Văn học nước ngoài G Phía Tây Không Có Gì Lạ - Erich Maria Remarque

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi Trúc Quỳnh Đặng, 10/10/21.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    [​IMG]

    Tên sách: Phía Tây Không Có Gì Lạ
    Tác giả: Erich Maria Remarque, Vũ Hương Giang dịch
    NXB Văn Học và Đông A phát hành năm 2017

    Nguồn PDF: @cuoicaisudoi
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Chuyển text, soát lỗi: Trúc Quỳnh

    Cuốn này dạo trước mình có chuyển text và soát cũng được vài chương rồi, mà cứ bận này bận kia mãi, chưa hoàn được, giờ đăng lên PĐTT những chương đã soát xong được nhé. Sau này có thời gian thì thu xếp để làm nốt các chương còn lại.
     
    Cảnh1711 and cuoicaisudoi like this.
  2. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    Cuốn sách này không phải là một bản cáo trạng, cũng không phải một lời thú tội. Nó chỉ cố gắng kể về một thế hệ đã bị chiến tranh hủy hoại - cho dù họ đã thoát khỏi đạn pháo của chiến tranh.
     
  3. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    I

    Chúng tôi nằm sau chiến tuyến chín cây số. Đại đội vừa được thay phiên hôm qua; lúc này cả bọn vừa ăn căng rốn món đậu trắng hầm thịt bò, no nê và hài lòng. Thậm chí mỗi thằng còn được thêm một cà mèn đầy dành cho bữa tối; đã vậy còn lĩnh cả khẩu phần kép xúc xích và bánh mì - thật là quá đã. Lâu lắm rồi chẳng có bữa nào thỏa thuê như thế này: gã đầu bếp với tấm thân bò mộng và cái đầu cà chua đỏ lựng đích thân đem đồ ăn ra mời anh em; ai đi ngang qua gã cũng vẫy vẫy cái muỗng gọi lại và úp cho một muỗng đầy tú hụ. Gã đang tuyệt vọng lắm, vì không biết làm cách nào trút cho hết cái nồi quân dụng to vật này. Tjaden và Müller lôi đâu đến mấy cái chậu và để gã múc cho đầy phè đến tận miệng chậu. Tjaden làm thế vì háu ăn, còn Müller vì lo xa. Mọi người chịu không hiểu Tjaden tọng rõ lắm mà chả biết thức ăn chui đằng nào hết. Trước nay lúc nào cậu ta cũng gầy đét như con cá mắm.

    Nhưng quan trọng nhất là có cả khẩu phần kép thuốc hút. Mỗi người được mười điếu xì gà, hai mươi điếu thuốc lá và hai miếng thuốc lá nhai, quả là rất đàng hoàng lịch sự! Tôi đổi chỗ thuốc nhai của mình lấy thuốc lá của Katczinsky, thế là tôi có bốn mươi điếu. Đủ xài cho cả ngày.

    Thật ra thì tất cả những món quà bất ngờ này không dành cho chúng tôi. Người Phổ đâu có hào phóng thế. Chúng tôi vớ bở chỉ nhờ một sự nhầm lẫn.

    Mười bốn ngày trước chúng tôi phải lên tuyến đầu vì đến phiên giữ chốt. Khu vực chúng tôi cắm quân khá yên tĩnh, và vì vậy để chuẩn bị cho ngày chúng tôi trở về viên quản lý đã lĩnh khẩu phần ăn thông thường đủ cho cả một trăm năm mươi lính toàn đại đội. Nhưng đúng vào ngày cuối cùng, với số lượng pháo nòng dài và pháo hạng nặng nhiều đến kinh ngạc, quân Anh đã liên tục nã đạn vào vị trí của chúng tôi, khiến chúng tôi chịu tổn thất nặng nề tới mức chỉ còn tám chục mống quay về.

    Chúng tôi rút quân vào ban đêm và lập tức lăn ra đánh một giấc cho đã đời; vì Katczinsky nói đúng: chỉ cần lính tráng được ngủ nhiều hơn thì chiến tranh cũng chẳng đến nỗi nào. Thế nhưng ở tiền tuyến có bao giờ được ngủ cho ra giấc đâu, và mỗi phiên chốt mười lăm ngày lại quá là lâu.

    Khi những thằng đầu tiên trong chúng tôi bò ra khỏi các lán trú quân thì trời đã trưa. Nửa giờ sau, mọi người đều vớ lấy cà mèn, kéo nhau đến tụ trước nồi thịt hầm vừa chín tới đang tỏa mùi béo ngậy. Đứng đầu tiên cố nhiên là những thằng háu đói nhất: Albert Kropp nhỏ thó, suy nghĩ sáng suốt nhất bọn nên vừa mới được lên binh nhất; Müller V, vẫn tha theo những cuốn sách giáo khoa bên mình và mơ tới kỳ thi tranh thủ ngày về phép, dưới màn đạn lửa vẫn cày các định luật vật lý; Leer, râu quai nón, rất thích các cô gái trong nhà thổ dành cho sĩ quan thề sống thề chết rằng theo lệnh nhà binh thì các cô có nghĩa vụ phải mặc áo sơ mi lụa và phải tắm trước nếu tiếp khách từ cấp đại úy trở lên; và người thứ tư là tôi, Paul Bäumer. Cả bốn thằng cùng mười chín tuổi, cả bốn thằng cùng từ một lớp học đi thẳng vào cuộc chiến.

    Ngay sau lưng bọn tôi là đám bạn thân, Tjaden, một thợ khóa gầy gò, trạc tuổi bọn tôi, chén khỏe nhất đại đội. Cậu ta ngồi xuống bàn ăn người mảnh như que tăm, nhưng khi đứng dậy thì bụng kệnh như con rệp chửa; Haie Westhus, bằng tuổi, thợ than bùn, có thể dễ dàng nắm gọn một ổ bánh mì lính trong lòng bàn tay mà đố: “Đoán xem, trong tay tớ có gì?”; Detering, nông dân, chỉ nghĩ đến nông trại và vợ của mình; và cuối cùng là Stanislaus Katczinsky, thủ lĩnh của nhóm chúng tôi, gan lì, láu lỉnh, dày dạn, tuổi đã tứ tuần, mặt nâu như đất thó, mắt xanh lơ, vai xuôi thõng và có khứu giác kỳ diệu, ngửi ra ngay những mối nguy hiểm, những món ăn ngon, những chỗ nấp tốt. Nhóm chúng tôi đứng đầu đội quân xếp hàng rồng rắn trước quầy bếp lưu động. Chúng tôi bắt đầu sốt ruột, vì gã đầu bếp thẫn thờ vẫn còn đứng ì ra đấy mà đợi. Cuối cùng Katczinsky réo về phía gã: “Mở thùng súp của cậu ra đi chứ, Heinrich! Ai cũng thấy là đậu nhừ rồi kìa.”

    Gã kia lắc đầu như ngái ngủ. “Các cậu phải có mặt đông đủ đã.”

    Tjaden nhe răng cười. “Bọn tôi đến đủ rồi.”

    Gã hạ sĩ quan anh nuôi vẫn chưa mảy may biết gì. “Các cậu đừng có tưởng bở! Thế còn những người khác đâu cả?”

    “Hôm nay họ không xơi cơm của cậu! Họ đang nằm ở quân y viện và dưới mồ chung rồi.”

    Con bò nấu bếp như bị một đòn chí mạng khi biết được sự thật. Gã lảo đảo.

    “Thế mà tôi lại nấu cho những một trăm năm mươi người.”

    Kropp huých vào sườn gã. “Vậy thì bọn này cuối cùng cũng được một bữa no. Thôi, bắt đầu đi!”

    Nhưng trong đầu Tjaden chợt lóe lên một ý nghĩ. Cái mặt chuột nhọn hoắt của cậu ta sáng rỡ lên, cặp mắt nheo lại đầy vẻ láu cá, hai gò má giật giật, cậu ta sán đến gần gã đầu bếp hơn: “Này nhóc, vậy là cậu cũng đã lĩnh cả phần bánh mì cho một trăm năm mươi người, hả?” Gã kia gật đầu trong lúc còn chưa hết choáng váng và hồn vía vẫn ở trên mây. Tjaden túm lấy áo gã. “Cả xúc xích à?”

    Cái đầu cà chua lại gật.

    Xương quai hàm Tjaden run lên. “Cả thuốc lá nữa chứ?”

    “Phải, tất tần tật.”

    Tjaden mặt mày sáng rỡ ngó ra xung quanh. “Mẹ kiếp, thế này gọi là đỏ hơn son đây! Vậy là tất cả dành cho anh em ta! Mỗi thằng sẽ được… xem nào… đúng rồi, chính xác là gấp đôi khẩu phần!”

    Nhưng lúc này gã cà chua đã hoàn hồn, gã tuyên bố: “Thế không được.”

    Giờ thì cả bọn chúng tôi cũng phấn chấn hẳn lên, xô nhau sấn gần lại.

    “Sao lại không được, cái đồ óc bã đậu kia?” Katczinsky vặn.

    “Tiêu chuẩn cho một trăm năm mươi người, không thể chia cho tám mươi người được.”

    “Rồi chúng tao sẽ cho mày biết,” Müller gầm gừ.

    “Thức ăn thì còn được, chứ những thứ khác tôi chỉ có thể phát đủ tám mươi suất,” gã cà chua khăng khăng một mực.

    Katczinsky nổi cáu: “Xem chừng phải thuyên chuyển mày khỏi đây, hả? Mày đã lĩnh khẩu phần không phải cho tám mươi lính, mà cho đại đội hai, vậy thôi. Giờ bỏ cả ra đây! Đại đội hai là chúng tao đây này!”

    Chúng tôi áp sát gã đầu bếp. Chẳng ai chịu nổi gã, đã nhiều phen do lỗi của gã mà ở ngoài chiến hào chúng tôi phải nhận bữa ăn vừa quá muộn vừa nguội ngắt, vì đạn pháo chỉ mới đùng đoàng một tí là gã đã không dám bê nồi thức ăn lại gần hơn, cho nên anh em đại đội chúng tôi đi lấy đồ ăn phải đánh đường xa hơn anh em các đại đội khác rất nhiều. Bulcke ở đại đội một chẳng hạn là một đầu bếp khá hơn hẳn. Tuy béo như con chuột đồng, nhưng khi cần, anh ta vẫn tự tay lễ mễ tha thức ăn lên tận tuyến đầu.

    Chúng tôi đang bức xúc ghê gớm, và nếu viên chỉ huy đại đội không xuất hiện đúng lúc thì thế nào cũng có thằng bị chẻ nhỏ như chẻ củi. Ông ta hỏi lý do cuộc cãi vã và chỉ nói: “Phải, ngày hôm qua chúng ta đã có những tổn thất nặng nề…”

    Rồi ông ta ngó vào chiếc nồi lớn. “Món đậu này trông có vẻ ngon đây.”

    Gã cà chua gật đầu. “Hầm với mỡ và thịt đấy ạ.”

    Viên trung úy nhìn chúng tôi. Ông ta biết chúng tôi đang nghĩ gì. Ông ta cũng biết nhiều chuyện khác nữa, vì ông ta đã trưởng thành giữa chúng tôi, khi đến đại đội ông ta mới chỉ là hạ sĩ quan. Ông ta lại nhấc vung nồi lên một lần nữa và hít hít. Trước khi bỏ đi, ông ta bảo: “Nhớ mang cả cho tôi một đĩa đầy nhé. Và chia tất cả các khẩu phần đi. Chúng ta có thể cần đến chúng.”

    Gã cà chua thộn mặt ra. Tjaden nhảy nhót quanh gã.

    “Cậu có thiệt gì đâu kia chứ! Cứ làm như cả kho lương thực là của mình không bằng… Nào thôi bắt đầu đi, đồ săn mỡ già đời, và đừng có đếm nhầm đấy…”

    “Treo cổ mày lên!” gã cà chua gầm gừ. Gã tức nổ mắt, chuyện như thế này đi ngược với lý trí của gã. Gã không còn hiểu cái thế giới này nữa. Và để tỏ ra giờ đây gã cũng bất cần tất cả, gã còn tự động chia thêm cho mỗi người hai lạng rưỡi mật ong nhân tạo.

    Hôm nay quả là một ngày đẹp. Lại có cả quà của quân bưu, hầu như ai cũng nhận được vài lá thư và báo. Lúc này chúng tôi thong thả đi về phía đồng cỏ sau lán trú quân. Kropp cắp dưới nách cái nắp tròn của thùng bơ thực vật.

    Người ta đã xây bên rìa phải đồng cỏ một chuồng xí công cộng to đoành - một ngôi nhà chắc chắn, lợp mái đàng hoàng. Nhưng chỗ ấy chỉ dành cho bọn lính mới tò te chưa học được cách rút tỉa những điều hay ho từ mỗi việc dù nhỏ nhất. Bọn tôi tìm cái gì khác thú vị hơn kia. Số là nơi đây rải rác những cái thùng nho nhỏ với cùng một mục đích sử dụng - hình vuông, sạch sẽ, đóng toàn bằng gỗ, bốn bề bịt kín, bên trên là bệ ngồi thuận tiện, không chê vào đâu được. Hai bên thùng gắn quai xách, nên có thể dịch chuyển thoải mái.

    Bọn tôi kê ba cái thùng châu vào nhau và khoan khoái ngồi xuống. Bét ra phải hai tiếng nữa cả bọn mới chịu đứng lên.

    Tôi vẫn nhớ hồi còn là tân binh vừa chân ướt chân ráo đến doanh trại, cả bọn đã xấu hổ như thế nào khi lần đầu tiên phải dùng chuồng xí công cộng. Chẳng có cửa nẻo gì cả, hai chục thằng ngồi kề bên nhau như trong toa tàu. Chỉ lướt mắt một phát là bao quát cả lũ… thì lính tráng cần được giám sát thường xuyên mà.

    Từ bấy đến nay chúng tôi đã học được cách vượt qua nhiều thứ hơn là vượt qua chỉ một nỗi xấu hổ cỏn con đó. Thời gian trôi đi, chúng tôi đã quen với những điều còn đáng xấu hổ hơn.

    Nhưng làm chuyện này giữa trời đất quả thật là quá sướng. Tôi không còn nhớ tại sao trước kia lúc nào bọn tôi cũng ngại ngùng khi đi ngang qua những cái thùng này, vì chúng cũng tự nhiên như ăn uống thôi mà. Và có lẽ cũng không cần phải nhiều lời về chúng, nếu như chúng không đóng một vai trò quan trọng với bọn tôi, và nếu chúng chẳng mới lạ ngay với chính bọn tôi như thế… vì thực ra từ lâu chúng đã quá đương nhiên.

    Tiêu hóa và bài tiết là những vấn đề thiết thân với người lính hơn với bất cứ người nào khác. Ba phần tư từ vựng của người lính từ đó mà ra, và khi thể hiện niềm vui sướng cực độ hay nỗi căm giận sâu sắc nhất thì từ ngữ anh ta dùng đều bắt nguồn từ chỗ này. Quả là không có cách nào khác để biểu lộ cảm xúc một cách ngắn gọn và rõ ràng đến thế. Cha mẹ và các thầy cô giáo hẳn sẽ lạ lùng lắm khi chúng tôi trở về nhà với lời ăn tiếng nói như vậy, nhưng ở ngoài mặt trận thì nó quá là quen tai.

    Đối với chúng tôi, toàn bộ những tiến trình này đã lấy lại được đặc tính ngây thơ, vì chúng bắt buộc phải diễn ra giữa chốn công cộng. Hơn thế nữa: chúng tôi xem chúng đương nhiên đến nỗi việc hoàn thành chúng cũng khoan khoái ngang với thắng một ván bài ở mức đặt cược cao nhất. Không phải tự nhiên lại sinh ra cái từ “khẩu ngữ cầu tiêu” để chỉ đủ loại chuyện tán nhảm. Những chỗ giải quyết “nỗi buồn” là góc buôn chuyện, là nơi tụ bạ quen thuộc của lính.

    Khoảnh khắc này đây bọn tôi đang cảm thấy thoải mái hơn là ngồi trong buồng vệ sinh sang trọng lát gạch men trắng. Nơi đó chỉ có thể sạch sẽ, chứ ở đây mới khoan khoái dễ chịu.

    Đó là những thời khắc vô tư lự tuyệt vời. Bên trên chúng tôi bầu trời xanh biếc. Xa xa phía chân trời lơ lửng những quả khinh khí cầu màu vàng rực sáng trong nắng và những vệt khói nhỏ màu trắng của những viên đạn cao xạ. Đôi khi chúng vọt lên thành chùm để rượt theo một phi cơ.

    Tiếng gầm của đạn pháo vẳng về đây chỉ ì ầm tựa một cơn dông từ nơi xa lắm. Những con ong đất vo ve bay ngang cũng đủ át hết cả.

    Và bao quanh chúng tôi là cánh đồng cỏ đầy hoa. Những ngọn cỏ non đu đưa, những cánh bướm trắng rập rờn đến gần, chúng chao liệng trong làn gió êm ái, ấm áp cuối hạ; còn chúng tôi đọc thư, đọc báo và hút thuốc, chúng tôi bỏ mũ ca lô đặt xuống bên cạnh mình, làn gió đùa trên mái tóc chúng tôi, đùa với những lời nói, những ý nghĩ của chúng tôi.

    Ba cái thùng của ba thằng đứng giữa đám hoa anh túc đỏ rực…

    Chúng tôi đặt nắp thùng bơ thực vật lên đầu gối, vậy là có một mặt bàn nghiêm chỉnh để chơi bài Skat. Kropp thủ sẵn cỗ bài trong người. Hết chơi Skat, chúng tôi lại xoay sang đánh bài kiểu khác. Tưởng chừng có thể cứ ngồi mãi như thế.

    Tiếng đàn phong cầm từ dãy lán trú quân vẳng đến. Thỉnh thoảng chúng tôi đặt bài xuống và nhìn nhau; rồi một thằng nói “Ôi các cậu, các cậu…” hoặc “Suýt nữa đã hỏng bét cả…” Rồi chúng tôi lặng đi một lúc. Trong lòng chúng tôi là một cảm xúc mạnh mẽ và kìm nén, ai cũng cảm thấy được, cho nên không cần nhiều lời. Suýt nữa thì hôm nay chúng tôi đã không còn được ngồi trên những cái thùng này; chúng tôi đã thoát chết trong gang tấc. Vì vậy mà giờ đây tất cả đều mới mẻ và mạnh mẽ… bông anh túc đỏ chói và bữa ăn ngon, những điếu thuốc lá và ngọn gió hè.

    Kropp hỏi: “Đã cậu nào gặp lại Kemmerich chưa?”

    “Cậu ấy đang nằm ở St. Joseph,” tôi đáp.

    Müller bảo Kemmerich bị đạn xuyên thủng đùi, coi như có tấm giấy thông hành về quê.

    Chúng tôi quyết định chiều sẽ đi thăm cậu ấy.

    Kropp rút ra một lá thư. “Kantorek nhờ tớ gửi lời chào các cậu.”

    Chúng tôi cười. Müller quăng điếu thuốc lá đi và nói: “Tớ muốn giá mà lão ta đang ở đây.”

    Kantorek là thầy giáo chủ nhiệm của bọn tôi, một người đàn ông nhỏ thó, nghiêm khắc, mặt nhọn như mặt chuột, luôn bận chiếc áo vét dài xám xỉn. Lão có thân hình na ná gã hạ sĩ quan Himmelstoß - “nỗi khiếp đảm của núi Tu Viện”. Mà kể cũng khôi hài là nỗi bất hạnh trên đời thường lại do những kẻ loắt choắt gây ra, những kẻ mạnh mẽ và hay sinh sự gấp nhiều lần những người to xác. Tôi luôn cố tránh để không bị sa vào những đơn vị có chỉ huy nhỏ con; phần lớn bọn họ là những tên bóc lột đáng nguyền rủa.

    Trong các giờ học thể dục, Kantorek cứ lải nhải thuyết giảng mãi, kỳ cho tới lúc cả lớp đồng lòng để lão dẫn đến tỉnh đội đăng ký nhập ngũ. Tôi vẫn nhớ mồn một hình ảnh lão ngày đó, khi lão nhìn chúng tôi với ánh mắt lấp lánh sau cặp kính và xúc động hỏi: “Các em sẽ cùng đi chứ, các chiến hữu?”

    Những nhà giáo như lão thường xuyên trữ sẵn tình cảm của họ trong túi áo vét, và cũng sẵn sàng đem nó ra phân phát theo tiết học. Thế nhưng thuở đó chúng tôi nào đã để tâm chuyện ấy.

    Tuy nhiên, một đứa trong đám trò chúng tôi do dự và không hẳn muốn đi cùng. Đó là Joseph Behm, một anh chàng to béo và vui tính. Nhưng rồi cậu ta cũng bùi tai nghe theo, mà giả sử có muốn cưỡng lại cũng chả được. Có lẽ còn nhiều thằng khác nữa cũng nghĩ như cậu ta; nhưng ai dám tự tách mình ra chứ, bởi thời đó mà lơ mơ là bị cả cha mẹ đẻ của mình gán ngay cho hai từ “hèn nhát”. Đơn giản là mọi người không hề biết cái gì đang đến. Thực ra sáng suốt nhất là đám dân nghèo chất phác; họ ngay lập tức xem chiến tranh là một nỗi bất hạnh, trong khi những kẻ phong lưu hơn vì quá vui mừng lại chẳng biết mô tê gì, cho dù chính họ lẽ ra phải nhận biết sớm hơn những hậu quả của chiến tranh.

    Katczinsky quả quyết lỗi là ở nền giáo dục làm con người ta ngu muội đi. Mà Kat nói gì cũng đều đã suy nghĩ chín chắn.

    Kỳ lạ là Behm lại nằm trong số những người đầu tiên chết trận. Cậu ta bị trúng đạn vào mắt trong một cuộc tấn công, và chúng tôi đã để Behm nằm lại trận địa vì cho rằng cậu ta đã chết. Chúng tôi không thể khiêng cậu ta theo vì phải gấp gáp rút lui. Đến chiều chợt chúng tôi nghe tiếng cậu ta gọi và trông thấy cậu ta đang bò lồm cồm phía trước chiến hào. Hóa ra cậu ta chỉ bị ngất đi. Do không nhìn thấy gì và đang điên dại vì đau đớn, Behm chẳng tận dụng được một chỗ trú ẩn nào, và vì thế đã bị phía bên kia bắn hạ trước khi ai đó kịp lao ra đón cậu ta.

    Đương nhiên người ta không thể lôi lão Kantorek vào chuyện này… mà nếu người ta muốn gọi cái việc lão đã làm là tội lỗi thì còn trời đất nào nữa. Có đến hàng ngàn lão Kantorek, tất cả bọn họ đều tin rằng đang làm điều tốt nhất theo cái cách mà họ thấy thoải mái.

    Nhưng chúng tôi lại thấy chính ở đó nguyên nhân thất bại của họ.

    Đáng ra họ phải trở thành những người chỉ lối và dìu dắt chúng tôi, những học trò tuổi mười tám, đến với thế giới của sự trưởng thành, thế giới của lao động, của nghĩa vụ, của văn hóa và tiến bộ, đến với tương lai. Đôi khi chúng tôi chế giễu họ và chơi khăm họ những vố nho nhỏ, nhưng về căn bản chúng tôi tin tưởng họ. Trong suy nghĩ của chúng tôi, khái niệm “uy tín”, mà họ là những người đang có, gắn liền với sự nhìn đời thấu đáo hơn và sự hiểu biết nhân văn hơn. Thế nhưng niềm tin đó đã tiêu tan ngay khi chúng tôi trông thấy người đầu tiên chết trận. Chúng tôi buộc lòng nhận ra rằng lứa tuổi chúng tôi trung thực hơn lứa tuổi họ; họ chỉ hơn chúng tôi ở khoản lẻo mép và khôn khéo. Trận pháo kích đầu tiên đã mở mắt cho chúng tôi thấy sự nhầm lẫn của mình, và cái nhân sinh quan mà họ dày công vun xới đã sụp đổ tan tành trong lửa đạn.

    Trong khi họ vẫn viết, vẫn nói, thì chúng tôi trông thấy những bệnh viện dã chiến và những người hấp hối… Trong khi họ gọi phụng sự quốc gia là điều lớn lao nhất, thì chúng tôi đã biết rằng nỗi sợ chết còn mạnh hơn. Chúng tôi không vì thế mà trở thành những kẻ nổi loạn, những tên đào ngũ hay những thằng hèn - toàn là những mỹ từ mà họ sính dùng - chúng tôi yêu quê hương mình cũng hệt như họ yêu, và chúng tôi dũng cảm xông lên trong mỗi cuộc tấn công… nhưng giờ đây chúng tôi đã biết phân biệt, chúng tôi bỗng chốc học được cách nhìn nhận. Và chúng tôi nhìn thấy từ cái thế giới của họ chẳng còn gì sót lại. Chúng tôi bỗng cô đơn kinh khủng; và chúng tôi phải tự xoay xở lấy một mình.

    Trước khi đi thăm Kemmerich, chúng tôi gói ghém đồ dùng của cậu ấy, những thứ này cậu ấy có thể cần đến dọc đường.

    Bệnh viện dã chiến nhốn nháo, nồng nặc mùi phenol, mùi mủ và mồ hôi như thường thấy. Tuy đã ít nhiều quen với những mùi khó ngửi trong các lán trú quân, nhưng lọt vào đây vẫn đủ khiến người ta phát ốm. Chúng tôi hỏi han tìm kiếm Kemmerich; cậu ấy đang nằm trong một gian phòng lớn, đón chúng tôi với nét mặt chỉ còn thể hiện yếu ớt sự vui mừng và nỗi bức xúc đến tuyệt vọng. Trong lúc mê man bất tỉnh, cậu ấy đã bị kẻ nào đó xoáy mất chiếc đồng hồ.

    Müller lắc đầu. “Tớ đã luôn bảo cậu rồi, rằng không ai dại gì mang theo một cái đồng hồ tốt như thế.”

    Müller vốn chậm hiểu và hay lý sự. Nếu không cậu ta đã biết giữ miệng, bởi ai cũng thấy Kemmerich sẽ chẳng bao giờ còn ra khỏi gian phòng này nữa. Có tìm lại được chiếc đồng hồ hay không hoàn toàn chẳng nghĩa lý gì, bất quá cũng chỉ gửi về cho gia đình cậu ấy là cùng.

    “Cậu thấy trong người thế nào, Franz?” Kropp hỏi.

    Kemmerich cúi đầu xuống.

    “Cũng ổn mà… mỗi tội bàn chân đau kinh khủng.”

    Chúng tôi nhìn xuống tấm chăn Kemmerich đắp. Cẳng chân cậu ấy nằm dưới một cái khung bằng thép, trên phủ chăn cao vồng lên. Tôi khẽ đá vào ống chân Müller, ai chứ anh chàng này dễ hở ra với Kemmerich điều mà đám quân y đã kể cho chúng tôi biết ngoài kia, ấy là Kemmerich không còn bàn chân nữa. Chân cậu ấy đã phải cưa bỏ.

    Thần sắc cậu ấy thật kinh khủng, vàng vọt và tái xám, trên mặt đã hiện rõ những đường nét xa lạ mà chúng tôi quá quen thuộc vì đã phải nhìn hàng trăm lần rồi. Thật ra đó không phải là những đường nét, những dấu hiệu thì đúng hơn. Dưới làn da không còn mạch đập của sự sống; sự sống đã bị đẩy ra đến mép ngoài cùng của cơ thể, thần chết đang hoành hành ở bên trong và đã chế ngự được đôi mắt. Người đồng đội Kemmerich của chúng tôi đang nằm kia, người mới đây còn nướng thịt ngựa và ngồi dưới hố đạn pháo cùng chúng tôi; vẫn là cậu ấy, nhưng lại không còn là cậu ấy, hình ảnh cậu ấy trở nên nhạt nhòa, vô định, như một tấm ảnh chụp đè lên nhau hai lần. Ngay giọng nói của cậu ấy cũng mang âm hưởng của tro bụi.

    Tôi nhớ lại ngày chúng tôi lên đường. Mẹ cậu ấy, một phụ nữ to béo tốt bụng, đưa cậu ấy ra ga. Bà khóc sướt mướt đến nỗi sưng húp cả mặt mũi. Kemmerich ngượng ngùng vì mẹ là người kém bình tĩnh nhất trong tất cả mọi người, bà dường như tan chảy thành mỡ và nước mắt. Vừa khóc bà vừa để mắt đến tôi, chốc chốc lại níu lấy cánh tay tôi mà van vỉ hãy để ý trông nom Franz ngoài mặt trận. Đúng là Franz mặt mũi non choẹt như đứa bé, xương cốt lại yếu mềm, mới đeo ba lô có bốn tuần đã rước ngay hai bàn chân bẹt. Nhưng ngoài mặt trận thì ai còn để ý trông nom ai được nữa!

    “Bây giờ cậu sẽ được về nhà,” Kropp nói, “chứ bình thường sẽ phải đợi ít nhất ba bốn tháng nữa mới đến kỳ nghỉ phép.”

    Kemmerich gật đầu. Tôi không thể nhìn lâu đôi bàn tay cậu ấy, chúng như làm bằng sáp. Các móng tay vẫn két đầy bụi đất chiến hào có màu xanh đen tựa chất độc. Tôi sực nghĩ, những cái móng tay này sẽ vẫn tiếp tục mọc dài ra, như những cái cây ma quái mọc lên nơi tăm tối, rất lâu sau khi Kemmerich đã ngưng thở. Trước mắt tôi hiện lên hình ảnh những cái móng tay xoắn lại như những cái mở nút chai, mọc dài ra, dài nữa, và cùng với chúng, những sợi tóc cũng đua nhau mọc trên hộp sọ đang tan rữa như cỏ dại trên đất màu, giống hệt như cỏ dại, sao lại có thể như vậy chứ?

    Müller cúi xuống. “Chúng tớ mang đồ của cậu đến đây này, Franz.”

    Kemmerich chỉ tay. “Bỏ hộ xuống dưới gầm giường.”

    Müller làm theo. Kemmerich lại bắt đầu ca cẩm về chiếc đồng hồ. Có cách nào an ủi cậu ấy mà không khiến cậu ấy sinh nghi được đây!

    Müller lôi từ dưới gầm giường lên một đôi ủng phi công. Đó là đôi giày kiểu Anh tuyệt đẹp bằng da mềm màu vàng, cao đến tận đầu gối và thắt dây từ dưới lên trên, một món đồ đáng thèm muốn. Müller say sưa ngắm nghía đôi ủng, giơ chúng gần đôi giày thô kệch của mình và hỏi: “Cậu có định đem chúng về nhà không, Franz?”

    Cả ba đứa chúng tôi chung một ý nghĩ: cho dù Kemmerich có khỏe lại đi nữa, cậu ấy cũng chỉ có thể dùng một chiếc, thành thử với cậu ấy đôi ủng vô giá trị. Nhưng cứ cái đà này thì quả là bi đát nếu để đôi ủng nằm lại đây, vì hễ cậu ấy chết là bọn y tá đương nhiên sẽ cuỗm chúng liền.

    Müller hỏi lại: “Cậu không muốn để chúng lại đây à?”

    Kemmerich không muốn. Đây là món đồ tốt nhất cậu ấy có.

    “Tụi mình có thể trao đổi mà,” Müller lại gạ, “ở ngoài mặt trận thứ này hữu dụng hơn đấy.”

    Nhưng không lay chuyển được Kemmerich.

    Tôi đạp vào chân Müller, cậu ta tần ngần trả đôi ủng đẹp về dưới gầm giường.

    Chúng tôi còn chuyện trò một lúc nữa rồi chia tay nhau. “Gắng khỏe nhé, Franz.”

    Tôi hứa với cậu ấy ngày mai sẽ lại đến, Müller cũng hẹn quay lại, cậu ta vẫn nghĩ đến đôi giày ống buộc dây và vì vậy muốn túc trực ở đây.

    Kemmerich rên rỉ. Cậu ấy đang sốt. Khi ra ngoài, chúng tôi giữ một y tá lại và năn nỉ gã tiêm cho Kemmerich một mũi.

    Gã khước từ: “Nếu ai chúng tôi cũng tiêm morphin thì chắc phải có hàng thùng đầy…”

    “Dễ thường cậu chỉ phục vụ bọn sĩ quan thôi hả,” Kropp hằn học nói.

    Tôi vội xen vào can và thử mời gã y tá một điếu thuốc lá. Gã nhận. Rồi tôi hỏi: “Cậu có được phép tiêm món ấy không đã chứ?”

    Gã nổi máu tự ái. “Các anh không tin thì hỏi tôi làm gì…”

    Tôi dúi thêm vài điếu thuốc nữa vào tay gã. “Chiều lòng tụi này chút đi…”

    “Thôi được rồi,” gã nói. Kropp theo gã vào trong, cậu ta không tin gã và muốn thấy tận mắt. Chúng tôi đứng đợi bên ngoài.

    Müller lại bắt đầu nói đến đôi ủng. “Chúng sẽ vừa chân tớ không chê vào đâu được. Dận cái đôi xuồng này, chân tớ cứ là nốt rộp này chồng lên nốt rộp kia. Cậu có nghĩ cậu ấy sẽ trụ nổi đến hết phiên trực ngày mai không? Nếu cậu ấy tịch đêm nay thì tụi mình đừng hòng thấy lại đôi ủng nữa…”

    Albert quay ra, “Các cậu có nghĩ…” cậu ấy hỏi.

    “Đứt thôi,” Müller nói như để kết thúc câu chuyện.

    Chúng tôi quay về lán trú quân. Tôi nghĩ đến bức thư ngày mai mình sẽ phải viết cho mẹ Kemmerich. Tôi rét run. Tôi muốn uống một ly rượu mạnh. Müller vặt mấy ngọn cỏ đưa lên miệng nhấm nhấm. Kropp bé nhỏ đột nhiên quăng điếu thuốc lá xuống đất, điên cuồng giẫm đạp lên nó, đoạn nhìn xung quanh với gương mặt dãn ra, bối rối lẩm bẩm: “Cứt! Mẹ kiếp. Cứt! Cứt! Cứt!”

    Chúng tôi tiếp tục đi hồi lâu. Kropp đã trấn tĩnh lại, chúng tôi không lạ gì cái cơn khùng ngoài mặt trận đó, ai cũng đã từng trải qua. Müller hỏi cậu ấy: “Mà thật ra cái lão Kantorek đã viết gì cho cậu thế?”

    Kropp cười: “Lão gọi bọn mình là tuổi trẻ sắt gang.”

    Cả ba thằng cười gằn. Kropp chửi rủa, cậu ấy hả dạ vì xả ra được…

    Phải, họ nghĩ vậy đấy, họ nghĩ vậy đấy, hàng trăm ngàn cái lão Kantorek ấy! Tuổi trẻ sắt gang. Tuổi trẻ! Tất cả chúng tôi đều chưa quá tuổi đôi mươi. Nhưng mà trẻ ư? Tuổi trẻ sao? Cái đó qua từ lâu rồi. Chúng tôi là những ông già.
     
  4. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    II

    Tôi cảm thấy kỳ lạ khi nhớ rằng trong ngăn kéo bàn học của mình ở nhà vẫn còn vở kịch “Saul” đang viết dở chương đầu và một lô các bài thơ. Tôi đã cặm cụi với chúng không ít các buổi tối, và hầu như đám học trò đứa nào cũng làm một cái gì đó tương tự; nhưng giờ đây chuyện này đã trở nên không thực đối với tôi, tới mức tôi không sao hình dung được nó cho rõ ràng.

