Truyện ngắn đặc sắc - Nhiều tác giả

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi 4DHN, 5/10/13.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Truyện ngắn đặc sắc

    Tuyển tập những truyện ngắn tiêu biểu của các tác giả Việt Nam

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linku

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkn

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linki

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Phượng Xa - Nguyễn Văn Ðông <Không tìm thấy>

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    ------ Nguyễn Đức Trọng-------

    Đây là những câu truyện rất hay và lãng mạn!

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link :D


    Người post: ductrong90 (TVE)
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/1/16
    meetdak, tran.ngoc, chis and 4 others like this.
  2. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bắt sấu rừng U Minh Hạ - Sơn Nam


    Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông sâu nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tĩnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm.

    Tại sao vậy ?

    Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chánh. Rừng U Minh hạ thuộc về loại trầm thủy (1) cá sanh sôi nẩy nở rất nhanh chóng ; lên đó tha hồ mà ăn.

    Ðến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi phải trở về sông Cái . Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung (2), sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho là sấu đã giảm bớt... Mười phần chết bảy còn ba. Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong (3) chạy về loan báo :

    - Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng !

    So sánh như vậy, không phải là quá đáng ! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn (4). Sấu nổi lên, chen vào những bức tranh mầu xanh ấy những vệt đen chi chít : con thì nằm dài như chiếc xuồng lường (5), con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá . Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lịnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa ! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh (6). Nó là "sấu chúa" sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông (7), lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Ðằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy . Chống xuồng vào thì ao quá cạn, còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.

    Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo (8), tức là vùng Rạch Giá ngày naỵ Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọng nhang trần (9) và một hũ rượu.
    Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát :

    Hồn ở đâu đây ?
    Hồn ơi ! Hồn hỡi !
    Xa cây xa cối,
    Xa cội xa nhành,
    Ðầu bãi cuối gành
    Hùm tha, sấu bắt
    Bởi vì thắt ngặt
    Manh áo chén cơm
    U Minh đỏ ngòm,
    Rừng chàm xanh biếc !
    Ta thương ta tiếc,
    Lập đàn giải oan...

    Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Ðoán chừng ông lão nọ là người có kỳ tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.

    Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo :

    - Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này.

    - Té ra ông thợ câu sấu !

    Ông Năm Hên lắc đầu :

    - Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Ðó là ở dưới nước. Ðằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.

    - Vậy chớ ông bắt bằng gì ?

    - Tôi bắt bằng... hai tay không.

    Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn :

    - Bà con cô bác không tin sao ?

    Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này ! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.

    - Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng ? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. ở xóm này thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

    Ông Năm Hên đáp :

    - Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi ! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện ! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt ? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay : ảnh bị sấu ở Ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của mình ngoài Huế.

    ***

    Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại :

    - Ði nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà .

    Ðã quá giờ ngọ.

    Ngóng về phía ao sấu U Minh hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó, bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời về xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi :

    - Bà con ơi ! Ra coi sấu. Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.

    Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.

    - Diệu kế ! Diệu kế ! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè ! Một đời người mới có một lần.

    Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.

    Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kê trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao ? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.

    Ðại khái Tư Hoạch trình bày :

    - Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng (10) đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ông biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi (11), chặt ra khúc chừng ba tấc.

    Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng : như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sau khi bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm Hên xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.

    - Thực là bực thánh của xứ này rồi ! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. Ổng đâu rồi ? Sao không thấy ổng vể Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao ?

    Tư Hoạch nói :

    - Mà quên ! ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng "đất đai vương trạch" (12) rồi đi bộ về sau.
    Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ :

    Hồn ở đâu đây ?
    Hồn ơi ! Hồn hỡi !
    Xa cây xa cối,
    Xa cội xa nhành,
    Ðầu bãi cuối gành,
    Hùm tha, sấu bắt,
    Bởi vì thắt ngặt,
    Manh áo chén cơm,
    U Minh đỏ ngòm,
    Rừng tràm xanh biếc !
    Ta thương ta tiếc,
    Lập đàn giải oan...

    Tiếng như khóc lóc, nài nĩ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.

    - Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp ! Một người thốt lên như vậỵ

    Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ ?

    ***

    Chú thích :

    (1). Trầm thủy : Loại đất thấp ngậm nước.
    (2). Lung : đầm nhỏ, sình lầy cạn (3). Ăn ong : lấy mật ong trong rừng
    (4). Dây cóc kèn : loại cây dây leo ở rừng nước mặn bền chắc, dùng để trói buộc rất tốt.
    (5). Xuồng lường : xuồng được làm bằng một cây đục thành (xuồng độc mộc)
    (6). Tam tinh : điểm ở trán, giữa hai mắt.
    (7). Mác thông : mác có cán dài .
    (8). Kiên Giang đạo : đạo là đơn vị hành chính thời xưa tương đương một châu, một quận.
    (9). Lọn nhang trần : bó (lọn) nhưng không có bao (trần). Nhà nghèo dùng loại nhang này, vì rẻ tiền.
    (10). Xuổng : thuổng (dụng cụ để đào đất).
    (11). Mốp tươi : loại cây như cây vông, gỗ xốp, dẻo, có thể làm nút chai hay cốt mụ Cá sấu ngậm phải khúc gỗ mốp, hai hàm răng dính chặt không há miệng ra được nữạ
    (12). Cúng "đất đai vương trạch" : cúng thần cai quản đất đai (vương trạch, thực ra là viên trạch, nghĩa là vườn đất, dân gian nói trệch ra là vương trạch)
     
    lichan, Ban Tang Du Tử and Rafa like this.
  3. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Một tối ngồi ở quán bar - Phan Triều Hải

    Tôi nhớ là chưa bao giờ mình có được một đêm trung thu nào cho ra hồn ở đất Sài Gòn này ngoài việc năm nào cũng như năm nào đầu óc luôn bận rộn suy tính quanh quẩn với mấy loại bánh nướng, mấy loại bánh dẻo, nhân đậu xanh hay nhân thập cẩm, một trứng hay hai trứng, vi cá hay gà quay. Mà như thế nào đã đủ nhàm chán. Suốt mười mấy năm ở đây, tôi thấy cũng chẳng có mấy dịp trẻ con được cầm lồng đèn giấy chạy ra ngoài đường hưởng một trung thu khô ráo. Hiếm hoi lắm. Và đêm nay chắc cũng thế thôi, chắc cũng như năm ngoái, như năm kia, mà không chừng lại có phần thê lương hơn, bởi mưa đã bắt đầu tầm tả từ hai hôm trước, chừng mười hai âm lịch kéo dài cho đến tạn bây giờ. Mưa cho tới tận tối, khi tôi vào quán. Tôi phải chạy men theo cái hành lang hẹp tí xíu lợp mái rơm có nước nhỏ thành dòng, mà nhớ một cái thống kê khoa học mới công bố gần đây rằng, khi bạn thong thả đi bộ trong mưa thì sẽ nhận một lượng nước nhiều hơn khi bạn chạy từ ba mươi đến bốn mươi phần trăm, nói nôm na là sẽ bị ướt nhiều hơn. Và trong lúc tôi vừa đi vừa nghĩ xem làm thế nào để có thể từ mái hiên ấy chạy băng qua sân để vào được quán mà ít bị ướt nhất thì một giải pháp giản dị xuất hiện ngay trước mặt với cái mặt dài và một nụ cười đầy vẻ nghề nghiệp. Anh chàng phục vụ quen thuộc cũng y như lần cuối cùng tôi gặp, mái tóc gợn sóng và phong cách nhanh nhẹn, đứng đón ngay từ cuối lối đi với một chiếc ô căng rộng và áy náy bảo như thể đó chính là lỗi của anh ta, "Chà, mưa gì mà lớn quá chừng".

    Quán hôm nay chỉ có mỗi hai người phục vụ, người kia trông có vẻ lớn tuổi và lặng lẽ mà tôi không quen. Tôi tự tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Bên ngoài trời đang đổ nước xuống một cái sân vắng tanh buồn hiu buồn hắt. Suốt từ sớm tinh mơ, bầu trời đã nhuốm một màu mờ mờ mịt mịt y như màu của mùa mưa bão miền trung, khiến không thể nào nhận ra được dáng vẻ của một thành phố lúc nào cũng sắc sảo với nắng, với gió, với khô hanh và khói bụi xe cộ qua lại ào ạt trên đường. Hồi sáng, tôi vào công ty, câu đầu tiên chào mọi người là, "Trung thu ở đây chán thật, năm nào cũng mưa lê thê". Lúc ấy, ai cũng ngẩn người ra, rồi tròn xoe mắt nhìn trời, rồi cố bươi móc trong cái trí nhớ già nua và hờ hững của họ xem liệu trung thu năm trước có thật là đã mưa không, rồi đưa ra một cái kết luận ba phải, "Làm gì có chuyện đó". Tôi không cãi được, bởi phải từng trải qua một đêm trung thu thực sự thì người ta mới biết mình thiếu gì. Họ ít ra cũng phải từng được hưởng những mùa trung thu năm nào cũng hứa hẹn như năm nào, trời khô mà xanh đen ngăn ngắt. Phía trên thành cổ, trăng từ từ lên như một ngọn đèn lồng đong đưa soi bóng xuống ao hồ, rót đầy thứ ánh sáng hư thực ấy vào những lá sen có phủ một lớp lông tơ mịn màng, khiến quanh đó ếch nhái bị đánh động bắt đầu cất tiếng, rộ lên nhịp nhàng bất tận như ru. ít ra họ cũng đã từng được đi chân trần trên những con đường đất lạnh, ngoằn ngoèo luồn qua xóm này xóm nọ, trên tay bập bùng ngọn đuốc tỏa ra một mùi khói thơm thơm, cay cay, nồng nồng của thứ lửa rất đượm từ lá. Và thế là trong tiếng trống rộn ràng, một trung thu nữa đến, dịu dàng thơ mộng như mọi lần, như một giấc mơ giản dị hiện ra trong một không gian khô ráo, trong vắt, huyền hoặc.

    Tôi cứ nghĩ lan man mãi như thế cho đến khi người phục vụ quay lại.

    - Anh uống gì ? Anh ta hỏi.

    - Như mọi lần.

    - à, tôi nhớ ra rồi. Anh ta ngẫm nghĩ một chút rồi đáp.

