Hoàn thành NC-17 Shadow Woman - Linda Howard

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi chau_la_la, 18/4/20.

  1. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Tên tác phẩm: Shadow Woman
    Tác giả: Linda Howard
    Người dịch: chauchau
    Tình trạng: Hoàn thành

    37805892._SY475.jpg

    Giới thiệu:
    Một buổi sáng Lizette Henry tỉnh dậy và không nhận ra được hình ảnh phản chiếu đang nhìn lại cô trong gương. Cô không bị mất trí nhớ. Cô nhớ cô là ai, cô đã làm gì vào ngày hôm trước, cha mẹ, nơi cô lớn lên – mọi thứ. Nhưng cô là ai, không phải là người mà cô đang thấy. Hoảng hốt, cô bắt đầu tìm kiếm trong nhà một thứ gì đó – bất cứ thứ gì – trùng khớp với những gì cô nhớ. Không có gì cả. Thế nhưng không có gì trong cuộc đời cô có vẻ bất thường, ngoại trừ chính cô. Có thể là cô điên, nhưng bản năng mách bảo cô không phải như vậy. Các phụ nữ khác có lẽ đã đi đặt hẹn với một bác sĩ tâm thần, nhưng Zette không phải họ. Tận sâu trong tâm trí cô biết rằng cô không phải là khuôn mặt trong gương, và cô phải đi tìm sự thật, trước khi quá trễ...

    Mục lục:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     

    Các file đính kèm:

    Chỉnh sửa cuối: 17/5/20
  2. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Mở đầu


    San Francisco, bốn năm trước

    11 giờ tối. Tổng thống và Đệ nhất Phu nhân, Eli và Natalie Thorndike, đã về phòng khách sạn nghỉ ngơi cho buổi tối. Đó là một ngày thật dài, bắt đầu với chuyến bay xuyên quốc gia của Tổng thống, sau đó là đi ngay vào một trận lốc phát biểu cho chiến dịch – đáng lý ra là không phải phát biểu cho chiến dịch, nhưng tất cả chúng thực sự đều là như vậy – sau đó là đến đỉnh điểm của ngày với một buổi ăn tối gây quỹ cực lớn với mỗi dĩa đáng giá mười ngàn đô-la. Đệ nhất Phu nhân ở bên cạnh ngài trong suốt quãng thời gian đó, vì vậy bà không chỉ trải qua cùng số giờ, mà bà còn làm mọi việc ấy trên đôi giày ba inch.

    Laurel Rose, một nhân viên kỳ cựu với mười một năm trong nghề hiện thời đang được phân công vào đoàn tháp tùng Đệ nhất Phu nhân, đã mệt tới mức khó có thể nhìn thẳng đằng trước được nữa, nhưng cuối cùng thì ca của cô cũng đã kết thúc. Cô không mang giày cao gót, nhưng dù vậy chân cô cũng đang giết cô. Cô cố hết sức để không lê từng bước chân khi đi về phòng được chỉ định của mình, phía cuối hành lang nhưng cùng tầng với phòng suite của Tổng thống, để cô có thể đáp ứng nhanh chóng khi cần thiết. Các đặc vụ đang trực ở trong hai phòng, một phòng ngay phía bên kia hành lang, phòng kia có cửa nối với phòng suite, mặc dù cánh cửa đó được khoá từ phía phòng suite. Cô chẳng ghen tị với họ về ca ba này, nhưng ít nhất là bây giờ khi POTUS (Tổng thống) và FLOTUS (Đệ nhất Phu nhân) đã đi nghỉ cho buổi tối rồi, thì họ cũng được thư thả chút ít.

    Toàn bộ ba tầng khách sạn đã được thuê trọn, với Tổng thống và Đệ nhất Phu nhân ở trên tầng giữa. Khách sống trong khách sạn đã được dời sang phòng khác, cầu thang bộ và thang máy đều được đảm bảo, nhân viên khách sạn đã được điều tra và phê duyệt, và các toà nhà bên kia đường đã được đảm bảo; mọi mối nguy cơ biết tới trong khu vực đã được liên lạc để thông báo về việc đang bị Tổ chức Mật Vụ theo dõi, mặc dù hầu hết đều được đánh giá là không có khả năng thực hiện những lời đe doạ đã đưa ra. Tổ chức đã làm mọi thứ để Cặp đôi Đệ nhất được an toàn nhất có thể.

    Nhưng như vậy không có nghĩa là sẽ không thể có chuyện không mong muốn xảy ra; nó chỉ có nghĩa là họ đã gây khó khăn hết mức để bất cứ chuyện gì có thể xảy ra. Tận trong thâm tâm Laurel luôn có một cảm giác bất an nhắc nhở cô rằng bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, khiến cho một phần nhỏ trong cô liên tục cảnh giác.

    “Cô nhấc chân không nổi nữa kìa”, đặc vụ đồng nghiệp, Tyrone Ebert, nhận xét khi đi cạnh cô trên đường về phòng của mình. Mình giấu cái chân đau tài tình thật, cô nhăn nhó nghĩ. Cô chẳng màng chối làm gì, vì có làm thì anh ta cũng sẽ chỉ nhìn xuống cô với một trong những cái nhìn tôi-nhìn-thấu-cô-như-gương-soi của anh ta mà thôi. Anh ta có cái gì đó có vẻ hơi ma quái, đôi mắt tối của anh ta nhìn thấy mọi thứ trong khi anh ta lại chẳng để lộ thứ gì về anh ta ra hết, nhưng Laurel tin vào bản năng nhạy như dao cạo của anh ta. Cho đến giờ chưa có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy anh ta bị kiệt sức hết, một điều mà cô đánh giá cực kỳ cao, bởi vì bản thân cô chỉ đang gắng gượng bởi một sợi chỉ mà thôi.

    “Ừ, ngày hôm nay quá dài”.

    Điều đó không có gì mới cả. Mọi ngày đều dài hết. Kể từ khi Tổ chức được dời từ Bộ Ngân khố sang Quốc phòng, theo cô mọi việc nói chung là trở nên tệ đi. Cũng không phải là trước đó Tổ chức tuyệt vời gì – ban lãnh đạo Tổ chức Đặc Vụ là một phép nghịch hợp; gọi là ban lựu đạn thì có vẻ đúng hơn. Nhưng bây giờ thì giờ làm việc đã dài còn dài hơn, tinh thần thì trôi xuống cống, trang thiết bị thì tồi tàn, và còn một việc hoàn toàn khác nữa là mẹ cô, vốn đang sống ở Indianapolis, ngày càng trở nên già yếu và không thể tự làm nhiều thứ hơn. Laurel đã xin chuyển công tác tới vùng Indianapolis, nhưng cô không hy vọng lắm vào việc sẽ được chuyển đi dù cho là có một vị trí trống. Đó không phải là cách mà xã hội này vận hành; trừ khi anh có quyền lực và quen biết người nào có khả năng giật kéo vài sợi dây, không thì anh khó mà đạt được thứ mà anh muốn.

    Laurel không có cái quyền lực cần thiết đó. Cô ghét mấy chuyện chính trị chốn công sở, nên cô không bao giờ chơi mấy trò tranh giành quyền lực, và giờ thì cô cảm thấy hơi bị rõ ràng là sự nghiệp của cô ở Tổ chức sắp tới hồi kết rồi. Đó lại là một vấn đề lớn khác của Tổ chức: họ không thể giữ được những người giỏi ở lại bởi những chính sách ngu xuẩn của họ. Và, chết tiệt là, Laurel biết mình là một đặc vụ giỏi, dù cho ngân sách hạn hẹp, nhân lực thiếu thốn, vũ khí cổ lỗ, và giờ làm ngày càng dài. Cô chỉ không thể gắng chịu hơn được nữa. Ừm, dù sao thì cũng không được bao lâu nữa. Cô vẫn chưa thể bắt bản thân hạ quyết tâm bỏ nghề hẳn.

    Cái nghề này ít nhiều cũng khá ổn. Lương lậu không nhiều, nhưng cũng được. Cô thích những gì họ làm, và có thể ngăn chia cảm xúc của cô để không phải bận tâm đến việc là ai ngồi trong Căn phòng Bầu dục (Oval Office: phòng làm việc của tổng thống Mỹ), chỉ cần bận tâm tới công việc thôi. Cô không cần phải thích Đệ nhất Phu nhân; cô chỉ cần bảo vệ cho bà thôi. Công việc sẽ dễ dàng hơn nếu như nhà Thorndike dễ chịu hơn một chút, nhưng dù sao ít ra họ cũng không kinh khủng như một vài Gia đình Đệ nhất trước đây, nếu mấy câu chuyện mà cô nghe kể là đáng tin. Natalie Thorndike không thô lỗ, hay là mê rượu chè, hay là đầy thù hận. Bà kiểu như không coi các đặc vụ bảo vệ bà là người hơn; bà kiêu ngạo, lãnh đạm và xa cách. Đôi khi Laurel ước chi Bà Thorndike là người mê rượu chè, để mà làm cho công việc tháp tùng ít ra cũng trở nên thú vị hơn.

    Tổng thống thì nói chung cũng giống như vậy, lãnh đạm và xa cách, tách rời khỏi mọi thứ ngoài chính trị. Trên ống kính, hay khi đang trong chế độ tranh cử, từ ông phát ra một không khí ấm áp và dễ chịu, nhưng ông là một diễn viên đại tài. Trong đời tư, ông là người toan tính và muốn thao túng người khác – mà Bà Thorndike cũng chẳng có vẻ gì là quan tâm. Đôi lúc hai người bất hoà với nhau; các đặc vụ luôn có thể nhận ra điều đó bởi vẻ lãnh đạm đặc trưng hoàn toàn trở nên băng giá, nhưng ngoài ra thì không có một dấu hiệu bên ngoài nào của sự xích mích, không tranh cãi to tiếng, không một lời công kích, không đóng sập cửa. Mặc dù, hầu như mọi lúc, cặp đôi chính trị quyền lực này luôn sánh đôi cùng nhau. Sự đoàn kết của họ đã giúp đưa họ vào Nhà Trắng, nơi họ dự định sẽ ở thêm một nhiệm kỳ nữa. Với bản năng tàn nhẫn của Tổng thống và gia đình quyền lực của Đệ nhất Phu nhân hậu thuẫn, hai người sẽ tiếp tục ở trong vòng tròn chính trị thân cận của đất nước trong nhiều năm nữa, tích luỹ tài sản và quyền lực, ngay cả sau khi ông không còn tại vị.

    “Gặp lại cô sáng mai”, Tyrone nói khi họ đi tới phòng anh ta.

    “Ngủ ngon”, miệng cô tự động nói lại, dù cô có chút ngạc nhiên là anh ta đã nói chuyện nhiều như vậy. Anh ta không thèm trò chuyện tầm phào, hay là giao lưu gì. Cô thực ra biết rất ít về anh ta, ngoại trừ việc anh ta luôn thi hành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo. Đến nay cô đã làm việc bên cạnh anh ta hai năm rồi, kể từ khi anh ta tới tháp tùng Đệ nhất Phu nhân, và – ngẫm lại thì – cô thậm chí còn không biết là anh ta đã kết hôn hay chưa nữa. Anh ta không đeo nhẫn, nhưng cái đó không nhất thiết là chứng tỏ điều gì. Nếu anh ta đã kết hôn, hoặc là có đang quen ai, anh ta cũng chẳng bao giờ đề cập tới. Mặt khác, anh ta chẳng bao giờ thử tán tỉnh gì cô, hay là bất cứ đặc vụ nữ nào khác. Tyrone luôn... đơn độc.

    Khi Laurel đi tiếp tới phòng của cô, cách phòng của anh ta hai phòng và nằm bên phía đối diện của hành lang, cô lần đầu tiên nhận thấy một điều gì đó ở anh ta khiến bụng cô có chút rộn ràng. Cô đã khoá chặt cảm xúc đó lại vì công việc, nhưng giờ đây khi cô chấp nhận với bản thân cô rằng mình có lẽ sẽ không còn ở đây lâu nữa, cô như thể đã cho phép tiềm thức của mình chú ý đến sự thu hút ấy.

    Cô thích anh. Anh không phải là người đẹp trai, nhưng lại cực kỳ gây ấn tượng, theo kiểu quyết liệt, nguy hiểm. Tyrone sẽ không bao giờ hoà lẫn vào trong một đám đông. Anh cao và cơ bắp, và di chuyển với một sức mạnh uyển chuyển thường thấy ở các vận động viên chuyên nghiệp, hoặc là các binh sĩ lực lượng huấn luyện đặc biệt. Anh thực sự khiến cô cảm thấy thoải mái. Cô thích ở bên cạnh anh, mặc dù anh không phải kiểu người nói nhiều. Và cô tin ở anh, một điều rất quan trọng.

    Cô trượt thẻ khoá phòng vào khe cửa và vặn tay cầm khi đèn xanh bật lên, bước vào trong không khí mát lạnh của căn phòng. Đèn cạnh giường bật sáng, và cả đèn trong phòng tắm, y nguyên như cô để. Cô vẫn dành ít phút để kiểm tra căn phòng, bởi kiểm tra cho chắc chắn chính là công việc cô làm. Mọi thứ bình thường.

    Nhăn nhó, cô dùng chân cởi giày ra, rồi bật ra một tiếng rên thư giãn khi lần lượt xoay từng cổ chân, uốn cong chân để kéo giãn dây chằng. Tuy nhiên, gan bàn chân cô vẫn nhức như bị thiêu đốt, và không gì có thể giúp được ngoài việc để cho chúng thư giãn trong vài tiếng nữa, và cô dự định là sẽ làm đúng như vậy càng nhanh càng tốt.

    Cô cởi áo khoác và bỏ trên giường, và đang bắt đầu kéo bao súng ở vai ra khi cô thoảng nghe thấy tiếng bụp-bụp-bụp. Cô không cần phải dừng lại để nghe, không cần phải nghĩ; cô biết cái tiếng đó là gì. Luồng adrenaline dồn dập thiêu đốt huyết quản cô. Cô không nhận biết được việc nhảy chồm tới cánh cửa, chỉ biết mình đã nhào ra hành lang và thấy Tyrone ngay phía trước cô, hành động giống y như cô, chạy hết tốc lực về cuối hành lang tới phòng suite của Tổng thống với vũ khí trong tay. Họ không đơn độc. Ca trực đêm đã toả ra từ căn phòng họ đang ở và trưởng đoàn tháp tùng Tổng thống, Charlie Dankins, đang đá vào cánh cửa đôi.

    Ôi trời ơi. Tiếng bắn phát ra từ bên trong phòng suite.

    Cửa và khoá căn phòng rất chắc chắn; Charlie đã phải thử rất nhiều lần trước khi Laurel và Tyrone và một đám đặc vụ khác chạy tới nơi. Tyrone đứng vào vị trí bên cạnh Charlie và nói, “Lên”, và họ cùng đá, lực kết hợp hai người cuối cùng đã phá sập cánh cửa từ bên trong. Các đặc vụ xông vào mọi nơi, vũ khí sẵn sàng, nhanh chóng quét mắt qua phòng khách để tìm kiếm mối đe doạ.

    Căn phòng trống không. Cô không nghe thấy bất cứ thứ gì, điều khiến cô hoảng sợ hơn nữa, nhưng tim cô đang đập như trống dồn bên tai cô, nên có thể đã che lấp hết mọi âm thanh khác. Phía bên phải, cánh cửa dẫn vào phòng Đệ nhất Phu nhân để mở, nhưng Laurel kiềm chế cái bản năng muốn xông tới đó. Ngay lúc này, ưu tiên của họ là Tổng thống, nghĩa là Charlie nắm quyền chỉ huy.

    Cánh cửa dẫn vào phòng Tổng thống, bên tay trái, đang đóng. Charlie nhanh chóng đánh giá tình hình; họ không thể giả định điều gì cho tới khi biết được Tổng thống ở đâu. Ông chỉ vào Laurel và Tyrone và các đặc vụ còn lại trong đoàn tháp tùng Đệ nhất Phu nhân, ra hiệu cho họ kiểm tra nửa phòng bên Phu nhân, trong khi ông và những người khác tràn vào bên phía Tổng thống.

    Chiến thuật của ông ta rất hợp lý. Đoàn tháp tùng di chuyển về phía phòng ngủ của Đệ nhất Phu nhân theo quy trình đã tập huấn vô số lần.

    Đèn trong phòng ngủ đã bị tắt, nhưng ánh đèn từ cánh cửa phòng tắm đang mở chiếu rọi qua sàn phòng cẩm thạch bóng loáng và chiếc thảm phương Đông bằng vải lông. Họ xông vào phòng với độ chính xác kỹ lưỡng, dừng phắt lại khi phát hiện Natalie Thorndike đứng bất động phía bên kia ghế sofa, phía tay trái bà quay về hướng họ.

    Laurel ở vị trí bên trái khi họ di chuyển vào phòng, với Adam Heyes, trưởng đoàn tháp tùng, phía tay phải cô, và Tyrone đứng bên phải Adam. Adam gắt giọng: “Phu nhân, Phu nhân có...”

    Rồi họ nhìn thấy có người đang nằm trên sàn phía trước Đệ nhất Phu nhân, một người có tóc sẫm màu, dày và đã bạc gần hết: Tổng thống.

    Vài giây sau đó trôi qua trong im lặng với tốc độ ánh sáng, như thể thời gian hoá thành một tia sáng chớp nháy.

    Chớp.

    Bà Thorndike xoay người qua, và khi đó họ nhìn thấy vũ khí trên tay bà.

    Chớp.

    Laurel có một phần của giây, một chớp đông cứng, để ghi nhận sự vô hồn kinh khủng trên nét mặt của Đệ nhất Phu nhân; sau đó là ánh sáng vụt ra từ họng súng và thứ chỉ nghe thấy một tiếng “bụp” từ xa lại là một luồng âm thanh vô tận trong giới hạn của căn phòng khách sạn khi Đệ nhất Phu nhân bắn và tiếp tục bắn, ngón tay bà giật mạnh trên cò súng.

    Chớp.

    Một sức mạnh khủng khiếp lao vào Laurel, quật cô ngã ra đằng sau về phía cánh cửa. Ở một mức độ xa xăm nào đó, cô biết cô đã bị bắn, thậm chí nhận ra rằng cô đang chết.

    Chớp.

    Cô có thêm một vài phần giây với nhận thức sắc nét: Adam cũng đã ngã xuống, sóng soài bên cạnh cô. Tầm nhìn mờ đi của cô bắt gặp nét mặt của Tyrone, đanh thép và dữ tợn, khi anh bắn súng của anh.

    Làm thứ anh ta phải làm.

    Chúa ơi, Laurel nghĩ.

    Có lẽ đó là một lời cầu nguyện, có lẽ là một câu cảm thán khi hoảng sợ mà cô không hoàn toàn hiểu được. Không còn ánh chớp nào nữa. Cô phát ra một hơi thở nhỏ, rồi chết trong lặng lẽ.


    Vụ Tổng thống Hoa Kỳ bị ám sát bởi chính vợ ông, và cái chết của bà dưới tay Tổ chức Đặc Vụ khi bà khai hoả bắn họ, giết chết một đặc vụ trong chính đoàn tháp tùng cận vệ của bà và làm một người khác bị thương, là một đòn giáng quá mạnh cho dân chúng cả nước đón nhận. Cả nước choáng váng, nhưng cơ cấu hoạt động của chính phủ tự động tiếp tục vận hành. Ở phía bên kia của đất nước, Phó Tổng thống, William Berry, tuyên thệ nhậm chức gần như trước cả khi tin tức về cái chết của Tổng thống được truyền tới các cơ quan truyền thông. Quân đội được đặt trong chế độ cảnh giác cao độ, phòng trừ trường hợp đây là khởi đầu của một màn tấn công lớn hơn, nhưng từ từ các mảnh ghép được thu thập lại, tạo ra một bức tranh bẩn thỉu.

    Bức tranh ấy đúng nghĩa đen là một bức hình, được tìm thấy trong hành lý của Đệ nhất Phu nhân, với Tổng thống đang thân mật cùng chính em gái của bà. Whitney Porter Leightman, kém Đệ nhất Phu nhân 4 tuổi nhưng có một quyền lực riêng của mình ở Washington, ngay sau đó đã đi ẩn tích. Chồng bà, Thượng Nghị sĩ David Leightman, không đưa ra lời bình luận nào ngoài, “cái chết của Tổng thống là một thảm hoạ của đất nước.” Ông không đệ đơn ly hôn, nhưng cũng không ai biết chuyện ở trong quốc hội mà nghĩ là ông sẽ làm như vậy; bất chấp tình huống, vợ ông vẫn là thành viên của gia đình Porter quyền lực, và ông không định cắt đứt sự nghiệp chính trị của mình bởi vì Tổng thống đã tằng tịu với vợ ông.

    Một vài người tự hỏi điều gì đã khiến Đệ nhất Phu nhân tức nước vỡ bờ, bởi mối quan hệ ấy không hẳn là một bí mật và bà hẳn cũng đã biết tới từ lâu rồi, nhưng cuối cùng rốt lại thì sẽ chẳng ai biết chắc được chuyện là như thế nào cả.

    Đặc vụ Laurel Rose được chôn cất một cách trang trọng, và tên cô trở nên bất tử cùng tên của những người khác cũng đã hy sinh mạng sống của mình khi thi hành nhiệm vụ. Adam Heyes bị thương nghiêm trọng, mất hàng tháng mới hồi phục lại được, và phải rời khỏi Tổ chức về nghỉ hưu. Vài tháng sau, đặc vụ đã bắn chết Đệ nhất Phu nhân, Tyrone Ebert, đã lặng lẽ từ chức.

    Và chính phủ cứ nối tiếp, những chiếc bánh xe cứ quay, những trang giấy xáo lật, những chiếc máy tính cứ rè rè kêu.
     
    dakedo, maggie14, kaka001 and 16 others like this.
  3. kimduyen

    kimduyen Lớp 1

    Hoan nghênh bạn và hoan hô có truyện mới để đọc
     
    B-Mon, hathao and chau_la_la like this.
  4. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương một


    Đó là một buổi sáng bình thường. Lizette Henry – người thuở xưa từng được gia đình và bạn thơ ấu gọi bằng biệt danh Zette-Jet-Phản-Lực – lăn ra khỏi giường như mọi hôm vào lúc 5 giờ 59 phút sáng, một phút trước khi đồng hồ báo thức vang lên. Trong bếp, chế độ hẹn giờ tự động trên chiếc máy pha cà phê khởi động quy trình pha chế. Vừa ngáp, Lizette vừa đi vào trong phòng tắm, mở nước vòi hoa sen, và xử lý nhu cầu bức bách là đi tiểu trong lúc chờ nước nóng lên. Lúc cô xong thì nước vòi sen cũng vừa đủ ấm.

    Cô thích bắt đầu buổi sáng bằng những phút tắm thật thoải mái và thư giãn. Cô không hát, không lên kế hoạch cho một ngày, không bận tâm tới chính trị hay kinh tế hay bất cứ thứ gì khác. Khi đang tắm, cô chỉ đơn giản là thả lỏng người – hay nói đúng hơn là, làm ấm người.

    Vào buổi sáng tháng Bảy đặc biệt này, thói quen sinh hoạt của cô đã thuần thục và nhuần nhuyễn đến mức cô không cần phải nhìn đồng hồ để biết giờ ở bất kỳ thời điểm nào, cô tắm trong khoảng thời gian gần như bằng đúng thời gian máy pha cà phê hoàn thành quy trình pha chế, rồi quấn một chiếc khăn quanh mái tóc ướt và lau khô người bằng một chiếc khăn khác.

    Từ cánh cửa phòng tắm mở, một mùi hương cà phê thơm lừng mời gọi cô. Gương phòng tắm đang mờ hơi nước, nhưng tới khi cô lấy ly cà phê buổi sáng đầu tiên thì sẽ cũng rõ lại rồi. Quấn mình trong một chiếc áo choàng vải sợi bông, cô bước chân không vào nhà bếp và lấy một cái ly từ tủ đựng. Cô thích uống cà phê ngọt và dịu nhẹ, vì vậy cô đã cho đường và sữa trước, sau đó rót cà phê nóng vào trong thứ hỗn hợp. Đây giống như là dùng tráng miệng đầu tiên vào buổi sáng vậy, một việc mà theo từ điển của cô là một cách tuyệt vời để khởi đầu một ngày mới.

    Cô mang cà phê vào trong phòng tắm để nhấm nháp trong khi sấy tóc và thoa ít phấn son trang điểm để đi làm.

    Đặt cái ly lên bàn trang điểm, cô gỡ chiếc khăn trên đầu ra và cúi người về trước từ phần hông trở lên, dùng hết sức mình để lau mái tóc nâu đậm dài ngang vai của mình. Sau đó cô thẳng người dậy, hất tóc ra đằng sau, và quay về phía gương...

    ... và nhìn chằm chặp vào gương mặt của một người lạ.

    Chiếc khăn ướt tuột khỏi những ngón tay đột ngột vô cảm của cô, rơi xuống sàn nằm dưới chân cô.

    Người phụ nữ đó là ai?

    Đó không phải là cô. Lizette biết cô trông như thế nào, và đây không phải là hình ảnh phản chiếu của cô. Cô hoảng loạn xoay người nhìn xung quanh để tìm người phụ nữ phản chiếu trong gương, sẵn sàng cúi tránh, sẵn sàng bỏ chạy, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tính mạng của mình, nhưng không có ai ở đó cả. Chỉ có một mình cô ở trong phòng tắm, một mình cô trong nhà, một mình...

    Một mình.

    Từ ấy thì thầm trong tâm trí cô, một âm thanh thoáng qua, chỉ vừa đủ để cô nhận thấy. Quay trở lại chiếc gương, cô cố gắng vượt qua cơn bối rối và hoảng sợ, nghiên cứu con người mới này như thể cô ta là kẻ địch hơn là... hơn là gì chứ? Hay là, ai?

    Chuyện này thật vô lý. Hơi thở cô thoát ra với từng hớp nhanh và nông, âm thanh nghe xa xôi và hoảng loạn. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra vậy chứ? Cô không bị mất trí nhớ. Cô biết cô là ai, cô ở đâu, nhớ tuổi thơ của mình, nhớ cô bạn Diana và các đồng nghiệp khác, biết trong tủ đồ của cô có gì và biết cô định mặc đồ gì hôm nay. Cô nhớ tối hôm trước cô đã ăn gì. Cô nhớ mọi thứ, có vẻ là – chỉ ngoại trừ gương mặt.

    Đây không phải là cô.

    Đường nét đặc trưng của cô, những gì cô thấy trong đầu, là một gương mặt mềm mại hơn, tròn hơn, có lẽ thậm chí là xinh hơn, mặc dù gương mặt cô đang nhìn thấy rất quyến rũ, chỉ là góc cạnh hơn. Đôi mắt thì giống nhau: xanh, cách xa một khoảng như nhau, có thể là sâu hơn một chút. Làm sao có thể như vậy chứ? Làm sao mà mắt cô có thể trở nên sâu hơn được?

    Còn gì giống nhau nữa? Cô nghiêng người tới gần gương hơn, tìm kiếm đốm tàn nhang mờ ở bên trái cằm cô. Đúng, đây rồi, nó vẫn ở chỗ đó; đậm hơn khi cô trẻ hơn, giờ thì gần như là không nhìn thấy nữa, nhưng vẫn ở đó.

    Còn mọi thứ khác đều... không đúng. Cái mũi này gầy hơn, và khoằm hơn; xương gò má cô nổi bật hơn, đúng ra chúng không cao như vậy; đường cằm vuông hơn, cằm cô nhìn sắc nét hơn.

    Cô trở nên mụ mẫm và hoảng loạn đến mức chỉ đứng đó, đờ đẫn, không thể làm bất cứ hoạt động nào cho dù cô có nghĩ tới đi nữa. Cô tiếp tục nhìn vào gương, tâm trí cô toả ra tìm kiếm một lời giải thích hợp lý.

    Nhưng không có gì cả. Cái gì có thể giải thích cho chuyện này chứ? Nếu cô đã từng bị tai nạn và phải thực hiện một cuộc đại phẫu tái tạo gương mặt, thì mặc dù cô có thể không nhớ về vụ tai nạn, nhưng chắc chắn cô phải nhớ chuyện sau đó, phải biết là cô đã ở trong bệnh viện và trải qua nhiều lần phẫu thuật, phải nhớ về quá trình phục hồi chức năng; ai đó đã phải kể cho cô về mọi chuyện chứ, thậm chí là nếu cô đã từng bị hôn mê trong quá trình hồi phục đi nữa. Nhưng cô không hề bị hôn mê. Chưa từng.

    nhớ cuộc đời cô. Không có vụ tai nạn nào cả, ngoại trừ vụ tai nạn đã giết chết cha mẹ cô và làm đảo lộn hoàn toàn thế giới của cô hồi cô mười tám ra, nhưng lúc đó cô không ở trong xe; cô đã đối mặt với hậu quả của nó, với một nỗi đau xé lòng, một cảm giác trôi lơ lửng không điểm tựa giữa khoảng không đen ngòm của cuộc đời khi tất cả chỗ dựa an toàn cho cô trước đây đều biến mất chỉ trong một khoảng nhịp đập của tim.

    Lúc này cô cũng có cảm giác giống như vậy, về một điều gì đó không đúng mơ hồ mà cô không biết phải làm gì, không thể hiểu hết ý nghĩa trong một lúc, không thể nắm bắt được đầy đủ là chuyện này ảnh hưởng đến mọi thứ cô biết như thế nào.

    Có thể là cô đã hoá điên. Có thể là cô đã bị một cơn đột quỵ trong đêm. Phải. Một cơn đột quỵ; cái đó nghe có vẻ có lý, bởi vì nó có thể tác động đến trí nhớ của cô. Để tự thử kiểm tra, cô nở một nụ cười, và ngắm hai bên miệng cô kéo lên bằng nhau trong gương. Cô lần lượt nháy từng bên mắt. Rồi cô giơ cả hai tay lên. Cả hai tay đều cử động được, mặc dù sau khi tắm và gội đầu thì cô nghĩ là cô cũng đã nhận ra rồi nếu một trong hai không cử động.

    “Mười, mười hai, một, bốn mươi hai, mười tám”, cô thì thầm. Rồi cô chờ thêm ba mươi giây, và nói lại lần nữa. “Mười, mười hai, một, bốn mươi hai, mười tám”. Cô chắc chắn là cô đã nói cùng dãy số, theo đúng thứ tự, nhưng mà nếu cô bị đột quỵ, thì liệu cô có khả năng để mà phán đoán hay không?

    Trí não và cơ thể đều có vẻ đang hoạt động bình thường, nên có lẽ có thể loại bỏ khả năng đột quỵ.

    Vậy giờ thì sao?

    Gọi cho ai đó. Ai chứ?

    Diana. Tất nhiên rồi. Cô bạn thân nhất của cô nhất định là biết, nhưng mà Lizette không biết cô có thể lựa lời thế nào để mà hỏi. Di nè; sáng nay khi mình tới chỗ làm thì nhìn mình một cái rồi nói cho mình biết coi là mặt mình hôm nay có giống với ngày hôm qua không hén?

    Ý tưởng đó thật tức cười, nhưng nhu cầu được biết của cô thực sự khẩn thiết. Lizetta đã bắt đầu bước về phía chiếc điện thoại khi đột nhiên một cơn hoảng sợ làm chân cô đông cứng giữa chừng.

    Không.

    Cô không thể gọi cho ai hết.

    Nếu cô gọi, họ sẽ biết.

    Họ? Ai là “họ”?

    Với suy nghĩ đó, cô đột nhiên thấy người ướt mồ hôi, và một cơn buồn nôn cuộn xoắn dạ dày cô. Cô nhào trở lại phòng tắm, với tới bồn vệ sinh vừa kịp lúc trước khi cô không thể nhịn được lâu hơn nữa. Sau khi nôn ra chút xíu cà phê mà cô vừa uống, cô ôm chặt bụng khi từng cơn nôn khan tấn công người cô và không chịu dứt. Một cơn đau nhoi nhói dưới mắt cô, dữ dội tới mức nước mắt làm mờ tầm nhìn của cô, chảy xuống dọc hai má.

    Khi những cơn nôn quặn thắt ngưng lại, cô yếu ớt ngồi xuống sàn phòng tắm mát lạnh và với tay lấy cuộn giấy vệ sinh để lau mắt và hỉ mũi. Cơn đau khủng khiếp dưới mắt cô bớt đi, như thể một cái kẹp bên trong được nới lỏng ra. Hổn hển, cô nhắm mắt lại và để đầu cúi xuống cho tới khi nó tựa vào tường. Cô mệt tới mức khiến cô nhớ tới cái cảm giác mệt thế nào sau khi vừa chạy xong 30km.

    30km? Làm sao cô biết được cảm giác chạy ba mươi cây số như thế nào? Cô không có chạy bộ, chưa bao giờ cả. Cô thỉnh thoảng có đi bộ, và khi còn nhỏ thì cô có chạy xe một chút, nhưng cô chẳng phải là một người cuồng thể thao gì.

    Cơn đau nhói dưới mắt cô quay lại, và bụng cô lộn nhào. Cô hớp lấy không khí thông qua miệng, cố dằn mình lại để không bắt đầu nôn khan lần nữa. Để mấy ngón tay lên góc trong của mắt, cô ấn mạnh, như thể cô có thể đẩy cơn đau ra. Có lẽ áp lực có tác dụng; cơn nhói giảm bớt, y như ban nãy.

