Đang dịch R The Goldfinch - Donna Tartt (Giải Pulitzer 2014)

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi ngantrang0811, 29/9/14.

  1. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Cám ơn bạn @dongtrang nhiều lắm vì đã góp ý cho mình, không phải ai cũng có tâm huyết đọc hiểu kĩ tác phẩm này cùng nhiều tác phẩm khác để hiểu được ý nghĩa thực sự của lời văn như bạn :). Thực sự là mình chưa có nhiều kinh nghiệm, nên rất cần những người như bạn chỉnh sửa giúp.
    Nếu có thời gian thì hãy đọc và góp ý nhiều nữa bạn nhé!
    Cám ơn bạn :D
     
    Cent, tducchau and tamchec like this.
  2. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    xvi.

    BORIS NGỦ LẠI Ở nhà tôi, vì tôi sống ở gần chỗ sân chơi hơn còn nó thì v gavno (cụm từ ưa thích của nó để nói rằng người nó nặng nề không lết nổi), từ đó có nghĩa là “phân đầy mặt” hoặc “chìm trong phân” hoặc thứ gì đó đại loại thế - dù sao thì, nó quá bê bết để có thể tự đi về nhà vào lúc nửa đêm. Và điều đó cũng may, vì điều đó có nghĩa là tôi sẽ không phải ở nhà một mình vào ba giờ rưỡi chiều hôm sau khi Ngài Silver ghé qua.

    Mặc dù chúng tôi gần như không ngủ, và người thì hơi run rẩy, nhưng mọi thứ đều nhuốm màu ma thuật và đầy ánh sáng. Chúng tôi đang uống nước cam và xem phim hoạt hình (một ý kiến hay vì nó dường như càng làm tăng thêm cái hài hước còn sót lại của buổi tối hôm trước) và – tồi tệ thay – chúng tôi vừa chia nhau điếu thuốc thứ hai của buổi chiều thì chuông cửa réo vang. Con Popchyk đã bực bội nãy giờ; nó cảm nhận được rằng chúng tôi có vẻ đang không tỉnh táo và nó sủa váng lên như là bọn tôi đang bị ma cướp mất hồn. Nghe thấy tiếng chuông, nó ngay lập tức sủa inh ỏi như thể nó đã đoán trước được điều tương tự.

    Trong khoảnh khắc, mọi thứ đã hiện rõ mồn một. “Khốn nạn rồi,” tôi nói.

    “Để tao ra cho,” Boris nói ngay lập tức, tay nó ẵm Popchyk dưới nách. Nó đi luôn, chân trần và người cũng cởi trần luôn, cùng với vẻ mặt hoàn toàn thờ ơ. Nhưng dường như trong một giây thôi nó đã trở lại, với vẻ mặt màu xám lạnh.

    Nó không nói gì cả; nó không cần làm vậy. Tôi đứng dậy, xỏ chân vào đôi giày sneaker và thắt chặt dây giày (như tôi vẫn quen làm trước mỗi lần đi chôm đồ siêu thị, trong trường hợp tôi phải vắt chân lên cổ mà chạy), và tôi đi tới cửa. Lại là ông Silver – áo khoác thể thao màu trắng, tóc bóng như được bôi xi đánh giày, cùng tất cả những thứ khác nữa – chỉ khác là lần này bên cạnh ông còn có một người đàn ông vạm vỡ với hình xăm con rắn màu xanh mờ khắp cẳng tay, anh ta đang cầm một cái gậy bóng chày bằng nhôm.

    “Ái chà, Theodore!” ông Silver nói. Có vẻ như ông vui thật sự khi gặp tôi. “Cháu thế nào?”

    “Tốt ạ,” tôi nói, kinh ngạc trước thái độ tỉnh táo như chưa từng chơi thuốc của mình. “Ngài thì sao ạ?”

    “Không có gì để phàn nàn. Mà cháu có sẹo ở đó rồi đấy, anh bạn.”

    Tôi tự động đưa tay lên sờ má. “Ơ…”

    “Cháu nên chăm sóc chỗ đó cho kĩ. Bạn của cháu nói với ta là Bố cháu không có nhà.”

    “Vâng, đúng là vậy.”

    “Hai đứa ổn đó chứ? Chiều nay hai đứa gặp trục trặc gì ở đây à?”

    “Ừm, không, không hẳn,” tôi nói. Anh chàng kia không hề khua khoắng cái gậy, hay tỏ ra dọa nạt gì cả, nhưng tôi vẫn không thể không ấn tượng rằng anh ta đang cầm cây gậy đó trong tay.

    “Vì nếu cháu gặp trục trặc thật ấy?” ngài Silver nói. “Gặp vấn đề thuộc bất cứ thể loại gì? Ta có thể giúp cháu giải quyết giống như thế.

    Ông ấy đang nói gì thế? Tôi nhìn qua vai ông, nhìn ra phố, tới chỗ chiếc ô tô. Mặc dù cửa sổ đều được phun sơn kín nhưng tôi vẫn có thể thấy còn những người đàn ông khác ở ngoài đó.

    Ngài Silver thở dài. “Ta rất vui khi biết rằng cháu không gặp vấn đề gì hết, Theodore. Ta chỉ ước rằng ta có thể nói một câu như vậy.”

    “Gì cơ ạ?”

    “Vì chuyện là thế này,” ông tiếp tục nói như thể tôi chưa nói gì. “Ta đang gặp vấn đề. Một vấn đề rất lớn. Với bố cháu.”

    Không biết nên nói gì, tôi bèn nhìn chằm chằm xuống đôi bốt cao bồi của ổng. Chúng là da cá sấu đen, độn gót, mũi giày thì nhọn và đánh bóng loáng đến độ chúng làm tôi nhớ lại những đôi bốt cao bồi cho nữ mà Lucie Lobo, một nhân viên thiết kế ở công ty mẹ tôi, vẫn thường đi.

    “Cháu thấy đấy, vấn đề là thế này,” ông Silver nói. “Ta đang giữ giấy tờ mà bố cháu thế chấp cho khoản nợ năm mươi ngàn. Và nó đang gây cho ta những rắc rối vô cùng lớn.”

    “Bố cháu đang gom tiền dần dần,” tôi nói sượng sùng. “Cháu không biết liệu ông có thể cho bố cháu thêm chút thời gian…”

    Ngài Silver nhìn tôi. Ông đưa tay chỉnh lại cặp kính mắt.

    “Nghe này,” ông nói từ tốn. “Bố cháu muốn đặt cược vào việc mấy thằng ngu đã đá quả banh chết tiệt ấy – ý ta là, cháu bỏ qua cho cách nói chuyện của ta nhé. Nhưng ta không thể thương cảm anh ta được nữa. Không coi trọng nghĩa vụ mình phải làm, chậm trả tiền ba tuần, không thèm trả lời hay gọi lại cho ta…” ông đang liệt kê mấy tội lỗi đó trên đầu ngón tay… “lên lịch hẹn gặp ta trưa nay rồi mất hút. Cháu biết ta phải ngồi đợi tên trốn nợ đó bao lâu không? Một tiếng rưỡi. Cứ như ta không còn việc gì hay ho hơn để làm ấy.” Ông nghiêng đầu qua một bên. “Chính vì những kẻ như bố cháu mà những kẻ như ta và Yurko mới có việc để làm đấy. Cháu nghĩ là ta thích tới đây lắm sao? Lái xe tới tận đây sao?”

    Tôi cứ tưởng đây là một câu hỏi tu từ - tất nhiên làm gì có người tỉnh táo nào lại thích lại xe tới tận chỗ này – nhưng vì đã một khoảng thời gian trôi qua, và ổng vẫn đang nhìn chằm chằm vào tôi như đợi một câu trả lời nên cuối cùng tôi cũng chớp mắt miễn cưỡng mà nói: “Không ạ.”

    Không. Đúng thế, Theodore. Ta thì lại càng không. Tin ta đi, bọn ta còn nhiều việc hay ho hơn để làm, ta với Yurko ấy, hơn là dành cả buổi chiều để đuổi bắt một tên trốn nợ như bố cháu. Vậy nên làm ơn hãy giúp ta, nói với bố cháu là chúng ta có thể sắp xếp ổn thỏa như những người đàn ông một khi anh ta ngồi xuống và giải quyết mọi chuyện với ta.”

    “Giải quyết mọi chuyện?”

    “Anh ta cần đem tới những gì còn mắc nợ.” Ông ấy đang cười nhưng vành kính màu xám bạc lại khiến mắt ông tỏa ra cái nhìn đen tối. “Và ta muốn cháu bảo bố mình hãy làm việc đó, Theodore. Vì lần tiếp theo ta tới tận đây, tin ta đi, ta sẽ không còn tốt bụng nữa đâu.”


    xvii.

    KHI TÔI QUAY TRỞ LẠI phòng khách nơi mà Boris đang im lặng ngồi đó và dán mắt vào mấy bộ phim hoạt hình đã tắt tiếng, tay gãi gãi cổ Popper – mặc dù lúc trước nó có hoảng sợ nhưng đã nhanh chóng ngủ thiếp đi trong lòng Boris.

    “Kì cục thiệt,” nó nói cụt lủn.

    Nó phát âm câu chữ lạ đến mức phải mất một lúc tôi mới nhận ra nó vừa nói gì. “Ừ,” tôi đáp, “Tao đã bảo ổng bệnh hoạn mà.”

    Boris lắc đầu và lại ngả lưng ra ghế. “Tao đâu có nói cái lão đội tóc giả trông giống Leonard Cohen đâu.”

    “Mày nghĩ đấy là tóc giả à?”

    Nó làm mặt như kiểu ai mà thèm quan tâm. “Cả lão cũng thế, nhưng ý tao là gã người Nga cầm cái thứ kim loại ấy, mày gọi đó là gì nhỉ?”

    “Gậy bóng chày.”

    “Chỉ để làm màu thôi,” nó nói khinh khỉnh. “Hắn chỉ muốn dọa mày thôi, nhóc ạ.”

    “Làm sao mày biết hắn là người Nga?”

    Nó nhún vai. “Vì tao biết thôi. Chẳng ai ở Mỹ mà lại có hình xăm đó cả. Dĩ nhiên là ở nước Nga, không cần hỏi. Hắn cũng biết tao là người Nga, ngay lúc tao mở miệng.”

    Một lúc lâu trôi qua trước khi tôi kịp nhận ra là mình đang ngồi đó nhìn trân trân vào khoảng không. Boris nâng Popchyk lên và đặt nó xuống ghế sofa, thật nhẹ nhàng để nó không tỉnh giấc. “Mày muốn đi ra khỏi chỗ này một lúc không?”

    “Chúa ơi,” tôi nói, đột nhiên lắc đầu – cuộc viếng thăm kia giờ mới bắt đầu đánh vào suy nghĩ của tôi, một thứ tác dụng chậm – “khốn kiếp, ước gì bố tao có ở nhà. Hiểu không? Ước gì hắn ta đập cho bố tao một trận. Tao rất muốn thế. Ổng xứng đáng bị như vậy.”

    Boris đá vào mắt cá chân tôi. Bàn chân nó đen sì toàn bụi bẩn và móng tay lại còn sơn đen, nhờ ơn của Kotku.

    “Mày có biết là hôm qua tao phải ăn gì không?” nó nói ôn hòa. “Hai thanh Nestlé với một lon Pepsi.” Mọi thanh kẹo, với Boris, đều là ‘thanh Nestlé,’ cũng giống như mọi loại soda đều là ‘Pepsi.’ “Và mày biết hôm nay tao phải ăn gì không?” Nó ra dấu số không bằng ngón cái và ngón trỏ. “NulVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.”

    “Tao cũng thế cả thôi. Cái thứ này làm mày không thấy đói.”

    “Ờ, nhưng tao cần ăn gì đó. Bụng tao…” nó nhăn mặt.

    “Mày muốn đi ăn bánh kếp không?”

    “Có – một thứ gì đó – tao không quan tâm. Mày có tiền không?”

    “Để tao xem.”

    “Tốt. Tao nghĩ có lẽ tao có năm đô.”

    Trong khi Boris đi lục tìm giày và áo thì tôi đi té ít nước lên mặt, kiểm tra hai đồng tử mắt và vết trầy gần hàm, cài lại cúc áo khi thấy nó bị cài lệch, và rồi cho Popchik ra ngoài chút, chơi ném bóng tennis với nó, vì lâu rồi nó không được dạo chơi và tôi biết là nó cảm thấy tù túng. Khi bọn tôi vào trong thì Boris – ăn mặc chỉnh tề - đang đi xuống dưới nhà; chúng tôi lục tìm nhanh trong phòng khách và rồi cười như nắc nẻ khi lôi ra được mấy đồng xu lẻ và cố gắng xem xem mình muốn tới đâu và đường ngắn nhất tới đó là gì thì lúc đó chúng tôi thấy Xandra đang vào nhà từ cửa chính và đang đứng đó với vẻ mặt trông thật nực cười.

    Hai bọn tôi ngừng nói ngay lập tức và tiếp tục công việc phân loại tiền xu trong im lặng. Thường Xandra ít khi về nhà giờ này, nhưng lịch của cổ đôi khi cũng bất thường và trước kia cổ cũng từng làm bọn tôi ngạc nhiên vài lần. Nhưng rồi, bằng cái giọng bất ổn, cổ gọi tên tôi.

    Bọn tôi ngừng việc với đống tiền lẻ. Bình thường Xandra sẽ gọi tôi là nhóc hoặc này cháu hoặc từ nào khác nhưng tuyệt đối không phải Theo. Tôi nhận ra cổ vẫn mặc nguyên bộ đồng phục ở chỗ làm.

    “Bố cháu gặp tại nạn giao thông,” cổ nói. Dường như cổ đang nói với Boris chứ không phải tôi vậy.

    “Ở đâu ạ?” tôi hỏi.

    “Nó xảy ra khoảng hai giờ trước. Bệnh viện gọi tới chỗ làm của ta.”

    Boris và tôi quay qua nhìn nhau. “Trời,” tôi nói. “Đã xảy ra chuyện gì? Ông ấy làm cái xe nát bươm à?”

    “Độ cồn trong máu của ảnh là .39.”

    Con số này với tôi chẳng có ý nghĩa gì, mặc dù sự thật rằng ông đã uống rượu thì mang một ý nghĩa nào đó. “Wow,” tôi nói, tay sờ vào số tiền lẻ trong túi, và: “Vậy khi nào bố cháu về nhà?”

    Mắt cổ trống rỗng nhìn vào mắt tôi. “Nhà?”

    “Từ bệnh viện về ấy.”

    Cổ lắc đầu nhanh thoăn thoắt; cổ nhìn quanh tìm ghế để ngồi xuống; và rồi ngồi lên nó. “Cháu không hiểu đâu.” Mặt cổ trở nên vô hồn đến kì lạ. “Bố cháu đã chết. Anh ấy chết rồi.”


    xviii.

    KHOẢNG SÁU ĐẾN BẢY TIẾNG TIẾP THEO thực sự là một cơn chấn động. Vài người bạn của Xandra xuất hiện: người bạn thân Courtney của cô ấy; cô bạn Janet từ chỗ làm; một cặp đôi tên Stewart và Lisa thì tốt hơn và cử xử bình thường hơn những người Xandra kêu tới. Boris thì rộng lượng ngồi chế nốt chỗ cỏ còn lại của Kotku, thứ mà được mọi người nhiệt tình hưởng ứng; và ai đó, thật may (có lẽ là Courtney), đã gọi pizza cho chúng tôi – cách mà cô ấy khiến bọn Domino’s chịu giao bánh cả quãng đường dài thì tôi không biết, vì hơn một năm qua Boris và tôi đã nịnh nọt và cầu xin và thử dùng đủ các thể loại lừa phỉnh hay bào chữa mà chúng tôi có thể nghĩ ra.

    Trong khi Janet ngồi vòng tay qua ôm lấy Xandra. còn Lisa thì vỗ nhẹ lên đầu cổ, và Stewart vào bếp pha cà phê, và Courtney thì đang cuộn một điếu thuốc trên bàn cà phê trông cũng điệu nghệ như Kotku, thì Boris và tôi như lơ lửng giữa mớ thông tin, hoàn toàn sững sờ. Thật không thể tin nổi bố tôi đã chết khi những điếu thuốc của ông vẫn còn trên quầy bếp và đôi giày tennis trắng của ông vẫn để ở cửa sau. Rõ ràng – mọi việc đang ở sai trật tự của nó, tôi phải lắp ghép chúng lại trong đầu – bố tôi đâm chiếc Lexus trên đường cao tốc, khoảng trước hai giờ chiều, đi sai làn đường và đâm thẳng đầu xe vào một chiếc xe kéo rơ moóc, thứ mà ngay lập tức giết chết ông (không giết người lái xe tải, cũng may, hoặc những hành khách ngồi trong chiếc ô tô đặt ngay sau đầu xe kéo, mặc dù người tài xế đó cũng bị gãy chân). Tin về nồng độ cồn trong máu cũng vừa ngạc nhiên mà vừa chẳng ngạc nhiên chút nào – tôi đã từng nghi ngờ bố tôi uống rượu trở lại, mặc dù chưa từng bắt gặp lần nào – nhưng cái khiến Xandra thất thần không phải sự say rượu khó tin của bố tôi (ông gần như hiếm khi say sưa trong lúc lái xe) mà là địa điểm xảy ra vụ tai nạn – bên ngoài Las Vegas, đi về hướng tây, vào phía sa mạc. “Anh ấy đáng lẽ phải nói cho tớ, đáng lẽ phải nói tớ biết chứ,” cô ấy nói đầy nghẹn ngào khi trả lời mấy câu hỏi của Courtney, còn tôi thì ngồi trên sàn, lấy hai tay che mắt và chỉ thầm hỏi vì sao cổ lại nghĩ bản chất của bố tôi là nói thật về mọi thứ?

    Boris quàng tay qua vai tôi. “Cổ không biết gì, đúng không?”

    Tôi biết nó đang nói tới lão Silver. “Tao có nên…”

    “Ảnh đi đâu rồi?” Xandra gào lên hỏi Courtney và Janet như thể cô ấy nghi họ đang che giấu thông tin gì đó. “Ảnh làm gì mà ra tận đó chứ?” Thật khác khi thấy cổ vẫn mặc nguyên bộ đồng phục, vì cổ thường ngay lập tức thay quần áo sau khi bước vào nhà.

    “Ổng không đi gặp cái người mà đáng nhẽ ổng phải gặp,” Boris thì thầm.

    “Tao biết.” Có lẽ ông đã dự định là tới cuộc nói chuyện với ông Silver. Nhưng – như mẹ tôi và tôi đã biết quá rõ về ông – ông đã dừng lại ở một quán bar nào đó để làm một hoặc hai chầu, để vững tâm trở lại như ông vẫn nói. Vào thời điểm đó – ai mà biết được ông đang nghĩ gì trong đầu? Có nói ra cũng chẳng giúp gì được cho Xandra trong trường hợp này, nhưng thực ra ông đã có lần ra khỏi thành phố để trốn nợ nần.

    Tôi không khóc. Cho dù đừng đợt sóng buốt giá của sự ngỡ ngàng và hoảng loạn vẫn liên tục xô tôi tới tấp nhưng dường như chuyện này không có thật và tôi vẫn cứ nhìn quanh tìm kiếm ông, rồi lại sững sờ khi không còn nghe thấy giọng nói ấy giữa mọi người, cái giọng nói từ tốn, dễ nghe và có tác dụng xoa dịu (bốn trong số năm bác sĩ…) khiến nó nổi bật giữa bao giọng nói trong phòng này. Xandra cứ hết chấp nhận rồi lại từ chối thực tại – cổ lau mắt, đi lấy đĩa đựng pizza, rót rượu vang đỏ cho mọi người từ một chai rượu ở đâu đó – và rồi lại sụp xuống mà khóc. Chỉ có Popchik là vui; hiếm khi chúng tôi có nhiều người trong nhà đến thế và nó chạy từ người này tới người khác, rồi lại cụt hứng vì bị cự tuyệt liên tục. Khi bóng đêm đã bao phủ, khung cảnh dần lờ mờ - Xandra khóc lóc trong vòng tay của Courtney lần thứ hai mươi, ôi Chúa ơi, anh ấy đi rồi, tớ không thể tin nổi – thì Boris kéo tôi ra một góc và nói: “Potter, tao phải đi rồi.”

    “Không, đừng, xin mày đấy.”

    “Kotku sẽ lo cuống cuồng lên mất. Giờ này tao phải có mặt ở nhà mẹ cô ấy rồi! Cổ đã không gặp tao được khoảng bốn mươi tám giờ rồi.”

    “Nghe này, cứ bảo cô ta qua đây nếu muốn – kể cô ấy nghe chuyện gì đã xảy ra. Nếu mày mà đi bây giờ thì mọi chuyện sẽ thực sự là khủng khiếp.”

    Xandra đã đủ dồn hết tâm trí vào nỗi đau và sự an ủi của mấy người bạn đến nỗi Boris có thể đi lên tầng để gọi điện thoại trong phòng ngủ của cô ấy – căn phòng mà thường được khóa trái mà tôi và Boris chưa từng vào bao giờ. Khoảng mười phút sau nó nhanh chóng đi xuống từng bậc thang.

    “Kotku nói tao cứ ở lại đây,” nó nói khi ngồi thụp xuống bên cạnh tôi. “Cô ấy bảo tao nói với mày là cổ rất tiếc.”

    “Wow,” tôi nói, gần như muốn khóc, tôi đưa tay lên che mặt để nó không thấy là tôi đang rất sửng sốt và xúc động.

    “Ừm, ý tao là, cổ cũng hiểu cảm giác đó. Bố cô ấy cũng mất rồi.”

    “Vậy sao?”

    “Ừ, vài năm trước. Cũng trong một tai nạn mô tô. Hai người họ không gần gũi nhau lắm…”

    “Ai chết?” Janet nói và quay qua chúng tôi, cô ta có mái tóc xoăn, mặc áo khoác bằng lụa, phảng phất hương thơm của cỏ và mỹ phẩm. “Có ai chết nữa à?”

    “Không.” Tôi đáp cụt lủn. Tôi không thích Janet – cổ là mụ đàn bà ngốc nghếch đã xin tình nguyện chăm sóc cho Popper và rồi để nó bị nhốt trong nhà cùng với đĩa thức ăn.

    “Không phải cậu, là cậu ta nói cơ,” cô ấy nói, bước lùi lại và tập trung cái nhìn mơ màng vào Boris. “Có ai chết sao? Người mà cậu thân thiết?”

    “Có vài người, đúng thế.”

    Cổ chớp mắt. “Cậu tới từ đâu?”

    “Sao?”

    “Giọng cậu nghe buồn cười thiệt. Như giọng Anh hay gì đó - ừm, không phải. Như kết hợp giữa giọng Anh và Transylvania vậy.”

    Boris kêu như cú. “Transylvania?” nó nói, nhe cả răng nanh ra. “Cô có muốn bị cắn không?”Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    “Ôi, mấy anh chàng vui tính,” cổ nói mơ hồ, trước khi cụng vào đầu Boris bằng đáy ly rượu và đi lòng vòng để ra chào tạm biệt Stewart và Lisa, những người cũng chuẩn bị ra về.

    Có vẻ như Xandra đã uống một viên thuốc. (“Có lẽ là hơn một viên,” Boris thì thầm vào tai tôi.) Cô ấy gần như sắp ngất lịm. Boris – tôi thật không phải, nhưng thực tình tôi không muốn làm việc này – đã lấy đi điếu thuốc trên tay cổ và dụi tắt nó, rồi giúp Courtney đỡ cô ấy lên tầng và đưa cổ vào phòng, nơi mà cổ nằm úp mặt lên ga trải trường còn cửa phòng thì mở toang.

    Tôi đứng ở lối vào trong khi Boris và Courtney tháo giầy cho Xandra – cũng thật thú vị khi một lần được ngắm nhìn căn phòng mà cổ và bố tôi luôn khóa chặt. Cốc và gạt tàn bẩn, những chồng tạp chí Glamour, ga trải giường bông màu xanh, cái laptop không bao giờ tôi được dùng, xe đạp thể dục – ai mà biết họ lại để cả xe đạp trong này chứ?

    Giày của cổ đã tháo nhưng họ quyết định cho cổ mặc nguyên bộ đồ đó. “Các cậu có muốn tôi ở lại qua đêm không?” Courntey đang hỏi Boris bằng thứ giọng trầm đục.

    Boris duỗi người và ngáp một cách vô liêm sỉ. Áo của nó thì bị kéo lên còn quần jeans thì mặc trễ xuống tới mức bạn có thể thấy nó đang không mặc quần lót. “Chị tốt quá,” nó nói. “Nhưng tôi nghĩ cô ấy cũng ngủ ngon rồi.”

    “Tôi không phiền đâu mà.” Có lẽ tôi vẫn còn phê thuốc – tôi vẫn còn phê – nhưng cô ta đang dựa gần hết mức vào người nó như thể cổ đang muốn gạ tình hay gì đó, trông thật là buồn cười.

    Chắc hẳn tôi đã tạo ra thứ âm thanh nửa cười nửa nghẹn – vì Courtney quay lại đúng lúc tôi đang ra ký hiệu cho Boris, chỉ ngón tay cái ra cửa – đưa cô ta ra khỏi đây đi!

    “Cậu ổn chứ?” cô ta hỏi lạnh lùng, nhìn tôi từ trên xuống dưới. Boris cũng đang cười nhưng nó đã kịp nghiêm chỉnh trở lại khi cô ta quay qua nhìn, vẻ mặt nó lại tỏ ra đau khổ và quan tâm, thứ chỉ làm tôi thấy buồn cười hơn mà thôi.


    xix.

    XANDRA ĐÃ KHÔNG CÒN BIẾT TRỜI TRĂNG gì trước khi mọi người về hết – cổ ngủ say đến nỗi Boris phải lấy cái gương nhỏ trong ví của cổ (chúng tôi cũng đã lục qua cái ví, tìm thuốc và tiền mặt) và để nó dưới mũi cổ xem cổ còn thở không. Có hai trăm hai mươi chín đô la trong ví, mà tôi cũng không thấy hối lỗi gì khi đã lấy chúng vì cổ còn có thẻ tín dụng và một tài khoản séc có hai ngàn hai mươi lăm đô nữa.

    “Tao biết Xandra không phải tên thật của cổ,” tôi nói, rồi ném cho nó cái bằng lái xe của cổ: mặt tàn nhang màu vàng cam, tóc cuốn phồng khác người, tên Sandra Jaye Terrell, chưa bị bấm bằng lái lần nào. “Không biết mấy cái chìa này dẫn đi đâu nhỉ?”

    Boris – trông như những bác sĩ trong mấy bộ phim cũ, ngón tay đặt trên mạch máu cổ tay, ngồi cạnh cô ấy ở rìa của cái giường – đang giơ cái gương về phía ánh sáng. “Da, da,” nó lẩm bẩm, và rồi mấy thứ khác nữa mà tôi nghe không hiểu.

    “Gì?”

    “Cổ ngất toàn tập rồi.” Bằng một ngón tay, nó chọc chọc vào vai cổ, và rồi rướn người ra trước mà nhòm vào ngăn kéo tủ đầu giường nơi mà tôi đã lùng sục qua một mớ hỗn độn đủ các thứ: tiền lẻ, tiền giả trong casino, son môi, miếng lót cốc, mi giả, chất tẩy sơn móng tay, mấy cuốn sách bìa rách rưới (cuốn Your Erroneous ZonesVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link), mẫu nước hoa dùng thử, băng cát xét cũ, thẻ bảo hiểm hết hạn từ mười năm trước, và một mớ hộp diêm miễn phí từ một văn phòng luật ở Reno ghi là Cấu thành nên DWIVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và những tội danh liên quan đến thuốc phiện.

    “Ơ này, cho tao mấy cái đó,” Boris nói, vươn tay qua và bỏ vô túi một dải bao cao su. “Cái gì đây?” Nó cầm lên thứ gì đó mà lúc đầu trông như một lon Coke – nhưng, khi nó lắc cái lon thì có tiếng loạt soạt. Nó ghé tai vào nghe. “Ha!” nó nói rồi ném cái lon qua cho tôi.

    “Làm tốt lắm.” Tôi bỏ phần miệng lon – rõ ràng chỉ là làm giả - và đổ hết phần bên trong lên mặt tủ.

    “Wow,” phải một lúc sau tôi mới cất tiếng nổi. Đây hẳn là nơi Xandra giữ số tiền cổ được bo – một phần là tiền mặt, phần là mấy đồng tiền giả trong casino. Còn có nhiều thứ khác nữa – nhiều đến nỗi tôi mất bao nhiêu lâu mới hiểu hết chúng – nhưng mắt tôi chạm ngay vào đôi khuyên tai kim cương xanh ngọc mà mẹ tôi bị mất ngay trước khi bố tôi bỏ đi.

    “Wow,” tôi nói y chang lúc nãy, đưa tay nhặt chúng lên, cầm giữa ngón cái và ngón trỏ. Mẹ tôi đã đeo đôi khuyên tai này ở hầu hết các bữa tiệc cocktail và các buổi lễ quan trọng – màu xanh lá pha xanh da trời trong vắt của đá, cái ánh sáng nó tỏa ra thì ma mị như lúc ba giờ sáng, chúng có màu gần như màu mắt của mẹ cũng như mùi hương khó phai của mái tóc bà.

    Boris đang cười khúc khích. Giữa đống tiền giấy nó ngay lập tức trông thấy, và vớ lấy, một lọ kim loại mà thường được dùng để đựng phim máy ảnh, thứ mà nó chậm rãi mở ra với đôi tay run rẩy. Nó nhấn đầu ngón tay út vào bên trong, nếm nó. “Trúng rồi,” nó nói, đưa ngón tay sờ khắp lợi. “Kotku sẽ nổi đóa lên khi biết cổ không có mặt ở đây lúc này.”

    Tôi đặt đôi khuyên tai trong lòng bàn tay mở và đưa ra. “Ờ, đẹp đấy,” nó nói mà gần như không nhìn. Nó đang chấm chấm vào cái đống bột trên mặt tủ. “Mày sẽ kiếm được mấy ngàn đô cho thứ đó.”

    “Cái này là của mẹ tao.” Bố tôi đã bán gần hết nữ trang của mẹ ở New York, bao gồm cả nhẫn cưới. Nhưng giờ - tôi đã thấy – Xandra cũng thó một vài thứ cho riêng cổ, và tôi thấy thật khó hiểu khi biết cổ đã chọn những thứ đồ gì – không phải ngọc trai hay trâm cài đầu bằng hồng ngọc, mà là những thứ đồ rẻ tiền từ khi mẹ tôi còn thiếu niên, cái vòng tay may mắn hồi học trung học, cả mấy cái móng ngựa, giày múa ba lê và mấy nhành cỏ bốn lá.

    Boris đứng thẳng dậy, gãi mũi, nó đưa tôi một tờ hóa đơn đã cuộn tròn lại. “Mày muốn dùng chút ít không?”

    “Không.”

    “Thôi nào. Nó sẽ giúp mày thấy khá hơn đấy.”

    “Không, cám ơn.”

    “Phải có bốn đến năm quảVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ở đây. Mà khéo còn hơn ấy! Chúng ta cứ giữ lấy một và bán số còn lại đi.”

    “Mày từng làm mấy trò này rồi à?” tôi nói giọng nghi ngờ, mắt liếc qua chỗ Xandra nằm bất động. Cho dù cổ có đang ngủ mê mệt đi nữa thì tôi cũng không thích nói những chuyện này trước mặt cổ.

    “Ờ. Kotku thích trò này. Mặc dù cũng khá tốn kém.” Nó dường như trở nên vô thức trong một phút, rồi lại chớp mắt liên tục. “Wow. Thôi nào,” nó vừa cười vừa nói. “Đây. Mày đâu có biết mình đang thiếu thứ gì.”

    “Bây giờ tao cũng đủ tơi tả rồi,” tôi nói, tay sờ qua đống tiền.

    “Ừ, nhưng cái này sẽ giúp mày tỉnh táo hơn đó.”

    “Boris, lúc này tao không chơi đùa được,” tôi nói, bỏ đôi khuyên tai và cái vòng cầu may vào túi. “Nếu chúng ta định đi đâu thì phải đi ngay. Trước khi có nhiều người khác xuất hiện.”

    “Người nào?” Boris nói đầy ngờ vực, ngón tay nó cọ qua cọ lại dưới mũi.

    “Tin tao đi, nhanh lắm. Dịch vụ cứu trợ trẻ em sẽ xuất hiện, và những người kiểu vậy.” Tôi đếm xong số tiền = một ngàn ba trăm hai mươi mốt đô la, với thêm vài đồng lẻ nữa; đống tiền từ casino thì được nhiều hơn, gần năm ngàn đô, nhưng có lẽ sẽ phải để lại cho cô ta số tiền đó. “Một nửa cho mày và một nửa cho tao,” tôi nói, trong khi bắt đầu chia đôi số tiền mặt thành hai phần. “Đủ tiền mua hai vé rồi. Giờ chắc cũng không kịp bắt chuyến bay cuối nhưng chúng ta cũng nên bắt ô tô ra sân bay luôn.”

    “Bây giờ? Ngay tối nay?”

    Tôi ngừng đếm tiền và ngẩng lên nhìn nó. “Tao không còn ai nữa rồi. Không ai hết. NadaVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Họ sẽ tống tao vào một ngôi nhà nào đấy nhanh đến nỗi tao còn chẳng kịp nhận ra nữa.”

    Boris gật đầu về hướng Xandra đang nằm – trông cổ thật đáng sợ vì trong tư thế nằm úp mặt xuống nệm, cổ gần giống như một xác chết. “Còn cổ thì sao?”

    “Sao cái quái gì chứ?” tôi nói sau một hồi lưỡng lự. “Vậy chúng ta nên làm gì? Chờ tới khi cổ thức dậy và phát hiện ra là chúng ta đã ăn cắp tiền của cổ à?”

    “Không biết nữa,” Boris nói, mắt nhìn cô ta đầy ái ngại. “Chỉ là tao thấy thương cảm cho cô ấy thôi.”

    “Ừm, vậy thì đừng. Cổ không muốn tao. Chính cổ sẽ tự gọi họ tới ngay khi cổ nhận ra là sẽ bị kẹt lại với tao.”

    “Họ? Tao không hiểu họ là ai nữa.”

    “Boris, tao chưa đủ tuổi vị thành niên.” Tôi có thể thấy rõ sự hoảng loạn trong tôi đã lại dâng cao theo một cách rất-đỗi-quen-thuộc – có lẽ chuyện cũng không đến mức sống chết nhưng rồi cũng gần như vậy thôi, ngôi nhà đầy khói thuốc, lối ra thì đóng chặt. “Tao không biết ở đất nước của mày thế nào nhưng tao không còn gia đình nào cả, không còn bạn bè ở đây…”

    “Tao! Mày còn tao mà!”

    “Thế mày định làm gì? Nhận nuôi tao à?” Tôi đứng phắt dậy. “Nghe đây, nếu mày muốn cùng đi thì chúng ta phải khẩn trương lên. Mày có hộ chiếu chưa? Mày cần hộ chiếu thì mới đi máy bay được.”

    Boris giơ cả hai tay theo kiểu của người Nga khi họ muốn nói đủ rồi đấy. “Chờ đã! Mọi chuyện đang đi quá nhanh rồi đó.”

    Tôi dừng lại khi đang trên đường đi ra cửa. “Cái vấn đề khốn kiếp của mày là gì hả Boris?”

    “Vấn đề của tao?”

    Mày muốn chạy trốn! Chính mày đã bảo tao cùng đi với mày! Tối hôm qua.”

    “Mày định đi đâu? New York?”

    “Còn nơi nào khác à?”

    “Tao muốn tới nơi nào ấm áp,” nó nói ngay tắp lự. “California.”

    “Mày điên rồi. Chúng ta đâu biết ai…”

    “California!” nó hú lên.

    “Ừm…” Mặc dù tôi gần như chẳng biết gì về California nhưng lại thật an tâm khi tự cho rằng (ngoại trừ mấy câu trong bài “California Über Alles” mà nó đang nhẩm hát) Boris thậm chí còn biết ít hơn. “Chỗ nào ở California? Thị trấn nào?”

    “Ai thèm quan tâm?”

    “Bang đó rộng lắm.”

    “Tuyệt vời! Sẽ rất vui. Chúng ta sẽ phê thuốc suốt ngày – đọc sách, đốt lửa trại. Ngủ trên bãi biển.”

    Tôi nhìn nó lâu đến mức không chịu nổi nữa. Mặt nó đỏ như thiêu và miệng nó thì vẫn còn vết ố đen thẫm từ rượu vang đỏ.

    “Thôi được,” tôi nói – biết rõ ràng là tôi đã bước ra khỏi mép rìa và ngã vào một lỗi lầm tai hại của đời mình, ăn cắp vặt, cái hộp đựng tiền lẻ, những bước đi loạng choạng khi say thuốc và giờ là vô gia cư, những cái khốn nạn mà tôi sẽ không bao giờ có thể vượt qua được.

    Nó mừng rỡ hẳn. “Vậy thì bãi biển nhé? Nhé?”

    Đây là cách mà bạn sai lầm: vội vã như thế này. “Bất cứ chỗ nào mày muốn,” tôi nói, đẩy tóc ra khỏi mắt. Tôi đã kiệt sức đến tưởng như chết được. “Nhưng chúng ta cần phải đi ngay. Xin mày đấy.”

    “Cái gì, ngay lúc này?”

    “Đúng. Mày có cần về nhà lấy thứ gì không?”

    Tối nay?”

    “Tao không nói đùa đâu, Boris.” Cãi nhau với nó lại càng khiến tôi thêm hoảng sợ. “Tao không thể cứ ngồi đó và đợi…” Bức tranh cũng là một vấn đề nữa, tôi không biết giải quyết thế nào, nhưng một khi lôi được Boris ra khỏi nhà thì tôi sẽ nghĩ ra cách nào đó. “Nào, đi thôi.”

    “Dịch vụ xã hội ở Mỹ tồi tệ đến thế à?” Boris nghi hoặc. “Mày làm cứ như họ là cớm ấy.”

    “Thế mày có định đi với tao không? Có hay không?”

    “Tao cần chút thời gian. Ý tao là,” nó nói trong khi bước đến chỗ tôi, “chúng ta không thể đi ngay lúc này được! Thực tình… tao thề. Chờ tao thêm chút xíu thôi. Cho tao một ngày! Chỉ một ngày thôi!”

    “Tại sao?”

    Nó có vẻ lúng túng. “Ừm, ý tao là vì…”

    “Vì…?”

    “Vì… vì tao phải gặp Kotku đã! Và nhiều việc khác nữa! Thật đấy, mày không thể đi ngay tối nay được,” nó lặp lại khi không thấy tôi nói gì. “Tin tao đi. Mày sẽ thấy hối tiếc, tao nghiêm túc đấy. Cứ tới nhà tao! Chờ tới sáng rồi đi!”

    “Tao không chờ được,” tôi nói cụt lủn, tay vớ lấy phần tiền của mình rồi quay trở lên phòng.

    “Potter…” nó đi theo sau tôi.

    “Sao?”

    “Có chuyện quan trọng tao phải nói với mày.”

    “Boris,” tôi quay lại, “cái quái gì nữa. Sao thế?” tôi nói khi hai đứa đứng đối diện nhau. :Nếu có gì cần nói thì cứ nói thẳng với tao.”

    “Tao sợ là mày sẽ nổi giận.”

    “Chuyện gì? Mày đã làm gì?”

    Boris không nói mà chỉ gặm đầu ngón tay cái.

    “Sao, cái gì?”

    Nó nhìn qua chỗ khác. “Mày phải ở lại đây,” nó nói mơ hồ. “Mày đang phạm sai lầm đó.”

    “Quên đi,” tôi phủ nhận và lại quay đi. “Nếu mày không muốn cùng đi với tao thì đừng đi, được chứ? Còn tao thì không thể đứng đây cả đêm được.”

    Tôi cứ nghĩ là nó sẽ hỏi thứ ở trong cái vỏ gối là gì, đặc biệt là khi nó trông quá phồng và có hình thù kì quái sau công việc dán băng dính quá sức nhiệt tình của tôi. Nhưng khi tôi gỡ nó ra khỏi đầu giường và đặt nó vào túi hành lý (cùng với máy iPod, sổ tay, quyển Gió, Cát và Những Vì Sao, vài bức ảnh của mẹ, bàn chải của tôi, cùng với ít quần áo) nó chỉ gầm gừ chứ chẳng nói gì. Khi tôi lôi từ sâu trong tủ ra cái áo khoác đồng phục (quá nhỏ so với tôi, mặc dù lúc mẹ tôi mua thì nói vẫn còn rộng chán chê) nó gật đầu và nói: “Cái đó được đấy.”

    “Cái gì?”

    “Làm mày trông đỡ giống vô gia cư hơn.”

    “Tháng mười một rồi,” tôi nói. Lúc tới đây tôi chỉ mang có một cái áo len ấm từ New York; tôi cho cái áo khoác vào túi và kéo khóa lại. “Thời tiết sẽ rất lạnh.”

    Boris khinh khỉnh đứng dựa vào tường. “Rồi mày định làm gì? Ngủ trên phố, ở ga tàu hay chỗ nào?”

    “Tao sẽ gọi đứa bạn mà hồi xưa tao ở cùng.”

    “Nếu họ muốn có mày, những người đó đó, thì họ đã nhận nuôi mày rồi.”

    “Họ không thể! Sao mà họ làm thế được?”

    Boris khoanh tay lại. “Họ đâu có muốn mày, gia đình đó. Chính mày đã nói với tao như vậy – nói cả ngàn lần. Hơn nữa, mày cũng chưa nghe tin gì từ họ cả.”

    “Không đúng,” tôi nói sau một thoáng ngập ngừng. Chỉ mới vài tháng trước, Andy còn gửi cho tôi một email dài (đối với cậu ấy) kể tôi nghe về những chuyện đang xảy ra ở trường, một vụ tai tiếng khi huấn luyện viên tennis đi tán tỉnh mấy cô bạn cùng lớp chúng tôi, mặc dù chuyện đó ở xa tới mức tôi thấy như đang đọc về những người tôi chẳng quen biết.

    “Nhiều con quá?” Boris nói, giọng có vẻ đã hơi châm chọc. “Không có đủ phòng? Còn nhớ đoạn đó không? Mày nói hai bố mẹ nhà đó vui khi thấy mày đi đó.”

    “Mày biến đi.” Tôi lại đang đau đầu nữa. Nếu Bên Dịch Vụ Xã Hội mà xuất hiện và tống tôi vào sau xe ô tô thì tôi phải làm gì đây? Có ai - ở Nevada – mà tôi có thể gọi được nhỉ? Cô Spears? Bà Playa? Gã nhân viên ục ịch ở cửa hàng đồ chơi lắp ghép chỉ bán cho chúng tôi keo dán mà không bán đồ lắp ghép?

    Boris theo tôi đi xuống cầu thang, nơi mà chúng tôi bị chặn lại giữa phòng khách bởi con Popper trông khổ sở như bị hành hạ - nó chạy vào giữa lối đi, rồi ngồi đó và nhìn bọn tôi chằm chằm như thể nó hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra vậy.

    “Ôi, khốn nạn,” tôi nói, đặt túi xuống. Sau đó là im lặng hoàn toàn.

    “Boris,” tôi nói, “liệu mày có thể…”

    “Không.”

    “Vậy liệu Kotku…”

    “Không.”

    “Vậy thì biến đi,” tôi nói, bế nó lên và kẹp dưới nách. “Tao sẽ không để nó cho cô ta nhốt lại và bỏ đói đâu.”

    “Và mày đi đâu đấy?” Boris hỏi khi thấy tôi hướng ra cửa.

    “Gì cơ?”

    “Đi bộ? Đến sân bay sao?”

    “Chờ đã,” tôi nói, đặt Popchik xuống. Đột nhiên tôi thấy nôn nao như thể sắp nôn hết rượu vang đỏ ra thảm. “Họ có cho chó lên máy bay không?”

    “Không,” Boris đáp phũ phàng, miệng nhổ ra một mẩu móng tay vừa cắn.

    Nó đang trở thành một thằng khốn; tôi thật muốn đấm nó quá. “Vậy được rồi,” tôi nói. “Có lẽ ai đó ở sân bay sẽ muốn nó. Hoặc mặc kệ, tao sẽ đi tàu hỏa.”

    Nó đang định mở miệng nói đểu câu gì đó, môi nó đã dẩu lên cái kiểu mà tôi thấy quá đỗi quen thuộc, nhưng rồi – đột ngột – nó lại ngập ngừng; tôi quay lại và thấy Xandra, mắt dại đi, mascara đã nhòe nhoẹt, cổ đang lảo đảo ở bậc cầu thang trên cùng.

    Chúng tôi nhìn cổ, đông cứng tại chỗ. Sau một hồi im lặng dài như mấy thế kỉ, cô ấy đã mở miệng, rồi lại khép miệng, tay bám lấy thành cầu thang để đứng vững, và rồi cổ nói bằng giọng khàn khàn: “Anh Larry có để lại chìa khóa két ngân hàng không?”

    Chúng tôi nhìn cổ đầy khiếp sợ trước khi nhận ra là cổ đang đợi câu trả lời. Tóc cổ trông như đống rơm; cô ấy hoàn toàn mất phương hướng và loạng quạng như thể sắp ngã lộn cổ xuống cầu thang đến nơi.

    “Ơ, có,” Boris nói lớn. “À mà không.” Và rồi, khi cổ vẫn đứng đó: “Ổn rồi. Cô cứ đi ngủ tiếp đi.”

    Cô ấy lẩm bẩm gì đó và – nghiêng ngả trên chính đôi chân của mình – cổ lại lảo đảo quay trở lại phòng. Hai chúng tôi đứng bất động một lúc. Rồi – sau gáy tôi như bị kim châm – tôi cầm túi đồ và chuồn ra khỏi cửa trước (lần sau cùng tôi thấy căn nhà, và cô ta, mặc dù tôi cũng chẳng buồn nhìn quanh một lần cuối) còn Boris và Popchik thì đi sau tôi. Ba chúng tôi cùng nhau đi thật nhanh cách xa khỏi căn nhà và đi xuống cuối phố, tiếng móng chân con Popchik loẹt quẹt trên vỉa hè.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Nga: số 0.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Ở các nước nói tiếng Anh, Transylvania thường được liên tưởng tới các truyền thuyết về ma cà rồng.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tạm dịch: Những khu vực sai lầm của bạn.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Driving While Intoxicated: Tội lái xe khi say rượu.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tác giả dùng từ “eight ball” là tiếng lóng chỉ một gói cocain (thuốc phiện) nặng khoảng 3.5gr

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Trong tiếng Nga nghĩa là “không”.
     
  3. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    “Được rồi,” Boris nói bằng cái giọng thì thầm hài hước thường dùng những lần chúng tôi suýt bị tóm ở siêu thị. “Thôi được. Có lẽ không ngủ say lắm như tao tưởng.”

    Tôi đổ mồ hôi lạnh, và không khí buổi đêm – mặc dù lạnh – vẫn thật sảng khoái. Xa về phía đông, nhưng tia chớp Frankenstein đang lóe lên trong bóng tối.

    “Ừm, ít nhất là cổ chưa chết, nhỉ?” Nó khúc khích cười. “Tao đã lo vậy đấy. Chúa ơi.”

    “Cho tao dùng điện thoại của mày một tẹo,” tôi nói, tay lùng sục áo khoác. “Tao cần gọi xe.”

    Nó mò mẫm trong túi nó, và đưa điện thoại cho tôi. Đó là một cái điện thoại rẻ tiền, cái mà nó mua để liên lạc thường xuyên với Kotku.

    “Không, mày cứ giữ đi,” nó nói, giơ cả hai bàn tay lên khi tôi muốn đưa lại điện thoại cho nó sau khi gọi xong: Taxi Lucky, 777-7777, số điện thoại được in lên mọi ghế ngồi chờ xe buýt ở Vegas này. Rồi nó lôi ra một cọc tiền – phần tiền của nó từ chỗ chúng tôi thó của Xandra – và cố ấn nó cho tôi.

    “Quên đi,” tôi nói, mắt lo lắng nhìn trở lại phía ngôi nhà. Tôi chỉ sợ cổ có thể lại thức dậy và ra phố tìm chúng tôi. “Số đó là của mày.”

    “Không! Mày có thể cần đến đấy!”

    “Tao không muốn nó,” tôi nói, tay đút chặt vào túi để không cho nó dúi số tiền cho tôi. “Dù sao thì, bản thân mày cũng có thể cần đến chúng.”

    “Thôi nào, Potter! Tao chỉ ước là mày đừng đi vào giờ phút này.” Nó chỉ về phía cuối phố, chỗ mấy dãy nhà không người ở. “Nếu mày không tới nhà tao – hãy ở lại chỗ kia một hoặc hai ngày thôi! Ngôi nhà gạch đó thậm chí còn có nội thất bằng gỗ nữa. Tao sẽ đem đồ ăn cho mày nếu mày muốn.”

    “Ơ, này, tao có thể gọi bọn Domino’s mà,” tôi nói, đút điện thoại vào túi áo khoác. “Vì giờ bọn họ có giao hàng tới tận đây cơ đấy.”

    Nó nhăn nhó. “Đừng giận mà.”

    “Tao đâu có.” Và, thực tình, tôi không hề giận – chỉ là tôi đang thấy hơi mất cân bằng khi nghĩ tới việc mình có thể thức dậy và nhận ra mình đã ngủ với một cuốn sách úp lên mặt.

    Tôi nhận ra Boris đang nhìn lên bầu trời và lẩm nhẩm hát một mình, câu hát từ một trong số những bài của nhóm Velvet Underground mà mẹ tôi thích: Nhưng nếu bạn khép cánh cửa lại… đêm nay sẽ kéo dài vô tận…

    “Còn mày thì sao?” tôi nói khi đang dụi mắt.

    “Gì?” nó nói, quay ra nhìn tôi với một nụ cười.

    “Sao chứ? Tao sẽ còn gặp lại mày chứ?”

    “Có lẽ,” nó nói, bằng giọng tươi vui mà tôi tưởng tượng là nó vẫn dùng với Bami và Judy vợ của người chủ quán bar xưa ở Karmeywallag và với những người khác nữa mà nó đã từng chào tạm biệt trong cuộc đời. “Ai mà biết được?”

    “Trong vòng một đến hai ngày thì mày sẽ gặp tao chứ?”

    “Thì…”

    “Hãy đi ngay sau tao. Lên một cái máy bay – mày có tiền mà. Tao sẽ gọi mày và nói tao đang ở chỗ nào. Đừng có nói không đấy.”

    “Vậy được thôi,” Boris nói vẫn bằng cái giọng tươi vui ấy. “Tao sẽ không từ chối.” Nhưng rõ ràng, từ giọng điệu đó, nó đang nói không.

    Tôi nhắm mắt lại. “Ôi Chúa ơi.” Tôi mệt đến quay cuồng đầu óc; tôi phải kháng cự lại ước muốn được nằm xuống mặt đất, một lực kéo thật mạnh đang ấn tôi xuống. Khi mở mắt ra tôi bỗng thấy Boris đang nhìn mình ái ngại.

    “Nhìn mày kìa,” nó nói. “Sắp ngã lăn quay ra đây rồi.” Nó sờ vào trong túi áo.

    “Không, không, không,” tôi nói, bước lùi lại, khi tôi thấy nó đang cầm gì trong tay. “Không đời nào. Quên chuyện đó đi.”

    “Nó sẽ làm mày thấy khá hơn mà!”

    “Với những thứ khác mày cũng nói y chang vậy.” Tôi không thể hứng thú nổi với tảo biển hay mấy vì sao biết hát nữa đâu. “Thật đấy, tao không muốn.”

    “Nhưng cái này khác. Hoàn toàn khác. Nó sẽ làm mày tỉnh táo. Làm đầu mày sáng sủa hơn – hứa đấy.”

    “Đúng rồi.” Loại thuốc mà làm bạn tỉnh táo và nhẹ nhàng đầu óc có vẻ không giống như phong cách thường thấy của Boris chút nào, mặc dù nó có vẻ hợp với loại thuốc này hơn tôi.

    “Nhìn tao đây,” nó nói ôn tồn. “Đúng.” Nó biết là nó đang nắm được tôi trong tay. “Tao có đang mê sảng không? Mồm có sùi bọt mép không? Không – tao chỉ giúp ích được nhiều hơn thôi! Đây,” nó nói, đổ một ít ra lòng bàn tay, “thôi nào. Để tao cho mày thử.”

    Tôi vẫn nửa tin nửa ngờ rằng nó lừa tôi – rằng thể nào tôi chẳng ngất tại chỗ và tỉnh dậy ở chỗ chẳng ai biết là đâu, có lẽ là một trong mấy ngôi nhà vô chủ bên đường. Nhưng tôi cũng không còn sức mà quan tâm nữa, và biết đâu mọi chuyện lại ổn. Tôi cúi người ra trước và để nó dùng đầu ngón tay ấn một bên cánh mũi của tôi. “Đó!” nó nói khích lệ. “Như vầy. Giờ thì hít đi.”

    Gần như ngay lập tức, tôi thấy tốt hơn thật. Như phép màu vậy. “Wow,” tôi nói, tự bóp mũi vì cảm giác như bị chích đột ngột.

    “Chẳng phải tao đã nói hay sao?” Nó đã rắc thêm chút nữa. “Đây, mũi bên kia. Đừng thở ra. Được rồi, luôn đi.

    Mọi thứ như trở nên sáng sủa và trong trẻo hơn, bao gồm cả chính Boris.

    “Tao đã nói gì với mày nào?” Nó đang lấy thêm cho chính nó dùng. “Mày có thấy tiếc vì đã không nghe lời tao không hả?”

    “Mày sẽ bán thứ này, Chúa ơi,” tôi nói, mắt ngước nhìn lên trời. “Tại sao?”

    “Nó đáng giá lắm, thật đó. Được đến vài ngàn đô.”

    “Chỉ ít thế thôi à?”

    “Không ít thế đâu! Ở đây có bao nhiêu gam – hai mươi, thậm chí còn hơn. Tao có thể giàu to nếu chia nhỏ ra và bán cho mấy ả như K. T. Bearman.”

    “Mày biết K. T. Bearman à?” Katie Bearman, người lớn hơn chúng tôi một tuổi, đã có ô tô riêng – một con mui trần màu đen – và cách xa khỏi lũ học sinh như thể cổ là một ngôi sao điện ảnh vậy.

    “Hẳn rồi. Skye, KT, Jessica, tất cả mấy ả đó. Dù sao thì…” nó lại đưa tôi cái lọ đựng… “bây giờ tao có thể mua cho Kotku cái bàn phím mà cổ muốn. Không lo gì về tiền bạc nữa.”

    Chúng tôi cứ tới lui hết lần này đến lần khác cho tới lúc tôi bắt đầu cảm thấy lạc quan hơn về tương lai và nói chung là về mọi thứ. Và khi chúng tôi đứng đó mà xoa mũi và nói lắp bắp đủ thứ ở ngay trên phố thì Popper đứng nhìn lên phía chúng tôi bằng cặp mắt tò mò, khi tôi chuẩn bị nói về New York thì sự tuyệt diệu của nó đã như ở ngay trước mắt, một sự chuyển đổi có thể diễn đạt được bằng lời. “Ý tao là, nó hay lắm,” tôi nói. Từ ngữ như đang xoắn ốc và lộn nhào ra khỏi miệng tôi. “Thật đó, mày phải tới. Chúng ta có thể tới biển Brighton – đó là nơi mà mọi người Nga đều đến tụ tập chơi bời. Ừm, tao thì chưa tới đó bao giờ. Nhưng có tàu đi tới đó – nó là trạm dừng cuối cùng của chuyến đi. Có cộng đồng người Nga lớn lắm, những nhà hàng có cá hun khói và cá tầm trứng. Mẹ tao với tao vẫn thường nói về việc một ngày nào đó sẽ tới ăn, nghệ nhân nữ trang cùng làm việc với mẹ tao có gợi ý mấy chỗ hay ho để đi, nhưng mẹ với tao chẳng bao giờ làm được hết. Chắc sẽ vui lắm. Cái này nữa, ý tao là – tao có tiền để đi học – mày có thể đi học trường của tao. Không – mày hoàn toàn có thể mà. Tao có học bổng. Thì, tao đã từng có. Nhưng người đàn ông kia nói rằng miễn là số tiền trong tài khoản được sử dụng vào việc học – đó có thể là việc học của bất kỳ ai. Không phải chỉ của riêng tao. Số đó thừa đủ cho tao với mày. Mặc dù, ý tao là, trường công, trường công ở New York tốt lắm, tao biết nhiều người ở đó, với tao thì trường công lập là đủ.”

    Tôi vẫn còn đang thao thao bất tuyệt thì Boris nói: “Potter.” Trước khi tôi kịp trả lời thì nó đã lấy cả hai tay ôm lấy mặt tôi và hôn tôi ngay giữa miệng. Và trong khi tôi còn đứng đó mà chớp mắt – ngay trước khi tôi kịp nhận thấy điều gì đang diễn ra – nó bế xốc nách con Popper lên và cũng hôn nó luôn, con chó đang quẫy đạp giữa không trung.

    Rồi nó chuyển con chó cho tôi. “Xe của mày đến rồi,” nó nói, xoa đầu con chó lần cuối cùng. Và – chắc chắn rồi – khi tôi quay lại, một chiếc ô tô tới từ thành phố đang lò dò bên vệ đường tìm địa chỉ.

    Chúng tôi đứng đó nhìn nhau – tôi vẫn thở gấp, hoàn toàn kinh ngạc.

    “Chúc may mắn,” Boris nói. “Tao sẽ không quên mày đâu.” Rồi nó vỗ nhẹ lên đầu Popper. “Tạm biệt, Popchyk. Mày phải chăm sóc nó đấy nhé?” nó nói với tôi.

    Sau đó – khi ở trong taxi, và cuối cùng – tôi cũng nhớ lại khoảnh khắc đó, và sửng sốt nhận ra tôi đã vẫy tay chào và quay gót thật dễ dàng quá. Tại sao tôi không nắm lấy cánh tay nó và xin nó lần cuối cùng hãy vào trong ô tô đi, thôi nào, mày khốn lắm Boris, chỉ như những lần trốn học thôi, chúng tôi sẽ ăn sáng bằng bánh ngô khi mặt trời ló dạng? Tôi biết nó đủ nhiều để hiểu rằng nếu bạn yêu cầu nó đúng cách, vào đúng thời điểm, thì nó có thể làm bất cứ điều gì; và ngay khi quay lưng đi tôi biết nó sẽ chạy theo và nhảy ngay vào xe nếu tôi hỏi nó thêm một lần cuối cùng.

    Nhưng tôi đã không làm vậy. Và, thật ra, nếu tôi không làm có lẽ sẽ tốt hơn – tôi đang nói điều này, cho dù tôi cũng đã cay đắng hối tiếc trong chốc lát. Hơn bất cứ thứ gì, tôi thở phào khi biết rằng lúc bản đang ở trong trạng thái thao thao bất tuyệt không tiếc lời thì tôi đã kịp tự ngăn mình xổ ra những câu chữ đã mấp mé ở đầu lưỡi, mặc dù đó cũng là thứ mà cả hai chúng tôi đều biết rõ mà không cần tôi phải nói thành lời cho nó nghe – tất nhiên, là câu tao yêu mày.


    xx.

    TÔI MỆT RÃ RỜI đến nỗi viên thuốc cũng không có tác dụng lâu cho nổi, ít nhất là cái phần dễ chịu ấy. Người tài xế - qua giọng nói thì có vẻ là một người New York di cư – đã ngay lập tức đánh hơi có gì đó không ổn và muốn đưa tôi tấm card của Tổng đài Cứu trợ mà tôi từ chối nhận. Khi tôi bảo anh ta đưa tôi ra bến tàu (tôi còn không biết ở Vegas có tàu hỏa không – chắc là phải có), anh ta lắc đầu và nói: “Cậu biết là người ta không cho mang chó lên tàu mà đúng không?”

    “Họ không cho sao?” tôi nói, tim chùng xuống.

    “Máy bay – có thể, tôi không biết.” Anh ta là một chàng trai trẻ, một người nói liến thoắng, mặt búng ra sữa nhưng người có vẻ thừa cân, mặc một chiếc áo phông có dòng chữ PENN VÀ TELLER: SỐNG Ở RIO. “Cậu sẽ phải có chuồng cho nó, hoặc gì đấy. Có lẽ xe buýt là hợp nhất. Nhưng họ không cho trẻ em chưa đủ tuổi lên xe mà không có bố mẹ đi cùng đâu.”

    “Tôi đã nói rồi còn gì! Bố tôi chết rồi! Bạn gái ông ấy sẽ gửi tôi trở lại gia đình ở phía tây.”

    “Ơ, này này, vậy giờ cậu đâu cần lo lắng nữa đúng không?”

    Suốt chuyến đi tôi câm như hến. Dường như tôi vẫn chưa hoàn toàn cảm nhận được sự thật rằng bố tôi đã chết, và đôi lúc, ánh đèn lướt qua trên đường cao tốc lại mang mọi thứ trở lại, nhanh đến phát bệnh. Một vụ tai nạn. Ít nhất khi ở New York chúng tôi không phải lo về việc ông ấy say xỉn khi lái xe – nỗi sợ hãi lớn nhất là ổng có thể ngã ra trước đầu ô tô hoặc bị đâm bởi kẻ cướp ví khi đang lướt khướt ra khỏi quán bar lúc ba giờ sáng. Thi thể bố tôi thì sẽ ra sao? Tôi đã rắc tro của mẹ ở Công viên Trung tâm, mặc dù rõ ràng đã có quy định cấm việc đó; một buổi tối muộn, tôi đã đi bộ với Andy ra khu vực vắng người ở phía tây của Hồ và – trong khi Andy canh chừng – tôi đi rải tro. Những mảnh cuối cùng đã được rải khắp nơi, nhưng việc đó không làm tôi chú ý bằng việc bình đựng tro được bọc bởi mấy lớp báo lấy từ tạp chí khiêu dâm: NHỮNG EM GÁI CHÂU Á TẮM BỒN và SỰ LÊN ĐỈNH NÓNG BỎNG ƯỚT ÁT là hai cụm từ tôi tình cờ đọc được trong khi bột tro xám và màu sắc của những hòn đá mặt trăng thì như xoáy tròn trong một chiều chạng vạng của tháng năm.

    Rồi có ánh đèn đường, và chiếc xe dừng lại. “Được rồi, cậu bé,” tài xế của tôi nói, anh ta quay lại, một tay buông sau lưng ghế. Chúng ta tới điểm đỗ xe của ga Greyhound rồi. “Cậu nói tên cậu là gì ấy nhỉ?”

    “Theo,” tôi nói mà không nghĩ, và ngay lập tức thấy hối hận.

    “Được rồi, Theo. Tôi là J.P.” Anh ta với ra đằng sau để bắt tay tôi. “Cậu muốn nghe lời khuyên của tôi không?”

    “Chắc chắn rồi,” tôi nói, hơi rụt rè. Mặc dù đã có một số chuyện xảy ra, và hẳn là không ít chuyện, nhưng tôi vẫn thấy vô cùng ngại ngùng khi chàng trai này có lẽ đã chứng kiến cảnh Boris hôn tôi trên phố.

    “Không liên quan tới tôi, nhưng cậu sẽ cần thứ gì đó để cho con Bông Xù vào.”

    “Gì cơ?”

    Anh ta gật đầu về phía chiếc túi của tôi. “Nó có ở vừa trong đó không?”

    “Ừm…”

    “Dù sao thì cậu cũng phải kiểm tra lại cái túi đó. Nó có lẽ là quá to để cậu có thể mang đi nước ngoài – họ sẽ tống chúng xuống dưới đáy thôi. Nó không giống như trên máy bay đâu.”

    “Tôi…” Cái này khó nghĩ quá. “Tôi chẳng có gì hết.”

    “Chờ đã. Để tôi kiểm tra lại văn phòng mình coi.” Anh ta đứng dậy, đi vòng ra chỗ thùng xe đằng sau, và quay trở lại với một chiếc túi mua hàng làm bằng vải bò từ một cửa hàng đồ ăn sạch có tên The Greening of America.

    “Nếu tôi là cậu,” anh ta nói, “tôi sẽ vào đó mua vé mà không đem theo Bông Xù. Cứ để nó ở ngoài này với tôi, phòng trường hợp, chịu không?”

    Người bạn mới của tôi đã đúng về việc không thể đi tàu Greyhound nếu không có biên bản Trẻ em Không có người đi kèm do bố hoặc mẹ ký – và còn có nhiều luật lệ dành cho trẻ em khác nữa. Nhân viên nhà ga ngồi sau cửa sổ - một người phụ nữ gốc Mexico nhạt nhẽo với mái tóc buộc hết ra sau – bắt đầu đọc cả danh sách dài lê thê bằng giọng đều đều. Không được chuyển tàu. Không được đi chuyến nào dài hơn năm giờ đồng hồ. Trừ khi người được nêu tên trong biên bản Trẻ em Không có người đi kèm tới gặp tôi, với giấy tờ tùy thân hợp lệ, tôi sẽ được trao trả cho Hội Bảo trợ Trẻ em hoặc cho văn phòng luật pháp đại diện ở thành phố mà tôi định tới.

    “Nhưng mà…”

    “Tất cả trẻ em dưới mười lăm tuổi. Không ngoại lệ.”

    “Nhưng cháu đâu có dưới mười lăm,” tôi nói, tay vụng về lôi ra cái thẻ căn cước New York trông có vẻ đúng luật. “Cháu đã mười lăm tuổi rồi. Cô xem đi.” Chú Enrique – lường trước khả năng tôi có thể phải đi vào cái mà chú gọi là Hệ Thống – đã đưa tôi đi chụp ảnh thẻ không lâu sau khi mẹ tôi mất; và mặc dù tôi chẳng thích thú gì việc đó, khi Big BrotherVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link còn đang vươn móng vuốt đi khắp nơi (“Wow, mã vạch riêng của cậu này,” Andy nói trong khi nhìn vào tấm ảnh đầy tò mò), giờ thì tôi mới thấy biết ơn vì chú ấy đã liệu trước mà đưa tôi xuống phố và đăng ký một cái xe máy cũ dưới tên tôi. Tôi đông cứng lại như một người tù ẩn trốn, chờ đợi dưới ánh đèn huỳnh quang nhếch nhác để người bán vé soi kĩ tấm thẻ khoảng một cơ sồ lần và ở một cơ số góc khác nhau, để xem có phải thật hay không.

    “Mười lăm,” cổ nói đầy nghi ngờ và đưa lại nó cho tôi.

    “Đúng vậy ạ.” Tôi biết mình trông không giống với độ tuổi của mình. Tôi cũng nhận ra là không phải hỏi về vấn đề của Popper nữa vì có một tấm biển to tướng ngay gần bàn với dòng chữ đỏ KHÔNG VẬN CHUYỂN CHÓ, MÈO, CHIM, LOÀI GẶM NHẤM, LOÀI BÒ SÁT HOẶC BẤT CỨ LOÀI NÀO KHÁC.

    Với xe buýt thì vẫn còn may: có một chuyến 1:45 sáng tới New York sẽ rời bến trong vòng mười lăm phút nữa. Khi chiếc máy đục một lỗ trên tấm vé của tôi, tôi đứng đực ra đó mà tự hỏi phải làm gì với Popper đây. Đi ra ngoài, tôi còn nửa hi vọng là anh tài xế đã đi rồi – có lẽ là sẽ mang Popper tới cho một nhà nào an toàn và yêu thương nó hơn – nhưng thay vào đó tôi vẫn thấy anh ta đứng đó uống một lon Red Bull và đang nói chuyện điện thoại, Popper thì không thấy đâu. Anh ta cúp máy khi thấy tôi đứng đó. “Cậu thấy sao?”

    “Nó đâu rồi?” Tôi lảo đảo tới nhìn vào ghế sau. “Anh đã làm gì với nó rồi?”

    Anh ta cười lớn. “Giờ cậu không thấy và… giờ lại thấy!” Nhanh vèo một cái, anh ta nhấc hết đống giấy báo USA Today ra khỏi cái túi vải bò đặt ở ghế trước ngay cạnh anh ta; và ở đó, nằm gọn gàng trong hộp bìa dưới đáy túi vải, đang nhai mấy miếng khoai tây chiên, là Popper.

    “Đánh lạc hướng,” anh nói. “Cái hộp đã chật kín cả túi rồi nên sẽ không lộ hình dạng chú chó và sẽ cho chú ta ít không gian để cựa quậy. Còn đống giấy báo – màn ngụy trang hoàn hảo. Che đậy cho nó, khiến cái túi trông có vẻ đầy, mà lại không thêm tí trọng lượng nào.”

    “Anh nghĩ làm thế này có ổn không?”

    “Ừm, ý tôi là, chú chó cũng nhỏ thôi – được khoảng năm, sáu pound à? Nó có yên lặng không?”

    Tôi nhìn nó ngờ vực, nó đang cuộc mình ở đáy hộp. “Không phải lúc nào nó cũng im đâu.”