    Lúc ấy, một thanh niên đẩy cửa bước vào, trông dáng vẻ rõ là khách quen, theo sau là một thiếu nữ gọn gàng trong chiếc áo tay ngắn màu ngà và chiếc váy ngắn, để lộ đôi chân thon thả. Cả hai dừng ở giữa quán, nhìn quanh như tìm chỗ ngồi, rồi đi về phía quầy bar nơi có treo ngược mấy hàng ly trong suốt khô khốc và những chiếc ghế cao đứng im lìm như thể được đặt ở đó chỉ để trang trí. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi chân của thiếu nữ, đôi chân thon mảnh mà đầy đặn, đang thả xuôi dưới ghế. Bao giờ tôi cũng cho rằng, cái mà phụ nữ được tạo hóa ban cho hào phóng nhất, không phải là khuôn mặt, mắt hay mũi, mà là đôi chân. Và một phụ nữ đẹp trước hết phải là người có đôi chân đẹp. ở cô gái này, đôi chân ấy như có hồn, chúng cứ thong thả đan vào nhau, rồi lại duỗi ra, nhè nhẹ, tất cả khoan thai phối hợp có vần có điệu. Cái bắp chân mịn màng thon dài xuống gót, thắt lại nhè nhẹ ở đó như thắt một cái eo, như cấu tạo của một hợp âm, rằng trưởng thì phải như thế, thứ thì phải như thế. Người phục vụ nói:

    - Anh đã chọn được chỗ ngồi tốt.

    - Tôi cũng nghĩ như thế. Tôi đáp, cái gót chân hồng hồng xinh xinh ấy đang chuồi ra khỏi chiếc giầy chật chội.

    - Ngồi ở đây anh có thể nhìn ra khắp trời. Anh ta tiếp tục.

    - Để làm gì ?

    - Để ngắm nguyệt thực. Anh ta nói, tay thắp ngọn nến trên bàn. Sẽ có nguyệt thực toàn phần ngay chính đêm nay, đêm trung thu. Vậy có lạ không chớ.

    Khi người phục vụ đi vào trong thì tôi ngồi nghĩ xem nguyệt thực nghĩa là gì. Là mặt trời, trái đất và mặt trăng cùng vướng phải một sợi chỉ giăng ngang giữa thiên hà, nhưng cái nào trước, cái nào sau, cái nào ở giữa thì lẫn lộn rối rắm cả. Ngày xưa quả thật tôi có đọc một vài cuốn khoa học thường thức về những hiện tượng như vậy, nhưng không hiểu gì mấy ngoài cảm giác buồn bã nhẹ nhàng về thân phận nhỏ nhoi của mình ở trên cõi đời này, trong không gian vô tận này, trong thời gian bất tận này. Lúc ấy tôi nghĩ rằng, thôi, không quan tâm đến những sự kiện siêu nhiên ấy nữa vì bao giờ chúng cũng khiến cho tôi có cảm giác vô nghĩa bởi sự bất lực của mình. Mà vô nghĩa là một cảm giác tệ hại. Thế nhưng tôi đã lo xa, về sau này những đề tài ấy đôi khi tôi đọc phải mà chẳng mảy may xúc động. Cảm xúc của tôi đã khác, khác như vậy đó, trơ ra.

    - Lâu quá anh không ghé chơi. Người phục vụ quay lại. Gần một năm rồi, phải không. Tôi nhớ lúc ấy trời mưa. Anh ta đưa tay áo lướt qua mặt bàn một lượt, như đảm bảo tất cả đều đang sạch sẽ khiến ngọn nến rụt lại một màu xanh trong suốt như ngọc. Bây giờ trời cũng mưa. Hay thật.

    - Có lẽ sẽ mưa suốt đêm.

    - Không, nó sẽ tạnh ngay thôi. Anh ta nói, đặt tách lên bàn.

    - Ai mà biết được. Tôi nói.

    - Chắc chắn là sẽ tạnh. Anh ta quả quyết.

    - Tôi chẳng thấy có đêm trung thu nào mà không mưa.

    - Vâng.

    Suốt hôm nay, không có ai đồng tình với tôi một cách nhẹ nhàng như vậy.

    - Vậy thì, tối nay cũng sẽ mưa suốt đêm cho mà coi. Tôi nói.

    - Không. Đêm nay có nguyệt thực. Anh ta nhắc lại. Nguyệt thực toàn phần. Làm sao mà trời mưa suốt được trong khi ai cũng muốn xem cái sự kiện này cả.

    Tôi ngả người ra ghế. Nguyệt thực là cái quái gì mà phải bận tâm như vậy chứ. Sao mà nhạt nhẽo quá chừng, nhưng nếu không có ai đó trò chuyện thì tôi chắc chết đi được vì chán chường. Tôi nói:

    - Anh ngồi chơi cho vui.

    Anh ta như chỉ chờ có thế, kéo ghế ngồi. Tôi hỏi.

    - Anh uống gì ?

    - Không. Tôi chỉ ngồi một lát. Anh ta đáp.

    - Một đêm trung thu buồn hiu như thế này thì người ta uống gì ? Tôi lại hỏi.

    - Trà nóng.

    Tôi gọi người phục vụ kia.

    - Cho một tách trà nóng.

    Anh ta nhổm dậy.

    - Để tôi tự làm lấy cũng được.

    - Tại sao ?

    - Tôi không quen.

    - Có gì mà không quen. Tôi mời anh mà. Anh chỉ cần gọi, "Cho một tách trà nóng", là xong.

    - Không đơn giản. Anh ta lầm bầm.

    - Tôi kể anh nghe chuyện này, hồi sáng, có một tay người nước ngoài làm việc chung với tôi thu xếp đồ đạc để về nước, y gói ghém tất cả vào một thùng giấy thật to và bảo tôi, "Ê, kiếm cho tao băng keo dán". Tôi đi kiếm băng keo dán. Sau đó y ngồi trên ghế, tay hút thuốc, hai chân kẹp thùng giấy, còn tôi cúi xuống dán hết mọi ngóc ngách cái thùng ấy, mà nghĩ, vì sao ta phải làm cái việc vặt này mà nó không làm. Đây là cái thùng giấy của nó, nó phải tự lo chớ. Nhưng y lại bảo tiếp, "Làm ơn kiếm giúp sợi dây buộc để làm quai". Thế là tôi tự động đi vào kho tìm một sợi dây, mặc dù ấm ức lắm rồi. Khi buộc cái thùng cho y, tôi tự bảo, sao mày ngu thế, rõ ràng là vừa ngu vừa hèn. Nhưng đến khi tôi thắt cái quai cho y, thì tôi nghĩ, cái thùng giấy này nặng thật, nó mà nói mình khiêng xuống nhà thì phải làm sao đây. Chính lúc ấy, y nói, "Cái thùng giấy này không nặng lắm đâu. Lát nữa đem giúp xuống nhà nhé". Lúc ấy, đột nhiên chẳng nghĩ ngợi gì cả, tôi nói, giọng rất to, "Không, đó là việc của mày, không phải việc của tao". Y sững người, dụi tắt điếu thuốc, và tự tay xốc cái thùng giấy ấy lên, sượng ngắt mà nói, "Thôi, tôi đi đây. Cám ơn nhiều". Tôi thấy vậy đó. Giống như anh gọi một tách trà. Bất cứ chuyện gì mà anh không tự tin được, anh hãy xử sự như thể anh đang gọi một tách trà. "Này, cho một tách trà".

    - Nhưng ngay cả một tách trà tôi cũng không gọi được.

    - Khi gọi, anh không nên suy nghĩ nhiều.

    Chúng tôi cứ ngồi như thế một lát nữa mà không nói chuyện gì. Nói chung, tôi cần có người ngồi bên cạnh nhưng lại muốn không phải nói chuyện. Bên ngoài, nước theo mái rơm từng dòng nhỏ xuống. Những ghế ngồi rải rác trên lối đi trải sỏi đọng nước lấp lánh. ở bàn trong, đôi thanh niên ấy vẫn ngồi im lặng. Cô gái tay khoanh trước ngực, cái lưng mảnh dẻ có buộc một chiếc áo khoác mỏng ở cái eo nhỏ. Đôi chân cô vẫn duỗi ra như thế, thanh thoát, sang trọng. Quả là một đôi chân có hồn. Một đôi chân mà người ta càng ngắm càng yêu.

    - Đêm nay quán mở cửa đến mấy giờ.

    - Có lẽ suốt đêm.

    - Thật à. Nếu thế thì tôi sẽ ngồi suốt đêm.

    - Vâng. Nguyệt thực sẽ diễn ra vào lúc không giờ ba phút sáng.

    - Tôi ở lại vì chuyện khác. Tôi nói. Tôi chỉ muốn ngắm đôi chân kia. Một đôi chân quá đẹp, phải không.

    Người phục vụ đưa mắt thờ ơ nhìn.

    - Không.

    - Tại sao. Đó là một trong những điểm hấp dẫn nhất ở phụ nữ.

    - Nhưng tôi không thích những ngón chân để trần. Anh ta nói.

    Tôi ngắm cái bàn chân đang rất là thảnh thơi ấy.

    - Những ngón chân ấy cũng đẹp.

    - Không. Không có những ngón chân đẹp. Ngón chân là một món thừa thải, không nên để trần trụi ra ngoài.

    - Vì sao ?

    - Tôi không biết vì sao. Nhưng những ngón chân lúc nào cũng khiến tôi có cảm giác về sự trần tục. Chúng trông có vẻ xác thịt.

    - Trời đất. Tôi nói. Sao anh chỉ thấy có vậy.

    - Anh cũng có thể mua đôi chân ấy đấy, nếu anh muốn. Người phục vụ nói. Nhưng mà thôi, tôi đi lấy thêm trà đây. Anh có cần uống thêm gì không.

    - Không, cám ơn.

    Dưới ánh đèn vàng phủ lên tường vàng, bàn chân ấy trông nhẹ như một chiếc khăn mỏng ai đó xếp lại rồi bỏ quên trên sàn. Những ngón chân tựa vào lòng giầy như đang nghỉ ngơi, đơn giản như thể khi ta cần hít thở khí trời, ta mở cửa sổ ra và đứng tựa đấy một lát, thư giãn. Nhưng tôi hiểu anh ta, tất cả chỉ đơn thuần là cảm giác mà thôi, như ngày xưa học nhạc, tôi bao giờ cũng có một liên tưởng kỳ lạ rằng nốt ré phải có màu nâu, và nốt la có màu trắng. Đôi khi như vậy đó, không thực, nhưng cũng không nhất thiết phải giải thích gì.