    Dù vậy, cơn buồn nôn và đau đầu lại khá an ủi cô. Có lẽ cô chỉ bị bệnh thôi. Có lẽ cô mắc phải một loại virus lạ khiến cô bị ảo giác, và những gì mà cô nghĩ cô thấy trong gương chỉ là vậy thôi: ảo giác.

    Trừ việc cô không cảm thấy bị bệnh. Và điều đó thật kỳ lạ, bởi vì cô vừa mới bị nôn mửa nặng tới mức đau cả cơ bụng, và đầu cô bị đau buốt, nhưng cô không cảm thấy bệnh. Giờ khi đã qua rồi, cô cảm thấy hoàn toàn bình thường.

    Cô cảm thấy bực mình nữa. Giờ giấc của cô bị xáo trộn hoàn toàn; đáng lẽ giờ tóc cô đã khô, và cô đã trang điểm xong. Cô rất ghét có thứ gì đó phá vỡ thời gian biểu mà cô đã tự mình đặt ra; cô cực kỳ kỷ luật, đến mức có thể khiến cho một chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ trông như một kẻ vô tổ chức…

    Khoan đã. Kỷ luật? Cô á? Từ khi nào mà có chuyện đó vậy? Có gì đó không đúng, như thể cô đang nghĩ tới một ai đó hoàn toàn khác vậy.

    Đột nhiên cô lại nôn lần nữa; cô nhổm người quỳ lên và cúi qua bồn toilet, sặc ho, bụng nhào lộn, nước miếng nhễu nhão từ miệng để mở. Lần này cơn đau như dao găm dưới mắt cô làm cô không thấy gì được nữa. Cô bám lấy thành cái bồn rửa bên cạnh, nắm chặt để giữ mình khỏi bị ngã quỵ xuống sàn – hoặc là chúi đầu vào bồn toilet. Ngay cả khi đang bị đau và buồn nôn kinh khủng, đâu đó sâu trong cô cảm thấy một tia hài hước không hợp cảnh bởi cái ý nghĩ đó.

    Cơn co thắt dần dần bớt đi và giờ cô thực sự ngã quỵ, nhưng ít ra là cũng ở tư thế ngồi trên sàn. Ngả người tựa vào chiếc bàn trang điểm, cô ngửa đầu ra sau và nhắm mắt lại, trong đầu tưởng tượng thấy cảnh cơn đau lùi lại như một cơn thuỷ triều hữu hình.

    Rõ ràng là cô đã mắc phải một loại vi khuẩn nào đó. Và cũng rõ ràng là không cách nào cô có thể đi làm được. Không chỉ là cô không muốn tạo ra một cảnh tượng với cô buồn nôn ở khắp nơi – hay tệ hơn là nôn thốc nôn tháo ra – cô càng không muốn lây bệnh cho ai khác. Sau khi khỏi bệnh, mọi người có lẽ là sẽ săn đuổi cô với đuốc lửa và cây chĩa ba trên tay.

    Chuyện này thật điên rồ. Cô không thường suy nghĩ như vậy, về việc nhảy bổ vào toilet thật là vui, hay là về một đám người với chĩa ba. Cô thường nghĩ về công việc, về bạn bè, và giữ cho nhà cửa sạch sẽ và giặt giũ quần áo. Cô nghĩ về những thứ bình thường.

    Cơn đau lại nhói lên lần nữa, không buốt nhức nhối như lúc nãy, nhưng hiện hữu dưới mắt cô. Cô cứng người lại, chờ con quái vật tới tóm lấy cô. Bụng cô nhào lộn, rồi dịu lại; cơn đau lắng xuống.

    Cô cần phải gọi điện báo bệnh để xin nghỉ, lần đầu tiên cô làm vậy kể từ khi cô bắt đầu làm việc ở công ty Đầu tư Becker. Trưởng phòng của cô, Maryjo Winchell, có một chiếc di động của công ty dành riêng cho những việc như vầy, và bởi vì cô vốn là người cẩn thận, Lizette đã lưu số của Maryjo vào di động của cô.

    Bọn họ sẽ biết.

    Những từ nghĩ kỳ lạ ấy lại vọng lên trong tâm trí cô khiến Lizette căng thẳng, nhưng lần này chúng không mang theo cơn đau và buồn nôn mệt nhoài. Tại sao lần này lại không xảy ra?

    Bởi vì cô đã nghĩ tới điều đó trước rồi.

    Đúng vậy. Câu trả lời cảm thấy rất đúng. Cô không biết vì sao, bởi vì bề ngoài thì nó vừa ngu ngốc vừa hoang tưởng, nhưng – đúng vậy.

    Được rồi. Vậy thì, điều tốt nhất để làm là không để cho mọi người biết là cô đã trải qua một cơn đảo lộn hoàn toàn, và chỉ cần tỏ ra bình thường – bệnh, nhưng bình thường.

    Cô lấy chiếc điện thoại di động từ trên bàn nơi cô để lúc nãy, và khởi động máy lên. Cô luôn luôn tắt máy vào buổi tối, bởi vì… Cô không biết vì sao. Không có câu trả lời nào hiện ra trong óc cô; cô chỉ làm vậy thôi.

    Khi chiếc điện thoại bật lên, cô lướt qua danh bạ tới khi cô tìm thấy tên “Maryjo”, chọn số đó, và nhấn biểu tượng gọi màu xanh. Cô nghe tiếng reo gần như lập tức, nhưng cô đã đọc ở đâu đó là mấy tiếng reo đầu chỉ là tiếng reo tự động được cho vào để khiến cho người gọi nghĩ là có chuyện gì đó đang xảy ra, trong khi thực tế là việc kết nối mất vài giây lâu hơn mới xảy ra. Cô cố nghĩ xem mình đã đọc thấy điều đó ở đâu, và khi nào, nhưng không thể nhớ được. Có thể là điều đó không còn đúng nữa; công nghệ điện thoại di động đã thay đổi rất nhanh…

    Một tiếng click, và “Maryjo nghe” vẳng bên tai cô. Lizette đã quá mải nghĩ về công nghệ di động đến mức trong một giây đầu cô trống rỗng, phải ráng nhớ xem vì sao cô gọi điện. Bệnh. Đúng rồi.

    “Chị Maryjo, em Lizette đây.” Cho tới khi cô nói, cô đã không nhận ra là giọng cô nghe thều thào thế nào, giọng cô lè nhè vì những cơn nôn, hơi thở cô vẫn quá nhanh. “Em xin lỗi, nhưng mà em không thể đi làm hôm nay được. Em nghĩ em mắc phải một loại vi khuẩn nào đó. Tin em đi, chị sẽ không muốn em gieo rắc nó loanh quanh đâu.”

    “Em bị nôn à?” Maryjo hỏi một cách thông cảm.

    “Dạ. Với đầu em như bị búa bổ vậy.”

    “Có một loại virus đường ruột đang lây lan khắp nơi đó. Mấy đứa con chị cũng mới bị tuần trước. Nó kéo dài khoảng hai mươi bốn tiếng, cho nên chắc ngày mai em sẽ thấy khá hơn đó.”

    “Báo chị trễ thế này thật em ngại lắm.” Mặc dù là làm sao để mà cô có thể dự đoán trước là mình bị bệnh thì cô không biết.

    “Đâu phải tại em. Đây là ngày phép nghỉ bệnh đầu tiên mà em xin trong ba năm mà, cho nên không có gì đâu.”

    Lizette xoay sở nói được câu, “Cám ơn chị.” Có một điều gì đó rung hồi chuông cảnh báo sâu thẳm trong đầu cô, một thứ gì đó cảm thấy như là có một thứ gì khác – Dạ dày cô lộn nhào. “Xin lỗi, em phải chạy đây…” Rồi cô chạy, chân va vấp lung tung, tay bịt chặt miệng. Cô ngả người trên toilet rồi những tiếng tắc nghẽn kinh khủng thoát ra từ cổ họng cô, nhưng không có gì khác thoát ra nữa.

    Khá hơn rồi. Lần này đã khá hơn. Nhưng cô không cho mình nhìn vào người lạ trong gương; thay vào đó cô nhắm mắt lại và chỉ đứng đó trong một lúc. Cuối cùng cô với tay lấy cái khăn và thấm nước từ mắt, lau khắp mặt và cổ.

    Tim cô vẫn còn đập thình thịch. Cái chuyện gì đã gây ra đợt buồn nôn này? Có phải là điều gì đó mà Maryjo nói không? Cô không thể nói cụ thể là gì, nhưng cô nhớ rõ ràng cái cảm giác báo động đó, như thể Maryjo đã đánh bạo đi vào một khu vực nguy hiểm vậy. Cô thầm nhớ lại đoạn nói chuyện trong đầu, cố tìm ra bất cứ điều gì bất thường, thậm chí là điều gì đó thật nhỏ nhặt. Con của Maryjo cũng đã bị virus đường ruột, nó kéo dài khoảng hai mươi bốn tiếng, vân vân. Thực sự là không có gì khác, ngoại trừ câu nhận xét về việc bao lâu rồi cô mới lấy một ngày phép vì bệnh.

    Cơn đau xuyên qua đầu cô như một cú cảnh báo. Cô nắm lấy mép bồn và chờ cho nó qua đi, cố giữ cho tâm trí cô khỏi bất kỳ suy nghĩ nào, và cơn đau dịu đi.

    Được rồi.

    Một điều gì đó khuấy động cô, một điều gì đó mà cô cảm giác là cô nên nhớ nhưng cứ ngoan cố một cách đáng ghét nằm ở lưng chừng…

    Không. Chính điều đó. Và thật là nhỏ nhặt. Chính xác là lần cuối cô đã xin nghỉ phép vì bệnh là khi nào?

    Cô chưa từng, ít nhất là trong khả năng cô nhớ được. Chưa từng trong suốt năm năm cô làm ở công ty Đầu tư Becker. Vậy thì tại sao Maryjo nói là cô đã không xin nghỉ phép trong ba năm? Cô đã từng bệnh khi nào? Chắc chắn là cô phải nhớ, bởi vì cô hầu như không bệnh bao giờ. Chỉ có vài lần ít ỏi mà cô nhớ in trong trí nhớ mình, như là khi cô mười hai tuổi và chọc vào một con bọ gớm ghiếc ở trại hè đã khiến cô hoàn toàn ngã dúi dụi. Cô thậm chí còn không mắc phải bất cứ thể loại cảm lạnh đau đầu thông thường nào vẫn thường hoành hành lòng vòng trong công ty mỗi mùa đông.

    Vậy thì cô đã từng nghỉ làm khi nào, ngoài lần này ra?

    Cô nghĩ về lúc cô bắt đầu làm việc tại Becker.

    Lần này cơn đau chỉ đơn giản là nổ tung trong đầu cô và cơn buồn nôn làm dạ dày cô quặn thắt. Cô nghiêng người trên toilet, hổn hển thở dốc – và khi cô làm như vậy, cô đánh rơi chiếc điện thoại xuống sàn và giẫm lên nó tan tành.

    Chuyện này thật điên rồ. Thế nhưng – cơn bốc đồng khiến cô phá nát chiếc điện thoại lại mạnh đến mức cô chỉ đơn giản là làm theo, không hề do dự, không hề thắc mắc.

    Khi cô lấy lại được kiểm soát, đầu tiên cô hỉ mũi, rồi vả thêm nước lạnh lên mặt, trong khi cô cố gắng tìm kiếm một lời giải thích hợp lý.

    Không có gì cả. Cô không thể nhớ cô đã từng bệnh đến mức phải nghỉ làm bao giờ, nhưng việc đó không phải là điều khiến trong người cô đông cứng lại vì sợ hãi. Cô cảm thấy như có một người lạ đang cố đấu với cô để giành lấy quyền kiểm soát cơ thể cô, và thỉnh thoảng người lạ ấy thắng thế.

    Bất cứ điều gì đang diễn ra, dù là cô đang trải qua một cơn suy nhược thần kinh hoàn toàn, hoặc là thực sự có điều gì đó sai khủng khiếp, cô sẽ tìm ra, và cô sẽ xử lý điều đó.

    Cho đến lúc đó, cô chỉ có thể dựa vào trực giác của mình, như là khi giẫm nát chiếc điện thoại ra thành từng mảnh. Cô cảm thấy gần như là ngu ngốc đến muốn điên, nhưng…

    Cũng có thể là không.

    Cô nhìn xuống chiếc điện thoại di động. Chỉ đề phòng trường hợp nó vẫn còn hoạt động, cô nói, “Ôi trời ơi”, bằng giọng thều thào của mình, rồi nhặt đám xác nhựa nhỏ lên. “Giờ mình lại phải đi mua một chiếc điện thoại mới nữa.” Rồi cô lấy pin ra để chắc chắn là nó chết hẳn, và giục cả chiếc điện thoại và pin vào trong thùng rác. Sau một giây cô lôi mấy mảnh đó ra, cho vào trong bồn, và xả nước lên trước khi vứt mọi thứ đi lần nữa.

    Cô sợ đến mức cô không biết tiếp theo phải làm gì, nhưng điều làm cô sợ hơn tất thảy chính là việc nhận ra rằng cô không nhớ là đã bắt đầu làm việc tại công ty Đầu tư Becker.
     
  5. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương hai


    Xavier thức dậy trước bình minh và chạy năm dặm như mọi khi. Anh thích chạy trong tiết trời lành lạnh giữa trời tối; không chỉ vì như vậy thoải mái hơn mà thỉnh thoảng anh còn có vài dịp giải trí: một lần một tên đầu đất đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng là cố giở trò cướp giật với anh, và cuối cùng cũng ráng lết đi với vài vết thương không nghiêm trọng lắm như là vài cái xương sườn gãy, mấy ngón tay gãy, và dấu giày chạy bộ cỡ mười một rưỡi của Xavier in giữa mông. Anh có xem xét việc bẻ cổ tên đầu đất đó, chỉ để giúp cho các công dân thủ đô được an toàn hơn một chút, nhưng mà mấy thi thể có thể dẫn đến mấy chuyện phiền toái nên anh ráng nhịn lại. Cũng có vài chuyện thú vị khác, nhưng nói chung, một khi mấy tên đầu đất đã nhìn kỹ lại anh, thì mấy tên khôn ngoan sẽ lui lại và để anh chạy trong yên bình.

    Anh là một người to lớn, phải hơn một mét chín, và cơ bắp không phải kiểu do tập gym mà có mà kiểu nhờ sống sót trải qua đủ mọi tình huống tệ lậu. Anh có thể bơi mười, mười lăm dặm, và chạy gấp đôi số đó, trong khi mang vác thiết bị nặng bốn năm chục ký. Anh có thể lái trực thăng, điều khiển tàu, và anh đã trải qua nhiều giờ tập luyện với vũ khí tới mức hầu như vũ khí nào cũng dính với tay anh một cách tự nhiên như thể là da của anh vậy. Nhưng kích thước của anh không phải là thứ khiến bọn trộm cướp đang tìm cơ hội phải suy nghĩ lại, mà chính là cái cách anh di chuyển, sự cảnh giác cao độ của một kẻ săn mồi – dù là mấy tên trộm cướp không dùng mấy từ ngữ đó. Bản năng sinh tồn của chúng có lẽ là thì thầm với chúng rằng “gã này khó xơi”, và chúng quyết định chờ một con mồi khác dễ ăn hơn. Xavier là tổng hợp của rất nhiều thứ, nhưng con mồi không phải là một trong số đó.

    Anh trở về nhà lúc năm giờ rưỡi, và hai mươi phút sau anh đã tắm và mang đồ xong, hôm nay là quần jeans, bốt, và áo thun đen. Màu chiếc áo thun đổi tuỳ ngày, nhưng còn lại mấy thứ khác thì hầu như căn bản là giữ nguyên. “Mang đồ” đối với anh còn có nghĩa là kiểm tra vũ khí, rồi mang bao súng vào ngay vị trí thận phải. Chiếc Glock lớn không phải là vũ khí duy nhất anh mang theo, nhưng là thứ duy nhất có thể nhìn thấy rõ nhất. Ngay cả khi ở trong nhà mình – có lẽ đặc biệt là ở đó – anh luôn trang bị hai món vũ khí hoặc nhiều hơn, và không bao giờ rời xa hơn một bước khỏi các món khác trong kho vũ khí riêng của anh.

    Anh không cảm thấy hoang tưởng; hầu hết những người khác tham gia trong các chiến dịch mật mà anh biết cũng đều làm như vậy. Nhà là một điểm yếu, cho anh và cho mọi người cùng nghề, bởi vì nó cố định. Những người luôn di chuyển sẽ khó nhắm vào hơn. Tin tốt là, theo như anh biết, không ai nhắm súng vào anh hết… ít nhất là chưa. Từ “chưa” luôn tồn tại ở đó, được thừa nhận dù không nói ra.

    Vì lý do đó, anh đã đề phòng mua hai căn condo, kế bên nhau. Một căn dưới tên của anh; căn kia mang tên J. P. Halston. Nếu có ai điều tra kỹ hơn, họ sẽ tìm thấy là tên “J. P.” đó là viết tắt của Joan Paulette. Có rất nhiều phụ nữ độc thân dùng tên viết tắt. Joan có mã số an sinh xã hội và tài khoản ngân hàng, trả hoá đơn bảo trì và điện nước đúng hạn, và không có yêu đương gì với ai hết. Anh biết bởi vì anh là Joan và cô ta không thực sự tồn tại, ngoại trừ trên giấy tờ. Hiện tại, chuyện yêu đương của anh và Joan có rất nhiều điểm giống nhau, một điều thực sự bực mình, nhưng thực tế như vậy và anh có thể đối phó được.

    Anh ngủ trong một căn condo và giữ căn kia như kiểu van an toàn; anh lắp một cửa bí mật chỉ có thể mở bằng dấu vân tay của ngón út tay trái anh ở hai tủ âm tường đấu lưng vào nhau nối hai căn hộ. Anh cũng lắp đặt các biện pháp an toàn khác nữa, bởi vì không bao giờ là quá cẩn thận đối với bất kỳ ai trong nghề của anh. Anh cầu trời là hầu hết các biện pháp an toàn đó chỉ phí thời gian thôi, bởi vì nếu một lúc nào đó mà anh cần đến chúng, thì nghĩa là anh đã bị ngập mình trong một đống phiền toái. Các kỹ năng đặc biệt của anh giá trị bởi vì anh vừa táo bạo vừa cẩn thận, một thái độ mà anh áp dụng cả trong đời tư lẫn công việc.

    Các thế lực có là ngu xuẩn kinh khủng thì mới không đoán biết điều đó, vì vậy anh hành động với giả thuyết là họ có biết.Anh cảm thấy thoải mái hơn khi mọi người – trong một vòng tròn nhỏ - biết mọi thứ mà mọi người khác đang làm. Có thể đó là lý do vì sao anh vẫn còn sống; họ hiểu rằng anh đã lập sẵn một cơ chế để vạch trần họ nếu họ có làm gì bất lợi cho anh. Trong trường hợp đó, họ đúng một trăm phần trăm. Điều đó không có nghĩa là sẽ không có ngày họ tìm cách nào đó để luồn lách, vượt qua, hoặc là do hoàn cảnh ép buộc; lúc đó quả bom phân chính trị sẽ chuẩn bị nổ và mọi người sẽ tranh nhau tìm chỗ trốn để tồn tại, một điều chính xác là tình thế mà anh canh chừng. Anh đã biết cái giá phải trả và đánh giá là kết quả cuối cùng đáng cái giá đó. Đáng tiếc là, cái giá hoá ra cao hơn anh tưởng.

    Như vẫn thường làm mỗi buổi sáng, anh ngồi trong căn phòng nhỏ được che chắn trong căn hộ van an toàn, căn phòng được sử dụng như là trung tâm đầu não của tất cả các loại báo động, dây điện bẫy và các chương trình thu thập thông tin khác nhau, uống cà phê trong khi anh nghe và đọc thông tin, và giám sát các màn hình giám sát. Anh kết nối vào chính các hệ thống của họ, để nếu căn nhà bị quét kiểm tra thì họ cũng chỉ tìm thấy các thiết bị nghe trộm của chính họ, nhưng, anh nghĩ dù sao họ cũng đã biết điều đó rồi. Nếu họ không thông minh, anh đã không làm việc với họ ngay từ đầu. Không phải là anh không tin người của mình; anh có tin, tới một mức nào đó. Vượt qua mức đó, anh chỉ tin chính mình. Anh ngạc nhiên là họ đã giữ anh lại trong mạng lưới lâu đến vậy, nhưng nói đúng ra, anh vốn có liên quan mật thiết, và anh không phải là loại người mà họ muốn chọc tức đâu. Anh có bạn bè có thế lực, và bạn bè có tay nghề nguy hiểm hơn nữa; anh không biết nhóm nào trong hai có ảnh hưởng lớn hơn tới quyết định là tiếp tục cho anh nắm tin tức, nhưng miễn là kết quả được việc, thì anh chẳng quan tâm làm quái gì.

    Chỉ có một điều. Họ theo dõi cô; anh theo dõi họ, và đảm bảo là họ báo cáo những gì anh đã biết rồi. Anh bởi vì anh đã biết rồi, họ cẩn thận để giữ cho tình hình hiện tại được duy trì. Họ không thể ngăn giữ thông tin, hoặc là cung cấp thông tin sai cho anh. Việc anh không thể kiểm soát là nếu họ tiến hành hành động dù không có ngòi châm nào, hay nếu một ngày nào đó có một kẻ trong giới có quyền lực đơn giản là quyết định rằng mối nguy cơ quá lớn để mà cho duy trì tình trạng hiện tại.

    Đó chính là điều khiến anh tin vào trực giác bản năng của mình, được mài giũa sắc bén chết người sau bao nhiêu nhiệm vụ anh đã kinh qua. Ngày nào mà trực giác thì thầm với anh sẽ là ngày anh hành động. Đảm bảo tiêu diệt lẫn nhau, một cách nói văn vẻ của “thế giằng co kiểu Mexico”, là một khái niệm hay ho khi nói tới gìn giữ hoà bình.

    Hiện tại, anh đang đọc về tình hình của đồng euro – không phải anh là chuyên gia tài chính hay gì, nhưng thực sự anh cũng không phải đang đọc các thông tin đầu tư. Đồng tiền điều khiển mọi thứ trong chính trị, trong an ninh quốc gia – khỉ, nó điều khiển mọi thứ, chấm hết. Các quốc gia tuyệt vọng thì làm những điều tuyệt vọng, và một gợn sóng trên thị trường tiền tệ cũng có thể khiến cho anh thẳng tiến trên một chiếc phi cơ trong vòng một giờ, đi tới đâu thì chỉ có trời mới biết, để làm bất cứ gì cần phải làm. Bởi vì anh không thể theo dõi cô mọi lúc được, nên anh đã có một kế hoạch dự phòng sẵn sàng, để dùng đến khi cần thiết. Anh cố gắng lường trước những trường hợp như vậy, tiên liệu khi nào dịch vụ của anh có thể cần đến. Trong lúc đọc, anh đồng thời lắng nghe xem có bất cứ gì khác thường dù là nhỏ nhất không. Cho tới nay, thói quen sinh hoạt của cô có vẻ vẫn như thường lệ. Bất cứ gì khác thường cũng sẽ kích hoạt một cơn sóng triều phản ứng.

    “Mười, mười hai, một, bốn mươi hai, mười tám.”

    Những con số thì thầm chiếm lấy sự chú ý của anh một cách đột ngột và hoàn toàn như thể một viên đạn vừa được bắn ra. Anh đặt ly xuống và xoay ghế lại, nghiêng đầu, toàn cơ thể anh trong tình trạng cảnh giác. Tay anh tự động với lấy cây bút, ghi xuống dãy số. Cái quá gì vậy…?

    Vài giây sau, cô lặp lại dãy số, mặc dù lần này với một giọng hơi lớn hơn.

    Cô ngừng một lát. Theo sau đó là âm thanh của các hoạt động, ban đầu bình thường, sau đó gấp gáp hơn, tiếp theo là tiếng không thể nhầm lẫn khi cô nôn một lúc lâu và dữ dội.

    Chết tiệt! Anh ước chi anh có thể nhìn thấy cô, nhưng hệ thống giám sát dành cho cô sự riêng tư đó. Không điều gì cô nói, dù là trên điện thoại bàn hay di động hay thậm chí là điện thoại làm việc, không nói đến những gì cô xem trên TV hay cô làm trên điện thoại, được riêng tư cả. Xe cô luôn được theo dõi bằng một thiết bị GPS. Nhưng video thì bị huỷ bỏ; không phải vì họ quan tâm gì tới quyền theo hiến pháp của cô, thứ coi như đã bị cắt vụn và giẫm trong bùn rồi, nhưng bởi vì bọn họ đã nghĩ là không cần thiết. Bọn họ không cần phải nhìn cô đi vệ sinh, hay đi tắm, miễn là họ biết cô đang làm gì.

    Việc giám sát cô đã rất dễ dàng. Cô không bao giờ đi chệch khỏi lịch trình hàng ngày. Cô bình tĩnh, dễ đoán – và hiện tại, có lẽ là, đang bệnh. Nhưng mấy cái số đó là cái quỷ gì?

    Anh lắng nghe thêm vài lần nôn mửa nữa. Chắc chắn là bệnh. Sau đó là tín hiệu cho biết cô đã mở điện thoại lên. Tên của trưởng bộ phận ở chỗ làm của cô, Maryjo Winchell, hiện lên màn hình của anh.

    Anh đã trộm mật mã di động của cô, nên anh có thể nghe được cuộc gọi theo giờ gian thực. Những gì nghe được khiến anh an tâm. Cô nghĩ cô dính phải một loại vi khuẩn nào đó, cô bị nôn – anh đã biết điều này – và bị đau đầu như búa bổ. Maryjo xác thực là hiện có một loại virus đường ruột đang lây lan, bọn trẻ nhà cô cũng bị, vân vân.

    Anh đã bắt đầu bớt căng thẳng trước khi Maryjo thảy một trái lựu đạn vào mặt anh. “Đây là ngày phép nghỉ bệnh đầu tiên mà em xin trong ba năm mà, cho nên không có gì phải ngại hết.”

    Chết tiệt! Chết tiệt chết tiệt chết tiệt! Anh từ lâu đã học cách kiềm chế cơn giận – hầu hết mọi lúc – nhưng giờ anh thực sự muốn quăng ly cà phê vào màn hình máy tính. Vì cái quỷ gì mà Maryjo Winchel nắm rõ việc một người bao lâu rồi không lấy ngày phép nghỉ bệnh chứ?

    Tạ ơn trời là Lizette có vẻ không để ý. Có thể do cô bệnh quá. Cô lầm bầm lời cảm ơn, rồi nói, “Xin lỗi, em phải chạy đây.” Anh nghe thấy cô làm đúng như vậy, nghe một tràng nôn mửa, tiếng nước chảy, một khoảng ngừng lâu, lại một tràng nữa – sau đó có tiếng loảng xoảng, rồi chiếc di động tắt kết nối.

    Cùng một lúc, từ các máy khác, anh nghe tiếng loảng xoảng rồi một tiếng thịch lớn. Một vài phút sau, cô hỉ mũi. Có tiếng thở nặng, thêm nước chảy. Sau đó, bằng giọng thều thào của một người mới nôn thốc tháo và mũi thì bị nghẹt, cô thì thầm, “Ôi, trời ơi, giờ mình lại phải đi mua một chiếc điện thoại mới nữa.”

    Thêm vài tiếng động, như thể cô đang nghịch chiếc điện thoại. Lại tiếng nước chảy. Sau đó có âm thanh của máy sấy tóc. Cũng phải, cô gội đầu trong phòng tắm mỗi sáng. Dù cô bị bệnh, cô vẫn sấy tóc. Đó là lịch trình hàng ngày của cô, cái mà cô chưa bao giờ đi chệch trong suốt ba năm anh theo dõi cô. Việc cô không đi làm, dù là bị bệnh đi nữa, cũng ngang với một trận động đất trong cuộc sống ngăn nắp trật tự của cô.

    Sau khi cô tắt máy sấy đi, anh lần theo âm thanh khi cô đi về phòng ngủ; theo suy đoán của anh, cô đang đi ngủ lại.

    Mọi thứ sẽ ổn thôi. Những người theo dõi khác cũng sẽ nhận thấy trái bom lời nói của Maryjo, nhưng điều quan trọng là Lizette có nhận thấy hay không, và cô có vẻ như không. Cô đang bệnh, cô sắp sửa nôn lần nữa, nên cô có thể đã không nghe kỹ.

    Liệu họ có thể đánh cược vào điều đó không?

    Anh biết cô. Tài năng lớn nhất của cô chính là khả năng dùng đầu óc suy nghĩ, lợi dụng và xoay chuyển tình thế dù biến đổi, để cho bản năng dẫn dắt cô. Không nghi ngờ gì là cô đã nôn mật xanh mật vàng, nhưng với lời lỡ miệng của người phụ nữ Winchell, thì việc Lizette “tình cờ” đánh rơi và phá hỏng điện thoại di động của cô ngay sau tiết lộ ấy quả là quá sức trùng hợp, ít nhất là đối với anh.

    Mặt khác, một việc thế này đáng lẽ không bao giờ xảy ra. Cô đã bị tắt nguồn, và quá trình đó là vĩnh viễn.

    Có thể. Quá trình đó chưa bao giờ được thử nghiệm tới mức mà họ sử dụng trên Lizette. Cô đáng lẽ đã bị thay đổi mãi mãi, như kiểu những người cụt tay chân bị thay đổi vậy; cô vẫn hoạt động, cô vẫn có một cuộc sống, nhưng không bao giờ giống như cách cô sống trước đây. Nhưng bởi quá trình xử lý chưa từng đẩy đến mức cực độ, làm sao ai có thể biết chắc chắn chính xác là cô phản ứng như thế nào?

    Trực giác của anh phát huy tác dụng ở chỗ này. Anh phải xem xét đến đầu óc linh hoạt của cô, điều có lẽ đã khiến cô có khả năng phục hồi cao hơn. Yếu tố đó cộng với chiếc di động bị hư, trực giác của anh mách bảo, “Cô ấy đã quay trở lại”.

    Vì vậy câu hỏi không phải là liệu họ có nên thử liều làm ngơ tiếng báo động reo lên bởi lời lỡ miệng của Winchell, mà là, liệu anh có thể không?
     
    dakedo, homespa79, lynx and 10 others like this.
  6. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương ba


    Thông tin quyết định mọi thứ. Việc thu thập thông tin tiếp diễn không ngừng, tại từng giây trong từng ngày. Tai mắt ở khắp nơi, ở dạng này hay dạng khác. Nào là camera, máy nghe lén – một số được phép, một số không – và các trình theo dõi thao tác bàn phím; điện thoại di động bị cắp mật mã hoặc đơn giản là các cuộc gọi bị ghi lại; nào là phép ghi nhiệt độ; nào là các máy GPS lưu lại vị trí của cả phương tiện di chuyển lẫn điện thoại di động, và thậm chí là cả phương pháp dùng người theo dõi truyền thống. Sàng lọc qua bộ sưu tập thông tin đồ sộ đó, tách những thông tin ý nghĩa khỏi các thông tin vô nghĩa, là một công việc không bao giờ kết thúc. Với việc hoàn thành trung tâm dữ liệu NSA ở Utah, sẽ còn có nhiều chi tiết hơn về mọi cuộc gọi, mọi tin nhắn, mọi e-mail để các máy tính sắp xếp, dựa trên một số từ khoá cụ thể đã khởi động việc giám sát kỹ hơn.

    Nhưng thậm chí với tất cả các thứ công nghệ cao, vẫn còn có tai mắt con người theo dõi và lắng nghe trong thời gian thực, đặc biệt là với các ca nhạy cảm không thể giao cho chương trình máy tính nào, mặc cho chúng có tân tiến và bảo mật đến đâu. Nếu thông tin không bao giờ nằm trong ngân hàng dữ liệu, thì chúng sẽ không bị đào bới, không bị hack.

    Dereon Ashe có một trong những công việc thuộc ca nhạy cảm như vậy. Hắn không biết hết mọi chuyện, nhưng những gì hắn biết đủ khiến hắn ước hắn không biết gì cả, bởi hắn chắc cú đây là mấy thứ có thể giết chết người. Tuy nhiên, hắn và ít nhất năm người khác vẫn không ngừng theo dõi một người phụ nữ được gọi là Đối tượng C – điều khiến hắn vẫn luôn tự hỏi chính xác là chuyện gì đã xảy ra với Đối tượng A và B – và xem xét từng cử động cô ta làm, từng cuộc điện thoại cô ta gọi đi hoặc nhận được, từng chi tiết cuộc đời của cô ta. Việc cuộc đời cô ta thật sự khá là chán chết đi được, theo như hắn biết, nhưng điều đó chẳng quan trọng; mọi thứ đều được xem xét từng phút một.

    Chán chết đi được, cho đến bây giờ.

    Đầu tiên là dãy số kỳ lạ kia. Chúng khiến hắn căng thẳng và vội vàng viết xuống giấy, phòng trừ trường hợp chúng có nghĩa gì đó. Sau đó là “Chết tiệt!”. Đó thực sự là một thời điểm “chết tiệt”. Dereon dụi mắt, không phải vì hắn mệt, mà để cho hắn thời gian suy nghĩ. Hắn nghi nghờ một việc đơn giản – như là gọi điện xin nghỉ bệnh – có thể làm nổ tung vào mặt họ thế này.

