Trà phiếm Tết là của Việt Nam

Thảo luận trong 'Bàn Trà' bắt đầu bởi tran ngoc anh, 20/1/20.

Moderators: amylee
  1. babylon

    babylon Lớp 4

    Phân tích về văn hóa thì Người Hàn chẳng có nhận vơ Ông thần Phục Hy đâu
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Người Việt là con cháu Thần nông có dính dáng tới Phục hy gì đâu; Kim Định dù gì cũng chì là nhà khảo cứu thôi chứ nói Tổ sư hơi quá ; phong tào Kinh Dịch và nguồn gốc của Nó manh nha trong giới sĩ phu yêu nước lâu rồi ; còn Lý Đông A với trung thiên đồ tồn tại ngắn ngủi mà diệu dụng ít người được thấy ! Những ghi chép và những thứ Ông truyền dạy cũng mù mờ !
     
  2. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 2

    Thần nông, Phục hy đều là của Trung Quốc mà?!
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Cái gọi là Trung Thiên Đồ là ông này tự sáng tạo thêm thôi!



    4 đồ hình thần bí của Á Đông lưu truyền ngàn năm đến nay nhân loại vẫn chưa hiểu thấu


    [​IMG]


    Người Á Đông từ thời thượng cổ đã lưu truyền 4 bức đồ hình thần bí, chứa đựng bí ẩn của vũ trụ. Hàng ngàn năm nay, nhân loại nghiên cứu chúng chuyên chú không mệt mỏi, nhưng đến nay vẫn chưa thể hiểu thấu.

    1. Thái cực

    Trong “Chu Dịch” có viết: “Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”.

    Dịch là nhật nguyệt, dịch là Âm Dương, thái cực đồ là phù hiệu đại diện cho nhật nguyệt, Âm Dương của dịch. Âm dương là do nhật nguyệt đại diện.

    Thái cực đồ có hai “con cá Âm Dương” đen trắng. Cá trắng biểu thị là Dương, cá đen biểu thị là Âm. Trong cá trắng có một con mắt đen, trong cá đen có một con mắt trắng, biểu thị trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. “Cá Âm Dương” đen trắng cũng biểu thị sự vật có tính độc lập tương đối, Âm Dương có mặt độc lập tương hỗ, không được lẫn lộn.

    Đường cong chữ S trong đồ hình phân chia rõ ràng thái cực đồ thành 2 phần liên quan, biểu thị vạn vật trong thế gian đều liên quan ước chế lẫn nhau, do đó có Âm Dương, có chuỗi thực phẩm (sinh vật này là thực phẩm của sinh vật kia), có tương sinh tương khắc.

    [​IMG]
    “Thái cực” trong Kinh Dịch tương thông với chữ “Đạo”, chính vì vạn vật do Đạo sinh ra, do đó vạn vật biến hóa đều do Thái cực, biến hóa thành Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái (Ảnh: NTDTV).
    “Thái cực” trong Kinh Dịch tương thông với chữ “Đạo”, chính vì vạn vật do Đạo sinh ra, do đó vạn vật biến hóa đều do Thái cực, biến hóa thành Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái.

    “Hệ từ truyện” viết: “Một Âm một Dương gọi là Đạo”, “Đạo của Trời gọi là Âm và Dương”, đồng thời dẫn lời Khổng Tử: “Hình nhi thượng gọi là Đạo, hình nhi hạ gọi là khí”, do đó Nho gia công nhận: “Đạo là cái lý biến hóa Âm Dương”. Đạo tức là phép tắc của vũ trụ vận hành, tự nhiên biến hóa.

    Đồ hình Thái cực thể hiện cái đẹp hình thức và cái đẹp hài hòa của sự chuyển hóa tương hỗ, thống nhất của các mặt đối lập. Sau này nó lại phát triển thành kết cấu của cái đẹp của tạo hình Á Đông. Như “Hỷ tương phùng”, “Loan phượng tương minh”, “Long phượng trình tường” v.v…, đều có hình thức một trên một dưới, một chính một phản tổ hợp thành các hình tượng cát tường sinh động tốt đẹp, được mọi người rất ưa thích.

    2. Bát quái

    Bát quái chia thành tiên thiên Bát quái và hậu thiên Bát quái. Tiên thiên Bát quái đồ cũng được gọi là Phục Hy Bát quái đồ. Căn cứ của tiên thiên Bát quái được nói trong “Kinh dịch”: “Thiên Địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, Bát quái tương thác”

    Ý nghĩa là Trời và Đất định vị trí ở trên và dưới, núi và đầm khí quán thông nhau, sấm sét và gió kích hoạt lẫn nhau, nước và lửa ngược nhau, Bát quái hình thành hiện tượng đan xen giữa các vật với nhau.

    [​IMG]
    Phục Hy Bát quái đồ (Ảnh: NTDTV)
    Trên đồ hình, trên là Càn, dưới là Khôn, đại diện cho Trời và Đất; Trái là Ly, phải là Khảm, đại diện cho lửa và nước, ý là chỉ mặt trời và mặt trăng. Chúng ta không lạ gì với 4 quẻ này, như quốc kỳ Hàn Quốc là như thế. Tiếp theo, bên trái góc trên là Đoài, bên phải góc trên là Tốn, đại diện cho đầm và gió. Tiếp theo, bên trái góc dưới là Chấn, bên phải góc dưới là Cấn, đại diện cho sấm và núi.

    Từ triều Tống về sau này, Bát quái có 2 loại có thứ tự là “Càn – Đoài – Ly – Chấn – Tốn – Khảm – Cấn – Khôn” và “Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài”. Cái trước gọi là “Thứ tự Bát quái Phục Hy”, cái sau gọi là “Thứ tự Bát quái Văn Vương”.

    Hậu thiên Bát quái đồ còn gọi là Văn Vương Bát quái đồ. Căn cứ hậu thiên Bát quái đồ cũng là “Kinh Dịch”: “Đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương hồ ly, trí dịch hồ khôn, thuyết ngôn hồ đoài, chiến hồ càn, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn”.

    [​IMG]
    Văn Vương Bát quái đồ (Ảnh: NTDTV)
    Ý nghĩa là Thiên đế (có thể chỉ sao Bắc cực) xuất phát từ vị trí quẻ Chấn, đến vị trí quẻ Tốn khiến cho vạn vật sinh trưởng chỉnh tề, đến vị trí quẻ Ly khiến vạn vật nhìn lẫn nhau, đến vị trí quẻ Khôn khiến vạn vật được trợ giúp, đến vị trí quẻ Đoài khiến vạn vật vui vẻ hoan hỷ, đến vị trí quẻ Càn khiến vạn vật giao chiến lẫn nhau, đến vị trí quẻ Khảm khiến vạn vật lao khổ mệt mỏi, đến vị trí quẻ cấn khiến vạn vật thành công hạ màn.

    Phương vị của hậu thiên Bát quái có quan hệ đối ứng với phương vị đông nam tây bắc: Chấn, Ly, Đoài, Khảm lần lượt đại diện cho chính đông, chính nam, chính tây, chính bắc, 4 quẻ còn lại lần lượt là 4 góc đông nam, tây nam, tây bắc, đông bắc.

    Trong đồ hình, vị trí quẻ càn (Trời) ở tây bắc, mà khôn (Đất) có vị trí tây nam. Cấn là núi, gần với Trời, ở đông bắc, tốn là đồng đều bằng phẳng, gần với Đất, ở đông nam. Tiếp đến, 4 quẻ còn lại lần lượt là: Chấn ở đông, Đoài ở tây, Ly ở nam, Khảm ở bắc.

    Có người cho rằng tiên thiên Bát quái phản ánh cảnh tượng trước khi thế giới sinh ra, mà hậu thiên Bát quái thì ngược lại. Cũng có người cho rằng tiên thiên Bát quái và hậu thiên Bát quái lần lượt đại diện cho khái niệm không gian thẳng đứng lập thể và thời gian (tương tự như chiều không gian của Tây học). Như Trương Triều đời Thanh viết trong “U mộng ảnh” rằng: “Tiên thiên Bát quái thì xem chiều đứng, hậu thiên Bát quái thì xem chiều ngang”

    3. Hà Đồ

    Trong “Dịch – Hệ từ thượng” viết: “Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thánh nhân tắc chi” (Sông Hoàng Hà xuất hiện Hà Đồ, sông Lạc thủy xuất hiện Lạc thư, Thánh nhân phỏng theo chúng”

    [​IMG]
    Long mã cõng “Hà Đồ” (Ảnh: NTDTV)
    Hà đồ và Lạc thư theo truyền thuyết cổ đại Á Đông là điềm lành mà Thượng Thiên trao cho. Tương truyền bậc Thánh vương nếu có nền chính trị nhân đức, Thượng Thiên sẽ trao cho Hà đồ Lạc thư, tượng trưng Thiên tử quy về Thiên mệnh, có quyền uy hợp phép quản lý thiên hạ.

    Thiên hạ thời vua Phục Hy, Long mã xuất hiện ở sông Hoàng Hà, vua bèn phỏng theo hoa văn của nó vẽ Bát quái, gọi là Hà đồ”. Tương truyền thời vua Phục Hy thời thượng cổ, sông Hoàng Hà ở địa giới huyện Mạnh Tân phía đông bắc Lạc Dương nổi lên một con long mã, có 2 cánh, cao 8 thước 5 tấc, trên thân có vẩy rồng, đạp sóng nước như đi trên đất liền, lưng cõng “Hà đồ”, dâng cho Phục Hy. Phục Hy dựa vào đó diễn dịch thành Bát quái, sau này là nguồn gốc của “Chu Dịch”.

    Hà đồ là kết cấu dùng các chấm để biểu thị tổ hợp thành, từ 1 chấm đến 10 chấm, hình thành một tổ hợp đồ hình: 5 vào 10 cấu thành trung cung, số lẻ là dương, màu trắng, đại diện cho Thiên số (sinh số). Số chẵn là Âm, màu đen, đại diện Địa số (thành số).

    Hà đồ lấy 10 số hợp thành 5 phương, ngũ hành, Âm Dương, tượng Thiên Địa. Hình thức đồ hình lấy vòng trắng làm Dương, là Trời, là số lẻ; chấm đen là Âm, là Đất, là số chẵn. Đồng thời lấy Trời Đất hợp 5 phương, lấy Âm Dương hợp ngũ hành.

    Phương bắc: Một chấm trắng ở trong, 6 chấm đen ở ngoài, biểu thị sao Huyền Vũ, ngũ hành là thủy (nước).

    Phương đông: 3 chấm trắng ở trong, 8 chấm đen ở ngoài, biểu thị sao Thanh Long, ngũ hành là mộc (cây, gỗ).

    Phương nam: 2 chấm đen ở trong, 7 chấm trắng ở ngoài, biểu thị sao Chu Tước, ngũ hành là hỏa (lửa).

    Phương tây: 4 chấm đen ở trong, 9 chấm trắng ở ngoài, biểu thị sao Bạch Hổ, ngũ hành là kim (kim loại, vàng).

    Ở giữa (trung ương): 5 chấm trắng ở trong, 10 chấm đen ở ngoài, ngũ hành là thổ (đất).

    Trong bố cục chữ thập của Hà đồ, số theo phương ngang (8, 3, 10, 4, 9), tổng là 34, số theo phương dọc (7, 2, 5, 1, 6) tổng là 21, vừa đúng chia 55 thành 2 phần 21 và 34. Mà 21 và 34 là hai số kề nhau trong dãy Fibonacci (dãy Fibonacci ví dụ như: 0, 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144…, hai số cạnh nhau có tỷ số sát với tỷ lệ vàng), hoàn toàn giống với tỷ lệ vàng.

    4. Lạc thư

    “Sông Lạc xuất hiện Lạc thư, rùa Thần cõng văn tự xuất hiện, bày trên lưng, có số đến 9, vua Vũ lấy đó tính thứ tự, thành 9 loại, là thứ tự của Đạo”. Tương truyền thời vua Đại Vũ, sông Lạc huyện Lạc Ninh phía tây Lạc Dương nổi lên một con rùa Thần, rùa dài 9 thước, lưng cõng “Lạc thư”, dâng cho Đại Vũ. Đại Vũ dựa vào đó trị thủy thành công, liền chia thiên hạ làm 9 châu, lại dựa theo đó định đại pháp 9 chương, quản lý thiên hạ, được lưu truyền và thu lục trong sách “Thượng thư”, tên là “Hồng phạm”

    [​IMG]
    Rùa Thần cõng “Lạc thư”. Đại Vũ đắc được (Ảnh: NTDTV)
    Phương Khổng Chiếu đời Minh viết trong “Chu Dịch thời luận” rằng: “Nguồn sông Hoàng Hà xa, nên thể hiện là đồ hình, nguồn sông Lạc gần, nên sử dụng thư (sách), long (rồng) ngụ ở mã (ngựa), lấy Thiên hành gửi ở Địa hành vậy, rùa là linh trí của phương bắc mà con người sử dụng, tức là chỉ trí huệ, chẳng phải sinh động đó sao”. Điều này nói rõ ý nghĩa của truyền thuyết cổ xưa và khởi nguồn của Hà đồ Lạc thư.

    Lạc thư thực tế là 9 cung, tức là từ 1 đến 9 sắp xếp thành, ngang, dọc, chéo, tổng của 3 số đều là 15, trong toán học thuộc về ma trận kỳ ảo bậc 3, người xưa đã tổng kết thành khẩu quyết: đội 9 đạp 1, trái 3 phải 7, 2, 4 là vai, 6, 8 là chân, số 5 ở giữa.

    Số 1 là vị thái dương, số 9 là số thái dương, do đó 1 và 9 đối nhau.

    Số 2 là vị thiếu âm, số 8 là số thiếu âm, do đó 2 và 8 đối nhau.

    Số 3 là vị thiếu dương, số 7 là số thiếu dương, do đó số 3 và 7 đối nhau.

    Số 4 là vị thái âm, số 6 là số thái âm, do đó số 4 và 6 đối nhau.