    J.P. lấy mu bàn tay lau miệng, và đưa cho tôi gói khoai tây. “Cho chú ta mấy miếng này nếu chú ta có bồn chồn. Cứ vài giờ cậu sẽ dừng một lần. Cứ ngồi càng về sau xe càng tốt, và phải chắc chắn là đã đi thật xa khỏi điểm dừng xe rồi mới được lôi chú ta ra đấy.”

    Tôi đeo túi lên vai và vòng một tay qua ôm túi. “Anh chắc không?” tôi hỏi.

    “Không. Không chắc nếu tôi không biết. Nhưng để tôi nói cho cậu mẹo này nhé? Bí mật của ảo thuật gia ấy?”

    “Tất nhiên rồi.”

    “Đừng nhìn xuống cái túi như vậy. Nhìn khắp nơi trừ cái túi. Ngắm cảnh, nhìn xuống dây giày – được rồi, cứ thế - đúng rồi. Cứ tự tin và thản nhiên, chỉ là con mèo con thôi mà. Tỏ ra luống cuống như đang tìm kính áp tròng bị rơi cũng sẽ hiệu quả nếu cậu nghĩ mọi người đang soi cậu. Làm đổ gói khoai tây – va ngón chân vào đâu đấy – sặc khi uống nước – bất cứ thứ gì.”

    Wow, tôi nghĩ. Rõ ràng không phải tự nhiên mà họ gọi nó là Taxi Lucky.

    Anh ta lại cười lần nữa, như thể tôi vừa nói ra cái suy nghĩ của mình vậy. “Này, cái quy định đấy vớ vẩn thật, không mang chó lên xe buýt,” anh ta nói, nốc thêm một ngụm Red Bull nữa. “Ý tôi là, những người như cậu sẽ phải làm gì? Vứt nó ở vệ đường à?”

    “Anh là ảo thuật gia hay gì à?”

    Anh ấy cười. “Sao cậu đoán thế? Tôi có thời gian biểu diễn ảo thuật bài trong một quán bar ở Orleans – nếu cậu đủ tuổi vào đó thì tôi sẽ mời cậu tới và kiểm tra mấy trò của tôi xem sao. Dù sao thì, bí mật là, cậu bé ạ. Đánh lạc hướng. Đừng bao giờ quên.”


    xxi.

    BANG UTAH. DÃY SAN RAFAEL, khi mặt trời lên, đã duỗi thẳng thành một khung cảnh như trên sao Hỏa: sa thạch và đá sét, những hẻm núi và những bình địa đỏ quạch heo hút. Tôi không ngủ được nhiều, một phần là vì tác dụng của thuốc, một phần là vì sợ rằng Popper có thể động đậy và rên ư ử, nhưng nó hoàn toàn im lặng trong khi chúng tôi đi trên những con đường núi quanh co, nó nằm im thin thít trong chiếc túi đặt trên ghế ngồi cạnh tôi, về phía gần cửa sổ hơn. Như những gì đã xảy ra, hành lý của tôi đã đủ nhỏ để đem lên xe, điều mà tôi thấy rất vui: áo len của tôi, cuốn Gió, Cát và Những vì sao, nhưng trên hết là bức tranh của tôi, thứ đồ vật mang một sức mạnh bảo vệ cho dù bị bọc lại và không ai có thể nhìn thấy, như một đồ vật thiêng liêng mà người chiến binh đem vào trận chiến. Không có hành khách nào khác ở phía sau xe ngoại trừ một cặp đôi người Tây Ban Nha có vẻ nhút nhát với mấy gói đồ ăn đặt trên đùi, cùng với một ông già say rượu đang tự nói chuyện với mình, và chúng tôi đã bình an đi qua những cung đường đầy gió ở Utah và vào vùng Grand Junction, bang Colorado, nơi chúng tôi nghỉ chân năm mươi phút. Sau khi tôi đặt hành lý vào tủ đồ có trả tiền, tôi dắt Popper đi phía sau trạm xe buýt, khuất xa khỏi tầm nhìn tài xế, để mua cho bản thân chúng tôi hai chiếc hamburger từ quán Burger King và cho nó uống nước từ cái nắp nhựa của bình nước tôi tìm thấy trong thùng rác. Tôi ngủ suốt từ Grand Junction cho tới khi tạm dừng ở Denver, một tiếng mười sáu phút, gần đến lúc mặt trời lặn rồi – nơi mà Popper và tôi cứ chạy và chạy, thở phào vì được ra khỏi cái xe buýt, chúng tôi chạy suốt trên những con phố tối tăm đến mức tôi còn sợ là mình sẽ bị lạc mất, nhưng rồi thật mừng rỡ khi tìm thấy một quán cà phê kiểu hippie nơi mà nhân viên phục vụ rất trẻ và thân thiện (“Cứ cho chú ta vào đi!” cô gái tóc tím ở quầy nói khi thấy Popper bị xích bên ngoài, “chúng tôi yêu chó lắm!”) và cũng là nơi mà tôi mua không chỉ hai cái sandwich gà tây (một cho tôi, một cho nó) mà cả một cái bánh brownieVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link chay và một túi bánh quy chay cho chó.

    Tôi đọc sách đến muộn, mặt giấy vàng kem như xoay tròn dưới ánh sáng đèn yếu ớt, trong khi màn đêm vô định cứ lướt qua, qua cả khu Continental Divide và ra khỏi dãy Rockies, Popper đã hài lòng sau chuyến chạy bộ quanh Denver và giờ đang an tâm ngủ trong chiếc túi của mình.

    Có lúc tôi đã thiếp đi, và rồi lại thức giấc và đọc thêm một ít. Vào lúc hai giờ sáng, đúng lúc nhà văn Saint –Exupéry đang kể câu chuyện về chiếc máy bay của ông lao xuống sa mạc, thì chúng tôi đã đi vào vùng Salina, Kansas (“Những ngã tư đường của nước Mỹ”) – nghỉ chân hai mươi phút, dưới ngọn đèn natri bị bướm đêm bu đen lại, nơi mà Popper và tôi chạy quanh một trạm xăng bỏ hoang trong bóng tối, đầu óc tôi vẫn tràn ngập ý nghĩ về cuốn sách trong khi cùng lúc cũng thấy mừng rỡ khi lần đầu tiên trong đời được đặt chân lên vùng quê của mẹ tôi – liệu mẹ tôi, trong những chuyến đi với cha mình, có từng được lái xe qua thành phố này, những chiếc ô tô chạy vụt qua trên Đường Chín Đại lộ Liên bang, những kho thóc thì thắp điện như tàu vũ trụ sáng rực suốt mấy dặm đường? Trở lại xe buýt – buồn ngủ, bẩn thỉu, mệt rã rời và lạnh – Popchik và tôi đã ngủ suốt từ Salina cho tới Topeka, và từ Topeka cho tới thành phố Kansas, bang Missouri, nơi mà chúng tôi thức giấc vừa lúc bình minh.

    Mẹ tôi vẫn thường kể về vùng đất mẹ lớn lên nó bằng phẳng thế nào – phẳng đến nỗi bạn có thể thấy rõ những cơn lốc xoáy quét qua những cánh đồng từ cách xa mấy dặm – nhưng tôi vẫn không thể tin nổi là nó lại mênh mông thế, bầu trời bất tận, nó lớn lao đến nỗi bạn thấy mình bị đè nén và bóp vụn bởi sự vô hạn. Ở St. Louis, lúc gần trưa, chúng tôi có một tiếng rưỡi nghỉ chân (quá nhiều thời gian để dắt Popper đi bộ rồi ăn trưa bằng một cái sandwich thịt bò chẳng ngon lành gì, mặc dù vùng lân cận khá bí hiểm để có thể đi xa được) và – trở lại bến xe – chúng tôi chuyển sang một cái xe buýt hoàn toàn khác. Sau đó – chỉ được khoảng một hoặc hai giờ - tôi thức giấc, và xe cũng dừng, khi tôi phát hiện ra Popper đang ngồi im với cái mũi thò ra khỏi túi và một người phụ nữ da đen trung tuổi với son môi màu hồng sáng bước ra trước tôi, giọng nghe như sấm: “Cậu không thể để con chó đó trên xe được.”

    Tôi nhìn bà ấy chằm chằm, mất hết phương hướng. Thế rồi, thật hãi hùng, tôi nhận ra bà ấy không phải người khách tình cờ nào cả mà chính là người tài xế, với mũ và đồng phục.

    “Cậu không nghe tôi nói gì à?” bà ấy lặp lại, với một cái lắc đầu giận dữ. Bà ấy to lớn như một đô vật; cái bảng tên, gắn phía trên phần ngực to ấn tượng của bà ấy, ghi Denese. “Cậu không thể để con chó đó ở trên cái xe buýt này.” Thế rồi – mất hết kiên nhẫn – bà ấy làm động tác phủi tay như muốn nói: ấn nó vào trong túi đi cho rồi!

    Tôi che đầu nó lại – nó cũng có vẻ không phiền lắm – và ngồi đó co rúm người lại. Chúng tôi đang dừng ở một thị trấn tên là Effingham, bang Illinois: những ngôi nhà kiểu Edward HopperVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, tòa án đang xây dở, một tấm poster lớn viết bằng tay dòng chữ Những giao lộ của Cơ hội!

    Người tài xế đưa ngón tay chỉ một vòng. “Có ai ở đây phản đối con vật này không?”

    Những hành khách còn khác ngồi phía sau – (người đàn ông bù xù có ria mép vểnh; người phụ nữ trưởng thành đeo niềng răng; người mẹ da đen với đứa con gái tầm tuổi học tiểu học; ông lão trông giống W. C. Fields với ống thở và bình oxy bên cạnh – tất cả dường như ngạc nhiên quá đến mức không nói được gì, mặc dù cô gái nhỏ, cặp mắt to tròn, đã lắc đầu như ngầm nói: không.

    Người tài xế vẫn chờ đợi. Bà nhìn quanh. Rồi bà ấy quay qua tôi. “Thôi được. Tin tốt cho cậu và chú chó, anh bạn ạ. Nhưng nếu có bất kỳ…” bà lướt nhanh ngón tay qua tôi… “nếu bất kỳ hành khách nào ngồi dưới đây phàn nàn về việc cậu đem động vật lên xe, ở bất kỳ thời điểm nào, tôi sẽ buộc cậu phải xuống xe. Hiểu chứ?”

    Bà ấy không đá tôi đi sao? Tôi chớp mắt nhìn bà, sợ đến nỗi không dám cử động hay hé miệng.

    Cậu hiểu chứ?” bà lặp lại, giọng đe dọa hơn trước.

    “Cám ơn ạ…”

    Bà lắc đầu với đôi chút thù nghịch. “Ồ, không. Đừng cám ơn tôi, anh bạn. Vì tôi sẽ cho cậu xuống xe ngay nếu có duy nhất một lời phàn nàn. Duy nhất một mà thôi.”

    Tôi ngồi im thin thít khi bà ấy đi qua những dãy ghế và lên khởi động lại xe buýt. Khi chúng tôi lùi ra khỏi bãi đậu xe, tôi thậm chí còn sợ không dám liếc những hành khách khác, mặc dù tôi vẫn cảm nhận được là họ đều đang nhìn cả vào tôi.

    Bên cạnh đầu gối tôi, Popper khe khẽ hổn hển và cựa quậy. Tôi yêu nó, và cũng thấy thương cho nó, tôi chưa từng nghĩ rằng nó sẽ có gì đó đặc biệt thú vị hay thông minh như những chú chó thông thường. Thay vào đó tôi lại dành nhiều thời gian mong rằng nó sẽ trông ngầu hơn chút, một chú chó chăn cừu hay một chú chó dò mìn hay có thể là chó cứu hộ - thật ra là mọi loại chó trừ giống loài thật của nó: một chú chó dành cho bọn con gái, một thứ đồ chơi, bị gay toàn tập, một chú chó mà tôi sẽ thấy xấu hổ nếu dắt đi dạo trên phố. Không phải Popper không dễ thương; thật ra, nó chính xác là kiểu quả bóng lông nhỏ nhắn mà nhiều người vẫn thích – có thể không phải tôi nhưng chắc chắn là sẽ có những đứa con gái giống cô bé ngồi hàng ghế bên kia sẽ tìm thấy nó ở bên đường, đem nó về nhà và cài ruy băng lên người nó chẳng hạn?

    Tôi ngồi đó cứng đơ, đầu nghĩ đi nghĩ lại về cái khoảnh khắc đáng sợ đó: nét mặt người lái xe, tôi thì sốc nặng. Giờ tôi mới biết điều thực sự làm tôi sợ đó là nếu bà ấy bắt tôi phải cho Popper xuống xe thì tôi cũng sẽ phải xuống cùng (và làm gì?) ngay cả khi đang không biết ở chỗ nào của bang Illinois nữa. Mưa, cánh đồng ngô: chỉ có ngồi bên vệ đường thôi. Bằng cách nào mà tôi lại dính chặt vào loài động vật kì cục này vậy? Một con chó bế tay mà Xandra đã chọn?

    Qua bang Illinois và Indiana, tôi chỉ ngồi đó lắc lư và canh chừng: quá sợ đến mức không ngủ nổi. Cây bên đường đã trụi lá, bí ngô Halloween đục rỗng đã được bọc lên trên những ngọn đuốc. Ở dãy ghế bên kia, người mẹ ấy đang vòng tay ôm cô con gái nhỏ và hát, thật khẽ khàng: Con là ánh mặt trời của mẹVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Tôi chẳng có gì để ăn ngoài những mẩu vụn còn sót lại của gói khoai tây mà người lái xe taxi đã đưa tôi; và – cái vị muối mặn khó chịu đang đọng lại trong miệng tôi, những khu công nghiệp, những thị trấn nhỏ vô danh cứ thế lướt qua – tôi thấy lạnh lẽo và tuyệt vọng, mắt hướng ra những thửa đất xám xịt ngoài kia và nhớ về những bài hát mà mẹ đã hát cho tôi nghe, ngày xưa. Toot toot tootsie tạm biệt, toot toot tootsie, đừng khóc. Cuối cùng - ở bang Ohio, khi trời đã tối, và đèn đã lên ở những ngôi nhà nhỏ buồn bã nằm xa cách nhau – tôi mới thấy đủ an tâm mà ngủ thiếp đi, đầu hết ngả ra sau lại gật về trước, cho tới Cleveland, thành phố lạnh giá toàn một màu trắng nơi chúng tôi đổi xe buýt lúc hai giờ sáng. Tôi sợ không dám cho Popper đi bộ ra xa mặc dù biết là nó cần thế, vì lo rằng ai đó có thể thấy chúng tôi (bởi vì chúng tôi biết làm gì nếu bị phát hiện? Ở Cleveland mãi mãi à?). Nhưng nó cũng có vẻ e dè; và chúng tôi đứng run rẩy ở góc phố trong vòng mười phút trước khi tôi cho nó uống chút nước, đặt nó lại vào trong túi, rồi đi bộ lại trạm dừng để lên xe.

    Lúc đó đã nửa đêm và mọi người có vẻ như đều đang ngủ, khiến việc chuyển xe cũng dễ hơn; và chúng tôi lại chuyển xe vào trưa hôm sau, ở Buffalo, nơi mà xe búyt phải lạo xạo cán qua hàng lớp tuyết dày ở bến xe. Gió lạnh cắt da cắt thịt, kèm thêm cả hơi ẩm sắc nhọn; sau hai năm ở sa mạc thì tôi đã quên mất mùa đông thực sự – đau nhức và rát buốt – là như thế nào. Boris không trả lời bất cứ tin nhắn nào của tôi, có lẽ cũng dễ hiểu vì tôi đã gửi nó tới điện thoại của Kotku, nhưng dù sao tôi cũng đã gửi một tin khác: TỐI NAY TAO Ở BUFFALO NEW YORK. HI VỌNG MÀY VẪN KHỎE. CÓ TIN GÌ TỪ XANDRA CHƯA?

    Buffalo còn cách xa thành phố New York; nhưng ngoại trừ một lần dừng chân mơ mơ màng màng ở Syracuse, nơi mà tôi dắt Popper đi, cho nó uống nước và mua cho chúng tôi hai cái bánh pho mát Đan Mạch vì không còn thứ gì khác – thì tôi cũng ngủ được gần như cả quãng đường, qua cả Batavia, Rochester, Syracuse và Binghamton, tựa má lên cửa sổ và gió lạnh thì len lỏi qua khe kính, sự rung lắc nhè nhẹ ấy đưa tôi trở về với cuốn Gió, Cát và Những vì sao cùng với chiếc máy bay đơn độc bay trên sa mạc.

    Tôi nghĩ là mình đã ngầm phát ốm kể từ khi nghỉ chân ở Cleveland, nhưng trước khi tôi tới điểm cuối, ở Trạm kiểm soát tàu xe, thì trời đã tối và người tôi đang sốt bừng bừng. Tôi thấy lạnh, chân thì không vững nữa và thành phố - nơi mà tôi vẫn mong ngóng từ lâu – dường như trở nên lạ lẫm, ồn ào và lạnh giá, khói xe và rác rưởi cùng với biết bao người lạ mặt đang lao qua từ mọi hướng.

    Bến xe thì đầy những cớm. Nơi nào tôi nhìn tới cũng có biển hiệu nhà trọ, đường dây nóng cho những người bỏ nhà đi, và một nữ cảnh sát còn đặc biệt nhìn tôi từ đầu tới chân khi tôi đang mau chóng đi ra ngoài – sau hơn sáu mươi tiếng đồng hồ trên xe buýt, tôi thật bẩn thỉu, mệt mỏi và biết rằng mình vẫn chưa thoát khỏi sự kiểm tra – nhưng chẳng có ai chặn tôi lại và tôi cũng không quay lại nhìn cho tới khi ra khỏi cửa, và cứ thế đi. Và những người đàn ông thuộc nhiều độ tuổi và quốc tịch đang đứng trên phố mà gọi với đến chỗ tôi, những giọng nói nhẹ nhàng tới từ nhiều hướng (này, cậu bé! cậu đi đâu? cần người chở không?) nhưng mặc dù có một anh chàng tóc đỏ có vẻ tốt bụng, bình thường và không lớn hơn tuổi tôi nhiều lắm, gần giống người mà tôi có thể chơi cùng, thì tôi cũng là người New York đủ lâu để lờ đi mọi lời chào mời hồ hởi và tiếp tục bước đi như thể tôi biết trước mình sẽ đi đâu vậy.

    Tôi đã nghĩ là Popper sẽ vui sướng tột cùng khi được ra ngoài và đi bộ, nhưng khi tôi đặt nó lên vỉa hè, Đại lộ Tám có vẻ quá sức với nó và nó sợ đến mức không đi được qua hơn một tòa nhà; nó chưa từng tới thành phố, mọi thứ đều làm nó kinh sợ (ô tô, còi ô tô, chân người, túi ni lông bay trên vỉa hè) và nó cứ nhảy chồm chồm ra đằng trước, lao sang bên kia đường, rẽ bên này ngoặt bên kia, vội vã theo sau tôi trong nỗi khiếp hãi và quẩn quanh chân tôi khiến tôi vấp và suýt ngã ngay trước đầu một cái xe tải đang cố vượt đèn giao thông.

    Sau khi bế nó lên, vỗ về nó và bỏ nó lại vào trong túi (chỗ mà nó xoay sở và thở hổn hển giận dữ trước khi dần chìm vào im lặng). Tôi đứng giữa đám đông vào giờ cao điểm, cố gắng làm quen dần. Mọi thứ dường như bẩn thỉu hơn và xa cách hơn những gì tôi nhớ - lạnh hơn nữa, phố xá cứ xám xịt như tờ báo cũ vậy. Que faire?Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link như mẹ tôi vẫn thích nói. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng mẹ tôi nói, với cái giọng nhẹ bẫng vô tư lự của bà.

    Tôi vẫn thường tự hỏi, khi bố tôi đi loanh quanh ầm ầm đóng mở ngăn kéo tủ bếp và than phiền rằng ông muốn uống rượu, thì cảm giác “muốn uống” nó như thế nào – cảm thấy ra sao khi muốn rượu chứ không phải nước hay Pepsi hay bất kỳ thứ gì khác. Bây giờ, tôi mơ hồ nghĩ, tôi đã biết. Tôi thèm uống bia đến chết mất nhưng tôi cũng biết là không nên đi vào quán mua một chai mà không có thẻ căn cước trong tay. Tôi ngóng vọng về thứ vodka của ông Pavlikovsky, cái thứ ấm nóng đến bùng nổ mà tôi vẫn hiển nhiên coi là tài sản của mình.

    Thực tế hơn: tôi đang chết đói. Tôi còn cách một tiệm cupcake hấp dẫn khoảng vài bước chân và tôi quá đói đến mức đã đi vào ngay và mua luôn cái bánh đầu tiên đập vào mắt (vị trà xanh, tôi biết được sau khi ăn, với hương vani, lạ miệng nhưng vẫn ngon). Gần như ngay lập tức, đường đã làm tôi cảm thấy tốt hơn; và trong khi ăn, liếm hết chỗ vụn bánh còn dính trên ngón tay, tôi hướng mắt nhìn vào những con người đầy mục đích ngoài kia. Khi rời khỏi Vegas tôi phần nào đã có cảm nhận chắc chắn hơn về cách mà mọi chuyện sẽ biến chuyển. Liệu bà Barbour có gọi cho Dịch vụ Xã hội và báo là tôi đã xuất hiện không? Tôi nghĩ là không; nhưng giờ tôi cũng đang tự hỏi đây. Còn có vấn đề không-nhỏ-chút-nào của Popper nữa, vì (cùng với đồ bơ sữa, các loại hạt, băng dính, mù tạc và khoảng hai mươi lăm thứ đồ phổ biến trong nhà) Andy còn cực kỳ dị ứng với chó – không chỉ chó mà còn cả mèo, ngựa, động vật trong rạp xiếc và con chuột hamster trong lớp (“Chuột Newton”) mà chúng tôi nuôi hồi lớp hai, đó là lí do tại sao trong nhà Barbour không bao giờ có thú nuôi. Khi ở Vegas thì vấn đề này có lẽ cũng không phải to lớn lắm, nhưng – đứng trên Đại lộ Tám khi trời lạnh và tối dần – nó đã trở nên to lớn rồi.

    Không biết phải làm gì, tôi bắt đầu đi về phía Đại lộ Park. Từng đợt gió táp trực diện vào mặt tôi và mùi mưa ngai ngái trong không khí khiến tôi lo ngại. Bầu trời ở New York có vẻ hạ thấp hơn và nặng nề hơn nhiều so với bầu trời ở phía tây – mây loang lổ, bầu trời như bị tẩy lem sau khi ai đó đặt bút chì viết lên tờ giấy thô nhám. Có vẻ như cái sa mạc, sự bao la của nó, đã thiết lập lại tầm nhìn của tôi. Mọi thứ dường như đều ẩm ướt và bí bách.

    Đi bộ giúp tôi giải thoát cảm giác cuồng chân. Tôi đi hướng đông tới thư viện (những chú sư tử! Tôi đứng lặng im một lúc lâu, như người chiến sĩ trở về quê hương được ngắm lại nó lần đầu tiên) và rồi tôi lại đi lên Đại lộ Năm – đèn đường đã bật, phố vẫn khá tất bật, mặc dù cũng đã thưa người bớt khi trời chuyển tối – lên tới phía nam Công viên Trung tâm. Dù đã rất mệt, và lạnh, tim tôi vẫn thắt lại khi trông thấy quang cảnh Công viên ấy, và tôi chạy băng qua Phố Năm Mươi Bảy (Phố Vui Tươi!) để ào vào cái bóng tối rậm rạp. Thứ mùi đó, bóng tối đó, thậm chí cả những rễ cây sung mọc đốm trắng nhợt nhạt cũng làm tôi vui lên đôi chút nhưng trên hết tôi vẫn như nhìn thấy một Công viên khác nằm bên dưới Công viên trước mắt này, một tấm bản đồ dẫn về quá khứ, một Công viên ma quái chồng chất bao ký ức, những chuyến dã ngoại của trường và đi thăm sở thú đã từ lâu lắm rồi. Tôi đi dọc vỉa hè trên Đại lộ Năm, nhìn vào Công viên, và những con đường vẫn được cây phủ bóng râm, bừng sáng dưới ánh đèn đường, bí ẩn và mời gọi như những cánh rừng từ phim The Lion, the Witch, and the WardrobeVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Nếu tôi rẽ vào và bước đi trên những con đường sáng rực ấy, liệu tôi có bước lại vào một năm khác, có lẽ thậm chí là một tương lai khác, khi mẹ tôi – vừa mới tan làm – sẽ đợi tôi dưới trời gió nhẹ trên chiếc ghế băng (ghế băng của mẹ con tôi) bên Hồ: bỏ điện thoại ra và đứng đó hôn tôi, Chào Cún con, trường học thế nào, con muốn tối nay ăn gì?

    Thế rồi – đột nhiên – tôi khựng lại. Một dáng hình quen thuộc trong bộ vest của giới làm kinh doanh vừa bước qua và đang đi dọc vỉa hè ngay phía trước tôi. Màu tóc trắng nổi bật trong bóng tối, mái tóc màu trắng trông như thể nó nên được nuôi dài và cột lại sau lưng với một dải ruy băng; ông đang mải suy nghĩ, trông ông già hơn bình thường, nhưng tôi vẫn nhận ra ông ngay lập tức, những góc cạnh trên đầu ông ấy gợi tôi mang máng nhớ về Andy: ông Barbour, cặp táp và những thứ khác, đang trên đường từ chỗ làm về nhà.

    Tôi chạy để bắt kịp ông. “Ông Barbour?” tôi gọi. Ông đang tự nói chuyện với bản thân mình, mặc dù tôi không thể nghe được là ông đang nói gì. “Ông Barbour, là cháu Theo đây,” tôi nói lớn, nắm lấy tay áo ông.

    Ông đột nhiên mạnh bạo, quay lưng lại và hất tay tôi ra. Đó chính là ông Barbour mà; tôi có thể nhận ra ông ở bất cứ đâu. Nhưng đôi mắt ông, nhìn tôi, là đôi mắt của một người xa lạ - sáng, cứng rắn và đầy khinh thường.

    “Không còn tiền bố thí đâu!” ông hét bằng giọng the thé. “Cút đi!”

    Tôi có thể đã phát rồ khi nhìn thấy điều này. Đó là phiên bản cường độ cao hơn của nét mặt bố tôi vào một số ngày có trận đấu diễn ra – hoặc, thêm vào đó, là khi ông nổi đóa lên và đánh tôi. Tôi chưa từng ở gần ông Barbour khi ông không uống thuốc (Andy, thông thường, đã nói giảm nói tránh khi miêu tả “sự nhiệt tình” của bố cậu ấy, vậy nên tôi đã không biết về những lần ông cố gọi điện cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hoặc lần ông mặc đồ ngủ đi làm); và cơn giận dữ của ông thì thật chẳng giống chút nào với ông Barbour vui tính và thoải mái mà tôi biết đến mức tôi chỉ còn biết tụt lại phía sau, đầy xấu hổ. Ông nhìn tôi chằm chằm một lúc lâu và rồi phủi tay áo mình (như thể tôi thật bẩn thỉu, như thể cái chạm của tôi đã làm ông ô uế) rồi kiêu ngạo bước đi.

    “Cậu hỏi xin tiền ông ta đó à?” một người đàn ông khác vừa không biết từ đâu đi tới trong khi tôi còn đứng trên vỉa hè, kinh ngạc. “Đúng thế không?” ông ta nói, giọng nài nỉ hơn, khi tôi quay đi. Ông ta có dáng người đậm, bộ vest ông mặc có vẻ công sở nhẹ nhàng và cả vẻ đã-có-vợ-con; vẻ mặt não nề của ông khiến tôi hơi rợn người. Khi tôi cố gắng bước vòng qua thì ông ta đã đứng chắn đường và đặt một bàn tay nặng trịch lên vai tôi, và trong cơn hoảng loạn tôi đã rụt lại và chạy thoát vào công viên.

    Tôi cắm đầu chạy tới Hồ, qua những lối đi rải toàn lá vàng rơi, nơi tôi đi theo bản năng tới thẳng điểm RendezvousVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (mà mẹ và tôi vẫn gọi là băng ghế của chúng ta) và ngồi đó run rẩy. Dường như tình cờ gặp được ông Barbour trên phố là một vận may hiếm có, không thể tin được; tôi đã nghĩ, trong khoảng năm giây, rằng sau những sự sửng sốt và ngập ngừng lúc đầu ông sẽ vui vẻ chào tôi, hỏi tôi vài câu hỏi, ôi, đừng lo, đừng lo, chúng ta còn nhiều thời gian để thăm hỏi mà, rồi sẽ cùng đi với tôi về căn hộ. Chúa ơi, cả một cuộc phiêu lưu đấy. Andy gặp cháu sẽ vui mừng lắm!

    Chúa ơi, tôi nghĩ – tôi lấy tay lùa qua tóc, vẫn chưa hết run. Trong một thế giới lý tưởng, ông Barbour sẽ là thành viên trong gia đình mà tôi muốn gặp trên phố nhất – hơn cả Andy, dĩ nhiên là hơn anh em của cậu ấy, thậm chí hơn cả bà Barbour, với những khoảng lặng đầy xa cách của bà, những phép xã giao và quy tắc ứng xử mà tôi không hiểu nổi, cả cái nhìn băng giá và không tài nào đọc vị nổi nữa.

    Tự dưng tôi lại lôi điện thoại ra kiểm tra tin nhắn vào khoảng lần thứ mười nghìn – và mặc cho hoàn cảnh hiện tại, tôi vẫn mừng rỡ khi cuối cùng cũng thấy một tin nhắn – số điện thoại lạ, nhưng chắc hẳn là Boris rồi. NÀY! HI VỌNG BỌN MÀY ĐỀU KHỎE. XANDRA CŨNG KHÔNG ĐIÊN LẮM. GỌI XANDRA CŨNG ĐƯỢC. CỔ ĐÃ HỎI TAO.

    Tôi thử gọi lại cho nó – tôi đã nhắn tin cho nó khoảng năm mươi lần khi đang đi trên đường – nhưng không ai nhấc máy và số của Kotku thì đưa tôi thẳng đến hộp thư thoại. Xandra có thể chờ. Trong khi đi bộ lại phía nam Công viên Trung tâm, với Popper, tôi mua ba cái bánh mỳ kẹp xúc xích từ một xe bán hàng nhỏ đang chuẩn bị đóng cửa (một cái cho Popper, hai cái cho tôi) và trong khi ăn, trên một cái ghế băng khuất tầm nhìn bên trong Cổng Scholars’, tôi đánh giá các phương án mà mình có. Khi còn ở sa mạc và mơ tưởng về New York, đôi khi tôi vẫn thích thú với viễn cảnh Boris và tôi cùng sống trên đường phố, quanh St. Mark’s Place hoặc Quảng trường Tompkins, có lẽ sẽ vênh mặt lên mà xóc những cốc đựng tiền lẻ trước mặt lũ trr con chuột nhắt chơi ván trượt đã từng chế nhạo Andy và tôi khi mặc đồng phục đến trường. Nhưng cảnh tượng nằm ngủ trên phố thực sự thì ít hấp dẫn đi nhiều nếu chỉ có một mình và ốm yếu giữa cái lạnh tháng mười một này.

    Điều tồi tệ là: tôi chỉ còn cách Andy khoảng năm tòa nhà. Tôi đã nghĩ tới việc gọi điện cho cậu ấy – có lẽ sẽ bảo cậu ra ngoài gặp tôi – và rồi chúng tôi sẽ cùng quyết định việc này. Chắc chắn là tôi có thể gọi cậu ấy nếu ở vào bước đường cùng; cậu ấy sẽ vui vẻ mà chuồn ra ngoài, mang quần áo cho tôi thay và ít tiền cậu lấy cắp được từ ví của mẹ cậu và – ai mà biết được – có thể cả mớ cái bánh mỳ bơ kèm thịt cua còn thừa hoặc mấy thứ cốc tai đậu phộng mà nhà Barbour dùng suốt ngày. Nhưng cái từ “tiền bố thí” nó vẫn như đang phồng rộp lên. Dù cho tôi rất yêu quý Andy, nhưng cũng đã gần hai năm trôi qua rồi. Và tôi không thể nào quên được cách mà ông Barbour đã nhìn tôi. Rõ ràng có điều gì đó không ổn, rất tồi tệ, tôi chỉ không chắc đó là điều gì – ngoại trừ một việc là tôi cũng có trách nhiệm ở một mức độ nào đó, đối với cảm giác tủi hổ, vô dụng và gánh nặng mà sẽ không bao giờ rời bỏ tôi.

    Không hề cố ý – trong khi đang nhìn vào khoảng không – tôi tình cờ chạm mắt một người đàn ông ngồi trên băng ghế đối diện bên kia lối đi. Tôi nhanh chóng nhìn qua chỗ khác nhưng đã quá muộn; ông ta đang đứng lên và bước qua phía tôi.

    “Chú chó đáng yêu đấy,” ông nói, cúi người xuống xoa đầu Popper, và rồi, khi không thấy tôi trả lời, ông nói: “Tên cậu là gì? Tôi ngồi đây được không?” Ông ta có mái tóc xoăn, dáng người nhỏ nhưng chắc chắn; và ông ta bốc mùi. Tôi đứng dậy, tránh ánh mắt của ông, nhưng ngay khi tôi dợm bước đi thi ông đã phóng cánh tay ra mà nắm lấy cổ tay tôi.

    “Sao vậy,” ông nói bằng giọng rờn rợn, “cậu không thích tôi à?”

    Tôi giựt tay ra mà chạy – Popper theo sau tôi, chạy ra ngoài đường phố, nó chạy quá nhanh, nó còn chưa quen với giao thông ở thành phố, bao nhiêu ô tô đang lao tới – tôi tóm lấy nó vừa kịp lúc, chúng tôi chạy qua Đại lộ Năm, qua cả khách sạn Pierre. Người đàn ông đuổi theo tôi – bị kẹt ở nút đèn giao thông – đang thu hút ánh nhìn của vài người đi bộ nhưng khi tôi quay lại nhìn, dưới ánh sáng ấm áp an toàn của lối vào khách sạn – những cặp đôi ăn diện; những chiếc xe đẩy hành lý của phục vụ - tôi nhận ra ông ta đã biến mất vào khung cảnh công viên từ bao giờ.

    Đường phố ồn ào hơn những gì tôi nhớ - bốc mùi hơn nữa. Đứng ở góc phố gần A La Vieille RussieVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link tôi thấy mình như bị nhấn chìm bởi cái mùi hôi hám quen thuộc ngay giữa trung tâm Manhattan: xe ngựa kéo, khói xe buýt, mùi nước hoa, và mùi nước tiểu. Trong một thời gian dài tôi đã nghĩ về Vegas như một nơi tạm bợ - New York mới là cuộc sống thực sự của tôi – nhưng liệu có đúng như vậy? Không còn là như vậy nữa, tôi buồn bã nghĩ trong khi ngắm nhìn những dòng người thưa dần đang vội vã bước qua cửa hàng Bergdorf.

    Mặc dù lại thấy đau nhức và lạnh cóng vì cơn sốt, tôi vẫn đi bộ khoảng mười tòa nhà, cố gắng rũ bỏ cái run rẩy và bồn chồn ở hai cẳng chân, ảnh hưởng từ cái xe buýt rung lắc. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng không chịu nổi cái lạnh nữa mà phải vẫy một cái taxi; có lẽ đi xe buýt cũng rất nhanh, chắc chỉ nửa tiếng, thẳng từ Đại lộ Năm tới khu Village, chỉ có điều sau khoảng ba ngày ngồi trên xe buýt thì tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ phải lắc lư trên một cái xe buýt khác thêm một phút nào nữa.

    Khi nghĩ đến việc xuất hiện ở căn nhà của Hobie thì người tôi không còn cảm giác lạnh cóng khó chịu nữa – không khó chịu một chút nào, vì chúng tôi đã không còn liên lạc từ lâu, là lỗi của tôi, không phải của ông ấy; ở một thời điểm nào đó tôi đã ngừng viết thư hồi âm. Một mặt, đó là quá trình tự nhiên của vạn vật; mặt khác, những suy đoán của Boris (“người đàn ông già đồng tính?”) đã khiến tôi mơ hồ nhụt chí, và hai, ba lá thư cuối của ông đã không có lời hồi đáp.

    Tôi thấy ân hận; tôi thấy mình là thằng tồi. Cho dù quãng đường khá ngắn nhưng chắc tôi đã ngủ quên ở ghế sau vì khi tài xế dừng xe và nói: “Tới đây đúng chưa?” thì tôi mới chợt tỉnh, và trong một khoảnh khắc sững sờ, tôi phải vắt óc ra mà nhớ xem chỗ đó ở đâu.

    Cái cửa hàng – tôi nhận ra khi tài xế quay xe đi – kín bưng và tối thui, như thể nó chưa một lần mở lại kể từ khi tôi rời khỏi New York. Cửa sổ thì phủ đầy bụi đen và – nhìn vào trong – tôi thấy vài thứ đồ nội thất đã bị trùm vải lên trên. Không có gì thay đổi, ngoại trừ việc tất cả những cuốn sách và đồ trang trí trên bàn - con vẹt bằng cẩm thạch, những cột đá nhỏ - đều bị phủ một lớp bụi dày.

    Tim tôi chùng xuống. Tôi đứng trên phố trong tầm một, hai phút trước khi thu hết can đảm để nhấn chuông. Tôi cảm thấy như mình đã đứng đây cả thế kỉ chỉ để nghe những âm thanh vang vọng từ xa lắm, cho dù mới chỉ ít phút trôi qua; tôi bắt đầu tự khiến mình tin rằng không có ai ở nhà (và tôi sẽ làm gì đây? Đi bộ về Quảng trường Thời Đại, cố tìm một cái khách sạn rẻ tiền đâu đó hay tự nộp mình cho những cảnh sát đang tìm người bỏ nhà đi?) khi cánh cửa đột ngột mở ra và trước mặt tôi không phải là Hobbie, mà là một cô gái trạc tuổi mình.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một nhân vật giả tưởng trong tiểu thuyết “1984” của nhà văn George Orwell, kể về xã hội có một người độc tài đứng đầu và mọi cư dân đều bị chính phủ theo dõi qua màn hình. Ý tác giả là nhân vật đó đang nổi tiếng.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Loại bánh mềm có vị sô cô la đắng.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Edward Hopper (1882-1967): họa sĩ người Mỹ theo trường phái hiện thực, thường vẽ cảnh đô thị và nông thôn. Ý tác giả là những ngôi nhà giống trong tranh của họa sĩ này.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Bài hát You are my sunshine.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Pháp: Làm gì đây?

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tạm dịch: Sư tử, Phù thủy và Tủ quần áo.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Pháp (rendez-vous): cuộc hẹn.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một cửa hàng bán đồ cổ lớn
     
  4. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Là cô ấy – Pippa. Vẫn nhỏ nhắn (tôi đã cao lớn hơn cô ấy) và mảnh mai, mặc dù đã có xương có thịt hơn lần cuối cùng tôi được gặp, gương mặt đã tròn trịa hơn; nhiều tàn nhang; mái tóc cũng khác, có vẻ như nó đã mọc lại với một thứ màu sắc và chất tóc khác, không phải màu đỏ sáng mà là đỏ sậm, màu gỉ sắt và kiểu thì hơi lộn xộn, giống mái tóc của bà bác Margaret. Cổ ăn mặc như con trai, chân đi tất, mặc quần nhung sợi to, một cái áo len to quá khổ và quàng mỗi một cái khăn len sọc hồng cam mà những bà cô kì dị thường hay đeo. Lông mày hạ thấp xuống, lịch sự nhưng thận trọng, cô ấy nhìn tôi trống rỗng bằng đôi mắt nâu vàng: một người xa lạ. “Tôi giúp gì được cậu?” cô ấy nói.

    Cô ấy đã quên tôi rồi, tôi nghĩ, không khỏi thấy thất vọng. Sao tôi có thể mong chờ là cô ấy sẽ nhớ mình được chứ? Đã lâu quá rồi; tôi biết là bề ngoài mình cũng đã đổi khác. Cứ như đang gặp một người mà tôi tưởng đã chết rồi vậy.

    Và sau đó – có tiếng chân bước xuống cầu thang, theo sau cô ấy, trong chiếc quần kaki lem luốc sơn và một chiếc áo khoác len xắn lên đến cùi chỏ - là Hobie. Ông đã cắt tóc, là suy nghĩ đầu tiên trong đầu tôi; nó ngắn gần đến da đầu và trắng hơn những gì tôi nhớ. Vẻ mặt ông có đôi chút bực mình, trong một khoảnh khắc tuyệt vọng tôi cứ ngỡ ông cũng sẽ không nhận ra tôi, và rồi: “Ôi Chúa ơi,” ông thốt lên, đột nhiên bước lùi lại.

    “Là cháu đây,” tôi nói nhanh. Tôi e là ông sẽ đóng sập cửa lại ngay trước mặt tôi mất. “Theodore Decker. Ông nhớ không?”

    Rất nhanh, Pippa nhìn lên ông – rõ ràng là cô ấy nhận ra tên tôi, cho dù cổ không nhận ra tôi – và nét ngạc nhiên mừng rỡ trên gương mặt họ khiến tôi sửng sốt đến phát khóc.

    “Theo.” Cái ôm của ông thật mạnh mẽ và đầy yêu thương, nó mãnh liệt đến mức làm tôi khóc càng nức nở hơn. Rồi ông đặt tay lên vai tôi, bàn tay mang trong nó biết bao sức mạnh và sự che chở; ông dẫn tôi vào, vào bên trong cửa hàng, sắc vàng mờ ảo và mùi gỗ thơm mà tôi hằng mơ ước, đi lên cầu thang vào phòng khách mà lâu rồi tôi không được thấy, với những thứ đồ bằng nhung, sành sứ và đồng thau. “Gặp lại cháu thật quá tuyệt vời,” ông nói; và “trông cháu mệt mỏi quá” và “Cháu về từ khi nào?” và “Cháu có đói không?” và “Chúa ơi, cháu lớn quá!” và “mái tóc đó! Giống Mowgli trong phim Jungle Boy!” và (tôi bắt đầu lo) – “cháu có thấy chật chội không? ta mở cửa sổ ra nhé?” – và, khi Popper ló đầu ra khỏi cái túi: “A ha! Ai thế này?”

    Pippa – nở nụ cười – đang nhấc nó lên và âu yếm nó trong vòng tay cô ấy. Tôi thấy hơi choáng váng vì cơn sốt – mặt tôi đỏ rực và sáng bừng bừng, như đèn trong cái máy sưởi, và trong lòng thì nhẹ bẫng đến mức chẳng cảm thấy xấu hổ gì khi khóc nữa. Tôi không cảm nhận được gì ngoài sự nhẹ lòng khi được ở đây, cùng với vài chỗ đau nhức và một trái tim mãn nguyện.

    Quay vào trong bếp còn có món súp nấm, thứ mà tôi không thèm lắm, nhưng nó rất ấm, còn tôi thì sắp chết rét – và khi tôi ăn (Pippa ngồi khoanh chân trên sàn chơi với Popchik, giơ mấy quả len trên cái khăn choàng bà già của cô ấy ra trước mặt con chó, Popper/Pippa, sao mà tôi lại không nhận ra sự liên quan giữa hai cái tên này nhỉ?) Tôi kể cho ông nghe, một cách ngắn gọn súc tích, về cái chết của bố tôi và những chuyện đã xảy ra. Hobie, trong khi nghe, tay khoanh lại, mặt ông biểu hiện sự lo lắng thấy rõ, ông cau mày càng ngày càng sâu khi nghe tôi kể tiếp.

    “Cháu cần phải gọi cho cô ấy,” ông nói. “Vợ của bố cháu.”

    “Nhưng cổ đâu phải vợ bố cháu! Cô ấy chỉ là bạn gái thôi! Cổ chẳng quan tâm gì tới cháu cả.”

    Rất kiên định, ông lắc đầu. “Không ảnh hưởng gì. Cháu phải gọi cô ấy và nói rằng cháu hiện vẫn ổn. Đúng, cháu sẽ làm thế,” ông nói, ngắt cả lời tôi khi tôi đang định phản đối. “Không nhưng gì hết. Ngay bây giờ. Ngay lúc này. Pips à…” có một chiếc điện thoại treo tường cũ kĩ trong nhà bếp… “đi với ta ra khỏi chỗ này một lúc nhé.”

    Mặc dù Xandra gần như là người cuối cùng tôi muốn nói chuyện – đặc biệt là sau khi tôi đã lục tung phòng ngủ cô ấy lên và lấy cắp chỗ tiền boa của cổ - nhưng dù sao tôi cũng ảm thấy nhẹ nhõm khi được ở đây và tôi sẽ làm bất cứ thứ gì mà ông ấy yêu cầu. Quay số, tôi cố tự nhủ là cô ấy chắc sẽ không nhấc máy (có rất nhiều những người chào hàng và những người thu hóa đơn đã gọi điện cho chúng tôi, suốt ngày, đến nỗi cổ chẳng thèm nghe máy khi có số lạ gọi tới). Do đó, tôi rất ngạc nhiên khi cô ấy trả lời ngay sau hồi chuông đầu tiên.

    “Cậu đã để cửa mở,” cô ấy nói gần như ngay lập tức, bằng giọng buộc tội.

    “Cái gì?”

    “Cậu để con chó chạy ra ngoài. Nó đi mất rồi – tôi không thấy nó đâu cả. Có lẽ nó đã bị xe chẹt chết hay sao đó rồi.”

    “Không.” Mắt tôi dán chặt vào khoảng sân gạch đen thui ngoài kia. Trời đang mưa, từng giọt mưa vỗ mạnh vào ô kính cửa sổ, cơn mưa thực sự đầu tiên mà tôi được chứng kiến trong gần hai năm. “Nó đang ở đây với cháu.”

    “Oh.” Cô ta có vẻ thở phào. Rồi, giọng lại đanh vào: “Cậu đang ở đâu vậy? Ở chỗ nào đấy với Boris à?”

    “Không.”

    “Tôi đã nói chuyện với cậu ta – cứ như là mọi chuyện biến mất khỏi đầu cậu ta rồi. Cậu ta không nói cho tôi biết là cậu đang ở đâu. Tôi chắc chắn là cậu ta biết.” Mặc dù ở đó vẫn còn là sớm, nhưng giọng cô ấy thì thực sự giống như vừa nốc rượu, hoặc vừa khóc. “Tôi phải gọi cảnh sát thôi, Theo. Tôi biết chính hai cậu đã ăn cắp tiền cùng một vài thứ khác.”

    “Đúng, cũng giống như khi cô ăn cắp đôi khuyên tai của mẹ tôi.”

    “Cái gì…”

    “Đôi khuyên tai bằng ngọc lục bảo. Chúng thuộc về bà ngoại tôi.”

    “Tôi không ăn cắp chúng.” Giờ thì cô ấy trở nên giận dữ. “Sao cậu dám. Larry đã đưa chúng cho tôi, anh ta đưa chúng cho tôi sau khi…”

    “Đúng thế. Sau khi ông ấy ăn cắp chúng từ mẹ tôi.”

    “Um, xin lỗi, nhưng mẹ cậu đã chết rồi.”

    “Đúng thế, nhưng khi ổng lấy cắp thì mẹ tôi chưa chết. Đó là khoảng một năm trước khi mẹ tôi qua đời. Bà đã liên hệ với công ty bảo hiểm,” tôi nói, hét tướng lên át cả giọng cô ta. “Và lập biên bản điều tra.” Tôi không biết chuyện cảnh sát có đúng không, nhưng có lẽ là vậy.

    “Um, tôi đoán là cậu chưa từng nghe về cái gọi là luật tài sản chung thì phải.”

    “Đúng vậy. Và tôi đoán cô cũng chưa từng nghe về thứ gọi là tài sản thừa kế trong gia đình. Cô và bố tôi chưa lấy nhau. Ông ấy không có quyền đưa chúng cho cô.”

    Im lặng. Tôi có thể nghe tiếng tanh tách của bật lửa ở đâu dây bên kia, tiếng hít vào một hơi đầy mệt mỏi. “Nghe này, cậu bé. Tôi nói điều này được không? Không phải về tiền, thật đấy. Hay về mấy thứ hút chích. Mặc dù tôi dám chắc, hồi bằng tuổi cậu tôi không hề làm những việc thế này. Cậu nghĩ mình khá thông minh, và tôi đoán là cậu có thông minh, nhưng cậu đang đi vào một con đường xấu, cậu và cả cậu-gì-đó nữa. Đúng, đúng thế,” cô ấy cao giọng át tiếng tôi, “tôi cũng thích cậu ta, nhưng cậu ta chỉ là vận rủi thôi, cậu trai đó.”

    “Cô cũng nên biết vậy.”

    Cô ta cười yếu ớt. “Ừm, cậu bé, biết sao không? Ta cũng từng làm việc này vài lần – ta biết. Cậu ta rồi cuối cùng cũng vào tù khi đủ mười tám tuổi thôi, và chắc chắn là cậu cũng vô đó với bạn mình. Ý tôi là, tôi không thể đổ tội cho cậu,” cô ta nói, lại cao giọng lần nữa, “Tôi yêu bố cậu, nhưng rồi anh ta cũng chẳng có giá trị gì, và từ những gì anh ta bảo tôi thì mẹ cậu cũng chẳng có giá trị gì đâu.”

    “Thôi được. Là như vậy đó. Đồ khốn.” Tôi giận run người. “Tôi cúp máy đây.”

    “Không – chờ. Chờ đã. Tôi xin lỗi. Tôi không nên nói về mẹ cậu như vậy. Đó không phải là cách tôi muốn nói chuyện với cậu. Xin cậu đấy. Cậu chờ tôi một giây thôi được không?”

    “Tôi đang chờ đây.”

    “Đầu tiên – chắc là cậu muốn biết – tôi đã cho hỏa táng bố cậu. Cậu không có vấn đề gì chứ?”

    “Cứ làm những gì cô muốn.”

    “Cậu chưa bao giờ thực sự cần bố mình đúng không?

    “Cô muốn nói tới chuyện đó à?”

    “Một điều nữa. Tôi không cần biết cậu ở đâu, nói thật là vậy. Nhưng tôi cần một địa chỉ mà tôi có thể liên lạc với cậu.”

    “Và tại sao lại thế?”

    “Đừng tỏ ra hiểu biết. Vào một lúc nào đó sẽ có người gọi tới từ trường học hay gì đó…”

    “Tôi e là sẽ không có đâu.”

    “… và tôi sẽ cần địa chỉ đó, không biết được, kiểu như phải giải thích cậu đang ở đâu. Trừ khi mặt cậu bị bọn cớm trưng lên vỏ hộp sữaVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link hay gì đó.”

    “Tôi nghĩ chuyện ấy tương đối khó xảy ra.”

    Tương đối khó xảy ra,” cô ta nhại theo bằng giọng the thé kéo dài. “Ừm, cũng có thể. Nhưng cứ đưa nó cho tôi, cũng vậy cả thôi, và chúng ta coi như hòa. Ý tôi là,” cô ta nói tiếp khi không thấy tôi trả lời, “để tôi nói thẳng, cậu có ở đâu thì cũng chẳng liên quan gì tới tôi cả. Tôi chỉ không muốn mình phải chịu mọi trách nhiệm mỗi khi có vấn đề gì xảy ra và tôi muốn liên lạc được với cậu.”

    “Có một người luật sư ở New York. Tên ông ấy là Bracegirdle. George Bracegirdle.”

    “Cậu có số ông ta không?”

    “Cô tự tra đi,” tôi nói. Pippa vừa bước vào phòng để lấy cho chú chó bát nước, và, thật ngượng ngùng, để tránh nhìn vào cô ấy, tôi quay qua đối mặt với bức tường.

    “Brace Girdle?” Xandra đang nói. “Đọc như thế à? Tên kiểu gì mà lại như vậy?”

    “Nghe này, tôi chắc chắn là cô sẽ tìm ra ông ta thôi.:

    Im lặng. Rồi Xandra nói: “Cậu biết gì không?”

    “Sao?”

    “Là bố cậu vừa mới chết đó. Bố ruột của cậu. Còn cậu thì cư xử như thể đó là, tôi không biết nữa, như thể đó là một con chó, mà thậm chí còn không bằng chó. Bởi vì tôi biết cậu sẽ quan tâm nếu một con chó bị ô tô chẹt qua, ít nhất là tôi nghĩ vậy.”

    “Hãy cứ coi như tôi quan tâm ông ấy bằng đúng cái mức mà ổng quan tâm tôi đi.”

    “Vậy thì, để tôi nói cho cậu điều này. Cậu và bố cậu giống nhau nhiều hơn là cậu tưởng đấy. Cậu là con ông ấy, đúng vậy, hoàn toàn là như vậy.”

    “Những gì cô nói toàn là thứ dối trá nhảm nhí,” tôi nói sau khi một khoảng dừng đầy khinh bỉ - một câu đáp lời mà, đối với tôi, đã đủ để tóm tắt câu chuyện một cách khá hoàn chỉnh. Nhưng – một lúc lâu sau khi tôi gác máy, khi tôi ngồi sụt sịt mũi và run lẩy bẩy trong bồn tắm nước nóng, và trong màn khói mù bốc lên (sau khi uống thuốc aspirin Hobie đưa cho, theo ông đi xuống hành lang dẫn vào căn phòng trống đầy mùi ẩm mốc, trông cháu co ro quá, có thêm chăn ở trong rương đó, không, không nói gì nữa, ta sẽ để cháu tự nhiên) câu nói cuối cùng của cô ta lại vang lên lần nữa trong tâm trí tôi, khi tôi úp mặt xuống chiếc gối có mùi thật xa lạ. Thật không đúng – đó cũng chỉ là bịa đặt như những gì cô ta nói về mẹ tôi mà thôi. Ngay cả cái giọng khàn đục của cô ta qua đường dây điện thoại và cái ký ức về nó cũng khiến tôi thấy ghê tởm. Con mụ chết tiệt, tôi nghĩ trong cơn buồn ngủ. Quên nó đi. Cô ta đã cách xa tôi cả triệu dặm rồi. Nhưng mặc dù tôi mệt muốn chết – mệt hơn cả muốn chết – và cái giường bằng đồng ọp ẹp là cái giường êm ái nhất tôi từng được ngủ, thì những từ ngữ của cô ta vẫn như một sợi dây xấu xí chạy khắp những giấc mơ của tôi.



    III.

    Chúng ta quá quen với việc ngụy trang bản thân trước người khác, để rồi cuối cùng, chúng ta ngụy trang với chính bản thân mình.

    - FRANCOIS DE LA ROCHFOUCAULD​




    Chương 7.

    CÁI CỬA-HÀNG-PHÍA-SAU-CỬA-HÀNG

    i.

    KHI TÔI THỨC DẬY trong tiếng loảng xoảng của xe tải chở rác, tôi thấy mình như vừa nhảy dù vào một hành tinh khác. Cổ họng tôi đau rát. Nằm bất động dưới tấm chăn bông, tôi hít vào cái không khí tối tăm có mùi hoa khô và mùi củi lò sưởi đã cháy hết cùng với – rất nhẹ nhàng – thứ mùi tươi mới của nhựa thông, sáp thông và véc ni.

    Tôi nằm đó một lúc. Popper – lúc trước mới cuộn dưới chân tôi – giờ đã không thấy đâu. Tôi ngủ mà mặc nguyên bộ quần áo cũ bẩn thỉu của mình. Cuối cùng – bị thôi thúc bởi một cơn buồn hắt hơi – tôi ngồi dậy, mặc áo len trùm ra ngoài sơ mi và sờ tay xuống phía dưới giường để chắc chắn cái vỏ gối còn đó, rồi mới lết chân trên sàn nhà lạnh để tới phòng tắm. Tóc tôi đã xoắn thành từng cục đến lược cũng không gỡ ra nổi, và thậm chí khi tôi đã giũ qua nước và bắt đầu lại thì có một cục đã bện chặt lại đến mức tôi đành bỏ cuộc và cứ thế cắt xén, rất thủ công, với một cái kéo đã gỉ để ở gần tủ.

    Chúa thần ơi, tôi nghĩ, quay người ra khỏi gương để hắt hơi. Tôi đã không nhìn vào gương từ lâu rồi và tôi gần như không nhận ra mình nữa: hàm sứt sẹo, cằm thì đầy mụn, mặt ửng đỏ và sưng lên vì lạnh – mắt cũng sưng nữa, mí mắt thì sùm sụp và ngái ngủ, tạo cho tôi vẻ ngoài của một thằng ngốc chỉ biết học gia sư tại nhà. Tôi trông giống một đứa trẻ bị nuôi trong một giáo xứ nào đó vừa được luật pháp địa phương giải thoát, mắt vẫn còn chớp liên hồi khi được đưa ra khỏi những tầng hầm đầy súng ống và cả sữa bột.

    Đã sáng muộn: chín giờ rồi. Bước ra khỏi phòng, tôi có thể nghe thấy chương trình cổ điển mỗi buổi sáng trên kênh WNYC, giọng nói của người phát thanh viên gợi tới một sự thân thuộc như trong mơ, những con số của KöchelVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một sự yên bình như thể tôi vừa chơi thuốc, chính là tiếng rè rè ấm áp như trên đài mà tôi vẫn nghe thấy khi thức dậy mỗi sáng trong căn hộ ở Sutton Place. Trong bếp tôi thấy Hobie đang ngồi ở bàn với một cuốn sách.

    Nhưng ông không đọc; ông đang nhìn qua phía bên kia căn phòng. Khi thấy tôi thì ông bắt đầu.

    “Ơ, cháu đây rồi,” ông nói trong khi đứng lên quơ đống thư và hóa đơn qua một bên để tôi có chỗ ngồi. Ông đã ăn mặc để sẵn sàng làm việc, quần kaki bạc đầu gối và một cái áo len chui đầu màu nâu đã cũ, có mấy lỗ thủng rồi, đường bò liếm cùng với quả đầu cắt ngắn khiến ông mang cái vẻ to con, hói đầu giống hình ảnh người nghị sĩ trên bìa cuốn sách Latinh của Hadley. “Ốm đau thế nào rồi?”

    “Ổn ạ, cám ơn ông.” Giọng khàn đục và lạo xạo.

    Lông mày lại chúi xuống và ông đăm đăm nhìn tôi. “Tốt quá trời!” ông nói. “Sáng nay giọng cháu nghe như quạ vậy.”

    Thế nghĩa là sao? Chìm trong nỗi nhục nhã, tôi luồn vào chiếc ghế mà ông đã kéo ra cho tôi và – xấu hổ quá không dám nhìn thẳng vào mắt ông – tôi chuyển qua nhìn cuốn sách: bìa da đã nứt nẻ, cuốn Cuộc sống và Những lá thư của Lord Somebody, một phiên bản cũ mà có lẽ là tới từ một trong những phi vụ mua bán đồ đạc của ông, bà Tên-Là-Gì ở phía Poughkeepsie, vỡ xương chậu, không có con, thật là đáng buồn.

    Ông đang rót trà cho tôi, đẩy một chiếc đĩa qua phía tôi. Nhằm che giấu sự ngại ngùng của mình tôi cắm đầu xuống ăn lấy ăn để món bánh mỳ nước – và suýt nghẹn, vì cổ họng tôi quá khô ráp để có thể nuốt được. Tôi với lấy tách trà nhanh quá, nên đã làm đổ nó lên khăn trải bàn và phải vội vội vàng vàng lau đi.

    “Không… không, không sao đâu… đây…”

    Khăn ăn của tôi đã ướt nhẹp; tôi không biết phải làm gì với nó; trong cơn bối rối, tôi đã làm rơi nó lên miếng bánh mỳ của mình và đưa tay lên dụi mắt dưới cặp kính. “Cháu xin lỗi,” tôi buột miệng.

    “Xin lỗi?” Ông nhìn tôi như thể tôi vừa hỏi đường đến một nơi mà ông không biết làm sao để đến. “Ôi, thôi nào…”

    “Xin đừng bắt cháu phải đi.”

    “Là sao? Bắt cháu đi? Đi đâu?”Ông kéo cặp kính nửa vầng trăng xuống thấp hơn và nhìn tôi qua khe hở. “Đừng kì cục thế,” ông nói bằng giọng nửa bực mình nửa trêu đùa. “Ta sẽ nói nơi cháu phải đi là quay trở lại giường. Giọng cháu nghe như sắp đi cùng với Tử Thần được rồi.”

    Nhưng cung cách ấy của ông cũng không khiến tôi an tâm hơn. Tê liệt vì xấu hổ, quyết tâm không được khóc, tôi bèn quay qua nhìn khoảng không tuyệt vọng gần bếp nơi mà một thời là chỗ của con chó Cosmo.

    “Ah,” Hobie nói, khi thấy tôi nhìn vào chỗ trống đó. “Đúng. Nó bị điếc như ông cụ già rồi, đổ bệnh ba, bốn lần một tuần nhưng bọn ta vẫn muốn nó sống mãi. Ta cứ sụt sùi như đứa trẻ con. Nếu cháu định bảo ta là Welty đã đi trước cả con chó – ông ấy dành nửa đời mình đem con chó qua lại phòng khám thú y – thì hãy nhìn đây,” ông nói với giọng điệu thay đổi, vươn người ra trước để cố bắt lấy cái nhìn của tôi trong khi tôi vẫn ngồi đó khổ sở không nói được gì. “Thôi nào. Ta biết cháu đã trải qua rất nhiều chuyện nhưng cũng không cần phải lo lắng về cả chuyện này đâu. Trông cháu tả tơi quá – nào, nào, cháu đúng là thế đấy,” ông nói ngắn gọn. “Thực sự rất tả tơi và – Chúa phù hộ cháu!” – hơi nhăn mặt – “chắc chắn là uống sai thuốc gì rồi. Đừng lo – mọi việc đều ổn. Tại sao cháu không về giường đi nhỉ, và chúng ta sẽ nói chuyện sau.”

    “Cháu biết nhưng mà…” tôi quay đầu ra chỗ khác để cố nén chỗ nước mũi ướt nhẹp khỏi chảy ra. “Cháu không có chỗ nào để đi cả.”

    Ông tựa trở lại vào ghế: lịch sự, thận trọng, có thứ gì đó bụi bặm nữa. “Theo…” ngón tay ông gõ nhẹ môi dưới… “cháu bao tuổi rồi?”

    “Mười lăm. Mười lăm tuổi rưỡi.”

    “Và…” ông có vẻ đang tìm từ phù hợp để diễn đạt… “còn ông nội cháu?”

    “Oh,” sau một hồi im lặng thì tôi thốt lên một cách bất lực.

    “Cháu đã nói chuyện với ông rồi à? Ông cháu biết là cháu không có nơi nào để đi chứ?”

    “Ừm, khỉ thật…” tôi chợt buột miệng; Hobie giơ một bàn tay lên để trấn an tôi… “ông không hiểu đâu. Ý cháu là… cháu không biết liệu ông ấy có bị Alzheimer hay gì không, nhưng khi họ gọi tới đó, ông ấy thậm chí còn chẳng muốn nói chuyện với cháu nữa.”

    “Vậy là…” Hobie tựa cằm vào lòng bàn tay và nhìn tôi như một người thầy giáo hay nghi ngờ… “cháu chưa nói chuyện với ông mình.”

    “Không… ý cháu là không phải nói chuyện riêng tư – có người phụ nữ này đã giúp đỡ…” Người bạn Lisa của Xandra (rất nhiệt tình, đi theo tôi liên tục, giọng thì nhẹ nhàng nhưng sẽ đột ngột gấp gáp khi nói đến chuyện “gia đình” phải được thông báo về hoàn cảnh hiện tại của tôi) đã lui vào một góc để gọi tới số máy mà tôi đưa cho cổ - và rồi gác máy với nét mặt đã khơi dậy, từ phía Xandra, một tiếng cười duy nhất của buổi tối hôm đó.

    “Người phụ nữ này? Hobie nói giữa khoảng không im lặng, bằng cái giọng mà bạn sẽ liên tưởng tới một bệnh nhân tâm thần.

    “Đúng thế. Ý cháu là…” tôi lấy tay xoa khắp mặt; màu sắc trong căn bếp này mạnh quá; tôi thấy choáng váng, mất kiểm soát… “Cháu đoán là bà Dorothy nghe máy và Lisa nói bà ấy trả lời kiểu ‘được rồi, đợi chút,’ – thậm chí còn không phải ‘Ôi không!’ hay ‘Đã xảy ra chuyện gì?’ hay ‘Thật tồi tệ!’ – chỉ là ‘đợi chút, để tôi gọi ông ấy,’ và rồi ông nội cháu tới và Lisa kể cho ông nghe về vụ đâm xe và ông ấy lắng nghe, và rồi ông nói ừm, ông thấy rất tiếc khi biết chuyện, nhưng mà bằng giọng thế này, Lisa kể. Không phải kiểu ‘tôi có thể làm gì’ hay ‘đám tang diễn ra khi nào’ hay đại loại thế. Chỉ là, kiểu, cám ơn vì đã gọi, chúng tôi rất cảm kích, tạm biệt. Ý cháu là – cháu đã có thể nói chuyện với bà ấy,” tôi nói thêm bằng giọng bồn chồn khi không thấy Hobie đáp lời. “Bởi vì, ý cháu là, họ thực sự không yêu quý gì bố cháu cả - thực sự không thích – Dorothy là mẹ kế của bố cháu và họ ghét nhau ngay từ ngày đầu tiên nhưng bố cháu cũng chưa từng hòa thuận với ông nội Decker…”

    “Được rồi, được rồi. Từ từ đã nào…”

    “… và, ý cháu là, bố cháu hồi trẻ có gặp một vài rắc rối, và cần phải được giải quyết - ổng bị bắt mà cháu không biết tại sao – thực tình cháu không biết, nhưng theo những gì cháu còn nhớ thì họ không muốn dây dưa gì với bố cháu nữa và họ cũng không muốn liên quan gì tới cháu luôn…”

    “Bình tình đã! Ta không cố làm…”

    “… bởi vì, cháu thề, cháu hầu như chẳng bao giờ gặp họ, cháu thực sự không biết gì về họ hết nhưng đâu có lí do gì để họ phải ghét bỏ cháu – mà ông nội cháu cũng chẳng phải một người tốt đẹp gì, thực ra ông cũng khá là bạo lực với bố cháu…”

    “Suỵt… đừng nói tiếp nữa! Không phải là ta muốn ép cháu, ta chỉ muốn biết – không phải bây giờ, cháu nghe đã,” ông nói khi tôi đang định ngắt lời, ông gạt phăng mọi từ ngữ của tôi đi như thể đang đuổi một con ruồi ra khỏi bàn ăn.

    “Luật sư của mẹ cháu đang ở đây. Trong thành phố. Ông đi cùng cháu đến gặp ông ta nhé? Không,” tôi nói lộn xộn khi thấy hai hàng lông mày của ông lại gần nhau, “không phải kiểu luật sư thông thường, mà là kiểu chuyên lo vấn đề tiền bạc ấy? Cháu đã nói chuyện với ổng qua điện thoại? Trước khi cháu đi ấy?”

    “Được rồi,” Pippa nói – cô đang cười, má hồng lên bởi cái lạnh – “chú chó này sao vậy? Nó chưa thấy ô tô bao giờ à?”

    Màu tóc đỏ sáng rực; mũ len màu xanh lá; cảm giác trông thấy cô bé dưới ánh sáng ban ngày thật giống như bị dội nước lạnh. Cô bé đi khập khiễng, có lẽ là từ sau vụ tai nạn nhưng nó cũng nhẹ nhàng như cú nhảy của châu chấu, như những bước thanh thoát trước khi bắt đầu múa; và cô bé bị bao bọc bởi nhiều lớp quần áo chống rét đến mức trông cô ấy như một cái kén sặc sỡ, có chân.

    “Nó đang tru tréo như mèo,” cô nói, tay gỡ chiếc khăn len hoạ tiết ra trong khi Popchyk đang nhảy nhót dưới bàn chân cô ấy với đầu dây xích ngậm trong miệng. “Nó lúc nào cũng kêu thế à? Ý tôi là, có một cái taxi đi qua và – whoo! lao vào không trung! Tôi đang thả diều bằng chó! Mọi người thì cười nghiêng ngả. Đúng thế…” cô cúi xuống nói chuyện với con chó, cọ cọ đầu nó bằng bàn tay mình… “mày đó, mày cần phải tắm, đúng không? Nó là giống Maltese à?” cô ấy hỏi, mắt nhìn lên.

    Tôi nhanh chóng gật đầu, lấy mu bàn tay che miệng, cố ngăn một cái hắt xì.

    “Tôi yêu những chú chó.” Tôi gần như không nghe rõ cô ấy đang nói gì, vì tôi quá choáng váng khi ánh mắt cô hướng tới mình. “Tôi có một cuốn sách về chó và tôi nhớ hết tất cả các giống của chúng. Nếu tôi có thể nuôi một chú chó to thì tôi sẽ chọn giống Newfoundland giống Nana trong phim Peter Pan ấy, còn nếu tôi có một chú chó nhỏ - ừm, tôi hay thay đổi ý định lắm. Tôi thích tất cả những giống chó săn nhỏ - đặc biệt là giống Jack Russells, chúng lúc nào cũng vui vẻ và thân thiện trên đường phố. Nhưng tôi cũng biết một chú chó giống Basenji nữa. Và một hôm khác thì tôi lại gặp một chú Pekingese tuyệt hảo. Rất rất nhỏ và cực kỳ thông minh. Ở Trung Quốc chỉ có người thuộc hoàng tộc mới có được nó thôi. Chúng là giống rất cổ xưa.”