    Hắn nhanh chóng bấm số điện thoại kết nối hắn với đặc vụ đứng đầu hoạt động này.

    “Forge.”

    Tiếng xác nhận danh tính cụt ngủn của Al Forge khiến Dereon nhăn mặt vì lo lắng cùng với hoảng loạn; hắn không muốn quyết định này rơi vào hắn nên hắn phải báo cho Forge, nhưng cùng lúc đó, hắn cũng không muốn bị Al chĩa sự chú ý vào hắn. Chuyện đó làm hắn có cảm giác sởn gai ốc, giống như có vài viên đá lạnh đang nhỏ giọt xuống lưng hắn vậy.

    Nhanh gọn và không cần mào đầu, hắn kể lại những điều vừa xảy ra với Đối tượng C. Mặc dù đương nhiên là họ biết tên cô ta, khi nói chuyện danh tính cô ta không bao giờ được xác định. Đối tượng C chỉ tồn tại với một nhóm người được tuyển lựa gắt gao, trong đó có hắn – số hắn may làm sao. Hắn không biết chuyện gì đã xảy ra với Đối tượng C, và hắn không bao giờ muốn biết. Hắn theo dõi cô ta, hắn báo cáo những gì hắn biết, và hắn cố không dính mũi vào những việc không phải là của hắn. Như thế có vẻ an toàn hơn, bởi bất cứ điều gì đã xảy ra nhất định là một bãi phân to.

    “Tôi tới đó liền”, Forge nói, và không khí chết chóc bao trùm tai nghe Dereon khi cuộc gọi bị ngắt.

    Hắn gõ phím trở lại đoạn audio giám sát và tiếp tục lắng nghe Đối tượng C từ đoạn mà hắn ngừng giữa chừng. Tới lúc Al Forge đến thì Dereon có thể cập nhật cho hắn những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian ngắn ấy.

    Al gãi cằm, tia nhìn sắc bén của ông hướng vào bên trong khi ông cân đo sự kiện cùng các khả năng có thể xảy ra. Ông đã sắp sáu mươi, mái tóc ngắn của ông đã bạc gần hết, đôi mắt tai tái trông bớt băng giá khi tuổi tác bắt đầu làm mờ chúng, nhưng ông vẫn thon gọn và rắn chắc như hồi ông còn trên chiến trường. Mặt ông in hằn bởi sức nặng của những quyết định ông đã đưa ra, những hành động ông đã làm. Dereon không bao giờ muốn ở trong vị trí của Al Forge; tuy nhiên, khó mà nghĩ được ai có thể khiến hắn nể trọng hơn.

    Sự im lặng bao trùm khi Al đứng đó chìm trong suy nghĩ, từng giây tích tắc trôi qua.

    “C có lẽ đã không để ý.” Dereon cuối cùng cảm thấy buộc phải chỉ ra một điều hiển nhiên, chỉ để phá tan im lặng.

    Ánh mắt Al liếc nhìn qua hắn như thể một việc lãng phí thời gian. Đột nhiên ông nói, “Kết nối cho tôi với Xavier.”

    Đó là một trong những mặt gây khó hiểu nhất của công việc này. Mọi thứ xảy ra với Đối tượng C đều được báo cáo với Xavier này, người, mà theo những gì Dereon được biết, không gì hơn ngoài một người nào đó tham gia các hoạt động ngầm; hắn không phải là một người giám sát, không nắm một quyền lực nào. Thực ra có rất ít thông tin có thể tìm hiểu về người này, và chính điều này báo hiệu rằng có nhiều điều nữa về hắn ta mà các thông tin ấy không tiết lộ. Al luôn luôn là người nói chuyện với hắn; thậm chí còn đặc biệt hơn nữa, là không cuộc nói chuyện nào giữa họ được ghi âm lại bao giờ. Nhưng nói đúng ra thì, không có gì về tình huống này được lưu giữ lại. Sau mỗi ca trực, tất cả dữ liệu về Đối tượng C đều bị xoá bỏ.

    Chỉ vài cú gõ phím trên máy tính là kết nối xong. Al đeo tai nghe vào. Một lúc sau Xavier trả lời, giọng trầm trầm của hắn nghe vừa thân quen vừa xa cách, như thể hắn chưa bao giờ tiếp xúc với một cảm xúc nào. “Nghe”. Điều gì đó trong sự xa cách đó khiến Dereon mừng là hắn chưa bao giờ phải gặp Xavier trực tiếp, mừng là tên Xavier thậm chí không biết đến sự tồn tại của hắn. Thế giới của hắn và thế giới của mấy người hoạt động ngầm cách nhau mấy tỉ năm, và được cẩn thận giữ nguyên như vậy.

    Al nói, “Đối tượng C có thể đã bị báo động về một khoảng lệch trong thời gian”. Ông ngừng lại. “Xét tới việc anh đã nối phụ hệ thống giám sát của riêng anh vào cái của chúng tôi, thì chắc anh cũng đã biết chuyện này rồi. Tôi tin là anh chưa làm gì quá bột phát.”

    Dereon xoay vòng trên ghế và nhìn vào cấp trên của hắn trong sự kinh ngạc rõ ràng. Đương nhiên họ biết Xavier nằm trong hệ thống của họ, nhưng họ không bao giờ đưa thông tin cho hắn. Không bao giờ. Một chi tiết nhỏ nhất cũng có thể cho họ một lợi thế vô giá – hoặc, ngược lại, cho kẻ thù của họ lợi thế. Cũng không rõ chính xác ai là kẻ thù trong tình huống này, nhưng hắn biết về chiến lược, và kiến thức là quyền lực. Al vừa cho đi quyền lực bằng cách cho Xavier biết rằng họ biết được các hoạt động của hắn. Giờ thì hắn biết là họ biết là hắn biết – Trời, cái này nghe như là cảnh trong một tuồng kịch vaudeville vậy.

    “Ông là một tay mơ nếu nghĩ dù chỉ một giây thôi là tôi không biết.” Giọng nói lạnh lùng, tách biệt ấy có thoảng một chút thích thú.

    Ok, thêm một tin mới, Dereon nghĩ. Xavier đã biết là họ biết về việc giám sát của anh. Tuồng kịch ư? Không, đây là một ván cờ, với hai người chơi lão luyện hiểu nhau rất rõ. Dereon ghét chơi cờ. Nó làm hắn đau đầu. Với một người làm trong nghề này như hắn, hắn thực sự thích những thứ đơn giản hơn, không rối rắm, và chính xác như những gì nó có vẻ.

    Đáng ra hắn nên làm kế toán.

    Al làm một hành động tỏ vẻ sốt ruột, rồi nhanh chóng buộc ông ngồi im, như thể việc sốt ruột là một thứ xa xỉ mà ông không thể cho phép bản thân mình có được. “Vấn đề là, tôi sẽ không giả vờ báo cáo thông tin cập nhật cho anh khi mà tôi biết là anh đã biết rồi. Anh muốn biết tôi có thẳng thắn với anh không. Tôi có, luôn luôn. Anh cũng cần biết là tôi không làm việc với một cái cò súng ở đây. Không có dấu hiệu nào cho thấy tình hình với Đối tượng C thay đổi cả, và có rất nhiều lý do để nghĩ là nó sẽ không thay đổi.”

    “Vậy ông gọi tôi bởi vì cái gì, ông muốn đảm bảo là tôi sẽ không hành động để ngăn chặn trước à? Anh biết tôi rõ hơn thế. Nếu tôi nói vậy thì là tôi nói dối, và ông cũng sẽ chẳng tin tôi đâu bởi nếu ông ở vị trí của tôi thì ông cũng đang nói dối trắng trợn.”

    Điều đó không cần phải nói, vì vậy Al không thèm cố gắng chối làm gì. Trong công việc của ông, trong công việc của họ, họ làm bất cứ điều gì cần thiết. Đôi khi những điều cần thiết đó rất xấu xí; nhưng dù có xấu cũng không khiến chúng bớt cần thiết.

    “Tôi không muốn làm bất cứ điều gì sẽ gây tổn hại cho Đối tượng C,” Al nói, cẩn thận lựa lời. “Tình hình vẫn ở thế cân bằng.”

    Xavier nhả một tràng cười ngắn và khô khan. “Tôi đã biết từ ngày đầu – khỉ, từ trước đó nữa – là tình hình chỉ ở thế cân bằng chừng nào tôi còn giữ được thôi. Tình thế khó xử của ông đó là ông không biết tôi đã đặt những lá chắn nào, hay là bao nhiêu cái bẫy dây mà thôi. Nếu không thì tôi đã chết từ mấy năm trước rồi. Ông biết vậy và tôi biết vậy.”

    “Việc của tôi không phải là giết những người yêu nước,” Al nói, giọng ông trầm xuống một nốt. Ông là người đã chiến đấu vì đất nước trên nhiều cấp độ trong hầu hết cuộc đời trưởng thành của mình, và niềm tin của ông cũng giống như Truman: ông sẽ gánh vác mọi trách nhiệm cần thiết. Ông không quăng những người hoạt động ngầm xuống gầm xe buýt; nếu cần thiết, ông sẽ hi sinh sự nghiệp và tự do của chính ông trước. Những người làm việc dưới ông biết điều đó; Dereon biết điều đó. Và điều đó tạo ra một lòng trung thành sâu sắc – ngoại trừ, có vẻ là, ở Xavier.

    “Không, việc của ông là bảo vệ đất nước, bằng bất cứ giá nào vào bất cứ ngày nào.” Những lời nói của Xavier nhuốm đầy hoài nghi sâu cay. “Và thường thì tôi cũng đồng tình với ông”.

    “Ngoại trừ trường hợp này.”

    “Cứ tạm nói là tôi tin ông nhiều như ông tin tôi vậy.”

    “Nếu tôi không tin anh, anh đã không còn làm việc này.”

    “Trừ khi động cơ của ông là muốn giữ cho tôi bận rộn và có thể là ra khỏi nước.”

    “Tôi đoán là mấy cái dây bẫy của anh sẽ kiểm soát được tình huống bất ngờ đó.”

    “Anh đoán đúng rồi đó.”

    “Vậy là chúng ta đều ở thế bí.”

    “Ông còn nhớ thuật ngữ thời Chiến tranh lạnh không? Đảm bảo huỷ diệt lẫn nhau đó? Tôi thích cụm từ đó đó.”

    “Anh đang tạo ra kẻ thù,” Al nói. “Những kẻ thù quyền lực, những người tự hỏi vì sao họ nên tin anh khi anh rõ ràng không tin họ. Anh đang bắt họ coi anh như một mối đe doạ.”

    “Tôi một mối đe doạ, trừ khi họ biết cách mà cư xử. Phải, tôi biết, chúng ta có thể đi với nhau hoặc là đi riêng rẽ, nhưng tôi biết mấy người này. Ở một điểm nào đó, một tên mất dạy nào đó sẽ nghĩ rằng hắn có thể khôn lỏi hơn tôi và dẹp thứ này đi vĩnh viễn. Hắn sẽ sai, nhưng mà mọi thứ sẽ bung bét trước khi hắn kịp nhận ra điều đó. Nên, phải, mặc cho mấy lời đảm bảo của ông nói với tôi, tôi phải tự đưa ra quyết định của mình.”

    Al im lặng trong ít phút, chìm sâu trong chế độ tĩnh tại của ông. Rồi ông nói, “Đừng cho tôi là kẻ thù. Chỉ cần nhớ là, nếu có thể giúp anh, tôi sẽ làm.”

    Dereon suy nghĩ điều đó trong đầu. Với Al Forge, ta không bao giờ biết được; ông có thể hoặc là đang nói thật lòng hoặc là đang chơi Xavier. Chỉ có thời gian mới trả lời được thôi.

    Giọng cười cụt lủn ấy lại vang lên trong tai nghe. “Còn có một câu nói khác từ thời Chiến tranh lạnh: Tin, nhưng phải kiểm chứng. Nói với ông sau, Forge.” Một khoảng ngừng ngắn. “Cả anh nữa, Ashe. Phải hôm nay là ca trực của Dereon không? Hay là tôi nhớ nhầm nhỉ?” Kết nối bị ngắt.

    Máu Dereon như đông lại. Hắn giựt tai nghe ra và nhìn chằm vào Al, sắc mặt hắn đông cứng bởi cơn hoảng sợ. “L-Làm sao anh ta biết chuyện đó?”, hắn lắp bắp. “Làm thế quái nào mà anh ta biết tên tôi?” Hay là hắn trực ca nào, hay là bất cứ điều gì về hắn? Chuyện này giống như là thu hút sự chú ý của một con khủng long velociraptor vậy: không có gì tốt đẹp chờ đón hết.

    Al nhắm mắt lại và đè sóng mũi. “Bởi vì anh ta là Xavier, vậy thôi. Khỉ thật. Vậy có nghĩa là anh ta có một nội gián ở đây, hoặc là bằng cách nào đó anh ta đã cài tai mắt vào chúng ta mà mấy máy quét chỗ chúng ta đã không nhận thấy, hoặc là anh ta có địa chỉ ở đây và theo tất cả chúng ta về nhà. Anh ta là một tên cực kiên nhẫn; anh ta có thể dùng cả vài tuần để tìm ra mọi thứ.”

    Theo dõi hắn về nhà ư? Cơn buồn nôn do hoảng loạn trào dâng trong cổ họng Dereon. “Anh ta biết tôi sống ở đâu ư? Biết chỗ vợ và con cái tôi ư?”

    “Đừng lo. Anh ta sẽ không giết anh trừ khi anh ta cần phải làm như vậy.”

    “Thật an tâm làm sao!” Dereon nói châm biếm, quá hoảng loạn để mà chú ý tới cách ăn nói với sếp hắn.

    “Thực sự là như vậy.” Al thở hắt một hơi mệt mỏi. “Nếu anh ta muốn anh chết, anh đã chết lâu rồi. Anh phải hiểu cách Xavier suy nghĩ. Anh ta không cho chúng ta biết bí mật nho nhỏ đó để mà doạ anh mất mật – mặc dù rõ ràng là anh ta cũng đã thành công rồi.”

    Là Forge, ông không thể cho qua cơn hoảng loạn Dereon mà không nói gì được. Ông kỳ vọng người của ông phải kiểm soát được mọi việc – công việc, tình hình, và trên hết, là chính bản thân. “Anh ta cho chúng ta biết là anh ta nắm đằng cán, và anh ta cũng biết là chúng ta giờ phải mất nhiều thời gian và công sức để cố gắng tìm ra chính xác làm sao anh ta biết được. Chúng ta phải tiến hành kiểm tra độ bảo mật, phải cho từng người làm ở đây một cặp mắt mới, và phải lật tung trong xe và nhà để tìm kiếm các thiết bị theo dõi.”

    Dereon thở một hơi sâu, buộc bản thân phải xem xét tình hình một cách chiến lược, giống như cách Forge đang làm. “Chúng ta có phải di dời địa điểm không?”

    “Có thể, nhưng cái đó cũng chẳng có gì bảo đảm là anh ta không có tai mắt thực sự theo dõi chúng ta và sẽ đơn giản là cho hắn theo chúng ta đi tới địa điểm mới mà thôi. Nếu vậy thì chúng ta chẳng được gì mà còn tiêu tốn nguồn lực nữa. Cũng có khả năng là khi chúng ta hành động theo cách mà chúng ta phải phản ứng như giờ, anh ta sẽ có thể biết rõ về chúng ta bằng cách theo dõi xem chúng ta làm gì.”

    Nói cách khác, Xavier đang nắm tóc trên đầu bọn họ, và có lý do riêng khi để cho họ biết bí mật đó.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/4/20
    dakedo, vu thu giang, B-Mon and 8 others like this.
  7. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương bốn


    Lizette nằm yên lặng trên giường trong khi tâm trí cô như đang chạy đua. Thật kỳ lạ, nhưng cô cảm thấy khá ổn, như thể cơn bệnh kinh khủng kia chưa bao giờ xảy ra vậy. Cô vẫn còn hơi run rẩy sau khi nôn quá nhiều, nhưng nói chung là… ổn. Không đau đầu, không buồn nôn, chỉ có một cảm giác cấp bách gần như choáng ngợp. Nhưng, cấp bách về điều gì? Cô không biết, ngoại trừ việc cố gắng tỏ ra càng bình thường càng tốt.

    Một điều gì đó cực kỳ sai khi cô cảm thấy như thể việc tỏ ra bình thường là tối quan trọng. Cô cảm thấy đủ khoẻ để ngồi dậy, nhưng nằm trên giường có vẻ là điều an toàn nhất cô có thể làm lúc này. Liệu có ai thực sự bệnh mà không nằm xuống chứ? Tỏ ra bình thường.

    Rất nhiều điều đáng báo động đã xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn, khiến cô khó có thể bỏ thời gian xem xét một suy nghĩ trước khi một luồng nghĩ khác chen vào, đòi cô phải chú ý tới. Cô đã làm tại công ty Đầu tư Becker năm năm… có lẽ vậy. Cô không biết nữa. Maryjo đã nói là cô đã không nghỉ phép bệnh suốt ba năm, vậy điều đó có nghĩa là cô đã làm ở đó mới có ba năm, hay là Maryjo đơn giản là lôi đại cái “ba năm” đó ra mà không có lý do gì cả? Người bình thường đều làm vậy; Maryjo có lẽ cũng đang vội vàng chuẩn bị đi làm, phân nửa tâm trí chị ấy đã để ở ngày làm việc trước mắt rồi, nên đầu óc chị ấy đã thoát khỏi cuộc nói chuyện và cái “ba năm” đột nhiên nhảy ra. Nó chẳng có nghĩa gì hết.

    Đúng hơn là, nó có lẽ chẳng có nghĩa gì hết; xét tới việc cô thực sự không nhớ đã bắt đầu đi làm cho công ty Đầu tư Becker, điều đó có thể có nghĩa rất lớn.

    Đi làm việc ở đâu đó không phải là việc có thể quên được. Bạn có thể quên ngày hẹn cuối cùng với nha sĩ, nhưng bạn không quên ngày đầu đi làm – hoặc là ngay cả lúc đi xin việc. Đó là khoảng trống lớn nhất. Cô không có ký ức nào về việc đi nộp đơn, hay nói chuyện với bất cứ ai. Tất cả những gì cô nhớ được là, cô đơn giản là sống trong căn nhà này và làm việc tại Becker, lịch trình hàng ngày của cô được thiết lập và không có gì đặc biệt, mỗi ngày cô sống đều giống y như ngày trước đó.

    Sống… trong căn nhà này. Chúa ơi, cô cũng không nhớ đã dọn vào đây luôn, không nhớ mình đã chọn sống ở vùng này ở thủ đô. Cô chỉ sống thôi. Cô đã đơn giản là chấp nhận nó, không hề tò mò, như cách mà cô chấp nhận rằng cỏ có màu xanh vậy, nhưng giờ khi cô thật sự ngẫm nghĩ, thì cái khoảng trống đó thật đáng sợ.

    Hạng mục: Khuôn mặt trong gương không trùng khớp với cái trong trí nhớ của cô. Đó là điều quan trọng nhất, nhưng cô vội lảng tránh việc xem xét nó kỹ hơn lúc này.

    Hạng mục: Cô nghĩ cô đã làm việc ở công ty Đầu tư Becker năm năm, nhưng nếu thực sự chỉ có ba, thì chuyện gì đã xảy ra với hai năm kia?

    Hạng mục: Cô không nhớ đã bắt đầu làm việc tại công ty Đầu tư Becker, chấm hết.

    Hạng mục: Cô thậm chí không nhớ đã dọn vào căn nhà nhỏ này.

    Hạng mục: Cô đột nhiên chắc chắn một cách không giải thích được rằng cô đang bị theo dõi, rằng các cuộc gọi của cô bị giám sát, rằng thậm chí có camera trong nhà theo dõi cô.

    Cách giải thích thích hợp nhất cho tất cả các điều trên đó là, hoặc cô đã bị bệnh tâm thần nghiêm trọng – và rất đột ngột nữa – hoặc cô đã mặc phải một căn bệnh não thoái hoá, một khối u, một thứ gì đó hợp lý mặc dù khả năng đó thật đáng sợ. Một khối u cũng sẽ giải thích cho cơn buồn nôn, cơn đau đầu, thậm chí là chứng hoang tưởng. Ý tưởng đó an ủi cô một cách lạ lùng, bởi vì điều đó có nghĩa là cô bệnh thay vì phát điên...

    Điện thoại cô reo lên, cắt ngang dòng suy nghĩ. Cô lăn sang với tay lấy chiếc điện thoại không dây khỏi đế sạc ở trên chiếc bàn cạnh giường. Tên và số di động của Diana hiện lên trên màn hình ID người gọi. Cô liền bấm nút nói chuyện. “Hi”, cô nói. Giọng cô vẫn còn nghe nặng nề và nghèn nghẹt.

    “Bồ thấy người sao rồi? Maryjo nói là bồ bị dính virus đường ruột hả?”

    Kinh ngạc, Lizette liếc nhìn đồng hồ và thấy đã hơn tám giờ. Cô đã nằm trên giường lo nghĩ về những chuyện đã xảy ra – những chuyện đang xảy ra – lâu hơn cô tưởng rất nhiều. Diana đã tới chỗ làm, và tất nhiên là đã hỏi chuyện Maryjo khi thấy Lizette không đến đúng giờ.

    “Mình bớt nôn rồi, ít nhất là hiện tại như vậy,” cô trả lời. “Nhưng mình thấy cơn đau đầu là tệ nhất. Mình đau tới mức mình tưởng là mình có thể đang bị một cơn đột quỵ luôn, nên mình đã tự làm một kiểm tra đột quỵ – kiểu như, kiểm tra coi mình có cười được không, xong rồi giơ hai tay lên, rồi đọc mấy con số coi mình có nhớ được không”.

    Diana cười. “Xin lỗi, mình biết là bồ chắc chắn đang thấy khủng khiếp lắm, nhưng mà mình tưởng tượng cái cảnh bồ làm như vậy. Cười – rồi. Giơ tay – rồi. Ghi nhớ số - rồi. Ngay cả khi bệnh bồ cũng phải xếp cho mấy con vịt đứng thành hàng ngay ngắn.”

    “Vịt thì khó nói lắm; mình phải giơ cây trên đầu tụi nó kìa, không là tụi nó làm loạn và gây ra đủ thứ phiền phức cho coi.”

    “Đàn vịt của bồ là mấy con ngoan nhất trần đời mà mình thấy luôn,” Diana cam đoan, vẫn còn cười một lát. “Vậy giờ bồ đã gọi điện cho bác sĩ chưa?”

    “Chưa, mình trở lại giường và chắc đã ngủ quên mất. Dù sao mình cũng không có một bác sĩ quen nào. Nếu mình không thấy khoẻ hơn, mình sẽ đi nhà thuốc mua cái gì đó trị buồn nôn. Hoặc là đi khám bác sĩ tư.”

    “Bồ cần có một bác sĩ quen đi.”

    “Bác sĩ là dành cho người bệnh. Mình không cần khi mình khoẻ mạnh.” Tuy nhiên... cô đã từng có một bác sĩ quen, Bác sĩ Kazinski, hồi cô trẻ hơn. Cô thường đi khám định kỳ và chích ngừa cúm, tầm soát ung thư cổ tử cung và ung thư vú, mọi thứ cần làm để thực hiện trách nhiệm với sức khoẻ bản thân. Nhưng khi cô chuyển nhà, và vì một lý do nào đó, cô đã không có một bác sĩ gia đình mới. Tại sao cô... – một cơn đau xuyên qua hai thái thương, và cô nhảy khỏi luồng suy nghĩ đó như một kẻ lang thang nhảy tàu. Quả nhiên, cơn đau dịu xuống, và cô có thể tập trung nghe Diana nói.

    “Nhưng giờ bồ đâu có khoẻ, và nhìn bồ xem, không có một bác sĩ quen nào hết.”

    “Mình chỉ bị virus thôi. Nó sẽ tự hết thôi đó mà. Mối nguy hiểm duy nhất là lỡ như mình bị mất nước thôi. Mà mình sẽ trông chừng khoản đó.”

    Diana thở dài. “Thôi, mình cũng chẳng ép bồ đi được. Nhưng mình sẽ gọi lại coi bồ ra sao khi nào làm ra, ok?”

    “Ok. Với lại... cảm ơn bồ.” Cám ơn đã quan tâm mình. Cám ơn đã bỏ thời gian kiểm tra coi mình khoẻ không. Khi cô ngắt cuộc gọi, một suy nghĩ đột nhiên loé trong đầu cô, rằng ngoài Diana, thực sự không có ai khác trong đời cô sẽ làm những điều đó.

    Chuyện đó đã xảy ra thế nào? Chuyện đó đã xảy ra khi nào? Khi lớn lên, và đi học đại học, cô có vô số bạn bè xung quanh mình. Gia đình, không nhiều lắm, sau khi cha mẹ cô mất. Cô có một người chú ở bang Washington... có thể. Cô đã không liên lạc gì với chú mấy năm rồi, nên có lẽ chú cũng đã chuyển nhà rồi – khỉ, có khi chú đã mất rồi. Cô cũng có một vài anh chị em họ mà cô chưa gặp lại từ khi cô bắt đầu đi học; cô không chắc là cô còn nhớ tên họ không nữa, không biết là chị em họ nào của cô đã lấy chồng hay là sống ở đâu. Cô ước gì cô đã cố gắng giữ liên lạc hơn, ước gì họ cũng làm như vậy. Nhưng khi vốn dĩ đã chẳng ở gần rồi, thì việc thân với nhau đôi khi cũng khó mà xảy ra.

    Cô được mười tám tuổi khi cha mẹ cô chết, nên mặc dù Chú Ted và Dì Millie đã tới tham dự tang lễ, họ rõ ràng đã coi cô như một người trưởng thành hoàn toàn rồi bởi họ không ngỏ lời giúp đỡ nào ngoài một câu sáo rỗng, “gọi cho chú dì nếu cháu cần thứ gì”, trước khi lên máy bay để về nhà. Cô chỉ có một mình. Tiền vay mua nhà đã được trả bằng tiền bảo hiểm nhân thọ của cha mẹ cô, còn dư một ít tiền lẻ cho cô cộng vào tiền để dành học đại học, vì vậy cô không gặp phải khó khăn tài chính nào.

    Khó khăn về mặt tinh thần thì có. Bị cắt đứt mối liên hệ gia đình một cách quá đột ngột là một cú sốc to lớn không chịu nổi. Trong khoảng một năm, cô hầu như chỉ ở trong nhà, đôi khi nói chuyện với bạn bè, nhưng dần dần liên lạc cũng giảm đi gần như không còn. Cô không muốn rời khỏi nơi cuối cùng mà cô thấy an toàn trên trái đất này. Cô không muốn giao thiệp xã hội. Cô thậm chí không cười dù cho có ngồi vài giờ trước TV xem vài bộ phim sitcom về một phiên bản phi hiện thực và đôi khi méo mó của cuộc đời trước đây của cô, trước khi cha mẹ cô chết trong một đống thép và nhựa méo mó.

    Cuối cùng bạn bè cô cũng ngừng gọi hẳn. Một cách chầm chập nhưng chắc chắn, cô bắt đầu kéo bản thân ra khỏi vực thẳm. Cha mẹ cô hẳn sẽ không muốn cô chìm trong đau khổ, không muốn cô ngừng sống cuộc sống của cô bởi cuộc sống của họ đã kết thúc. Cha mẹ đã nghiên cứu các trường đại học cùng với cô, trò chuyện về hướng đi cô có thể muốn chọn, về những sở thích mà cô có thể theo đuổi làm nghề nghiệp. Thế là, ở tuổi mười chín, cô bắt đầu lần mò tìm đường ra với thế giới thực, thông qua những lá đơn xin vào đại học. Trước vụ tai nạn, cô thực sự muốn học ở Souther Cal, để ở gần nhà, và bởi vì căn nhà giờ đã được trả tiền xong, thì đó dường như vẫn là một lựa chọn hợp lý nhất. Không dễ bắt ép bản thân ra khỏi cái kén của mình, nhưng cô đã làm được. Bạn bè từ thuở cấp ba có thể dần mất đi, nhưng một khi cô bắt đầu thực sự sống lần nữa, cô có thêm bạn bè mới ở đại học. Khôi hài là họ cũng từ từ rơi rụng đi mất, ngoại trừ vài ba email hay thiệp giáng sinh thỉnh thoảng gửi đến – có lẽ là mỗi năm một lần.

    Không có liên lạc gì từ Chú Ted và Dì Millie cả, và cô đã cảm thấy buồn trong một khoảng thời gian. Nhưng giờ thì, họ thậm chí còn hiếm khi lướt qua tâm trí cô. Và mỗi lần như vậy, thì cô cũng không cảm thấy gì ngoài chán ghét. Cô không muốn dính dáng gì với họ nữa hết; kiểu người hèn mạt thế nào mà lại để mặc một đứa con gái mười tám tuổi như vậy chứ, thậm chí không một cuộc gọi hàng tuần để hỏi thăm xem nó sống ra sao? Mặc xác bọn họ cùng với con cái bọn họ, mấy đứa anh chị em họ mà cô không thể nhớ tên. Khi cô học xong đại học và bán căn nhà, chuyển đến phía bên kia của đất nước, cô không thèm gởi cho họ địa chỉ mới của cô nữa.

    Điều đó đưa cô trở về vị trí cũ sau khi đi đúng một vòng tròn. Cô nhớ cuộc đời cô, nhớ các chi tiết, các cảm xúc, tất cả mọi thứ lớn nhỏ, như những ảnh chụp trong đầu cô. Vậy thì tại sao cô không nhớ việc cô đi làm ở Becker? Và tại sao cô không nhớ việc cô mua căn nhà này? Nó là nhà của cô. Cô trả tiền ngân hàng hàng tháng. Nhưng – không. Không gì cả.

    Cô nhìn lên trần nhà. Khoảng trống trong ký ức của cô lớn cỡ nào?

    Một cách thật hệ thống, cô lần ngược lại từ lúc bắt đầu. Được rồi, vậy là không có gì trong hai năm đầu tiên. Mà có bao nhiêu người nhớ được gì từ thuở thơ ấu kia chứ? Rất hiếm. Thực sự cô chỉ từng gặp duy nhất một người thôi, đó...

    Cơn đau nổ tung choáng ngợp trong đầu, khiến cô ôm đầu rên rỉ. Ngay sau đó là một cơn buồn nôn ập đến. Cô bay ra khỏi giường, loạng choảng lảo đảo đi tới nhà vệ sinh, nghiêng mình trên toilet trong một khoảng thời gian dài như bất tận. Đây là lần tệ nhất cho đến giờ. Nó khiến cô kiệt sức và mệt lả, ngồi trên trên sàn phòng tắm với những giọt nước yếu đuối chảy dài trên má.

    Cô ghét cảm thấy vô dụng.

    Nhưng – chết tiệt, nguồn cơn của lần này có phải là được kích hoạt bởi một ký ức mơ hồ nào đó dường như đã gõ cánh cửa nhận thức của cô, cố lẻn vào? Giống như lý do tại sao cô đã không tìm cho mình một bác sĩ gia đình mới vậy. Cô không cố lôi các ký ức ra, không cố tách biệt chúng, bởi điều đó chỉ khiến một cơn đau khác nổi lên mà thôi. Thay vào đó cô cố gắng nghĩ xung quanh chúng, để tách biệt vấn đề ra, giống như điều cô đang làm khi cô bị sao lãng bởi ký ức nho nhỏ kia.

    Cô tựa đầu vào tường. Nếu cô định làm điều này, cô có thể nên ở gần toilet.

    Rồi, vậy ký ức đầu tiên của cô là gì?

    Có lẽ là khi cô ba tuổi, cô nghĩ. Cô nhớ một chiếc đầm tuyệt đẹp màu hồng và trắng với cái chân váy xoè to mà cô mặc hồi lễ Phục sinh; cô thậm chí còn nhớ một bức hình cô với mẹ cô khi cô mặc chiếc đầm, cánh tay cô giơ lên khi mẹ cầm tay cô. Ngoài việc nhớ tấm hình, cô còn nhớ cảm giác lúc mặc chiếc đầm, thích thú mỗi khi cái chân váy tung lên với mỗi bước nhảy nhót của cô. Cô nhún nhảy rất nhiều.

    Được rồi, năm đó coi như xong. Còn lúc bốn tuổi thì sao?

    Cô nhớ cô bắt đầu học lớp lá mẫu giáo. Hay là lớp chồi mẫu giáo. Sao cũng được. Cô ngồi trên một chiếc ghế tí hon ở một cái bàn tròn nhỏ cùng với một cô bé có tóc lăn quăn từng sợi hoe đỏ, và một bé trai tên là Chad mà cô rất ghét bởi nó cứ móc mũi rồi trét vào cô, ít nhất là cho tới khi cô đấm vào mũi nó. Đương nhiên là còn có mấy đứa trẻ khác nữa, nhưng tất cả những gì cô nhớ là bé gái tóc đỏ và thằng nhóc trét cứt mũi Chad.