    Phép này lấy số của Lạc thư để luận dịch, cái lý âm dương, cái số chẵn lẻ, cái nơi phương vị, nếu hợp phù tiết, tuy hệ từ chưa từng nói rõ, mà đã suy được ra, như ngón tay trên bàn tay vậy. – “Lạc thư biện” của Vương Y.

    Phối hợp với Bát quái hình thành: 1 khảm, 2 khôn, 3 chấn, 4 tốn, 5 trung cung, 6 càn, 7 đoài, 8 cấn, 9 ly. Thứ tự này, được ứng dụng trong phong thủy học, gọi là “Lạc thư quỹ tích”.

    Trong kỳ môn độn giáp, thì là: 1 bạch khảm thủy hưu môn, 2 hắc khôn thổ tử môn, 3 bích chấn mộc thương môn, 4 lục tốn mộc đỗ môn, 5 hoàng ký trung cung, 6 bạch càn kim khai môn, 7 xích đoài kim kinh môn, 8 bạch cấn thổ sinh môn, 9 tử ly hỏa cảnh môn.

    Hà đồ là thể, Lạc thư là dụng, Hà đồ chủ thường, Lạc thư chủ biến, Hà đồ trọng họp, Lạc thư trọng phân, vuông tròn che chở nhau, Âm Dương ôm ấp nhau, sử dụng tương hỗ lẫn nhau, không thể chia cắt.

    Đại Kỷ Nguyên bàn:

    Thái cực, Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, bốn đồ hình cổ xưa đến nay vẫn là một bí ẩn đối với nhân loại. Ai đã sáng tạo ra những đồ hình này?

    Kỳ thực, văn hóa truyền thống phương Đông vốn là văn hóa Thần truyền. Không chỉ bốn đồ hình kể trên, nhiều kiệt tác về nghệ thuật, văn học, v.v… dường như vượt xa trí huệ của con người. Ví như danh tác “Tây Du Ký” có nội hàm tu luyện uyên thâm, mỗi lần đọc lại có hiểu biết mới về đạo lý tu tâm và vũ trụ.

    Bốn đồ hình cổ xưa ấy vốn không phải là người thường làm ra, nên trí tuệ người thường vĩnh viễn không hiểu được. Bởi chúng là món quà từ Thiên thượng, nên con người chỉ có trong không ngừng tu tâm dưỡng đức, kính Thiên hiểu mệnh, thăng hoa cảnh giới tinh thần thì mới lĩnh hội được nội hàm chân thực.

    Trung Thiên Đồ Bản Đồ Mã Hóa Thuyết Tam Độc và Tứ Vô Lượng Tâm của PG



    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    TRUNG THIÊN ĐỒ BẢN ĐỒ MÃ HÓA THUYẾT TAM ĐỘC
    VÀ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM CỦA PHẬT GIÁO



    Nguyễn Thiếu Dũng



    Sau nhiều năm nghiên cứu Kinh Dịch bị nhận lầm là của Trung Hoa, tôi phát hiện Trung Thiên Đồ được ẩn dấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, mà đồ này đặc biệt lại là chìa khóa để viết Kinh Dịch, nếu giảng Kinh Dịch theo phương vị Hậu Thiên Đồ như cách làm của các Dịch học gia Trung Quốc từ cổ đại đến hiện đại thì sẽ khiến cho Quái từ, Hào từ trong kinh văn trở nên khó hiểu, rời rạc, đứt đoạn. Ngược lại nếu giảng theo phương vị Trung Thiên Đồ thì câu chữ hóa thành sáng sủa, mạch lạc, mỗi quẻ là một bản văn hoàn chỉnh, liên ý với nhau. Trung Thiên Đồ chính là chứng từ duy nhất để chứng minh Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam.

    Kinh Dịch được xây dựng dựa vào thuyết tam tài: THIÊN, ĐỊA, NHÂN, vũ trụ có trời có đất và con người kết nhau thành một mối, trời đất là đại vũ trụ, con người là tiểu vũ trụ.

    Phật tổ nói “thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”, trời ở trên, đất ở dưới, giữa là loài người cao quý nhất.

    Nguyễn Du trong truyên Kiều cũng đã gói gọn thuyết tam tài trong câu thơ “ Đội trời, đạp đất, ở đời ”

    Vì vậy quẻ đơn gồm ba hào, hào thượng thuộc tài Thiên, hào giữa thuộc tài Nhân, hào dưới cùng thuộc tài Địa, quẻ đơn diễn biến thành quẻ kép sáu hào, cứ hai hào thuộc một tài phân bố giống như quẻ đơn.

    Quẻ Thuần Càn cho ta nhìn thấy rõ bố cục đó:



    Sơ cửu: tiềm long vật dụng.

    初九。潛龍勿用

    Cửu nhị: hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.

    九二。現龍在田,利見大人。

    Cửu tam: quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu.

    九三。君子終日乾乾。夕惕若,厲,無咎。

    Cửu tứ: hoặc dược, tại uyên, vô cữu.

    九四。或躍在淵,無咎。

    Cửu ngũ

    phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.

    九五。飛龍在天,利見大人。

    Thượng cửu: kháng long hữu hối.

    上九。亢龍有悔



    Tài Địa gồm hào Sơ cửu có chữ tiềm long, hào Cửu nhị có chữ hiện long

    Tài Nhân gồm hào Cửu tam có chữ quân tử. Hào Cửu tứ có chữ dược, tại

    Tài Thiên gồm có hào Cửu Ngũ có chữ phi long tại thiên, hào Thượng Cửu có chữ kháng long.

    Các quẻ khi sắp trên vòng Bát Quái cũng phải tuân theo luật Tam Tài, có Tiên Thiên Đồ, có Hậu Thiên Đồ nhưng ta tìm đỏ mắt từ suốt hai ngàn năm nay chẳng thấy Trung Thiên Đồ ở đâu mà lý ra bắt buộc phải có, vì Trung Thiên Đồ chính là la bàn để viết Kinh Dịch và đó không phải là nhiệm vụ của Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ. Trong khi đó ta lại tìm thấy Trung Thiên Đồ được cất dấu bí mật trong truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, điều đó chứng minh một cách hiển nhiên và không thể phản biện rằng người Hoa chỉ DU NHẬP Kinh Dịch, chủ nhân sáng tạo KINH DỊCH chính là người Việt (Việt Nam).

    Chúng ta sẽ tìm thấy Trung Thiên Đồ trong các truyền thuyết sau đây:



    TRUYỆN HỒNG BÀNG THỊ

    Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi. Lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để trị đất Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! sao không lại cứu chúng tôi". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc... các thứ đá quý, các cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân". Long Quân đột nhiên trở về, thấy âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. Âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài. Nham Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi... làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc vợ con thường muốn về đất Bắc. Về tới biên giới, hoàng đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi Long Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này". Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói: "Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình". Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về Thủy Phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên". Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: "Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó". Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.



    TRUYỆN HỒ TINH

    Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Vua Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, cho nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy, ngày nay tức là thành Kinh Hoa vậy. Xưa ở phía tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía đông gối lên sông Lô Giang. Trong hang, dưới chân núi, có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỉ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà. Trên núi có vị thần rất linh thiêng, người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc cho nên gọi là Bạch Y Man (mán áo trắng). Con cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở. Long Quân bèn ra lệnh cho lục bộ thủy phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân thủy phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn. Nơi này trở thành một cái vũng sâu gọi là "đầm xác cáo" (tức Tây Hồ ngày nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái. Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Đỗng (hang cáo). Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà mà ở nay gọi là Hồ Thôn (thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.



    TRUYỆN MỘC TINH

    Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây chiên đàn cao hơn ngàn trượng cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn rậm. Có chim hạc bay đến đậu nên đất chỗ đó gọi là đất Bạch Hạc. Cây trải qua hàng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi hình dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ, hàng năm tới ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng. Biên giới tây nam giáp liền với nước Mi Hầu, vua Hùng Vương sai dân man Bà Lô (nay là phủ Diễn Châu) hàng năm bắt giống người lão tử sống ở khe núi tới tiến, không thể thay đổi được lệ ấy. Kíp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu làm quan lệnh ở Long Xuyên, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận. Đến đời vua Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Văn Du Tường vốn người phương bắc, đức hạnh thanh cao, đã từng đi qua nhiều nước, biết được tiếng các dân man, học được thuật làm nanh vàng và răng đồng, năm hơn 80 tuổi sang nước Nam ta. Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư bèn dạy cho nghề tạp kỹ để làm trò vui cho thần Xương Cuồng xem mà giết y. Đoàn tạp kỹ này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Câu. Hàng năm tới tháng 11 lại dựng lầu Phi Vân cao 20 thước, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây chão dài 136 thước, đường kính rộng 2 tấc, lấy mây mà quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, giữa gác lên cây. Thượng Kỵ đứng lên trên dây mà chạy nhanh 3,4 lần, đi đi lại lại mà không ngã. Kỵ đầu đội khăn đen, mình mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba. Can hai tay cầm hai cán cờ. Hai người đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không ngã. Khi thì Thượng Đát lấy một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên trên cây cao 17 thước 3 tấc, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 cái, tiến tiến lùi lùi điên đảo. Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng hình như cái lờ bắt cá, dài 5 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà lăn. Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, la hét kêu gào, chuyển động chân tay, vỗ đùi vỗ bụng, tiến lùi lên xuống, hoặc cưỡi ngựa bôn tẩu, cúi mình xuống lấy vật ở dưới đất mà không ngã. Khi thì Thượng Hiểm ngã mình nằm ngửa lấy thân đỡ một cái gậy dài rồi cho đứa trẻ trèo lên mà không rớt xuống. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Lại giết súc vật mà tế. Thần Xương Cuồng tới, thấy thế bèn đến xem, pháp sư đọc mật chú rồi lấy kiếm mà chém. Thần Xương Cuồng cùng bộ hạ đều chết hết, không thể trở lại thành yêu nữa. Lệ tiến lễ hàng năm bèn bỏ, dân lại sống yên lành như xưa.



    TRUYỆN NGƯ TINH

    Ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai cũng sợ. Đời thượng cổ có con cá dung mạo như người, đi tới bờ Đông Hải, sau biến thành người, biết nói năng, dần dần lớn lên, sinh ra nhiều con trai con gái, hay bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn. Lại có giống Đản Nhân sống ở một cái gò dưới bể, chuyên nghề bắt cá, sau cũng biến thành người, giao dịch với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường qua lại ở Đông Hải. Có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của nhân dân đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời. Tới nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào Hạng (ngõ Phật đào). Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỉ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy).



    Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thủy có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hỏa có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây ( mộc).

    Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ.


    Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc “Con Rồng cháu Tiên”, một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thủy phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc ( nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần Xương Cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của Xương Cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn-Đoài-Tốn-Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở với nhau lâu được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên nhau” (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thủy) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hỏa). Truyền thuyết kể tiếp: “ Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang”. Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly-Cấn-Chấn -Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn -Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.



    Trên Trung Thiên Đồ, Càn đứng ở phương Nam, Đoài ở phương Đông Nam, Tốn ở phương Đông, Khảm ở phương Đông Bắc, Ly phương Bắc, Cấn phương Tây Bắc, Chấn phương Tây, Khôn phương Tây Nam.



    Như vậy vị trí các quẻ trên Trung Thiên Đồ hoàn toàn trùng khít với các phương trên bản đồ hình thể Việt Nam: Càn ở phương Nam biểu hiệu cho phương Nam nước Việt với sức nóng nhiệt đới, Khôn (đất) ở Tây Nam phù hợp với vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long, Tốn (gió) ở phương Đông phù hợp với biển với gió mùa, Đoài (ao, đầm, phá) ở phương Đông Nam phù hợp với địa hình ao đầm do núi chạy ngang cắt các dòng sông, Ly ở phương Bắc chuyển qua ôn đới, Khảm (nước, hiểm trở) ở phương Đông Bắc, cửa ngỏ quân thù hay tấn công nước ta, Cấn (núi) ở Tây Bắc, núi rừng Tây Bắc, Chấn (trống, sấm) ở phương Tây phù hợp với Tây Nguyên cồng chiêng.



    Người Trung Hoa thường dùng Hậu Thiên Đồ, nhưng đồ này không phù hợp với địa thế của họ, Càn mà ở Tây Bắc, Khảm lại ở phía Bắc, vùng sa mạc, Cấn núi lại ở Đông Bắc, nơi biển cả, Chấn phương Đông không phù hợp, Khôn đất núi rừng, đồng bằng hẹp.



    Đặc biệt vị trí các quẻ trên Trung Thiên Đồ lại trùng hợp với vị trí các Luân Xa trên cơ thể con người.

    Theo trải nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền







    Trung Thiên đồ với 7 Luân xa





    Ngũ hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên.


    Còn một điểm đặc biệt nữa là có thể xem TrungThiên Đồ như một bản đồ mã hóa thuyết Tam độc và thuyết Tứ vô lượng tâm của nhà Phật.



    Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn tượng cho tính người tham lam muốn tích lũy như núi (Tham), quẻ Ly hỏa tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thủy tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu -Từ bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạtđược cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo).

    Độc thứ nhất là Tham, trên Trung Thiên Đồ tượng trưng bằng quẻ Cấn- Sơn, tức Luân Xa Đơn Điền Ngũ Hành Sơn.

    Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.” Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”



    Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một ngày kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.

    Thấy vậy, thương người tu hành, người làng đến biếu thầy một con mèo để đuổi bầy chuột. Từ khi có mèo, chuột hết cắn phá khố của thầy nhưng thầy lại phải lo thức ăn thêm cho mèo. Một phú nông trong làng có lòng liền biếu thầy một con bò để thầy vắt sữa nuôi mèo. Có bò có sữa rồi, thầy lại phải lo nuôi bò. Dân làng có lòng tốt lại biếu thầy một đám ruộng màu mỡ để thầy canh tác, có cỏ nuôi bò. Chẳng mấy lúc, được mùa, cả bò lẫn mèo đều sinh sản thêm, thầy phải nhờ dân làng phụ lực cày cấy. Không bao lâu, chốn thanh tịnh xưa kia trở thành một nông trại rộng lớn giàu có.