    Người phục vụ đi ngang đôi thanh niên ấy, dừng lại một lát, cái cằm dài tận tụy gập xuống kẹp chặt chiếc nơ nhỏ. Thiếu nữ vẫn ngồi như thế, tay tựa trên quầy. Cánh tay ấy cũng đẹp, mái tóc thả sau cũng đẹp, đôi vai áo và cái lưng cong nghiêng dịu dàng về trước cũng đẹp. Tôi yêu những dáng ngồi trầm tư như thế. Chúng trông vừa sang trọng vừa gần gũi. Một điều hiếm hoi. Người phục vụ trở lại với chiếc tách tỏa hơi nghi ngút trên tay.

    - Có chuyện này không biết phiền anh không.

    - Chuyện gì ?

    Anh ta hạ giọng.

    - Tôi đem đôi chân ấy về cho anh đấy.

    - Tôi không hiểu.

    - Anh ngạc nhiên à. Đôi khi cũng có những điều ta muốn, là được.

    Tôi sốt ruột.

    - Thôi, đừng dài dòng nữa.

    - Họ muốn được ngồi cùng bàn với anh.

    - Để làm gì ?

    - Để ngắm nguyệt thực.

    Trong tôi có một cảm giác lạ lùng đang đến.

    - Vậy thì anh mời họ qua đây đi.

    Thiếu nữ ấy có một cái gì đó quả thật đặc biệt, nàng như có một sức hút kì lạ ở dáng đi, ở cánh tay đong đưa, ở cái cổ cao, hay ở đâu đó nữa mà tôi không rõ. Tôi chỉ biết là tôi đứng đó, kéo chiếc ghế cho nàng, và người thanh niên kia lên tiếng, "Cảm ơn", giọng nhẹ nhàng lạ lùng, rồi hướng về phía nàng anh ta giới thiệu, "Đây là em gái tôi. Hôm nay nó rất muốn ngồi bên cửa sổ." Thiếu nữ nhìn tôi chào, đôi mắt rất đen, rất sâu. Tôi nói, "Không có chi. Tôi cũng không muốn xem nguyệt thực một mình." Và thế là tất cả cùng ngồi quanh cái bàn quay ra cửa sổ. Những song cửa lấp lánh một màu kì lạ trong ánh sáng nên đang tàn dần.

    - Hình như trời đang tạnh. Người phục vụ nói.

    Từ mái rơm bên ngoài, nước không còn chảy xuống thành dòng nữa mà đu đưa từng giọt ngắt quãng. Và trên cái nền khuya khoắt của đêm, nước thả từng giọt lên lối sỏi nghe tí tách nhè nhẹ, nghe như tiếng chim sẻ vào những trưa hè nhảy nhót đôi bàn chân gầy guộc trên mặt sân ximăng nóng bỏng trước sân nhà, gõ những cái mỏ mảnh dẻ như vỏ trấu lách tách tìm từng hạt cỏ, hạt thóc lẫn trong khe nứt. Người thanh niên nói.

    - Nguyệt thực sẽ bắt đầu từ không giờ ba phút.

    - Đúng như vậy. Người phục vụ vui vẻ. Tôi sẵn sàng tiếp quí vị trong suốt ba tiếng đồng hồ sau đó.

    Tôi nhìn đồng hồ.

    - Liệu có ai ngồi xem nổi suốt thời gian ấy không.

    Người thanh niên quay sang thiếu nữ, ân cần.

    - Chúng tôi sẽ xem suốt đêm.

    Thiếu nữ im lặng, mắt đăm đăm nhìn ra ngoài. Người thanh niên nói tiếp, một kiểu nói chuyện lơ mơ lạ lùng.

    - Em tôi muốn thấy trăng sẽ sáng trở lại.

    - Điều đó là chắc chắn rồi. Tôi nói. Mọi người sẽ được thấy cảnh tượng ngoạn mục cuối cùng của thế kỷ này.

    - Ngoạn mục à ? Không đâu, nguyệt thực là một điều không hay. Anh ta phản đối, giọng nghiêm nghị.

    - Tại sao phải tin chuyện đó. Tôi nói.

    Người phục vụ nhổm dậy.

    - Có phải cái bóng đen ấy không, nó xuất hiện rồi kìa.

    Trên cái nền khúc khuỷu đường nét của những mái nhà, mặt trăng xuất hiện cô độc một mình, tỏa ra một thứ ánh sáng phồn thịnh mà xa lạ, và bên cạnh đó là một khối đen như một đám mây đang trườn đến, chạm ở phần mép sáng nhất. Bóng đen ấy dần dần đi vào, rất chậm rãi, chiếm cái đĩa bạc sáng tươi ấy từng chút một. Người phục vụ nhẹ nhàng đứng dậy bước ra phía cửa lớn, chiếc khăn trắng nhàn nhạt vắt rất nề nếp trên tay. Anh ta ngước nhìn chăm chú ra ngoài, cái cằm dài hếch lên, bất động. Trên bàn, ngọn nến leo lét ánh xanh sắc sảo cuối cùng rồi lịm dần nhường chỗ cho một thứ ánh sáng đang chết dần khác, ánh sáng của trăng vằng vặc đang chết dần một nửa. Chính vào lúc ấy, khuôn mặt của người thanh niên ngồi bên cạnh tôi hóa ngây ra.

    - Vậy là nó bắt đầu rồi. Anh ta thì thầm.

    - ừ, nó bắt đầu rồi đó. Tôi nói.

    - Nó lại bắt đầu ngay chính vào đêm trung thu. Anh ta nói, giọng đều đều. Anh biết không, trung thu là đêm mà chúng tôi có cảm giác bao nhiêu điều tồi tệ nhất trên đời này sẽ được gột bỏ. Thật đấy, bao nhiêu chuyện xấu xa nhất sẽ được gột bỏ.

    Tôi nhìn người thanh niên, không hiểu anh ta nói gì. Tôi đang thư giãn, tôi đang muốn duỗi cả thân mình ra trong cái ghế êm ấm này bên cạnh một thiếu nữ xinh đẹp như nàng, và như thế là đủ. Tôi không thích nói nhiều, mà tôi cũng không thích phải nghe ai nói nhiều. Nói chung ai ai cũng có thân phận của mình, ai ai cũng có nỗi niềm riêng, và đã là nỗi niềm riêng thì chỉ thích hợp để cất giữ trong một ngõ ngách nào đó.

    - Tôi chỉ thấy một điều là cái đêm trung thu này đang tàn. Tôi nói.

    - Anh thấy nó đang tàn thật à ?

    - ý tôi nói thế là hết một trung thu. Xong.

    - Với tôi thì nó còn quan trọng hơn thế. Không đơn giản là xong một đêm. Anh ta nói. Một đêm như thế thật là đặc biệt.

    - Tôi thì thấy chẳng có gì đặc biệt. Tôi nói. Nó cũng như mọi đêm khác thôi.

    - Khác lắm chứ. Bởi vì khi mà nhìn lên trăng của một đêm như thế này thì không ai có thể tự cho rằng mình có thể trong sáng như nó được. Không ai có thể kiêu hãnh mà nói rằng mình không có tì vết gì. Lúc ấy, tất cả mọi người đều như nhau, đều được sinh ra như thể ghé ngang qua đây một cách tạm bợ. Và nếu cứ nhìn mãi như thế thì sẽ thấy trên đời này, không có ai mất mát gì, cũng không ai được thêm gì. Nhìn lên trời, sẽ thấy bình yên. Anh ta ngừng một chút rồi tiếp. Và chỉ thấy cần bình yên mà thôi.

    Thiếu nữ vẫn ngồi im lặng, cái ngực xinh xắn tựa lên bàn, đôi mắt không hề chớp hướng lên phía trên lúc này chỉ còn là một lưỡi liềm mỏng, hai bàn tay nàng chắp lại, những ngón tay mảnh dẻ lắm.

    - Tôi lại không thấy được những điều anh nói. Tôi nói.

    - Có gì đâu, anh cứ nhìn lên đó, và đừng nghĩ gì cả thì anh sẽ hiểu.

    - Có thể. Nhưng tôi phải về. Khuya rồi.

    - Anh xem giờ làm gì. Người thanh niên nói, đưa tay lên. Từ lâu rồi không đeo đồng hồ nữa, và thấy đó đúng là một sự giải thoát.

    - Hôm nay tôi cũng đã được thư giãn. Ngày mai tôi phải đi làm.

    - Lý do ấy chính đáng nhất trong mọi lý do. Giọng anh ta có vẻ châm biếm.

    - Lý do đó thống trị đời sống mọi người. Tôi đồng ý.

    - Nhưng không phải của chúng tôi. Anh ta nói ngay.

    Tôi rất không thích kiểu đôi co như thế này. Tôi đứng dậy, nhìn thiếu nữ một lần cuối. Nàng vẫn im lặng như từ lúc gặp. Tôi nói.

    - Cảm ơn mọi người. Tôi về.

    Người phục vụ mở cửa cho tôi, một làn không khí trong lành tràn đến đầy hơi nước. Anh ta đưa tôi ra cổng. Trên cao, bóng tối ấy đang nuốt phần còn lại của trăng. Tôi dừng lại ở đó một lát, hít đầy ngực một làn hơi, ngắm cái cảnh tượng mà suốt đêm bao người chờ đợi.

    - Anh thấy thế nào ? Anh ta hỏi.

    - Buồn ngủ.

    - Không, tôi hỏi em gái ấy thế nào ?

    - Xinh lắm.

    - Tôi biết ngay mà. Anh vẫn thích đôi chân của cô ta à ?

    - Chuyện ấy thì quan trọng gì.

    - Quan trọng chứ. Bởi vì chúng tôi trả tiền để cô ta hằng đêm ngồi đó.

    - Anh nói đùa.

    - Không đùa đâu. Chỉ có điều thằng cha kia chỉ có vì vậy mà cứ ăn năn dằn vặt mãi. Y nói với anh nhiều lắm à ?

    - ừ

    - Y hơi điên điên rồi đó. Tôi thấy y càng ngày càng hơi điên điên.

    - ừ. Chắc là y xúc động.