    Kể từ khi chúng tôi tới đây, cuộc sống trước kia thế là bị cắt đứt, mặc dù chúng tôi chẳng làm gì để dẫn tới việc đó. Đôi khi chúng tôi cố gắng nhìn bao quát và thử tìm cách lý giải, nhưng không mấy thành công. Với những kẻ ở tuổi đôi mươi chúng tôi, với Kropp, Müller, Leer và tôi, thế hệ mà lão Kantorek gọi là tuổi trẻ sắt gang, cái gì cũng rất đỗi mơ hồ. Đám lính lớn tuổi hơn đều gắn bó chặt chẽ với quá khứ, họ có đất đai, có vợ con, có nghề nghiệp và quyền lợi, chúng đủ bền chặt để chiến tranh không thể rứt đứt. Nhưng chúng tôi, bọn trai trẻ đôi mươi, chỉ có cha mẹ và vài thằng có bạn gái. Thật không đáng gì… vì ở tuổi chúng tôi cha mẹ có sức ảnh hưởng ít nhất, còn các cô gái thì chưa chi phối được. Ngoài ra, những thứ khác chẳng có gì đáng kể: một chút mơ mộng, vài mối tình nhăng nhít và trường học; cuộc đời của chúng tôi mới có bấy nhiêu. Và giờ đây chẳng còn gì đọng lại.

    Lão Kantorek hẳn sẽ nói chúng tôi đang đứng ở ngưỡng cửa của cuộc đời. Cũng giống thế thật. Chúng tôi chưa kịp bắt rễ thì cuộc chiến đã cuốn phăng chúng tôi đi. Với những người khác lớn tuổi hơn, chiến tranh chỉ là một sự gián đoạn, họ có thể nghĩ đến những gì sau chiến tranh. Nhưng chúng tôi bị chiến tranh tóm gáy và không biết rồi sẽ kết thúc ra sao. Cái chúng tôi biết chỉ là tạm thời, rằng chúng tôi đã trở nên thô lỗ một cách kỳ quặc và đáng buồn, cho dù chúng tôi thậm chí chẳng mấy khi còn biết đến cảm giác buồn.

    Tuy Müller rất muốn có đôi ủng của Kemmerich, cậu ta không vì thế mà ít thương xót bạn hơn ai đó vì quá đau buồn mà không dám nghĩ đến chuyện này. Có điều cậu ta biết phân biệt. Chỉ cần đôi ủng còn chút hữu ích cho Kemmerich, thì Müller thà giẫm chân trần trên dây thép gai còn hơn vắt óc nghĩ cách có được chúng. Nhưng đôi ủng là thứ chẳng liên quan chút nào đến tình trạng sức khỏe của Kemmerich, trong khi lại có thể khá được việc cho Müller. Kemmerich sắp chết, ai thừa hưởng đôi ủng cũng vậy cả. Vậy hà cớ gì Müller không nên theo sát vụ này, cậu ta lại chẳng có quyền hơn một gã y tá hay sao! Đợi đến lúc Kemmerich chết rồi thì đã quá muộn. Vì vậy ngay từ bây giờ Müller bắt đầu để ý canh chừng.

    Chúng tôi đã đánh mất ý thức về những mối quan hệ khác, vì chúng giả tạo. Chỉ những gì có thật mới là đúng và quan trọng với chúng tôi. Mà ủng tốt thì hiếm lắm.

    Trước kia việc này cũng khác. Khi đến tỉnh đội để đăng lính, chúng tôi còn là một lớp học gồm hai mươi chàng trai trẻ, cả lớp đã hăng hái cùng nhau - với nhiều đứa đây là lần đầu tiên - đi cạo râu, trước khi bước vào sân doanh trại. Chúng tôi không có kế hoạch rõ ràng cho tương lai; rất ít đứa có suy nghĩ thực tế về con đường sự nghiệp và công việc cho cuộc mưu sinh sau này… Thay vào đó chúng tôi chìm đắm trong những ý tưởng hoàn toàn viển vông, khiến trong mắt chúng tôi cuộc sống và cả cuộc chiến tranh đều mang một tính chất lý tưởng và gần như lãng mạn.

    Chúng tôi được huấn luyện quân sự trong mười tuần lễ và trong thời gian đó đã bị làm cho thay đổi một cách căn bản hơn là mười năm trên ghế nhà trường. Chúng tôi học được rằng một cái cúc áo được đánh bóng còn quan trọng hơn cả bốn tập sách của Schopenhauer. Thoạt đầu ngạc nhiên, rồi chua chát, và sau cùng hoàn toàn dửng dưng, chúng tôi nhận ra rằng có vẻ như không phải trí tuệ mà là cái bàn chải đánh giày, không phải tư tưởng mà là hệ thống, không phải tự do mà là rèn luyện mới mang tính quyết định. Chúng tôi đã trở thành lính với biết bao hào hứng và thiện chí, nhưng người ta đã làm mọi cách để tước bỏ chúng đi. Sau ba tuần lễ, chúng tôi không còn thấy khó hiểu khi một gã quân bưu còn có quyền lực đối với chúng tôi hơn cả bố mẹ và các thầy cô giáo trước kia, hơn cả các danh nhân thuộc mọi lĩnh vực văn hóa, từ Plato đến Goethe cộng lại. Bằng những đôi mắt trẻ trung và linh lợi, chúng tôi nhìn thấy cái khái niệm cổ điển về Tổ quốc của các thầy cô giáo đang hiện thực hóa, dẫn đến chỗ tước bỏ nhân cách, điều mà có lẽ ngay cả với người đầy tớ thấp hèn nhất người ta cũng không bao giờ dám làm. Chào, đứng nghiêm, bước đều, bồng súng, quay phải, quay trái, dập gót giày vào nhau, những lời sỉ vả và hàng ngàn lần sinh sự; chúng tôi đã hình dung nhiệm vụ của mình hoàn toàn khác và nhận thấy người ta chuẩn bị cho mình trở thành anh hùng giống như luyện ngựa cho gánh xiếc. Nhưng chẳng mấy chốc chúng tôi cũng quen. Thậm chí chúng tôi còn hiểu rằng một phần những trò khổ luyện này cần thiết bao nhiêu thì phần còn lại là thừa và vô ích bấy nhiêu. Lính tráng thính mũi nhận ra ngay.

    Lớp học của chúng tôi bị phân thành từng nhóm ba, bốn người đưa về các tiểu đội cùng đám dân chài, nông dân, công nhân và thợ thủ công người xứ Friese mà chúng tôi nhanh chóng kết bạn. Kropp, Müller, Kemmerich và tôi được điều đến tiểu đội chín do hạ sĩ quan Himmelstoß chỉ huy.

    Hắn là tay hành lính khét tiếng nhất doanh trại, và lấy thế làm hãnh diện. Một thằng cha béo lùn, đã phục vụ trong quân ngũ mười hai năm, ria mép vểnh ngược đỏ cành cạch, nguyên là bưu tá trước khi đăng lính. Hắn đặc biệt để mắt đến Kropp, Tjaden, Westhus và tôi, vì hắn cảm thấy bọn tôi ngấm ngầm chống lại hắn.

    Một buổi sáng, tôi phải dọn giường cho hắn đúng mười bốn lần, lần nào hắn cũng tìm ra điểm chưa vừa ý, rồi lại dỡ tung ra. Suốt hai mươi tiếng liền - tất nhiên tính cả nghỉ giải lao - tôi đã hì hụi đánh xi một đôi ủng da cũ rích, rắn như đá cho tới lúc đôi ủng mềm nhũn ra, đến mức chính Himmelstoß cũng không còn chê vào đâu được; tôi đã phải theo lệnh hắn kỳ cọ sạch bong phòng sinh hoạt của tiểu đội bằng một chiếc bàn chải đánh răng. Kropp và tôi bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ quét sạch tuyết trên sân doanh trại với một cái bàn chải cầm tay và một cái cào, và có lẽ chúng tôi đã phải nghiến răng mà làm cho tới lúc chết cóng, nếu không có một viên trung úy tình cờ đi ngang đã đuổi chúng tôi vào nhà và xạc cho Himmelstoß một trận tơi bời. Đáng tiếc hậu quả của vụ này là Himmelstoß càng thêm hằn học với bọn tôi. Bốn tuần lễ liền, chủ nhật nào tôi cũng đến phiên gác và suốt thời gian ấy còn phải làm trực nhật buồng, tôi phải đeo toàn bộ quân trang, vũ khí trên người, tập trên nền đất trơn ướt nhão nhoẹt theo mệnh lệnh “Nhảy lên, tiến, tiến!” rồi “Nằm xuống!” cho tới khi tôi biến thành một đống bùn nhoe nhoét và quỵ xuống vì kiệt sức, bốn giờ sau tôi phải trình cho Himmelstoß xem tất cả quân trang đã được làm sạch không tì vết của mình, với đôi bàn tay rướm máu vì phải kỳ cọ nhiều… tôi đã cùng Kropp, Westhus và Tjaden tập “đứng nghiêm” giữa giá rét căm căm suốt mười lăm phút, không đeo găng tay, những ngón tay trần áp vào nòng súng lạnh như băng, trong khi Himmelstoß lượn quanh rình mò mỗi cử động dù nhỏ nhất để bắt lỗi… tôi từng bị dựng dậy lúc hai giờ sáng, trên mình phong phanh độc manh áo ngủ mà cứ phải cắm đầu cắm cổ chạy tám vòng liền từ tầng cao nhất của doanh trại xuống tận dưới sân, chỉ vì can tội xếp quần đùi chờm vài phân ra ngoài mặt ghế đẩu, nơi mỗi người phải xếp gọn quần áo của mình. Viên hạ sĩ quan trực tuần Himmelstoß chạy bên cạnh và cố tình giẫm lên các ngón chân trần của tôi… Trong bài tập đánh giáp lá cà, tôi thường xuyên phải đấu với Himmelstoß, trong khi tôi phải loay hoay với một thanh sắt nặng trịch thì hắn được dùng một thanh gỗ tiện dụng, khiến hắn dễ dàng đánh hai cánh tay tôi bầm giập; tuy nhiên trong một lần tập như vậy tôi đã nổi cơn điên giận, cứ thế xông bừa lên và thọc cho hắn một phát thẳng bụng khiến hắn ngã lăn ra. Khi hắn toan mở miệng kêu ca thì viên chỉ huy đại đội cười nhạo hắn và phán rằng hắn phải chú ý tránh đòn mới phải; ông ta không lạ gì kẻ thuộc hạ Himmelstoß của mình và có vẻ như muốn cho hắn nếm mùi thất bại… Tôi đã rèn luyện để trở thành một người lính vượt chướng ngại vật hoàn hảo… tôi cũng dần dần trở nên thành thạo trong bài tập gập đầu gối… chỉ mới nghe tiếng Himmelstoß nói chúng tôi đã run, nhưng cái con ngựa thồ bưu phẩm hóa dại này không khuất phục nổi chúng tôi.

    Một chủ nhật nọ, khi Kropp và tôi đang dùng gậy khiêng những thùng phân từ nhà xí đi qua sân thì chạm mặt Himmelstoß áo quần bảnh chọe sắp sửa đi chơi. Hắn dừng lại và hỏi chúng tôi thích công việc này lắm không, thế là bất chấp tất cả, chúng tôi giả vờ trượt chân và xối cả thùng phân vào chân hắn. Hắn nổi đóa lên, nhưng mà vố này quá đỉnh.

    “Phải tống giam,” hắn tru tréo.

    Kropp chịu hết nổi. “Nhưng trước đó sẽ có một cuộc điều tra, và chúng tôi sẽ nói toạc ra hết,” cậu ấy tuyên bố.

    “Các anh dám nói năng như vậy với một hạ sĩ quan!” Himmelstoß gầm lên. “Các anh điên rồi hả? Đợi đấy, để tôi hỏi đã! Các anh định làm gì?”

    “Kể tất tần tật về ngài hạ sĩ quan!” Kropp đáp và đứng nghiêm, các ngón tay đặt đúng nẹp quần.

    Lúc này Himmelstoß đã hiểu được tình thế, bèn lẳng lặng rút lui. Tuy trước khi cuốn xéo hắn vẫn còn lí nhí: “Rồi chúng mày sẽ biết tay ông,” nhưng quyền lực của hắn thế là chấm hết. Hắn vẫn còn thử hành chúng tôi một lần nữa với bài luyện “Nằm xuống!”, “Nhảy lên, tiến, tiến!” trên những thửa ruộng trơn nhẫy. Chúng tôi tuân theo mệnh lệnh hẳn hoi, vì mệnh lệnh là mệnh lệnh, phải thi hành. Nhưng chúng tôi thi hành chậm rề rà đến nỗi Himmelstoß trở nên tuyệt vọng.

    Chúng tôi thong dong nhích hai đầu gối, rồi đến hai cánh tay và cứ thế túc tắc tiến; trong lúc đó hắn đã nổi cáu ra lệnh tiếp theo. Trước khi chúng tôi toát mồ hôi, thì hắn đã khản tiếng. Rồi hắn để chúng tôi yên. Hắn thậm chí vẫn gọi chúng tôi là đồ chó lợn, nhưng trong đó đã có sự vì nể.

    Cũng có nhiều tiểu đội trưởng tử tế, biết điều hơn; thậm chí những người tử tế chiếm số đông. Nhưng trên hết ai cũng muốn giữ càng lâu càng tốt vị trí ngon lành của mình trên đất hậu phương, mà muốn thế thì phải khắt khe với bọn tân binh.

    Và hẳn chúng tôi đã được rèn rũa đến nơi đến chốn, không thiếu một khổ luyện nào trên thao trường, tới mức nhiều khi phát khóc vì tức giận. Một số thằng trong bọn đổ bệnh vì quá sức. Wolf thậm chí đã chết vì viêm phổi. Nhưng chúng tôi sẽ tự thấy mình lố bịch, nếu chúng tôi tỏ ra hèn kém. Chúng tôi trở nên cứng rắn, đa nghi, nhẫn tâm, hay thù hận, thô bạo… mà như thế lại hay, vì chúng tôi đang thiếu chính những đặc tính này. Giả sử người ta điều ngay chúng tôi đến các chiến hào mà không có thời kỳ huấn luyện đó, thì hẳn phần đông chúng tôi đã phát điên. Nhưng như thế này thì chúng tôi đã được chuẩn bị cho những gì đang chờ đợi mình.

    Chúng tôi không gục ngã, chúng tôi thích nghi với hoàn cảnh; cái tuổi đôi mươi vốn làm khó chúng tôi trong một số việc khác lại giúp chúng tôi trụ vững. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là trong chúng tôi đã nảy nở một tình đoàn kết có thực, vững chắc, để rồi sau đó ở nơi chiến trường nó đã phát triển thành thứ tốt đẹp nhất mà chiến tranh mang lại: tình đồng đội!

    Tôi ngồi cạnh giường Kemmerich. Cậu ấy mỗi lúc một thêm suy sụp. Xung quanh chúng tôi ồn ào, huyên náo. Một chuyến tàu quân y vừa đến và người ta đang lựa chọn những thương binh còn đủ sức để đưa lên tàu. Ông bác sĩ đi ngang qua giường Kemmerich mà chẳng hề nhìn cậu ấy, “Lần sau sẽ đến lượt cậu, Franz,” tôi nói.

    Cậu ấy chống khuỷu tay nhỏm dậy giữa những cái gối, “Họ đã cưa chân tớ rồi.”

    Vậy là lúc này cậu ấy đã biết. Tôi gật đầu đáp: “Cậu hãy mừng là đã thoát được như thế.”

    Franz im lặng.

    Tôi nói tiếp: “Còn may là không bị cả hai chân đấy, Franz. Wegeier đã mất cánh tay phải. Như thế còn tệ hơn nhiều. Mà cậu lại còn được về nhà nữa.”

    Cậu ấy nhìn tôi. “Cậu nghĩ thế à?”

    “Tất nhiên.”

    Cậu ấy nhắc lại: “Cậu nghĩ thế?”

    “Chắc chắn rồi, Franz. Nhưng trước hết cậu phải dưỡng sức sau cuộc phẫu thuật đã.”

    Cậu ấy ra hiệu bảo tôi ghé lại gần hơn. Tôi cúi xuống sát Franz và cậu ấy thì thầm: “Tớ không tin đâu.”

    “Đừng có nói vớ vẩn, Franz, vài ngày nữa chính cậu sẽ tự nhìn ra và sẽ tin. Mất một chân thì đã có gì là to tát; ở đây nhiều ca còn nặng bằng mấy mà người ta vẫn chữa lành.”

    Cậu ấy giơ một bàn tay lên. “Cậu nhìn kỹ các ngón tay này đi.”

    “Thì do mổ mà. Chỉ cần cậu chịu khó ăn uống là sẽ mau hồi phục thôi. Họ có cho các cậu ăn uống tử tế không?”

    Cậu ấy chỉ vào một cái liễn vẫn còn đầy quá nửa. Tôi phát bẳn: “Franz, cậu phải ăn đi chứ. Cái chính là phải ăn. Trông rất ngon mà.”

    Franz phẩy tay. Một lúc sau cậu ấy từ tốn nói: “Tớ đã từng mơ ước trở thành nhân viên kiểm lâm.”

    “Thì cậu vẫn có thể làm được chứ sao,” tôi an ủi. “Bây giờ có những loại chân tay giả tuyệt vời, người sử dụng sẽ không hề nhận thấy mình bị khiếm khuyết. Nó được gắn liền với các cơ bắp. Người mang cánh tay giả có thể cử động các ngón tay, làm việc, và thậm chí viết lách bình thường. Ngoài ra càng ngày sẽ càng có nhiều phát minh hơn nữa.”

    Franz nằm im hồi lâu. Rồi cậu ấy bảo: “Cậu có thể đem đôi ủng của tớ về cho Müller.”

    Tôi gật đầu và cố nghĩ xem có thể nói gì thêm để động viên cậu ấy. Đôi môi cậu ấy gần như biến mất, cái miệng rộng hoác, những chiếc răng nhô ra trắng như những viên phấn. Da thịt tiêu dần, trán càng dô cao, hai gò má nhọn hoắt. Cậu ấy đang từ từ biến thành bộ xương. Hai mắt đã trũng xuống. Chỉ vài giờ nữa là chấm hết.

    Franz không phải là người hấp hối đầu tiên tôi nhìn thấy, nhưng chúng tôi đã cùng lớn lên bên nhau, và đây luôn là chuyện khác hẳn. Tôi đã từng cóp những bài tập làm văn của cậu ấy. Khi đến trường cậu ấy thường mặc bộ quần áo màu nâu có thắt lưng, hai khuỷu tay áo mòn bóng lên. Cậu ấy cũng là thằng duy nhất trong bọn tôi có thể quay nhiều vòng trên xà đơn. Khi quay, những lọn tóc óng như tơ của cậu ấy cứ xõa bay vào mặt. Lão Kantorek vì thế lấy làm hãnh diện về Franz. Nhưng cậu ấy không chịu nổi thuốc lá. Da cậu ấy rất trắng, cậu ấy có nét gì đó giống con gái.

    Tôi nhìn xuống đôi ủng của mình. Đôi ủng to và thô kệch, hai ống quần nhét bên trong, khi tôi đứng dậy, trông tôi rõ đô, rõ khỏe nhờ hai ống quần rộng thùng thình. Nhưng khi chúng tôi đi tắm và lột quần áo ra, bỗng nhiên đùi và vai thằng nào cũng trở lại mảnh khảnh. Khi ấy chúng tôi không còn là những anh lính, mà gần như là những cậu bé, nhìn vào dễ chẳng ai tin chúng tôi có thể tha nổi những chiếc ba lô. Một khoảnh khắc kỳ lạ khi chúng tôi ở trần, lúc ấy chúng tôi là những thường dân và cũng cảm giác gần giống như vậy.

    Khi tắm, Franz Kemmerich trông nhỏ bé và gầy gò như một đứa trẻ. Vậy mà giờ cậu ấy đang nằm đây, tại sao chứ? Người ta cần phải dẫn cả thế gian đến bên chiếc giường này và nói: Đây là Franz Kemmerich, mười chín tuổi rưỡi, cậu ấy không muốn chết! Xin đừng để cậu ấy chết!

    Những ý nghĩ rối loạn trong đầu tôi. Không khí sặc mùi phenol và rượu cồn làm tắc hai lá phổi, nó như một thứ hồ đặc quánh khiến người ta ngạt thở.

    Trời đã tối. Gương mặt Kemmerich tái dần, nổi lên giữa những chiếc gối và nhợt nhạt tới mức sáng lên mờ mờ. Miệng cậu ấy khẽ mấp máy. Tôi ghé sát xuống. Cậu ấy thì thầm: “Nếu các cậu tìm thấy cái đồng hồ của tớ, gửi hộ tớ về nhà.”.

    Tôi không cãi lại. Chẳng ích gì nữa. Không sao thuyết phục cậu ấy tin là mọi sự sẽ ổn. Cảm giác bất lực khiến tôi khốn khổ. Vầng trán với hai bên thái dương đã lõm sâu này, cái miệng chỉ còn thấy hai hàm răng này, và cái mũi nhọn này! Rồi còn bà mẹ to béo khóc lóc nơi quê nhà mà tôi sẽ phải viết thư về. Giá như tôi đã viết và gửi bức thư ấy đi rồi!

    Đám y tá của quân y viện đi qua đi lại với lỉnh kỉnh chai lọ và xô thùng. Một người bước lại gần, ngó Kemmerich đầy vẻ thăm dò rồi lại bỏ đi. Có thể thấy gã ta đang đợi, hình như họ đang cần cái giường.

    Tôi ngồi sát lại gần Franz và nói, như thể lời nói của tôi sẽ cứu sống được cậu ấy: “Có lẽ cậu sẽ được đưa tới viện an dưỡng bên núi Tu Viện, nằm xen giữa các ngôi biệt thự ấy, Franz ạ. Rồi từ cửa sổ cậu có thể nhìn ra những cánh đồng, đến tận hai cái cây ở đường chân trời. Bây giờ đang là mùa đẹp nhất; khi lúa chín, những đồng lúa sẽ lóng lánh như xà cừ dưới ánh mặt trời lúc hoàng hôn. Lại còn con đường trồng bạch dương bên suối Tu Viện, nơi bọn mình từng hay đến bắt những con cá gai nữa chứ! Cậu lại có thể xây một bể cá và nuôi cá cảnh, cậu lại có thể tha hồ đi chơi mà không cần phải xin phép ai, thậm chí cậu còn được chơi cả đàn dương cầm, nếu cậu thích.”

    Tôi cúi xuống gương mặt Franz đang chìm trong bóng tối. Cậu ấy vẫn thở, nhè nhẹ. Mặt cậu ấy ướt đẫm, cậu ấy khóc. Rõ ràng tôi vừa gây ra cái điều tệ hại này, vì đã lảm nhảm những lời ngu xuẩn!

    “Thôi nào Franz…” tôi choàng tay ôm hai vai cậu ấy, áp mặt mình vào mặt cậu ấy. “Cậu có muốn ngủ bây giờ không?”

    Cậu ấy không trả lời. Nước mắt lăn dài trên má. Tôi muốn lau nước mắt cho Franz, nhưng chiếc khăn tay của tôi quá bẩn.

    Một giờ trôi qua. Tôi vẫn ngồi căng thẳng và quan sát từng biến đổi nhỏ trên nét mặt của Franz, xem biết đâu cậu ấy còn muốn căn dặn thêm điều gì. Giá như cậu ấy chịu mở miệng và gào to lên! Đằng này cậu ấy chỉ khóc, đầu ngoảnh sang một bên. Franz chẳng nhắc gì đến mẹ, đến anh chị em trong nhà, cậu ấy chẳng nói gì cả, có lẽ tất cả đã nằm lại phía sau cậu ấy… Lúc này cậu ấy chỉ còn một thân một mình với cuộc đời bé mọn dài mười chín năm, và khóc vì cuộc đời đó đang rời bỏ mình.

    Đó là cuộc chia ly ngỡ ngàng nhất và nặng nề nhất mà tôi từng thấy, mặc dù lúc Tiedjen chết cũng rất đau lòng, chàng trai khỏe như gấu đó đã gào to gọi mẹ và tay lăm lăm lưỡi lê, mắt trừng trừng sợ hãi một mực xua không cho bác sĩ lại gần giường, tận tới lúc tắt thở.

    Bỗng Kemmerich rên rỉ và bắt đầu thở khò khè. Tôi vùng dậy, loạng choạng chạy ra ngoài, miệng kêu: “Bác sĩ đâu? Bác sĩ đâu rồi?”

    Khi thoáng thấy cái áo choàng trắng, tôi vội giữ ông ta lại. “Ông đến mau cho, kẻo Franz Kemmerich chết mất.”

    Vị bác sĩ gỡ tay tôi ra và hỏi gã y tá đứng cạnh đó: “Thế này nghĩa là sao hả?”

    Gã kia trả lời: “Giường hai mươi sáu, cưa bắp đùi trên.”

    Bác sĩ gắt lên: “Nói thế làm sao tôi hiểu được, hôm nay tôi đã cưa tới năm cái đùi,” đoạn ông ta gạt tôi ra và bảo gã y tá: “Anh tới đó xem sao,” rồi lại chạy vội vào phòng mổ.

    Tôi run lên vì tức giận khi đi cùng gã y tá. Gã chăm chú nhìn tôi rồi bảo: “Hết ca mổ này đến ca mổ khác, suốt từ năm giờ sáng tới giờ… Không thể tin nổi, nói để cậu biết, riêng hôm nay thêm mười sáu người chết… Bạn cậu là người thứ mười bảy. Chắc chắn sẽ lên con số hai chục…”

    Tôi bủn rủn, bỗng không còn chút sức lực nào. Tôi không buồn nổi nóng hay to tiếng nữa, vô ích thôi, tôi muốn buông bỏ, gục ngã và không bao giờ đứng dậy nữa.

    Chúng tôi đứng bên giường Kemmerich. Cậu ấy đã chết. Mặt vẫn đầm đìa nước mắt. Hai mắt hé mở, vàng xỉn như hai cúc áo bằng sừng cũ kỹ…

    Gã y tá huých vào sườn tôi.

    “Cậu mang luôn đồ của anh ta về chứ?”

    Tôi gật.

    Gã nói tiếp: “Bọn này phải đưa anh ta đi ngay vì cần giường. Thương binh đang phải nằm lăn lóc trên hành lang ngoài kia.”

    Tôi thu gom đồ và tháo tấm thẻ bài quân nhân trên người Kemmerich. Gã y tá hỏi quyển quân bạ. Không thấy ở đây. Tôi nói, chắc quân bạ đang nằm ở văn phòng đại đội, rồi tôi đi. Sau lưng tôi, họ đã lôi Franz quăng lên một tấm vải bạt.

    Bước ra khỏi cửa, tôi cảm nhận bóng tối và gió như một sự giải thoát. Tôi hít thở đến căng lồng ngực, và cảm thấy làn không khí ấm áp và êm dịu hơn bao giờ hết đang mơn man trên mặt mình. Những ý nghĩ về đám con gái, về những cánh đồng cỏ nở hoa và những đám mây trắng đột nhiên bay qua đầu tôi. Đôi chân tôi dận trong ủng cứ thế đi, tôi rảo bước hơn, tôi chạy. Một đám lính đi ngang qua tôi; những câu chuyện của họ kích thích tôi, dù tôi không nghe rõ họ nói gì. Mặt đất căng tràn sinh lực xuyên qua gan bàn chân ào ạt chảy vào tôi. Đêm lạch tạch tia lửa điện, mặt trận nổi sấm chớp ì ầm như một bản hòa tấu bằng trống. Chân tay tôi cử động linh hoạt, tôi cảm giác các khớp xương của mình khỏe khoắn, tôi thở hổn hển, tôi thở phì phò. Đêm đang sống, tôi đang sống. Tôi cảm thấy đói, một cơn đói lớn hơn cơn đói bụng thông thường rất nhiều…

    Müller đứng trước lán chờ tôi. Tôi đưa đôi ủng cho cậu ta. Chúng tôi đi vào và cậu ta xỏ thử. Vừa như in…

    Müller lục lọi trong đống thức ăn dự trữ và mời tôi một mẩu xúc xích lớn. Ăn cùng với trà nóng pha rượu rum.
     
  5. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    III

    Chúng tôi nhận được viện binh. Những chỗ trống được lấp đầy, và những ổ rơm trong lán trú quân lại sắp kín người nằm. Một phần là lính cũ, nhưng cũng có hai mươi lăm chàng trai trẻ được điều đến từ những trạm tân binh. Bọn này kém chúng tôi gần một tuổi. Kropp huých tôi: “Cậu đã trông thấy lũ nhóc ấy chưa?”

    Tôi gật. Mấy thằng bọn tôi ưỡn ngực vênh vang, ra hẳn ngoài sân cạo râu, hai tay thọc túi quần, trịch thượng ngắm nghía bọn lính mới và tự cảm thấy mình là những cựu binh đệ nhất lão làng.

    Katczinsky nhập bọn với chúng tôi. Mấy anh em dạo qua dãy chuồng ngựa và lân la đến đám viện binh đang được phát mặt nạ chống hơi ngạt và cà phê. Kat hỏi một trong những cậu em trẻ nhất: “Chắc các chú lâu rồi không được xực món gì cho tử tế, hả?”

    Cậu chàng kia nhăn mặt. “Sáng bánh mì củ cải… trưa rau củ cải, tối sườn om củ cải ăn kèm nộm củ cải.”

    Katczinsky huýt sáo vẻ sành sỏi. “Bánh mì làm từ củ cải hả? Các chú thế vẫn còn may chán, họ từng làm bánh bằng mùn cưa nữa cơ đấy. Nhưng chú em thấy cái món đậu trắng hầm sao hả? Có muốn làm một muỗng không?”

    Thằng cu đỏ mặt. “Anh không cần phải giễu cợt em.”

    Katczinsky chỉ đáp gọn lỏn: “Bỏ cái cà mèn của chú em ra đây.”

    Chúng tôi tò mò đi theo Kat. Anh dẫn cả bọn đến một cái thùng đặt cạnh ổ rơm của anh. Quả thật nửa thùng đựng đầy đậu trắng hầm thịt bò. Katczinsky đứng trước cái thùng như một vị tướng và dõng dạc: “Mở mắt ra, thò tay vào! Đó là khẩu lệnh của người Phổ.”

    Cả bọn trố mắt ngạc nhiên. Tôi thốt lên: “Trời đất, Kat, anh làm thế nào mà ôm được cả đống này?”

    “Thằng Cà Chua quá mừng khi tớ rước đi hộ nó. Tớ đã hối lộ nó ba cái dù lụa. Mà này, món đậu trắng ăn nguội cứ gọi là miễn chê luôn.”

    Anh hào phóng múc cho thằng nhóc kia một suất và bảo: “Lần sau mà vác cà mèn đến đây, thì tay kia nhớ cầm theo một điếu thuốc lá hay một miếng thuốc nhai. Hiểu chưa?”

    Đoạn anh quay sang chúng tôi. “Các cậu thì đương nhiên cứ chén vô tư.”

    Katczinsky là một nhân vật không thể thiếu, vì anh có giác quan thứ sáu. Ở đâu cũng có những người như vậy, nhưng thoạt đầu không ai nhận ra khả năng này của họ. Mỗi đại đội đều có một hoặc hai người như thế. Katczinsky là kẻ tinh quái nhất mà tôi biết. Anh vốn là thợ đóng giày, tôi nghĩ vậy, nhưng điều này chẳng quan trọng gì, vì anh biết đủ mọi nghề. Kết bạn với anh là một chuyện tuyệt vời. Kropp và tôi là bạn của anh, cả Haie Westhus cũng có thể tạm coi là chơi với Kat. Tuy nhiên cậu ta làm tay sai cho Kat thì đúng hơn, vì cậu ta chỉ làm việc theo lệnh của Kat khi có vụ nào cần đến nắm đấm để giải quyết. Bù lại, cậu ta cũng được hưởng lợi.

    Ví dụ đêm nọ chúng tôi đến một vùng hoàn toàn xa lạ, một địa điểm hẻo lánh, tiêu điều, thoáng nhìn đã biết ngay là nghèo rớt chả có gì ngoài mấy bức tường. Trại lính là một xưởng sản xuất nhỏ tối tăm, vừa được sửa sang thành điểm trú quân. Trong đó kê sẵn những cái giường, đúng hơn chỉ là mấy cái khung giường có căng những tấm lưới đan bằng dây thép.

    Dây thép rất cứng. Chúng tôi không thừa chăn trải làm đệm, có mỗi cái chăn còn phải để đắp. Vải bạt thì lại quá mỏng.

    Kat nhìn kỹ xung quanh, rồi bảo Haie Westhus: “Đi theo tớ.” Thế là cả hai đi vào cái vùng hoàn toàn xa lạ đó. Nửa giờ sau họ quay về, rơm ôm đầy tay. Kat đã tìm ra một chuồng ngựa và thấy luôn cả rơm. Lẽ ra giờ đây chúng tôi có thể làm một giấc ấm áp, nếu như bụng không đang sôi réo lên vì đói.

    Kropp hỏi một tay pháo thủ đóng ở vùng này lâu hơn: “Quanh đây có quán ăn nào không cậu?”

    Gã kia cười, “Chờ đấy mà có! Ở đây chả mò được quái gì đâu. Đến mẩu vỏ bánh mì cũng đố cậu kiếm ra.”

    “Thế không còn cư dân nào ở đây nữa à?”

    Gã kia nhổ nước bọt. “Còn chứ, độ dăm mống. Nhưng chính họ cũng luẩn quẩn vết nồi trong xó bếp và đi ăn xin.”

    Đúng là tin xấu. Thôi đành thắt dây thắt lưng vào thêm một nấc và đợi ngày mai xe tiếp quân lương đến vậy. Nhưng tôi lại thấy Kat chụp cái mũ ca lô lên đầu, bèn hỏi: “Anh định đi đâu đấy, Kat?”

    “Thì ra quan sát khu này một tí.”

    Anh thong dong bước ra. Tay pháo thủ cười chế giễu: “Cứ việc quan sát! Đừng bê vác nặng quá mà trẹo lưng đấy.”

    Chúng tôi thất vọng nằm xuống và suy nghĩ xem có nên gặm vào khẩu phần dự trữ cho lính trong những tình trạng khẩn cấp hay không. Nhưng lại thấy như vậy thì liều quá. Thôi cố chợp mắt một lát vậy.

    Kropp cấu đôi điếu thuốc, chia cho tôi một nửa. Tjaden kể về món đậu ván nấu mỡ lợn, đặc sản quê mình. Cậu ta lên án cách chế biến món này mà không rắc rau thơm vào. Nhưng quan trọng nhất là phải nấu lẫn tất cả với nhau, chứ - vì Chúa - không được đun riêng khoai tây, đậu ván và mỡ lợn. Ai đó càu nhàu dọa sẽ băm nhỏ Tjaden thay rau thơm rắc vào món đậu ván, nếu cậu ta không im ngay cái mồm đi. Thế là gian phòng lớn trở nên yên ắng. Chỉ có mấy ngọn nến cháy bập bùng trong những cổ chai, và đôi lúc gã pháo thủ lại khạc nhổ. Chúng tôi vừa thiu thiu ngủ thì cánh cửa bật mở và Kat xuất hiện. Tôi cứ ngỡ mình đang mơ: Kat cắp nách hai ổ bánh mì, tay xách vỏ bao cát vấy máu, trong đựng thịt ngựa.

    Gã pháo thủ há hốc mồm, rơi cả tẩu thuốc. Gã nắn ổ bánh mì. “Đúng này, bánh mì thật, lại còn nóng.”

    Kat không tốn thêm lời nào về vụ này. Chỉ biết anh đã xoay được bánh mì, mọi chuyện khác không quan trọng. Tôi tin tưởng rằng nếu người ta có bỏ lại Kat trên sa mạc, thì chỉ một giờ sau anh đã kiếm đủ một bữa tối thịnh soạn có chà là, thịt quay và rượu vang. Kat sai Haie ngắn gọn: “Bổ củi.”

    Rồi anh rút từ dưới áo khoác ra một cái chảo, móc trong túi ra một nắm muối và thậm chí cả một khoanh mỡ… anh lo chả thiếu thứ gì. Haie nhóm bếp ngay trên sàn nhà. Lửa kêu lách tách trong gian xưởng trống trơn. Chúng tôi leo xuống khỏi giường.

    Gã pháo thủ do dự. Gã cân nhắc xem có nên ca ngợi Kat không, biết đâu lại được ăn ké một tí. Nhưng Katczinsky chẳng mảy may nhìn đến gã, với anh gã không hề tồn tại. Gã đành văng tục rút lui.