    “Maltese cũng là giống cổ xưa đó,” tôi cất tiếng khàn khàn, vui vì đã một thông tin thú vị để đóng góp. “Chúng có từ thời Hi Lạp cổ đại.”

    “Đó là lí do vì sao cậu chọn một chú chó thuộc giống Maltese? Vì nó cổ xưa?”

    “Ừm…” Cố nén ho.

    Cổ đang nói điều gì khác – với con chó, không phải với tôi – nhưng tôi đã rơi vào một cơn hắt xì khác nữa. Thật nhanh, Hobie vớ lấy thứ gần nhất – một cái khăn ăn – và đưa nó cho tôi.

    “Thôi được, đủ rồi đó,” ông nói. “Về giường ngay. Không, không,” ông nói khi tôi cố đưa cái khăn ăn lại cho ông, “cháu cầm lấy đi. Giờ nói cho ta nghe…” mắt ông lia tới đĩa thức ăn lộn mù, tách trà bị đổ ra và món bánh mỳ ướt nhẹp… “ta có thể mang cho cháu món gì để ăn sáng?”

    Bị hỏi ngay giữa những cơn hắt xì, tôi trả lời bằng một cái nhún vai đậm chất Nga mà tôi đã học từ Boris: gì cũng được.

    “Vậy được rồi, nếu cháu không phiền, ta sẽ làm cho cháu ít cháo yến mạch. Để dễ nuốt qua cổ họng. Cháu không có cái tất nào à?”

    “Ừm…” Cô ấy đang bận với chú chó, áo len màu vàng mù tạc và màu tóc là màu của lá mùa thu, màu sắc của cổ trộn lẫn với những màu sáng chói của căn bếp: táo đỏ phát sáng trong chiếc bát màu vàng, lấp lánh ánh bạc từ lọ cà phê mà Hobie dùng để cắm bút sơn.

    “Pyjamas thì sao?” Hobie vẫn đang nói. “Không à? Ta sẽ xem có gì từ đồ đạc của Welty không. Và khi cháu thay đồ ra thì ta sẽ ném luôn vào máy giặt. Giờ thì cháu xong việc rồi đó,” ông nói, đặt tay lên vai tôi đột ngột đến nỗi làm tôi nhảy dựng.

    “Cháu…”

    “Cháu có thể ở lại. Đến chừng nào cháu muốn. Và đừng lo, ta sẽ đi cùng cháu tới gặp người cố vấn pháp luật của cháu, mọi chuyện sẽ ổn.”



    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một số hãng sữa có đăng hình của trẻ em bị mất tích lên vỏ hộp để mọi người cùng tìm kiếm.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Người tập hợp và đánh số các bản nhạc của Mozart để tiện cho việc tra cứu.
     
  5. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    ii.

    CHẾNH CHOÁNG, RUN RẨY, TÔI ĐI dọc theo hành lang tối xuống phía tầng dưới và cảm thấy thật thoải mái khi đi giữa những tấm vải phủ mang màu nặng nề và lạnh lẽo. Căn phòng có mùi ẩm mốc, và mặc dù có rất nhiều thứ đồ thú vị để ngắm nghía – một cặp tượng sư tử có cánh bằng đất nung, những bộ tranh thêu tay từ thời Victoria, thậm chí cả một quả cầu thủy tinh – nhưng những bức tường nâu sậm, cái thứ màu khô ráo như bột cacao, vẫn hoàn toàn nhấn chìm tôi trong cảm nhận về chất giọng của Hobie và của cả Welty nữa, một màu nâu hiền lành hòa tan vào tận bên trong tôi và cất lên tông giọng hoài cổ ấm áp, để rồi khi trôi nổi trong cơn mê sảng ốm yếu tôi vẫn thấy mình được che chở và bảo vệ bởi sự hiện diện của họ trong khi Pippa đã tự tạo cho mình một thứ hào quang đầy màu sắc, tôi chợt có những suy nghĩ hỗn độn về những chiếc lá cây màu đỏ, về những tia lửa ánh lên trong bóng tối và về cả bức tranh của tôi nữa, nó sẽ trông như thế nào nếu đặt trên lớp tường nền tối màu và hút hết ánh sáng này. Lớp lông vàng. Vài sợi lông đỏ thẫm. Đôi mắt đen láy.

    Tôi giật mình thức dậy – cảm giác chao đảo kinh hoàng, tôi lại ngồi trên chuyến xe buýt trong khi ai đó nhấc bức tranh ra khỏi túi xách của tôi – và thấy Pippa đang nâng con chó ngái ngủ lên, tóc cô bé sáng hơn bất cứ thứ gì có trong căn phòng.

    “Xin lỗi cậu, nhưng chú chó cần được ra ngoài,” cô nói. “Đừng hắt xì vào người tôi.”

    Tôi chống cùi chỏ gượng dậy. “Xin lỗi, chào cậu,” tôi nói ngây ngô, lấy bàn tay vuốt qua mặt; và rồi: “Tôi thấy đỡ hơn rồi.”

    Đôi mắt lo âu màu vàng nâu của cô ấy lia khắp phòng. “Cậu có chán không? Có cần tôi mang cho mấy cây bút chì không?”

    “Bút chì?” Tôi không hiểu. “Tại sao?”

    “Ờ, thì để vẽ…?”

    “Ừm…”

    “Cũng chẳng phải việc gì to tát,” cô bé nói. “Cậu chỉ cần nói không thôi mà.”

    Khi cô ấy lướt ra ngoài, Popchik lon ton theo sau, để lại mùi kẹo cao su hương quế, còn tôi thì cắm mặt vào gối, cảm thấy như bị bóp nát bởi chính sự ngu ngốc của mình. Mặc dù tôi thà chết chứ không nói ai biết nhưng tôi lo ngại rằng việc chơi thuốc vô tội vạ đã hủy hoại não và hệ thống thần kinh của tôi, thậm chí cả tâm hồn tôi ở những chỗ không thể sửa chữa được và có lẽ cả ở những chỗ chưa thực sự hoàn thiện.

    Trong khi tôi nằm đó lo lắng, điện thoại tôi chợt có tiếng bíp: ĐOÁN XEM TAO ĐANG Ở ĐÂU? BỂ BƠI Ở KHU MGM GRAND ĐÓ!!!!!

    Tôi chớp mắt. BORIS? Tôi nhắn lại.

    ĐÚNG, LÀ TAO ĐÂY!

    Nó đang làm gì ở đó? MÀY KHÔNG SAO CHỨ? Tôi nhắn lại.

    KHÔNG SAO NHƯNG HƠI BUỒN NGỦ! BỌN TAO ĐÃ CHƠI MẤY QUẢVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link LIỀN ÔI CHÚA ƠI :-)

    Và rồi lại có âm báo:

    *TUYỆT* VUI LẮM. TIỆC TÙNG SUỐT. MÀY SAO? SỐNG DƯỚI GẦM CẦU À?

    THÀNH PHỐ NEW YORK, tôi nhắn lại. ỐM LIỆT GIƯỜNG. SAO MÀY LẠI Ở MGM GRAND

    Ở ĐÂY VỚI KOTKU, AMBER VÀ VÀI THẰNG NỮA!!! ;-)

    rồi, vài giây sau lại tiếp: MÀY CÓ BIẾT THỨ ĐỒ UỐNG NÀO TÊN LÀ WHITE RUSSIAN KHÔNG? VỊ THÌ NGON NHƯNG TÊN THÌ KHÔNG HỢP ĐỂ UỐNG LẮM

    Có tiếng gõ cửa. “Cháu vẫn ổn chứ?” Hobie hỏi, dí đầu vào cánh cửa. “Muốn ta mang thứ gì cho cháu không?”

    Tôi đặt điện thoại qua một bên. “Không ạ, cám ơn ông.”

    “Vậy thì khi nào đói nhớ bảo ta đấy nhé. Còn nhiều đồ ăn lắm, tủ lạnh chật đến mức ta không đóng lại nổi, bọn ta có mời mọi người đến vào lễ Tạ Ơn mà – cái thứ ồn ào đó là gì thế?” ông hỏi, mắt nhìn quanh.

    “Điện thoại của cháu thôi ạ.” Boris vừa nhắn: MÀY KHÔNG THỂ TIN NỔI NHỮNG NGÀY VỪA QUA ĐÂU!!!

    “Vậy ta sẽ để cháu tự nhiên. Khi cần gì cứ nói với ta nhé.”

    Khi ông đã đi rồi, tôi xoay người đối mặt với bức tường và nhắn lại: MGM GRAND? VỚI LŨ BẠN CỦA KOTKU À?!

    Câu trả lời gần như đến ngay lập tức: ĐÚNG THẾ! CÒN CÓ CẢ AMBER, MIMI, JESSICA VÀ CHỊ JORDAN CỦA KOTKU NGƯỜI ĐANG HỌC *ĐẠI HỌC* NỮA :-D

    SAO NÀO???

    MÀY BỎ ĐI KHÔNG ĐÚNG LÚC RỒI!!! :-D

    sau đó, gần như ngay lập tức, trước khi tôi kịp nhắn lại: PHẢI ĐI RỒI, AMBER CẦN ĐIỆN THOẠI CỦA CÔ ẤY

    GỌI CHO TAO SAU NHÉ, tôi nhắn lại. Nhưng không có tin trả lời – và phải một thời gian lâu, thật lâu sau tôi mới nghe được tin từ Boris.


    iii.

    NGÀY HÔM ĐÓ VÀ MỘT HAI NGÀY tiếp theo, tôi chỉ loanh quanh trong bộ pyjamas cũ thùng thình của ông Welty, tôi cứ liên tục bị cơn sốt làm đảo điên và loạn trí đến mức liên tục thấy mình lại ở Trạm kiểm soát tàu xe hôm đó, chạy trốn mọi người, len lỏi qua các đám đông và chui qua đường ống với thứ nước nhầy nhỏ giọt lên người hoặc thấy mình lại ở Las Vegas trên chiếc xe buýt CAT, đi qua những khu công nghiệp lộng gió với từng đợt cát táp vào cửa sổ xe và tôi thì không có tiền mà trả tiền vé xe nữa. Thời gian cứ thế chảy trôi khỏi cơ thể tôi như băng trượt trên đường cao tốc, bị ngăn lại bởi những tia sáng chói mắt khi bánh xe phanh lại và tôi bị ném vào hiện tại: Hobie đang mang thuốc aspirin cho tôi cùng với nước gừng có đá lạnh, Popchik – vừa được tắm xong, lông bông xù và trắng như tuyết – đang nhảy lên chân giường và luồn lách qua lại giữa hai bàn chân tôi.

    “Đây,” Pippa nói, cô bé tới bên giường và chọc vào bên sườn tôi để cổ có thể ngồi xuống. “Cậu tránh qua chút đi.”

    Tôi ngồi dậy, mò mẫm tìm kính. Tôi đã mơ về bức tranh – tôi lôi nó ra, ngắm nhìn nó, mà có phải tôi đã mơ vậy không? – và tôi chợt bồn chồn nhìn ngó xung quanh để chắc chắn là tôi đã cất nó kĩ trước khi đi ngủ.

    “Có chuyện gì thế?”

    Tôi bắt mình phải nhìn thẳng vào cô ấy. “Không có gì.” Tôi đã lăn lê dưới gầm giường vài lần chỉ để đặt tay mình lên trên cái vỏ gối, và tôi vẫn không thể ngừng tự hỏi liệu mình có sơ suất gì không và liệu nó có nhô ra từ dưới giường không. Đừng nhìn phía dưới đó, tôi tự nhủ. Nhìn cô ấy đi.

    “Đây,” Pippa đang nói. “Tôi đã làm chút gì đó cho cậu. Đưa tay ra đây.”

    “Wow,” tôi thốt lên khi nhìn thấy hình origamiVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link tua tủa màu xanh ngọc trong lòng bàn tay tôi. “Cám ơn cậu.”

    “Cậu biết nó là cái gì không?”

    “Ừm…” Nai? Quạ? Hươu? Hoảng hồn, tôi đành ngước lên nhìn cô ấy.

    “Cậu không biết sao? Một con ếch! Cậu không thấy à? Đây, đặt nó lên tủ thế này. Nó sẽ nhảy khi cậu ấn vào chỗ này, thấy không?”

    Trong khi tôi chơi với nó, một cách lóng ngóng, tôi cũng cảm nhận được đôi mắt cô bé đang nhìn tôi – đôi mắt chứa đầy ánh sáng và sự hoang dã, sự vô tư nhưng mạnh mẽ như đôi mắt của một chú mèo con.

    “Tôi xem cái này được không?” Cô ấy vớ lấy chiếc iPod của tôi và bận rộn lướt qua các thứ bên trong. “Hừm,” cô ấy nói. “Hay đấy! Magnetic Fields, Mazzy Star, Nico, Nirvana, Oscar Peterson. Không có nhạc cổ điển sao?”

    “Ừm, cũng có vài bài,” tôi nói, cảm thấy xấu hổ. Mọi thứ cô ấy vừa nói ngoại trừ Nirvana chính là những thứ của mẹ tôi, và thậm chí vài bài còn của chính cô ấy nữa.

    “Tôi sẽ làm cho cậu mấy đĩa CD. Ngoại trừ việc tôi để máy tính ở trường mất rồi. Chắc là tôi có thể gửi mail cho cậu vài bài – dạo gần đây tôi nghe nhiều nhạc của Arvo Pärt, đừng hỏi tôi tại sao nhé, tôi phải nghe nhạc bằng tai nghe vì nó làm mấy đứa cùng lớp tôi phát điên lên.”

    Sợ rằng cô bé sẽ bắt gặp tôi đang nhìn, nhưng cũng không thể rời mắt ra chỗ khác, tôi đành ngắm nhìn cô ấy đang nghiêng đầu xem xét cái iPod của tôi: đôi tai màu hồng nhạt, những đường nét của vết sẹo vẫn hơi lộ khỏi mái tóc sáng đỏ. Trong trí nhớ của tôi đôi mắt buồn của cô kéo dài, mí mắt nặng trĩu, với sự khoan thai nhắc tôi nhớ tới những thiên thần và những cậu bé phù rể trong cuốn sách về Những Kiệt Tác Bắc Âu mà tôi đã coi tới coi lui ở thư viện.

    “Này…” Từ ngữ đang khô cạn trong miệng tôi.

    “Ừ?”

    “Ừm…” Tại sao bây giờ lại không giống trước kia chứ? Tại sao tôi lại không nghĩ ra gì để nói thế này?

    “Oooh…” cô ấy ngước lên nhìn tôi, và rồi lại cười lớn, cười đến mức không nói được.

    “Gì thế?”

    “Sao cậu lại nhìn tôi kiểu đó?”

    “Kiểu gì?” tôi nói đầy cảnh giác.

    “Như là…” Tôi không biết diễn tả thế nào cái vẻ mặt với cặp mắt lồi mà cô ấy thể hiện. Người đang bị nghẹn? Người bị hội chứng down? Cá mắt lồi?

    “Đừng giận. Cậu chỉ đang nghiêm túc quá thôi. Chỉ là…” cô ấy liếc nhìn xuống cái iPod, và lại nổ một trận cười. “Ooh,” cô ấy nói, “Shostakovich, ghê gớm đó.”

    Cô ấy nhớ được bao nhiêu? Tôi tự hỏi, cho dù đang cháy bừng cùng nỗi nhục nhã nhưng tôi vẫn không thể nào rời mắt khỏi cô ấy. Đó không phải là thứ mà bạn có thể hỏi nhưng tôi vẫn muốn biết. Cô ấy có gặp ác mộng giống tôi không? Nỗi sợ đám đông? Đổ mồ hôi và hoảng loạn? Cô ấy đã bao giờ có cảm giác nhìn thấy bản thân mình từ xa không, như tôi vẫn thường thấy, như thể vụ nổ đã đánh bay cơ thể và linh hồn tôi thành hai thể riêng biệt cách nhau sáu feet? Trận cười của cô ấy có cái vẻ vô lo mà tôi đã quá quen sau những đêm điên dại với Boris, cái tính quá khích và điên rồ mà tôi thấy (ngay trong bản thân mình) có liên quan tới việc đã từng suýt phải bỏ mạng. Đã có những đêm khi còn ở vùng sa mạc, tôi cười đến mệt lả, co người lại mà ôm lấy bụng vì đau, lúc đó nếu có thể quăng mình ra trước đầu xe ô tô để có thể ngừng cười thì tôi cũng sẽ vui vẻ mà làm ngay.


    iv.

    SÁNG THỨ HAI, MẶC DÙ còn kém xa mức ổn, nhưng tôi vẫn dựng mình dậy khỏi những cơn đau nhức mê man và miễn cưỡng lê bước vào bếp để gọi điện tới văn phòng ông Bracegirdle. Nhưng khi tôi yêu cầu được gặp ông thì người thư ký (sau khi bảo tôi chờ máy, và rồi quay trở lại một cách nhanh chóng quá mức) đã thông báo cho tôi rằng ông Bracegirdle đã ra khỏi văn phòng và không, cô ấy không có số của nơi ông đến và không, cô ấy e là không thể nói trước khi nào ông ấy về. Còn gì nữa không nhỉ?

    “Ừm…” Tôi để lại số điện thoại của Hobie cho cô ấy và thấy hối tiếc vì đã không mạnh dạn đặt luôn một cuộc hẹn khi cổ nhấc điện thoại.

    “212, đúng chứ?” giọng nói thông minh, vương giả cất lên.

    “Cháu đã bỏ đi,” tôi nói bằng giọng ngốc nghếch không thể tả; cơn cảm lạnh đã làm giọng tôi nghèn nghẹt và thật hài hước. “Cháu đang ở thành phố.”

    “Đúng, ta có nghe rồi.” Giọng ông thân thiện nhưng rất đúng mực. “Ta có thể làm gì cho cháu?”

    Khi tôi kể ông nghe về bố tôi, tôi nghe có tiếng thở dài. “Ừm,” ông nói thận trọng. “Nghe cháu nói vậy ta thực sự rất tiếc. Chuyện đó xảy ra khi nào?”

    “Tuần trước ạ.”

    Ông lắng nghe mà không nói nửa lời; trong khoảng năm phút tôi kể rõ cho ông nghe mọi chuyện, tôi nghe tiếng ông từ chối ít nhất hai cuộc gọi khác. “Trời ơi,” ông nói khi tôi kể xong. “Đúng là cả một câu chuyện không vừa đâu, Theodore.”

    Trời ơi: nếu đang trong một tâm trạng khác thì có lẽ tôi sẽ cười. Đây quả nhiên là người mà mẹ tôi đã quen và thân thiết.

    “Cháu ở đó chắc khổ sở lắm,” ông nói. “Tất nhiên là ta vô cùng tiếc cho sự mất mát của cháu. Thực sự rất đáng buồn. Mặc dù nói thật – và ta đã cảm thấy thoải mái hơn khi nói cho cháu điều này – là khi bố cháu xuất hiện, không ai biết phải làm gì. Mẹ cháu dĩ nhiên có tâm sự với ta một số chuyện – thậm chí cả Samantha cũng lo lắng - ừm, như cháu biết, đó là một tình huống khó khăn. Nhưng ta nghĩ là không ai có thể tưởng tượng nổi ra chuyện này. Những tên côn đồ với cây gậy bóng chày.”

    “Ừm…” Những tên côn đồ với cây gậy bóng chày, tôi thực sự không muốn ông ấy tập trung vào chi tiết đó. “Bố cháu chỉ cầm nó và đứng đấy thôi. Không phải là ổng đánh cháu hay gì cả.”

    “Vậy…” ông cười, một nụ cười dễ dãi xóa tan không khí căng thẳng… “sáu lăm ngàn đô có vẻ là một khoản tiền rất chính xác cụ thể đấy. Ta cũng phải nói là – ta đã đi vượt quá giới hạn cố vấn của cháu khi chúng ta nói chuyện trên điện thoại, mặc dù đặt trong hoàn cảnh đó thì ta cũng hi vọng cháu sẽ thứ lỗi cho ta. Chỉ là ta ngửi thấy có mùi chuột nhắt thôi.”

    “Gì cơ ạ?” tôi nói sau một hồi không biết nói gì.

    “Qua điện thoại. Số tiền đó. Dù sao thì với điều khoản 529, cháu có thể rút khoản tiền đó. Bị phạt thuế rất nặng, nhưng vẫn có thể rút.”

    Có thể? Tôi có thể có nó? Một tương lai khác chợt lướt qua trong tâm trí tôi: Ngài Silver được trả tiền, bố tôi mặc áo choàng tắm đang kiểm tra tỉ số bằng chiếc điện thoại BlackBerry, tôi ở trong lớp của cô Spirsetskaya với Boris đang nằm bò ra bàn ở dãy bàn bên kia.

    “Mặc dù ta cũng cần phải nói với cháu rằng thật ra số tiền trong quỹ hơi thấp hơn số đó một chút,” Ông Bracegirdle nói. “Nhưng nó vẫn tăng đều đặn! Không phải là chúng ta không thể sắp xếp cho cháu sử dụng số tiền đó, đặc biệt là với hoàn cảnh hiện tại, nhưng mẹ cháu đã cực kỳ kiên định, không dùng một chút nào số tiền đó mặc dù cô ấy có gặp khó khăn về tài chính đi nữa. Cô ấy sẽ không bao giờ muốn bố cháu đụng một ngón tay vào nó. Và đúng, chỉ giữa hai chúng ta thôi nhé, ta thực sự nghĩ rằng cháu rất thông minh khi quyết định trở lại thành phố để tự đại diện cho bản thân mình trước pháp luật. Xin lỗi cháu…” cuộc nói chuyện hơi khó nghe… “ta còn có một cuộc hẹn lúc mười một giờ, ta phải đi rồi… ta nghĩ cháu đang ở nhà Samantha, đúng không?”

    Câu hỏi đó khiến tôi lộn nhào. “Không ạ,” tôi nói, “ở cùng với vài người bạn ở khu Village.”

    “Ừm, tốt. Miễn là cháu thấy thoải mái. Dù sao thì, ta e là ta phải chạy rồi. Chúng ta sẽ tiếp tục nói chuyện trong văn phòng của ta, cháu thấy sao? Ta sẽ nối máy cho cháu tới Patsy để cổ có thể sắp xếp cuộc hẹn cho cháu.”

    “Tốt quá ạ,” tôi nói, “cám ơn ông,” nhưng khi gác máy, tôi chợt thấy toàn thân bủn rủn – như thể ai đó vừa chọc một bàn tay vào ngực tôi và bóp mạnh trái tim tôi bằng một thứ dịch nhầy xấu xí.

    “Mọi việc ổn cả chứ?” Hobie hỏi – ông đi ngang qua phòng bếp rồi đột nhiên dừng lại để nhìn kĩ nét mặt tôi.

    “Vâng, ổn cả ạ.” Nhưng quãng đường từ phòng khách về phòng tôi thật quá dài – và ngay khi đóng cửa lại tôi trèo ngay lên giường mà khóc, âm thầm khóc, những tiếng thở khò khè phát ra khi mặt tôi úp chặt vào gối, trong lúc đó Popchik lấy tay cào cào lên áo tôi và tựa đầu lên gáy tôi đầy lo âu.


    v.

    TRƯỚC KHI LÀM VIỆC NÀY TÔI CÒN cảm thấy tốt hơn, nhưng dường như chính tin tức này đã làm toàn thân tôi đổ bệnh trở lại. Khi ngày dần trôi qua và cơn sốt của tôi quay trở lại tình trạng lảo đảo chếnh choáng, tôi không nghĩ về cái gì khác ngoài bố mình: mình phải gọi cho ông ấy, tôi nghĩ, rồi cố gắng bước ra khỏi giường trước khi nằm vật ra; như thể cái chết của ông ấy không phải sự thật mà chỉ là một màn kịch, một sự thử nghiệm mà thôi; cái chết thật sự (vĩnh viễn) vẫn còn chưa xảy đến và còn thời gian để ngăn nó nếu tôi tìm thấy ông ta, nếu ông nghe điện thoại, nếu Xandra gọi được cho ông từ chỗ làm của cổ, tôi phải liên lạc với ông ấy, phải nói cho ông biết. Thế rồi, lúc sau – khi ngày sắp hết, trời đã tối – tôi lại rơi vào cơn mê sảng rối rắm với hình bố tôi đang chì chiết tôi vì làm hỏng việc đặt chỗ trước trên máy bay, đúng lúc tôi tỉnh giấc vì ánh sáng bên ngoài hành lang, một bóng đen nho nhỏ - Pippa, đột nhiên loạng choạng bước vào phòng như có ai vừa đẩy từ phía sau, cô nói: “Cháu có nên đánh thức cậu ấy không?”

    “Chờ đã,” tôi nói – nửa với cô ấy, nửa với bố mình, người đang nhanh chóng lùi vào bóng đêm, cùng một đám đông hỗn loạn phía sau cánh cổng cao vút hình vòng cung. Khi đeo kính lên, tôi đã thấy cô ấy mặc áo như chuẩn bị ra ngoài.

    “Xin lỗi?” tôi nói, giơ cánh tay lên che mắt, lúng túng vì ánh sáng chói của đèn điện.

    “Không, tôi xin lỗi. Chỉ là… ý tôi là…” cô gạt một lọn tóc ra khỏi mặt… “tôi chuẩn bị đi và tôi muốn nói tạm biệt.”

    “Tạm biệt?”

    “Oh.” Hai hàng lông mày nhợt nhạt của cô ấy kéo lại gần nhau; cổ quay đầu nhìn ra phía Hobie ở ngoài cửa (người mà đã biến mất) và quay trở lại nhìn tôi. “Đúng. Ừm.” Giọng cô hơi có chút hoảng loạn. “Tôi phải về rồi. Tối nay. Dù sao thì, rất vui được gặp cậu. Tôi hi vọng là mọi thứ sẽ thuận lợi cho cậu.”

    “Tối nay?”

    “Đúng thế, tôi chuẩn bị bay rồi. Bác ấy đăng ký cho tôi vào trường nội trú?” cô ấy giải thích khi thấy tôi vẫn tròn mắt nhìn. “Tôi tới đây nghỉ lễ Tạ Ơn? Đến đây gặp bác sĩ ấy? Nhớ không?”

    “Oh. Đúng rồi.” Tôi nhìn cô ấy chằm chằm và hi vọng rằng mình vẫn đang trong giấc ngủ. Trường nội trú với tôi nghe thật quen nhưng tôi cứ nghĩ đó là thứ mà tôi đang mơ thấy.

    “Đúng thế…” cô ấy cũng có vẻ không dễ chịu gì… “tiếc là cậu không đến đây sớm hơn, vui lắm. Hobie đã nấu ăn – bọn tôi có bao nhiêu người tới chơi. Dù sao thì tôi cũng thật may mắn khi được tới đây – tôi phải xin phép bác sĩ Camenzind. Ở trường bọn tôi không được nghỉ lễ Tạ Ơn.”

    “Vậy họ làm gì?”

    “Họ không ăn mừng ngày lễ đó. Ừm… tôi nghĩ chắc là họ sẽ làm gà tây cho những ai tổ chức ăn mừng.”

    “Trường nào thế?”

    Khi cô ấy nói cho tôi cái tên – với một cái nhếch mép nửa đùa nửa thật – tôi đã sốc. Học việt Mont-Haefeli là một trường ở Thụy Sĩ – hầu như không có danh tiếng, theo những gì Andy nói – nơi mà chỉ những đứa con gái ngốc nghếch nhất và phá phách nhất theo học.

    “Mont-Haefeli? Thật hả? Tôi cứ tưởng nó rất” – từ tâm thần chắc không hợp-“wow.”

    “Vậy đấy. Bác Margaret nói tôi sẽ quen thôi.” Cô ấy đang loanh quanh chơi với con ếch giấy trên mặt tủ, cố gắng làm nó nhảy lên, nhưng nó thì chỉ đổ lệch về một bên. “Và khung cảnh thì giống hình ngọn núi trên bìa hộp Caran d’Ache. Đỉnh núi phủ tuyết, cánh đồng hoa và mọi thứ. Nếu không có cái đó thì cũng chỉ giống như mấy phim kinh dị châu Âu nhạt nhẽo.”

    “Nhưng mà…” tôi cảm thấy như mình đang thiếu thứ gì đó, hoặc có lẽ vẫn còn buồn ngủ. Người duy nhất tôi biết từng đến Mont-Haefeli học là chị của James Villiers, Dorit Villiers, và chuyện là cổ bị gửi tới đó học sau khi dùng dao đâm thẳng vào tay của bạn trai mình.

    “Ừ, nơi đó kì dị mà,” cô ấy nói, đôi mắt chán chường quét khắp phòng. “Trường học cho mấy đứa điên khùng. Dù sao thì tôi cũng không có nhiều nơi để có thể vào học với vết thương ở đầu thế này. Họ còn có phòng khám riêng ngay trong trường nữa,” cô ấy nhún vai nói. “Có bác sĩ làm việc hẳn hỏi. Điều đó quan trọng hơn cậu tưởng đấy. Ý tôi là, tôi gặp vấn đề kể từ khi bị chấn thương ở đầu, nhưng không phải tôi là một đứa khùng hay chuyên đi ăn cắp gì hết.”

    “Đúng thế, nhưng…” tôi vẫn đang cố loại bỏ từ phim kinh dị ra khỏi đầu… “Thụy Sĩ? Cũng hay đó chứ.”

    “Nếu cậu nói vậy.”

    “Tôi có biết một cô gái tên Lallie Foulkes đã theo học ở Le Rosey. Cô ấy nói họ còn được giải lao ăn sô cô la mỗi sáng đấy.”

    “Ừm, còn chúng tôi thậm chí còn chả có mứt mà ăn với bánh mỳ.” Bàn tay cô ấy có chấm lốm đốm và xanh xao, nổi bật trên nền áo khoác đen. “Chỉ có những đứa con gái bị biếng ăn mới có mứt. Nếu cậu muốn cho đường vào tách trà của mình thì phải ăn cắp mấy gói từ phòng y tá.”

    “Ừm…” Càng lúc nghe càng tệ. “Cậu có biết cô gái nào tên Dorit Villiers không?”

    “Không. Cô ấy từng ở đây nhưng rồi họ chuyển cô ấy đi nơi khác rồi. Tôi nghĩ là cổ đã định cào vào mặt ai đó. Họ nhốt cô ta vào tủ một thời gian.”

    “Cái gì?”

    “Họ không gọi nó như vậy,” cô giải thích, tay gãi mũi. “Nó là một tòa nhà mà trông giống như trang trại mà họ gọi là La Grange – có các chị vắt sữa bò với mấy người giả đò thôn quê. Chỗ đó tốt hơn khu kí túc. Nhưng cửa thì có chuông báo động và họ còn đặt cả bảo vệ với các thứ khác nữa.”

    “Ừm, ý tôi là…” tôi nghĩ lại về Dorit Villiers – mái tóc vàng xoăn; đôi mắt xanh trống rỗng như một thiên thần điên rồ gắn trên đỉnh cây thông Giáng sinh – và không biết nên nói gì.

    “Đó là chỗ dành riêng cho mấy cô gái cực kỳ khùng. La Grange. Còn tôi ở Bessonet, với một đám mấy đứa con gái Pháp. Đáng ra là tôi phải biết được nhiều tiếng Pháp hơn nhưng thực ra chẳng có ai nói chuyện với tôi cả.”

    “Cậu nên nói với bà ấy là cậu không thích nó! Bác của cậu ấy.”

    Cô ấy nhăn mặt. “Tôi có nói. Nhưng rồi bác ấy sẽ bắt đầu nói cho tôi là nó tốn của bác ấy nhiều tiền như thế nào. Hoặc không thì sẽ nói là tôi đang làm bác tổn thương. Dù sao thì,” cô ấy nói bứt rứt, bằng giọng Tôi phải đi rồi, mắt nhìn ra sau vai.

    “Huh,” cuối cùng thì tôi cũng cất tiếng. Cả ngày lẫn đêm, những cơn mê sảng của tôi trở nên đầy màu sắc nhờ sự hiện diện của cô ấy trong ngôi nhà, sự vui vẻ trong tôi được phục hồi khi nghe thấy giọng cô ấy ở hành lang, nghe thấy tiếng bước chân cô ấy: chúng tôi sẽ cùng nhau dựng lều vải, cô ấy sẽ đợi tôi ở phía sân trượt băng, nghĩ tới những việc chúng tôi cùng nhau làm khi tôi khỏe hơn cũng đủ khiến tôi phấn chấn rồi – thực ra nó như thể chúng tôi đã cùng nhau làm rất nhiều thứ, như là làm vòng cổ bằng mấy cái kẹo sặc sỡ trong khi trên đài vang lên ca khúc của Belle và Sebastian và rồi, sau đó, chúng tôi sẽ đi lang thang quanh một khu vui chơi không có thật ở Quảng trường Washington.

    Hobie, tôi để ý, đang kín đáo đứng ở hành lang bên ngoài. “Xin lỗi,” ông nói, mắt liếc nhìn đồng hồ. “Ta không thích phải thúc giục cháu…”

    “Chắc chắn rồi,” cô ấy nói. Rồi quay qua tôi: “Vậy tạm biệt. Mong là cậu sẽ khỏe hơn.”

    “Chờ đã!”

    “Sao?” cô ấy nói khi quay lại nửa chừng.

    “Cậu sẽ quay lại vào dịp Giáng sinh, đúng chứ?”

    “Không, Bác Margaret sẽ về đây.”

    “Vậy, khi nào cậu sẽ quay lại?”

    “Ừm…” một cái nhún vai. “Không biết nữa. Có thể là kì nghỉ mùa xuân.”

    “Pips à…” Hobie nói, mặc dù ông có vẻ đang nói với tôi hơn là cô ấy.

    “Phải rồi,” cô nói, gạt tóc ra khỏi mắt.

    Tôi chờ tới khi nghe thấy tiếng cửa trước đóng sập lại. Sau đó mới đi ra khỏi giường và kéo rèm qua một bên. Qua lớp kính bám bụi, tôi nhìn hình ảnh họ cùng nhau bước xuống những bậc thềm trước nhà, Pippa quàng chiếc khăn len màu hồng và một chiếc mũ hơi lệch đi bên cạnh Hobie cao lớn đã ăn mặc chỉnh tề.

    Sau khi họ đã khuất sau góc phố được một lúc, tôi vẫn đứng bên cửa sổ nhìn ra con phố trống trơn. Thế rồi, choáng váng và thất vọng, tôi lê bước đến phòng ngủ của cô bé và – không ngăn nổi mình – tôi mở hé cánh cửa ra.

    Trông nó vẫn y như hai năm về trước, ngoại trừ việc giờ đây nó đã trống trải hơn. Poster phim Wizard of Oz và phim Save Tibet. Không còn chiếc xe lăn nữa. Bệ cửa sổ bên ngoài chất đầy đá tuyết. Nhưng nó có mùi hương của cô ấy, nó vẫn ấm áp và tràn đầy sức sống của cô, và trong khi tôi đứng đó mà hít lấy bầu không khí cô từng thở gương mặt tôi bỗng nở một nụ cười hạnh phúc khi được đứng đó cùng với những cuốn truyện cổ tích của cô bé, những lọ nước hoa, cái khay lấp lánh đựng dây buộc tóc và bộ sưu tập valentine của cô nữa: vòng tay bằng giấy, tượng thần cupid và những nhành hoa giấy, tượng những chàng trai thời Edwardian đang cầu hôn với bó hoa hồng trước ngực. Nhón chân khe khẽ cho dù đang đi chân trần, tôi bước tới chỗ những khung hình bằng bạc treo trên tủ quần áo – Welty và Cosmo, Welty với Pippa, Pippa với mẹ cô ấy (cùng mái tóc, cùng đôi mắt) với một Hobie trẻ hơn và gầy hơn…

    Có tiếng rì rì trong phòng. Tôi lấm lét quay lưng lại – có ai vào à? Không: chỉ có Popchik, trắng như bông sau khi tắm, nó đang cuộn tròn nằm giữa những cái gối trên chiếc giường chưa hoàn chỉnh của cô và vừa ngáy vừa nhỏ dãi đầy mãn nguyện. Và mặc dù việc này có vẻ thật thảm hại – lưu luyến những thứ cô ấy để lại như là một con chó con rúc vào cái áo khoác cũ – thì tôi vẫn bò xuống dưới lớp chăn và cuộn vào nằm cạnh chú chó, cười một cách ngờ nghệch khi ngửi thấy mùi hương êm dịu của cô ấy và cảm giác mềm như lụa khi má tôi cọ vào.


    vi.

    “NÀO NÀO,” ÔNG BRACEGIRDLE nói trong khi bắt tay Hobie và bắt tay tôi. “Theodore… ta phải nói rằng… cháu càng lớn lên càng giống mẹ. Ước gì cô ấy có thể thấy cháu lúc này.”

    Tôi cố gắng nhìn thẳng vào mắt ông mà không tỏ ra bối rối. Sự thật là: mặc dù tôi thừa hưởng mái tóc thẳng của mẹ và cả thứ màu sắc sáng-và-tối của nó nhưng tôi trông giống bố tôi hơn nhiều, một sự tương đồng rõ rệt đến mức nó không thể bị bỏ qua bởi những người lạ nhiều chuyện hay những cô chạy bàn trong quán cà phê – tôi chưa từng thấy vui vì điều đó, khi giống với người bố mà tôi không thể chịu nổi, nhưng việc nhìn thấy phiên bản trẻ hơn của gương mặt say xỉn ấy trong gương khiến tôi thấy buồn nhiều hơn vì giờ ông đã qua đời.

    Hobie và ông Bracgirdle đang nói chuyện theo kiểu dịu dàng – ông Bracegirdle đang kể cho Hobie nghe ông đã gặp mẹ tôi thế nào, để khiến Hobie nhớ lại chút: “Đúng thế! Tôi vẫn còn nhớ - gần một giờ mới đi được một foot! Chúa ơi, tôi vừa bước ra khỏi buổi đấu giá và xe cộ không nhúc nhích được gì, tôi ở phố trên chỗ Parke-Bernet cũ ấy…”

    “Ở Madison chỗ đối diện Carlyle?”

    “Đúng thế… khá là xa nhà.”

    “Anh mua bán đồ cổ sao? Ở dưới phía Village như Theo nói đó à?”

    Tôi lịch sự ngồi đó lắng nghe cuộc hội thoại của họ: những người bạn có điểm chung, quản lý triển lãm và người sưu tập đồ nghệ thuật, họ nhà Raker và họ nhà Rehnberg, họ Fawcett và họ Vogel và họ Middleberger và họ Depew, rồi tới những mốc địa điểm quan trọng đã biến mất ở New York, Lutèce đóng cửa, La Caravelle, Café des Artistes, mẹ cháu sẽ nghĩ gì, Theodore, cô ấy yêu Café des Artistes lắm. (Sao mà ông ấy biết điều đó? tôi tự hỏi.) Tôi thì chẳng bao giờ tin những gì bố tôi, trong lúc nóng giận, đã đặt điều về mẹ, nhưng nó thực sự có vẻ là ông Bracegirdle biết về mẹ tôi nhiều hơn tôi nghĩ. Kể cả những cuốn sách không-về-luật-pháp của ông trên giá sách cũng gợi nhớ một sự tương đồng nào đó, một niềm yêu thích chung của họ. Những cuốn sách về nghệ thuật: Agnes Martin, Edwin Dickinson. Cả thơ nữa, những bản in đầu tiên: Ted Berrigan. Frank O’Hara, cuốn Meditations in an Emergency Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Tôi vẫn còn nhớ cái ngày mẹ tôi về nhà với khuôn mặt rạng rỡ hạnh phúc với cùng bản in đó của Frank O’Hara – thứ mà tôi cứ ngỡ mẹ tôi tìm được ở khu Stranf, vì chúng tôi không có đủ tiền mua những thứ như thế. Nhưng khi nhớ lại tôi mới nhận ra là mẹ tôi không hề nói bà có được nó từ đâu.

    “Ừm, Theodore à,” ông Bracegirdle nói, kéo tôi trở về hiện tại. Mặc dù đã lớn tuổi, ông vẫn có vẻ ngoài điềm tĩnh rám nắng của một người dành nhiều thời gian trên sân tennis; quầng thâm dưới mắt khiến ông trông giống một chú gấu trúc hiền lành. “Cháu đã đủ lớn để tòa có thể ưu tiên mọi thứ cháu muốn trong chuyện này,” ông đang nói. “Đặc biệt là khi quyền giám hộ của cháu là không thể phản bác – tất nhiên,” ông ấy quay qua nói với Hobie, “chúng ta có thể tìm một người giám hộ tạm thời trong thời gian nghỉ này, nhưng tôi nghĩ là cũng không cần thiết. Rõ ràng những việc này chỉ để làm điều tốt nhất cho người cần giám hộ, miễn là anh thấy việc này không vấn đề?”

    “Việc này và hơn thế nữa,” Hobie nói. “Cậu bé hạnh phúc là tôi vui rồi.”

    “Anh đã chuẩn bị đầy đủ để đảm nhận trách nhiệm tạm thời là người giám hộ trưởng thành không chính thức của Theodore?”

    “Không chính thức, cà vạt đen, bất cứ cái tên nào đi nữa.”

    “Còn phải bàn cả chuyện đi học của cháu nữa. Chúng ta đã nói về trường nội trú, theo những gì ta nhớ. Nhưng nghĩ như vậy lúc này hình như là quá nhiều rồi, phải không?” ông nói, để ý vẻ mặt căng thẳng của tôi. “Cháu chỉ vừa mới tới đây, và còn mấy kỳ nghỉ sắp tới rồi? Không cần phải quyết định gì ngay lúc này, ta cho là vậy,” ông nói, liếc nhìn Hobie. “Ta nghĩ là cháu chỉ cần chờ đến hết kỳ học này và chúng ta có thể sắp xếp sau. Và cháu biết là cháu có thể gọi cho ta vào bất cứ lúc nào. Ngày hay đêm.” Ông đang viết một số điện thoại lên tấm card. “Đây là số nhà của ta, còn đây là số di động…ôi trời, ôi trời, cháu ho dữ quá!” ông nói, mắt ngước lên… “ho nặng đấy, cháu đã đi khám chưa? và đây là số của ta ở Bridgehamton. Ta hi vọng cháu không ngại gọi cho ta vì bất cứ lí do gì, nếu cháu cần bất cứ thứ gì.”

    Tôi cố hết sức mình nén cơn ho xuống. “Cám ơn ông…”

    “Đây chắc chắn là điều cháu muốn chứ?” Ông đang nhìn tôi kiên định với vẻ mặt khiến tôi cảm thấy như mình đang ngồi ở bục nhân chứng tại tòa. “Ở nhà ông Hobart trong vài tuần tới?”

    Tôi không thích cụm từ một vài tuần tới. “Vâng ạ,” tôi đưa nắm tay ra trước miệng, “nhưng mà…”

    “Bởi vì… trường nội trú.” Ông khoanh tay lại, ngả người ra sau ghế và nhìn tôi đầy tôn trọng. “Về dài hạn, đó gần như là thứ tốt nhất cho cháu nhưng nói thật, với hoàn cảnh này, ta tin là mình có thể điện thoại cho người bạn Sam Ungerer của ta ở Buckerfield và cho cháu tới đó học ngay bây giờ. Chúng ta có thể sắp xếp. Đó là một ngôi trường rất tốt. Và ta nghĩ có thể sắp xếp cho cháu ở tại nhà của hiệu trưởng hoặc một trong các giáo viên thay vì ở kí túc xá, để cháu có thể được ở trong khung cảnh gia đình, nếu cháu thấy đó là thứ cháu muốn.”

    Ông ấy và Hobie đều đang nhìn tôi, một cách động viên, đúng như tôi nghĩ. Tôi thì dí mắt nhìn xuống đôi giày của mình, không muốn tỏ ra vô ơn nhưng thầm ước rằng cuộc nói chuyện này sẽ qua nhanh.

    “Vậy thì.” Ông Bracgirdle và Hobie cùng trao nhau một ánh nhìn – có phải tôi đã lầm khi thấy có gì đó nhượng bộ và/hoặc thất vọng trong nét mặt của Hobie? “Miễn là cháu muốn điều này, và ông Hobart không phản đối, ta cũng không thấy có vấn đề gì với phương án sắp xếp hiện tại. Nhưng ta cũng muốn động viên cháu nghĩ tới nơi mình muốn ở, Theodore, để chúng ta có thể tiếp tục tìm ra phương án gì đó cho học kỳ tiếp theo hoặc thậm chí là học kỳ hè, nếu cháu muốn.”


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tác giả dùng từ “eight ball” là tiếng lóng chỉ một gói cocain (thuốc phiện) nặng khoảng 3.5gr

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Nghệ thuật xếp giấy Nhật Bản

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tạm dịch: Tĩnh tâm trong trường hợp khẩn cấp
     
  6. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    vii.

    SỰ GIÁM HỘ TẠM THỜI. TRONG những tuần tiếp theo, tôi cố gắng để không làm nghiêm trọng mọi thứ và không nghĩ quá nhiều về những ý nghĩa mà từ tạm thời có thể có. Tôi đã nộp hồ sơ vào một chương trình dự bị đại học trong thành phố - lý lẽ của tôi là việc đó sẽ giúp tôi khỏi bị chuyển tới một khu rừng rú nào đó nếu việc ở nhà Hobie có gì trục trặc. Cả ngày ở trong phòng, dưới ngọn đèn yếu ớt, trong khi Popchik ngủ say sưa trên tấm thảm bên cạnh chân tôi thì tôi dành thời gian ngồi xem xét những cuốn cẩm nang chuẩn bị cho bài kiểm tra, nhớ những ngày tháng, thí nghiệm, định lý, những từ mới chữ Latinh, tiếng Tây Ban Nha nhiều động từ bất quy tắc đến nỗi ngay cả trong giấc mơ tôi cũng thấy mình đang nhìn xuống vô số những bảng tóm tắt đó và cố gắng làm cho nó thẳng hàng với nhau.

    Cứ như là tôi đang cố trừng phạt mình vậy – thậm chí là đang cố bù đắp cho mẹ tôi – bằng việc đặt cho mình những mục tiêu cao cả. Từ lâu tôi đã không còn thói quen làm bài về nhà; khi ở Vegas không hẳn là tôi đã tiếp tục công việc học của mình và cái đống kiến thức cần nhớ này khiến tôi cảm giác như đang bị tra tấn, đèn xói thẳng vào mặt, chẳng biết câu trả lời nào mới là đúng, cảm giác khiếp hãi nếu bị trượt. Dụi mắt, cố gắng làm bản thân tỉnh táo bằng việc đi tắm nước lạnh và uống cà phê đá, tôi dắt mũi mình đi tiếp bằng việc tự nhắc mình rằng tôi đang làm một việc đúng đắn, mặc dù cái việc học hành không điểm dừng này với tôi giống với việc hủy hoại bản thân hơn bất cứ lần hít keoVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link nào trước đây; và ở một mức độ không rõ ràng nào đó, bản thân công việc này đã trở thành một thứ thuốc khiến tôi kiệt sức đến nỗi khó mà nhận biết được những gì xảy ra xung quanh nữa.

    Thế nhưng tôi vẫn thấy biết ơn khi có công việc này vì nó khiến tôi ong cả đầu đến không nghĩ được gì nữa. Sự tủi hổ hành hạ tôi giờ đang dần ăn mòn vào bên trong mà không biết nguồn gốc của nó là ở đâu: tôi không hiểu tại sao mình lại cảm thấy thật hư hỏng, vô dụng và sai trái – tôi cứ tự nhiên cho là như vậy, và bất cứ khi nào ngước mắt lên khỏi trang sách là tôi lại như bị nhấn chìm trong thứ chất lỏng nhầy nhụa tới từ mọi hướng.

    Cảm giác đó một phần hẳn là có liên quan tới bức tranh. Tôi biết sẽ chẳng có gì tốt đẹp xảy tới nếu tôi cứ giữ nó, thế nhưng tôi cũng biết mình đã giấu nó quá lâu đến nỗi giờ đây không thể nói ra sự thật nữa. Thú nhận với ông Bracegirdle là điều quá dại dột. Tình thế của tôi đang vô cùng bấp bênh; ông ấy đã có ý định cho tôi tới trường nội trú rồi. Và khi tôi nghĩ tới việc tâm sự với Hobie, điều mà tôi vẫn hay nghĩ tới, bản thân tôi lại trôi nổi giữa biết bao những tình huống giả định mà không cái nào có vẻ khả thi hay bất khả thi hơn cái nào.

    Tôi sẽ đưa bức tranh cho Hobie và ông sẽ nói, ‘oh, không có gì to tát cả’ và có lẽ (tôi gặp vấn đề với đoạn này, với cái sự logic của nó) ông ấy sẽ chăm lo cho nó, hoặc gọi người nào đó ông biết, hoặc sẽ có sáng kiến về những việc cần làm, hoặc sao đó, và không quan tâm, hoặc nổi giận, và thế nào rồi mọi chuyện cũng ổn?

    Hoặc: tôi sẽ đưa bức tranh cho Hobie và ông sẽ gọi cảnh sát.

    Hoặc: tôi sẽ đưa bức tranh cho Hobie và ông sẽ giữ nó cho mình rồi nói, ‘sao, cháu điên rồi à? Bức tranh nào? Ta không hiểu cháu muốn nói gì cả.’

    Hoặc: tôi sẽ đưa bức tranh cho Hobie và ông sẽ gật đầu, vẻ mặt cảm thông rồi nói với tôi rằng tôi đã làm đúng nhưng ngay khi tôi vừa ra khỏi phòng thì ông sẽ gọi cho luật sư của mình và tôi sẽ bị tống khứ đến trường nội trú hoặc trại giáo dưỡng (cái mà, dù có bức tranh hay không, cũng là nơi khả thi nhất mà tôi sẽ đến).

    Nhưng cho đến lúc này sự bứt rứt khó chịu nhất lại là chuyện với bố tôi. Tôi biết rằng cái chết của ông ấy không phải lỗi của tôi, nhưng sâu thẳm bên trong, ở một mức độ có vẻ không hợp lý nhưng lại không thể chối cãi, tôi biết nó là lỗi của tôi. Khi tôi đã vô cảm rời xa ông ấy trong thời khắc tuyệt vọng nhất, thì việc ông ấy nói dối cũng chỉ là phụ mà thôi. Có lẽ ông đã biết khả năng của tôi có thể trả hết những nợ nần của ông – một sự thật đã đeo bám tôi kể từ khi ông Bracgirdle tiết lộ nó. Trong bóng tối bên ngoài chiếc đèn bàn, những món đồ vật trang trí đang nhìn thẳng vào tôi bằng cặp mắt thủy tinh tròn trịa. Liệu ông có nghĩ là tôi cố tình lừa dối ông? Rằng tôi muốn ông phải tìm con đường chết? Khi đêm xuống, tôi mơ thấy hình ảnh ông bị đánh bầm dập và bị đuổi qua bãi đậu xe của casino, và hơn một lần tôi đã giật mình tỉnh giấc, chợt thấy ông đang ngồi trên chiếc ghế cạnh giường và im lặng quan sát tôi, đốm lửa của điếu thuốc sáng lên trong bóng tối. Nhưng họ nói với con là bố chết rồi, tôi hét lớn, trước khi kịp nhận ra là ông không hề có ở đó.

    Không có Pippa, căn nhà lặng thinh đầy chết chóc. Những căn phòng đẹp đẽ khóa kín cửa thoang thoảng mùi ẩm mốc, như mùi lá héo. Tôi đi loanh quanh ngắm nhìn đồ đạc của cổ, tự hỏi giờ cổ đang ở đâu, đang làm gì và cố gắng gắn kết bản thân mình với cô bé bằng những sợi dây mong manh như ngắm nhìn một sợi tóc đỏ trong bồn tắm hay một chiếc tất cuộn tròn dưới ghế sofa. Nhưng tôi càng nhớ cảm giác lo lắng khi có cô ấy ở bên thì tôi càng được ngôi nhà này xoa dịu, cảm giác an toàn và ấm cúng của nó: những bức chân dung cũ kĩ và lối đi mờ ánh đèn, những chiếc đồng hồ nghe rõ mồn một tiếng tích tắc. Tưởng như tôi đã trở thành một cậu bé thủy thủ trên con tàu Marie CélesteVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Trong khi tôi lướt qua bầu không khí im lặng đặc quánh, từng chỗ loang lổ bóng tối và ánh nắng mặt trời đỏ ối, sàn nhà cũ kẽo kẹt dưới chân như sàn của một con tàu, tiếng xe cộ bên ngoài Đại lộ Sáu như đâm thẳng vào tai rồi vỡ làm trăm mảnh. Ở tầng trên, những phương trình vi phân khó hiểu đến choáng váng, Định luật trạng thái làm mát của Newton, các biến độc lập, ta giả sử t không đổi để loại đi những giá trị phái sinh của nó, sự hiện diện của Hobie ở tầng dưới giống như một chiếc mỏ neo, thứ trọng lượng đem lại cảm giác an tâm: tôi thấy yên lòng khi nghe thấy tiếng chiếc búa nhỏ của ông vọng từ dưới lên và khi biết rằng ông đang ở dưới đó lặng lẽ làm những công việc vụn vặt cùng mớ dụng cụ của mình, miếng kẹo cao su quen thuộc và vô số loại gỗ đủ màu.

    Ở với nhà Barbour, việc thiếu tiền tiêu vặt luôn là nỗi lo thường trực của tôi; luôn phải xin tiền từ bà Barbour để đóng tiền ăn trưa, tiền dùng phòng thí nghiệm, và những khoản nhỏ nhặt khác, việc đó gây ra trong tôi sự rụt rè và lo lắng lớn gấp nhiều lần số tiền mà bà thoải mái đưa cho. Nhưng khoản chu cấp từ ông Bracegirdle khiến tôi thấy đỡ khó xử hơn nhiều khi chuyển tới ngôi nhà của Hobie mà không chính thức nói lời nào. Tôi có thể trả tiền hóa đơn khám thú y của Popchik, một khoản nhỏ thôi, vì nó bị yếu răng và bị giun nhẹ - theo như tôi biết thì Xandra chưa từng cho nó uống thuốc hay đưa nó đi tiêm trong suốt khoảng thời gian tôi có mặt ở Vegas. Tôi cũng tự trả được tiền đi khám nha sĩ của mình, khá là lớn (sáu lỗ hàn, ngồi mười tiếng địa ngục trên ghế khám răng) và mua cho bản thân tôi một cái laptop, một cái iPhone, cũng như là đôi giày và quần áo mùa đông mà tôi đang cần. Và – mặc dù Hobie không nhận tiền sinh hoạt hàng ngày – tôi vẫn ra ngoài và mua đúng những loại hàng tạp hóa đó, những thứ mà tôi trả tiền có: sữa, đường và bột giặt mua ở Grand Union, nhưng tôi thường mua nông sản tươi từ chợ nông dân ở Quảng trường Union, nấm dại, táo winesapVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, bánh mỳ nho khô, những thứ đồ nho nhỏ mà ông có vẻ thích, không giống như cái bịch bột giặt Tide mà ông nhìn vào đầy ngao ngán và lẳng lặng đem vào bếp.

    Cuộc sống ở đây thật khác với không khí đông đúc, phức tạp và trang trọng quá mức ở nhà Barbour, nơi mà mọi thứ đều được tập dượt và lên lịch như một vở kịch ở Broadway, một sự hoàn hảo đến ngột ngạt mà Andy lúc nào cũng chỉ chực rút lui, vội vàng chạy về phòng ngủ như một con mực ống sợ sệt. Trái lại, Hobie sống và bay bổng như một loài thú có vú khổng lồ dưới biển trong cái không gian tĩnh lặng của riêng ông, màu nâu sậm của vệt nước trà loang và của thuốc lá, nơi mà mỗi chiếc đồng hồ trong căn nhà đều nói một điều khác nhau và thời gian không thực sự khớp với thứ thời gian tiêu chuẩn thông thường mà thay vào đó chúng chảy ngoằn ngoèo theo những tiếng tích tắc điềm đạm của riêng mình, tuân theo nhịp chảy cổ xưa của ông, khác xa với thứ đồ công nghiệp dán keo nhiệt của thế giới ngoài kia. Mặc dù ông cũng thích ra ngoài coi phim nhưng trong nhà không có cái tivi nào; ông đọc những cuốn tiểu thuyết cũ mà những trang cuối cùng vẫn trắng muốt như đá cẩm thạch; ông không có di động; máy tính của ông, một cái IBM từ thời tiền sử, có kích thước bằng cái va li và không làm được gì. Không nói gì là không có tội, ông vùi mình vào công việc, dùng hơi nước để nắn lại mặt bàn hoặc chạm khắc chân bàn bằng một cái đục, và sự say mê của ông như bay lên từ cái cửa hàng này và khuếch tán vào không trung thông qua hơi ấm từ lò sưởi luôn cháy lửa vào mùa đông. Ông hay đãng trí và rất tốt bụng; ông cũng hay xao nhãng và lẫn lộn nhiều thứ và khiêm nhường và hiền lành nữa; thường với lần đầu tiên bạn nói thì ông sẽ không nghe thấy, hoặc thậm chí cả lần thứ hai; ông đã làm mất cặp kính, tạm thời không biết chỗ của ví, chìa khóa, hóa đơn giặt khô, và thường xuyên gọi tôi xuống đó để cùng ông bò trên nền nhà mà tìm những đồ vật bé tí xíu hoặc một mẩu đồ cứng mà ông vừa làm rơi xuống sàn. Thông thường ông chỉ mở cửa hàng với những cuộc hẹn trước, mỗi lần khoảng một đến hai giờ đồng hồ, nhưng – theo những gì tôi thấy – không lí do gì có thể bào chữa cho việc lôi ra chai rượu Sherry cùng những cuộc thăm viếng của bạn bè và các mối quan hệ khác; và nếu ông khoe ra một thứ đồ gỗ, mở và đóng ngăn tủ trước những tiếng ooh và aah, nó có vẻ giống với tinh thần của tôi và Andy, khi xưa, đã lôi đồ chơi ra khoe và giảng giải.

    Nếu ông thực tình có bán được một món đồ, thì chắc là tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Lãnh địa của ông (như ông vẫn gọi thế) là cái xưởng chế tác, hoặc là cái ‘bệnh viện’ thì đúng hơn, nơi mà những chiếc bàn chế hư hỏng nặng đang chất đống chờ được ông chăm sóc. Như một người làm vườn bận bịu với đống cây cảnh, tận tay phủi những con rệp ra khỏi từng chiếc lá, ông tự nhấn chìm bản thân mình vào kết cấu và đường nét thớ gỗ của từng món đồ, những chiếc tủ âm, những vết sẹo và những đường nét tuyệt hảo. Mặc dù ông có một vài thứ thiết bị làm gỗ hiện đại – một cái máy cắt, một cái khoan không dây và một cái cưa lưỡi tròn – nhưng ông hiếm khi dùng chúng. (“Nếu phải dùng cái bịt tai thì ta cũng không cần mấy thứ máy móc đó lắm đâu.”). Ông xuống xưởng từ sớm và đôi khi, nếu có việc cần làm, ông sẽ ở đó đến sau khi mặt trời lặn, nhưng thường khi đèn trong bắt đầu được bật thì ông sẽ lên tầng trên và – trước khi rửa tay để chuẩn bị ăn tối – ông sẽ rót cho mình đúng một lượng whiskey, rất gọn, trong cái chén nhỏ: quen thuộc, phù hợp, mu bàn tay ông còn dính nhọ nồi, có thứ gì mạnh mẽ như một người lính ngay cả trong điệu bộ mệt mỏi của ông. Ông đã đưa cậu ra ngoài ăn tối chưa, Pippa nhắn tin cho tôi.

    Rồi, khoảng 3 hay 4 lần gì đó

    Ông ấy chỉ thích tới những nhà hàng vắng vẻ mà không ai muốn ghé.

    Đúng đấy chỗ ông đưa tớ đến tuần trước trông như lăng mộ vua tutankhamun

    Ừ ông chỉ đến những nơi mà ông thấy thương cảm cho người chủ! vì ông sợ rằng họ sẽ sập tiệm và rồi ông sẽ thấy tội lỗi

    Tôi thích ăn đồ ông nấu hơn

    Vậy hãy bảo ông làm bánh gừng cho cậu ước gì bây giờ tôi cũng được ăn nhỉ

    Bữa tối là khoảng thời gian tôi trông mong nhất. Ở Vegas – đặc biệt khi Boris đã bắt đầu quấn lấy Kotku – tôi chưa từng thấy quen với cảm giác chán nản khi phải đi loanh quanh tự làm đầy cái bụng mình lúc nửa đêm, ngồi bên giường mình với một gói khoai tây hoặc một hộp cơm khô còn thừa lại sau bữa ăn của bố tôi. Trái ngược một cách sung sướng, cả một ngày của Hobie sẽ xoay quanh chủ đề bữa tối. Chúng ta sẽ ăn ở đâu? Ai sẽ tới ăn cùng? Ta nên nấu món gì nhỉ? Cháu có thích ăn lẩu không? Không à? Chưa từng ăn sao? Cơm rang tẩm chanh hay bột nghệ? Mứt quả sung hay quả mơ? Cháu có muốn đến chợ Jefferson với ta không? Đôi khi vào các ngày chủ nhật sẽ có khách tới, có thể là giáo sư từ New School và trường Columbia, những quý bà hát opera trong dàn nhạc hay những quý bà làm công tác xã hội, và rất nhiều những người già đáng mến từ khắp ngóc ngách của con phố này bao gồm rất nhiều những nhà buôn và sưu tập đồ thuộc mọi cấp bậc, từ những quý cô hơi dở người đeo găng tay không ngón, những người đi bán nữ trang thời Georgian ở chợ trời tới những người giàu có thường hay lui tới nhà Barbour (Welty, như tôi được biết, đã giúp nhiều người trong số này tạo dựng nên những bộ sưu tập của riêng mình, bằng việc cố vấn xem họ nên mua thứ đồ gì). Hầu hết các cuộc hội thoại đều khiến tôi hoàn toàn lúng túng (St-SimonVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link? Lễ hội Opera Munich? CoomaraswamyVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link? Căn biệt thự ở Pau?). Nhưng ngay cả khi căn phòng mang không khí trang trọng và những người tham gia rất “hiểu biết” thì những bữa trưa của ông vẫn là kiểu mà mọi người không ngại tự phục vụ mình hoặc ăn từ chiếc đĩa được đặt trên đùi, đối lập với những bữa tiệc được chăm chút một cách cứng nhắc ở nhà Barbour với tiếng cụng ly lãnh đạm.

    Thật ra, ở những bữa tối thế này, cho dù những vị khách của Hobie rất thú vị và dễ gần, tôi vẫn thường hay lo lắng rằng sẽ xuất hiện người nào đó biết tôi khi còn ở nhà Barbour. Tôi thấy thật tội lỗi khi không gọi cho Andy; thế nhưng, sau những gì xảy ra với bố cậu ấy ở trên phố, tôi thậm chí còn thấy xấu hổ thay cho cậu khi cậu biết được tôi đã quay lại thành phố mà không có nổi một nơi để sống.

    Và – cho dù vấn đề đó cũng chẳng to tát gì – tôi vẫn không yên lòng khi nhớ lại lúc mình xuất hiện trước cửa nhà Hobie lần đầu tiên. Mặc dù ông chẳng bao giờ nói lại chuyện đó trước mặt tôi, thứ đã dẫn dắt tôi tới bậc thềm trước nhà, phần lớn là vì ông có thể thấy tôi không thích thú gì chuyện đó, thế nhưng ông vẫn kể cho mọi người – không phải là tôi đổ lỗi cho ông; câu chuyện hay như vậy cũng nên được kể ra. “Thật đúng đắn khi cháu gặp được Welty,” bà bạn DeFrees tuyệt vời nói, một người buôn bán tranh màu nước thế kỉ mười chín, một người thích ôm ấp và vuốt ve người khác với mớ quần áo cứng đờ và mùi nước hoa nồng nặc trên người, bà còn có cái thói quen của những quý bà cao tuổi là nắm cánh tay hoặc vỗ lên bàn tay bạn trong khi nói chuyện. “Bởi vì, cháu yêu, Welty đúng là một kẻ điên vì chợ búa. Yêu mọi người, cháu biết đấy, yêu những nơi buôn bán. Đi đi lại lại qua mấy nơi đó. Những mối làm ăn, hàng hóa, những cuộc hội thoại, những lần đổi chác. Đó là dấu ấn của vùng đất Cairo lên tuổi thơ của ông ấy, ta đã luôn miệng nói rằng ổng sẽ hoàn toàn phù hợp khi đi lòng vòng trên đôi dép lê và bán thảm trong một ngôi chợ ở Ả Rập. Ổng có cái thiên phú về đồ cổ, cháu biết đấy - ổng biết thứ đồ nào thuộc về ai. Ai đó sẽ vào cửa hàng mà không dự định mua gì, vào trú mưa một lúc chẳng hạn, và ổng sẽ mời họ tách trà nóng và cuối cùng họ lại mua một cái bàn ăn được chở tới từ Des Moines. Hoặc một người sinh viên sẽ bước vào chỉ để ngắm nghía trầm trồ, và anh ta rồi sẽ đem về một bản in có giá không đắt lắm. Mọi người đều vui, cháu biết không? Ổng biết mọi người đều không định vào và tậu về một món đắt đỏ - tất cả đều là trò mai mối, tìm một ngôi nhà phù hợp mà thôi.”

    “Ừm, và mọi người đều tin tưởng ông ấy,” Hobie nói, ông bước vào với một chén nhỏ rượu sherry cho bà DeFrees và một ly whiskey cho chính ông. “Ông ấy luôn nói rằng sự khuyết tật của ông làm ông trở thành một tay bán hàng thành công còn tôi thì nghĩ là không chỉ có thế. ‘Người tàn tật đáng thương.’Anh ta nói chẳng có lí lẽ gì cả. Toàn là đứng bên ngoài nhìn vào thôi.”Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    “Ah, Welty không bao giờ đứng ngoài thờ ơ với bất cứ chuyện gì,” bà DeFrees nói, đưa tay nhận lấy chén sherry và vỗ lên cánh tay ông đầy trìu mến, bàn tay với làn da mỏng như giấy của bà sáng lên với chiếc nhẫn kim cương màu hồng. “Ông ấy luôn đúng kể cả trong những tình huống khó khăn, Chúa phù hộ ông ấy, luôn tươi cười, không bao giờ có lấy một lời phàn nàn. Dù sao thì, cháu yêu,” bà ấy nói, quay qua tôi, “đừng nhầm lẫn. Welty biết chính xác mình đang làm gì khi đưa cháu cái nhẫn đó. Bởi vì bằng việc đưa nó cho cháu, ông ấy đã dẫn cháu tới với Hobie, cháu thấy không?”

    “Đúng thế ạ,” tôi nói – và sau đó tôi đứng dậy đi vào trong bếp, thật bối rối khi nghe tới chi tiết này. Bởi vì, tất nhiên, ông ấy không chỉ đưa cho tôi chiếc nhẫn.


    viii.

    NỬA ĐÊM, TRONG CĂN PHÒNG CŨ của Welty, giờ là phòng tôi, cặp kính cũ dùng để đọc sách và những chiếc bút máy vẫn ở trong ngăn kéo bàn làm việc, tôi nằm đó lắng nghe những âm thanh từ đường phố mà trong lòng bứt rứt. Ở Vegas tôi đã từng chợt nghĩ nếu bố tôi hoặc Xandra có tìm ra bức tranh thì họ cũng không thể biết đó là cái gì, ít nhất là không thể biết ngay được. Nhưng Hobie thì sẽ biết ngay. Hết lần này tới lần khác, tôi liên tục mường tượng ra những tình huống khi tôi về nhà và thấy Hobie đang đợi tôi với bức tranh trong tay – “cái gì đây?” – không có lời nói quanh co, bao biện hay sáo rỗng nào có thể đối phó với một thảm họa như thế này; và khi tôi cúi xuống mò mẫm dưới gầm giường để chạm vào cái vỏ gối (như tôi vẫn thường làm, không dùng mắt mà chỉ quờ quạng, để chắc chắn là nó còn đó) bàn tay tôi vừa chạm tới rồi rụt về thật nhanh như đụng phải món ăn trong lò vi sóng.