    Khi cô năm tuổi, cô học cách đọc chữ. Cô ngồi ở bàn trong bếp và hãnh diện chỉ tay vào từng chữ, đọc lớn lên trong khi mẹ nấu bữa tối.

    Sáu tuổi – lớp một, và một trận đánh nhau với một con bé lớn hơn vì nó chửi cô gì đó và đè cô xuống, làm trầy đầu gối cô. Cô đã vùng lên và nhào tới, nắm tóc con bé.

    Bảy tuổi – một đứa lớp một nào đó đã nôn oẹ giữa phòng ăn trưa ở trường và khởi đầu một chuỗi nôn mửa cực lớn, thậm chí còn có cả vài thầy cô liên quan.

    Cô xem xét từng năm một, đôi khi nhớ mấy thứ bạn học làm, đôi khi mấy thứ cô làm, và đôi khi ký ức ghi nhớ về cha mẹ cô. Năm cô chín tuổi, cha mẹ cô dẫn cô tới nhà ông bà ở Colorado dịp Giáng sinh, tuyết năm đó rất đẹp.

    Luôn có vài ký ức nào đó cho mỗi năm, cho tới năm năm trước.

    Cô đi vòng quanh bức tường trong trí nhớ của cô, cảm nhận rằng nó ở đó nhưng sợ hãi không dám giật bức tường xuống, bởi vì bất cứ thứ gì nằm sau mấy bức tường ấy sẽ gây ra những cơn đau đầu và buồn nôn. Năm năm trước, không có gì cả.

    Bốn năm trước, không có gì cả.

    Ba năm trước, đột nhiên cô sống ở đây, và làm việc tại Becker, làm theo lịch trình đơn điệu hàng ngày như thể cái khoảng trống hai năm đó trong cuộc đời cô không hề tồn tại.

    Liệu một khối u có thể khiến người ta mất trí nhớ theo cách được khoanh vùng rõ ràng như vậy không? Không phải là nó thường lỗ chỗ, và phải dính cả mấy ký ức gần hơn sao? Ký ức ngắn hạn là khó lưu giữ nhất – cho nên mới gọi là “ngắn hạn”. Nhưng chuyển nhà đến một khu khác và vào làm một công việc mới là những thứ quan trọng và sẽ nhảy qua khu ngắn hạn để đi thẳng vào ngân hàng ký ức dài hạn. Có vài thứ đơn giản là như vậy.

    Cô chuyển nhà từ đâu?

    Cô nhớ cái đó. Lúc trước cô sống ở Chicago. Cô chuyển tới đó khi cô hai mươi ba.

    Ngoại trừ... có thể cô đã không chuyển nhà thẳng tới đây từ Chicago. Cô không nhớ. Chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian hai năm đó mà đã xoá ký ức của cô về chúng? Và cái quái gì đã xảy ra với khuôn mặt của cô?

    Đột nhiên cô nghĩ ra một cách giúp cô xác minh rằng gương mặt cô không phải của cô, một khái niệm nghe cực kỳ quái lạ. Tay nắm lấy thành bồn rửa mặt trong phòng tắm, cô lôi người dậy đứng trên hai chân và nhìn vào gương mặt không phải của mình. Trường hợp hy hữu là cô đã gặp phải một tai nạn khủng khiếp nào đó và phải trải qua một cuộc phẫu thuật tái tạo, cô vén hết tóc khỏi mặt và cúi gần vào gương, tìm kiếm vết sẹo.

    Đây rồi. Ôi trời ơi, đây rồi.

    Ở đường chân tóc, khá mờ nhưng rõ ràng là có. Cô kéo hai tai về trước, cố nhìn đằng sau tai, một việc khá là vô ích. Bực tức, cô cầm lấy một cái gương nhỏ và giữ nó để soi đằng sau tai cô, và – có. Thêm vài vết sẹo.

    Kinh ngạc, cô để cái gương tay xuống. Rồi cô lại cầm lên và kiểm tra lại phía sau tai. Đúng, các vết sẹo vẫn nằm đó. Rất nhỏ, và rất mờ. Dù cho người làm phẫu thuật thẩm mỹ cho cô là ai thì người đó hẳn là rất giỏi.

    Vậy gương mặt này của cô, hay ít nhất là của cô được làm cho như vậy. Câu hỏi thực sự bây giờ là, chuyện đó đã xảy ra thế quái nào, và làm sao cô có thể tìm ra được?
     
    Muse, dakedo, vu thu giang and 8 others like this.
  8. Levananh

    Levananh Lớp 2

    Lâu rồi mới có truyện dịch mới. Cảm ơn bạn nhiều :)
     
    Breeze, kimduyen and chau_la_la like this.
  9. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương năm



    Mình tưởng là mình có thể đang bị một cơn đột quị.

    Những nút thắt do căng thẳng trên vai Xavier dịu lại khi anh nghe thấy điều này, bởi đó là lời giải thích hoàn hảo cho chuỗi số mà cô đọc hai lần. Tuyệt hơn nữa là, cô đã không hỏi cô bạn thân về chuyện cô thực sự đã làm việc tại Becker bao lâu rồi, không đề cập gì tới cuộc nói chuyện với Maryjo Winchell gì cả. Tốt. Nếu may mắn, họ có thể lướt qua vụ này mà không bị một cơn bão thốc vào mặt.

    Cũng may là cô bệnh thực sự. Thêm một tràng nôn oẹ vẳng lên to rõ trong tai nghe.

    Nhưng mà – may mắn hả? Anh chẳng bao giờ tin vào cái thứ đó.

    Anh thà đi theo trực giác mách bảo, theo hiểu biết của anh về cô, và chúng nói với anh rằng cái vụ điện thoại di động kia quá trùng hợp để mà gọi là trùng hợp.

    Anh muốn tận mắt nhìn thấy cô, nhưng chừng nào cô còn ở trong căn nhà, anh phải ở yên để có thể theo dõi tình hình. Thay vào đó, anh gửi một tin nhắn được bảo mật tới một người bạn nhờ người đó đảm bảo rằng không có gì bất thường diễn ra trong phạm vi quanh cô: “Báo trước. Nếu cô ấy rời khỏi nhà, hoặc nếu thấy bất kỳ hoạt động bất thường nào – thợ sửa chữa, người khảo sát ý kiến, nhân viên bảo hiểm, bất cứ thứ gì – báo tôi biết lập tức.”

    Một tin nhắn hiện lên màn hình vài giây sau đó: “Được thôi.”

    Nếu cô làm bất cứ thứ gì dù chỉ hơi khả nghi chút thôi, anh cũng sẽ phải hành động thật nhanh, và có một người ở đó sẵn rồi sẽ cho anh một lợi thế rất lớn. Al Forge có một mạng lưới đáng gờm, nhưng Xavier cũng không phải không có nguồn lực riêng của anh; anh đã bỏ vài năm để xây dựng một mạng nhện với các đồng minh và tài sản, bởi anh biết rằng anh đang đi trên một sợi dây mỏng manh giữa quá nguy hiểm để giết và quá nguy hiểm để không giết. Anh vẫn nhận nhiều phi vụ dù biết rằng đặt bản thân vào cửa hiểm sẽ giúp cho việc tiêu diệt anh dễ dàng hơn và bề ngoài trông không gì khác ngoài việc đó là một phần của nhiệm vụ, nhưng anh vẫn cần số tiền cực ngon mà anh kiếm được từ mấy phi vụ đó. Những gì anh làm không hề rẻ, và những lá chắn anh sắp xếp cũng vậy. Hơn nữa, dịch vụ của anh được cần đến, và điều có cũng mang vài ý nghĩa. Anh có thể kiếm nhiều tiền hơn bằng cách bán kỹ năng của mình trên chợ đen, nhưng anh vẫn chưa lấn qua bên phía đen tối đó.

    Từ “chưa” luôn nằm ở đó, chực chờ như một đám mây đen không bao giờ chạm tới anh, nhưng buộc anh phải luôn canh chừng nó. Nếu anh bị đẩy tới bước đường cùng, liệu anh có làm không?

    Có thể.

    Sáu năm trước, anh dứt khoát sẽ nói “không”.

    Năm năm trước, anh đối diện với một thực tế rằng đôi khi làm điều đúng đắn lại trở nên sai trái, và ngược lại.

    Bốn năm trước, anh đã nổi điên trong cái bẫy mà họ bị nhốt vào.

    Ba năm trước, anh trở thành kẻ đặt bẫy.

    Anh không hề biết tình thế này sẽ tiếp diễn như thế nào, nhưng không ai trong họ sẽ dừng cuộc chơi. Anh sẽ ở đó cho tới khi kết thúc, bất chấp cái kết đó sẽ như thế nào. Nhưng, chết tiệt, anh quá mệt mỏi với cái nguyên trạng này tới mức anh gần như sẵn sàng ấn vài cái nút chỉ để cho tình hình thay đổi.

    Anh cần phải nhìn thấy cô. Anh có ảnh chụp, clip, audio, nhưng anh đã không gặp cô ngoài đời thực suốt bốn năm. Dù có nguy hiểm, anh vẫn cần phải thực sự nhìn cô bằng mắt mình, nghe tiếng nói của cô, tiếp xúc và tự mình kiểm chứng xem cô có phản ứng gì với anh không, hay là cái chốt chặn vẫn giữ nguyên. Lần tới cô rời khỏi căn nhà sẽ là cơ hội hoàn hảo, một kẽ hở nhỏ trong việc giám sát bởi giờ đây di động của cô đã không còn hoạt động nữa. Cô sẽ đi mua một cái mới, nó sẽ được trộm mật mã và cài trình nghe lén đầy đủ, nhưng cho tới lúc đó, sẽ không có cái tai nào nghe ngóng được trừ lúc cô ở trong nhà hay trong xe.

    Đương nhiên là cô có thể sẽ bị theo dõi, nhưng trường hợp đó anh sẽ phát hiện ra được từ trước. Cũng có khả năng là chính anh sẽ bị theo đuôi, nhưng cái ngày mà anh không thể cắt một cái đuôi cũng sẽ là ngày anh bỏ nghề. Thật ra thì, cái ngày mà anh không thể cắt một cái đuôi sẽ là ngày mà anh chết luôn rồi, cũng tương đương như “bỏ nghề” thôi.

    Giờ thì anh không có gì để làm ngoài chờ đợi.


    Lizette mê man ngủ lần nữa, và tỉnh dậy cảm giác như cô đã bị đấm túi bụi và quăng xuống một cái cống bên vệ đường. Cơn đau đầu và buồn nôn đã qua, nhưng cũng đã khiến cô mệt lử. Liệu cô có biết cái cảm giác khi bị đấm túi bụi và quăng xuống cống ra sao không nhỉ? Cô xém chút bật cười, nếu như cô không có một cảm giác bất an rằng, đâu đó trong khoảng thời gian hai năm cô đánh mất đó, cô có lẽ thực sự đã nếm trải qua chuyện đó.

    Thay vì tích cực lục lọi trí não để tìm ký ức, bởi cô sợ cái kết quả mà cô sẽ tìm thấy, cô hít thở một hơi dài, lăn khỏi giường, và cố nghĩ ra thứ gì đó để làm. Hôm nay là thứ Sáu, nên cô đáng lẽ là đang ở chỗ làm, mà làm một việc gì khác không phải là thói quen của cô. Cô đã nghỉ ở nhà do bệnh, cho nên cô hơi cảm thấy như đang gian dối nếu làm thứ gì khác ngoài bị bệnh.

    Giờ khi cô thấy khá hơn – ngoài việc thấy như bị đấm túi bụi và quăng xuống cống ra – cô có thể đi khám bác sĩ, nhưng chuyện đó có vẻ ngu ngốc. Cô có thể nói gì chứ? “Sáng nay tôi thấy bệnh nhưng giờ thì khoẻ hơn rồi, với nhân tiện đây thì, hình như tôi đã làm phẫu thuật khuôn mặt trong khoảng hai năm mà tôi không nhớ gì hết. Là tôi bị điên hay là não có vấn đề vậy?” Cô không muốn bị bắt nhập viện để theo dõi, và chuông báo động sâu trong lòng cô rung lên trước ý nghĩ có ai đó sẽ dò hỏi tìm hiểu về bệnh sử của cô.

    Nhưng dạ dày cô ổn định, và đầu cô không đau nữa, nên cô cảm thấy như thể cô nên làm gì đó. Hợp lý nhất là làm những việc cô thường làm vào cuối tuần, để tiết kiệm thời gian. Cô thích mọi thứ quanh cô phải thật gọn gàng ngăn nắp. Cô giỏi sắp xếp và giữ cho mọi thứ đúng trật tự – bầy vịt của cô phải đi theo hàng – và theo đúng lịch trình.

    Cô nâng người thẳng dậy trên giường, đánh giá tình hình. Tới giờ vẫn ổn. Cô rón rén đứng lên, cảm thấy như mấy hệ sinh học trong người cô sẽ rối tung nếu cô chuyển động quá nhanh, rồi cô lê chân ra khỏi phòng ngủ. Trong bếp, cô đặt tay lên ấm cà phê; máy đã tắt từ lâu, và cà phê đã nguội ngắt, nhưng cô có thể hâm nóng lại trong lò vi sóng. Một ly cà phê lớn có thể giúp cô thấy khá lên rất nhiều.

    Ưm – có thể là chưa đâu. Cô không muốn cho thứ gì vào dạ dày cho tới khi cô chắc chắn là dạ dày cô có thể chứa được. Cô đã nôn quá nhiều tới mức các cơ bắp ở bụng cô đau lên vì co thắt.

    Thay vào đó cô đi vào phòng ngủ nhỏ còn dư ở cuối hành lang, cô đã biến nó thành một phòng làm việc tại nhà, dù không phải cô thường làm việc tại nhà cho lắm. Đây là chỗ cô trả hoá đơn, quyết toán sổ séc, và đôi khi là chơi mấy trò chơi bài trên máy tính cho qua thời gian. Thỉnh thoảng cô lướt internet, và mỗi năm thì cô điền đơn khai thuế online.

    Thuế.

    Đúng rồi. Mặc dù cô không cần phải giữ lại các file khai thuế nhiều hơn ba năm gần nhất, nhưng cô không nhớ là mình đã xoá mấy cái cũ hơn. Chúng là vịt, như những con khác, chỉ là già hơn.

    Cử động một cách có mục đích hơn, cô ngồi xuống trước máy tính, do dự, rồi đứng lên ngắt modem DSL. Liệu những gì cô làm khi máy tính không kết nối với internet có bị phát hiện hay không? Cô không biết, nhưng ít ra là cô cũng đã cố thử. Cô mở các file ra và click vào “Thuế”. Để tránh một cơn đau đầu, cô thì thầm với chính mình, Mình đang dọn dẹp mấy file lại thôi. Chỉ vậy thôi. Đây là một hoạt động bình thường, không phải đang cố truy cập vào một ký ức cũ hay gì.

    Khi cô thấy các tờ khai thuế ba năm trong folder, một cơn đau đầu bắt đầu trêu chọc cô. Cô nhắm mắt và nghĩ về chương trình cô xem trên tivi tối qua, rồi về con chó nhà hàng xóm, một con ăng ẳng lông lá. Cô thích chó, nhưng con chó này thực sự là phiền chết đi được. Cô cố tình nghĩ đến một bài hát mà cô nghe trên radio hôm qua, bài hát mà cô rất nghiện nghe mãi trong đầu và chỉ có thể xoá bài đó đi bằng cách cố tình nghe một bài khác cũng lặp đi lặp lại tương tự; rõ ràng là hai bài này xoá bỏ lẫn nhau. Cô nhẹ nhõm khi cơn đau đầu dần phai đi.

    Cô hít một hơi dài rồi tiếp tục nghiên cứu của mình. Đúng vậy, chỉ có file của ba năm trong folder “thuế”. Dù cho cô có nhớ đã xoá mấy cái file kia không, thì rõ ràng là cô đã xoá. Dù vậy cô không thể nói rằng đó là một hành động rất đáng nhớ, cho nên việc không nhớ đã làm như vậy cũng không có nghĩa gì.

    Tiếp theo cô mở ngăn kéo bàn bên tay phải và lấy ra cuốn sổ séc. Cô vẫn trả hoá đơn theo kiểu cũ, bằng séc chuyển qua thư thay vì chuyển tiền điện tử, bởi vì cô thấy cách đó ngăn nắp và an toàn hơn, mặc xác chuyện nhanh chậm. Có một xấp sổ ghi séc ngắn và gọn gàng, mỗi cuốn là cho mỗi hai năm. Năm thứ ba là xấp séc trong một bìa màu đen, gọn gàng. Lizette giở đến cuối xấp và lôi ra sổ ghi séc cũ nhất.

    Đây có phải là chữ viết của cô không? Phải, chính xác. Có thanh toán nào có thể là dấu hiệu của hoạt động bất thường nào không? Không, cũng chính xác luôn. Khi cô lật qua hết các sổ ghi séc, và cái tiếp theo, chuông báo động bắt đầu lớn lên. Cô đã trả các hoá đơn, nhưng rõ ràng là chỉ vậy. Cô dường như đã không có bất kỳ sở thích nào khác, không đi du lịch, hay làm bất cứ điều gì. Có phải cô đã luôn như vậy hay không? Cô cảm thấy lưỡng lự khi nghĩ về đề tài này, nhưng, không, cô không nghĩ vậy. Điều này cảm giác không đúng. Chết tiệt, cô biết đây không phải là , cũng như khuôn mặt của cô vậy!

    Một ý nghĩ khác chợt nảy ra trong đầu cô: thẻ tín dụng. Cô mở thư mục file có chứa các hoá đơn trả thẻ tín dụng của cô. Cô có hai thẻ, một cái American Express và một cái Visa. Cô lật sơ qua các bản sao kê, xem xét các khoản tiền cô đã trả, và cô chỉ có thể lắc đầu. Các khoản trả tiền của cô rất ít, hiếm khi nào nhiều hơn một hay hai tháng, và hầu hết là cho các mục chán ngắt nhất: tiền ga, hàng tạp hoá, mấy thứ kiểu vậy. Bản sao kê cũ nhất là từ ba năm trước.

    Cô đứng dậy và lấy cái bóp, lôi ra cái thẻ American Express. Cô đã làm “thành viên” ba năm.

    Ồ, chết tiệt.

    Việc nhận ra rằng cô không nhớ từng đăng ký mở thẻ hay nhận được cái thẻ American Express là một mảnh ghép khác trong trò chơi ghép hình khủng khiếp này.

    Cô quay lại với các bản sao kê thẻ tín dụng, nhìn sơ qua chúng để xem xem cô đã mua những gì. Cũng như sổ séc, không khoản trả nào nói gì về cô như một con người. Không gì trong đây giúp cô gắn liền những gì cô thấy, những gì cô nhớ, với người phụ nữ mà cô biết về bản thân mình.

    Cô đã không mua vé xem biểu diễn hoà nhạc, hay là nữ trang, hay một đôi giày đặc biệt nào. Điều có cũng tốt, vì cô không nhớ đã đi nghe hoà nhạc và nếu cô có mua vé mà không đi thì cô hẳn sẽ tức lắm. Không có gì nổi bật; hồ sơ tài chính của cô chán ngắt đúng như cô nhớ. Tại sao, thậm chí không có một khoản nào trả cho hiệu súng...

    Cú tấn công bất ngờ làm cô choáng váng, quất nhanh một cách tàn bạo và dữ dội tới mức cô đau đến mờ mắt theo đúng nghĩa đen. Cơ thể cô lảo đảo phản ứng lại, cô nắm chặt tay vịn ghế để giữ cho mình khỏi ngã xuống sàn. Dạ dày cô cuộn lên, nhưng trước khi cơn buồn nôn dâng đến, cô giật suy nghĩ xoay về phía bài hát mà cô nghe trên radio hôm qua, bài hát cứ văng vẳng trong đầu cô trong một thời gian dài. Cô thậm chí còn hát lên một vài đoạn – cực tệ, bởi cô chẳng hát được chút nào. Nhưng phải, đó là giọng của cô, cái giọng mà cô có xưa giờ: hơi trầm một chút, hơi thô ráp, và hoàn toàn lạc điệu. Thật vui vì biết có vài thứ không thay đổi.

    Ngay khi cô cảm thấy kiểm soát được tình hình lần nữa, và cơn đau đầu dịu dần xuống còn một cái nhói có thể chịu được, cô ngồi một lúc suy nghĩ về các hướng khác cô có thể tìm hiểu. Cuối cùng cô cắm máy tính lại vào modem, để chúng kết nối, và click vào tab “Lịch sử”. Cô không nghĩ là sẽ thấy thứ gì mà cô không nhớ từ ngày hôm qua hay hôm kia; cô chỉ đơn giản nhìn lại vài ngày qua, vậy thôi. Cô không tìm kiếm thứ gì về hai năm đã mất kia; cô chỉ tìm chính cô thôi.

    Tại sao cô không bao giờ vào xem bất kỳ trang tin tức nào? Giờ thì cô không quan tâm về chính trị, nhưng hồi xưa cô đã...

    Cô ngừng suy nghĩ đó trước khi cơ thể cô tự tấn công nó.

    Để xem. Cô nhanh chóng nhìn lướt qua danh sách các trang web, tất cả đều quen thuộc. Cô chơi solitaire. Cô không có tài khoản trên bất kỳ trang mạng xã hội nào. Thỉnh thoảng cô nghe nhạc trên YouTube. Chỉ vậy thôi.

    Việc hỏi tại sao sẽ lại mang một đợt tấn công khác tới, vì vậy cô nhẩm theo bài hát ban nãy lần nữa, hít thở một hơi sâu, và trong một góc nhỏ trong tâm trí cô, cô hỏi... mình đã trở thành một con zombie từ khi nào?

    Cô xém chút cười lớn. Thỉnh thoảng đồng nghiệp cô vẫn đùa nhau về một “ngày tận thế zombie”. Nếu khi nào mà ngày đó tới, cô sẽ được chuẩn bị tốt hơn nhiều người khác – Lần này không có gì ngăn lại cơn đau nổ trong đầu cô. Nó xảy ra quá nhanh, giáng vào cô như một chiếc búa tạ. Không phải là một cơn đau đầu, cô nghĩ, khi cô ngã khỏi ghế và nằm cuộn tròn như một thai nhi. Đó không phải là một cơn đau đầu; đó là một đợt tấn công... thậm chí có thể là một lời cảnh báo. Cô nằm trên sàn rên rỉ cho đến khi cô thấy đủ rõ để tập trung vào một điểm trên tấm thảm dưới bộ bàn ghế. Nhìn tập trung vào đó có phát huy tác dụng, và khi cơn đau giảm bớt cô bắt đầu hát nho nhỏ cho mình nghe.
     
    dakedo, vu thu giang, putsi and 6 others like this.
  10. kimduyen

    kimduyen Lớp 1

    Thanks bạn
     
    hathao, chau_la_la and Levananh like this.
  11. Levananh

    Levananh Lớp 2

    Hấp dẫn quá! Mong ngày nào bạn cũng đăng chương mới. Cảm ơn bạn :)
     
  12. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương sáu



    Hai tiếng sau, dạ dày cô đã đủ ổn định để cô có thể ráng cho thứ gì đó vào bụng. Lizette ngồi trên sàn với một ly cà phê – pha loãng, thêm đường, và hâm nóng trong lò vi sóng – nằm trên chiếc bàn sô pha trong tầm với, và cuốn album ảnh duy nhất mà cô tìm thấy để mở trên đùi cô. Có ảnh thời em bé, ảnh cô chụp với cha mẹ, ảnh ở trường – không có tất cả các lớp, nhưng cũng hầu hết. Đến gần cuối album, có mấy tấm ảnh chụp thời đại học, luôn với vài người bạn mà cô đã mất liên lạc từ lâu. Sau đó thì, không gì nữa.

    Cô đã ngừng chụp ảnh từ khi nào? Cô cũng không phải là một người giỏi chụp ảnh gì, nhưng mà, ai lại không chụp ảnh lúc...

    Lúc nào? Cô đi làm, cô đọc sách, cô xem tivi. Cô không chơi môn thể thao hay tham gia câu lạc bộ nào, hay thậm chí là hẹn hò – ít nhất là không trong một thời gian dài, một điều kỳ lạ, bởi cô có thể nhớ có thời gian cô khá là năng nổ giao tiếp xã hội. Nhưng đó là hồi trước, còn giờ thì... giờ thì thật thảm hại. Giờ cô có thể chụp ảnh gì kia chứ? Bữa trưa ở bàn làm việc à?

    Hơn hai giờ đồng hồ qua, cô đã thử nghiệm, khám phá ranh giới của cái điều kỳ quặc đang xảy ra với cô. Giờ cô có thể nhận biết dấu hiệu khi nào cơn đau đầu và buồn nôn kéo tới, và cô không còn nghi ngờ gì rằng bất kỳ suy nghĩ nào về hai năm cô đánh mất ấy sẽ mang cơn đau đến. Cô không có lời giải thích nào cho việc đó, thậm chí không có cả một giả thuyết nào khả dĩ, nhưng cô có khả năng nhận thức đủ tốt để tin vào những gì cô thấy – hay đúng hơn là, những gì cô cảm thấy.

    Nghĩ về – hay cố gắng nghĩ về – việc tại sao cô ngừng chụp ảnh mang lại những dấu hiệu đầu tiên có thể nhận biết về một cơn đau, nên cô ngừng cố tìm hiểu và quay lại với cuốn album ảnh thời thơ ấu. Halloween, Giáng sinh, kỳ nghỉ hè ở biển. Chán, cô hồi đó ốm tong teo. Nhìn cặp giò như hai que củi kia xem! Tập trung vào những điều cô chắc chắn nhớ giúp cô vượt qua, và một lần nữa cô có thể kiểm soát được cơ thể mình.

    Chuông cửa reo, làm cô giật nảy cả mình. Vai cô đụng vào cái bàn sô pha, làm cái ly rung rung, và chất lỏng màu caramel sóng sánh gần mép ly. Cô giữ yên cái ly, đặt cuốn album ảnh sang một bên và đứng dậy.

    Tóc gáy cô dựng đứng. Cô có thể cảm thấy cơn báo động như một luồng gió lạnh thổi khắp người cô, hét lên lời cảnh báo.

    Ai đến trước cửa nhà cô vào buổi sáng, khi mà bất cứ ai quen cô cũng biết là cô thường đi làm vào giờ này kia chứ? Còn quá sớm để đó là nhân viên bưu điện, cũng không phải là cô đang chờ một bưu kiện gì đó cần phải ký tên giao nhận, mà chỉ có lý do như thế thì người đưa thư mới gọi cửa. Nhân viên bán hàng tận nhà gần đây cũng hiếm gặp, và người bạn duy nhất có thể hỏi thăm cô – Diana – thì đã gọi rồi.

    Lizette cẩn trọng tiến đến cửa, hai tay cô mở ra nắm lại như thể đang tìm kiếm một thứ vũ khí không có ở đó. Cô nhẹ di chuyển vào bên hông cửa, để nếu ai bắn qua cái cửa – khỉ thật! Cô vội vàng ngâm nga một bài hát trong cổ họng, tập trung vào giai điệu, xua đi cơn đau đã quay lại sẵn sàng hạ gục cô.

    Cảm giác muốn bệnh dần dịu xuống, nhưng cô vẫn ngó chằm chằm cái cửa một cách lo lắng. Tim cô đột nhiên đập mạnh, như thể cô đoán đợi một con rắn ở phía bên kia cánh cửa, chờ chực để tấn công ngay khi cô mở cửa ra vậy. Phản ứng của cô thật... mới lạ, và chắc chắn là đáng lo ngại. Một ngày nào khác cô hẳn đã trả lời tiếng gọi cửa như những người bình thường khác, một cách tò mò nhưng tự tin. Giờ thì cô lo sợ không biết người bên kia cánh cửa là ai, và cô cũng không thể ép mình thả lỏng. Cô phải làm gì bây giờ? Có thể nếu cô im lặng, người bên kia cánh cửa sẽ bỏ đi. Mặt khác, cũng có thể đó là một tên trộm đang kiểm tra xem có ai ở nhà không trước khi vòng ra đằng sau và đột nhập vào. Trong trường hợp đó cô nên la lên, “Ai đó?” hay thậm chí là nhìn qua khe cửa, nếu như cô có thể lấy hết can đảm để làm liều như vậy.

    Nhưng trước khi cô có thể chọn làm cái nào, thì một giọng quen thuộc gọi vẳng vào, “Cúc cu, Lizette. Cháu có nhà không?”

    Tim cô quay về nhịp đập bình thường; các cơ bắp giãn ra. Không phải rắn, chỉ là một người lắm chuyện – một người lắm chuyện đã thực sự nói “cúc cu”, thiệt không trời. Ai mà nói như vậy ngoài mấy bộ phim sitcom chứ?

    Với một nỗi sợ kiểu khác, Lizette thở ra một hơi, cam chịu, và mở cửa ra. Người hàng xóm nhà bên đứng trên hiên nhà cô. Maggie Rogers sống trong căn nhà bên trái, và bà đã sống lâu ở đó lâu lắm rồi, theo như Lizette nhớ – điều mà, rõ ràng là, chỉ khoảng ba năm thôi. Maggie là một goá phụ, còn quá trẻ để nghỉ hưu nhưng sống đủ thoải mái bằng tiền bảo hiểm của người chồng đã mất. Bà có mái tóc bạc trắng cắt ngắn, tỉa hơi nhọn, ăn mặc vô cùng thời trang, với một khuôn mặt trông trẻ hơn cái tuổi nếu đoán theo mái tóc của bà, thân hình gọn gàng và khoẻ khoắn, và có một con chó nhỏ cứ sủa ăng ẳng, mà kỳ lạ nữa là, con chó có màu lông giống y chang tóc của bà.

    Con chó đang nằm trên tay của bà, nhìn Lizette với hai con ngươi đen như hai hòn bi ve. Lizette thường thường là thích chó. Cô chỉ không thích mấy con chó nhìn như thể là mang ADN loài gặm nhấm thôi. Để khỏi bị thôi miên bởi ánh nhìn bi ve đó, cô bắt mình chỉ nhìn vào Maggie.

    “Cháu có sao không?” Maggie hỏi. “Cô thấy xe cháu ở lối đậu xe nên cô lo quá.” Maggie bước tới và Lizette tự động lùi ra, và thế là, chỉ cần như vậy, Maggie đã vào trong nhà mà không cần đợi mời. Lizette bực với chính mình vì đã không kiên quyết hơn, mặc dù cô phải thừa nhận là thói quen ứng xử của cô là tránh va chạm, không nói lên suy nghĩ, và chỉ... bị động.

    Maggie ôm con chó chặt trên tay, để giữ con tiểu quỷ không nhảy xuống và chơi cút bắt khắp nhà Lizette. Ánh mắt bà quét ngang căn phòng, nhưng điều đó cũng không có gì bất thường. Mỗi lần Lizette đụng phải Maggie, thì người phụ nữ này đều dò xét mọi thứ hết, như thể tìm kiếm vài manh mối nhỏ cho thấy Lizette có sở thích bí mật là làm tình với dây trói, hay là bị nghiện thuốc, hay là mấy thứ khiêu dâm khác. Cô hoàn toàn thất bại ở khoản này, bởi Lizette không thể nghĩ ra một chi tiết nào chỉ khiêu dâm chút xíu trong cuộc đời cô – chết tiệt. “Cháu không bao giờ nghỉ làm hết,” Maggie nói gần như buộc tội, như thể Lizette đã phá ngang cuộc đời của bà khi cô bệnh.

    Được rồi, việc Maggie biết quá nhiều về lịch trình của cô quả thực hơi đáng sợ, nhưng cũng không gây ngạc nhiên. Maggie là kiểu phụ nữ ngồi ở chỗ nào có thể nhìn ra ngoài cửa sổ để trông chừng tất cả hàng xóm, kiểu nhà vô địch vén màn cửa. Lizette cố giữ cho vẻ mặt cô bình thường. Mặc dù bà ta có đủ tiền để không bao giờ cần đi làm, người phụ nữ này cần một công việc một cách khủng khiếp. Một ngày của bà ta xoay quanh việc nhìn hàng xóm và theo dõi nhất cử nhất động của họ; bà ta thực sự là định nghĩa của câu “hãy đi tìm ý nghĩa cuộc đời mình”, bởi ý nghĩa duy nhất của cuộc đời bà dường như là xoay quanh mọi người xung quanh bà.

    Dù sao thì... “Cháu thấy không khoẻ,” Lizette nghe thấy mình đang giải thích. Cái quần ngủ và áo thun cô đang mặc, cùng với gương mặt không trang điểm và quá sức xanh xao, theo lần cuối cô liếc vào gương, đáng lẽ đã tố cáo điều đó. Phải cho Maggie một điểm F về khả năng quan sát.

    “Cô đã sợ vậy đó. Cô giúp được gì cho cháu không?” Maggie cuối cùng cũng nhìn thẳng vào Lizette, đôi mắt xanh nhạt của bà dò hỏi, ánh lên vẻ tò mò. “Trời, cháu nhìn đúng tệ hết sức,” bà nói thêm, nghe rất chân thật.