    Lúc ấy tiền bạc không thiếu, thầy mới có ý định phá bỏ chùa nghèo cũ, xây chùa mới. Bá tính mới nghe đã dốc lòng, ùn ùn góp công góp của cúng dường để lấy phước. Chẳng mấy chốc thầy đã xây dựng một ngôi chùa mới nguy nga tráng lệ, tường lớn, cửa cao, trong ngoài sơn son thếp vàng như chốn cung đình của Vua Chúa. Quá giàu, lại thêm đa đoan công việc, tính toán kinh doanh, đêm đêm thầy bù đầu với những con số thu chi, không còn dốc tâm cũng như không còn thời gian để tu học nữa. Thầy đã trở thành một nhà triệu phú, chỉ có bộ áo cà sa bên ngoài cho biết thầy là một tu sĩ.



    Một ngày kia sư phụ trở về. Mới đến rẻo đất cũ, vị sư phụ đã thất kinh rụng rời, hồn phi phách lạc. Người đâu còn thấy túp lều cỏ đơn sơ ngày xưa lúc mình ra đi. Trước mặt đã là một ngôi đền tráng lệ, khách thập phương lui tới chiêm bái. Ngựa xe dầy đặc, ồn ào không kém gì chốn phồn hoa trần tục. Thấy sư phụ chống gậy, tay nải trở về, thầy hân hoan ra đón, cặn kẽ trình bày lại những chuyện đổi thay tuần tự theo thời gian, hy vọng được sư phụ khen ngợi, xiễn dương công đức của thầy.



    Sư phụ nín lặng hồi lâu, rồi thở dài mà nói rằng:



    - Từ một cái khố rách chuột cắn, con đã lầm đường đi một bước quá xa đến cái lâu đài này, ngược với những điều gì ta đã dạy con tu học nhằm để giải thoát và giúp người giải thoát. Chùa lớn nguy nga thì phải lo tu bổ coi sóc, tín đồ đông thì ồn ào, hỗn tạp, được phước thì thời giờ đâu nữa mà tu học?!

    Chỉ vì một sự việc rất nhỏ mà đôi khi nó sẽ dấn đến những sự việc lớn bất ngờ mà chính bản thân ta cũng không ngờ tới. (Truyên cổ Phật Giáo)



    Bài học cuộc sống cho chúng ta là hãy biết dừng lại và cảm nhận, cảm nhận mục tiêu ban đầu và quãng đường ta đang đi, cảm nhận kết quả mà ta đã đạt…



    Độc thứ hai là Sân, trên Trung Thiên Đồ tượng bằng quẻ Ly - Hỏa tức Luân Xa Hỏa Xà.

    Đức Phật cũng đã chỉ dạy: “Sự sân giận là ngọn lửa thiêu đốt hết cả mọi công đức!”.

    "Cái hại của sân hận là phá hoại các pháp lành và cả danh thơm tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau người khác không thích thấy mặt người sân hận. Phải biết lòng sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải đề phòng không cho nó xâm nhập. Giặc cướp công đức không gì hơn giận dữ"(kinh Di Giáo).

    Sân hận như ngọn lửa, nếu không kiềm chế được thì càng lúc càng bừng cháy, con người mất lý trí trở nên thô lỗ cục cằn, thích bạo lực, họ muốn đập phá, hủy diệt đối tượng cho hả giận, dẫn đến tội ác, về sau đầu có muốn hối hận cũng không kịp.

    Bài học dưới đây cho thấy hậu quả đau thương của sự giận dữ:

    “800 năm về trước, trên đại thảo nguyên đã xuất hiện một đế quốc hùng mạnh, tương truyền miền đất rộng bát ngát khi đó, dùng ngựa loại tốt mà chạy từ đầu miền đông sang cuối miền tây cũng phải mất một năm. Bởi vì đế quốc này rộng lớn như biển, cho nên vị Đại Hãn kiến lập nên đế quốc này được gọi thành Thành Cát Tư Hãn, ý nói là “cũng giống như Vua Biển”

    Đại Hãn rất yêu quý một con chim ưng, khi ra ngoài săn bắn ông luôn mang chim ưng theo cùng, chú chim ưng này khi Đại Hãn vừa ra mệnh lệnh liền bay vào không trung tìm kiếm con mồi, nếu như nhìn thấy mục tiêu nó liền nhanh như tên bắn sà xuống quắp đi. Khi chinh chiến, trong thiên không nó chỉ dẫn phương hướng của quân địch cho Đại Hãn.

    Một ngày nọ, Đại Hãn và các tùy tùng thuộc hạ của ông đi săn, khi trên đường trở về, Đại Hãn lệnh cho các tùy tùng về trước, đợi khi mặt trời dần xuống, ông mới thuận theo một lối tắt mà trở về cung đình.

    Đi được một hồi, do khí trời mùa hè nóng nực, Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khát nước, muốn tìm nước uống, nhưng vì sức nóng của mặt trời đã khiến các khe suối liền mấy tháng trời đều khô cạn. Song ông biết ở phía trước có một dòng suối nhỏ chảy mãi không bao giờ cạn.

    Ông dựa vào trí nhớ, đi tìm rất lâu sau đó, cuối cùng đã tìm được dòng nước. Tuy nhiên, dòng nước nhỏ mỹ lệ bây giờ chảy nhỏ giọt từng giọt nhỏ, rất lâu mới tụ thành một giọt nước nhỏ xuống. Đại Hãn lấy một chén rượu từ trong túi ra, dùng chén rượu từ từ hứng dòng nước. Mất một đoạn thời gian thật lâu nước mới chảy đầy chén, cơn khát của Thành Cát Tư Hãn cơ hồ không đợi thêm được nữa, không dễ gì đợi cho nước chảy đầy chén. Ngay khi ông vừa muốn đưa chén nước nên môi thì đột nhiên trong không trung đưa đến dồn dập vù vù tiếng gió, con chim ưng yêu quý của Đại Hãn bay xông tới hất cái chén từ trong tay ông tuột rơi xuống đất, nước đổ hết ra ngoài.

    Thành Cát Tư Hãn hớt hải kinh ngạc, con chim ưng chuyển mình bay quay lại rất nhanh, sau đó nó đậu trên hòn đá bên dòng nước, ông không hiểu con chim ưng đang làm cái gì.

    Thành Cát Tư Hãn lại nhặt cái chén lên để hứng nước, lần này ông không muốn đợi quá lâu, nước vừa mới đầy một nửa chén ông đã nhấc chén lên, đưa gần lên môi chuẩn bị uống, liền ngay khi đó, chim ưng lại lao tới tấn công làm cái chén đổ lật ngược. Lần này Thành Cát Tư Hãn đã thật sự nổi giận, ông trừng mắt nhìn chim ưng và nói: “lần này là lần cuối cùng đấy, một lần nữa là mày sẽ phải trả giá cho những gì mày đã làm đấy!”

    Lại thêm một lần nữa, con chim ưng kia vẫn cứ xông đến hất đổ cái chén nằm lộn ngược. Một tiếng “Xoát!”, Thành Cát Tư Hãn rút cây kiếm vàng ra, chém đứt đầu con chim ưng rơi xuống rồi lạnh lùng nói: “Đấy là mày tự làm tự chịu nhận lấy!”

    Lần này Đại Hãn không muốn đợi thêm nữa, ông liền leo lên tảng đá, muốn trực tiếp tìm tới đầu nguồn uống cho bõ cơn khát, đúng lúc ông trèo lên tới đỉnh núi tìm thấy vũng nước nhỏ đầu nguồn. Mới vô cùng kinh ngạc, ngay giữa vũng nước đó nằm ngang nhiên xác một con rắn lớn cực độc, độc dịch đang chảy hòa vào dòng nước trong suốt.

    Thành Cát Tư Hãn chợt hiểu thông tất cả mọi thứ, hóa ra chim ưng là vì để cứu ông, mới hết lần này đến lần khác khua đổ chén nước. Ông hối hận vô cùng leo trở lại tảng đá, đau lòng bưng xác chim ưng lên thương tiếc, liền nói với chính mình: “hôm nay ta đã học được một điều, đó là:Đừng làm bất cứ điều gì khi giận dữ”.(theo Đại Kỷ Nguyên)



    Thành Cát Tư Hãn


    Độc thứ ba là Si.

    Si thường đi với mê, si mê, si dại. Si là trạng thái tâm hồn bị đối tượng cuốn hút như là mất hồn, con người như ngây như dại, lý trí không can thiệp được. Qua thơ Đinh Hùng ta thấy hình ảnh của một người khi đã trót si mê đối tượng thì họ đắm đuối, mù quáng, căn tính không còn, con đường dẫn họ đi đầy hố sâu vực thẳm:

    Những buổi đó, ta nhìn em kinh ngạc,
    Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly,
    Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ!
    Ta trông đó thấy trời ta mơ ước.
    Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước,
    Cả con đường sao mọc lúc ta đi,
    Cả chiều sương mây phủ lối ta về,
    Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ.

    Ta run sợ, cho yêu là mệnh số,
    Mặc tay em định hộ kiếp ngày sau.
    Vì người em có bao phép nhiệm mầu,
    Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc.
    Ta đặt em lên ngai thờ Nữ Sắc,
    Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da.
    Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa,
    Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết.
    Ôi cám dỗ! Cả mình em băng tuyết,
    Gợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân.
    Ta gần em, mê từng ngón bàn chân,
    Mắt nhắm lại, để lòng nguôi gió bão.
    Khi sùng bái, ta quỳ nâng nếp áo,
    Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm.
    Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm,


    Khi si mê sắc dục rồi con người cũng chẳng còn kể chi đến tính mạng:

    Ta sẽ chết! Sẽ vì em mà chết!
    (Đinh Hùng – Kỳ nữ)

    Câu Tiển bại trận, nô lệ Phù Sai, chịu nhiều khổ nhục để giữ nước. Khi được tha về, Câu Tiển lo chuẩn bị binh lương chờ ngày phục hận, đồng thời dâng Tây Thi cho Phù Sai, để mê hoặc Phù Sai. Trúng kế, Phù Sai mất nước, mất mạng chỉ vì si mê sắc dục.

    Tây Thi là con một người kiếm củi ở núi Trữ La. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây thôn, láng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông, má hồng mặt hoa, ánh rọi vào nhau chẳng khác gì hai đóa phù dung trên mặt nhánh. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đem một trăm nén vàng đến đón về, cho mặc đồ the lụa, ngồi xe có màn phủ.




    Tây Thi

    Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muống xem mặt tranh nhau ra ngoài cõi để đón, đường xá chật ních. Phạm Lãi để Tây Thi và Trịnh Đán ở quán xá rồi truyền dụ rằng ai muốn xem mặt mỹ nữ, phải nộp một đồng tiền. Chỉ trong một lúc mà tiền bỏ đầy quĩ. Hai mỹ nữ trèo lên trên lầu, đứng tựa vào bao lan, ở dưới trông lên, khác nào tiên nữ đứng trên không. Tây Thi và Trịnh Đán ở lại ngoài thành ba ngày, tiền thu được không biết bao nhiêu mà kể, đều nộp vào kho cả. Câu Tiễn cho hai mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một nhạc sư già dạy cho hát múa, khi nào thành nghề, sẽ đem sang tiến Phù Sai.

    Bấy giờ vua Việt là Câu Tiễn luyện tập mỹ nữ học múa hát trong ba năm, đã được điêu luyện, liền cho đeo hạt trai, ngồi xe ngọc, hương thơm ngào ngạt, có một bọn thị nữ rất đẹp theo hầu, rồi sai quan tướng quốc là Phạm Lãi đem sang nước Ngô tiến Phù Sai. Khi Phù Sai ở nước Tề về Ngô, Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy mà tâu rằng:
    - Kẻ bề tôi hèn ở Đông Hải là Câu Tiễn, cảm ơn Đại Vương, không thể cùng thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy có tìm khắp trong nước, được hai người khéo nghề múa hát, sai chúng tôi đem nộp vương cung, để giữ việc quét rửa.
    Phù Sai trông thấy, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn. Ngũ Viên can rằng:

    - Tôi nghe nói nhà Hạ mất vì nàng Muội Hỉ, nhà Ân mất vì nàng Đắt Kỷ, nhà Chu mất vì nàng Bao Tự. Mỹ nữ là một vật làm cho mất nước, chúa công chớ nên nhận.

    Phù Sai nói:

    - Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc. Câu Tiễn tìm được mỹ nữ mà chịu đem tiến ta, điều đó chứng tỏ Câu Tiễn một lòng trung thành với ta, quan tướng quốc chớ nghi.

    Rồi không nghe lời Ngũ Viên, Phù Sai nhận lễ cống của nước Việt. Hai người mỹ nhân đều tuyệt sắc. Phù Sai yêu cả hai, nhưng đẹp lộng lẫy và khéo nũng nịu thì Tây Thi có phần hơn, bởi vậy Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai, mỗi khi đi chơi đâu thì nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi, uất ức không nói ra được, hơn một năm thì chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và lập đền thờ cúng.

    Phù Sai yêu Tây Thi, sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp ? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để cho Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp. Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gảy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dải nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình. Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là Tiên Hạ Loan.

    Phù Sai từ khi được Tây Thi, cứ ở luôn luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì cả. Chỉ có quan thái tể là Bá Hi và Vương Tôn Hùng thường hay hầu ở bên cạnh. Mỗi khi Ngũ Viên xin yết kiến, Phù Sai vẫn từ chối không cho vào. Về sau còn buộc Ngũ Viên tự sát.

    Khi đã đủ điều kiện và thời cơ chín mùi Câu Tiển cất quân chiếm nước Ngô, Phù Sai xin hàng nhưng Câu Tiển không chấp thuận, Phù Sai phải tự cắt cổ.

    Phù Sai phải lâm vào cuộc thảm sát bi thảm chung quy cũng chỉ vì si mê Tây Thi bỏ bê việc nước nên phải nhận quả báo đắng cay như vậy.