    - Cũng may là y còn đứa em gái ngoan ngoãn.

    - ừ.

    - Anh thật sự thích cô ta chứ ?

    - ừ. Tôi không thích những người nói nhiều. Tôi thích cái kiểu cô ta im lặng như vậy. Trông thật quyến rủ.

    - Nàng hấp dẫn khách ở đây cũng nhờ thế.

    Lặng im một lát, tôi nói mà lòng ngập đầy một nỗi thất vọng.

    - Cô ta quả thật là giỏi.

    - Có giỏi gì đâu. Người phục vụ ngạc nhiên. Y không hề nói gì với anh sao. Nàng đâu có nghe được mà cũng đâu có nói được. Nàng bị câm mà.

    Tôi vịn tay vào cổng, cảm thấy thép đang rỉ ra ướt át, lầy nhầy. Trên cao, mặt trăng đang thoi thóp, nhúm ánh sáng lộng lẫy cuối cùng của nó đang bị bóng râm mạnh mẽ không gì cưỡng lại được ấy lắp hẳn. Tôi như thấy đó là đôi môi của nàng, đôi môi đang mím chặt nghiêm nghị, đôi môi ấy nhẹ và mịn cho dù chỉ được nhìn trong bóng tối. Tôi ngắm hình ảnh của trăng lúc ấy mà có cảm giác gần gũi với ánh sáng của nó hơn bao giờ hết, thấy như chính tôi đang vuốt ve cái bề mặt sáng đẹp kiêu kỳ xa cách ấy, vuốt ve bằng bóng râm của mình, bóng râm của trái đất nơi tôi đang đứng đây, bóng râm của mọi người. Một cảm giác gần gũi, thân thiết lạ lùng.

    Người phục vụ đứng phía sau tôi, hỏi.

    - Anh về được chứ ?

    - Được.

    - Cuối tuần ghé chơi nghe. Cuối tuần mới thú.

    - Liệu có gì hay hơn nữa sao ?

    - Tôi không chắc. Nhưng có lẽ người đẹp sẽ cười.

    Tôi suy nghĩ một lát.

    - ừ, tôi cũng muốn biết nụ cười của nàng như thế nào.

    - Anh thấy chưa, phụ nữ hấp dẫn ở đôi môi chứ không phải đôi chân như anh nghĩ đâu. Người phục vụ mỉm cười. Và càng hấp dẫn hơn khi đó là một đôi môi đẹp nhưng lại không bao giờ nói được.
     
  4. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bầu trời của người cha - Nguyễn Quang Thiều

    ***

    Bữa cơm tối của người cha tàn tật thường kéo dài đến hai tiếng đồng hồ. My vừa cho cha ăn vừa dỗ dành ông như dỗ một đứa trẻ ốm yếu. Trong chiếc ghế mây rách có lót một cái ruột gối cũ, ông run rẩy như một con chim non mới mọc lông măng. Người cha trệu trạo nhai từng thìa cơm. Trán, cổ và hai thái dương trắng xanh của ông túa mồ hôi. Đôi môi ông vất vả ngậm thìa cơm như con chim non phải giữ con mồi khỏe bằng cặp mỏ mềm của mình. Thời gian đầu, cứ mỗi khi bón cơm cho cha My lại khóc. Người cha cũng khóc không thành tiếng. Hai năm trở lại đây cô không khóc nữa. Thay vào đó, cô nhí nhảnh kể cho cha cô nghe những chuyện đại loại như cây hoa trà ông trồng giờ đang trổ nụ, những chậu xương rồng nhiều loại của ông mọc thêm rất nhiều nhánh, hay buổi sáng nào đó trong vườn nhà xuất hiện một con chim lạ, giọng con chim rất trong và mảnh như tơ nhện. Cô cứ kể những chuyện như thế cho tới khi người cha ăn xong thìa cơm cuối cùng. Đặt cái bát sang một bên, và lúc nào ngay sau đó cô cũng nói với người cha: “Ba đã hoàn thành nhiệm vụ. Con quyết định tặng huân chương cho ba”. Người cha cố ngước mắt nhìn con và cười. Và chỉ có cô mới biết là ông đang cười.

    Ngày nào cũng vậy, bữa ăn thường kết thúc vào lúc những tia nắng cuối cùng trong ngày tan biến trong vòm lá bên cửa sổ. Và mảnh trời nhỏ nhìn qua ô cửa sổ ngả sang mầu dâu chín. Hai cha con My ngồi im lặng bên nhau. Cô đặt những ngón tay gầy và hơi lành lạnh của người cha trong bàn tay nhỏ nhắn của cô. Cả hai cha con cô ngồi như bất động nhìn về phía mảnh trời nơi có những ngôi sao bé bỏng và ướt át thường hiện lên rất sớm vào những đêm không mây.

    Bóng tối của đêm thường bắt đầu ùa kín những góc nhà, rồi sau đó lan vào gầm giường và gầm bàn ghế. Khi bóng tối đã ùa kín căn phòng thì là lúc hình như hai cha con nghe rõ hơn tiếng gió đi qua những tán cây ngoài vườn. Trong bóng đêm rộng lớn và bí ẩn trùm xuống, những tiếng xào xạc quen thuộc bỗng trở lên huyền bí như từ những ngôi sao xa xăm vọng về. Cũng lúc ấy, My thấy những ngón tay của người cha ấm dần lên. My khẽ ngước mắt nhìn cha. Trên gương mặt bệnh tật của ông hắt mờ mờ một thứ ánh sáng từ đâu đó. My nhận thấy đôi mắt cha cô như tối hơn và cũng như rạng rỡ hơn. Những giây phút như thế cô không dám thở mạnh. Cô biết cha cô đang bước từng bước mê dại trong ý nghĩ lạ lùng về phía vòm trời kia. Rồi ông khóc. Và chỉ có My mới biết được cha mình đang khóc.

    “Ba đi nghỉ đi ba. Ba ngồi lâu quá rồi”. Cô nói và đứng dậy bật đèn. ánh sáng tràn ngập căn phòng. Đâu đó trên tường có bóng một con gián thấy ánh sáng vội chạy vào một khoảng tối gần đó. My đỡ người cha lên giường và bắt đầu bài xoa bóp chân tay cho cha theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Khoảng chín giờ tối cô buông màn cho cha. “Con chúc ba ngủ ngon”, cô nói và hôn lên trán người cha lúc nào cũng như lấp dấp mồ hôi. Sau đó cô tắt đèn và đứng một hồi lâu trong bóng tối bên giường cha. Khi cô quay ra cửa thì giật mình nhận ra có người đang đứng tựa vào một bên cánh cửa.

    “Mẹ đây”, bóng người nói.

    “Mời mẹ sang phòng bên”, My nói sau một lát im lặng.

    “Mẹ vội. Mẹ muốn nói chuyện với con một chút”, người đàn bà nói.

    “Có chuyện gì không mẹ?”, My hỏi, giọng cô như quá mệt mỏi.

    “Mẹ đến chỉ để nói với con chuyện công việc của con thôi. Mẹ đã xin cho con làm họa sĩ trình bày ở một tờ báo đang thịnh hành, lương khởi điểm khoảng dăm trăm ngàn. Như thế... sẽ đỡ cho con. ý con thế nào?”.

    “Con vẫn dạy vẽ và tiếng Anh cho bọn trẻ con cùng phố. Tiền thu nhập cũng đủ chi tiêu. Vả lại... ba con con cũng không đòi hỏi gì nhiều lắm”.

    “Nhưng còn công việc của con, còn tương lai của con”, bà mẹ ngập ngừng.

    “Tương lai của con ư? - My khẽ bật cười - Cái đó thì mẹ khỏi lo. Còn công việc... con cũng đang làm việc đấy chứ”.

    “Không, con phải đi làm. Mẹ đã tốn khá nhiều tiền để xin chỗ làm cho con”.

    “Mẹ làm thế để làm gì - My chau mày - Nếu con đi làm thì ai trông coi ba”.

    “Đấy cũng là điều mẹ muốn nói với con - Giọng bà mẹ chợt hồ hởi - mẹ sẽ bỏ tiền ra thuê người chăm sóc cho ông ấy, con đừng lo”.

    “Chẳng ai có thể chăm sóc ba con bằng con cả - My nói và thở dài - không ai có thể hiểu được ba, ngay cả...”.

    Cô định nói: “Ngay cả chính mẹ”, nhưng cô lại thôi.

    “Sao lại không có ai chăm sóc được ông ấy. Chỉ cần trả công khá một tí là khối kẻ tranh việc, mà có phức tạp gì đâu. Mỗi ngày cho ăn hai bữa, đổ bô vài lần và giặt một bộ quần áo mỏng”.

    Trong bóng tối hiên nhà, My nhìn mẹ cô im lặng, mãi lâu sau cô mới nói: “Mẹ về đi, hôm nay con mệt lắm”. Nói xong, cô bước xuống chiếc sân nhỏ. Bà mẹ lặng lẽ bước theo. My mở cổng và có ý để bà mẹ đi về.

    Bước đến cổng, mẹ cô dừng lại trước mặt cô và nói: “Con phải suy nghĩ cho kỹ đi. Mẹ lo cho con”.

    “Cảm ơn mẹ”, My nói và lại bật cười khe khẽ. Cô đóng cửa và vội vã đi vào trong nhà.

    Hơn một tháng trở lại đây, mẹ cô thường đến thăm cô vào buổi tối. Bà thường đứng ngoài cửa buồng cha cô và lặng lẽ nhìn vào. Bà đứng đó đợi My cho đến khi My đã buông màn cho người cha đi ngủ. Lần nào bà cũng nói đến chuyện công việc của cô. Và lần nào My cũng chỉ đứng trong hiên nhà trong bóng tối mệt mỏi nói chuyện với mẹ cô. Cuối cùng lúc nào cô cũng nói với mẹ cô câu: “Con mệt lắm, mẹ về đi”, rồi bước ra mở cổng.