    Cháy nhà. Một vụ đột nhập. Thông báo đỏ chót của INTERPOL về Dữ liệu Tác phẩm nghệ thuật Mất tích. Nếu ai đó quan tâm tới sự liên hệ thì cái nhẫn của Welty chính là bằng chứng xác đáng rằng tôi đã ở cùng khu trưng bày với bức tranh này. Cánh cửa phòng tôi đã cũ và cập kênh trên cái bản lề đến mức nó còn không đóng chặt được; tôi phải sập nó kín lại và chèn thêm cái chặn cửa bằng kim loại nữa. Nếu chẳng may, bằng một sự thôi thúc bất ngờ, ông chợt muốn lên tầng và lau dọn thì sao? Phải thừa nhận rằng đây không phải là tính cách thường thấy của một Hobie đãng trí và không-quá-sạch-sẽ mà tôi biết – Không ông không quan tâm nếu cậu có bừa bộn đi nữa, ông ấy chẳng bao giờ vào phòng tớ ngoại trừ để thay tấm trải giường và phủi bụi, Pippa đã nhắn tôi vậy, cổ bảo tôi nên giặt giũ lại giường chiếu ngay lập tức và dành bốn lăm phút điên cuồng phủi bụi khắp ngóc ngách của căn phòng này – tượng chim ưng, quả cầu thủy tinh, phía đầu giường chạm trổ - bằng một cái áo sơ mi sạch. Phủi bụi sớm trở thành một thói quen ám ảnh – đủ để tôi phải ra ngoài mua về mớ giẻ lau chuyên dụng cho mình, mặc dù khắp nhà Hobie cũng có cả tá rồi; tôi không muốn ông thấy tôi lau chùi phủi bụi, hi vọng duy nhất của tôi là cái từ bụi nó không bao giờ xuất hiện trong tâm trí của ông nếu ông có tình cờ ngó đầu vào căn phòng của tôi.

    Với lí do này, bởi vì tôi chỉ thực sự an tâm khi đi ra ngoài mà có ông đi cùng, nên tôi dành hầu hết thời gian trong phòng, ngồi ở bàn, ít khi nghỉ để ăn. Và khi ông ra ngoài, tôi sẽ theo đuôi cùng ông đi tới những triển lãm, những cuộc mua bán tài sản, những cuộc trưng bày, đấu giá nơi mà tôi đứng cùng ông ở cuối căn phòng (“không, không,” ông nói, khi tôi chỉ tới những chiếc ghế trống ở trước mặt, “chúng ta phải đứng ở nơi có thể nhìn rõ những cái mái chèo”) – lúc đầu thật thú vị, như khi xem phim vậy, mặc dù sau vài giờ thì nó cũng nhàm chán như cuốn Tích phân: Định nghĩa và các vấn đề liên quan.

    Nhưng cho dù tôi đã cố (và phần nào thành công) để tỏ ra thản nhiên, cùng ông vô tư đi khắp Manhattan như thể dù có thế nào thì tôi cũng không quan tâm lắm, nhưng thật sự thì tôi đã đeo bám ông với đúng cái tinh thần bồn chồn lo lắng khi Popchik – cô đơn thảm hại – đã thường xuyên đeo bám sau Boris và tôi khi còn ở Vegas. Tôi đi cùng ông đi ăn những bữa trưa bình dân. Tôi đi cùng ông tới những buổi thẩm định đánh giá. Tôi đi cùng ông tới hiệu may quần áo. Tôi đi cùng ông tới những buổi thuyết giảng với số người tham dự ít ỏi, chủ đề là về những nghệ nhân đóng tủ gỗ ở Philadelphia vào những năm 1770. Tôi đi cùng ông tới Dàn nhạc Opera, mặc dù những chương trình ở đó thì buồn tẻ và dài lê thể đến mức tôi tưởng mình có thể ngất lịm đi và ngã lăn quay ra lối đi giữa hai hàng ghế. Tôi đi cùng ông tới ăn tối với nhà Amstisse (trên Đại lộ Park, không may là rất gần với nhà Barbour) và nhà Vogel, và nhà Krasnow, và nhà Mildeberger, nơi mà những cuộc hội thoại hoặc là a.) chán đến mức hai con ngươi chao đảo hoặc b.) vượt khỏi tầm hiểu biết khiến tôi không biết làm gì khác ngoài hừm. (“Cậu bé đáng thương, chắc hẳn cháu thấy bọn ta nhàm chán đến không thể cứu vãn nổi,” bà Mildeberger nói đầy trong sáng, không hề nhận ra câu nói của mình chân thực đến mức độ nào.) Những người bạn khác, như ông Abernathy chẳng hạn – tầm tuổi bố tôi, với vài vụ bê bối không rõ ràng trong quá khứ - thì lại rất đồng bóng và ăn nói lưu loát, hoàn toàn không để mắt tới tôi (“Và anh nói là anh nhặt được đứa trẻ này ở đâu, James?”) đến nỗi tôi chỉ biết ngồi chết lặng giữa đống đồ cổ Trung Hoa và những chiếc bình Hi Lạp, vừa muốn nói điều gì đó hiểu biết nhưng lại vừa sợ sẽ thu hút sự chú ý bằng bất kỳ cách nào, tôi cảm thấy lưỡi mình như bó chặt lại và hoàn toàn lúng túng. Ít nhất là một hoặc hai lần một tuần chúng tôi sẽ tới nhà bà DeFrees trong căn nhà rộng lớn chứa đầy đồ cổ của bà (phiên bản vương giả hơn ngôi nhà của Hobie) ở phía tây Đường Sáu Mươi Ba, nơi mà tôi ngồi ở rìa những chiếc ghế mảnh mai và cố lờ đi mấy con mèo Bengal đáng sợ của bà ấy trong khi chúng cào móng vào đầu gối tôi. (“Nó là loài sinh vật cảnh giác với người lạ, đúng không?” tôi nghe thấy lời nhận xét thầm thì của bà khi chúng đi qua phòng và tới xúm quanh mấy bức vẽ bằng màu nước của Edward Lear.) Thỉnh thoảng bà sẽ đi cùng chúng tôi tới những buổi trưng bày ở tiệm Christie và tiệm Sotheby, Hobie sẽ chăm chú từng thứ đồ một, mở và đóng các ngăn kéo tủ, chỉ cho tôi những điểm biểu hiện của một tay nghề điêu luyện, dùng bút chì đánh dấu vào cuốn catalo trên tay – và rồi, sau khi dừng lại một hai lần trước những khu triển lãm dọc trên đường đi, bà ấy sẽ quay trở về Đường Sáu Mươi Ba và chúng tôi sẽ tới Sant AmbrœusVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, nơi mà Hobie, trong bộ vest lịch lãm, đứng ở quầy rượu và uống một tách espresso trong khi tôi ăn chiếc bánh sừng bò sô cô la và ngắm nhìn những đứa trẻ đeo cặp sách đang bước vào, hi vọng không gặp phải đứa nào ở trường cũ mà tôi biết.

    “Bố cháu có muốn một tách espresso nữa không?” người phục vụ tại quầy hỏi tôi khi Hobie xin phép đi vào nhà vệ sinh.

    “Không, cám ơn, cháu nghĩ chỉ cần hóa đơn thôi ạ.” Tôi bất chợt rùng mình, thật đáng buồn, khi mọi người tưởng nhầm Hobie là bố tôi. Mặc dù tuổi ông đã đủ để làm ông tôi, nhưng ở ông vẫn có cái khỏe mạnh giống với những người bố lớn tuổi đến từ châu Âu mà bạn thường gặp ở khu phía Tây – những ông bố sáng bóng, oai nghiêm, tự chủ đã lấy vợ lần thứ hai và có con khi ở độ tuổi năm mươi và sáu mươi. Trong bộ trang phục ông mặc khi đi tới triển lãm, nhấp từng ngụm espresso và bình lặng nhìn ngắm đường phố, ông có thể là một chủ nhà máy người Thụy Sĩ hoặc chủ một nhà hàng được đánh giá một hoặc hai sao Michelin: con người thực tế, kết hôn muộn, giàu có. Tại sao, tôi buồn bã nghĩ, trong khi ông quay lại với chiếc áo khoác dài vắt qua cánh tay, tại sao mẹ tôi không lấy một ai như ông ấy…? Hoặc như ông Bracegirdle? một ai đó mà bà thực sự có nhiều điểm tương đồng – lớn tuổi hơn nhưng luôn có phong thái, một ai đó thích tới những buổi triển lãm, hòa nhạc hay thích loanh quanh trong tiệm sách cũ, một ai đó quan tâm, có học thức và tốt bụng? Người sẽ trân trọng mẹ tôi, mua cho mẹ tôi những bộ quần áo xinh đẹp và đưa mẹ tôi tới Paris nhân dịp sinh nhật, cho mẹ tôi cuộc sống mà bà xứng đáng được hưởng? Sẽ không khó để mẹ tôi tìm được một người như vậy, nếu bà cố gắng. Những người đàn ông vẫn thường yêu mến mẹ tôi: từ những người gác cửa khu căn hộ tới những người thầy giáo ở trường tôi cho tới những người bố của bạn bè tôi cho tới tận người sếp Sergio ở chỗ làm của mẹ (người mà, tôi không biết vì lí do gì, đã gọi mẹ tôi là DollybirdVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link), và thậm chí ngay cả ông Barbour cũng luôn chạy tới chào mẹ tôi mỗi lần bà đến đón tôi sau những bữa tiệc ngủ, rất nhanh nhẹn với nụ cười trên môi và chạm vào khuỷu tay mẹ tôi một cách thân mật khi dẫn bà tới ngồi xuống ghế sofa, giọng rất trầm và thân mật, cô ngồi xuống nhé? cô muốn uống chút gì không, một tách trà nhé? Tôi không nghĩ đó là tưởng tượng của mình – không một chút nào – về cách ông Bracegirdle nhìn tôi gần gũi: gần như thể ông đang nhìn vào mẹ tôi, hoặc nhìn vào thứ dấu vết của linh hồn mẹ còn sót lại trong tôi. Nhưng dù cho đã chết rồi thì bố tôi cũng không tài nào có thể biến mất nổi, cho dù tôi đã cố gắng không nghĩ tới hình ảnh của ông ấy nữa – bởi vì ông luôn hiện diện ở đó, trong bàn tay, giọng nói và cách đi đứng của tôi, trong cái liếc nhìn sang bên thật vội vàng của tôi khi rời nhà hàng với Hobie, cái tư thế quay đầu của tôi nhắc về thói quen tỉa tót của ông – luôn kiểm tra bề ngoài của mình trên bất cứ bề mặt nào có thể phản chiếu được.


    ix.

    VÀO THÁNG MỘT, TÔI CÓ bài kiểm tra: một bài dễ và một bài khó. Bài dễ sẽ diễn ra trong một phòng học của một trường cấp ba ở Bronx: cho những bà mẹ đang mang thai, những người tài xế taxi, và một nhóm mấy cô nàng hàng xóm nhiều chuyện từ Grand ConcourseVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link với những chiếc áo khoác lông ngắn và ngón tay sơn màu lấp lánh. Nhưng bài kiểm tra không thật sự dễ như tôi đã nghĩ, với thêm rất nhiều câu hỏi về những vấn đề bí ẩn của cơ quan chính quyền New York (luật pháp ở Albany đã được thực thi được bao nhiêu tháng rồi? Làm thế quái nào mà tôi biết được?), và tôi đi về nhà với bao nhiêu suy nghĩ và thất vọng. Còn bài kiểm tra khó (phòng học khóa trái, những vị phụ huynh căng thẳng đi qua lại khắp hành lang, không khí mệt mỏi như trong một cuộc đấu cờ vua) dường như được thiết kế cho những cái đầu lắt léo tới từ trường MIT, với rất nhiều đáp án từa tựa nhau và tôi đã chọn mà trong đầu không biết tại sao mình lại chọn nó nữa.

    Vậy thì sao, tôi tự nhủ, khi đi lên Đường Canal để bắt tàu về nhà với hai bàn tay thọc sâu trong túi áo và dưới cánh tay tôi thì đầy thứ mùi mồ hôi của cái phòng học đó. Có lẽ tôi sẽ không thể vào được chương trình dự bị đại học – còn nếu tôi vào được? Tôi sẽ phải học cực kỳ, cực kỳ chăm chỉ để lọt vào ba mươi phần trăm đứng đầu, nếu tôi có cơ hội.

    Hubris: một từ mới xuất hiện liên tục trong những bài thi mẫu trước kia nhưng lại không có trong bài thi thật. Tôi đang cạnh tranh với năm nghìn thí sinh để kiếm được một trong ba trăm chỗ - nếu tôi không qua được vòng loại này, tôi cũng không biết điều gì có thể xảy ra nữa; tôi không nghĩ là mình có thể chịu được khi phải đến Massachusetts và ở với mấy người Ungerer mà ông Bracgirdle đã liên tục đề cập, người hiệu trưởng tốt bụng này cùng với “đội” của ông ấy, như cách ông Bracegirdle gọi họ, một người mẹ và ba đứa con trai, những người mà theo như tôi tưởng tượng thì cũng giống mấy đứa du côn da trắng chắc nịch ở trường dự bị đại học, những đứa mà khi xưa vẫn đều đặn tẩn cho Andy và tôi mấy trận hay bắt chúng tôi ăn mấy thứ rác rưởi trên nền nhà. Nhưng nếu tôi trượt bài kiểm tra (hoặc, nói chính xác hơn, tôi không làm đủ tốt để vào được chương trình dự bị đại học), thì tôi biết làm cái gì để có thể được ở lại New York đây? Rõ ràng là tôi nên đặt một mục tiêu khả thi hơn, một trường cấp ba tử tế nào đó trong thành phố nơi mà ít nhất là tôi còn có cơ hội vào. Thế nhưng ông Bracegirdle đã rất kiên quyết về chuyện trường nội trú, về không khí trong lành, màu sắc của mùa thu, bầu trời đầy sao và rất nhiều thú vui của cuộc sống thôn quê (“Trường Stuyvesant. Tại sao cháu lại muốn ở đây và theo học trường Stuyvesant trong khi cháu hoàn toàn có thể thoát khỏi New York? Duỗi thẳng chân tay, việc hít thở cũng dễ chịu hơn? Được ở trong một gia đình?”) đến nỗi tôi đã gạt phăng tất cả các trường trung học ra khỏi đầu, thậm chí là cả những trường tốt nhất.

    “Ta biết điều mẹ cháu muốn dành cho cháu, Theodore,” ông nói đi nói lại. “Cô ấy sẽ muốn một sự khởi đầu hoàn toàn mới cho cháu. Ra khỏi thành phố này.” Ông đã đúng. Nhưng sao tôi có thể giải thích cho ông hiểu, giữa lúc đang mất cân bằng và tỉnh táo sau cái chết của mẹ tôi, rằng những thứ mong mỏi cũ rích đó thật không liên quan?

    Tôi rẽ ngoặt để vào ga trong khi vẫn miên man trong dòng suy nghĩ, tay thò vào túi tìm thẻ tàu điện ngầm, tôi bước qua một sạp báo và chợt bắt gặp một dòng tít lớn:


    NHỮNG KIỆT TÁC TRỊ GIÁ HÀNG TRIỆU ĐÔ LA TRONG BẢO TÀNG
    ĐƯỢC TÌM THẤY Ở BRONX


    Tôi dừng lại bên đường, những người đi bộ vẫn cứ thế chạy dọc hai bên tôi. Thế rồi – cảm thấy như đang bị ai theo dõi, tim tôi đập mạnh còn tay chân thì cứng ngắc – tôi đi bộ lại gần và mua một tờ báo (việc một đứa trẻ như tôi mua báo chắc cũng không quá đáng nghi như nhiều người vẫn tưởng…?) và chạy qua bên kia đường tới băng ghế trên Đại lộ Sáu để đọc nó.

    Cảnh sát, với nguồn tin tình báo, đã phát hiện ra ba bức tranh – một của George van de Minj; một của Wybrand Hendriks; và một của Rembrandt, tất cả đều bị mất tích khỏi bảo tàng từ vụ đánh bom – trong một ngôi nhà ở Bronx. Các bức tranh được phát hiện ở chỗ chứa đồ trên tầng áp mái, bọc trong giấy bạc và nhét ở giữa những tấm lưới lọc trong khu vực để điều hòa của tòa nhà. Kẻ trộm, anh trai của anh ta, và mẹ vợ của người anh trai – chủ của căn hộ - đang trong quá trình tạm giam; nếu bị buộc tất cả các tội danh, họ sẽ đối mặt với mức phạt tổng cộng lên tới hai mươi năm tù.

    Đó là bài báo kéo dài vài trang giấy, nêu chi tiết ngày tháng và có cả sơ đồ. Tên trộm – một nhân viên sơ cứu – đã lẻn vào sau thông báo yêu cầu di tản, gỡ bức tranh khỏi tường, bọc chúng bằng vải, giấu chúng dưới cái cáng di dộng, và đi bộ ra khỏi bảo tàng mà không ai chú ý. “Chọn lúc không có ai ở đó,” nhân viên điều tra FBI được nhà báo phỏng vấn. “Anh ta lôi chúng xuống và mang đi. Hắn không biết chút gì về nghệ thuật. Khi mang các bức tranh về nhà rồi thì hắn không biết nên làm gì với chúng nên đã bàn bạc với anh trai và cùng nhau giấu các tác phẩm ở nhà người mẹ vợ, mà bà ta không hề hay biết, theo những gì bà ta kể lại.” Sau một hồi tìm kiếm trên Internet, hai người anh em đó rõ ràng đã nhận ra Rembrandt quá nổi tiếng nên không thể bán bức tranh đó được, và chính vì cố gắng bán một trong những bức tranh ít nổi tiếng hơn mà họ đã dẫn nhân viên điều tra lần tới được căn gác đó.

    Nhưng đoạn cuối cùng mới là nổi bật hơn cả, như thể nó đã được in bằng chữ đỏ.


    Còn với những tác phẩm vẫn còn mất tích khác, hi vọng của những điều tra viên đã sống lại, và chính quyền đang xem xét một vài địa điểm khả nghi. “Bạn càng rung cây thì càng nhiều quả rơi xuống,” Richard Nunnally, đại diện cảnh sát thành phố phối hợp với đơn vị điều tra tội phạm về nghệ thuật, cho hay. “Thông thường, với những vụ trộm tranh, chúng sẽ đưa các tác phẩm ra khỏi phạm vi quốc gia càng nhanh càng tốt, nhưng thành quả tìm kiếm tại Bronx cho thấy chúng ta có lẽ vẫn còn những tên trộm nghiệp dư, những người thiếu kinh nghiệm chỉ ăn cắp trong cơn bốc đồng và không có hiểu biết về việc mua bán hay che giấu những vật đó.” Theo ông Nunnally, một số người có mặt tại hiện trường đang được tra hỏi, liên hệ và điều tra lại: “Rõ ràng là, ngay lúc này, chúng ta có thể nghĩ rằng rất nhiều các bức tranh mất tích đang ở ngay trong thành phố, ngay trước mắt chúng ta.”



    Tôi thấy người ốm yếu quá. Tôi đứng dậy và vứt tờ báo vào thùng rác gần nhất, và – thay vì hướng về ga tàu điện ngầm – tôi bước trở lại Đường Canal và lang thang quanh khu phố Tàu trong gần một giờ dưới cái lạnh thấu xương, đồ điện rẻ tiền và những tấm thảm màu đỏ máu trong tiệm bánh bao, liếc nhìn qua khung cửa sổ mờ hơi nước vào trong những giá gỗ treo thịt vịt quay Bắc Kinh và nghĩ: khỉ thật, khỉ thật. Những người bán hàng rong trên phố với đôi má ửng hồng, đông đúc như những bộ tộc Mông Cổ, đang hò hét át cả lớp khói nghi ngút bốc lên từ lò than. Công tố viên quận. FBI. Thông tin mới. Chúng tôi quyết tâm khởi tố những vụ việc này với mức độ cao nhất của luật pháp. Chúng tôi hoàn toàn tự tin rằng những tác phẩm mất tích khác rồi cũng sớm xuất hiện. Interpol, UNESCO cùng những ban ngành và các tổ chức quốc tế khác đang cùng hợp tác với chính quyền địa phương trong vụ việc này.

    Nó có mặt ở khắp mọi nơi. Mọi mặt báo đều đưa tin: thậm chí cả mấy tờ báo tiếng Quảng Đông, bức vẽ chân dung của Rembrandt nổi bật giữa biết bao nhiêu bản in, hiển hiện ở cả những thùng rau hỗn độn cho tới những khay lươn ướp đá.

    Thật là bực mình,” Hobie nói vào bữa tối hôm đó với nhà Amstiss, lông mày cau lại đầy lo âu. Những bức tranh mới được tìm thấy là chủ đề duy nhất ông nói tới. “Người bị thương thì ở khắp nơi, người ta đang chết vì mất máu, còn thằng cha này thì chỉ lo đi gỡ tranh ra khỏi tường. Mang chúng ra ngoài dưới trời mưa.”

    “Có thể nói là tôi cũng chẳng ngạc nhiên gì,” ông Amstiss nói, người đã uống tới ly scotch thứ tư liên tiếp. “Sau lần đau tim thứ hai của mẹ tôi ấy? Ông không tin nổi cái đống lộn xộn mà bọn y sĩ ở Beth Israel để lại đâu. Dấu chân đen sì khắp thảm. Chúng tôi còn tìm thấy nắp chai truyền nước trong vài tuần sau đó, con chó còn suýt nuốt phải một cái nữa. Và họ còn làm vỡ đồ đạc gì đó nữa chứ, Martha nhỉ, thứ gì trong cái tủ Trung Hoa ấy, là cái gì ấy nhỉ?”

    “Nghe này, tôi không phàn nàn về những người y sĩ,” Hobie nói. “Tôi rất ấn tượng với trình độ của bọn họ khi cô Juliet bị ốm. Tôi chỉ mừng là họ đã tìm ra mấy bức tranh trước khi chúng bị hủy hoại thậm tệ, nó có thể sẽ… Theo?” ông nói với tôi, hơi đột ngột, khiến tôi rời mắt ngay khỏi đĩa ăn của mình. “Mọi việc vẫn ổn chứ?”

    “Xin lỗi. Cháu chỉ hơi mệt chút thôi.”

    “Không lạ gì đâu,” bà Amstiss nói hiền hậu. Bà dạy môn lịch sử Mỹ ở đại học Columbia; trong hai vợ chồng thì bà là người mà Hobie có cảm tình, ông Amstiss chỉ là thứ đồ đính kèm vô duyên. “Cháu đã có một ngày vất vả. Vẫn còn lo về bài thi à?”

    “Không, không hẳn ạ,” tôi nói mà chẳng suy nghĩ, để rồi sau đó lại hối tiếc.

    “Oh, tôi chắc chắn là nó sẽ đậu thôi,” ông Amstiss nói. “Cháu sẽ đậu,” ông quay qua nói với tôi, bằng cái giọng như hàm ý rằng bất cứ tên ngốc nào cũng có thể làm được, và rồi, quay trở lại Hobie: “Hầu hết mấy chương trình dự bị đại học đều không xứng đáng với danh tiếng của nó, phải vậy không, Martha? Trường trung học danh giá. Sứt đầu mẻ trán mới để thi vào nhưng khi vào được rồi thì lại dễ đến chán ngấy. Ngày nay trẻ con học hành như vậy – đăng ký tham gia, có mặt, và rồi chờ mong đạt giải. Mọi người đều thắng. Ông có biết một học sinh của Martha từng nói gì với bà ấy không? Kể họ nghe đi Martha. Đứa trẻ này xuất hiện sau giờ học, muốn nói chuyện. Gọi là đứa trẻ cũng không đúng – một sinh viên cao học. Và ông biết anh ta nói gì không?”

    “Harold,” bà Amstiss nhắc.

    “Nói anh ta lo về bài kiểm tra, muốn cô cho lời khuyên. Bởi vì anh ta gặp khó khăn với việc ghi nhớ các thứ. Cậu này chắc xứng đáng được giải nhất đó nhỉ? Sinh viên cao học với môn lịch sử Mỹ? Khó khăn với việc ghi nhớ các thứ?”

    “Thì, có Chúa mới biết, tôi cũng có thời gian không nhớ được gì lâu mà,” Hobie nói xuề xòa, và đứng lên lấy thêm đồ ăn, rẽ cuộc hội thoại sang hướng khác.

    Nhưng tối muộn hôm đó, sau khi nhà Amstiss đã về và Hobie đã say giấc, tôi vẫn ngồi trong phòng nhìn qua cửa sổ xuống mặt phố, lắng nghe tiếng xe tải xa xăm lúc hai giờ sáng trên phía Đại lộ Sáu và cố hết sức tự trấn an mình khỏi cảm giác hoảng loạn.

    Nhưng tôi có thể làm gì đây? Tôi đã dành nhiều giờ trên mạng, vội vã nhấn vào hàng trăm bài báo – báo Le Monde, Daily Telegraph, Times of Idia, La Repubblica, những thứ ngôn ngữ tôi không thể đọc, mỗi tờ báo trên thế giới đều đưa tin đó. Khoản tiền phạt, cùng với án tù, thật khủng khiếp: hai trăm nghìn, năm trăm nghìn đô la. Tệ hơn là: người phụ nữ sở hữu căn nhà cũng bị buộc tội vì các bức tranh được tìm thấy trong phạm vi tài sản của bà ấy. Điều đó có nghĩa là, rất nhiều khả năng. Hobie cũng sẽ gặp rắc rối – còn rắc rối lớn hơn tôi nhiều. Người phụ nữ, một nhân viên làm đẹp đã về hưu, khai rằng bà không hề biết những bức tranh đó đang ở trong nhà mình. Nhưng còn Hobie? Một nhà buôn đồ cổ? Không bàn đến chuyện ông vô tư cho tôi vào ở cùng, điều đó xuất phát từ trái tim đẹp đẽ của ông. Nhưng ai mà tin nổi là ông không hề biết gì về nó?

    Suy nghĩ của tôi cứ thế lộn nhào và xoay mòng mòng, như đang một chuyến xe lái ẩu. Mặc dù những kẻ trộm này chỉ hành động bộc phát và không có tiền án tiền sự, nhưng sự nghiệp dư của họ cũng không thể ngăn chúng ta không truy tố vụ án này bằng luật pháp. Một nhà phê bình, ở London, đã đề cập tới bức tranh của tôi khi liên hệ tới việc tìm lại được bức tranh của Rembrandt:... đã kéo thêm nhiều sự chú ý hơn tới những tác phẩm có giá trị vẫn còn mất tích, đặc biệt là bức Goldfinch của Carel Fabritius vào năm 1654, độc nhất trong lịch sử nghệ thuật và do đó, vô giá…

    Tôi xóa hết lịch sử tìm kiếm máy tính khoảng ba hay bốn lần rồi tắt máy, sau đó cứng đờ người leo lên giường và tắt đèn. Tôi vẫn còn giữ bọc thuốc chôm được từ Xandra – hàng trăm viên, đủ màu sắc và kích cỡ, theo như Boris thì đều là thuốc giảm đau an thần, nhưng mặc dù chúng đôi khi vẫn làm bố tôi lao đao – tôi cũng nghe ông phàn nàn rằng đôi khi chúng khiến ông mất ngủ giữa đêm, vậy nên – sau một hồi nằm bất động với sự bồn chồn và lưỡng lự trong khoảng một giờ, quay mòng mòng như say sóng, mắt dán lên những chấm sáng của đèn pha ô tô in lên trần nhà – tôi lại bật công tắc đèn và mò mẫm trong ngăn kéo tủ đầu giường tìm cái bọc đó và chọn hai viên khác màu, một xanh và một vàng, với suy luận rằng nếu một viên không giúp tôi ngủ được thì viên kia có thể sẽ có tác dụng.

    Vô giá. Tôi quay lưng đối mặt với bức tường. Bức tranh của Rembrandt mới được tìm thấy được định giá bốn mươi triệu. Nhưng bốn mươi triệu vẫn là một mức giá cụ thể.

    Ngoài đại lộ, một chiếc xe cứu hỏa hú còi inh ỏi trước khi chạy biến vào khoảng không xa dần. Ô tô, xe tải, nhưng cặp đôi ồn ào cười nói bước ra khỏi quán bar. Trong khi nằm đó thao thức nghĩ về những thứ bình yên hơn như tuyết, như những ngôi sao ở vùng sa mạc, thầm hi vọng rằng mình đã không nuốt sai liều thuốc và vô tình giết chết bản thân, tôi cố gắng bấu víu vào một sự thật rất đỗi an tâm tôi từng liếc thấy trên mạng: những bức tranh bị đánh cắp gần như không thể lần ra dấu vết trừ khi có người cố gắng bán nó, hoặc dịch chuyển nó đi nơi khác, vậy nên chỉ có khoảng hai mươi phần trăm số vụ trộm bị phát giác mà thôi.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Xu hướng của một bộ phận thanh thiếu niên. Loại keo dán mô hình máy bay, khi hít vào, sẽ cho cảm giác hưng phấn. Nếu hít quá nhiều sẽ khiến não thiếu oxy và có thể dẫn đến tử vong

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Con thuyền Marie Céleste được tìm thấy gần đảo Azores trong tình trạng tốt nhưng không thấy một thuyền viên nào và toàn bộ phao cứu sinh cũng không còn.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một loại táo địa phương, quả nhỏ, màu đỏ nhạt và xanh

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Thánh Simon

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (1877-1947): Là một trong những nhà triết học và sử học đi tiên phong trong việc tìm hiểu nghệ thuật Ấn Độ, đặc biệt là các biểu tượng

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Ý Hobie là Welty đã vô lý khi tự cho rằng mình thành công là do người khác thương hại.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một nhà hàng Ý ở New York.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Từ cũ (tiếng Anh): người phụ nữ trẻ đẹp.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một đại lộ lớn ở Bronx.
     
  7. phuongngan

    phuongngan Mầm non

    Nếu có bản dịch in thì đọc sẽ thấm hơn, mình có thể đối chiếu 2 bản song song nhau. Nhiều câu mình thấy hơi dài, một số từ có thể bỏ hoặc bạn dịch ngắn gọn mà vẫn đủ ý ấy, không nhất thiết phải chính xác từng từ trong bản gốc vì tiếng Việt mình vốn dài dòng mà :). Nhưng bạn cất công dịch cuốn đồ sộ này là tốt lắm rồi :D
     
    ngantrang0811 thích bài này.
  8. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Cám ơn b đã nhận xét. Mình sẽ chú ý trong quá trình đọc soát lỗi sao cho ngắn gọn dễ hiểu nha!
     
    man in the moon and dongtrang like this.
  9. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Chương 7.

    CÁI CỬA-HÀNG-PHÍA-SAU-CỬA-HÀNG, TIẾP





    i.

    NỖI HOẢNG SỢ VÀ LO LẮNG của tôi lớn đến mức nó đã phủ bóng đen lên cả sự xuất hiện của lá thư báo tin: tôi đã được nhận vào học kỳ mùa xuân chương trình dự bị đại học. Cái tin này sốc đến mức tôi đã để cái phong bì vào ngăn kéo tủ, ngay cạnh một chồng các lá thư có in tên của Welty, trong suốt hai ngày, cho tới khi tôi đủ tỉnh táo để bước tới đầu cầu thang (tiếng cưa tay sột soạt thô ráp vang lên từ dưới xưởng) và gọi: “Hobie?”

    Tiếng cưa ngừng lại.

    “Cháu được nhận rồi.”

    Khuôn mặt to xanh xao của Hobie xuất hiện dưới chân cầu thang. “Gì thế?” ông hỏi lại, vẫn đang mải mê công việc nên chưa thực sự tập trung, ông chùi tay và để lại những dấu màu trắng trên chiếc tạp dề đen của mình – và rồi nét mặt ông thay đổi khi nhìn thấy chiếc phong bì. “Có phải là thứ ta đang nghĩ không đấy?”

    Tôi không nói gì mà đưa luôn cho ông lá thư. Ông nhìn nó, rồi nhìn tôi – rồi cười một tiếng mà theo tôi chính là điệu cười kiểu Ai-len của ông, khàn và rõ ràng là đang ngạc nhiên.

    “Làm tốt lắm!” ông nói, tay tháo tạp dề và luồn bức thư qua khe chắn cầu thang. “Ta rất mừng vì điều đó, không nói dối đâu. Ta rất ghét khi nghĩ tới việc để cháu gói ghém đồ đạc tới đó một mình. Và khi nào chúng ta sẽ bàn chuyện đó? Ngày đầu tiên ở trường mới ấy?”

    Tôi cảm thấy thật tồi tệ, khi Hobie vui đến thế. Ở bữa tối ăn mừng – tôi, Hobie và bà DeFrees ở một nhà hàng Ý nhỏ bé tồi tàn – tôi nhìn sang cặp đôi đang uống rượu vang ở một bàn duy nhất có người ngoài bàn của chúng tôi; và – thay vì hãnh diện như mình vẫn hi vọng – tôi chỉ cảm thấy bức bối và cừng đờ.

    “Chúc mừng!” Hobie nói. “Giai đoạn khó khăn đã qua. Cháu có thể thở phào rồi đấy.”

    “Chắc là cháu vui lắm,” bà DeFrees nói, người mà cả buổi tối ngồi vòng tay qua ôm lấy cánh tay tôi và đôi khi lại cho tôi những cái siết tay đầy phấn khởi. (“Bà trông thật bien éléganteVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link,” Hobie nói khi ông hôn má bà ấy: mái tóc hoa tiêu được búi cao, và sợi ruy băng nhung đỏ được buộc xuyên qua những mối nối trên chiếc vòng tay kim cương của bà.)

    “Hình mẫu của sự cố gắng mà!” Hobie nói với bà. Nó làm tôi càng thấy bản thân mình tồi hơn khi nghe ông nói với bạn bè rằng tôi đã học hành chăm chỉ ra sao và tôi là một đứa học sinh giỏi thế nào.

    “Thật tuyệt quá. Cháu không vui hay sao? Lại còn được thông báo rất vội nữa chứ! Tươi tỉnh lên chút đi, cháu trai. Khi nào thì thằng bé bắt đầu?” bà nói với Hobie.


    ii.

    MỘT SỰ NGẠC NHIÊN THÚ VỊ LÀ sau quá trình chật vật để giành được một suất vào học, tôi nhận ra chương trình dự bị đại học này còn kém xa so với độ vất vả mà tôi tưởng tượng. Ở một vài khía cạnh nó còn là trường có ít đòi hỏi nhất mà tôi từng học: không có lớp chuyên, không bắt buộc về chứng chỉ SAT hay yêu cầu phải vào được trường trong khối Ivy League, không đòi hỏi quá cao về toán và ngôn ngữ - thật ra là chẳng có yêu cầu gì. Với nỗi hoang mang tăng dần, tôi cố xem xét kĩ cái thiên đường học thuật mà tôi vừa rơi vào và nhận ra lí do tại sao vô vàn những đứa trẻ trung học tài năng và giỏi giang ở năm đặc khu hành chính lại quyết sống chết để vào được nơi này. Không kiểm tra, không thi cử, không điểm số. Chỉ có những lớp học nơi mà bạn lắp ghép pin mặt trời và có những buổi hội thảo với các nhà kinh tế học được giải Nobel, và những lớp học nơi mà tất cả những việc bạn làm chỉ là ngồi nghe những bản nhạc của Tupac hoặc xem phiên bản đặc biệt phim Twin Peaks. Học sinh được tự do thiết kế nên những khóa học Robot hoặc Lịch sử Trò chơi điện tử của riêng mình nếu họ chọn. Tôi được tự do chọn một số một học tự chọn thú vị với vài bài luận về nhà làm vào giữa học kỳ và một dự án nhỏ vào cuối kỳ. Nhưng cho dù tôi biết rõ rằng mình vô cùng may mắn, tôi vẫn không thể nào thấy vui hay thậm chí là biết ơn cái vận may của mình. Như thể tinh thần tôi vừa trải qua một phản ứng hóa học: như thể mức axit trong tâm lý của tôi đã lệch khỏi trạng thái cân bằng và hút hết sức sống khỏi tôi đến mức không thể cứu vãn được nữa, hoặc ngược lại, giống như một nhánh san hô cứng lại đến tận xương.

    Tôi chỉ có thể làm những thứ mình bắt buộc phải làm. Tôi đã từng làm điều này: đầu óc trống rỗng, tự đẩy mình tiến về phía trước. Bốn buổi sáng một tuần tôi thức dậy lúc tám giờ, tắm trong cái bồn tắm chân cong bên cạnh phòng ngủ của Pippa (rèm tắm có hình hoa bồ công anh, mùi dầu gội hương dâu tây của cổ đưa tôi vào làn hơi nước đầy mỉa mai như thể hình ảnh cô vẫn ở bên tôi cười đùa). Sau đó – rơi bịch xuống mặt đất – tôi thoát khỏi đám mây hơi nước và lặng lẽ vào trong phòng mình mặc đồ - sau khi kéo con Popchik đi quanh các tòa nhà, nơi mà nó nhảy dựng lên và la hét hoảng loạn – và ngó đầu vào xưởng làm việc, nói lời chào tạm biệt Hobie, vác ba lô lên vai, và nhảy lên tàu qua hai bến xuống phố dưới.

    Hầu hết các đứa trẻ đều đăng ký năm hoặc sáu khóa học nhưng tôi thì chọn con số nhỏ nhất, bốn: Nghệ thuật Studio, tiếng Pháp, Giới thiệu về Điện ảnh châu Âu, Văn học Nga trong các bản dịch. Tôi muốn đăng ký lớp tiếng Nga giao tiếp nhưng lớp tiếng Nga 101 - ở mức độ cơ bản – không còn chỗ cho tới mùa thu. Tôi đến lớp học trong cái lạnh thấu xương, lên tiếng khi có ai đó mở lời, hoàn thành các bài tập của mình, và trở về nhà. Đôi lúc, sau giờ học tôi sẽ tới tiệm ăn Ý hoặc Mexico quanh đại học New York, xung quanh là máy chơi bi lăn và cây trang trí bằng nhựa, trên tivi màn hình lớn luôn chiếu thể thao và sẽ có bia khuyến mãi vào Giờ Vàng (mặc dù tôi thì chẳng bao giờ gọi bia: cảm giác thật lạ khi quay trở về cuộc sống bình thường của một thiếu niên, như là trở lại với bút chì màu thời mẫu giáo vậy). Cuối cùng, sau khi đã nốc đầy một bụng Sprites, tôi sẽ về nhà Hobie qua lối Công viên Quảng trường Washington, đầu cúi gằm và máy iPod bật âm lượng to hết cỡ. Vì lo lắng (bức tranh của Rembrandt kia vẫn đầy rẫy trên tin tức) mà tôi bị mất ngủ nghiêm trọng và bất cứ khi nào chuông cửa reo đột ngột là tôi lại nhảy dựng lên như có hỏa hoạn cấp độ năm.

    “Em đang tách biệt với mọi người, Theo,” cô giáo chủ nhiệm Susanna nói (chỉ gọi bằng tên: mọi người đều là bạn bè), “hoạt động ngoại khóa là thứ gắn kết các học sinh trong môi trường học tập ở trung tâm thành phố. Đặc biệt là những học sinh nhỏ tuổi. Các em ấy rất dễ mất phương hướng.”

    “Ừm…”Cô ấy nói đúng: trường học rất cô đơn. Những đứa mười tám, mười chín tuổi thì không giao du với bọn nhỏ hơn, và mặc dù có khá nhiều học sinh bằng và nhỏ tuổi hơn tôi (thậm chí có cả một đứa mười hai tuổi dặt dẹo mà theo tin đồn là có IQ tận 260) thì cuộc sống của chúng vẫn thật khép kín, mối quan tâm của chúng thì rặt toàn thứ ngớ ngẩn và lạ lùng như thể chúng đang nói thứ ngôn ngữ của trường trung học mà tôi đã quên từ lâu. Chúng sống ở nhà với bố mẹ; điều mà chúng lo lắng là điểm số, chuyến du lịch tới Ý và kỳ thực tập mùa hè tại Liên Hợp Quốc; chúng sẽ hoảng loạn nếu bạn châm thuốc hút trước mặt chúng; chúng thật thà, tốt bụng, ngây thơ và hoàn toàn không hiểu thực tế. Với bất cứ điểm chung nào mà tôi có với chúng, đáng lẽ tôi nên xuống phố dưới và đi chơi với lũ lớp tám ở trường Greenwich còn hơn.

    “Ta thấy cháu đang học môn tiếng Pháp. Câu lạc bộ tiếng Pháp có họp mặt một tuần một lần, tại một nhà hàng Pháp ở khu University Place. Còn vào các ngày thứ ba thì họ sẽ tới Trung tâm văn hóa Pháp và cùng xem những bộ phim bằng tiếng Pháp. Có thể cháu sẽ thích.”

    “Có thể ạ.” Trưởng bộ môn tiếng Pháp, một người Angieri lớn tuổi, đã tiếp cận tôi (một cách bất thình lình – với cái đập tay lên vai mạnh mẽ của ông, tôi đã nhảy dựng lên như gặp cướp) và nói liến thoắng mà không cần mào đầu, rằng ông đang dạy một lớp chuẩn bị có buổi thuyết trình mà có thể tôi sẽ thích tham dự , nguồn gốc của khủng bố thời hiện đại bắt đầu với Mặt trận Giải phóng Angieri và Chiến tranh Angieri – tôi ghét cái cách mà mọi giáo viên của chương trình này dường như đều biết tôi là ai, nhìn nhận tôi khi trong đầu đã biết trước về cái “bi kịch” đó, như giáo viên môn điện ảnh của tôi, cô Lebowitz (“Cứ gọi cô là Ruthie”) đã nói nguyên văn. Cả cô ấy nữa – cô Lebowitz – đã nói chuyện với tôi về việc tham gia Câu lạc bộ Điện ảnh sau khi cổ đọc một bài văn tôi viết về bộ phim Kẻ cắp xe đạp; cổ cũng gợi ý là có thể tôi sẽ thích Câu lạc bộ Triết học, cái mà vẫn có các cuộc tranh luận hàng tuần về cái mà cổ gọi là Những Câu Hỏi Lớn. “Ừm, có thể ạ,” tôi nói đầy khách sáo.

    “Ừm, từ bài luận của em, có vẻ như em bị hấp dẫn bởi, nói thế nào nhỉ, một lĩnh vực siêu hình nào đó. Ví dụ như tại sao người tốt lại phải chịu đau khổ chẳng hạn,” cổ nói, trong khi tôi tiếp tục nhìn cô bằng ánh mắt trống rỗng. “Và liệu số phận có phải là ngẫu nhiên hay không. Bài luận của em không thực sự viết về khía cạnh điện ảnh của đạo diễn De Sica mà nghiêng về những sự hỗn loạn và bấp bênh của cuộc sống mà chúng ta đang sống.”

    “Em cũng không biết,” tôi nói sau một thoáng im lặng. Bài luận của tôi có thực sự viết về những điều đó không? Tôi thậm chí còn chả thích thú gì phim Kẻ cắp xe đạp (hay Kes, hay La Mouette, hay Lacombe Lucien, hay bất cứ một bộ phim nước ngoài đáng chán nào mà chúng tôi đã xem trong lớp của cô Lebowitz).

    Cô Lebowitz nhìn tôi lâu đến mức tôi bắt đầu thấy không thoải mái. Rồi cô ấy chỉnh lại cặp kính màu đỏ tươi và nói: “Ừm, hầu hết những bài tập chúng ta làm về Điện ảnh Châu Âu là khá nặng. Đó là lí do tại sao cô nghĩ có thể em sẽ muốn tham dự một trong những buổi hội thảo về chuyên ngành phim ảnh của cô. ‘Một số vở hài kịch điên rồ của những năm 30’ hoặc thậm chí là ‘Phim câm.’ Chúng ta sẽ bàn luận về phim Dr. Caligari những cũng nói khá nhiều về Buster Keaton, nhiều về Charlie Chaplin nữa – những chủ đề cũng gây khá nhiều tranh cãi, em biết đấy, nhưng trong một phạm vi an toàn hơn. Những vấn đề thuộc phạm trù cuộc sống của chúng ta.”

    “Có thể ạ,” tôi nói. Nhưng tôi chẳng hề có ý định thêm gánh nặng cho mình bằng mấy thứ bài tập thêm vớ vẩn đó, cho dù nó có thuộc phạm trù cuộc sống của tôi đi nữa. Vì – gần như ngay sau khi qua được cánh cửa của ngôi nhà – thứ năng lượng dồi dào giúp tôi vào được chương trình Dự bị Đại học này đã cạn kiệt. Nó khiến tôi không còn muốn di chuyển nữa; tôi cũng chẳng gắng sức nhiều trừ khi thực sự cần thiết. Tất cả những gì tôi muốn là lẳng lặng mà sống.

    Bởi vậy, những sự chào đón nồng nhiệt của các giáo viên rồi cũng dần mất hứng và trôi vào sự nuối tiếc mơ hồ. Tôi không phải là đang tìm kiếm thử thách, phát triển bản thân, mở rộng tầm mắt hay tận dụng những nguồn lực mà mình có. Không phải là tôi, như cô Susanna đã từ tốn miêu tả, đang thích nghi dần với chương trình này. Thật ra – dần dần khi học kỳ này trôi qua, các giáo viên cũng tách xa dần và còn xuất hiện một lời nhận xét đáng ghét (“cơ hội học tập được trao tặng dường như không thúc đẩy Theodore cố gắng nhiều hơn, về bất kỳ khía cạnh nào”) tôi càng ngày càng thêm nghi ngờ rằng lý do duy nhất tôi được nhận và chương trình này là bởi vì cái “bi kịch” kia. Ai đó đã quăng hồ sơ của tôi vào văn phòng tuyển sinh, chuyển nó tới một người cấp cao hơn, Chúa ơi, tội nghiệp đứa trẻ, nạn nhân của khủng bố, blah blah blah, trường học phải có trách nhiệm, trường chúng ta còn bao nhiêu chỗ, anh có nghĩ là cậu bé phù hợp không? Tôi gần như chắc chắn đã hủy hoại cuộc đời của một đứa trẻ thông minh khác ở khu Bronx mà xứng đáng hơn tôi – một đứa trẻ đáng thương biết chơi kèn clarinet mà ở trưởng trung học vẫn bị đánh vì bài tập đại số của cậu ta, người mà cuối cùng sẽ phải đi kiểm vé ở trạm thu phí ô tô thay vì trở thành giáo viên dạy cơ khí lỏng ở trường Kĩ thuận California bởi vì tôi đã lấy mất vị trí đáng lẽ là của cậu ta hay cô ta.

    Đây đúng là một sai lầm . “Theodore tham gia rất ít trong lớp học và có vẻ như không muốn chú ý tới việc học tập của mình trừ khi thực sự cần thiết,” thầy giáo tiếng Pháp của tôi đã viết trong tờ phiếu điểm giữa kỳ đầy thảm hại của tôi – không có bất kỳ một sự giám sát nào của người lớn – chẳng có ai xem nó ngoài tôi. “Hi vọng rằng những vấp ngã sẽ thêm động lực để em ấy tự chứng minh năng lực của bản thân và đạt được nhiều điều từ chính hoàn cảnh của mình trong học kỳ hai sắp tới.”

    Nhưng tôi còn chẳng tha thiết việc đạt được gì đó từ hoàn cảnh của mình, nói gì đến việc tự chứng minh năng lực bản thân. Như một tên khùng, tôi thường đi lang thang trên các con phố và (thay vì làm bài tập, hay tham dự các lớp học ngoại ngữ trên máy tính, hay tham gia một trong số các câu lạc bộ mà tôi đã được mời) tôi đi tàu điện ngầm tới những khu dân cư trong sạch ở ngoài rìa thành phố nơi mà tôi được đi bộ giữa những cửa hàng rượu vang với một mạng lưới cửa hàng tạp hóa. Nhưng rồi tôi cũng sớm hết hứng với cái thú vui dịch chuyển mới của mình – đi hàng trăm dặm đường, đi chả vì cái gì – mà thay vào đó, như một hòn đá lẳng lặng chìm sâu dưới làn nước, tôi như cuộn mình vào thứ công việc phải ngồi một chỗ dưới tầng hầm nhà Hobie, một bầu không khí mờ mịt dễ chịu bên dưới mặt đường nơi tôi được cách li với tiếng còi om sòm của thành phố và những tòa nhà văn phòng cao chọc trời đầy cứng nhắc, nơi mà tôi thấy vui khi được đánh bóng những mặt bàn cũ và lắng nghe những bài nhạc cổ điển trên đài WNYC hàng giờ liền.

    Sau tất cả: tôi quan tâm tới passé composéVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link hay những tác phẩm của Turgenev để làm gì? Liệu có sai không, khi muốn trùm chăn kín đầu mà ngủ nướng và đi quanh ngôi nhà yên bình này, ngắm nhìn vỏ sò xếp trong tủ kính và những chiếc giỏ liễu gai đựng đệm nhồi ghế được đặt dưới gầm bàn trong phòng khách, hoàng hôn phủ xuống thành những hình gai san hô chiếu xuyên qua khung cửa sổ hình bán nguyệt lắp phía trên cửa chính? Nhanh chóng, giữa trường học và khu xưởng chế tác, tôi đã chìm dần vào một cơn mê không nhớ nổi, một phiên bản kiếp trước của cuộc đời tôi nhưng nghiêng ngả và giống mơ hơn là thực, nơi mà tôi bước đi giữa những con phố thân thuộc nhưng sống trong những khung cảnh chẳng thân thuộc chút nào, sống giữa những khuôn mặt xa lạ; và mặc dù thường xuyên đi bộ tới trường nhưng tôi vẫn không thể nào quên được cuộc sống khi xưa còn có mẹ - Ga Canal Street, những chậu hoa được chiếu sáng ở chợ Hàn Quốc, bất cứ thứ gì cũng có thể gợi lại hình ảnh đó – như thể một tấm màn đen đã hoàn toàn phủ che kín cuộc sống khi còn ở Vegas của tôi.

    Chỉ đôi khi, trong những phút giây tôi không tỉnh táo, những ngày tháng ấy mới dội lại ồ ạt đến mức tôi phải dừng bước giữa lối đi vì sững sờ. Theo một cách nào đó hiện tại đã co lại thành một nơi nhỏ bé hơn và cũng ít hứng khởi hơn. Có lẽ chỉ bởi bây giờ tôi đã tỉnh táo hơn trước, không còn những lần vui thú liên miên và những cuộc nhậu nhẹt bùng cháy của tuổi thiếu niên, một bộ lạc chỉ có hai chiến binh là chúng tôi đang rệu rã bước trên sa mạc; có lẽ đây chính là cảm giác khi bạn trưởng thành hơn, mặc dù thật khó để tưởng tượng Boris (ở Warsaw, Karrmaywallag, New Guinea, bất cứ đâu) đang sống một cuộc sống tiền-trưởng-thành đầy tĩnh lặng như cuộc sống mà tôi đang rơi vào. Andy và tôi – thậm chí là Tom Cable và tôi – đã luôn nói chuyện đầy nhiệt huyết về tương lai khi chúng tôi lớn lên, nhưng với Boris, tương lai trong đầu nó không gì hơn chỉ là bữa ăn tiếp theo. Tôi không thể hình dung ra cảnh nó đang chuẩn bị cho bản thân để đi làm kiếm sống hoặc trở thành một thành viên có ích của xã hội. Thế nhưng ở cùng Boris đồng nghĩa với việc biết thêm được rằng cuộc sống luôn đầy ắp những cơ hội tuyệt vời không ngờ đến – lớn lao hơn những thứ được dạy ở trường rất nhiều. Từ lâu tôi đã thôi không cố nhắn tin hay gọi cho nó nữa; tin nhắn gửi tới điện thoại của Kotku thì không có hồi âm, số điện thoại của nó ở Vegas cũng ngắt kết nối. Tôi không hi vọng – với phạm vi di chuyển bao la của nó – là tôi sẽ gặp lại nó lần nữa. Thế nhưng tôi vẫn nghĩ về nó gần như mỗi ngày. Những cuốn sách tiếng Nga tôi phải đọc ở trường cũng nhắc tôi nhớ về nó; những cuốn tiểu thuyết tiếng Nga, và cuốn Seven Pillars of Wisdom, và cả khu Lower East nữa – những cửa hàng xăm hình và những tiệm bánh sủi cảo, những cái bát lớn được treo giữa không trung, những quý bà lớn tuổi người Ba Lan đang khệ nệ xách túi hàng bách hóa và lũ thanh niên thì hút thuốc trên lối đi vào câu lạc bộ đêm trên Đại lộ Hai.

    Và – đôi khi, thật đột ngột, một nhát dao sắc lạnh đến đau đớn – tôi nhớ lại người bố của mình. Khu phố Tàu nhắc tôi nhớ về ông ở cái vẻ xơ xác loang loáng của nó, cả cái bầu không khí khó nắm bắt của nó nữa: đầy gương và bể cá, cửa kính cửa hàng bên trong là hoa nhựa và những chậu trúc nhỏ. Những khi tôi đi bộ xuống phố Canal giùm Hobie, để mua bột silic và dầu thông Venice ở tiệm Pearl Paint, thì cuối cùng lại lang thang tới tận phố Mulberry để tới một nhà hàng mà bố tôi vẫn thích, không xa trạm tàu điện lắm, có tám bậc thang dẫn xuống một tầng hầm với những chiếc bàn formica đã ố màu nơi mà tôi sẽ mua vài chiếc bánh hành giòn, thịt lợn cay, những món mà tôi phải chỉ tay vào để ra dấu vì thực đơn toàn bằng tiếng Trung. Vào lần đầu tiên tôi trở về căn nhà của Hobie với những chiếc túi giấy sột soạt, vẻ mặt không cảm xúc của ông làm tôi chết đứng, và tôi cứ đứng giữa nhà như một kẻ mộng du vừa bị đánh thức giữa cơn mơ và đang tự hỏi chính xác là mình vừa nghĩ cái gì – không phải nghĩ về Hobie, tất nhiên; ông không phải người thèm đồ ăn Trung Hoa cả ngày lẫn đêm.

    “Oh, ta thích nó,” Hobie nói gấp gáp, “chỉ là ta chưa từng nghĩ tới thôi.” Và chúng tôi ăn ở xưởng làm việc tầng dưới, ăn thẳng từ hộp bìa, Hobie ngồi cao hơn trên chiếc ghế đẩu, vẫn còn mặc nguyên chiếc tạp dề đen khi làm việc còn tay áo thì xắn lên đến khuỷu, đôi đũa nhỏ trông thật kì cục khi nằm giữa những ngón tay to lớn của ông.


    iii.

    VIỆC TÔI Ở NHÀ HOBIE về bản chất vẫn là không chính thức và điều đó cũng làm tôi lo lắng. Mặc dù bản thân Hobie, với sự rộng lượng mơ hồ nào đó, không có vẻ gì là thấy phiền khi tôi ở nhà ông, nhưng ông Bracegirdle rõ ràng vẫn xem đó chỉ là sự sắp xếp tạm thời và cả ông ấy lẫn cô chủ nhiệm của tôi ở trường vẫn luôn cố gắng bày tỏ rằng mặc dù kí túc xá là ưu tiên cho sinh viên lớn tuổi hơn, nhưng với trường hợp của tôi thì cũng có thể giải quyết được. Nhưng bất cứ khi nào xuất hiện chủ đề về chỗ ăn ở là tôi lại câm như hến và mắt nhìn dí xuống đôi giày của mình. Sảnh kí túc luôn đông nghịt, giấy rác bay tứ tung, cùng với một cái thang máy chi chít hình vẽ graffiti mà kêu cót két như thang máy nhà tù: tường dán đầy tờ rơi của các ban nhạc, sàn nhà còn dính bia, cả tá sinh viên quấn chăn trông như mấy con xác sống đang nằm trên ghế sofa trong phòng xem tivi và còn cả những đứa râu ria đầy mặt trông thật buông thả - theo tôi thì họ trông như những người đàn ông trưởng thành đáng sợ và cao lớn ngay khi còn đang ở độ tuổi đôi mươi – đang ném nhau bằng mấy chai nhựa cỡ 40 ounceVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ở ngay giữa sảnh lớn. “Ừm, cháu vẫn còn hơi trẻ,” ông Bracegirdle nói, khi tôi bị dồn vào chân tường và phải giải thích lí do cho sự e ngại của mình, mặc dù lí do thực sự là thứ mà tôi không thể nói ra: làm cách nào – với hoàn cảnh của mình – tôi có thể sống với bạn cùng phòng? Còn chuyện an ninh thì sao? Còn hệ thống phun nước tự động khi lỡ có hỏa hoạn? Còn chuyện trộm cắp? Trường không chịu trách nhiệm với tài sản cá nhân của sinh viên, cuốn sổ tay mà tôi được đưa cho đã ghi vậy. Chúng tôi khuyến khích sinh viên nên mua bảo hiểm của kí túc xá cho bất kỳ đồ vật có giá trị nào được mang tới trường.

    Trong mê cung của sự lo âu, tôi đành vùi mình vào những công việc có thể giúp ích gì đó cho Hobie: chạy việc vặt, giặt những chiếc chổi quét sơn, giúp ông sắp xếp lại kho đồ dự trữ và phân loại những mẩu gỗ ghép, gỗ thừa. Trong khi ông chạm khắc những tấm lưng ghế và ghép những chiếc chân ghế mới sao cho phù hợp thì tôi đi đun chảy sáp ong và nhựa thông trong chảo nóng để làm chất đánh bóng đồ gỗ: 16 phần sáp ong, 4 phần nhựa thông, 1 phần dầu thông Venice, cùng với chút nước bóng thơm đặc quánh như kẹo và tỏa ra mùi hương dễ chịu khi quấy đều trong chảo. Không lâu sau ông cũng đã dạy tôi cách phủ mạ vàng lên lớp nền trắng: lúc nào cũng chỉ rắc chút bột vàng ở điểm mà bàn tay thường xuyên chạm vào, sau đó là phủ chút muội đèn vào những khe hở và vào phần lưng ghế. (“Gỉ đồng luôn là vấn đề lớn nhất với một thứ đồ nội thất. Với đồ gỗ mới, nếu cháu muốn tăng thêm tuổi cho nó thì một lớp gỉ đồng mạ vàng sẽ là thứ dễ làm nhất.”) Và nếu, sau khi rắc muội đèn, phần mạ vàng vẫn trông quá sáng và mới, ông sẽ dạy thôi cách thêm sẹo cho nó bằng một cái đầu kim – những vết cào nhẹ và rải rác với độ sâu khác nhau – và sau đó sẽ dùng một chùm chìa khóa cũ để cọ xát lên nó trước khi dùng máy hút bụi để làm mòn đi một số chỗ. “Với những thứ đồ nội thất cần nhiều thao tác - không có chỗ trầy xước hay những vết sẹo đáng tự hào, thì cháu sẽ phải tự tạo ra những gì được gọi là cổ xưa và đáng tự hào đó. Chiêu trò ở đây là,” ông giải thích, dùng cổ tay lau trán, “không bao giờ được làm cái gì thật long lanh.” Từ long lanh theo ý ông nghĩa là ‘thông thường.’ Bất cứ cái gì mà cũ một cách đều tăm tắp thì sẽ chỉ là đồ bỏ đi; tuổi tác thực sự của đồ vật, như tôi được thấy từ những đồ nội thất thuần chủng qua tay mình, là bất định, là quanh co thất thường, chỗ này thụt xuống chỗ kia lại trồi lên, những vệt màu xiên xẹo trên chiếc tủ bằng gỗ hồng đào từ nơi mà ánh nắng mặt trời đã rọi thẳng vào một bên tủ trong khi mặt bên kia vẫn có màu tối sẫm y như ngày đầu tủ được đóng. “Thứ gì làm gỗ trở nên cũ kĩ? Bất cứ thứ gì cháu thích. Nóng và lạnh, bồ hóng từ lò sưởi, móng vuốt mèo – hoặc như cái kia,” ông nói, chân bước về phía tôi trong khi tôi di ngón tay trên bề mặt gồ ghề thô nhám đầy bụi của chiếc tủ bằng gỗ hoa tâm. “Cháu nghĩ là cái gì đã hủy hoại bề mặt gỗ này?”

    “Trời …” tôi nhón gót để nhìn về nơi mà mép rìa của mặt gỗ – đen và dính, giống như phần cháy sém trên chiếc bánh mỳ nướng bằng lò Easy-Bake mà bạn không muốn ăn – có những vệt dài sáng bóng.

    Hobie cười lớn. “Thuốc xịt tóc. Trong mấy thập kỉ rồi. Tin được không?” ông nói trong khi dùng ngón tay cái chà xát bề mặt và nạo lên một lớp bột đen. “Quý bà này khi xưa từng dùng nó làm bàn phấn trang điểm. Dần dần chúng dày lên như lớp sơn mài. Ta cũng chẳng biết là có chất gì trong đó nhưng để cạo được hết thì đúng là ác mộng, đặc biệt là loại hóa chất từ những năm năm mươi và sáu mươi. Nó sẽ là một thứ đồ quý giá nếu bà ấy không làm hỏng lớp bóng của nó. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là lau nó đi, trên bề mặt ấy, để cháu có thể thấy lại được lớp gỗ, có thể cho nó thêm chút sáp có màu sáng. Dù sao thì nó vẫn rất đẹp, đúng không?” ông nói khi nhẹ nhàng đưa ngón tay trượt dọc bên cạnh chiếc bàn. “Hãy nhìn những đường uốn lượn của chân bàn và vân gỗ, đường nét của nó – hãy nhìn sự nở rộ, ở đây và đây nữa, cái cách chúng hòa hợp với nhau thật tỉ mỉ?”

    “Ông có định tháo rời nó ra không?” Mặc dù Hobie không hề muốn công đoạn đó nhưng tôi thì thích cái sự kịch tính khi tháo rời một thứ đồ nội thất và rồi lắp nó lại từ đầu – phải làm thật nhanh trước khi keo kịp khô, giống như khi bác sĩ phải cấp tốc mổ ruột thừa cho một bệnh nhân ngay trên một chuyến tàu biển vậy.

    “Không…” ông gõ nhẹ vào nó, đưa tai lại gần lớp gỗ… “nó nghe vẫn còn khá ổn, nhưng đường ray ngăn kéo đã bị hư hại không ít,” ông nói, tay lôi ngăn kéo đang kẹt cứng cùng với thứ âm thanh chói tai. “Đây là kết quả của việc để đầy chặt những thứ đồ rác rưởi trong ngăn kéo. Chúng ta sẽ sửa lại chúng…”ông cố kéo nó ra, nhăn mặt vì tiếng rít khi hai mẩu gỗ chà xát lên nhau… “phải tiện phẳng những chỗ kẹt. Thấy cái đường uốn hình tròn không? Cách tốt nhất để chữa là làm những đường uốn đó vuông vắn lại – sẽ làm cho nó rộng hơn chút, nhưng ta không nghĩ là phải tháo rời các đường rãnh lắp ghép đâu – cháu còn nhớ những gì chúng ta làm với cái thứ đồ bằng gỗ sồi, đúng không? Nhưng mà…” ông đưa ngón tay đi dọc mép bàn… “gỗ đào hoa tâm thì hơi khác một chút. Hồng đào cũng thế. Thật ngạc nhiên là những thứ đồ gỗ này thường được mang về từ những nơi không phải là nguyên nhân thực sự gây ra hỏng hóc. Đặc biệt là gỗ đào hoa tâm, nó có đường vân gỗ kín, đặc biệt là ở độ tuổi này, cháu sẽ không muốn tiện phẳng chúng đâu ngoại trừ cháu bắt buộc phải làm thế. Cho một chút dầu hỏa vào đường rãnh là chiếc bàn lại tốt như mới thôi mà.”


    iv.

    VÀ THẾ LÀ THỜI GIAN cứ thế trôi. Mỗi ngày trở nên giống nhau đến mức tôi gần như không nhận ra rằng mình đã đi qua được mấy tháng trời. Mùa xuân chuyển dần sang hè, không khí ẩm và mùi rác rưởi bốc lên, phố xá thì đông nghịt người và những cây thanh thất thì rụng xuống vô số những đợt lá sẫm; và rồi hè lại sang thu, ảm đạm và se se lạnh. Hàng đêm, tôi thường đọc cuốn Eugene Onegin hoặc đắm chìm trong vô vàn những cuốn sách về đồ gỗ của Welty (cuốn tôi ưa thích: một bộ hai cuốn đã có từ lâu đời với tựa đề Đồ gỗ Chippendale: Thật và Giả) hoặc cuốn Lịch sử nghệ thuật dày dặn và đáng hài lòng của Janson. Cho dù đôi khi tôi dành sáu đến bảy tiếng đồng hồ cùng làm việc với Hobie dưới tầng hầm nhưng gần như chẳng nói gì nhiều, tôi cũng chẳng bao giờ thấy lẻ loi khi sống trong bầu không khí đầy tập trung của ông: tôi sửng sốt khi thấy được hình ảnh một người trưởng thành, ngoài mẹ tôi ra, lại có thể trở nên cảm thông và thân thuộc đến thế. Khoảng cách tuổi tác quá lớn khiến chúng tôi không nói được gì nhiều với nhau; luôn có một bầu không khí đầy tôn trọng và khách sáo; nhưng chúng tôi vẫn dần có được một mối thần giao cách cảm khi làm việc trong xưởng chế tác đến nỗi tôi có thể đưa cho ông đúng cái máy tiện hay cái đục gỗ trước cả khi ông yêu cầu. “dính keo epoxy” là cụm từ vắn tắt mà ông dùng để chỉ những thứ đồ bị làm ẩu và những đồ rẻ tiền nói chung; ông đã từng chỉ cho tôi một số món hàng thật mà những khớp nối vẫn nguyên vẹn sau hai trăm năm hoặc hơn, trong khi vấn đề với những món đồ ngày nay là mối nối quá chặt, quá cứng với phần gỗ và không cho nó chỗ để thở. “Hãy luôn nhớ kĩ, người mà chúng ta thực sự phục vụ là những người sẽ sửa chữa nó sau một trăm năm nữa. Đó là người mà chúng ta muốn gây ấn tượng.” Khi nào mà ông chuẩn bị dán lại một thứ đồ nào đó thì công việc của tôi đó là xếp đặt những khớp nối ở đúng vị trí lắp của nó, trong khi ông đặt những miếng gỗ theo đúng trình tự lõm-lồi của nó – công đoạn chuẩn bị vất vả trước khi thực sự dán-và-nối, khoảng thời gian mà chúng tôi phải làm việc đầy căng thẳng trong vòng vài phút trước khi lớp keo kịp khô lại, đôi bàn tay của Hobie hẳn là giống như đôi tay của một bác sĩ phẫu thuật, vớ lấy mẩu gỗ phù hợp khi tôi còn đang lúng túng, công việc của tôi chủ yếu là giữ các mẩu gỗ nhỏ lại với nhau trong khi ông lắp các khớp nối vào (không chỉ là khớp G và khớp F mà còn bao nhiêu thứ đồ nho nhỏ khác mà ông cũng cần cầm trong tay để tiện dùng tới, như là lò xo của đệm, ghim áo, khung thêu, ống phụ tùng xe đạp, và – để cân đo – những túi đựng cát nhỏ nhiều màu được dệt bằng sợi đay cùng nhiều đồ vật tiện lợi khác như cái chặn cửa bằng chì hay một con lợn tiết kiệm làm bằng sắt). Khi ông không cần sự trợ giúp thì tôi sẽ đi phủi bụi và sắp xếp lại dụng cụ trên móc, và – khi không còn gì khác để làm – tôi sẽ rất vui lòng ngồi quan sát ông mài giũa những cái đục đã mòn hay uốn cong gỗ bằng hơi nước khi đun một bát nước nhỏ trên bếp. Trời đất ơi dưới đó bốc mùi lắm Pippa có nhắn tin cho tôi như vậy. Sao cậu có thể chịu đựng nổi thứ mùi khủng khiếp đó nhỉ? Nhưng tôi lại yêu mùi hương đó – thứ mùi độc hại – và yêu cả cảm giác của những lớp gỗ dưới bàn tay tôi.


    v.

    TRONG SUỐT KHOẢNG THỜI GIAN NÀY, tôi luôn cẩn thận dõi theo tin tức về những đồng nghiệp trộm tranh của mình ở Bronx. Họ đều đã bị khép tội – cả người mẹ vợ nữa – và đã nhận mức án nặng nhất dựa theo luật pháp: những khoản phạt trị giá hàng trăm ngàn, cùng với những án tù từ năm đến mười lăm năm không ân xá. Suy nghĩ chung là họ chắc hẳn sẽ vẫn sống hạnh phúc ở Morris Heights và ăn những bữa tối kiểu Ý ở nhà mẹ mình nếu họ không ngu ngốc đi bán bức tranh của Wybrand Hendriks cho một tay buôn, kẻ mà đã gọi điện cho cảnh sát.