    Càn Thiên= XẢ











    Đoài/ Trạch= HỈ Khôn/Địa= TỪ BI

    Chấn/Lôi=

    Tốn/Phong= ĐẠO TÂM

    NHỤC TÂM

    Khảm/ Thủy= SI Cấn/Sơn=THAM









    Ly/Hỏa= SÂN



    Đồ hình TRUNG THIÊN ĐỒ VÀ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM



    Để đối trị và hóa giải tam độc nhà Phật đề ra pháp Tứ vô lượng tâm. Tứ vô lượng tâm là 4 tâm vô lượng, vô lượng là không gì có thể đo lường được, không hạn mức. không phân biệt.

    Bốn tâm đó là Từ Bi Hỉ Xả.

    Từ là lòng nhân ái, Bi là biết thông cảm, chia xẻ nỗi đau của người khác, của đồng loại và rộng ra là của muôn loài. Đó chính là tình thương yêu bao dung của người mẹ, đem tấm lòng của người mẹ đối xử cứu độ muôn loài là tỏa ra một tình thương rộng khắp không bị hạn chế vì tham lam, sân hận, si dại mê lầm. Trung Thiên Đồ ký hiệu bằng quẻ Khôn, tượng cho mẹ, là luân xa Địa Mẫu.

    Hỉ là vui, vui với cái vui của người khác, không tranh chấp, không chèn ép, muốn hảm hại người khác để chiếm lợi ích cho mình, sẵn sàng tha thứ trước những mê lầm của người, lúc nào cũng mong muốn có sự an lạc, hạnh phúc cho mọi người. Trung Thiên Đồ ký hiệu bằng quẻ Đoài, đoài là vui, là hỉ.

    Xả, là buông bỏ, không chấp, vượt lên tất cả, không thiên vị, không phân biệt, xem mọi đối tượng đều bình đẳng, còn mở rộng tâm hồn liên thông với vũ trụ đạt đến trí huệ siêu đẳng hiểu biết mọi sự, mọi việc trong đời nên không bị ràng buộc với bất cứ tình huống nào. Trung Thiên Đồ ký hiệu bằng quẻ Càn/ Thiên, luân xa Thiên Môn có thể mở ra để giao hòa với vũ trụ.

    Muốn diệt tam độc nhất thiết phải phát huy tứ vô lượng tâm, nhưng thật ra rất khó vì mấy ai có thể đạt đến tâm không giới hạn, họa chăng chỉ có Đức Phật, các vị Bồ Tát, các vị đạt đạo, người thường phải luôn luôn cố gắng để đạt mức độ nào hay mức độ đó. Nhưng dẫu sao đối với tam độc tham, sân, si người có thiện tâm vẫn chế ngự được.










     
  3. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 2

    GIẢI MÃ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐỂ PHỤC DỰNG SẢN PHẨM VĂN HÓA PHI VẬT THỂ: MỘT CON ĐƯỜNG TÁI HIỆN DIỆN MẠO VÀ CỘI NGUỒN ĐÍCH THỰC CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT.





    Điều mà mỗi người và mọi người có thể làm được là đừng vội phủ nhận những chấm nhỏ đó và cũng đừng vội phủ nhận phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể trong nỗ lực tái hiện lại bức tranh diện mạo và cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt. Dưới điều kiện khắc nghiệt của địa dư và lịch sử làm cho những chứng tích vật thể mong manh khó có thể tồn tại, con đường phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thể có lẽ là con đường không thiếu khôn ngoan. Mỗi công trình có thể chỉ là một con kiến tí ti trong con mắt của những khoa học gia chính thống và dễ dàng bị cho “chìm xuồng” nhưng một khi số lượng kiến đã có thể kết nối nhau thành một bè kiến chuyên chở nổi sự thật về cội nguồn văn hóa Việt thì lúc đó kiến sẽ không còn là kiến. “


    Trung Thiên Đồ của Nguyễn Thiếu Dũng:
    Phục Dựng Từ Huyền Sử Việt

    Một trong những công trình nghiên cứu tâm đắc của Nguyễn Thiếu Dũng (NTD) là phát hiện Trung Thiên Đồ ẩn bên sau huyền sử Việt qua câu chuyện của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo ông Trung Thiên Đồ là chiếc chìa khóa để hiểu vì sao Kinh Dịch Chu Văn được sắp xếp theo thứ tự của nó như chúng ta biết cũng như để hiểu chính xác hơn về nội dung của kinh. Trong bài Trung Thiên Dịch Số tác giả NTD đã viết:

    Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. . . . Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẻ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn.”

    Như vậy Trung Thiên Đồ mà NTD đã bỏ công giải mã để phục dựng lại từ huyền sử Việt theo lời ông mô tả sẽ giống như hình H1 và H1B.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Từ hình H1B chúng ta dễ dàng nhận ra nó rất giống hình H2B, ngoại trừ chi tiết được khoanh trong vòng đỏ.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Hình H2B là một đồ hình phái sinh của Tiên Thiên Đồ H2 (Tiên Thiên Bát Quái). Bốn trục của Tiên Thiên Đồ H2 phân bố lại theo thứ tự ngược kim đồng hồ, liên tục, liền nhau và từ âm tới dương đã làm nên cấu trúc H2B. Khái niệm phân bố theo trục trong cấu trúc của H2B hoàn toàn khế hợp với khái niệm trục trong Việt Dịch của Hà Hưng Quốc. Và như Việt Dịch đã viết, bốn trục của Tiên Thiên Đồ đại diện cho 4 Tượng: tượng không gian Càn-Khôn, tượng năng lượng Khảm-Ly, tượng vật chất vô hình Tốn-Chấn, và tượng vật chất hữu hình Cấn-Đoài. Tuy tạm gọi H2B là Tiên Thiên Đồ Phái Sinh nhưng thực ra phải nói H2B chính là tiền thân của Tiên Thiên Đồ H2 thì đúng hơn vì nó mô tả 2 Động Lực (Âm Dương/ Lưỡng Nghi) và 4 Nguyên Tố (4 Trục/ Tứ Tượng) trước khi thể hiện thành 8 Quái (Bát Quái).

    Hình H1B khác với hình H2B ở chỗ là vị trí hai quái Cấn-Tốn trong hình H2B bị đảo ngược lại trong hình H1B. Do đó, tạo thành cặp Cấn-Chấn với 2 dương (+) và cặp Tốn-Đoài với 2 âm (-). Nói một cách khác là Trung Thiên Đồ H1B của NTD không chính xác tuân theo qui luật “xếp theo thứ tự ngược kim đồng hồ, liên tục, liền nhau và từ âm tới dương” như là H2B.

    Nếu như H1B hoàn toàn giống với hình H2B thì chúng ta có thể nói là NTD “có cơ sở” để gọi H1B là Trung Thiên Đồ vì nó thực sự là một đồ hình phái sinh của Tiên Thiên Đồ và có thể đứng làm trung gian nối kết Tiên Thiên Đồ với Hậu Thiên Đồ hoặc kết nối Đồ với Kinh. Nếu như Trung Thiên Đồ của NTD đúng là một trong những đồ hình phái sinh của Tiên Thiên Đồ và nếu như có thể chứng minh được đúng là nó đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thành lập 64 quẻ của Kinh Dịch Chu Văn thì phương pháp giải mã huyền sử Việt để phục dựng lại di sản văn hóa phi vật thể của Việt không phải là một phương pháp có thể dễ dàng bị gạt bỏ như nhiều người đã nghĩ. Không dễ gạt bỏ được vì một sản phẩm phi vật thể được phục dựng từ di sản phi vật thể không hẳn là một sản phẩm thiếu giá trị và cũng không phải là một sản phẩm lấy ra từ chiếc nón của ảo thuật gia. Không dễ gạt bỏ vì phương pháp giải mã để phục dựng lại một sản phẩm phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thể trong một công trình nghiên cứu không hẳn là thiếu sự nghiêm túc và thiếu tính khoa học.

    Khoa học nhân văn không giống như khoa học vật lý. Nó là khoa học mềm. Những nghiên cứu trong khoa học mềm có giá trị khoa học nằm ở chỗ “action grounded.” Mà những di sản văn hóa phi vật thể nói chung, và huyền sử Việt nói riêng, lại chính là kết tinh của tất cả “actions” của một dân tộc. Giải mã di sản văn hóa phi vật thể chính là “action grounded.” Mỗi bản phục dựng chính là công trình hình thành từ “action grounded theory.” Và nếu như bản phục dựng được “tested” và “hold water” thì bản phục dựng lẫn “theory” ẩn phía sau nó có thể được coi là có giá trị, cho đến khi ai đó có thể chứng minh ngược lại, và đến lúc đó thì chúng ta mới có thể gạt bỏ bản phục dựng đó vì nó đã thực sự bị mất giá trị chứ không phải vì xuất xứ của nó là sản phẩm được phục dựng từ di sản văn hóa phi vật thể hoặc vì phương pháp phục dựng nó là phương pháp mềm.

    Một vật thể rắn, thí dụ như một cục đá, nếu chạm vào một người có thể ra gây tổn thương thì người ta không thể không nghiêm túc công nhận giá trị thực dụng của cục đá đó. Một luồng âm thanh chạm vào một người có thể gây ra tổn thương thì người ta không thể không nghiêm túc công nhận giá trị thực dụng của luồng âm thanh đó. So với cục đá là một vật thể rắn, âm thanh tuy là “phi vật thể” hay “ảo” [so sánh tương đối] nhưng tác động của nó không ảo. Bản chất khoa học cứng và khoa học mềm cũng như thế. Phương pháp giải mãđể phục dựng lại một sản phẩm phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thểtuy có khác với phương pháp thử nghiệm vật thể trong phòng thí nghiệm để tái lập [phục dựng] kết quả của một công thức cho ra một loại vật thể ứng dụng vào công nghệ, nhưng không vì thế mà người ta có thể tự động kết luận hay vội vã kết luận phương pháp giải mã để phục dựng [tái lập] lại một sản phẩm phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thể là một phương pháp thiếu nghiêm túc hoặc phi khoa học

    Bên sau huyền thoại nào cũng có ẩn chứa sự thật hoặc đạo lý. Nếu không có sự thật hoặc đạo lý ẩn chứa bên trong, nó đã không theo dòng sống của một dân tộc suốt một thời gian dài tính bằng nhiều thiên niên kỷ. Hay nói một cách khác, nó đã không sống sót để trở thành huyền thoại. Nếu chúng ta cho rằng huyền thoại của dân tộc chỉ là huyền thoại không hơn không kém tức là chúng ta đã cho rằng tiền nhân bảo quản và truyền thừa huyền thoại cho chúng ta chỉ vì chúng đơn thuần là huyền thoại. Nói một cách khác không quanh co, nó có nghĩa là tiền nhân của chúng ta ngu si đến mức bảo quản mấy ngàn năm để giao lại những thứ “tầm phào” cho chúng ta. Có thật là vậy không? Có thật là tiền nhân chúng ta đần độn, ngớ ngẩn tới mức như vậy không? Hay là họ đã giao vào tay chúng ta một di sản văn hóa vô giá như NTD đã nói?

    Cá nhân HHQ tin là bên sau huyền thoại nào cũng có ẩn chứa sự thật và đạo lý. Vấn đề là chúng ta có đủ bản lãnh bóc được lớp vỏ huyền thoại để cho sự thật và đạo lý hiển lộ ra hay không mà thôi. Nếu chấp nhận tiền đề này thì chi tiết bất đồng giữa Trung Thiên Đồ H1B của NTD và Tiên Thiên Đồ Phái Sinh H2B đáng cho chúng ta phải quan tâm và điều tra tại sao có sự khác biệt này.

    Liệu là có một kết quả giải mã nào khác hơn là kết quả giải mã của NTD có thể giúp giải tỏa vướng mắc? Không quá khó để tìm ra đáp án! Sau khi rà soát lại luận giải của NTD, một vài điểm được phát hiện. Thứ nhất, NTD giải rằng Mộc Tinh (thần Xương Cuồng) thuộc quái Phong (Tốn) có tượng là Mộc. Nhưng căn cứ theo Việt Dịch Đồ của Việt Dịch thì hướng Đông Mộc gồm có hai quái Tốn Giáp và Cấn Ất. Tuy cùng là hành Mộc nhưng Tốn Giáp là hành Mộc của cây non còn Cấn Ất là hành Mộc của cây già. Bản chất của Mộc Tinh là cây Chiên Đàn ngàn tuổi nên Mộc Tinh phải được giải là hành Mộc của cây già thuộc quẻ Cấn tượng núi. Thứ hai, NTD giải rằng “lên Phong Châu là lên núi, ký hiệu là quẻ Cấn.” Trong luận giải này NTD đã đổi phương pháp giải mã từ chỗ nối kết với “chìa khóa chữ” (key word) qua chỗ nối kết với “phương hướng, địa hình” và từ chỗ nối kết trực tiếp qua chỗ nối kết gián tiếp. Nói một cách khác, nếu đã giải mã câu chuyện Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh thuộc quái Đoài, diệt Mộc Tinh thuộc quái Cấn, diệt Ngư Tinh thuộc quái Khảm thì lên Phong Châu phải là quái Tốn sẽ hợp lý hơn thay vì suy diễn Phong Châu ở hướng Tây trên núi để rồi dẫn tới quái Cấn. Thực ra thì NTD cũng đã giải Phong Châu là “quẻ Tốn” trong phần giải mã Mộc Tinh. Sử dụng danh xưng Phong Châu hai lần --lần trước thì giải là Gió Tốn còn lần này thì giải là Núi Cấn— cho hai nhóm khác nhau cũng là một trở ngại khác trong cách giải mã của NTD vì thiếu sự nhất quán. Nói tóm lại, lên Phong Châu nên được giải là quái Tốn tượng Gió.