    Hà, cám ơn nha, Lizette mỉa mai nghĩ, rồi cảm thấy hối lỗi bởi vì, dù cho động cơ chính của bà ta là tò mò đi nữa, Maggie đã ghé qua để hỏi thăm coi cô thế nào và ngỏ lời giúp đỡ. “Không có gì nghiêm trọng đâu cô, chỉ bị nhiễm trùng thôi ạ. Cháu giờ cũng thấy khá hơn rồi. Cháu vẫn chưa thử ăn mấy món đặc, nhưng mà cũng giữ được mấy thứ nước lỏng. Thật ra là, cháu đang định thay đồ và đi ra hiệu thuốc hay là Walmart để mua vài thứ đây.”

    “Để cô đi mua cho. Cứ viết ra mấy thứ cháu cần cho cô.”

    Aspirin, Pepto-Bismol, một túi đá chườm, một cái điện thoại cục gạch... Các món đồ khiến đầu cô nhói lên. Cô dập tắt cái giọng nói trong đầu trước khi nó kích hoạt một đợt tấn công khác.

    “Cám ơn cô, nhưng mà cháu nghĩ không khí trong lành sẽ giúp cháu thấy khỏe hơn.” Đó là một cách nói đủ lịch sự với ý “Cám ơn nhưng không cần, và tạm biệt.”

    Nhưng Maggie không chịu hiểu lời gợi ý đó. Bà đi tới chỗ ghế sô pha và ngồi xuống; con chó vặn mình đòi thả ra, nhưng bà ôm nó chặt hơn. Nhìn xuống, bà thấy cuốn album ảnh đang để mở trên sàn gần cái bàn. “À, cháu đang coi hình cũ hả.”

    “Dạ.” Lizette đứng phía cuối bộ ghế salon và nhìn xuống bà hàng xóm, người đang tự nhiên như ở nhà và không có dấu hiệu gì là hiểu ý cô và đi về nhà. Một ý nghĩ đeo bám cô; có lẽ cô có thể hỏi Maggie xem bà có nhớ chính xác là cô dọn tới khi nào không – ba năm trước, hay là năm năm? – nhưng hỏi người khác điều đó thật quái lạ. Không chỉ vậy, lỡ như căn nhà đã bị cài máy nghe lén thì sao?

    Maggie nhìn cô một cách kỳ lạ. “Cháu không sao chứ?”

    “Dạ? Cả ngày nay cháu vẫn chưa có sao. Sao cô hỏi vậy?”

    Maggie làm một âm thanh lạ trong cổ họng, hoặc là kiểu lo lắng hoặc là tò mò; đôi khi khó mà phân biệt được hai thứ. “Nãy cháu đang ngâm nga hát. Cái đó thì cũng không có gì lạ,” bà vội nói thêm, “chỉ là vẻ mặt cháu nhìn rất là kỳ cục luôn.”

    “Cháu xin lỗi,” Lizette nói, dù cô tự hỏi tại sao cô phải xin lỗi vì đã ngâm nga hát. Khi một trong mấy cơn đau đầu như búa bổ đó đe doạ trở lại, cô đã luôn tự động chuyển suy nghĩ của mình tới bài hát mà cô đã nghe hôm qua, và không nhận ra cô bắt đầu ngâm nga. “Cô biết kiểu khi cô nghe một bài hát xong cái bài hát đó cứ văng vẳng trong đầu không biến mất thì nó khó chịu ra sao luôn đó cô! Giống như cái nhạc quảng cáo Oscar Mayer Wiener đó? Kiểu vậy đó cô.”

    Đột nhiên cô thấy mình tự hỏi lý do chính xác vì sao Maggie ở đây. Tại sao bà ghé thăm, thay vì chỉ gọi điện thoại thôi? Trước giờ, cô chỉ đơn giản coi người phụ nữ này thuộc kiểu người hàng xóm tọc mạch đặc trưng, nhưng nếu không phải thì sao? Lizette lén quan sát người khách của mình. Chính xác là bà ta bao nhiêu tuổi nhỉ? Có lẽ là, năm mươi? Bà có thể trẻ hơn thế; mái tóc bạc trắng đó khiến bà trông già hơn, nhưng sẽ không ai gọi bà là người cao tuổi hết. Da bà láng mịn, láng mịn hơn nhiều so với tuổi mà màu mái tóc bà cho biết. Bà không trang điểm dày, lớp trang điểm của bà rất nhã nhặn và hầu như khó nhận thấy, điều đó cho thấy bà rất khéo léo. Và dưới bộ đồ thùng thình, không điểm nhấn đó, là một cơ thể thon gọn. Liệu bà có cơ bắp luôn không? Thể trạng khoẻ mạnh tuyệt vời? Có thể. Bà không cử động giống kiểu bà có vấn đề gì như viêm khớp hay thoái hoá khớp.

    Tay Maggie đều bị giấu cả dưới lớp lông dài và rậm của con ăng ẳng. Lizette nghiên cứu những gì cô thấy được, bởi tay cũng có thể cho biết khá nhiều về tuổi của một người. Phần nhỏ mà cô nhìn thấy dường như là láng mịn không tì vết.

    Và con chó nữa. Cái dây đeo cổ diêm dúa đó có thể che giấu bất cứ thứ gì – một cái camera, một cái máy ghi âm –

    Lizette nắm chặt ly cà phê và lùi lại. Lần này cô không hát hay ngâm nga thành tiếng, nhưng cô để bài hát vang lên trong đầu, tập trung vào ca từ cho tới khi chúng nhấn chìm mọi thứ khác. Bình thường, tâm trí cô la lên phía sau lời bài hát, tỏ ra bình thường.

    “Cháu xin lỗi,” cô nói nhanh. “Cháu nãy giờ tiếp đãi tệ quá. Cháu sẽ đổ lỗi cho mấy con vi khuẩn; cháu đã không bệnh lâu lắm rồi từ hồi nào cháu không còn nhớ nỗi nữa. Cám ơn trời là mấy cái này không kéo dài quá.” Cô đi vào nhà bếp. “Cô muốn uống cà phê không cô? Cháu sẽ pha một ấm mới.”

    “Được đó,” Maggie nói vui vẻ, làm Lizette tắt ngấm hy vọng là thay vì nhận lời, bà ta sẽ nói là bà chỉ muốn hỏi thăm coi mọi thứ có ổn không, và giờ thì bà về nhà đây.

    Lizette hít một hơi sâu và bước vào bếp. Bình thường.

    Phải gần một giờ đồng hồ trôi qua trước khi Maggie cuối cùng cũng dời mình và con ăng ẳng – tình cờ có cái tên là Roosevelt, một cái tên xém giành ngôi vị quán quân cho hạng mục cái tên phi lý nhất mà cô từng nghe cho một con chó tí hon – trở về nhà. Kiểu người nào mà lại ở thăm một người mới vừa vật lộn với một con vi trùng khó chịu lâu đến vậy? Người mắc chứng nghi bệnh và muốn bị bệnh thực sự để đổi gió à? Một người thèm khát giao thiệp tới mức bất chấp nguy cơ bản thân có thể bị nhiễm bệnh luôn? Hay chỉ là một người hàng xóm nhiều chuyện? Hay là bà đang đánh hơi xung quanh để tìm kiếm… điều gì?

    Mỗi lần Lizette đi tới điểm đó trong mạch suy nghĩ của cô, một cơn đau đầu lại đe doạ và cô phải bắt tâm trí mình lùi lại.

    Khi cô đang chuẩn bị đi ra ngoài, Diana đã gọi hỏi thăm cô. Lizette ngoan ngoãn báo cáo là cô đã thấy khoẻ hơn, suốt mấy giờ rồi không nôn nữa, và sắp đi mua vài thứ thuốc không cần đơn để phòng hờ tình hình xấu đi. Thật kỳ lạ, nhưng cô cảm thấy mình phải lựa chọn cẩn thận từng lời nói, bởi mọi thứ cô nói đều đang được phân tích và tính toán…

    Cô vội ngâm nga hát, và cơn đau dịu xuống. Tuyệt, cô dần kiểm soát tốt hơn rồi. Hơi hoang tưởng, nhưng tốt.

    Người ta hay nói câu gì nhỉ? Chỉ vì ta hoang tưởng, không có nghĩa là không có người đang muốn chơi ta. Nhưng nếu ta hoang tưởng, làm sao ta biết được kẻ thù nào là thật, kẻ thù nào là tưởng tượng? Cứ nhìn cách mà cô nghi ngờ Maggie xem; liệu cô có nghi ngờ giống vậy nếu Maggie không nhất nhất phải mang cái con chó đầy bọ ấy theo khắp nơi với bà không? Liệu có phải là tại cô ghét con ăng ẳng đó mà suy nghĩ của cô về Maggie cũng bị ảnh hưởng không?

    Ừm, chắc rồi. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là cô sai.

    Bị hoang tưởng đòi hỏi phải làm quá nhiều việc; cô không biết phải nghĩ gì nữa.

    Nhưng cô nghĩ là cô biết, và cô biết những gì cô không biết. Cô không biết cô đã chuyển vào căn nhà này khi nào. Cô không biết cô bắt đầu làm cho công ty Đầu tư Becker từ khi nào. Cô không biết bất cứ điều gì đã xảy ra trong khoảng trống hai năm trong cuộc đời cô.

    Điều khiến cô thấy báo động nhất chính là việc cô đã trải qua ba năm nay mà không hề nhận ra những điều đó, ngay cả việc cô có một khuôn mặt khác.

    Cho tới khi cô biết chính xác chuyện gì đang diễn ra, an toàn nhất không phải là cứ coi như tất cả các suy nghĩ hoang tưởng của cô là thật đi sao? Nếu không phải, thì cũng chẳng tổn hại gì. Nhưng nếu là thật, thì cô phải vận dụng hết sức mình để bảo vệ bản thân… khỏi bất cứ thứ gì.

    Cô khoá cửa và đi tới chỗ xe cô đậu trên lối ra vào giữa nhà cô và nhà bà Maggie, cố tình không nhìn lên cửa sổ nhà Maggie để phòng hờ bà đang đứng đó nhìn theo. Xe cô là một chiếc Camry màu bạc, với đủ thứ tiện nghi đi kèm, đáng tin, nhưng cũng không có gì nổi bật. Cô chợt lạnh sống lưng khi nhận ra cô không biết cô đã dùng cái xe bao lâu rồi, cô không có ký ức gì về việc mua nó. Cô thậm chí không biết nó là xe đời năm bao nhiêu nữa.

    Thẻ bảo hiểm và đăng kiểm xe nằm trong hộc đựng găng. Cô bắt đầu mở cái hộc và lấy đống giấy tờ ra, nhưng nhớ ra rằng Maggie sẽ nhìn được rất rõ cô đang làm gì nếu cô ở đây, vì vậy thay vào đó, cô nổ máy và nhẹ nhàng lùi xe tới khúc cuối lối đi. Cô dừng xe hẳn và kiểm tra hai hướng xe di chuyển, như cô vẫn làm mỗi khi rời nhà, trước khi tiếp tục lùi xe ra.

    Sự cẩn trọng, thói quen, và sự hoàn toàn thiếu tò mò như thể đã trở thành một phần của con người cô, giống như là đôi mắt xanh của cô vậy. Và cô cảm thấy không đúng – không phải đôi mắt của cô, mắt cô rõ ràng không đổi, nhưng mọi thứ khác về cuộc đời này mà cô đang sống. Cô không để bản thân tích cực nghĩ về chuyện đó bởi cô không muốn mang cơn đau đầu chết người tới trong lúc đang lái xe, nhưng trong thâm tâm cô chấp nhận rằng mọi thứ về cuộc sống của cô hiện tại đều không đúng. Chiếc xe không đúng, căn nhà không đúng, công việc không đúng – chính cô không đúng.

    Cô không biết cô có thể làm gì, nhưng phải có điều gì đó, chết tiệt. Có lẽ cô nên ngừng cố lý giải mọi thứ, một việc chẳng mang lại gì ngoài một cơn đau đầu – thưởng thêm cơn buồn nôn nữa – và chỉ làm theo trực giác thôi.


    Cô đang di chuyển.

    Nhờ vào mấy thứ đồ điện tử gắn thêm vào xe cô, anh có thể biết chính xác là cô đi đâu. Cả đám người của Forge cũng vậy, nhưng nếu may mắn, họ sẽ không cài thêm tai mắt lên cô. Họ biết cô ở đâu, cô đang làm gì, và tại sao. Ngoài ra, ngay lúc này Forge còn đang bận tay tìm hiểu xem làm sao Xavier có quá nhiều thông tin về nhân sự của Forge, và cố vá lại lỗ hổng bảo mật chỗ ông. Việc đó sẽ giữ cho họ bận rộn ít lâu.

    Trong lúc đó thì anh có việc phải làm.


    Khi dừng lại ở cây đèn đỏ đầu tiên, Lizette nghiêng người mở cái hộc đựng găng để lôi ra giấy đăng kiểm và giấy tờ mua xe gốc. Cô biết chúng ở đó, nhưng trước giờ cô chưa từng đọc – một lần nữa, lại cái sự thiếu tò mò, giờ cô thấy như thật lạ lẫm. Tín hiệu đèn chuyển xanh gần như ngay lập tức; trước đây, có lẽ Lizette sẽ để giấy tờ lại trên ghế cạnh cô và chờ tới lần dừng đèn đỏ sau hoặc là cho xe vào một bãi đậu để đọc, nhưng giờ cô vội mở đám giấy tờ ra và giữ chúng trên tay lái, lật qua để kiểm tra ngày tháng.

    Ba năm. Mọi thứ đều quay trở lại ba năm, như thể con người mà cô đã từng sống đã không còn tồn tại năm năm về trước, rồi sau một khoảng trống hai năm, cô quay lại cuộc đời với con người mới, cẩn trọng, nhàm chán, dính chặt vào thói quen, một người phụ nữ đã không có một cuộc hẹn hò thật sự nào mà cô có thể nhớ được trong suốt ba năm qua.

    Có thể lý do không có gì ghê gớm ngoài một vụ tai nạn nào gì đó. Điều đó giải thích cho dấu vết phẫu thuật trên mặt cô và khoảng trống trong trí nhớ của cô. Nhưng lý do như vậy không giải thích được việc cô rõ ràng có đủ khả năng để mua nhà, mua xe và kiếm việc làm, và như thế không hợp lý lắm với cái khoản không nhớ gì hết.

    Người bị chấn thương sọ não nghiêm trọng tới mức gây ra chứng mất trí nhớ như vậy thì không thể vực dậy lại và hoạt động hoàn toàn bình thường được; đáng lẽ phải có đủ thứ trị liệu cao độ mà cô còn nhớ, bởi theo như cô biết, mất trí nhớ xảy ra từ thời gian bị chấn thương ngược về trước, chứ không phải từ lúc chấn thương trở đi. Suy nghĩ một cách lô-gíc, thì lý do cho mọi việc này không thể nào là một chấn thương thể chất được.

    Bệnh tâm thần, hoang tưởng – hai thứ này có vẻ có khả năng hơn là một vụ tai nạn, mà như thế thật đáng thật vọng, bởi cô không muốn mình bị hoang tưởng. Nhưng liệu người có bệnh về tâm lý có bao giờ xem xét cái khả năng đó không, hay là họ chỉ đơn giản giả định điều ngược lại thôi?

    Cô lại đang nghi ngờ bản thân, sau khi đã quyết định là sẽ làm theo trực giác.

    Mắt cô chợt nhìn màn hình dẫn đường trên bảng điều khiển xe. Xe cô có GPS. Điều đó có nghĩa là vị trí xe của cô có thể theo dõi được, cho dù cô đi đâu. Đây là chiếc xe mà cô không nhớ là đã mua, và cũng không phải là một kiểu xe mà cô sẽ mua cho mình. Có thể nó đã được chọn cho cô, và tới chỗ cô với đủ thứ thiết bị nghe lé và theo dõi được cài lên. Cô không biết làm sao có thể kiểm tra mấy thứ như vậy, nhưng cô biết chuyện đó hoàn toàn có khả năng.

    Tỏ ra bình thường. Cô chỉ cần phải tỏ ra bình thường thôi.

    Cô lái xe vào bãi đậu xe của hiệu thuốc Walgreens gần nhà cô nhất. Có một chỗ đậu trống ngay cạnh cửa vào, một vị trí hạng nhất, một chỗ mà ai cũng muốn. Cô bắt đầu dời bánh vào, nhưng rồi đột ngột đổi hướng và vòng quanh các chỗ đậu xe sâu bên trong cho tới khi cô tìm thấy hai chỗ đậu trống thẳng dọc nối đuôi nhau. Cô cho xe vào và chồm lên một chút, để cho đầu xe hướng ra khỏi chỗ đậu, như thế thì cô chỉ cần cho xe ra và chạy đi thôi. Nếu cô đột ngột phải rời đi, thì việc không cần phải de xe ra khỏi bãi đậu cũng sẽ giúp cô tiết kiệm vài giây quý giá, và có thể cứu mạng cô.

    Một cơn ớn lạnh chạy dọc lưng cô và chọc vào xương sọ cô đau nhói. Trực giác đột nhiên hét lớn với cô, và cô không thích những điều mà trực giác cô mách bảo.

    Bọn họ đang nhìn.

    Bọn họ đang nghe.

    Bọn họ biết cô ở đâu.

    Chương sau là anh chị gặp nhau rồi ~~ Hẹn mọi người ngày mai nha :)
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/4/20
    dakedo, vu thu giang, putsi and 8 others like this.
  13. LanNP

    LanNP Lớp 7

    Truyện có tất cả bao nhiêu chương bạn nhỉ?
    Đọc hấp dẫn quá, luôn là Linda Howard! Cảm ơn bạn nhiều lắm!
     
    putsi thích bài này.
  14. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Truyện có 29 chương + 2 chương mở đầu và kết thúc á bạn.
     
    Breeze, putsi, vinhlinh1979 and 5 others like this.
  15. LanNP

    LanNP Lớp 7

    mình hóng nha!:rose::rose::rose::rose::rose::rose::rose::rose::rose:
     
    Breeze, chau_la_la and kimduyen like this.
  16. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương bảy


    Xavier liếc nhìn màn hình laptop nằm cạnh anh trên chiếc xe tải của anh. Xe cô được hiển thị bằng một chấm nhấp nháy, và cái chấm đó đã ngừng di chuyển. Bản đồ chồng xếp cho anh biết cô đang ở bãi đậu xe của Walgreens. Như thế là tốt, bởi cô đã nói là cô sẽ đi hiệu thuốc và đó là tiệm gần nhà cô nhất. Cô đi thẳng tới đó, không dừng ở đâu ngoài lịch trình – nói cách khác, cô hành động chính xác như cách mà cô nên làm.

    Câu hỏi lớn là: liệu cô có làm gì khác đi dù cô có nhớ hay không nhớ hay không? Nếu cô nhớ ra bất cứ thứ gì, liệu cô có cố tiếp tục như bình thường trong khi tìm hiểu và sắp xếp mọi thứ một cách lô-gic không? Không thể nào biết được điều đó từ một khoảng cách xa được.

    Anh vừa liếc vội vào máy tính để đảm bảo là cô không còn di chuyển nữa vừa lái xe thật nhanh và mạnh. Anh băng ngang vài bãi đậu xe, phóng qua đèn vàng, và nói chung là khiến cho bất cứ ai đang theo anh không thể làm vậy mà không bị phát hiện. Sau đuôi anh vẫn còn thông thoáng. Vài giờ đồng hồ nữa có thể là anh sẽ có vài con mắt dõi theo anh, tuỳ vào việc Lizzy làm gì, nhưng giờ thì chưa. Anh biết xe anh không bị gắn thiết bị theo dõi bởi anh đã kiểm tra để đảm bảo điều đó, và xe anh là một chiếc đời cũ không có hệ thống dẫn đường hay là ba cái của nợ định vị giúp bất cứ ai cũng có thể biết được anh đang ở đâu, ở đó trong bao lâu, hay là anh đang chạy nhanh bao nhiêu. Nó ngốn xăng hơi nhiều, nhưng cửa xe được gia cố để ngăn bất cứ thứ gì trừ đạn xuyên thủng áo giáp. Anh có đủ năng lượng trong cái động cơ 8 xi-lanh chạy nhanh hơn hầu hết mấy chiếc xe trên đường, một bình xăng cỡ lớn, và với mấy thanh chắn bự bảo vệ đằng trước xe thì anh có thể tông thẳng để mở đường trong hầu hết trường hợp cố chặn xe anh. Tới nay thì anh vẫn chưa cần sử dụng tới mấy cái công năng phụ thêm đó của xe, nhưng mà anh luôn phòng bị cho mọi khả năng.

    Anh đang lo về yếu tố thời gian. Nếu cô đi vào cửa hiệu, lấy mấy cứ cô cần, rồi thanh toán mà không bỏ thời gian ngắm nghía đồ, thì anh sẽ lỡ mất cô. Cô có thể đi thẳng về nhà, và thế là cơ hội này coi như đi tong. Anh muốn tự mình nhìn thấy cô; anh đã tránh xa cô mấy năm rồi, thậm chí còn không chạy xe ngang nhà cô nữa, nhưng đó là khi hiện trạng được giữ nguyên. Nếu tình hình đang thay đổi, anh cần phải biết. Anh đang làm một điều rất mạo hiểm, nhưng bởi vì nó mạo hiểm nên Forge sẽ không lường trước được việc anh làm.

    Đôi khi điều khôn ngoan nhất để làm chính là điều phi lý khó hiểu nhất – đặc biệt là khi người khác nghĩ là anh sẽ giữ nguyên suy nghĩ.

    Đi lại trong khu vực thủ đô là một bài tập về sức kiên nhẫn ngay cả lúc thuận lợi nhất; nhưng tạ ơn trời là bây giờ không phải giờ cao điểm, anh cho xe vào bãi đậu của Walgreens trong thời gian kỷ lục. Nếu anh không có thiết bị theo dấu giúp anh di chuyển gần như cùng lúc với cô thì anh đã không thể làm được điều này.

    Anh nhanh chóng quét mắt qua các chiếc xe đang đậu. Anh biết kiểu xe và đời xe của cô, màu sắc, thậm chí là bảng số xe. Có rất nhiều chỗ đậu trống ngay cạnh toà nhà, gần cửa ra vào, nhưng không có chiếc nào là của cô. Sau đó anh phát hiện chiếc xe màu bạc không có gì nổi bật mà cô đậu phía cuối dãy, và được để chồm về phía trước giữa hai khoảng đậu do đó xe cô hướng ra ngoài.

    Tim anh nhảy lên trong lồng ngực. Bản thân anh luôn đậu xe kiểu đó. Mọi người anh biết trong nghề cũng đậu xe kiểu đó, bởi chỉ một giây ít ỏi thôi cũng có thể cứu được mạng sống của họ. Kiểu đậu xe sẵn sàng rời đi, không cần phải de ra, quay đầu, đổi hướng – tất cả những thứ nhỏ nhặt làm chậm trễ và có thể tạo sự khác biệt giữa còn sống thoát ra và không thể.

    Và giờ Lizzy đậu xe kiểu đó, dù cho có chỗ đậu trống gần toà nhà hơn. Có thể là mấy chỗ đó có người đậu trước khi cô tới, nhưng điều đó không giải thích được cách cô đậu bây giờ. Có thể là anh đang phân tích quá mức; nhiều người cũng đậu kiểu đó, đôi khi là do suy nghĩ nhất thời, hoặc là do họ dở quay đầu xe. Có thể lúc cô chạy vào bãi đậu thì người đậu đằng trước cô cũng vừa rời đi, nên cô chỉ đơn giản là chạy lấn tới thôi. Anh không nên nghĩ ngợi quá nhiều về điều này. Nhưng cũng không nên bỏ qua nó.

    Anh đi vòng, lùi vào một chỗ trống ở dãy cuối cùng, và đi ra khỏi chiếc xe tải. Trước khi rời căn hộ, anh khoác một cái sơ mi denim đi làm bên ngoài cái áo thun, không cài nút để anh có thể dễ lấy được vũ khí. Một con mắt sắc bén có thể nhận ra anh có vũ khí, nhưng nếu có ai để ý thì anh luôn có thể giơ cái huy hiệu giả ra. Ờ thì cái huy hiệu đó là trái luật; nhưng mà nhiều thứ anh làm cũng trái luật thôi, nên anh cũng chẳng lo. Cho dù anh có bị bắt bài đi nữa, thì anh cũng sẽ được thả ra ngay khi họ kiểm tra thông tin của anh.

    Một luồng adrenaline chảy qua mạch máu anh, rồi qua tim anh, cả người anh; sau đó anh lắng lại trong một trạng thái điềm nhiên trầm tĩnh, mọi giác quan của anh đều được đẩy lên cao, một điều luôn xảy đến với anh khi anh tiếp cận con mồi.

    Cánh cửa tự động vụt mở ra và anh hít vào cái không khí đặc trưng của một hiệu thuốc, một chút mùi của nhựa, chút mùi của thuốc men, thoang thoảng gần như khó thấy dưới mùi hương ngọt ngào của mỹ phẩm và kem dưỡng. Làn khí lạnh phả vào mặt anh khi anh bước vào trong, quét mắt trái phải khi anh đi, một việc mà anh sẽ làm cho dù anh có đang đi tìm cô hay không. Có lẽ cô đang ở khu dược phẩm, nên anh băng qua khu đồ trang điểm, đồ chơi, rồi kẹo. Đôi chân dài giúp anh sải nhanh đến khu vực anh cần.

    Đây rồi. Đây rồi, cô đang rảo bước dọc dãy dầu gội đầu và mấy thứ tào lao khác. Lưng cô quay lại phía anh, và cô mang một giỏ mua hàng bằng thép với tay cầm bọc nhựa. Dù thế, không nghi ngờ gì đó chính là cô; anh biết mái tóc sẫm ấy, đôi vai thẳng, cái cách cô nghiêng đầu, và, quỷ thần, đường cong hình trái tim ngược của mông cô. Lizzy – bằng xương bằng thịt, sau bao nhiêu năm chỉ nghe tiếng hoặc xem hình của cô.

    Tuy nhiên, anh từ tốn dừng lại và nghiên cứu kỹ lưỡng khu vực. Không ai đang theo dõi cô. Không ai đang theo dõi anh. Lối đi vắng người chỉ có mình cô; người gần cô nhất là một nhân viên mập mạp, tóc bạc đứng cách hai dãy và đang bận chất hàng lên kệ.

    Một cái giỏ mua hàng nằm bên cạnh một kệ trung tâm trưng bày mấy món đồ lễ Độc lập còn thừa. Anh cầm lấy cái giỏ, vớ lấy một chai xịt khử mùi, một bịch kẹo và quăng hết vào giỏ để nguỵ trang, sau đó tiến gần đến, đôi bốt đế cao su của anh lặng lẽ trên sàn gạch. Anh cố tình quay người để vai anh đụng vào vai cô, đủ mạnh để xém chút khiến cô mất thăng bằng.


    Ai đó đẩy vào người cô một cái mạnh, làm cô lùi nửa bước về phía sau để tránh bị ngã dập bàn toạ. Không nghĩ ngợi, Lizette chuyển trọng lượng sang chân sau và xoay người, một cơn báo động chạy khắp người, cô nắm chặt tay cầm cái giỏ khi cô, theo bản năng, sẵn sàng vụt nó vào kẻ tấn công mạnh hết sức có thể.

    “Xin lỗi!”, một người đàn ông nói bằng một giọng trầm và hơi thô ráp khi anh ta xoay về phía cô. “Tôi đã không để ý xem mình đang làm gì.”

    Ở một mức độ nào đó cô nhận thấy anh ta đã quay người khỏi cô rồi, và cơn hoảng sợ dịu xuống. Anh ta đang mang một cái giỏ mua hàng, và một cái lướt mắt nhanh cho cô biết thứ nguy hiểm nhất trong đó là một chai khử mùi – à, có thể kể cả thanh kẹo sô-cô-la nữa, tuỳ theo việc cô có đang ăn kiêng hay không hay là tìm kiếm vũ khí.

    Sau đó cô nhìn lên mặt anh ta, và tim cô đập loạn nhịp. Làn da cô ghi nhận một cảm giác như bị một tác động vật lý, như thể mỗi dây thần kinh trong người cô đang phản ứng với… thứ gì đó: hoá học, thân nhiệt, testerone – bất kể nó là gì, thì cũng đều quá sức chịu đựng, quá mạnh và trực tiếp. Tóc gáy có dựng đứng, những cơn ớn lạnh chạy lên xuống tay cô, và núm vú cô co lại thành hai nụ chặt khít.

    Ánh đèn huỳnh quang chói mắt trong hiệu thuốc như mờ đi, âm thanh nhoà đi, và trong vài giây đáng lo ngại, tầm nhìn của cô bị thu hẹp lại nơi anh ta, chỉ anh ta mà thôi, như thể chỉ có mình họ giữa cửa hiệu này. Hỗn hợp phản ứng thoáng qua này khiến cô bối rối đến nỗi cô phải với ra sau nắm lấy kệ hàng để làm điểm tựa khi cô lùi lại một bước, cần phải tạo khoảng cách giữa họ. Anh ta quá sức chịu đựng của cô.

    Mắt cô mở lớn, môi cô như tê liệt, cô đã không làm gì ngoài trố mắt nhìn anh ta trong khi cô cố kiểm soát bản thân. Cô không phản ứng với nam giới như thế này, thậm chí không với cả những người tốt bụng, dễ mến, công việc ổn định và dư dả, kiểu người mà phụ nữ nào cũng muốn gặp, và chắc chắn là không phải kiểu người này – kiểu kẻ săn mồi. “Tốt bụng” và “dễ mến” là hai từ cô chắc chắn chưa bao giờ được dùng cho anh ta. Cô nên bỏ chạy. Cô nên làm theo bản năng của cô và tránh xa anh ta càng nhanh càng tốt.

    Cô biết như vậy. Cô cũng đồng tình với bản năng của cô. Nhưng cô không thể khiến chân mình cử động được.

    Cô rùng mình, cơ thể cô vẫn còn đang vật lộn với những tín hiệu choáng ngợp và mâu thuẫn mà não cô đang gửi đi. Có thể cô sắp bị ngất, cô nghĩ, hoảng hốt bởi khả năng đó nhưng không thể đưa mắt khỏi anh.

    Anh ta cao hơn cô một cái đầu, vai rộng, rắn rỏi và dẻo dai trong đôi bốt, quần jeans, và một chiếc áo sơ mi denim không cài nút mặc ngoài áo thun. Tuy nhiên, hơn cả kích thước của anh ta, chính là nguồn năng lượng cuồn cuộn toát ra xung quanh anh ta, mặc dù anh chỉ đứng đó thôi. Tư thế của anh ta, cách anh ta giữ thăng bằng một cách hoàn hảo, nhờ vậy anh ta có thể di chuyển bất cứ hướng nào không chậm trễ, đôi chân cơ bắp khoẻ mạnh thấy rõ qua chiếc quần jeans ôm chặt, tất cả đều cho thấy anh ta là một người có sức khoẻ tráng kiện.

    Kết cấu xương mặt anh thon gọn và góc cạnh, với xương gò má cao như chạm trổ và một chiếc mũi thanh, sóng mũi cao, khiến cô nghĩ anh ta có lẽ có gốc là người thổ dân châu Mỹ nào đó, hoặc cũng có thể là Trung Đông. Nhưng mắt anh ta mới là đặc điểm nói rõ về con người anh ta nhất. Anh có tóc màu sẫm, nước da ô-liu, và mắt sụp mí với màu nâu sậm nên đồng tử gần như hoà lẫn vào sắc đen của giác mạc. Ánh nhìn của anh ta trực diện, gay gắt lạnh lẽo, và khi ánh mắt đó tập trung vào cô, cô cảm thấy như đột nhiên bị đặt vào tâm ngắm…

    Cô cảm thấy một nhát đâm sắc lẹm và cảnh cáo của cơn đau. Điều đó cuối cùng cũng phá vỡ thứ bùa mê mà cô mắc phải nãy giờ. Cô vội quay đi, tập trung vào cái nhãn một chai dầu gội đầu, bởi cô sẽ trông như một kẻ ngờ nghệch nếu bắt đầu ngâm nga hát một cách ngớ ngẩn. Khi cơn đau dịu đi, cô nói, “tốt rồi”, không nhìn lại anh ta bởi điều gì đó trong mắt anh ta khiến cô cảm thấy như thể cô đang đứng trên một mép vực, và sắp rơi vào một chốn hư vô chưa từng biết đến.

    Bàn tay to lớn của anh ta xuất hiện trong tầm mắt cô khi anh ta với lấy một chai dầu gội. “Thứ này làm tôi thấy mình như một thằng ngốc,” anh lẩm bẩm, làm cô giật mình đánh mắt qua anh.

    “Dầu gội á?” Cô khẽ chau mày lại. “Dầu gội đầu thì có gì khó chứ? Dội ướt, xoa lên tóc, rồi xả đi thôi. Đừng nói là anh từng rớt môn Gội đầu sơ cấp nha.” Lời nói cứ thế nhảy ra, như thể có ai khác đang nói vậy. Cô thông minh hơn thế: đừng tiếp chuyện với người lạ – đặc biệt là người lạ mà nhìn kiểu có thể bẻ gãy cổ cô chỉ bằng một tay – đừng khiêu khích, đừng… Cô còn biết nhiều cái “đừng” khác nữa, nhiều lời khuyên cô nên làm theo, nhưng chúng rơi rớt tan tác dù cho cô có ráng giữ chúng trong tâm trí. Cô không phải kiểu đáo để; cô luôn tỏ ra lịch sự với mọi người, cố không xâm phạm tới ai, vậy mà giờ cô đang trêu chọc anh chàng này, và kỳ lạ là… điều đó cảm thấy gần như là tự nhiên.

