùng sục lửa hồng liếm quanh
    Phạm Công ngỡ có vợ mình
    Vội vàng bước tới trần tình trước sau
    Quỷ sứ quát mắng phủ đầu:
    “Chàng nào táo tợn cửa lầu đột xông ( 2280 )
    Cửa này là cửa Long cung
    Bọn tù nặng tội giam cùng nơi đây”
    Phạm Công nghe nói vào ngay
    Thử tìm nàng ở chốn này may ra
    Hay đâu thấy những mụ già ( 2285 )
    Lưng buộc vào cột kêu la nhộn nhàng
    Phạm Công bèn hỏi khẽ khàng:
    “Cõi dương chúng phạm rõ ràng tội chi”
    Giám ngục phải trái phân bì:
    “Bọn này trần thế chắc gì đã hay ( 2290 )
    Mua nhiều bán ít xưa nay
    Lúc mua đong đầy lúc bán đong vơi
    Bởi tham nên đã hại người
    Tội mình mình chịu kêu thời kêu ai
    Thóc lép đong vơi cho vay ( 2295 )
    Khi đòi thóc chắc đong đầy mới thôi
    Tính ra vốn một lãi mười
    Làm cho dương thế lắm người lao đao”
    Chăm chăm nhìn trước ngó sau
    Tìm hoài mà có thấy nào Cúc Hoa ( 2300 )
    Phạm Công châu lệ chan hòa
    Chàng Hai đủng đỉnh bước ra khỏi lầu
    Lại gần hỏi nhỏ một câu:
    “Hẳn quan phò mã người đâu cõi trần”
    Trạng rằng: “Vợ phải thác oan ( 2305 )
    Bỏ hai con dại dương gian bấy chầy
    Cho nên thương nhớ lâu ngày
    Từ miền xa đến nơi đây tìm tòi”
    Chàng Hai sốt sắng tươi cười:
    “Vợ quan phò mã sinh thời tên chi” ( 2310 )
    Hỏi rồi chú ý lắng nghe
    Lát sau dẫn trạng cùng đi vào tòa
    Lần lần lật sổ ra tra:
    “Buồn thay vợ trạng không qua chốn này
    Nếu như giam cấm nơi đây ( 2315 )
    Thì trẫm cho phép về ngay với chồng”
    Phamj Công bái biệt não lòng
    Thẫn thờ lên ngựa sang vùng Chàng Ba.

    ———————————————————-

    Trịnh vương sốt ruột lân la:
    “Xuân Dung con hỡi trạng đà đến đâu” ( 2320 )
    Tức thì công chúa quỳ tâu:
    “Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Hai
    Tìm nàng chẳng thấy tăm hơi
    Lệ châu chan chứa mấy hồi sầu bi
    Tạ từ trạng sắp ra đi ( 2325 )
    Chàng Ba chưa rõ hướng về nơi nao”

    ———————————————————-

    Chàng Hai chỉ dẫn thấp cao:
    “Đường đi khủng khiếp dẫn vào Chàng Ba
    Bao nhiêu cạm bẫy giăng ra
    Dám xin tính hết gần xa mọi đường ( 2330 )
    Hiểm nguy hẳn trạng khó lường
    Cầu mỏng như giấy bắc sang Ngân hà
    Dưới sông toàn những mãng xà
    Thấy người cất cổ bằng ba con sào
    Đùng đùng sấm thét mưa gào ( 2335 )
    Quan trạng khó nỗi đi sao vẹn tuyền”
    Phạm Công nghe đáp lại liền:
    “Dù cho rắn rết hàng nghìn quản chi
    Đến đây mà lại quay về
    Làm sao giữ được trọn bề thủy chung” ( 2340 )
    Chàng Hai mới nói: “Mặc lòng
    Ở đây quán xá thì không có rồi
    Lòng thương quan trạng lắm thôi
    Muốn ban cho yến ăn rồi sẽ đi
    Nhưng ăn là khó nỗi về ( 2345 )
    Chẳng biết cho trạng vật gì đặng yên
    Biếu trạng một quả đào tiên
    Của bà Vương mẫu ban truyền xuống cho
    Ăn vào mấy tháng vẫn no
    Người đuợc cứng cáp không lo trở trời” ( 2350 )
    Phạm Công ăn một nửa quả thôi
    Một nửa cho ngựa xong rồi ra đi
    Ăn xong khỏe mạnh tức thì
    Ngựa hồng nó mới từ bi trong lòng
    Phạm Công bèn hỏi ngựa hồng: ( 2355 )
    “Đường xa ngàn trùng đi tiếp hay lui?”
    Ngựa hồng lẩm bẩm ngùi ngùi:
    “Đến đây mà lại chịu lùi sao đang”
    Người nghe cũng thấy vững vàng
    Nhảy lên mình ngựa tìm đường đi qua ( 2360 )
    Mênh mang một dải Ngân hà
    Mắt vừa nom thấy lòng đà ghê ghê
    Mặt cầu khấp khểnh lè tè
    Chân cầu rắn rết đầy phè bâu đen
    Ngựa hồng chỉ biết đứng yên ( 2365 )
    Run run gõ móng liền liền hí vang
    Cầu dài ván ghép mỏng tang
    Bước lên sao đặng mà sang sông này
    Phạm Công xuống ngựa tháo hài
    Chắp tay quỳ xuống vái dài gần xa ( 2370 )
    Khấn trời lại khấn Cúc Hoa
    Cho chàng mọc cánh bay qua cầu vồng
    Bởi chàng hiếu hạnh thủy chung
    Mãng xà lặn xuống mà không làm gì
    Bấy giờ trạng mới ra đi ( 2375 )
    Ngựa hồng cẩn trọng liệu bề bước qua
    Than rằng: “Em hỡi Cúc Hoa
    Em đi đâu mất cho ta cực tình”
    Khấn cầu thiên địa quang minh
    Vái trình Hà bá vái trình Thổ công ( 2380 )
    Khỏi cầu trạng mới mừng lòng
    Tưởng mãng xà nuốt giữa sông Ngân hà.

    3 –

    Bấy giờ đến cửa Chàng Ba
    Tường vàng mái bạc mấy tòa chan chan
    Phạm Công trong dạ bàng hoàng ( 2385 )
    Thấy bao thảm cảnh kêu van tứ bề
    Ngựa hồng sợ chẳng dám đi
    Nhà thì lửa cháy đất thì chuyển rung
    Tiếng rên tiếng hú không ngừng
    Phạm Công nghe thấy cảm thương lệ nhòa ( 2390 )
    Tù đông nghĩ có Cúc Hoa
    Liều mình đi tới may mà gặp chăng
    Quỷ sứ sát khí đằng đằng:
    “Người nào dám đến nói năng gạn gùng”
    Phạm Công vội cởi tấc lòng: ( 2395 )
    “Vì thương nhớ vợ nên chồng phải đi
    Gian nan vất vả quản chi
    Theo chân nàng xuống âm ty tìm về”
    Ngắt lời, giám ngục tỉ tê:
    “Vợ chàng trần giới tên gì bảo ta” ( 2400 )
    Phạm Công lễ phép trình qua:
    “Người đời vẫn gọi Cúc Hoa tên nàng”
    Giám ngục bước một khẽ khàng
    Dẫn chàng tới trước ngai vàng quỳ tâu:
    “Trạng nguyên phò mã Đăng Châu ( 2405 )
    Từ xa lặn lội đến chầu thiên nhan
    Vợ trạng đã phải thác oan
    Nay trạng rời chốn trần gian đi tìm
    Qua hai cửa vẫn im lìm
    Cúi xin bệ hạ kiếm thêm khu mình” ( 2410 )
    Tìm hoài chẳng thấy bóng hình
    Vua khuyên ngưng tạm lộ trình nghỉ ngơi
    Phạm Công buồn bã buông lời:
    “Vợ tìm chẳng thấy ngồi chơi làm gì”
    Bụng chàng nhớ lại một khi ( 2415 )
    Hôm qua tìm vợ đường đi xa gần
    Nhìn thấy những kẻ thanh tân
    Gông cùm kìm kẹp kêu van ầm nhà
    Chàng bèn lựa lúc hỏi qua:
    “Tội kia dương thế xưa đà sao đây” ( 2420 )
    Giám ngục rầu rĩ thưa bày:
    “Tại nơi trần giới theo trai bỏ chồng”
    Phạm Công nghe nói mủi lòng:
    “Đam mê cho lắm đèo bòng khổ thân”
    Thấy cảnh hành tội ngoài sân ( 2425 )
    Chẻ đầu cưa đoạn róc dần thịt xương
    Hóa ra là bọn cướp đường
    Chết xuống phải tội ngục trường Diêm la
    Đàng kia có một đàn gà
    Mỏ dài cựa sắc lấy đà xông vô ( 2430 )
    Mổ lia lịa một bọn tù
    Tứ chi gông chặt đầu u mặt bầm
    Cõi trần tham lại còn thâm
    Thấy trứng gà ấp liền cầm hết đi
    Cho nên thác xuống âm ty ( 2435 )
    Bắt cho gà mổ thân thi đêm ngày
    Chàng nhìn thấy ở phía tây
    Có một bọn nữa ngồi nhai bên hồ
    Tay vừa vốc nước lên tu
    Miệng vừa nhổ xuống hu hu kêu trời ( 2440 )
    Hỏi ra mới biết là người
    Cõi trời ăn uống tứ thời đổ tung
    Làm ra hạt thóc nhọc lòng
    Chúng lại tống táng xuống hồ xuống sông
    Chết rồi vẫn phải tù đồ ( 2445 )
    Bắt nhai những thứ cơ hồ vứt đi
    Mới hay rằng chốn âm ty
    Công bằng khôn tả chẳng gì bỏ qua
    Tìm hoài chẳng thấy Cúc Hoa
    Phạm Công châu lệ chan hòa thương thay ( 2450 )
    Chàng Ba mới bảo như vầy:
    “Ba ngày trạng hãy ở đây dần dà
    Cửa này không có Cúc Hoa
    Thì trạng phải xuống tới tòa đàng kia”.

    ——————————————————–

    Trịnh vương phán hỏi vân vi: ( 2455 )
    “Xuân Dung con hỡi trạng đi phương nào
    Ngồi đồng ba tháng gian lao
    Có còn thấy trạng ra vào bảo cha”
    Xuân Dung chậm rãi tâu qua:
    “Trạng nguyên hiện được Chàng Ba rước mời ( 2460 )
    Trên tòa cơm nước chưa thôi
    Ăn xong trạng xuống lâu đài Chàng Tư
    Lúc này cửa ấy lờ mờ
    Nhìn mà chưa thấy chàng vô xứ nào”.

    4 –

    Phạm Công trong dạ nôn nao ( 2465 )
    Cầm cương thúc ngựa phóng ào tên đưa
    Thoắt vào đến cửa Chàng Tư
    Ngựa dừng lại thở đợi chờ bên trong
    Ngạt ngào những vị hương xông
    Trong thành chẳng có một gông tù nào ( 2470 )
    Nơi nơi xanh liễu thắm đào
    Bốn bề dân sự làm sao mặc lòng
    Phạm Công mới hỏi ngựa hồng:
    “Hãy xem tù ngục có không, bạn hiền”
    “Cửa này như thể cõi tiên” ( 2475 )
    Ngựa cất tiếng hí vang miền thành đô
    Nóng lòng gặp được Chàng Tư
    Phạm Công xuống ngựa bước vô tâu trình
    Giãi bày sau trước phân minh
    Xin tìm vợ thác trọn tình keo sơn ( 2480 )
    Chàng Tư lời lẽ ân cần:
    “Sao mà quan trạng thâm ân dường này
    Làm quan chức tước tước cao vầy
    Thiếu gì nữ sắc trần ai mời chào”
    Chàng Tư lại nói thấp cao: ( 2485 )
    “Hễ trạng nhìn thấy ngục nào kiếm ngay
    Lòng ta chẳng tiếc mảy may
    Xin trạng chớ có nơi đây nghi ngờ”
    Ngựa hồng cạnh chủ bấy giờ
    Cũng giương đôi mắt thăm dò đăm đăm ( 2490 )
    Đàn bà kể tới mấy trăm
    Lăn đùng ra chết hằng năm vô vàn
    Bởi vì sống ở dương gian
    Canh khuya tắm lạnh cảm hàn như chơi
    Nắng trưa không nón đầu phơi ( 2495 )
    Chết uổng rồi lại kêu trời rằng oan
    Chàng Tư mới nói nhặt khoan:
    “Cho gọi mỹ nữ a hoàn ra đây
    Đặng cho quan trạng xem ngay
    Cúc Hoa vợ trạng chốn này có chăng ( 2500 )
    Kẻo ta chẳng thực cùng chàng
    Tùy chàng nhận lấy mặt nàng Cúc Hoa
    Nào nào công chúa bước ra
    Để chàng nhận diện cho ta yên lòng”
    Tìm hết đằng tây đằng đông ( 2505 )
    Chẳng nơi nào thấy bóng hônfg Cúc Hoa
    Cuối cùng vua mới nói ra:
    “Có khi phải xuống dưới tòa Chàng Năm”
    Phạm Công trong dạ chăm chăm
    Dù phải tìm khắp cõi âm cũng tìm. ( 2510 )

    ———————————————————-

    Trịnh vương lòng chẳng được yên
    Phán hỏi công chúa trạng nguyên nơi nào
    Nàng liền mạch lạc quỳ tâu:
    “Trạng nguyên còn ở duới lầu Chàng Tư
    Chốn này không có bóng tù ( 2515 )
    Thấy đàn bà tắm nô đùa ven sông
    Chàng Tư giúp trạng hết lòng
    Vẫn chưa có đặng vân mòng Cúc Hoa
    Đường về Chàng Năm khá xa
    Lúc này chưa rõ trạng ra hướng nào”. ( 2520 )

    ———————————————————–

    Phạm Công bước khỏi lầu cao
    Buồn lòng chẳng biết lối nào tìm đi
    Chàng Tư nhỏ nhẹ vân vi:
    “Từ đây đến đấy đường nguy hiểm mà
    Bao nhiêu rồng lửa mãng xà ( 2525 )
    Quấn quanh lúc nhúc nghĩ đà ghê sao
    Tứ bề chớp giật gió gào
    Liệu chàng còn biết lối nào mà đi”
    Phạm Công đáp lại tức thì:
    “Đến đây mà lại quay về sao nên ( 2530 )
    Tử sinh số mệnh tại thiên
    Gian nan đến mấy cũng xin cam lòng”
    Bấy giờ mới bảo ngựa hồng:
    “Nếu không đi đặng liều chừng về thôi”
    Ngựa hồng chững chạc đáp lời: ( 2535 )
    “Tìm bà tôi chẳng đôi hồi vấn vương”
    Nhanh chân người ngựa lên đường
    Đi đựơc một lúc thì vương mãng xà
    Vừa nhìn thấy trạng đi qua
    Nó liền băng tới đầu đà cất cao ( 2540 )
    Rồng lửa hìen thảo làm sao
    Né mình nhường lối khác nào người thân
    Mãng xà thấy thế phân vân
    Cúi đầu chép miệng âm thầm bò đi
    Ngựa hồng qua được một khi ( 2545 )
    Vội tung bốn vó liệu bề rời xa.