    Có tiếng xe máy nổ và xa dần. My chậm rãi bước vào nhà. Căn phòng nhỏ của cô chưa bật đèn và đầy mùi thuốc vẽ. ở góc phòng cạnh cửa sổ mở ra vườn, tấm toan trắng hắt sáng mờ mờ. My lần từng bước trong bóng tối đến trước giá vẽ và ngồi xuống. Cô đưa những ngón tay nhỏ chạm khẽ lên mặt toan. Hơn một năm nay cô đã đợi chờ những mảnh mầu kỳ diệu từ đâu đó sau tấm toan hiện về. Nhưng mỗi lần vẽ xong cô lại càng thấy thất vọng hơn. Cô đã điên khùng rạch nát không biết bao nhiêu tấm toan. Và cũng đã bao nhiêu lần cô gục khóc trên giá vẽ. Cô khóc không phải vì sự thất bại trong nghệ thuật. Nói đúng hơn, chưa bao giờ cô đeo đuổi một thành công nào đó trong nghệ thuật. Cô chỉ vẽ như cô cần phải vẽ. Cô khóc về sự bất lực trong tình yêu của cô đối với người cha bệnh tật.

    Cha cô vốn là một phi công lái máy bay quân sự trong chiến tranh. Sau giải phóng ông chuyển sang lái máy bay dân sự. Sau mỗi chuyến bay trở về, ông say đắm kể cho mẹ con cô nghe về những vùng trời ông đã đi qua. Ông quen thuộc những vùng trời tưởng như vô định ấy như mảnh vườn nhỏ của gia đình ông, hoặc như làng quê ông bên bờ sông Hàn. Nhiều đêm, những câu chuyện của người cha đã đưa cô đến những vùng trời ấy trong giấc mơ.

    Cô gặp những đứa bé trong suốt vừa bay vừa hát bên những bông hoa lạ.

    “Hoa này là hoa gì, bạn nhỉ?”, cô hỏi.

    “Hoa Anh My”, những đứa bé đồng thanh nói như hát.

    “Ôi! Cùng tên với mình đấy - Cô thích thú kêu lên - Thế những con chim vàng óng kia là chim gì?”.

    “Chim Tao Linh đấy”.

    “Tao Linh à, mình chưa bao giờ nghe nói đến loài chim này - Cô hơi nghiêng đầu và nhíu mày. Rồi cô nhoẻn miệng cười và nói - Ba mình cũng hay bay qua đây, các bạn có biết không?”.

    “Ba của bạn à? - Những đứa bé hỏi và nhìn nhau - à, chúng mình nhớ rồi. Ba của bạn cười giống bạn lắm. Ông đến đây và thường quỳ trước những bông Anh My. Mặt ông hơi ngửa lên, đôi mắt khép nhẹ và say đắm trong tiếng hót của bầy Tao Linh. Nhưng ông đã...”.

    Lũ trẻ nói đến đó chợt im lặng và nhìn nhau khác thường.

    “Ba bạn đã... đã mang hương hoa Anh My và tiếng hót Tao Linh về mặt đất. Lẽ ra lúc này thì chưa nên, nhưng không sao đâu, bạn đừng lo”, lũ trẻ an ủi My.

    “Thế ba mình...”, My định hỏi tiếp một câu thì chợt nghe một tiếng nổ. Những đứa bé vụt biến mất. My tỉnh giấc.

    Ngọn đèn ngủ vẫn tỏa ánh xanh nhạt trong nhà. Qua màn, My nhìn thấy ba mẹ cô đang ngồi quay ra cửa. Trên nền nhà có những mảnh cốc vỡ.

    “Tôi không chịu nổi cuộc sống như thế này nữa rồi”, mẹ cô tức tưởi nói.

    “Anh chưa làm một điều gì xúc phạm đến em cả. Anh không hiểu vì sao lâu nay em luôn luôn cảm thấy khó chịu khi anh về”.

    “Anh không hề nghĩ đến cái gia đình này. Anh cần những vùng trời của anh. Anh mang về cho mẹ con tôi những gì từ đấy. Những mây, sao, gió máy của anh không thể bán lấy tiền được”.

    “Anh nghĩ gia đình mình rất hạnh phúc. Sinh hoạt cũng không thiếu thốn lắm”.

    “Hạnh phúc - Mẹ cô bĩu môi - Anh đến nhà đồng nghiệp anh mà anh không thấy ngượng à. Họ cũng bay như anh. Sau những chuyến bay họ mang về cho vợ con họ những thứ cụ thể. Còn anh chỉ thấy mang về cho vợ con anh những thứ ngớ ngẩn, hão huyền, hết sức vô dụng”.

    “Em im đi. Em khác xưa quá nhiều rồi đấy”.

    “Tôi không khác gì xưa cả. Chẳng qua anh không nhận ra sự thật của cuộc đời này mà thôi”.

    Mẹ cô nói và đứng phắt dậy đi sang phòng bên. Ba cô lắc đầu và đốt thuốc hút.

    Sau lần ấy, sau mỗi chuyến bay trở về, ba cô lặng lẽ và hay thở dài. Ông không còn háo hức kể về những chuyến bay của ông như trước nữa. Một hôm cô hỏi người cha.

    “Sao ba không kể cho con nghe về chuyến bay của ba?”.

    Người cha cúi xuống nhìn cô. Rồi như quên hết mọi phiền muộn, ông lại say sưa kể cho cô nghe về một vùng trời nào đó của ông. Phòng bên cạnh, mẹ cô vứt mạnh những vật gì đó và mắng chửi cay nghiệt con mèo hoa tội nghiệp. Người cha ngừng câu chuyện đang kể cho cô con gái của ông. Ông bước sang phòng mẹ cô. Và cô nghe thấy tiếng ba cô rất nhỏ.

    “Em làm gì thế? Em có biết anh đang nói chuyện với con không?”.

    “Con My lớn rồi. Nó sắp ra trường và phải đi làm. Cần phải giáo dục cho nó biết những điều cụ thể của cuộc đời mà nó sẽ đón nhận, chứ không phải những điều lảm nhảm vô bổ”.

    “Chính cô đang phá hoại tâm hồn của con, cô biết không. Trước hết con người phải có một tâm hồn đẹp, rộng lượng và biết tha thứ, chứ không phải là một con người tham lam ích kỷ hay thù vặt”.

    “Vâng, tôi tham lam, tôi ích kỷ và hay thù vặt. Nhưng thưa anh, tôi còn biết lo toan trước mỗi bữa ăn của con, còn anh, anh viển vông và điên rồ quá rồi”.

    “Như vậy - Cha tôi chợt im lặng rất lâu - như vậy chẳng còn gì cho chúng ta có thể nói chuyện với nhau được nữa”.

    Nói xong ba cô bỏ đi ra khỏi nhà, mãi khuya ông mới trở về.

    Một buổi sáng ít ngày sau đó, người cha phờ phạc nói với cô: “Ba và mẹ đã quyết định chia tay nhau. Chắc con cũng tự biết trước điều này”. My nấc lên khi nghe người cha nói vậy. Cô bỗng thấy hoảng sợ và cô đơn khủng khiếp. Buổi tối đó, cô đến trước mẹ cô. Cô ngồi xuống trước mẹ rất lâu và nói.

    “Mẹ nghĩ lại đi, mẹ ạ”.

    “Con ranh con - Mẹ cô trừng mắt giận dữ - Mày cũng nhiễm cái thói mơ mộng vô bổ của ba mày rồi đấy. Cuộc đời sẽ dạy cho mày biết”.

    Rồi ba mẹ cô ra tòa và lặng lẽ chia tay nhau. Mẹ cô về ở với bà ngoại cô và lấy một người đàn ông khác sau đó năm tháng.

    My ở lại với người cha và gấp rút chuẩn bị cho năm học cuối cùng ở trường Mỹ thuật. Người cha vẫn thỉnh thoảng xa nhà với những chuyến bay. Ông ít kể về những chuyến bay của ông. Nhưng vào những buổi hoàng hôn, ông thường ngồi im lặng trên chiếc ghế bành bọc vải nhung nhìn qua cửa sổ.

    Khi My vừa kết thúc năm học cuối cùng thì cha cô bị tai nạn giao thông và bị liệt nửa người. Biết bệnh tình của người cha khó có thể hồi phục. My quyết định ngừng xin việc làm. Cô mở lớp dạy vẽ và tiếng Anh cho bọn trẻ con cùng phố để kiếm tiền sinh sống và tiện có thời gian chăm sóc cha. Đêm đêm cô thường phải thức giấc nhiều lần để trở mình cho cha và giúp ông tiểu tiện, và ngày ngày, khi hoàng hôn từ từ buông xuống, ông lại yêu cầu cô đỡ ông ngồi vào chiếc ghế bành bọc vải nhung để nhìn về phía vòm trời nho nhỏ qua ô cửa sổ. Khi bóng tối đã trùm kín căn phòng thì người cha thì thầm: “Vùng trời... vùng trời, cha muốn trở lại... vùng trời”. Những lúc ấy, giọng người cha lạ lùng và xa xăm. Cô cảm thấy rùng mình và thương cha vô hạn.

    Một đêm trong căn phòng của cô đầy mùi thuốc vẽ, trong đầu cô lóe lên ý nghĩ mang lại cho người cha vùng trời của ông về trên toan. Sau ý nghĩ ấy, cô lao vào giá vẽ. Cô vẽ trong sự hoảng sợ mộng mị và mơ hồ về người cha. Và suốt hơn một năm qua cô đã vẽ, đã thất vọng và đã khóc.

    Đêm đêm, cô đứng lặng hàng tiếng đồng hồ bên cửa sổ nhìn mãi vào vùng trời có những ngôi sao bé bỏng, ướt át và đầy bí ẩn kia. Cô như thoáng nghe thấy tiếng nói thì thầm của những ngôi sao và những vầng mây bạc trong những đêm sáng trăng. Cô nghe thấy cả tiếng bầy kiến gọi nhau trên những song cửa sổ trong cuộc hành trình muôn đời không ngủ của bầy kiến. Cô nghe thấy cả tiếng con chuột lơ đễnh rơi từ giàn gấc xuống vườn. Một cảm giác lãng đãng và bạc trắng lan tỏa khắp cơ thể cô. Cô lao vào giá vẽ và vẽ cho đến khi tưởng chừng như kiệt sức. Để rồi sáng sau tỉnh giấc, cô lại khóc cho những mảng mầu lạnh lẽo và bất động.

    Mấy ngày trước, vào một buổi sáng có nắng, cô mang chiếc va-li đựng những đồ lặt vặt của người cha ra phơi. Trong va-li cô thấy cuốn nhật ký của người cha. Cô cầm cuốn nhật ký bước vào hiên nhà ngồi xuống và đọc.