    Kat biết cách rán thịt ngựa sao cho thật mềm. Không được bỏ ngay thịt vào chảo, sẽ bị dai. Trước hết phải chần qua thịt trong một ít nước đun sôi. Chúng tôi cầm dao ăn ngồi quây thành vòng tròn dưới đất và chén đẫy bụng.

    Kat là thế. Giả sử trong một năm, trong một vùng, chỉ vỏn vẹn trong đúng một giờ có thể kiếm cái gì chén được, thì đúng vào giờ đấy - như được đưa đường chỉ lối - Kat sẽ chụp cái mũ ca lô lên đầu đi ra ngoài, rồi như theo la bàn vạch sẵn cứ thế thẳng tiến đến chỗ vớ được đồ ăn.

    Anh vớ được đủ thứ; khi trời rét là những cái bếp lò con con, rồi thì củi, rơm rạ, bàn ghế… nhưng trên tất cả là cái gì xơi được. Quả là bí hiểm, người ta cứ ngỡ đâu rằng anh đã phù phép để những thứ này từ trên trời rơi xuống. Thành tích huy hoàng nhất của anh là bốn hộp tôm hùm. Tuy nhiên, giá đó là bốn hộp mỡ lợn thì bọn tôi khoái hơn.

    Chúng tôi nằm nghỉ bên phía có ánh nắng của các lán trại. Nơi đây có mùi hắc ín, mùi mùa hè và mùi mồ hôi chân.

    Kat ngồi cạnh tôi, vì anh thích trò chuyện. Trưa nay chúng tôi phải tập chào danh dự suốt một giờ đồng hồ, chỉ vì Tjaden đã quá cẩu thả khi chào một viên thiếu tá. Kat không muốn quên chuyện này. Anh bảo: “Rồi mà xem, chúng ta sẽ thua cuộc chiến này, bởi chúng ta biết chào quá quy củ.”

    Kropp lò dò bước lại gần, chân đất, quần xắn móng lợn. Cậu ta phơi đôi bít tất vừa giặt trên bãi cỏ. Kat ngửa mặt nhìn trời, đánh một phát rắm thật to và mơ mộng bình luận: “Mỗi hạt đậu nhỏ góp một tiếng động nhỏ.”

    Hai người bắt đầu tranh cãi. Họ đồng thời đánh cuộc một chai bia về trận không chiến đang diễn ra trên đầu chúng tôi. Kat khăng khăng giữ ý kiến của mình, cái ý kiến mà anh đã gieo thành văn vần với tư cách một chiến binh dày dạn trận mạc: “Lương bằng nhau, ăn đều nhau, thì chiến tranh đã quên từ lâu.”

    Trái lại, Kropp lại là một nhà tư tưởng. Cậu ta đề xuất nghi thức tuyên chiến nên là một lễ hội của dân chúng, có vé vào cửa và âm nhạc đàng hoàng, giống như thi đấu bò tót. Sau đó trên đấu trường, các ngài bộ trưởng và các vị tướng của hai nước sẽ mặc quần bơi, cầm gậy xông vào phang nhau. Vị nào trụ lại được, thì nước của vị ấy thắng trận. Được thế sẽ đơn giản và tốt hơn là ở đây, nơi toàn những người chả thù oán gì cứ phải choảng nhau.

    Đề xuất này được hoan nghênh. Rồi câu chuyện chuyển sang đề tài rèn luyện trong trại lính.

    Tôi chợt nhớ tới một hình ảnh. Mặt trời giữa trưa cháy đỏ trên sân doanh trại. Cái nóng hừng hực thiêu đốt không gian. Khu trại lính vắng tanh không một bóng người. Mọi vật đều ngủ. Chỉ nghe tiếng lính tập gõ trống; họ đang đứng đâu đó mà tập, vụng về, đơn điệu, buồn tẻ. Bộ tam này mới hài hòa làm sao: cái nóng ban trưa, sân trại lính và tiếng trống tập!

    Các cửa sổ doanh trại đều trống không và âm u. Từ vài cửa sổ thò ra mấy cái quần bằng vải thô đang phơi. Ngó sang đó mà phát thèm. Những căn buồng thật là mát mẻ…

    Ồ, những căn buồng ẩm mốc, tối tăm với những khung giường bằng sắt, những tấm đệm kẻ ô vuông, những chiếc tủ hẹp của lính cùng những cái ghế đẩu kê phía trước. Chính các ngươi có thể trở thành niềm ao ước; ở ngoài mặt trận này các ngươi thậm chí còn là ánh phản chiếu tuyệt vời của quê hương, các ngươi - những căn buồng nhỏ hẹp đầy mùi thức ăn thiu, giấc ngủ, khói thuốc và quần áo!

    Katczinsky mô tả những căn buồng doanh trại ngày nào với những màu sắc lung linh và biết bao cảm xúc. Chúng tôi sẵn sàng đánh đổi nhiều thứ, nếu ước gì có thể quay lại nơi ấy! Vì những ý nghĩ của chúng tôi hoàn toàn không dám đi xa hơn thế…

    Ôi những giờ huấn luyện khi trời vừa tinh mơ… “Súng trường 98 gồm bao nhiêu bộ phận?”… Ôi những giờ thể dục buổi chiều… “Các anh em chơi dương cầm bước lên phía trước. Đi ra bên phải. Xuống nhà bếp gọt khoai…”

    Chúng tôi đắm chìm trong những kỷ niệm. Bỗng Kropp bật cười và nói: “Đổi tàu ở Löhne!”

    Đó là trò chơi yêu thích nhất của viên chỉ huy tiểu đội chúng tôi. Löhne là một nhà ga trung chuyển. Để cho lính tiểu đội về phép không bị đi lạc ở đó, Himmelstoß bắt chúng tôi tập đổi tàu trong buồng doanh trại. Chúng tôi phải học là tại Löhne người ta phải đi qua một đường hầm để sang bến tàu cần lên. Những chiếc giường được tạm coi là con đường hầm, và mỗi thằng lính bọn tôi phải đứng bên trái một chiếc giường. Khi có lệnh “Đổi tàu ở Löhne!” là cả bọn nhanh như chớp chui qua gầm giường nhoai sang phía bên kia. Có mỗi thế thôi mà phải tập hàng tiếng đồng hồ…

    Trong lúc cả bọn tán chuyện thì chiếc máy bay Đức đã bị bắn rơi. Như một ngôi sao chổi, nó cắm đầu lao xuống trong vệt khói trắng phau hình lá cờ. Kropp thua cuộc một chai bia, đành bất mãn xỉa tiền ra.

    “Himmelstoß làm bưu tá chắc chắn là người khiêm tốn!” tôi nói sau khi cơn thất vọng của Albert đã lắng xuống, “chẳng hiểu sao lúc làm hạ sĩ quan hắn lại ác như quỷ thế?”

    Câu hỏi khiến Kropp linh hoạt trở lại. “Đâu phải riêng mình Himmelstoß, rất nhiều người khác cũng thế. Vừa đóng lon sĩ quan hoặc đeo gươm chỉ huy vào, họ liền biến thành những kẻ khác, rắn như thể đã tọng bê tông đầy người.”

    “Quân phục nó làm ra thế,” tôi đoán.

    “Đại khái như vậy,” Kat nói và ngồi xuống thật chĩnh chện chuẩn bị cho một bài diễn thuyết dài, “nhưng căn nguyên lại nằm ở chỗ hoàn toàn khác. Nhìn xem, nếu cậu luyện cho một con chó ăn khoai tây, rồi sau đó cậu chìa cho nó một miếng thịt, thì kiểu gì nó cũng đớp miếng thịt, vì chén thịt là bản năng của nó. Và nếu cậu cho con người một chút quyền hành, thì cũng y như thế thôi, hắn sẽ vồ lấy. Cái đó hoàn toàn xuất phát từ bản năng, vì con người xét về nguồn gốc và bản chất trước hết là một con thú, có lẽ sau này nó còn được quệt lên một chút lễ nghĩa, như lát bánh mì phết bơ vậy. Quân đội tồn tại được nhờ anh nọ có quyền hành đối với anh kia. Ngặt nỗi anh nào cũng có quá nhiều quyền hành, anh hạ sĩ quan có thể hành chú lính trơn đến phát điên, cũng như thế anh thiếu úy hành anh hạ sĩ quan, anh đại úy lại hành anh thiếu úy. Và bởi anh nào cũng biết vậy, nên họ đã quen ngay với thực trạng này. Lấy một câu chuyện đơn giản nhất: chúng mình đang trên đường từ sân huấn luyện về, mệt rũ người. Thế mà có lệnh ‘Hát!’ Kết quả là những giọng hát ỉu xìu cất lên, vì lúc đó thằng nào còn đủ sức tha khẩu súng đã là mừng lắm rồi. Lập tức cả đại đội phải quay lại sân huấn luyện, chịu phạt thêm một giờ tập nữa. Khi trở về lại có lệnh “Hát!’ Lần này thì phải gắng hát cho tử tế. Toàn bộ câu chuyện này phỏng có ích gì? Viên chỉ huy đại đội đã thực hiện bằng được ý muốn của mình, vì ông ta có cái quyền đó. Sẽ chẳng có ai quở trách ông ta, trái lại ông ta còn được tiếng nghiêm khắc. Mà chuyện như thế chưa là gì, còn có nhiều kiểu hành lính kinh khủng hơn nhiều. Giờ tớ hỏi các cậu; một gã đàn ông trong đời sống dân sự, dù muốn đến đâu, liệu có ngành nghề nào cho hắn ta cái cơ hội tác yêu tác quái đến thế mà không bị thiên hạ vả cho vỡ mồm hay không? Hắn ta chỉ có thể làm vậy ở trong quân đội! Các cậu thấy chưa, thế nên cha nào cũng tự cao tự đại! Khi là dân thường càng ít quyền hành bao nhiêu, thì bây giờ càng tự cao tự đại bấy nhiêu.”

    “Thì họ vẫn nói đấy: phải có kỷ cương…” Kropp uể oải góp lời.

    Lúc nào họ chả có lý do,” Kat càu nhàu. “Mà cũng có thể đúng. Nhưng không được tác oai tác quái. Cậu thử nói như thế với một anh thợ khóa, hay một anh lực điền, hay một anh thợ máy xem, thử giải thích cho một anh lính quèn chuyện ấy đi, họ chiếm phần đông trong lính tráng chúng ta mà, anh ta chỉ thấy anh ta bị hành hạ và anh ta sẽ ra chiến trường, anh ta biết rất rõ cái gì là cần thiết và cái gì không cần. Tớ nói để các cậu biết, chính cái anh lính quèn ở nơi tiền tuyến này mới bền gan hết sảy! Hết sảy luôn!”

    Ai cũng công nhận điều này, vì ai cũng biết việc tập tành chỉ ngừng lại khi đã ngồi trong chiến hào, nhưng chỉ cần lui khỏi mặt trận vài ba cây số là nó lại bắt đầu, với những bài tập ngớ ngẩn nhất, rồi chào, rồi bước đều. Là bởi có một luật bất di bất dịch: không được để lính tráng ngơi động tay động chân.

    Đúng lúc đó Tjaden xuất hiện, mặt đỏ lựng từng đám. Cậu ta xúc động đến líu cả lưỡi, cậu ta hớn hở phát âm từng chữ: “Himmelstoß đang trên đường tới đây. Hắn cũng ra mặt trận.”

    Tjaden thâm thù Himmelstoß, vì thời ở trại huấn luyện hắn đã giáo dục cậu ta theo cách của hắn. Tjaden có tật đái dầm, ban đêm cứ ngủ say là xảy chuyện. Himmelstoß khăng khăng quả quyết như đinh đóng cột rằng chẳng qua là tại thói lười biếng, và hắn tìm ra một biện pháp thật xứng với con người hắn nhằm chữa trị cho Tjaden. Hắn lùng ra ở lán bên cạnh một anh lính hay đái dầm nữa tên là Bố Trẻ Con. Hắn dúi anh này vào cùng buồng với Tjaden. Trong các lán trú quân kê những chiếc giường tầng điển hình kiểu trại lính, dát giường bằng lưới thép. Himmelstoß sắp xếp hai người nằm chung giường, nghĩa là anh này nằm tầng trên thì anh kia nằm tầng dưới, cố nhiên anh nằm dưới lĩnh đủ. Bù lại, đêm hôm sau họ lại đổi chỗ, và anh nằm dưới được trèo lên trên để trả thù. Đó là phương pháp tự giáo dục của Himmelstoß.

    Biện pháp thô bỉ, nhưng ý tưởng không tồi. Tiếc rằng nó chẳng ăn thua gì, vì giả thuyết của Himmelstoß sai toét: nguyên nhân không phải do hai người đó lười. Ai nhìn nước da nhợt nhạt của họ cũng biết vậy. Câu chuyện này kết thúc ở chỗ bao giờ một trong hai anh cũng nằm ngủ dưới đất và rất dễ bị cảm lạnh…

    Haie cũng vừa tới ngồi cạnh chúng tôi. Cậu ta nháy mắt với tôi và trầm tư xoa xoa hai bàn tay to bè. Chúng tôi đã cùng nhau trải qua ngày đẹp nhất trong đời binh nghiệp. Đó là buổi tối trước khi cả bọn lên đường ra mặt trận.

    Chúng tôi được phân về một trong những trung đoàn đông quân nhất, nhưng trước đó chúng tôi được đưa trở lại khu đồn trú để lĩnh quân trang, tuy nhiên không phải về trại tân binh mà về một doanh trại khác. Sáng sớm hôm sau chúng tôi sẽ khởi hành. Thế nên buổi tối cả bọn lên đường thanh toán món nợ với Himmelstoß. Chuyện này chúng tôi đã thề sẽ làm từ nhiều tuần nay. Kropp thậm chí còn tính xa đến mức định bụng hòa bình lập lại sẽ nhảy vào ngành bưu điện, chờ đến khi Himmelstoß quay trở lại nghề bưu tá thì sẽ làm sếp của hắn. Cậu ta chìm đắm trong viễn cảnh sẽ rèn giũa hắn như thế nào. Đó chính là lý do vì sao Himmelstoß không thể khuất phục được chúng tôi; chúng tôi luôn tính chuyện thế nào cũng sẽ có ngày thộp cổ được hắn, chậm nhất là khi chiến tranh kết thúc.

    Trước mắt chúng tôi muốn nện cho hắn một trận nhừ tử. Nếu hắn không nhận ra chúng tôi thì chả có gì phải lo và đằng nào thì sáng sớm mai chúng tôi cũng biến khỏi đây.

    Chúng tôi biết tối tối hắn thường ngồi ở quán rượu nào. Từ đó về doanh trại hắn phải đi qua một con đường tối tăm không nhà cửa. Chúng tôi nấp sau một đống đá, rình hắn tại đấy. Tôi mang theo một tấm khăn trải giường. Chúng tôi run lên vì hồi hộp, không biết liệu hắn có đi một mình. Cuối cùng cũng nghe tiếng bước chân của hắn, tiếng bước chân mà chúng tôi quá quen thuộc, vì đã thường xuyên nghe mỗi sáng sớm khi cánh cửa phòng bật tung kèm theo tiếng thét “Dậy!”.

    “Một mình chứ?” Kropp thì thào.

    “Một mình!”

    Tôi cùng Tjaden nhón gót đi vòng sau đống đá.

    Đã thấy lấp lánh cái khóa thắt lưng của hắn. Himmelstoß có vẻ đang phởn chí, hắn hát. Hắn đi qua, không chút nghi ngờ.

    Chúng tôi cầm tấm khăn trải giường, nhẹ nhàng nhảy một bước dài, từ phía sau chụp tấm khăn lên đầu hắn rồi kéo xuống túm lại, khiến toàn thân hắn như một bao cát màu trắng và hắn không thể giơ tay lên được. Tiếng hát tắt lịm.

    Chớp mắt sau Haie Westhus đã sán đến. Cậu ta vung tay gạt bắn chúng tôi ra đằng sau để tranh lượt đầu tiên. Đầy vẻ khoái trá, Haie đứng thủ thế, cánh tay giơ thẳng như trụ đèn hiệu, bàn tay tựa xẻng xúc than, và táng một phát vào cái bao tải trắng, mạnh tới mức đủ giết chết một con bò mộng.

    Himmelstoß bay lộn một vòng, rơi xuống đất cách đó năm mét và bắt đầu kêu rống lên. Cả chuyện này chúng tôi cũng đã đề phòng trước, vì chúng tôi có thủ theo một chiếc gối. Haie ngồi xổm xuống, đặt chiếc gối trên hai đầu gối, lựa chỗ đầu Himmelstoß tóm lấy và ghì chặt lên đó. Lập tức tiếng rống khẽ hẳn. Chốc chốc Haie lại để hắn đớp chút không khí, những lúc đó tiếng kêu đang khàn khàn bỗng ré lên đến chói tai, nhưng rồi lại lập tức dịu đi.

    Giờ đây Tjaden cởi dây đeo quần của Himmelstoß và tụt quần hắn xuống. Răng cậu ta cắn chặt một chiếc roi da. Đoạn cậu ta đứng dậy và bắt đầu vung tay.

    Một hình ảnh tuyệt vời: Himmelstoß nằm sấp dưới đất, cúi xuống giữ đầu hắn trên đầu gối mình là Haie - mặt nhăn nhở nụ cười quỷ quyệt, miệng há ra vì sướng, rồi đến cái quần lót kẻ sọc giật đùng đùng và đôi cẳng chân khuỳnh hình chữ X cứ mỗi nhát quất roi lại giãy lên một kiểu độc đáo nhất trần đời với hai ống quần tụt xuống tận cổ chân, trong khi phía trên là Tjaden đang miệt mài như một thợ bổ củi không biết mệt mỏi. Rốt cuộc chúng tôi gần như phải lôi cậu ta ra để còn đến lượt mình.

    Cuối cùng Haie dựng Himmelstoß đứng dậy và biểu diễn một tiết mục riêng để kết thúc. Trông cậu ta như đang muốn hái những vì sao trên trời qua cái động tác vung thẳng cánh tay phải như một ống khói lò bánh. Himmelstoß ngã lăn ra. Haie lại dựng hắn dậy chỉnh tư thế và táng cho hắn đòn thứ hai trúng đích tới mức hoàn hảo bằng bàn tay trái. Himmelstoß khóc hú lên và cứ thế bò trên cả bốn chân chạy tháo thân. Cặp mông bưu tá kẻ sọc của hắn lấp lóa dưới ánh trăng.

    Chúng tôi phi nước đại lủi nhanh.

    Haie còn ngoái lại lần nữa và nói giọng đe dọa, thỏa mãn và có chút bí hiểm: “Báo thù quả là khúc dồi ngon…”

    Thật ra Himmelstoß phải lấy thế làm mừng; vì lời rao giảng của hắn, rằng “bao giờ kẻ này cũng phải dạy dỗ kẻ khác” đã đưa những trái ngọt đến cho chính hắn. Chúng tôi đã trở thành những học trò sáng dạ thấm nhuần phương pháp của hắn.

    Hắn không bao giờ biết được hắn chịu ơn ai về trận đòn này. Dẫu sao thì hắn cũng lãi cái khăn trải giường; vì vài giờ sau chúng tôi quay lại tìm, chiếc khăn đã chẳng còn đấy nữa.

    Tối hôm đó chính là nguyên do khiến sáng hôm sau chúng tôi lên đường khá bình thản. Chả thế mà một bộ râu xồm phất phơ trước gió đã vô cùng xúc động gọi chúng tôi là tuổi trẻ anh hùng.
     
  6. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    IV

    Chúng tôi phải lên tuyến trên đào công sự. Những chiếc xe tải bắt đầu lăn bánh khi trời sẩm tối. Chúng tôi trèo lên xe. Một buổi tối ấm áp, bóng chiều nhập nhoạng tựa một tấm khăn phủ xuống cả bọn khiến chúng tôi cảm thấy dễ chịu như được che chở. Nó làm chúng tôi gần gũi nhau hơn; ngay đến cậu chàng Tjaden keo kiệt cũng tặng tôi một điếu thuốc lá và châm lửa cho tôi.

    Chúng tôi đứng chen chúc bên nhau, chẳng ai ngồi được. Mà chúng tôi cũng không quen ngồi. Mãi bây giờ mới thấy Müller vui vẻ, cậu ta đang diện đôi ủng mới.

    Động cơ rú ầm ầm, xe chạy kêu cành cạch và lọc xọc. Những con đường đã xuống cấp vì quá nhiều xe qua lại, đầy những ổ gà. Xe không được phép bật đèn, nên cứ bị sa xuống ổ, xóc đến nỗi cả bọn gần như chực ngã văng khỏi xe. Nhưng điều đó chẳng làm ai lo lắng. Có chuyện gì mà phải lo; một cánh tay bị gãy còn hơn một lỗ thủng ở bụng, thậm chí khối thằng mong ngã một phát để được dịp về nhà.

    Bên cạnh chúng tôi là một đoàn dài xe chở vũ khí. Họ đang vội vã, liên tục vượt xe chúng tôi. Chúng tôi gọi với sang xe họ đùa bỡn, và họ cũng đáp lời.

    Một bức tường rào hiện ra, nó thuộc một ngôi nhà nằm cách xa đường. Tôi bỗng dỏng tai lên. Tôi nhầm chăng? Rồi tôi lại nghe rõ ràng tiếng ngỗng kêu quàng quạc. Tôi nhìn sang Katczinsky, anh cũng nhìn lại ngay; chúng tôi quá hiểu nhau.

    “Kat, em nghe tiếng một ứng viên cho cái chảo của bọn mình…”

    Anh gật đầu: “Sẽ xử lý khi quay về. Tớ biết chỗ rồi.”

    Đương nhiên là Kat biết. Chắc chắn anh biết từng cái đùi ngỗng trong vòng hai chục cây số đổ lại đây.

    Đoàn xe đã đến khu vực của pháo binh. Các ụ pháo đều ngụy trang cành lá để che mắt phi công địch, quang cảnh giống như lễ hội chòi lá của quân đội. Những lùm lá cây này trông thật ngộ nghĩnh và thanh bình, nếu như bên dưới chúng không phải là những khẩu đại bác đang náu mình.

    Không khí đặc quánh khói súng và sương mù. Người ta cảm thấy vị đắng của khói thuốc súng trên đầu lưỡi. Những tiếng súng nổ rung cả xe chúng tôi, tiếng vọng ầm ầm lăn theo, mọi vật chao đảo. Nét mặt chúng tôi thoáng thay đổi. Đúng là chúng tôi không phải xuống chiến hào, mà chỉ đi đào công sự, nhưng trên gương mặt ai cũng thấy rõ: đây là mặt trận, chúng ta đã đi vào khu vực mặt trận. Tuy nhiên vẫn không lộ vẻ sợ hãi. Ai đã từng ra tiền tuyến nhiều như chúng tôi, người đó sẽ trở nên trơ lì. Chỉ đám tân binh trẻ là thảng thốt. Kat dạy dỗ chúng: “Đạn ba mươi chấm năm li. Các chú nghe tiếng chúng phóng đi là biết, nổ ngay bây giờ này.”

    Nhưng những tiếng nổ không dội đến tận đây, mà chìm trong những tiếng ì ùng nơi mặt trận. Kat lắng tại nghe: “Đêm nay sẽ choảng nhau kịch liệt.”

    Cả bọn đều lắng nghe. Mặt trận không yên tĩnh. Kropp nói: “Bọn Tommy(*) bắn rồi đấy.”

    Nghe rõ những tiếng súng. Đó là những khẩu đội của quân Anh, đóng phía bên phải khu vực chúng tôi. Chúng nổ súng sớm hơn một giờ. Ở chỗ chúng tôi, chúng luôn chỉ bắt đầu vào đúng mười giờ tối.

    “Sao tự dưng chúng làm thế,” Müller kêu lên, “đồng hồ của chúng chạy nhanh mất rồi.”

    “Đã bảo là sẽ choảng nhau kịch liệt mà, tớ cảm thấy từ trong xương tủy,” Kat nhún vai.

    Cạnh chúng tôi ba tiếng nổ rền vang. Tia lửa bay chéo trong sương mù, những khẩu pháo gầm gào nhặng xị. Chúng tôi rùng mình và lấy làm mừng vì sáng sớm mai đã được trở về khu lán trại.

    Mặt mũi chúng tôi không tái hay đỏ hơn lúc bình thường; cũng không căng thẳng lên hay chùng xuống, ấy vậy mà vẫn khác hẳn. Chúng tôi cảm thấy có một công tắc điện được bật lên trong huyết quản. Đây không phải chỉ là cách nói, mà là sự thật. Chính mặt trận và cái ý thức mình đang ở mặt trận đã nhấn nút công tắc này. Đúng vào khoảnh khắc những trái đạn pháo đầu tiên rít lên và không khí bị xé toang bởi những tiếng nổ, thì trong huyết quản của chúng tôi, trong đôi tay, cặp mắt của chúng tôi bỗng hiện hữu sự ém mình chờ đợi, sự rình mò, sự tỉnh táo khác thường và sự thính nhạy đặc biệt của các giác quan. Cơ thể đột nhiên trong tư thế hoàn toàn sẵn sàng.

    (*) Cách lính Đức gọi lính Anh. (Các chú thích không ghi chú gì thêm đều là của người dịch.)

    Nhiều lúc tôi tưởng như không khí bị rung chuyển và xao động đang dang đôi cánh lặng lẽ bay phủ lên chúng tôi, hoặc giả chính mặt trận đang phát ra luồng điện kích hoạt những đầu dây thần kinh mới lạ trong chúng tôi.

    Lần nào cũng vậy, lúc lên đường, chúng tôi là những anh lính gắt gỏng hoặc vui tính, nhưng khi đến những ụ pháo đầu tiên thì mỗi lời nói trong câu chuyện của chúng tôi đã mang một sắc thái khác hẳn…

    Nếu Kat đứng trước dãy lán trại và nói “sẽ choảng nhau kịch liệt” thì đó chỉ là ý kiến riêng của anh, không hơn; nhưng khi anh nói ở đây thì câu nói này sắc bén tựa một lưỡi lê sáng lóe dưới ánh trăng, nó đâm xuyên qua những ý nghĩ, sát sườn hơn và nhằm thẳng vào sự vô thức vừa choàng tỉnh trong chúng tôi mà nói “sẽ choảng nhau kịch liệt” với một ý nghĩa tăm tối… Phải chăng cái bản năng sống sâu kín nhất và bí ẩn nhất nơi chúng tôi đang run rẩy và đứng lên tự vệ.

    Đối với tôi mặt trận là một xoáy nước đáng sợ. Ngay khi còn ở vùng nước yên ả cách xa vòng xoáy của nó, người ta đã cảm thấy cái sức hút đang cuốn mình đi, thong thả, không thoát ra nổi, chẳng vẫy vùng được gì nhiều. Nhưng đất và không trung là nguồn sức mạnh phòng thủ cho chúng tôi, nhiều nhất là từ đất. Đối với người lính, mặt đất có ý nghĩa hơn đối với bất kỳ ai. Khi người lính ghì sát thân mình vào đất, thật lâu, thật mãnh liệt, khi anh - trong nỗi sợ hãi chết người dưới đạn lửa - vục sâu mặt và chân tay vào lòng đất, thì đất là người bạn duy nhất của anh, là anh trai anh, là mẹ anh; anh trút những tiếng rên la, gào thét vì khiếp sợ của mình vào sự câm lặng và chở che của đất, đất nhận lấy chúng, để anh chạy và sống thêm mười giây nữa, để rồi lại ôm lấy anh, đôi khi là ôm mãi mãi.

    Đất… đất… ôi đất!

    Ôi đất, với những khe, những lỗ, những hõm sâu, nơi người ta có thể quăng mình xuống và bò vào nấp! Ôi đất, trong cơn co cứng của sợ hãi, trong trận lũ quét của sự hủy diệt, trong tiếng thét gào chết chóc của pháo gầm đạn nổ. Người đã ban cho chúng con sức chống chọi phi thường của cuộc đời vừa giành giật lại! Nỗi sợ hãi điên dại của sự sống gần như tan nát nơi chúng con hòa vào dòng chảy từ Người biến thành nguồn sức mạnh thấm ngược qua đôi tay chúng con, khiến chúng con, những kẻ được cứu sống, bấu chặt vào Người và ngoạm môi vào Người trong niềm hạnh phúc câm lặng xen lẫn sợ hãi về những phút giây đã vượt qua!…

    Nghe tiếng gầm đầu tiên của đạn pháo, một phần con người chúng tôi bất thình lình vụt quay lại hàng ngàn năm trước. Đó là bản năng của loài thú thức dậy trong chúng tôi, dẫn dắt và che chở chúng tôi. Nó vô thức, nhưng nhanh hơn, chắc chắn hơn, và sáng suốt hơn ý thức nhiều lần. Không ai lý giải được điều này. Một người đang bước đi và chẳng nghĩ ngợi gì… bỗng anh ta nằm trong một hố đất, trong khi mảnh đạn văng tung tóe bên trên… vậy mà anh ta lại chẳng tài nào nhớ được là mình có nghe thấy tiếng đạn bay đến hay có nghĩ tới việc nằm rạp xuống. Nếu còn chờ để nghe hay nghĩ, thì giờ đây anh ta đã biến thành đống thịt vụn. Đó là nhờ thứ khác, thứ giác quan nhạy bén trong chúng ta đã kéo chúng ta nằm xuống và cứu sống chúng ta. Nếu không có cái bản năng này, thì chắc hẳn từ Flandern đến Vogesen đã từ lâu chẳng còn một mống người.

    Lúc lên đường, chúng tôi là những anh lính gắt gỏng hoặc vui tính, khi đi vào vùng bắt đầu có mặt trận, chúng tôi là những con người mang bản năng loài thú.

    Một khu rừng thưa đón nhận chúng tôi. Chúng tôi đi qua những cái bếp dã chiến. Đến sau khu rừng, chúng tôi xuống xe. Đoàn xe quay về. Mai chúng sẽ lại đến đón chúng tôi trước lúc trời sáng.

    Sương mù và khói súng giăng đến tận ngực trên những cánh đồng cỏ. Ánh trăng rọi xuống. Lính tráng đi từng đoàn trên đường. Những chiếc mũ sắt lấp loáng sáng mờ dưới trăng. Đầu người và nòng súng nhô lên khỏi đám sương mù trắng bạc, những đầu người nhấp nhô, những nòng súng rung rinh.

    Đi tiếp lên nữa thì hết sương mù. Từ những cái đầu giờ dần hiện rõ hình hài những người lính… đầu tiên là áo, rồi quần, rồi ủng lần lượt thoát ra khỏi màn sương như nhoi lên từ một ao sữa trắng. Họ đi thành đoàn dài. Đoàn người cứ thế thẳng tiến, những bóng người kết lại thành hình một cái nêm, không còn nhận rõ từng người riêng lẻ, mà chỉ thấy một cái nêm màu tối thẫm đang tiến về phía trước, được tiếp nối một cách kỳ dị bởi những đầu người và nòng súng liên tục bơi lên từ cái ao sương mù kia. Một đoàn quân… không phải những con người.

    Những khẩu pháo hạng nhẹ và những cỗ xe chở đạn chạy trên một con đường vắt ngang. Những chú ngựa lưng lấp loáng dưới ánh trăng, chúng chuyển động thật đẹp và duyên dáng, đầu lúc lắc, từ xa vẫn nhận thấy mắt chúng sáng lấp lánh. Những khẩu pháo và những cỗ xe lướt qua cảnh quan mờ ảo dưới ánh trăng, những người lính đội mũ sắt ngồi trên lưng ngựa trông chẳng khác gì những kỵ sĩ thời xa xưa; toàn cảnh có một vẻ gì đẹp đến nao lòng.

    Chúng tôi nhằm hướng kho vật liệu của công binh. Một tốp trong chúng tôi vác trên vai những thanh sắt cong đầu nhọn, tốp còn lại xỏ những thanh sắt thẳng qua các cuộn dây thép gai mà khiêng đi. Khuân những thứ này vừa nặng vừa chẳng dễ chịu gì.

    Mặt đất thì càng đi càng thấy vỡ toác, nứt lở. Từ phía trước truyền xuống những cảnh báo: “Chú ý bên trái có nhiều hố đại bác rất sâu!”… “Cẩn thận, rãnh chiến hào!”… Chúng tôi căng mắt, thò chân và gậy dò dẫm mặt đường trước từng bước chân. Đoàn người bất chợt dừng lại, có anh va ngay mặt vào cuộn dây thép của anh đi trước, chửi luôn.

    Mấy chiếc xe tan tành vì đạn pháo chắn ngang đường. Có lệnh mới: “Tắt thuốc lá và tẩu đi!”… Chúng tôi đã đến sát các chiến hào.

    Lúc này xung quanh đã trở nên tối om. Chúng tôi đi vòng qua một cánh rừng nhỏ và đã thấy trận tuyến ngay trước mặt.

    Một vầng sáng chập chờn phơn phớt đỏ chạy dài từ đầu này sang đầu kia phía chân trời. Nó luôn luôn chuyển động và bị rạch xé ngang dọc bởi những ánh chớp của đạn pháo. Trên nó, những trái pháo sáng bay vút lên - những quả cầu lấp lánh ánh bạc và đỏ rực, vỡ tung thành muôn ngàn ngôi sao đỏ, xanh, trắng rồi vãi như mưa xuống mặt đất. Hỏa tiễn của quân Pháp bắn lên không trung thì mở ra những chiếc dù lụa rồi cứ thế thong thả nhẹ nhàng rơi. Chúng chiếu vạn vật rõ như ban ngày, ánh sáng của chúng rọi đến tận chỗ chúng tôi, chúng tôi thấy bóng mình in sắc nét trên mặt đất. Chúng bay lơ lửng hàng phút rồi mới tan. Ngay lập tức những pháo sáng khác lại được bắn lên, khắp bầu trời, và xen giữa chúng lại là những quả cầu xanh, đỏ, tím biếc.

    “Đen đủi,” Kat nói.

    Cơn dông tố của trọng pháo tăng dần thành một tiếng gầm ù tai duy nhất để rồi lại tan ra thành nhiều loạt tiếng nổ riêng rẽ. Những tràng súng máy khô khan nổ rất đanh. Trên đầu chúng tôi, không trung đầy ắp sự săn đuổi vô hình, những tiếng gầm, tiếng huýt và tiếng rít. Đó là những đạn pháo cỡ nhỏ… nhưng xen giữa chúng là tiếng đại phong cầm của những quả đạn đại bác hạng nặng bay xuyên màn đêm và rơi xuống rất xa sau lưng chúng tôi. Chúng có tiếng kêu trầm khàn, xa vắng như của bầy hươu vào mùa động cỡn, bay vượt lên trên tiếng gầm rít của các loại đạn pháo hạng nhẹ.

    Những chiếc đèn pha bắt đầu sục sạo trên bầu trời tối đen. Quét đi quét lại là những luồng sáng tựa những chiếc thước kẻ khổng lồ, về sau mảnh hơn. Một luồng đèn pha đứng im và chỉ hơi run rẩy. Lập tức luồng đèn thứ hai xuất hiện cạnh nó, hai luồng sáng giao nhau, khiến một con côn trùng màu đen bị kẹt ở giữa cuống quýt tìm đường tẩu thoát: chiếc phi cơ. Chiếc phi cơ mất phương hướng, bị lóa mắt và chao đảo.

    Chúng tôi đóng chắc cọc sắt xuống đất theo những khoảng cách đều nhau. Cứ hai người giữ một cuộn dây thép gai, trong khi những người khác gỡ nó ra. Cái thứ dây thép kinh tởm chi chít những cái gai dài. Tôi không thạo việc này nên bị cứa rách cả bàn tay.

    Sau vài giờ chúng tôi xong việc. Nhưng chúng tôi vẫn còn thời gian trước khi những chiếc xe tải quay lại. Phần đông anh em nằm xuống đánh một giấc. Tôi cũng cố thử ngủ. Nhưng trời lạnh quá. Tôi nhận ra cả bọn đang ở rất gần biển và cứ luôn thức giấc vì lạnh.