    ———————————————————–

    Thêm một tháng nữa trôi qua
    Bấy giờ mới tới được tòa Chàng Năm
    Bốn bề lửa cháy ầm ầm
    Hai bên cấm cửa binh âm áp vào ( 2550 )
    Gió to ngọn lửa càng cao
    Phạm Công cưỡi ngựa thẳng vào bản doanh
    Quân canh sau cửa hoành hành
    Gươm trần chúng tuốt chung quanh sáng lòa:
    “Chém đầu đi quách không tha ( 2555 )
    Tên nào chẳng biết vào tòa Chàng Năm”
    Phạm Công quát lại rầm rầm:
    “Hãy nói với hắn ta cần gặp ngay
    TA là người ở trên mây
    Ngọc hoàng dạy xuống nơi đây khám tù ( 2560 )
    Lệnh trời đâu phải chuyện đùa
    Chúng mày lếu láo chẳng vừa ý ta”
    Quân canh thôi quát thôi la
    Vội vàng quay gót vào tòa Chàng Năm
    Chàng Năm nổi nóng lầm bầm: ( 2565 )
    “Thói người trần giới cõi âm xem thường
    Oai nghiêm nhất chốn công đường
    Dù là sứ giả Ngọc hoàng đến đây
    Dù là người ở trên mây
    Trói mà đánh tuốt nơi này không tha ( 2570 )
    Một mình một ngựa xông pha
    Thằng nào dám đến mà tra chốn này”
    Phạm Công bước xuống chắp tay
    Trông chàng lễ độ mà đầy quyền uy
    Chàng Năm thấy vậy tức thì ( 2575 )
    Trải hai hàng chiếu lễ nghi chào mời
    Ngỡ là thiên sứ trên trời
    Bá quan văn võ đồng thời bước ra
    Phạm Công quỳ xuống khoan hòa:
    “Tôi người trần giới rất xa chốn này ( 2580 )
    Cúc Hoa là vợ xưa nay
    Mới ba mươi tuổi chẳng may lìa đời
    Để hai con dại mồ côi
    Nhớ thương tôi xuống tìm tòi âm cung
    Nghĩ rằng có ở ngục trong ( 2585 )
    Nên đà mạn phép đột xông kiếm nàng”
    Triều đình ai cũng ngỡ ngàng
    Chàng Năm nước mắt hai hàng thương thay:
    “Thế mà trạng chẳng bảo ngay
    Lại nói thiên sứ xuống đây khám tù” ( 2590 )
    PHạm Công thú thật cùng vua:
    “Không dùng chước ấy khó vô nơi này”
    Vua cười truyền ở cửa ngay
    Cho chàng xem hết đặng hay chân tình
    Tù đông phải đến hàng nghìn ( 2595 )
    Chẳng ai giống mặt giống hình mà mong
    Phạm Công cùng với ngựa hồng
    Tìm nàng chẳng thấy rầu lòng bước ra
    Oang oang tiếng quát gần xa
    Giám ngục từng đám khảo tra trong ngoài ( 2600 )
    Thấy đoàn con gái hoang t hai
    Mặc đồ nhơ uế rạc rài héo hon
    Nhác trông thân thể gầy mòn
    Nước nôi không có nuôi con cực lòng
    Cả đoàn bị cấm xuống sông ( 2605 )
    Mẹ con ghẻ lở tắm trong vũng bùn
    Phạm Công nhìn thấy hãi hùng
    Bước vào tâu với bệ rồng phân minh:
    “Hoang thai là chuyện tội tình
    chứ đâu có phải tội hình xưa nay ( 2610 )
    Đời mẹ lầm lỗi đã vầy
    Hay gì cái vịec đọa đày đời con
    Trời sinh có nước có n on
    Phải năng tắm rửa mới luôn an hòa”
    Chàng Năm gật gật nghe ra ( 2615 )
    Truyền tha tất cả đàn bà hoang thai
    Phạm Công tìm mãi tìm hoài
    Cúc Hoa chẳng thấy lệ dài chứa chan
    Thấy đoàn phù thủy kêu van
    Binh âm khảo đả nhộn nhàng như ong ( 2620 )
    Chuông treo trống buộc đầu gông
    Phạm Công bèn hỏi cõi dương tội gì
    Chàng Năm mặt vẫn lầm lì:
    “Bọn thầy phù thủy chuyên bề gian ngoan
    Khua chuông gõ trống rộn ràng ( 2625 )
    Lại còn thét mắng Long vương đêm ngày
    Ai người biết được bọn này
    Đảo điên mà định làm thầy thế gian”
    Phạm Công bộc bạch nguồn cơn:
    “Làm thầy chẳng lẽ lại nhờn với ma ( 2630 )
    Không cho thét mắng kêu la
    Làm sao đuổi quỷ xua tà cho an
    Nói xằng vâng lệnh Ngọc hoàng
    Sai tà làm bệnh tìm đường kiếm ăn
    Chúng đà dại dột muôn phần ( 2635 )
    Cúi xin lượng cả gia ân khoan hồng”
    Chàng Năm cũng thấy mủi lòng
    Cả đoàn phù thủy cuối cùng được tha
    Phạm Công nhìn kỹ nhận ra
    Sư mô một bọn trong tòa lô nhô ( 2640 )
    Cạo đầu dối thế mơ hồ
    Cũng đang giam chấp tù đồ kêu rên
    Tiếng rằng tụ tập đạo thiền
    Mắt lo nhìn gái mồm quen thịt thà
    Chúng đi quyên góp người ta ( 2645 )
    Nói rằng tô tượng cùng là đúc chuông
    Tiền nong của khách thập phương
    Đem về nuôi béo một phường gian ngoan
    Cõi dương tội đã rõ ràng
    Cho nên thác xuống vẫn đang lao tù ( 2650 )
    Phạm Công rằng: “Thật hư vô
    Lòng tà niệm phật sớm trưa ích gì”
    Ngó quanh trong dạ sầu bi:
    “Cúc Hoa không biết giạt về nơi đâu?”
    Một mình ra tới phía sau ( 2655 )
    Thấy lũ thầy bói lao nhao khóc ròng
    Chậu thau lật úp bên gông
    Một tay cầm quẻ người trông la đà
    Một tay rờ túi xuýt xoa
    Trước là kiếm lễ sau là độ thân ( 2660 )
    Cả đời đi kiếm miếng ăn
    Ngờ đâu thác xuống mang thân tội đày
    Phạm Công bước lẹ vào đây
    Lựa lời chàng mới tâu ngay thực thà:
    “Bởi chưng trời đất dựng ra ( 2665 )
    Quyền đâu đến quẻ bói khoa ở đời
    Thế gian vạn kẻ có tài
    Lỗi thầy bói chỉ ở lời thốt ra
    Dở hay tiền định thôi mà
    Ví dù không nói cũng ra làm vầy” ( 2670 )
    Chàng Năm mới bảo từ nay
    Thầy bói khỏi phải tội đày lao lung.

    ——————————————————-

    Đã hơn bốn tháng vua dương
    Đêm ngày cầu khấn trời thương trạng cùng
    Miệng hỏi nước mắt rưng rưng: ( 2675 )
    “Lộ trình của trạng theo phương hướng nào?”
    Xuân Dung công chúa liền tâu:
    “Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Năm
    Người đâu đại lượng từ tâm
    Phù thủy thầy bói trong tầm Diêm la ( 2680 )
    Chàng xin cho họ được tha
    Kính tối chưa thấy trạng ra phương nào.”
    Trịnh vương nước mắt tuôn trào
    Ngồi kính bốn tháng trạng sao chưa về
    THương nàng công chúa nhiều bề ( 2685 )
    Thức ròng bốn tháng người thì xanh xao.

    ———————————————————

    Phạm Công nhìn trước ngó sau
    Lạ lùng bèn hỏi một câu như vầy:
    “Lương y sao chẳng thấy đây
    Cùng là thầy dịch chốn này cũng không” ( 2690 )
    Chàng Năm mới nói thực lòng:
    “Lương y thầy dịch về cùng người ngay
    Họ có làm hại chi ai
    Mà bắt bớ họ về đày Diêm la”
    Một mình quan trạng trở ra ( 2695 )
    Gặp đoàn bán mắm kêu la bên hồ
    Âm ty chịu cảnh tù đồ
    Hai tay chặt cục nhuốc nhơ một đời
    Buôn mắm muốn đựơc nhiều lời
    Bao nhiêu nước cốt ngon thời chắt ra ( 2700 )
    Chỉ bán có thứ nước pha
    Lãi ăn cho lắm oan gia nỗi gì
    Tiền là tiền thật lấy về
    Mắm thì mắm giả dung chi kẻ tà
    Phạm Công qua đó trở ra ( 2705 )
    Thấy đoàn thầy mã ở tòa cửa đông
    Tội hình giáng xuống chẳng dung
    Thân kia phải đánh búa đồng tan xương
    Phạm Công mới hỏi tỏ tường:
    “Người ở trần giới đã vương tội gì” ( 2710 )
    Giám ngụcd dáp lại tức thì:
    “Làm nghề thợ mã cũng nghề gian ngoan
    Đồ mã chẳng có ruột gan
    Lấy tiền nói dối dương gian đã dày”
    Vợ chàng không có nơi đây ( 2715 )
    Phạm Công bèn hỏi liệu bài quay ra
    “Khu trẫm không có Cúc Hoa
    Mời trạng xuống cửa vua cha bên này
    Đất người thoáng đãng phía tây
    Đất người không có một ngày cùm gông”. ( 2720 )

    6 –

    Phạm Công lên ngựa ruổi rong
    Vòng vèo mấy khúc tới vùng vua cha
    Tứ bề đào mận nở hoa
    Suối trong nước lặng chan hòa ánh dương
    Bấy lâu ảm đạm một phương ( 2725 )
    Đến đây động phủ Long vương chói lòa
    Dập dìu đàn hát xướng ca
    Bá quan văn võ bước ra mời chào
    Long vương phán hỏi một câu:
    “Chẳng hay quan trạng dãi dầu việc chi?” ( 2730 )
    Phạm Công quỳ xuống đan trì
    Khấu đầu làm lễ tức thì trình qua:
    “Vợ tôi tên gọi Cúc Hoa
    Mới ba mươi tuổi xưa đà xuống đây
    Đi tìm hơn bốn tháng nay ( 2735 )
    Vẫn chưa gặp được lòng này xót xa”
    Long vương nghe nói cười xòa:
    “Hãy ăn yến đã Cúc Hoa thấy liền”
    Bá quan văn võ cùng khuyên:
    “Rồi trạng sẽ gặp vợ hiền ngay thôi” ( 2740 )
    Phạm Công bèn ngỏ một lời:
    “Vợ tìm không thấy ngồi chơi làm gì”.

    ——————————————————-

    Trịnh vương hết đứng lại đi
    Phán hỏi công chúa: “Trạng về phương nao”
    Xuân Dung sức lực tiêu hao ( 2745 )
    Bốn tháng thức trắng ngồi chầu ăn chay
    Nàng vẫn tỉnh táo tâu ngay:
    “Trạng nguyên mới đến cửa này Long vương
    Còn nghe tiếng nói tỏ tường
    Cả triều náo nức chào mừng trạng nguyên” ( 2750 )
    Công chúa lại nói tiếp liền:
    “Tòa vàng lặng lẽ sao nhìn vắng tanh”
    Vua hỏi: “Trạng có về nhanh”
    Nàng bèn quỳ tấu phân minh nhẹ nhàng:
    “Long vương yến tiệc mời chàng ( 2755 )
    Ắt là biết đặng đâu nàng Cúc Hoa”.

    ——————————————————–

    Trạng rằng: “Dạ thật an hòa
    Nếu gặp lại vợ tại nhà quân vương”
    Long vương đáp giọng vui mừng:
    “Ra ngươi vẫn nhớ quá chừng Cúc Hoa ( 2760 )
    Trẫm có công chúa trong tòa
    Mới mười tám tuổi tiên sa non bồng
    Ngồi thì đua nở hoa hồng
    Đứng thì ngào ngạt hương xông hoa nhài
    Đi thì én liệng bướm bay ( 2765 )
    Hình dung nhan sắc cũng tày Cúc Hoa
    Gả cho trạng để giao hòa
    Nhường vì ngôi báu vua cha dưới này”
    Phạm Công lễ phép giãi bày:
    “Dù là tiên nữ mặt mày như hoa ( 2770 )
    Dù là bắc đẩu sao sa
    Tôi cũng chẳng thiết huống là con vua
    Thủy chung giữ đạo ngàn xưa”
    Long vương nhìn trạng, từ từ vuốt râu:
    “Vợ trạng tuyệt sắc hay sao ( 2775 )
    Trạng nói mặc trạng ai nào tin qua
    Con ta mắt phượng da ngà
    Chảy dài suối tóc mượt mà lưng ong”
    Phạm Công quỳ trước bệ rồng:
    “Tìm chưa thấy vợ trong lòng xót xa ( 2780 )
    Nếu như tính chuyện nguyệt hoa
    Thiếu gì người đẹp ngọc ngà dương gian”
    Long vương mới phán rõ ràng:
    “Gả nàng công chúa thêm nàng Cúc Hoa”
    Phạm Công đáp lại khoan hòa: ( 2785 )
    “Xin Người đừng nói nguyệt hoa thêm rầu”
    Long vương bèn phán ậm ào:
    “Số chàng còn phải dãi dầu quan san
    Ba năm rong ruổi gian nan
    Mới mong gặp đựoc vợ chàng Cúc Hoa” ( 2790 )
    Phán rồi vua trở vào tòa
    Phạm Công nước mắt chan hòa ra đi.