    “Đêm qua mình tỉnh giấc mà Lan (tên mẹ cô) không hay biết gì. Hình như chưa bao giờ Lan mất ngủ. Lan vẫn đẹp và đầy sức sống như ngày mới cưới. Và... Lan chưa bao giờ hiểu mình. Sao những đêm tỉnh giấc mình hay nghe thấy những tiếng gì đó mơ hồ gọi mình. Mình thấy cô đơn”.

    “Mình đã sống một tuổi thơ đầy cô đơn và ốm yếu. Không quên nổi những chiều mưa mờ mịt bên bờ sông Hàn. Ba đi thuyền chưa về. Má cũng đi chợ xa bán cá. Ngôi nhà lá nhỏ bên sông lúc nào cũng tối và đầy mùi ẩm ướt của mùa mưa. Mình ngồi thu lu trong góc nhà. Đói và tủi. Rồi ba má mất sớm, mình theo một người bác đi thuyền. Đã bao nhiêu buổi chiều mình ngồi khóc nức nở trong mưa trên mui thuyền”.

    “Cái mình cần là hơi ấm của con người. Nhưng đời sống càng đầy đủ thì con người càng xa nhau. Cái mà những người đang sống quanh mình tìm kiếm là đồng tiền. Đồng tiền hết sức cần thiết. Nhưng vì nó mà con người lao vào như rồ dại, cắn xé lẫn nhau, nghi ngờ nhau và căm thù nhau”.

    “Sao từ ngày cưới nhau đến giờ, Lan chưa một lần thức dậy trong đêm và thì thầm những điều gì đấy với mình. Lan giày vò mình vì những chuyện gia đình như sắm sửa, xây cất. Lan bực tức với những người giàu hơn và tỏ vẻ khinh bỉ những người đói kém. Mình đã từng đói khát và tủi nhục. Nhưng mình không thể sống được khi chỉ nghĩ đến cái dạ dày căng tròn và lầy nhầy”.

    “Những lần bay qua những vùng trời vô tận, sao mình cứ ước được bước ra khỏi khoang lái. Tất cả những gì trong khoảng mênh mông của vũ trụ mà mình cảm nhận được lại làm cho mình yên tâm tin mình khi đi trên mặt đất. Những cơn mê làm mình hạnh phúc và muốn khóc. Mình thèm khát được ngồi im lặng trong hoàng hôn và vùi bàn tay trong mái tóc đẹp lạ lùng của Lan. Lan không bao giờ ý thức được trong bóng tối. Lan quá rành rọt với những thứ mà có thể đếm được dưới ánh sáng đơn giản”.

    Đêm nay hình như trời trong hơn. Có lẽ cũng đã khuya. My áp mặt vào những song gỗ cửa sổ. Bỗng cô nghe thấy tiếng cha gọi. Cô vội vã đẩy cửa bước sang phòng người cha.

    “Có con rắn... đang quấn... chân ba”.

    Nghe người cha nói, My hốt hoảng lật chiếc chăn dạ mỏng và sờ soạng đôi ống chân người cha. “Không có gì đâu ba ạ. Chắc ba mê ngủ đấy”, My nói và ngồi xuống mép giường bóp chân cho cha.

    “Nó bò đi rồi hả con?” - người cha thì thào.

    My không nói được. Cô gật đầu, khi người cha trở lại giấc ngủ, cô đứng dậy tắt đèn và trở lại phòng mình. Cô bước trang nghiêm và quyết liệt đến bên giá vẽ. Cô nhìn xuống và nhìn ra cửa sổ. Những ngôi sao như đang bay về. Hình như đêm nay có trăng non. Những song gỗ cửa sổ ánh lên. Cô ngửi thấy hương Anh My, tiếng hót của bầy Tao Linh, tiếng ríu rít của bầy trẻ trong suốt như pha lê. Cô thấy đôi mắt người cha căng lên như hai tấm toan chờ đợi.

    “Con, My đâu... con... “ - người cha gọi.

    My lảo đảo bước sang phòng cha. Cô bật đèn.

    “Ba gọi con ư?”.

    “Ba thấy người nóng quá. Hôm nay mẹ con có đến không?”

    “Có ba ạ” - Cô trả lời sau một thoáng lưỡng lự.

    “Mẹ bảo gì con không?”.

    “Mẹ đến thăm ba” - Cô cố gắng nói.

    “Có bao giờ con thấy mẹ khóc không?”.

    “Dạ...”.

    “Ba thấy... nóng quá, mà, mà lạ lắm. Mẹ có khóc hả con? Mẹ đến thăm ba sao không nói cho ba hay. Lan... có khóc...”.

    “Ba ngủ đi ba. Mai con sẽ mượn cái xe đẩy để đưa ba ra Hồ Tây”.

    My kéo tấm chăn dạ mỏng đắp ngực người cha. Rồi cô trở về phòng mình và ngồi xuống trước giá vẽ. Cô thấy người nóng lên ghê gớm. Cô cầm lấy bút vẽ. Cô bật hai ngọn đèn dùng để vẽ đêm mà ba cô đã mua cho cô.

    Đến gần trưa hôm sau My mới tỉnh dậy. Khi vẽ xong cô kiệt sức và gục xuống sàn nhà. Cô mở mắt ngơ ngác. Nắng tràn ngập ô cửa sổ phòng cô. Cô nhìn vào bức tranh và kinh ngạc. Cô nhận thấy có bóng cha cô trong suốt đang bay trong đó. Cô nhớ đến cha. Cô vội chạy sang phòng cha. Người cha nằm yên lặng. Gương mặt ông như đang trôi trong vô tận.

    Người cha đã trút hơi thở cuối cùng khi My vẽ xong nét vẽ cuối cùng.

    My quỵ xuống bên mép giường. Hình như cô nghe thấy người cha hổn hển hỏi: “Có bao giờ con nghe thấy mẹ khóc không?”. Đôi môi cô mấp máy như trả lời: “Mẹ sẽ khóc, ba ạ”.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  5. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Mưa bụi - Mường Mán