    Có lúc tôi ngủ rất say. Khi bất thình lình giật mình tỉnh giấc, tôi không biết mình đang ở đâu. Tôi nhìn những vì sao, nhìn những trái hỏa tiễn, và trong một khoảnh khắc tôi có cảm giác như mình đang thiếp ngủ giữa một lễ hội ngoài vườn. Tôi không biết là sáng hay chiều, chỉ biết mình đang nằm trên quê hương nhợt nhạt trong lúc nhá nhem, chờ đợi những lời dịu dàng sẽ phải cất lên, dịu dàng và yên bình… Tôi khóc chăng? Tôi sờ tay lên mắt, thật kỳ lạ quá, tôi là một đứa trẻ hay sao? Làn da mịn màng… Cảm giác này chỉ kéo dài một giây, rồi tôi nhận ra cái bóng của Katczinsky. Người lính già ngồi bình thản hút tẩu, cố nhiên là một cái tẩu có nắp. Khi nhận thấy tôi thức giấc, anh chỉ nói: “Cậu vừa giật mình khiếp thế. Đó chỉ là một ngòi nổ, nó đã bay vào bụi rậm đằng kia.”

    Tôi ngồi dậy, cảm thấy cô đơn lạ lùng. Thật may là có Kat ở đây. Anh nhìn về phía trận địa đầy vẻ nghĩ ngợi và nói: “Một cảnh pháo hoa tuyệt đẹp, giá như nó không quá nguy hiểm như thế.”

    Có tiếng nổ phía sau chúng tôi. Mấy cậu lính mới giật thót sợ hãi. Vài phút sau lóe lên tiếng nổ nữa, lần này gần hơn lần trước. Kat gõ cái tẩu cho sạch tàn thuốc. “Lửa đạn đến nơi rồi!”

    Trận pháo kích đã bắt đầu thật. Chúng tôi vội bò khỏi đó, nhanh nhất có thể. Quả pháo tiếp theo rơi ngay giữa cả bọn. Một vài người lính rú lên. Phía chân trời vọt lên những trái hỏa tiễn màu xanh. Bùn đất văng tứ tung, mảnh đạn bay vù vù. Khi những tiếng nổ chát chúa đã lắng xuống hồi lâu, vẫn nghe mảnh đạn rào rào rơi xuống đất.

    Nằm cạnh chúng tôi là một cậu lính mới run như cầy sấy, một anh chàng đầu óc nông cạn. Cậu ta vùi mặt vào lòng bàn tay, cái mũ sắt đã bị hất văng ra. Tôi khều cái mũ lại và toan chụp lên đầu cho cậu ta. Cậu ta ngước nhìn, đẩy cái mũ ra và như một đứa trẻ rúc đầu vào dưới nách, sát nơi ngực tôi. Đôi vai gầy run bắn lên. Đúng như đôi vai của Kemmerich ngày nào.

    Tôi mặc cậu ta. Nhưng để cho cái mũ sắt ít nhất cũng có đôi chút tác dụng, tôi úp nó lên mông cậu lính, không phải một trò đùa ngớ ngẩn mà có tính toán hẳn hoi, vì đó là chỗ nhô lên cao nhất. Cho dù thịt mông khá dày, nhưng đạn xuyên vào đấy thì cũng đau chết mẹ, hơn nữa còn phải nằm sấp hàng tháng trời trong quân y viện, và sau đó khá chắc chắn là sẽ bị thọt chân.

    Một quả đạn đại bác rơi trúng đâu đó. Người ta nghe những tiếng la hét xen giữa những tiếng nổ.

    Cuối cùng yên tĩnh trở lại. Cơn bão lửa đã quét ngang qua đầu chúng tôi và lúc này đang hoành hành trên những chiến hào dự bị cuối cùng. Chúng tôi đánh liều ngó thử. Những trái hỏa tiễn đỏ rực đan nhau trên bầu trời. Hình như sắp có một cuộc tấn công.

    Chỗ chúng tôi vẫn im ắng. Tôi ngồi dậy và lắc vai cậu tân binh. “Qua rồi, nhóc con! Lại một lần nữa thoát hiểm.”

    Cậu ta hốt hoảng nhìn quanh. Tôi động viên: “Rồi cậu sẽ quen thôi.”

    Cậu ta nhìn thấy cái mũ sắt của mình, bèn đội lên đầu. Sau đó cậu ta dần hoàn hồn. Bỗng mặt cậu ta đỏ lựng lên, dáng vẻ bối rối. Cậu ta thận trọng thò tay sờ sau quần và nhìn tôi với ánh mắt khổ sở. Tôi lập tức hiểu: cơn sốt tạc đạn! Thật ra tôi đâu có úp cái mũ lên mông đít cậu ta vì lẽ đó… nhưng tôi vẫn an ủi cậu ta: “Chẳng việc gì phải xấu hổ, trước cậu đã có khối anh bĩnh ra đầy quần sau khi trải qua trận pháo kích đầu tiên. Chạy ra sau bụi cây kia và quăng cái quần lót của cậu đi. Thế là xong…”

    Cậu ta chạy đi. Tiếng pháo im ắng hơn, nhưng những tiếng kêu rú vẫn không dừng lại, “Chuyện gì đang xảy ra vậy, Albert?” tôi hỏi.

    “Ở đằng kia có mấy tiểu đội bị trúng pháo.”

    Tiếng kêu rú cứ kéo dài mãi. Không phải tiếng người, người không thể kêu rú thê thảm đến thế được.

    Kat bảo: “Những con ngựa bị thương.”

    Tôi chưa bao giờ nghe ngựa kêu rú nên hầu như không thể tin nổi. Đó là nỗi cùng khổ của thế giới, sinh linh bị tra tấn, nỗi đau đớn kinh khủng, man dại đang than khóc. Chúng tôi tái mặt đi. Detering nhỏm phắt dậy: “Tàn ác! Tàn ác! Kết liễu chúng bằng một viên đạn đi chứ!”

    Anh ta là nông dân và thân thiết với ngựa. Vì thế anh ta thấy xót xa. Rồi như thể cố tình, tiếng đạn pháo lúc này gần như im hẳn. Thành ra tiếng kêu rú của những con ngựa lại càng rõ hơn. Người ta không còn biết nó phát ra từ đâu trong cái quang cảnh trải rộng bàng bạc trắng và giờ đây đã trở nên rất yên tĩnh này, tiếng kêu vô hình, ma quái, trải khắp giữa bầu trời và mặt đất, cứ thế lan ra đến mênh mông… Detering điên tiết gầm lên: “Kết liễu chúng đi, kết liễu chúng đi chứ, mẹ kiếp!”

    “Họ còn phải đi nhặt người trước đã,” Kat nói.

    Chúng tôi đứng dậy và đi tìm chỗ phát ra tiếng kêu. Nếu nhìn thấy lũ ngựa, chúng tôi sẽ dễ chịu đựng hơn. Meyer có mang theo một cái ống nhòm. Chúng tôi nhìn thấy một nhóm sâm sẫm các y tá đang khiêng những chiếc cáng và một đám đen kịt lớn hơn đang chuyển động. Đó là những con ngựa bị thương. Nhưng không phải tất cả. Vài ba con tiếp tục chạy nước kiệu ra xa, quỵ xuống, rồi lại tiếp tục chạy. Một con bị rách toang bụng, ruột xổ ra lòng thòng. Nó bị vướng chân vào đám ruột và ngã nhào, nhưng lại gượng đứng dậy.

    Detering giương súng lên nhằm bắn. Kat gạt súng cho đạn nổ lên trời. “Cậu điên à…”

    Detering run rẩy, quăng súng xuống đất.

    Chúng tôi cùng ngồi xuống và bịt tai lại. Nhưng tiếng kêu đau đớn, ai oán đầy kinh hoàng vẫn xuyên xói vào tai, nó xuyên đến mọi ngóc ngách.

    Tất cả chúng tôi đều có khả năng chịu đựng khá. Vậy mà giờ đây mồ hôi chúng tôi tháo ra đầm đìa. Chúng tôi chỉ muốn đứng lên và bỏ chạy, tới đâu cũng được, miễn sao không phải nghe tiếng kêu rú này nữa. Mà đó không phải những con người, mới chỉ là ngựa thôi đấy.

    Từ đám sâm sẫm tối lại tách ra những chiếc cáng. Vài tiếng súng nổ vang. Những bóng đen giật lên rồi nằm bẹp xuống. Có thế chứ! Nhưng vẫn chưa xong. Người ta không thể đến gần những con ngựa bị thương đang lồng lên trốn chạy vì sợ hãi, mõm há hoác rú gào đau đớn. Một bóng đen quỳ xuống, súng nổ… một con ngựa đổ gục… một con nữa. Con cuối cùng chồng mình trên hai vó trước và xoay tròn như một chiếc đu quay, nó cứ chống hai vó trước và xoay vòng trong tư thế ngồi, hình như lưng nó đã bị đạn xé nát. Người lính chạy đến và bắn nó. Thong thả, từ tốn, con ngựa ngã xoài ra đất.

    Chúng tôi bỏ tay ra khỏi tai. Tiếng kêu đã im bặt. Chỉ có một tiếng thở dài hấp hối vẫn lơ lửng đâu đó trong không trung. Rồi sau đó chỉ còn tiếng hỏa tiễn, tiếng đạn pháo và những ngôi sao… và điều này gần như là lạ lùng.

    Detering vừa đi vừa rủa: “Đây muốn biết chúng đã làm gì nên tội.” Sau đó anh ta còn nhắc lại chuyện này. Giọng anh ta xúc động, gần như trịnh trọng khi tuyên bố: “Nói cho các cậu biết, điều đê tiện nhất trên đời là lôi các con vật vào cuộc chiến.”

    Chúng tôi quay về. Đã tới lúc tìm đến những chiếc xe tải của chúng tôi. Trời đã tang tảng sáng. Ba giờ. Làn gió tươi mới và mát lạnh, ánh sáng nhợt nhạt vào giờ này khiến mặt mũi cả bọn xám ngoét.

    Chúng tôi nối đuôi nhau dò dẫm đi qua những chiến hào, những hố đại bác, và lại quay trở về khu vực sương mù. Katczinsky có vẻ bất an, đó là một điềm xấu.

    “Anh sao thế, Kat?” Kropp hỏi.

    “Tớ ước giá bọn mình đang ở nhà rồi…” Ý anh “ở nhà” là ở khu lán trại.

    “Thì cũng sắp về đến nơi mà, Kat.”

    Anh có vẻ bồn chồn. “Tớ không biết, tớ không biết…”

    Chúng tôi đến những đường giao thông hào rồi tới những cánh đồng cỏ. Cánh rừng nhỏ đã hiện ra trước mặt; ở đây chúng tôi thuộc từng tấc đất. Kia là khu nghĩa trang khinh binh với những ngôi mộ nhấp nhô cắm những cây thập tự màu đen.

    Đúng khoảnh khắc ấy có tiếng rít sau lưng chúng tôi, tiếng rít to dần, nổ chát chúa, nổ đinh tai nhức óc. Chúng tôi cúi rạp xuống… trước chúng tôi một trăm mét bốc lên một đám mây lửa.

    Ngay phút tiếp theo, một mảnh rừng trúng đạn đại bác từ từ bay lên, ba bốn thân cây bị đốn cụt và tan thành nhiều mảnh. Liền đó những trái phá tiếp theo đã bay đến trong tiếng huýt dài như mở van nồi hơi… hỏa lực dữ dội…

    “Nấp đi!” ai đó gào lên… “Nấp đi!”…

    Những đồng cỏ phẳng phiu, rừng thì vừa rộng vừa quá nguy hiểm… chẳng còn chỗ nấp nào khác ngoài khu nghĩa trang và những ngôi mộ nhấp nhô. Chúng tôi loạng quạng trong bóng tối chạy vào đó, ngay lập tức mỗi thằng nằm bẹp sau một ngôi mộ - tựa hồ bị văng vào, dính chặt.

    Vừa kịp, không thừa một tích tắc. Đêm tối như hóa điên. Nó chồm lên và giật đùng đùng. Những bóng tối đen hơn cả bóng đêm tựa những cái bướu khổng lồ lao sầm sập vào chúng tôi, vượt qua chúng tôi. Lửa từ những quả nổ cháy lập lòe khắp nghĩa trang. Không đâu có lối thoát. Dưới ánh sáng của trái phá, tôi đánh bạo đưa mắt nhìn về phía những cánh đồng cỏ. Trước mắt tôi là mặt biển trong cơn bão dữ, trên đó lửa của đạn pháo bắn tóe lên như những bồn nước phun. Hoàn toàn loại trừ khả năng ai đó có thể vượt qua nổi.

    Khu rừng biến mất, nó đã bị nghiền nát, quật tơi tả, xé tan. Chúng tôi đành trụ lại trong khu nghĩa trang.

    Mặt đất tan tác phía trước chúng tôi. Đất cục như mưa đổ xuống rào rào. Tôi cảm giác bị giật mạnh. Cánh tay áo của tôi bị một mảnh đạn xé rách. Tôi nắm tay lại. Không thấy đau. Nhưng điều đó không làm tôi yên tâm, vì những vết thương bao giờ cũng phải về sau mới đau. Tôi thử vuốt cánh tay, nó bị sây sát nhưng vẫn nguyên vẹn. Rồi đầu tôi bị thứ gì đó quất mạnh khiến tôi tối tăm mặt mũi, chỉ còn một ý nghĩ kịp lóe lên như tia chớp: không được ngất! Tôi như chìm vào một hố lầy đen ngòm rồi lại lập tức ngoi lên. Một mảnh pháo văng trúng mũ tôi, nhưng nó văng từ khoảng cách quá xa nên không đủ sức xuyên thủng chiếc mũ sắt. Tôi chùi bùn đất bắn đầy trên mắt. Trước tôi, mặt đất há hoác một hố lớn, tôi thấy không rõ lắm. Thường thì những quả đạn đại bác không dễ gì cùng rơi vào một hố, nên tôi muốn nhảy xuống đó nấp. Với một cú nhoài tôi phi thân lên phía trước, người vẫn dán bẹp xuống đất như một con cá, lại có tiếng đạn rít, tôi vội nằm co lại, quờ tay tìm chỗ náu mình, sờ thấy bên trái có vật gì đó, bèn áp chặt người vào đấy, nó mềm oặt, tôi rên lên, mặt đất nứt toác, sức ép không khí như sấm ùng ùng trong tai, tôi rúc xuống dưới cái vật mềm oặt kia, kéo nó phủ lên mình, nào gỗ, nào vải, một chỗ trú, một chỗ trú, một chỗ trú thảm hại trước những mảnh đạn vãi xuống như mưa.

    Tôi mở mắt, các ngón tay tôi đang quắp chặt một ống tay áo, một cánh tay người. Một người bị thương sao? Tôi gào lên với anh ta, không lời đáp… một xác chết. Bàn tay tôi tiếp tục lần mò, vào giữa những mảnh ván, và tôi sực nhớ ra cả bọn đang nằm trên khu nghĩa trang.

    Nhưng lửa đạn mạnh hơn mọi thứ trên đời. Nó tiêu diệt cả ý thức, tôi chỉ càng rúc sâu hơn nữa xuống dưới chiếc quan tài, chiếc quan tài cần phải che chở tôi, cho dù chính thần chết đang nằm trong đó.

    Hố đại bác há hoác trước tôi. Tôi nhìn như muốn nuốt chửng lấy nó, tôi phải phi một phát xuống đấy. Bỗng tôi bị một cú đánh vào mặt, một bàn tay bấu lấy vai tôi… cái xác đã sống lại?… Bàn tay ấy lay lay tôi, tôi quay đầu, và dưới ánh sáng lóe lên chỉ trong tích tắc tôi trân trối nhìn vào gương mặt của Katczinsky, anh há to mồm gào lên câu gì đó, tôi chịu không nghe thấy, anh lay mạnh tôi và xáp lại gần hơn; trong một khoảnh khắc tạm lắng tiếng nổ, tiếng anh vọng đến tai tôi. “Hơi ngạt… hơi ngạt… hơi ngạt!… Báo tiếp đi!”

    Tôi kéo hộp mặt nạ chống độc ra. Có người nữa nằm cách tôi một quãng. Tôi không nghĩ đến gì khác ngoài việc phải báo cho cậu ta biết. “Hơi ngạt… hơi ngạt…”

    Tôi gọi, tôi trườn lại gần cậu ta, cầm chiếc hộp mặt nạ khua về phía cậu ta, cậu ta chẳng nhận thấy gì… tôi cố lần nữa, lần nữa… cậu ta cứ co rúm người chúi xuống đất… đó là một tân binh… tôi tuyệt vọng đưa mắt tìm Kat, anh đã đeo mặt nạ… tôi cũng lôi mặt nạ của mình ra, chiếc mũ sắt đã bay sang một bên, mặt nạ kéo che mặt tôi, tôi đã đến chỗ cậu tân binh, hộp mặt nạ của cậu ta liền ngay đó, tôi vớ chiếc mặt nạ chụp qua đầu cậu ta, cậu ta túm lấy… tôi buông tay ra… và bỗng nhiên vèo một phát tôi đã nằm dưới hố đại bác.

    Tiếng nổ trầm đục của những quả đạn pháo hơi ngạt xen giữa những tiếng chát chúa của đạn nổ. Một hồi chuông vang lên giữa những tiếng nổ, rồi tiếng kẻng leng keng khua lên báo động đến mọi nơi… hơi ngạt… hơi ngạt… hơi ngạt…

    Sau lưng tôi có tiếng lăn cái thịch, một lần, hai lần. Tôi lau sạch mắt kính mặt nạ bị mờ vì hơi thở của mình. Đó là Kat, Kropp và ai đó nữa. Bốn thằng nằm đây trong sự căng thẳng rình rập nặng nề và cố gắng thở càng ít càng tốt.

    Những phút đầu tiên đeo mặt nạ quyết định sự sống hay cái chết: nó có đủ kín hay không? Tôi biết những hình ảnh khủng khiếp ở bệnh viện dã chiến: những thương binh bị trúng độc khạc ra từng mảnh phổi cháy đen trong nhiều ngày.

    Tôi thở rất thận trọng, miệng áp vào tấm lọc bảo vệ. Giờ đây lớp hơi ngạt đã sà xuống mặt đất và tràn vào mọi hố hõm. Như một con sứa khổng lồ mềm nhũn, nó trườn vào cái hố đại bác chúng tôi đang nằm, vươn những cái vòi luồn lách đến mọi ngóc ngách. Tôi huých Kat: nên bò lên nằm trên miệng hố thì tốt hơn là dưới này, nơi tích tụ nhiều hơi ngạt nhất. Nhưng không có cơ hội, vì trận bão lửa thứ hai lại trút xuống. Dường như không còn là tiếng gầm rú của đạn pháo, dường như chính mặt đất đang nổi cơn cuồng nộ.

    Một tiếng nổ đinh tai, một vật đen trũi bay về phía chúng tôi. Nó rơi đánh rầm ngay cạnh chúng tôi: một chiếc quan tài bị hất văng lên trời.

    Tôi thấy Kat nhoài người tránh và tôi cũng nhao theo anh ta. Chiếc quan tài rơi đè lên cánh tay dang rộng của người lính thứ tư nằm cùng hố với chúng tôi. Cậu này định dùng tay kia lột mặt nạ. Kropp kịp thời ngăn chặn, bẻ quặt cổ tay cậu ta ra sau lưng và giữ thật chặt.

    Kat và tôi tìm cách giải phóng cánh tay bị thương cho cậu ta. Cái nắp quan tài lỏng lẻo và đã mục, chúng tôi có thể giật nó ra dễ dàng, chúng tôi quăng xác chết đi, nó rơi phịch xuống đất, đoạn chúng tôi tìm cách dỡ phần dưới của quan tài.

    May mà cậu lính bị thương đã ngất đi, và Albert có thể giúp chúng tôi một tay. Lúc này chúng tôi không cần phải quá gượng nhẹ nữa và xoay mọi cách có thể, chúng tôi dùng một cái xẻng luồn xuống dưới chiếc quan tài bẩy được nó ra trong tiếng thở phào của cả bọn.

    Trời đã sáng hơn. Kat nhặt một mảnh nắp quan tài đặt dưới cánh tay giập nát, rồi chúng tôi lấy tất cả số bông băng mình có quấn lại. Chúng tôi không thể làm gì hơn vào thời điểm này.

    Đầu tôi kêu vo vo, váng động dưới chiếc mặt nạ, nó muốn nổ tung đến nơi. Hai lá phổi đang gắng sức, chúng cứ phải hít đi hít lại cái hơi thở nóng bỏng đã thải ra, mạch máu hai bên thái dương căng phồng, tôi ngỡ mình đang chết ngạt…

    Ánh sáng xám mờ rọi xuống chỗ chúng tôi. Gió quét qua khu nghĩa trang. Tôi nhoai lên miệng hố đại bác. Trong cảnh nhá nhem vẩn đục, một cẳng chân bị đứt rời nằm ngay trước mặt tôi với chiếc ủng còn nguyên vẹn, khoảnh khắc này tôi nhìn thấy tất cả những thứ đó rất rõ ràng. Nhưng giờ đây có ai đó nhỏm dậy trước mặt tôi độ vài mét, tôi lau mắt kính mặt nạ, chúng lại mờ hơi nước ngay vì thở mạnh trong cơn xúc động, tôi trân trối nhìn sang… người lính đứng kia không đeo mặt nạ nữa.

    Tôi đợi thêm vài giây… anh ta không đổ gục xuống, anh ta nhìn xung quanh như tìm kiếm và bước vài bước… gió đã xua tan hơi ngạt, không khí lại trong lành… thế là tôi cũng vừa thở dốc vừa giật chiếc mặt nạ xuống và ngã lăn ra đất, không khí như làn nước mát tràn vào trong tôi, đôi mắt tôi như muốn vỡ ra, con sóng nhấn chìm tôi và dập tắt tôi trong tối tăm.

    Trận pháo kích đã ngừng. Tôi xoay người về phía hố đại bác và vẫy mấy người kia. Họ trèo ra khỏi hố và lột mặt nạ xuống. Chúng tôi dìu cậu lính bị thương, một người đỡ cánh tay băng bó của cậu ta. Chúng tôi cứ thế loạng quạng vội vã bỏ đi.

    Khu nghĩa trang giờ là một bãi hoang tàn. Quan tài và xác chết nằm vương vãi. Những người đã khuất bị giết chết một lần nữa; nhưng mỗi thân xác tả tơi của họ đã cứu sống một mạng người chúng tôi.

    Hàng rào nghĩa địa bị phá tan hoang, những đường ray dã chiến đằng kia bị giật ngược lên, cong hình cánh cung dựng đứng lên trời. Có người nằm phía trước chúng tôi. Chúng tôi dừng lại, chỉ Kropp tiếp tục đi với cậu lính bị thương.

    Nằm dưới đất là một tân binh. Hai bên hông cậu ta bê bết máu; cậu ta kiệt sức đến nỗi tôi vội đưa tay toan tháo chiếc bi đông đựng trà pha rượu rum của mình. Kat giữ tay tôi lại và cúi xuống người lính trẻ. “Cậu bị thương vào đâu, người anh em?”

    Cậu ta động đậy đôi mắt; cậu ta quá yếu, không đủ sức trả lời.

    Chúng tôi thận trọng cắt quần cậu ta ra. Cậu ta rên lên. “Bình tĩnh, bình tĩnh, sẽ khá lên thôi…”

    Nếu cậu ta bị trúng đạn vào bụng, thì không được phép uống bất cứ thứ gì. Cậu ta không nôn mửa là tốt rồi. Chúng tôi lột trần hông cậu ta ra. Nó chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy cùng những mảnh xương. Khớp háng bị trúng đạn. Cậu bé này sẽ chẳng bao giờ còn bước đi được nữa.

    Tôi nhúng ướt các ngón tay xoa hai bên thái dương cho cậu ta và cho cậu ta uống một ngụm. Đôi mắt cậu ta có phần linh hoạt hơn. Mãi lúc này chúng tôi mới nhận thấy cánh tay phải của cậu ta cũng chảy máu.

    Kat kéo dãn hết cỡ bề ngang hai cuộn băng để có thể băng kín vết thương. Tôi tìm vải để quấn lỏng tay lên trên lớp băng. Chúng tôi không có gì nữa, nên tôi xẻ tiếp thêm ống quần của cậu lính bị thương, nhằm cắt một mảnh quần lót làm băng quấn. Nhưng cậu ta không mặc quần đùi. Tôi nhìn cậu ta kỹ hơn: té ra là thằng nhóc nông cạn ban nãy.

    Trong khi ấy Kat đã lục được mấy cuộn băng trong túi một người lính đã chết, chúng tôi thận trọng băng vết thương. Tôi bảo cậu lính trẻ đang nhìn chúng tôi không rời mắt: “Bây giờ chúng tớ đi kiếm một cái cáng.”

    Cậu ta bèn mở miệng thều thào: “Ở lại đây đi…”

    Kat nói: “Chúng tớ quay lại ngay. Chúng tớ đi kiếm một cái cáng cho cậu mà.”

    Không thể nhận biết cậu lính có hiểu hay không: cậu ta rền rĩ như một đứa trẻ sau lưng chúng tôi: “Xin đừng đi…”

    Kat ngó quanh và thì thầm: “Liệu có nên dùng một khẩu súng lục để kết thúc chuyện này hay không?”

    Cậu lính trẻ hầu như không còn đủ sức chịu đựng việc di chuyển, và cùng lắm cũng chỉ trụ thêm được vài ngày nữa. Tất cả những gì cậu ta chịu đựng cho tới lúc này sẽ không thấm vào đâu so với nỗi đau đớn cùng cực từ giờ cho đến khi cậu ta chết. Hiện tại cậu ta đang bị tê dại, và chưa cảm thấy gì. Chỉ một giờ nữa thôi cậu ta sẽ trở thành một bó bông băng la hét điên dại vì đau đớn không chịu đựng nổi. Những ngày cậu ta còn gắng gượng sống sẽ chỉ là một sự tra tấn tàn bạo không hơn không kém đối với cậu ta. Để cho cậu ta sống thêm vài ngày phỏng ích gì cho ai…

    Tôi gật đầu. “Phải đấy, anh Kat, súng lục là hơn cả.”

    “Đưa đây.” Anh nói và dừng lại. Nhìn thì biết là anh đã quyết. Chúng tôi ngó ra xung quanh, nhưng ở đây không phải chỉ có mình chúng tôi nữa. Trước mặt chúng tôi đang tụ dần một đám lính lốc nhốc nhoi lên từ những hố đại bác và huyệt mộ. Chúng tôi đành kiếm một cái cáng.

    Kat lắc đầu. “Những gã trai trẻ trung đến vậy…” Anh nhắc lại: “Những gã trai vô tội, trẻ trung đến vậy…”

    Tổn thất của chúng tôi ít hơn dự đoán: năm người chết và tám người bị thương. Đó mới chỉ là một trận pháo kích ngắn ngủi. Hai trong số người chết nằm dưới một trong những ngôi mộ bị đạn pháo quật lên; chúng tôi chỉ việc lấp đất lại.

    Chúng tôi quay về. Cả bọn lầm lũi thất thểu nối đuôi nhau đi theo hàng một. Những người bị thương được đưa đến trạm quân y. Buổi sáng ảm đạm, đám y tá chạy tới chạy lui với những con số và những tấm phiếu, đám thương binh rên rẩm. Trời bắt đầu mưa.

    Một giờ sau chúng tôi về đến chỗ xe vận tải và trèo lên xe. Bây giờ xe rộng chỗ hơn lúc đi.

    Mưa trở nên nặng hạt. Chúng tôi giở những tấm vải bạt, căng lên che đầu. Mưa gõ rào rào trên lớp vải bạt. Hai bên mép bạt nước trút thành dòng. Những chiếc xe tải lội ào ào trên các ổ gà khiến nước bắn tung tóe, còn chúng tôi lắc lư qua lại trong giấc ngủ gà gật.

    Hai người ngồi phía trước xe cầm những cái gậy dài có chạc. Họ chú ý quan sát những đường dây điện thoại căng ngang đường và thấp đến nỗi có thể hất phăng đầu chúng tôi. Hai người này dùng gậy có đầu chạc nâng cao chúng lên khỏi tầm đầu chúng tôi. Chúng tôi nghe tiếng họ cảnh báo: “Chú ý… có dây!” và giữa giấc ngủ gà gật cả bọn vội khuỵu chân xuống rồi lại đứng thẳng lên.

    Xe lúc lắc đều đều, những tiếng cảnh báo đều đều, mưa đều đều rả rích. Mưa rơi xuống đầu chúng tôi, xuống đầu những người chết đặt phía trước, xuống thân thể cậu tân binh bé nhỏ với vết thương quá lớn so với cái hông của cậu ta, mưa rơi xuống nấm mộ chôn Kemmerich, mưa rơi vào lòng chúng tôi.

    Một quả đại bác nổ đâu đấy. Chúng tôi giật mình, căng mắt ra, những bàn tay lại sẵn sàng để nhảy vọt qua thành xe, lao xuống rãnh hai bên đường…

    Chẳng có gì xảy ra nữa cả… Chỉ đều đều tiếng cảnh báo: “Chú ý… có dây!”… Chúng tôi khuỵu chân xuống và lại chìm vào giấc ngủ gà gật.
     
  7. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    V

    Khi người ta có đến hàng trăm con rận mà giết từng con một thì thật phiền phức. Những con vật này hơi cứng, cứ phải miết móng tay mà giết chúng mãi quả là quá buồn tẻ. Vì vậy Tjaden đã dùng dây thép treo một nắp hộp xi đánh giày bên trên ngọn nến đang cháy. Chỉ việc quăng những con rận vào cái chảo tí hon này… chúng sẽ nổ lép bép, và thế là xong đời.

    Chúng tôi ngồi thành vòng tròn, áo sơ mi đặt trên đầu gối, mình để trần trong không khí nóng bức, luôn tay bắt rận. Haie có một loại rận rất mỹ miều: chúng có chữ thập đỏ trên đầu. Bởi thế mà cậu ta khẳng định đã đưa chúng về từ quân y viện ở Thourhout và chúng đã di tản từ chính một vị bác sĩ quân y. Cậu ta còn muốn dùng chỗ mỡ rận tích tụ trong cái nắp bằng thiếc ấy để đánh xi đôi ủng và cười ha hả suốt nửa giờ đồng hồ vì câu chuyện tếu táo này.

    Thế nhưng hôm nay cậu ta đùa chẳng được mấy ai hưởng ứng; vì cả bọn đang rất bận tâm một chuyện khác.

    Tin đồn đã thành sự thực. Himmelstoß đang ở đây. Hắn xuất hiện ngày hôm qua; chúng tôi đã nghe thấy giọng nói quen thuộc của hắn. Nghe nói ở hậu phương hắn đã hành hạ quá đáng mấy cậu tân binh với bài huấn luyện trên cánh đồng mới cày vỡ. Hắn đâu ngờ trong số đó lại có con trai ông quận trưởng. Thế là hắn bị thộp cổ.

    Ở đây hắn sẽ biết thế nào là lễ độ! Đã hàng giờ liền Tjaden cứ ra rả trình bày về mọi khả năng mà cậu ta sẽ đáp trả hắn. Haie trầm ngâm ngắm nghía hai bàn tay hộ pháp của mình, mắt nhấm nháy với tôi. Trận đánh hội đồng Himmelstoß nhừ tử đêm nào là đỉnh cao của cuộc đời Haie; cậu ta kể với tôi là thỉnh thoảng vẫn nằm mơ thấy cái vụ đó.

    Kropp và Müller đang gẫu chuyện với nhau. Kropp là người duy nhất xoay được một cà mèn đậu hầm, có lẽ từ bên bếp công binh. Müller thèm thuồng liếc nhìn, nhưng tự kiềm chế được và hỏi: “Albert, cậu sẽ làm gì, nếu bây giờ bỗng nhiên hòa bình được lập lại?”

    “Làm gì có hòa bình!” Albert nói gọn lỏn.

    “Đành thế, nhưng nếu…” Müller khăng khăng, “thì cậu sẽ làm gì hả?”

    “Tếch ngay về nhà,” Kropp càu nhàu.

    “Cái đó thì rõ. Nhưng rồi sao?”

    “Tớ sẽ nốc rượu say,” Albert đáp.

    “Đừng nói vớ vẩn nữa, tớ hỏi nghiêm chỉnh đấy…”

    “Thì tớ cũng nghiêm chỉnh mà,” Albert nói, “chứ còn biết làm cái gì khác nữa.”

    Kat quan tâm đến câu hỏi này. Anh đòi Kropp cống nạp một suất đậu hầm và nhận được ngay, đoạn anh suy nghĩ rất lung và nói: “Nốc rượu say thì cũng được, nhưng nếu không thế thì chạy ngay tới nhà ga gần nhất… và phi thẳng về với mẹ. Mẹ kiếp, hòa bình, Albert…”

    Anh lục tìm trong cái ví bằng vải sơn một tấm ảnh và kiêu hãnh giơ cho mọi người xem: “Bà già nhà tớ đấy!” Đoạn anh cất tấm ảnh đi và rủa: “Cuộc chiến tranh chấy rận khốn kiếp này…”

    “Anh nói thì dễ,” tôi góp chuyện, “anh còn có vợ con.”

    “Đúng vậy,” Kat gật đầu, “tớ phải lo kiếm cái ăn cho vợ con.”

    Chúng tôi cười, “Anh sẽ chẳng thiếu thốn thứ gì đâu, Kat, mà nếu thiếu thì anh chỉ việc trổ tài trưng dụng của mình.”

    Müller đang đói và vẫn chưa chịu hài lòng. Cậu ta lôi Haie Westhus ra khỏi những giấc mơ đấm đá.

    “Haie, cậu sẽ làm gì, nếu bây giờ bỗng nhiên hòa bình được lập lại?”

    “Cậu ta sẽ đá toét đít cậu, về cái tội dám khơi mào một chuyện như thế ở đây,” tôi nói. “Sao bỗng dưng lại hỏi vậy hả?”

    “Sao bỗng dưng cứt bò ở trên mái nhà?” Müller trả lời cộc lốc rồi lại quay sang Haie Westhus.

    Câu hỏi xem ra quá khó đối với Haie. Cậu ta lúc lắc cái đầu lấm tấm đầy tàn nhang: “Ý cậu là nếu không còn chiến tranh nữa chứ gì?”

    “Chính xác. Cậu cái gì cũng hiểu mà.”

    “Nếu vậy sẽ lại có đàn bà, đúng không…” hỏi đến đây Haie liếm mép.

    “Có khoản đó nữa.”

    “Bố sư khỉ,” Haie nói, mặt tươi hơn hớn, “thế thì tớ sẽ chộp lấy một cô ả thèm giai người ngợm chắc nình nịch, một kỵ binh xó bếp thứ thiệt, cậu biết không, với phụ kiện trước sau đâu ra đấy cho có chỗ nắm, và a lê hấp lên giường ngay tắp lự! Cậu hãy hình dung những cái giường lót lông chim chính hiệu với những tấm đệm lò xo, các cậu bé ơi, cứ gọi là tám ngày liền tớ không thèm xỏ chân vào quần nhé.”

    Tất cả nín lặng. Bức tranh quá tuyệt vời. Chúng tôi sởn hết da gà. Cuối cùng Müller trấn tĩnh lại và hỏi: “Rồi sao nữa?”

    Ngưng một lúc. Rồi Haie tuyên bố có phần lúng túng: “Nếu tớ là hạ sĩ quan, tớ sẽ ở lại trong quân đội và xong đời.”

    “Haie, cậu đúng là điên thật rồi,” tôi nói.

    Cậu ta hiền hậu hỏi lại: “Cậu đã đào than bùn bao giờ chưa? Thử cái xem.”

    Vừa nói cậu ta vừa rút cái thìa từ trong ủng ra và thò vào cái cà mèn của Albert.

    “Cũng chẳng thể tệ hơn việc đào công sự ở Champagne,” tôi đáp.

    Haie vừa nhai vừa ngoạc miệng cười, “Nhưng nó kéo dài hơn. Mà cậu cũng không thể trốn được.”

    “Nhưng, giời ạ, ở nhà vẫn sướng hơn chứ, Haie.”