    ——————————————————–

    Thủy cung công chúa sầu bi
    Nói cùng quan trạng tỉ tê mấy lời:
    “Cha thiếp nói dối chàng thôi ( 2795 )
    Cúc Hoa đã ở gần rồi chàng ơi
    Mười ngày chàng sẽ tới nơi
    Bõ công lặn lội không ngơi bấy chầy
    Thiếp đưa chàng quá một ngày
    Tới Diêm quan phủ thấy ngay thôi mà ( 2800 )
    Việc thời phải có mẹ cha
    Đưa chàng chẳng tiện đường xa thương chàng
    Phạm Công nhỏ nhẹ bảo nàng:
    “Có chăng trở lại đền vàng hẵng hay”
    Công chúa bèn đáp lời ngay: ( 2805 )
    “Dù không trở lại nơi đây mặc lòng
    Rồi ra chàng nhớ hay không
    Riêng thiếp thì vẫn vô cùng xót thương
    Chàng ơi đến đó nhiều đường
    Một khi lạc bước không phương đôi hồi ( 2810 )
    Nhiều tinh quỷ lắm chàng ơi
    E khi nó đón chàng thôi giữa đường
    Làm sao tránh chuỵên bất thường
    Âu là viết sắc cho chàng đi qua
    Nửa chừng có gặp yêu ma ( 2815 )
    Cùng là tinh thủy thảy đà phải thôi”
    Những đang ngần ngại bồi hồi
    Nàng đà phát sắc xong xuôi mọi bề
    Phạm Công lĩnh sắc tức thì
    Nhìn nàng mà lệ phân kỳ rưng rưng. ( 2820 )
    Đưa trạng thêm mấy độ đường
    Xốn xang ước được dặm trường cùng ai
    Công chúa lặng lẽ thở dài:
    “Gối rêu nằm đất từ nay thương chàng
    Chiếu đà trải dọc trải ngang ( 2825 )
    Xót thay quan trạng tàn vàng bỏ không”
    Phạm Công vuốt má ngựa hồng
    Cả hai hớn hở trong lòng ra đi
    Đường xa trở ngại sá gì
    Chẳng may lạc bước khó bề trở tay. ( 2830 )

    18. Phạm Công Tìm Thấy Cúc Hoa
    Phạm Công ruổi ngựa đi lên
    Hai bên thạch nhũ dấu tiên rườm rà
    Lối này không thấy ai qua
    Ven đường rực rỡ trăm hoa khoe màu
    Trên cao hạc múa rồng chầu ( 2995 )
    Bên dưới uốn khúc sông sâu thanh bình
    Xem ra sơn thủy hữu tình
    Rập rờn uốn lượn tường thành toàn hoa
    Thảnh thơi người ngựa đi qua
    Không gặp tù ngục cùng là quân canh ( 3000 )
    Mênh mang trời nước trong lành
    Bên bờ hoa rộ trên cành chim ca
    Sông này tên gọi Giang hà
    Hợp lưu hai ngọn giao hòa xanh xanh
    Ngựa hồng mừng rỡ chạy quanh ( 3005 )
    Bõ khi qua chốn hôi tanh ngục tù
    Đến đây thấy hết âm u
    Tắm sông chơi với ngày thu thỏa lòng
    Tha hồ kì móng kì lông
    Thơm tho rồi mới rời dòng chạy lên ( 3010 )
    Ngựa hồng gặm cỏ kề bên
    Phạm Công xuống tắm giang biên chói lòa
    Một đoàn đầy tớ Cúc Hoa
    Ba mươi cô gái bước hòa thong dong
    Lụa xanh đua với nhiễu hồng ( 3015 )
    Cởi ngay áo yếm nhắm sông Giang hà
    Ngựa hồng ngó thấy người ta
    Rung người vươn cổ hí la liền liền
    Đám người xinh đẹp nhuư tiên
    Thoắt thôi mắc cỡ thảy bèn kêu la ( 3020 )
    Phạm Công nghe tiếng đàn bà
    Liệu bài chàng mới bước ra dần dần
    Đám người bỏ chạy rần rần
    Tay vung miệng hét khổ thân làm vầy
    Đàn ông cấm đến nơi đây ( 3025 )
    Nữ nhi quen lối lâu nay xuề xòa
    Tưởng như mọi bữa xông pha
    Tha hồ ưỡn ẹo đẫy đà tấm thân
    Phăng phăng cởi áo tụt quần
    Buông tay xõa tóc nhảy ầm xuống sông ( 3030 )
    Tưởng rằng chẳng có đàn ông
    Ngờ đâu lại thấy Phạm Công chốn này
    Ngời ngời một đấng râu mày
    Cả ba mươi đứa chân tay rụng rời
    lấy gì mà đậy hỡi trời ( 3035 )
    Tay che chân chạy một hơi lên bờ
    Áo quần rối rít mặc vô
    Rào rào tiếng chửi tựa hồ đàn ong:
    “Khúc sông quen thuộc lặng dòng
    Bỗng dưng lồ lộ một ông như vầy ( 3040 )
    Thằng nào quái gở đến đây
    Đáng cho Thập điện lệnh ngay chém đầu”
    Phạm Công đứng lặng hồi lâu
    Tai như không thấu những câu tục tằn
    Ngó quanh xem có ai chăng ( 3045 )
    Để nhờ phân giải hộ chàng mới xong
    Hết nhìn núi lại nhìn sông
    Cúi đầu nhẫn nhục Phạm Công thở dài:
    “Trên bờ có Thổ công đây
    Dưới nước Hà bá các ngài thủy quan ( 3050 )
    Dòng sông ta tắm đàng hoàng
    Khi không nó lại một đoàn chửi la
    Hôm nay tháng sáu mười ba
    Các ngươi làm chứng cho ta chuyện này”
    Bọn kia kéo một hàng dài ( 3055 )
    Quay về quỳ trước lâu đài tuôn ra:
    “Trình bà công chúa Cúc Hoa
    Xin soi xét kẻo oan gia có ngày
    Giang hà tắm gội bấy nay
    Một ông lạ mặt đến đây tranh phần ( 3060 )
    Chúng con chưa kịp tỏ phân
    Trước sau nó đã mồm năm miệng mười
    Chúng con lặng tiếng im hơi
    Vậy mà nó chửi liền thôi thưa bà”
    Diêm vương giận dữ quát la: ( 3065 )
    “Thằng nào xấc láo gần xa phương nào
    Chửi vua là chửi làm sao
    Khinh vua Thập điện ngôi cao cửu trùng
    Tội này phải trị mới xong
    Phải đem nói với hội đồng quốc gia ( 3070 )
    Ta là chúa tể mọi nhà
    Vậy mà hắn chẳng coi ta ra gì
    Hắn còn ở đấy hay đi”
    Ba mươi đầy tớ tâu quỳ vua cha:
    “Tay nó dắt ngựa hồng hoa ( 3075 )
    Minh fmặc áo giáp nguy nga lạ lùng”
    Vua sai mười tám thị đồng
    Rùng rùng chiêng trống thẳng sông Giang hà
    Đầy đường chỉ thấy can qua
    Cung tên giáo mác bày ra ngút trời ( 3080 )
    Lệnh nghiêm thuyền giữ khắp nơi
    Để chàng khó nỗi băng vời trốn đi
    Nhìn qua tán lá rậm rì
    Ngựa hồng thương trạng phải kỳ gian nan
    Quân quan la hết oang oang ( 3085 )
    Bủa vây kín mít trên ngàn dưới sông
    Thuyền ra vừa tới giữa dòng
    Phạm Công bèn hỏi gạn cùng mấy câu:
    “Hãy nói cho rõ vì đâu
    Mà bắt ta phải chầu chầu tra tra ( 3090 )
    Tay không ta đến từ xa
    Không làm điều ác lại ra thế này
    Mình ta là lính bu đầy
    Hỏi rằng ai mạnh bọn mày hay ta?”
    Quân quan lời lẽ khoan hòa: ( 3095 )
    “Chúng tôi vâng lệnh quốc gia thi hành
    Dám đâu làm sự tung hoành
    Xin đừng nghĩ quẩn nghĩ quanh làm gì”
    Cập bờ chúng dẫn chàng đi
    Bước nhanh về chốn kinh kỳ đông dân ( 3100 )
    Đủ mặt văn võ bá quan
    Vua giao công chuyện cho nàng Cúc Hoa
    Hai bên chư tướng giãn ra
    Ngồi sau trướng gấm nàng tra hỏi dần:
    “Bay khai có kẻ lần khân ( 3105 )
    Chắc là quen thói người trần quát la
    Bờ sông chửi mắng quân ta
    Từng đứa một hãy kể ra việc này
    Hỏi rằng khi nó chửi mày
    Cos ai gần đó nghe vầy hay không ( 3110 )
    Bên nguyên biên bản lập xong
    Sẽ cho bên bị thong dong trả lời
    Phòng bay vu cáo cho người
    Truyền đòi Hà bá kịp thời tới đây”
    Quan hầu vâng dạ đi ngay ( 3115 )
    Ra nơi sông rộng tính bài gọi ông.

    ——————————————————–

    Trịnh vương hỏi kính nóng lòng: ( 3120 )
    “Xuân Dung con hỡi trạng vòng phương nao”
    Kính ngồi canh trạng lao đao
    Vua lo cho trạng biết bao nhiêu ngày
    Một niềm cầu khấn ăn chay
    Thầm mong cho trạng bấy chầy bình yên ( 3125 )
    Nhẹ nhàng công chúa tâu lên:
    “Trạng nguyên đã xuống đến đền Cúc hoa
    Còn đang kiện tụng hỏi tra
    Vì bọn đầy tớ mà ra chuyện này”
    Trịnh vương nghe nói hỏi ngay: ( 3130 )
    “Đầu đuôi là tại ta sai hay người?”
    Công chúa cố nén bồi hồi:
    “Tại lũ con gái dựng lời nói ngoa”.

    ———————————————————-

    Quan hầu vừa mới đi ra
    Đã dẫn Hà bá về tòa làm cung: ( 3135 )
    “Nào khi chửi mắng ven sông
    Có phân bua đến cùng ông chăng là”
    Hà bá cứ nói thật thà:
    “Thần vốn làm chứng đã ba bốn đời
    Lỗi này là tại quân Người ( 3140 )
    Hùa nhau chửi mắng tơi bời đức ông
    Nói ngay thì sợ mất lòng
    Nói gian e tội chẳng xong phen này”
    Cúc Hoa bèn bảo rằng: “Hay!
    Hãy cung cho rõ cho ngay rồi về” ( 3145 )
    Lời cung tâu đến đan trì
    Diêm vương nghe rõ mọi bề mới hay
    Phán rằng: “Quả sự dường này
    Lỗi lầm là tại chúng bay ả hoàn
    Đem đi chém quách cả đoàn ( 3150 )
    Những đứa cứ muốn cáo oan cho người”
    Hà bá từ tạ lui rồi
    Vua truyền lệnh xuống bời bời quyền uy
    Đem ba mươi đứa nữ nhi
    Khai đao một lúc tức thì làm gương ( 3155 )
    Phạm Công quỳ lạy Diêm vương:
    “Xin Người lượng thứ rộng đường hiếu sinh
    Vì tôi họ phải tội hình
    Ắt là có kẻ oan tình chẳng không”
    Diêm vương nghe nói động lòng ( 3160 )
    Cả bọn được hưởng khoan hồng một khi
    Người bèn phán hỏi vân vi:
    “Chẳng hay chàng có việc gì xuống đây”
    Phạm Công cứ thực tâu bày:
    “Tôi là quốc trạng ở rày Trịnh bang ( 3165 )
    Vợ tôi là Cúc Hoa nương
    Mới ba mươi tuổi suối vàng than ôi
    Bỏ con thơ dại mồ côi
    Cho nên tôi phải băng vời tới đây
    Tìm tòi đã mấy tháng nay ( 3170 )
    Khắp mọi cửa ngục chốn này bặt tin
    Băn khoăn chưa biết căn nguyên
    Xin Người đoái tới lòng yên bội phần
    Cho nàng trở lại cõi trần
    Mẹ con chồng vợ được gần bên nhau” ( 3175 )
    Diêm vương thấu đặng nỗi đau
    Khen chàng phò mã nặng sâu nghĩa tình:
    “Âm dương cách biệt muôn nghìn
    Vậy mà chàng chịu tần phiền xuống đây”.

    19. Hạnh Phúc Vẹn Toàn
    Cúc Hoa nghe nói khóc ngay
    Vật mình xuống bệ tâu bày khúc nhôi:
    “Xưa con vâng mệnh đầu thai
    Cùng chàng sớm kết duyên hài sắt son ( 3180 )
    Ba mươi tuổi đặng hai con
    Phải về âm phủ héo hon bấy chầy
    Con thơ côi cút đắng cay
    Chồng thì đơn chiếc tháng ngày tủi thân”
    Vua lau nước mắt ân cần: ( 3185 )
    “Cha cho con lại cõi trần tái sinh
    Cùng chàng trọn nghĩa trọn tình
    Đúng sáu mươi tuổi về trình cha thôi
    Bấy giờ con sẽ tái hồi
    Có dâu có rể nối ngôi cửu trùng” ( 3190 )
    Vợ chồng bái tạ đền rồng
    Tức thì xe ngựa thẳng giong Trịnh thành.

    ———————————————————–

    Trịnh vương hỏi kính sự tình:
    “Chẳng hay quan trạng lộ trình đến đâu”
    Xuân Dung hớn hở quỳ tâu: ( 3195 )
    “Trạng nguyên chồng vợ gặp nhau vừa rồi
    Diêm vương cho họ tái hồi
    Độ cuối giờ ngọ về nơi cõi trần”
    Trịnh vương nghe nói mừng thầm
    Cho mời văn võ triều thần gần xa ( 3200 )
    Hồn trạng nhập xác sáng lòa
    Ngựa hồng với lại Cúc Hoa cùng về
    Vua truyền mở tiệc tức thì
    Mừng vợ chồng trạng đề huề từ đây:
    “Công nương cầm kính đêm ngày ( 3205 )
    Hẳn lòng khắc khoải bấy nay mong chờ”
    Trạng rằng: “Xin để toan lo
    Duyên sau nghĩa trước phải cho vẹn toàn”
    Cúc Hoa quỳ xuống hân hoan
    Xin cho một phượng hai loan sánh kề ( 3210 )
    Lòng già nhẹ nhõm hả hê
    Mừng vui con trẻ yên bề trăm năm
    Này tình cũ nọ duyên thầm
    Càng sâu duyên thắm càng đằm tình yêu
    Trạng liền bái tạ bản triều ( 3215 )
    Lọng tàn xe ngựa quân reo hằng hà
    Công chúa ở lại hầu cha
    Phạm Công cùng với Cúc Hoa lên đường
    Đến nhà tri phủ vội vàng
    Ông bà trông thấy lòng càng hồ nghi: ( 3220 )
    “Cúc Hoa nó đã thác đi
    Cớ sao tìm đặng mà về đến đây”
    Phạm Công kể hết niềm tây
    Lực Xuân thấy mẹ sà ngay vào lòng
    Nhìn cha nhìn mẹ nhìn chồng ( 3225 )
    Ôm con nàng cứ khóc ròng như mưa.

    ———————————————————

    Lòng vui ngày tháng thoi đưa
    Tạ từ cha mẹ bấy giờ vinh quy
    Quỳnh Vân ngựa kíp ruổi phi
    Từ đường lễ tạ nhà thì yến diên ( 3230 )
    Họ hàng chúng bạn láng giềng
    Đến mừng quan trạng như nêm một nhà
    Còn đang yến ẩm xướng ca
    Tin kinh có sứ triệu ra triều đình
    Đòi quan phò mã về liền ( 3235 )
    Làm người kế vị trị yên dân trời
    Cả nhà xiết nỗi mừng vui
    Lai kinh mừng đón sắc mời đăng quang
    Vua cha mến cảnh già lam
    Nên nhường cho trạng ngôi vàng từ nay. ( 3240 )

    ——————– H Ế T———————
     
    camapkss thích bài này.
  7. khiconmtv

    khiconmtv Cử nhân

    camapkss thích bài này.
  8. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    một dạng truyện giống này tên là Tống Trân Cúc Hoa (宋珍菊花 )
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Tống Trân Cúc Hoa (宋珍菊花 ) là một truyện thơ Nôm Việt Nam, khuyết danh, gồm 1.689 [1] câu lục bát, xuất hiện vào khoảng từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.