    “Đậu điểm ưu luôn; tôi là học trò cưng của cô giáo đó,” anh ta đáp lại, miệng cong lên về một bên trong một nụ cười nửa miệng cho thấy anh ta không hề cảm thấy bị xúc phạm. “Nhưng cô nhìn xem.” Anh ta quay cái chai qua cho cô thấy. “ ‘Tạo độ phồng và làm sạch sâu’ là cái gì? Và tôi có cần không? Thứ này có làm cho tóc tôi dựng đứng lên, rồi tôi thấy hiểu rõ hơn về vũ trụ không?”

    Cô nhìn lên mái tóc anh ta, sẫm, dày, thẳng, và hơi rối, như thể anh ta đã chải đầu bằng cách kéo mấy ngón tay qua chúng vậy. “Tôi không nghĩ là anh cần tạo độ phồng chi đâu.” Chỉ tay về phía cuối dãy, cô nói, “Với lại, đây là dầu gội cho nữ. Anh cần mấy thứ nam tính đằng kia kìa.”

    Anh ta nhìn theo hướng cô chỉ. “Có gì khác biệt không?”

    “Bao bì.”

    Ánh mắt anh ta quay lại cô và môi lại hơi cong lên. “Nếu vậy thì tôi sẽ hiểu rõ hơn về vũ trụ à?”

    Tim cô bắt đầu đập mạnh hơn, nhanh hơn một chút. “Không, nhưng anh sẽ thấy nam tính hơn dù anh không hiểu.”

    Biểu cảm trong mắt anh ta thay đổi, nó sáng lên, rồi anh bật cười, kiểu vậy. Giọng cười của anh ta hơi thô ráp, như thể anh không thường hay tạo ra âm thanh đó và cũng không biết làm sao để phát nó ra. Tim cô hơi nảy lên một cái kỳ lạ, theo sau đó là một cơn ớn lạnh làm sởn da khi cô đột ngột nhận ra cô đã mất cảnh giác. Cô phải tránh xa anh ta, phải giữ an toàn, bởi dù anh ta là gì thì cũng quá sức cô có thể kiểm soát.

    “Chào anh,” cô nói, quay gót đi trước khi anh có thể nói gì khác. Cô đi tới cuối dãy càng nhanh càng tốt mà không phải thực sự chạy, lao sang bên trái, đặt giỏ xuống và tiến tới cửa ra vào. Cô cần mấy thứ thuốc chống nôn trong giỏ, và cả đám aspirin nữa, nhưng mà phải tính tiền nữa thì quá mất thời gian. Cô phải đi đến chỗ khác để mua những thứ cô cần thôi. Cô sẽ đi Walmart. Cô phải tránh xa khỏi anh ta và cô không quan tâm nếu cô tỏ ra như một con ngốc khi làm như vậy.

    Tim cô đập mạnh khi cô gần như chạy hết tốc lực qua bãi đậu xe để tới xe của cô. Cô dùng cái điều khiển mở xe ngay trước khi cô tới, quăng mình vào trong, và khoá cửa lại. Mò mẫm một lúc, cô đẩy chiếc chìa khoá vào lỗ khoá và nổ máy.

    Không có ai theo cô ra khỏi cửa hiệu.

    Ngốc nghếch.

    Cô ngồi trong vài giây, thở mạnh, cáu tiết với bản thân. Cô hoảng lên không vì gì hết, chỉ bởi có một anh chàng to xác trò chuyện vài câu bình thường với cô.

    Có thể. Có thể đó là tất cả những gì anh ta đã làm. Hoặc có thể nhiều hơn vậy, một điều gì đó cô không hiểu và không nhớ được. Làm sao cô có thể phân biệt được?

    Đáp án: không thể.

    Cô thở ra một hơi. Ờ thì, dù sao cô cũng cần phải đi tới Walmart, để mua một chiếc di động thay thế. Cô vẫn sẽ phải trả tiền thuê bao hàng tháng với nhà cung cấp di động hiện tại, nhưng cho tới khi cô có thể tìm hiểu được chuyện gì đang xảy ra, cô muốn một chiếc điện thoại có thể giấu tên tốt hơn. Phải hai cái, bởi cô cần một chiếc rẻ tiền dễ vứt...

    Chết tiệt!

    Cô không có thời gian để ngâm nga hay đọc nhãn chai. Nỗi đau đớn trong đầu làm cô rên rỉ trong khi cố co tròn người lại, nhưng bị vướng tay lái và cô bị đụng đầu gối một cái rất mạnh. Kỳ lạ là điều đó giúp ích cho cô, như thể cô chỉ có thể xử lý một cơn đau một lần thôi, và nguồn đau mới này lôi sự chú ý của cô ra khỏi cái đầu. Cơn đau ở đầu nhanh chóng dịu xuống.

    Mắt cô ứa nước bởi cơn đau, nhưng ít ra là cô không bắt đầu nôn mửa nữa. Cô chùi mắt và ngả xuống ghế, hít thở và tập hợp lại năng lượng. Được rồi. Cô vừa học được một cách đối phó mới. Lần tới mà cơn tấn công lẻn qua được lớp phòng vệ của cô, tất cả những gì cô cần làm là tự đấm vào miệng.


    Cô không nhớ anh. Vậy cũng hay. Vậy thật tệ. Khi cô đột nhiên bỏ đi, chạy trốn khỏi anh như thể có rắn mọc trên đầu anh, Xavier ép bản thân phải đứng yên tại chỗ. Anh không muốn làm cô hoảng sợ tới mức làm gì đó sẽ kích hoạt phản ứng từ đám người của Forge. Đơn giản tiếp cận cô thế này đã đủ nguy hiểm rồi, nhưng giờ anh đã có câu trả lời anh muốn.

    Cô đang quay trở lại. Anh biết vậy, dù rằng cô chưa nhận ra anh. Cô vẫn phản ứng lại với anh, với sự liên kết gần như xẹt điện luôn có giữa họ. Cuộc trò chuyện về dầu gội gần như tương tự với một lần khác mà họ từng nói về chai khử mùi, lần mà anh đã không thể che giấu phản ứng của anh. Anh vẫn sẽ ngửi thơm hơn, nhưng anh sẽ thấy nam tính hơn khi không bốc mùi nữa. Anh như thể vẫn còn nghe thấy cô nói điều đó, thấy cô nhếch miệng cười trước khi anh vồ lấy cô và xoá đi nụ cười ấy bằng một nụ hôn. Cô có cái miệng quá đáo để và cần phải hôn thật nhiều để kiểm soát được cô. Lắng nghe cô mấy năm nay, biết được họ đã làm cô trở nên một người buồn chán đến thế nào, đã khiến anh phát điên, mặc dù anh bị ép phải chấp nhận điều đó.

    Cô còn sống, dù cô đã không thực sự sống. Anh đã phải tạm hài lòng với điều đó. Nhưng giờ đây mọi việc đang thay đổi; anh nghe thấy điều đó trong giọng nói của cô, thấy nó trong tia lấp lánh sáng rực trong mắt cô. Tình hình có thể sẽ giữ yên thêm một tuần nữa, một tháng nữa, có thể không tiến triển xa hơn nữa, nhưng anh sẽ không cược vào điều đó.

    Thay vào đó, anh cá là cô chuẩn bị gầm lên báo hiệu sự quay trở lại, bởi cô chính là người như vậy, và trời cũng sẽ không ngăn nổi cơn địa chấn sắp xảy đến.

    Bonus thêm bài Space bound bởi tình yêu dữ dội của anh chàng Xavier làm mình liên tưởng với bài này :)
    "I'm a space bound rocketship and your heart's the moon
    And I'm aiming right at you, right at you..."


     
    dakedo, vu thu giang, LanNP and 7 others like this.
  17. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    À thì, mình chỉ muốn cảnh báo là mấy cái rate NC-17, R+18 gì đó là ở chương này nha mọi người.

    Chương tám




    Lizette nghiên cứu quầy hàng trưng bày đủ loại điện thoại di động tại Walmart. Một điều gì đó cứ đeo đẳng cô, một điều cô cần phải xem xét tỉ mỉ, nếu cô có thể tìm ra được cái điều đeo đẳng đó là gì.

    “Chị cần tìm một chiếc điện thoại ạ?”, một nhân viên tầm hai mươi mấy hỏi cô. Cậu ta cao lêu nghêu và trông nghiêm chỉnh, đeo một cặp kính trễ trên cánh mũi.

    “Chị chưa biết nữa,” cô trả lời. Cô tới đây với ý định rõ ràng là lấy một cái điện thoại cơ bản thôi, nhưng giờ khi đứng ở đây trước tủ trưng bày, cô không chắc cô sẽ đạt được điều gì không.

    “Chị muốn một chiếc điện thoại thông minh, hay là một mẫu cơ bản thôi ạ?”

    “Chị chỉ ngắm nghía cái đã. Cám ơn em.”

    Cô có thật sự cần một chiếc điện thoại ẩn danh hay không? Đó là một trong những ý tưởng kỳ lạ nảy ra từ đâu đó trong khoảng đen của hai năm đánh mất đó, nhưng nếu cô áp dụng cái suy nghĩ đó cho hiện tại, thì nó sẽ ích lợi gì? Cô không có ai cần gọi mà lại không thể dùng điện thoại thường của cô – cái mà cô đã tiêu huỷ trong một cơn hoảng loạn đột ngột khi chắc chắn rằng nó bị theo dõi. Theo dõi. Đó là điểm mấu chốt, không phải là việc giữ bí mật. Cô không biết nhiều về điện thoại di động trả trước, nhưng cô có biết là điện thoại phải được kích hoạt online, điều đó có nghĩa là điện thoại sẽ được đăng ký dưới tên của cô. Cô sẽ đạt được điều gì chứ?

    Không gì cả.

    Được rồi, câu hỏi đó đã được trả lời. Cái cô cần là một chiếc điện thoại mà cô biết là không bị theo dõi. Điều này cô có thể làm nhờ nhà cung cấp dịch vụ mà cô quen dùng, xét tới việc cô đã trả tiền hợp đồng rồi. Nếu cô để pin ở ngoài máy, thì cô sẽ không bị theo dõi bằng GPS của điện thoại. Tương tự, nếu máy hết pin, nó sẽ không thể bị trộm dữ liệu. Một trình riêng biệt cài trên điện thoại có thể thu được các cuộc nói chuyện của cô nếu cô ở trong phòng, nhưng đầu tiên ai đó sẽ phải có quyền truy nhập vào điện thoại của cô, và cô chắc chắn có thể kiểm soát được việc đó.

    Cô cảm thấy như cô đã bị lạc vào vùng hoang mạc ngu si, nhưng cô đang bắt đầu chầm chập tìm đường ra. Không điều gì hợp lý cả, nhưng trật tự đang dần được thiết lập. Cô giờ không hoảng loạn như trước nữa và có thể suy nghĩ một cách lô-gic.

    Cô đã đi vào cửa với quyết tâm mua một chiếc di động trả trước mà cô rõ ràng không cần, ngược lại nếu mua điện thoại mới sẽ phát cảnh báo đến đám người bí ẩn – “Bọn họ”, một việc mà cô muốn tránh. Một chiếc điện thoại ẩn danh đích thực là một cái đã được một người khác lấy và chuyển nhượng lại, để nó không có mối liên hệ với cô. Cô không biết làm sao cô biết được chi tiết nhỏ này, nhưng cô biết, và nó cũng không khiến cô chịu một cơn đau đầu nào. Thật mừng làm sao.

    Cô rời cửa hàng mà không mua gì cả, ngay cả mấy thứ thuốc không cần đơn dùng để trị đau đầu và buồn nôn. Cô rõ ràng không dính nhiễm trùng nào cả, bởi con vi khuẩn nào mà có thể ngăn lại bằng cách tập trung vào mấy bài hát hay mấy thứ linh tinh khác chứ? Không, cả hai triệu chứng rõ ràng đều xuất phát từ các ký ức ngoi lên từ hai năm mất đi.

    Một điều gì đó đã xảy ra với cô, một điều gì đó thảm khốc và có lẽ thậm chí là hiểm ác, mặc dù cô không có chứng cứ cho điều đó. Thay vào đó cô dường như đã bị thả trôi dạt trong một cuộc đời mới, và để mặc cô ở đó tự xoay sở.

    Có thể cô đã có một kiểu phản ứng kỳ lạ với thuốc gây mê khi cô được phẫu thuật khuôn mặt, bất kể khi đó là khi nào. Có thể nó không có gì hơn như vậy, và tất cả những mối nghi ngờ về điện thoại di động bị theo dõi và cô bị giám sát đều là sản phẩm phụ của những phim ảnh cô đã xem trong quá khứ.

    Cô sẽ cẩn thận bởi cô không biết chắc chuyện gì đang xảy ra, cô nghĩ như vậy trên đường lái xe tới nhà cung cấp dịch vụ di động để mua một chiếc điện thoại mới, nhưng cô sẽ không để chuyện này khiến cô phát điên.

    Người thông minh thì sẽ làm như vậy – đúng không?



    Thời gian còn lại trong ngày và buổi tối, mọi chuyện diễn ra bình thường, ít nhất là ở bề ngoài. Lizette làm những việc mà cô làm theo thói quen, ăn súp vào bữa tối, trả lời một cuộc gọi khác từ Diana và báo cáo là cô thấy hơi run rẩy nhưng nhìn chung đã khoẻ hơn nhiều. Cô xem tivi. Cô đọc sách – hay là cố gắng đọc. Suốt thời gian đó, cô nghĩ về cái cảm giác rùng mình rờn rợn đó là nhà cô cũng bị cài thiết bị theo dõi – không chỉ điện thoại, không chỉ xe cô, mà cả căn nhà nữa. Nếu ai đó thực sự định làm hết mọi chuyện phiền phức đó, không theo dõi căn nhà sẽ để một lỗ hổng lớn trong hàng rào điện tử, và cô đơn giản không cho là như vậy.

    Nhưng cô làm thế quái nào để kiểm tra xem nhà có bị cài thiết bị theo dõi hay không? Cô có thể đi xem tất cả các thiết bị chiếu sáng, tất cả các đèn, nhưng mà làm vậy không phải sẽ khiến cô bị lộ tẩy hoàn toàn nếu thực sự có mấy cái máy theo dõi ở đó sao? Ngoài ra, cô đã nhiều lần thay tất cả các bóng đèn trong tất cả các thiết bị trong thời gian cô sống ở đây rồi, và cô chưa bao giờ nhận thấy thứ gì bất thường hết. Cài thiết bị nghe lén tốt nhất là ở trong các hốc cắm điện, và cô sẽ không thể tìm ra chắc chắn được trừ khi cô có máy đo ampe…

    Whoa. Đầu nhói đau. Cô ngâm nga một chút để xua nó đi. Cô bắt đầu thấy bực mình với mấy cơn đau đầu ngu ngốc này rồi. Lỡ như cô bị đau ngay thời điểm quan trọng thì sao, ví dụ như là khi cô đang lái xe chẳng hạn? Cô có thể đâm sầm vào một chiếc xe tải chở hàng, hay là một chiếc xe van đầy con nít, hoặc là đủ thứ tồi tệ khác.

    Được rồi, cô không thể làm gì về đám máy nghe lén. Cô tốt hơn là nên lên giường và cố ngủ một chút để lấy lại sức sau đợt lượn siêu tốc với đủ trò đau đầu, buồn nôn, và thần kinh căng thẳng, mà cô đã trải qua gần như cả ngày nay. Vấn đề là mấy dây thần kinh căng thẳng đó vẫn còn theo cô. Mặt cô vẫn không phải khuôn mặt mà cô nhớ, ít nhất hai năm đã biến mất hoàn toàn khỏi cuộc đời cô, và cô không thể xoá bỏ cảm giác sâu thẳm trong tâm tưởng cô, rằng bọn họ, dù cho bọn họ, những người ác độc mà cô không biết là ai –– đứng sau mọi chuyện này, không chỉ đánh cắp một phần cuộc đời cô mà còn giữ cô trong bóng tối và canh chừng để chắc chắn cô mãi mãi ở đó.

    Điều đó làm cô tức giận thật sự. Tại sao lại là cô? Cô đã làm gì chứ? Liệu đó là một việc không gì hơn là tình cờ, hay là cô đã đồng ý tham gia vào một cuộc nghiên cứu y học bị thất bại – một cách nói giảm cực mạnh – và đây là kết quả? Không, điều đó không giải thích cho cái khuôn mặt mới. Không gì hết.

    Cho tới khi cô tìm ra chính xác chuyện gì đang xảy ra, cô nghĩ đám thần kinh căng thẳng này sẽ là bạn đồng hành mới của cô, và cô phải học cách làm quen với chúng. Lấy ví dụ như anh chàng trong Walgreens hôm nay. Cô đã hoảng lên chẳng vì gì cả, một điều thật xấu hổ, nhưng ít ra anh ta là người lạ và cô đã không làm chuyện gì ngu ngốc như là bắt đầu hét lên chỉ bởi vì anh ta hỏi cô vài câu về dầu gội.

    Nghĩ về anh là một sự sao lãng được hoan nghênh. Trong vài phút, cô cho phép bản thân đắm mình trong niềm vui đơn thuần của một phụ nữ khi nằm nhớ lại tác động của anh lên các giác quan của cô. Anh là bằng chứng di động cho sự thật về pheromone hay gì? Cô đã bị thu hút lẫn sợ hãi cùng một lúc, một loại cảm giác hứng khởi đặc biệt.

    Nếu cô không chết nhát như vậy, thì có lẽ anh đã hỏi xin số điện thoại của cô rồi. Câu hỏi lớn tiếp theo là, liệu cô có đủ can đảm để cho anh không?

    Anh không an toàn. Cô biết điều đó một cách bản năng. Dù cho nhìn bề ngoài thì không có gì đe doạ gì về anh hết, nhưng cô biết anh không thuộc kiểu người an toàn, bình thường hàng ngày.

    Kỳ lạ là cô có thể nhớ mặt anh rất rõ. Đôi mắt sẫm tối, nguy hiểm, và dữ dội của anh là nổi bật nhất. Một người đàn ông như anh…

    Không, cô đang để cho trí tưởng tượng, được dẫn dắt bởi hóc-môn, đi quá tầm kiểm soát, một từ rất hợp để nói về quãng thời gian còn lại trong ngày. Cô phải cười chính mình. Ít nhất nghĩ về một anh chàng đẹp trai cũng tốt hơn là lo lắng về căn nhà bị cài máy nghe lén.

    Cuối cùng thì cô cũng đủ mệt đến mức cô nghĩ là cô có thể ngủ được rồi, nên cô lôi mình lên giường. Nhưng cô vẫn cứ thao thức, và tiềm thức cô điểm đi điểm lại các sự kiện trong ngày, cố lý giải chúng, cố giải được câu đố. Và rồi – cuối cùng – cô chìm vào giấc ngủ.

    Và cô mơ. Cô biết đó là một giấc mơ, theo cách mà cô đôi khi biết lúc cô gần như ngoi lên đủ để thức dậy, nhưng lại không hẳn. Mọi thứ xung quanh cô trông đủ thật, và cô thấy chính mình trong giấc mơ, thật nhẹ nhõm, bởi vì sau một ngày cô đã có, cô không muốn mơ trở thành một người khác.

    Cô từng mơ về những căn nhà trước đây: nhà với những căn phòng bí mật và cầu thang thẳng đứng, những căn nhà khác mà cô có thể nhớ là từ thế giới thực, như căn nhà nơi cô lớn lên, nhà của cô bạn thân hồi lớp năm, thậm chí cả ngôi nhà cô đang ở nhưng có thêm những cánh cửa bí mật và phòng dưới đất, cô thật ra khá là thích chúng bởi vì có cảm giác kỳ ảo như phép thuật. Nhưng căn nhà này… đây là một căn nhà lạ, trải dài và uốn lượn, với phòng nối phòng nối phòng, toàn màu trắng, tất cả đều thoáng đãng và bình yên một cách lạ lùng dù cho khi cô nhìn quanh, cô biết là cô đang đi lạc. Làm thế quái nào mà cô thoát ra được đây? Mỗi lần cô nghĩ là cô tìm thấy đường ra cửa chính, cô lại thấy mình đang ở một chỗ nào khác trong căn nhà. Cô nhìn ra cửa sổ và thấy cửa chính nằm bên tay trái, hay bên tay phải, nhưng cô không bao giờ có thể tìm thấy nó.

    Rồi cô nhận ra anh đang ở đây – một nơi nào đó, lạc trong căn nhà lớn này giống như cô. Anh đang tìm cô và cô đang tìm anh, nhưng những bức tường và những cánh cửa chắn đường họ. Dẫu vậy, cô không cảm thấy lo lắng, chỉ thấy bực mình vì bị chậm trễ. Cô sẽ tìm thấy anh, hoặc anh sẽ tìm thấy cô. Anh luôn tìm thấy cô.

    Cô đáng lẽ nên hỏi tên anh khi anh đụng vào cô ở Walgreens. Cô thường không bắt chuyện với người khác giới không quen biết, đặc biệt là người như anh, nhưng anh đã bắt đầu trước, nên cô đáng ra có thể cứ tiếp tục câu chuyện. Chuyện đó có gì khó chứ? Khi họ đang nói về dầu gội – hay là về chai khử mùi nhỉ? – cô có thể nói, “Tôi là Lizette. Anh tên gì?”

    Thay vào đó, anh không có tên. Cô đoán cô có thể gọi anh chàng bí ẩn của cô là X, dù sao cũng tốt hơn là không có gì. Cô thậm chí hơi thích cái tên đó nữa.

    Cô tiếp tục đi quanh căn nhà, cố tìm thấy anh. Vì một lý do nào đó, đường cô đi cứ đi ngang qua căn phòng lớn nhất nhà, một căn phòng rộng mênh mông với tường trắng, bộ salon và ghế trắng, rèm cửa trắng bay phập phồng. Lần thứ tư cô thấy mình trong căn phòng rộng lớn đó, cô thấy bực bội thực sự, và trong một lúc nóng nảy, cô đã đẩy qua một cánh cửa mà trước đó cô không để ý – và thấy anh, trong một căn phòng mà không phải chỉ toàn trắng. Ở đây có nhiều màu sắc, đỏ, xanh dương, xanh lục, nâu, giống như màu của thiên nhiên vậy. Ở đây có hoa văn, có mùi hương, như thể là thật. Anh đủ thật, giống như khi anh ở trong hiệu thuốc, to lớn, rắn rỏi, và hấp dẫn bất ngờ. Cô thật là một con khờ, lại đi sợ anh dù chỉ trong một phút. Đáng lẽ cô nên nhìn vào đôi mắt sẫm của anh và cho phép mình rơi vào đó; đáng lẽ cô nên tin anh.

    Không – khoan đã. Cô không tin ai cả, không còn nữa.

    Lizette muốn nói với X rằng cô nhớ anh, nhưng giọng cô không thể thoát ra. Chết tiệt. Đây là giấc mơ của cô, cô phải có thể nói bất cứ thứ gì cô muốn chứ. Nhưng vì một lý do nào đó mà cô bị lặng câm. Tất cả những gì cô có thể làm là nhìn anh và tự hỏi anh trông thế nào khi khoả thân.

    Cô đã chẳng có một đời sống tình dục trong suốt ba năm qua. Có thể lâu hơn. Được rồi, đó là đời thực. Xa hơn nữa thì… cô biết cô không còn là trinh nữ, nhưng cô không thể nhớ cô đã từng muốn có ai giống như cô muốn có X. Có một nỗi trống trải nhức nhối ở giữa chân cô, một nhu cầu đang cắn xé gần như tuyệt vọng, đòi hỏi phải có anh trong cô.

    Đó không phải là tình yêu, không phải là một nhu cầu đeo đẳng cho một chút giải phóng về tình dục. Cô cần anh như cái cách cô cần không khí, ở trong cô, bên trên cô, ở dưới cô…

    Anh cười nhẹ, như cái cách anh cười ở Walgreens, và bước đến chỗ cô. Anh cũng không nói gì, nhưng cô biết anh muốn cô cũng nhiều như cô muốn anh. Anh vươn tay ra và chạm má cô. Cô nhắm mắt, tựa mặt vào bàn tay to lớn và thô ráp của anh. Cái chạm ấy cảm thấy thật đúng đắn, và ấm áp, và… không đủ.

    Bởi đây là một giấc mơ, một giây trước họ đang đứng mặt đối mặt với đầy đủ quần áo, rồi cảnh chợt đổi và họ đã khoả thân, nằm trên chiếc giường trong căn phòng màu sắc. Chiếc giường lúc này không có ở đó, nhưng mặc kệ; giờ thì nó có ở đây, thăm thẳm và thênh thang, đúng thứ mà họ cần. Tuyệt vời, cô thì thầm tán thưởng trong tâm tưởng.

    Cô muốn anh ngay lúc này. Họ đang khoả thân, họ đều muốn vậy, cô đã ướt và anh đã cứng lên – không có lý do gì mà cô không thể có anh. Thay vào đó, anh cười và giữ chặt hai cổ tay cô xuống giường, rồi hạ thấp đầu xuống để hôn cổ cô… chỉ hôn mà thôi. Cô thấy không thể tin được. Anh đã cứng rồi, vậy làm sao anh có thể hôn cô dịu dàng và với một sự kiên nhẫn đến phát cáu và không cần thiết như vậy chứ? Cô vặn vẹo người thiếu kiên nhẫn và anh di chuyển lên trên cô, trọng lượng nặng nề của anh đè cô xuống và giữ cô ở yên.

    Da chạm da, mùi hương của anh tràn vào cô, miệng anh trên cô, mọi thứ đều dừng lại. Thời gian dừng lại. Chỉ có cơ thể của anh và của cô, trên chiếc giường trải dài vô tận, trong căn phòng sắc màu này. Điều này cảm thấy thật đến nỗi cô quên mất đó là một giấc mơ, lạc mất bản thân trong cảm giác.

    Cô tìm thấy giọng mình, chỉ đủ cho một từ. “Liền đi.”

    Cuối cùng anh cũng nói, với cái giọng thâm trầm, thô ráp của anh, một cái giọng hợp với đôi mắt sẫm và vẻ cứng rắn của anh. Đó là một giọng nói mà cô gần như có biết. “Thư giãn đi, Lizzy. Chúng ta có cả đêm mà.”

    Điều đó nghe thật hay tuyệt vời, nhưng lỡ như họ không có cả đêm thì sao? À, đúng rồi – cô nhớ lại rằng đây chỉ là một giấc mơ. Không có thật, dù cho nó có cảm giác thật thế nào chăng nữa. Nhưng những giấc mơ không kéo dài mãi mãi, lỡ như cô tỉnh giấc trước khi họ xong thì sao? Chuyện đó đã từng xảy ra, khi cô mơ rằng cô đang rơi xuống vực và tỉnh dậy ngay trước khi cô chạm mặt đất, hoặc là khi cô thấy mình mặt đối mặt với một con hổ và tỉnh dậy thở hổn hển ngay khi nó nhào tới. Trong trường hợp này thì cô muốn mình chạm mặt đất, cô muốn bị ăn tươi nuốt sống. Cô muốn giấc mơ này sẽ kéo dài tới khi kết thúc.

    Cô biết cách làm cho X phải vội lên, biết cách để đảm bảo anh không kéo dài quá lâu. Cô đưa tay xuống, cơ thể họ ép vào nhau chặt đến mức cô di chuyển tay một cách khó khăn ở giữa họ, nhưng cuối cùng cô cũng xoay sở đặt tay quanh cái phần cương cứng của anh và bắt đầu vuốt ve. Anh gầm bên tai cô và ngậm dái tai cô giữa hàm răng trắng, cắn xuống đủ khiến cô cảm thấy nhói một cái, nhưng anh không lăn lên người cô và đẩy vào giữa hai chân nhức nhối của cô. Thất vọng và bực tức dù là trong cơn mơ, cô vuốt ve mạnh hơn, lâu hơn, và sau một tiếng gầm gừ trầm giọng, anh thì thầm, “Cứ tiếp tục là anh sẽ ra trên tay em đó.”

    Khỉ thật! Nếu vậy thì hoàn toàn tiêu tan mục đích của cô. Cô giật tay ra và trừng mắt nhìn anh. Anh bật cười.

    Anh tiếp tục hôn cô, miệng anh di chuyển từ tai cô đến cổ họng, từ cổ họng đến ngực, từ ngực lên núm vú. Lưỡi anh xoay tròn cái điểm căng cứng, rồi đột nhiên anh kẹp chặt miệng anh trên cô và mút mạnh, kéo cô cho tới khi anh vắt ra một tiếng kêu sắc nhọn từ cô. Lưng cô cong lên, cô quấn chân quanh anh, căng người ra, cố nhấc mình lên tới cái vật sưng phồng của anh để có thể đưa anh vào.

    Một cách ma mãnh, anh lùi lại đủ để cô không thể vào đúng vị trí. Cô kêu một tiếng hoang dại sâu trong cổ họng khiến anh lại cười hả hê, tinh quái.

    Suy nghĩ một cách điên tiết, tính toán độ bám và thăng bằng và sức đẩy, cô tìm cách để hất anh ngã xuống lưng và leo lên cưỡi trên anh, cho anh vào trước khi anh ngăn cô và kết thúc cơn ham muốn đau đớn này. Chết tiệt, anh lúc nào cũng như thế, đẩy cô ra khỏi vùng an toàn, khỏi kiểm soát. Anh to lớn, nhưng không lớn tới mức cô không xử lý được, nếu cô tấn công bất ngờ. Mặc xác khúc dạo đầu.

    Dù là trong mơ, câu đó cũng làm cô giật mình và bật cười.

    Bằng cách nào đó, anh biết. Đây là giấc mơ của nhưng anh là người kiểm soát. Đột nhiên anh lôi ra một cặp khoá còng tay và trói cả hai tay cô lại chỗ đầu giường. Cái còng chắc phải xuất hiện từ không khí, bởi anh đang khoả thân nên chẳng có cái túi nào cho anh giấu nó cả. Mấy giấc mơ đúng là hay ho.

    X nhe răng cười với cô. Đó là nụ cười của một kẻ săn mồi, toàn răng, rất giống với một con hổ đang nhào tới.

    Cô giật cái còng, bị giằng co giữa háo hức và tức giận. “Thế này thật không dễ chịu chút nào hết.” Cô đã tỏ ra hờn dỗi nếu mấy thứ đó có hiệu quả với anh, nhưng chẳng bao giờ hết. Thế nhưng cô không sợ hãi, không sợ anh. Chưa bao giờ.

    “Em muốn dễ chịu à?” Mắt anh thu hẹp lại. “Từ khi nào vậy?” Anh lướt đôi tay to lớn và thô ráp khắp người cô, từ cổ đến eo, từ eo đến đùi và xuống nữa, như thể anh đang vẽ lại đường nét người cô, một cách chậm rãi đến mức cuộc nghiên cứu hoàn chỉnh có khi mất cả vài giờ… hay vài ngày. Cô rùng mình trong nỗi khao khát anh. Cô run rẩy khi anh cúi đầu và hôn lên cổ cô trong khi tay anh… chơi đùa. Da anh nóng bỏng, nhưng cái chạm của anh lại thật dịu dàng, mãnh liệt, đòi hỏi, kiên nhẫn, tất cả trong cùng một lúc, dù cho cái phần cương cứng như thép của anh tiết lộ anh đã bị kích động đến thế nào. Anh sẽ là người tình hoàn hảo… nếu như cô có thể đưa anh vào đúng vị trí. Anh không ham muốn cô nhiều như cô ham muốn anh sao? Anh không đói khát như cô sao?

    Đói như một con hổ có bữa tối bị trói vào cái bàn ăn.

    Cô muốn chạm vào anh, nhưng với tay ở trên đầu, cô không thể. Cô bị cầm giữ, anh nắm toàn quyền kiểm soát, nhưng nếu anh nghĩ là cô sẽ nằm đây bất lực thì anh sắp học được một bài học. Cô nhắm mắt và quay đầu đi, tâp trung vào vị trí của anh, tính toán khoảng cách. Cô đã thử cái này rồi, nhưng anh có thể không ngờ cô sẽ thử lại lần thứ hai. Phần đầu chỗ đó của anh dày, phồng to và đang chạm vào giữa hai chân cô, trêu chọc, và nhanh như chớp cô kẹp đôi chân khoẻ khoắn của mình quanh anh và kéo anh vào trong tới chỗ cửa thâm nhập.

    Thời gian ngưng đọng. Mọi thứ trong cô chờ đợi, bị bắt giữ ở điểm giao của một cơn cực khoái. Anh ở ngay đó, chạm vào cô, gần như ở trong cô. Gần như, gần như.

    Rồi cô nghe thấy một tiếng gì đó, một âm thanh văng vẳng, xâm nhập vào trong cuộc chiến thân mật giữa họ. Cô đột nhiên nhận ra họ không còn ở một mình trong căn nhà rộng lớn mênh mông nữa. Ai đó đang lục soát khắp các căn phòng màu trắng để tìm cô. Có thể họ không biết cô đã tìm thấy anh ở căn phòng sắc màu này. Có thể họ không biết là cô đã tìm thấy anh. X. Người tình của cô.