    “Nửa đúng, nửa không,” cậu ta nói và chìm vào suy tư đến nỗi há hốc cả mồm. Nhìn nét mặt có thể đọc được ý nghĩ của Haie. Cậu ta đang nghĩ đến một căn nhà nhỏ nghèo rớt đắp bằng bùn, nghĩ đến công việc nặng nhọc từ sáng sớm đến tối mịt trong cái nóng hầm hập nơi đồng hoang, nghĩ đến đồng lương còm cõi, đến bộ quần áo đầy tớ nhem nhuốc…

    “Đi lính thời bình cậu chả phải lo cái quái gì cả,” cậu ta giải thích, “ngày nào cậu cũng có sẵn suất ăn, nếu không cậu la toáng lên, cậu có giường riêng, cứ tám ngày lại được đổi quần áo sạch có kém gì một quý ông lịch thiệp, cậu cứ làm công việc của một hạ sĩ quan là được cung cấp đầy đủ; tối đến cậu là một anh chàng tự do và đi đến quán rượu.”

    Haie cực kỳ dương dương tự đắc về ý tưởng của mình. Cậu ta đang đắm đuối trong nó. “Và nếu cậu phục vụ đủ mười hai năm, cậu sẽ lĩnh thẻ ưu đãi dành cho cựu sĩ quan và trở thành cảnh sát ở thôn quê. Khi đó cậu chỉ có mỗi việc đi rong suốt ngày.”

    Haie nóng toát mồ hôi trước viễn cảnh tương lai. “Cậu thử hình dung xem cậu sẽ được đãi đằng như thế nào. Chỗ này một ly cognac, chỗ kia nửa lít rượu ngon. Ai mà chẳng muốn được yên thân với một viên cảnh sát cơ chớ.”

    “Cậu sẽ chẳng bao giờ thành hạ sĩ quan được đâu, Haie,” Kat xen vào. Haie chưng hửng nhìn Kat và lặng thinh. Hẳn giờ đây cậu ta đang tơ tưởng đến những tối mùa thu trong trẻo, những ngày chủ nhật trên đồng cỏ, những cái chuông trong làng, những chiều và những đêm đùa giỡn cùng các cô gái, những chiếc bánh rán kiều mạch điểm các viên mỡ to bự, những giờ chém gió vô tư nơi quán rượu…

    Bấy nhiêu tưởng tượng đâu dễ nhanh chóng dứt ra được; thành thử cậu ta chỉ cáu kỉnh càu nhàu: “Các cậu lúc nào cũng hỏi vớ hỏi vẩn.”

    Cậu ta chui đầu vào chiếc áo lót và cài cúc bộ quân phục.

    “Còn cậu sẽ làm gì hả, Tjaden?” Kropp réo hỏi.

    Tjaden chỉ biết có mỗi một việc. “Canh chừng không cho Himmelstoß thoát khỏi tay tớ.”

    Hình như cậu ta không mong ước gì hơn là nhốt thằng cha đó vào một cái chuồng để sáng sáng vác gậy tẩn cho hắn một trận. Cậu ta say sưa bảo Kropp: “Nếu là cậu, tớ sẽ cố trở thành trung úy. Khi đó cậu có thể tóm cổ kéo lê hắn cho tới lúc mông đít hắn cháy khét.”

    “Anh thì sao, Detering?” Müller tiếp tục tra khảo. Cậu ta đúng là nhà giáo bẩm sinh với cái kiểu hỏi lục vấn như thế.

    Detering vốn kiệm lời. Nhưng hỏi về vấn đề này thì anh ta trả lời. Anh ta ngước nhìn trời và nói độc một câu: “Tớ sẽ về nhà vừa kịp vụ gặt.” Đoạn đứng dậy bỏ đi.

    Anh ta đang lo lắng. Vợ anh ta phải quán xuyến nông trại. Thế mà bọn họ lại vừa lấy đi của nhà anh ta thêm hai con ngựa. Ngày nào anh ta cũng đọc những tờ báo được đưa đến, chỉ để xem xem ở cái xó quê Oldenburg của anh ra có bị mưa hay không. Nếu mưa sẽ không kịp chở rơm về.

    Đúng lúc đó Himmelstoß xuất hiện. Hắn đi thẳng về phía bọn tôi. Mặt Tjaden đỏ ửng từng đám. Cậu ta nằm dài xuống cỏ và nhắm nghiền mắt lại vì bị kích động.

    Himmelstoß có phần ngập ngừng, bước chân chậm lại. Nhưng rồi hắn vẫn đi về phía chúng tôi. Chẳng thằng nào tỏ một cử chỉ muốn đứng dậy. Kropp chăm chú nhìn thẳng vào hắn.

    Lúc này Himmelstoß đứng trước chúng tôi và chờ đợi. Vì chẳng ai nói gì, hắn buông thõng một câu: “Sao rồi?”

    Mấy giây trôi qua. Có thể thấy Himmelstoß lúng túng không biết nên cư xử thế nào. Điều hắn muốn nhất lúc này là xách cổ kéo lê chúng tôi đi thật nhanh. Tuy nhiên, có vẻ như hắn cũng đã học được rằng mặt trận không phải cái sân doanh trại. Hắn cố thử lần nữa, thôi hướng đến cả bọn mà chỉ nhắm đến một người, hy vọng như vậy sẽ dễ nhận được câu trả lời hơn. Kropp ngồi gần hắn nhất. Vì vậy hắn làm thân với cậu ta: “Sao, cũng ở đây à?”

    Nhưng Albert không phải bạn hắn. Cậu ta đáp gọn lỏn: “Có đôi chút lâu hơn ông đấy, tôi nghĩ vậy.”

    Cặp ria mép hung đỏ run lên. “Dễ thường các cậu không còn biết tôi là ai, hả?”

    Lúc này Tjaden mở mắt ra. “Biết chứ.”

    Himmelstoß quay về phía cậu ta. “Thì ra đây là Tjaden, đúng chứ?”

    Tjaden ngóc đầu dậy. “Vậy mày có biết mày là cái thá gì không?”

    Himmelstoß sửng sốt. “Chúng ta xưng hô mày tao từ bao giờ thế? Chúng ta có cùng nhau rúc dưới cống rãnh bao giờ đâu nhỉ.”

    Hắn tuyệt đối không biết nên làm gì trong hoàn cảnh này. Hắn đâu có chờ đợi một thái độ thù địch trắng trợn đến vậy. Nhưng tạm thời hắn cứ đề phòng; chắc chắn đã có kẻ buôn với hắn câu chuyện hoang đường về những phát súng bắn vào lưng nhau.

    Quá tức giận trước câu hỏi kháy đầy miệt thị về cống rãnh, Tjaden thậm chí trở nên dí dỏm: “Đúng, chỉ mình mày rúc dưới đó thôi mà.”

    Giờ thì Himmelstoß cũng sôi lên sùng sục. Nhưng Tjaden không để hắn kịp mở miệng. Cậu ta phải xổ ra cho bằng hết mới hả dạ. “Mày muốn biết mày là cái thá gì không? Mày là đồ chó lợn đê tiện, mày là thế đấy! Đã từ lâu tao muốn huỵch toẹt điều đó vào giữa mặt mày.” Sự toại nguyện sau bấy nhiêu tháng ngày nung nấu sáng long lanh trong cặp mắt ti hí của Tjaden, khi cậu ta văng ra cái từ “đồ chó lợn”.

    Cơn thịnh nộ của Himmelstoß lúc này cũng bung luôn. “Mày muốn gì hả đồ chó rác rưởi, đồ ma bùn bẩn thỉu? Đứng dậy, đứng nghiêm khi cấp trên nói!”

    Tjaden phẩy tay độ lượng. “Anh được về tư thế nghỉ, Himmelstoß. Cho lui!”

    Himmelstoß lúc này hiện thân cho quy tắc huấn luyện đang nổi giận đùng đùng. Ngay Hoàng đế cũng không thể bị xúc phạm hơn hắn. Hắn rú lên: “Tjaden, tôi ra lệnh cho anh theo quân lệnh: Đứng lên!”

    “Còn gì nữa?” Tjaden hỏi.

    “Anh có định phục tùng mệnh lệnh của tôi hay không, có hay là không?”

    Tjaden bình thản trả lời và chấm dứt ở đó, không hề biết rằng mình đã viện dẫn một câu nói kinh điển nổi tiếng. Đồng thời cậu ta xoay lưng lại.(*)

    Himmelstoß xồng xộc chạy đi, miệng thét: “Anh sẽ ra tòa án binh!”

    Chúng tôi nhìn hắn chạy khuất về phía văn phòng. Haie và Tjaden phá lên cười ha hả, tiếng cười vang hết cỡ của đám thợ than bùn. Haie cười đến sái cả quai hàm, đột nhiên đứng đó há mồm bất lực. Albert phải quại cho một đấm, khớp hàm mới về lại đúng chỗ.

    Kat lo lắng. “Nếu hắn kiện cậu, sẽ mệt đấy.”

    “Anh cho rằng hắn sẽ kiện sao?” Tjaden hỏi.

    “Nhất định rồi,” tôi nói.

    “Ít nhất cậu cũng sẽ bị giam năm ngày,” Kat tuyên bố.

    (*) Ám chỉ câu nói của hiệp sĩ đánh thuê Götz, một nhân vật lịch sử nổi tiếng trong vở kịch Götz von Berlichingen (Götz bàn tay sắt) của Johann Wolfgang von Goethe (1749 - 1832). Khi bị bao vây và kêu gọi đầu hàng, Götz đã tuyên bố: “Er kann mich im Arsche lecken!” (tạm dịch: “Liếm đít ông thì có!”). (Đông A - Đ.A)

    Điều đó chẳng làm Tjaden nao núng. “Năm ngày trong nhà giam là năm ngày được nghỉ ngơi.”

    “Thế nếu cậu phải lên thành lũy thì sao?” Müller, vốn luôn suy nghĩ cặn kẽ hơn người, căn vặn.

    “Thì đối với tớ xem như trong bấy nhiêu ngày không có chiến tranh.”

    Tjaden là một đứa trẻ may mắn. Cậu ta không biết thế nào là lo lắng. Cậu ta bỏ đi cùng Haie và Leer, để không ai thấy cậu ta bắt đầu bực mình.

    Müller vẫn cứ chưa chịu thôi. Cậu ta lại túm lấy Kropp mà vặn vẹo: “Albert, giả sử bây giờ cậu được về nhà thật, thì cậu sẽ làm gì hả?”

    Lúc này Kropp đã no bụng và vì vậy dễ dãi hơn. “Nếu giờ về thì lớp bọn mình sẽ còn lại bao nhiêu thằng nhỉ?” Cả bọn tính: lớp có hai mươi thằng thì bảy thằng đã chết, hai thằng bị thương, một đang trong nhà thương điên. Như vậy giỏi lắm còn mười hai thằng quay lại trường.

    “Trong đó có ba trung úy,” Müller nói. “Cậu có tin là bọn họ sẽ chịu để cho lão Kantorek rầy la nữa không?”

    “Bọn mình không tin; bọn mình cũng sẽ không đời nào để bị rầy la nữa.”

    “Em nghĩ gì về ba lần hành động trong tác phẩm Wilhelm Tell?” Kropp bỗng hồi tưởng lại và phá lên cười.

    “Nhóm văn chương Göttinger Hainbund có những mục tiêu gì?” Müller cũng đột nhiên hỏi rất nghiêm khắc.

    “Karl Dũng Cảm có bao nhiêu người con?” tôi bình thản vặn lại.

    “Rồi anh vào đời sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu, anh Bäumer,” Müller quàng quạc.

    “Trận Zama xảy ra khi nào?” Kropp muốn biết.

    “Anh thiếu sự nghiêm túc về phẩm cách, Kropp, cho anh ngồi xuống, điểm ba trừ…” tôi phẩy tay.

    “Những chức năng nào được Lykurgus cho là quan trọng bậc nhất đối với nhà nước?” Müller thì thào hỏi và làm bộ đẩy cái kính kẹp mũi lên.

    “Phải chăng: ‘Chúng ta những người Đức sợ Chúa trời, ngoài ra không sợ bất kỳ ai trên thế gian’ hay là ‘Chúng ta những người Đức…’?” tôi gợi ý để cùng suy nghĩ.

    “Dân số của Melbourne là bao nhiêu?” đáp lại, Müller lại líu lo.

    “Anh định trụ vững trong cuộc đời thế nào đây, nếu đến điều đó anh cũng không biết?” tôi phẫn nộ nạt Albert.

    “Sự cố kết nghĩa là gì?” Albert đắc thắng lên giọng.

    Trong toàn bộ cái mớ tạp nham ấy chúng tôi chẳng còn nhớ được mấy tí. Nó cũng chẳng giúp ích gì cho chúng tôi. Nhưng ở trường không ai dạy cho chúng tôi cách châm điếu thuốc khi trời mưa bão, cách đốt lên đống lửa từ gỗ ướt… hoặc dạy rằng tốt nhất là đâm lưỡi lê vào bụng đối phương, bởi lưỡi lê sẽ không bị kẹt lại như đâm vào xương sườn.

    Müller trầm ngâm nói: “Ích gì đâu. Vậy mà bọn mình sẽ phải trở lại ghế nhà trường.”

    Tôi cho rằng không có chuyện đó. “Biết đâu bọn mình sẽ được thi một kỳ thi riêng.”

    “Thì cậu vẫn cần có sự chuẩn bị chứ. Mà dù cậu thi đỗ đi nữa, rồi sẽ thế nào hả? Làm sinh viên cũng chẳng khá hơn là mấy. Nếu không có tiền, cậu vẫn phải cày như trâu.”

    “Có khá hơn chút đấy. Nhưng dù gì thì họ vẫn sẽ rót vào đầu cậu rặt những thứ vớ vẩn thế thôi.”

    Kropp nói trúng tâm trạng của cả bọn. “Làm sao có thể coi trọng nổi mấy thứ đó, một khi đã từng chinh chiến ngoài mặt trận.”

    “Nhưng cậu vẫn phải có một cái nghề,” Müller phản đối, cứ như thể cậu ta là lão Kantorek.

    Albert dùng dao chuốt móng tay. Chúng tôi ngạc nhiên về thói thời thượng này. Nhưng chẳng qua đó là cậu ta đang mải nghĩ ngợi. Cậu ta gạt con dao sang bên và tuyên bố: “Chính là thế đấy. Kat, Detering và Haie sẽ trở về nghề cũ, vì trước kia họ đã từng làm việc. Himmelstoß cũng vậy. Bọn mình thì chưa có nghề ngỗng gì cả. Sau cái trò này,” cậu ta hất đầu về phía mặt trận, “làm sao bọn mình có thể làm quen với một cái nghề được đây?”

    “Ta phải là người được hưởng lợi tức, thế là có thể sống hoàn toàn một mình trong rừng…” tôi nói, nhưng lập tức thấy xấu hổ vì ảo tưởng điên rồ này.

    “Sẽ thế nào đây nếu bọn mình trở về nhà?” Müller nói, chính cậu ta cũng hoang mang.

    Kropp nhún vai. “Tớ không biết. Cứ về cái đã, rồi đâu sẽ có đó.”

    Thật ra tất cả chúng tôi đều bối rối. “Bọn mình có thể làm gì được nhỉ?” tôi hỏi.

    “Tớ chẳng thiết gì cả,” Kropp mệt mỏi đáp. “Đằng nào một ngày nào đó cậu cũng sẽ chết, thế thì lo trước làm gì? Tớ không tin bọn mình sẽ trở về nhà.”

    “Hễ suy nghĩ về điều này, Albert à,” lát sau tôi nói và trở mình nằm ngửa ra, “tớ chỉ muốn làm một cái gì đó thật phi thường khi nghe hai chữ hòa bình và khi hòa bình đến thực sự, ý nghĩ này ám ảnh trong đầu tớ. Một cái gì đó, cậu hiểu không, cho bõ những tháng ngày mình đã nằm trong cái đống xui xẻo ở đây. Mỗi tội tớ không tài nào nghĩ ra được cái gì. Những thứ mà tớ thấy là khả dĩ - tất cả nhũng chuyện nghề ngỗng, học hành, lương lậu và vân vân… chỉ khiến tớ buồn nôn, vì chúng vốn vẫn tồn tại xưa nay và quá đáng ghét. Tớ chẳng tìm thấy gì cả… tớ chẳng tìm thấy gì, Albert ạ.”

    Bỗng nhiên tôi cảm thấy tất cả đều vô phương và vô vọng.

    Kropp cũng suy nghĩ về điều này. “Nói chung sẽ khó khăn cho tất cả bọn mình. Chả hiểu cái bọn ở nhà có đôi khi lo nghĩ về chuyện này không nhỉ? Suốt hai năm bắn giết và lựu đạn… sau này đâu dễ trút bỏ nó như lột bỏ một cái bít tất.”

    Chúng tôi cùng nhất trí rằng ai cũng có cái khó như nhau cả, không riêng gì chúng tôi ở đây; mà khắp nơi, với bất kỳ người nào vào cùng hoàn cảnh, hơn kém nhau một chút mà thôi. Đó là số phận chung của thế hệ chung tôi.

    Albeit nói trắng ra: “Chiến tranh đã hủy hoại, biến bọn mình thành lũ vô tích sự.”

    Cậu ta có lý. Chúng tôi đâu còn là lớp trẻ. Chúng tôi không muốn xông vào thế giới này nữa. Chúng tôi là những kẻ chạy trốn. Chạy trốn chính mình. Chạy trốn cuộc đời. Chúng tôi từng ở tuổi mười tám, từng bắt đầu yêu thế giới và yêu cuộc đời; vậy mà chúng tôi đã phải bắn vào nó. Quả tạc đạn đầu tiên nổ đã rơi trúng trái tim chúng tôi. Chúng tôi đã bị khóa kín trước hành động, nỗ lực và tiến bộ. Chúng tôi không còn tin vào mấy thứ đó; chúng tôi tin vào chiến tranh.

    Văn phòng chộn rộn lên. Có vẻ như Himmelstoß đã đánh động ở đó. Dẫn đầu là ông thượng sĩ béo phục phịch. Kỳ cục là hầu hết những tay thượng sĩ ăn lương ngân sách đều to béo.

    Theo chân ông ta là Himmelstoß đang khao khát trả thù. Đôi ủng của hắn bóng lộn dưới ánh mặt trời.

    Chúng tôi đứng dậy. Ông thượng sĩ phì phò hỏi:

    “Tjaden đâu rồi?”

    Tất nhiên không ai biết. Himmelstoß mắt nảy lửa giận dữ nhìn chúng tôi. “Nhất định các anh biết. Có điều không chịu nói ra. Nói mau.”

    Ông thượng sĩ ngó quanh tìm kiếm; không thấy bóng dáng Tjaden đâu cả. Ông ta bèn thử cách khác. “Nội trong mười phút nữa Tjaden phải lên trình diện tại văn phòng.” Đoạn ông ta quay gót, Himmelstoß bám theo.

    “Tớ có linh cảm trong đợt làm công sự tới tớ sẽ đánh rơi một cuộn dây thép gai vào chân Himmelstoß,” Kropp đoán.

    “Bọn mình sẽ còn nhiều trò vui với hắn,” Müller cười. Lúc này tham vọng của chúng tôi là cho thằng cha bưu tá này sáng mắt ra…

    Tôi về khu lán trại báo cho Tjaden biết để cậu ta biến đi. Sau đó chúng tôi đổi sang chỗ khác và lại ngồi xuống để chơi bài. Vì chúng tôi thạo mấy món: chơi bài, văng tục và đánh trận. Chẳng là bao đối với tuổi hai mươi, mà cũng quá nhiều đối với tuổi hai mươi.

    Nửa giờ sau Himmelstoß lại dẫn xác đến. Chẳng ai thèm để ý đến hắn. Hắn hỏi Tjaden đâu. Cả bọn nhún vai.

    “Bọn mày phải đi tìm nó chứ,” hắn khăng khăng.

    “Ai là bọn mày?” Kropp vặn.

    “Thì bọn mày đang ngồi đây thôi…”

    “Tôi muốn yêu cầu ông xưng hô lịch sự với chúng tôi,” Kropp nghiêm giọng như một ngài đại tá.

    Himmelstoß như rớt từ trên mây xuống. “Ai xưng hô không lịch sự với các cậu?”

    “Ông.”

    “Tôi ư?”

    “Phải!”

    Hắn vắt óc suy nghĩ. Hắn nghi ngại liếc Kropp, vì hắn không hiểu Kropp định nói gì. Dù sao ở điểm này hắn không hoàn toàn tự tin, và hắn dịu giọng hơn với chúng tôi. “Các cậu không tìm thấy cậu ta à?”

    Kropp nằm dài ra bãi cỏ và nói: “Ông đã ở ngoài mặt trận bao giờ chưa?”

    “Điều đó chẳng liên quan gì đến anh,” Himmelstoß quả quyết. “Tôi yêu cầu có câu trả lời.”

    “Được thôi,” Kropp đáp và đứng dậy. “Ông hãy nhìn về phía có những đám mây nho nhỏ kia đi. Khói đạn cao xạ đấy. Hôm qua bọn tôi vừa ở đó. Năm người chết, tám người bị thương. Thật là vui đáo để. Nếu lần sau ông cùng ra trận, các đồng đội trước khi chết sẽ phải bước đến trước mặt ông, rập chân đứng nghiêm và xin phép theo đúng luật nhà binh: Xin cho phép được giải tán! Xin cho phép được chầu Diêm vương! Ở đây chúng tôi đang đợi chính những hạng người như ông đấy.”

    Cậu ta lại ngồi xuống, còn Himmelstoß thì vụt biến như một ngôi sao chổi.

    “Ba ngày phạt giam,” Kat phỏng đoán.

    “Lần sau để tớ khai hỏa,” tôi bảo Albert.

    Nhưng sự việc dừng ở đó. Thay vào đấy, tối đến diễn ra một cuộc thẩm vấn vào lúc điểm danh. Viên trung úy Bertinck của chúng tôi ngồi trong văn phòng đại diện lần lượt cho gọi từng người vào xét hỏi.

    Tôi cũng phải xuất hiện với tư cách nhân chứng và trình bày rõ tại sao Tjaden lại nổi loạn như vậy. Chuyện hai anh chàng đái dầm gây ấn tượng mạnh. Himmelstoß được đưa vào và tôi nhắc lại những điều đã khai báo.

    “Có đúng vậy không?” Bertinck hỏi Himmelstoß.

    Hắn quanh co một hồi, nhưng cuối cùng phải thừa nhận khi Kropp cũng trình bày đúng như tôi.

    “Tại sao hồi đó không thấy ai báo cáo việc nãy?” Bertinck hỏi.

    Chúng tôi nín lặng; chính ông ta phải tự biết, trong quân đội kêu ca phàn nàn những chuyên vụn vặt như thế này chả đi đến đâu. Mà nói chung trong quân đội có quyền kêu ca phàn nàn hay không chứ? Hẳn trung úy cũng đã nhìn ra và trước hết quở trách Himmelstoß, ông ta một lần nữa nhấn mạnh cho hắn rõ mặt trận không phải sân tập trong trại lính. Rồi đến lượt Tjaden bị binh phạt nặng nề hơn, cậu ta lĩnh một bài giáo huấn và ba ngày giam lỏng. Trung úy nháy mắt với Kropp khi đọc lệnh phạt giam cậu ta một ngày.

    “Chẳng còn cách nào khác,” ông ta lấy làm tiếc bảo cậu ấy. Thật là một con người biết điều.

    Giam lỏng dễ chịu mà. Buồng giam là khu chuồng ga cũ; ở đấy hai thằng có thể đón tiếp bạn bè ghé thăm, bọn tôi đã định bụng thế nào cũng mò tới đó. Phạt giam nặng thì đã bị tống xuống tầng hầm. Trước kia chúng tôi còn bị trói vào gốc cây nữa kia, nhưng bây giờ hình phạt đó đã bị cấm. Đôi khi chúng tôi đã được đối xử như những con người.

    Một giờ sau khi Tjaden và Kropp phải ngồi sau hàng rào dây thép gai, chúng tôi đánh đường tìm sang thăm. Tjaden gáy như gà đón chào chúng tôi. Rồi cả bọn chơi bài Skat đến khuya, cố nhiên Tjaden thắng đậm, cái thằng bịp bợm xuẩn ngốc ấy.

    Khi chúng tôi ra về, Kat hỏi tôi: “Cậu nghĩ sao về món ngỗng quay hả?”

    “Không tệ,” tôi nói.

    Chúng tôi bèn leo lên đoàn xe chở đạn. Lộ phí là hai điếu thuốc lá. Kat đã ghi nhớ chính xác nơi cần đến. Chuồng gia súc thuộc về một ban tham mưu trung đoàn. Tôi quyết định đi bắt ngỗng và lắng nghe mọi lời dặn dò. Chuồng nằm sau bức tường rào, cửa chỉ cài bằng mỗi cái then ngang.

    Kat đan hai bàn tay vào nhau rồi ngửa ra cho tôi làm bàn đạp, tôi đặt chân lên đó trèo qua tường. Trong khi ấy Kat đứng ngoài canh chừng.

    Tôi đứng lại vài phút cho mắt quen với bóng tối. Rồi tôi nhận ra cái chuồng gia súc. Tôi nhẹ nhàng lẻn vào, lần sờ tìm cái then ngang, kéo nó ra và mở cửa.

    Tôi nhìn rõ hai đám trăng trắng. Hai con ngỗng thì gay to rồi: bắt con này, con kia sẽ quàng quạc lên. Vậy phải bắt cả hai… nếu tôi nhanh tay thì sẽ ổn.

    Tôi nhảy phắt vào, tóm ngay được một con, loáng sau thêm con thứ hai. Tôi quật đầu chúng như điên vào tường để chúng bị choáng. Nhưng có vẻ như tôi quật chưa đủ mạnh. Hai con quỹ giãy giụa, đạp chân đập cánh loạn xạ. Tôi chiến đấu quyết liệt, nhưng trời đất quỷ thần ơi, cái giống ngỗng mới khỏe làm sao chứ! Chúng co kéo làm tôi hết chao sang phải lại đảo sang trái. Trong bóng tối, cái đám giẻ lau màu trắng này thật gớm ghiếc, hai cẳng tay tôi như mọc cánh, tôi suýt phát hoảng, sợ mình sẽ bay bổng lên trời, như thể tứ chi tôi đều buộc những quả khinh khí cầu.

    Rồi tiếng động bắt đầu nổi lên; một trong hai cái cổ ngỗng đã kịp lấy hơi và kêu quàng quạc như chiếc đồng hồ báo thức. Tôi còn chưa kịp trở tay thì một vật gì từ bên ngoài lao vào, tôi bị húc mạnh ngã lăn ra đất, rồi nghe tiếng gầm gừ giận dữ. Thì ra một con chó.

    Tôi liếc nhìn sang bên; nó đang há mõm nhằm vào cổ tôi. Tôi lập tức nằm im re, quan trọng nhất là cằm rụt vào sát cổ áo.

    Đó là một con chó giống Đức. Sau một hồi lâu tưởng chừng vô tận, nó rụt đầu về và ngồi xuống cạnh tôi. Nhưng hễ tôi thử cử động là nó lại gầm gừ. Tôi suy tính. Điều duy nhất tôi có thể làm là tìm cách rút được khẩu súng lục nhỏ ra. Đằng nào tôi cũng phải biến khỏi đây trước khi người ta kéo đến. Từ từ từng xen ti mét, tôi nhích dần bàn tay về phía khẩu súng.

    Tôi có cảm giác việc này kéo dài đến hàng giờ. Mỗi cử động nhỏ là một tiếng gừ dọa dẫm của con chó; lại nằm yên và lại thử tiếp. Khi nắm được khẩu súng, bàn tay tôi bắt đầu run lên. Tôi ép bàn tay xuống đất và suy nghĩ rành mạch: chĩa súng lên, bắn trước khi con chó có thể nhận ra, và vọt luôn.

    Tôi từ tốn hít thật sâu và trở nên bình tĩnh hơn. Rồi nín thở, nhanh tay chĩa súng lên, đạn nổ, con chó tru một tiếng, ngã vật sang bên; tôi chạy ra tới cửa chuồng, vấp phải một trong hai con ngỗng vừa bỏ trốn.

    Tôi vừa chạy vừa nhanh tay chộp lấy một con, quăng nó một phát bay qua tường, rồi cũng trèo lên. Chưa kịp leo qua bên kia thì con chó cũng đã tỉnh lại và chồm theo tôi. Tôi nhắm mắt nhảy đại xuống. Kat tay ôm con ngỗng đứng trước tôi mười bước chân. Anh vừa trông thấy tôi là cả hai cắm đầu chạy.

    Cuối cùng chúng tôi cũng có thể nghỉ lấy hơi. Con ngỗng đã chết, Kat kết liễu nó trong giây lát. Chúng tôi muốn quay nó ngay để không ai hay biết gì. Tôi về lán lấy mấy cái liễn và củi, rồi chúng tôi bò vào một căn nhà nhỏ tồi tàn bỏ hoang mà chúng tôi sử dụng cho những việc như thế này. Ô cửa sổ duy nhất của căn nhà được che kín mít. Một thứ na ná bếp lò có sẵn ở đây, một tấm sắt kê trên mấy viên gạch. Chúng tôi nhóm bếp.

    Kat vặt lông và mổ thịt con ngỗng. Lông ngỗng được chúng tôi cẩn thận xếp sang bên. Chúng tôi định bụng làm hai chiếc gối lông ngỗng nhỏ ghi dòng chữ: “Hãy ngủ êm trong lửa đạn!”

    Hỏa lực của pháo binh vang rền quanh nơi trú ẩn của chúng tôi. Ánh lửa bếp hắt chập chờn lên mặt chúng tôi, những cái bóng nhảy múa trên tường. Đôi lúc một tiếng nổ inh tai khiến căn nhà nhỏ rung lên. Đó là những quả bom do máy bay ném xuống. Một lần chúng tôi nghe những tiếng kêu nén lại. Hẳn một lán trú quân đã bị trúng bom. Máy bay lượn ù ù, tiếng tạch tạch của súng máy vang to. Nhưng từ chỗ chúng tôi không lọt ra tí ánh sáng nào để bên ngoài có thể trông thấy.

    Trong tình cảnh ấy, Kat và tôi, hai thằng lính trong những bộ quân phục sờn rách, ngồi đối diện nhau quay ngỗng giữa đêm khuya. Chúng tôi không nói nhiều, nhưng dịu dàng quan tâm săn sóc nhau theo tôi nghĩ còn hơn cả những cặp tình nhân. Chúng tôi là hai con người, hai tia lửa sống nhỏ nhoi, bên ngoài là đêm đen và vòng vây của thần chết. Chúng tôi ngồi ngay bên rìa của chúng, bị đe dọa và được che chở, mỡ chảy ròng trên đôi tay: chúng tôi gần gũi nhau với tất cả trái tim, và giờ phút này cũng như không gian này phủ đầy những tia lấp lánh của ngọn lửa dịu dàng, nơi ánh sáng và bóng tối của cảm xúc chao qua lượn lại. Anh biết gì về tôi… tôi biết gì về anh, trước kia hẳn không một ý nghĩ nào của chúng tôi giống nhau… giờ đây chúng tôi ngồi trước một con ngỗng và cảm nhận cuộc đời mình, thấy mình gần gũi nhau tới mức không muốn nói về điều đó.

    Quay một con ngỗng kéo dài khá lâu, cho dù ngỗng vừa non vừa béo. Chúng tôi đành thay phiên nhau. Người này ngồi rưới mỡ vào con ngỗng, trong khi người kia ngủ. Một mùi thơm nức mũi từ từ lan ra.

    Những tiếng động bên ngoài trở thành một dải băng, một giấc mơ, nhưng trong đó ký ức không hoàn toàn biến mất. Trong mơ màng nửa thức nửa ngủ, tôi thấy Kat cầm cái thìa giơ lên hạ xuống; tôi yêu Kat, yêu đôi vai, yêu cái dáng người cúi xuống đầy góc cạnh của anh… cùng lúc đó tối thấy phía sau Kat những cánh rừng và những ngôi sao, và một giọng nói hiền từ nói những lời vỗ về an ủi tôi, cái anh lính bé nhỏ với đôi ủng lớn, với thắt lưng và túi đựng quân lương, đi theo con đường trước mặt dưới bầu trời cao rộng, anh ta rất nhanh quên, hiếm khi còn biết đến cảm giác buồn, và cứ mải miết bước tới dưới trời đêm mênh mông.

    Một anh lính bé nhỏ và một giọng nói hiền từ, và nếu ai đó vuốt ve anh ta, có lẽ anh ta sẽ không sao hiểu nổi, anh lính với đôi ủng lớn và trái tim bị lấp kín, anh ta bước tới, bởi anh ta đi ủng và đã quên tất cả ngoài việc bước tới. Chẳng phải chân trời đằng kia đang có những bông hoa và một phong cảnh rất đỗi êm đềm khiến anh ta, người lính ấy, muốn rơi nước mắt hay sao? Chẳng phải đằng kia là những hình ảnh rạo rực mà anh ta đã không để mất bởi anh ta chưa từng sở hữu chúng, nhưng đối với anh ta đằng nào chúng cũng đã qua rồi? Chẳng phải đằng kia là hai mươi năm tuổi đời của anh ta sao?

    Mặt tôi bị ướt chăng, mà tôi ở đâu thế này? Kat đang đứng trước tôi, cái bóng to lớn cúi xuống của anh phủ xuống tôi ấm áp như quê hương. Anh nói gì khe khẽ, mỉm cười và quay lại bên bếp lửa.

    Rồi anh bảo: “Xong rồi đấy.”

    “Vâng, anh Kat.”

    Tôi cựa quậy. Con ngỗng quay màu nâu vàng sáng lên giữa căn nhà. Chúng tôi lôi ra những chiếc nĩa có thể gập gọn và những con dao bỏ túi của mình và xẻ cho mỗi đứa một đùi. Chúng tôi ăn kèm với bánh mì lính chấm nước sốt. Chúng tôi ăn thong thả, đầy thưởng thức.

    “Ngon không anh Kat?”

    “Ngon! Còn cậu?”

    “Ngon lắm, anh Kat.”

    Chúng tôi là anh em, cứ đùn đẩy nhường nhau những miếng ngon nhất. Sau đó tôi hút một điếu thuốc lá, còn Kat hút xì gà. Thịt ngỗng quay còn thừa nhiều.

    “Hay bọn mình mang cho Kropp và Tjaden một phần, được không anh Kat?”

    “Được thôi,” anh nói. Chúng tôi xẻ một phần thịt ngỗng và gói cẩn thận vào giấy báo. Chỗ còn lại thực ra chúng tôi định mang về lán, nhưng Kat cười và chỉ nói gọn lỏn: “Tjaden.”

    Tôi hiểu ra, chúng tôi phải cầm theo hết. Thế là chúng tôi lên đường đến khu chuồng gà để đánh thức hai thằng kia. Ban nãy chúng tôi còn nhớ gói ghém cả chỗ lông ngỗng. Kropp và Tjaden trố mắt, ngỡ chúng tôi là ảo ảnh. Rồi hai hàm răng của chúng bắt đầu nhai nghiến ngấu. Hai tay Tjaden cầm cái cánh ngỗng đưa lên mồm gặm như thổi kèn harmonica. Cậu ta húp sùm sụp mỡ trong liễn và chép miệng: “Mình sẽ không đời nào quên ơn anh em!”

    Chúng tôi quay về lán trú quân. Lại bầu trời cao rộng với những ngôi sao lúc vừa tang tảng sáng, và tôi bước đi dưới bầu trời ấy, một anh lính với đôi ủng to và cái bụng no căng, một anh lính bé nhỏ trong buổi tinh mơ… nhưng bên cạnh tôi: người khom khom, gầy gò, là Kat, bạn của tôi.

    Trong ánh sáng nhập nhoạng lúc rạng đông, những đường viền của lán trú quân tiến dần về phía chúng tôi như một giấc ngủ ngon đen tuyền.
     