    Cốt truyện
    Tống Trân vốn là con cầu tự, khi chàng lên ba thì cha mất, nhà lâm cảnh nghèo khó. Tám tuổi, chàng phải dắt mẹ đi xin ăn. Một hôm, Tống Trân đưa mẹ tới một ngôi nhà quí phái, Cúc Hoa (con gái nhà này) thương tình đem gạo ra cho và sinh lòng yêu thương Tống Trân. Không cản ngăn được, cha Cúc Hoa đuổi nàng ra khỏi nhà. Cúc Hoa đi theo Tống Trân, lấy chàng làm chồng. Kể từ đó, Cúc Hoa vừa lo phụng dưỡng mẹ chồng, vừa lo cho chồng ăn học.
    Đến kỳ, Tống Trân lên kinh thi và đỗ Trạng nguyên. Nhà vua muốn gả con gái cho tân trạng, nhưng bị chàng khước từ. Công chúa sinh lòng thù ghét, xui cha cử Tống Trân đi sứ sang nước Tần (Trung Quốc). Sang bên ấy, Tống Trân bị vua Tần khinh ghét vì là sứ giả của “An Nam tiểu quốc”, đặt ra nhiều điều để hãm hại. Nhưng nhờ tài ba, trí tuệ, chàng đã vượt qua mọi thử thách, và xử thành công nhiều vụ án rắc rối. Vua Tần từ chỗ khinh ghét chuyển sang mến phục, phong Tống Trân làm Lưỡng quốc Trạng nguyên và định gả công chúa cho, nhưng chàng từ chối.
    Trong khi đó, Cúc Hoa ở nhà một dạ nuôi mẹ, chờ chồng. Được 7 năm, cha nàng thấy Tống Trân không về nên ép nàng lấy viên Đình trưởng trong làng. Cúc Hoa không nghe, bị cha nhốt lại, đánh đập tàn nhẫn và bắt mẹ Tống Trân phải xuống ở trong chuồng trâu. Quá đau khổ và để thủ tiết với chồng, Cúc Hoa đến núi Sơn Vi định quyên sinh. Thần Sơn Tinh thấu rõ tình cảnh, hóa phép thành mãnh hổ sang nước Tần để đưa thư của Cúc Hoa cho chồng. Tống Trân dâng bức thư ấy lên vua Tần, nhà vua cho chàng về nước trước kỳ hạn.
    Bấy giờ, thời gian ba năm ở rể của Đình Trưởng cũng đã hết, cha Cúc Hoa bèn tổ chức đám cưới thật linh đình. Giờ phút cuối, Cúc Hoa định quyên sinh thì Tống Trân xuất hiện, đám cưới tan vỡ. Mẹ con, chồng vợ gặp lại nhau xiết bao mừng tủi, còn cha Cúc Hoa thì bị vạch mặt nhục nhã.
    Quá thương yêu Tống Trân, công chúa nước Tần xin với vua cha sang nước Việt để gặp chàng. Ra đến biển, thuyền gặp bão lớn, công chúa bị sóng đánh trôi dạt vào bờ, được hươu nai cứu sống rồi nuôi nấng. Tống Trân đi săn trong rừng gặp công chúa nước Tần rồi đưa nàng về nhà. Cúc Hoa vui lòng để Tống Trân cưới thêm công chúa làm vợ thứ [2].
    Nhận xét
    Nguyễn Phương Chi:
    Tác phẩm Tống Trân Cúc Hoa lên án những thế lực tàn bạo đã ngăn cản, chà đạp lên tình yêu; đồng thời ngợi ca tấm lòng son sắt kiên trinh, ý chí phấn đấu vì hạnh phúc, vì tình yêu của những con người biết chống lại những thế lực vừa nêu và những lễ tục khắc nghiệt. Bên cạnh đó, Tống Trân Cúc Hoa còn là câu chuyện đi sứ, phản ánh mối bang giao phúc tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ngoài ra, tác phẩm cũng đã xây dựng tương đối thành công một số mẫu người Việt Nam truyền thống, đặt biệt là người phụ nữ với tâm hồn phong phú và đặc sắc.
    Về mặt nghệ thuật, Tống Trân Cúc Hoa là câu chuyện thuần túy Việt Nam. Khác với nhiều truyện Nôm khác, truyện này hầu như không sử dụng điển cố hoặc từ Hán Việt, nhưng lại sử dụng khá nhiều “môtíp” của truyện dân gian Việt Nam. Ngôn ngữ trong truyện cũng rất giản dị, rất gần lời ăn tiếng nói của con người bình dân. Thế nhưng, mạch đi của truyện còn rườm rà, do kết cấu chưa thật chặt chẽ, ngôn ngữ quá đơn giản, thiếu trau chuốt, chưa phải là thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu, hình ảnh. Mặc dù vậy, truyện vẫn được quần chúng lúc bấy giờ yêu thích và phổ biến rộng rãi[3].
    Từ điển bách khoa Việt Nam:
    Tống Trân Cúc Hoa đề cập những chủ đề quen thuộc: tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung; tài ba, trí tuệ và lòng dũng cảm của những người chân chính; thói tham lam của danh vọng tiền tài của tầng lớp trưởng giả. Điểm đặc sắc là sự kiện và nhân vật phần nào có tính chân xác lịch sử: theo tục truyền cũng như theo một số sử sách cũ và di tích, thì Tống Trân là nhân vật có thật. Chàng là người làng Vọng Phan (nay lấy tên là làng Tống Trân) bên bờ Sông Luộc, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Làng này và làng Yên Cầu cùng huyện nay vẫn có đền thờ Tống Trân, Cúc Hoa [4].
     
    camapkss thích bài này.
  9. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Phương Hoa (芳花)là một truyện thơ Nôm Việt Nam, thể lục bát, chưa biết năm ra đời và ai là tác giả.

    Văn bản
    Phương Hoa là một truyện thơ dựa theo truyền thuyết dân gian. Trong quá trình lưu hành, do có sự tham gia của các nhà văn, nên đã xuất hiện nhiều văn bản Phương Hoa khác nhau. Ngoài cuốn xưa nhất của tác giả khuyết danh (bản in hiện còn dài 1.160 câu lục bát, in năm 1901. Bản do Thanh Lãng giới thiệu dài 1.058 câu), còn có:
    Phương Hoa bị lục do Tường Bỉnh Nghĩa An Đường soạn, dài 1.278 câu lục bát.
    Phương Hoa tối tân truyện do Dật Sơn Nguyễn Ngạc Trì soạn, dài 1.364 câu, in năm 1915.
    Phương Hoa tân truyện do Nguyễn Cảnh[1] soạn trong thế kỷ 19, dài 1.674 câu lục bát.
    Tuy có nhiều văn bản, nhưng khá thống nhất ở cốt truyện.
    Cốt truyện
    Phương Hoa là con gái quan Ngự sử Trần Điện, và Cảnh Yên là con trai quan Thượng thư Trương Đài, đôi bên đã cùng nhau đính ước.
    Viên quan họ Tào (Tào trung úy), một gian thần được vua tin dùng, thấy Phương Hoa là người tài sắc bèn đến hỏi làm vợ. Bị Trần Điện từ chối, y bèn giả mạo chiếu chỉ nhà vua khép Trương Đài vào tội “vong thần mại quốc”, giết ông rồi còn chiếm đoạt hết tài sản. Hai anh em Cảnh Tỉnh, Cảnh Yên đưa mẹ chạy về Thạch Thành, giả làm tăng ni để lánh nạn. Được một tháng, vợ Cảnh Tỉnh sinh Tiểu Thanh rồi lâm bệnh mất.
    Bảy năm sau, tới kỳ “đại khoa”, vợ Trương Đài dẫn con cháu trở về quê. Dọc đường, họ dừng nghỉ ở Lôi Dương. Lúc này Phương Hoa vẫn một lòng thương nhớ và chờ đợi Cảnh Yên. Tình cờ, nàng gặp Tiểu Thanh rồi đưa về nhà nhận làm con nuôi. Nhờ đó, nàng biết được tình cảnh gia đình họ Trương. Thông qua Tiểu Thanh, Phương Hoa hẹn Cảnh Yên vào đúng canh ba đến đợi ở góc vườn hoa sẽ có người tới trao áo quần và tiền bạc. Không may việc bị lộ, tên gian là Hồ Nghi lẻn tới chỗ hẹn giết chết người tớ gái (Thị Liễu) của Phương Hoa để cướp của. Cảnh Yên tới nơi vô tình giẫm phải người chết, máu lấm khắp người. Ngự sử Trần Điện hay tin người tớ gái bị giết, bèn hạ lệnh truy tìm hung thủ. Lần theo dấu máu, Cảnh Yên bị bắt giam chờ ngày xét xử. Quá đau xót, mẹ Cảnh Yên sinh bệnh rồi mất. Phương Hoa thay Cảnh Yên lo việc chôn cất chu đáo, rồi xin cha mẹ được lên kinh đô bán hàng, nhưng sự thật là để tìm cách cứu Cảnh Yên.
    Ở kinh đô, ngày đêm luyện văn chương, tới kỳ “đại khoa”, Phương Hoa lấy tên Cảnh Yên dự thi. Nàng đỗ Tiến sĩ, được vua gọi vào chầu. Giữa triều đình, Phương Hoa tấu trình nỗi oan ức của gia đình họ Trương. Sau khi nhà vua rõ mọi chuyện, Tào trung úy và Hồ Nghi bị xử chém, gia đình họ Trương được minh oan. Ra khỏi nhà lao, Cảnh yên làm bài văn sách do vua ra đề. Xét văn, chàng được đặc cách đỗ Tiến sĩ cùng khoa với Phương Hoa. Gặp lại nhau, Cảnh Yên và Phương Hoa chính thức trở thành vợ chồng. Kết thúc tác phẩm là cảnh vợ chồng cùng về bái tổ vinh quy [2].
    Theo văn bản Phương Hoa (dài 1.058 câu) do giáo sĩ. Thanh Lãng giới thiệu, thì truyện gồm 5 hồi, và được giáo sư phân chia như sau:
    Hồi 1: Họ Trần và Họ Trương hứa gả con cho nhau (từ câu 1 đến câu 180).
    Hồi 2: Họ Trương gặp nạn (từ câu 181 đến câu 344).
    Hồi 3: Phương Hoa cứu giúp họ Trương (từ câu 345 đến câu 684).
    Hồi 4: Cảnh yên mắc oan bị tù (từ câu 685 đến câu 920).
    Hồi 5: Hai bên đoàn tụ (từ câu 921 đến câu 1058).
    Nhận xét
    Nhà nghiên cứu Nguyễn Phương Chi:
    Mượn câu chuyện trong dân gian Việt Nam (không mô phỏng tiểu thuyết hay sự tích của Trung Quốc), truyện Phương Hoa thể hiện cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và phi nghĩa…Nét đặc sắc của nó so với các truyện Nôm khác là quá trình chiến thắng hoàn toàn dựa vào tài trí thông minh và phẩm hạnh của một người con gái. Thông qua chủ đề Thiện thắng Ác, tác giả tố cáo những thế lực tàn bạo trong xã hội phong kiến đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống của con người, và khẳng định vị trí xứng đáng của người phụ nữ…
    Kết cấu truyện nhìn chung khá chặt chẽ. Tuy nhiên, ở cuốn Phương Hoa (khuyết danh) đầu tiên, mặc dầu có lối kể chuyện giản dị hồn nhiên được nhiều người dân ưa thích và truyền tụng, song nó vẫn còn khá nhiều nhược điểm: một số chi tiết chưa nhất quán, bút pháp miêu tả có chỗ sơ lược, chưa chú ý khai thác đời sống nội tâm nhân vật. Những hạn chế ấy, phần nào đã được khắc phục trong các cuốn Phương Hoa soạn lại sau này, nổi trội là cuốn Phương Hoa tân truyện của Nguyễn Cảnh [3].
    Giaó sĩ. Thanh Lãng:
    Người ta sống ở đời phải trung hiếu tiết nghĩa. Nàng Phương Hoa là hiện thân của cái luân lý cổ điển ấy, dù cảnh đời có thay đổi điên đảo…
    Về mặt văn chương, cái đặc sắc nhất của Phương Hoa là tính cách bình dân. Đọc lên, ta cứ tưởng là đọc ca dao, nghĩa là nghe đến đâu hiểu đến đó, chứ không phải vò đầu vì những điển tích cầu kỳ. Tuy nhiên, nó vẫn tao nhã, nhẹ nhàng.
    Tính cách bình dân của nó là ở chỗ tả cảnh Việt Nam, dùng những tiếng nói quen thuộc của người bình dân Việt Nam. Có lẽ tác giả tập truyện này cũng là một người trong số người bình dân ấy…[4]
     