    Không khí se lạnh. Ngọn đèn dưới hiên phả thứ ánh sáng ảo dịu xuống sáu người ngồi quanh mặt bàn tròn thấp. Năm nam và một nữ. Chai rượu đế làng Chuồn lưng nửa, đĩa hàu luộc còn đầy.
    Cạn ly xong, Hoàng lảng mắt ra vườn cây nặng trĩu bóng chiều và mưa hờ hững nói:
    - Nào, hát đi Ngọc Yến B.
    - Ngọc Yến Bê à, tên gì nghe ngộ vậy? - Luân buột thốt, nhìn chăm chăm cô gái ngã người trên lưng ghế mây, mắt lim dim cơ hồ thả hồn lạc tận đâu. Vẻ mặt nửa ngờ của Luân khiến Lĩnh bật cười:
    - Không phải nhan sắc này họ Ngọc tên Bê đâu ngốc ạ, cô nàng có giọng hát na ná nữ ca sĩ Ngọc Yến nên được thiên hạ ở đây tặng cho quái danh ấy, B, bờ chứ không phải bờ ê Bê.
    Cả bọn cười rộ, Xuyến mở choàng mắt, làu bàu:
    - Cả tỷ lần em nói với các người em hát không giống ai, chỉ giống em thôi, sao ưa gán ghép hoài vậy? Ưu tiên kẻ mới từ xa về, anh Luân thích em hát bài gì nào?
    - Bài gì cô thích.
    Luân dè dặt. Xuyến chơm chớp mắt:
    - Hôm ở nhà anh Thái không có mặt em nhưng nghe kể anh đã yêu cầu chị Hằng hát "Diễm xưa", cái bài mỗi lúc nghe anh thường... nổi da gà phải không?
    - Đúng thôi! - Luân đỏ mặt dù mặt đã đỏ sẵn vì rượu - Nhưng hôm ấy nghe Hằng hát tôi lại... toát mồ hôi hột, bởi chợt nhận ra mình không còn trẻ lắm nữa, cái thằng học trò khờ khạo thuở xa xưa đã ly dị vĩnh viễn, bỏ mình mà đi mất rồi.
    Đoạn Luân kể vào cái thuở xa xưa nọ có cậu học trò trường cao đẳng mỹ thuật yêu một cô sinh viên y khoa, mỗi ngày đưa đón nhau trên bến đò Thừa Phủ, cùng tham gia phong trào học sinh sinh viên tranh đấu... Ngỡ tình nồng đến trăm năm, nhưng rồi vào một buổi chiều thu mưa gặp nhau ở bến đò, nàng bỗng "ân cần" gỡ chiếc cặp tóc đồi mồi chàng vừa tặng mấy hôm trước trả lại, "âu yếm" thỏ thẻ rằng lòng nàng đã khác, đã "lỡ dại" yêu, và nhận lời cầu hôn của một anh phi công mất rồi. Buồn rầu, tức tưởi, chàng ném chiếc kẹp vô duyên ấy xuống bến sông, lững thững qua phố, vào một quán cà phê vắng ngắt, tình cờ nghe Diễm xưa của Trịnh Công Sơn phát từ quầy, dỗ lòng nguôi ngoai bằng năm tách càphê đen không đường, yêu cầu bà chủ quán tốt bụng cho nghe lui tới bài hát cả chục lần và từ đó, ở bất cứ không gian, thời gian nào hễ nghe Diễm xưa chàng lại không thể không nhớ mối tình non yểu ấy.
    Giọng kể tưng tửng, chẳng mấy hào hứng của Luân làm kẻ tin người ngờ. Dẫu vậy, Ngọc Yến B vẫn cất tiếng hát đầm ấm, du dương với cây ghi-ta thùng cũ sờn ôm trên lòng.
    Mưa vẫn hay mưa trên tầng tháp cổ.
    Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua.
    Gương mặt đẹp vốn trắng xanh thoáng hồng vì men rượu, người hát chìm đắm vào giọng nhạc non mềm yếu tựa chiếc lá mỏng manh, vẫn ngồi mà như trôi theo dòng. Điều khiến Luân kinh ngạc, lúc ngẩng ngước, mắt nàng nhòa lệ.
    Những gương mặt vây quanh cơ hồ vụt chao mờ đi sau màn sương mỏng mịn. Thứ sương khói không hẳn của hoài niệm. Đĩnh tóc muối nhiều hơn tiêu, nhà thơ lâu nay cất kỹ thơ trong ký ức và những cuốn tập, thi thoảng mới bốc hứng đọc đôi ba bài cho bạn bè nghe trong những cuộc nhậu, cởi mở, hào phóng. Thái sau thời gian dài đỡ khá nhiều đòn "hữu chiêu" lẫn "vô chiêu" ở một cơ quan văn hóa thấm mệt, đành hưu non, trở thành phóng viên báo chí lặng lẽ, sâu lắng. Hoàng chủ quán cà phê kiêm mánh mung chợ trời bỗ bã, vui tính. Tảo họa sĩ ngày mỗi phất nhờ nguồn tranh luôn được chiếu cố bởi những khách yêu tranh nước ngoài, cần kiệm, chừng mực. Những gương mặt suốt mười lăm năm ở Canada tít mù đôi khi thoáng nhớ Luân không thể mường tượng nổi mỗi người có thể tĩnh tại với cuộc sống của mình. Cuộc sống vào thời anh bỏ đi ai cũng ít nhiều lao đao, cái thời còn đậm dư âm cuộc chiến tranh đã qua, bè bạn đứa chết đã chết, đứa sống sót quay về, dẫu lằn ranh chia cách hai phía chiến trận đã xóa vẫn nhìn nhau qua những kính mầu nghi kỵ, giữ kẽ, thậm chí tị hiềm nhỏ nhen. Bây giờ thì đứa bon chen hồ như đã mỏi gối, đứa bị đá đau quên bớt đau, đứa thất chí lúc nào chẳng hay. Tất cả đều được thời gian lộng vào cái khung thanh thiên quá đát, thích trào lộng hơn tranh cãi, khoái nói cười văng mạng hơn trầm tư hiền triết... Và Xuyến, cô gái đến với cuộc đời muộn hơn cả bọn chừng hai chục năm lúc này lại có vẻ âu sầu hơn cả.
    Nheo mắt ngắm nước mắt hoen má Xuyến một cách giễu cợt, Lĩnh cười khề khà, nói ngay khi nàng vừa ngưng tiếng hát:
    - Hóa ra không chỉ thằng Luân mà cả nhan sắc này cũng có những chiều ngồi ngắm mưa qua!
    Và tiếng cười lẻ phụ họa. Xuyến tặng ông anh họ cái lườm mượt mà.
    - Cảm ơn Ngọc Yến B. Luân nói, cầm chai rót đầy ly đưa Xuyến, nàng vui vẻ "cưa đôi" đoạn lật tay nhìn đồng hồ bảo có cái hẹn, ai muốn theo cứ việc tháp tùng. Đĩnh khoát tay:
    - Dẫn thằng Luân theo cho hắn biết lễ độ với các hội nhóm quái đản ở xứ này.
    - Đi đâu? - Luân bửng lửng. Xuyến nháy mắt:
    - Một nơi rất... thú vị!
    Cả bọn về hùa dốc Luân nên đi.
    ***
    Họ ra đường lúc chiều vừa chín rụng. Đêm dâng ngợp. Phố lên đèn. Luân định gọi xích lô, Xuyến bảo:
    - Trời đẹp, nên thả bộ. Giờ này trên thiên đường đang quét dọn gì đó làm bụi bay xuống trần thành mưa bụi, mình đi trong bụi kể như đi... bụi, anh thấy không?
    Luân hít sâu hơi thuốc lá, ém khói xuống tận bụng rồi thở ra từ tốn:
    - Trí tưởng tượng của cô giàu cỡ tỉ phú.
    - Không dám đâu, triệu phú thôi!
    Cả hai cùng cười. Dư vị bữa nhậu còn váng vất trong họ tí lửa, chưa say cũng chợt nghe giọng hơi bông bốc.
    - Xuyến thường hát ở những cuộc đàn đúm như thế?
    - Chỉ với bạn bè thôi, thỉnh thoảng anh Đĩnh lại rủ em tới bù khú, gọi là để quên đi phần nào em thường ngày.
    - Em... à cô thường ngày thế nào?
    - Đừng tò mò, rất có thể anh cho em không mấy đức hạnh, đức hạnh sao được khi chỉ mỗi mình con gái lại ngồi nốc rượu cười đùa hát hỏng giữa cả một xâu đàn ông thế kia!
    - Sao lúc hát "Diễm xưa" cô lại khóc?
    Xuyến cau mày, dấm dẳng:
    - Anh hỏi cứ như là công tố viên lục vấn bị cáo trước tòa ý. - Rồi nàng cười khúc khích: - Rất đơn giản, bởi vì em cũng là người phàm như anh.
    - Người phàm! Luân thú vị lập lại, cười tiếng cụt:
    - Nói một chút về cô đi Xuyến.
    - Em hả? Biết nói sao về mình nhỉ? Anh thử hình dung một nhân viên mậu dịch bán các thứ tặng phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ trong Đại Nội xem. Ngoại trừ những lúc tiếp các đoàn du khách nội địa hay nước ngoài dẻo miệng xí xô xí xao lập lui tới mở mẩu quảng cáo đã mòn nhẵn hết sự bóng bẩy của ngôn từ, còn thừa khối thời gian để ngồi ngáp vặt hoặc đi lang thang khắp các ngõ ngách thành quách, và cứ ngỡ mình là nàng công chúa lạc loài, một cung phi bị quân vương quên để mắt tới. Thời còn ngồi trên ghế đại học em đâu ngờ có ngày lại phải giam mình vào nơi cung cấm kia. Còn anh, nghe nói sắp tới tính quay về đây ở luôn, tìm lại cây cọ vẽ đã đánh mất, bộ bên đó không vẽ được sao?
    - Được, nhưng thiếu... không khí!
    - Điên! Trong lúc em muốn bỏ nơi này mà đi. Đại Nội không chỉ ở chỗ kia đâu, em luôn có cảm tưởng từ lâu nó đã phình rộng ra choán cả thành phố, và mọi người cứ lẩn quẩn trong những bức thành cổ y hệt bầy kiến bám mãi cái tổ cũ kỹ của mình.
    - Bậy!
    Luân buông thõng, thoáng rùng mình không phải vì những điều nàng nói gợi cho anh chút liên tưởng nào mà bởi vì những âm sắc của giọng Huế bất chợt đụng vào nơi nào đó sâu kín trong tâm khảm. Chất giọng trải qua bao thăng trầm vẫn dịu dàng, đài các, đôi khi bén buốt đến nao lòng. Thận trọng ướm thử rồi Luân bạo dạn khoác tay cô gái, nửa đùa nửa thật.
    - Lúc này công chúa có cảm thấy lạc loài không?
    Nàng làm thinh, tặng anh cái liếc xéo sắc lạnh như mắt mèo. Ngang qua một góc phố vắng, đèn đường bị hỏng, tối mù. Xuyến bỗng níu Luân dừng lại dưới tán me, ngửa mặt thấp giọng.
    - Hôn em đi, nếu anh thích.
    Ngỡ ngàng, ngập ngừng, đoạn người đàn ông ôm hôn nàng. Môi vừa rời nhau Xuyến cười buồn:
    - Cảm ơn, cái giống đàn ông các anh vớ vẩn, quỷ quái thật, nhưng không thể sống mà thiếu các người được.
    Và, họ tiếp tục bước. Đêm thưa tiếng động, đèn đường soi qua mưa bụi tỏa ánh lù mù lên những mặt tường, mái phố ướt át. Gió chốc chốc luồn qua mọi khe hở len vào tận lòng thoáng se lạnh êm ả.
    Người đàn ông đốt thuốc gần như liên tục, và Xuyến ngậm tăm im lặng suốt lúc họ thả bộ qua cầu Trường Tiền, như thể chỉ cần mở miệng thốt ra lời nào tức khắc bị ngã tòm xuống sông.