    Nhưng điều đó cũng không làm dịu đi được nỗi lo của tôi. Một ngày nọ khi tôi vừa từ trường về thì thấy khói bốc mù mịt trên tầng và lính cứu hỏa thì tụ tập quanh hành lang bên ngoài phòng tôi – “lũ chuột,” Hobie nói, trông kinh hãi và tái mét, đang đi đi lại lại khắp nhà trong bộ quần áo bảo hộ với cặp kính trên đầu trông như một nhà khoa học điên khùng, “ta không dùng bẫy keo được, chúng ranh mãnh lắm, và ta cũng thôi gọi công ty diệt chuột tới nữa rồi nhưng Chúa cứu thế ơi, điều này thật là khủng khiếp, ta không thể để chúng cắn đứt dây điện được, nếu không có chuông báo cháy thì cả chỗ này đã thành ra như thế kia rồi, đây” – (nói với lính cứu hỏa) “thằng bé qua chỗ đó có được không?” ông lách qua mấy thứ máy móc, “cháu phải xem cái này…” ông lùi lại đủ để chỉ cho tôi một đống xác chuột cháy đen còn đang bốc khói bên dưới sàn. “Cháu nhìn mà xem! Cả một ổ!” Mặc dù nhà của Hobie có hệ thống cảnh báo rất đầy đủ - không chỉ với hỏa hoạn mà còn với cả trộm cắp – và ngọn lửa cũng không gây hại gì nhiều ngoại trừ một phần sàn phòng khách, nhưng vụ việc này vẫn làm tôi rúng động (ngộ nhỡ Hobie không có ở nhà thì sao? sẽ thế nào nếu ngọn lửa bùng lên từ trong phòng tôi?) và từ việc có cả đống chuột trong diện tích hai feet sàn nhà có nghĩa là còn nhiều chuột hơn nữa (và nhiều mẩu dây điện bị cắn hơn nữa) ở những chỗ khác, tôi tự hỏi cho dù Hobie đã từ bỏ vụ bẫy chuột nhưng liệu tôi có nên tự mình đặt mấy cái bẫy không. Gợi ý nuôi mèo của tôi – dù được nhiệt liệt tán thành bởi Hobie và bà DeFrees yêu mèo – đã được bàn bạc với sự đồng tình nhưng cũng không được thực hiện và rồi ý tưởng đó cũng biến mất khỏi tầm nhìn luôn. Thế rồi, chỉ vài tuần sau, ngay khi tôi đang tự hỏi liệu mình có nên nói lại chuyện nuôi mèo lần nữa không, thì tôi suýt ngất xỉu vì rớt tim khi vào phòng và thấy ông đang quỳ trên cái thảm gần giường tôi – mò mẫm dưới gầm giường, như tôi đã nghĩ tới, nhưng thật ra là để với lấy con dao lưỡi dẹt để trên sàn; ông đang thay lại cái khung cửa sổ bị nứt.

    “Oh, chào cháu,” Hobie nói, tay phủi chiếc quần đùi khi đứng lên. “Xin lỗi cháu! Ta không cố ý làm cháu giật mình! Ta đã định thay một cái khung cửa sổ mới từ hồi cháu tới rồi. Tất nhiên, ta muốn dùng kính lượn sóng để thay vào cái cửa sổ cũ này, loại Bendheim, nhưng nếu cháu muốn dùng mấy loại kính trong suốt thì cũng không sao – ta chỉ muốn nói là cháu nên cẩn thận chỗ cửa sổ đó,” ông nói, “cháu ổn chứ?” trong khi tôi thả cái cặp xuống và ngồi phịch vào chiếc ghế bành như người lính ngã xuống trên mặt trận.

    Như là ăn trộm ấy, mẹ tôi sẽ nói vậy. Tôi không biết phải làm gì. Mặc dù tôi hoàn toàn nhận thức được rằng đôi lúc Hobie nhìn tôi với cái nhìn thật lạ, rằng tôi có vẻ thật điên khùng trước mắt ông, nhưng bao phủ quanh tôi vẫn là cái cảm giác bất an từ bên trong: giật mình bất cứ khi nào có người tới gần cửa; nhảy dựng lên như phải bỏng khi chuông điện thoại réo; điếng người khi trong đầu xuất hiện “những điềm báo” mà – giữa giờ học – chúng khiến tôi đứng bật dậy khỏi bàn học và chạy bắn về nhà để chắc chắn rằng bức tranh vẫn nằm yên trong chiếc vỏ gối, rằng không có ai động vào lớp giấy gói hay cố bóc phần băng dính ra. Trên máy tính của mình, tôi lùng sục Internet để tìm hiểu về luật pháp liên quan tới việc trộm cắp tác phẩm nghệ thuật nhưng mấy thông tin nhỏ lẻ tôi kiếm được thì rất lộn xộn, và không cung cấp được kiến thức nào có liên quan hay kết dính với nhau. Thế rồi, sau khi tôi ở nhà Hobie trong khoảng thời gian tám tháng bình lặng, một giải pháp đầy bất ngờ đã tự xuất hiện.

    Tôi vẫn có mối quan hệ tốt với những người đàn ông khuân vác và xếp đồ của Hobie. Hầu hết trong số họ là người Ailen ở New York, dáng đi nặng nề, tính tình thuần hậu, những người không đủ điều kiện để được nhận vào lực lượng cảnh sát hay bộ phận cứu hỏa – Mike, Sean, Patrick, Frank Nhỏ (người không bé nhỏ tí nào, cỡ một cái tủ lạnh) – và còn một cặp hai người tới từ Israel tên Raviv và Avi, và – người mà tôi đặc biệt ưa thích – một người Nga lai Do Thái tên Grisha. (“ ‘Nga Do Thái’ là một cụm từ đầy mâu thuẫn,” ông giải thích, trong làn khói hương bạc hà trắng như lông vũ. “Ít nhất là trong suy nghĩ của người Nga. Vì ‘Do Thái’ với nhận thức của những người bài xích Do Thái sẽ không bao giờ giống với những người Nga thật sự - đất nước Nga vẫn mang tiếng vì sự thật này.”) Grisha sinh ra ở Sevastopol, nơi mà ông tự nhận là mình vẫn nhớ rõ (“dòng nước đen, mùi muối”) mặc dù bố mẹ ông đã di cư từ khi ông mới hai tuổi. Tóc sáng màu, khuôn mặt màu đỏ gạch với đôi mắt xanh ngọc lúc nào cũng có vẻ thảng thốt, bụng thì phình ra vì uống nhiều bia và chẳng chú ý gì đến trang phục tới mức nhiều khi cúc áo dưới còn chẳng cài, thế nhưng từ cái cách dễ dãi và khệnh khạng trong mỗi bước đi, rõ ràng ông ấy tự tin rằng mình khá ưa nhìn (với những người biết ông thì có lẽ ông từng một thời như vậy thật). Không giống ngài Pavlikovsky, ông khá là hoạt bát, luôn có vô vàn những câu chuyện đùa hay là anekdoty như ông vẫn gọi, thứ mà ông ấy vẫn kể bằng giọng không cảm xúc, nhanh như gió và đầy hài hước. “Mi nghĩ là mình biết chửi thề đó hả, mazhorVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link?” ông nói giọng đùa cợt, khi ngồi xuống chỗ bàn cờ đặt ở góc phòng nơi mà đôi khi ông và Hobie vẫn cùng chơi vào buổi chiều. “Vậy thì thử xem nào. Cho ta nghe coi.” Và tôi tuôn ra một tràng những từ tiếng Nga bẩn thỉu nghe buồn cười chảy nước mắt mà thậm chí cả Hobie – không hiểu từ nào – vẫn vừa giơ tay bịt tai vừa ngửa người ra mà cười.

    Vào một buổi chiều u ám, không lâu sau khi học kỳ mùa thu của tôi chính thức bắt đầu, tôi đang ở nhà một mình khi Grisha ghé qua để giao mấy thứ đồ nội thất. “Này, mazhor,” ông nói, đầu lọc thuốc lá rung nhẹ giữa ngón cái sứt sẹo và ngón trỏ. Mazhor – một trong số những biệt danh ông đặt cho tôi – có nghĩa là “Thiếu tá” trong tiếng Nga. “Kiếm việc gì mà làm đi. Tới giúp ta khuân đống rác rưởi này ra khỏi xe chẳng hạn.” Mọi thứ nội thất, với Grisha, đều là “rác rưởi.”

    Tôi nhìn qua vai ông, tới cái xe tải. “Ông có đồ gì? Có nặng không?”

    “Nếu nó nặng ấy, poprygountchikVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, thì liệu ta có gọi mi không?”

    Chúng tôi mang đồ vào – một tấm gương có khung mạ vàng, bọc trong một tấm nệm; chân nến; một bộ ghế của bàn ăn – và ngay sau khi chúng được bỏ ra khỏi bọc, Grisha liền tựa vào tấm ván mà Hobie vẫn dùng để làm việc (sau khi chạm vào nó để chắc chắn rằng nó không bị dính) và châm cho mình một điếu Kool. “Muốn một điếu không?”

    “Không, cám ơn ông.” Thật ra, tôi có muốn, nhưng tôi sợ là Hobie sẽ ngửi thấy mùi của nó ám trên người tôi.

    Grisha xua đám khói thuốc bằng bàn tay có những ngón tay bám bẩn. “Vậy mi đang làm trò gì ở đây?” ông nói. “Muốn giúp ta chiều nay không?”

    “Giúp thế nào ạ?”

    “Gấp cuốn sách đồi trụy của mi lại” (Cuốn Lịch sử Nghệ thuật của Janson) “và cùng ta lái xe tới Brooklyn.”

    “Để làm gì ạ?”

    “Ta phải mang vài thứ rác rưởi này tới kho, chắc là sẽ cần thêm người giúp. Đáng ra Mike sẽ làm nhưng hôm nay ổng lại ốm. Ha! Hôm qua có trận đấu của đội Giants, họ thua chổng vó, ổng đã cược khá nhiều vào trận đó. Cá là ổng đang nằm bẹp giường ở Inwood vì say xỉn và một con mắt thì tím bầm rồi.”


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Pháp: vô cùng thanh lịch

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Thì quá khứ kết hợp (tiếng Pháp)

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Khoảng 1.18l

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Nga: người lớn, thiếu tá

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tiếng Nga: đồ trẻ con.
     
  10. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    vi.

    TRÊN ĐƯỜNG TỚI BROOKLYN cùng với chiếc xe tải chất đầy đồ nội thất, Grisha thao thao bất tuyệt bằng cái giọng đều đều về những phẩm chất tốt đẹp của Hobie nhưng mặt khác cũng nói về việc ông đang dẫn công việc kinh doanh của Welty xuống dốc. “Một người đàn ông trung thực, trong một xã hội đầy dối trá? Sống ẩn dật hả? Ta đau lắm, đau ở tim này này, khi thấy ổng ném tiền qua cửa sổ mỗi ngày, không không,” ông nói, lòng bàn tay lấm lem giơ lên khi tôi đang định nói, “ổng làm gì cũng rất từ từ, mấy việc phục chế ấy, bàn tay hoạt động như những vị Sư Phụ Già – ta hiểu điều đó chứ. Ổng là nghệ sĩ mà – không phải doanh nhân. Nhưng xin hãy giải thích giùm ta, tại sao ổng lại trả tiền để chứa đồ tận Kho Hải quân Brooklyn thay vì giải phóng hết đống tồn đọng và có thêm tiền mà trả hóa đơn? Ý ta là – cứ nhìn mà xem, cả núi rác rưởi ở dưới tầng hầm đấy! Những thứ Welty mua ở các cuộc đấu giá – lại thêm bao nhiêu đồ khác đến mỗi tuần. Trên tầng, cửa hàng đã chật ních rồi! Ổng đang ngồi trên cả núi tiền đó – phải mất cả trăm năm mới bán hết được! Khách người ta nhìn qua cửa sổ - tay cầm sẵn tiền mặt – và muốn mua đồ - xin lỗi, quý bà! Biến đi! Đóng cửa hàng rồi! Còn ổng thì ở dưới tầng hầm với mấy dụng cụ làm mộc của ổng và dành mười tiếng đồng hồ để chạm khắc cái mẩu gỗ nhỏ từng này” (ngón cái và ngón trỏ) “…cho cái ghế chết tiệt của một bà cụ già nào đó.”

    “Đúng thế, nhưng ông ấy cũng cho khách vào mà. Tuần trước ông mới bán được nhiều đồ lắm.”

    “Cái gì?” Grisha gằn giọng, quay phắt sang nhìn tôi. “Bán? Cho ai?”

    “Nhà Vigel ạ. Ông ấy mở cửa hàng cho họ vào xem – họ mua một cái giá sách, một cái bàn chơi bài…”

    Grisha nhăn nhó. “Những người đó. Bạn của ổng, như vẫn gọi. Mi biết tại sao họ lại mua đồ từ ổng không? Bởi vì họ biết họ sẽ mua được giá rẻ từ ổng đó – ‘mở cửa khi có hẹn trước,’ ha! Sẽ tốt hơn cho ổng nếu đóng chặt cửa khi lũ kền kền đó tới. Nghĩa là…” ông đặt nắm đấm lên ngực… “mi hiểu lòng ta mà. Hobie với ta như là gia đình. Nhưng…” ông xoa ba ngón tay với nhau, một cử chỉ quen thuộc của Boris, tiền! tiền!... “chẳng khôn ngoan trong kinh doanh gì hết. Ổng sẵn sàng cho đi que diêm cuối cùng hay chỗ thức ăn còn lại của mình, bất cứ cái gì, cho lũ lừa đảo. Mi cứ quan sát đi – sớm thôi, trong bốn-năm năm nữa, ổng sẽ thành tên ăn mày trên phố trừ khi ổng tìm được ai đó quản lý cửa hàng giùm ổng.”

    “Như là ai ạ?”

    “Thì…” ông nhún vai… “người nào đó như em họ Lidiya của ta chẳng hạn. Ả đó có thể bán nước cho người sắp chết đuối ấy chứ.”

    “Vậy ông phải nói với ông ấy. Cháu biết là ông ấy cũng muốn tìm ai đó mà.”

    Grisha cười mỉa mai. “Lidiya á? Làm việc trong cái bãi rác đó? Nghe này – Lidiya nó đi buôn vàng, Rolex, kim cương từ Sierra Leone. Nó được đưa đón từ nhà bằng xe Lincoln TownVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Quần làm bằng da thuộc màu trắng… áo lông thú dài đến chân… mà tới tận đây. Không đời nào một mụ đàn bà như vậy lại chịu ngồi cả ngày trong cái cửa hàng phế thải này cùng với bụi bặm và đống rác rưởi cũ.”

    Ông dừng xe và tắt máy. Chúng tôi đang ở trước một tòa nhà hình hộp màu xám tro trong một khu vực vắng người gần bờ sông, bãi đậu xe trống trơn cùng với vài cửa hàng sửa chữa ô tô, kiểu địa điểm mà những tên xã hội đen trong phim vẫn đưa tới đó người mà chúng muốn trừ khử.

    “Lidiya – Lidiya là một người phụ nữ quyến rũ,” ông nói trầm ngâm. “Cặp chân dài – bộ ngực – khuôn mặt ưa nhìn. Lúc nào cũng hăng hái. Nhưng loại công việc này – mi không muốn ai đó quá nổi bật – như cô ta.”

    “Vậy thì là gì?”

    “Người nào đó như Welty. Ở ông ấy có nét gì đó ngây thơ, mi hiểu không? Như mấy học giả. Hoặc mục sư. Ông ấy là người ông đáng kính đối với mọi người. Nhưng những doanh nhân khôn ngoan đều giống nhau. Rất tốt bụng, dễ gần, là người bạn tốt với bất cứ ai, nhưng một khi mi làm cho khách hàng tin tưởng rằng mức giá của mi là thấp nhất, thì mi phải bắt lấy lợi nhuận của mình, ha! Đó là bán hàng, mazhor! Là cách hoạt động của cái thế giới chết tiệt này.”

    Bên trong tòa nhà, sau khi chúng tôi nặng nề tiến vào, có một chiếc bàn dài với mỗi một anh chàng người Ý đang đọc báo. Trong khi Grisha làm thủ tục thì tôi đi xem xét một tờ quảng cáo trên giá sách bên cạnh những chỗ bày những tấm ni lông bong bóng để bọc đồ và băng dính:


    KHO LƯU TRỮ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT ARISTON

    CƠ SỞ VẬT CHẤT HIỆN ĐẠI

    HỆ THỐNG CHỮA CHÁY, TÙY CHỈNH THEO THỜI TIẾT, AN NINH 24 GIỜ


    TÍCH HỢP – CHẤT LƯỢNG – AN TOÀN

    ĐÁP ỨNG MỌI NHU CẦU NGHỆ THUẬT CỦA BẠN

    CÓ KINH NGHIỆM BẢO VỆ TÀI SẢN CỦA BẠN TỪ NĂM 1968


    Ngoài cái bàn thư ký ra thì nơi này như bị bỏ hoang. Chúng tôi vào thang máy và – bằng một tấm thẻ ra vào và mật mã nhấn nút – leo lên được tới tầng sáu. Đi hết hành lang, cả dãy hành lang không một bóng người, camera gắn trên trần nhà và những cánh cửa vô danh được đánh số, Khu D, Khu E, những bức tường xám xịt không có cửa sổ dường như kéo dài ra vô tận, cảm giác như đang đi trong một căn cứ quân sự dưới lòng đất hoặc đi giữa những nhà mồ trong một khu nghĩa trang trong tương lai.

    Hobie sở hữu một trong số những phòng rộng hơn nhiều phòng khác – cửa hai cánh, đủ rộng cho một xe tải đi qua. “Ta vào thôi,” Grisha nói, tay ngoáy chìa khóa loảng xoảng trong ổ và mở phăng cửa ra sau tiếng loảng xoảng của kim loại va chạm. “Hãy nhìn cái đống chết tiệt mà ổng có này.” Đồ nội thất được nhét chật cứng cùng với nhiều đồ vật khác nữa (đèn, sách, đồ đồng Trung Hoa; những chiếc túi cũ dán nhãn B.Altman thì đầy giấy tờ và những đôi giày mốc) đến nỗi ngay từ cái nhìn lúng túng đầu tiên tôi đã muốn đi lùi ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại, như thể chúng tôi vừa bổ nhào vào căn hộ của một cụ già thích tích trữ đồ vừa mới qua đời.

    “Ổng chi hai ngàn mỗi tháng cho chỗ này,” ông nói giọng ỉu xìu trong khi chúng tôi tháo lớp bọc lót ra khỏi những chiếc ghế và xếp chúng, một cách thận trọng, lên trên một chiếc bàn bằng gỗ hồng đào. “Hai mươi tư ngàn một năm! Ổng nên dùng số tiền đó đi mua thuốc lá mà hút còn hơn là trả tiền thuê cho cái bọn này.”

    “Còn những phòng nhỏ hơn thì sao ạ?” Có vài cánh cửa trông khá nhỏ bé – chỉ cỡ cái va li.

    “Nhiều người điên lắm,” Grisha nói giọng bất lực. “Với những chỗ chỉ cỡ bằng cái thùng xe ô tô ấy à? Mấy trăm đô một tháng thì phải?”

    “Ý cháu là…” tôi không biết làm sao để hỏi… “làm sao mà ngăn người ta giữ những thứ đồ trái pháp luật ở đây nhỉ?”

    “Trái pháp luật?” Grisha lau mồ hôi trên lông mày bằng một chiếc khăn tay lấm lem và rồi chùi luôn cả cổ áo. “Ý mi là gì, súng hả?”

    “Vâng. Hoặc là, ông biết đấy, đồ ăn trộm được chẳng hạn.”

    “Cái gì ngăn được họ? Để ta nói cho mà nghe. Chả có gì ngăn được họ cả. Cứ chôn thứ gì đó ở đây và rồi chẳng ai tìm ra được hết, trừ khi mi bị giết hoặc vô tù và không trả nổi tiền phí. Chín mươi phần trăm đồ ở đây là ảnh thời thơ ấu với mấy thứ rác rưởi từ tầng áp mái của người bà ngoại nào đó. Nhưng – nhỡ đâu những bức tường này biết nói thì sao chứ, mi hiểu không? Nếu biết chỗ mà tìm thì có hàng triệu đô đang chờ đó. Đủ các thể loại bí mật. Súng, đá quý, thi thể của những vụ ám sát – nhiều thứ điên rồ hết sức. Đây…” ông đóng cánh cửa lại bằng một cú sập mạnh và đang loay hoay với cái chốt cửa… “giúp ta với cái đồ chết tiệt này với, Chúa ơi. Lạnh cả gáy, mi hiểu không?” Ông ra dấu về phía hành lang kéo dài vô tận toàn một màu xám xịt khô khan. “Mọi thứ đều được đóng kín, tách biệt khỏi sự sống! Cứ khi nào tới đây là ta lại thấy khó thở. Còn tệ hơn khi vào mấy cái thư viện chết tiệt.”


    vii.

    TỐI ĐÓ, TÔI VỚ LẤY cuốn danh bạ doanh nghiệp từ căn bếp của Hobie, mang nó về phòng và tìm phần Kho chứa đồ: Các tác phẩm nghệ thuật. Có hàng tá những địa điểm ở Manhattan và cả những khu ngoại ô xa xôi, nhiều địa điểm với những mẩu quảng cáo khẳng định chi tiết về dịch vụ của mình: găng tay trắng, từ cửa đến cửa! Có ảnh vẽ một người quản gia đang đưa ra một tấm danh thiếp trên chiếc khay bạc: BLINGEN VÀ TARKWELL, TỪ NĂM 1928. Chúng tôi cung cấp giải pháp lưu trữ hiện đại bảo mật cho rất nhiều doanh nghiệp và khách hàng tư nhân. Nghệ thuật hiện đại. Công trình di sản. Các giải pháp lưu trữ. Cơ sở vật chất được điều hành bởi các thiết bị theo dõi độ ẩm. Chúng tôi duy trì nhiệt độ theo yêu cầu của AAM (Hiệp hội Bảo tàng Mỹ) là 70 độ và 50 phần trăm độ ẩm tương ứng.

    Nhưng thế này thì tỉ mỉ quá. Tôi không hề muốn gây sự chú ý rằng tôi đang lưu giữ một tác phẩm nghệ thuật đây. Tôi cần thứ gì đó an toàn và không gây sự chú ý. Một trong những công ty lớn nhất và nổi tiếng nhất có hai mươi cơ sở ở Manhattan – gồm một cơ sở ở khu phía đông đường Sáu Mốt gần bờ sông, khu vực ngay gần nhà tôi khi xưa, chỉ cách nhà tôi và mẹ ở có vài con phố. Các cơ sở của chúng tôi được bảo vệ bởi nhân viên trung tâm an ninh 24 giờ và được lắp đặt công nghệ mới nhất trong phát hiện khói lửa.

    Hobie đang hỏi tôi điều gì đó từ ngoài hành lang. “Gì cơ ạ?” Tôi nói khô khốc, âm vực lớn và giả tạo, tay gập nhanh cuốn danh bạ và kẹp ngón tay ở giữa.

    “Moira đang ở đây. Cháu có muốn xuống phố cùng bọn ta đi ăn hamburger ở quán Local không?” Quán Local là nơi mà ông vẫn gọi là quán Ngựa Trắng.

    “Nghe hay đó ông, cháu tới ngay đây.” Tôi quay trở lại với mẩu quảng cáo trong cuốn danh bạ. Hãy dành chỗ cho những niềm vui mùa hè! Những cách giải quyết dễ dàng cho những chiếc máy tập và những dụng cụ phục vụ cho thú vui của bạn! Họ làm điều đó nghe thật đơn giản: không yêu cầu thẻ tín dụng, chỉ cần đặt cọc tiền mặt và thế là xong.

    Ngày hôm sau, thay vì tới lớp, tôi lôi ra cái vỏ gối từ dưới gầm giường, bọc gọn nó bằng băng dính, cho nó vào một cái túi màu nâu từ tiệm Bloomingdale, rồi đón taxi tới cửa hàng bán đồ thể thao ở quảng trường Union, nơi mà sau một chút lay động tôi đã tậu một cái lều che rẻ tiền và rồi bắt taxi quay trở lại phố Sáu Mươi.

    Trong cái văn phòng hiện đại phủ toàn kính ở bộ phận làm nhiệm vụ lưu giữ đồ, tôi là khách hàng duy nhất; và mặc dù tôi đã chuẩn bị một câu chuyện để bao che (đứa trẻ đi cắm trại đầy sôi nổi; bà mẹ bị ám ảnh bởi sự gọn gàng) nhưng những người đàn ông ngồi ở bàn dường như hoàn toàn không hứng thú với cái túi đồ thể thao dán nhãn cẩn thận với mác giá của cái lều vẫn lủng lẳng thò ra bên ngoài một cách đầy nghệ thuật. Cũng giống như việc chẳng ai thấy cần chú ý hay bất bình thường khi tôi muốn trả phí cho cái tủ chứa đồ trước một năm, bằng tiền mặt – hay là hai năm đây? Vậy có ổn không? “Máy rút tiền ngay ngoài kia,” người thu ngân tới từ Puerto Rico chỉ tay ra mà không buồn rời mắt khỏi cái bánh kẹp trứng thịt của anh ta.

    Dễ vậy sao? Tôi nghĩ khi đang đi thang máy xuống. “Ghi số tủ khóa vào,” anh chàng ở bàn đăng kí bảo tôi, “và cả mã khóa của cậu, rồi giữ nó ở một nơi an toàn,” nhưng tôi cũng thuộc cả hai rồi – tôi đã xem đủ phim James Bond đến mức có thể hiểu những chuyện gì có thể xảy ra – và ngay giây phút bước ra ngoài tôi liền ném mẩu giấy vào sọt rác.

    Đi ra khỏi tòa nhà, cái vẻ tĩnh lặng như một căn hầm và tiếng quạt gió đều đều thổi ra toàn mùi mốc, tôi cảm thấy choáng váng, tối tăm mặt mày, còn bầu trời xanh và ánh nắng chói óc, khói xe mù mịt quen thuộc của buổi sáng và tiếng còi xe rền rĩ tất cả dường như kéo giãn cả đại lộ thành một thứ bản vẽ tân tiến hơn: lãnh địa đầy nắng của con người và sự may mắn. Đây là lần đầu tiên tôi đi tới một nơi gần với Sutton Place kể từ khi trở về New York và cảm giác như được rơi trở lại vào một giấc mơ đẹp đẽ thuở xưa, đan xen giữa quá khứ và thực tại, điểm xuyết trên đó là những lối vỉa hè và thậm chí là cả những khe nứt quen thuộc mà tôi vẫn luôn nhảy qua trên đường chạy về nhà, người nghiêng đi, tưởng tượng bản thân mình đang ở trên máy bay, đôi cánh máy bay chao nghiêng, tôi đang tới đây, cú dang cánh cuối cùng, bắn thật nhanh tới trước để về nhà – rất nhiều nơi vẫn kinh doanh, quán deli, quán đồ ăn Hi Lạp, cửa hàng rượu, tất cả những gương mặt gần gũi đã bị lãng quên thì giờ ào ạt đi qua tâm trí tôi, cô nhân viên cửa hàng hoa Sal và bà Battaglina từ nhà hàng Ý và Vinnie từ tiệm giặt khô với cái thước dây thõng qua cổ, dài xuống tận đầu gối, cái thước dây đã từng đo may chiếc váy của mẹ tôi.

    Tôi chỉ còn cách nơi ở cũ của mẹ con tôi vài tòa nhà nữa: và khi nhìn xuống phía đường Năm Mươi Bảy, lối rẽ sáng bừng quen thuộc với ánh nắng chiếu rọi thật đúng chỗ và phản chiếu lại ánh sáng dát vàng từ các ô cửa sổ, tôi chợt nghĩ: Goldie! Jose!

    Nghĩ vậy, bước chân tôi càng nhanh thêm. Đang là buổi sáng; một hoặc cả hai người họ chắc đang trong ca làm. Tôi chưa từng gửi tấm bưu ảnh nào từ Vegas như tôi đã hứa: lúc gặp tôi chắc họ sẽ ngỡ ngàng lắm, sẽ túm tụm xung quanh, ôm chầm lấy tôi và vỗ lưng tôi, sẽ thích thú nghe về mọi việc đã xảy ra, cả chuyện về cái chết của bố tôi. Họ sẽ mời tôi quay trở vào phòng chứa hành lý, có lẽ gọi thêm cả quản lý Henderson, để kể cho tôi mọi thứ chuyện phiếm của tòa nhà này. Nhưng khi tôi rẽ qua góc đường, giữa mớ giao thông chật chội và tiếng còi xe ô tô, nhìn từ cách xa mấy dãy nhà tôi có thể thấy tòa nhà như chằng chịt sẹo bởi hàng tầng giàn giáo xây dựng bao quanh còn cửa sổ thì sập kín với những tờ thông báo.

    Tôi dừng bước, lòng chùng xuống. Thế rồi – không tin nổi – tôi tiến lại gần hơn và đứng đó, thất kinh. Những cánh cửa trang trí nghệ thuật đã biến đâu mất, và – ở vị trí của khu đại sảnh tối màu sang trọng, với sàn nhà bóng loáng, trần nhà lấp lánh – lồi ra cả núi sỏi đá và hàng tảng bê tông lớn và công nhân đội mũ bảo hộ đang đi ra ngoài cùng với những chiếc xe cút kít chất đầy cao su.

    “Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Tôi hỏi một chàng trai trẻ đội mũ cứng, người phủ đầy bụi đang đứng lùi lại phía sau một chút, người gập xuống và rụt rè nhấp một ngụm cà phê.

    “Ý cậu là sao, chuyện gì đã xảy ra?”

    “Tôi…” Lùi bước, nhìn lên, tôi nhận ra là không chỉ có phần đại sảnh; họ đã rút ruột toàn bộ tòa nhà này, đến mức bạn có thể nhìn xuyên qua tới tận sân sau; mặt tiền khảm kính vẫn nguyên vẹn nhưng những ô cửa sổ thì bụi bặm và trống rỗng, chẳng có gì phía sau chúng cả. “Tôi đã từng sống ở đây. Chuyện gì đang diễn ra vậy?”

    “Chủ sở hữu đã bán nó.” Anh ta đang hò hét gì đó với những người thợ khoan đứng trong đại sảnh. “Mấy người cuối cùng đã chuyển ra vài tháng trước rồi.”

    “Nhưng…” Tôi nhìn lên cái vỏ ốc rỗng đó, rồi lại nhìn đăm đăm vào đống gạch đá bên trong dưới ánh sáng chiếu rọi của đèn pha – thợ đang hò hét, dây điện giăng mắc khắp nơi. “Họ đang làm gì vậy?”

    “Nâng cấp thành căn hộ chất lượng cao. Hơn năm triệu đổ vào – bể bơi trên nóc tòa nhà – tin được không?”

    “Chúa ơi.”

    “Cậu tưởng là nó sẽ được yên ổn phải vậy không? Một nơi cổ kính và xinh đẹp – hôm qua đã phải đập tan tành mấy bậc thang bằng cẩm thạch ở tiền sảnh, nhớ chúng không? Thật đáng buồn. Ước gì được mang nó ra ngoài nguyên vẹn. Cậu quen với nó quá rồi nên chẳng nhận ra chất lượng tuyệt vời của chất đá, thứ cẩm thạch lâu đời như thế. Dù vậy…” Anh ta nhún vai. “Đối với cậu nó vẫn là hình ảnh đại diện của thành phố này.”

    Anh ta ngửa cổ hét với ai đó phía trên – một người thợ đang hạ xô cát bằng ròng rọc – và tôi bước dọc theo đó, cảm thấy như muốn quỵ, ngay dưới khung cửa sổ phòng khách của căn hộ cũ hay đúng hơn là ngay dưới cái vỏ ngoài hoang tàn của nó, không muốn ngước nhìn lên một chút nào. Tránh nào, cậu bé. chú Jose từng nói với tôi, khi đang khệ nệ nhấc hành lí của tôi lên giá trong phòng để đồ. Vài cư dân của tòa nhà, như ông cụ Leopold, đã sống trong tòa nhà này hơn bảy mươi năm rồi. Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ? Hay với Goldie, với chú Jose? Hay… nhắc tới chuyện này: Cinzia…? Cinzia, người mà lúc nào cũng gánh cả tá các công việc về lau dọn, chỉ làm trong tòa nhà này có vài tiếng đồng hồ một tuần, không phải là tôi chưa từng nghĩ tới Cinzia trước kia, mà dường như mọi thứ thật vững chãi, bất biến, toàn bộ mạng lưới xã hội trong tòa nhà, một mối quan hệ mà ở đó tôi luôn có thể dừng lại để gặp gỡ mọi người, chào hỏi, tìm hiểu về cuộc sống của họ. Những người từng quen biết mẹ tôi. Những người từng quen biết bố tôi.

    Và khi tôi bước đi càng xa, trong tôi càng cảm thấy hụt hẫng, hụt hẫng vì mất đi một trong những điểm mốc vững chãi và cố định mà tôi vẫn coi là hiển nhiên mình có: những gương mặt thân thuộc, những câu chào hồ hởi: này em trai! Vì tôi vẫn đinh ninh rằng ít nhất thì cái cột mốc của quá khứ này sẽ còn nguyên vẹn như lúc tôi rời bỏ nó mà đi. Thật lạ lẫm khi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ có thể cám ơn chú Jose và Goldie vì số tiền mà họ đã dúi vào tay tôi – hay, lạ lẫm hơn nữa, rằng tôi sẽ không bao giờ có thể kể cho họ rằng bố tôi đã chết: bởi vì tôi đâu còn biết người nào khác từng quen ông ấy nữa? Hay người nào đó quan tâm? Ngay cả vỉa hè cũng có vẻ như sẽ vỡ vụn dưới bàn chân tôi và tôi sẽ rơi xuyên qua phố Năm Mươi Bảy để rồi trượt vào một hố sâu nào đó mà tôi sẽ không ngừng rơi mãi.



    IV.


    Không phải máu thịt mà chính trái tim mới khiến chúng ta thành cha con.

    —SCHILLER​




    CHƯƠNG 9.

    KHÔNG GÌ LÀ KHÔNG THỂ


    i.

    VÀO MỘT BUỔI CHIỀU CỦA TÁM NĂM sau đó – sau khi tan học và đang trên đường về làm việc cho Hobie – tôi chợt nghe ai đó gọi tên mình khi vừa bước ra khỏi Ngân hàng New York và đang đi bộ lên phía Madison, trong đầu còn bộn bề suy nghĩ.

    Tôi quay người lại. Giọng nói thật quen nhưng tôi không thể nào nhận ra nổi người đàn ông đó: trạc ba mươi tuổi, to lớn hơn tôi, với đôi mắt xám rầu rĩ và mái tóc vàng nhợt nhạt dài đến vai. Trang phục của anh ta – vải tuýt bờm xờm; cổ áo len chỗ cao chỗ thấp – phù hợp với con đường đầy bùn đất ở vùng quê hơn là một con phố thị thành; và ở anh ta mơ hồ toát lên một vẻ ngoài cao quý bị đặt nhầm chỗ, giống như việc ai đó đã ngủ trên ghế sô pha ở nhà bạn, hút chích, tiêu tốn kha khá tiền của bố mẹ.

    “Là Platt,” anh ta cất giọng. “Platt Barbour.”

    “Platt,” tôi nói sau một lúc lặng đi vì sững sờ. “Đã lâu quá rồi. Lạy Chúa.” Thật khó để nhận ra kẻ suốt ngày giận dữ của ngày xưa trong hình dáng một người đi bộ điềm tĩnh với vẻ ngoài dễ gây chú ý. Sự xấc láo đã biến mất, cái vẻ hung hăng ngày xưa; giờ trông anh ta thật mệt mỏi và trong đôi mắt thì đầy vẻ lo âu và có chút gì như định mệnh bắt buộc phải vậy. Anh ấy có thể là một người chồng không hạnh phúc sống ở vùng ngoại ô, lo lắng về người vợ không chung thủy, hoặc có thể là một thầy giáo không được yêu quý ở một trường học hạng hai.

    “Vậy thì. Platt. Anh khỏe không?” Tôi cất tiếng sau một lúc im lặng khó xử, chân lùi lại một bước. “Anh vẫn ở thành phố này à?”

    “Đúng,” anh ấy nói, một bàn tay vỗ nhẹ sau gáy, có vẻ đang thoải mái chịu đựng một cơn ốm. “Thực ra đang anh bắt đầu một công việc mới.” Anh ấy đã trưởng thành theo một cách không đẹp đẽ lắm; trong quá khứ ảnh là người có mái tóc vàng óng và vẻ ngoài ưa nhìn nhất trong số mấy anh em họ, nhưng giờ khuôn hàm của anh ấy đã dày thêm và phần giữa mặt thì thô sạm lại, không còn cái vẻ bướng bỉnh của những cậu bé JungvolkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link nữa. “Anh đang làm việc cho một nhà xuất bản học thuật. Blake-Barrows. Họ ở Cambridge lận nhưng có văn phòng ở đây?”

    “Tốt quá,” tôi nói, như thể đã biết về cái nhà xuất bản đó, mặc dù tôi chưa từng nghe tên – gật đầu, tay khẽ nghịch mấy đồng xu trong túi, trong đầu đã nghĩ ra cách rút lui. “Vậy, thật tuyệt khi gặp anh. Andy thế nào rồi?”

    Gương mặt anh bỗng chuyển tĩnh. “Em không biết gì à?”

    “Thì…” – tôi ấp úng – “Em có nghe là cậu ấy học ở MIT. Em có tình cờ gặp Win Temple trên phố khoảng một hai hai năm trước gì đó – cậu ta có nói là Andy được học bổng – môn vật lý thiên thể? Ý em là,” tôi ngập ngừng, bị cái nhìn chằm chằm của Platt làm cho lúng túng, “Em thực sự không giữ liên lạc nhiều với đám bạn ở trường nữa…”

    Platt lấy tay xoa dọc gáy. “Xin lỗi. Anh và cả nhà không biết làm thế nào để liên lạc với em nữa. Mọi chuyện vẫn còn lộn xộn quá. Nhưng anh cứ đinh ninh là em đã nghe rồi.”

    “Nghe gì?”

    “Nó chết rồi.”

    “Andy?” tôi hỏi lại, và rồi, khi anh ấy không phản ứng: “Không đời nào.”

    Một cái nhăn mặt thoáng qua – nó biến mất ngay khi tôi kịp trông thấy. “Đúng vậy. Thật tồi tệ, xin lỗi vì đã nói em biết. Andy và cả Bố nữa.”

    “Cái gì?”

    “Năm tháng trước. Nó với Bố bị chết đuối.”

    “Không thể nào.” tôi nhìn xuống vỉa hè.

    “Thuyền bị lật. Ngoài cảng Đông Bắc. Bọn anh đâu có đi xa lắm, có lẽ bọn anh không nên tới đó ngay từ đầu, nhưng Bố thì… em biết ông ấy thế nào mà…”

    “Ôi Chúa ơi.” Tôi đứng đó, vào buổi chiều của một mùa xuân thất thường với lũ trẻ vừa mới tan học đang ùa chạy ngay bên tôi, trong tôi thấy như bị rìu chém tới tấp và lúng túng như vừa được nghe một câu chuyện đùa không buồn cười chút nào. Mặc dù tôi vẫn thường nghĩ tới Andy trong những năm qua, và đôi lần lỡ hẹn không gặp được cậu ấy, chúng tôi vẫn chưa liên lạc lại với nhau sau khi tôi quay trở về New York. Tôi khá chắc chắn là mình đã tình cờ chạm mặt cậu ấy lúc nào đó – vì tôi có gặp Win, James Villiers, Martina Lichtblai cùng một vài người bạn cùng trường khác nữa. Nhưng cho dù vẫn hay lưỡng lự định gọi điện thoại thăm hỏi cậu nhưng vì một lí do nào đó mà tôi đã không làm.

    “Em ổn chứ?” Platt hỏi – tay xoa nhẹ vùng cổ, trông cũng thật khó khăn y như tôi lúc này.

    “Ừm…” tôi quay mặt nhìn cửa sổ của cửa hàng bên đường để trấn tĩnh lại mình, và bóng ma trong suốt của tôi quay qua nhìn lại tôi, hình ảnh đám đông lướt qua sau tôi cũng in lên mặt kính.

    “Trời ơi,” tôi nói. “Em không thể tin nổi. Em không biết nói gì nữa.”

    “Xin lỗi vì đã nói thẳng ngay trên phố như vậy,” Platt vừa nói vừa xoa cằm. “Em trông xanh như mang cá vậy.”

    Xanh như mang cá: một cụm từ của ông Barbour. Như bị đánh vào đầu, tôi chợt nhớ lại cảnh ông Barbour đang lục ngăn kéo tủ trong phòng của Platt cái ngày tôi mới dọn tới ở, đề nghị sẽ nhóm một đống lửa lớn cho tôi. Cả tá chuyện lộn xộn đã xảy ra, lạy Chúa.

    “Cả bố anh nữa ư?” tôi hỏi, mắt chớp nhanh như thể có ai đó đang lay tôi dậy sau một giấc ngủ dài. “Anh vừa nói vậy đúng không?”

    Anh ấy nhìn quanh, với một cái nâng cằm khiến tôi nhớ lại hình ảnh hung hãn xưa của Platt, rồi nhìn đồng hồ.

    “Nào, em có rảnh không?” anh ấy hỏi.

    “Thì…”

    “Cùng đi uống gì đó nào,” anh nói, một tay đặt lên vai tôi nặng đến mức khiến tôi loạng choạng. “Anh biết một chỗ khá yên tĩnh trên Đại lộ Ba. Em thấy sao?”


    ii.

    CHÚNG TÔI NGỒI TRONG MỘT quán bar gần như trống khách – một nơi đã từng rất nổi tiếng với mùi gỗ sồi lợp trần nhà quyện với mùi sốt phủ bánh kẹp thịt, trên tường là cờ hiệu của những trường đại học trong nhóm Ivy, trong khi đó Platt nói chuyện dông dài bằng giọng đều đều khó nghe đến nỗi tôi phải cố tập trung để theo kịp.

    “Bố,” anh ấy nói, mắt nhìn xuống ly rượu gin chanh của mình: thức uống của bà Barbour. “Bọn anh vẫn tránh nói về nó – nhưng. Sự mất cân bằng sinh lý là từ mà bà nội của bọn anh vẫn dùng để gọi nó. Chứng rối loạn lưỡng cực. Ông bắt đầu gặp, hay bắt đầu bị bệnh tật tấn công, hay em gọi nó là gì đi nữa, ở trường Luật Harvard – năm thứ nhất, ông không bao giờ có thể học năm thứ hai nữa. Tất cả những kế hoạch và nhiệt huyết đầy điên rồ… những cuộc tranh luận trên lớp, nói năng không theo trật tự, tự vạch ra kế hoạch viết một bài thơ nào đó dài bằng cả một cuốn sách về con tàu đi biển tên Essex mà cuối cùng chỉ toàn là nhảm nhí và rồi người bạn cùng phòng, người mà hơn ai khác có thể khiến ông vững tâm trở lại, thì đã đi học một học kì ở Đức và – thế là xong. Ông của anh phải bắt tàu lên tận Boston để đón con trai về. Bố anh bị bắt khi đang nhóm lửa phía trước bức tượng Samuel Elliot Morison trên Đại lộ Commonwealth và ông đã chống cự lại khi cảnh sát cố bắt giữ lấy ông.”

    “Em biết là ông có gặp vấn đề. Em chưa từng biết là nó lại như vậy.”

    “Thì.” Platt nhìn chằm chằm vào ly nước của mình, rồi ngửa cổ uống cạn. “Nó xảy ra cũng khá lâu trước khi anh ra đời. Mọi thứ đã thay đổi khi ông ấy lấy Mẹ và ông cũng đã uống thuốc được một thời gian, mặc dù bà nội thì chẳng bao giờ thực sự tin tưởng Bố sau tất cả những chuyện đó.”

    “Tất cả những chuyện gì?”

    “À, tất nhiên bọn anh khá là thân thiết với bà, là cháu mà,” anh vội vã nói. “Nhưng em không thể hình dung ra những rắc rối mà Bố đã gây ra khi ông còn trẻ đâu… xé nát cả núi tiền, những trận cãi vã khủng khiếp, những vấn đề tệ hại với lũ con gái chưa thành niên… ông sẽ khóc lóc và xin lỗi, và rồi mọi việc lại xảy ra như thế…Bà Gaga luôn đổ tội cho Bố vì đã gây ra cơn đau tim của ông nội, hai người họ đã cãi cọ ở văn phòng của ông nội và bùm. Thế nhưng một khi đã uống thuốc thì Bố chỉ là một chú cừu non. Một người cha tuyệt hảo - ừm – em biết mà. Rất tuyệt vời với con cái là bọn anh đây.”

    “Ông rất đáng mến. Lúc em còn biết ông.”

    “Ừ.” Platt nhún vai. “Ông có thể như vậy. Sau khi cưới Mẹ, ông vẫn còn ở trên con thuyền thăng bằng được một thời gian. Thế rồi – anh không biết chuyện gì đã xảy ra. Ông đã đầu tư vài khoản cực kỳ rủi ro – đó là dấu hiệu đầu tiên. Phải muối mặt gọi cho bạn bè người thân lúc nửa đêm, những việc kiểu vậy. Quay ra si mê một cô nàng sinh viên thực tập ở văn phòng ông ấy – Mẹ biết gia đình cô gái ấy. Lúc đó quả thực rất khó khăn.”

    Vì một lí do nào đó, tôi thấy rất cảm động khi nghe anh ấy gọi bà Barbour là ‘mẹ.’ “Em chưa từng biết bất cứ chuyện nào trong số đó,” tôi nói.

    Platt cau mày: một biểu lộ tuyệt vọng, bất lực mang lại sự tương đồng tuyệt đối với Andy. “Chính bọn anh cũng gần như không biết – lũ con cái,” anh nói chua cay, ngón tay cái trượt dọc mép khăn trải bàn. “ ‘Bố đang ốm’ – đó là tất cả những gì bọn anh được nói cho. Anh được nghỉ học, nhớ không, khi họ đưa ông ấy tới bệnh viện, họ không cho anh nói chuyện với ông qua điện thoại, họ nói ông ốm quá và hàng tuần sau anh cứ nghĩ là ông đã chết và họ vẫn không muốn nói cho anh.”

    “Em vẫn còn nhớ tất cả những chuyện đó. Thật tệ quá.”

    “Tất cả những gì?”

    “Thì, những rắc rối đáng lo đó.”

    “Ừm, thì…” tôi giật mình vì ánh nhìn giận dữ trong đôi mắt anh ấy… “và làm sao mà anh biết được đó là ‘rắc rối đáng lo’ hay ung thư giai đoạn cuối hay cái quái quỷ gì chứ? ‘Andy thật là mềm yếu… Andy ở thành phố thì tốt hơn… bố mẹ không nghĩ là Andy sẽ sống nổi nếu ở trên thuyền đâu…’ tất cả những gì anh biết là Mẹ và Bố đã đá đít anh đi ngay lúc anh biết tự thắt dây giày, đi học cái trường dạy cưỡi ngựa chết tiệt tên là Hoàng Tử George, chắc chắn chỉ là trường hạng ba, và họ nhận cả bọn trẻ con lít nhít, từ bảy đến mười ba tuổi. Em phải xem tờ quảng cáo của nó, chuyến đi săn ở vùng quê Virginia, ngoại trừ việc chẳng thấy đồi cỏ xanh với được cưỡi ngựa thường xuyên như ở trong hình quảng cáo. Anh đã từng bị mấy con ngựa trong chuồng giẫm lên và gãy xương bả vai và rồi anh nằm đó trong khu bệnh xá nhìn ra một con đường trống không, chẳng có cái xe nào trên đó cả. Không có lấy một con người quái quỷ nào tới thăm anh, thậm chí là bà nội Gaga. Thêm nữa là tên bác sĩ đang say khướt nên đã chỉnh xương vai bị sai vị trí, giờ anh vẫn gặp vấn đề với nó. Đến tận bây giờ anh vẫn căm thù loài ngựa.

    Dù sao đi nữa…” anh ấy tự động thay đổi tông giọng… “họ đã lôi anh ra khỏi nơi đó và tống anh vào trường Groton trước khi vấn đề của Bố lên đến đỉnh điểm và ông phải đi tới một nơi khác. Chắc hẳn đã có chuyện xảy ra trên tàu điện ngầm… mâu thuẫn gì đó, Bố nói một điều và lũ cớm lại nói điều khác nhưng…” anh nhướng lông mày, cùng với sự châm biếm vừa khác lạ vừa đúng mực… “và thế là Bố phải tới cái trang trại vang tiếng gáy! Tám tuần. Không thắt lưng, không dây giày, không súng săn. Nhưng ở đó họ điều trị cho ông bằng sốc điện, và có vẻ như nó thực sự hiệu quả vì khi ông ra khỏi nơi đó thì ông trở thành một con người hoàn toàn mới. Ừm… em thấy mà. Người Bố của năm, gần như vậy.”

    “Vậy…” tôi nhớ lại cuộc gặp gỡ đáng quên với ông Barbour trên phố và quyết định không nhắc tới nó… “đã xảy ra chuyện gì?”

    “Ừm, ai mà biết. Ông bắt đầu gặp vấn đề trở lại khoảng vài năm trước và phải quay lại nơi đó.”

    “Những vấn đề kiểu như thế nào?”

    “Oh…” Platt thở ra thành tiếng… “gần như là vấn đề cũ, những cuộc điện thoại đáng xấu hổ, những vụ bột phát cảm xúc giữa nơi công cộng, vân vân. Ông chẳng bị làm sao cả, dĩ nhiên, ông hoàn toàn khỏe mạnh, mọi chuyện chỉ bắt đầu khi họ tiến hành nâng cấp tòa nhà, việc mà ông vẫn phản đối, búa với cưa máy và những tập đoàn chỉ chực tàn phá cả thành phố này, cũng không có gì nghiêm trọng, thế rồi nó tích tụ lại như quả bóng tuyết, đến độ ông còn nghĩ là lúc nào mình cũng bị theo dõi, chụp hình và bị do thám. Ông viết mấy lá thư điên rồ cho mọi người, gồm cả khách hàng ở công ty nữa… ông tự biến mình thành rắc rối ở Câu lạc bộ chèo thuyền… phần lớn mọi người đều phàn nàn, thậm chí cả những người bạn lâu năm của ông, và ai mà trách tội họ được chứ?

    “Dù sao thì, khi Bố ra viện lần thứ hai đó – ông không bao giờ là con người xưa nữa. Những lần phát bệnh không còn khủng khiếp nữa, nhưng ông không thể tập trung và lúc nào ông cũng cáu bẳn. Khoảng sáu tháng trước ông cho đổi các bác sĩ riêng và xin nghỉ phép, đi một chuyến tới Maine – chú Harry của bọn anh có nhà trên một hòn đảo nhỏ ở đó, không có ai ở đó ngoài người giúp việc, và Bố thì bảo không khí biển khiến ông thấy dễ chịu. Mọi người trong nhà thay phiên nhau đến ở cùng ông… Lúc đó Andy đang ở Boston, học MIT, điều nó không mong muốn nhất chính là phải dính với Bố nhưng không may vì nó ở gần ông hơn bọn anh nên nó cũng mắc kẹt ở đó chút xíu.”

    “Ông không quay lại chỗ, ờ…” tôi không muốn nói đến trang trại vang tiếng gáy… “ông không quay lại nơi trước kia ông từng đến sao?”

    “Ừm, ai mà bắt được ông ấy chứ? Không dễ để bắt một người phải đi khi mà họ không muốn, đặc biệt là khi họ không chịu thừa nhận rằng họ đang không được bình thường, thêm nữa cả nhà bị lầm tin rằng vấn đề chỉ nằm ở thuốc mà thôi, rằng ông sẽ lại bình thường ngay sau khi số thuốc mới có tác dụng. Người giúp việc có mặt để chắc chắn là ông ăn đầy đủ và uống thuốc, Bố vẫn nói chuyện với bác sĩ tâm lý qua điện thoại mỗi ngày – ý anh là, bác sĩ nói mọi chuyện sẽ ổn,” anh nói như thanh minh. “Bố vẫn được lái xe, bơi lội, đi thuyền nếu ông muốn. Có lẽ cũng không phải ý hay khi ông đi ra ngoài khá muộn như vậy nhưng tình trạng sức khỏe của ông đâu có tệ khi bọn anh khởi hành hôm đó và tất nhiên em biết tính Bố mà. Người thủy thủ dũng cảm và những thứ như thế. Anh hùng và những hành động can đảm.”

    “Đúng.” Tôi đã nghe rất rất nhiều câu chuyện rằng ông Barbour đã đi thuyền ra khơi vào “những con nước khó tính khó nết” mà hóa ra chính là cơn bão đông bắc thường niên, Bộ Tình trạng Khẩn cấp đưa tuyên bố khắp vùng ba bang và cắt điện toàn bộ vùng bờ biển Đại Tây Dương, Andy thì say sóng và nôn mửa trong khi tát nước biển ra khỏi thuyền. Màn đêm chao đảo, mọi người chạy lên bờ cát, trong cái tối tăm và cơn mưa như trút nước. Bản thân ông Barbour – lúc đang ăn bữa sáng trứng thịt nguội vào chủ nhật và cười sảng khoái – đã hơn một lần kể câu chuyện ông cùng các con bị bão thổi dạt ra xa bờ biển Long Island , đài mất tín hiệu, kể về cách bà Barbour đã gọi cho một vị linh mục ở nhà thờ Ignatius Loyola giao giữa Đại lộ Park và phố Tám Tư, và bà ngồi cả đêm ở đó để cầu nguyện (bà Barbour cầu nguyện đấy!) cho tới khi có cuộc gọi báo từ Đội cứu hộ bờ biển là tàu đã cập bến an toàn. (“Lúc đầu gió to lắm, thế rồi cô ấy đã khiến nó phải chạy biến tới Rome, phải không em yêu? Ha!”)

    “Bố anh…” Platt ngậm ngùi lắc đầu. “Mẹ anh từng nói nếu Manhattan không phải một hòn đảo, ông sẽ không bao giờ chịu sống ở đây một phút. Ở đất liền ông thấy khổ sở - lúc nào cũng chỉ muốn tới chỗ có nước – phải ngắm nhìn nó, ngửi nó – anh vẫn nhớ hồi nhỏ có lần cùng ông lái xe tới Connecticut, thay vì đi thẳng đường 84 tới Boston thì bọn anh đã đi chệch đường hàng bao nhiêu dặm để đi tới bờ biển. Lúc nào ông cũng muốn hướng ra biển Đại Tây Dương – thực sự cảm nhận được nó, cách mà những đám mây thay đổi hình dạng khi em càng tới gần biển.” Platt nhắm lại đôi mắt xám màu xi măng trong giây lát, rồi lại mở ra. “Em biết là em gái của Bố anh đã nhảy sông tự vẫn, đúng không,” anh nói bằng giọng đều đều đến nỗi trong giây lát tôi đã nghĩ là mình nghe nhầm.

    Tôi chớp mắt, không biết nên nói gì. “Không. Em không biết chuyện đó.”

    “Cô đã làm vậy,” Platt nói không cảm xúc. “Kitsey được đặt tên theo cô ấy. Cô nhảy khỏi thuyền khi đang đi trên Sông Đông trong một buổi tiệc – hẳn là trò đùa nghịch của chúng bạn, đó là những gì họ nói, ‘một tai nạn,’ nhưng anh thấy ai chẳng biết là không được phép làm vậy, sóng nước dữ lắm, nuốt chửng cô ấy ngay lập tức. Một đứa trẻ khác cũng chết, nhảy xuống cố cứu lấy cô ấy. Rồi ông chú của Bố đang ở độ tuổi sáu mươi, nửa tỉnh nửa say, một đêm nọ cũng bơi từ ngoài thuyền vào đất liền khi bị thách làm vậy – ý anh là, Bố anh, ông vẫn thường lải nhải rằng nước là nguồn sống của chính ông, là suối nguồn tuổi trẻ và các thứ - hẳn là thế rồi. Nhưng nó không chỉ là sự sống đối với ông ấy. Nó còn là sự chết chóc.”

    Tôi không đáp lại. Những câu chuyện về đi thuyền của ông Barbour, không bao giờ có sức thuyết phục tử tế, hay tập trung đúng chủ đề, hay đem lại thông tin thực sự về môn thể thao đó, mà luôn chỉ là về những khi họ phải một mình đối mặt với sự nguy cấp, cảm giác háo hức khi có thảm họa ập đến.

    “Và…” môi Platt mím chặt lại… “trời đất quỷ thần ơi, dĩ nhiên ông luôn nghĩ mình bất tử khi đối diện với sóng nước. Con trai của Hải Vương! Không thể bị nhấn chìm! Và theo những gì ông biết, sóng càng dữ thì càng đáng mong chờ. Ông đã từng bị say sóng khi phải lênh đênh trong những cơn bão biển, em biết chứ? Hạ khí áp đối với ông giống như phải nuốt khí N2O. Mặc dù vào ngày định mệnh đó… thời tiết có gió nhưng rất ấm áp, một buổi sáng mùa thu nắng vàng khiến ta chỉ muốn được đi thuyền dạo chơi. Andy không muốn đi, nó bị cảm và lại đang làm dở thứ gì đó phức tạp trên máy tính, nhưng bọn anh không hề nghĩ sẽ có bất kỳ nguy hiểm nào. Kế hoạch là đưa ông ra ngoài, giúp ông thấy bình tĩnh, rồi ghé một nhà hàng trên cầu cảng và hi vọng sẽ khiến ông ăn chút gì đó. Thấy không…” anh vắt chéo chân một cách bồn chồn… “chỉ có hai bọn anh ở đó với ông, Andy với anh, và nói thật là Bố anh lúc đó đang có chút nổi khùng. Ông đã khó chịu từ hôm trước, nói năng bực dọc, có vẻ là đang thực sự tức giận – Andy đã gọi cho mẹ vì nó còn có việc phải làm và nó không xử lý được việc này, và Mẹ gọi cho anh. Trước khi anh đi lên tới đó và lôi con thuyền ra ngoài thì Bố đã vượt khỏi tầm kiểm soát. Ông liên tục lảm nhảm về sóng biển cuộn trào bọt tung trắng xóa – biển Đại Tây Dương xanh hoang dại – ông thực sự là đang bay. Andy thì chẳng bao giờ chịu nổi Bố ở trong tình trạng như vậy, nó ở trên phòng khóa trái cửa. Anh đoán chắc nó cũng đã hứng chịu kha khá trước khi anh tới rồi.

    “Nghĩ lại thì đây có vẻ là ý kiến tồi, nhưng mà – em thấy đấy, anh hoàn toàn có thể một mình đi thuyền với ông. Bố đang nổi điên trong nhà và anh phải làm gì, vật ông ấy xuống và trói vào? rồi sau đó nữa, em biết Andy mà, nó chẳng thiết gì ăn uống, tủ chạn lúc nào cũng trống không, chẳng có gì trong tủ lạnh ngoài mấy miếng pizza đóng đá… đi nhanh thì tới cầu cảng và ăn được chút gì đó, có vẻ là một ý tưởng hay. ‘Hãy cho bố ăn,’ Mẹ lúc nào cũng nói vậy khi Bố bắt đầu trở nên quá khích. ‘Dùng đồ ăn ấy con.’ Đó lúc nào cũng là câu đầu tiên khi Mẹ bào chữa. Để bố ngồi xuống – cho bố ăn một bữa bít tết no nê. Thường chỉ có nhiêu đó để khiến ông bình tĩnh trở lại. Và – anh luôn ghi nhớ rằng nếu tinh thần ông không ổn định một khi về đất liền thì bọn anh có thể quên ngay món bít tết kia và đưa ông đi cấp cứu nếu cần. Anh chỉ muốn Andy đi cùng để thêm an toàn mà thôi. Anh nghĩ mình có thể nhờ nó giúp một tay – thật ra đêm hôm trước anh đi tới đêm mới về, không hoàn toàn ở trạng thái của một con thuyền được căng buồm hết cỡ, như Bố vẫn thường nói.” Anh dừng nói, xoa lòng bàn tay vào ống quần vải tuýt của mình. “Andy chưa từng thích nước. Em cũng biết rồi.”

    “Em vẫn nhớ.”

    Platt cau mày. “Anh từng thấy lũ mèo còn bơi tốt hơn Andy. Nói thật, Andy là đứa trẻ vụng về nhất anh từng thấy mà chỉ hơn những đứa bị bại liệt hay thiểu năng… lạy Chúa, em phải nhìn nó chơi tennis, bọn anh vẫn thường nói đùa là sẽ đăng ký cho nó đi thi Olympic Đặc Biệt, nó sẽ vô địch tất cả các môn. Dù vậy nhưng nó vẫn đi thuyền được kha khá thời gian, có Chúa mới biết – có thêm một đứa con trai nữa trên thuyền vẫn tốt hơn, trong khi Bố lại đang ốm vậy, em hiểu không? Bọn anh có thể dễ dàng kiểm soát con thuyền – ý anh là mọi chuyện khá ổn, nhưng sẽ ổn hơn nếu anh để ý một chút những gì ở trên trời, gió đã thổi lên, bọn anh đang cố căng buồm chính, Bố thì đang khua khoắng tay chân và hét vào khoảng không, hoàn toàn là hành động điên rồ, và ông mất thăng bằng khi có đợt sóng tới và ngã khỏi thuyền. Bọn anh đang cố kéo ông trở lại thuyền, Andy với anh… rồi bọn anh bị xô cả vào một bên mạn thuyền, sóng thì lớn, chỉ một con sóng dốc đứng không biết từ đâu trồi lên và đánh thẳng vào mạn thuyền, rồi bùm, bọn anh lật úp. Ngoài trời không quá lạnh nhưng nước biển gần mười hai độ cũng đủ khiến con người hạ thân nhiệt nếu ở trong nước đủ lâu, mà không may đó lại là tình trạng của bọn anh, và ý anh là Bố, ông như đang bay, bay tới tận tầng bình lưu của bầu khí quyển…”

    Cô sinh viên chạy bàn mập mạp đang tiến tới phía sau lưng Platt, định hỏi xem chúng tôi có muốn uống thêm gì không… Tôi bắt được ánh mắt cổ, khẽ lắc đầu ý muốn nói cổ hãy ra chỗ khác.

    “Bố bị hạ thân nhiệt. Bố đã gầy đi nhiều, không có lớp mỡ bao phủ, chỉ cần một tiếng rưỡi đồng hồ dưới nước là đủ, mà lại còn phải ngụp lặn ở mức nhiệt độ đó. Người sẽ mất nhiệt nhanh hơn nếu không đứng im. Andy thì…: Platt dường như cảm nhận rằng người chạy bàn đang đứng đó nên quay lưng lại và giơ hai ngón tay lên, một chầu nữa… “áo phao của Andy, họ tìm thấy nó trôi theo thuyền, vẫn mắc vào dây thừng.”

    “Lạy Chúa.”

    “Chắc là cái áo đã trôi qua đầu nó khi nó ngã xuống nước. Có dây cài quanh cái áo – hơi khó chịu, chẳng ai thích cài – dù sao thì, áo phao của Andy đã ở đó, vẫn mắc vào dây thừng, nhưng rõ ràng là nó đã không cài áo đầy đủ, cái thằng nhóc ấy. Ý anh là,” anh nói lớn giọng, “điều cơ bản nhất. Em biết chứ? Không thèm thắt dây cho tử tế. Nó lúc nào cũng là cái thằng nhãi trời đánh…”

    Tôi lo lắng liếc nhìn người phục vụ, nhận ra Platt đã nói lớn thế nào.

    “Chúa ơi.” Platt đột ngột ngả người ra sau. “Anh thì lúc nào cũng ghét bỏ nó. Anh đúng là thằng tồi.”

    “Platt.” Tôi muốn nói Không anh không phải thằng tồi chỉ có điều câu đó không đúng sự thật.

    Anh ngước lên nhìn tôi, lắc đầu. “Lạy Chúa.” Đôi mắt ảnh trông mất hồn và trống rỗng, giống những phi công Huey trong một trò chơi điện tử (Air Cav II: Xâm lược Cam-pu-chia) mà Andy và tôi vẫn thích chơi. “Khi anh nghĩ lại về những điều đã làm với nó. Anh sẽ không bao giờ tha thứ cho mình, không bao giờ.”

    “Wow,” tôi thốt lên trong khi nhìn vào bàn tay đang úp trên bàn với những khớp tay to – đôi bàn tay mà sau từng đó năm vẫn mang cái vẻ hung hăng bạo lực, cái vẻ độc ác của ngày xưa. Mặc dù tôi và Andy đều cùng sẻ chia số phận bị bắt nạt ở trường, nhưng sự hành hạ mà Platt dành cho Andy – mới mẻ, hào hứng, tàn bạo – đã chạm đến ngưỡng tra tấn theo nghĩa đen: nhổ nước bọt vào đồ ăn của Andy, có, đập vỡ đồ chơi của cậu ấy, và còn để cá chết và hình tử thi bị mổ xẻ lên gối cậu ấy, lật chăn lên và tè vào người khi cậu ấy đang ngủ (và rồi giả khóc lóc Android tè dầm kìa!); nhấn đầu cậu ấy vào bồn tắm theo kiểu nhà tù Abu Ghraib; ấn mặt cậu vào hộp cát ở sân chơi trong khi cậu khóc lóc và cố gắng thở. Giơ cao lọ xông mũi của cậu mặc cho cậu khóc lóc nài nỉ: muốn không? muốn không? Còn những chuyện đáng ghê tởm về Platt cùng cái thắt lưng, trong tầng áp mái của ngôi nhà ở quê, tay bị trói lại, một cái dây thòng lọng tự chế: thật đáng sợ. Ảnh đáng lẽ đã giết tớ rồi, tôi vẫn nhớ những gì Andy nói, bằng cái giọng xa xăm không cảm xúc, nếu người giúp việc không nghe tiếng tớ gõ chân lên sàn nhà.

    Một cơn mưa xuân nhè nhẹ đập vào cửa sổ quán. Platt nhìn xuống cái ly nước đã cạn của mình, rồi lại ngước lên.

    “Tới gặp Mẹ anh đi,” ảnh nói. “Anh biết là mẹ mong được gặp em lắm.”

    “Bây giờ sao?”tôi hỏi lại, khi nhận ra ảnh muốn tôi làm vậy ngay lúc đó.

    “Em hãy tới đi. Nếu không bây giờ thì để sau cũng được. Đừng vội hứa như mọi người vẫn làm hàng ngày. Lời hứa mang nhiều ý nghĩa với bà lắm.”

    “Ừm…” Giờ tới lượt tôi nhìn đồng hồ. Tôi còn vài việc vặt cần làm, thật ra tôi có rất nhiều thứ cần suy nghĩ và vài mối lo lắng trong đầu nhưng đã muộn rồi, rượu vodka đã khiến tôi hơi mù mờ, buổi chiều đã trôi qua từ khi nào.

    “Xin em đấy,” ảnh nói. Ảnh ra hiệu thanh toán. “Mẹ sẽ không bao giờ tha thứ nếu biết anh tình cờ gặp em mà lại không mời được em qua nhà. Em ghé thăm một chút thôi nhé?”


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Là loại limousine (của hãng Ford) được sử dụng phổ biến nhất ở Mỹ và Canada.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tên một tổ chức gồm các cậu bé người Đức từ 10 đến 14 tuổi do Phát xít lập nên để huấn luyện và đào tạo chúng thành những con người tài năng.
     
  11. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    iii.

    BƯỚC CHÂN VÀO TIỀN SẢNH như bước qua cánh cửa về tuổi thơ: đồ gốm Trung Hoa, tranh phong cảnh được soi đèn, đèn bọc lụa tỏa ánh sáng mờ ảo, mọi thứ vẫn y nguyên như lúc ông Barbour mở cửa đón tôi vào cái đêm mẹ tôi chết.

    “Không, không,” Platt nói khi tôi theo thói quen bước tới phía cái gương mắt bò và đi qua phòng khách. “Đằng này.” Ảnh đang bước tới phía cuối căn hộ. “Nhà anh giờ không theo nghi thức nữa – Mẹ thường tiếp khách ở phía sau, dù là gặp gỡ ai…”

    Hồi xưa, tôi chẳng bao giờ dám lại gần phòng riêng của bà nhưng khi chúng tôi tới gần, hương nước hoa của bà – không lẫn vào đâu được, mùi hương của những bông hoa anh đào với một chút bột rắc ở nhụy hoa – tựa như bức màn gió đang lay động nơi cửa sổ khép hờ.

    “Mẹ không thường ra ngoài nhiều như xưa,” Platt khẽ nói. “Không còn sự kiện hay tiệc ăn tối nữa – có lẽ một tuần một lần bà sẽ mời ai đó qua uống trà, hoặc bà sẽ đi ăn tối với một người bạn. Nhưng chỉ có vậy.”

    Platt gõ cửa; ảnh nghe ngóng. “Mẹ ơi?” ảnh gọi, và – không có câu trả lời rõ ràng - ảnh mở hé cửa. “Con mang cho mẹ một vị khách. Mẹ không đoán nổi là con gặp ai trên phố đâu…”

    Căn phòng rộng thênh thang, được sơn màu đào kiểu quý bà những năm 1980. Ngay gần lối vào là khu tiếp khách với một chiếc sô pha và ghế nệm đơn – nhiều đồ trang trí lặt vặt, gối tựa, khoảng chin, mười bức tranh của những bậc thầy họa sĩ: Bay vào Ai CậpVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Jacob và Thiên thầnVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một số bức của Rembrandt mà tiêu biểu là bức tranh nhỏ xíu vẽ bằng bút mực nâu cảnh Chúa đang rửa chân cho Thánh Peter, bức tranh được vẽ thật khéo léo (cái lưng cong oằn mỏi mệt của Chúa; nét mặt buồn bã trống rỗng của Thánh Peter) đến mức nó dường như được hoàn thành bởi chính bàn tay của Rembrandt.