    camapkss thích bài này.
  10. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Truyện Nôm Phan Trần, ấn bản Nhâm dần (1902) triều Thành Thái
    Phan Trần (潘陳, họ Phan và họ Trần) là một truyện thơ Việt Nam bằng chữ Nôm, dài 954 câu lục bát, không rõ tác giả là ai, và có lẽ ra đời vào khoảng đầu thế kỷ 19 [1].
    Mục lục
    1 Nguồn gốc
    2 Lược truyện
    3 Nhận xét
    4 Chú thích
    5 Sách tham khảo
    Nguồn gốc
    Truyện thơ Phan Trần lấy sự tích [2] ở Trung Hoa thời Tĩnh Khang (tức Tống Khâm Tông). Mấy câu mở đầu đã dựng lên bối cảnh:
    Trên am thong thả sắt cầm,
    Nhàn nương án ngọc, buồn ngâm quyển vàng.
    Thấy trong triều Tống Tĩnh Khang,
    Một chàng Hòa Quận, một chàng Đàm Chu.
    Bảng vàng bia đá nghìn thu,
    Phan, Trần hai họ cửa nho dõi truyền…
    Lược truyện
    Truyện kể về cuộc tình duyên trắc trở của hai người là Phan sinh và Trần Kiều Liên. Theo nhà nghiên cứu văn học Việt Dương Quảng Hàm thì truyện được chia làm 4 hồi và có nội dung đại để như sau:
    1/ Họ Phan và họ Trần đính ước gả con cho nhau (từ câu 1 đến câu 150):
    Vào đời Tống Tĩnh Khang ở Trung Quốc có Phan công và Trần công vốn là bạn học và là bạn đồng liêu. Khi vợ hai người thụ thai thì họ hẹn ước rằng hễ một bên sinh con trai, một bên sinh con gái, sẽ gả cưới cho nhau. Họ Trần trao trâm ngọc, họ Phan trao quạt ngà làm vật đính hôn. Sau đó, họ Phan sinh ra Phan sinh (tên là Tất Chánh) và họ Trần sinh ra Kiều Liên. Vì tuổi cao, Phan công và Trần công đều xin về trí sĩ để dạy con. Từ đó hai người xa cách nhau. Lớn lên, Phan sinh thi Hương đỗ thủ khoa, nhưng hỏng thi Hội.
    2/ Phan sinh và Kiều Liên phải xa cách nhau (từ câu 151 đến câu 302):
    Thi hỏng, Phan Sinh xấu hổ không về trở quê, tìm nhà trọ học để chờ khoa sau. Trong thời gian ấy, Trần công mất, lại gặp lúc giặc nổi lên, mẹ con Kiều Liên phải chạy loạn. Nửa đường họ lạc nhau, mẹ thì đến nương náu ở nhà Phan công, còn Kiều Liên thì gặp một người họ Trương (Trương thị) đưa vào tu trong một ngôi chùa ở Kim Lăng, và lấy pháp danh là Diệu Thường.
    3/ Phan Sinh và Diệu Thường gặp nhau (từ câu 303 đến câu 774):
    Phan sinh đang học ở Thành Đô, chợt nhớ có người cô tu ở Kim Lăng, bèn đến thăm. Người cô bảo ở lại chùa học tập. Phan sinh trông thấy Diệu Thường thì phải lòng, bèn nhờ bà vãi Hương công làm mối, nhưng Diệu Thường cự tuyệt. Phan sinh vì thế ốm tương tư. Nể lời sư cô (cô Phan sinh), Diệu Thường đến thăm chàng. Khi khỏi bệnh, một đêm, chàng lại phòng Diệu Thường cảm ơn. Trước nàng không cho vào, sau vì sợ Phan sinh tự tận, nên phải mở cửa. Trong câu chuyện, hai người dần nhận ra là họ đã được cha mẹ đính hôn từ trước. Từ đó, hai người thầm đi lại với nhau.
    4/Phan sinh và Kiều Liên kết thành vợ chồng (từ câu 775 đến câu 954):
    Phan sinh đi thi Hội, đỗ Thám hoa. Về chàng nói rõ cho sư cô biết chuyện của mình với Kiều Liên (tức Diệu Thường). Sư cô khuyên Phan sinh làm lễ cưới Kiều Liên ở nhà Trương thị, rồi hai vợ chồng cùng vinh quy. Về đến nơi, gặp cha mẹ và Trần phu nhân (mẹ Kiều Liên). Thế là hai họ Phan-Trần sum họp. Sau vua triệu Phan sinh về kinh nhậm chức và cử đi đánh giặc. Giặc tan, chàng chiến thắng trở về, hai vợ chồng hưởng vinh hoa phú quý.
    Nhận xét
    Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm:
    Các cụ xưa thường răn: “Đàn ông chớ kể Phan Trần”, vì trong truyện có đoạn tả Phan sinh tương tư người yêu đến nỗi toan tự tận. Các cụ cho rằng một người con trai không nên có những tình cảm quá nhu nhược và ủy mị như thế. Tuy vậy, trong truyện có nhiều đoạn tả cảnh, tả tình rất khéo, như đoạn tả nỗi buồn của Kiều Liên khi nhớ mẹ và tình nhân, đoạn tả bỗi thất vọng của Phan sinh khi bị Diệu Thường cự tuyệt.
    Lời văn chải chuốt êm đềm, có nhiều đoạn không kém gì văn Truyện Kiều, và so với văn Nhị độ mai có phần hơn [3].
    GS. Nguyễn Lộc:
    Phan Trần là một câu chuyện tình yêu thuần túy. Đôi trai gái ở đây yêu nhau một cách khá phóng túng, nhất là đối với Phan sinh. Mặc dù chàng đã được cha mẹ đính hôn, nhưng khi gặp một cô gái đẹp (ni cô Diệu Thường) chàng đã chạy theo tình yêu của mình, không một chút đắn đo. Còn Trần Kiều Liên lúc đầu cự tuyệt, nhưng khi biết chàng ốm tương tư vì mình, nàng đã đến thăm; và khi chàng dọa tự tử, thì nàng mở cửa cho chàng vào mặc dù đang lúc đêm tối vắng vẻ…
    Phải có cái táo bạo nào đó mới dám viết về một tình yêu tự do như thế lại diễn ra ở ngay trong một ngôi chùa. Và nhà sư (cô Phan Sinh) ở đây có tính cách như một nhà “nhân đạo chủ nghĩa”, sẵn sàng thông cảm với tâm sự của đôi trai gái, giúp họ có điều kiện gần gũi và yêu thương nhau…
    Về mặt nghệ thuật, Phan Trần là một truyện thơ giản dị, ngôn ngữ trong sáng, không có nhiều từ Hán, hoặc nhiều điển cố khó hiểu. Một số đoạn thơ đạt đến trình độ điêu luyện [4]
    Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
    ^ Theo GS. Nguyễn Lộc (Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1397). GS. Thanh Lãng cho biết thêm: Phạm Thái cho rằng truyện Phan Trần là mượn của Trung Quốc nên chẳng có gì đặc sắc, và ông đã đặt ra truyện Sơ kính tân trang. Như thế, Phan Trần phải ra đời trước Sơ kính tân trang ít lâu (Bản lược đồ văn học Việt Nam, Quyển Thượng, tr. 548).
    ^ Các nhà nghiên cứu, trong đó có Dương Quảng Hàm, đều không ghi tên sự tích hay tên truyện mà Phan Trần đã dựa theo.
    ^ Việt Nam văn học sử yếu, tr. 390.
    ^ Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1397.
    Sách tham khảo

    Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (mục “Phan Trần”). Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 10, Sài Gòn, 1968.
    Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển (mục “Phan Trần”). Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968.
    Nguyễn Lộc, mục từ “Phan Trần” trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
    Thanh Lãng, Bản lược đồ văn học Việt Nam (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.

    Phan Trần là truyện Nôm khuyết danh của Việt Nam, lấy sự tích về đời Tĩnh Khang và Thiệu Hưng nhà Tống (1126 – 1147), kể về cuộc tình duyên trắc trở của hai người là Phan Sinh và Trần Kiều Liên. Hai bên đính ước với nhau từ khi còn ở trong thai, rồi sau một hồi loạn ly cách biệt lại được cùng nhau sum họp.

    Mục lục

    I. Họ Phan và họ Trần đính ước gả con cho nhau
    II. Phan Sinh và Kiều Liên phải xa cách nhau
    III. Phan Sinh, Diệu Thường gặp nhau
    IV. Phan Sinh và Kiều Liên lấy nhau

    I
    Họ Phan và họ Trần đính ước gả con cho nhau
    Trên am thong-thả sách, cầm,
    Nhàn nương án ngọc, buồn ngâm quyển vàng.
    Thấy trong triều Tống Tĩnh-khang,
    Một chàng Hòa-quận, một chàng Đàm-chu,
    Bảng vàng, bia đá nghìn thu,
    Phan, Trần hai họ,cửa nho dõi truyền.
    Kể từ đèn sách thiếu-niên,
    Một song tình nặng, một thuyền nghĩa sâu.
    Tới tuần hội cả đua nhau,
    10Bút-nghiên phỉ chí, cung dâu bằng nguyền.
    Xem hoa rõ nẻo hồi triên,
    Gió đưa hương dạ, sấm rền tiếng xa.
    Ơn trên mưa tưới, móc sa,
    Cùng làm Phủ-doãn một tòa hiển-vinh.
    Niềm công chính, dạ trung-trinh,
    Nhân-dân sao phúc, triều-đình cột cao.
    Ngay tin trời có phụ nào,
    Tốt cung quan lộc, vượng hào thê-nhi.
    Ứng điềm xà hủy, hùng bi,
    20Hai nhà chính-thất một kỳ thọ-thai.
    Cùng nhau mở tiệc vầy vui,
    Huệ lan mừng mặt, trúc mai khoe mình.
    Tưng-bừng nhịp sáo, nhịp sênh,
    Điệu thông cao thấp, chén quỳnh đầy vơi.
    Trỏ thề trên thẳm dưới khơi,
    Cùng nhau chỉ dạ định lời thông gia.
    Hai ta đồng học đồng khoa,
    Đồng niên đồng cán một nhà đồng thân.
    Đổi trao chỉ Tấn tơ Tần,
    30Họ Phan thì quạt, họ Trần thì trâm.
    Mai này dành để giao cầm,
    Kẻo quên ước cũ kẻo lầm duyên xưa.
    Bỗng may thay sự tình-cờ,
    Khéo linh linh miệng, khéo như như lòng.
    Thẳm ngày khuất tháng vừa đông,
    Phan phu-nhân mới khai giòng nước hoa.
    Vườn xuân phơi-phới mưa sa,
    Quế non Yên đã trổ ra một cành.
    Sinh ra nam-tử tốt lành,
    40Hai vai chĩnh-chện, ba đình nở-nang,
    Đành thai phỉ chí bồng tang,
    Đặt cho Tất-Chánh rõ ràng là tên.
    Đông qua xuân thoắt báo tin,
    Trần phu-nhân mới hé then động đào.
    Một nàng tiên-nữ xinh sao !
    Mày nghênh bán nguyệt miệng chào trăm hoa.
    Mỉa chiều cung quế hằng-nga,
    Trần-công mới đặt tên là Kiều-Liên.
    Lửa hương đành để bén duyên,
    50Lòng trời chiều cả hai bên ước cầu.
    Tin đi mối lại cùng nhau,
    Kẻ nâng-niu ngọc, người trau-chuốt ngà.
    Lần lần hè lại thu qua,
    Hai ông thắm-thoắt tuổi đà cao niên.
    Tạ triều một thủ thi tiên,
    Đem nhau xe hạc về miền hương quan.
    Chia tay nam bắc băng ngàn,
    Tới quê nhà đã hầu tàn ba trăng.
    Đường đi khuất nẻo khơi chừng,
    60Tuyết sương mấy dặm, suối rừng bao nhiêu.
    Dễ mà tin-tức dập-dìu,
    Thì đem lòng thắm phú liều trời xanh.
    Hãy nuôi con đến trưởng thành,
    Sẵn còn trăm nghĩa, quạt tình chẳng quên.
    Tơ hồng, lá thắm là duyên,
    Dầu bao giờ gặp cũng nên bấy giờ.
    Phan thì về chốn lầu thơ,
    Khuyên con dòng-dã sớm trưa sách đèn.
    Ôn đặt gối, Đổng vây màn
    70Sớm nhuần kinh-sử, tối bàn văn-chương.
    Trần thì về chốn phòng hương,
    Dạy con canh-cửi việc thường nữ-công.
    Hoa dưới trướng, gấm trên khung,
    Gồm hay thi-lễ, lảu-thông cầm-kỳ.
    Những mong khuya sớm kịp thì,
    Hai nhà con đã đến kỳ xuân-xanh.
    Phan-công mới dạy Phan-sinh,
    Rằng: “Nhà ta nghiệp học-hành xưa nay.
    “Bây giờ cha tuổi-tác này,
    80″Mong con gặp hội rồng mây kịp người.
    “Chớ tham tửu sắc chơi bời,
    “Lụy mình vả lại thế cười người chê.
    “Rày nghe thi tuyển đến kỳ,
    “Bút nghiên dòng-dả vào thi họa là.
    “Gặp thì thu nguyệt, xuân hoa,
    “Làm sao cho trọn quyết khoa thì làm.
    “Bõ công luyện-tập mới cam,
    “Đừng nghe anh én, chớ nhàm nước mây,
    “Nhân-duyên đã chiếc trâm này,
    90″Của Trần-công để cho mầy đính hôn.
    “Tuy rằng cách trở nước non,
    “Hãy còn trăng bạc, hãy còn trời xanh.
    “Đừng như Ngô-tướng, Từ-khanh.
    “Quên bài thuốc dạy, phụ manh áo nguyền.
    “Hãy cho công-nghiệp vẹn tuyền,
    “Hóa rồng rồi sẽ rước tiên cũng vừa.”
    Nghe lời phụ-huấn sau xưa,
    Phan-sinh từ tạ bấy giờ bước ra.
    Theo chân, đồng-tử năm ba,
    100Con long-câu, cái tỳ-bà ruổi mau.
    Pha non trúc, trải ngàn dâu,
    Vàng hiu-hiu đón, ngọc làu-làu đưa.
    Chào én sớm, hỏi nhạn trưa,
    Ba tuần trăng đã, thì vừa tới nơi.
    Phun châu nhả ngọc đua tài,
    Giải-nguyên thoắt đã tên bài bảng ngay.
    Đưa tin về đến nhà hay,
    Tức thì lại tỏ đường mây tếch chừng.
    Bảng xuân nay đã dự mừng,
    110Muôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai
    Qua dậm liễu, khỏi ngàn mai,
    Ướm đào, hỏi mận tới vời thần-kinh.
    Phồn-hoa thay, thú hữu tình,
    Công-hầu xe ngựa, tường khanh lâu-đài.
    Mây tuôn, sĩ-tử đòi nơi,
    Mới hay thi mạng, học tài khéo xinh !
    Lạ thay danh-giá như sinh,
    Bảng người thì bốn, tên mình có ba.
    Lòng trời còn dấm tài hoa,
    120Khôi nguyên dành để đến khoa sau này.
    Bước ra thẹn mặt châu mày,
    Công danh đôi chữ dễ khuây-khỏa lòng !
    Đi không lại trở về không,
    Thẹn công chúng bạn, sợ cùng mẹ cha.
    Chẳng bằng ta lập chí ta,
    Ba thu thấm-thoát có là bao lâu.
    Làm chi thắc-mắc thêm sầu,
    Chim còn đón gió, rồng hầu đợi mưa.
    Biết đâu miệng thế khôn lừa,
    130Vén mây, nhẩy sóng bấy giờ sẽ hay.
    Vả nghe Kim-cải độ này,
    Trông lên đường cũ bụi bay lối về.
    Mấy tài dẹp loạn phù nguy,
    Tay mình thì chửa đến khi phất cờ.
    Tống thần những mặt ngẩn ngơ,
    Xôn-xao tơ trúc, thờ-ơ bác đồng.
    Xanh-xanh chẳng giúp anh hùng,
    Thì chi lũ kiến đàn ong tơi-bời.
    Cho nên lẩn-thẩn quê người,
    140Tìm nhà thanh-vắng, tiện nơi tập-tành.
    Một đèn, một sách, một mình,
    Bướm ong khuất nẻo, én anh khuây đường.
    Ngậm-ngùi trông cảnh gia-hương,
    Đã thiên gợi nhớ, lại chương ngậm sầu.
    Hơi gió lọt, bóng trăng thâu,
    Đòi khi giở chiếc trâm nhau ra nhìn.
    Nước non cách mấy dặm nghìn,
    Biết lòng còn nhớ hay quên hỡi lòng ?
    Chăn đơn, gối chiếc lạnh-lùng,
    150Tưởng nhân-duyên ấy như vòng tơ vương.