    Kết quả giải mã trước đây của NTD sau khi được điều chỉnh lại như vừa trình bày có thể tóm gọn trong một đồ hình giống như H4 và H4B.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Với hình H4 và H4B chúng ta có thể thấy 4 cặp quái Khôn-Càn, Đoài-Cấn, Khảm-Ly, Tốn-Chấn xếp theo thứ tự ngược kim đồng hồ, liên tục, liền nhau và từ âm tới dương. Hay nói một cách khác, Trung Thiên Đồ H4B của NTD phục dựng (và sau khi được HHQ hoàn chỉnh) chính xác là một đồ hình phái sinh của Tiên Thiên Đồ như cho thấy trong hình H2B.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    NTD gọi đồ hình do ông phục dựng là Trung Thiên Đồ và cho nó là chìa khóa để giải thích thứ tự và nội dung của Kinh Dịch Chu Văn không phải là không có lý, vì Trung Thiên Đồ bản chất vốn không phải là một đồ hình nguyên sinh, như TTBQ hoặc HTBQ, mà là một đồ hình phái sinh của Tiên Thiên Đồ theo một qui luật thành lập cấu trúc rất chặt chẽ. Khác với Tiên Thiên Đồ là một mô hình (a model) mô tả khởi nguyên của vũ trụ cùng qui luật vận hành vật lý và Hậu Thiên Việt Dịch Đồ là một mô hình (a model) mô tả thế giới hậu thiên vi diệu sinh hoá cùng qui luật vận hành sinh hóa, Trung Thiên Đồ bản chất là một bản đồ (a directive map/ relational map) chứa đựng thông tin nối kết giữa Đồ với Kinh.

    Trung Thiên Đồ của NTD có phải là một sản phẩm lấy ra từ chiếc nón của ảo thuật gia? Hay nó là một sản phẩm nằm trong một hệ thống văn hóa phi vật thể và tự thân cũng đã mang tính hệ thống? Chính xác thì Trung Thiên Đồ của NTD nối kết Đồ nào với Kinh nào? Những câu hỏi này buộc chúng ta phải khảo sát lại tất cả những Kinh Dịch và Đồ Dịch để tìm đáp án.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Toàn bộ Kinh Dịch Chu Văn bản phổ thông được sắp xếp theo thứ tự như trong hình H5. Thượng kinh mở đầu với hai quẻ thuần Càn, thuần Khôn (quẻ thứ 1, 2) và kết thúc với hai quẻ thuần Khảm thuần Ly (quẻ thứ 29, 30). Hạ kinh mở đầu với hai quẻ Đoài-Cấn Trạch Sơn Hàm, Chấn-Tốn Lôi Phong Hằng (quẻ thứ 31, 32) và kết thúc với hai quẻ Khảm-Ly Thủy Hỏa Ký Tế, Ly-Khảm Hỏa Thủy Vị Tế (quẻ thứ 63, 64).

    Tuy là những quẻ mở đầu và kết thúc ở thượng kinh và hạ kinh có phần gắn kết với Trung Thiên Đồ của NTD như ông đã chỉ ra, nhưng sự gắn kết này vẫn không đủ sức thuyết phục vì rõ ràng là thiếu chặt chẽ và không xuyên suốt 64 quẻ. Càng nhìn sâu vào tổng thể chúng ta sẽ càng dễ cảm nhận ra sự sắp xếp tùy tiện và hỗn độn của Kinh Dịch Chu Văn bản phổ thông.

    Đưa ra nhận xét Kinh Dịch Chu Văn bản phổ thông bị “sắp xếp một cách tùy tiện và hỗn độn” có lẽ sẽ gây dị ứng đối với nhiều người. Nhưng những khảo sát tiếp theo sau sẽ cung cấp chứng cứ khách quan cho nhận xét trên.

    Kinh Dịch Phục Hy thành lập do sự chồng quái của Tiên Thiên Đồ. Nhưng nói như thế thì vẫn chưa nói đúng bản chất của nó. Phải nói cho chính xác là do Tiên Thiên Đồ ráp với Tiên Thiên Đồ mà hình thành 64 quẻ theo thứ tự và qui trình đó được tiến hành như sau:

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    1. Trước tiên là nội quái Khôn của Tiên Thiên Đồ A (TTBQ_A) ráp với ngoại quái Khôn của Tiên Thiên Đồ B (TTBQ_B), hình thành quẻ Thuần Khôn (quẻ số 0 thập phân, quẻ 000000 nhị phân). Sau đó TTBQ_B chuyển động, ngoại quái chuyển dịch từ quái Khôn qua Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn tức là chuyển dịch theo quỷ đạo hình chữ S, cũng là chuyển dịch theo thứ tự số nhị phân từ 000 tới 111 (số thập phân là từ 0 tới 7). Như vậy nội quái Khôn bất dịch còn ngoại quái biến dịch, theo đó thứ tự thành lập 8 quẻ, từ quẻ 0 tới quẻ 7, như sau:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    1. Kế tiếp, ngoại quái Khôn của TTBQ_B ráp với nội quái Cấn của TTBQ_A. Sau đó ngoại quái cũng chuyển dịch từ Khôn qua Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn. Như vậy, nội quái Cấn của TTBQ_A bất dịch còn ngoại quái biến dịch thứ tự thành lập 8 quẻ, từ quẻ 8 tới quẻ 15, như sau:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    1. Lập lại qui trình trên, TTBQ_B tiếp tục ráp với nội quái Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn theo thứ tự hình thành quẻ số 16 cho tới quẻ cuối số 63 là quẻ Thuần Càn. Và toàn bộ Kinh Dịch Phục Hy được tóm gọn trong hình H9.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Đặc tính của toàn bộ sự vận động mà chúng ta nhìn thấy được là “nội tịnh ngoại động” hay chính xác hơn là nội Tiên Thiên Đồ (TTBQ_A) thì tịnh còn ngoại Tiên Thiên Đồ (TTBQ_B) thì động, đúng theo nguyên lý âm dương “nhất tịnh nhất động chi vị đạo.” Tịnh và động ở đây chỉ là sự so sánh tương đối chứ kỳ thực cả hai đều cùng chuyển động chỉ khác ở chỗ nội TTBQ_A chuyển động rất chậm (tỉ lệ 1:8) so với ngoại TTBQ_B cho nên nói là “nội tịnh ngoại động.”


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Nếu xếp 32 quẻ thượng kinh, từ quẻ số 63 xuống quẻ số 32, và 32 quẻ hạ kinh, từ quẻ số 0 lên tới quẻ số 31, thì chúng ta có được một vòng tròn như trong hình H10. Hình vòng tròn này là biểu trưng của một nguyên lý thể hiện thành mặt đối lập, cùng một nguyên lý với cách phân bố các đơn quái trong tiến trình thành lập Tiên Thiên Đồ đã được trình bày trong Việt Dịch của Hà Hưng Quốc. Tuy hai nửa đối lập nhau, nửa bên trái từ trên xuống và nửa bên phải từ dưới lên, nhưng cả hai lại được vận hành bởi cùng một động lực chiều ngược kim đồng hồ.

    Còn nếu xếp theo thứ tự liên tục từ quẻ số 0 tới quẻ số 63 mà vẫn thể hiện hai mặt âm dương đối lập thì chúng ta có được một chữ S như trong hình H11 hoặc một Lưỡng Nghi như trong hình H12. Chưa thấy ai xếp Kinh Dịch Phục Hy như hình H11 và H12 như HHQ đã trình bày ở đây. Giá trị của hai hình này, đặc biệt là H12, thể hiện lý thuyết âm dương rõ rệt hơn hết và đúng với nội dung hình thành Tiên Thiên Đồ được trình bày trong cuốn Việt Dịch của Hà Hưng Quốc.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link



    Như chúng ta đã thấy, Kinh Dịch Phục Hy được sắp xếp rất mạch lạc theo một qui trình rất chặt chẽ. Và trong tiến trình từ Tiên Thiên Đồ Dịch tới Phục Hy Kinh Dịch, chúng ta không thấy bóng dáng Trung Thiên Đồ của NTD.

    Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Dương Đôi được sắp xếp như trong hình H13. Thứ tự của 64 quẻ trong bản Mã Vương Đôi hoàn toàn khác với thứ tự 64 quẻ trong bản phổ thông, mặc dầu cả hai cùng là Kinh Dịch Chu Văn.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Quan sát toàn bộ kinh, đặc biệt là 8 quẻ đầu, từ thứ 1 tới thứ 8, và 8 quẻ cuối, từ thứ 57 cho tới thứ 64, chúng ta dễ dàng nhận ra qui luật thành lập thứ tự của 64 quẻ và qui luật đó như sau:
    1. Nội quái chuyển dịch nhanh theo thứ tự Càn, Khôn, Cấn, Đoài, Khảm, Ly, Chấn, Tốn. Ngoại quái chuyển dịch chậm (tỉ lệ 1:8) theo thứ tự Càn, Cấn, Khảm, Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn.
    2. Trước tiên nội quái Càn ráp với ngoại quái Càn. Nội quái dịch chuyển từ Càn sang Khôn và đi hết một vòng tới Tốn. Khi nội quái trở lại Càn thì ngoại quái chuyển qua Cấn. Nội quái lại dịch chuyển từ Càn sang Khôn và đi hết một vòng tới Tốn. Khi nội quái trở lại Càn thì ngoại quái lại chuyển qua Khảm. Cơ trình cứ lập lại như thế cho đến khi ngoại quái đi hết một vòng tới Tốn và nội quái đi hết vòng cuối cùng chấm dứt tại Tốn.
    3. Sau đó tất cả các trùng quái được chuyển vị ra đầu dòng lề trái.

    Cũng giống như nhưng ngược lại với Kinh Dịch Phục Hy, đặc tính của toàn bộ sự vận động mà chúng ta nhìn thấy được là “nội động ngoại tịnh” đúng theo nguyên lý âm dương “nhất tịnh nhất động chi vị đạo.” Tịnh và động ở đây chỉ là sự so sánh tương đối chứ kỳ thực cả hai đều cùng chuyển động chỉ khác ở chỗ nội chuyển động nhanh (tỉ lệ 8:1) so với ngoại cho nên nói là “nội động ngoại tịnh.”

    Từ những quan sát trên chúng ta có thể phục dựng lại hai đồ hình đã tương tác nhau để thành lập 64 quẻ của Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi. Và kết quả được tóm lược trong hình H14.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Nhìn vào H14, một lần nữa chúng ta lại bắt gặp ở đây cấu trúc theo khái niệm trục. Bốn trục Càn-Khôn, Cấn- Đoài, Khảm-Ly, Chấn-Tốn xếp theo thứ tự ngược kim đồng hồ, liên tục, liền nhau và từ dương tới âm làm nên cấu trúc của Đồ Hình B. Để làm nổi bật bản chất của nó, Đồ Hình B được vẽ lại theo dạng vuông như cho thấy trong hình H15.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link



    Từ H15 chúng ta dễ dàng nhận ra là nó rất giống với H2A, ngoại trừ chi tiết khoanh trong vòng đỏ. Đồ Hình H2A, cũng giống như Đồ Hình H2B đã thấy qua, là một đồ hình phái sinh khác (trong số 4 đồ hình phái sinh) của Tiên Thiên Đồ H2. Nó được hình thành bằng cách xếp lại 4 trục Càn-Khôn, Cấn- Đoài, Khảm-Ly, Chấn-Tốn của Tiên Thiên Đồ theo thứ tự ngược kim đồng hồ, liên tục, liền nhau và từ dương tới âm.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    So sánh H15 với H2A chúng ta cũng sẽ dễ dàng nhận ra là trong hình H15 trục Khảm-Ly bị đảo ngược. Dựa vào bố cục chặt chẽ và liên hệ mật thiết của H2A và H15, chúng ta có cơ sở để kết luận là trục Khảm Ly trong Đồ Hình H15 đã bị lỗi và cần phải điều chỉnh lại. Như vậy, H15 sẽ thành ra H15A. Nói cách khác, Đồ Hình H15A cũng là Đồ Hình H2A và cũng là đồ hình phái sinh của Tiên Thiên Đồ. Theo cách gọi của NTD, đồ hình H15A chính là một Trung Thiên Đồ.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Như chúng ta đã thấy, cũng giống như Kinh Dịch Phục Hy, Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi được sắp xếp rất mạch lạc theo một qui trình rất chặt chẽ. Dầu là những đồ hình lẫn qui trình thiết lập 64 quẻ của hai bộ kinh có khác nhau, nhưng cả hai đều giống nhau ở chỗ mạch lạc, nhất quán và xuyên suốt. Đặc tính này, khi đem ra đối chiếu, làm cho nổi cộm “sự sắp xếp tùy tiện và hỗn độn” của Kinh Dịch Chu Văn bản phổ thông.

    Và trong tiến trình khám phá Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi, chúng ta thấy hiển hiện Trung Thiên Đồ của NTD. Tuy nhiên, Trung Thiên Đồ trong Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi (H15A = H2A) không hoàn toàn giống với Trung Thiên Đồ của NTD (H4B = H2B). Điểm khác biệt duy nhất là Trung Thiên Đồ của NTD thì theo thứ tự âm trước dương sau còn Trung Thiên Đồ trong Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi thì ngược lại dương trước âm sau.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Tại sao có sự khác biệt này? Một trong những giải thích, theo ý kiến của HHQ, là vì qui luật âm dương của Trung Thiên Đồ đã bị cải biến theo quan niệm Càn trước Khôn sau, dương trước âm sau, từ dương tới âm. Quan niệm này là dấu ấn bản sắc của xã hội Tàu luôn luôn trọng dương khinh âm, trọng nam khinh nữ. Do đó, qui luật âm dương trong Trung Thiên Đồ do người Tàu phỏng tác đã hoàn toàn ngược với qui luật âm dương trong bản gốc do người Việt trước tác. Tuy công việc phỏng tác có tính cách hệ thống nhưng người làm công việc này không nhất thiết đã nhìn thấy Trung Thiên Đồ ẩn trong Kinh Dịch hoặc phải hiểu rõ qui luật thiết lập cấu trúc của Trung Thiên Đồ, vì chỉ cần đảo ngược vị trí (Khôn về Càn và Càn về Khôn, vân vân) của các nội quái trong 64 quẻ là xong. Về sau, có lẽ vì thói quen vần điệu cho nên hai quái trên trục Ly-Khảm bị đảo ngược thành Khảm-Ly (từ trước đến nay HHQ vẫn quen miệng nói “Càn-Khôn, Cấn-Đoài, Khảm-Ly, Chấn-Tốn” thay vì nói “Càn-Khôn, Cấn-Đoài, Ly-Khảm, Chấn-Tốn” hoặc “Khôn-Càn, Đoài-Cấn, Ly-Khảm, Tốn-Chấn.” Quá trình trên đã làm cho Trung Thiên Đồ bản gốc H4B (như NTD đã giải mã) biến thành H15A (ẩn trong trong Kinh Dịch bản Mã Vương Đôi).