    Tôi rướn người tới trước để nhìn cho rõ hơn; và ở phía xa căn phòng là một ngọn đèn với chụp đèn nghiêng nghiêng như mái chùa. “Theo?” tôi nghe giọng bà, và bà đang ở đó, giữa đống gối trên chiếc giường rộng lớn vượt tỉ lệ.

    “Là cháu! Không thể tin nổi!” bà nói, vòng tay dang rộng đón tôi. “Cháu lớn thật rồi! Cháu đã ở đâu thế? Giờ cháu ở thành phố à?”

    “Vâng ạ. Cháu cũng vừa mới về đây thôi. Bà trông thật tuyệt vời,” tôi miễn cưỡng chêm câu đó vào, mặc dù thực sự bà không trông như vậy.

    “Cả cháu nữa!” Bà đặt cả hai tay lên bàn tay tôi. “Cháu trông xinh trai quá! Ta sửng sốt đó.” Bà trông vừa già hơn lại vừa trẻ hơn những gì tôi nhớ: thật xanh xao, không son phấn, có vài vết chân chim ở đuôi mắt nhưng làn da thì vẫn trắng mịn. Mái tóc vàng bạch kim của bà (nó vẫn màu trắng như thế, hay là do tóc bà đã bạc?) được thả xuống tự nhiên trên vai; bà mang cặp kính nửa vầng trăng và một chiếc áo khoác ngủ bằng vải xa tanh, trên đó là chiếc ghim cài bằng kim cương hình bông tuyết.

    “Và giờ ta đang ở đây, trên chiếc giường của mình, ngồi đan lát như người vợ góa của một thủy thủ,” bà nói, tay chỉ vào tấm vải bạt đang khâu dở đặt bên cạnh đầu gối của mình. Hai chú chó nhỏ xíu – giống chó sục vùng Yorkshire – đang ngủ say trên đống len dưới chân bà, con nhỏ hơn nhìn thấy tôi bèn đứng dậy và bắt đầu sủa hăng.

    Tôi gượng cười khi bà cố gắng xoa dịu nó – con chó còn lại cũng bắt đầu đề phòng – và nhìn quanh. Chiếc giường vào loại hiện đại – cỡ của vua chúa, phía đầu giường có một tấm vải che phủ - nhưng quả là bà có nhiều thứ hay ho ở đó mà hồi bé tôi không buồn để mắt tới. Căn phòng chính là biển SargassoVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của cả căn hộ này, nơi mà những vật dụng bị loại ra từ những căn phòng sang trọng lại xuất hiện đầy mới mẻ: những chiếc bàn có bốn chân không hề giống nhau; đồ trang trí nhỏ nhắn từ phương Đông; một bộ sưu tập những chiếc chuông bằng bạc. Một chiếc bàn chơi bài bằng gỗ hồng đào mà nhìn từ chỗ tôi đứng thì trông giống phong cách Duncan PhyfeVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link hơn, và trên mặt bàn (giữa những chiếc gạt tàn kẻ sọc rẻ tiền và vô số lót cốc) là tượng nhồi hình một con chim hồng tước: bị mối mọt ăn, xơ xác, lông tơi tả, đầu nó có góc cạnh sắc lẹm và mắt nó chỉ còn là một chấm đen sợ hãi.

    “Này Ring Ring, suỵt, im lặng đi nhé, ta không chịu được đâu. Đây là Ring Ring,” bà Barbour nói, tay ôm vào lòng con chó đang vùng vẫy, “mày là con chó hư đốn, phải vậy không, chẳng lúc nào chịu nằm yên, còn con kia, với cái ruy băng màu hồng, là Clementine. Platt,” bà gọi át tiếng chó sủa, “Platt, con mang nó vào bếp nhé? Cứ có khách là nó lại nhặng xị lên,” bà quay qua nói với tôi, “Ta phải thuê người huấn luyện thôi…”

    Trong khi bà Barbour cuộn đồ đan dở của mình và cho nó vào một cái giỏ hình oval với một cái núm nhỏ gắn ở nắp giỏ thì tôi vẫn ngồi trên chiếc ghế bành cạnh giường. Vải bọc nệm đã sờn, những đường sọc chìm trên ghế cũng thật quen thuộc – một chiếc ghế vốn ở phòng khách lại bị cho vào phòng ngủ, vẫn là chiếc ghế mà tôi thấy mẹ từng ngồi khi bà tới nhà Barbour thời điểm nhiều năm về trước để đón tôi sau một buổi tiệc ngủ. Tôi trượt ngón tay trên chất vải. Đột nhiên tôi bỗng thấy mẹ đang đứng đó vẫy tay chào tôi, trong chiếc áo khoác màu xanh đậu mà bà đã mặc ngày hôm đó – đủ thời trang để nhiều người trên phố phải dừng lại hỏi xem mẹ tôi mua nó ở đâu, nhưng lại hoàn toàn không hợp với căn nhà của gia đình Barbour.

    “Theo?” bà Barbour gọi. “Cháu muốn uống gì? Một tách trà nhé? Hay thứ gì đó mạnh hơn chút?”

    “Dạ không, cám ơn bà.”

    Bà vỗ nhẹ tay lên tấm trải giường. “Tới ngồi cạnh ta. Nào. Ta muốn nhìn cháu rõ hơn.”

    “Cháu…” Khi giọng bà bỗng thật gần gũi và lịch sự thì cảm giác buồn bã lại dâng lên trong tôi, và khi chúng tôi nhìn nhau thì dường như cả quá khứ bỗng sống dậy và được chiếu cận cảnh trong chính giây phút này, sáng tỏ như pha lê, một tập hợp vô số những hình ảnh bất động về những chiều mưa mùa xuân, một chiếc ghế tối màu đặt ở hành lang, cái vỗ nhẹ sau gáy mà bà vẫn dành cho tôi lúc xưa.

    “Ta rất vui khi cháu đến.”

    “Bà Barbour,” tôi nói, tới gần giường hơn, khẽ khàng đặt một nửa người ngồi xuống, “Chúa ơi. Cháu không tin nổi. Cháu cũng chỉ vừa mới biết chuyện. Cháu thực sự rất tiếc.”

    Bà mím chặt môi lại như đứa trẻ đang cố không khóc. “Đúng,” bà nói, “ừm,” giữa chúng tôi hiện ra bầu không khí im lặng đáng buồn và dường như không bao giờ chấm dứt.

    “Cháu rất tiếc,” tôi lặp lại, giọng gấp gáp hơn và nhận ra câu đó nghe thật vụng về, như thể tôi có thể bộc lộ sự đau buồn của mình tốt hơn nếu nói lớn giọng hơn chút nữa.

    Bà lặng lẽ chớp mắt; và, không biết nên làm gì, tôi bèn đưa bàn tay ra vỗ về an ủi bà và chúng tôi ngồi như vậy trong một khoảng thời gian khá dài.

    Cuối cùng, bà là người lên tiếng trước. “Dù sao thì.” Bà kiên quyết đưa tay lau một giọt nước mắt đang lăn xuống trong khi tôi cố gắng tìm thứ gì đó để nói. “Nó đã nói về cháu khoảng chừng ba ngày trước khi nó mất. Nó đã đính hôn. Với một cô gái người Nhật.”

    “Không đùa chứ ạ? Thật sao?” Mặc dù rất buồn, nhưng tôi cũng không thể ngăn mình mỉm cười đôi chút: Andy đã chọn tiếng Nhật là ngôn ngữ thứ hai chính xác là vì cậu ấy có niềm hâm mộ những tác giả truyện tranh biết chiều lòng fan và hình ảnh những cô gái mặc đồng phục thủy thủ hở hang. “Cô gái người Nhật tới từ Nhật sao?”

    “Đúng vậy. Cô bé đó nhỏ xíu với cái giọng chói tai và một cuốn sách bỏ túi trông như con thú nhồi. À đúng rồi, ta đã gặp con bé,” bà nói với hàng lông mày nhướng lên. “Andy đã làm phiên dịch trong suốt buổi tiệc trà và bánh kếp ở nhà hàng Pierre. Con bé cũng tới lễ tang, tất nhiên – cô gái đó – tên là Miyako. Cách biệt văn hóa và nhiều vấn đề khác, nhưng quả không sai khi người ta nói người Nhật không biểu cảm nhiều.”

    Con chó nhỏ, Clementine, đã trèo lên và cuộn tròn người lại gần vai của bà Barbour, trông như cổ một chiếc áo lông thú. “Ta phải thú nhận là ta đang nghĩ tới việc nuôi thêm một chú chó nữa,” bà nói, đưa tay ra vỗ về con chó. “Cháu nghĩ sao?”

    “Cháu không biết nữa,” tôi nói, cảm thấy thật bối rối. Thật không giống bà Barbour chút nào khi xin ý kiến từ bất kì ai về bất cứ chuyện gì, huống chi còn là ý kiến của tôi nữa.

    “Ta phải khẳng định rằng chúng giúp ta cảm thấy rất nhẹ lòng, cả hai đứa. Người bạn cũ của ta Maria Mercedes de la Pereyra đã xuất hiện cùng hai chú chó chỉ một tuần sau đám tang, rất bất ngờ, hai chú chó con trong chiếc giỏ cài ruy băng, và phải nói là lúc đầu ta vẫn còn rất lưỡng lự, nhưng thật ra ta chưa từng nhận một món quà nào nhiều ý nghĩa đến vậy. Chúng ta chưa từng nuôi chó vì Andy. Nó dị ứng dữ lắm. Cháu nhớ mà.”

    “Vâng, đúng vậy.”

    Platt – vẫn mặc nguyên chiếc áo khoác bằng vải tuýt, túi áo rộng và to như để dành chỗ cho xác chim chết hay súng giả - đã quay trở lại phòng. Ảnh kéo ghế ra ngồi. “Vậy, Mẹ à,” ảnh nói, cắn môi dưới.

    “PlatypusVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.” Một sự im lặng đầy trang trọng. “Một ngày đi làm tốt chứ?”

    “Tuyệt mẹ ạ.” Ảnh gật đầu, như thể đang trấn an chính mình trước sự thật đó. “Rất rất bận đó mẹ.”

    “Nghe điều đó mẹ thấy vui lắm.”

    “Nhiều sách mới lắm. Có một quyển về Quốc hội Viên nữa.”

    “Một quyển nữa à?” Rồi bà quay sang tôi. “Còn cháu thì sao, Theo?”

    “Dạ?” Tôi đang mải nhìn ngắm cái núm nhỏ (hình chiếc tàu đánh cá) gắn trên nắp chiếc giỏ đan của bà, và nhớ về Andy tội nghiệp: làn nước đen, muối trong cổ họng, cậu sẽ thấy buồn nôn và sẽ giãy giụa. Cách chết kinh hoàng và dã man mà cậu ghét nhất. Vấn đề là tớ căm ghét mấy con thuyền.

    “Nói ta nghe. Dạo này cháu đã làm được gì rồi?”

    “Ừm, cháu mua bán đồ cổ. Hầu như là đồ nội thất của Mỹ.”

    “Không thể nào!” Bà thốt lên đầy khoái trá. “Nhưng thật hoàn hảo làm sao!”

    “Vâng - ở dưới khu Village. Cháu quản lý cửa hàng và việc mua bán. Đồng nghiệp của cháu…” tôi vẫn chưa quen nói kiểu này… “đồng nghiệp của cháu, James Hobart, ông ấy là thợ chế tác, thì lo phần sửa chữa. Lúc nào đó bà nên xuống khu của cháu và thăm thú.”

    “Ôi, nghe hay thật. Đồ cổ đó!” Bà thở dài. “ Cháu cũng biết là ta yêu thích những thứ cổ xưa mà. Ước gì mấy đứa nhỏ cũng quan tâm. Ta từng hi vọng ít nhất có một đứa sẽ thích.”

    “Thì luôn có Kitsey mà mẹ,” Platt nói.

    “Thật khó hiểu,” bà Barbour nói tiếp, như thể chưa từng nghe thấy câu nói của Platt. “Không có lấy một đứa mang gen nghệ thuật trong người. Không lạ sao? Mấy đứa nhóc thờ ơ đó, cả bốn đứa.”

    “Thôi cho cháu xin,” tôi nói bằng giọng bông đùa nhất có thể. “Cháu vẫn nhớ Toddy với Kitsey học được đàn piano. Còn Andy thì chơi cây violon Suzuki của cậu ấy đấy.”

    Bà xua tay phủ nhận. “Cháu biết ý ta là gì mà. Không có đứa nhóc nào là có mắt cảm nhận. Không biết cảm thụ tranh hay đồ trang trí hay bất kỳ cái gì trong số đó. Giờ thì…” một lần nữa bà lại nắm lấy bàn tay tôi… “khi cháu còn là một đứa trẻ, ta thường bắt gặp cháu đang xem xét mấy bức tranh treo ở hành lang. Cháu luôn đi tới thẳng những bức đẹp nhất. Bức vẽ cảnh Nhà thờ Frederic, rồi tác phẩm của Fitz Henry Lane và Raphaelle Peale, hay của John Singleton Copley – cháu biết đó, bức chân dung hình oval nhỏ xíu, vẽ cô gái đội mũ vành ấy?”

    “Đó là bức vẽ của Copley sao?”

    “Đúng thế đấy. Và ta vừa thấy cháu ngắm bức vẽ nhỏ của Rembrandt.”

    “Bức đó là của Rembrandt?”

    “Đúng. Có mỗi bức đó, bức vẽ cảnh rửa chân. Chỗ còn lại chỉ thuộc dạng thường. Mấy đứa con của ta đã sống cả đời với những bức tranh đó mà chưa bao giờ thể hiện một tí tẹo thích thú, phải không Platt?”

    “Con muốn nghĩ là bọn con giỏi ở những lĩnh vực khác hơn.”

    Tôi hắng giọng. “Cháu thực sự chỉ dừng lại để chào hỏi thôi mà,” tôi nói. “Thật tuyệt khi được gặp bà… khi được gặp hai người…” tôi vội thay đổi để cho cả Platt vào. “Cháu chỉ ước là hoàn cảnh gặp gỡ không éo le thế này.”

    “Cháu ở đây ăn tối nhé?”

    “Cháu xin lỗi,” tôi nói, cảm giác như đang bị dồn vào chân tường. “Cháu không thể, không thể là tối nay. Nhưng cháu thực sự muốn ghé qua thăm bà.”

    “Vậy cháu sẽ quay lại ăn tối vào một hôm khác chứ? Hoặc bữa trưa? Hoặc uống nước thôi?” Bà cười lớn. “Hoặc bất cứ điều gì cháu có thể làm.”

    “Chắc chắn là bữa tối rồi ạ.”

    Bà giơ má ra đòi một cái thơm, điều mà bà không bao giờ làm khi tôi còn bé, thậm chí bà còn chẳng làm với con cái mình.

    “Có cháu ở đây thật vui quá!” bà nói, đón lấy bàn tay tôi và áp vào mặt bà. “Giống như hồi xưa vậy.”


    iv.

    TRÊN ĐƯỜNG RA cửa, Platt còn cho tôi cái bắt tay kì lạ - nửa kiểu xã hội đen, nửa kiểu chiến hữu, nửa kiểu ngôn ngữ kí hiệu – đến mức tôi không biết bắt tay lại sao cho hợp. Tôi bối rối rút tay về và – khi không biết nên làm gì nữa – tôi bèn cụng nắm đấm với ảnh, trong đầu cảm thấy thật ngốc nghếch.

    “Này anh. May mà chúng ta gặp nhau trên phố,” tôi nói giữa cái im lặng đầy khó xử. “Gọi em sau nhé.”

    “Về chuyện ăn tối à? Dĩ nhiên rồi. Chúng ta có thể sẽ ăn ở nhà nếu có thể, Mẹ thực sự không muốn ra ngoài lắm.” Anh thọc tay sâu vào túi áo khoác. Thế rồi đột ngột ảnh nói: “Dạo này anh gặp cậu bạn Cable của em khá nhiều. Nhiều hơn mức anh cần quan tâm nữa. Nó sẽ vui nếu biết là anh đã gặp được em đấy.”

    Tom Cable sao?” tôi cười lớn, không tin nổi nữa, mặc dù đó cũng không hẳn là cười; kí ức tồi tệ ngày xưa vẫn khiến tôi thấy khó chịu trong người, những lần bọn tôi bị đình chỉ học cùng nhau và cách mà nó đã cự tuyệt tôi khi mẹ tôi mất. “Anh vẫn liên lạc với nó sao?”tôi hỏi khi không thấy Platt trả lời. “Bao năm qua em còn chẳng nghĩ về nó nữa.”

    Platt cười nhếch mép. “Phải thừa nhận là hồi xưa anh không thể tin nổi mấy đứa bạn của thằng bé đó lại chịu được một đứa ẻo lả như Andy,” ảnh nói trầm ngâm, vai tựa vào mép cửa. “Không phải là anh để ý. Có Chúa mới biết Andy lại cần một ai đó khiến nó ra khỏi vỏ ốc của mình.”

    AndripVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Android. Thằng đàn bà. Thằng mặt mụn. Bọt biển bĩnh ra quần.

    “Em không thấy thế à?” Platt nói giọng suồng sã khi hiểu nhầm cái nhìn trống rỗng của tôi. “Anh tưởng là em cũng nghĩ giống vậy. Cable là một đứa nghiện ngập khi còn đi học.”

    “Đó chắc là lúc sau khi em rời khỏi trường.”

    “Có thể.” Platt nhìn thẳng vào tôi, theo cái cách mà tôi không chắc là mình thích nó. “Mẹ anh chắc hẳn nghĩ rằng em là đứa miệng còn thơm mùi sữa, nhưng anh biết em là bạn của Cable. Và Cable thì là một tên ăn trộm.” Và ảnh cười khoái trá theo cái cách tưởng như đang mang Platt của ngày xưa trở lại. “Anh đã bảo Kitsey và Toddy phải khóa cửa phòng khi em tới ở để em không lấy cắp được thứ gì.”

    “Vậy mọi chuyện là thế hả?” bao năm qua tôi chẳng nghĩ gì về vụ con lợn tiết kiệm nữa.

    “Ý anh là, Cable”… ảnh ngước lên nhìn trần nhà. “Thấy không, anh đã từng cặp với em gái của Tom, Joey, quỷ thần ơi, cô ta cũng ghê gớm lắm.”

    “Đúng vậy.” Tôi vẫn nhớ rõ Joey Cable – mười sáu tuổi và ngực căng phồng – bước qua tôi lúc đó mới mười hai tuổi ngay hành lang căn nhà ở Hamptons trong khi cổ mặc chiếc áo phông tí xíu và chiếc quần đen bó sát.

    “Jo ướt át! Cổ có vòng ba bốc lửa. Còn nhớ những lần cổ khỏa thân đi quanh bồn tắm không? Dù sao thì, Cable. Ở Hamptons, trong câu lạc bộ của Bố anh, cậu ta bị bắt quả tang rạch tủ đồ trong phòng thay đồ, lúc đó còn chưa đầy mười ba tuổi. Chuyện đó xảy ra sau khi em rời đi đúng chứ, hả?”

    “Hẳn là vậy rồi.”

    “Những chuyện như vậy xảy ra ở vài câu lạc bộ ở vùng Hamptons. Trong giải đấu chẳng hạn – nó sẽ lẻn vào phòng thay đồ và ăn cắp bất cứ thứ gì vớ được. Rồi sau đó là lẻn cả vào trường đại học – nó ở đâu nhỉ, không phải Maidstone mà là – thôi bỏ đi, Cable có việc làm thêm mùa hè trong một câu lạc bộ, giúp việc ở quầy bar, đưa mấy gã say khướt về nhà. Nó đóng vai chàng trai thân thiện, nói chuyện có duyên – em biết mà. Nó sẽ gợi cho mấy lão kể lể về chuyện thời chiến hay thứ gì đó. Nó sẽ châm thuốc, sẽ cười khi họ kể chuyện cười. Ngoại trừ việc đôi lúc nó sẽ giúp mấy gã đi lên phòng và hôm sau ví của họ sẽ biến mất.”

    “Mấy năm rồi em còn chẳng thấy nó,” tôi nói cụt lủn. Tôi không thích giọng của Platt lúc này. “Mà giờ nó làm gì?”

    “Lại là mánh cũ thôi. Thật ra nó đôi lúc còn gặp gỡ em gái anh, mặc dù anh ước gì mình có thể ngăn chuyện đó. Dù sao thì,” ảnh nói, giọng có thay đổi chút ít, “giờ anh đang ở đây nói chuyện với em. Anh không thể chờ để kể với Kitsey và Toddy là anh đã gặp em – đặc biệt là Todd. Nó rất ấn tượng với em – nó vẫn nói về em suốt. Cuối tuần tới nó sẽ ở thành phố và anh biết là nó rất muốn gặp em.”


    v.

    THAY VÌ BẮT TAXI, tôi chọn đi bộ, để tiện suy nghĩ mọi thứ cho rõ ràng. Đang là một ngày mùa xuân ẩm ướt nhưng trong trẻo, từng đám mây đặc quánh bị vài tia nắng xuyên thủng và nhân viên văn phòng đang lũ lượt đi bộ trên vỉa hè, nhưng mùa xuân ở New York luôn là khoảng thời gian mệt mỏi đối với tôi, nó nhắc tôi nhớ lại cái chết của mẹ mình, giữa mùa hoa bồ công anh và chồi cây đua nở, vẫn luôn thường trực những ảo giác kinh hoàng (Thật tao nhã! Thật vui vẻ! như Xandra vẫn hay thốt lên). Nghe được tin về Andy giống như có ai vừa nhấn nút chụp x quang và biến mọi thứ thành màu âm bản, đến nỗi kể cả có ngập tràn hoa bồ công anh cùng những người dân dắt chó đi dạo và cảnh sát giao thông huýt còi ở góc đường, thì tất cả những gì tôi thấy đều là chết chóc: vỉa hè chất đầy xác người, thây ma đang tràn xuống từ xe buýt và bước về nhà, người họ chẳng còn gì trong suốt mấy trăm năm qua ngoại trừ mấy lỗ chân răng và những chiếc máy tạo nhịp tim, thêm vài mẩu quần áo rách và ít xương.

    Thật không thể nghĩ thông cho nổi. Tôi đã định gọi cho Andy hàng triệu lần mà lại không làm chỉ vì thấy xấu hổ; đúng là tôi không liên lạc gì với những mối quan hệ cũ nhưng dạo này tôi cũng đã vài lần tình cờ gặp những người bạn học cũ và cả bạn cùng trường Martina Lichtblau (năm ngoái tôi đã có một chuyện tình chớp nhoáng và không thỏa mãn cho lắm với cổ, tổng cộng ba lần hú hí bẩn thỉu trên cái ghế sofa cũ rích) – Martina Lichtblau đã từng nói tới cậu ấy, Andy đang ở Massachusetts, cậu còn liên lạc với Andy không, à ừ, một tên lập dị nhất quả đất ngoại trừ việc cậu ấy quan trọng hóa nó đến mức bây giờ phong cách đó lại có vẻ thật cổ và thật ngầu? Cặp kính đít chai? Áo len dày màu cam với kiểu đầu trông giống mũ bảo hiểm của Darth VaderVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link?

    Wow, Andy, tôi vừa nghĩ vừa lắc đầu một cách khoái trá tay với qua đôi vai trần của Martina để lấy một điếu thuốc của cổ. Lúc đó tôi đã nghĩ nếu gặp được cậu ấy thì tốt biết bao – đáng tiếc là cậu ấy đang không ở New York – có lẽ tôi sẽ gọi cậu ấy một lúc nào đó khi cậu ấy về nhà vào kỳ nghỉ.

    Nhưng tôi đã không làm vậy. Tôi không lên Facebook vì thấy nó lộn xộn quá và tôi cũng hiếm khi xem tin tức nhưng tôi vẫn không tưởng tượng nổi tại sao mình lại không biết chuyện của Andy – ngoại trừ việc, trong vài tuần gần đây, tôi phải lo nhiều chuyện với cái cửa hàng đến mức không nghĩ được tới những thứ khác nữa. Không phải chúng tôi gặp vấn đề tài chính – chúng tôi đã nhận tiền từ khách gần như liên tục, nhiều tiền đến mức Hobie, người coi tôi là vị cứu tinh (ông đang trên bờ vực phá sản) đã khăng khăng đòi tôi làm cộng sự, việc mà tôi không quá sốt sắng chấp nhận dựa trên hoàn cảnh hiện tại của mình. Nhưng nỗ lực từ chối của tôi chỉ khiến ông càng quyết tâm nghĩ rằng tôi nên được chia lợi nhuận; tôi càng gạt đi lời đề nghị thì ông càng kiên trì; với tính phóng khoáng thường thấy, ông nghĩ sự thận trọng của tôi là sự “khiêm tốn” mặc dù điều tôi thực sự lo là sự hợp tác này sẽ phanh phui những vụ việc không chính thống đang diễn ra trong cửa hàng này - những vụ việc mà khi Hobie tội nghiệp biết được, ông sẽ choáng váng đến mức đứng không nổi trên đôi giày John Lobb của mình. Thực tế là ông không biết. Tôi đã cố tình bán một món đồ giả cho khách, người khách này đã phát hiện ra và ổng đang làm loạn.

    Tôi không phiền khi phải hoàn lại tiền - thật ra, việc duy nhất tôi phải làm chỉ là mua lại món đồ đó và bị lỗ chút ít. Hồi xưa tôi vẫn làm trò này trót lọt. Tôi bán những thứ bị sửa chữa lắp ghép dưới cái mác đồ chính gốc; nếu - bước ra khỏi ánh đèn mờ trong tiệm Hobart và Blackwell - người sưu tập mang thứ đồ đó về nhà và phát hiện có thứ gì đó không đúng (“lúc nào cũng phải mang một cái đèn pin nhỏ bên mình,” Hobie đã khuyên tôi ngay từ khi bắt đầu công việc; “không phải tự nhiên mà mấy cửa hàng đồ cổ đều tối thui”) thì tôi - tỏ ra hối tiếc vì sự nhầm lẫn, trong khi vẫn cương quyết khẳng định món đồ đó là thật - sẽ lịch sự đề nghị được mua lại món đồ đó với giá cao hơn giá đã bán mười phần trăm, với điều kiện mua bán thông thường. Hành động này sẽ khiến tôi trở thành một chàng trai tốt bụng, tự tin vào chất lượng thật của sản phẩm mình bán và sẵn sàng làm mọi thứ để khách hàng được hài lòng, và thường là khách hàng sẽ dịu xuống mà quyết định giữ lại món đồ đó. Nhưng có khoảng ba hay bốn lần mà những người sưu tập đa nghi đồng ý với đề nghị của tôi: điều mà họ không nhận ra là món đồ giả đó – khi chuyển quyền sở hữu từ họ sang tôi với mức giá thể hiện đúng giá trị bề mặt của nó – qua một đêm sẽ trở thành món đồ có lai lịch rõ ràng. Một khi vào tay tôi, tôi sẽ làm đủ giấy tờ chứng minh nó từng thuộc bộ sưu tập Nào-Đó rất có tiếng tăm. Cho dù tôi phải bỏ thêm một khoản chênh lệch khi mua lại món đồ giả từ ngài Nào-Đó (thường là một diễn viên hay một nhà thiết kế thời trang thích sưu tập, chứ không có tiếng tăm cho lắm) tôi vẫn có thể quay qua bán lại món đồ đó với giá gấp đôi giá tôi mua lại, cho một gã tỉ phú phố Wall người không biết gì về đồ Chippendale từ Ethan Allen mà chỉ sung sướng với những “giấy tờ hợp pháp” chứng minh rằng cái bàn làm việc kiểu Duncan Phyfe hay đồ gì đó tới từ bộ sưu tập của ngài Nào-Đó, một nhà nhân chủng học/nhà thiết kế nội thất/thiên tài Broadway tiếng tăm lẫy lừng/điền tiếp vào chỗ trống.

    Và cho tới giờ mọi việc vẫn xuôi chèo mát mái. Chỉ có lần này, ngài Nào-Đó – trong trường hợp này là một gã đại bảnh bao ở khu Thượng Tây tên là Lucius Reeve - lại không cắn câu. Thứ làm tôi đau đầu là hắn dường như đang nghĩ rằng, A: hắn bị lừa có chủ đích, điều đó đúng, và, B: Hobie có tham gia vụ này, và thật ra ông là trùm đứng sau vụ lừa, điều này thì hoàn toàn sai lầm. Khi tôi cố gắng cứu vãn tình hình bằng việc khẳng định rằng lỗi này hoàn toàn là do tôi – hắng giọng, ngài hãy để tôi nói thật, ngài đã hiểu nhầm Hobie, tôi thiếu kinh nghiệm với công việc này và hi vọng ngài không giận dữ, công việc ông ấy làm luôn đạt chất lượng cao, ngài có thể thấy chẳng mấy khi xảy ra những nhầm lẫn thế này, đúng không ạ? – ngài Reeve (“Gọi tôi là Lucius”) một người đàn ông ăn mặc chỉn chu nhưng không rõ độ tuổi hay nghề nghiệp, dường như không gì có thể làm xiêu lòng. “Anh không phủ nhận rằng món đồ này được làm bằng bàn tay của James Hobart, đúng chứ?” hắn nói khi chúng tôi cùng ăn bữa trưa căng thẳng ở nhà hàng Harvard Club, hắn đang lười nhác tựa lưng vào ghế và ngón tay thì đang chạy theo vành ly soda của hắn.

    “Ngài nghe này…” tôi nhận ra, thật là một sai lầm khi hẹn gặp ở ngay lãnh địa của hắn, nơi mà hắn quen biết hết những người phục vụ, nơi mà hắn gọi đồ bằng giấy và bút chì, nơi mà tôi không thể tỏ vẻ hào hiệp mà gợi ý hắn thử món này món kia.

    “Anh cũng không phủ nhận rằng ông ấy đã cố ý mua lại bức tượng tạc hình phượng hoàng này từ một người tên Thomas Affleck, từ một người – đúng, đúng, tôi tin nó Affleck, Philadelphia hay cái gì đi nữa – và gắn nó lên trên món đồ cổ chính gốc này đồng thời cũng là một cái tủ gỗ xoàng xĩnh thuộc cùng một thời kỳ? Chúng ta không phải đang nói về cùng một món đồ đó chứ?”

    “Xin ngài hãy để tôi…” Chúng tôi ngồi ở một chiếc bàn gần cửa sổ, nắng đang chiếu thẳng vào mắt. Tôi đang đổ mồ hôi và thấy không thoải mái lắm…

    “Vậy làm sao anh chứng minh được vụ lừa đảo này không phải cố ý? Do ông ấy và cả anh nữa?”

    “Thưa ngài…” người phục vụ bàn đang lảng vảng xung quanh, tôi thực muốn anh ta đi chỗ khác… “là lỗi của tôi. Như tôi đã nói. Và tôi cũng đề nghị mua lại món đồ với giá cao hơn nên tôi không biết ngài còn muốn tôi làm gì nữa.”

    Cho dù giọng điệu rất bình tĩnh nhưng tôi lại đang chìm trong lo lắng, sự lo lắng không hề nguôi ngoai vì đã mười hai ngày trôi qua mà Lucius Reeve vẫn chưa ký nhận món tiền tôi chuyển cho hắn – tôi đã kiểm tra ngân hàng trước khi tình cờ gặp Platt.

    Thứ mà Lucius Reeve muốn, tôi không hề biết. Hobie đã làm việc với những món đồ bị tháo rời và hư hỏng nặng (mà ông vẫn gọi là “changelingsVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link”) hầu như suốt cả cuộc đời; nơi chứa đồ ở Kho Hải quân Brooklyn đã chen chúc những món đồ gắn thẻ từ ba mươi năm trước hoặc lâu hơn thế. Lần đầu tiên tôi tự mình tới đó và tìm kiếm, tôi đã sửng sốt khám phá ra thế nào mới là đồ Hepplewhite, đồ Sheraton thực sự, đây chính là cái hang chứa đầy kho báu của Alibaba – “Ôi Chúa ơi, không,” Hobie nói, giọng ông trong điện thoại nghe thảng thốt – cơ sở vật chất thì như cái nhà kho bỏ hoang, không có bàn lễ tân, tôi phải đi thẳng ra ngoài để gọi cho Hobie, đứng giữa lối đi gió thổi vù vù và phải bịt một tai lại mới nghe rõ – “tin ta đi, nếu món đó là thật thì ta đã gọi tới phòng Nội Thất ở tiệm Christie từ lâu rồi…”

    Từ nhiều năm nay tôi vẫn ngưỡng mộ những món đồ được Hobie sửa chữa và thậm chí còn giúp ông sửa một vài món, nhưng thật sốc khi tôi lại bị lừa bởi một món đồ chưa từng gặp qua trước kia mà (nếu dùng cụm từ cửa miệng của Hobie) nó khiến tôi không ngừng phỏng đoán. Đôi khi ở cửa hàng lại xuất hiện một thứ đồ có chất lượng đáng được trưng bày ở bảo tàng nhưng bị phá hủy đến nỗi không thể chữa nổi nữa; đối với Hobie, người luôn thương tiếc những món đồ cũ mà thanh tao như thể chúng là những đứa trẻ bị bỏ đói hay những chú mèo bị ngược đãi, thì ông tự coi nghĩa vụ của mình là phải giải thoát được những gì trong khả năng của mình (chóp đèn ở chỗ này hay những cái chân bàn cong ở chỗ kia) để rồi với tài năng thợ mộc của mình ông sẽ kết dính chúng thành một thứ đồ FrankensteinsVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đẹp đẽ mà có những lúc trông vô cùng đáng yêu nhưng lúc khác, chúng lại là những món đồ chất chứa tâm huyết của cả một giai đoạn lịch sử đến mức hoàn toàn khác biệt so với những thứ đồ chính gốc khác.

    Axit, sơn, sơn mạ vàng và muội than, sáp và bụi bẩn. Những chiếc đinh dính nước muối đã han gỉ. Nitric axit trên gỗ óc chó còn mới. Bản lề ngăn kéo bàn nhìn tơi tả sau khi bị chà bằng giấy ráp, một vài tuần đặt dưới ánh nắng mặt trời là thứ đồ gỗ mới sẽ có thêm một trăm năm tuổi. Từ năm cái ghế Hepplewhite đã hư hỏng ông có thể thiết kế một bộ tám chiếc cứng cáp và trông hoàn toàn là đồ thật bằng việc lấy ra những bộ phận chính gốc, sao chép chúng (dùng gỗ thừa từ những thứ đồ cùng giai đoạn nhưng đã bị hủy hoại) và ghép chúng lại, nửa là đồ cũ, nửa là đồ mới. (“Một cái chân ghế…” ông chạy dọc ngón tay theo nó… “thông thường ở phía dưới chúng sẽ bị xước và hơi móp méo – ngay cả khi dùng gỗ cũ thì cháu vẫn cần lấy dây xích mài những cái chân ghế mới cắt để chúng khớp với nhau… thật nhẹ thôi, ta đâu có bảo phải cào nó ra vậy… và mài theo những đường nét cố định nữa, chân ghế trước thì thường sẽ xước nhiều hơn chân ghế sau, thấy không?”) Tôi đã từng chứng kiến ông phục chế lại những mẩu gỗ thật từ chiếc tủ bát thuộc thế kỷ mười tám trong tình trạng gần-như-nát-bươm thành một chiếc bàn mà trông như được làm từ chính đôi tay của Duncan Phyfe. (“Được không nhỉ?” Hobe nói trong khi bồn chồn bước chân lùi về sau, có vẻ nhưng chưa hiểu mình đã tạo ra một kiệt tác.) Hay – như cái tủ gỗ “Chippendale”Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của Lucius Reeve - một thứ đồ xoàng xĩnh nhưng, vào tay ông cùng với sự trợ giúp của một số món trang trí từ những đống đồ bỏ đi thuộc cùng thời kỳ, nó có thể trở thành thứ khác biệt hẳn so với những kiệt tác khác.

    Một con người thực dụng và nhiều tham vọng sẽ biến những kĩ năng này thành món lợi bất tận và phát tài với nó (hay, như câu nói thẳng thắn của Grisha, “đi khách mạnh hơn năm con điếm cộng lại”). Nhưng theo những gì tôi biết, ý định bán những món đồ đã sửa như đồ chính gốc hay đơn giản là ý định bán chúng hình như chưa từng xuất hiện trong đầu Hobie; và sự không hứng thú của ông với những công việc diễn ra nơi cửa hàng đã cho tôi hoàn toàn tự do sắp xếp việc kinh doanh kiếm lời và quản lý đống hóa đơn. Với mỗi một chiếc sofa kiểu “Sheraton” và một bộ những chiếc ghế thắt ruy băng ở lưng mà tôi đã bán với mức giá của Israel SackVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link cho một cô vợ trẻ của một nhà đầu tư tài chính ở California, tôi đã có thể trả hết cả trăm ngàn đô tiền thuế còn nợ của ngôi nhà. Với một bộ bàn ăn và một cái tràng kỷ kiểu “Sheraton” nữa – bán cho một khách hàng ở ngoài thị trấn người mà đáng lẽ phải hiểu biết sáng suốt hơn nhưng lại bị choáng ngợp bởi danh tiếng của Hobie vàWelty – tôi đã trả hết nợ cho cửa hàng.

    “Thật là tiện lợi,” Lucius Reeve nói giọng thảnh thơi, “khi ông ấy để cậu lo hết việc kinh doanh? Khi ông ấy có xưởng để tạo ra những thứ đồ lừa đảo này nhưng lại hoàn toàn trong sạch vì cậu đã lo phần đem chúng đi bán?”

    “Ngài đã nhận được lời đề nghị của tôi. Tôi sẽ không ngồi đây nghe những lời này nữa.”

    “Vậy sao anh vẫn tiếp tục ngồi đây?”

    Tôi chắc chắn là Hobie sẽ vô cùng sửng sốt khi biết tôi đang thật sự bán những món đồ chế tác lại của ông. Vì một lí do, rất nhiều những món đồ do bản thân Hobie tạo nên thì thuộc hàng phổ biến với độ chính xác rất cao, hầu như là những món đồ quen thuộc với người trong nghề, và ông không quá khó tính về chất liệu mình dùng như những kẻ làm đồ giả vẫn thường ra vẻ. Nhưng tôi nhận ra sẽ rất dễ đánh lừa ngay cả những người mua có kha khá kinh nghiệm nếu tôi bán với giá rẻ hơn khoảng hai mươi phần trăm so với giá của món đồ chính gốc. Con người ta thích nghĩ rằng họ đang hời. Bốn trên năm lần họ sẽ bỏ qua những lỗi lặt vặt mà họ không muốn thấy. Tôi biết cách thu hút sự chú ý của họ vào những điểm đặc biệt của một món đồ, lớp gỗ ép dán bằng tay, lớp gỉ đồng tuyệt đẹp, những vết trầy xước đầy vẻ vang, chạy dọc ngón tay theo đường cong tinh xảo của chân ghế (thứ mà chính HogarthVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đã gọi là “đường cong quyến rũ”) để hướng những cặp mắt kia ra xa khỏi những chỗ đã được sửa chữa chút ít, những chỗ mà họ có thể thấy đường vân gỗ không thực sự khớp nhau nếu nhìn dưới ánh sáng đủ mạnh. Tôi thường không gợi ý khách nên kiểm tra mặt dưới của món đồ, như Hobie vẫn thường nhiệt tình đề nghị – ông thích việc truyền tải kiến thức, cho dù có thể phải trả giá bằng chính lợi ích của mình. Nhưng chỉ trong trường hợp người nào đó muốn nhìn qua, tôi phải đảm bảo chắc chắn rằng phần sàn nhà xung quanh món đồ rất, rất bẩn, và cái đèn pin nhỏ tôi tình cờ cầm trong tay thì tỏa ra ánh sáng rất, rất yếu. Có rất nhiều người lắm tiền ở New York cùng vô số những nhà trang trí nội thất gấp gáp về thời gian, những người mà nếu ta cho họ xem bức ảnh của một món đồ có dáng vẻ tương tự trong cuốn catalogue của một buổi đấu giá, họ sẽ thích chí nắm bắt ngay món hời mà họ đang thấy, đặc biệt là khi họ đang tiêu những tờ tiền của người khác. Một mánh khác - được tính toán để dụ những khách hàng khác, có phần sang trọng hơn – là chôn một món đồ ở phía sau cửa hàng, đổ hết đống bụi bẩn trong máy hút bụt lên đó (ngay lập tức thành đồ cổ!) và để người khách hàng tò mò tự mình khám phá ra nó – nhìn kìa, dưới lớp rác và bụi bẩn này, một cái tràng kỷ Sheraton! Với kiểu lừa này - kiểu mà tôi thấy rất hứng thú khi áp dụng - mấu chốt là phải tỏ vẻ ngu ngốc, nhàm chán, mọt sách, như thể tôi không nhận thức được mình đang sở hữu những thứ quý giá nhường nào, và để họ nghĩ họ đang lừa được tôi: ngay cả khi tay họ đã run lên vì sung sướng, ngay cả khi họ cố tỏ vẻ bình tĩnh trong khi lao tới ngân hàng để rút một khoản tiền mặt bự chảng. Nếu khách hàng là người có tầm quan trọng, hay quá quen thân với Hobie, tôi luôn có thể nói rằng món đồ này không phải để bán. Một câu ngắn gọn “không phải để bán” thường cũng là mở đầu mối quan hệ với những người khách lần đầu, vì nó không chỉ khiến khách hàng mục tiêu muốn giao dịch nhanh gọn bằng tiền mặt, mà nó cũng tạo điều kiện cho tôi hủy giữa chừng cuộc mua bán nếu có gì không ổn xảy ra. Hobie tình cờ đi lên tầng vào thời điểm không phù hợp chính là một tác nhân không ổn. Bà De Frees ghé qua cửa hàng không đúng lúc cũng chính là một thứ không ổn có thể, và đã, xảy ra – tôi đã phải hủy giao dịch ngay lúc gần như thỏa thuận xong, dù cho người vợ của một đạo diễn phim tỏ ra bực bội vì đã phải chờ đợi lâu, và cổ đã bước ra khỏi cửa hàng và không bao giờ quay lại nữa. Không có đủ ánh sáng hay thiết bị soi chiếu, hầu hết dấu vết sửa sang của Hobie không thể nhìn thấy bằng mắt thường; và cho dù ông có rất nhiều những nhà sưu tầm nghiêm túc ghé qua cửa hàng, thì cũng có rất nhiều người không hề biết, ví dụ như không có cái gương kiểu Nữ hoàng Anne như vậy từng được làm cả. Nhưng ngay cả khi một ai đó đủ sáng suốt để nhận ra sự không chính xác – có thể là một đường chạm khắc hay loại gỗ đã lỗi thời so với người tạo ra nó hoặc so với giai đoạn – tôi đã có lần đủ can đảm để nói át đi những điều như vậy: bằng việc khẳng định rằng món đồ được làm theo yêu cầu của một vị khách đặc biệt và do đó, chặt chẽ mà nói, nó có giá trị hơn những món đồ cùng loại thông thường.

    Trong trạng thái run rẩy và xúc động, tôi vô thức rẽ vào công viên và đi dọc xuống phía Hồ, nơi mà Andy và tôi từng ngồi vào những buổi chiều mùa đông hồi còn học tiểu học, chờ mẹ tôi tới đón hai đứa đi sở thú về hoặc đưa chúng tôi đi xem phim – điểm gặp gỡ, một nghìn bảy trăm giờ! Nhưng không may, giờ đây tôi lại thường ngồi đó phần nhiều là để chờ Jerome, gã đi xe đạp giao thuốc mà tôi đã đặt mua. Chỗ thuốc tôi lấy trộm của Xandra trong những năm qua đã đưa tôi vào con đường tội lỗi: oxy, roxy, morphineVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và DilaudidVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link bất cứ khi nào tôi cần, suốt mấy năm qua tôi đã mua chúng trên phố; vài tháng trở lại đây, tôi đã (hầu như) giữ bản thân mình theo một thời khóa biểu ngày-có-dùng, ngày-không-dùng (mặc dù cái gọi là “ngày-không-dùng” là dùng một lượng thuốc đủ nhỏ để không quay cuồng) nhưng mặc dù hiện đang là “ngày-không-dùng” tôi lại đang cồn cào ruột gan và chỗ rượu vodka uống với Platt đang dần hết tác dụng và mặc dù tôi biết rất rõ là mình không mang theo tiền, tôi vẫn tự dụ dỗ mình, bàn tay lùng sục một lượt nữa qua áo khoác ngoài và cả túi áo trong.

    Ở đại học tôi không đạt được gì đáng khen ngợi hay đặc biệt cả. Năm tháng ở Vegas đã khiến tôi không còn phù hợp với bất cứ hình thức nào của sự chăm chỉ; và khi cuối cùng tôi đã tốt nghiệp, ở tuổi hai mốt (tôi mất sáu năm thay vì bốn năm để hoàn thành nó), thì tôi cũng tốt nghiệp mà không có bất cứ thứ gì nổi bật. “Nói thật, thầy không thấy nhiều khả năng em sẽ được nhận vào chương trình thạc sĩ nào cả,” người cố vấn của tôi nói. “Đặc biệt là khi em đang dựa nhiều vào phần trợ giúp tài chính của trường.”

    Nhưng cũng ổn thôi; tôi biết thứ mình muốn làm. Công việc buôn bán đã bắt đầu khi tôi được khoảng mười bảy tuổi, lúc tôi tình cờ xuất hiện ở tầng trên vào một trong số những buổi chiều hiếm hoi mà Hobie quyết định mở lại cửa hàng. Trước lúc đó, tôi đã dần dần nhận ra vấn đề tài chính của Hobie; Grisha đã nói quá đúng về những hậu quả khôn lường nếu Hobie cứ tiếp tục chế tác đồ đạc mà không bán chúng. (“Ổng sẽ vẫn ở tầng dưới, tô vẽ, chạm khắc, cái ngày mà họ tới và dán lên cửa trước thông báo thu hồi nhà.”) Nhưng mặc dù nhiều phong bì từ IRS bắt đầu xuất hiện giữa những trang catalogue của tiệm Christie’s và tờ quảng cáo chương trình hòa nhạc trên bàn (Thông báo âm tài khoản, Nhắc nhở chậm nộp thuế, Thông báo lần hai về chậm nộp thuế) Hobie cũng không buồn mở cửa hàng được nổi nửa giờ trừ khi có bạn bè ghé thăm; và khi bạn ông ra về, ông cũng lùa hết khách hàng ra ngoài và khóa cửa hàng luôn. Hầu như mọi lần tôi đi từ trường về đều thấy biển hiệu “Đóng cửa” đã được trưng ra và vài người khách đang đứng nhìn ngó qua cửa sổ. Tệ nhất là khi ông cố mở cửa hàng được vài giờ nhưng lại thảnh thơi mà đi pha trà trong khi cửa mở toang và quầy thanh toán thì không có ai trông nom cả; mặc dù người vận chuyển Mike của ông đã tiên liệu trước mà khóa tủ trưng bày vàng bạc đá quý nhưng vài thứ đồ pha lê và sành sứ đã không cánh mà bay còn tôi, vào một hôm đẹp trời tình cờ lên tầng đã phát hiện một bà mẹ trẻ mặc thường phục, trông như vừa ở phòng tập gym về, đang tuồn một cái chặn giấy vào túi xách.

    “Cái đó đáng giá tám trăm năm mươi đô,” tôi nói, và cổ chết đứng khi nghe thấy giọng tôi, mắt nhìn lên đầy kinh sợ. Thật ra nó chỉ có một trăm đo, nhưng cổ đưa tôi thẻ tín dụng của cổ mà không một lời thắc mắc và giúp tôi nâng cao doanh thu cửa hàng – có lẽ là phi vụ mua bán có lời đầu tiên kể từ sau khi Welty qua đời; vì những người bạn của Hobie (cũng là những khách hàng chính) thường biết quá rõ rằng họ có thể mặc cả xuống mức giá gần như cho không trong khi giá gốc đã quá thấp rồi. Mike, người thỉnh thoảng giúp đỡ cho cửa hàng, thì tăng giá bừa bãi và miễn mặc cả, do đó chẳng bán được mấy.

    “Tốt lắm!” Hobie đã nói vậy với đôi mắt hấp háy vui mừng dưới ánh sáng hắt ra từ đèn bàn, khi tôi xuống xưởng thông báo với ông về món hời tôi vừa bán được (một cái ấm trà bằng bạc, theo kiểu của tôi; tôi không muốn nó có vẻ như tôi lừa đảo trắng trợn người phụ nữa đó, hơn nữa tôi cũng biết ông không hứng thú với những thứ mà ông cho là nhỏ bé, mà sau khi đọc qua sách về đồ cổ, tôi đã hiểu rằng chính tính cách đó đã tạo nên đống tồn kho khổng lồ của cửa hàng này.) “Vị khách này tinh ý ghê. Welty chắc sẽ coi cháu như đứa trẻ mà ông có cơ may nhặt được trên bậc cửa, ha! Vì đã thích thứ đồ bằng bạc của ổng!”

    Từ đó trở đi, tôi bắt đầu có thói quen mỗi buổi chiều ngồi ở cửa hàng tầng trên với đống sách học ở trường trong khi Hobie bận rộn ở xưởng tầng dưới. Lúc đầu thì chỉ để cho vui – niềm vui không thể tìm thấy trong cái cuộc đời sinh viên nhàm chán này, những tách cà phê ở căng tin và những bài giảng về Walter Benjamin. Kể từ cái chết của Welty, tiệm Hobart và Blackwell rõ ràng đã mang tai tiếng là địa điểm ưa thích của lũ trộm cắp; và cảm giác hồi hộp khi lấy được tiền từ những kẻ trộm ăn mặc bảnh bao, bòn rút những khoản kếch xù từ họ cũng gần giống như trộm cắp theo chiều ngược lại.

    Nhưng tôi cũng học được một bài học: bài học đó không chỉ ngấm vào tôi từng chút một mà nó còn là sự thật đúng đắn nhất trong kinh doanh. Nó là bí mật không ai nói cho bạn biết, là thứ mà bạn phải tự mình học hỏi: nói một cách khác, rằng trong mua bán đồ cổ, không có gì gọi là giá “đúng”. Giá trị khách quan – giá trị được kê khai trên danh sách – chẳng có nghĩa lý gì. Nếu một khách hàng tới không chủ đích và có tiền trong tay (như họ vẫn thường vậy) thì không cần biết sách dạy gì, chuyên gia nói gì, những vật tương tự ở tiệm Christie bán giá bao nhiêu. Một món đồ - bất cứ món đồ nào – sẽ có giá là mức giá một người khách có thể trả cho nó.

    Vậy nên, tôi bắt đầu đi quanh cửa hàng, bỏ đi một vài cái nhãn giá (để khách hàng phải tới hỏi tôi giá tiền) và thay đổi một vài cái nhãn khác – không phải tất cả, nhưng là một số cái. Trò lừa ở đây, tôi đã phát hiện ra sau vài lần thử và sai sót, là phải giữ nguyên giá ít nhất một phần số món hàng và tăng giá phần còn lại, đôi khi khoảng bốn đến năm phần trăm. Bao nhiêu năm bán với mức giá thấp không tưởng đã xây dựng cho cửa hàng một cơ số những khách hàng trung thành; giữ nguyên mức giá thấp của một phần tư số món hàng khiến họ tiếp tục trung thành, và đảm bảo rằng những người chuyên săn đồ rẻ vẫn có thể mua được đồ, nếu họ biết tìm. Việc giữ nguyên giá cũng có nghĩa là, bằng một vài thủ thuật giả kim đơn giản, những mức giá tăng lên cũng có vẻ hợp lý nếu được đem đi so sánh: vì một vài lý do, người ta có xu hướng bỏ ra một ngàn năm trăm đô mua một cái ấm sứ Meissen nếu nó được đặt cạnh một cái cùng loại đơn giản hơn (đúng loại, nhưng rẻ) mà giá chỉ vài trăm đô.

    Đó là cách mọi việc bắt đầu; đó là cách mà tiệm Hobart và Blackwell, sau những năm tháng suy tàn, đã bắt đầu thu được lợi nhuận dưới sự bảo trợ quý giá của tôi. Nhưng mọi chuyện không chỉ vì tiền. Tôi thích trò chơi này. Không giống Hobie – người luôn lầm tưởng rằng bất cứ ai bước chân vào cửa hàng của ông thì đều yêu thích đồ nội thất như ông, người luôn vô cùng thật thà trong việc chỉ ra những ưu điểm và cả khuyết điểm của một món đồ - tôi nhận ra mình lại sở hữu tính cách trái ngược: làm người khác ngu muội đầu óc bằng những điều bí ẩn, khả năng nói về những món đồ theo cách làm cho người ta muốn có nó. Khi bán một món đồ, chào hàng (thay vì ngồi một chỗ chờ những kẻ ngây thơ sa vào bẫy tôi đặt sẵn) đúng thực là một trò chơi khi đánh giá từng khách hàng và hình ảnh mà họ muốn tạo dựng – không giống như chính con người họ (nhà thiết kế nội thất biết-tuốt? bà nội trợ ở New Jersey? người đàn ông đồng tính ý thức rõ về mình?) mà là con người mà họ muốn trở thành. Kể cả khi đó chỉ là cái vẻ ngoài giả tạo; mọi người đều muốn chăm chút cho cái sàn diễn ấy. Mẹo là phải gắn bản thân bạn vào nó, vào hình ảnh ảo của bản thân – những chuyên gia, những con người thượng lưu xa hoa – thay vì hình ảnh một kẻ luôn bất an đang đứng trước mặt bạn. Sẽ tốt hơn nếu bạn chậm lại một chút và đừng nói chuyện quá thẳng thắn. Tôi dần học được cách ăn mặc (lai giữa kín đáo và sang trọng) và cách tiếp chuyện những khách hàng hiểu biết và không hiểu biết, với các mức độ lịch sự và biếng nhác khác nhau: phỏng đoán về độ hiểu biết của cả hai nhóm khách, nhanh nhẹn tâng bốc, nhanh mất hứng hoặc bỏ đi đúng lúc.

    Vậy mà, với tên Lucius Reeve này, tôi lại làm hỏng việc. Tôi không biết hắn muốn gì nữa. Thật ra là hắn không ngừng gạt đi những lời xin lỗi của tôi và chuyển hướng giận dữ sang Hobie nhiều đến nỗi tôi bắt đầu nghĩ rằng tôi đã đụng tới một nỗi ghét bỏ hay hận thù sẵn có bên trong hắn. Tôi không muốn tự lật mặt mình khi nói Hobie biết về gã Reeve này, mặc dù ai lại có thể ghét Hobie đến vậy, một con người thiện chí và tốt bụng nhất? Dữ liệu tôi tìm trên mạng chẳng có gì ngoài vài dòng chữ vô hại trên mấy trang xã hội, cả chữ Harvard hay hội viên Harvard Club cũng chẳng có, chẳng có gì ngoài một địa chỉ sang trọng trên Đại lộ Năm. Hắn không có gia đình, theo như tôi tìm thấy, không công việc hay một sự hỗ trợ nào. Tôi thật ngu khi viết séc cho hắn – tôi đã quá tham lam; tôi đã nghĩ tới việc tự tạo ra nguồn gốc cho món đồ đó, mặc dù vào thời điểm này thì ngay cả đặt phong bì tiền vào khăn tay và tuồn qua bàn cho hắn thì hắn cũng không dễ gì bỏ qua.

    Tôi đứng đó, tay nắm lại trong túi áo khoác ngoài, kính đã mờ hơi nước từ khí ẩm của mùa xuân, mắt tôi nhìn đăm đăm vào làn nước bùn trong Hồ: vài con vịt buồn bã, mấy cái túi ni lông mắc vào đám cây cỏ. Hầu như băng ghế nào cũng khắc tên người tặng – tưởng nhớ bà Ruth Klein hay một ai đó – nhưng cái ghế mẹ tôi vẫn ngồi, Điểm Gặp Gỡ ấy, lẻ loi giữa hàng loạt những băng ghế khác khi người hiến tặng vô danh đã đeo cho nó một thông điệp: KHÔNG GÌ LÀ KHÔNG THỂ. Nó đã từng là GHẾ CỦA MẸ từ ngày tôi sinh ra; lúc bà mới tới thành phố này, bà đã ngồi đó đọc những cuốn sách mượn từ thư viện vào những buổi chiều được nghỉ làm, đi mà không ăn trưa khi bà cần tiền mua vé vào cửa Bảo tàng Nghệ Thuật Đương Đại hay mua vé xem một suất chiếu phim tại rạp Paris. Xa hơn chút nữa, qua Hồ, nơi lối đi tối hơn và vắng người qua lại, là bãi đất trống trải và hoang sơ nơi Andy và tôi đã rải tro của mẹ xuống đó. Chính Andy là người bảo tôi cùng lẻn ra ngoài đi rải tro, thách thức luật lệ của thành phố, nhưng chúng tôi rải tro của mẹ nhiều nhất ở chính khu đất đó: thì, đó là nơi mẹ cậu vẫn thường hẹn gặp bọn mình mà.

    Ừ, nhưng có thuốc diệt chuột đấy, nhìn đi, có biển báo kìa.

    Nhanh lên. Làm đi. Không có ai đâu.

    Mẹ cậu, cô ấy cũng thích mấy bức tượng sư tử biển nữa. Mấy người chúng ta lúc nào cũng phải đi qua đó ngắm chúng.

    Ừ nhưng chắc chắn cậu không muốn rải tro của mẹ mình ở chỗ đó đâu, toàn mùi cá không à. Mà mình cũng thấy sợ sợ khi để cái hũ đó hay thứ gì đại loại thế ở trong phòng mình.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Bức tranh của danh họa Nicholas Poussin được vẽ vào năm 1657 hoặc 1658.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Bức tranh của danh họa Rembrandt, dựa trên một sự kiện Jacob vật nhau với một thiên thần trong Sách Sáng Thế (cuốn đầu của Kinh Cựu Ước)

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Biển duy nhất trên thế giới mà không có đường bờ biển. Nó nằm giữa vùng Bắc Đại Tây Dương và được bao quanh bởi các dòng hải lưu.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một trong những nhà thiết kế nội thất tiêu biểu ở Mỹ trong thế kỉ mười chín. Ông không sáng tạo ra phong cách mới nhưng đã góp phần đưa phong cách nội thất châu Âu vào Mỹ.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Nghĩa là thú mỏ vịt.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Ghép tên Andy với từ “drip” nghĩa là người ẻo lả.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một nhân vật trong phim Chiến tranh giữa các vì sao.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkNhững đứa trẻ thay thế (trong truyện ngụ ngôn)

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một nhân vật trong phim kinh dị cùng tên. Ý nhân vật là việc Hobie ghép nối các bộ phận của đồ đạc với nhau có đôi chút kì dị.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Người viết dùng ngoặc kép ý nói món đồ được làm nhái chứ không chính gốc là phong cách đó.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một nhà môi giới mua bán đồ cổ nổi tiếng ở Mỹ vào thế kỷ hai mươi, người kế thừa tập đoàn kinh doanh về đồ cổ với nhiều khách hàng nổi tiếng.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link William Hogarth(1697-1764): một họa sĩ, biên tập tranh biếm họa tài năng, người tiên phong học hỏi nghệ thuật làm phim hoạt hình từ phương Tây

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Ba loại đều là thuốc giảm đau gây buồn ngủ

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một loại thuốc giảm đau có tính gây mê
     
  12. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    vi.

    “THÁNH THẦN ƠI,” HOBIE NÓI khi ông nhìn tôi dưới ánh đèn. “Cháu trắng bệch như cái ga trải giường. Không ốm đau gì đấy chứ?”

    “Ừm…” Ông đang chuẩn bị ra ngoài, áo khoác vắt trên cánh tay; phía sau là ông bà Vogel, quần áo chỉnh tề, môi nở nụ cười nham hiểm. Mối quan hệ của tôi với nhà Vogel (hay “nhà VultureVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link,” như Grisha vẫn gọi) đã giảm nhiệt, kể từ khi tôi một tay quản lý cửa hàng; để ý thấy họ đang sở hữu cũng như mua rẻ được của Hobie nhiều món đồ tốt nên tôi đã dán mác bổ sung tăng giá lên bất cứ món đồ nào mà tôi ngờ ngợ rằng họ đang thích; và mặc dù ông bà Vogel – không phải hạng ngốc – đã gọi điện trực tiếp cho Hobie, thì tôi vẫn có thể dập tắt khiếu nại của bà Vogel bằng cách nói với Hobie rằng thực ra món đó tôi đã bán được nhưng quên dán thông báo đã bán.

    “Cháu ăn gì chưa?” Hobie, với chất giọng quan tâm êm ái và vô lo vô nghĩ, vẫn hoàn toàn không biết rằng nhà Vogel và tôi chẳng coi nhau ra gì nữa ngoại trừ vì phép xã giao lịch sự. “Bọn ta đang định xuống phố ăn tối. Đi với bọn ta luôn.”

    “Dạ thôi, cám ơn ông,” tôi nói, để ý thấy ánh mắt tỏ rõ vẻ chán ngấy của bà Vogel đang xói thẳng vào tôi, nụ cười gian dối vô cảm, mắt nheo lại bé còn bằng mẩu mã não trên cái gương mặt láng mịn của những cô gái nông trang vắt sữa bò nhưng đang già đi. Tôi buộc mình phải vui vẻ đứng dậy và đáp lại bằng một nụ cười – nhưng dưới ánh đèn lạnh ngắt ở phòng khách tôi cảm thấy người nhũn ra và không còn chút sức lực, như vừa bị ai đè bẹp dí. “Ừm, chắc tối nay cháu ăn ở nhà thôi, cám ơn mọi người.”

    “Không khỏe à?” ông Vogel hỏi bằng giọng đều đều – người đàn ông hói đầu tới từ phía tây đất nước đeo cặp kính không vành và đầy vẻ nghiêm trang với cái áo khoác dạ hải quân của mình, bạn thực sự tới số rồi nếu ổng là nhân viên ngân hàng còn bạn là người chậm trả khoản vay. “Chán thật.”

    “Rất vui được gặp cháu,” bà Vogel nói, bước tới trước và đặt bàn tay tròn trịa lên cánh tay tôi. “Gặp Pippa cháu vui không? Ước gì ta cũng được gặp con bé nhưng nó bận bịu với anh bạn trai quá. Cháu thấy anh chàng đó thế nào… tên cậu ấy là gì ấy nhỉ…?” rồi bả quay qua Hobie. “Elliot?”

    “Everett,” Hobie nói giọng không cảm xúc. “Một chàng trai tốt.”

    “Vâng,” tôi nói, quay người qua để rũ bỏ cái thứ ở trên áo khoác của mình. Sự xuất hiện của Pippa khi vừa xuống máy bay từ London cùng với anh chàng “Everett” này chính là một trong những cú sốc khủng khiếp nhất đời tôi. Đếm từng ngày, từng giờ, mất ngủ vì háo hức, không thể ngăn mình cứ năm phút lại nhìn đồng hồ một lần, nghe tiếng chuông cửa là nhảy dựng lên và thực sự chạy tới để mở toang cánh cửa – và cô ấy đứng đó, tay trong tay với gã người Anh xấu xí?

    “Và cậu ấy làm gì ấy nhỉ? Cũng là nhạc công à?”

    “Thật ra là trông coi cái thư viện âm nhạc,” Hobie nói. “Không biết ngày nay cái nghề đó làm gì nữa, khi mà đầy rẫy máy tính và các thứ rồi.”

    “Ồ, tôi chắc chắn là Theo biết đấy,” bà Vogel nói.

    “Không, cũng không hẳn đâu ạ.”

    “Gọi là thủ thư điện tử à?” ông Vogel nói, với một cái cười khẩy thích thú không giống kiểu của ông chút nào. Rồi quay qua tôi: “Liệu người ta có đúng không, khi nói bọn trẻ ngày nay có thể học qua các cấp độ mà không cần đặt chân vào thư viện một lần nào?”

    “Cháu không rõ.” Một thủ thư âm nhạc! Tôi phải rất nỗ lực mới có thể giữ cho mặt mình bình thản (chỉ một cái nhăn mặt thôi là chấm hết) để chấp nhận cái bắt tay kiểu Anh từ bàn tay ẩm ướt của cậu ta, Xin chào, Everett, chắc cậu là Theo, tôi nghe nhiều về cậu lắm, blah blah blah, trong khi tôi chết đứng ở cửa như đang nhìn trân trân vào kẻ lạ mặt vừa rút dao đâm mình một cú chí mạng. Cậu ta mảnh khảnh, đôi mắt mở to, ngây thơ, đơn giản, lúc nào cũng lạc quan đến phát bực, mặc quần jeans và áo nỉ như lũ thiếu niên; và kiểu cười trừ rất nhanh nhẹn của cậu ta khi chúng tôi ngồi với nhau trong phòng khách chỉ khiến tôi thêm bực mình.

    Mỗi giây phút họ ở đây đều như tra tấn. Đôi khi tôi cũng chịu đựng được. Mặc dù tôi đã cố gắng tránh xa họ nhiều nhất có thể (tôi rất điêu luyện khi đánh lừa người khác nhưng vẫn khó có thể xã giao với cậu ta; mọi thứ ở cậu ta, cái nước da hồng hào, nụ cười rụt rè, mấy cọng tóc thò ra sau gáy áo len, đều khiến tôi muốn nhảy bổ vào mà đấm rơi mấy cái răng thỏ kia; tôi chợt nghĩ, khi nhìn vào gương mặt đối diện của cậu ta bên kia bàn, rằng liệu có đáng ngạc nhiên không nếu mấy người buôn đồ cổ lập dị lại thấy thích và đổ xô đến mà nựng nịu cậu ta?) thì, dù đã cố lắm rồi, tôi vẫn không thể nào tránh xa khỏi Pippa được, tôi đã lảng vảng như một kẻ đáng ngờ và tôi ghét bản thân mình vì đã làm vậy, tôi đã thấy vừa vui sướng vừa khổ sở khi có cô ấy thật gần: vào bữa sáng được thấy bàn chân và bắp chân trần của cổ, giọng nói cổ. Tình cờ thấy phần dưới cánh tay trắng muốt khi cổ cởi áo len chui đầu. Sức nặng bàn tay cổ ấy đặt lên cánh tay tôi. “Này, cậu kia. Chào cậu.” Cổ xuất hiện phía sau tôi, bịt mắt tôi bằng đôi bàn tay: ngạc nhiên chưa! Cổ muốn biết mọi điều về tôi, mọi điều mà tôi đang làm. Lẩn vào ngồi cạnh tôi trên cái ghế dài từ thời Nữ hoàng Anne để chân chúng tôi chạm nhau: ôi Chúa ơi. Tôi đang đọc cái gì? Cổ có thể liếc qua cái iPod của tôi không? Tôi lấy đâu ra cái đồng hồ đeo tay trông hay thế? Mỗi lần cổ cười với tôi là một lần Thiên Đường hiện ra trước mắt. Thế nhưng mỗi lần tôi nghĩ ra cái cớ để có cổ cho riêng mình thì cậu ta lại xuất hiện, đập cửa thùm thụp, nụ cười ngô nghê, cánh tay vòng qua vai cổ, phá hoại tất cả. Cuộc nói chuyện ở phòng bên cạnh, những đợt cười lớn không dứt: họ đang nói chuyện về tôi sao? Đặt tay lên eo cổ! Gọi cổ là “Pips!” Khoảnh khắc vui vẻ nhất khi có mặt cậu ta ở đây có lẽ là khi Popchik – già rồi nên rất đề phòng – đã bất thình lình chồm lên và cắn vào ngón tay cái của cậu ta – “ôi lạy Chúa tôi!” Hobie vội vàng đi tìm cồn, Pippa lo lắng, Everett cố tỏ ra bình tĩnh nhưng rõ ràng là đang hoảng loạn: hẳn rồi, loài chó tuyệt mà! Tôi yêu chúng! Chúng tôi chẳng bao giờ nuôi là vì mẹ tôi bị dị ứng. Cậu ta có “mối quan hệ tồi” (cụm từ cậu dùng) của một người bạn cùng trường cũ với cổ; mẹ là người Mỹ, có nhiều anh chị em, bố cậu ta dạy một môn nào đó khó hiểu liên quan đến toán học/triết học hay gì đó; giống cô ấy, cậu ta là người ăn chay “gần đạt tới ăn chay trường;” thật buồn nhưng dường như hai người họ đang cùng ở trong một căn hộ (!) – tất nhiên là cậu ta phải ngủ trong phòng cổ khi ở đây; và trong năm đêm, suốt khoảng thời gian họ ở đây, tôi đã nằm trằn trọc, lòng tràn ngập giận dữ và cả đau khổ, tai dựng đứng lên cố nghe từng tiếng ga giường sột soạt, từng tiếng thở hay thì thầm ở phòng bên cạnh.

    Nhưng – vẫy tay chào tạm biệt Hobie và nhà Vogel, mọi người đi vui vẻ! rồi lại quay lưng vào trong nhà – tôi còn có thể mong chờ gì nữa đây? Giọng nói thận trọng, nhẹ nhàng của cổ đã đi theo tôi suốt, đã khiến tôi bực tức và thấy đau tận xương tủy “Everett” – “không,” tôi lịch sự nói, khi cổ hỏi tôi liệu tôi có trông thấy ai đó không, “không hẳn,” mặc dù (tôi mang máng nhớ mình đã từng thấy tự hào về điều này) thật ra tôi đã ngủ với hai cô gái khác nhau, không ai biết về người kia. Một người có bạn trai ở thành phố khác còn người kia thì có một vị hôn phu mà cô ta chán ngấy, những cuộc gọi từ anh ta sẽ bị tắt khi chúng tôi ở trên giường với nhau. Cả hai người bọn họ đều đáng yêu và người có vị hôn phu mọc sừng kia thì thực sự xinh đẹp – một Carole LombardVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link thời trẻ - nhưng không ai trong số họ là thực sự dành cho tôi; họ chỉ là người tạm thế chỗ cho cô ấy mà thôi.