    II
    Phan Sinh và Kiều Liên phải xa cách nhau

    Hay đâu tạo-hóa khôn lường,
    Trần-công thoắt đã suối vàng, xa chơi.
    Xót nàng mẹ góa con côi,
    Phụng thờ hương khói chưa rồi ba năm.
    Bỗng đâu binh lửa ầm-ầm,
    Gió bay nhà bạc, cát lầm cửa thưa,
    Lánh nàn, từng bước ngẩn-ngơ,
    Mẹ già đầu bạc, con thơ má đào.
    Ngày hỏi khách, tối trông sao,
    160Dời chân bước thấp bước cao gập-ghềnh.
    Thánh-tha bốn giọt lệ tình,
    Biết đâu quen thuộc gởi mình được an.
    Trải qua một quãng hàn-san,
    Chênh-chênh nguyệt đã gác ngàn non mai.
    Bỗng nghe trống giục, chiêng hồi,
    Đêm khuya rừng rậm, rụng rời biết đâu ?
    Pha-phôi dặm cúc, chòm lau,
    Kẻ chân bãi nước, người đầu đỉnh non.
    Con tìm mẹ, mẹ tìm con,
    170Cỏ cây man-mác, nước non lạ-lùng !
    Xót nàng thơ-yếu trẻ-trung,
    Trời xanh nợ phụ má hồng chẳng bênh.
    Một mình trong quãng rừng xanh,
    Châu-chan má phấn, tằm oanh khúc vàng.
    Tình cờ gặp ả họ Trương,
    Ở Kim-lăng đến, hỏi nường thấp cao :
    “Con người yểu-điệu thanh tao,
    “Dáng sùi-sụt tủi, chìu ngao-ngán sầu !
    “Tên gì, quê, họ nơi đâu ?
    180″Gặp nhau xin ngỏ cho nhau biết cùng.”
    Tưởng rằng cùng bạn má hồng,
    Đoái thương nên mới gạn-gùng phân minh.
    Gạt châu mới kể sự tình,
    Nỗi quê cách trở, nỗi mình truân-chiên.
    Chẳng cho biết họ tường tên,
    Tưởng cơn-cớ ấy, tủi nền-nếp xưa.
    Trương ràng: “Thân gái hạt mưa,
    “Biết đem mình ấy bây giờ cậy đâu ?
    “Gần đây có một cảnh mầu,
    190″Nữ-trinh, chùa ấy ở đầu Kim-lăng.
    “Thênh-thênh cửa bụt đâu bằng,
    “Xuất gia tín-nữ, tiểu-tăng cũng đầy.
    “Chớ nề dưa muối, am mây,
    Hãy nương náu, khỏi nạn này là hơn !”
    Giắt tay nàng đến thiền-môn,
    Bạch sư mới kể hàn-ôn gót đầu.
    Khêu đèn hạnh, thắp hương mầu,
    Chắp tay lạy phật, khấu đầu qui sư.
    Sư rằng: “Này đạo Chân-như,
    200Mênh-mông cửa bụt bi-từ hẹp ai.
    “Đã rằng thụ giáo thiền-trai,
    “Chớ nề dưa muối, chớ nài nem chanh.
    “Tam-qui, ngũ-giới chứng minh,
    “Xem câu nhân-quả, niệm kinh Di-đà,
    “Sớm cúng quả, tối dâng hoa,
    “Duyên xưa nỡ phụ, để già độ cho.”
    “Trên tứ bảo, dưới tam đồ.”
    “Lòng tin hai chữ nam-mô báo đền.”
    Diệu-thường mới đặt là tên,
    210Hay cho đưa xuống phòng thiền nghỉ-ngơi.
    Nàng vâng thụ giáo như-lai,
    Nhỏ to mới giã ơn người họ Trương.
    Thoắt thôi về chốn tĩnh-đường,
    Buồn trông phong-cảnh tha-hương ngập-ngừng.
    Kìa thì bụt, nọ thì tăng,
    Chẳng hay từ-mẫu lạc chừng nơi nao ?
    Than rằng: “Đội đức cù lao,
    “Bể sâu mấy mấy trượng ? Trời cao mấy trùng ?
    “Nếu sinh là kiếp đàn ông,
    220″Thời tìm nước thẳm, non bồng quản chi ?
    “Bởi sinh là phận nữ-nhi,
    “Nghĩ thì càng tủi, nhớ thì luống thương.
    “Từ-ô chim-chóc vật thường,
    Còn mong kiếm chốn tìm đường trả ơn.
    “Mưa sầu gió thảm từng cơn,
    “Để ai chịu phận thờn-bơn một bề !
    “Biết ai giãi tấm lòng quê ?
    “Có chăng đợi đức từ-bi chuyển vần.”
    Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,
    230Chạnh lòng xảy nhớ Châu, Trần nghĩa xưa.
    Giãi-dầu kể mấy nắng mưa,
    Thề phai, nguyền nhạt, bây giờ biết đâu ?
    Quạt này ai để cho nhau,
    Phong phong, mở mở giãi sầu làm khuây.
    Chốn Lam-kiều cách nước mây,
    Bùi-Hàng kia dễ biết đây nẻo nào ?
    Non Thiên-thai mấy trượng cao,
    Lưu-Lang chưa dễ tìm vào tới nơi.
    Đã đành góc bể bên trời,
    240Lân-la ngày bạc quá vời xuân-xanh.
    Một mình những tủi duyên mình,
    Nén hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn.
    Phải khi sư-phụ bước lên,
    Dè chừng mới hỏi rằng “duyên-cớ nào ?
    “Ra chiều ủ liễu phai đào,
    “Hạt châu lai-láng, quyển bào chưa phai.
    “Hay là nhớ chốn Chương-đài,
    “Xạ lan mùi cũ, hán hài thói xưa.
    “Hay là nhớ nỗi mây mưa,
    250″Ước ao nghĩa phượng, đợi chờ bạn loan ?
    “Hay là tiếc thuở hồng-nhan,
    “Sợ phai thức phấn, e tàn nhị hoa ?
    “Hay là khổ-hạnh tương cà,
    “Hư thân mâm ngọc đũa ngà bấy nay ?”
    Diệu-Thường ren-rén thưa bày :
    “Nỗi tôi, tôi bạch, lạy thầy, thầy thương.
    “Loạn-ly từ cách gia-hương,
    “Trông ơn thầy đã rộng đường bao-dong.
    “Tưởng câu sắc sắc không không,
    260″Dám đâu còn bận chút lòng gió trăng !
    “Chỉn e từ-mẫu lạc chừng,
    “Một mình chẳng biết suối rừng là đâu.
    “Mẹ già bóng ngả cành dâu,
    “Phòng khi sốt mặt, váng đầu cậy ai.
    “Đã lo cầu khẩn bụt trời,
    “Nào khoa cứu khổ, nào bài độ sinh.
    “Càng trông càng vắng phong thanh,
    “Lẽ nào hai chữ ân tình chẳng thương.”
    Thầy rằng: “Bĩ thái khôn lường,
    270″Trăng thường tròn khuyết, nước thường đầy vơi!
    “Nhịn sầu mà gượng làm tươi,
    “Kẻo khi nguyệt mỉa, hoa cười chẳng hay.
    “Hãy tu vẹn quả phúc này,
    “Đừng long tiết ngọc, chớ lay cơ huyền.
    “Kìa Điạ tạng, nọ Mục-Liên,
    “Độ thân dẫu xuống cửu-tuyền cũng an.
    “Lọ là người ở trần-gian,
    “Đừng lo-lắng nữa, chớ phàn nàn chi.
    “Ở đây nhờ đức Từ-bi,
    280Mẹ con ắt cũng có khi lại gần.”
    Nàng nghe thầy dạy ân-cần,
    Tát vơi bể Sở, khơi dần sông Nghiêu.
    Muối dưa đắp-đổi ít nhiều,
    Sớm khua mõ cá, tối khiêu chuông kình,
    Vầng trăng bạc, ngọn đèn xanh,
    Dâng hương ngũ-vị, tụng kinh tam-thừa
    Nhân hẩy gió, đức nhuần mưa,
    Vượn dâng quả cúng, chim đưa hoa mừng.
    Đàn thông, phách suối vang lừng,
    290Cá khe lắng kệ, chim rừng nghe kinh.
    Mây phủ tán, liễu che mành,
    Nước non Thiên-trúc, cung đình Bồng-lai.
    Hoa thơm cỏ lạ đòi nơi,
    Đã hay rằng cảnh có người mới yêu !
    Vãng lai quan-khách dập-dìu,
    Kẻ lên lễ phật, người vào bạch sư.
    Nơi viết kệ, chốn đề thơ,
    Mắt trần càng nhộn, lòng từ càng thanh.
    Rửa không thế-tục thường tình,
    300Một bình-tĩnh-thủy, một cành dương-chi.
    Nhữ mong nương náu qua thì,
    Biết đâu cơ-tạo, chắc gì nhân-duyên.