    Trở lại với hình H14, nhìn vào Đồ Hình A chúng ta sẽ nhận ra nó là một biến thể của Tiên Thiên Đồ. Đồ Hình A khác với Tiên Thiên Đồ ở chỗ hai trục bàng Chấn-Tốn và Cấn-Đoài đã hoán vị cho nhau (mỗi trục xoay 90 độ ngược chiều kim đồng hồ chiếm vị trí của nhau). Đồ Hình A cũng liên hệ mật thiết với Đồ Hình B. Đem 4 trục trong Đồ Hình A xếp theo chiều kim đồng hồ, liên tục liền nhau, dương trước âm sau sẽ cho ra Đồ Hình B. Hoặc từ Đồ Hình B theo chiều ngược kim đồng hồ triển khai ngược lại và xếp các 4 trục theo chiều kim đồng hồ, liên tục liền nhau sẽ cho ra Đồ Hình A. Điều này có nghĩa là Đồ Hình B có thể đã phái sinh ra Đồ Hình A và cũng có thể là được phái sinh từ Đồ Hình A.

    Vậy thì, B sinh A (trường hợp 1) hay là A sinh B (trường hợp 2)? Hay sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên (trường hợp 3)?

    Trường Hợp 1: Nếu B sinh A thì chúng ta có thể thấy được một chuỗi kết nối rất trật tự và rõ ràng. Đó là, từ Tiên Thiên Đồ dẫn tới Trung Thiên Đồ bản gốc, dẫn tới Trung Thiên Đồ bản phỏng tác, dẫn đến Trung Thiên Đồ bản Mã Vương Đôi (bị lỗi tại Khảm-Ly), dẫn tới Hậu Thiên Đồ bản Mã Vương Đôi, và cuối cùng dẫn tới Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi. Và chúng ta có thể gọi Đồ Hình A trong H14 là một Hậu Thiên Đồ (chưa xét tới đúng sai và có phải là đồ hình gốc hay không). Điều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ dễ dàng trả lời những câu hỏi như Trung Thiên Đồ bản Mã Vương Đôi và Hậu Thiên Đồ bản Mã Vương Đôi từ đâu mà có hoặc chúng tương tác với nhau như thế nào để hình thành cấu trúc của Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi.

    Trường Hợp 2: Ngược lại, nếu A sinh B thì mọi luận giải vừa qua có lẽ cần điều chỉnh vì giả thuyết Trung Thiên Đồ là đồ hình phái sinh trực tiếp từ Tiên Thiên Đồ phải đổi lại là phái sinh gián tiếp từ Tiên Thiên Đồ thông qua đồ hình B.

    Trường Hợp 3: Nếu là sự trùng hợp ngẫu nhiên thì mọi luận giải vừa qua vẫn hợp lý và chúng ta chỉ cần bỏ giả thuyết cuối cùng trong luận giải vì A chẳng sinh B và ngược lại.

    Với những qui luật giúp hình thành cấu trúc của Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi, với tính hệ thống trong cấu trúc của Kinh Dịch bản Mã Vương Đôi, với sự có mặt xuyên suốt chiều dài thời gian của Tiên Thiên Đồ nguyên thủy và là nguồn gốc duy nhất có thể truy cập ngược về được từ Kinh Dịch Mã Vương Đôi, và với khám phá của Trung Thiên Đồ của NTD, trường hợp 1 có thể nói là cho chúng ta một sự giải thích hợp lý nhất về quá trình hình thành của Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi.

    Một điều đặc biệt, thiết tưởng cũng nên mở ngoặc để nhắc đến ở đây, là chúng ta hoàn toàn không thấy bóng dáng Hậu Thiên Bát Quái của Chu Văn Vương trong tất cả những bản Kinh Dịch đã khảo cứu qua. Nếu nó không có mặt trong toàn bộ hệ thống những Kinh Dịch, đặc biệt là trong Chu Dịch, và cũng không có một lời giải thích hợp lý trong suốt thời gian từ khi nó xuất hiện cho đến nay thì chúng ta chỉ có thể đi đến một kết luận: nó là một sản phẩm “lấy ra từ chiếc nón của ảo thuật gia” và nó được Made-In-China. Một cách nghiêm túc hơn, có lẽ Hậu Thiên Đồ ẩn trong Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi mới đích thực là một đồ hình mà Chu Văn Vương (hoặc ai đó mượn danh) muốn khám phá. Còn cái gọi là Hậu Thiên Bát Quái của Chu Văn Vương mà chúng ta biết ngày nay có thể chỉ là một sản phẩm “tôi-nghĩ-nó-như-thế-này” còn lưu lại trong quá trình tìm tòi, mò mẫm (của ai đó) mà vẫn chưa thực sự khám phá ra được những đồ hình ẩn bên trong Kinh Dịch Chu Văn.

    Đúng như Nguyễn Thiếu Dũng đã nói, Trung Thiên Đồ là chìa khoá để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Kinh Dịch Chu Văn. Với chuỗi giải trình vừa qua, chúng ta đã có thể nhìn thấy toàn bộ cấu trúc của Kinh Dịch Chu Văn bản Mã Vương Đôi được cấu tạo như thế nào, đã có thể giải thích nguồn gốc của những đồ hình trong Kinh Dịch bản Mã Vương Đôi, đã nhận ra sự “tùy tiện và hỗn độn” trong bố cục của Kinh Dịch Chu Văn bản phổ thông cùng mức độ “tam sao thất bổn” của nó. Trung Thiên Đồ do NTD phục dựng lại từ huyền sử Việt không phải là một sản phẩm không giá trị. Càng chắc chắn hơn nó không phải là một sản phẩm “lấy ra từ chiếc nón của ảo thuật gia” như là Hậu Thiên Đồ của Chu Văn Vương.


    Nguyễn Thiếu Dũng đã đào xới bên dưới lớp mặt bằng di sản văn hoá phi vật thể của Việt và dùng phương pháp giải mã để phục dựng lại một sản phẩm văn hóa phi vật thể và cho cái “arte factum” phi vật thể này “xuất thổ” để góp phần vào sự tái hiện diện mạo lịch sử văn học Việt của một thời hoàng kim. Nhờ có NTD cho xuất thổ “artifact phi vật thể” Trung Thiên Đồ mà HHQ mới có đầu mối để khảo sát và cho ra bài viết này, và bài viết này lại góp phần vào nỗ lực tái hiện diện mạo đó. Mỗi một đóng góp, dầu là một phần rất nhỏ trong tiến trình và dầu là có chỗ thiếu sót, tự việc làm đó đã là có giá trị. Và chính cái đúng của NTD về Trung Thiên Đồ và vai trò của nó đối với Kinh Dịch Chu Văn, như đã được giải trình trong bài viết này, đã bảo chứng cho giá trị của Trung Thiên Đồ cũng như sự hữu ích của phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng một sản phẩm văn hóa phi vật thể. Nói một cách khác, phương pháp giải mã lẫn Trung Thiên Đồ của NTD có giá trị của riêng của nó và không thể dễ dàng bị gạt bỏ dưới danh nghĩa của cụm từ “thiếu khoa học” hoặc thiếu nghiêm túc.
     
  4. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 2

    Hậu Thiên Đồ Của Trần Quang Bình: Phục Dựng Từ Huyền Thoại Việt và Phối Kiểm Qua Toán Học
    Không phải chỉ có một Nguyễn Thiếu Dũng can đảm sử dụng phương pháp giải mã di sản phi vật thể để phục dựng một sản phẩm phi vật thể nhằm chứng minh cội nguồn Việt của Kinh Dịch. Trần Quang Bình cũng đã sử dụng phương pháp này để phục dựng lại Hậu Thiên Bát Quái của Việt. Trong cuốn Kinh Dịch, Sản Phẩm Sáng Tạo Của Nền Văn Hiến Âu LạcTQB đã giải mã huyền thoại nữ oa lấy đá vá trời như sau:
    Vào thời Hiên Viên; thần nước Cộng Công (gong=khảm) đánh nhau với thần lửa Chúc Dong. Cộng Công thua trận; húc đầu vào núi Bất Chu; khiến cột trời đổ gẫy. Trời nghiêng về phía Tây Bắc; đất lệch về phía Đông Nam. Nước từ trên trời đổ xuống gây ngập lụt ở khắp nơi. Bà Nữ Oa đốt cỏ Lư thành tro ngăn nước lụt; lấy đá ngũ sắc dưới biển vá trời. Sau đó bắt con rùa lớn đứng đội trời lên. Từ đó; cuộc sống trở lại yên bình.

    Ta có:
    a. thần nước Cộng Công húc đầu vào núi Bất Chu: kết quả là Cộng Công (gong gong=Thuần Khảm) phải gần Núi=Cấn.
    b. Trời nghiêng về hướng Tây Bắc: Càn-Tây Bắc.
    c. đất lệch về phía Đông Nam: Khôn-ĐôngNam.
    d. Nước từ trên trời đổ xuống gây ngập lụt ở khắp nơi. Vậy nước cũng gần Trời. Nếu sắp xếp Trời Tây Bắc, Nước Chính Tây và Núi Tây Nam (do a, b, d mang lại) thì ta thấy e và f không thể lý giải nổi. Vậy Trời Tây Bắc, Nước Chính Bắc và Núi Đông Bắc. Ngoài ra chỉ cần quan sát bình thường thì thấy câu Nước từ trên Trời đổ xuống có nghĩa Nước phải cao hơn Trời vì như thế mới đi qua Trời mà đổ xuống được.
    e. Bà Nữ Oa đốt cỏ Lư: Bà Nữ Oa là Khôn đốt cỏ Lư=đốt (ly) cỏ Lư (Ly)=Thuần Ly ngăn nước lụt từ Trời đổ xuống. Vậy Ly bên tay trái của Khôn. Suy ra Ly=chính Nam.
    f. thành tro ngăn nước lụt : Ly ở chính Nam ngăn được nước lụt rồi thì nước lụt sẽ nằm ở đâu? Ở đây vấn đề là ngăn nước lụt chứ không phải là tiêu thủy. Vâng, rất đơn giản Nước lụt sẽ tụ lại thành vũng ở gần Ly. Hay ở phía Tây Nam. Tro ngăn nước lụt thì chỉ tạo ra những đầm lầy sền sệt và có nhiều bùn (tro bùn). Như vậy, Đoài chính là Đầm nằm ở phía Tây Nam cạnh Ly Chính Nam. Cỏ Lư chắc có thể là biến âm của cỏ lau hay mọc ở gần ao, hồ, đầm.
    g. lấy đá ngũ sắc dưới biển vá trời: Biển kể cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều là phía Đông. Tức khẳng định phía Đông nằm bên tay phải của bà Nữ Oa hay Khôn. Và cũng khẳng định thêm Ly ở bên trái Khôn là chính xác.


    Từ những lý giải trên ta nhận được phương vị của 6 quái Hậu Thiên. Thế nhưng tại sao là 6 chứ không phải là 8? Đấy cũng chính là triết lý của Kinh Dịch Việt Nam; bát quái hậu thiên được dựng từ 8 quái nhưng linh hồn là 6 trùng quái bất dịch (bằng chứng hiển hiện của trùng quái là Cộng Công=gong gong=Thuần Khảm, và đốt cỏ (lửa=Ly) Lư (Lửa=Ly)=Thuần Ly). Ở phương vị chính Tây phải là quái kết hợp với Đoài để tạo ra trùng quái bất dịch và tương tự như ở chính Đông. Vậy chúng ta nhận được Tốn chính Tây và Chấn chính Đông. Chúng ta đã giải mã ra một bát quái Hậu Thiên từ truyện trên. Nó hoàn toàn trùng với Bát Quái Âu Lạc trên trống đồng cũng như được xây dựng lại từ Toán học.”

    Kết quả giải mã của TQB có thể tóm lược lại trong đồ hình H21. So sánh Hậu Thiên Đồ H21 của TQB với Hậu Thiên Đồ H22 của Việt Dịch (tác giả HHQ) thì chúng ta dễ dàng nhận ra là hai hình rất giống nhau, ngoại trừ hai quái trên trục Tốn-Chấn là ngược nhau. Chỉ cần hoán vị một trong hai thì hai đồ hình trở thành một.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Đã tương đồng với nhau tới mức độ đó tức là kết quả giải mã huyền thoại của TQB và kết quả giải mã 67 lời bí nhiệm trong hai vế “Thái cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng . . .càn khôn vạn vật” và “Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành chi . . .” trong Việt Dịch của HHQ đã gặp nhau và củng cố cho giả thuyết một Hậu Thiên Đồ nguyên thủy của Việt là có thật và nó phải giống một trong hai hình trên, H21 hoặc H22. Câu hỏi là hình nào chính xác hơn?

    TQB khẳng định trong tất cả tổng hợp (combinations) của 8 quái thành lập đồ hình mà ông đã dùng lập trình toán học để rà soát thì Hậu Thiên Bát Quái Âu Lạc là đồ hình duy nhất đạt tới 8 chiều đối xứng cao nhất. HHQ tin rằng TQB nói đúng nhưng đồng thời cũng tin rằng Hậu Thiên Đồ của Việt Dịch cũng đạt tới tầng mức tương xứng với Hậu Thiên Bát Quái Âu Lạc.