    Tôi tự giận bản thân mình về những cảm xúc mình có. Ngồi đó mà “tan vỡ cõi lòng” (không may là trong đầu tôi chỉ nghĩ tới từ này) thì thật là ngu ngốc, thật ủy mị, yếu đuối và đáng khinh – ô kìa, cổ ở London, cổ đang cặp với kẻ khác, phải đi làm vài chén rồi lên giường với Carole Lombard, thế là xong. Nhưng ý nghĩ về cô ấy cứ khiến tôi thấy đau đớn không tài nào quên được như bị một cái răng đau vậy. Cảm giác không thể kiểm soát được, vô vọng, bí bách. Trong hàng năm trời, cổ là điều đầu tiên tôi nhớ tới khi thức dậy, là điều cuối cùng trôi qua tâm trí tôi trước khi đi ngủ, và giữa ban ngày cổ cũng sẽ bất chợt hiện ra đầy phiền phức và ám ảnh, lúc nào cũng khiến tôi sốc: giờ này là mấy giờ ở London nhỉ? Lúc nào cũng cộng cộng trừ trừ, tính khoảng thời gian chênh lệch, tự bắt mình kiểm tra thời tiết London trên điện thoại, 53 độ F, 10:12 tối và mưa nhẹ, tôi đứng ở góc đường Greenwich giao với Đại lộ Bảy ngay gần nhà thờ Thánh Vincent cũ kĩ, chuẩn bị xuống phố gặp đối tác mua bán, còn Pippa thì sao, cổ đang ở đâu? Ở ghế sau xe taxi, ra ngoài ăn tối, uống với những người tôi không biết, nằm ngủ trên chiếc giường mà tôi chưa bao giờ thấy? Tôi rất muốn được xem những bức hình chụp căn hộ của cô ấy, để có thể thêm một vài chi tiết cần thiết vào trí tưởng tượng của tôi, nhưng lại ngại không dám hỏi. Tôi đột nhiên nghĩ tới những tấm ga trải giường ở phòng cổ, chúng sẽ trông ra sao, tôi vẫn tưởng tượng ra một màu tối như màu sơn phòng kí túc xá, nhăn nheo, không được giặt thường xuyên, một cái xó nhỏ cho tụi sinh viên, đôi má tàn nhang của cổ áp nhẹ lên chiếc gối màu nâu đỏ hoặc màu tía, cơn mưa xứ Anh Quốc vỗ nhẹ lên cửa sổ. Những tấm hình của cô ấy, dọc hành lang ngoài phòng ngủ của tôi – hình ảnh của nhiều Pippa khác nhau, ở nhiều độ tuổi – chính là sự hành hạ mỗi ngày với tôi, luôn bất ngờ và mới mẻ; nhưng mặc dù tôi đã cố giữ đôi mắt mình nhìn hướng khác thì dường như tôi luôn tình cờ ngước nhìn lên đúng lúc cổ đang ở đó, đang cười trước câu chuyện đùa của người khác hay mỉm cười với ai đó không phải tôi, nó luôn là một nỗi đau mới nguyên, một cú hích thẳng vào tận tim.

    Và điều lạ lùng là: tôi biết hầu hết mọi người không nhìn cổ như cách tôi vẫn nhìn – dù là với bất cứ điểm gì, họ đều thấy dáng đi cổ hơi kì khi cổ mặc trang phục không phải váy và cái nước da xanh xao đi với mái tóc đỏ thật đáng sợ. Dù có là ngốc nghếch thì tôi vẫn tự huyễn hoặc bản thân rằng tôi là người duy nhất trên thế giới thực sự trân trọng cô ấy – rằng cổ sẽ thấy sốc và cảm động và thậm chí sẽ có cách nhìn nhận khác về bản thân mình nếu cổ biết tôi thấy cổ đẹp dường nào. Nhưng điều này chẳng bao giờ xảy ra. Tôi hậm hực bèn đi tìm những khiếm khuyết của cổ, cố tình nhìn vào những bức hình lúc cổ ở những độ tuổi kì quặc và chụp ở những góc kém duyên nhất – mũi dài, gò má xương xẩu, đôi mắt cổ (dù mang màu sắc khiến con tim rung động) trông thật trơ trọi với mí mắt xanh xao – kiểu nhạt nhòa của Huck-Finn. Thế nhưng những điểm này – với tôi mà nói – lại thật mỏng manh và đặc biệt tới mức chúng càng đẩy tôi tới bờ vực tuyệt vọng. Với một cô gái xinh đẹp tôi có thể tự an ủi rằng cổ vượt quá tầm với của tôi; rằng tôi đã bị ám ảnh và phát cuồng – một cách đáng lo ngại – ngay cả với sự giản dị của cô ấy, một tình yêu gắn kết hơn sự hấp dẫn thể xác, một lỗ hổng trong tâm hồn nơi tôi vẫn ngụp lặn và cố tình trốn tránh suốt mấy năm qua.

    Vì ở nơi sâu nhất, vững vàng nhất trong tôi thì lý trí cũng vô dụng. Cô ấy như là một vương quốc đã mất, một phần vẹn nguyên mà tôi đã đánh mất khi không còn mẹ bên mình. Mọi thứ về cổ đều là sự hứng khởi chực ập đến như cơn bão tuyết, từ những tấm thiệp valentine cổ điển và những chiếu áo khoác thêu tay từ kiểu Trung Hoa mà cổ sưu tầm cho tới chai nước thơm nhỏ xíu cổ mua từ tiệp Neal’s Yard Remedies; cuộc sống xa xăm đầy bí ẩn của cô ấy luôn chất chứa thứ gì đó tươi sáng và ma thuật: Vaud Suisse, số 23 đường Tombouctou, Blenheim Crescent W11 2EE, những căn phòng đủ đầy ở những đất nước tôi chưa từng nhìn thấy. Rõ ràng cậu Everett này (“nghèo rớt mồng tơi” – nguyên văn lời cậu ta) đang sống dựa vào tiền bạc của cổ, thực ra là tiền từ ông bác Welty của cổ thì đúng hơn, nếu nói đúng như những gì tôi đã viết trong bài về Henry James vào cuối kỳ học thì sẽ là kiểu một gã người châu Âu dày dạn đi săn những cô gái trẻ người Mỹ).

    Liệu tôi có nên viết cho cậu ta một tấm séc để hắn buông tha cô ấy? Khi tôi ngồi một mình trong cửa hàng, vào những buổi chiều mát mẻ chầm chậm trôi, suy nghĩ đó chợt lóe lên trong đầu: năm mươi ngàn nếu cậu đi luôn trong tối nay, một trăm ngàn nếu cậu không bao giờ gặp lại cổ nữa. Tiền là mối quan tâm hàng đầu với cậu ta, rõ ràng là thế; trong suốt chuyến thăm ở đây, cậu ta vẫn thường bồn chồn thọc tay vào túi, liên tục dừng ở máy rút tiền, mỗi lần rút ra hai mươi đô, thánh thần ơi.

    Thật vô vọng. Ý nghĩa của cổ với ngài Thư Viện Âm Nhạc còn chẳng bằng một nửa tầm quan trọng của cổ với tôi. Chúng tôi sinh ra là để cho nhau; đó là một sự thật vừa đúng đắn lại vừa kì diệu, không còn gì phải bàn cãi nữa; suy nghĩ về cổ tràn tới khắp ngóc ngách tâm trí tôi cùng ánh sáng rực rỡ và nó soi rọi ánh sáng vào những không gian phi thường mà tôi còn không biết chúng tồn tại, những viễn cảnh dường như chẳng tồn tại ở nơi nào khác ngoài mối quan hệ tôi có với cổ. Tôi bật đi bật lại bài hát của Arvo Pärt mà cổ thích, như một cách để được ở cùng cổ; và cổ mới nói tôi biết một cuốn tiểu thuyết cổ vừa đọc xong để rồi tôi phải đi tìm đọc nó như kẻ đói sách, để được đi vào tâm trí cổ, như một dạng thần giao cách cảm. Vài thứ đồ xuất hiện trong cửa hàng – một cái đàn piano kiểu Pleyel, một mẩu đá chạm khắc từ Nga đã trầy xước – dường như chính là những cổ vật đại diện cho hình ảnh cuộc sống mà cổ và tôi hoàn toàn có quyền được sống cùng nhau. Tôi viết những email dài cả ba mươi trang nhưng rồi lại xóa đi không gửi nữa mà thay vào đó là tự tạo ra một công thức toán học để không tự biến bản thân thành thằng ngốc nữa: phải luôn ngắn hơn email của cổ ba dòng, luôn chờ lâu hơn một ngày so với lúc tôi chờ thư cổ rồi mới gửi thư hồi đáp. Đôi khi nằm trên giường – trôi nổi giữa những tiếng thở dài, giữa cơn phê thuốc và những hình ảnh khiêu dâm – tôi lại thấy mình đang tiếp tục những cuộc nói chuyện dài và chân thực với cổ: bọn mình là không thể tách rời, tôi tưởng tượng chúng tôi đang nói với nhau (như đóng kịch), người này đặt một tay lên má người kia, chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau. Như một kẻ rình mò, tôi đi thu thập những mẩu tóc màu đỏ như lá mùa thu từ đống rác sau khi cổ tự cắt mái cho mình trong phòng tắm – và, sởn da gà hơn nữa, tôi còn có cả một chiếc áo chưa giặt của cổ, vẫn còn đầy mùi cỏ khô và phảng phất mùi mồ hôi của một người ăn chay.

    Thật là vô vọng. Còn tệ hơn cả vô vọng: thật là đáng xấu hổ. Luôn để cửa mở hờ hững khi cổ ghé qua thăm, giống như một lời mời không-kín-đáo-cho-lắm. Ngay cả tiếng cổ lê chân khi bước (như nàng tiên cá nhỏ, quá yếu đuối để có thể đi được trên đất liền) cũng đủ làm tôi muốn phát điên. Cổ là sợi dây vàng óng chạy xuyên qua mọi thứ, một thấu kính làm cái đẹp được nhân lên bội phần để rồi cả thế giới bỗng được làm cho rạng rỡ thêm khi ở bên cô ấy, và chỉ cô ấy mà thôi. Đã hai lần tôi cố hôn cổ: một lần say rượu trong một chiếc taxi; một lần ở sân bay, đau lòng khi nghĩ rằng tôi sẽ không gặp cô ấy trong vài tháng nữa (hoặc, ai mà biết được, nhiều năm nữa) – “Tôi xin lỗi,” tôi nói, khi đã quá muộn rồi…

    “Không sao.”

    “Không, thực tình, tôi…”

    “Nghe này…” cô ấy nở nụ cười bối rối ngọt ngào… “không sao mà. Nhưng chuyến bay của tôi sắp mở rồi” (thật ra đâu phải vậy). “Tôi phải đi rồi. Cậu phải tự chăm sóc mình đó, nhé?”

    Chăm sóc. Cổ thấy cái quái gì ở tên “Everett” này? Tôi chỉ có thể nghĩ rằng cổ sẽ thấy tôi nhàm chán lắm nếu cổ thích một tên bèo nhèo vô vị như vậy hơn tôi. Một ngày nào đó, khi chúng ta có con… mặc dù cậu ta nói bằng giọng nửa đùa nửa thật nhưng máu trong cơ thể tôi cũng lạnh ngắt rồi. Cậu ta sẽ giống những kẻ thua cuộc mà bạn vẫn thấy họ hớt hải chạy quanh với túi đựng tã và cả tá đồ cho trẻ con… Tôi tự đánh giá thấp mình vì đã không dứt khoát giành lại cổ, mặc dù sự thật là nếu không có sự khích lệ từ phía cổ dù là chút ít thì cũng chẳng có cách nào để theo đuổi cổ. Tới đây là đã đủ xấu hổ rồi: Hobie luôn tỏ ra cẩn trọng khi tên cổ xuất hiện, sự khách quan khéo léo trong chất giọng của ông. Thế nhưng sự khao khát trong tôi dành cho cổ giống như một cơn cảm lạnh kéo dài hàng năm trời dù cho lúc nào tôi cũng muốn thoát khỏi nó. Ngay cả bà Vogel ngốc như bò cũng còn nhận ra. Không phải là do Pippa dẫn dắt tôi thành ra vậy – ngược lại thì đúng hơn; nếu cổ thấy quan tâm bất cứ điều gì ở tôi thì cổ phải quay trở về New York thay vì ở lại châu Âu sau khi học xong; thế nhưng dù là ngu ngốc tôi vẫn không thể nào quên nổi cách mà cổ nhìn tôi vào cái ngày đầu tiên tôi tới thăm và ngồi bên giường cổ. Kí ức về buổi chiều trẻ thơ ấy đã cắm rễ trong tôi hàng năm trời; như thể - vì cô đơn thiếu hình bóng mẹ - tôi đã đeo bám cổ giống một con thú mồ côi; trong khi sự thật, trớ trêu thay, là cổ đã bị nhồi cả tá thuốc và loạng choạng hồi phục dần từ chấn thương đầu, sẵn sàng dang vòng tay ôm lấy người lạ đầu tiên bước vào cuộc đời cổ.

    “Sự giải thoát” của tôi, như Jerome vẫn gọi, nằm trong cái hộp thiếc cũ vẫn đựng thuốc lá. Trên nóc tủ bằng cẩm thạch tôi đã nghiền một trong số những viên Oxycotin kiểu cũ, cắt nhỏ và dùng cái danh thiếp của tiệm Christie để gạt chúng thành một hàng ngang và – cuộn một tờ hóa đơn ráo nhất trong ví – tựa lưng vào bàn, mắt mờ đi vì háo hức: đang ở mặt đất, bùm, vị đắng ngắt ngập tràn cuống họng và rồi thật nhẹ lòng, tôi ngã ra sau lên chiếc giường như thể vừa có một cú đấm nhẹ vào trái tim: thật dễ chịu, đau nhưng sảng khoái, cách xa khỏi những tiếng va đập đầy mệt mỏi.


    vii.

    BỮA TỐI CỦA TÔI tại nhà Barbour diễn ra giữa cơn mưa như trút cùng với giông bão, gió quật mạnh tới mức tôi cần như không thể mở ô ra được. Trên Đại lộ Sáu còn không có nổi một chiếc taxi, mọi người bước đi với cái đầu cúi gằm và cố ghé vai vào mấy cái mái che; ở ga tàu, trong cái ẩm ướt như đang dưới hầm trú ẩn, những giọt nước vẫn tí tách rơi xuống từ mái nhà bê tông.

    Khi tôi tới thì Đại lộ Lexington đã thưa người, những hạt mưa đang nhảy múa trên vỉa hè, cơn mưa nặng hạt dường như át đi mọi âm thanh ồn ào của những con phố. Xe taxi vẫn lướt qua kèm theo tiếng nước bắn lên xối xả. Tôi chui vào khu chợ cách ga tàu vài căn hộ để mua hoa – hoa ly, ba bó vì một bó thì bé quá; trong cái cửa hàng nóng nực bé tí tẹo ấy, hương thơm của nó khiến tôi bồn chồn và chỉ tới khi thanh toán ở quầy tôi mới hiểu tại sao: mùi hương họ dùng chính là thứ mùi ngọt ngào đến phát bệnh mà họ đã dùng trong tang lễ của mẹ tôi. Khi tôi chui ra khỏi đó và chạy trên lối đi ngập nước để tới Đại lộ Park – tất ướt đẫm, mưa lạnh táp vào mặt – thì tôi đã hối hận khi mua chúng và suýt nữa tống chúng vào thùng rác, nhưng cơn mưa xối xuống mạnh đến nỗi bản thân tôi không thể dừng lại được, dù chỉ một lúc, và lại chạy tiếp.

    Khi tôi đứng trước cửa căn hộ - tóc dính bết vào đầu, cái áo khoác đi mưa đáng lẽ phải chống thấm nước thì lại ướt sũng như thể tôi vừa bước ra khỏi bồn tắm – cách cửa mở ra khá nhanh và mạnh, một đứa trẻ tầm học đại học xuất hiện với khuôn mặt rạng rỡ khiến tôi phải mất một lúc mới nhận ra đó là Toddy. Trước khi tôi kịp xin lỗi vì bộ dạng ướt nhẹp của mình thì cậu ấy đã ôm chặt lấy tôi với một cú vỗ nhẹ lên lưng.

    “Ôi Chúa ơi,” cậu vừa nói vừa dẫn tôi vào phòng khách. “Để em cầm áo khoác cho – còn hoa, Mẹ sẽ thích lắm đấy. Gặp được anh vui quá! Bao lâu rồi nhỉ?” Cậu cao lớn và trông khỏe mạnh hơn Platt, với mái tóc tối màu hơn màu tóc thông thường của nhà Barbour, màu vàng sậm như bìa các tông và cả một nụ cười không giống với nhà Barbour nữa – háo hức và rạng rỡ mà không có vẻ gì mỉa mai cả.lạ

    “Ừm…” Sự ấm áp của cậu, dựa trên một mối quan hệ thân mật nào đó mà chúng tôi chưa từng có, đã đẩy tôi vào bối rối. “Lâu quá rồi. Chắc em đang học đại học, phải không?”

    “Vâng – trường Georgetown – em đang nghỉ cuối tuần. Em học khoa học chính trị nhưng thật sự thì em muốn được làm về quản trị phi lợi nhuận, làm cùng với những người trẻ ấy?” Với nụ cười tự tin kiểu học sinh ưu tú, cậu rõ ràng đã khôn lớn trở thành một người mang nhiều hoài bão mà khi xưa từng là dự định của Platt. “Và, ý em là, em hi vọng nói điều này không kì cục nhưng em phải cám ơn anh một phần.”

    “Sao cơ?”

    “Ý em là. Em muốn làm việc với những người trẻ còn chịu nhiều thiệt thòi. Anh đã khiến em phải chú ý, anh biết đấy, khi anh còn ở với gia đình em hồi đó. Việc đó khiến em sáng mắt ra, hoàn cảnh của anh. Vì, ngay cả khi em chỉ mới học lớp ba, anh đã khiến em phải nghĩ – rằng đây chính là công việc mình muốn làm một ngày nào đó, anh biết đấy, một công việc gì đó với những đứa trẻ cần sự giúp đỡ.”

    “Wow,” tôi nói, vẫn mắc kẹt ở đoạn chịu nhiều thiệt thòi. “Huh. Vậy tốt quá.”

    “Và, ý em là, điều này thật thú vị, bởi vì có rất nhiều cách để hỗ trợ những thanh thiếu niên ngoài kia. Ý em là, em không rõ anh có biết nhiều về DC không nhưng ở đó có rất nhiều khu dân cư thiếu thốn, em có tham gia một dự án tình nguyện dạy thêm môn đọc và toán cho trẻ em, và mùa hè này, em sẽ tới Haiti với tổ chức Nơi Ở Cho Cộng Đồng…”

    “Là anh ấy sao?” Có tiếng gót giày chạm khẽ trên mặt sàn, những ngón tay nhẹ nhàng đặt lên áo tôi, và điều tiếp theo tôi biết là Kitsey đã vòng tay ôm lấy tôi và tôi thì cười dưới mái tóc vàng lòa xòa của em ấy.

    “Ôi, anh ướt nhẹp này,” cổ vừa ôm tôi vừa thốt lên. “Nhìn anh kìa. Anh tới đây bằng cái gì thế? Anh bơi tới đây à?” Em ấy có cái mũi cao thanh thoát của ông Barbour và đôi mắt sáng cùng ánh nhìn gần như ngô nghê – cũng giống nhiều với hồi cổ còn là một cô bé chín tuổi đầu xù mặc đồng phục, mặt ửng đỏ và loạng choạng với cái cặp sách trên vai – chỉ là giờ đây, khi cổ nhìn tôi, tôi mới chợt nhận ra cổ đã trở nên xinh đẹp một cách lạnh lùng.

    “Anh…” Để giấu sự bối rối của mình, tôi quay qua nhìn lại vào Toddy, đang bận rộn treo áo mưa và tìm chỗ để những bó hoa. “Xin lỗi, nhưng cảm giác lạ thật. Ý anh – nhất là em đó” (tôi nói với Toddy). “Em được mấy tuổi lần cuối cùng anh gặp em thế? Bày? Tám?”

    “Em biết mà,” Kitsey nói, “hồi đó nhìn như con chuột nhắt, giờ nó chính xác là một con người rồi, đúng không? Platt…” Platt đã chậm rãi bước vào phòng khách, râu cạo chưa sạch, với bộ đồ bằng vải tweed cùng áo len Donegal sờn, như một người thợ đánh cá u ám trong một vở kịch của Synge… “mẹ muốn chúng ta ăn ở đâu?”

    “Mm…” ảnh có vẻ ngập ngừng, bàn tay chà vào chỗ má vẫn còn ít râu… “thật ra là trong phòng riêng của mẹ. Em không phiền chứ?” ảnh nói với tôi. “Etta đã sắp xếp bàn ăn trong đó rồi.”

    Kitsey nheo mày. “Ôi, chán ghê. Thôi thì, em thấy cũng được. Sao anh không cho lũ chó vào bếp nhỉ? Đi nào…” em ấy nắm tay tôi và kéo tôi đi dọc hành lang theo kiểu lao đi vội vã và có chút điên khùng… “chúng ta phải cho anh uống gì đó, anh cần uống nước.” Có nét gì đó của Andy trong ánh nhìn kiên định của cổ, cả cái giọng nói như hụt hơi – cơn hen của Andy như được chuyển hóa, một cách tốt đẹp hơn, thành tiếng nói thì thầm thoát ra từ cặp môi chẳng bao giờ khép của cổ. “Em đang mong mẹ sẽ để chúng ta vào phòng ăn hoặc chí ít cũng phải là phòng bếp, vào phòng của mẹ cảm giác thật lạnh gáy – anh uống gì?” em ấy hỏi tôi rồi quay qua chỗ quầy bar cạnh kho đồ nơi mà ly tách và một xô đá lạnh đã được bày sẵn.

    “Một chút Stolichnaya thì tốt quá. Và cho anh chút đá nhé.”

    “Thật à? Anh chắc là ổn đấy chứ? Nhà em chẳng ai uống nó cả - chỉ có Bố là lúc nào cũng chọn loại này” – cổ vớ chai Stoli – “vì bố thích nhãn hiệu này… nghe rất kiểu thời Chiến tranh lạnh... anh gọi tên nó thế nào nhỉ…”

    “Stolichnaya.”

    “Nghe thật lắm ấy. Em chẳng đời nào uống thử đâu. Anh biết mà,” cổ nói, quay đôi mắt xám màu quả lý gai qua nhìn tôi, “Em cứ sợ là anh không đến.”

    “Đâu tệ đến thế.”

    “Vâng nhưng…” mắt em ấy chớp chớp… “em vẫn cứ nghĩ là anh ghét bọn em.”

    “Ghét bọn em? Không đời nào.”

    “Không?” Khi cổ cười, thật thú vị khi được thấy lại nét nhợt nhạt của Andy do căn bệnh thiếu bạch cầu – trong cô ấy – đã được sửa sang và tân trang đẹp đẽ hơn, thêm chút lấp lánh kẹo ngọt của một cô công chúa Disney. “Nhưng hồi đó em quá đáng thật!”

    “Anh không để bụng mà.”

    “Tốt.” Sau một khoảng dừng dài-quá-mức-cho-phép, cổ đã quay trở lại với đồ uống trên tay. “Bọn em đã đối xử với anh thật tệ,” cổ nói thẳng thừng. “Todd và em.”

    “Thôi nào. Lúc đó hai đứa còn nhỏ mà.”

    “Vâng nhưng…” em ấy cắn môi trên… “bọn em hiểu chuyện hơn rồi. Đặc biệt là sau những chuyện đã xảy đến với anh. Và giờ… ý em là cả chuyện với Bố và Andy nữa…”

    Tôi vẫn đang chờ cổ nói, vì có vẻ như cổ đang sắp xếp suy nghĩ trong đầu, nhưng thay vào đó cổ chỉ hớp một ngụm rượu vang trong ly của mình (màu trắng; Pippa thì luôn uống vang đỏ) rồi chạm vào cổ tay tôi. “Mẹ đang chờ được gặp anh,” cổ nói. “Mẹ đã háo hức cả ngày trời. Chúng ta vào trong đó nhé?”

    “Đi thôi.” Thật nhẹ, thật nhẹ, tôi đặt tay mình vào cùi chỏ của em ấy, như tôi từng thấy ông Barbour làm vậy với khách tới nhà “để tạo sự tin tưởng cho phụ nữ,” và dẫn em ấy vào hành lang.


    viii.

    TỐI HÔM ĐÓ GIỐNG như một giấc mơ đan xen giữa quá khứ và thực tại: một thế giới trẻ thơ kì diệu vẫn còn nguyên vẹn ở một vài khía cạnh, vài chỗ khác lại đổi thay đến đau lòng, như thể Hồn ma của Giáng sinh trong Quá khứ và Hồn ma của Giáng sinh tương lai đã cùng nhau mở bữa tiệc tối này. Nhưng mặc dù sự vắng bóng của Andy như cứa vào da thịt (Andy và cháu…? còn nhớ lúc Andy…?) và mọi thứ khác thật xa lạ và bị thu nhỏ lại (hũ bánh trên chiếc bàn gấp trong phòng bà Barbour chẳng hạn?) thì điều lạ nhất trong tối đó vẫn là cảm giác như tôi đang được quay lại ngôi nhà của mình mà không hiểu sao lại vậy. Ngay cả Etta, khi tôi quay trở vào bếp để chào, bà đã cởi tạp dề ra và chạy tới ôm tôi: tôi được nghỉ tối nay nhưng tôi muốn ở lại, là tôi muốn gặp cậu.

    Toddy (“Giờ em là Todd, anh à”) đã tiến tới đảm nhiệm vị trí của bố cậu ấy làm Trưởng bàn ăn, dẫn dắt câu chuyện với vẻ hơi máy móc nhưng rõ ràng là có điểm cuốn hút, mặc dù bà Barbour không thực sự có hứng thú nói chuyện với ai ngoài tôi – về Andy, một chút, nhưng chủ yếu là về những thứ đồ nội thất trong gia đình bà, vài món đồ trong đó được mua từ Israel Sack trong những năm 1940 nhưng hầu hết đều là được truyền lại trong nội bộ gia đình từ thời thuộc địa – bà còn đứng dậy ngay giữa bữa ăn để tận tay dẫn tôi đi xem một bộ ghế ăn và một cái ghế thấp bằng gỗ hồng đào – kiểu của thời Nữ hoàng Anne, từ Salem Massachusetts – mà có mặt trong gia đình bà từ những năm 1760. (Salem? Tôi nghĩ. Liệu những người tổ tiên của bà có phải thợ săn phù thủy không? Hay họ chính là phù thủy? Ngoài Andy – kín đáo, tách biệt, tự thân vận động, không giỏi nói dối và hoàn toàn không thể ghét bỏ ai hay hấp dẫn ai – thì những người nhà Barbour khác, ngay cả Todd, đều mang vẻ gì đó hơi kì cục khác người, một sự kết hợp nhiều bí ẩn giữa phép tắc lịch sự và cả những chiêu trò đến nỗi cũng không khó để tưởng tượng cảnh tổ tiên họ tụ tập trong rừng vào nửa đêm, vứt bỏ hết mấy bộ lễ phục PuritanVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link rồi nhảy múa quanh đống lửa.) Kitsey và tôi không nói nhiều với nhau – chúng tôi còn chẳng có lúc nào mà làm vậy, nhờ có bà Barbour; nhưng hầu như lần nào tôi nhìn qua thì đều thấy em ấy đang nhìn tôi. Platt – giọng đã dày lên sau năm (hay sáu?) ly rượu gin chanh lớn, đã kéo tôi qua chỗ quầy bar sau bữa tối và nói: “Cổ đang uống thuốc chống trầm cảm.”

    “Vậy ư?” tôi nói, thảng thốt.

    “Ý anh là Kitsey. Mẹ thì sẽ không bao giờ đụng vô chúng.”

    “Ừm…” Chất giọng hạ thấp của anh ấy khiến tôi không thoải mái, như thể ảnh đang muốn xem ý kiến tôi thế nào hay muốn tôi tham gia thảo luận cùng. “Hi vọng thuốc có tác dụng tốt với em ấy hơn là với em.”

    Platt mở miệng định nói nhưng dừng như đang nghĩ lại. “Ồ…” ảnh hơi dựa ra sau… “Anh nghĩ nó đang cố tỏ ra bình thường. Nhưng mọi chuyện thật khó khăn với nó. Kits rất thân với hai người họ - có lẽ là thân với Andy hơn tất thảy bọn anh.”

    “Thật sao?” ‘Thân’ có lẽ không phải là sự miêu tả của tôi dành cho mối quan hệ thời thơ ấu của họ mặc dù cổ xuất hiện bên Andy nhiều hơn những anh em còn lại, dù chỉ là để mè nheo hay trêu chọc.

    Platt thở dài – một hơi đầy mùi rượu gin khiến tôi suýt ngất. “Ừ. Nó đang tạm nghỉ khỏi Wellesley – không biết nó có trở lại đó không nữa, có lẽ nó sẽ học vài lớp ở trường mới, có lẽ nó sẽ có một công việc – thật khó cho nó khi phải ở lại Massachusetts, sau khi, em biết đấy. Hai đứa nó gặp nhau khá thường xuyên ở Cambridge – nó thấy đau lòng, dĩ nhiên rồi, khi đã không tới chăm nom Bố. Nó ở với Bố hòa hợp hơn tất thảy mọi người nhưng hôm đó có một bữa tiệc, nó gọi cho Andy và nhờ Andy tới chỗ bố hộ nó… ừm.”

    “Khỉ thật.” Tôi đứng đó sững sờ, đá lạnh nhỏ nước xuống tay, cảm thấy thật tệ hại khi biết rằng lại thêm một người nữa dính phải thứ chất độc mang tên tại sao tôi làm vậy giá như, những thứđã hủy hoại cuộc đời tôi.

    “Đúng vậy đấy,” Platt nói, tay tự rót thêm một ly gin khổng lồ nữa. “Toàn những chuyện đáng buồn.”

    “Ừm, em ấy không nên tự đổ lỗi cho mình. Cổ không thể làm vậy được. Vậy không đúng chút nào. Ý em là,” tôi cảm thấy bồn chồn khi Platt nhìn tôi qua vành cốc bằng ánh mắt long lanh yếu đuối, “nếu em ấy đi trên chiếc thuyền đó thì giờ đây em ấy đã chết rồi, không phải Andy.”

    “Không con bé sẽ không chết đâu,”Platt nói thẳng thừng. “Kits là một thủy thủ siêu lắm. Nó nhanh nhẹn, tháo vát từ khi còn nhỏ xíu. Andy – Andy thì đang bận nghĩ về mấy bài tập quỹ đạo hay tính toán khỉ gió mà nó đang làm dở trên laptop ở nhà và nó thành một kẻ thay thế vụng về. Lúc quái nào cũng thế. Dù sao thì,” ảnh vẫn điềm tĩnh nói tiếp – có vẻ như không nhận thấy sự ngạc nhiên của tôi khi nghe lời bình phẩm vừa rồi của ảnh – “con bé giờ đang chưa ra đâu vào đâu, anh chắc là em cũng hiểu. Em nên rủ nó cùng đi ăn tối hay gì đó, Mẹ mà biết cũng sẽ rất vui.”


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Nghĩa là “kền kền”

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Carole Lombard (1908 – 1942) : diễn viên nổi tiếng người Mỹ được trả cát-xê cao nhất Hollywood vào cuối những năm 1930.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Một tộc người có lối sống kham khổ và coi vui vẻ là tội lỗi
     
  13. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    ix.

    TRƯỚC KHI TÔI về, sau mười một giờ, thì mưa đã tạnh và phố xá loang loáng nước, người bảo vệ đêm Kenneth (vẫn đôi mắt nặng trĩu và mùi rượu mạch nha, bụng đã to hơn nhưng mọi thứ khác đều không đổi) đang đứng ở cửa. “Đừng trở thành người lạ với nhau, nhé?” ông nói, cũng chính là câu mà ông vẫn thường nói khi tôi còn là một đứa trẻ và mẹ tôi tới đây đón tôi sau những bữa tiệc ngủ qua đêm – vẫn giọng nói kéo dài, chỉ có điều chậm hơn trước nửa nhịp. Ngay cả khi Manhattan này chìm trong khói bụi sau thảm họa nào đó thì bạn vẫn có thể tưởng tượng ông đang chậm rãi đi lại ở cửa với bộ đồng phục cũ sờn, còn nhà Barbour thì ở trên tầng đốt những tờ báo Địa lý Quốc gia để giữ ấm, sống nhờ rượu gin và thịt cua đóng hộp.

    Cho dù cái chết của Andy đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của buổi tối hôm đó như một thứ thuốc độc, tôi vẫn chưa thể nào quen với điều đó – mặc dù cũng lạ là điều đó giống như có thể tiên đoán trước được vậy, như thể cậu đã mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo bẩm sinh. Ngay từ khi là một đứa nhóc sáu tuổi – mơ mộng, vụng về, bị hen suyễn, cuộc đời không có gì vui vẻ - sự xui xẻo và ốm yếu đã vô cùng phù hợp với cái thân hình bé nhỏ của cậu ấy, như thể cậu ấy đang đeo cái mác hãy đá tôi đi ở sau lưng vậy.

    Thế nhưng cũng thật khác thường khi thế giới xung quanh vẫn tiếp tục mà không có cậu. Tôi chợt nghĩ khi nhảy quay một vũng nước trên vỉa hè, thật lạ lùng khi mà một vài giờ đồng hồ lại có thể thay đổi mọi thứ - hay đúng hơn là thật lạ lùng khi hiện tại lại hàm chứa cả những mảnh vỡ của quá khứ, bị biến dạng và tổn hại nhưng chưa hề bị phá hủy. Andy đã đối xử tốt với tôi khi bên cạnh tôi chẳng còn ai. Điều nhỏ nhất tôi có thể làm là phải đối tối với mẹ và em gái cậu ấy. Lúc đó tôi còn chẳng nghĩ, mặc dù giờ tôi đã thấy, rằng đã bao năm tháng trôi qua kể từ khi tôi phải vực mình dậy khỏi khổ đau và dằn vặt; giữa những lúc cô độc và không có lối thoát, những lúc mệt mỏi và xa cách mọi thứ để ôm lấy nỗi đau đang cào xé ruột gan, thì vẫn có những sự quan tâm nhỏ bé và giản đơn mỗi ngày mà tôi đã bỏ lỡ; và ngay cả từ quan tâm cũng chuyển từ trong ý nghĩ thành những giọng nói vang vọng, những con người, tới từ những cỗ máy đã được mặc định sẵn.


    x.

    MỘT THÓI QUEN TRONG NHỮNG NGÀY CÁCH NHAU trong tuần vẫn là một thói quen, như Jerome vẫn nhắc nhở tôi, đặc biệt là khi tôi không tuân thủ chặt chẽ phần những-ngày-cách-nhau đó. New York vẫn luôn chất chứa vô vàn những mối hiểm nguy trong cái đám đông lên xuống tàu điện ngầm mỗi ngày; sự choáng váng đột ngột của vụ nổ năm xưa vẫn chưa bao giờ buông tha tôi, tôi vẫn đang dành chỗ cho một điều gì đó sắp xảy ra, luôn đề phòng nó ngay trước mắt, một cử động bất chợt của người đi trên phố cũng có thể tạo ra nó, khẩn cấp như trong một cuộc chiến, ai đó đi cắt ngang trước mặt tôi hay đi quá nhanh theo hướng khác lạ cũng đủ để khiến tim tôi tăng nhịp và bắt đầu hoảng, khiến tôi phải tìm tới cái ghế công viên gần nhất; và những viên thuốc giảm đau của bố tôi, thứ dần trở thành thuốc điều trị cho chứng bất an không kiểm soát vào buổi đêm, thì cho tôi một lối thoát đầy sảng khoái đến mức không lâu sau tôi đã bắt đầu dùng nó như thể một món ăn vặt trong ngày: đầu tiên là dùng chỉ-vào-cuối-tuần, rồi dùng sau khi từ trường về, rồi trở thành vòng tay âu yếm yêu thương đón tôi mỗi khi tôi buồn hay chán nản (điều mà, thật không may, xảy ra khá thường xuyên); lúc đó tôi mới có một phát hiện động trời là những viên thuốc tí xíu tôi vẫn bỏ qua vì nghĩ chúng không có tác dụng thì thực ra lại mạnh gấp mười lần so với loại Vicodin và Percocet mà tôi đã dùng cả vốc – loại Oxycotin, những năm 80, tác dụng đủ mạnh để giết chết ai đó nếu không có sức chịu đựng tốt, và tôi thì chắc chắn không thuộc dạng đó; và khi hết đống narcotic tưởng chừng như vô hạn, ngay trước sinh nhật mười tám tuổi của tôi, thì bắt buộc tôi phải mua chúng trên phố.Ngay cả những người buôn thuốc cũng chỉ trích tôi vì số tiền tôi đã tiêu, cứ mấy tuần là lại vài ngàn đô la; Jack (người tiền nhiệm của Jerome) đã mấy lần mắng tôi khi ổng đang ngồi trên cái ghế nhồi cát nhem nhuốc nơi mà ổng lo liệu việc kinh doanh, đếm hàng trăm đô la mới lấy từ tay thủ quỹ. “Mi hơ nó trên lửa cũng được, nhóc.” Heroin thì rẻ hơn – mười lăm đô một bịch. Kể cả tôi có không dùng heroin – Jack đã cần mẫn làm phép tính hộ tôi lên trên tờ giấy gói của tiệm Quarter Pounder – thì tôi cũng sẽ phải tìm một phương án khác kinh tế hơn, thứ gì đó ở quanh khu này vào khoảng bốn trăm năm mươi đô một tháng.

    Nhưng tôi chỉ dùng heroin khi được mời – một chút ở đây, một chút ở kia. Mặc dù tôi khá thích nó, và thường thấy thèm nó, tôi chẳng bao giờ mua. Rồi sẽ không có lí do nào có thể khiến tôi dừng lại được. Với thuốc, mặt khác, giá cả là một nguyên nhân hữu ích vì nó không chỉ kiểm soát thói quen của tôi mà còn cho tôi một động lực tuyệt vời để mỗi ngày đi xuống tầng và bán các món đồ. Bạn có thể không làm việc nổi khi dùng thuốc: phê là một chuyện nhưng với những người như tôi – nhảy vào lũ bồ câu đang thơ thẩn trên vỉa hè, mắc phải chứng Rối loạn hậu Chấn thương tâm lý gần tới mức cơ thể căng cứng và não tê liệt – những viên thuốc lại là chìa khóa để trở nên không chỉ minh mẫn hơn mà còn có thể làm việc năng suất cao. Rượu khiến người ta chếnh choáng và mất tập trung: chỉ cần nhìn Platt Barbour ngồi buồn bã ở quán J. G. Melon vào ba giờ chiều hàng ngày là biết. Còn với bố tôi: kể cả sau khi ông đã tỉnh rượu thì ông vẫn còn vụng về loạng choạng như tay đấm bốc vừa nhận những cú đấm chí mạng, tay dính chặt vào cái điện thoại hoặc cái đồng hồ hẹn giờ nhà bếp, mọi người vẫn gọi là úng não, sự tổn hại tinh thần do uống quá nhiều rượu, những triệu chứng về thần kinh mà không bao giờ biến mất. Ông ấy đã rất kém trong việc suy nghĩ, chẳng bao giờ làm được một công việc ổn định nào. Còn tôi - ừ thì, có thể tôi chưa có bạn gái hay thậm chí là không có người bạn nào không hút chích nhưng tôi đang làm việc mười hai tiếng một ngày, chẳng có gì làm tôi căng thẳng, tôi mặc những bộ vét của Thom Browne, cười nói xã giao với những người mà tôi không chịu nổi, bơi hai lần một tuần và đôi khi chơi tennis, tránh xa đồ ngọt và đồ ăn sẵn. Tôi rất thoải mái và bảnh bao, tôi hơi gầy, tôi không nhấn chìm mình trong dằn vặt hay bất cứ dạng suy nghĩ tiêu cực nào, tôi là một người bán hàng giỏi giang – mọi người đều nói vậy – và công việc kinh doanh thuận lợi tới mức những đồng tiền tôi tiêu vào thuốc cũng đã xứng đáng.

    Nhưng không phải là tôi không có những lúc sa sút - những bước trượt dài không lường trước được khi mọi chuyện vượt khỏi tầm kiểm soát chỉ trong nháy mắt, giống như bước trượt trên cây cầu đã đóng băng và rồi mọi việc bỗng dưng trở nên tệ hại, nhanh như gió. Không phải là vấn đề về tiền – đúng hơn đó là vấn đề khi tôi tăng liều lượng thuốc, quên mất mình đã bán những món đồ đó hoặc quên gửi hóa đơn, Hobie thì nhìn tôi hài hước khi tôi bước xuống cầu thang theo kiểu như trơn trượt và không bước đúng được. Những bữa ăn tối, những người khách hàng… xin lỗi, ngài đang nói với tôi sao, ngài vừa nói gì à? không, chỉ là tôi hơi mệt chút, chắc tôi bị cảm nhẹ thôi, tôi sẽ đi ngủ sớm hơn chút, thưa ngài. Tôi thừa hưởng đôi mắt màu sáng của mẹ, ở buổi khai trương phòng tranh tôi không đeo kính râm nên khó mà giấu được hai con ngươi đờ đẫn – không phải mấy người khách của Hobie không để ý điều đó, nhưng (đôi khi) chỉ có vài người trẻ mà thường là gay – “Cậu là một chàng trai hư lắm,” người bạn trai làm huấn luyện viên thể lực của một khách hàng đã thì thầm vào tai tôi trong một bữa tối sang trọng, thực sự đã khiến tôi phát khiếp. Và tôi sợ không dám đi lên phòng Quản lý Tài khoản của một trong những tổ chức đấu giá vì một gã ở đó – lớn tuổi hơn, người Anh, là một kẻ nghiện ngập – thường xuyên tán tỉnh tôi. Tất nhiên tôi đã từng trải qua những chuyện tương tự với phụ nữ: một trong những cô nàng tôi đã lên giường cùng – một nàng thực tập sinh ngành thời trang – mà tôi đã gặp trong một lần dắt Popchik đi dạo ở Quảng trường Washington, sau ba mươi giây ngồi cùng trên chiếc ghế công viên, mọi chuyện đã nhanh chóng trở nên rõ ràng với cả hai người rằng chúng tôi có cùng hoàn cảnh. Bất cứ khi nào mọi việc sắp vượt tầm kiểm soát thì tôi sẽ tạm ngừng lại và thậm chí vài lần còn không làm trò này nữa – lâu nhất là trong sáu tuần liên tục. Không phải ai cũng có thể làm vậy, tôi tự nhủ. Đơn giản chỉ là vấn đề về kỉ luật. Nhưng vào lúc này, mùa xuân của tuổi hai mươi sáu, suốt ba năm rồi tôi không thể ngưng dùng thuốc nổi trong ba ngày.

    Tôi đã nghĩ ra cách bỏ nó mãi mãi, nếu tôi muốn: thời gian biểu bảy ngày, thật nhiều loperamideVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; viên bổ sung magie và amino axit để bù lại những chất dẫn truyền thần kinh bị hư hại; bột protein, bột chất điện giải, melatoninVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (và cỏ) cho dễ ngủ cũng như một vài loại thảo mộc ngâm rượu và thuốc dạng nước mà cô thực tập sinh ngành thời trang của tôi đã đề xuất, cam thảo và cây kế sữa, cây tầm ma và dầu hạt thìa là đen, rễ cây nữ lang hoa và chiết xuất bạc hà. Tôi đã mua một túi lớn từ cửa hàng thực phẩm chức năng gồm tất cả những gì tôi cần, nó đã nằm trên sàn nhà phía sau tủ quần áo được một năm rưỡi. Hầu hết chưa được đụng vào ngoại trừ cỏ, chỗ đó thì hết từ lâu rồi. Vấn đề (tôi đã biết rõ) là với ba mươi sáu tiếng thử nghiệm, với cả cơ thể đang nổi loạn, và toàn bộ những ngóc ngách cơ thể chưa dính thuốc phiện đang bị kéo giãn trước mắt như hành lang nhà tù, thì bạn cần một lí do bắt buộc để khiến mình tiếp tục đi sâu thêm vào bóng tối, thay vì ngã trở lại vào cái thảm lông êm ái mà bạn đã ngu ngốc rời bỏ.

    Đêm đó khi trở về từ nhà Barbour, tôi đã nuốt một viên morphine có tác dụng khá lâu, như thói quen của tôi mỗi khi tôi về nhà trong tâm trạng dằn vặt và cảm thấy mình phải đứng thẳng dậy: liều nhỏ, chỉ bằng một nửa liều bình thường khi tôi muốn tạo cảm giác ảo nào đó cho mình, chỉ ngang với tác dụng của rượu để tránh việc bồn chồn không ngủ được. Sáng hôm sau, tim đập thùm thụp (vì thông thường, khi thức dậy lúc sáu giờ trong giai đoạn mới bắt đầu, tôi rất dễ cảm thấy bồn chồn lo lắng), tôi nghiền ba mươi miligram và sau đó thêm sáu mươi miligram Roxicodone trên mặt bàn bằng đá cẩm thạch, hít nó qua một cái ống hút, rồi lại thấy không muốn đổ số viên thuốc còn lại đi (thì cũng đáng giá những hai ngàn đô) và tôi đi sửa soạn quần áo, xịt mũi bằng nước muối, và, sau khi dò dẫm đi cất thêm vài viên morphine có tác dụng dài trong trường hợp số “thuốc cai nghiện”, như Jerome vẫn gọi, có thể không được thoải mái và rơi ra khỏi cái hộp Redbreast Flake trong túi áo tôi rồi – sáu giờ sáng, trước khi Hobie dậy – tôi bắt taxi tới kho của dịch vụ lưu trữ.

    Kho lưu trữ - mở suốt hai mươi tư giờ - giống như khu nghĩa trang của người Maya, nhưng chỉ có một người thư ký mắt đờ đẫn đang xem TV ở bàn lễ tân. Tôi lo lắng đi tới thang máy. Tôi chỉ mới tới đây được ba lần trong bảy năm qua – lúc nào cũng mang cảm giác lo sợ, và chẳng bao giờ đi lên tới cái tủ chứa đồ trên tầng mà chỉ nhanh chóng chui vào sảnh để trả phí thuê, bằng tiền mặt: mỗi lần trả phí thuê hai năm, khoảng thời gian lớn nhất mà bang cho phép.

    Thang chở đồ cần phải có thẻ khóa, may là tôi đã nhớ mà mang theo. Không may là nó lại không làm việc tử tế; và – trong vài phút, hi vọng người thư ký thấy phiền nhiễu mà không thèm để ý – tôi đứng trong cái thang máy mở toang, cố gắng xoay sở với cái khe trượt thẻ cho tới khi cánh cửa thép kêu cót két và đóng lại. Cảm giác lo sợ như đang bị theo dõi, tôi cố gắng quay mặt hướng mặt ra xa khỏi cái màn hình, chọn lên tầng tám, 8D 8E 8F 8G, những bức tường xây bằng gạch than và những hàng dài các cánh cửa vô hồn nơi mà không có một màu sắc nào khác ngoài màu be và sẽ không có bụi bẩn trong suốt thời gian còn lại.

    8R, hai chìa khóa và một tổ hợp mã khóa, 7522, bốn chữ số cuối trong số điện thoại nhà của Boris ở Vegas. Cái tủ hé mở với một tiếng cót két của kim loại. Bên trong là chiếc túi mua từ cửa hàng đồ thể thao Paragon – mác giá của cái lều vải vẫn lủng lẳng, loại King Kanopy, 43.99 đô la, vẫn còn mới nguyên như cái ngày tôi mua nó vào tám năm trước.Và mặc dù tôi hơi giật mình khi thấy hoa văn của cái vỏ gối đã lộ ra ngoài chiếc túi, như có điện giật nhẹ hai bên thái dương, nhưng thứ làm tôi ngạc nhiên nhất là thứ mùi tỏa ra – mùi của lớp băng dính bọc ngoài bị để quá lâu trong một không gian chật hẹp, thứ mùi khơi gợi nhiều cảm xúc mà tôi đã không còn nhớ hay nghĩ tới trong những năm qua, mùi polyvinyl đặc trưng như ném tôi thẳng về thời thơ ấu cùng chiếc giường ngủ ở Vegas: mùi hóa chất và thảm mới, ngủ và thức dậy mỗi sáng với bức tranh vẫn được dính vào phía sau đầu giường và thứ mùi tương tự dính trong lỗ mũi. Những năm qua tôi đã không mở nó ra: để mở được cũng phải mất mười đến mười lăm phút với một con dao X-Acto nhưng trong khi tôi còn đang đứng đó ngập tràn suy nghĩ (mông lung, gần giống như khi tôi mộng du đi tới cửa phòng ngủ của Pippa, không biết mình đang nghĩ gì hay nên làm gì) tôi dần chuyển sang trạng thái mất cảm giác như đang mơ: vì việc có lại bức tranh bên mình như xưa, sau một khoản thời gian dài đằng đẵng, cũng chính là việc tìm thấy một con người nguy hiểm, tham vọng khác trong mình mà tôi không hề biết tới sự tồn tại của nó. Trong bóng tối lờ mờ, cái bọc đó - gần như không thấy được gì mấy - lại mang cái vẻ ngoài rách rưới, đáng chua xót của loài người, không có vẻ gì của một vật vô tri mà thay vào đó là hình ảnh của một sinh vật bơ vơ và đáng thương bị trói chặt trong bóng tối, không thể khóc thành tiếng mà chỉ biết mơ đến một ngày được giải thoát khỏi đây. Tôi chưa từng được ở gần bức tranh thế này kể từ hồi mười lăm tuổi, và tôi phải cố gắng kiềm chế mình không được chộp lấy nó và giấu nó dưới cánh tay mà mang ra ngoài. Nhưng tôi biết mấy cái máy quay an ninh đang dõi theo từng bước chân của tôi; và – mau chóng – tôi cho cái hộp thiếc Redbreast Flake vào cái túi kiểu Bloomingdale rồi đóng cửa, xoay chìa khóa. “Nếu thực sự muốn cai thuốc thì cậu phải tống khứ hết đi,” Mya, người bạn gái nóng bỏng của Jerome đã khuyên tôi vậy, “không thì có lúc cậu sẽ lê mông tới nhà kho lúc hai giờ sang đấy,” nhưng khi tôi bước ra khỏi cửa thì đầu nhẹ bẫng và chẳng nhớ gì về chỗ thuốc đó nữa. Hình ảnh bức tranh bị bó chặt, cô đơn và thảm thương, đã chiếm trọn cơ thể tôi từ đầu đến chân, như thể một tín hiệu vệ tinh từ quá khứ đã gạt đi tất thảy những đường truyền khác.


    xi.

    MẶC DÙ NHỮNG NGÀY CAI THUỐC (hiếm hoi) của tôi đã giúp làm giảm đáng kể lượng thuốc tôi dùng, nhưng khó khăn bắt đầu xuất hiện sớm hơn tôi nghĩ và cho dù còn ít thuốc để đề phòng thì những ngày tiếp sau, tình trạng của tôi đã xuống dốc: ốm yếu đến mức không ăn nổi, không thể ngừng hắt hơi. “Chỉ là cảm lạnh thôi,” tôi nói với Hobie. “Cháu ổn mà.”

    “Không hề, bụng cháu có vấn đề, là cảm cúm đấy,” Hobie nói dứt khoát, ông vừa từ tiệm Bigelow về cùng với thuốc Benadryl và Imodium, thêm cả bánh quy và rượu gừng từ chợ Jefferson. “Không thể hiểu nổi nữa – Chúa phù hộ cháu! Ta mà là cháu thì đã tới bác sĩ ngay và luôn rồi.”

    “Chuyện bé tí mà ông.” Hobie thì quy củ quá mà; cứ khi nào mắc bệnh gì đó là ông lại uống rượu Fernet-Branca rồi làm việc tiếp.

    “Có thể, nhưng mấy ngày nay cháu gần như chẳng ăn gì. Cứ ở dưới này suốt thì chỉ làm mình thêm khổ chứ được ích gì.”

    Nhưng lao động giúp đầu óc tôi thoải mái. Cơn lạnh sống lưng sẽ tới mười phút một lần và rồi tôi sẽ đổ mồ hôi. Nước mũi chảy, nước mắt tèm nhèm, người tê tê như bị điện giật. Thời tiết dần thay đổi, cửa hàng thì tấp nập người ra vào, tiếng xì xầm và dòng người lũ lượt; những nhánh cây đang trổ hoa trên phố ngoài kia cũng chỉ còn là những màu trắng mờ nhạt. Bàn tay tôi đặt vững vàng trên mặt quầy nhưng bên trong thì đang run rẩy. “Lần đầu tiên thế này cũng không tệ,” Mya bảo tôi. “Đến khoảng ngày thứ ba, thứ tư thì cậu sẽ ước mình được chết đi cho rồi.” Bụng tôi quặn lại như con cá giãy khi bị móc vào lưỡi câu; cơn đau, cơ bắp co giật, tôi không thể nào nằm yên trên giường mỗi đêm, sau khi đóng cửa, tôi ngồi hắt xì bên cạnh cái bồn tắm nóng gần như không chịu nổi, với một cốc rượu gừng và áp đá lạnh vào thái dương, trong khi Popchik – người cứng và già đến nỗi không đứng vững trên thành bồn tắm như nó vẫn thích làm – thì ngồi trên thảm chùi chân và nhìn tôi ái ngại.

    Mấy thứ này cũng chưa đáng sợ như tôi tưởng tượng. Nhưng thứ mà tôi không ngờ lại nghiêm trọng như vậy chính là cái mà Mya gọi là “vấn đề tinh thần,” thứ khiến tôi không chịu đựng nổi, như một tấm màn đen đáng sợ. Mya, Jerome, cả cô thực tập sinh ngành thời trang tôi từng cặp - đều gặp vấn đề này kéo dài hơn tôi; và khi họ say và ngồi nói về cảm giác khi bỏ thuốc (đó cũng chính là lúc duy nhất họ có đủ dũng khí mà nói về việc cai thuốc), mọi người đều cảnh báo tôi nhiều lần rằng những triệu chứng về thể xác vẫn chưa phải phần khó khăn nhất, rằng kể cả với một đứa đầu óc trẻ con như tôi thì mệt mỏi về tinh thần cũng sẽ là thứ mà “tôi chưa bao biết tới” và tôi đã cười xã giao khi đứng dựa vào tấm gương mà nói: muốn cá cược không?

    Nhưng khủng hoảng tinh thần rõ ràng không chỉ là các con chữ. Còn có cả nỗi buồn và sự ghê tởm chính bản thân mình: cảm giác chao đảo buồn nôn mà loài người đều sợ hãi. Thời gian thật đáng sợ. Già, ốm, chết. Không ai trốn tránh được. Kể cả những con người xinh đẹp rồi cũng trông như một loại quả sắp hư. Thế mà con người ta vẫn lên giường với nhau, sinh con đẻ cái và lại một ngôi mộ nữa sẽ bị chiếm, việc sinh ra thêm nhiều con người rồi phải chịu đựng đau khổ giống một kiểu cứu rỗi, một hành động tốt, hoặc thậm chí là một cử chỉ đáng tôn vinh: lôi thêm những sinh vật vô tội vào một cuộc chiến cầm chắc thất bại. Những đứa bé đang nằm vặn vẹo, xoay sở, vẻ mặt tự mãn, những bà mẹ đang tiết hormone quá đà. Ôi, đáng yêu nhỉ? Coi kìa. Bọn trẻ hò hét và chơi đùa ở sân sau mà không biết cái tương lai quái quỉ nào đang chờ chúng ở phía trước: công việc nhàm chán và những món nợ khổng lồ, hôn nhân tồi tệ, rụng tóc và cuộc phẫu thuật thay xương chậu, uống cà phê một mình trong ngôi nhà vắng tanh và bên cạnh là túi y tế đựng chất thải. Nhiều người thấy đủ thỏa mãn với những hào nhoáng bên ngoài và ánh sáng của sân khấu cuộc đời đến nỗi, đôi khi, họ cố huyễn hoặc rằng những khó khăn con người gặp phải không đáng ghét thế hoặc chúng không dễ để nhìn thấy. Con người ta chơi bài và chơi golf và trồng cây trong vườn và mua bán và lên giường với nhau và mua ô tô mới và tập yoga và làm việc và cầu nguyện và trang trí lại căn nhà và xem thời sự và tức giận với con cái họ và tán chuyện về hàng xóm và chăm chú đọc nhận xét về các nhà hàng và thành lập các quỹ từ thiện và ủng hộ các chính trị gia và đi xem giải Mỹ mở rộng và ăn tối và đi du lịch và tự làm mình mất tập trung với đủ loại thiết bị máy móc, tự làm mình ngập lụt trong hàng tá thông tin và bài viết và truyền thông và giải trí từ khắp mọi nơi để rồi tự quên hết: chúng ta ở đâu, chúng ta là ai. Nhìn một cách rõ ràng thì không có cách nào thay đổi điều đó. Nó đã mục ruỗng từ trên xuống dưới. Dành thời gian ở văn phòng; sinh con đẻ cái như một nghĩa vụ; nở nụ cười lịch sự trong bữa tiệc mừng nghỉ hưu của mình; rồi nằm trên giường ăn đào đóng hộp ở viện dưỡng lão. Tốt nhất là không ai nên được sinh ra – không ham muốn gì, không hi vọng gì. Và tất cả những suy nghĩ tiêu cực ấy trộn lẫn với vô số hình ảnh, hay những giấc mơ nửa thực nửa ảo, về cảnh Popchik ốm yếu nằm đó thở, xương sườn lên xuống đều đặn – tôi đã bỏ quên nó ở đâu đó, để nó một mình và quên cho nó ăn, nó đang chết dần – cứ liên tục như vậy, ngay cả khi nó đang ở trong phòng cùng với tôi, đầu ngẩng lên khi thấy tôi tỉnh dậy với vẻ mặt đầy tội lỗi, Popchik đâu rồi; và điều đó lại hòa lẫn với những hình ảnh chớp nhoáng trong đầu về cái vỏ gối được bọc chặt và nhốt trong cái tủ thép của nó. Dù tôi đã từng đưa ra lý do gì cho việc cất nó trong suốt những năm qua – quyết định cầm giữ nó – thậm chí là quyết định mang nó ra khỏi bảo tàng – thì giờ tôi cũng không nhớ nữa. Thời gian đã xóa mờ nó rồi. Nó thuộc về một thế giới không tồn tại nữa – hay đúng hơn là, như thể tôi đang sống ở hai thế giới, và cái tủ nơi cất giữ bức tranh thuộc về thế giới tưởng tượng thay vì thế giới thực. Thật dễ để không nhớ gì về cái tủ đó, để vờ như nó không tồn tại; tôi đã từ mong là khi mình mở tủ ra thì bức tranh đã biến mất mặc dù tôi biết không đời nào lại vậy, cái tủ sẽ vẫn đóng chặt và nằm yên trong bóng tối, chờ tôi mãi mãi tại nơi tôi đã bỏ nó lại, giống thi thể của một người mà tôi đã giết và giấu ở tầng hầm đâu đó.

    Sáng ngày thứ tám tôi thức dậy, ướt đẫm mồ hôi sau bốn tiếng khó ngủ, toàn thân trống rỗng và thấy buồn chán như tôi vẫn thường thấy trong suốt cuộc đời này, nhưng vẫn đi vững để dắt Popchik đi dạo quanh khu nhà rồi vào bếp và ăn bữa sáng giúp chóng khỏi bệnh – trứng luộc và bánh muffin – mà Hobie đã bắt tôi phải ăn.

    “Mà cũng đến giờ rồi.” Ông đã ăn xong bữa sáng của mình và đang khẩn trương rửa bát đĩa. “Cháu trông trắng bệch – ta rồi cũng thế, cả tuần chỉ toàn uống soda. Chút ánh nắng mặt trời là thứ cháu cần, chút khí trời. Cháu và con chó con có thể đưa nhau đi đâu đó.”

    “Vâng.” Nhưng tôi không có ý định đi đâu ngoại trừ xuống cửa hàng, nơi yên tĩnh và không nhiều ánh sáng.

    “Ta không can thiệp vào chuyện của cháu, mấy hôm nay cháu cũng mệt...” ông quay lại tông giọng khi bàn chuyện làm ăn, cũng với một cái lắc đầu xã giao, khiến tôi phải bồn chồn đảo mắt hướng khác và nhìn chằm chằm vào đĩa của mình... “nhưng khi cháu tạm nghỉ, đã có vài cuộc gọi vào điện thoại bàn.”

    “Vậy ạ?” Tôi đã tắt nguồn di động và để vào ngăn kéo tủ; tôi còn chẳng dám xem nó vì sợ có tin nhắn gì từ Jerome.

    “Một cô gái trẻ...” ông xem lại tập giấy nhớ, mắt ngước nhìn tôi qua vành kính... “Daisy Horseley?” (Daisy Horseley là tên thật của Carole Lombard.) “Nói cổ đang bận công việc” (ý là Hôn phu đang ở đây, Tránh đi) “và nhắn tin cho cổ nếu cháu muốn liên lạc.”

    “Tuyệt, cám ơn ông.” Đám cưới trọng đại của Daisy ở Nhà thờ Quốc gia, nếu nó có xảy ra, thì sẽ vào tháng sáu, sau đó cổ sẽ chuyển tới DC với bạn trai, như cổ vẫn gọi vậy.

    “Bà Hildesley cũng gọi đấy, về cái tủ cao bằng gỗ hồng đào – không phải cái có chạm khắc ở nóc tủ đâu, cái kia ấy. Một lời đề nghị quá hời – tám ngàn – ta đã chấp nhận, hi vọng cháu không phiền, nếu cháu muốn biết thì cái tủ đó còn không đến ba ngàn. Cả người đàn ông này cũng gọi hai lần – một người tên Lucius Reeve?

    Tôi suýt sặc cà phê – thứ đầu tiên tôi bỏ bụng sau vài ngày – nhưng Hobie có vẻ không để ý.

    “Anh ta để lại số. Nói là cháu sẽ biết đó là việc gì. Ồ...” ông đột nhiên ngồi xuống, bàn tay vỗ nhẹ lên mặt bàn...”và một đứa con nhà Barbour cũng gọi này!”

    “Kitsey?”

    “Không...” ông nhấp một ngụm trà... “Platt? Đọc thế đúng không nhỉ?”


    xii.

    Ý NGHĨ PHẢI NÓI CHUYỆN với Lucius Reeve, không có thuốc phòng thân, đủ khiến tôi muốn quay lại nhà kho cho rồi. Còn với nhà Barbour: tôi không lo lắng đến thế khi phải nói chuyện với Platt, nhưng cũng thở phào khi người nhấc máy là Kitsey.

    “Bọn em đang chuẩn bị bữa tối cho anh,” cổ nói nhanh nhảu.

    “Sao cơ?”

    “Bọn em chưa ai bảo anh à? Ừm – đáng lẽ em nên gọi! Dù sao thì, Mẹ thích gặp anh lắm. Bà muốn biết khi nào anh lại đến.”

    “Thì...”

    “Anh có cần một lời mời không?”

    “Ừ, kiểu vậy.”

    “Giọng anh nghe lạ ghê.”

    “Xin lỗi, anh đang bị, ờ, bị cảm cúm.”

    “Thật sao? Ôi lạy Chúa. Bọn em đều khỏe mà, em không nghĩ là anh bị lây từ nhà em đâu – gì cơ?” cổ đang nói chuyện với một người bên ngoài. “Đây... Platt muốn nghe điện thoại. Nói chuyện với anh sau.”

    “Chào, em trai,” Platt nói khi ảnh giành được máy.

    “Chào anh,” tôi nói, tay xoa nhẹ thái dương, cố gắng không nghĩ về sự kì cục khi Platt vừa gọi tôi là em trai.

    “Anh...” Tiếng bước chân; cánh cửa đóng lại. “Anh muốn cắt đuôi đã.”

    “Vâng?”

    “Chuyện mấy đồ nội thất ấy mà,” ảnh nói suồng sã. “Em có thể bán hộ bọn anh vài thứ không?”

    “Tất nhiên là được.” Tôi ngồi xuống. “Mẹ anh đang muốn bán thứ gì?”

    “Ừm,” Platt nói, “vấn đề là, anh không thực sự muốn làm mẹ bận tâm chuyện này, nếu có thể. Anh không chắc là mẹ sẽ đồng ý, nếu em hiểu ý anh.”

    “Vậy sao?”

    “Ý là, mẹ anh giữ nhiều thứ quá... những thứ hồi còn ở Maine và ở trong kho nữa, mà mẹ chẳng bao giờ nghía lại, em hiểu không? Không chỉ đồ nội thất.Còn đồ bằng bạc nữa, một bộ sưu tập đồng xu... vài thứ đồ gốm mà anh nghĩ sẽ rất đáng giá, nhưng nói thật, trông như phế thải. Anh không nói bóng gió đâu. Trông chúng đúng như phế thải theo nghĩa đen ấy.”

    “Em nghĩ câu hỏi của mình là, tại sao anh lại muốn bán nó.”

    “Thì, cũng không cần phải bán nó,” ảnh nói hấp tấp. “Nhưng vấn đề là, mẹ anh cứ ngoan cố muốn giữ mấy thứ cũ rích vớ vẩn.”

    Tôi dụi mắt. “Platt à...”

    “Ý anh là, chúng cứ ở đây mãi. Đống rác này. Hầu hết chúng là của anh, mấy đồng xu và mấy khẩu súng cũ cùng vài thứ nữa, vì Gaga để lại chúng cho anh. Ý anh là...” giọng anh đanh lại... “để anh nói thẳng. Anh vẫn thường hay làm ăn với một người nữa, nhưng nói thật là anh muốn làm việc với em hơn. Em biết bọn anh, biết Mẹ anh, và anh biết em sẽ đưa ra một mức giá hợp lý.”

    “Đúng,” tôi nói mà không dám chắc. Theo sau là cả một khoảng lặng tưởng chừng vô tận – như thể chúng tôi đang đọc kịch bản và ảnh đang chờ tôi đọc nốt câu thoại của mình – còn tôi thì đang tự hỏi làm cách nào có thể trì hoãn việc ảnh đang làm trong khi mắt tôi dừng lại ở cái tên Lucius Reeve và số điện thoại được gạch ra trong lòng bàn tay mở của Hobie.

    “Ừm, cũng phức tạp lắm,” tôi nói. “Ý em là, em phải tới xem tận mắt trước khi có thể nói chắc điều gì. Đúng rồi...” ảnh đang cố nói gì đó về mấy bức ảnh... “nhưng ảnh cũng không chính xác được. Mà em cũng không mua bán đồng xu hay đồ gốm khác mà anh đang nói. Đặc biệt với xu thì anh cần tìm một người chỉ chuyên mua bán loại đó. Nhưng trong lúc đó,” tôi nói - ảnh vẫn đang cố ngắt lời tôi... “nếu là chuyện nâng giá lên thêm vài ngàn? Em nghĩ em có thể giúp anh.”

    Ảnh im luôn. “Vậy à?”

    Tôi gãi gãi sống mũi. “Chuyện là thế này, em đang gặp vấn đề trong chuyện lập giấy tờ chứng minh nguồn gốc cho một món đồ - đúng là ác mộng, gã đó không chịu buông tha em, em đã cố gắng mua lại món đồ từ hắn, mà có vẻ hắn khăng khăng muốn làm lớn chuyện. Vì sao thì em không biết. Dù sao thì em nghĩ sẽ có ích nếu em có hóa đơn chứng minh rằng em đã mua món đồ này từ một nhà sưu tập khác.”

    “Thì, Mẹ luôn nghĩ em có thể nâng cả mặt trăng mà,” ảnh nói chua chát. “Chắc chắn là mẹ sẽ làm theo những gì em bảo.”

    “Vấn đề là...” Hobie đang ở dưới nghe đài, nhưng tôi vẫn phải hạ thấp giọng xuống hết mức... “chúng ta đang nói chuyện hoàn toàn bí mật đấy chứ?”

    “Tất nhiên.”

    “Em nghĩ ta không nên để mẹ anh tham gia chuyện này. Em có thể viết hóa đơn bán hàng, và ghi ngày ngược trở về trước. Nhưng nếu gã đó có hỏi gì, và nhiều khả năng là vậy, em sẽ bảo hắn tới hỏi anh – em sẽ đưa hắn số của anh, người con cả, mẹ mới góa chồng, blah blah blah...”

    “Gã này là ai?”