    Anh ở ngay đó, và cô cần anh hơn bao giờ hết, nhưng họ đang dần hết thời gian. Cô muốn ôm anh, nhưng cô không thể. Cô muốn hét lên, nhưng nếu vậy họ sẽ nghe thấy. Những người tìm kiếm cô sẽ tìm được họ bất cứ phút nào và cô không muốn bị bắt trong tình trạng khoả thân, không muốn bị bắt, chấm hết, nhưng cô không thể bắt mình để anh ra đi. Vì vậy cô nâng đầu lên và thì thầm vào tai anh.

    Tuyệt vọng, cô áp miệng vào tai anh và thì thầm, đòi hỏi, “Làm đi!”

    Anh lại cất một tràng cười gầm gừ khác mà cô cảm thấy cũng nhiều như nghe thấy. Anh đẩy vào trong, lấp đầy cô sâu và mạnh.

    Lizette tỉnh dậy với cơ thể rướn tới, một tiếng rên thoát từ cổ họng cô khi cơn cực khoái trong mơ dịu xuống. Chăn mền trên giường đã bị đá sang một bên; mấy cái gối nằm dưới sàn. Dù có chiếc quạt trần và máy điều hoà, cô vẫn đang đổ mồ hôi.

    Ôi trời, thật tuyệt vời.

    Đã bao lâu rồi cô mới có một giấc mơ nóng bỏng thực sự? Cô không thể nhớ được, và cô không bỏ qua một điều mỉa mai rằng giấc mơ ấy là về cái người lạ đã khiến cô sợ chết khiếp ở một dãy hàng trong hiệu thuốc.

    Một điều chắc chắn là: mơ về sex tuyệt vời hơn nhiều việc mơ về đám người lạ không quen biết đang theo dõi cô.

    Cô liếc mắt nhìn đồng hồ khi với tay lấy mấy cái gối từ dưới sàn. Ba giờ mười sáu phút sáng, quá sớm để thức dậy, đặc biệt là nếu xét tới khoảng thời gian khó khăn cô đã trải qua để tìm giấc ngủ lúc tối. Giờ cô hoàn toàn thư giãn, nên có lẽ một giấc mơ nóng bỏng là cách tâm trí đối phó với những căng thẳng trong ngày.

    Được đó.

    Cô nghĩ tới cái tên mà cô đặt cho anh ở trong mơ. X. Nó hợp với anh. Nó cảm giác rất đúng đắn. Cô chìm lại vào trong giấc ngủ, trong lúc nghĩ xem anh có vị thế nào trong giấc mơ của cô.
     
    dakedo, hathao, vu thu giang and 8 others like this.
  18. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương chín


    Lizette bước vào thứ Bảy một cách e dè. Ngày thứ Sáu đã có quá nhiều biến động khiến cô gần như e sợ không biết ngày mới sẽ mang tới điều gì. Gương mặt lạ vẫn nhìn vào cô từ trong gương, cô vẫn có ít nhất hai năm biến mất khỏi trí nhớ, nhưng ít ra cô đã không dành cả buổi sáng để nằm cuộn tròn trong đau đớn hay là nghiêng đầu trên toilet nôn thốc nôn tháo. Cô nhận lấy bất cứ tiến triển nào mà cô có thể có.

    Nhưng ngày trôi qua với cảm giác kỳ lạ, như thể cô chỉ đang chờ có chuyện gì khác xảy đến. Trong một thoáng – rất ngắn ngủi – cô tiêu khiển với cái ý tưởng quay lại Walgreens để xem X có ở đó không, nhưng cô phải đảo mắt với chính mình bởi cái ý tưởng đó. Không có chuyện đó đâu. Anh đã mua dầu gội hôm qua rồi; anh sẽ không quay lại mua thêm đâu.

    Thứ Bảy là ngày cô làm mấy việc lặt vặt, trong đó có mua sắm đồ tạp hoá. Bình thường cô mua sắm ở Walmart cho phần lớn các món tạp hoá cô cần, và đến một cửa hàng nhỏ trong vùng gần nhà hơn khi cô chỉ cần vài thứ. Hôm nay cô không đến đâu trong hai nơi, và cô không thể nói tại sao, ngoài việc phá vỡ thói quen dường như là một ý hay.

    Thay vào đó cô ngừng lại ở một cửa hàng cô đi ngang trên đường đi làm mỗi ngày nhưng chưa bao giờ bước vào. Cửa hàng sạch đẹp, rộng, trang trí bắt mắt, nên cô dạo mua một cách thư thả. Giá ở đây hơi cao hơn Walmart, nhưng cô thực sự thấy vui thích vì tìm thấy nhiều loại thức ăn khác.

    Thong thả mua sắm là một cách khá hay để trải qua một chiều thứ Bảy khi cơ thể và tâm trí như đang phản bội lại cô và cô như không thể hiểu gì về cuộc đời của cô nữa. Cô thấy thoải mái khi được thoát ra khỏi những mối lo lắng trong một lúc, không phải giải quyết chuyện gì kịch tính ngoài việc xem xem trong cửa hàng có hay không có món gì, chỉ nghiên cứu mấy nhãn hiệu, lên kế hoạch cho một hai bữa ăn, và nghĩ về… không gì cả.

    Ngoại trừ – mấy chuyện đó đột nhiên cũng thật phức tạp rối trí. Cô dừng lại và nhìn vào tủ thức ăn đông lạnh. Kem sữa chua vị blueberry và lựu. Chúng khơi gợi lại một điều gì đó, mặc dù cô không thể nhớ là đã từng thử món này bao giờ chưa. Cô có thích món này không nhỉ? Liệu cô sẽ thích không? Cô thường là trung thành với vanilla, mà cô thì đã ngán vanilla lắm rồi. Vậy thì… có thể. Mở cửa tủ ra, cô lấy một hộp blueberry và lựu đặt vào trong giỏ hàng của cô, cạnh đám bánh mì vòng bagel nho khô hạnh nhân và bánh quy nho khô yến mạch. Nhiều tinh bột quá hả? Cô thường đảm bảo cho chế độ dinh dưỡng của cô được lành mạnh, nhưng hôm nay cô gặp vấn đề trong việc lựa chọn. Lỡ như từ trước tới giờ cô ăn những thứ cô thực ra không thích thì sao? Sau mọi chuyện cô trải qua vào ngày hôm trước, chuyện đó nghe có vẻ nực cười nhưng lại cô lại không thấy vậy.

    Cô không thể sống dựa vào tinh bột không, vì vậy cô quay trở lại đi qua các dãy hàng nông sản, bỏ thêm trái cây và rau củ vào giỏ. Cô thường ăn thịt gà: ức gà, gà xay, thịt gà xông khói, xúc xích gà… Cô quá ngán thịt gà rồi, cô không bao giờ muốn nhìn thấy chúng nữa. Cô mua một ít thịt heo xông khói, mặc dù một túi ức gà coi như đã cân bằng lại. Trước khi bản thân hoàn toàn phát điên và cho thêm vài thứ như là cá trích vào cái đống đồ đang cao dần lên, cô quay cái xe đẩy tới lối quầy tính tiền.

    Trong khi nhân viên quầy tính tiền thành thục quét mã các món hàng, Lizette nhìn ra ngoài phía cửa sổ rộng đằng trước, nghiên cứu bãi đậu xe. Xe cô đậu về phía bên phải và có nhiều chỗ trống phía sau, quay đầu ra trước – lần nữa – để cô có thể lái thẳng ra khỏi chỗ đó và vào làn đường dẫn tới lối ra bên hông của bãi đậu. Cô thậm chí không nhớ đã cố tình chọn vị trí đó, nhưng giờ nhìn nó, từ khoảng cách này, cô có thể thấy rõ ràng. Cô ở tư thế sẵn sàng chạy trốn.

    Và, ơ, không đau đầu hay buồn nôn gì, chỉ là một nhận xét về khu vực xung quanh thôi.

    Cô quẹt thẻ tín dụng để trả tiền và moi chùm chìa khoá ra khỏi bóp để chúng sẵn sàng trên tay cô. Cô với lấy mấy cái túi – nilon, không phải giấy – và để chúng treo trên cánh tay sao cho không làm vướng víu tay cô. Quai nilon của cái túi nặng nhất kẹp vào da thịt cô làm hơi đau một chút, nhưng cô muốn cả hai tay cô được rảnh rang. Cô không thể nhớ mình đã bao giờ từng lo lắng về điều này trước đây, nhưng giờ thì cô có một thực tế cuộc sống mới.

    Cô bước khỏi lề đường và tiến tới chỗ xe, mắt cô tự động quét khắp khu vực một lượt. Cô cảnh giác cao độ, theo một cách mà cô chưa từng làm. Không, cái đó không đúng lắm; cô đã không cảnh giác thế này trong một thời gian dài. Vậy nếu như cô không thể nhớ chính xác là cô đã cảnh giác thế này từ khi nào thì sao? Một điều cô thấy thú vị là hầu hết mọi người thường đều vô tâm không cảnh giác gì.

    Người phụ nữ tính tiền bên cạnh và ngay trước Lizette đang chất đồ đã mua lên đằng sau chiếc xe Highlander, trong khi hai đứa trẻ – một trai, một gái – đang cãi nhau xem ai ngồi ở đâu. Hầu hết mấy chiếc xe khác đều trống, chỉ có một người đàn ông ngồi ở ghế tài xế trong một chiếc sedan màu xám, có lẽ là đang chờ vợ hay bạn gái. Ông ta cúi mặt xuống, như kiểu đang nhắn tin hay chơi game trên điện thoại. Một nhân viên cửa hàng, một anh chàng trẻ và chán chường chắc tranh thủ làm trong kỳ nghỉ hè, đang đi thu gom mấy chiếc xe đẩy mua hàng. Một cặp đôi trẻ tuổi đang tiến vào cửa hàng; cô gái cầm một tờ giấy trên tay phải, rất có thể là một tờ danh sách các món cần mua. Lizette có thể thấy là họ đang cãi nhau. Không ai nói chuyện hay nhìn thẳng vào nhau lúc nào, và hai người cách nhau một khoảng gần một mét, một khoảng cách mà không ai trong họ thấy cần phải thu ngắn. Đôi vai của anh chàng căng cứng, miệng cô gái thì mím lại.

    Lizette dùng cái bấm điều khiển để mở cốp xe ra. Sau khi chất đồ lên đó, cô đóng cốp lại, và một lần nữa nhìn xung quanh. Một chiếc xe vừa chạy vào bãi đậu – tài xế là phụ nữ, một mình. Người phụ nữ lái quanh bãi đậu, tìm kiếm một chỗ gần cửa hàng nhất có thể.

    Lizette mở cửa xe, leo vào và lập tức khoá cửa lại.

    Cô ngồi đó một lúc lâu trước khi nổ máy. Một cơn lạnh chạy dọc xương sống cô. Có ai đó đang theo dõi cô. Chết tiệt, cô cảm thấy có mắt nhìn theo cô, mặc dù cô đã không thấy gì bất thường.

    Nhưng có thể là không. Có thể việc cảnh giác cao độ đã khiến tâm trí cô nghĩ là cô có thể bị theo dõi, và trí tưởng tượng đã tiếp tục công việc. Cô nửa tin rằng cô đang bị theo dõi, nửa chắc chắn là không. Lizette lái xe ra khỏi bãi đậu và rẽ về phía đèn giao thông.

    Chiếc sedan xám, chiếc xe của người đàn ông lúc nãy đang nhắn tin hay làm bất cứ thứ gì đó ở chỗ ghế tài xế, cũng rời bãi đậu và theo sau cô. Nhíu mày, cô liếc mắt lên gương chiếu hậu. Ông ta vẫn có một mình.

    Các khả năng có thể xảy ra là gì? Cô nhanh chóng lướt qua vài kịch bản. Có thể ông ta chạy vào cửa hàng, lấy vài món, tính tiền trước cô rồi ngồi trên xe vài phút để gửi tin nhắn. Cô đã không thấy ông ta trong cửa hàng, nhưng chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì hết. Có thể ông ta đã định mua sắm, nhưng có chuyện gì đó hay ai đó đã gọi ông ta đi trước khi kịp làm cho xong chuyện đó. Nghe khá là hợp lý. Ít có khả năng, nhưng vẫn hợp lý.

    Nhưng ngược lại, có thể ông ta đang theo dõi cô. Liệu có phải ông ta đã chọn cô làm nạn nhân giữa bao nhiêu phụ nữ đã đi vào bãi đậu xe không? Cô đã rất cẩn thận, cô đã cảnh giác, vậy điều gì cho thấy cô là một mục tiêu dễ dàng? Hay là hắn đã theo sau cô trên suốt quãng đường từ nhà cô tới một cửa hàng mà cô chưa từng tới mua sắm? Nếu vậy thì cô có nhận ra không?

    Không, một giọng nói trong cô vang lên, cô sẽ không nhận ra đâu. Cô đang bận nghĩ về anh chàng X và làm mấy việc bình thường khác, như là tiếp tục cuộc sống như thể không có gì thay đổi trong một ngày rưỡi qua. Công việc lớn nhất trong ngày hôm nay của cô là mua sắm ở một cửa hàng tạp hoá mà cô chưa từng tới.

    Tim cô nhảy lên trong cổ họng. Cô nên làm gì đây?

    Chỉ cần rẽ trái là sẽ đưa cô về phía nhà. Cô không dám dẫn tên này về nhà mình, dù rằng nếu ông ta đã theo dõi cô từ đầu thì hẳn đã biết cô sống ở đâu rồi. Cô cố xem xét các tình huống tệ hại có thể xảy ra, nhưng mọi việc đang diễn ra quá nhanh đối với cô ngay lúc này và cô cần phải tập trung vào việc cô đang làm. Khi đèn chuyển xanh, Lizette rẽ phải.

    Chiếc xe sau cô cũng vậy.

    Cô lái dọc con đường lộ dẫn cô ngang qua toà nhà văn phòng nơi cô làm việc. Cô biết khu này trong thành phố rất rõ. Cô đã lái qua các con đường này thường xuyên. Trong ba năm qua – có thể là ba – cô đã chạy đường này đi làm năm ngày một tuần. Cô hiếm khi đi chệch khỏi tuyến đường này, mặc dù mỗi ngày cô đi ra ngoài ăn trưa và qua đó trở nên rành rẽ khu này. Chỉ có một lần, trong quãng thời gian năm tuần, cô phải đi vòng sang một lối khác khi tuyến đường này được sửa chữa và tráng lại.

    Bây giờ, khi cô giữ cho tốc độ nằm chính xác ở giới hạn tốc độ, cô nhận ra là trong khi cô chưa bao giờ để ý một cách chủ tâm, cô thực sự đã biết rất nhiều về khu vực này. Như thể một phần trong tiềm thức của cô đã vẫn luôn hoạt động ở một cấp độ khác vậy.

    Con đường trước mắt dẫn tới một khu căn hộ: ngõ cụt rồi. Ba con đường kế tiếp phía bên trái sẽ đưa cô tới một khu dân cư trung lưu. Cô không chắc có gì ở đó ngoài nhà cửa: mấy con đường nhánh, có thể là một công viên. Dọc đường này xa hơn nữa thì có vài nhà hàng, một toà văn phòng to hơn cái của cô nhiều, và một vài khu trung tâm mua sắm.

    Chiếc xe màu xám vẫn ở sau cô, nhưng nó không ở ngay sau đuôi cô. Một chiếc Highlander – có thể là của người phụ nữ với hai con và đám đồ tạp hoá – đã vượt qua chiếc xe xám và chen vào giữa họ. Lizette bật xi-nhan và chuyển sang làn bên trái. Chiếc Highlander cũng làm tương tự. Tim cô đập mạnh; hai lòng bàn tay cô bắt đầu đổ mồ hôi. Chắc cô không bị tới hai chiếc theo dõi chứ, đặc biệt là khi chiếc sau cô còn có con nít nữa. Nhưng mặt khác, đó là một cách ngụy trang tuyệt vời! Và nhiều xe theo đuôi thì luôn tốt hơn là một...

    Không phải lúc này, không phải lúc này! Cô nghĩ một cách điên cuồng khi cơn đau xuyên qua đầu cô. Cô không thể để cho cơn đau đầu làm mờ mắt được. Bài hát duy nhất cô có thể nghĩ tới ngay lúc này là “Oscar Mayer Wiener”, vì vậy cô ngâm nga nó và tập trung vào lời hát cho tới khi cơn đau lắng xuống và cô có thể nhìn rõ lại lần nữa.

    Sau đó chiếc Highlander rẽ vào khu dân cư trung lưu. Lizette thở phào nhẹ nhõm.

    Cám giác nhẹ nhõm đó kéo dài không lâu. Chiếc sedan xám vẫn cách cô một khoảng ngắn đằng sau cô, không gần tới mức đụng vào đuôi xe cô, nhưng vẫn giữ một cự ly khá gần.

    Không bật tín hiệu rẽ, cô đột ngột ngoặt vào ngã rẽ trái kế tiếp một cách gọn gàng. Ơ. Chiếc Camry mà cô không nhớ là đã tự chọn cho mình đang chạy khá ngon lành. Cô cho xe chậm lại ở con đường phụ. Cô kiểm tra gương chiếu hậu và thấy chiếc xe xám rẽ vào con đường đằng sau cô.

    Nhịp tim cô vụt tăng. Cô hít mạnh một hơi dài, một điều gì đó sâu trong cô như bình tĩnh lại. Chỉ là trùng hợp như chiếc Highlander thôi chăng? Không đời nào. Một lần trùng hợp là quá đủ cho một ngày rồi. Cô sẽ không liều tin đây là một lần trùng hợp nữa. Cô kiểm tra các phương tiện đang đến, đạp mạnh chân thắng và đánh tay lái, làm một cú quay ngược một trăm tám mươi độ ở giữa đường và hướng ngược lại phía đường chính. Khi cô vút ngang qua chiếc xe xám, cô không nhìn trực diện vào người tài xế. Dù vậy, cô vẫn có thể thấy đủ rõ qua tầm nhìn ngoại vi của mình để xác định được đó chính là người đàn ông ở bãi đậu xe cửa hiệu tạp hoá.

    Ông ta cũng không nhìn trực diện vào cô.

    Một kẻ đeo bám, cướp, hiếp dâm... hay là người qua đường vô hại? Dù gì thì cô cũng sẽ không mạo hiểm đâu.

    Cô cho xe trở lại đường chính và nhấn ga. Đường khá thông thoáng nên cô dễ dàng luồn lách ra vào giữa các xe, đổi làn, chạy khỏi người đàn ông trong chiếc xe xám càng xa càng tốt. Cô tập trung vào việc lái xe, vào những chiếc xe cô vượt qua chỉ cách đường tơ kẽ tóc, đến mức không dám kiểm tra gương chiếu hậu xem chiếc xe xám còn ở phía sau hay không.

    Nhưng khi cô đến được một khúc đường khá vắng, cô kiểm tra gương. Có phải là ông ta đang ở sau cô khoảng bốn năm trăm mét đó không? Xe của ông ta nhìn rất bình thường nên khó mà nói chắc được, và cô cũng không thể nhận ra chi tiết về bộ lưới tản nhiệt và đèn chiếu đầu xe ông ta.

    Vài dãy phố qua khỏi toà văn phòng làm việc của cô, cô rẽ nhanh qua phải, chỉ chậm lại đủ để có thể giữ kiểm soát. Tiếp theo cô lại rẽ phải, và lại rẽ trái. Cô qua mặt một chiếc xe bán tải màu đen chạy chậm hơn, đánh rẽ lần nữa, rồi cho xe vào bãi đậu xe của một khu căn hộ nhỏ, rẽ ở góc đường, và trượt xe cô vào khoảng nhỏ giữa một chiếc van trắng và một chiếc xe bán tải xám. Hai chiếc xe kích thước lớn có thể che chắn xe cô khỏi tầm nhìn nếu có ai có thể theo cô tới thời điểm này.

    Để phòng hờ, cô mở khoá dây an toàn và trườn người thấp xuống trên ghế để nếu có ai lái ngang qua sẽ không thấy cô ở trong xe. Cô tự động với lấy cái bóp, như thể nó có thứ gì đó mà cô cần, nhưng ngón tay cô dừng ngay trên chiếc quai da. Cô đang với lấy thứ gì chứ? Kẹo bạc hà? Kềm bấm móng tay?

    Phải, cô có thể giỡn hớt cho vui, nhưng trong thâm tâm cô biết chính xác cô đang với tìm thứ gì. Mình cần vũ khí.

    Tim cô đập mạnh nhưng không quá nhanh; chân cô run rẩy phản ứng lại với nỗi sợ hãi hoặc là adrenaline. Ngay lúc này cô không thể nói chắc là cái nào.

    Có lẽ cô nên gọi cảnh sát, nhưng mà cô sẽ nói cái quỷ gì chứ? Cô không có bảng số xe nữa, mà cứ cho là cô có đi nữa thì người đàn ông trong chiếc xe xám kia chẳng làm gì bất hợp pháp hết. Hù doạ một phụ nữ hoang tưởng chẳng phải là một tội ác, theo thông tin cô cập nhật được. Không, không cảnh sát. Ngoài ra, cho pin vào điện thoại và mở máy lên sẽ để cho người nào đang theo dõi cô xác định được vị trí của cô.

    Ôi khỉ thật. Chiếc xe có GPS. Mà có khi nó còn có thể có một thiết bị theo dõi khác giấu ở đâu đó nữa. Nếu kẻ theo cô theo dõi các di chuyển của cô, chiếc xe xám sẽ xuất hiện bất cứ phút nào, và không có cách nào cô có thể tránh hắn ta mãi mãi, ít nhất là khi cô ngồi trong xe. Một phần tâm trí cô hét lên rằng cô nên thoát ra khỏi xe ngay, rằng ngồi đây cô đang ở một vị trí điểm yếu, nhưng ngoài kia... ngoài kia là một khu vực dân cư lạ lẫm, với không súng, không yểm trợ, không ai để gọi, liệu ra ngoài kia tình hình của cô có khá hơn không?

    Không có chiếc sedan nào xuất hiện, và sau một lúc cô phải kết luận rằng nó sẽ không tới. Nếu tên đó theo dõi cô, thì cô đã cho rơi hắn. Điều này đưa tới hai khả năng: hoặc là xe cô không có thiết bị theo dõi, hoặc hắn ta là một tên biến thái ngẫu nhiên nào đó, không cùng phe với Bọn họ. Hắn ta có lẽ đã thấy chỗ cô ngoặt khỏi đường chính, nhưng sau đó có quá nhiều hướng cô có thể đi, kể cả mấy đường dẫn cô trở lại đường chính nữa. Cô phát lại chuyến đi ở trong đầu, những khúc ngoặt, những ngã rẽ, những lần xém đụng, tốc độ xe cô chạy.

    Thật là một phen hú vía.

    Cô đã học cách làm như vậy ở chỗ quái nào chứ?

    Ừm, có lẽ là cô đang hơi tự hào về bản thân thái quá. Cô cũng không phải là đã chạy đường đua giải Le Mans hay gì. Cũng có khả năng hơn năm mươi phần trăm là tay đó không hề theo dõi gì cô, và cô đã liều mạng chạy trốn không vì gì cả.

    Cô đợi thêm năm phút nữa rồi cuối cùng ngồi dậy trên ghế. Sau đó cô đợi thêm chút nữa, muốn xem xét những gì đang xảy ra xung quanh cô. Vị trí của cô ở đây khá tốt, cô kết luận. Không ai đi ngang trên đường sẽ thấy xe cô. Họ phải ở trong bãi đậu xe và phải ở ngay trên cô để biết được. Và nếu chuyện đó xảy ra thì cô cũng coi như là xong đời, trừ khi cô cài xe về số thấp và đâm vào họ. Cô phải ráng nhớ điều đó trong đầu.

    Nhưng không ai chạy ngang qua cả. Hoạt động duy nhất mà cô thấy là người dân ở mấy căn hộ đi ra vào từ chiếc xe chứa rác cách cô tầm hai mươi thước. Cô bắt bản thân ngồi đó thêm ít lâu nữa. Cô cần đợi bao lâu trước khi có thể an toàn rời đi nhỉ? Cô không thể ở đây, nhưng cô cũng không nghĩ ra làm sao cô có thể rời đi trước khi trời tối. Từ giờ tới đó còn vài giờ nữa. Cuối cùng cô cũng chụp lấy cái bóp và vòng cái dây đeo qua vai, rồi rời khỏi xe, cẩn thận đi quanh chiếc xe van ở bên phía tài xế để hé nhìn ra đường. Không có xe trên đường, không gì ngoài vài đứa trẻ đang chơi bóng. Không có gì nhiều ngoài khu căn hộ này, nên con đường cũng không được dùng để chạy tới bất cứ đâu. Bất cứ ai chạy vào lối này thì hoặc là có việc tới đây, hoặc là đi lạc.

    Không có ai ngờ được là cô trốn ở đây.

    Cô mở cốp xe, xua đi suy nghĩ kỳ lạ đó, và rầu rĩ nhấc cái túi đồ với đám kem sữa chua đã chảy trong đó ra. Đám sữa chua không thể nào trụ lâu hơn được, mà cô thì sẽ không rời khỏi chỗ đậu xe này trong ít lâu nữa. Đám thịt gà cũng phải ra đi nốt. Nhiệt độ trong cốp xe quá nóng, và cô không muốn đám sữa chua chảy và đám thịt hư trong đó. Tốt hơn là cô vứt chúng đi khi có thể.

    Cô bước tới chỗ xe chứa rác, quai bóp đeo ngang người, một túi đồ tạp hoá – có tên gọi khác là rác – trong tay. Thật lãng phí mà! Giờ thì cô phải đợi tới tuần sau để biết là cô có thích kem sữa chua vị blueberry và lựu hay không, bởi cô sẽ không đời nào quay trở lại cửa hàng tạp hoá trước lúc đó. Cô xém bật cười; cô đang mất trí – hoặc không – vậy mà còn đi lo nghĩ về sữa chua.

    Cô nhận ra sự hiện diện của cô bé một lúc lâu trước khi con bé mở miệng.

    “Nếu cô không sống ở đây thì cô không được dùng xe chứa rác chỗ này, mà cô thì không sống ở đây. Cháu biết hết mọi người ở đây, nên cô đừng có mà nói xạo với cháu.”

    Ráng nén một tiếng thở dài trong lòng, Lizette quay qua đối diện với con bé. Tầm độ mười hai tuổi, cô đoán. Ốm, tóc vàng sợi dày dưới một cái nón kết xanh dương bạc màu, mắt xanh, rắn rỏi. Lớn lên con bé sẽ xinh đẹp lắm, nếu không ai đụng tay vào mặt con bé. Cô cẩn trọng giữ một khoảng cách giữa họ.

    “Cô không biết đó.” Cô khẽ nâng cái túi lên. “Cháu có thích ăn kem sữa chua vị blueberry và lựu không? Đương nhiên là hơi chảy rồi.”

    Con bé nheo mắt. Nó còn nhỏ, nhưng ánh mắt của con bé đã có vẻ đa nghi rồi. “Cháu không biết. Chưa ăn bao giờ.”

    “Cô cũng vậy, nhưng tại nó nhìn cũng ngon. Cháu muốn trao đổi không? Đổi kem sữa chua và thịt gà với cái nón đó.”

    Một cái nón sẽ che tóc cô đi, giấu đi nét mặt của cô khi cô cuối cùng phải rời khỏi đây. Sự cẩn trọng đó có thể sẽ chỉ vô ích, nhưng cô không thể ngăn bản thân cố gắng thử.

    “Cháu không ngốc đâu,” con bé ngắt lời. Cô cau mặt. “Nó có độc phải không? Bị tẩm thuốc chứ gì?”

    “Đương nhiên là không rồi,” Lizette phẫn nộ. “Cô chỉ không về nhà sớm như cô nghĩ, và cô không muốn phí phạm đồ ăn thôi.”

    “Cô đang cầm nó tới chỗ xe chứa rác mà. Tại sao cháu phải đưa cái nón cho đống rác của cô chứ?”

    Có lý. Ít nhất cô không còn bị buộc tội là cố đầu độc trẻ em nữa. “Được. Vậy 20 đô cho cái nó.”

    Mắt con bé mở lớn. “ Được,” con bé nói nhanh.

    Lizette đặt cái túi xuống, thò tay vào trong bóp lấy ra tờ hai mươi đô và tiến lại gần con bé. “Cô là Lizzy. Cháu tên gì?”

    “Cháu không nên nói tên cho người lạ biết.”

    “Cô không phải người lạ, cô là người sắp sửa trả rất nhiều tiền cho một cái nón cũ.”

    Nghe thế con bé mỉm cười. “Cháu là Madison.”

    “Có ai từng gọi cháu là Maddy không?”

    Madison nhẹ lắc đầu và cau mặt, tỏ ra cho Lizette biết là con bé không thích cái biệt danh đó. “Không.” Rồi con bé gỡ cái nón ra và họ trao đổi với nhau.

    Nhặt cái túi lên, Lizette quay đi và quăng nó vào trong cái xe chứa rác.

    “Này!” Madison la lên vì sốc. “Sao cô quăng kem đi!”

    “Cháu đâu có đổi lấy kem đâu. Nếu cháu muốn, cháu phải làm cái gì khác cho cô.”

    “Cháu sẽ không chui vô xe rác để lấy kem đâu.”

    “Tốt thôi. Cháu muốn kiếm thêm hai mươi đô nữa không?”

    “Làm gì chứ? Cô không phải là một tên biến thái đó chứ? Cháu sẽ không cởi đồ ra đâu.”

    “Tạ ơn trời. Cô chỉ cần chút giúp đỡ với cái xe của cô thôi.”

    “Cháu có biết sửa xe đâu.”

    “Nó không cần phải sửa. Nó chỉ cần được ngụy trang thôi.”

    Vài giờ sau, sau khi trời đã sụp tối hẳn, Lizette nhét tóc vào dưới cái nón kết và ngồi vào sau tay lái. Không nghi ngờ gì cô đã đi quá mức cẩn trọng thông thường và tiến thẳng tới bờ vực bị coi là khùng điên luôn, nhưng mà cô lại thấy khá vui. Một khi Madison bắt đầu thích thú với công việc, con bé thậm chí còn cười nữa. Mấy cái nắp đậy trục bánh xe đã bị tháo ra, và một mớ bùn che đi không chỉ bảng số xe mà cả tấm chắn bùn và bánh xe luôn. Chiếc Camry sạch boong của cô giờ không thể nhận ra nổi. Trên đuôi xe cô dán một sticker tuyên bố con gái cô là một học sinh xuất sắc ở một trường trung học trong vùng, và một cô gái Hawaii đáng yêu lúc lắc hông được đặt trên bảng đồng hồ. Madison thậm chí còn lấy băng keo dán một mảng bên cửa sổ trái chỗ băng ghế sau làm như thể để che một cái lỗ. Nếu vô tình người đàn ông đã theo đuôi cô từ chỗ bãi đậu xe cửa hiệu tạp hoá chiều nay, hay bất cứ ai khác có từng nhìn thấy xe cô, vẫn còn ở ngoài kia, theo dõi và chờ đợi, họ sẽ không bao giờ nhận ra cô hay xe cô.

    Một điều hơi buồn là không ai tới kiểm tra xem Madison đang làm gì trong suốt khoảng thời gian đó. Con bé nói mẹ nó sẽ không đi làm về cho tới tận sau chín giờ, và cũng không một người lớn nào tới hỏi thăm về mấy việc làm của con bé khi nó quậy phá một chiếc xe rất có thể không phải là của nó.

    “Này!” Madison gọi theo khi Lizette nổ máy. Lizette cho cửa sổ cuộn xuống, con bé tì người vào. “Cháu biết đây không phải việc của cháu, và cô không phải nói cháu biết nếu không muốn, nhưng mà... cô đang chạy trốn ai vậy?”

    Lizette nhìn con bé từ dưới vành cái nón kết và nở một nụ cười khô khan. “Nhóc à, cô cũng không biết nữa.”
     
    dakedo, hathao, vu thu giang and 8 others like this.
  19. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương mười


    “Al.”

    Al Forge quay lại khi tên ông được gọi, cái giọng nói gãy gọn, điềm tĩnh ấy cho ông biết danh tính của người nói trước cả khi ông thấy bà. Đó là một phần chết tiệt của cuộc sống: mỗi người đều phải trả lời trước một người nào đó, dù cho, cuối cùng, đó là Thần Chết hay là Chúa trời, hay bất cứ thứ gì mà họ nghĩ là họ đang đối mặt. Dù nằm ở vị trí khá cao trên chuỗi thức ăn, ông vẫn có một người cấp trên, và tên người đó là Felice McGowan.

    “Vâng?” ông nói, hỏi một cách lịch sự như thể bà là một vị khách làm gián đoạn công việc của ông – về cơ bản thì đúng là như vậy, bởi vì đây là lãnh địa của ông – chủ yếu là bởi vì ông biết mặc dù bà không thể hiện một xíu phản ứng nào, nhưng điều đó sẽ chọc tức bà. Và chọc tức Felice là một trò mà ông khá thích thú. Có những ngày mà ông hoan nghênh một sự gián đoạn, nhưng hôm nay thì ông có cảm giác ông biết vì sao bà ở đây, và ông không mong đợi cuộc trò chuyện sắp tới cho lắm.