    Nói một cách công bình thì tuy cả hai đều là sản phẩm phục dựng từ di sản văn hóa phi vật thể, nhưng Hậu Thiên Đồ của Việt Dịch có cả một chiều dầy hổ trợ. HHQ đã chứng minh trong nhiều công trình là Hậu Thiên Đồ của Việt Dịch đã “stood all the tests.” Nói một cách thẳng thắn: nó chưa từng bị kẹt khi phối hợp với những lý thuyết khác để làm thành một tổng thể với các đặc tính xuyên suốt, liên tục, nhất quán, bền vững . . . và dĩ nhiên trong đó có khả năng tiên đoán. Đặc biệt là nó đã giúp để giải thích thỏa đáng những nghi vấn/ bí ẩn chưa từng được giải thích và chưa từng nghe nói tới trong suốt bao thế kỷ. Thí dụ như đã giúp giải mã những bí ẩn trong Tử Vi, trong Lục Thập Hoa Giáp, trong Ngũ Hành Nạp Âm, trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống.

    Liệu là có một kết quả giải mã nào khác hơn là kết quả giải mã của TQB có thể giúp giải tỏa những vướng mắc? Câu hỏi này buộc chúng ta phải rà soát lại để tìm đáp án.

    Trong phần giải mã Tốn-Khôn, TQB chỉ cung cấp một dòng ngắn ngủi là “vậy chúng ta nhận được Tốn chính Tây và Chấn chính Đông” ngoài ra không có giải thích nào khác cho biết tại sao Tốn ở hướng Tây và Chấn ở hướng Đông. Đây là sự khinh xuất đáng tiếc!

    Theo HHQ thì vị trí của hai quái trên trục Tốn-Chấn nằm trong câu nói “lấy đá ngũ sắc dưới biển vá trời.” Sau khi vị trí của 6 quái trên 3 trục Khôn-Càn, Khảm-Ly, Đoài-Cấn đã được xác định thì: (a) “lấy đá ngũ sắc dưới biển” có nghĩa là “dụng Cấn và ngũ hành hướng Đông” để (b) “” có nghĩa là “lấp vào chỗ bỏ trống” và (c) “Trời” có nghĩa là “sâu nhiệm, thần kỳ” cũng có nghĩa là “Bát Quái Hậu Thiên Đồ = Đồ Dịch = Dịch = Đạo Dịch.” Như vậy thì toàn câu có nghĩa là: lấy Cấn làm mốc, dụng ngũ hành hướng Đông để tìm ra quái lấp vào chỗ trống của Đồ Dịch. Ngũ hành của hướng chính Đông chính là Đông Mộc thuộc quái Tốn. Và khi đã xác định được Tốn ở hướng chính Đông nằm cạnh mốc Cấn thì chỗ trống còn lại ở hướng đối diện là dành cho quái Chấn hành Kim phương Tây.

    Liệu kết giải mã này có hợp lý hay không? Rất hợp lý! Chỉ nói riêng về bát quái, trong cấu trúc và phân bố các quái của Tiên Thiên Đồ thì Càn, Đoài, Ly, Chấn thuộc một nhóm (số thập phân là 7,6,5,4 và số nhị phân là 111, 110, 101, 100) còn Khôn, Cấn, Khảm, Tốn thì thuộc nhóm đối xứng (số thập phân là 0, 1, 2, 3 và số nhị phân là 000, 001, 010, 011). Và trong kết quả giải mã này thì chúng cũng nằm đúng nhóm của mình dầu là vị trí các quái có thay đổi. Nếu đem kết hợp với ngũ hành thì vị trí của Tốn, Chấn được xác định trong Việt Dịch Đồ của Việt Dịch và đã được giải thích rất nhiều trong cuốn Việt Dịch của HHQ. Chúng ta có thể tìm đọc để phối kiểm.

    Còn hai câu cuối cùng có lẽ là quan trọng hơn hết về mặt xác định Hậu Thiên Đồ là của Việt. Đó là câu “Sau đó bắt con rùa lớn đứng đội Trời lên.” Giải mã câu này thì nó có ý nghĩa là “Hậu Thiên Đồ Dịch nằm trên lưng con qui.” Như đã nói Trời đây không phải là Ông Trời cũng không phải là quái Càn. Trời đây là một tổng thể chứa đựng sự thần kỳ sâu nhiệm. Tổng thể đó là Hậu Thiên Bát Quái Đồ, là Đồ Dịch và sự sâu nhiệm của nó là Dịch, là Đạo Dịch. Và Đồ Dịch này nằm trên lưng qui. Cụm chữ “bắt con rùa” cho thấy con rùa tự thân chỉ là một con vật bình thường không có gì đáng để gọi là “thần.” Nó chỉ đáng gọi là “thần qui” đối với vua quan Đường Nghiêu, như sử Tàu đã ghi, chỉ vì nó “đội Trời” trên lưng và đối với họ thì Trời đó sâu nhiệm đến thần kỳ. Và câu chuyện kết thúc với câu “Từ đó cuộc sống trở lại yên bình.” Câu này có nghĩa là “cho đến khi dân Việt khôi phục lại được Đồ Dịch của Việt thì lúc đó đời sống của Việt mới yên bình.”

    Ý nghĩa của hai câu sau cùng có thể còn đi xa hơn khuôn khổ vừa giải trình. Nếu “Trời” là Đạo Dịch thì Tiên Đạo không xuất phát từ Lão Tử mà nó đã có trước đó rất lâu, có từ lúc Nữ Oa “bắt con rùa đội Trời lên.” Như vậy, dầu cho các giáo phái tu tiên có do người Tàu lập ra trước tiên đi nữa thì Tiên Đạo cũng vẫn là của Việt. Và vì Nữ Oa là bà mẹ khai hóa văn minh cho loài người cho nên sự yên bình được nói tới là sự yên bình cho toàn nhân loại. Một thông điệp lớn hơn trong hai câu cuối là: “cho đến khi dân Việt khôi phục lại được Đạo Dịch của Việt thì lúc đó đời sống của nhân loại mới yên bình.”
    Kết quả giải mã của TQB sau khi bổ túc cho hoàn chỉnh hơn được tóm lược trong hình H23.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link



    Như vậy vướng mắc đã được giải toả. Dầu là bằng con đường giải mã huyền thoại hay là bằng con đường giải mã 67 chữ trong 2 câu nói bí nhiệm thì kết quả cũng như nhau. Chỉ có một Hậu Thiên Đồ và nó giống như hình H22/H23.
    Qua câu chuyện Nữ Oa lấy đá vá Trời, một lần nữa tổ tiên chúng ta đã xác quyết trên lưng thần qui mà Việt Thường đã hiến cho vua Nghiêu hơn bốn ngàn năm trước đã từng ghi chép Đồ Dịch của Việt. Đồ Dịch là của Việt. Sự thật này được nhiều nguồn sử liệu Tàu xác nhận. Trong Trung Thiên Dịch Số, NTD đã viết “. . . di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó.” HHQ đồng ý với NTD ngoại trừ một điểm: Đồ Dịch mới chắc chắn là đứa con Việt chứ Kinh Dịch thì không chắc.


    Và cho đến khi nào chúng ta phục nguyên lại được Đồ Dịch của tổ tiên và thực sự nếm được suối nguồn minh triết bất tận từ Đồ Dịch này thì cuộc sống Việt mới được an bình và cuộc sống nhân loại mới được an bình. Chúng ta không thể coi nhẹ thông điệp này. Đặc biệt là trong bối cảnh của ngày hôm nay khi mà nhân loại nói chung và dân Việt nói riêng đang đứng bên bờ vực thẩm vì những lực lượng gây ra phân hóa và tàn hủy đang bao trùm mặt đất nói chung và đất nước Việt nói riêng. Nó không chỉ là một thông điệp mà còn là một huyền khải, một tiên tri về tương lai của dân tộc và của nhân loại gắn liền với Đạo Dịch.

    Cũng giống như công trình của NTD, học giả TQB bản thân không phải là không hiểu gì về khoa học hoặc phương pháp nghiên cứu khoa học nhưng ông đã chọn phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng một sản phẩm văn hóa phi vật thể và dùng phương pháp toán học để phối kiểm. Công trình của ông không thiếu sự nghiêm túc và sản phẩm ông phục dựng chắc chắn là không thiếu giá trị.

    Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ, Hà Đồ, Ngũ Hành Đồ Của Việt Dịch: Phục Dựng Từ Khẩu Quyết Lưu Truyền Trong Dân Gian
    Một trong những công trình tâm đắc của Hà Hưng Quốc là Việt Dịch. Một phần lớn nội dung của cuốn sách này giải trình từng bước quá trình giải mã hai câu khẩu quyết tổng cộng 67 lời trong 2 vế để phục dựng lại 4 đồ hình quan trọng là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ, Hà Đồ, Ngũ Hành Đồ cùng với hầu hết những đồ hình căn bản khác trong lý học đông phương. Ngoại trừ Tiên Thiên Đồ, 3 đồ hình còn lại đều nằm chung với nhau trong một tổng thể mà HHQ đặt tên là Việt Dịch Đồ. Còn tất cả những đồ hình căn bản khác không nhắc tên ở đây đều là những đồ hình phái sinh từ Việt Dịch Đồ. Một phần khác trong nội dung của Việt Dịch nhằm chứng minh giá trị khoa học và thực dụng của hai Đồ Dịch quan trọng là Tiên Thiên Đồ và Việt Dịch Đồ (đúng ra phải gọi là Tiên Thiên Việt Dịch Đồ và Hậu Thiên Việt Dịch Đồ). Phần còn lại giải thích tính chất minh triết chứa đựng trong hai Đồ Dịch là tinh yếu của Việt Dịch.

    Vế khẩu quyết thứ nhất được nói tới là “Vô Cực nhi Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh càn khôn vạn vật.” và vế khẩu quyết thứ hai là “Thiên Nhất sanh Thủy, Địa Lục thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa, Thiên Thất thành chi, Thiên Tam sanh Mộc, Địa Bát thành chi, Địa Tứ sanh Kim, Thiên Cửu thành chi, Thiên Ngũ sanh Thổ, Địa Thập thành chi.” Toàn bộ Việt Dịch nói chung, và những đồ hình nói riêng, được phục dựng từ 67 lời bí nhiệm nằm trong hai vế này.

    Tiên Thiên Đồ của Việt Dịch hoàn toàn trùng khớp với Tiên Thiên Bát Quái mà chúng ta biết ngày hôm nay, giống như hình H2. Điều này chứng tỏ nó chưa bị sửa đổi dầu là bản thân nó trôi nổi ở xứ người và căn cước của nó đã bị mất.

    Việt Dịch Đồ thì không giống với bất cứ một đồ hình từ xưa đến nay. Nó là một đồ hình có thể gọi là Thái Đồ (a grand model) trong đó chứa đựng toàn bộ tinh túy của Đông Phương bao gồm cả Hậu Thiên Bát Quái và Hà Đồ, bao gồm cả thuyết âm dương và thuyết ngũ hành, bao gồm cả thiên can và địa chi, bao gồm cả thiên văn và mùa tiết, bao gồm cả nội giới và ngoại giới, bao gồm cả . . . thế giới vi diệu sinh hoá. Tất cả hợp nhất một cách thần kỳ trong một tổng thể đơn giản như cho thấy trong hình H27/ 27B.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link



    Điều đáng chú ý ở đây là khái niệm 4 Trục trong Việt Dịch, còn gọi là 4 Nguyên Tố hoặc là Tứ Tượng, trong phần giải trình về cấu trúc và qui luật thành lập Tiên Thiên Đồ, được tìm thấy trong Trung Thiên Đồ của NTD (HHQ giúp hoàn chỉnh) phục dựng từ huyền sử Lạc Long Âu Cơ. Và Hậu Thiên Đồ, ẩn trong Việt Dịch Đồ, của Việt Dịch lại hoàn toàn trùng khớp với Hậu Thiên Đồ của TQB (HHQ giúp hoàn chỉnh) phục dựng từ huyền thoại Nữ Oa lấy đá vá trời. Đây có phải là những trùng hợp ngẫu nhiên? Chắc chắn là không phải!

    Việt Dịch từ đầu đến cuối hoàn toàn không có bóng dáng Kinh Dịch. Vâng, hoàn toàn không có Kinh Dịch (tức 64 quẻ). Điều này làm ngạc nhiên nhiều người vì theo quan điểm của đa số một cuốn sách viết về Dịch phải có Kinh Dịch. Không có gì là ngạc nhiên. Bởi vì, VIỆT DỊCH vốn là ĐỒ DỊCH không phải là KINH DỊCH.
     
  5. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 2

    ĐỒ và KINH của DỊCH có thể ví như một cuộn phim của máy ảnh. Kéo ra hình thành 64 quẻ thì gọi là Kinh. Còn nguyên cuộn trong vỏ bọc thì gọi là Đồ. Mỗi lần kéo ra là thành một phiên bản mà những thông tin trên đó phản ảnh tri thức, tâm lý và chủ ý của người kéo và của một thời đại mà người đó có mặt. Người đời sau tôn xưng đó là Kinh. Nhưng thực ra nó chỉ là phế phẩm quá hạn được chế tác từ một thời đại xa xưa.

    Nếu ví Kinh với hàng phế phẩm thì Đồ có thể ví với một máy chế tác đang luôn sẵn sàng để chế tác. Cổ Thánh Việt hiểu rõ lý lẽ này nên không để lại Kinh mà chỉ để lại Đồ. Huyền thoại Nữ Oa vá trời là chìa khóa để Việt nhận lại Đồ Dịch của Việt. Huyền sử Lạc Long và Âu Cơ là chìa khóa để Việt nhận lại Đồ Dịch của Việt. Khẩu quyết 67 lời trong hai vế là chìa khóa để Việt nhận lại Đồ Dịch của Việt. Và còn nhiều chiếc chìa khóa khác nữa vẫn còn nằm đâu đó trong mớ di sản văn hóa phi vật thể của người Việt mà chúng ta chưa khám phá tới.

    Vì mỗi lần kéo ra là có một phiên bản cho nên Kinh có thể và thường là có nhiều phiên bản. Đúng có, sai có, sâu có, cạn có, nguyên bản gốc có, bị sửa đổi có. Người ta đã say mê với Kinh mà lạt lẽo với Đồ cho nên càng ngày càng xa gốc Dịch, nhưng càng ồn ào hơn về Dịch.