    “Tên hắn là Lucius Reeve. Anh từng nghe chưa?”

    “Chưa.”

    “Vậy nói để anh biết, không phải là không có khả năng hắn quen biết mẹ anh, hoặc đã từng gặp bà.”

    “Không thành vấn đề. Mẹ dạo này chẳng gặp gỡ ai mấy.” Lại dừng; tôi có thể nghe tiếng ảnh châm một điếu thuốc. “Vậy... gã này sẽ gọi điện.”

    Tôi tả lại cái tủ đã bán cho hắn. “Em sẽ email gửi ảnh cho anh. Điểm đặc biệt là tượng con phượng hoàng được chạm khắc trên nóc tủ. Tất cả những gì anh cần nói với hắn, nếu hắn gọi, là cái tủ đó để ở nhà anh ở Maine cho tới khi mẹ anh bán nó cho em vài năm trước. Bà đã mua nó từ một nhà buôn đã không còn làm nữa, một người đã chết sau đó vài năm, không nhớ tên ổng là gì, anh sẽ phải đi kiểm tra lại. Mặc dù nếu hắn giục anh...” tôi đã học được một điều đáng kinh ngạc là vết ố của trà và vài phút đặt trong lò vi sóng, nhiệt độ thấp, sẽ làm cho cái biên lai được thêm mấy năm tuối... “em hoàn toàn có thể làm giúp anh một cái hóa đơn bán hàng.”

    “Anh hiểu rồi.”

    “Được rồi. Dù sao thì...” Tôi đi loanh quanh tìm điếu thuốc mà không có... “nếu anh làm tốt nhiệm vụ của mình – anh biết đấy, nếu anh bao che được cho em nếu hắn có gọi – em sẽ đưa anh mười phần trăm giá của món đồ.”

    “Là khoảng bao nhiêu?”

    “Bảy ngàn đô.”

    Platt cười – một tiếng cười giòn tan và vô tư đến lạ. “Bố vẫn luôn nói rằng mấy người buôn đồ cổ giỏi luồn lách lắm.”



    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link thuốc chữa tiêu chảy

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link chất được sản xuất trong tuyến tùng, có tác dụng ức chế melanin, giúp ngủ ngon.
     
  14. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    *Không phải up truyện* =))
    Update chút thông tin cho ai quan tâm ạ.
    Bản điện ảnh của The Goldfinch đã có đạo diễn chính thức là John Crowley - đạo diễn của phim Brooklyn đã được giải BAFTA và đề cử Oscar 2015 (2 đề cử cho Phim hay nhất và Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất). Sản xuất vẫn là team của Hunger Games - Nina Jacobson và Brad Simpson.
    Vậy là càng có lí do để mọi người mong chờ phim này :D

    Nguồn: Huffington Post

    P/S: "Brooklyn" là phim tâm lý yêu đương mà được Imdb chấm 7.5 thì em nghĩ không phải dạng vừa đâu ạ. Truyện này mà chuyển thể thì cũng gây hại não không kém =))
     
  15. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    xiii.

    TÔI GÁC MÁY, cảm thấy vừa mù mờ, lại vừa nhẹ nhõm. Bà Barbour từng nói chuyện với tôi về những món đồ cổ chỉ tầm cấp hai hoặc ba, nhưng bà cũng sở hữu nhiều món đồ hiếm tới mức tôi thấy khó chịu khi biết Platt định bán chúng mà bà không hề hay biết. Còn về chuyện “nhờ vả” – nếu có ai luôn mang dáng vẻ lén lút và gặp rắc rối thì chính là Platt. Mặc dù tôi chưa từng nghĩ tới việc ảnh bị trục xuất khỏi trường, nhưng hoàn cảnh của anh ấy khiến tôi nghi ngờ rằng ảnh đã làm thứ gì khá nghiêm trọng, việc mà có lẽ dính líu tới cả cảnh sát: điều mà, kì lạ thay, làm tôi thấy yên tâm, trong việc dùng tiền để bịt miệng ảnh. Hơn nữa – thật nhẹ nhõm khi nghĩ – nếu ai có thể lấn át được Lucius Reeve thì chính là Platt: cái bản chất côn đồ ẩn dưới vẻ ngoài thượng lưu.

    “Ông Reeve?” Tôi nói giọng lịch sự khi hắn nhấc máy.

    “Hãy gọi tôi là Lucius.”

    “Vậy thì, Lucius.” Giọng hắn lại làm tôi muốn nổi điên; nhưng tôi gan hơn thường lệ vì biết đã có Platt trong tay. “Tôi gọi lại để hỏi ông nghĩ thế nào rồi?”

    “Chắc không phải điều cậu đang nghĩ,” hắn trả lời rất nhanh gọn.

    “Không à?” Tôi đáp bằng giọng dễ dãi, mặc dù giọng hắn đang làm tôi ngạc nhiên. “Vậy hãy nói cho tôi biết.”

    “Tôi nghĩ chắc cậu sẽ muốn tôi nói trực tiếp cho cậu nghe.”

    “Tốt thôi. Xuống phố nhé,” tôi nói nhanh, “vì lần trước ông đã tốt bụng mời tôi tới quán bar rồi.”


    xiv.

    NHÀ HÀNG TÔI CHỌN nằm ở Tribeca – đủ xa để tôi không phải lo là sẽ gặp Hobie hay bạn của ông, và chỗ đó cũng đông bọn thanh niên (hi vọng thế) để khiến lão Reeve thấy lép vế. Tiếng ồn ào, ánh sáng, các cuộc nói chuyện, người không ngừng len lỏi: với những giác quan còn tỉnh táo của mình, tôi ngửi thấy cả tá mùi, rượu, tỏi, nước hoa và mùi mồ hôi, những đĩa gà nấu sả nóng hổi từ nhà bếp vội vã đi ra, những dãy bàn màu xanh lam cùng với chiếc váy màu cam mà cô gái ngồi gần tôi đang mặc giống như thứ hóa chất công nghiệp phun tới tấp vào mắt tôi. Bụng tôi cồn cào vì lo lắng, và khi tôi đang nhai viên thuốc ngăn dịch vị dạ dày thì nhìn thấy cô hầu bàn với hình xăm con hươu cao cổ đang chỉ cho Lucius Reeve về phía bàn của tôi.

    “Xin chào,” tôi nói mà không đứng lên. “Thật vui khi gặp ông.”

    Hắn đưa mắt một vòng quanh quán với vẻ ghê tởm. “Chúng ta phải ngồi đây thật à?”

    “Tại sao lại không?” tôi nói thẳng. Tôi đã cố tình chọn một bàn ở giữa lối đi lại – không quá ồn đến mức phải hét, nhưng cũng khá ồn để có thể làm người ta thấy bị lép vế; hơn nữa, tôi cũng để chừa lại chiếc ghế nơi ánh nắng sẽ chiếu thẳng vào mắt hắn.

    “Thật là buồn cười quá mà.”

    Khi đã chấp nhận hoàn cảnh – nhà hàng này khá đông – hắn bèn ngồi xuống. Mặc dù cử chỉ và lời nói của hắn rất tao nhã và quy tắc, còn bộ vét thì được may phù hợp với người tầm tuổi hắn, nhưng bộ dạng của hắn vẫn khiến tôi liên tưởng tới con cá nóc – hoặc thay vào đó có thể là một nhân vật hoạt hình cơ bắp hoặc Mountie bị bơm phồng lên: cằm chẻ, mũi độn phồng, miệng mở he hé, tất cả đều chen chúc trên khuôn mặt căng phồng và đỏ hồng vì máu tụ lại.

    Sau khi đồ ăn được mang tới – đồ ăn châu Á nóng hổi, với cả mớ hoành thành và hành chiên giòn, xem mặt hắn là biết hắn không ưa mấy món này cho lắm – tôi chờ cho hắn nghĩ kĩ về những gì hắn muốn nói với tôi. Tờ hóa đơn giả đã ở trong túi áo ngực của tôi, cái mà tôi đã viết trên một tờ giấy trong cuốn sổ biên nhận cũ của Welty có từ năm năm trước, nhưng tôi không định đưa nó ra trừ khi bắt buộc.

    Hắn hỏi lấy dĩa; từ cái đĩa “tôm bọ cạp” đáng e ngại của hắn, hắn lôi ra vài cọng rau một cách đầy nghệ thuật. Rồi hắn nhìn tôi. Cặp mắt ti hí của hắn vẫn sáng xanh trên khuôn mặt hồng như da heo. “Tôi có biết về cái bảo tàng,” hắn nói.

    “Biết gì cơ?” tôi hỏi, sau vài giây ngạc nhiên.

    “Cho tôi xin đi. Cậu biết rõ tôi đang nói gì mà.”

    Tôi cảm nhận sự lo sợ đang ở cuối sống lưng, mặc dù tôi rất thận trọng giữ mắt mình nhìn thẳng vào đĩa ăn: gạo cùng rau xào, thứ đơn giản nhất trong thực đơn. “Nếu ông không phiền thì tôi không muốn nói về chuyện đó. Nó là một câu chuyện buồn.”

    “Đúng, tôi có thể tưởng tượng được.”

    Hắn nói bằng giọng khiêu khích tới mức tôi phải ngước lên nhìn một cái sắc lạnh. “Mẹ tôi đã chết, nếu đó là điều ông muốn nói.”

    “Đúng, mẹ cậu đã chết.” Một khoảng lặng dài. “Welton Blackwell cũng thế.”

    “Đúng vậy.”

    “Ý tôi là. Tin đó đầy rẫy khắp các mặt báo, trời ơi. Cả cái thế giới này theo dõi. Nhưng mà…” hắn đưa lưỡi liếm môi một lượt… “đây là điều tôi đang tự hỏi. Tại sao James Hobart lại đi kể chuyện đó với mọi người trong thị trấn nhỉ? Chuyện cậu xuất hiện ở cửa nhà ông ấy với chiếc nhẫn của người cộng sự? Vì nếu ổng im miệng thì sẽ chẳng ai thèm nghĩ về mấy mối liên hệ đâu.”

    “Tôi không hiểu ông muốn nói gì.”

    “Cậu hiểu rất rõ là đằng khác. Cậu đang có thứ mà tôi muốn. Thật ra là thứ mà rất nhiều người muốn.”

    Tôi ngừng ăn, đũa đang ở lưng chừng miệng. Suy nghĩ bột phát trong tôi lúc đó là đứng dậy và bước ra khỏi nhà hàng này nhanh nhất có thể nhưng rồi tôi cũng nhanh chóng nhận ra ý tưởng đó thật ngu ngốc.

    Reeve ngả lưng ra sau ghế. “Cậu đang im lặng.”

    “Đó là vì ông toàn nói những điều vô nghĩa,” tôi nhanh chóng bình tâm lại, đặt đũa xuống và trong chớp nhoáng, tâm trí tôi nghĩ về bố. Ông ấy sẽ xử lý chuyện này thế nào?

    “Cậu có vẻ giật mình đấy. Tôi đang tự hỏi tại sao lại vậy.”

    “Tôi đoán là vì điều này chẳng liên quan chút nào tới cái tủ cả. Vì tôi cũng đang tự hỏi tại sao chúng ta lại tới đây.”

    “Cậu hiểu rất rõ điều tôi đang nói đấy.”

    “Không…” giọng cười kiểu nghi ngờ nghe như thật… “Tôi e là mình không hiểu đâu.”

    “Cậu muốn tôi nói thẳng ra? Ngay tại đây sao? Được thôi. Cậu đã ở cùng Welton Blackwell và cháu gái ông ấy, cả ba người đã ở Khu triển lãm số 32 và cậu…” miệng hắn chầm chậm nở nụ cười… “là người duy nhất bước ra khỏi đó. Và chúng ta đều biết còn thứ gì cũng bước ra khỏi đó mà, phải không?”

    Từ giọt máu trong tôi như thể đã dồn cả xuống chân. Xung quanh chúng tôi, mọi ngóc ngách, tiếng lách cách của dao dĩa, tiếng cười nói, như âm vang trong bốn bức tường lát gạch.

    “Thấy không?” Reeve nói giọng tự phụ. Hắn lại tiếp tục ăn. “Rất đơn giản. Chắc chắn là,” hắn hơi gằn giọng và đặt dĩa xuống, “chắc chắn cậu đã nghĩ không ai sẽ xâu chuỗi được chúng lại? Cậu lấy bức tranh, và khi cậu mang cái nhẫn tới cho cộng sự của Blackwell, cậu đã giao cả bức tranh cho ổng, vì lí do gì thì tôi không biết… đúng, đúng thế,” hắn nói trong khi tôi cố át lời hắn, rồi hắn hơi đổi hướng chiếc ghế, giơ một bàn tay lên để che ánh nắng mặt trời… “rốt cuộc cậu lại thành cái tủ chứa đồ cho James Hobart, vì Chúa, một cái tủ chứa đồ, ổng đã vắt kiệt món đồ của cậu và dùng nó để kiếm tiền.”

    Kiếm tiền? Hobie sao? “Vắt kiệt?” tôi nói, rồi chợt nhớ ra: “Vắt kiệt cái gì?”

    “Nghe này, cái điệu bộ ‘chuyện gì đang xảy ra thế?’ có vẻ nhàm rồi đấy.”

    “Không. Tôi thật sự không hiểu. Ông đang nói về cái khỉ gì vậy?”

    Reeve cắn môi, vẻ mặt tự mãn.

    “Nó là một bức tranh độc nhất vô nhị,” hắn nói. “Một kiệt tác tuyệt đẹp – không ở đâu có. Tôi không thể nào quên lần đầu tiên ngắm nhìn nó ở Mauritshuis… rất khác biệt so với các tác phẩm ở đó, hoặc khác hẳn so với những tác phẩm cùng thời. Không tin nổi là nó được vẽ vào những năm 1600. Một trong những bức tranh cỡ nhỏ xuất sắc nhất, đồng ý không? Một nhà sưu tập tranh đã nói…” giọng hắn mỉa mai… “một nhà sưu tập tranh – cậu biết mà, nhà phê bình nghệ thuật người Pháp, người mà đã tìm lại được nó ấy? Ổng đã tìm ra nó đang bám bụi trong nhà kho của một quý tộc vào năm 1890, và từ đó ổng ‘nỗ lực trong tuyệt vọng’” – hắn dùng ngón tay tạo dấu ngoặc kép – “để đạt được bức tranh. ‘Hãy nhớ, tôi phải có được con chim sẻ vàng này bằng mọi giá.’ Nhưng đó không phải là câu mà tôi muốn nhắc tới. Ý tôi là cái câu nói nổi tiếng kia cơ. Chắc chắn là cậu biết rồi. Sau từng đó thời gian, chắc cậu đã hiểu rất rõ về bức tranh và lịch sử của nó rồi.”

    Tôi đặt khăn ăn lên bàn. “Tôi không biết ông đang nói chuyện gì.” Tôi chẳng còn biết làm gì ngoài bám lấy luận điểm của mình và nói liên tục về nó. Phủ nhận, phủ nhận, phủ nhận, như bố tôi – trong một bộ phim nổi tiếng mà ổng đóng vai tên luật sư lừa đảo – đã khuyên khách hàng của ổng ngay trước cảnh ổng bị bắn.


    Nhưng họ đã trông thấy tôi.

    Chắc có cả người khác nữa.

    Có ba nhân chứng.

    Tôi không quan tâm. Họ nhầm lẫn cả rồi. “Không phải tôi.”

    Họ rồi sẽ gọi người ra làm chứng chống lại tôi.

    Vậy mặc kệ. Cứ để họ làm vậy.


    Ai đó đã kéo rèm che kín cửa sổ, để lại những vệt kẻ sọc trên bàn chỗ chúng tôi ngồi. Reeve nhìn tôi với vẻ thỏa mãn, lấy dĩa châm một con tôm và bỏ vào miệng.

    “Ý là, tôi đã cố suy nghĩ,” hắn nói. “Có thể cậu sẽ giúp được tôi. Có những bức tranh cỡ nhỏ nào cũng thuộc đẳng cấp gần nó? Có lẽ là cái của Velázquez, cậu biết đấy, khu vường của Villa Medici. Bức đó còn hơn cả quỹ hiếm nữa.”

    “Nói lại đi, ông đang nói về chuyện gì? Vì tôi không hiểu ông đang nhắm đến cái gì.”

    “Cậu cứ giữ nó nếu muốn,” hắn nói giả lả, dùng khăn ăn quẹt qua miệng. “Cậu cũng chẳng lừa lọc ai. Mặc dù phải nói là cũng vô trách nhiệm khi để nó bị một tên khờ cầm nắm và mang đi khắp nơi.”

    Trước sự kinh ngạc thật sự của tôi, một sự ngạc nhiên quét qua mặt hắn trong chớp nhoáng. Nhưng nó biết mất cũng rất nhanh.

    “Những người như vậy không nên được giao thứ gì quý giá,” hắn nói, miệng nhai liên tục. “Phố xá giờ đầy rẫy bọn ngu ngốc.”

    “Thứ ông nói chẳng mang một ý nghĩa gì cả,” tôi ngắt lời.

    “Không à?” Hắn đặt dĩa xuống. “Vậy thì. Điều tôi đề nghị - nếu cậu có nhã ý muốn hiểu những điều tôi đang nói – là mua lại thứ đó từ cậu.”

    Tai tôi ù đi – âm thanh từ vụ nổ ngày xưa bắt đầu dội lại – nhưng mỗi khi tôi bị căng thẳng, thứ âm thanh cao vút nhưng tiếng máy bay cất cánh ngay bên tai.

    “Để tôi đưa ra một con số nhé? Ừm. Tôi nghĩ nửa triệu đô sẽ đủ, khi tôi là người có thể gọi một cuộc điện thoại…” hắn lôi trong túi ra chiếc di động và đặt nó lên bàn, gần cốc nước… “và đặt dấu chấm hết cho việc kinh doanh của cậu.”

    Tôi nhắm mắt lại, rồi mở ra. “Nghe này. Tôi phải nói bao lần nữa đây? Tôi thật sự không biết ông đang nghĩ gì nhưng…”

    “Tôi sẽ nói rõ cho cậu nghe, Theodore. Tôi đang nghĩ tới chuyện bảo quản và giữ gìn. Những mối quan tâm mà rõ ràng là cậu hay cộng sự của cậu chưa từng nghĩ tới. Chắc chắn cậu sẽ nhận thấy đó là hành động khôn ngoan nhất – cho cậu, và cho cả bức tranh nữa. Rõ ràng là cậu đang có món hời lớn nhưng nó thật là vô trách nhiệm khi mang nó qua lại trong hoàn cảnh tồi tệ như vậy phải không?”

    Nhưng sự bối rối thật sự trong tôi có vẻ đang thắng thế. Sau một hồi không động tĩnh, hắn đưa tay vào túi áo ngực…

    “Mọi chuyện ổn chứ ạ?” cậu trai bồi bàn đột nhiên xuất hiện.

    “Không sao không sao, ổn cả.”

    Người bồi bàn đi khỏi đó, ngang qua quán ăn để tới nói chuyện với cô chủ quán xinh đẹp. Reeve, từ trong túi, lấy ra vài xấp giấy gấp gọn, thứ mà hắn đẩy qua bàn cho tôi.

    Đó là bản in ra của một trang web. Tôi nhanh chóng lướt mắt qua: FBI… các tổ chức quốc tế… điều tra… cuộc truy tìm toàn diện…

    “Cái quái gì đây?” tôi nói to tới nỗi người phụ nữ bàn bên giật nảy mình. Reeve – đang mải mê ăn trưa – không nói gì.

    “Không, tôi nghiêm túc đấy. Cái này thì liên quan gì tới tôi?” Tôi lướt mắt nhanh qua tờ giấy – truy tố vì giết nhầm người… Carmen Huidobro, một người quản gia ở Miami, bị cảnh sát bắn chết khi họ lục soát căn hộ - tôi đang định hỏi lại lần nữa xem thứ này liên quan gì tới tôi thì chợt chết đứng.


    Một bức tranh của họa sĩ thiên tài tưởng như đã bị phá hủy (The Goldfinch, Carel Fabritius, 1654) dường như đã xuất hiện trong các phi vụ buôn bán của gia đình nhà Contreras, nhưng đáng tiếc là không tìm thấy nó trong cuộc truy quét tại South Florida. Mặc dù các tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp thường được dùng để trao đổi tích trữ vốn cho việc buôn lậu thuốc và vũ khí, bên DEAVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link vẫn bác bỏ mọi chỉ trích mà theo lời FBI là một sự xử lý “lộn xộn” và “kém chuyên nghiệp”, họ đã đưa ra tuyên bố chính thức để xin lỗi vì cái chết của bà Huidobro và giải thích rằng sĩ quan của họ không được huấn luyện để nhận diện hoặc thu hồi các tác phẩm nghệ thuật bị mất cắp. “Trong những tình huống căng thẳng thế này,” Turner Stark, phát ngôn viên của DEA, nói, “ưu tiên của chúng tôi là sự an toàn của sĩ quan và dân chúng trong quá trình chúng tôi đảm bảo luật pháp của nước Mỹ không bị vi phạm.” Sự tranh cãi sau đó, nhất là với vụ truy tố vì cái chết vô tình của bà Huidobro, khiến các cục liên bang phải phối hợp cùng nhau giải quyết. “Tất cả chỉ mất có một cuộc gọi thôi,” Hofstede Von Moltke, phát ngôn viên bộ phận tội phạm – nghệ thuật của Interpol, nói trong cuộc họp báo tại Zurich hôm qua. “Nhưng những người này còn không nghĩ tới gì khác ngoài bắt người chịu tội, và không may là bức tranh giờ đã lặn xuống thế giới ngầm rồi, phải mất hàng thập kỉ nữa nó mới có thể xuất hiện trở lại.”

    Việc buôn lậu tranh ăn trộm và tượng điêu khắc được coi là một ngành công nghiệp có giá trị khoảng sáu tỉ đô trên toàn cầu. Mặc dù không ai khẳng định đã nhìn thấy bức tranh, nhưng các thám tử điều tra tin rằng kiệt tác hiếm có của họa sĩ người Hà Lan đã bị tuồn ra khỏi đất nước này, có lẽ là tới Hamburg, nơi mà nó có thể được mua bán với giá chỉ bằng một phần nhỏ với giá trị thực của nó khi đấu giá.





    Tôi đặt tờ giấy xuống. Reeve, đã ngừng ăn, đang nhìn tôi với một nụ cười kín đáo không hé miệng. Có lẽ nụ cười đó đã mang lại vẻ tao nhã cho bộ mặt hình quả lệ của hắn nhưng không ngờ là tôi đã cười lớn: tiếng cười của sự kinh sợ và cả nhẹ nhõm, giống như khi Boris và tôi cùng nhau cười khi những gã bảo vệ siêu thị béo ị đuổi theo bọn tôi (và suýt bắt được) thì trượt chân khi tới gian hàng đồ ăn và đập mông xuống sàn.

    “Sao?” Reeve nói. Hắn còn một vết ố màu cam trên khóe miệng vì vừa ăn tôm, trông như con quái vật trong truyện Alice. “Tìm được thứ gì hay ho không?”

    Nhưng tất cả những gì tôi có thể làm là lắc đầu và nhìn sang bên kia của nhà hàng. “Này ông,” tôi nói, đưa tay dụi mắt, “tôi không biết nói gì nữa. Hẳn là ông bị ảo tưởng rồi hoặc là… tôi không biết nữa.”

    Reeve, rất đáng khen, đã không tỏ ra chút gì lung lay, mặc dù rõ ràng là hắn đang không vui.

    “Không, thật sự đấy,” tôi vừa nói vừa lắc đầu. “Xin lỗi. Tôi không nên cười. Nhưng đây là thứ ngớ ngẩn nhất mà tôi từng đọc đấy.”

    Reeve gấp khăn ăn lại và đặt lên trên bàn. “Cậu là kẻ dối trá,” hắn nói nhẹ nhàng. “Cậu có thể nghĩ rằng mình có thể thoát vụ này, nhưng không đâu.”

    “Truy tố giết nhầm người? Florida? Cái gì cơ? Ông thật sự nghĩ nó có liên quan tới tôi sao?”

    Reeve nhìn chằm chằm vào tôi bằng cặp bắt xanh sáng nhưng bé ti hí. “Hãy suy nghĩ kĩ đi. Tôi đang cho cậu đường thoát đấy.”

    “Đường thoát?” Miami, Hamburg, ngay cả mấy cái tên đó cũng làm tôi thấy khó tin đến nực cười. “Thoát khỏi cái gì?”

    Reeve chùi môi bằng khăn ăn. “Tôi thấy rất vui vì cậu đã có hứng thú,” hắn nói trơn tru. “Vì tôi đã chuẩn bị đầy đủ để gọi cho người đàn ông này tại bộ phận tội phạm – nghệ thuật mà họ có đề cập và nói cho anh ta mọi thứ về cậu, James Hobart và cái kế hoạch mà hai người đang thực hiện. Cậu thấy sao?”

    Tôi ném tờ giấy xuống bàn, đẩy ghế ra sau. “Tôi sẽ nói là, cứ đi mà gọi cho ảnh. Nhưng hãy cứ làm khách hàng của tôi nhé. Bất cứ khi nào ông muốn nói về chuyện khác thì hãy gọi cho tôi.”


    xv.

    MỘT LỰC ĐẨY khiến tôi lao ra khỏi nhà hàng đó nhanh tới mức tôi còn chẳng để ý mình đang đi đâu nữa; nhưng ngay sau khi tôi đi cách đó được ba, bốn tòa nhà thì người tôi bắt đầu run lên bần bật đến nỗi tôi phải dừng lại ở một công viên nhỏ phía nam đường Canal và ngồi xuống ghế băng, thở dốc, đầu đặt lên hai đầu gối, dưới cánh tay áo bộ vét hiệu Turnbull and Asser của tôi đã ướt đẫm mồ hôi, (tôi biết, qua vẻ mặt của những cô trông trẻ tóc xoăn người Jamaica, những bà già người Ý đang dùng báo quạt và nhìn tôi e ngại) trông giống mấy tên trai trẻ mới tập tành chơi cổ phiếu, vừa ấn nhầm nút và mất toi mười triệu.

    Có một hiệu thuốc nhỏ bên kia đường. Khi nhịp thở của tôi đã tạm ổn, tôi bước qua – cảm thấy lạnh lẽo và cô độc giữa cái tiết trời se se của mùa xuân – và mua một lon Pepsi từ máy bán hàng tự động rồi bước đi mà không cầm tiền thừa, quay trở lại chỗ ngồi rợp bóng mát ở công viên, cái băng ghế bám bụi ấy. Vài con bồ câu vỗ cánh bay. Tiếng xe cộ ồn ào vọng lại từ phía đường hầm, những thị trấn khác, thành phố khác, những trung tâm mua sắm và bãi đậu xe, hàng dài những chuyến xe mua bán liên bang. Được một mình giữa âm thanh ù ù đó cũng thật dễ chịu, gần giống như đang nghe tiếng gọi của sóng biển, và lần đầu tiên tôi đã hiểu động cơ nào đã khiến bố tôi rút hết tiền trong tài khoản của mình, lấy vài chiếc áo trong máy giặt, đổ đầy bình xăng, và rời thành phố mà không nói một lời. Những xa lộ nắng cháy, dò kênh trên đài, những nhà kho đầy lúa mỳ, mùi khói xe, những con đường rộng ngoằn ngoèo cuộn lại như một mảnh đất bí mật.

    Tôi lại không thể không nghĩ tới Jerome. Ổng sống tận phía Adam Clayton Powell, vài tòa nhà là đến điểm cuối của tuyến buýt số 3, nhưng có một quán bar tên Brother J trên đường số 110 nơi mà chúng tôi vẫn thi thoảng gặp nhau: một quán rượu lụp xụp của dân lao động, máy hát bật mấy bài của Bill Withers, sàn nhà thì dính và mấy gã nghiện rượu thì say sưa với chai bourbon lúc hai giờ chiều. Nhưng Jerome không buôn thuốc nếu lợi nhuận ít hơn một ngàn đô và mặc dù tôi biết ổng sẽ vui vẻ bán cho tôi vài túi, sẽ đỡ rắc rối hơn nếu tôi tự bắt taxi xuống thẳng khu gần cầu Brooklyn.

    Một quý bà với con Chihuahua; lũ trẻ cãi cọ nhau vì bắp rang bơ. Phía đường Canal phát ra những tiếng còi hụ xa xăm, thứ âm thanh đang đụng độ với tiếng ù ù trong tai tôi: nó như tới từ một cỗ máy thời chiến, như tiếng của những tên lửa không người lái đang tới gần.

    Với bàn tay ấn chặt lên tai (không những không làm cho tiếng ù tai mất đi mà còn làm nó âm vang lớn hơn) tôi ngồi bất động và cố gắng suy nghĩ. Cái dự tính ngốc nghếch của tôi về chuyện cái tủ giờ khiến tôi cảm thấy thật kì cục – đơn giản là tôi sẽ tới gặp Hobie và thừa nhận việc mình đã làm: không vui vẻ gì, khủng khiếp thì đúng hơn, nhưng tốt hơn là ông nên nghe nó từ tôi. Tôi chưa thể tưởng tượng ra ông sẽ phản ứng thế nào; đồ cổ là tất cả những gì tôi hiểu biết, sẽ rất khó cho tôi để tìm một công việc khác về bán hàng nhưng tôi có thể tiện làm luôn tại một xưởng chế tác nào đó nếu bắt buộc, mạ khung hoặc cắt chỉ; công việc chế tác lại sẽ không được trả nhiều nhưng rất ít người biết cách biến một món đồ cổ theo bất kỳ tiêu chuẩn nào, nên tôi sẽ có nhiều khả năng được nhận. Còn với bài báo kia: những gì trong đó khiến tôi không thể nào hiểu nổi, gần giống như tôi bước vào nhầm suất chiếu khi đã được một nửa bộ phim. Một mặt nó khá rõ ràng: một công ty lừa đảo nào đó đã làm giả bức oanh vàng của tôi (về kích cỡ và kỹ thuật, cũng không quá khó để làm được vậy) và thứ giả mạo đó đã trôi nổi khắp nơi với vai trò là đồ đổi chác trong các cuộc buôn lậu thuốc, và nó đã bị nhận diện nhầm bởi những trùm buôn lậu và đặc vụ bang thiếu hiểu biết. Nhưng không cần biết câu chuyện đó kịch tính ra sao hay nó chẳng liên quan gì tới tôi hay bức tranh, thì những liên kết Reeve đưa ra vẫn là chính xác. Ai mà biết được Hobie đã kể cho bao nhiêu người về chuyện tôi xuất hiện trước cửa nhà ông? hay những người đó đã kể cho bao nhiêu người khác? Nhưng cho tới nay thì không ai, kể cả Hobie, từng suy luận rằng chiếc nhẫn của Welty là bằng chứng rằng tôi đã buổi triển lãm đó với bức tranh cả. Đó mới là nút thắt câu chuyện, nhưng bố tôi vẫn nói. Đây là thứ sẽ khiến tôi vào tù. Tên trộm người Pháo, người đã hoảng loạn và đốt rất nhiều bức tranh hắn trộm được (của Cranach, Watteau, Corot) chỉ phải chịu hai mươi sáu tháng trong tù. Nhưng đó là ở Pháp, khoảng thời gian ngay sau vụ 11/9; và, với những điểm mới trong luật chống khủng bố liên bang, những tên trộm ở bảo tàng sẽ phải đeo thêm một cáo buộc nghiêm trọng vì “trộm cắp tài sản văn hóa.” Hình phạt đã cứng rắn hơn, đặc biệt là ở Mỹ. Và cuộc đời tôi thì không chịu nổi thêm sự soi mói nữa. Kể cả may mắn tôi cũng sẽ đối mặt với năm đến mười năm tù.

    Điều mà – nếu nói thật – tôi đáng phải nhận. Làm sao tôi lại nghĩ mình có thể giấu nó chứ? Trong hàng năm trời, tôi đã có ý định xử lý nó, đưa nó về nơi nó nên ở, nhưng bằng cách nào đó tôi liên tục tìm ra lý do để không làm vậy. Nghĩ tới việc nó bị đóng gói và niêm phong để đưa lên phố đã khiến tôi thấy mất mát, trống rỗng, như thể nếu chôn vùi nó sẽ chỉ càng cho nó thêm sức mạnh, khiến nó mang dáng vẻ hoàn hảo hơn nữa. Bằng cách nào đó, ngay cả khi bị bọc kín trong ngăn tủ chứa đồ, nó vẫn có cách riêng để giải thoát chính mình và đi ra trước sự ngắm nhìn của công chúng, tận hưởng thứ ánh sáng vinh quang trước sự chiêm ngưỡng của cả thế giới.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Drug Enforcement Administration: Cục quản lý buôn lậu thuốc
     
    man in the moon and dongtrang like this.
  16. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    xvi.

    “HOBIE,” TÔI NÓI, “CHÁU đang gặp rắc rối.”

    Ông rời mắt khỏi cái tủ kiểu Nhật mà ông đang đánh bóng dở và ngước lên nhìn: có hình gà trống và sếu, mái chùa màu vàng trên nền gỗ đen. “Ta giúp gì được không?” Ông đang mài lại chỗ cánh sếu với chút màu nước acrylic – trông rất khác với thứ sơn shellacVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link gốc của nó, nhưng quy định đầu tiên của việc chế tác lại, như ông vẫn thường dạy tôi, là không bao giờ được làm những việc không thể sửa chữa nổi.

    “Thật ra, vấn đề là. Cháu có lẽ đã khiến ông gặp rắc rối. Một cách vô tình thôi ạ.”

    “Ừm…” cái chổi lông trên tay ông không động đậy nữa… “nếu cháu trót nói với Barbara Guibbory là chúng ta sẽ giúp cổ trang trí cái nhà ở Rhinebeck, thì cháu phải tự làm thôi. ‘Màu sắc của những linh hồn.’ Ta chưa từng nghe có thứ như vậy.”

    “Không…” tôi cố gắng nghĩ ra thứ gì đó hài hước để nói… bà Guibbory, biệt danh ngắn gọn là “Trippy,” thường là chủ đề gây cười – nhưng tâm trí tôi giờ đã hoàn toàn trống rỗng. “Cháu e là không phải chuyện đó.”

    Hobie đứng thẳng dậy, ông gài chổi lông ra sau tai, lau trán bằng cái khăn tay hoa văn chằng chịt, trông chúng lộn xộn như có ai vừa nôn một mớ hỗn độn màu tím lên đó, cái thứ mà chắc ông đã mua lại từ một bà già điên khùng nào đó trong phiên chợ. “Vậy có chuyện gì?” ông nói giọng bình tĩnh và với tay lấy cái khay mà ông đã pha màu sẵn. Giờ tôi đã qua tuổi đôi mươi, khoảng cách thế hệ giữa chúng tôi không còn nữa, tới mức trách nhiệm luôn chia đều cho cả hai bình đẳng đến nỗi tôi cũng không nhớ cuộc sống khi trước với bố tôi là thế nào – lúc nào cũng cảnh giác, cố gắng tìm hiểu xem tình hình ổng tệ hại đến mức nào rồi và tôi chỉ dám mong chờ một câu trả lời tử tế từ ổng.

    “Cháu…” tôi quờ tay ra sau để chắc rằng cái ghế phía sau không bị dính khi tôi ngồi xuống. “Hobie, cháu vừa phạm phải một sai lầm ngớ ngẩn. Không, thật sự là rất ngu,” tôi nói rõ thêm khi thấy ông tốt bụng phủ nhận lời thú tội đó.

    “Ừm…” ông dùng lọ nước tí hon và nhỏ vài giọt màu nâu vào khay… “Ta không biết ngớ ngẩn là thế nào, nhưng chắc chắn là nó đã làm mấy ngày cuối tuần của ta mất vui khi trông thấy vết khoan còn sót lại trên mặt bàn của bà Wasserman. Đó là cái bàn kiểu William and Mary rất đẹp. Ta biết là bà ấy không nhìn ra chỗ ta đã che cái lỗ khoan lại nhưng cái lúc đó đúng là không muốn nghĩ lại.”

    Thái độ tập trung nửa vời của ông càng khiến mọi việc khó khăn hơn. Như một cơn rùng mình đến bất chợt, tôi vội vã bắt đầu câu chuyện về Lucius Reeve và cái tủ hắn đã mua, bỏ ngoài chuyện với Platt và cái biên lai giả trong túi áo ngực của tôi. Khi đã bắt đầu kể, tôi dường như không dừng lại nổi, cứ như việc duy nhất tôi làm tốt là nói và nói giống một kẻ giết người đang khai nhận với cảnh sát dưới ánh sáng bóng đèn lờ mờ trong phòng giam. Có lúc Hobie lại dừng làm việc, gài bút ra sau tai; ông im lặng lắng nghe, cặp lông mày như trĩu nặng xuống và ánh nhìn kiểu con-gà-lôi-bắc-cực-đang-tư-lự mà tôi từng thấy nhiều lần. Rồi ông rút cái bút từ sau tai, nhúng nó vào nước trước khi lau nó vào mảnh vải.

    “Theo à,” ông nói, một bàn tay giơ lên, mắt nhắm lại – tôi vẫn tiếp tục kể về tấm séc chưa được đổi thành tiền, về tình huống nguy hiểm hiện tại – “Dừng lại. Ta nắm được rồi.”

    “Cháu rất xin lỗi.” tôi lắp bắp. “Cháu không bao giờ nên làm việc đó. Không bao giờ. Nhưng đúng là ác mộng. Hắn giận dữ và thù hằn lắm và dường như hắn tỏ ra vậy vì một lý do nào đó – ông biết đấy, lí do nào đó không liên quan tới chuyện này.”

    “Ừm.” Hobie bỏ kính ra. Tôi có thể thấy rõ sự bối rối ở ông khi theo sau đó là cả một khoảng im lặng dài, ông đang cố sắp xếp lại câu trả lời của mình. “Cái gì đã xong rồi thì cho qua. Đào sâu thêm cũng chẳng ích gì. Nhưng mà…” ông ngừng lại, rồi nghĩ. “Ta không biết tên này là ai, nhưng nếu hắn nghĩ nó là một cái tủ Affleck thì hiểu biết của hắn hơi ít. Khi trả bảy lăm ngàn – hắn trả cháu từng đó phải không?

    “Vâng.”

    “Vậy hắn cần đi khám não gấp, ta chỉ có thể nói vậy thôi. Những món đồ có chất lượng vậy chỉ xuất hiện một hoặc hai lần trong một thập kỷ, khoảng vậy. Và chúng không bao giờ tự nhiên xuất hiện.”

    “Đúng, nhưng mà…”

    “Hơn nữa, bất cứ tên ngốc nào cũng biết, một món đồ nhà Affleck thật sự sẽ có giá trị lớn hơn thế. Ai lại đi mua cái món đồ như vậy? Chỉ có thằng ngu mới làm thế. Với lại,” ông nói át lời tôi, “cháu đã có quyết định đúng khi hắn gọi để nói chuyện. Cháu cố gắng hoàn lại tiền, và hắn không lấy, cháu nói vậy phải không?”

    “Cháu không đề nghị hoàn tiền. Cháu cố gắng mua lại cái tủ ấy.”

    “Với mức giá cao hơn giá hắn đã trả! Và chuyện sẽ thế nào nếu hắn đưa vụ này ra tòa? Mà chắc chắn hắn sẽ không làm vậy.”

    Trong không gian lặng như tờ, với ánh sáng xanh bệnh viện tỏa ra từ cái đèn làm việc của ông, tôi mới nhận thức được cả hai chúng tôi đều đang bất an tới mức không biết nói gi tiếp. Popchyk – đang ngủ trên mảnh vải gấp gọn mà Hobie đã đặt giữa hai chân bàn cho nó – vừa ngủ vừa khẽ rên gầm gừ.

    “Ý ta là,” Hobie nói – ông phủi bụi đen khỏi hai bàn tay và đang cố với lấy cái bút lông bằng bàn tay nửa vững nửa run, cứ như có hồn ma đang điều khiển công việc của ông vậy – “việc bán hàng chưa bao giờ là lĩnh vực của ta, cháu biết mà, nhưng ta cũng đã làm công việc này lâu rồi. Và đôi khi…” ông phóng bút… “ranh giới giữa quảng cáo sai lệch và lừa đảo là rất mong manh.”

    Tôi hồi hộp chờ, mắt tôi dán chặt vào cái tủ kiểu Nhật. Đó là một món quà mừng nghỉ hưu rất đẹp dành cho một thuyền trưởng ở vùng nước gần Boston: vỏ ốc và vỏ trai khảm, vài họa tiết được thêu chữ thập bởi những người chị em gái chưa chồng, mùi dầu cá voi được đốt mỗi tối, cái vẻ tĩnh lặng khi tuổi đời của nó cứ tăng dần.

    Hobie lại đặt bút xuống. “Ôi, Theo,” ông nói giọng nửa giận dữ, mu bàn tay quẹt lên trán và để lại một vệt đen. “Cháu nghĩ là ta sẽ đứng đó mà quát mắng cháu ư? Cháu nói dối hắn. Cháu cố gắng để sửa chữa nó. Nhưng hắn không muốn bán. Cháu còn làm gì được?”

    “Đó không phải món duy nhất.”

    “Sao cơ?”

    “Đáng lẽ cháu không bao giờ nên làm vậy.” Tôi không thể nhìn thẳng vào mắt ông. “Lúc đầu cháu làm vậy là để trang trải chi phí sinh hoạt, để đưa chúng ta ra khỏi nợ nần, và rồi cháu đoán – ý cháu là một vài món cũng thật tuyệt vời, chúng đã khiến cháu nhầm lẫn vì chúng cứ nằm trong kho suốt…”

    Tôi nghĩ mình đang mong chờ thái độ không tin, lớn giọng, giận dữ hay đại loại thế. Nhưng còn tệ hơn. Nếu giận dữ phát điên thì tôi còn kiểm soát được. Đằng này ông không nói một lời, chỉ nhìn thẳng vào tôi với cái vẻ phụng phịu chán nản được chiếu rọi bởi ánh sáng đèn bàn, giá dụng cụ in bóng lên bờ tường phía sau như những ký tự Masonic cổ. Ông để tôi nói hết những gì cần nói, và im lặng lắng nghe, và khi ông cuối cùng cũng chịu nói thì giọng ông nhỏ nhẹ bất thường như không còn sức lực.

    “Thôi được rồi.” Ông trông như hình tượng trong một tác phẩm văn học: ông đeo chiếc tạp dề đen trên nền thảm hoa văn đầy bí ẩn, sáng tối lẫn lộn. “Được rồi. Vậy cháu định xử lý chuyện này thế nào?”

    “Cháu…” Đây không phải câu trả lời tôi mong chờ. Vì sợ cơn giận của ông (với Hobie, dù rất tốt tính và hiền lành nhưng chắc chắn ông cũng biết giận) tôi đã chuẩn bị đủ những lời giải thích và bao biện nhưng khi đối mặt với sự bình tĩnh đến kỳ lạ của ông thì tôi lại không biết nói gì để bảo vệ bản thân nữa. “Cháu sẽ làm theo những gì ông bảo.” Từ khi còn là đứa trẻ, chưa bao giờ tôi thấy xấu hổ và nhục nhã như lúc này. “Là lỗi của cháu – cháu sẽ chịu mọi trách nhiệm.”

    “Thì, mấy món đó cũng bán ra rồi.” Dường như ông đang tự làm sáng tỏ câu chuyện, vừa đi vừa tự nói với chính mình. “Không ai khác liên lạc với cháu à?”

    “Không ạ.”

    “Việc này được bao lâu rồi?”

    “À…” ít nhất là năm năm rồi… “khoảng một, hay hai năm?”

    Ông nhăn mặt. “Chúa ơi. Không, không,” ông nói gấp gáp, “Mừng là cháu đã nói thật với ta. Nhưng cháu sẽ phải bận rộn đấy, phải liên lạc lại những người khách đó, nói rằng cháu đang có chút không chắc về món đồ - cháu không cần nói cụ thể câu chuyện, chỉ nói là đang có vài vướng mắc về nguồn gốc của nó – và cháu đề nghị mua lại món đó bằng giá tiền họ đã trả. Nếu họ không đồng ý – tốt thôi. Dù gì cháu cũng đã có lời rồi. Nhưng nếu họ đồng ý – cháu sẽ phải hoàn thành xong xuôi việc đó – hiểu chứ?”

    “Vâng.” Điều tôi không nói – và không thể nói – là chúng tôi không có đủ tiền để đền bù nổi một phần tư số khách hàng. Chúng tôi sẽ phá sản sau một ngày.

    “Cháu nói là vài món đồ. Là những món nào? Bao nhiêu món?”

    “Cháu không biết.”

    “Cháu không biết?”

    “Thì cháu có biết, chỉ là cháu…”

    “Theo, thôi nào.” Giờ thì ông đang giận; thật nhẽ nhõm. “Đừng thế nữa. Hãy nói chuyện nghiêm túc đi.”

    “Thì… những lần đó cháu không ghi sổ. Bằng tiền mặt thôi. Và, ý cháu là, không thể nào mà biết rõ được, kể cả có đối chiếu với sổ sách đi nữa…”

    “Theo. Đừng bắt ta phải hỏi nhiều lần. Bao nhiêu món?”

    “Thì…” tôi thở dài… “chừng một tá? Khoảng đó chăng?” Tôi nói thêm khi thấy vẻ sửng sốt trên mặt Hobie. Thật ra là gấp ba lần số đó, nhưng tôi khá chắc hầu hết những người tôi lừa đều chẳng biết gì hoặc quá giàu có đến mức chẳng thèm quan tâm.

    “Lạy Chúa, Theo à,” Hobie nói sau một hồi chết lặng. “Một tá? Không phải ở mức giá trên trời kia chứ? Không giống món nhà Affleck chứ?”

    “Không, không,” tôi nói vội (mặc dù thật ra tôi đã bán vài món với giá gấp đôi mức của cái tủ nhà Affleck). “Và cháu không bán cho khách quen.” Ít nhất phần đó tôi nói thật.

    “Vậy ai?”

    “Phía bờ Tây. Lũ người mê phim ảnh – mê công nghệ. Cả ở phố Wall nữa nhưng toàn là thanh niên ngờ nghệch với mớ tiền ngu ngốc của họ.”

    “Cháu có danh sách khách hàng?”

    “Không phải cái chính thức, nhưng cháu…”

    “Cháu có thể liên lạc với họ không?”

    “Thì, ông biết đấy, sẽ rất phức tạp, vì…” tôi chẳng lo sợ gì về lũ người từng tin họ đã vớ được món đồ kiểu Sheraton với giá hời và nhanh chóng chạy trốn với thứ đồ giả, nghĩ rằng họ đã lừa được tôi. Luật Caveat EmptorVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link được áp dụng hoàn hảo trong trường hợp này. Tôi chưa từng tuyên bố những món đó là đồ thật. Tôi chỉ lo về những người mà tôi cố tình bán, cố tình lừa dối họ.

    “Cháu không ghi lại.”

    “Cháu không ạ.”

    “Nhưng cháu cũng có cách làm. Cháu có thể lần lại được.”

    “Cũng tùy hoàn cảnh.”

    “ ‘Cũng tùy hoàn cảnh.’ Ta không hiểu câu đó là gì.”

    “Có những tờ xác nhận giao hàng. Cháu có thể ghép nối chúng lại.”

    “Chúng ta có đủ tiền để mua lại tất cả số đó không?”

    “Ừm…”

    “Chúng ta có thể không? Có hay không?”

    “Ừm…” tôi không thể nói cho ông sự thật rằng chúng tôi không đủ tiền… “nếu cố gắng thì sẽ đủ.”

    Hobie dụi mắt. “Cố gắng hay không thì chúng ta cũng phải làm. Không còn sự lựa chọn nào khác. Phải thắt lưng buộc bụng thôi. Mặc dù sẽ rất khổ sở - ngay cả khi chậm nộp thuế đi nữa. Vì,” ông nói, khi tôi đang tiếp tục nhìn, “chẳng có nổi một món đồ trong số đó là thật. Lạy Chúa…” ông lắc đầu như không tin nổi nữa… “thế quái nào mà cháu lại làm được việc đó? Chúng còn chẳng phải những món đồ giả đẹp đẽ! Vài chất liệu ta dùng – những món mà ta làm – còn như vá chồng lên nhau…”

    “Thật ra…” sự thật là, tác phẩm của Hobie đủ tuyệt để lừa hẳn một vài nhà sưu tập nghiêm túc, nhưng nói vậy lúc này cũng không phải ý hay…

    “… và, cháu thấy đấy, vấn đề là, nếu một trong các món đồ cháu bán có nhầm lẫn – thì các món khác cũng thế. Người ta sẽ nghi ngờ mọi thứ - mỗi một cái gậy đã từng ra vào cửa hàng này. Ta không biết liệu cháu đã từng nghĩ tới chuyện này chưa.”

    “À…” Tôi đã từng nghĩ rồi, rất nhiều. Tôi đã không thể ngừng nghĩ về chuyện đó từ sau bữa ăn trưa với Lucius Reeve.

    Ông không nói gì, một lúc lâu, khiến tôi bắt đầu thấy lo. Nhưng ông chỉ thở dài và dụi mắt rồi quay nửa người ra chỗ khác, trở lại với công việc của mình.

    Tôi cũng im lặng, đứng nhìn những đường sơn đen bóng loáng từ chiếc bút của ông đang đi dọc theo một cành anh đào. Giờ đây mọi thứ đã khác. Hobie và tôi cùng mở một công ty, cùng nộp thuế. Tôi là người được ông ủy quyền để kinh doanh. Thay vì chuyển ra ngoài ở một căn hộ riêng, tôi lại chọn ở trên gác của căn nhà này và trả ông một khoản tiền thuê nhà có cũng như không, vài trăm đô một tháng. Cho tới giờ, tôi đã có một mái nhà, một gia đình, đó chính là Hobie. Khi tôi xuống tầng dưới và giúp ông cắt dán, công việc cũng chẳng to tát gì vì thật ra ông muốn tôi được trải qua cảm giác thích thú khi lật tung mọi thứ để tìm được mẩu gỗ phù hợp và khi nói phải hét lên với nhau để át tiếng mấy bài nhạc của MahlerVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; và đôi khi, khi chúng tôi đi dạo tới quán Ngựa Trắng vào các buổi tối để uống rượu và ăn một cái sandwich ở quầy, tôi thường cảm thấy đó là khoảng thời gian tuyệt nhất trong ngày.

    “Sao?” Hobie nói mà không rời mắt khỏi món đồ, biết chắc rằng tôi vẫn đứng sau lưng ông.

    “Cháu xin lỗi. Cháu không cố ý để mọi việc đi xa thế này.”

    “Theo.” Cái bút lông ngừng lại. “Cháu biết rất rõ là đằng khác – rất nhiều người chắc hẳn sẽ tới vỗ vai khích lệ cháu nếu họ biết việc này. Và, ta nói thẳng luôn, một phần trong ta cũng thế vì ta không hiểu sao cháu có thể làm thành công một việc như vậy. Ngay cả Welty – Welty cũng đã giống cháu, khách hàng yêu quý ổng, ổng có thể bán bất cứ thứ gì, nhưng dù có chút sai lệch đi nữa thì ổng còn sử dụng những món đồ có giá trị. Đồ Hepplewhite, Chippendale đều là thật! Vậy mà còn chẳng thoát được! Còn cháu thì ở trên cửa hàng và kiếm tiền bằng mấy món rác rưởi này!”

    “Nó không phải rác,” tôi nói, tự thấy vui vì được nói ra sự thật một lần. “Rất nhiều món đồ có chất lượng cực tốt. Nó còn đánh lừa cháu cơ mà. Cháu nghĩ, vì ông tự làm ra chúng, nên ông không nhận ra. Cũng dễ hiểu thôi.”

    “Đúng nhưng mà…” ông dừng lại, có vẻ như đang không biết phải nói gì… “những người không biết về nội thất, thì rất khó khiến họ chi tiền mua nội thất.”

    “Cháu biết.” Chúng tôi có một chiếc ghế cao, thời Queen Anne, mà hồi còn nghèo túng tôi đã cố bán nó với đúng giá trị của nó, vào khoảng hai trăm ngàn. Nó vẫn ở trong cửa hàng bao năm qua. Nhưng cho dù bao lời đề nghị béo bở được gửi tới dạo gần đây thì tôi vẫn từ chối – đơn giản là vì một món đồ quý giá độc nhất như vậy, khi đặt dưới ánh sáng phù hợp ngay lối vào cửa hàng, sẽ tỏa ra ánh hào quang phủ lên những món đồ lừa đảo phía sau.

    “Theo, cháu rất giỏi. Cháu là thiên tài trong lĩnh vực của mình, cái đó miễn bàn. Nhưng…” giọng ông lại bất an; tôi có thể cảm nhận được ông đang dò dẫm tìm từ ngữ để nói tiếp… “ý ta là, nhà buôn sống được là nhờ danh tiếng. Đó là quy luật. Không có gì là bí mật được. Lời đồn có thể đi tới bất cứ đâu. Vậy nên, ý ta là…” ông nhúng bút lông vào màu nước, quét vô định lên cái tủ… “khó chứng minh được tội lừa đảo, nhưng nếu cháu không xử lý thì chắc chắn chuyện này sẽ dội lên đầu chúng ta một ngày nào đó trong tương lai.” Bàn tay ông rất vững, cây bút lông không hề run rẩy. “Một món đồ được chỉnh sửa nhiều… bỏ qua mấy thứ ánh sáng mờ ảo đi, cháu sẽ phải ngạc nhiên đấy, ai đó sẽ chuyển nó vào một căn phòng được chiếu sáng đầy đủ… ngay cả máy quay cũng nhận ra được sự không đồng bộ về thớ gỗ mà trước đó mắt thường không nhìn thấy. Khi ai đó chụp ảnh lại món đồ, hoặc, vì Chúa họ quyết định mang nó đến tiệm Christie’s hay Sotheby’s để định giá trước khi tham gia phiên chợ Americana…”

    Sự im lặng đang lớn dần giữa chúng tôi và càng lúc càng thêm nghiêm trọng, không bù đắp nổi.

    “Theo.” Cây bút vẽ bất động, rồi lại tiếp tục. “Ta không phải đang cố bao biện cho cháu nhưng… chắc là cháu không biết, ta chính là người đã đưa cháu và tình cảnh này. Để cháu ở trên đó tự xoay sở. Nghĩ rằng cháu sẽ mãi kinh doanh tốt như thế. Cháu còn rất trẻ, đúng,” ông nói cụt lủn và xoay người lại khi tôi đang định cắt ngang, “cháu còn trẻ, cháu rất rất giỏi quản lý việc kinh doanh mà ta không hề hứng thú, và cháu cũng rất tài năng khi đưa cửa hàng này quay lại hoạt động đến nỗi ta càng thấy mình không hợp đụng tới mọi việc ở cửa hàng trên tầng. Vậy nên ta cũng có lỗi như cháu trong chuyện này.”

    “Hobie, cháu thề. Cháu không bao giờ…”

    “Vì…” ông nhặt chai sơn mở nắp lên, nhìn vào nhãn chai như thể ông không nhớ nó được dùng vào việc gì nữa, rồi lại đặt nó xuống… “ừm, tốt đẹp thế này cũng thật khó tin, đúng không? Cả núi tiền chảy vào, vui nhỉ? Và ta có đòi hỏi gì nhiều không? Không. Đừng nghĩ là ta không quan tâm – nếu cháu không bận rộn công việc trên cửa hàng thì chúng ta đã cho thuê chỗ này và tìm chỗ khác ở rồi. Vậy nên nghe này – chúng ta sẽ bắt đầu lại – tháo tấm biển hiệu xuống và chấp nhận mọi việc như một sự thật. Từng món đồ một. Đó là tất cả những gì ta có thể làm.”

    “Nghe này, cháu muốn nói rõ…” sự bình tĩnh của ông làm tôi đau lòng… “trách nhiệm là cháu chịu. Cháu chỉ muốn ông biết điều đó.”

    “Được.” Khi ông phất nhẹ cái bút, sự khéo léo qua bẩm sinh và tập luyện của ông bỗng trở nên nghiêng ngả một cách kì lạ. “Dù vậy, hãy dừng tại đây, nhé? Không,” ông nói khi tôi đang định chen lời, “thôi nào. Ta muốn cháu lo liệu việc đó và ta sẽ làm những gì có thể để giúp cháu nếu cần nhưng mặt khác, ta không muốn cháu nói về chuyện này nữa. Được chứ?”

    Bên ngoài: trời mưa. Dưới tầng không gian hơi se lạnh, cảm giác như đang ở gần biển. Tôi đứng đó nhìn ông, không biết nên làm gì hay nói gì.

    “Xin cháu đấy. Ta không giận, ta chỉ muốn việc này ổn thỏa. Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả. Giờ hãy lên trên gác giùm, nhé?” ông nói khi thấy tôi vẫn đứng đó. “Món đồ này khó làm lắm, ta thực sự cần tập trung nếu không muốn làm mọi thứ bung bét.”


    xvii.

    TÔI IM LẶNG BƯỚC LÊN TẦNG, nền nhà cót két dưới bước chân tôi, qua hàng dài những tấm hình của Pippa mà tôi không chịu đựng nổi khi nhìn vào. Lúc bước vào nói chuyện, tôi đã nghĩ sẽ nói tin nào dễ nói trước rồi mới chuyển qua cao trào. Nhưng vì cảm thấy bản thân quá sức bẩn thỉu và vô ơn, tôi đã không thể làm vậy. Hobie càng biết ít về bức tranh thì ông càng an toàn. Tôi đã sai lầm quá nhiều khi lôi ông vào chuyện này rồi.

    Nhưng tôi vẫn ước có ai đó để nói chuyện cùng, ai đó tôi thấy tin tưởng. Cứ vài năm một lần lại có một bài báo về các tác phẩm nghệ thuật bị mất tích, bao gồm bức Chim sẻ cánh vàng của tôi và hai bức nữa của van der Ast cũng như vài bức thời Trung cổ và một số đồ cổ Ai Cập; nhiều học giả đã viết các bài nghiên cứu, còn có cả sách nữa; nó nằm trong danh sách Top Mười Tội Danh trên trang web của FBI; hồi xưa, tôi đã từng thấy nhẹ nhõm khi hầu hết mọi người đều cho rằng người nào thoát ra cùng hai bức của van der Ast thì cũng đang nắm trong tay bức tranh của tôi. Hầu hết thi thể ở phòng triển lãm 32 đều tập trung gần lối ra bị đánh sập; theo các nhà điều tra thì có khoảng mười giây, hoặc thậm chí ba mươi giây, trước khi trần nhà sập xuống, để ai đó kịp thoát ra ngoài. Đống đổ nát ở phòng triển lãm 32 đã được lục tìm bằng chổi và găng tay trắng, mọi người đều vô cùng cẩn thận – và trong khi khung tranh của bức Chim sẻ cánh vàng được tìm thấy nguyên vẹn (và được treo trên tường của bảo tàng Mauritshuis ở Hague, “như để tưởng nhớ về sự mất mát không thể thay thế của một di sản văn hóa”), không một mẩu tranh, không một mảnh vỡ hay vụn màu chì được tìm thấy. Nhưng bởi nó được vẽ lên gỗ, đã có một giả thuyết khác được đặt ra (và một nhà lịch sử học nổi tiếng, người mà tôi rất biết ơn, đã khẳng định) rằng Con chim sẻ cánh vàng đã bị thổi bay khỏi khung của nó và lao vào đám cháy khá lớn gần dãy hàng lưu niệm, trung tâm của vụ nổ bom. Tôi đã từng thấy ông trong một bộ phim tài liệu của đài PBS, đi đi lại lại đầy suy tư trước cái khung tranh trống rỗng ở bảo tang Mauritshuis, điều chỉnh hướng camera bằng cặp mắt tinh tường và mạnh mẽ của mình. “Kiệt tác nhỏ bé này sống sót qua vụ nổ ở Delft để rồi lại đối mặt với số phận của nó, vài thế kỷ sau, trong một vụ nổ do con người gây ra, đây đúng là một trong những giả thuyết kì lạ nhất của O. Henry hay Guy de Maupassant.”

    Đối với tôi: câu chuyện chính thức – được in bởi một số nguồn tin và được coi như sự thật – là khi quả bom phát nổ, tôi đang ở cách bức Con chim sẻ cánh vàng vài căn phòng. Những năm qua, một số tác giả cố gắng phỏng vấn tôi và tôi đã từ chối tất cả; nhưng nhiều người, các nhân chứng, đã thấy mẹ tôi ở phòng triển lãm 24 trong thời khắc cuối cùng của mình, người phụ nữ tóc tối màu xinh đẹp mặc áo khoác dài bằng vải xa-tanh, và nhiều nhân chứng trong số đó nói tôi đã ở bên cạnh mẹ. Bốn người lớn và ba trẻ em đã chết trong phòng triển lãm số 24 – và ở phiên bản được công bố của câu chuyện, phiên bản được chấp nhận, thì tôi cũng chỉ là một thi thể khác trên mặt đất, lạnh lẽo và bị những người tìm kiếm bỏ qua.

    Nhưng chiếc nhẫn của Welty là bằng chứng hữu hình về nơi tôi ở hôm đó. May cho tôi, Hobie không thích kể về cái chết của Welty nhưng thi thoảng – không thường xuyên, thường chỉ vào tối muộn sau khi ông uống vài ly – ông bắt đầu hồi tưởng lại. “Cháu có biết ta đang cảm thấy thế nào…? Có phải kì diệu không khi mà…?” Một ngày nào đó, một ai đó sẽ có những liên tưởng. Tôi vẫn biết vậy, nhưng khi tâm trạng tôi đã trôi nổi vì thuốc, tôi đã lờ đi mối nguy hiểm đó. Chắc không ai để ý đâu. Chắc sẽ chẳng ai biết được đâu.

    Tôi ngồi thừ bên giường, mắt nhìn chằm chằm ra Đường số Mười qua cửa sổ - mọi người đang tan sở làm, ra ngoài ăn tối, cười những tràng cười lớn. Tốt thôi, mưa bụi rơi xiên qua vầng hào quang của đèn đường ngay sát cửa sổ phòng tôi. Mọi thứ như nghiêng ngả và mờ nhạt. Tôi đang rất cần một viên thuốc, và ngay khi định đi làm một ly thì – trong bóng tối bên ngoài ánh đèn đường, lạc long trong dòng người đông đúc trên phố - tôi bỗng thấy một dáng người đang đứng một mình bất động dưới mưa.

    Nửa phút trôi qua và hắn vẫn đứng đó, tôi vội tắt đèn và bước tới gần cửa sổ. Như để đáp lời tôi, dáng người đó di chuyển ra phía đèn đường; và mặc dù đường nét của hắn ta không được rõ ràng lắm nhưng tôi cũng đã hình dung ra đủ: vai nhô cao, cặp giò ngắn và đùi dày thịt. Quần jeans và áo nỉ, thêm đôi bốt nặng trịch. Hắn đứng bất động một lúc lâu, dáng vẻ của một người thợ tay chân không ăn nhập gì với phố xá vào tầm giờ đó, trợ lý của các nhiếp ảnh gia cùng nhiều cặp đôi ăn mặc tươm tất, những sinh viên đại học đang vui vẻ tới buổi hẹn ăn tối của minh. Rồi hắn quay đi. Hắn bước đi với một sự mất kiên nhẫn đến vội vàng; khi hắn đi tới chỗ có ánh sáng, tôi thấy hắn thọc tay vào túi lấy ra một cái điện thoại, bấm số, đầu cúi xuống, dáng vẻ mất tập trung.

    Tôi buông rèm cửa xuống. Tôi khá chắc chắn là mình đã trông thấy một số thứ, thật ra tôi vẫn trông thấy chúng hoài, đó là một phần của việc sinh sống ở thành phố, nỗi sợ khủng bố, thiên tai, nhảy dựng lên khi nghe còi ô tô, lúc nào cũng nghĩ điều gì đó sắp xảy ra, mùi khói, tiếng cửa kính vỡ. Vậy nhưng – tôi ước rằng tôi đã tưởng tượng ra chúng.

    Mọi thứ đột nhiên im lặng đầy chết chóc. Đèn đường rọi qua rèm cửa, in lên tường những hình thù như mạng nhện. Lúc nào cũng vậy, tôi vẫn biết là sai lầm, khi giữ bức tranh, vậy mà tôi vẫn giữ nó. Rồi sẽ không có gì tốt đẹp khi giữ nó. Nó còn chẳng cho tôi lợi ích hay vui vẻ gì. Khi còn ở Las Vegas, tôi có cơ hội được nhìn nó khi nào tôi muốn., khi tôi ốm hay buồn ngủ hay buồn bã, vào sáng sớm hay giữa đêm, mùa thu, mùa hè, cùng thay đổi với thời tiết và vầng mặt trời. Ngắm nhìn bức tranh ở bảo tàng là một chuyện, đặt nó dưới đủ loại ánh sáng, thời tiết, nhìn với đủ kiểu tâm trạng mới là ngắm nhìn nó bằng hàng ngàn cách khác nhau; giữ nó trong bóng tối – một tạo vật của ánh sáng, chỉ tồn tại được trong ánh sáng – chính là việc làm sai trái nhất tôi có thể tưởng tượng được. Còn hơn cả sai trái: là điên rồ thì đúng hơn.

    Tôi xuống bếp lấy một cốc đá, mở tủ và tự rót cho minh một ly vodka, quay trở lại phòng và lấy cái iPhone trong túi áo khoác và – sau khi vô thức quay số của Jerome – tôi cúp máy rồi thay vào đó lại quay số nhà Barbour.

    Etta nhấc máy. “Theo!” bà nói, giọng vui thấy rõ, tiếng ti vi trong bếp vọng cả vào điện thoại. “Cậu tìm cô Katherine à?” Chỉ gia đình và bạn bè thân thiết mới gọi con bé là Kitsey; với những người khác nó là Katherine.

    “Em ấy có ở đó không ạ?”

    “Sau bữa tối cô ấy mới về. Tôi biết là cổ cũng chờ cậu gọi lắm.”

    “Ừm…” tôi cũng thấy vui vui. “Vậy bà nói với cổ là cháu đã gọi nhé?”

    “Khi nào cậu lại tới đây?”

    “Cháu hi vọng là sớm thôi. Platt có đó không ạ?”

    “Không… cậu ấy cũng ra ngoài rồi. Chắc chắn tôi sẽ báo lại là cậu gọi. Rồi mau tới đây chơi nhé?”

    Tôi ngồi bên thành giường và uống ly vodka của minh. Cũng an tâm khi biết tôi có thể gọi Platt khi nào cần – không phải để nói về chuyện bức tranh, tôi không tin tưởng ảnh đến mức có thể tiết lộ chuyện, nhưng cũng đủ tin sau vụ cùng nhau đối phó với Reeve. Reeve không bép xép gì thì hẳn là điềm gở đang đến.

    Thế nhưng – hắn còn làm gì được? Tôi càng nghĩ càng thấy Reeve đã tự làm hắn bất lợi bằng việc nói tất cả cho tôi biết. Hắn được lợi gì khi đe nạt tôi chỉ vì một món đồ gỗ? Hắn được cái gì nếu tôi bị bắt, bức tranh được tìm thấy và biến mất khỏi nanh vuốt của hắn mãi mãi? Nếu hắn muốn nó, hắn chỉ việc đứng đằng sau và để tôi dẫn đường cho hắn tới đó. Lợi thế duy nhất của tôi – điều duy nhất – là Reeve không biết bức tranh ở đâu. Hắn có thể thuê bất cứ ai để theo dõi tôi, nhưng chừng nào tôi còn giữ bí mật về nơi cất giấu kia, hắn sẽ không đời nào lần ra được.



    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Là sựu pha trộn của sơn thường và gel nên có độ bám rất lâu

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Điều khoản này nghĩa là khi mua một sản phẩm, người mua đã tự ý thức được về rủi ro món đồ có thể không được như kì vọng

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Gustav Mahler (1860 – 1911): một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Áo
     
  17. Hang ham hap

    Hang ham hap Mầm non

    Cảm ơn bạn nhưng sao bạn ko nén vào 1 file cho gọn?
     
    ngantrang0811 thích bài này.
  18. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Mình cũng muốn vậy cơ mà chưa dịch xong bạn ạ, huhu.
    Giờ đang đi du học nên đang dịch dần bạn ạ, he :D
    Cám ơn bạn đã quan tâm đọc :)
     
    hoalienbao thích bài này.
  19. man in the moon

    man in the moon Mầm non

    Đọc cuốn hút quá bạn ơi. Tớ không đọc bản gốc nhưng đang đọc phần bạn dịch, cảm thấy rất hay và mượt. Cuối năm nay hình như Nhã Nam cũng ra sách này thì phải. Tớ sẽ mua ngay mới được. Quá tuyệt. Cảm ơn bạn nhé.
     
    ngantrang0811 thích bài này.
  20. ngantrang0811

    ngantrang0811 Lớp 4

    Cám ơn bạn nhiều. Dạo này mình bận học bận làm quá, giờ đọc được comment của bạn thấy lại có động lực to lớn để tiếp tục dịch rồi :). Mong bạn tiếp tục ủng hộ mình nha :)
     
    man in the moon and tamchec like this.

Chia sẻ trang này