    III
    Phan Sinh, Diệu Thường gặp nhau

    Ai ngờ một tấm tự-nhiên,
    Có khi cũng động đến trên chuyển vần.
    Hai phương chỉ Tấn, tơ Tần,
    Bỗng đâu như giắt dần-dần lại cho.
    Phan-sinh từ ở Thành-đô,
    Lần lần nắng hạ, mưa thu từng ngày.
    Nhớ song thân, ngậm-ngùi thay,
    310Nhớ hương-thôn, cách nước mây mấy từng.
    Nhớ xưa còn nhỏ nghe rằng :
    Có cô tu ở Kim-lăng cũng gần.
    Tức thì trỏ nẻo dời chân,
    Thênh-thênh bãi bạc, lần lần dậm xanh.
    Mới hay sơn thủy hữu tình,
    Cỏ hoa đón khách, én anh đưa người.
    Cửa chùa phơi-phới gần nơi,
    Nhác trông cảnh bụt bầu trời lạ sao !
    Chập-chồng quán thấp, lầu cao,
    320Hương nghi-ngút tỏa, hoa ngào-ngạt bay.
    Chuông rền, mõ ruổi, khánh lay,
    Thông già điểm trống, trúc gầy khua sênh.
    Thầy đương kinh-giáo tập-tành,
    Diệu-Thường đứng tựa bên mành câu-lơn.
    Nhác trông ra mái tam-quan,
    Thấy chàng niên-thiếu lạc ngàn ngẩn-ngơ.
    Lạ con mắt, hãy còn ngờ,
    Thác mành-mành, hỏi: “Khách thơ quê nào ?
    “Vả con người cửa mận đào,
    330″Việc gì mà khéo tìm vào non sâu ?”
    Sinh nghe khúm núm dưới lầu,
    Gửi rằng: “Con cháu sang hầu sư cô.
    “Trình tên tuổi, bạch duyên-do,
    “Giở nông-nỗi trước, kể trò-chuyện sau.”
    Sư nghe lặng ngắm giờ lâu,
    Quyển vàng sẽ gác, hạt châu sụt-sùi.
    Dạy rằng: “Hãy bước vào ngồi,
    “Thế mà cô nghĩ là ai, vô tình !
    “Mới thăm hỏi sự nhà mình,
    340Anh thong-thả, chị bình-ninh, cô mừng.
    “Khen ai tỏ nẻo đưa chừng,
    “Cho con lặn suối, băng rừng tới đây !
    “Đây tuy thú mọn cỏ cây,
    “Thanh nhàn cứ ở lâu ngày cũng quen.
    “Gần cô cho tiện sách đèn,
    “Lọ là khuất-nhiễu chốn phiền-hoa chi !
    “Cũng đừng áy-náy lòng quê,
    “Bao giờ áo gấm mặc về mới cam !
    “Ngựa hồng, đai bạc, áo lam,
    350″Trời cho, vả có chí làm thì nên !
    “Phải khi hương lửa bén duyên,
    “Bõ công tuổi-tác, rạng nền tổ-tông.”
    Dạy thôi mới dặn Hương-Công,
    Đưa chàng về mái tây phòng nghỉ chân.
    Trải xem thú lạ chiều xuân,
    Hoa kề cửa động, đá ngăn vách chiền.
    Người thành-thị, kẻ lâm-tuyền,
    Đòi phen thấy cảnh, đòi phen chạnh niềm.
    Tưởng người nương cánh hé rèm,
    360Gọi Hương-Công mới dò xem sự lòng :
    “Ấy ai tầm thước trẻ-trung,
    “Chực hầu sư-phụ đứng trong giảng-đường.
    Bấy giờ e-lệ chưa tường,
    “Lâu lâu lại thấy thoáng gương ả hằng ?”
    Thấy lời, Hương mới thưa rằng:
    “Người đâu chẳng biết, lạc chừng tới đây.
    “Vả khi lỡ bước đường mây,
    “Nàng Trương đưa lại chốn này qui-y.
    “Khách đà về đạo từ-bi,
    370″Nhìn làm chi ? hỏi làm chi ? hỡi chàng !
    “Già nua thưa-thốt sỗ-sàng,
    “Thôi thôi xin xuống tĩnh-đường hầu cô.”
    Nghe lời sinh mới thẹn-thò,
    Gượng thưa rằng: “Hãy xét cho, chớ cười.
    “Lạ lùng nên mới hỏi chơi,
    “Há rằng đã tận tình ai ru mà !”
    Vãi Hương từ trở lại nhà,
    Một mình chàng chốn lầu hoa, lại càng.
    Thôi thắc-thỏm, lại mơ-màng,
    380Đèn xanh một ngọn, quyển vàng ba con,
    Biết ai mà được nỉ-non,
    Tối than trăng chị, ngày đon gió dì.
    Niềm riêng khôn chút tả đề,
    Hoàng-oanh hót nhớ, tử-qui kêu sầu.
    Bồi-hồi tháng trọn, ngày thâu,
    Trong lòng đã vậy, trên đầu chưa hay.
    Bỗng may may khéo là may,
    Nhác trông ra mái lầu tây thấy nàng.
    Thẩn-thơ trước dãy hành-lang,
    390Vin cành biếc, hái hoa vàng làm thinh.
    Xa xa phảng-phất dạng hình,
    Đức Quan-Âm đã giáng-sinh bao giờ !
    Vội-vàng làm cách bơ-lơ,
    Đến gần ướm hỏi khách thơ một lời :
    “Kể từ đến cảnh bồng-lai,
    “May thay đã trộm thấy người tiên-cung.
    “Mới hay hai chữ sắc, không,
    “Chẳng tơ mà dễ rối lòng trần-duyên.
    “Ba sinh ước vẹn mười nguyền,
    400″Chiêm-bao luẩn-quẩn ở bên giảng đình.
    “Sư còn lân-mẫn chúng-sinh,
    “Xin thương đến tấm lòng thành với nao !”
    Bỗng nghe tiếng lạ-lùng sao,
    Trái tai khôn biết lẽ nào dám thưa.
    Nghĩ mình ở đám muối dưa,
    Há nên tìm tiếng đong-đưa cùng người.
    Làm thinh thà chịu kém lời,
    Thềm hoa lẩn bóng, phòng trai trở giày,
    Vội vàng khép bức rèm mây,
    410Ngoài hiên còn chút hương bay với chàng.
    Một mình lui tới bẽ-bàng,
    Khôn về năn-nỉ, dễ đường nhắn-nhe !
    Đeo sầu chàng trở ra về,
    Xem chiều thèn-thẹn, e-e nực cười.
    Trách người một, trách ta mười !
    Bởi ta sàm-sỡ nên người dẩy-dun.
    Còn trời, còn nước, còn non,
    Còn trăng, còn gió hãy còn đó đây.
    Trăng trăng, gió gió, mây mây,
    420Biết là giở nỗi nước này cùng ai !
    Chờ khi vắng-vẻ hiên mai
    Tìm Hương mà lại giãi-bày cùng Hương:
    “Rằng đây là khách tầm-thường,
    “Đem thân đài-các mà nương cửa chiền.
    “Một là an phận chờ duyên ?
    “Hai là thong-thả sách đèn cũng vui.
    “Cho nên dưa muối phải mùi,
    “Những say mùi đạo mà nguôi nỗi nhà.
    “Sớm trưa ai kẻ biết ra,
    430″Đã quen làm nũng với già bấy lâu.
    “Nghĩa sâu đành trả ơn sâu,
    “Bây giờ phải gỡ mối sầu cho xong.
    “Kìa ngọc-nữ, nọ kim-đồng,
    “Phật-bà chẳng xét thấu lòng ấy chăng ?
    “Cửa Từ phương-tiện đâu bằng,
    “Kim-thằng xin đổi xích thằng này cho.
    “Ở đây về cảnh nhà chùa,
    “Lẽ đâu có dám chuyện-trò trăng hoa.
    “Nhưng vì duyên-kiếp thế mà,
    440″Dẫu làm sao cũng cậy già giúp nao!”
    Lặng nghe lời nói thấp cao,
    Gửi rằng: “Già biết làm sao sự này !
    “Nương mình cửa bụt bấy chầy,
    “Non ngăn thói tục, gió bay niềm trần.
    “Hương đèn khuya sớm độ thân,
    “Biết đâu quán Sở, lầu Tần viển-vông.
    “Nghe lời cũng trộm xét lòng,
    “Tu-hành chẳng lẽ lộn vòng gió trăng.
    “Vả nàng cùng bạn thiền-tăng,
    450″Ra vào sượng mặt, nói năng ngại điều.
    “Một niềm vàng đá nâng-niu,
    “Bây giờ sao nỡ giật-gìu mưa mây.
    “Huống chi những tiếng thày-lay,
    “Tuổi này đã trót mũ này che tai.
    “Đa-mang chẳng dám chịu lời,
    “Mặc người Tần Tấn, mặc người Trần Châu.”
    Chàng nghe ngẫm nghĩ giờ lâu,
    Tưởng lời Hương nói ra màu đẩy-đưa.
    Hai hàng lã-chã nhường mưa:
    460″Biết đem lòng ấy bây giờ cậy ai.
    “Vì duyên nên phải vật nài,
    “Có thương thì xét mà cười thì oan.
    “Ba trăng nấn-nát hiền-quan,
    “Nghĩ quen thuộc ấy mà van-vỉ cùng.
    “Nào ngờ ngại tiếng, quản công,
    “Nào lòng quảng-đại, nào lòng từ-bi.
    “Chẳng yêu, chẳng xót, chẳng vì,
    “Lại còn bịn rịn làm chi cảnh này ?
    “Bụt trời xin chứng lòng ngay,
    470″Duyên kia dù rủi dù may tại già.”
    Nghe lời năn-nỉ thiết-tha,
    Ngọt-ngào đầu lưỡi, mặn-mà lỗ tai :
    “Vâng ra thì tiếng để đời,
    “Chẳng vâng thì bỏ lòng người biết bao !
    “Tận-từ dám tiếc công nào,
    “Còn e lòng khách động đào khứng chăng!
    “Bây giờ làm khách thiền-tăng,
    “Say-sưa mùi đạo, dửng dưng bụi hồng.
    “Lệ chi hoa chẳng chiều ong,
    480″Uổng công tuổi-tác, thẹn lòng văn-nhân.”
    Chàng rằng: “Già hãy ân-cần,
    “Đàn này tai ấy dần-dần cũng êm.
    “Ai hay rằng chẳng cải-kim,
    “Đã nơi gian-gíu nên tìm tới đây.
    “Hãy về gìn-giặt cho hay,
    “Dẫu làm sao quả phúc này cũng nên.”
    Nghe chàng gắn-bó cần-quyền,
    Vâng lời Hương mới về bên tĩnh-đường,
    Canh khuya nguyệt gác cành sương,
    490Nằn-nì thử ướm xem nường ra sao.
    Rằng đây cảnh quạnh, non cao,
    “Xưa nay biết mận quen đào là ai.
    “Phải khi qua chốn thư trai,
    “Thấy chàng khắc khoải một lời mà thương.
    “Lân-la bỗng giở sự nường,
    “Mấy lời thì bấy nhiêu hàng hạt châu.
    “Xin người, đã bạch gót đầu,
    “Rừng thiền xin chớ những màu én anh.
    “Càng van càng một đinh-ninh,
    500″Rằng duyên, rằng nợ, rằng tình, một hai.
    “Nể lời ta chót chịu lời,
    “Chiều ai hay chẳng chiều ai, mặc nàng.”
    Lời đâu thêm động lòng vàng,
    Trách ai sao khéo đặt đàng cho nên :
    “Gập-ghềnh lỡ bước thuyền-quyên,
    “Đem thân bồ-liễu nương miền tùng-lâm.
    “Đã mừng khuất nẻo tiếng tăm,
    “Bướm ong đâu lại ầm-ầm bên tai.
    “Già vâng, tiểu gửi lại người,
    510″Chốn này chẳng khá dạy lời ong ve,
    “Kiếp tu đã nguyện bồ-đề,
    “Lòng son bảy mối, tóc thề mười phương.
    “Một đèn một sách, một hương,
    “Dám còn để mối tơ vương bên lòng.
    “Vả người là đấng thư-trung
    “Tấc mây đâu nỡ để lồng gương thu.
    “Bao-dung xin hãy xét cho,
    “Từ rày những tiếng nhỏ to gác ngoài.”
    Xem nàng vàng đá chẳng dời,
    520Vội-vàng lại đến thư-trai trình chàng :
    “Đá vàng uyển-chuyển trăm đường,
    “Khăng khăng khóa ngọc, then vàng chẳng long.
    “Ai ngờ con trẻ lạ lùng !
    “Kiên gan có lẽ ép lòng làm sao.
    Chàng rằng: “Nghe rõ tiêu-hao,
    “Như nung dạ sắt, như bào lòng son.
    “Đem mình làm khách thiền-môn,
    “Gió lay trướng ngọc, tuyết mòn án nghiên.
    “Vẻ chi hai chữ tình duyên,
    530″Nhẹ danh tài-tử, nặng nguyền giai-nhân.
    “Đem mình van thiết mấy lần,
    “Mười phần mà chẳng một phần ủ-ê.
    “Ai hay phép Phật cả nề,
    “Ở thì cũng thẹn, về thì chẳng xong.
    “Âu là già hãy giúp công,
    “Lại lần này nữa xem lòng ra sao ?
    “Dặn rằng đã quyết chí cao,
    “Nợ lòng để đến kiếp nào trả cho ?
    “Chẳng thì ra trước cửa chùa,
    540″Mà nghe khách niệm nam-mô một lời.
    “Đoạn rồi nam bắc đôi nơi,
    “Nỗi niềm phó mặc bụt trời chứng minh.”
    Nghe lời chàng, đã biết tình,
    Trở về Hương mới đinh-ninh gót đầu.
    Rằng: “Xin nửa khắc đến hầu,
    “Đợi nàng một tiếng giã nhau mà về.”
    Thấy người đeo-đẳng mọi bề,
    Ngập ngừng trước mặt, liễu e cúi mày.
    Van rằng: “Đừng nỗi bèo mây,
    550″Phận này ngỡ được chốn này là yên,
    “Ai ngờ quả kiếp xui nên,
    “Một thân thiếu nữ truân-chuyên mấy lần.
    “Đã nhờ tình thực ân-cần,
    “Chẳng thương mà dạy nợ-nần trăng hoa.
    “Phỏng khi sư-phụ biết ra,
    “Người là thân-thích, ta là ngược xuôi,
    “Gió bay lời thế xa-xôi,
    “Thì ta hồ dễ đứng ngồi dược đây !
    “Âu là chịu bạc cùng thầy,
    560″Liệu đường mà giã cảnh này cho xong.
    “Phận bèo bao quản long-đong,
    “Thà rằng lánh trước hơn rằng lụy sau.”
    Thấy chiều lan thảm, huệ sầu,
    Xót nàng, Hương mới ra màu van-khuyên:
    “Lạy nao, xin chớ vội phiền,
    “Trót đà lỡ miệng, rày xin kín lòng.
    “Miễn nàng tuyết sạch giá trong,
    “Vàng không thẹn lửa, sen không nhuốm bùn.
    “Quả tu ve-vuốt cho tròn,
    570″Bỗng mà ruồng-rẫy nước non sao đành !
    “Ba trăng tiếng kệ câu kinh,
    “Bạch-viên sao nỡ phụ tình Huyền-Trang.”
    Nàng nghe Hương nói nể-nang,
    Kấp sầu lại mở quyển vàng làm khuây.
    Xăm-xăm Hương một lòng ngay,
    Lại sang đến chốn mọi ngày đinh ninh.
    Rằng: “Chàng cửa tướng nhà khanh,
    “Lứa đôi há hiếm cầm lành đưa duyên.
    “Khuyên người đèn sách bút nghiên,
    580″Sự nàng xin chớ cần-quyền nữa chi.
    “Nếu nàng phải bước ra đi,
    “Nữa oan lòng khách tội thì tại ai ?”
    Bỗng không thấy thốt hãi người,
    Van rằng: “Chẳng dám ép-nài nữa đâu !
    “Xin đừng để tiếng cho nhau,
    “Chẳng thì non thẳm, vực sâu cũng tìm.
    “Cậy già về giữ cho im,
    “Dám còn nhắn cá gửi chim nữa nào !
    Chàng từ thưa-thớt âm-hao,
    590Tới lui ngần ngại, ra vào dở-dang.
    Gió từ hây-hẩy đưa hương,
    Lạnh lùng áng tuyết đoạn trường đòi nau !
    Trăng thiền vằng-vặc in lầu,
    Lâm-râm đèn hạnh gượng sầu thiu-thiu.
    Tiếng chuông, tiếng cảnh, tiếng tin,
    Sách nhìn biếng đọc, cầm treo biếng đàn.
    Bấy nay nương-náu thiền-quan,
    Muối dưa nhạt nhẽo, sương hàn pha-phôi.
    Lại thêm sầu não đứng ngồi,
    600Đá kia cũng đổ bồ-hôi lọ người !
    Bệnh tương-tư cũng nực cười,
    Dễ phương ngũ-tích, dễ bài bát-trân.
    Bùa nào giảm, thuốc nào dằn,
    Dược-sư ngán nỗi, Lão quân khôn điều.
    Có chăng liên-nhục, liên-kiều.
    Dùng thang đồng-nữ mới tiêu bệnh chàng.
    Lòng cô còn rộn trăm đường,
    Mười phương đã khắp, nén hương đã tàn (?).
    Bói thì ra quẻ Phong-san,
    610Động hào thiếu-nữ ai bàn cho ra.
    Có chăng ta biết sự ta,
    Diệu-Thường là một, vãi già là hai.
    Vì sư vả cũng nể người,
    Nàng theo Hương đến phòng trai thăm chàng.
    Nghiêng mình hé bức rèm sương,
    Chiều thanh khép nép, tiếng vàng khoan-thai :
    “Trộm nghe sương tuyết hơi hơi,
    “Thuốc xơi giảm mấy, cơm xơi thế nào ?
    “Lạy trời cho mát-mẻ nao,
    620″Kẻo sư tuổi-tác ra vào băn-khoăn.”
    Bên tai nghe tiếng nàng gần.
    Mười phần phiền-não, chín phần đổ sông.
    Vội-vàng tay gạt đôi giòng,
    Bạch rằng: “Đã đội ơn lòng đến đây.
    “Bệnh sao cơn tỉnh cơn say,
    “Mới rồi thì thế lúc này thì không.
    “Như lúc này thế đã xong,
    “Rồi ra nào biết được thong-thả này !
    “Vì ai trời nhẽ có hay,
    630″Độ-trì cho họa là may chút nào.”
    Hạt châu thánh-thót quyển bào,
    Xem hoa dường võ, xem đào dường phai.
    Chiều lòng nàng phải lựa lời,
    Rằng: “Người thành-kính thì trời chứng-tri,
    “Hãy xin hỉ-xả từ-bi,
    “Cơn này đừng thắc-mắc chi thêm càng.”
    Sinh đương nấu sắt nung vàng,
    Bỗng nghe như nước cành dương tưới nhuần.
    Thảnh-thơi thư-sảng tinh-thần,
    {{số|640]}Thiều-quang đem lại, phong-trần giũ bay.
    Vừa mong giở nỗi niềm tây,
    Ngoài hiên nghe xịch tiếng giày xa xa.
    Giã sinh nàng trở gót hoa,
    Khơi mành-mành thấy sư già xuống thăm.
    Thấy chàng tựa án nâng cầm,
    Nhẹ-nhàng sư mới bình tâm trở về.
    Đêm thanh nguyệt gác rèm the,
    Xa trông bóng đã đèn khuya cách lầu.
    Sầu vừa ngớt, ngớt lại sầu,
    650Sông Ngân thử bắc lấy cầu Ô xem.
    Sao tàn, sương dịu, tuyết êm,
    Góc tường ẩn bóng bên thềm lân-la.
    Thừa khi gió quạt cánh gà,
    Lay mành mượn tiếng nàng ba lọt vào:
    “Thương với nao ! nể với nao !
    “Làm sao trong ấy ? làm sao ngoài này ?
    “Một lời công đức nặng thay,
    “Nên bây giờ phải đến đây tạ lòng.
    “Đã rằng hỉ-xả bao-dong,
    660″Gió sương nỡ để lạnh lùng sao an !”
    Nàng đương khêu ngọn đèn tàn,
    Véo-von nghe tiếng ngoài hiên rụng-rời.
    Thưa rằng: “Rừng mạch vách tai,
    “Đêm hôm xin chớ lắm lời làm chi.
    “Xưa nay đã giữ một bề,
    “Thương thì cũng đội, trách thì cũng vâng.
    “Rút dây chẳng nệ động rừng,
    “Làm chi để tiếng lố-lăng thế cười.
    “Thôi thôi tôi cũng lạy người,
    670″Mới thong-thả, hãy về ngơi, kẻo mà!”
    Chàng rằng: “Ta những giận ta,
    “Bước ra gặp vía Hằng-nga bẽ-bàng.
    “Bấy nay vâng phép Tạng-vương,
    “Dám còn đeo thói Thọ-dương chốn này.
    “Vì ơn nên phải đến đây,
    “Chẳng thương để tiếng nước mây oan người,
    “Hẹp gì một cánh cửa ngoài,
    “Chẳng cho vào bạch Như-lai một điều.
    “Kiếp này phụ, kiếp sau yêu,
    680″Lại như ả Bích, quyết liều cho xong.
    Sởn gai, lời thốt lạ-lùng,
    Nếu thi gan với anh-hùng thì thua.
    Ai cười, trời Phật xét cho,
    Cho vào mà kể duyên-do mới tường!
    Cửa mây vừa hé then sương,
    Dưới đèn lóng-lánh mặt gương quảng hàn.
    Lan mừng huệ, huệ mừng lan,
    Ngọc quan khấp-khởi, từ-nhan ngập-ngừng.
    Nỉ-non chàng mới hỏi rằng :
    690″Bấy lâu mượn gió Các-Đằng truyền hơi.
    “Dương-đài đã trộm Chương-đài,
    “Căn-nguyên phải gạn một lời làm sao.
    “Tên gì, quê, họ, nơi nao ?
    “Vì đâu xui khiến cho vào đến đây ?
    “Nguồn cơn xin dạy cho hay,
    “Nhật tiền quán nước, làng mây thế nào ?”
    Nàng nghe lời nói bẽ chiều (?),
    Giở sao xiết nỗi, nói sao nên lời.
    Gửi rằng: “Phận cánh hoa rơi,
    700″Bây giờ còn dám giấu người sao nên !”
    Nằn-nì mới ngỏ sự duyên,
    Dẫu lòng vàng đá, cũng nghìn xót-xa :
    “Đàm-Châu, quê thiếp còn xa,
    “Họ Trần, tên đặt vốn là Kiều-Liên.
    “Bào-thai đã hẹn nhân-duyên,
    “Quạt ngà, trâm ngọc kết nguyền họ Phan.
    “Rồi ra cách trở quan-san,
    “Chẳng may bóng hạc khơi ngàn non Hoa.
    “Cô-đơn con trẻ, mẹ già,
    710″Phấn trôi cuốn má, sương pha bạc đầu.
    “Cửa nhà binh lửa đâu đâu,
    “Tuyết sương quảy một gánh sầu ra đi.
    “Đoạn-trường thay lúc phân-kỳ,
    “Mẹ thì bãi bắc, con thì non tây.
    “Khóc than cũng thấu cao dày,
    “Xui nàng Trương lại giắt tay cửa thiền.
    “Oan chi chút phận thuyền-quyên,
    “Chữ tình cám cảnh, chữ duyên bẽ-bàng.
    “Rừng thiền ơn đã rộng thương,
    720″Khẩn-cầu vả sẵn đèn hương cửa người.
    “Họa chi giun-giủi ơn trời,
    “Đền công sinh nặng, giải lời nguyền sâu.
    “Thân này mà dở-dang nhau,
    “Thì xin tu lấy thân sau để dành.
    “Hoa trôi nước chảy lênh-đênh,
    “Mặt nào còn giở tâm-tình cùng ai !
    “Dù chàng ép trúc nài mai,
    “Tìm nơi giếng cạn thấy người hồng nhan.
    “Để ai ngọc nát, hoa tàn,
    730″Giải oan chàng phải lập đàn cho nhau !”
    Sinh nghe ngẩn mặt giờ lâu,
    Ngẫm rằng: “Con tạo cơ mầu khéo thay !
    “Bấy lâu mơ tưởng đêm ngày,
    “Ai ngờ Phan đó, Trần đây mà lầm.
    “Tri-âm chưa tỏ tri-âm,
    “Thì xin bên quạt bên trâm sáng vào !”
    Vội vàng mở tráp tay trao,
    Nhìn xem nào có chút nào là sai.
    Cành trâm thích, quạt chữ bài,
    740Rành-rành tên họ hai người song-song.
    Mừng nhau lần kể sự lòng,
    Gian-nan ngày trước, lạnh lùng bấy nay.
    Biên lời đó, chép lời đây,
    Bứt hoa dẫu vạn, tờ mây dẫu nghìn.
    Xe vàng lẩn, áo hồng-xen (?),
    Hết phen sầu-não, tới phen vui-mừng.
    Rỉ tai chàng mới dặn rằng :
    “Ở đây nương-náu hãy đừng hở-hang.
    “Công-danh chờ thuở xuân sang,
    750″Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau.”
    Dặn-dò chưa dứt cạn sâu,
    Trên am một tiếng chày đâu hãi người.
    Vội-vàng sinh trở gót hài,
    Ngoài hiên oanh đã nhộn cười cùng oanh.
    Non đông lò lửa hé mành,
    Tiếng cầm bên ấy, tiếng kinh bên này.
    Sự tình một đó một đây,
    Dẫu bà nghìn mắt, dẫu thầy tám tai.
    Thông thông, trúc trúc, mai mai,
    760Ngày, người đất bụt; đêm người động tiên.
    Đầu gành còn điểm mõ quyên,
    Vo-ve đàn dế bỗng chen gió vàng.
    Khúc cầm thông mới dạo sương,
    Chào oanh, sớm đã vội-vàng tin mai.
    Lân-la tháng bụt ngày trời,
    Hạ qua, thu tới, đông rồi lại xuân.
    Vũ-môn mừng đã đến tuần,
    Phượng loan rày gặp phong-vân phải tầm.