  8. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    VI

    Người ta đang xì xầm về một cuộc tấn công. Chúng tôi ra mặt trận sớm hơn bình thường hai ngày. Trên đường, chúng tôi đi qua một ngôi trường bị bắn phá tan nát. Dọc bên sườn của ngôi trường, những cỗ quan tài mới tinh, sáng màu, chưa được đánh bóng, xếp chồng lên nhau thành một bức tường rào thứ hai cao chất ngất. Chúng vẫn thơm mùi nhựa thông, gỗ thông và mùi rừng. Ít nhất cũng phải một trăm cỗ quan tài.

    “Người ta lo xa, chuẩn bị cho cuộc tấn công chu đáo thế chứ,” Müller sửng sốt nói.

    “Dành cho bọn mình đấy,” Detering làu bàu.

    “Đừng ăn nói bậy bạ!” Kat gắt.

    “Còn có nổi một cỗ áo quan đã mừng,” Tjaden nhăn nhở cười, “cái loại bia đỡ đạn như anh thì họ chỉ quăng cho miếng vải bạt thôi, để mà xem!”

    Những đứa khác cũng bông đùa, những câu bông đùa bất an, không thoải mái, chẳng vui nổ trời như mọi khi… Quả thật những cỗ quan tài ấy là dành cho chúng tôi. Trong những việc như thế này người ta tổ chức rất chuẩn.

    Khắp nơi phía trước chúng tôi sôi sùng sục. Đêm đầu tiên chúng tôi thử nghe ngóng để định hướng. Vì khá yên tĩnh nên chúng tôi có thể nghe tiếng xe tải chạy không ngưng nghỉ phía sau trận tuyến địch cho tới tận tảng sáng. Kat nói không phải chúng rút quân, mà chở thêm quân lính, đạn dược và súng ống đến.

    Pháo binh quân Anh được tăng viện, chúng tôi nghe là biết liền. Bên phải khu nông trại tăng thêm ít nhất bốn khẩu đội loại hai mươi li rưỡi nữa, và sau gốc bạch dương cụt chúng lắp đặt những khẩu súng cối. Ngoài ra còn vô số thứ súng nhỏ tai quái bắn hỏa tiễn kích hỏa của quân Pháp được đưa đến.

    Chúng tôi đang ở trong bầu không khí nặng nề. Hai giờ sau khi chúng tôi nấp dưới hầm thì chính pháo bính quân mình lại nã đạn xuống chiến hào của chúng tôi. Đây là lần thứ ba trong vòng bốn tuần lễ.

    Giá như đó chỉ là tính sai mục tiêu thì chẳng ai nói gì, đằng này lại do các nòng pháo mòn quá; thành thử chúng vãi đạn tán loạn đến tận khu vực của chúng tôi, các đường đạn thường xuyên trở nên chuệch choạc như vậy. Vì thế mà đêm nay chúng tôi có hai người bị thương.

    Mặt trận là một cái lồng mà người ta phải ngồi trong ấy bồn chồn chờ đợi điều gì sẽ xảy ra. Chúng tôi nằm dưới tấm lưới đường đạn trái phá đan trên nền trời và chúng tôi sống trong nỗi căng thẳng của sự bấp bênh. May rủi bay lượn trên đầu chúng tôi. Khi một quả đạn bắn tới, tôi có thể cúi xuống né, tất cả chỉ có vậy; còn quả đạn sẽ rơi vào đâu thì tôi không thể biết chính xác, cũng không thể tác động gì. Chính sự may rủi này đã làm chúng tôi thản nhiên. Cách đây vài tháng tôi ngồi trong một hầm trú ẩn đánh bài Skat; lát sau tôi đứng dậy đi sang hầm khác thăm mấy anh em quen. Khi tôi quay lại không còn thấy căn hầm thứ nhất đâu nữa, nó đã bị một quả đại bác hạng nặng nghiền nát. Tôi quay lại căn hầm thứ hai thì cũng vừa kịp tới để giúp đào bới nó lên. Trong lúc tôi bỏ đi, nó đã sập vì trúng pháo.

    Tôi trúng đạn hay sống sót cũng đều do may rủi. Tôi có thể tan xác dưới một căn hầm chống bom, nhưng lại hoàn toàn lành lặn sau mười giờ ròng rã chịu cơn mưa bom bão đạn trên cánh đồng trơ trọi không nơi ẩn nấp. Người lính nào sống sót cũng là nhờ cả ngàn sự may rủi. Nên mọi người lính đều tin tưởng và trông cậy vào may rủi.

    Chúng tôi phải để ý đến bánh mì của mình. Thời gian gần đây, kể từ khi các chiến hào không còn được giữ gìn cẩn thận, lũ chuột cống sinh sôi quá nhiều. Detering quả quyết đó là điềm báo chắc chắn nhất sắp có chuyện chẳng lành.

    Những con chuột cống ở đây đặc biệt kinh tởm, vì chúng rất to. Đây là loài chuột mà người ta vẫn gọi là “chuột xác chết”. Chúng có những cái đầu gớm ghiếc, dữ tợn, trụi lông, và chỉ nhìn những cái đuôi dài ngoẵng, nhẵn thín của chúng người ta cũng đủ phát ốm.

    Chúng có vẻ rất đói ăn. Chúng đã gặm bánh mì của hầu hết mọi người, Kropp đã bọc kỹ bánh của cậu ta trong một miếng vải bạt rồi gối đầu lên, nhưng cậu ta không thể ngủ nổi vì lũ chuột chạy cả lên mặt cậu ta đổ xông đến cái bánh. Detering muốn tỏ ra tinh khôn hơn: anh ta buộc lên trần một sợi dây thép nhỏ rồi treo bánh mì của mình lên đó. Ban đêm, khi anh ta bật đèn pin lên thì thấy sợi dây đang đung đưa. Một con chuột cống béo mầm đang cưỡi lên cái bánh của anh ta.

    Cuối cùng chúng tôi chấm dứt chuyện này. Chúng tôi cẩn thận cắt bỏ những mẩu bánh đã bị chuột gặm, dù thế nào cũng không thể vất bỏ cả cái bánh, vì nếu thế ngày mai chúng tôi sẽ chẳng có gì ăn.

    Chúng tôi vun những mẩu bánh đã cắt bỏ thành đống giữa hầm. Mỗi thằng lôi cái xẻng của mình ra, nằm bò trong tư thế sẵn sàng đập. Detering, Kropp và Kat lăm lăm những chiếc đèn pin trong tay.

    Vài phút sau chúng tôi nghe thấy những tiếng chân chuột sột soạt đầu tiên. Tiếng động to dần, lúc này đã có rất nhiều bàn chân nhỏ xíu. Ánh đèn pin chợt sáng lóa lên và tất cả nện thẳng vào cái đám đen kịt chạy tóe ra trong tiếng kêu chí chóe. Kết quả tốt. Chúng tôi lấy xẻng hốt những mảnh xác chuột hất qua bờ chiến hào, rồi lại nằm xuống rình tiếp.

    Chúng tôi còn đập chuột thành công thêm vài lần. Sau đó lũ chuột nhận thấy cái gì đó hoặc đã ngửi thấy mùi máu. Chúng không đến nữa. Dẫu vậy, đến sáng hôm sau chỗ bánh còn sót trên mặt đất đã bị chúng tha bằng sạch.

    Trong khu vực bên cạnh, lũ chuột đã tấn công, cắn chết và gặm thịt hai con mèo to và một con chó.

    Ngày hôm sau có pho mát Edam(*). Mỗi người được lĩnh gần một góc tư tảng pho mát. Điều đó có phần hay, vì pho mát Edam rất ngon… nhưng lại có phần dở, vì cho tới bây giờ đối với chúng tôi những tảng pho mát to tròn bọc giấy đỏ ấy bao giờ cũng báo hiệu sự xui xẻo lớn. Linh cảm của chúng tôi càng tăng khi được chia thêm cả rượu mạnh. Trước mắt có rượu thì cứ uống, nhưng tâm trạng không thoải mái.

    (*) Pho mát tảng nổi tiếng thế giới của Hà Lan, gọi theo tên thành phố Edam, xuất xứ của sản phẩm này.

    Suốt ngày chúng tôi thi nhau bắn chuột và ăn không ngồi rồi, la cà đây đó. Những kho dự trữ đạn và lựu đạn ngày càng đầy ắp. Chúng tôi tự kiểm tra lưỡi lê. Chả là có những lười lê mà cái sống của nó được chế tạo luôn thành một lưỡi cưa. Bọn địch mà tóm được thằng nào mang loại lưỡi lê này thì chúng giết không tha. Người ta đã tìm thấy ở khu chiến hào bên cạnh những đồng đội của chúng tôi bị địch dùng chính những lưỡi lê kiêm lưỡi cưa này cắt mũi, khoét mắt. Rồi chúng còn nhét mạt cưa vào mồm vào mũi họ cho chết ngạt.

    Vài cậu tân binh vẫn được trang bị thứ lưỡi lê giống như vậy; chúng tôi quăng đi và kiếm cho họ những cái khác.

    Tuy nhiên, lưỡi lê đã mất đi ý nghĩa của nó. Bây giờ đôi khi xông lên tấn công chỉ với lựu đạn và cái xẻng trong tay lại là thời thượng. Một cái xẻng được mài sắc là thứ vũ khí nhẹ và lợi hại hơn nhiều, người ta không chỉ có thể cắm phập nó vào yết hầu đối thủ, mà trước hết còn dùng nó để phang những đòn chí mạng; đặc biệt nếu bổ chéo một nhát giữa vai và cổ, có thể dễ dàng chẻ xuống tận ngực. Lưỡi lê khi đâm thường bị mắc kẹt, người lính phải đạp mạnh vào bụng kẻ địch để rút nó ra, khoảnh khắc đó đủ để chính anh ta cũng xơi một nhát. Đấy là chưa kể đôi khi lưỡi lê còn bị gãy.

    Ban đêm, hơi ngạt được xả ra. Chúng tôi đeo xong mặt nạ nằm chờ cuộc tấn công, và sẵn sàng lột mặt nạ khi bóng địch đầu tiên xuất hiện.

    Đến tảng sáng vẫn không có gì xảy ra. Có điều phía bên kia lúc nào cũng ì ầm tiếng bánh lăn như muốn nghiền nát hệ thần kinh, hết đoàn tàu này đến đoàn tàu khác, hết xe tải này đến xe tải kia, chẳng hiểu cái gì đang tập trung lại bên đó?… Pháo binh của chúng tôi liên tục nã đạn sang, nhưng tiếng rậm rịch tàu xe vẫn không chịu ngừng lại, không chịu ngừng lại…

    Mặt mũi chúng tôi phờ phạc, chẳng ai nhìn ai nữa, “Sẽ giống hồi bên sông Somme(*), ở đó, sau màn chuẩn bị tương tự, tụi này đã chịu đựng cơn bão pháo kích ròng rã bảy ngày bảy đêm,” Kat nói với vẻ mặt u ám. Từ khi chúng tôi tới đây, anh hoàn toàn không bông đùa nữa, và điều đó thật tệ, vì Kat là một tay lính chiến kỳ cựu có trực giác nhạy bén. Có mỗi Tjaden là hài lòng với những khẩu phần ngon lành và rượu rum; cậu ta thậm chí cho rằng cả bọn sẽ quay về trong yên ả, sẽ chẳng có quái gì xảy ra sất.

    Mà xem chừng gần đúng như vậy. Ngày lại ngày trôi qua. Đêm đêm tôi ngồi trong hố trực chiến nghe ngóng. Trên đầu tôi các loại hỏa tiễn và đèn dù bay lên rớt xuống. Tôi cẩn trọng và căng thẳng, tim đập thình thịch. Mắt tôi liên tục ngó vào mặt đồng hồ dạ quang, cái kim không chịu nhúc nhích. Cơn buồn ngủ khiến mi mắt tôi trĩu xuống, tôi ngọ nguậy các ngón chân trong ủng, cố giữ tỉnh táo. Chẳng xảy ra chuyện gì cho tới lúc tôi được thay phiên, vẫn chỉ luôn là tiếng tàu xe lăn bánh ì ầm bên kia. Dần dần cả bọn bình tĩnh lại và chơi bài liên tục. Biết đâu chúng tôi gặp may.

    Bầu trời cả ngày kín đặc những quả khinh khí cầu do thám có đầu dây cắm dưới đất. Nghe nói bây giờ quân địch ở đây còn điều cả xe tăng và máy bay của lục qua tham gia tấn công. Nhưng chuyện đó không làm chúng tôi quan tâm bằng những điều người ta kể về các loại súng phun lửa mới.

    (*) Một con sông trên đất Pháp.

    Giữa đêm chúng tôi choàng tỉnh. Mặt đất rền vang. Hỏa lực dữ dội giăng trên đầu chúng tôi. Chúng tôi nép vào các ngóc ngách. Có thể nghe rõ đủ mọi cỡ đạn đang nổ.

    Thằng nào cũng quơ tay sờ các vật dụng của mình, cứ luôn tay kiểm tra xem chúng có còn đấy không. Căn hầm rung bần bật, đêm chỉ còn là sấm ran chớp giật. Dưới ánh lửa đạn lóe lên trong giây lát, chúng tôi nhìn nhau lắc đầu, mặt mũi thằng nào cũng tái nhợt, môi mím chặt.

    Ai cũng cảm nhận rõ những trái phá hạng nặng đang giật phăng lũy chiến hào, đảo tung các ụ đất dày phòng vệ và quất cho tơi tả những tấm bê tông trên cùng. Chúng tôi nhận thấy tiếng nổ rền vang hơn, dữ dội hơn, giống như cú tát của một con thú dữ đang gầm thét, khi đạn pháo rơi trúng chiến hào. Sáng ra, mấy chú lính mới chưa gì đã xanh mét mặt mày và nôn ọe. Họ còn quá ít từng trải.

    Ánh sáng xám nhờ nhờ từ tốn luồn lách một cách đáng ghét vào các căn hầm, khiến cho các tia chớp đạn trở nên nhợt nhạt hơn. Trời đã sáng. Lúc này tiếng mìn rộ lên hòa vào tiếng đạn pháo, gây nên những chấn động điên khùng nhất trên đời. Chúng quét xuống đâu, chỗ đó thành một nấm mồ chung.

    Những tốp đến phiên chui ra khỏi hầm, đám lính trinh sát lảo đảo trở về, người bám đầy bụi đất và run rẩy. Một cậu lẳng lặng chui vào một xó nằm ăn, cậu khác - một lính dự bị - bật khóc rưng rức; cậu ta hai lần bị sức ép đạn pháo hất bay qua thành chiến hào mà không dính thương tích gì ngoài một cú sốc thần kinh.

    Đám tân binh nhìn về phía cậu ta. Gì chứ thứ này lây nhanh lắm, chúng tôi phải chú ý canh chừng, thì đó những cái miệng khác đã bắt đầu nhệch ra run bần bật. May mà trời đã sáng; có thể cuộc tấn công sẽ nổ ra trước buổi trưa.

    Trận pháo kích không hề giảm cường độ. Đạn rền vang cả phía sau chúng tôi. Nhìn về hướng nào cũng thấy những cột đất bùn và sắt thép phụt lên như vòi phun. Một vành đai rất rộng giăng kín đạn lửa.

    Cuộc tấn công không nổ ra, nhưng pháo kích vẫn dai dẳng. Chúng tôi dần điếc đặc. Hầu như chẳng ai nói năng gì nữa. Mà có nói cũng ai nghe được đâu.

    Chiến hào của chúng tôi gần như đã tan tành. Ở nhiều đoạn nó chỉ còn cao chừng nửa thước, chỗ nào cũng đầy những lỗ thủng, hố đạn và những đụn đất to vật vưỡng. Một trái tạc đạn nổ ngay trước hầm của chúng tôi. Lập tức trong hầm tối sầm. Đất đã lấp kín cửa hầm, chúng tôi phải đào bới để khơi thông. Một giờ sau cửa hầm lại mở ra và cả bọn đã phần nào bình tĩnh hơn do mải tập trung vào công việc.

    Viên chỉ huy đại đội bò vào và thông báo có hai căn hầm đã bị đánh bay. Đám lính mới yên tâm khi nhìn thấy ông ta. Ông ta nói chiều tối nay sẽ phải tìm cách đưa đồ ăn đến.

    Nghe rõ là an ủi. Không ai nghĩ tới chuyện ấy, trừ Tjaden. Vậy là lại sắp được nhận tiếp tế từ bên ngoài… mà nếu người ta còn tính đến chuyện đưa đồ ăn tới, tức là tình hình chưa đến nỗi nghiêm trọng, đám tân binh khấp khởi. Chúng tôi không muốn làm họ mất vui, chúng tôi biết thức ăn cũng quan trọng như đạn dược, và chỉ bởi vậy mà người ta phải lo tiếp tế thức ăn.

    Nhưng dự định bất thành. Toán lính thứ hai được cử đi lấy thức ăn phải quay về. Cuối cùng Kat đích thân đi, nhưng ngay anh cũng tay không trở lại. Chẳng ai đi qua nổi. Lưới lửa dày đặc như thế thì không một cái đuôi chó nào đủ nhỏ để lọt qua.

    Chúng tôi thít thắt lưng chặt hơn, và nhai kỹ mỗi miếng ăn gấp ba lần. Vậy mà cũng chẳng ăn thua gì; bụng cứ sôi lên òng ọc vì đói. Tôi cất dành cho mình một khoanh vỏ bánh; tôi moi ruột bánh ăn trước, vỏ bánh cất kỹ trong túi; thỉnh thoảng mới lôi ra nhấm nháp ít một.

    Ban đêm thật không thể chịu nổi. Chúng tôi không tài nào ngủ được, mắt cứ mở chong chong và lơ mơ. Tjaden hối hận vì cả bọn đã phí phạm quăng cho lũ chuột cống những mẩu bánh chúng gặm dở. Đáng lẽ cứ cất giữ lại mới phải. Bây giờ mà bỏ ra thằng nào cũng xơi vội. Chúng tôi cũng thiếu nước uống, nhưng chưa đến nỗi quá tệ.

    Tảng sáng, lúc vẫn còn tối lờ mờ, bỗng náo loạn cả lên. Một đàn chuột cống đang tháo chạy lao vào theo lối cửa hầm, chạy tán loạn lên các bức tường hầm. Những ngọn đèn pin rọi vào đám chuột đang cuống quýt. Ai nấy la thét, chửi rủa, và ra sức đập chúng. Mọi phẫn uất và tuyệt vọng chất chứa từ nhiều giờ đồng hồ lúc này được dịp nổ bung ra. Những bộ mặt cau có, những cánh tay phang thẳng không thương tiếc, lũ chuột kêu choe chóe, chúng tôi thật khó mà dừng tay lại, chỉ thiếu chút nữa thì thằng này phang vào thằng kia.

    Cơn bùng phát khiến cả bọn mệt rũ. Chúng tôi lại nằm và chờ đợi. Quả là một phép lạ khi hầm chúng tôi chưa có ai bị hề hấn gì. Nó cũng là một trong số ít căn hầm sâu vẫn còn trụ lại được.

    Một hạ sĩ quan bò vào hầm; anh ta mang theo một ổ bánh mì. Rốt cuộc cũng có ba người lính may mắn vượt qua được lưới lửa ban đêm lấy về một ít lương thực. Họ kể rằng trận pháo kích không hề giảm cường độ đã tràn đến tận các ụ pháo binh. Đối phương đào đâu ra lắm súng đạn đến vậy quả là một câu đố.

    Chúng tôi cứ phải đợi, đợi mãi. Đến trưa thì xảy ra điều mà tôi vẫn lo ngại. Một cậu trong đám tân binh lên cơn. Tôi đã để ý quan sát cậu ta từ lâu, thấy cậu ta cứ liên tục nghiến răng, hai bàn tay hết nắm chặt lại xòe ra. Chúng tôi biết quá đủ những cặp mắt bị kích động, như chực bật ra khỏi tròng như thế này. Trong những giờ qua, câu ta chỉ có vẻ trầm tĩnh hơn mà thôi. Cậu ta thu mình lại, chìm đắm vào bản thân, như một thân cây mục.

    Lúc này cậu ta nhỏm dậy, kín đáo bò qua hầm, dừng lại giây lát rồi trườn ra phía cửa hầm. Tôi trở mình và hỏi: “Chú mày định đi đâu hả?”

    “Em sẽ quay lại ngay,” cậu ta đáp và định len qua tôi.

    “Hãy đợi đã, đạn pháo sắp ngớt rồi.”

    Cậu ta dỏng tai nghe, cặp mắt sáng lên trong giây lát. Rồi chúng lại phủ một lớp mờ đục như mắt chó dại; cậu ta chẳng nói chẳng rằng gạt tôi ra. “Một phút thôi, anh bạn!” tôi kêu lên. Kat giật mình để ý. Đúng lúc cậu lính đẩy tôi thì Kat chộp lấy cậu ta và chúng tôi giữ cậu ta thật chặt.

    Lập tức cậu lính nổi cơn điên. “Buông tôi ra, để tôi ra ngoài, tôi muốn ra ngoài!”

    Cậu ta không chịu nghe bất cứ điều gì, cứ giãy giụa loạn xạ, mồm miệng đầy rớt dãi cứ phun ra những lời nói nửa chừng, vô nghĩa. Đó là cơn điên do nỗi sợ nằm hầm, người lính có cảm giác sẽ chết ngạt dưới này, và chỉ còn một sự hối thúc bản năng là phải thoát ra. Nếu để cậu ta chạy, cậu ta sẽ chạy bừa đi đâu đó mà không hề ẩn nấp. Cậu ta không phải người đầu tiên mắc chứng này.

    Vì cậu ta rất hung hãn và mắt đã long lên sòng sọc, chúng tôi không còn cách nào khác, đành nện cho cậu ta một trận may mới tỉnh ra được. Chúng tôi ra tay chớp nhoáng, không thương xót, và kết quả là cậu ta tạm thời lại chịu ngồi yên. Những tân binh khác xanh mặt khi chứng kiến cảnh này, hy vọng họ nhìn vào đó mà sợ, đừng như anh bạn kia. Trận pháo kích dữ dội và triền miên vượt quá sức chịu đựng của những gã trai trẻ đáng thương, những kẻ vừa chân ướt chân ráo đến từ trại huấn luyện tân binh đã sa ngay vào cái chảo lửa khiến ngay một người lính dày dạn trận mạc cũng phải tái mào này.

    Sau vụ này, không khí ngột ngạt càng đè nặng lên thần kinh của chúng tôi. Chúng tôi như đang ngồi dưới huyệt mộ của chính mình và chỉ còn chờ bị lấp đất lên. Bỗng có tiếng hú và chớp lóe dị thường, cả căn hầm vặn mình răng rắc vì bị trúng pháo, may phúc là pháo hạng nhẹ, những tấm bê tông vẫn đủ sức chống đỡ. Tiếng loảng xoảng như kim loại va đập nghe kinh khủng, các bức tường hầm lung lay, súng ống, mũ sắt, đất, rác và bụi bay loạn xạ. Khói thuốc pháo tràn vào. Nếu không phải chúng tôi đang trú trong căn hầm vững chắc cỡ này mà đang ngồi dưới một trong những hầm trú ẩn được dựng sơ sài mới đây, thì lúc này chẳng còn mống nào sống sót.

    Nhưng hậu quả cũng đã quá đủ tồi tệ. Cậu lính mới ban nãy lại bắt đầu nổi cơn, và hai cậu nữa hùa theo. Một cậu giằng được ra và chạy mất trong khi chúng tôi còn mải đánh vật với hai cậu kia. Tôi lao theo cậu lính bỏ trốn và nghĩ xem có nên bắn một phát vào giò cậu ta không… có tiếng rít của tạc đạn bay đến, tôi quăng mình nằm bẹp xuống, và khi tôi nhỏm dậy thì thành chiến hào đã phủ đầy những mảnh pháo bỏng rẫy, những mảnh thịt và những mảnh quân phục rách nát. Tôi chui về hầm.

    Cậu tân binh thứ nhất xem ra phát điên thật rồi. Chỉ cần buông cậu ta ra, cậu ta sẽ húc ngay đầu vào tường như một con dê đực. Đến đêm chúng tôi sẽ phải tìm cách đưa cậu ta về hậu tuyến. Tạm thời chúng tôi trói cậu ta lại, nhưng theo cách mà nếu có tấn công là lại cởi trói ra được ngay.

    Kat rủ chơi bài Skat… thì còn làm gì được nữa, biết đâu chơi bài sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Nhưng nào có chơi được, chúng tôi mải lắng tai nghe từng quả đại bác rơi gần đó, đếm nhầm cả bài ăn hoặc ra bài không đúng chất. Đành bỏ không chơi nữa. Cả bọn như ngồi trong một cái nồi với những âm thanh váng óc, vì khắp bốn bề đang bị đập chí chát.

    Lại một đêm nữa. Lúc này chúng tôi đờ đẫn vì căng thẳng. Đó là một sự căng thẳng chết người, nó như một lưỡi dao mẻ nạo dọc tủy sống. Chân cẳng rã rời, tay run lẩy bẩy; thân thể chỉ còn là một lớp da mỏng che đậy một cơn điên đang cố kìm nén, che đậy một tiếng thét bất tận và không thể kìm hãm sắp bung ra đến nơi. Chúng tôi chẳng còn thịt, chẳng còn cơ bắp, chúng tôi thậm chí không còn dám nhìn nhau vì sợ hãi một cái gì đó khôn lường. Thế là chúng tôi mím môi lại… rồi sẽ qua… rồi sẽ qua… biết đâu chúng ta sẽ thoát.

    Bỗng nhiên những quả đạn pháo ngừng nổ gần chúng tôi. Pháo kích vẫn tiếp tục nhưng đã lùi ra xa, chiến hào của chúng tôi đã nằm ngoài tầm bắn. Chúng tôi quơ tay giật lựu đạn, ném về phía trước căn hầm rồi vọt ra ngoài. Hỏa lực dữ dội đã ngừng, nhưng bù lại, một lưới lửa dày đặc chặn phía sau chung tôi.

    Cuộc tấn công đã bắt đầu.

    Sẽ không ai tin nổi trên cái hoang mạc bị đạn pháo xới tung này lại còn có thể có con người; nhưng lúc này đây những chiếc mũ sắt từ các chiến hào nhô lên khắp nơi, và trước chúng tôi chừng năm chục thước, một khẩu súng máy vừa được đặt xuống đã lập tức nổ giòn giã.

    Những chướng ngại vật bằng dây thép gai rách tơi tả. Tuy vậy chúng vẫn ngáng trở được ít nhiều. Chúng tôi thấy bọn lính xung kích đang xông tới. Pháo binh của chúng tôi khạc đạn. Súng máy nổ chát chúa. Súng trường đì đoành. Phía bên kia đang cố tiến lên. Haie và Kropp bắt đầu ném lựu đạn. Họ ném nhanh nhất có thể, những trái lựu đạn đã rút chốt sẵn được chuyển cho họ. Haie ném lựu đạn xa sáu chục thước, Kropp năm chục thước, tầm ném này đã được tập dượt và rất quan trọng. Bọn địch chẳng thể làm gì trong khi chạy, chừng nào chúng chưa tiếp cận được đến khoảng cách ba chục thước.

    Chúng tôi nhận ra những bộ mặt nhăn nhó và những chiếc mũ sắt bèn bẹt, đó là quân Pháp. Chúng đã tới chỗ rào chắn dây thép gai còn sót lại, và đã chịu những tổn thất rõ ràng. Cả một hàng lính bị khẩu súng máy cạnh chúng tôi quật ngã; nhưng sau đó chúng tôi bị hóc súng nhiều lần và quân Pháp tiến lại gần hơn.

    Tôi thấy một thằng trong bọn chúng ngã vào một hàng rào chông, mặt ngẩng cao. Thân mình hắn đổ phịch xuống, hai tay chới với như thể muốn cầu nguyện. Rồi cả tấm thân hắn rơi đâu mất, chỉ còn đôi bàn tay bị bắn rụng cùng với hai cánh tay đứt rời mắc lại trong đám dây thép gai.

    Đúng lúc chúng tôi lùi lại thì có ba cái mặt nhô lên khỏi mặt đất. Dưới một trong ba chiếc mũ sắt hiện ra một chòm râu dê sẫm màu và hai con mắt nhìn tôi chằm chằm. Tôi vung tay lên, nhưng không thể ném lựu đạn vào hai con mắt lạ lùng đó được, trong một khoảnh khắc rồ dại, cả trận đánh quay cuồng quanh tôi như một rạp xiếc, và hai con mắt đó - duy chỉ hai con mắt đó là bất động, rồi cái đầu phía bên kia nghển lên, một bàn tay, một động tác, thế là trái lựu đạn trong tay tôi bay vèo sang bên ấy, trúng đích.

    Chúng tôi vừa rút chạy vừa kéo đám hàng rào chông vào các chiến hào. Chúng tôi quăng những quả lựu đạn đã rút chốt ra sau lưng, để đảm bảo vẫn có lưới lửa bảo vệ khi chúng tôi rút. Từ vị trí tiếp đó, súng máy liên tục nhả đạn.

    Chúng tôi trở thành những con thú nguy hiểm. Chúng tôi không chiến đấu, chúng tôi tự vệ trước sự hủy diệt. Chúng tôi quăng lựu đạn không phải để giết những con người, khoảnh khắc đó chúng tôi chỉ biết: thần chết đang đuổi theo chúng tôi trong hình hài của những bàn tay và những chiếc mũ sắt kia, đây là lần đầu tiên kể từ ba ngày nay chúng tôi có thể nhìn thẳng vào mặt thần chết, lần đầu tiên từ ba ngày nay chúng tôi có thể chống lại hắn, chúng tôi đang trong cơn cuồng nộ, chúng tôi không còn nằm bất lực, khắc khoải chờ đợi trên đoạn đầu đài, chúng tôi có thề tàn phá và giết chóc để tự cứu mình và để trả thù.

    Chúng tôi nấp sau từng ngóc ngách, từng trụ dây thép gai, và ném trước chân bọn đang xông tới những chùm lựu đạn trước khi rút chạy. Tiếng lựu đạn nổ khô đanh dội mạnh vào cánh tay, cẳng chân chúng tôi; cúi thấp người như những con mèo, chúng tôi chạy, chìm ngập trong cái làn sóng đang cuốn chúng tôi đi, khiến chúng tôi trở nên tàn bạo, biến chúng tôi thành những kẻ cướp đường, những tên sát nhân và thậm chí thành những con quỷ dữ, cái làn sóng làm tăng sức mạnh của chúng tôi lên gấp nhiều lần trong cơn hoảng hốt, giận dữ và khao khát sống, cái làn sóng tìm cách cứu sống chúng tôi và chiếm được chúng tôi. Tới mức giả sử bố anh có mặt trong hàng ngũ phía bên kia, anh sẽ không do dự ném ngay lựu đạn vào ngực ông ấy!

    Những chiến hào ở tuyến đầu đã bỏ ngỏ. Mà đó có còn là chiến hào nữa không đây? Chúng đã bị đạn pháo nã cho tan tành, đã bị tiêu hủy.. chỉ trơ lại những đoạn hào lẻ tẻ, những cái lỗ há hoác, nối với nhau bởi những đường ngoằn ngoèo, rồi những hố đại bác, ngoài ra không còn gì nữa. Nhưng những tổn thất của phía đối phương thì chồng chất. Chúng không ngờ gặp phải sự chống trả quyết liệt đến thế.

    Buổi trưa. Trời nắng như thiêu đốt, mồ hôi chảy vào mắt chúng tôi cay xè; chúng tôi lấy tay áo quệt mồ hôi, đôi khi lẫn cả máu. Chiến hào đầu tiên tương đối lành lặn hiện ra trước mặt chúng tôi. Quân ta đã đóng sẵn ở đó và đang chuẩn bị phản công, họ tiếp nhận chúng tôi. Pháo binh của chúng tôi hoạt động năng nổ ngăn chặn cuộc tấn công.

    Những hàng lính địch phía sau chúng tôi dừng lại. Chúng không thể tiến được nữa. Cuộc tấn công đã bị pháo binh của chúng tôi nghiền nát. Chúng tôi ém mình chờ cơ hội. Đạn pháo của chúng tôi nã xa thêm cả trăm thước, và chúng tôi lại xông lên. Bên cạnh tôi, một anh binh nhất bị đạn phạt bay mất đầu. Anh ta còn chạy thêm mấy bước, trong khi máu ở cổ phụt lên như giếng phun.

    Hai bên chưa thực sự đánh giáp lá cà, vì quân địch phải tháo lui. Chúng tôi chiếm lại khu chiến hào của mình và còn tiến xa hơn nữa.

    Ôi chao, cái trò phản kích này! Ta đã mò về được vị trí phòng thủ che chở cho ta và chỉ muốn chui biến vào đó… vậy mà lại phải quay gót xông trở lại nơi hòn tên mũi đạn. Giá phỏng trong khoảnh khắc ấy chúng tôi không phải là những cỗ máy tự động, chúng tôi đã nằm ì ra đấy kiệt sức và mất hết ý chí. Nhưng chúng tôi lại bị cuốn lên phía trước, bất đắc dĩ nhưng lại giận dữ và hung hăng đến điên cuồng, chúng tôi muốn bắn giết, vì lúc này ở đằng kia là những kẻ tử thù của chúng tôi, súng ống và những trái pháo của chúng đang nhằm vào chúng tôi, chúng tôi không tiêu diệt chúng thì chúng sẽ tiêu diệt chúng tôi!

    Đất nâu, đất nâu tơi tả, nát vụn, ánh lên mỡ màng dưới những tia nắng mặt trời, làm nền cho đám người như những cỗ máy nặng nề lầm lũi không ngưng nghỉ, tiếng thở dốc của chúng tôi tựa tiếng lò xo cót két; môi chúng tôi khô khốc, đầu rỗng tuếch hơn cả sau một đêm rượu say bí tỉ… chúng tôi cứ thế lảo đảo tiến về phía trước, và những tâm hồn đã chai sạn, thủng lỗ chỗ của chúng tôi cứ bị khoan xoáy một cách đau đớn bởi hình ảnh đất nâu dưới ánh mặt trời nhẫy mỡ với những người lính chết hay đang thoi thóp nằm trên đó, như thể định mệnh bắt họ phải vậy, những người lính ấy cứ cố túm lấy chân chúng tôi và kêu gào khi chúng tôi nhảy qua thân xác họ.

    Chúng tôi đã đánh mất mọi cảm nhận dành cho nhau, chúng tôi hầu như không còn biết nhau khi hình ảnh kẻ này lọt vào tầm mắt đang bị săn đuổi của kẻ kia. Chúng tôi là những người chết vô tri vô giác, vẫn có thể chạy và giết chóc nhờ một mánh khóe, một phép thuật nguy hiểm.

    Một lính Pháp trẻ tụt lại và bị đuổi kịp, gã giơ hai tay lên, trong khi một tay vẫn cầm khẩu súng lục khiến người ta không biết gã định bắn hay định đầu hàng, một nhát xẻng chẻ toác mặt gã. Thấy cảnh đó, một gã khác cố sức chạy trốn, thì bị một lưỡi lê bay tới cắm phập giữa lưng. Gã nhảy dựng lên, hai cánh tay dang rộng, mồm há hốc gào rú, loạng choạng bước tiếp với chiếc lưỡi lê rung rinh trên lưng. Gã thứ ba vội quăng vũ khí, bò rạp xuống đất, đưa hai tay bịt mắt. Gã được ở lại cùng vài tù binh nữa để còn khiêng thương binh đi.

    Mải truy kích, chúng tôi bỗng rơi vào trận tuyến quân thù.

    Chúng tôi bám sát đối phương đang rút chạy đến nỗi tiến tới đó gần như cùng lúc với chúng. Do vậy chúng tôi có chút tổn thất. Một khẩu súng máy sủa nhặng lên, nhưng liền bị một quả lựu đạn dập cho tịt ngòi. Tuy nhiên, nội trong mấy giây đó thôi, năm đồng đội của chúng tôi đã kịp ăn đạn vào bụng. Kat dùng báng súng đập nát mặt một thằng bắn súng máy bấy giờ vẫn còn lành lặn. Những thằng khác bị chúng tôi đâm trước khi kịp rút lựu đạn ra. Rồi chúng tôi nốc ừng ực chỗ nước dùng để làm nguội súng cho thỏa cơn khát.