    “Phòng kín,” bà bình tĩnh nói, quay gót lướt đi. Al bắt mình không thể hiện ra ngoài bất kỳ dấu hiệu gì tỏ vẻ lo ngại, nhưng ông chắc chắn cảm thấy chúng khi ông đi theo và về phía phòng kín, một căn phòng cách âm bên trong. Họ đã làm mọi thứ hết mức có thể để đảm bảo cho nó an toàn không thể bị nghe lén, phải nói là nó cực kỳ an toàn. Không một chiếc điện thoại di động nào được phép mang vào phòng, không camera, không máy ghi âm, không vũ khí, và bất cứ ai vào phòng cũng đều được máy rà quét để đảm bảo họ không mang theo bất cứ thiết bị nào trong số đó. Những gì nói trong phòng kín nằm lại trong phòng kín.

    Trên tivi ông đã thấy rõ nhiều phiên bản Plexiglas của căn phòng kín, với tất cả các thành viên trú ngụ thấy rõ trong tầm mắt, nhưng phòng kín này là một căn phòng bình thường đã được bao bọc và gia cố với nhiều bộ gây nhiễu để ngăn cả thu nhận và truyền phát tín hiệu. Nó không hiện đại tinh vi như mấy phiên bản trên tivi, nhưng nó hoạt động tốt.

    Trước khi vào phòng, ông lấy điện thoại di động của mình ra khỏi thắt lưng và cho vào một tủ đựng. Sau đó ông đẩy cánh cửa gia cường nặng nề và bước vào trong.

    Phòng kín là một căn phòng có nội thất bình thường, với một chiếc bàn họp bao quanh bởi mấy chiếc ghế văn phòng lưng cao, một cái máy pha cà phê và đủ thứ thiết bị đi kèm đặt trên một cái tủ ly tách ở một đầu, và hệ thống đèn huỳnh quang chói mắt. Họ gần đây mới thay bằng mấy bóng đèn nhuộm hồng bởi họ nhận thấy tất cả bọn họ đều bị đau đầu và muốn tiêu diệt lẫn nhau khi bọn họ ở trong đây. Công việc của bọn họ đủ căng thẳng rồi, không cần phải quăng thêm đám đèn chiếu sáng tệ hại vào nữa.

    “Có chuyện gì vậy?” ông hỏi một cách tự nhiên sau khi đóng cánh cửa lại sau lưng, làm như thể ông chưa biết rồi vậy, nhưng đây cũng là một phần của trò chơi.

    “Đối tượng C.” Bà tựa hông vào cái bàn, một tư thế tỏ ra quyền lực mà ông dám chắc là bà cố tình làm. Bởi vì bà vốn là người kỹ lưỡng, Felice hẳn đã nghiên cứu ngôn ngữ cơ thể, các vi biểu cảm, và đủ mọi lĩnh vực khác để có thể giúp bà đứng đầu một ngành mà nam giới chiếm đa số.

    Ông dành vài giây để chiêm ngưỡng bức tranh. Felice là một phụ nữ thu hút và quý phái: bốn mươi tám tuổi, đã ly hôn, có một cô con gái đã trưởng thành. Bà có đôi mắt sáng trong và mái tóc vàng highlight được cắt ngắn theo một kiểu vừa gần như nam tính lại vừa nữ tính một cách thời trang trên người bà. Bộ vest may đo vừa vặn của bà có màu xám lông chuột, nhưng chiếc áo cánh bên dưới áo khoác có màu xanh đậm làm tôn lên thêm màu mắt của bà. Bà bước trên lằn ranh hẹp giữa chuyên nghiệp và nữ tính mà không hề có một sơ suất nào.

    Bà cũng là một người khiến ông lo lắng nhất trong hoàn cảnh này. Không phải bởi vì bà là người hay làm hỏng chuyện, mà chính bởi vì bà không phải. Bà lạnh lùng và lôgic, sẽ dùng mọi biện pháp mà bà cho là cần thiết để kiểm soát thiệt hại. Tuy nhiên, trong tình huống này, lôgic thật ra lại chống lại họ. Al đã cố hết sức để làm chủ tình hình, do đó ông có thể kìm hãm bất cứ quyết định có tính huỷ diệt nào mà bà có thể đưa ra, nhưng ông luôn nhận thức rằng tình thế có thể đổi hướng đột ngột và ông sẽ không thể cản được bà.

    Xavier cũng luôn biết như vậy.

    “Đối tượng C,” bà nhắc lại.

    “Mọi thứ dường như vẫn không có gì thay đổi đối với Đối tượng C.”

    “Ngoại trừ vi phạm về an ninh liên quan tới sai lệch thời gian.”

    Ông không cố giấu Felice về vụ lỡ miệng của người phụ nữ Winchell, bởi thẳng thắn là cách duy nhất để chơi trò này. “Đó không phải là một vi phạm về an ninh. Chúng ta biết về sai lệch thời gian đó, nhưng Đối tượng C thì không. Cô ta không hề có phản ứng gì cả. Cô ta bị bệnh, và theo như chúng tôi phán đoán từ các hành động sau đó của cô ta, thì cô ta chẳng gán cho câu nói ấy ý nghĩa quan trọng nào cả.”

    “Ông không thể biết được điều đó. Phải nhớ rằng cô ta rất, rất giỏi.”

    “Đó là trước đây. Trí nhớ của cô ta đã bị xoá rồi. Giờ cô ta chỉ là một người bình thường sống trong một thế giới nhỏ hẹp thôi.”

    “Quá trình xử lý chưa bao giờ được thử đến mức cực độ bao giờ. Tôi không đặt nhiều niềm tin vào nó giống như anh đâu.”

    “Tôi vẫn chưa quyết định không tin vào nó khi chưa có chứng cứ gì chứng minh điều ngược lại cả,” ông nói với một giọng khá gay gắt. Felice có thể là cấp trên của ông, nhưng Al không vận hành ở thế phải sợ hãi; điều đó chỉ đơn giản không nằm trong máu ông.

    Trong thế giới với dân số hơn bảy tỉ người này, có sáu người còn sống biết rằng chuyện gì thực sự đã xảy ra vào bốn năm trước. Vốn dĩ ban đầu có tám người, nhưng một người đã chết vì một nguyên nhân thuận tự nhiên, và một người kia thì Xavier đã xử lý – mặc dù Felice không biết về chi tiết cụ thể này, nhưng Al biết. Sáu là một tỷ lệ cực nhỏ mà ông không thể bắt đầu tính toán trong đầu xem là có bao nhiêu số không đằng sau dấu phẩy nữa. Nhưng Felice là một trong sáu người đó – và Đối tượng C cũng vậy. Nói chính xác thì, Đối tượng C không biết, nhưng cái khả năng là một ngày nào đó cô khôi phục lại trí nhớ đã khiến họ phải liên tục canh chừng cô. Cô chính là mắt xích yếu nhất, một người được đưa vào từ bên ngoài và không phải là một phần của nhóm. Felice chưa bao giờ thực sự tin cô, nhưng họ đã chẳng có lựa chọn nào khác.

    “Tôi sẽ ra lệnh cử người theo dõi tận nơi,” Felice nói, không hỏi ý kiến của ông, đơn giản là cho ông biết một việc bà đã quyết định.

    Chết tiệt! Điều đó có thể gây ra tai hoạ khôn lường. Ông nhìn bà với một ánh mắt cáu tiết. “Bà đang phản ứng thái quá, và bà có thể khiến Xavier cũng phản ứng thái quá, và đó là một điều đảm bảo làm cho mọi chuyện bung bét hết cả lên.”

    Là Felice, bà không đáp lại những lời buộc tội của ông, chỉ đơn giản đưa ra một lời buộc tội phản công lại từ phía bà mà thôi. Bà đã quen đối phó với nghị sĩ, với các uỷ ban, quan chức, tướng lĩnh. Ông nghi ngờ chuyện bà sẽ chớp mắt dù có bị tấn công bởi một con tê giác đang nổi điên, vậy nên bà chắc chắn sẽ không lùi bước trước ông. “Ông luôn quá thận trọng trong mọi việc liên quan tới Xavier. Anh ta cũng chỉ là con người như chúng ta mà thôi.”

    Al nghiêng đầu. “Tôi đáng lẽ có lẽ đã giết anh ta bất kỳ lúc nào,” ông vặn lại. “Khỉ, anh ta đáng lẽ có lẽ đã giết chúng ta bất kỳ lúc nào rồi. Anh ta biết vậy, tôi biết vậy, và bà biết vậy. Bà nghĩ là anh ta chưa có chuẩn bị gì sao? Anh ta nắm bằng cớ về tất cả chúng ta, và anh ta đã giăng nhiều dây bẫy hơn là chúng ta có thể tìm thấy.”

    “Anh ta nói vậy thôi. Cớ gì anh ta phải buộc tội chính mình chứ?”

    “Bởi vì anh ta đoán anh ta sẽ chết, vậy thì chẳng có gì quan trọng với anh ta nữa. Chuyện này quá lớn, Felice; bà không thể kiểm soát thiệt hại nếu chuyện này đổ bể, và nó sẽ như vậy nếu bà không giữ bình tĩnh.”

    Câu đó làm loé lên một ánh giận dữ nơi bà, bởi vì Felice không gì ngoài bình tĩnh. Nếu cảm xúc có bao giờ tìm cách len lỏi vào trong các quyết định của bà thì Al chưa từng biết tới. Bà thực sự đã gõ gõ ngón tay lên bàn, một lần, trước khi xoá sạch biểu cảm trên mặt bà. “Tôi không sẽ gửi một nhóm yếu kém đuổi theo cô ta. Tôi chỉ muốn đảm bảo là cô ta không làm gì bất thường, một điều mà chúng ta không biết được qua audio.”

    “Vậy thì tôi nên báo Xavier.”

    “Không. Tuyệt đối không. Anh ta sẽ nghĩ đó chỉ là một cách tóm được cô ta trước khi anh ta có thể phản ứng.”

    Chuyện đó hoàn toàn có khả năng, nếu biết cách đầu óc Xavier suy nghĩ, cách anh ta lường trước mọi tình huống. Nhưng mặt khác – “Bà nghĩ anh ta sẽ không biết là bà đã phái một nhóm theo cô ta à? Không báo cho anh ta biết trước là điều nguy hiểm nhất bà có thể làm.”

    “Vậy thì phái anh ta đi làm việc khác đi.”

    Bà thực sự chưa đối phó với Xavier đủ nhiều để hiểu rằng anh ta không được “phái” đi đâu cả. Anh ta được đề nghị công việc. Anh ta chấp nhận nếu muốn. Al đã làm việc với anh ta, huấn luyện anh ta, và ông tin ở anh ta trên chiến trường hơn bất cứ một con người nào khác mà ông từng tin. Một việc ông sẽ không bao giờ làm đó là đánh giá thấp anh ta.

    “Anh ta sẽ không đi đâu. Không phải lúc này. Anh ta có tai mắt riêng theo dõi Đối tượng C; anh ta đã biết về cái sơ sót đó cùng thời điểm với chúng ta.”

    “Cái gì? Cái gì?” Bà gần như hét lên từ cuối, với Felice điều đó có nghĩa là bà sắp sửa nổ tung vì tức giận. “Ông biết điều đó mà ông không ngăn chặn sao?”

    “Anh ta sẽ không tin chúng ta nếu chúng ta không tin anh ta. Anh ta biết là chúng ta biết.” Để làm dịu không khí căng thẳng, Al đi tới chỗ máy pha cà phê và chọn một viên nén cà phê và cho vào máy, trượt một cái ly xốp vào vị trí. Cái máy rít lên và kêu lốp bốp, vài giây sau một dòng cà phê nóng chảy vào trong ly.

    “Hơn nữa, anh ta biết căn cứ hoạt động của chúng ta ở đâu, các nhân viên phân tích của ta là ai, họ làm ca nào, họ sống ở đâu. Anh ta biết lịch trình của bà, biết nhà bà, biết nhà con gái bà. Dù cho bà không tin bất cứ điều gì khác mà tôi nói, thì Felice à, bà phải tin điều đó. Trong tất cả những đặc vụ trên thế giới, anh ta là người mà tôi không muốn chọc điên nhất.”

    Bà im lặng trong một lúc, cánh mũi phập phồng khi bà xử lý cái thông tin là bà cũng là một mục tiêu như bất cứ ai trong họ. Ông đã biết từ xưa là những người cảm thấy an toàn hầu hết là sẽ sẵn sàng hy sinh tính mạng của những người khác hơn là những người mà bản thân đã từng vào sinh ra tử. Họ có quan điểm hoàn toàn khác nhau.

    Tuy nhiên, phản ứng này là bởi vì bà muốn tự mình kiềm hãm mối đe doạ. Ông đoán bà sẽ cho người hạ luôn ông mà không mất ngủ dù chỉ một phút nếu bà có bao giờ nghĩ ông là một mối nguy cơ an ninh, nhưng ông là một phần trong nhóm bà, và bà tin tưởng ông. Ông cũng tin bà, trong mức giữ cho niềm tin đó không quay lại phản ông. Nhưng Đối tượng C là một vấn đề khác, và giờ cô ta đã gặp Xavier nữa, cả hai đều không thuộc trong nhóm của bà. Đó là cách đầu óc bà vận hành, và một điểm mạnh của Felice – và cũng là một điểm yếu của bà – đó là bà không nghi ngờ quyết định của chính mình. Bà xem xét các lựa chọn, và ra quyết định.

    Ông nhấp một ngụm cà phê trong khi bà dò xét, suy tính về hoàn cảnh này trong đầu bà. Cuối cùng bà đứng thẳng người khỏi bàn. “Ông sẽ phải lo Xavier,” bà nói, ánh mắt lạnh băng. “Tôi muốn đảm bảo rằng mọi thứ với Đối tượng C được giữ nguyên trạng, cho nên một hệ thống theo dõi tích cực sẽ được sắp xếp ngay khi có thể. Tôi sẽ lo liệu chuyện đó. Ông có thể báo cho anh ta nếu ông nghĩ anh ta nhất định phải biết, nhưng theo tôi thì không nên. Ông phải cẩn thận trong mọi việc ông làm.”

    Al khó chịu nhận ra rằng khi Felice nói bà sẽ tự mình lo liệu, ý bà là bà không muốn ông dùng người của ông; bà muốn dùng người mà ông không biết. Được thôi. Giảm quyền kiểm soát của ông là một đòn tát vào ông, nhưng nó cũng là một thứ sẽ phản tác dụng, và với lời cuối đó bà đã đẩy trách nhiệm lên ông cho dù có gì xảy ra. Nếu ông nói Xavier và mọi chuyện vẫn hỏng bét, thì đó là do ông – nhưng nếu không nói cho Xavier là một nguy cơ mà không ai đủ minh mẫn mà dám thử.

    “Ồ, tôi sẽ nói anh ta,” ông nói nhẹ nhàng, kiểm soát cơn giận. “Dù sao thì bà cũng sẽ không muốn người của bà bị cứa đứt cổ khi họ đang ngồi trong xe họ đâu.”

    Môi bà mím lại. “Nếu chuyện đó xảy ra, thì hậu quả rất khó lường, và tôi sẽ đối phó với anh ta. Tôi sẽ nghĩ ra một cách để xử lý hậu quả. Chỉ cần đảm bảo là anh ta hiểu điều đó.”

    Bà rời khỏi căn phòng hầm, gót giày đánh lộp cộp nhanh trên sàn gạch. Al nhấp thêm một ngụm cà phê để củng cố tinh thần. Không đời nào ông nói cho Xavier những gì bà vừa nói, bởi nếu vậy đảm bảo là bà sẽ không tỉnh dậy vào ngày mai. Sao mà bà không nhận ra điều đó chứ?

    Bởi vì bà cảm thấy an toàn.

    Nhưng bà không được an toàn. Không ai trong họ an toàn cả.
     
    dakedo, hathao, vu thu giang and 8 others like this.
  20. chau_la_la

    chau_la_la Lớp 5

    Chương mười một


    Ngày chủ nhật của Lizette trôi qua một cách êm đềm không có sự kiện gì xảy ra, chủ yếu là vì cô đã không rời khỏi nhà. Thay vào đó, cô đã lau dọn, và trong lúc lau dọn cô tìm kỹ lưỡng trong mức mà cô dám để kiếm đám microphone và camera giấu kín. Cô lật thảm lên, quét bụi trên bóng đèn, thậm chí còn sắp xếp lại bàn tủ một chút. Tất cả các dây nhợ gắn tivi vào mấy cái hộp và máy ghi âm và mấy thứ tương tự là trông có vẻ khả nghi nhất, nhưng tivi của cô được gắn âm tường, nghĩa là cô không thể tháo mọi thứ bằng cách giả vờ di chuyển nó sang chỗ khác được. Còn lại thì theo cô thấy mọi thứ đều có vẻ bình thường.

    Trên tivi, máy nghe lén luôn được cài trên điện thoại, hay bóng đèn; camera thì được gắn sau dãy sách, trộm nhìn qua những kẽ hở tí ti, dù đương nhiên là chúng luôn bị phát hiện bởi ánh đèn đỏ nhấp nháy. Kẻ ngốc cỡ nào mà dùng camera bí mật theo dõi lại có đèn đỏ nhấp nháy kia chứ?

    Với suy nghĩ đó cô gồng mình sẵn sàng cho một cơn đau đầu, nhưng – không, không cả một chút nhói. Tạ ơn trời! Không phải là cô có chút ý tưởng nào về lý do tại sao các ý nghĩ của cô gây ra những cơn đau đầu kinh khủng như vậy, nhưng cô ủng hộ bất cứ thứ gì ngăn chúng lại. Cô không thể nói chắc, nhưng dường như là lần đầu tiên mà cô có những ý nghĩ kỳ lạ này là lúc những cơn đau đầu tệ hại nhất. Đến giờ thì cô đã nghĩ về máy nghe lén và camera đủ thường xuyên để thấy chúng bình thường.

    Cuối cùng cô kết luận rằng, nếu căn nhà bị theo dõi, thì chúng phải ở trong các đường dây điện, mà cô thì không thể kiểm tra được. Cô trượt nắp pin khỏi cái điện thoại bàn không dây và xem xét bên trong nhưng không thấy gì khả nghi.

    Có ba kết luận cô có thể rút ra từ kết quả tìm kiếm của cô. Một, các thiết bị theo dõi đã được cài đặt bởi một tay chuyên nghiệp. Hai, cô không biết đủ về đề tài này để mà kiểm tra kỹ lưỡng. Hoặc, ba, cô chỉ là một kẻ hoàn toàn điên loạn. Cô quăng cái kết luận cuối vào chỉ để xem xét hết các khả năng, nhưng mọi thứ trong cô đều bác bỏ điều đó. Cô biết cô đã đánh mất hai năm ký ức. Cô biết cô đã làm phẫu thuật trên mặt cô, một việc cô cũng không nhớ nốt. Mỗi lần cô bắt đầu nghi ngờ bản thân, hai dữ liệu không thể bàn cãi này lại lôi cô trở lại chế độ “nghi ngờ mọi thứ và không tin gì cả”.

    Không thể tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra là một tình huống bực bội nhất mà cô từng gặp trong đời. Không chỉ bởi cô không biết lý do rõ ràng cho chuyện không ký ức, gương mặt thay đổi, mà còn bởi cô không thể nghĩ ra một lý do kỳ lạ, mơ hồ nào. Không có tình trạng sức khoẻ nào mà cô biết khớp với các thông số. Không gì trong cuộc đời mà cô biết khớp với các thông số.

    Mà cô biết. Đó là từ khoá.

    Tất cả những gì còn lại là một kiểu thuyết âm mưu, mà mặc dù nghe có vẻ khá lạ lẫm khi so với cuộc sống rất bình thường và vô cùng nhàm chán của cô, nhưng lại phù hợp với các chi tiết hơn bất cứ thứ nào khác mà cô có thể tưởng tượng. Làm sao cô có tìm cách lý giải nào khác cho mối nghi ngờ về việc điện thoại cô bị nghe lén – một điều cô chưa từng nghĩ đến – hay là xe cô có gắn thiết bị theo dõi, hay là đột nhiên phát hiện ra kỹ năng lái xe hoàn toàn xa lạ với thói quen lái xe bình thường của cô? Và cô biết gì về mấy chiếc điện thoại ẩn danh?

    Như thể có một con người hoàn toàn khác nằm trong cô và đang chiến đấu để thoát ra ngoài. Không – điều đó nghe như kiểu nhân cách phân liệt vậy, mà cô không có cảm giác như vậy. Cô cảm thấy giống như, con người thật đang cố thoát ra khỏi căn nhà tù buồn tẻ mà Bọn họ đã nhốt cô vào. Cuộc đời mà cô đang sống hiện tại, co mình lại, không niềm vui, tẻ nhạt và hoàn toàn dễ đoán ngày qua ngày, không khớp với con người mà cô đã từng trước đây. Cô từng luôn sẵn sàng dấn thân mạo hiểm, dồn ép bản thân. Khi cô làm công việc ở Chicago, cô...

    Chết tiệt, chết tiệt! Cô gục xuống sàn, ôm chặt đầu và cố kìm lại tiếng rên trong khi cô cuộn người chặt lại thành một quả bóng và vật lộn để tập trung vào một thứ gì đó, bất cứ thứ gì, để chặt đứt sợi dây kìm kẹp mà cơn đau không chịu nổi này đang quấn lấy cô. Nếu có ai đang lắng nghe, cô không muốn họ biết có chuyện gì bất thường xảy ra, bởi vì đột nhiên việc này có vẻ giống như một điểm yếu mà họ có thể lợi dụng. Cô đã đủ bất lực nếu một cơn tấn công thế này xảy đến với cô rồi, không cần có ai đó tìm hiểu ra chúng được kích hoạt thế nào. Lỡ như họ chỉ cần hỏi cô một câu hỏi về quá khứ và việc cố tìm câu trả lời sẽ khiến cô trở nên như thế này thì sao?

    Suy nghĩ về khả năng đó giúp chuyển hướng sự chú ý của cô đủ để cho cơn đau lắng dịu xuống một mức có thể chịu đựng. Rõ ràng bất cứ thứ gì mà cô có thể tập trung vào đều có tác dụng, điều này giúp cô biết được cách để đối phó với mấy cơn đau đầu. Chúng không đến thường xuyên nữa, và hầu hết cô có thể khống chế bản thân trước khi cơn đau thực sự chiếm lấy cô. Cô chỉ bị đột kích khi nào có một đề tài hoàn toàn khác lạ chợt nảy ra trong đầu cô.

    Nhưng những ý nghĩ này là manh mối về quá khứ của cô. Nếu những cơn đau đầu là cái giá mà cô phải trả để tìm ra chính xác chuyện gì đã xảy ra với cô thì cô sẵn sàng chấp nhận. Thay vì cố tránh những nhân tố khơi gợi, có lẽ cô nên khám phá chúng. Cô biết cô từng sống ở Chicago; cô nhớ điều đó. Vậy vấn đề là ở chỗ công việc mà cô đã làm. Phần đó trong đời cô mơ hồ và mù mịt, bị che bởi màn sương trong tâm trí cô. Tạm thời, xác định vấn đề là đủ rồi. Cố xua đám sương đi sẽ giống như chọc vào một cái răng đau vậy. Có thể màn sương tự nó dần sẽ phai đi, có thể không. Cô không biết cô có dư dả thời gian để chờ tới lúc biết được điều đó hay không, vì vậy cô phải coi như là không. Giờ thì cô đã biết cần kiểm tra khu vực nào rồi, nên cô có thể thỉnh thoảng xem xét lại chủ đề này để xem coi tình hình có sáng rõ hơn không.

    Chicago nhất định là chìa khoá. Đó là khi cô mất thông tin, bởi cô không nhớ đã chuyển từ Chicago tới thủ đô. Chuyện gì đó đã xảy ra ở Chicago. Ít ra là giờ thì cô đã có một điểm để bắt đầu.

    Tới giờ đi ngủ thì cô đã mệt nhừ do dọn dẹp và bực tức vì không tìm thấy gì, nhưng chắc chắn là sẵn sàng lên giường rồi. Cô đi tắm vì người bị bẩn sau khi dọn dẹp – chuyện đó không phải nghe sai sai sao – và chui vào giường sớm hơn bình thường mười phút.

    Có lẽ cô sẽ mơ về anh chàng đẹp trai ở hiệu thuốc lần nữa. Mỗi lần cô nghĩ về giấc mơ tối thứ Sáu là nhịp tim cô lại nhanh hơn một chút. Giấc mơ đó thật tuyệt, nó dữ dội và thật tới mức cô thực sự đã có cảm giác là anh vào trong cô; nếu cô nhắm mắt lại, cô vẫn có thể nhớ lại rõ ràng sức nóng và cảm giác lúc đó, và, cơn cực khoái của cô thực sự bùng nổ. Phải, thức dậy giữa đêm theo cách đó cũng rất đáng cho giấc ngủ bị mất.

    Nhưng anh chàng X không ghé thăm giấc mơ của cô. Cô tỉnh dậy vào buổi sáng thứ Hai với một cảm giác hơi cáu kỉnh vì chuyện đó. Cô làm theo thói quen hàng ngày, không phải vì cô thấy niềm an ủi trong những điều quen thuộc, mà vì tạm thời cô thấy tỏ ra bình thường có ý nghĩa tối quan trọng với sức khoẻ của bản thân.

    Cô rời nhà đúng giờ và đi con đường quen thuộc tới chỗ làm. Thỉnh thoảng cô lại kiểm tra gương chiếu hậu, nhưng giờ cao điểm quá hỗn loạn với các phương tiện né tránh nhau qua lại giữa các làn và giành nhau đường, nên cô hầu như không thể nhớ được ai ở ngay sau cô trong mọi lúc. Có rất nhiều xe hơi và SUV giống nhau; cứ có một chiếc xe nhìn tương tự và cô cố theo dõi nó, để rồi một vài giây sau nhận ra rằng, khoan, có một chiếc khác giống màu y chang, hoặc là đám đèn chiếu hơi khác một chút. Và cô không thể liên tục nhìn gương và lái xe cùng lúc được, trừ khi cô muốn đâm vào đuôi xe khác. Cuối cùng cô từ bỏ và chỉ tập trung vào việc chạy đến chỗ làm thôi.

    Ở văn phòng, cô cảm thấy an toàn hơn đôi chút. Cô cười với nhân viên bảo vệ khi dừng lại để ký tên ra vào. Thẻ ID của cô được gắn vào một sợi dây cô đeo quanh cổ; người bảo vệ biết cô, đương nhiên, nhưng thủ tục được thực hiện nghiêm ngặt. Việc ra vào toà nhà bị kiểm soát và mọi người phải check in tại bàn bảo vệ.

    Cô bước vào thang máy cùng nhiều người khác và nhấn mã số để cho thang máy dừng tại tầng có công ty Đầu tư Becker đặt trụ sở. Thang bắt đầu đi lên, tiếng động cơ và dây cáp rền rỉ. Vụ nhập mã số thang máy chủ yếu là để gây ấn tượng với khách hàng. Dù sao thì thang bộ vẫn có thể thoải mái sử dụng, và bắt buộc phải như vậy theo luật phòng chống hoả hoạn. Tuy vậy, cô có mấy bức tường và nhiều người vây quanh, và bất cứ thứ gì đang xảy ra dường như sẽ không dẫn tới cả một đội đột kích đu dây từ tầng thượng toà nhà xuống.

    Đầu nhói đau.

    Bắt bản thân không tạo ra một âm thanh nào, không ngã xuống sàn, cô nhìn chằm chằm vào chiếc áo cánh có họa tiết trừu tượng mà người phụ nữ đứng trước cô đang mặc. Họa tiết khá rối nhưng màu sắc lại thuộc kiểu màu lặng, với xám, kem, và xanh, tạo thành một tổng thể hài hoà.

    Được rồi, tốt. Tập trung vào họa tiết cũng có tác dụng như những thứ khác, và cô không phải dùng tới cách ngâm nga hát.

    Cô bước ra tầng của mình. Cô nhân viên tiếp tân cũng vừa mới tới, xuất hiện từ một thang máy khác, và họ cùng bước dọc hành lang trải thảm. “Chào chị, chị khoẻ không?”, cô nhân viên tiếp tân nói. Cô ấy tên là Rae, xinh đẹp và khoảng hai mươi ba, hai mươi tư. Lizette nhìn được sơ qua cuốn sách mà cô ấy mang theo: một cuốn sách học về tiếp thị. Rõ ràng là Rae đang đi học buổi tối, nhắm đến một lĩnh vực làm việc khác. Lizette cũng làm công việc tiếp tân khi vừa mới ra trường, cộng với hầu bàn. Kỳ lạ là cô sẽ sẵn sàng chọn chạy bàn thay vì làm tiếp tân. Công việc có cực nhọc hơn, nhưng ít nhất cô cũng đang di chuyển, và mỗi ngày đều khác nhau dù cho hầu hết khách hàng đều là khách quen.

    Nhưng nếu cô vẫn còn đi học thì lại là chuyện khác. Cô có thể sẽ cần một công việc yên tĩnh hơn để có thời gian học chút ít.

    Sau đó cô nghĩ lại việc cô từng là một con nhóc cực hiếu động. Không, cô vẫn sẽ chọn chạy bàn. Cô thậm chí thích thú cái thử thách giữ cho vài khách hàng trong tầm kiểm soát.

    Những kỷ niệm đó, cô nhận ra, không kích hoạt bất kỳ phản ứng nào. Chúng là những kỷ niệm thông thường. Nhưng giờ cô biết cô có thể thêm mấy đội đột kích, và đu dây xuống từ bên ngoài mấy toà nhà, vào trong danh sách các mục có thể khảo sát, cùng với Chicago. Rõ ràng là cô thực sự đã dính vào mấy trò hành động táo bạo nào đó.

    Trong thâm tâm, cô nhận thấy có một cảm giác đúng đắn. Dù là cô đã làm gì, cô đã ở đâu, thì chắc hẳn cô đã không bằng lòng ngồi suốt trong một toà văn phòng mỗi ngày.

    Gần như ngay khi cô bỏ cái giỏ xách vào trong ngăn kéo dưới cùng ở chỗ bàn làm việc của cô, Diana ló đầu qua bức tường ngăn giữa mỗi bàn. “Hi! Bồ vẫn thấy ổn chứ? Mình định gọi cho bồ hồi cuối tuần rồi, mà mình cứ lu bu với tụi nhóc. Mình cứ định gọi cho bồ là lại có chuyện xảy ra nên mình quên bẵng đi mất, tới lúc nhớ lại thì đã tới giờ đi ngủ rồi.”

    Hai đứa con của Diana bốn và năm tuổi, một trai và một gái, và cả hai dường như khá quyết tâm là phải làm gãy cổ mình trước khi vào lớp một. Đã từng tới chơi với tụi nhóc trước đây nên Lizette hoàn toàn thông cảm.

    “Mình vẫn còn đau đầu, nhưng mà tần suất cũng ít hơn rồi.” Cô nói vậy để chừa cho mình một cái cớ phòng khi cô lại có một đợt tấn công khác. “Không buồn nôn nữa. Cái đó ngưng từ hồi chiều thứ Sáu rồi.”

    “Tốt. Lúc nói chuyện qua điện thoại nghe giọng bồ tệ quá chừng. Bồ thấy đủ khoẻ để ra ngoài ăn trưa hôm nay chưa?”

    “Ừ. Lát nữa gặp hén.”

    Diana vẫy tay và đi tới góc làm việc của cô. Họ thường ăn trưa cùng nhau ít nhất vài ngày trong tuần, bất cứ khi nào Diana không có công chuyện phải đi. Đám nhóc của cô dường như tạo ra khá nhiều công chuyện, từ đi khám bác sĩ cho đến đi nhận mấy thứ đã đặt cho tiệc sinh nhật của bạn ở trường mẫu giáo, rồi đi mua đồ thay cho mấy món bị hư bể. Cuộc sống của Diana là một công trình nghiên cứu về kiểm soát thiệt hại – những thiệt hại thực sự, hữu hình, chứ không phải mấy cái tồi tệ khác.

    Và rồi một ý nghĩ chợt đến với cô. Bọn nhóc nhà Diana đã bốn và năm tuổi, nghĩa là nếu Lizette thực sự đã làm việc tại công ty Đầu tư Becker năm năm, thì ít nhất cô cũng phải còn nhớ tới một quãng thời gian nào đó mà bạn cô mang thai chứ... nhưng cô không nhớ. Cô không thể nhớ khi nào mà Diana không có hai đứa con.

    Cô hầu như không cần thêm chứng cứ cho việc có điều gì đó rất sai, nhưng không hiểu sao cái chứng cứ mang tính cá nhân này còn thuyết phục hơn là đám giấy đăng kiểm xe, bằng lái xe, và giấy tờ khai thuế. Cô nhớ sinh nhật của Diana, sinh nhật của hai đứa nhỏ, những thứ giống vậy. Do đó nếu cô có ở đó, cô nhất định đã nhớ thời điểm khi chúng được sinh ra.

    Vì thế, cô đã không ở đó. Cô đã làm việc ở đây, sống trong căn nhà hiện tại trong khoảng ba năm. Hai năm trước đó – không ai biết chắc được.

    Cô đã từng là một người khác, và cô cần phải tìm ra người đó là ai, và cô đã làm gì. Mọi thứ đều phụ thuộc vào điều đó.
     

Chia sẻ trang này