    Kinh là ngọn của Dịch. Đồ là gốc của Dịch. Có Đồ mới có Kinh. Có Đồ Dịch mới có Kinh Dịch. Người Tàu ôm giữ cái ngọn và trân trọng tôn thờ Kinh Dịch. Tiền nhân Việt bảo quản cái gốc do mình sáng tạo nên đem mã hóa Đồ Dịch và truyền thừa di sản cho con cháu suốt mấy ngàn năm qua.

    Vì Việt Dịch không có 64 quẻ nên có người bảo Đồ không thể sánh bằng Kinh. Ai dám bảo trong Đồ không có Kinh? Ai dám bảo Đồ chẳng bằng Kinh? Chẳng phải tổ tiên Việt đã gọi Đồ Dịch là Trời trong chuyện Nữ Oa lấy đá vá Trời đó sao? Không phải tổ tiên Việt, trong truyện Nữ Oa lấy đá vá Trời, đã gởi lại thông điệp Đồ Dịch là cội nguồn của minh triết và phải có nó thì từ đó mới có được an bình đó sao? Đồ Dịch là một loại “vô tự thiên thư” ngàn Kinh không thể sánh. Đồ Dịch là của thượng căn thượng trí phàm phu không thể thấu.

    Đồ Dịch xưa nhất được sử Tàu ghi nhận [năm 2361 TCN, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu. Nguồn: Sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường; Thuật Dị Ký trong sách Thông Chí của sử gia Trịnh Triều (1104-1162)] là Đồ Dịch chép trên lưng thần qui, viết bằng cách dùng vật nóng cháy áp lên mai rùa, và văn bản viết bằng cách này gọi là lạc thư [không viết hoa], của Việt Thường dâng tặng vua Nghiêu hơn 4370 năm trước. Không phải tổ tiên Việt cũng đã xác nhận “bắt con rùa đội Trời lên” trong huyền thoại Nữ Oa lấy đá vá trời đó sao? Đó không phải là thông tin khẳng định Đồ Dịch là của Việt đó sao?

    Nguồn gốc của Kinh Dịch, tất cả các Kinh Dịch, đều xuất phát từ Đồ Dịch của Việt Thường. Minh triết của phương Đông gói gọn trong Đồ Dịch của Việt Thường. Văn hóa rạng ngời của Trung Quốc nảy sinh từ Đồ Dịch của Việt Thường. Đồ Dịch đã là của Việt thì dù cho Kinh Dịch có là của ai hay do ai trước tác đi nữa thì Dịch vẫn là Việt Dịch. Vì thế Dịch chỉ có một là Việt Dịch.

    Việt Dịch tuy là không trưng 64 quẻ cũng không một lời bàn về 64 quẻ nhưng lại có rất nhiều quẻ, nhiều gấp ngàn lần. Kinh Dịch dù là Kinh Dịch Phục Hy hay là Kinh Dịch Chu Văn cũng chỉ mới vận dụng đến tầng thứ 2 [(2x2x2)^2 hay 8x8 = 64 quẻ] của Đồ Dịch. Còn Việt Dịch vận dụng đến tầng thứ 8 [(2x2x2)^8 trừ đi trùng quái, tức là 8! = 8x7x6x5x4x3x2x1] của Tiên Thiên Đồ và của cả Hậu Thiên Đồ. Việt Dịch không dùng hào âm hào dương trong một quẻ để phỏng đoán ý nghĩa của quẻ. Việt Dịch dùng trọn quái và toàn cục diện của quẻ, tức thứ tự của các quái phân bố trong một quẻ, để nghiệm lý.

    Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ ẩn trong Việt Dịch Đồ chỉ là một vế của sự khám phá và phục dựng. Một vế khác không kém quan trọng là Ngũ Hành Đồ và Hà Đồ. Ngũ Hành Đồ và Hà Đồ được phục dựng chính yếu là từ vế thứ hai của 67 lời khẩu quyết. Hai đồ hình này cung cấp thông tin ngũ hành và độ số của Việt Dịch Đồ. Ở bài viết này chúng ta sẽ không chú ý tới Hà Đồ mà đặc biệt chú ý tới Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy rút ra từ Ngũ Hành Đồ của Việt Dịch.

    Lý thuyết ngũ hành mà mọi người đều biết HHQ gọi nó là Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập. Lý thuyết phổ cập này là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa. Toàn bộ lý thuyết được xây dựng trên nền tảng của 5 loại vật chất và 2 qui luật vận hành. Năm loại vật chất là Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Hai qui luật vận hành là qui luật Tương Sinh và qui luật Tương Khắc. Tương Sinh là Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim và Kim sinh Thủy. Chữ tương sinh ở đây đã bị lạm dụng, vì chỉ có một chiều sinh nên không thể nói là tương sinh. Tương Khắc là Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Cũng vậy, chữ tương khắc ở đây đã bị lạm dụng, vì chỉ có một chiều khắc nên không thể nói là tương khắc. Toàn bộ Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập được tóm gọn trong hình phía bên trái của H30.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link



    Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy hiện nay có rất ít người biết đến. Như đã nói, nó được phục dựng từ vế thứ hai của 67 lời bí nhiệm. Và nó là của Việt. Khác với lý thuyết của người Hoa, tuy Ngũ Hành cũng là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhưng Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy được xây dựng trên nền tảng của thiên văn và tuy cũng có hai qui luật vận hành Tương Sinh và Tương Khắc nhưng sự vận hành hoàn toàn khác. Hai hành trong số 4 hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa nằm cạnh nhau sẽ Tương Sinh cho nhau theo hai chiều thuận và nghịch kim đồng hồ, đó mới thực sự đúng nghĩa “tương sinh.” Hai hành trong số 4 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa nằm đối diện nhau sẽ Tương Khắc nhau theo hai chiều qua lại, đó mới thực sự đúng nghĩa “tương khắc.” Còn hành Thổ quan trọng hơn cả nằm ở trung cung của Ngũ Hành Đồ. Nó trung dung, trung hòa và trung lập. Nó điều hợp, điều giải và điều tiết 4 hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa. Về tính chất tương tác thì Thổ đại diện cho Trung Đạo. Về cấu trúc thì Thổ là Trung Tâm. Toàn bộ Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy được tóm gọn trong hình phía bên phải của H30.

    Việt Dịch không giống với bất cứ một sản phẩm Kinh Dịch nào ra đời từ trước tới nay. Nó thành lập một cái nhìn mới về Dịch và một tiêu chuẩn mới cho lý số. Tuy là hiện tại chưa có nhiều người biết nhưng về lâu về dài tự thân Việt Dịch sẽ chứng minh điều này. Nhưng cái mới này thật ra là không mới bởi vì như đã nói là nó được phục dựng từ di sản của tiền nhân Việt để lại. Nói cách khác, chỉ có tính cách “phản động” của nó là mới. Hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp, Việt Dịch phủ nhận giá trị lạm phát của Kinh Dịch do người Tàu phỏng tác, phủ nhận bản quyền Dịch là của Tàu, phủ nhận Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái là của Tàu, phủ nhận Lý Thuyết Âm Dương là của Tàu, phủ nhận Hà Đồ là của Tàu, phủ nhận giá trị Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập của Tàu, phủ nhận giả thuyết nền văn hóa Việt là con đẻ của nền văn hóa Tàu, phủ nhận ngay cả Tiên Đạo là của Tàu bởi vì Đạo Dịch đã có trước khi Lão Tử ra đời rất lâu. Những điều này, theo thời gian, kết hợp với những khám phá khác hiện nay và sau này sẽ thành lập một cái nhìn tự tin hơn về cội nguồn dân tộc.


    Việt Dịch là một sản phẩm được phục dựng từ công trình giải mã hai cụm chữ chứa 67 lời khẩu quyết đã tồn tại từ rất lâu trong văn hóa dân gian được Khổng Tử thu thập và ghi chép vào Kinh Dịch. Văn hóa đó phát sinh từ văn minh của phương Nam (Khổng Tử nói, không phải HHQ nói). Cũng giống như công trình của NTD và của TQB, công trình của HHQ cho thấy phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hoá phi vật thể và chính sản phẩm được phục dựng có một giá trị nhất định.
     
    tran ngoc anh thích bài này.
  6. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 2

    Bác nào hỗ trợ làm ebook cuốn HÁN VIỆT DỊCH SỬ LƯỢC để đọc thì quá hay

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
  7. maidorim

    maidorim Guest

    Của người Việt không phải là thuyết, mà sinh học phân tử, khảo cổ, văn hóa học đều đã chứng minh rồi bạn ạ.
     
    tran ngoc anh thích bài này.
  8. babylon

    babylon Lớp 4

    Đọc tới Phần Trung thiên đồ vẫn nằm trong cái phần lẩn quẩn Phương vị mà Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã đưa ra ...? Vậy diệu dụng của Nó ra sao ? hay chúng ta vẫn lấy chu Dịch làm ý tượng khi giải quẻ . Khi Ai Tinh sử dụng trung thiên đồ thì phần Tượng hiển lộ sẽ thay đổi như thế nào ? kỳ môn độn giáp với lượng thiên xích Hậu thiên sẽ bị phá vỡ hoàn toàn ! Đại huyền không và Tiểu huyền không sử dụng lượng thiên xích sẽ đi về đâu ! Hồng phạm ngũ hành hay Đại ngũ hành 24 sơn hướng sẽ thay đổi thế nào ...2000 năm nghiệm lý Chúng ta rốt cuộc đi lại từ đầu với trung thiên đồ . Phòng ốc phương vị cũng vậy ? Lý thuyết Cửu tinh sẽ phải thay đổi do tính Ngũ hành phương vị bị Ảnh hưởng . Một lý thuyết dẫu hay đến đâu nhưng thiếu diệu dụng cũng như chỉ dắt của Tổ sư chỉ làm chúng ta mê lại càng mê . Nếu dùng trung thiên đồ làm Dương trạch nghiệm lý được thì không nói ? Ngay bây giờ diệu dụng Dịch kinh chẳng có gì thay đổi mấy ? Rồi thì ai còn dám làm Âm trạch khi mà Dương trạch thiếu nghiệm lý ? một chuyến xe vòng quanh vòng ?
     
  9. Đi cày đi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/2/20
  10. ceon

    ceon Lớp 1

    Những thứ được chứng minh mà bạn nói có được các học giả, giới chuyên môn trên toàn thế giới công nhận không?
     
  11. ceon

    ceon Lớp 1

    Cứ cho Phục Hy là tổ tiên của Hàn Quốc. Vậy Kinh Dịch là của người Hàn Quốc sáng tạo? Hay là Việt Nam hoặc là cả hai cùng sở hữu?
     
  12. babylon

    babylon Lớp 4

    Bạn không xem link Mình chèn hay sao mà lại có chữ cứ cho thế kia ?Kinh Dịch thì Hàn Quốc có nhận đâu vì nhận xong cũng biết sẽ trả lời như nào - phản biện ra sao ? Việt Nam thì đầu topic tới giờ rồi...Bạn xem kỹ lại sẽ thấy phần trả lời!
     
  13. maidorim

    maidorim Guest

    Đây đang nói về phần liên quan giữa mình và Bách Việt mà bạn nói. Người Việt và người Bách Việt là một chủng tộc thống nhất về mặt văn hóa.
     
  14. chumeo_di_hia

    chumeo_di_hia Lớp 3

    tàu cũng có bánh trưng hả bác?
     
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Tàu cũng có rất nhiều dân tộc, trong đó có những dân tộc thuộc Bách Việt, vì thế có rất nhiều phong tục, trong đó có Tết. Vì thế nếu có công dân Tàu nào gói bánh trưng và bánh tày (giống bánh tét trong Nam) thì cũng rất bình thường thôi.

    Về người Việt thì bên Nga cũng có 1 làng sang đó từ vài trăm năm rồi.
     
  16. Nga Hoang

    Nga Hoang Lớp 11

    Bánh trưng hay bánh chưng?
     
  17. Nga Hoang

    Nga Hoang Lớp 11

    Sách Lĩnh Nam Chích Quái :
    "Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: “Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý” (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link).

    Giả dụ như các vua Hùng là người Việt thì bánh vuông là của người Việt.
    Ngoài Đông Anh ra bác có thấy chỗ nào gói bánh như thế này và gọi là bánh chưng không? Chỗ tôi ở họ gọi là bánh tét.

    Chưa thấy tài liệu nào nói Tàu có bánh chưng (bánh gạo nếp + nhân thịt, đậu xanh, gói bằng lá và chưng lên) vuông cả.
     
  18. quang3456

    quang3456 Lớp 10

    Trước khi trả lời các bác, tôi muốn lưu ý: chúng ta nên tranh luận trên góc độ học thuật, với thái độ hòa nhã. Nếu có ý kiến quá khích và công kích cá nhân thì tôi xin rút lui và không cần đôi co nữa. Có nhiều quan điểm khác nhau, nếu cứ khác quan điểm là bị quy kết: thân Tàu, dốt nát... thì tôi cũng xin kiếu.

    Mời bác xem ở đây: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vùng đó cũng thuộc nam TQ, nếu quy về đất Bách Việt cũng được. Nam TQ thì cũng thuộc văn hóa lúa nước, có lúa nước mới gói bánh chưng được. Họ gói bánh và ăn tết vào tháng 5 âm- một loại hội mùa.

    Nhiều chỗ gói và gọi bánh dài là bánh chưng bác ạ, từ Bắc giang, Bắc ninh cho đến Vĩnh phúc, Phú thọ... đất tổ vua Hùng ấy.
    Bánh chưng cổ có thể là hình tượng linga và Nho giáo không hề thích như vậy nên họ bắt phải đổi thành hình vuông theo ý nghĩa trời tròn đất vuông. Nhiều phong tục của người Việt cổ đã bị buộc phải thay đổi, như phong tục cưới xin chẳng hạn.
    Quan điểm đó là của giáo sư Trần Quốc Vượng chứ cũng chẳng phải tôi nghĩ ra.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/2/20
  19. chumeo_di_hia

    chumeo_di_hia Lớp 3

    bánh chưng ạ, em gõ sai chính tả.
     
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Có ai nói người Hán gói bánh chưng đâu? :P
     
    chumeo_di_hia thích bài này.
Moderators: amylee

Chia sẻ trang này