    Tiếng kìm cắt dây thép tanh tách bốn bề, những tấm ván được quăng ầm ầm đè lên các chướng ngại vật, chúng tôi nhảy qua những lối hẹp xuống các chiến hào. Haie xọc lưỡi xẻng vào cổ một tên Pháp to vật vưỡng và quăng trái lựu đạn đầu tiên; chúng tôi nấp vài giây sau một thành lũy cao; sau đó đoạn chiến hào thẳng băng trước mặt chúng tôi trống không. Trái lựu đạn tiếp theo bay xéo qua góc hào và mở đường cho chúng tôi; vừa chạy chúng tôi vừa quăng lựu đạn vào các căn hầm, mặt đất rung chuyển, xung quanh dội lên tiếng nổ, khói và tiếng rền rĩ; chúng tôi vấp vào những tảng thịt trơn nhẫy, những thân người mềm nhũn, tôi ngã chúi vào một cái bụng rách toác, trên đó úp một cái mũ sĩ quan còn mới và sạch sẽ.

    Trận đánh ngừng lại. Sự kết nối tới trận tuyến của địch đứt lìa tại đây. Vì chúng tôi không thể trụ lại lâu nơi này, chúng tôi được điều về vị trí cũ dưới sự yểm hộ của pháo binh. Lệnh rút vừa lọt lỗ tai, cả bọn đã vội vã xông vào các căn hầm liền đấy để vơ vét những đồ ăn dự trữ bên trong, nhất là những hộp thịt bò hầm và bơ, trước khi ra khỏi chiến hào.

    Chúng tôi rút lui yên ả. Tạm thời không có đợt tấn công nào thêm từ phía bên kia. Về đến nơi, cả bọn nằm vật ra, thở hổn hển, nghỉ ngơi lấy sức hơn một tiếng đồng hồ, chẳng ai nói năng gì. Chúng tôi kiệt sức tới mức mặc dù đói ngấu vẫn không nghĩ gì đến đống đồ ăn. Mãi rồi từ từ chúng tôi mới trở lại như những con người.

    Món thịt bò hầm của bên địch nổi tiếng khắp mặt trận. Thậm chí nó còn là lý do chính cho một trận tấn công bất ngờ từ phía chúng tôi, vì nuôi quân của bên ta nói chung là tệ; chúng tôi luôn luôn đói.

    Chúng tôi vơ được năm hộp thịt cả thảy. Bọn lính phía bên kia đúng là được chăm lo tử tế, thịt hộp của chúng quá ư xa xỉ đối với những kẻ đói ăn chỉ biết đến món củ cải nhừ là chúng tôi; bên chúng thịt hộp lăn lóc xung quanh, chỉ cần với tay ra là có. Ngoài ra, Haie còn vớ được một cái bánh mì trắng dài kiểu Pháp và giắt vào sau thắt lưng y như một cái xẻng. Một góc bánh bị dính tí máu, nhưng cắt bỏ đi là được.

    Thật may mắn khi giờ đây chúng tôi đã có cái ăn tử tế; chúng tôi sẽ còn cần đến sức lực của mình. Ăn no cũng quý giá như một căn hầm vững chãi; bởi vậy mà chúng tôi thèm khát được ăn no, nó có thể cứu sống chúng tôi.

    Tjaden còn khoắng được hai bi đông rượu cognac. Chúng tôi chuyền tay nhau uống.

    Màn ban phước lành buổi tối bắt đầu. Trời về đêm, từ dưới những hố đại bác, sương mù dâng lên. Cảnh tượng tựa hồ như những cái hố đang tràn ngập những bí ẩn ma quái. Đám sương trắng loanh quanh dò dẫm đầy sợ hãi, trước khi dám tràn qua miệng hố. Rồi những dải sương dài cứ thế giăng từ hố đại bác này sang hố đại bác kia.

    Trời lạnh. Tôi đứng gác, mắt trân trân nhìn vào bóng tối. Tôi có cảm giác mệt mỏi như thường thấy sau mỗi trận đánh, vì vậy thật khó khi phải đơn độc đối diện với những ý nghĩ của mình. Đó thật ra không phải những ý nghĩ; mà là những ký ức, những ký ức giờ đây nhè lúc tôi yếu lòng ùa về, đẩy tôi vào tâm trạng kỳ lạ.

    Những quả pháo sáng vọt lên cao… và tôi thấy hiển hiện hình ảnh: một chiều hè nọ, tôi đứng trong hành lang tu viện ngắm những bụi hồng mọc cao đang nở hoa giữa mảnh vườn nhỏ, là nơi chôn cất các thầy tu. Xung quanh là những bức tượng đá mô tả những khổ nạn của Chúa Giê-su. Không một bóng người… Một sự tĩnh lặng bao trùm mảnh vườn hoa nở, mặt trời tỏa nắng ấm áp xuống những tảng đá lớn màu xám, tôi đặt tay lên và cảm nhận được hơi ấm từ chúng. Phía trên góc phải của mái hành lang lợp bằng đá phiến, tháp nhà thờ màu xanh lục vươn lên bầu trời chiều xanh lơ mờ mờ êm dịu. Giữa những cây cột nhỏ được đánh bóng của các dãy hành lang tu viện chạy vòng quanh sân là không khí âm u mát rượi chỉ thấy trong các nhà thờ, và tôi đứng đó, mơ tới lúc mình hai mươi tuổi sẽ biết đến những cảm giác bối rối rạo rực trước đám đàn bà con gái.

    Hình ảnh đó gần gũi một cách đáng kinh ngạc, khiến tôi xúc động, trước khi nó tan ra dưới ánh sáng chói lòa của quả pháo sáng tiếp theo.

    Tôi nắm lấy khẩu súng, chỉnh lại cho ngay ngắn. Nòng súng ẩm ướt, tôi nắm chặt tay trên nòng súng và lấy các ngón tay chùi cho nó hết ẩm.

    Giữa những đồng cỏ phía sau thành phố quê hương chúng tôi có một hàng bạch dương cổ thụ mọc cao ven một con suối. Từ xa đã có thể nhìn thấy chúng, và mặc dù hàng bạch dương chỉ chạy một bên, chúng tôi vẫn gọi nó là đại lộ bạch dương. Ngay từ thuở bé chúng tôi đã rất thích hàng cây bạch dương này, chúng thu hút chúng tôi một cách không lý giải nổi, lũ trẻ chúng tôi lêu lổng cả ngày bên những gốc cây, lắng nghe chúng khẽ rì rào. Chúng tôi ngồi dưới những bóng cây bên bờ suối, thả chân xuống dòng nước trong veo chảy xiết. Làn hơi nước tinh khiết và tiếng gió du dương trong các tán lá ngự trị trong trí tưởng tượng của chúng tôi. Chúng tôi yêu chúng xiết bao, và hình ảnh những ngày thơ ấu đó ngay lúc này đây vẫn khiến trái tim tôi rộn rã, trước khi lại tan biến.

    Lạ một nỗi là tất cả những ký ức ùa về đều có hai tính chất. Những ký ức luôn hết sức êm đềm, đó là điểm mạnh nhất của chúng, cho dù sự thực chúng không hẳn êm đềm thì chúng vẫn cho tôi cảm giác ấy. Đó là những hình ảnh im lìm, chỉ nói với tôi bằng những ánh mắt và những cử chỉ, không thốt một lời và hoàn toàn câm lặng… và sự câm lặng của chúng là thứ lay động trái tim tôi, buộc tôi phải nắm lấy tay áo mình và khẩu súng, để giữ cho tôi không biến đi trong sự hòa tan này, trong sự cám dỗ này, nơi thân xác tôi chỉ muốn duỗi ra và nhẹ nhàng tan chảy, hòa vào những sức mạnh êm đềm ẩn sau vạn vật.

    Chúng êm đềm đến vậy, bởi đối với chúng tôi sự êm đềm là điều không sao hiểu nổi. Ở mặt trận làm gì có cái gọi là êm đềm, và vòng cương tỏa của mặt trận rộng lớn đến nỗi chúng tôi không bao giờ thoát ra khỏi nó. Ngay tại những kho hàng xa hỏa tuyến hay những trạm nghỉ lấy sức ở tuyến sau, thì tiếng ùng oàng và ì ầm của đạn pháo vẫn luôn văng vẳng bên tai. Chưa bao giờ chúng tôi được lùi đủ xa để không còn nghe thấy tiếng súng. Nhưng trong những ngày này thì quả là quá sức chịu đựng.

    Sự êm đềm là nguyên nhân khiến những hình ảnh thời quá khứ khơi gợi trong chúng tôi nhiều u sầu hơn là mong ước… một nỗi buồn mênh mông, buồn đến sững sờ. Những hình ảnh trong ký ức đã từng có thật… nhưng sẽ không bao giờ còn quay trở lại. Chúng đã qua rồi, chúng là một thế giới khác, cái thế giới mà đối với chúng tôi đã thuộc về dĩ vãng. Những ký ức đã tạo ra trên các sân trại lính một sự khao khát mãnh liệt và nổi loạn, khi ấy chúng còn gắn liền với chúng tôi, chúng tôi còn thuộc về chúng và chúng còn thuộc về chúng tôi, dẫu rằng đôi bên đã bị chia lìa. Khi ấy, những ký ức còn nổi lên trong những bài ca của lính mà chúng tôi đã hát giữa ánh bình minh và bóng tối nhập nhoạng trong cánh rừng trên đường hành quân ra đồng hoang tập trận, chúng là một kỷ niệm mãnh liệt đã ẩn trong chúng tôi và toát ra khỏi chúng tôi qua tiếng hát.

    Nhưng trong những chiến hào nơi đây, ký ức đã rời bỏ chúng tôi. Nó không dâng lên trong chúng tôi nữa… chúng tôi đã chết, còn nó thì đứng xa tít phía chân trời, nó là một hiện tượng, một ánh phản chiếu bí ẩn, ám ảnh chúng tôi, chúng tôi vừa sợ vừa yêu nó trong tuyệt vọng. Ký ức mạnh mẽ, và sự khao khát của chúng tôi mạnh mẽ… nhưng ký ức là thứ không thể với tới, và chúng tôi biết điều đó. Nó cũng hão huyền như ước mong được phong tướng của anh lính quèn.

    Và giả sử người ta có trả lại chúng tôi cái khung cảnh thời thơ ấu đó chăng nữa, chúng tôi cũng sẽ hầu như chẳng biết phải bắt đầu ra sao với nó. Những sức mạnh dịu dàng và bí mật mà nó đã truyền cho chúng tôi không thể hồi sinh được nữa. Chúng tôi sẽ sống trong ký ức, sẽ lang thang trong nó; chúng tôi sẽ tha hồ hồi tưởng, sẽ yêu quý nó, và xúc động trước hình ảnh của ký ức. Nhưng cảm xúc đó cũng sẽ giống hệt như khi chúng tôi trở nên trầm tư trước bức ảnh của một đồng đội đã chết; đây là những đường nét của cậu ấy, đây là gương mặt cậu ấy, và những ngày chúng tôi từng ở bên cậu ấy sẽ sống lại một cách giả tạo trong ký ức của chúng tôi; nhưng bản thân cậu ấy thì không sống lại.

    Chúng tôi sẽ chẳng còn gắn bó với nơi đó như đã từng gắn bó. Không phải nhận thức về vẻ đẹp và bầu không khí của khung cảnh ngày ấy đã cuốn hút chúng tôi, mà là điểm chung, sự đồng cảm, tình anh em cùng những sự việc và biến cố của cuộc đời đã tách riêng thế hệ chúng tôi ra và làm cho thế giới của cha mẹ chúng tôi luôn có đôi chút khó hiểu… Bởi vì bằng cách nào đó, chúng tôi đã luôn đắm đuối trong cái thế giới tuổi thơ ấy, dâng hiến cho nó, và mỗi việc dù nhỏ nhất cũng luôn là một bước dẫn chúng tôi đi trên con đường vô tận. Có thể đó chỉ là đặc quyền của tuổi trẻ chúng tôi… chúng tôi vẫn chưa thấy cùng trời cuối đất, và chúng tôi không thừa nhận một sự kết thúc dù ở bất kỳ đâu; chúng tôi có sự kỳ vọng của dòng máu, sự kỳ vọng hòa chúng tôi làm một trong dòng chảy của cuộc đời.

    Ngày nay có lẽ chúng tôi sẽ lang thang trên miền quê thời thơ ấu như những du khách. Chúng tôi đã bị thiêu cháy bởi những sự thật, chúng tôi phân biệt mọi thứ như lũ con buôn và hiểu những nhu cầu thiết yếu như bọn hàng thịt. Chúng tôi không còn vô tư lự nữa… chúng tôi lãnh đạm khủng khiếp. Chúng tôi sẽ tồn tại, nhưng liệu chúng tôi sẽ sống cho ra sống?

    Chúng tôi bị bỏ rơi như những đứa trẻ bơ vơ, và thạo đời như những ông già; chúng tôi thô lỗ, u sầu và hời hợt… tôi nghĩ rằng chúng tôi đã hỏng bét.

    Hai bàn tay tôi lạnh toát, và toàn thân tôi nổi da gà; trong khi đêm nay khá ấm áp. Chỉ có sương mù là mát lạnh, thứ sương mù đáng sợ trườn đến những xác chết trước mặt chúng tôi và hút cạn sự sống cuối cùng ẩn náu trong họ. Sáng mai họ sẽ nhợt nhạt và xanh mét, máu họ sẽ đông cứng và tím đen.

    Những trái pháo sáng vẫn bay vút lên cao, tung ánh sáng tàn nhẫn của chúng xuống khung cảnh hóa đá với đầy rẫy những cái hố hình phễu và những khoảng sáng lạnh lẽo y như một mặt trăng. Dòng máu chảy dưới làn da tôi đẩy nỗi sợ hãi và lo âu lên những ý nghĩ trong đầu. Những ý nghĩ trở nên yếu đuối và run rẩy, chúng thèm khát hơi ấm và sự sống. Chúng không thể chịu đựng nổi nếu không có sự an ủi và dối lừa, chúng bối rối trước hình ảnh trần trụi của nỗi tuyệt vọng.

    Tôi nghe thấy tiếng nồi xoong va lách cách và lập tức thấy thèm món ăn nóng ghê gớm, nó sẽ làm cho tôi dễ chịu và bình tĩnh lại. Khó khăn lắm tôi mới ép được mình chờ cho tới khi được đổi gác.

    Rồi tôi đi xuống hầm và tìm thấy một cốc cháo tấm đại mạch. Cháo được nấu béo ngậy và ngon miệng, tôi ăn thật từ tốn. Nhưng tôi vẫn trầm lặng, mặc dù các anh em khác trở nên vui vẻ hơn vì trận pháo kích đã im tiếng.

    Ngày lại ngày trôi qua, và mỗi giờ vừa lạ lùng vừa hiển nhiên. Những cuộc tấn công xen kẽ những đợt phản công, xác chết dần chất đống giữa các chiến hào trên chiến trường nham nhở hố đại bác. Chúng tôi có thể đưa về phần lớn những người bị thương nằm không quá xa. Nhưng một số người vẫn phải nằm lại thật lâu, và chúng tôi nghe tiếng họ hấp hối.

    Chúng tôi mất công tìm kiếm một thương binh suốt hai ngày liền. Chắc hẳn anh ta nằm sấp và không còn đủ sức lật ngửa người ra. Nếu không thì chẳng thể giải thích tại sao chúng tôi không tìm thấy anh ta; bởi vì chỉ khi ai đó kêu gào mà miệng lại áp sát mặt đất, thì mới khó xác định tiếng kêu đến từ hướng nào tới như vậy.

    Anh ta chắc chắn bị một vết đạn ác hiểm, một trong những vết thương tệ hại nhưng không nghiêm trọng đến nỗi làm cơ thể suy yếu nhanh chóng, khiến anh ta sớm rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, và cũng không nhẹ tới mức anh ta có thể chịu đựng đau đớn với hy vọng sẽ phục hồi. Kat phỏng đoán anh ta hoặc là bị vỡ xương chậu, hoặc bị trúng đạn vào cột sống. Ngực không bị tổn thương, nếu có anh ta lấy đâu ra nhiều sức lực để kêu gào đến thế. Trường hợp anh ta bị thương ở chỗ khác, hẳn chúng tôi đã phải trông thấy anh ta di chuyển.

    Tiếng kêu đang khàn dần. Bất hạnh thay tiếng kêu đó nghe như có thể vọng đến từ bất cứ đâu. Đêm đầu tiên người của chúng tôi bò ra ngoài tìm kiếm ba lần. Nhưng khi họ đinh ninh đã lần ra đúng hướng, bò về phía đó và lắng tai nghe lần nữa, thì tiếng kêu lại vọng tới từ một nơi hoàn toàn khác.

    Chúng tôi tìm kiếm vô ích đến tận bình minh. Suốt cả ngày chúng tôi dùng ống nhòm sục sạo khắp khu vực; chẳng phát hiện được gì. Sang ngày thứ hai, người bị thương kêu khẽ dần; rõ ràng mồm miệng anh ta đã khô kiệt.

    Chỉ huy đại đội chúng tôi hứa ai tìm thấy người bị thương sẽ được nghỉ phép trước hạn, thưởng thêm ba ngày. Đây là một sự khuyến khích mạnh mẽ, nhưng dẫu không có nó thì chúng tôi sẽ vẫn cố hết sức; vì tiếng kêu ấy thật kinh khủng. Đến chiều Kat và Kropp thậm chí còn mò ra tìm thêm lần nữa. Albert còn vì thế mà bị dính đạn bay cả dái tai. Vẫn vô ích, họ không mang được anh ta về.

    Vậy mà chúng tôi vẫn hiểu rõ anh ta kêu gì. Đầu tiên anh ta chỉ không ngừng kêu cứu… đến đêm thứ hai hẳn anh ta bắt đầu lên cơn sốt, anh ta nói chuyện với vợ con, chúng tôi luôn nghe anh ta nhắc cái tên Elise. Sang hôm nay anh ta chỉ còn khóc. Đến chiều thì giọng anh ta lịm dần thành tiếng rên. Và cứ vậy anh ta khẽ rên rỉ suốt đêm. Chúng tôi nghe rất rõ, vì gió thổi về phía chiến hào chúng tôi nằm. Sáng hôm sau, lúc chúng tôi tưởng anh ta đã yên nghỉ từ lâu, thì tiếng thở khò khè trong cuống họng lại lần nữa lọt đến tai chúng tôi…

    Những ngày nóng bỏng, những người chết thì vẫn nằm la liệt chưa được chôn cất. Chúng tôi không thể thu dọn hết những cái xác, chúng tôi không biết đưa chúng đi đâu. Chúng sẽ bị chôn vùi bởi những viên đạn trái phá. Vài cái xác bụng trương to như quả bóng. Chúng xì hơi, ói ra và động đậy. Khí vẫn sình lên, rậm rịch trong chúng.

    Trời trong xanh không một gợn mây. Chiều về, không khí trở nên ngột ngạt, cái nóng hầm hập bốc lên từ mặt đất. Hễ gió thổi về phía chúng tôi là lại đưa theo mùi máu, cái mùi tanh nồng, lờ lợ đến kinh tởm, thứ tử khí bốc lên từ những hố đại bác tựa như mùi thuốc mê trộn mùi thối rữa, khiến chúng tôi phát lợm giọng và nôn ọe.

    Đêm đêm trở lại yên tĩnh, cuộc săn lùng những chiếc vòng dẫn hướng bằng đồng của đạn trái phá và những chiếc dù lụa pháo sáng của quân Pháp bắt đầu. Thực ra chẳng ai hiểu rõ tại sao những chiếc vòng dẫn hướng lại được ham chuộng đến thế. Những tay sưu tầm chỉ đơn giản khẳng định là chúng rất quý. Có những cậu tha lôi thứ này nhiều đến nỗi lưng cứ cong gập, vẹo vọ vì khuân vác khi chúng tôi rút quân.

    Haie ít nhất cũng nêu được một lý do: cậu ta muốn gửi cho vợ chưa cưới những chiếc vòng dẫn hướng này để thay nịt bít tất. Nghe vậy tất nhiên hội lính quê vùng Riesen phá lên cười khoái trá; chúng vỗ đùi đen đét, mẹ kiếp, khôi hài đến thế thì thôi, cái thằng cha Haie này trông thế mà dí dỏm phết. Đặc biệt Tjaden không làm sao dằn lòng được; cậu ta nhặt chiếc vòng to nhất và cứ liên tục xỏ cẳng mình vào đó để mọi người thấy chiếc vòng vẫn còn rất rộng. “Mẹ khỉ, Haie, nàng của cậu hẳn phải có cặp giò ra giò,” ý nghĩ của cậu ta leo lên cao hơn chút nữa, “và nếu thế nàng hẳn phải có bộ mông như… như mông voi.”

    Tjaden vẫn chưa thỏa cơn trêu đùa. “Với nàng, tớ chỉ ước gì được chơi trò vỗ chân giò, ôi trời…”

    Haie mặt mày sáng rỡ vì thấy vợ chưa cưới của mình được hâm mộ. Cậu ta hài lòng nói gọn lỏn: “Nàng chắc nình nịch!”

    Những chiếc dù lụa được sử dụng thiết thực hơn. Ba hay bốn chiếc là đủ may một cái áo sơ mi nữ, tùy theo vòng ngực lớn nhỏ. Kropp và tôi cần chúng làm khăn tay. Những đứa khác thì gửi về nhà. Nếu đám phụ nữ ở nhà mà biết được những mảnh giẻ mỏng tang này thường được nhặt nhạnh dưới biết bao nguy hiểm rình rập, thì hẳn các bà các cô sẽ sợ chết khiếp.

    Kat bắt gặp Tjaden vô cùng thản nhiên cố đập một quả pháo thối để lấy những cái vòng dẫn hướng. Vào tay bất kỳ ai khác hẳn quả pháo đã phát nổ, nhưng Tjaden số lúc nào cũng son.

    Suốt một buổi chiều có hai con bướm cứ nhởn nhơ chơi trước chiến hào chúng tôi. Đó là loài bướm cánh màu vàng chanh điểm vài đốm đỏ. Cái gì đã lôi kéo chúng đến đây được chứ; khắp bốn bề không có lấy một nhành cây hay một bông hoa. Chúng đậu xuống hàm răng đang nhe ra của một cái sọ người. Cũng vô tư lự như đôi bướm là những chú chim đã từ lâu quen với chiến tranh. Sáng nào những con chim sơn ca cũng bay vút lên giữa những trận tuyến. Cách đây một năm thậm chí chúng tôi còn quan sát được những con chim đang ấp trứng, rồi chúng còn nuôi được bầy con đến khi ra ràng.

    Trong chiến hào, chúng tôi đã được yên với lũ chuột. Chúng còn mải ở phía trước… chúng tôi biết vì sao. Chúng béo múp lên; hễ trông thấy con nào là chúng tôi bắn bỏ. Ban đêm chúng tôi lại nghe thấy tiếng ì ầm ở phía bên kia. Ban ngày chỉ là những trận pháo kích bình thường, nên chúng tôi có thể tu bổ lại chiến hào. Trò giải trí thì đã có tụi phi công lo. Hằng ngày chúng tôi làm khán giả của vô số những trận không chiến.

    Chúng tôi chịu đựng được những chiếc máy bay chiến đấu, nhưng cái bọn máy bay thám thính thì chúng tôi căm ghét như dịch hạch, vì chúng kéo đạn pháo rót sang chỗ chúng tôi. Chỉ vài phút sau khi chúng xuất hiện là chúng tôi bị oanh tạc bởi trái phá và tạc đạn. Vì thế mà chỉ một ngày chúng tôi mất mười một mạng người, trong đó có năm lính quân y. Hai người thân thể nát như tương, đến nỗi Tjaden nói rằng có thể dùng thìa vét họ từ các vách chiến hào và chôn cất họ trong những cái xoong. Một người khác bị đạn cuốn phăng thân dưới cùng hai chân. Anh ta chết với thân trên dựa vào vách hào, mặt vàng ệch, điếu thuốc lá vẫn lập lòe giữa bộ râu xồm. Điếu thuốc vẫn cháy leo lét cho tới lúc chạm môi anh ta mới tắt. Chúng tôi đặt tạm những người chết trong một hố đại bác lớn. Tới lúc này họ đã nằm xếp chồng thành ba lớp.

    Đột nhiên, các loại pháo lại bắt đầu nổ rầm rĩ. Chẳng mấy chốc chúng tôi lại ngồi đờ ra căng thẳng trong sự chờ đợi thụ động.

    Tấn công, phản công, xung kích, phản kích… đó chỉ là những từ ngữ, nhưng chúng bao hàm biết bao điều! Chúng tôi mất nhiều đồng đội, chủ yếu là tân binh. Mặt trận chúng tôi lại được tiếp nhận viện binh. Đó là một trong những trung đoàn mới thành lập, hầu hết toàn lính trẻ lấy từ những đợt tuyển quân mới nhất. Họ hầu như không được huấn luyện gì, chỉ được tập tành chút ít thiên về lý thuyết trước khi ra trận. Trái lựu đạn là gì thì họ biết, nhưng lại hầu như không có kỹ năng ẩn náu, nhất là thiếu độ tinh nhanh để phát hiện ra nguy hiểm. Mặt đất phải trồi cao lên cả nửa mét thì họ mới nhìn thấy.

    Mặc dù chúng tôi rất cần sự chi viện, nhưng đám lính mới gần như làm chúng tôi bận bịu hơn là giúp ích gì. Họ hoàn toàn bất lực trong khu vực chiến sự ác liệt như thế này và rụng như ruồi. Chiến tranh trận địa ngày nay đòi hỏi kiến thức và kinh nghiệm, người lính phải nắm được địa hình, phải nghe là phân biệt được các loại đạn qua tiếng động và đường bay của chúng, phải tính trước được chúng sẽ rơi vào đâu, sức công phá của chúng thế nào và phải làm gì để tự bảo vệ mình.

    Đám lính trẻ mới ra trận này tất nhiên gần như chưa biết tí gì về tất cả những thứ đó. Họ dính đạn là vì hầu như không phân biệt được trái phá với lựu đạn, họ chết như ngả rạ vì sợ hãi lắng nghe tiếng rít của những thùng than lớn vô hại đang lăn rơi xa tít phía sau, mà bỏ qua tiếng kêu vi vu sẽ sàng như huýt gió của những con quái vật nhỏ bé sẽ nổ tung khi bay là là sát đất. Họ nép sát vào nhau như bầy cừu, trong khi đáng lẽ phải chạy tản ra, và ngay những cậu đã bị thương vẫn còn để cho bọn phi công địch dễ dàng bắn gục như bắn thỏ.

    Những gương mặt củ cải tái nhợt, những bàn tay co quắp đáng thương, sự can đảm tội nghiệp của những chú cún khốn khổ bất chấp tất cả vẫn xông lên và tấn công; ôi những chú cún can đảm, đáng thương, bị đe dọa tới mức không dám kêu to, và ngay cả khi ngực, bụng, tay, chân đã bị bắn nát cũng chỉ dám rên lên khe khẽ gọi mẹ, rồi lập tức im bặt khi bị người ta trông thấy!

    Những gương mặt chết chóc, phủ đầy lông tơ, nhọn hoắt của họ mang vẻ không chút biểu cảm rất đáng sợ của những đứa trẻ chết non.

    Có cảm giác nghẹn ở cổ khi nhìn đám lính mới chồm lên, lao đi và ngã xuống. Người ta muốn nện cho họ một trận, vì họ quá ngu ngốc, lại cũng muốn ôm họ vào lòng và đưa họ đi khỏi nơi này, hơi họ không có việc gì để đến. Họ mặc quần áo lính màu xám, đi ủng lính, nhưng bộ quân phục quá rộng đối với phần đông họ, cứ bay lật phật quanh cánh tay, cẳng chân, vai họ quá gầy, thân hình quá nhỏ, không có quân phục nào được may theo cỡ trẻ con ấy cả.

    Cứ một lính cũ ngã xuống thì phải từ năm đến mười lính mới bỏ mạng. Một trận tấn công bất ngờ bằng hơi ngạt cướp đi nhiều người trong số họ. Thậm chí họ còn chưa kịp hiểu cái gì đang chờ đợi mình. Chúng tôi tìm thấy một căn hầm đầy những cái đầu tím ngắt với những cặp môi đen sì. Trong một hố đại bác, đám lính mới đã bỏ mặt nạ ra quá sớm; họ đâu biết rằng hơi ngạt đọng lại ở những chỗ trũng lâu nhất; khi thấy những người lính khác đứng bên trên không đeo mặt nạ, họ cũng lột mặt nạ ra và hít phải một lượng hơi ngạt đủ để đốt cháy hai lá phổi. Tình trạng của họ là vô vọng, họ liên tục khạc ra máu và chịu đựng những cơn ngộp thở cho đến chết.

    Tôi bỗng nhiên chạm trán Himmelstoß ở một khúc chiến hào. Chúng tôi cùng nấp trong một căn hầm. Mọi người đều nín thở nằm bên nhau và chờ đợi cuộc tiến công bắt đầu.

    Mặc dù đang rất hưng phấn, nhưng lúc chạy ra khỏi hầm một ý nghĩ vẫn lóe lên trong đầu tôi: tôi không trông thấy Himmelstoß nữa. Tôi vội quay xuống hầm và thấy hắn nằm co ro trong xó với một sây sát nhỏ trên da do đạn sượt qua mà cứ làm như bị thương ghê gớm lắm. Mặt hắn như vừa ăn đòn. Hắn đang lên cơn sợ, thì hắn cũng vừa chân ướt chân ráo đến đây mà. Nhưng việc hắn rúc dưới hầm trong khi đám lính trẻ mới được chi viện đã ra ngoài cả khiến tôi điên tiết.

    “Ra khỏi đây!” tôi rít lên.

    Hắn không nhúc nhích, môi hắn run rẩy, ria mép rung rung.

    “Ra ngay!” tôi nhắc lại.

    Hắn co chân lại, nép sát vào vách hầm và nhe răng như một con chó.

    Tôi nắm lấy cánh tay hắn và định lôi hắn dậy. Hắn òa lên khóc. Thế này thì thần kinh tôi hết chịu nổi. Tôi túm lấy cổ hắn mà lắc như lắc một cái bao đất, khiến đầu hắn hết văng sang bên nọ lại vật sang bên kia, và gào vào mặt hắn: “Đồ khốn nạn, có ra không thì bảo… Đồ chó, quân tàn độc, mày muốn trốn hả?” Mắt hắn trở nên đờ đẫn, tôi quật đầu hắn vào tường… “Đồ súc vật”… tôi đạp vào sườn hắn… “Đồ con lợn”… tôi đùn hắn lên khỏi hầm, đầu ra trước.

    Đúng lúc một đợt sóng mới quân ta tràn qua. Có một trung úy trong đám đó. Ông ta trông thấy chúng tôi và thét: “Tiến lên, tiến lên, nhập vào hàng ngũ, nhập vào hàng ngũ!” Và lời nói đó đã làm được cái điều mà trận đòn của tôi chịu bất lực. Himmelstoß nghe tiếng của cấp trên, như sực tỉnh ngó ra xung quanh và cun cút chạy theo đồng đội.

    Tôi bám theo hắn và thấy hắn nhảy lên. Hắn đã trở lại là thằng cha Himmelstoß xông xáo trên sân huấn luyện ngày nào, hắn thậm chí đuổi kịp cả viên trung úy và tiến xa lên phía trước…

    Hỏa lực tập trung, hỏa lực bắn chặn, lưới lửa, mìn, hơi ngạt, xe tăng, súng máy, lựu đạn… từ ngữ, chỉ là những từ ngữ, nhưng chúng chứa đựng tất cả sự khủng khiếp trên đời.

    Mặt mũi chúng tôi đóng vảy, tư tưởng chúng tôi rã rời, chúng tôi mệt muốn chết… Khi bị tấn công, có những đứa phải đấm cho vài đấm mới tỉnh ra mà chạy theo; đứa nào đứa nấy mắt viêm đỏ, bàn tay rách nát, đầu gối rướm máu, khuỷu tay giập vỡ.

    Phải chăng đang trôi đi những tuần… những tháng… những năm? Đó chỉ là những ngày mà thôi… Chúng tôi thấy thời gian bên mình tan biến vào những gương mặt không thần sắc của những kẻ đang hấp hối, chúng tôi tọng thức ăn vào cơ thể mình, chúng tôi chạy, chúng tôi quăng lựu đạn, chúng tôi bắn, chúng tôi giết, chúng tôi nằm vạ vật, chúng tôi yếu ớt và đờ đẫn, duy chỉ điều này nâng đỡ chúng tôi: còn có những kẻ yếu ớt hơn, đờ đẫn hơn, bất lực hơn đang giương to mắt nhìn chúng tôi như nhìn những vị thần - chúng tôi, những kẻ đôi khi có thể thoát khỏi tay thần chết.

    Trong những giờ nghỉ ngơi ít ỏi chúng tôi lên lớp cho đám lính mới này. “Đó, cậu có thấy cái vật rung rinh kia không? Đấy là một quả mìn đang bay đến! Cứ nằm im, nó sẽ vọt qua đằng kia. Nhưng nếu nó bay thế này này, thì phải biến ngay! Sẽ kịp chạy ra xa trước khi nó rơi xuống.”

    Chúng tôi luyện cho đôi tai họ thính nhạy trước tiếng vo vo nham hiểm của những viên đạn cỡ nhỏ mà hầu như người ta không nghe thấy, họ cần phải nhận ra giữa ầm ầm đạn nổ cái tiếng tựa tiếng muỗi vo ve này… Chúng tôi nói cho họ hiểu loại đạn này nguy hiểm hơn những viên đạn lớn mà tai ta có thể nhận biết từ rất sớm. Chúng tôi bày cho họ cách giấu mình dưới con mắt của bọn phi công, cách giả chết khi bị quân địch tràn lên, chỉ cho họ biết phải giật chốt lựu đạn thế nào để nó phát nổ đúng nửa giây trước khi chạm mục tiêu… Chúng tôi dạy họ lăn nhanh như chớp xuống hố đại bác khi thấy tạc đạn có ngòi nổ bay tới, chúng tôi làm mẫu cho họ cách xới tung cả một chiến hào với một chùm lựu đạn, chúng tôi giải thích rõ thời gian bén ngòi giữa lựu đạn địch và lựu đạn ta khác nhau ra sao, chúng tôi lưu ý họ cách nhận biết tiếng nổ của đạn pháo hơi ngạt và bày cho họ những mánh khóe có thể cứu mình thoát chết. Họ lắng nghe những lời chỉ dạy, họ ngoan ngoãn như những đứa trẻ, nhưng rồi khi cuộc chiến bắt đầu lần nữa, trong cơn khích động họ lại làm những điều ngốc nghếch.

    Haie Westhus bị vỡ toác lưng phải khiêng đi; mỗi lần cậu ta thở, phổi lại phập phồng phòi qua vết thương. Tôi vẫn còn có thể nắm chặt bàn tay cậu ta… “Hết rồi, Paul,” cậu ta rên lên và tự cắn vào cánh tay vì quá đau đớn.

    Chúng tôi thấy những người bị mất sọ mà vẫn sống; chúng tôi thấy những anh lính đã bị đạn phạt bay cả hai bàn chân mà vẫn chạy; họ lảo đảo kéo lê những mỏm chân cụt rách nát đến tận hố đại bác gần đấy; một cậu binh nhất chống hai tay bò lết suốt hai cây số với một bên đầu gối vỡ nát; một cậu khác tự mò đến trạm cứu thương, hai tay ôm chặt đống ruột xổ ra lòng thòng; chúng tôi thấy những người không có mồm, không có hàm dưới, không có mặt; chúng tôi tìm thấy một người lính suốt hai giờ liền dùng răng kẹp chặt động mạch ở cánh tay để khỏi chết vì mất máu; mặt trời lên, đêm xuống, trái phá gầm rít, sự sống kết thúc.

    Vậy nhưng cái mảnh đất bị xới tung mà chúng tôi đang nằm đây vẫn giữ được trước lực lượng áp đảo của địch, chỉ bị mất đi vài trăm thước. Nhưng mỗi thước đất đổi một mạng người.