    IV
    Phan Sinh và Kiều Liên lấy nhau

    Giục đồng quảy tráp, ôm cầm,
    770Lên chùa bạch đã, xuống thềm bảo qua.
    Nàng rằng: “Chàng học quyết khoa,
    “Bõ ngày áo gấm xem hoa sẽ về.
    “Ở đây nương-náu bồ-đề,
    “Chăm-chăm một tấm lòng quì hướng dương.
    “Ngùi ngùi dậm liễu, ngàn sương,
    “Tiễn đưa hai chữ bình-khương với lòng.”
    Thoắt thôi ngang dọc tây đông,
    Ngựa theo đường cũ ruổi-dong tếch chừng.
    Thông reo, vượn hót, chim mừng,
    780Hương chùa đưa gió, huê rừng phun sương.
    Tuần dư vừa tới cửa trường,
    Danh tài mây hợp, hiền lương sao bày
    Cùng vào vâng mệnh năm mây,
    Côn bằng phỉ sức, rồng mây phải thì.
    Thám-hoa vào lạy đan-trì,
    Cẩm-bào phô cật, hoa chi giắt đầu.
    Tiếng thơm lừng-lẫy đâu đâu,
    Kẻ siêng ong bướm, người mau cá nhàn.
    Ngán thay hỡi bạn hồng-nhan,
    790Làm chi rác lỗ tai quan khéo là !
    Một thư nhắn gửi về nhà,
    Một thư đưa đến cửa già báo tin.
    Từ ngày chàng ruổi dặm nghìn,
    Tấm lòng dựa cánh cửa chiền đăm đăm.
    Bên tai thoạt mảng hảo âm,
    Hoa mơi (?) điểm tuyết, trăng rằm vén mây.
    Cô nghe tin cháu mừng thay,
    Đành thay tông-tổ đức dày nhi tôn.
    Thám-hoa ngày ở từ môn,
    800Trai thành nên đức Thế-tôn độ người.
    Mới hay bĩ cực thái lai,
    Còn trong trần-lụy biết ai vương-hầu.
    Chẳng yêu nhau, chớ dể nhau,
    Những loài yến-tước biết đâu chí hồng.
    Đương mừng náo-nức tưng bừng,
    Đình phô (?) nghe đã ruổi-dong gần miền.
    Xe xe, ngựa ngựa lần chen,
    Hoa quen mừng rước, chim quen đón chào.
    Chênh-vênh ngoài chốn non cao,
    810Áo hồng, đai bạc, bước vào cửa không.
    Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,
    Cờ xen bảo-cái, tán lồng tràng-phan.
    Hương đèn tạ phật vừa an,
    Mới đem trâm, quạt đến bàn cùng sư.
    Sư rằng phận đẹp duyên ưa,
    “Mừng cho đôi lứa đã vừa đồng cân.
    “Song đây là cảnh chân-chân,
    “Tăng già chịu việc hôn-nhân trở lời.
    “Gần đây đã có một người,
    820″Đưa nường đến chốn phật-đài ngày xưa.
    “Cậy người biện lễ ông Tơ,
    “Xin hầu sang đó mà đưa nàng về.
    Mừng hầu phỉ chí nam nhi,
    Vinh-qui cùng với vu-qui một ngày.
    Bén rồng, ôm phượng ra tay,
    Mặc cô kinh-kệ ở đây khấn-cầu.
    Tạ từ cùng bước xuống lầu,
    Thám-hoa thì trước, mà sau Diệu-Thường.
    Áo hồng đã ruổi xe vàng,
    830Trên lầu còn thoáng mùi hương lạ đời.
    Chàng liền thay chuỗi hạt trai,
    Đã phô thức phấn, lại gài then mây.
    Lên chùa lạy bụt, lạy thầy,
    Giã Hương-Công, đội ơn thầy chẳng quê.
    Giã non, giã nước, giã chiền,
    Giã mai, giã trúc, giã miền cỏ hoa !
    Cảnh này trong chốn đường hoa
    Vào chơi thết-đãi, bước ra phụng-chiều.
    Thoắt thôi xe ngựa dập-dìu,
    840Sang Kim-lăng, cứ như điều nhà sư.
    Tiệc thời mười lạng vàng đưa,
    Nước non kể mấy tóc tơ thẹn-thùng !
    Thế này của chửa xứng công,
    Nặng ơn Phiếu-mẫu, nhẹ lòng Vương-Tôn.
    Rạng ngày lại ruổi nước non,
    Giải rong cờ bướm, dậm dồn vó câu.
    Vui lòng nhẹ bước nên mau,
    Ba trăng đã đến Hòa-châu cảnh nhà.
    Thung-huyên đôi khóm già già,
    850Trên đầu vẻ bạc, ngoài da thức mồi.
    Rỡ phô tiệc nhộn đầy vơi,
    Dưới hiên lần chuốc thọ bôi đôi tuần
    Môn-đình xuân lại thêm xuân,
    Thi thư rạng nước, đai cân nối nhà.
    Thám-hoa quì lạy thềm hoa,
    Niềm xưa, nỗi trước lân-la bày tường:
    “Con từ du-học bốn phương,
    “Thần-hôn đành lỗi đạo-thường làm con.
    “Phúc thừa muôn đội tùng môn,
    860″Bảng vàng may trộm chữ son tên đề.
    “Nhân-duyên vâng lĩnh quạt thề,
    “Nhờ tay nguyệt-lão khéo xe lạ-lùng.
    “Ngửa trông trời bể bao-dung,
    “Thứ cho dưới gối tấm lòng tiểu-nhi.”
    Rằng: “Từ con cách đình vi,
    “Ngán lòng nương cửa mọi bề nhớ trông.
    “Nhờ hồng-phúc, đội âm-công,
    “Gặp khi kim-bảng, động-phòng cả hai.
    “Rồi đem nhau đến thọ-đài,
    870Lạy bà Trần-thị kẻo người nhớ mong.
    “Người từ lỡ bước long-đong,
    “Trời xui nghìn dặm để lòng tới đây.
    “Nặng bên tình nghĩa xưa nay,
    “Rước về phụng-dưỡng đêm ngày thay con.
    “Chữ duyên rày đã vuông tròn,
    “Đem tin mừng lại kẻo buồn bấy lâu.”
    Tạ ân nàng lại khấu đầu,
    Cùng chàng vâng mệnh sang hầu từ-thân.
    Bước vào vừa đến giữa sân,
    880Song-song cùng đặt bức khăn lạy chào.
    Sụt-sùi kể-lể thấp cao,
    Nỗi con, nỗi mẹ, tiêu-hao tỏ tường :
    “Mừng con và đội ơn chàng,
    “Thân già được thấy giàu-sang ai ngờ ?”
    Lạy thôi, nàng giở sau xưa:
    “May nhờ một sớm móc mưa tưới nhuần.
    “Xiết bao giở nỗi gian-truân,
    “Một nhà sum-họp Tấn, Tần từ đây.
    “Duyên hương-lửa, hội rồng-mây,
    890Bõ công ly-biệt, bõ ngày tân-toan”
    Thoắt thôi từ tạ dưới màn,
    Về lầu mở tiệc đoàn-viên chúc mừng.
    Chơi-vơi hoa-chúc tưng-bừng,
    Véo-von đàn hát, vang lừng phách sênh.
    Cung nam, cung bắc, cung huỳnh,
    Đọ như tiếng kệ, tiếng kinh chẳng nhường.
    Có khi cợt phấn, diễu hương,
    Sau dường Bồ-tát, trước dường tiên-nga.
    Có khi ướm nguyệt, chào hoa,
    900Lầu son phảng-phất cửa già gió trăng.
    Huệ lan đương rộn tiệc mừng,
    Tin hay đã thấy tưng-bừng sứ hoa.
    Việc quan hẳn khác việc nhà,
    Lạy nghiêm-từ dã, lạy bà từ-thân.
    Cùng nàng xe ngựa dời chân,
    Nước-non lặn-lội ba tuần tới nơi.
    Bệ rồng gang tấc mặt trời,
    Tâu lời trung-nghĩa, dâng bài tu-nhương.
    Phải duyên ngư-thủy nhất đường,
    910Ấn son kén mặt, gươm vàng trao tay.
    Mệnh trời vâng chiếu năm mây,
    Ra tài Khấu, Đặng, thử tay Tiêu, Tào.
    Đông-nam chỉ ngọn cờ mao,
    Non xanh sấm dậy, sóng đào gió rơi.
    Cáo, kình im-lặng tăm-hơi,
    Doành ngâm rửa mác, non đoài treo cung.
    Khải-ca lừng-lẫy phu công,
    Đã ngoài nanh vuốt, lại trong cột-rường.
    Giơ hốt ngọc, giắt ấn vàng,
    920Cõi bờ mở rộng, mối giềng xây nên.
    Đồng-hưu rờ-rỡ thẻ khuyên,
    Công ghi gác phượng, danh truyền đài lân.
    Nhà chung-đỉnh, cửa đai-cân,
    Vinh-phong sắc Quận phu-nhân cho nàng.
    Móc mưa nhuần gội ân sang,
    Nền nhân, cây đức rạng hàng quế-lan.
    Trăm năm duyên sánh phượng loan,
    Tao-khang hai chữ, Trần, Phan dõi truyền,
    Tốt tươi hai khóm thung-huyên,
    930Thêm mừng nước trị nhà yên đời đời.
    Lạ thay cùng đạt cơ trời,
    Chớ khoe quyền thế, chớ cười hàn-vi.
    May ra ai cũng một thì,
    Hơn nhau hai chữ nhân-nghì là hơn.
    Người quân-tử, khách hồng-nhan,
    Kiền-khôn còn rộng tạo-đoan còn dài.
    Nôm-na chép truyện mà chơi,
    Xét cơn bĩ, thái, dám lời khen chê.
    Thực-thà dám sánh tân kỳ,
    940Gọi là lảm-nhảm để ghi sau này.
     
    camapkss thích bài này.
  11. khiconmtv

    khiconmtv Cử nhân

    hoangtuna thích bài này.
  12. duydoan

    duydoan Mầm non

    Nhờ bác chủ topic up lại bản PDF của 'Phạm Công tân truyện'.
     
  13. Missfly82

    Missfly82 Mầm Non

    upload book Phạm Công tân truyện – pdf

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    hnxuan thích bài này.
  14. silence00

    silence00 Sinh viên năm II

    tieungao thích bài này.
Moderators: Bọ Cạp

Chia sẻ trang này