    Chúng tôi được thay phiên. Bánh xe lăn dưới chân chúng tôi, chúng tôi đứng đờ đẫn, và hễ có tiếng kêu: “Chú ý… dây thép!” là chúng tôi lại nhún chân thấp người xuống. Lần trước chúng tôi chạy xe qua thì ở đây đang là mùa hè, cây cối vẫn xanh tươi, giờ đây chúng đã ngả sang thu, đêm xám xịt và ẩm ướt. Những chiếc xe dừng lại, chúng tôi leo xuống, một đám quân hỗn độn túa ra, phần còn sót lại của nhiều cái tên. Hai bên đường có những người đứng trong bóng tối gọi số hiệu của các trung đoàn và các đại đội. Sau mỗi tiếng gọi, một đám nhỏ lại tách ra - một đám nhỏ đáng thương lèo tèo mấy anh lính bẩn thỉu, nhợt nhạt, một dúm người quá đỗi ít ỏi, phần còn sót lại quá đỗi nhỏ nhoi.

    Lúc này ai đó gọi số hiệu đại đội chúng tôi, nghe giọng là nhận ra viên chỉ huy đại đội, vậy là ông ta đã may mắn thoát khỏi đó, cánh tay ông ta băng kín. Chúng tôi bước lại phía ông ta, rồi tôi nhận ra Kat và Albert, chúng tôi đứng sát lại với nhau, tựa vào nhau và ngắm nhìn nhau.

    Và một lần nữa, rồi một lần nữa chúng tôi nghe gọi số hiệu của đại đội mình, ông ta cứ việc gọi thật lâu, các anh em đang nằm trong những trạm cứu thương, dưới những hố đại bác làm sao nghe thấy được.

    Lại một lần nữa: “Đại đội hai lại đây nào!”

    Rồi thấp giọng hơn: “Đại đội hai không còn ai nữa sao?”

    Ông ta im lặng, và giọng hơi lạc đi khi ông ta hỏi: “Tất cả đây sao?” rồi ra lệnh: “Điểm số!”

    Buổi sáng xám xịt; ngày chúng tôi ra trận vẫn đang là mùa hè và chúng tôi có một trăm năm mươi người. Lúc này chúng tôi rét run, trời đã vào thu, lá cây rì rào, những giọng nói mệt mỏi cất lên: “Một… hai… ba… bốn…” đến con số ba mươi hai thì im lặng. Im lặng hồi lâu, rồi có tiếng hỏi: “Còn ai nữa không?”… và chờ đợi, để rồi sau đó khẽ nói: “Đi theo nhóm…” rồi đứt giữa chừng, và cố nói cho hết câu: “Đại đội hai…” lại gắng nói hết câu một cách khó nhọc: “Đại đội hai… bước thường, bước!”

    Một hàng quân, một hàng quân ngắn ngủn bước dò dẫm trong ban mai.

    Ba mươi hai người.
     
  9. Trúc Quỳnh Đặng

    Trúc Quỳnh Đặng Moderator Thành viên BQT

    VII

    Người ta rút chúng tôi về sâu hơn bình thường, đến một trại tân binh, để cơ cấu lại đại đội của chúng tôi lúc này cần bổ sung thêm hơn một trăm người.

    Thời gian này, khi không có công việc gì, chúng tôi la cà chơi rông. Hai ngày sau, Himmelstoß nhập bọn với chúng tôi… Hắn đã thôi to mồm kể từ cái ngày nằm chiến hào. Hắn đề nghị chúng tôi dàn hòa. Tôi sẵn sàng, vì tôi đã trông thấy hắn cùng khiêng Haie Westhus khi cậu ta bị vỡ toác lưng. Thêm nữa hắn nói năng thật sự biết điều, nên chúng tôi không phản đối khi hắn mời chúng tôi vào căng tin. Có mỗi Tjaden là nghi ngại và dè dặt.

    Nhưng rồi cả cậu ta cũng mềm lòng, vì Himmelstoß kể rằng hắn sẽ thay chân gã bếp trưởng bò mộng được về phép. Để chứng minh, hắn lập tức lôi ra cho chúng tôi một cân đường và đặc biệt dành riêng cho Tjaden hai lạng rưỡi bơ. Thậm chí hắn còn thu xếp để chúng tôi được điều xuống bếp gọt khoai tây và củ cải trong ba ngày tới. Những món ăn mà hắn dọn ra cho chúng tôi đúng là bữa ăn dành cho sĩ quan, ngon không chê vào đâu được.

    Vậy là tạm thời chúng tôi lại có được hai thứ làm nên hạnh phúc của người lính: ăn ngon và nghỉ khỏe. Nghĩ cho kỹ thì thật ít ỏi. Mới chỉ vài năm trước đây thôi, hẳn chúng tôi đã vô cùng tự khinh bỉ bản thân nếu đòi hỏi và hạnh phúc chỉ đơn sơ đến thế. Giờ thì chúng tôi gần như hài lòng. Mọi thứ là thói quen hết, kể cả chiến hào. Thói quen này là lý do tại sao chúng tôi có vẻ như rất nhanh quên. Mới hôm kia thôi chúng tôi còn đang trong chảo lửa, vậy mà hôm nay chúng tôi đã vui chơi lêu lổng, để rồi mai lại xuống chiến hào. Thực ra chúng tôi không quên cái gì hết. Chừng nào chúng tôi còn đang phải ở đây, thì những ngày đã trôi qua nơi tiền tuyến sẽ như những tảng đá chìm xuống trong chúng tôi, bởi chúng quá nặng nề để chúng tôi có thể lập tức nghĩ ngợi về chúng. Nếu chúng tôi nghĩ ngợi, sau này chúng sẽ giết chết chúng tôi; vì rằng tôi đã nhận thấy bấy nhiêu đây: sự khủng khiếp còn có thể chịu đựng được, chừng nào ta đơn giản thu mình lại; nhưng nó sẽ giết ta, nếu ta nghĩ ngợi về nó.

    Giống y như khi đi ra tiền tuyến chúng tôi trở thành những con vật, vì đó là cách duy nhất giúp chúng tôi vượt qua, thì khi được nghỉ ngơi, chúng tôi trở thành những anh chàng pha trò nhạt nhẽo và những con sâu ngủ. Chúng tôi không thể khác được, hoàn cảnh thực sự bắt buộc như vậy. Chúng tôi muốn sống bằng mọi giá; chúng tôi không thể làm cho mình thêm bận lòng với những tình cảm có thể là đẹp đẽ trong thời bình, nhưng ở đây thì không đúng chỗ. Kemmerich đã chết. Haie Westhus đang hấp hối. Làm cho thân xác tan tành vì trúng pháo của Hans Kramers lành lặn trở lại sẽ là một việc quá khó trong Ngày Phán xử cuối cùng, Martens không còn cái chân nào, Meyer đã chết, Marx đã chết, Beyer đã chết, Hämmerling đã chết, một trăm hai mươi người nằm đâu đó với những vết đạn trong thân thể; mẹ kiếp, thật đáng nguyền rủa, nhưng việc đó phỏng còn can hệ gì đến chúng tôi, chúng tôi đang sống. Giá như chúng tôi có thể cứu họ, phải, thì người ta sẽ thấy chúng tôi bất chấp cả việc có thể hy sinh tính mạng của mình để xông vào ngay; bởi nếu muốn, chúng tôi có một sức bật ghê gớm; chúng tôi ít biết sợ… sợ chết thì hẳn là có, nhưng đó lại là việc khác, thuộc về thể xác.

    Nhưng các đồng đội của chúng tôi đã chết, chúng tôi không thể giúp gì cho họ, họ đang yên nghỉ… Ai biết được cái gì còn đang chờ đợi chúng tôi; chúng tôi muốn nằm lăn ra, ngủ một giấc hoặc chén đẫy bụng, rồi nốc say bí tỉ, rồi phì phèo thuốc lá, cho thời gian bớt vô vị. Đời người ngắn ngủi.

    Sự khủng khiếp của mặt trận chìm xuống khi ta quay lưng lại với nó, chúng tôi biến nó thành những câu đùa cợt đê tiện và dữ dằn; giả dụ ai đó chết, lính tráng sẽ bảo “thằng đó thít chặt lỗ đít lại rồi”, và chúng tôi cứ tếu táo như thế về tất cả mọi chuyện, điều đó cứu chúng tôi khỏi phát điên, chừng nào chúng tôi còn nhìn nhận mọi sự như vậy, chúng tôi còn chống chọi được.

    Nhưng chúng tôi không quên! Điều mà những tờ báo chiến tranh tuyên truyền về óc hài hước quý như vàng của các đội quân vừa thoát ra khỏi lưới lửa dày đặc đã lo tổ chức nhảy nhót là chuyện cực kỳ vớ vẩn. Chúng tôi làm thế không phải bởi chúng tôi có óc hài hước, mà chúng tôi phải có óc hài hước, vì nếu không chúng tôi sẽ chết. Dù sao thì câu chuyện này cũng chẳng kéo dài được bao lâu nữa, sự hài hước cứ mỗi tháng lại càng thêm cay đắng. Và tôi biết rằng: tất cả những gì mà hiện giờ lắng sâu trong lòng chúng tôi như một tảng đá - chừng nào chúng tôi còn ở trong cuộc chiến, sẽ lại thức dậy sau chiến tranh, và khi đó sẽ bắt đầu sự xung đột sống còn.

    Khi đó những ngày, những tuần, những năm ở ngoài mặt trận sẽ quay trở lại và những đồng đội đã chết của chúng tôi sẽ đứng dậy, sẽ cùng hành quân với chúng tôi, đầu óc chúng tôi sẽ tỉnh táo, chúng tôi sẽ có một mục đích, và chúng tôi sẽ cứ thế hành quân, bên cạnh là những đồng đội đã chết, phía sau là những năm tháng chiến trường… để chống lại ai, chống lại ai đây?

    Cách đây ít lâu trong vùng này có một đoàn kịch mặt trận. Trên một tường rào vẫn còn dán những tờ quảng cáo sặc sỡ cho những buổi biểu diễn trước kia. Kropp và tôi cứ đứng trố mắt ra mà nhìn. Hai thằng không tin nổi là vẫn còn có những thứ như thế. Bức hình vẽ một thiếu nữ mặc chiếc váy mùa hè sáng màu, thắt lưng đỏ ngang eo. Một tay nàng vịn lan can, tay kia cầm chiếc mũ nan. Nàng đi tất trắng, giày trắng, đôi giày cao gót xinh xắn có móc cài. Đằng sau nàng, biển xanh lấp lánh với những con sóng, phía bên tiếp giáp với một bờ vịnh chan hòa ánh sáng. Đó là một thiếu nữ tuyệt xinh với cái mũi thanh tú, đôi môi đỏ và cặp chân dài, sạch sẽ và đỏm dáng ngoài sức tưởng tượng, chắc chắn nàng phải tắm hai lần một ngày và không bao giờ có ghét dưới móng tay. Quá lắm cũng chỉ vương vài hạt cát từ bãi biển.

    Đứng cạnh nàng là một thanh niên diện quần trắng, áo vét xanh lơ, đội mũ lính thủy, nhưng chúng tôi không mấy quan tâm đến anh ta.

    Cái cô nàng trên tường rào ấy là một điều kỳ diệu đối với chúng tôi. Chúng tôi đã quên hẳn rằng trên đời này còn có thứ tuyệt vời đến như vậy và cho tới tận lúc này chúng tôi vẫn hầu như chưa dám tin vào mắt mình. Dù sao cũng hàng năm nay chúng tôi không hề thấy một cái gì tương tự như thế; không hề thấy một cái gì kể cả còn kém xa với hình ảnh vui tươi, xinh đẹp và hạnh phúc này. Đây chính là hòa bình, hòa bình phải như thế, chúng tôi cảm nhận với biết bao xốn xang.

    “Cậu nhìn thử đôi giày mỏng mảnh này đi, với đôi giày này nàng sẽ chẳng hành quân nổi một cây số,” tôi nói và lập tức cảm thấy mình ngớ ngẩn, vì thật là nhảm nhí khi đứng trước một hình ảnh tuyệt đến như vậy lại nghĩ đến hành quân.

    “Nàng khoảng bao nhiêu tuổi nhỉ?” Kropp thắc mắc.

    Tôi đoán: “Nhiều lắm là hai mươi hai, Albert ạ.”

    “Nếu thế thì nàng hơn tuổi bọn mình à. Nàng chưa quá mười bảy nhé, nói để cậu biết!”

    Chúng tôi nổi hết da gà. “Albert, nếu vậy thì vừa xinh với tụi mình, cậu không nghĩ thế à?”

    Cậu ta gật đầu. “Ở nhà tớ cũng có một cái quần trắng.”

    “Một cái quần trắng,” tôi nói, “nhưng một cô nàng tuyệt như vậy…”

    Hai thằng nhìn lẫn nhau từ đầu xuống chân. Chẳng có cái gì cho ra hồn, ngoài một bộ đồng phục bạc phếch, vá chằng vá đụp và cáu bẩn. Đem ra so với nàng thật vô vọng.

    Đã thế trước tiên chúng tôi bóc ngay cái anh chàng quần trắng ra khỏi bờ rào, bóc thật cẩn thận, để khỏi làm rách sang nàng thiếu nữ. Như vậy đã thành công được một bước. Rồi Kropp rủ: “Hay chúng mình đi bắt rận cái nhỉ.”

    Tôi không hoàn toàn tán thành, vì bắt rận cũng chỉ tổ hỏng quần áo, mà chỉ hai tiếng sau là lại có rận như cũ. Nhưng sau khi hai thằng đắm chìm vào bức hình một lần nữa, tôi tuyên bố sẵn sàng làm theo. Thậm chí tôi còn tiến xa hơn: “Tụi mình cũng thử xem có thể kiếm đâu được một chiếc sơ mi sạch không…”

    Albert chẳng biết nghĩ sao lại bảo: “Có khi kiếm mấy chiếc xà cạp lại còn hay hơn.”

    “Có thể cả xà cạp nữa. Tụi mình thử đi đầu cơ một chút xem sao.”

    Nhưng Leer và Tjaden đang thả bộ lại gần; chúng nhìn tấm hình quảng cáo, và chỉ nhoáng một cái câu chuyện xoay ra khá là tục tĩu. Leer là thằng đầu tiên trong lớp chúng tôi có nhân tình và đã mô tả mối quan hệ ấy với những chi tiết rất kích thích. Lúc này cậu ta hào hứng trước bức hình theo cách của cậu ta và được Tjaden hăng hái phụ họa.

    Chúng tôi không hẳn gớm ghét chuyện này. Ai không nói chuyện tục tĩu đã chẳng phải là lính; có điều lúc này đầu óc chúng tôi không hoàn toàn tập trung vào đấy thành thử chúng tôi rẽ ngang và đi về trại bắt rận với cảm giác như đang đi đến một cửa hiệu thời trang sang trọng dành cho các quý ông.

    Những ngôi nhà chúng tôi ở nằm gần một dòng kênh. Bên kia dòng kênh là những cái đầm được bao quanh bởi những cánh rừng bạch dương… bên kia dòng kênh còn có cả đàn bà.

    Những ngôi nhà bên phía chúng tôi gia chủ đã dọn đi hết. Nhưng phía bên kia thỉnh thoảng vẫn thấy có người ở. Buổi chiều chúng tôi đang bơi thì có ba cô gái đi dọc theo bờ kênh đến gần. Họ bước thong thả và không ngoảnh mặt đi, mặc dù chúng tôi không mặc quần bơi.

    Leer gọi với sang. Các cô ấy cười và dừng lại nhìn chúng tôi. Chúng tôi ném cho họ những câu tiếng Pháp què quặt chợt nhớ ra được, câu cú lộn tùng phèo, bạ gì phang nấy, cốt để họ không đi mất. Đó chẳng phải là những lời lẽ tao nhã gì, nhưng chúng tôi biết đào đâu ra những lời hay ý đẹp. Trong đám họ có một cô nàng mảnh dẻ với nước da bánh mật. Khi cô cười, hàm răng trắng lấp lánh. Cô có cử chỉ nhanh nhẹn, chiếc váy khẽ bay lật phật quanh đôi chân cô. Mặc dù nước lạnh, chúng tôi cực kỳ phấn chấn và quyết tâm gây sự chú ý với các cô gái để họ nán lại. Chúng tôi thử pha trò, và họ đáp lại mà chúng tôi chẳng hiểu gì cả, chúng tôi cười và vẫy tay. Tjaden khôn ngoan hơn. Cậu ta chạy vào nhà lấy ra một ổ bánh mì của lính và giơ ổ bánh lên.

    Kết quả là đại thành công. Các cô gái đầu gật, tay vẫy, ra ý rủ chúng tôi qua chơi. Nhưng chúng tôi không được phép. Chúng tôi bị cấm bước chân sang bờ bên kia. Bên các cây cầu đầy rẫy những bốt gác. Không có giấy phép thì đừng hòng qua. Vì vậy chúng tôi dịch ra tiếng Pháp là các cô hãy sang chỗ chúng tôi; nhưng các cô lắc đầu và chỉ chỉ lên những cây cầu. Người ta cũng không cho các cô đi qua.

    Các cô gái quay gót, thong thả đi ngược trở lại, vẫn cứ dọc theo bờ kênh. Chúng tôi bơi theo họ. Sau vài trăm thước, họ rẽ khỏi bờ kênh và chỉ tay vào một ngôi nhà nhô lên giữa đám cây cối và bụi rậm. Leer hỏi có phải họ ở đấy chăng.

    Các cô cười… phải, đó là nhà họ.

    Chúng tôi kêu to lên với họ là chúng tôi muốn sang khi nào tụi lính gác không thể trông thấy chúng tôi. Vào ban đêm. Ngay đêm nay.

    Các cô giơ hai bàn tay lên, úp chúng lại với nhau, rồi kề mặt lên đó và nhắm mắt lại. Họ đã hiểu. Cô mảnh dẻ da bánh mật nhún nhảy vài bước khiêu vũ. Một cô tóc vàng ríu rít: “Bánh mì… tốt lắm…”

    Chúng tôi vội vã khẳng định là sẽ mang bánh theo. Còn nhiều món ngon lành khác nữa, chúng tôi vừa đảo mắt vừa giơ tay ra hiệu. Leer suýt chìm nghỉm khi muốn chỉ cho họ hiểu ý “một cái xúc xích”. Nếu cần thiết, chúng tôi đã chẳng ngần ngại hứa với các cô cả một kho lương dự trữ. Họ bước đi mà vẫn ngoái lại nhiều lần. Chúng tôi leo lên bờ bên này để quan sát xem các cô có đi vào ngôi nhà đó thật không, vì họ có thể nói dối lắm chứ. Sau đó chúng tôi mới bơi trở lại.

    Không có giấy phép, chẳng ai được qua cầu, vậy thì đơn giản là chúng tôi sẽ bơi sang đó vào ban đêm. Sự hồi hộp xâm chiếm và không buông tha cho chúng tôi. Chúng tôi không thể ngồi yên một chỗ nên kéo nhau đến căng tin. Đúng lúc ở đó có bia và rượu quế hâm nóng. Chúng tôi uống rượu quế và bịa cho nhau nghe những câu chuyện hoang đường. Thằng này sẵn sàng tin sái cổ thằng kia và sốt ruột chờ đến lượt mình để chém gió còn kinh hơn nữa. Chân tay chúng tôi bứt rứt, chúng tôi rít cơ man là thuốc lá, cho tới lúc Kropp bảo: “Thực ra tụi mình cũng có thể đem cho các cô ấy vài điếu thuốc.” Thế là chúng tôi bỏ thuốc lá vào mũ ca lô và cất chúng ở đấy.

    Bầu trời chuyển màu xanh như một trái táo non. Chúng tôi có bốn thằng, nhưng chỉ đi được ba thằng; vì vậy chúng tôi phải rũ Tjaden bằng mọi cách. Chúng tôi chuốc rượu rum và rượu quế hâm nóng cho tới lúc cậu ta say lảo đảo. Khi trời tối, chúng tôi đi về phía những ngôi nhà đang trú quân. Tjaden đi giữa. Lòng chúng tôi như lửa đốt và tràn đầy hứng thú phiêu lưu. Cô mảnh dẻ có nước da bánh mật là dành cho tôi - chúng tôi đã phân chia và thỏa thuận như thế.

    Tjaden nằm vật xuống ổ rơm và cất tiếng ngáy. Một lần cậu ta thức dậy và cười nhăn nhở đầy vẻ tinh quái với chúng tôi, khiến cả bọn chột dạ cứ tưởng rằng cậu ta chỉ giả vờ say, rằng thật là phí toi cái chỗ rượu quế bỏ ra chuốc cậu ta. Nhưng rồi cậu ta lại nằm vật xuống và ngủ tiếp.

    Mỗi thằng trong ba đứa chúng tôi bỏ sẵn ra một ổ bánh mì nguyên, lấy giấy báo bọc cẩn thận. Chúng tôi bỏ thêm vào đó dăm điếu thuốc lá, ngoài ra còn ba suất pa tê gan đầy đặn chúng tôi vừa được lĩnh chiều nay. Quả là một món quà hậu hĩnh.

    Chúng tôi tạm bỏ tất cả vào ủng của mình; vì kiểu gì chúng tôi cũng phải cắp ủng theo, để sang bờ bên kia khỏi bị giẫm vào dây thép gai và các loại mảnh vỡ. Do trước đấy chúng tôi còn phải bơi nên chúng tôi có thể chẳng cần đến quần áo. Vả lại đằng nào trời cũng tối mò và đường sang đó cũng không xa.

    Chúng tôi lên đường, hai tay xách ủng. Chúng tôi nhoài nhanh xuống nước, bơi ngửa, tay giơ đôi ủng đựng quà trên đầu. Sang đến bờ bên kia chúng tôi cẩn thận trèo lên, lôi các gói quà ra và xỏ chân vào ủng. Chúng tôi cắp quà dưới nách và bắt đầu rảo bước, toàn thân ướt và trần như nhộng, có mỗi đôi ủng dưới chân. Chúng tôi tìm ngay ra ngôi nhà. Nó nằm khuất trong bóng tối, giữa những bụi cây. Leer vấp phải một cái rễ cây, ngã trầy cả khuỷu tay. “Không hề gì,” cậu ta vui vẻ tuyên bố.

    Ngoài các ô kính cửa sổ đều có cửa chớp. Chúng tôi rón rén đi vòng quanh ngôi nhà và thử hé mắt nhòm qua các kẽ hở. Rồi chúng tôi trở nên nôn nóng. Kropp bỗng do dự: “Nhỡ có một cha thiếu tá đang ở trong ấy thì sao nhỉ?”

    “Thì chuồn chứ sao,” Leer cười nhạo, “bất quá hắn sẽ chỉ đọc được số hiệu trung đoàn mình ở đây này,” cậu ta vỗ vỗ vào mông.

    Cửa ngôi nhà để ngỏ. Tiếng ủng của chúng tôi khua khá ồn. Một cánh cửa hé mở, ánh sáng đèn lọt ra, một cô gái sợ hãi rú lên. Chúng tôi vội nói: “Suỵt, suỵt… chỗ bạn bè… bạn tốt…” và giơ cao những gói quà như để lấy lòng. Lúc này chúng tôi đã thấy cả hai cô còn lại, cánh cửa mở toang và ánh đèn rọi vào chúng tôi. Nhận ra chúng tôi, cả ba phá lên cười ngặt nghẽo trước bộ dạng của chúng tôi. Họ vặn người, gập bụng vì cười trong khung cửa. Các cử động của họ mới mềm mại làm sao!

    “Gượm đã.” Các cô biến mất và ném ra cho chúng tôi một mớ khăn áo, chúng tôi nhặt quấn tạm che thân. Rồi chúng tôi được phép vào nhà. Trong phòng thắp một ngọn đèn nhỏ; không khí ấm áp, phảng phất mùi nước hoa. Chúng tôi giở các gói bọc ra và đưa cho họ. Mắt các cô sáng lên, nhìn thì biết là họ đang đói.

    Đoạn tất cả trở nên hơi lúng túng. Leer bèn làm cử chỉ như đang ăn. Thế là mọi người linh hoạt trở lại, các cô đi lấy đĩa và dao, rồi sà ngay vào các món ăn. Trước khi ăn mỗi khoanh pa tê gan, các cô đều giơ nó lên ngắm nghía đầy thán phục, ba thằng chúng tôi ngồi bên rất lấy làm hãnh diện.

    Các cô chuyện trò ríu rít với chúng tôi bằng tiếng mẹ đẻ của họ… chúng tôi không hiểu được bao nhiêu, nhưng chúng tôi nghe và cảm nhận đó là những lời nói thân tình. Có thể trông chúng tôi cũng còn quá trẻ. Cô nàng mảnh dẻ da bánh mật vuốt tóc tôi và nói điều mà mọi người đàn bà Pháp thường luôn nói: “La guerre… grand malheur… pauvres garçons…”(*)

    (*) Tiếng Pháp trong nguyên bản: “Chiến tranh… tai họa lớn… những chàng trai đáng thương…”

    Tôi nắm chặt lấy cánh tay cô và kề môi vào lòng bàn tay ấy. Các ngón tay cô ôm lấy gương mặt tôi. Ngay phía trên tôi là cặp mắt long lanh cảm xúc của cô, làn da bánh mật mịn màng và đôi môi đỏ thắm. Miệng cô nói những lời mà tôi không hiểu. Tôi cũng không hiểu hết được đôi mắt cô, chúng nói lên nhiều điều hơn là chúng tôi mong đợi khi tới đây. Cạnh đó có nhiều buồng. Lúc đi ngang qua tôi thấy Leer đã kết với em tóc vàng và nói cười rổn rang. Cậu ta thạo khoản này. Nhưng còn tôi… tôi bị rơi vào một cái gì đó xa xăm, nhẹ nhàng mà mãnh liệt, và tôi phó thác mình cho nó. Những ước muốn trong tôi là sự xáo trộn kỳ lạ giữa khao khát và đắm chìm. Đầu óc tôi quay cuồng, ở đây chẳng có gì để tôi còn bấu víu được. Chúng tôi đã tháo ủng để ngoài cửa, và được các cô đưa cho dép vải đi trong nhà, thế nên lúc này chẳng còn gì giúp tôi lấy lại sự vững vàng và ngỗ ngược của người lính: không súng, không thắt lưng, không quân phục, không mũ ca lô. Tôi buông mình rơi vào sự bấp bênh này, thôi thì muốn ra sao thì ra… vì bất chấp tất cả, tôi vẫn hơi sợ.

    Cô nàng mảnh dẻ da bánh mật động đậy cặp lông mày mỗi khi nghĩ ngợi, nhưng khi cô nói thì chúng lại nằm yên. Đôi lúc âm thanh cô thốt ra không hẳn thành lời mà nghẹn lại, hoặc cứ nửa vời lững lờ bay ngang trên đầu tôi; một cánh cung, một đường bay, một ngôi sao chổi. Tôi đã biết gì về chúng… tôi thì biết gì về chúng đây? Những lời lẽ của thứ ngôn ngữ xa lạ mà tôi hầu như chẳng hiểu mấy tí này đã ru tôi vào một sự tĩnh mịch mà trong đó căn phòng nâu nâu và hơi óng ánh trở nên mờ ảo và duy nhất gương mặt phía bên trên tôi là sống và rõ nét.

    Thật đa dạng biết bao là gương mặt mà mới một giờ trước vẫn còn xa lạ nhưng giờ đây lại thiên về dịu đàng, vẻ dịu dàng không phải từ nó mà ra, mà từ bóng đêm, từ thế gian và dòng máu, những thứ dường như đang cùng tỏa sáng trên gương mặt đó. Các đồ vật trong gian phòng đều bị rung động và biến đổi bởi vẻ dịu dàng này, chúng trở nên đặc biệt, và tôi gần như kính nể làn da trắng trẻo của mình khi ánh đèn rọi lên nó và bàn tay ngăm nâu mát rượi vuốt ve nó.

    Tất cả sao khác xa những nhà thổ dành cho lính mà chúng tôi được phép đến, nơi lính tráng xếp hàng rồng rắn. Tôi không muốn nghĩ đến những cái nhà thổ ấy nữa; nhưng chúng cứ bất giác trở lại trong đầu tôi, và tôi sợ hãi, bởi có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn rũ sạch nổi những chuyện như thế.

    Nhưng rồi tôi cảm nhận được đôi môi của cô nàng mảnh dẻ da bánh mật, và tôi áp mình vào nó, tôi nhắm mắt lại, muốn qua đó xóa bỏ tất cả: chiến tranh, sự khủng khiếp, sự đê tiện, để sẽ trẻ trung và hạnh phúc khi tỉnh dậy; tôi nghĩ đến hình ảnh nàng thiếu nữ ở tờ quảng cáo và trong một khoảnh khắc tôi tưởng cuộc đời tôi tùy thuộc duy nhất một điều: chinh phục được nàng… Tôi càng vùi sâu hơn vào đôi cánh tay đang ôm riết lấy mình, biết đâu sẽ xảy ra một điều kỳ diệu.

    Rồi bằng cách nào đó cả ba thằng lại gặp nhau. Leer trông rất tươi tỉnh. Chúng tôi thân ái chia tay các cô và đi ủng vào. Không khí ban đêm làm mát thân thể nóng hừng hực của chúng tôi. Những cây bạch dương vươn cao trong đêm tối, lá reo xào xạc. Vầng trăng treo trên bầu trời và soi bóng xuống dòng kênh. Chúng tôi không chạy mà sải những bước dài đi bên nhau.

    Leer nói: “Cũng đáng giá một ổ bánh lính!”

    Tôi không biết nên nói gì, tôi thậm chí chẳng hề thấy vui vẻ.

    Nghe tiếng bước chân, ba thằng vội nấp sau một bụi cây.

    Bước chân gần lại, lúc này chạy sát qua chỗ chúng tôi. Chúng tôi thấy một gã lính trần như nhộng, chân đi ủng, y như chúng tôi, cậu ta cắp nách một cái gói và phi như ngựa tế. Đó là Tjaden đang hối hả chạy. Nhoáng cái cậu ta đã biến mất. Chúng tôi cười. Ngày mai kiểu gì cũng bị cậu ta chửi. Chúng tôi mò về đến ổ rơm mà chẳng bị ai phát hiện.

    Tôi được gọi lên văn phòng, viên chỉ huy đại đội trao cho tôi quyết định nghỉ phép, một tấm vé tàu và chúc tôi thượng lộ bình an. Tôi đọc lại xem mình được bao nhiêu ngày phép. Mười bảy ngày… mười bốn ngày nghỉ, cộng ba ngày đi đường. Thế này thì ít quá, tôi bèn hỏi xem mình có thể được năm ngày đi đường hay không. Bertinck chỉ vào quyết định nghỉ phép để tôi đọc kỹ lại. Lúc này tôi mới thấy là mình không phải quay lại chiến trường ngay. Hết phép tôi sẽ phải trình diện để theo một khóa học ở Doanh trại thảo nguyên.

    Bọn khác tị nạnh với tôi. Kat bày cho tôi nhiều cách xoay xở để tránh ra trận. “Nếu cậu láu cá thì cậu sẽ được giữ luôn lại đấy.”

    Thật ra, giá mà tám ngày nữa mới phải đi thì tôi vẫn thích hơn; vì cho tới lúc đó bọn tôi vẫn được ở đây, mà ở đây đang sướng… cố nhiên tôi phải khao anh em một chầu trong căng tin. Cả bọn đều ngà ngà say. Tôi trở nên buồn rầu; tôi sẽ vắng mặt sáu tuần lễ, đương nhiên đó là một may mắn cực lớn, nhưng sẽ như thế nào đây khi tôi quay trở lại? Liệu tôi có còn gặp lại tất cả bọn họ? Haie và Kemmerich đã không còn nữa… Ai sẽ là người tiếp theo?

    Chúng tôi uống rượu, và tôi ngắm nhìn từng thằng bạn của mình. Albert ngồi cạnh tôi hút thuốc, nom rất tươi tỉnh, cho tới giờ hai thằng chúng tôi lúc nào cũng có nhau; Kat ngồi xổm trước mặt chúng tôi với hai vai buông thõng, ngón tay cái to bè và giọng nói điềm đạm; Müller với hàm răng vẩu và tiếng cười sang sảng; Tjaden với đôi mắt chuột nhắt; Leer nuôi bộ râu xồm, trông như đã trạc tứ tuần.

    Khói thuốc dày đặc trên đầu chúng tôi. Đời lính sẽ ra sao nếu không có thuốc lá! Căng tin là nơi trú ẩn, bia còn hơn là một thứ đồ uống, đó là tín hiệu cho thấy người lính được phép duỗi chân duỗi tay và nằm dài mà không sợ nguy hiểm. Mà chúng tôi cũng đang làm đúng như thế, thằng nào thằng ấy chân cẳng duỗi dài và cứ tự nhiên khạc nhổ ra xung quanh. Toàn bộ cảnh tượng này thật ấn tượng với một kẻ ngày mai lên đường rời khỏi đây!

    Đêm đến chúng tôi lại sang bên kia dòng kênh. Tôi gần như sợ phải nói với cô nàng mảnh dẻ da bánh mật rằng tôi sẽ đi phép và khi tôi quay lại thì chắc chắn đơn vị đã chuyển tiếp đến nơi nào đó, rằng như vậy hai đứa sẽ chẳng còn gặp lại nhau; nhưng cô chỉ gật gật đầu và không biểu lộ gì nhiều. Thoạt đầu tôi không sao hiểu nổi, nhưng sau đó thì vỡ lẽ. Leer nói đúng: giá như tôi ra tiền tuyến cơ, thì cô ta hẳn sẽ lại xuýt xoa “pauvre garçon”(*); đằng này một anh lính đi phép… thì các cô gái chẳng mấy quan tâm, có gì thú vị đâu chứ. Quỷ tha ma bắt cô ta đi với những lời ríu rít, thỏ thẻ của cô ta. Tôi cứ tin vào điều kỳ diệu, nhưng hóa ra bọn họ chỉ vì mấy ổ bánh mì.

    (*) Tiếng Pháp: “Chàng trai đáng thương”.

    Sáng hôm sau, sau khi đã bắt sạch chấy rận, tôi đi ra ga. Albert và Kat theo tiễn tôi. Tại bến tàu, chúng tôi nghe nói chắc phải vài tiếng đồng hồ nữa tàu mới chạy. Hai người kia phải quay lại trực ban. Bọn tôi đành chia tay nhau.

    “May mắn, nhé, anh Kat! May mắn hả, Albert!”

    Họ quay đi và còn vẫy tôi vài lần. Bóng họ nhỏ dần. Mỗi bước đi, mỗi cử chỉ của họ đều quá thân thuộc đối với tôi, từ xa tôi có thể dễ dàng nhận ra họ. Rồi họ khuất hẳn.

    Tôi ngồi xuống ba lô của mình và đợi.

    Đột nhiên tôi sốt ruột muốn mau đi khỏi đây kinh khủng.

    Tôi nằm lại nhiều nhà ga; tôi đứng trước nhiều nồi xúp chờ lĩnh suất; tôi ngồi bệt trên nhiều tấm gỗ; nhưng rồi quang cảnh bên ngoài cửa sổ con tàu dần khiến tôi bồn chồn, lo sợ và cảm thấy thân quen. Quang cảnh ấy lướt qua những ô cửa sổ lúc xế chiều với những làng mạc mà trong đó những mái nhà tranh như những chiếc mũ mềm đội sùm sụp trên những ngôi nhà sườn vách gỗ quét vôi trắng, với những cánh đồng ngũ cốc lấp lánh như xà cừ dưới ánh nắng xiên khoai, với những vườn cây ăn quả, những vựa cỏ và những cây bồ đề cổ thụ.

    Những cái tên của các ga xép trở thành những khái niệm khiến trái tim tôi run rẩy. Đoàn tàu cứ rầm rầm chạy, tôi đứng bên cửa sổ, tay vịn chắc vào khung gỗ. Những cái tên này ôm trọn cả thời niên thiếu của tôi.
     
  10. hungbc1010

    hungbc1010 Lớp 6

    Quyển này đã có ebook hoàn chỉnh mấy năm trước rồi mà, chuyển text chi nữa bạn?
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này