    Đến cái nơi Xuyến nửa đùa nửa thật bảo là Câu Lạc Bộ Những Người Mộng Du, Luân cảm thấy ấm cúng ngay khi thoạt bước qua ngưỡng cửa thấy khá đông người trong một căn phòng rộng. Tất cả đều ăn mặc đẹp, thậm chí rất chải chuốt và, dĩ nhiên không hề lệch một li thời trang. Thoáng nhìn những đôi nam nữ ngồi sánh vai bên nhau dễ lầm tưởng họ là vợ chồng, hồ như chẳng có ai lẻ bạn. Không khí sực nức mùi hội hè. Mọi người ồn ào chào đón Ngọc Yến B, tò mò ngắm nghía khách lạ. Xuyến lôi Luân đến một bàn trống, ấn vai anh ngồi xuống, cao giọng giới thiệu:
    - Tối nay tình cờ gặp kẻ xa lạ này ở nhà anh Đĩnh, em bèn nhặt rồi bê ông ta tới đây, bạn rất thân của anh Lĩnh gàn ý!
    Luân ngượng nghịu nhận những cái bắt tay nồng nhiệt của quý ông, và những nụ cười chào có duyên lẫn vô duyên của các quý bà.
    Hoa, bia Huda, thức ăn bày biện trên bàn phủ khăn trắng nom sang trọng, đẹp mắt. Các thứ đã sẵn sàng, nhưng mãi đến lúc bà chủ nhà xuất hiện bữa tiệc mới bắt đầu.
    Sang trọng, quý phái trong chiếc rốp dài mầu lam ngọc, tóc bới cao phô gương mặt trái xoan khéo điểm trang làm to thêm đôi mắt vốn to, nét môi mọng hường hẳn vốn cũng mọng hường từ thuở mới dậy thì, người đàn bà lượn ánh mắt mềm mượt khắp phòng, mủm mỉm cười, dịu dàng nói:
    - Cảm ơn các bạn đã đến gần như đông đủ. Nào, xin mời tất cả cùng nâng ly kỷ niệm ngày ly hôn lần thứ hai của tôi.
    Tiếng nàng nói hệt phát pháo lệnh làm nổ chuyển cả dây pháo, không khí lập tức thịnh hỉ tiếng cười nói, chạm li rôm rả. Luân thốt giật mình bởi thình lình Xuyến đập khẽ lên tay anh:
    - Sao cứ nhìn người ta đắm đuối như bị hớp mất hồn vậy ông?
    Cắt khóe nhìn khó tả soi mói hay ngây ngẩn khỏi bà chủ nhà, dọn vẻ mặt tỉnh tuồng khá nhanh, Luân vờ nhăn mặt:
    - Quái, ngày ly hôn cũng bày đặt kỷ niệm.
    - Ngày được trả lại tự do mà, nên lắm chứ, tại sao không? - Nghe giọng mình hơi xẵng, Xuyến cười:
    - À mà... đại để mỗi tối thứ bảy họ đều gặp gỡ nhau theo kiểu luân phiên mang đồ ăn thức uống đến cùng góp vui, mỗi tuần phải viện lý do nào đó mới vui chứ!
    - Bà ta đã ly hôn tới lần thứ hai? Thật hay đùa?
    - Suỵt, lại tò mò.
    Câu chuyện bị cắt ngang vì ông khách trung niên có bộ ria mép khá bảnh ngồi đối diện trịnh trọng nâng ly bia ngang mày, tươi cười mời Luân.
    Tương tự mọi cuộc vui khác, ăn uống, trò chuyện chán, họ chuyển sang "hệ" ngâm thơ, đàn hát, vài cặp dạn dĩ dìu nhau ra khiêu vũ trong cả biển vỗ tay tán thưởng. Một lúc nào đó Xuyến không còn ngồi bên Luân, nàng đi quanh các bàn hiến tặng tiếng hát hết mình như thể ngày mai không được hát nữa.
    Tiệc tan trước nửa đêm. Chủ nhà đứng bên cửa thân mật, lưu luyến bắt tay từ biệt từng vị khách, ngoại trừ Luân, ai cũng nhận được một đóa hồng bạch - lấy từ những lọ hoa chưng trên bàn - do nàng tặng kèm nửa nụ cười duyên.
    Ra đường, Luân ngạc nhiên thấy Xuyến lại lững thững bước đến sóng vai mình.
    - Ủa, Xuyến chưa về sao?
    - Em vốn thích thả bộ, vả lại... Vừa nói nàng vừa đặt vào tay Luân chiếc cặp đồi mồi bảo khẽ: - Chị ấy gửi tặng anh, thay vì tặng hoa như những người khác, quà đặc biệt ý!
    Luân vụt ngỡ mình bị đẩy lọt thỏm vào tâm một cơn lốc quỷ tha ma bắt trong khi vẫn đứng yên. Năm ngón tay khô lạnh xiết chặt cái vật cũ kỹ tưởng như không bao giờ còn gặp lại. Nhìn vẻ mặt cực kỳ khó tả của người đàn ông, Xuyến bật cười thành tiếng:
    - Em thấy đêm nay lúc nào anh cũng sẵn sàng trợn muốn rách cả khóe mắt diễn tả đủ mọi tư thế... ngạc nhiên. Có gì kinh khủng đâu, cái kẹp xấu xí này đúng là cái anh đã ném xuống bến sông ngày nọ, lúc anh thất thểu bước đi, chị cảm thấy nhẫn tâm nhưng không đủ can đảm gọi anh lại, bèn thuê mấy đứa nhỏ vạn đò mò nó lên và cất giữ đến tận bây giờ, rõ rồi chứ?
    Nửa tin nửa ngờ, Luân ngắc ngứ nói:
    - Quái, thế bao nhiêu năm nay...
    - Lỡ yêu rồi nhận lời cầu hôn của một chàng phi công chỉ là chuyện phịa. Thật ra hồi ấy chị biết anh thuộc típ mơ mộng, lãng mạn kinh niên, tham gia hoạt động phong trào chỉ vì ham vui, nên chẳng dám rủ anh cùng bí mật lên Xanh rồi sau đó tập kết ra miền bắc. Nay thì công danh khá vững vàng, nhưng tình duyên toàn gặp bước không may, năm ngoái chị rời Hà Nội quay về sửa sang lại mảnh vườn hoa, căn nhà cũ của ông bà già...
    - À ra thế. Tôi thấy họ đều rất tỉnh táo, lịch sự, vui vẻ sao cô dám bảo đó là Câu Lạc Bộ Những Người Mộng Du?
    - Mộng du theo cách nói ác khẩu của anh Đĩnh gàn ý. Anh ấy cho rằng mọi thành viên đến đó mong tìm thấy hạnh phúc chắp nối hay chắp vá đều là người đi trong lúc đang ngủ cả, rởm tuốt!
    - Thế họ không phải là vợ chồng hay bồ bịch của nhau sao?
    - Đa số đang tìm hiểu, thử bắt đầu lại sau một vài lần gãy đổ y như bà chủ nhà vậy.
    - Ngộ thật, kể cả... cô?
    - Em sắp ra tòa ly dị - Xuyến nói rành rọt sau chừng nửa phút e thẹn, ngập ngừng. Mỗi tuần em đến đó chung vui với họ để quên đi hoàn cảnh không vui của mình, mộng du vài khoảng khắc để rồi... Giờ thì chắc anh hiểu tại sao em lại khóc khi hát "Diễm xưa", mọi đổ vỡ hình như bao giờ cũng mang chung một tần số.
    Chợt dường như cố nuốt nỗi nghẹn vừa dâng lên cổ, đoạn nàng tiếp tục giọng trút bầu:
    - Cô bán hàng cho khách du lịch trong Đại Nội dù đã có chồng vẫn ngỡ mình là cung phi bị quân vương quên lãng, những mong giũ bỏ cái ám ảnh bị tù túng trong những bức tường thành cô bèn bỏ việc đi làm tiếp viên nhà hàng, một hôm gặp một "hoàng tử" về từ nước ngoài như anh vậy, phải lòng rồi thầm lén ngoại tình. Nay "hoàng tử" quất ngựa tàu cau, đức ông chồng muốn nói với nàng bằng tay hơn bằng miệng, đành lôi nhau đến trước vành móng ngựa. Đơn giản quá phải không? Thôi muộn rồi, em về, chúc anh ngủ ngon!
    Xuyến dợm quay gót. Thoáng hẫng. Luân níu vội tay nàng:
    - Khoan đã, nếu không quá phiền lòng, tôi mời cô lên ga uống vài tuần trà. Trên ấy các hàng quán mở suốt đêm. Chậc, chả là tôi muốn nghe thêm về cô ấy. Xuyến cười:
    - Hình như anh đang bị choáng? Thỉnh thoảng nhất là đêm nay anh nên bắt chước em mộng du một tí, lên đó đi, vừa uống trà, nghe có tàu hú gọi biệt ly, vừa trò chuyện với cái kỷ vật tình buồn của anh, hoặc quay lui đóng vai kẻ trộm lẻn vào nhà nàng để bị chó bẹc giê xé xác xin cứ tùy ý.
    Chiếc hôn dưới tán me hồi đầu đêm vụt cháy lại trong tâm trí với đủ độ nồng lẫn độ ấm khiến người đàn ông nghe giọng mình bỗng hơi lạc đi một cách kỳ cục:
    - Em... nỡ về thật sao?
    Câu nói kèm ánh mắt nửa van lơn nửa mơn trớn làm Xuyến thoáng rùng mình, nhưng rồi nàng nói ráo hoảnh:
    - Đến quán trà hay mặt nệm nào đó trong khách sạn? Đừng có dụ khỉ, em sáng mắt ra rồi anh ạ, kiếm một tấm chồng nội địa dù chắp vá vẫn đảm bảo hơn...
    Nàng vụt quay đi, biến khuất sau màn sương dày mịt, âm vang lạnh lẽo của câu nói cơ hồ còn ong ong trong tai người đàn ông. Luân đứng sững nhìn chiếc bóng mình đổ dài trên mặt đường ánh ướt ngước nhìn, ngạc nhiên thấy trời đã thôi mưa...
    ***
    Đêm hôm ấy ngồi trầm tư trong một quán nước trước sân ga, thay vì uống trà anh đốt tiếp ngọn lửa hoài niệm trong mình bằng cách uống thêm vài cốc rượu. Mân mê, ngắm nhìn chiếc kẹp đồi mồi rồi Luân chợt phát hiện nó chẳng phải của mình như lời Xuyến "tự bạch". Trên lưng nó mang hai cái tên khắc chìm bằng dao khá vụng về. Nhưng không phải tên anh và nàng mà mang tên nàng và... Đĩnh.
    Ngây người hệt bất thần nuốt phải gậy mất một lúc, Luân mới thốt nhớ dạo ấy hai đứa ở chung trong ký túc xá Nam Giao, sau một chuyến đi Nha Trang chơi, anh mang về hai cái kẹp tóc, Lĩnh nằn nì xin một, gọi là để tặng người hắn ta ngày đêm thương thầm nhớ trộm nào đó. Buồn cười là bây giờ chiếc của hắn ta còn đây, chiếc của anh bị người ta chê đành xuống sông chải tóc Hà Bá từ dạo ấy.
    Ôi, cái thuở học trò... Kinh thật, thằng Đĩnh bí mật đến thế là cùng, giấu tình kỹ hơn mèo giấu cứt. Phải đi vòng vèo "mộng du" ngoài hai mươi năm giờ mới biết hóa ra hai đứa cùng thờ chung một mối thất tình: Giờ hắn ra vẻ kinh bạc, coi nàng như đồ rởm nhưng biết đâu vẫn còn yêu nàng dữ dội!?
    Chị chủ quán ngái ngủ ngồi giấu mình sau cái tủ thuốc lá lạ lùng thấy ông khách bỗng phát ra những tiếng cười lục khục nghe kỳ cục hết sức, bèn chắc bụng ông ta không khùng cũng say. Người bình thường thì đâu có ai nửa đêm ra quán ngồi mân mê mãi một cái kẹp tóc đồi mồi cổ lỗ sĩ rồi cười y hệt đười ươi như thế?
    ***
    Mảnh trăng liềm đính giữa nền trời sau cơn mưa nom mỏng manh hệt vệt bơ vàng quệt hững hờ trên nền giấy thẫm. Ánh trăng dù yếu ớt vẫn góp chung ánh đèn đổ dài chiếc bóng người đàn bà trẻ trên mặt đường. Nàng thong thả đi về phía nhà ga như dạo chơi, nhưng thật ra trong lòng đang rối rắm lắm nỗi niềm.
    Họ gặp nhau giữa ngã ba, dù thêm khăn trùm đầu và áo khoác Luân vẫn nhận ra Xuyến ngay khi hai người còn cách nhau cả chục thước. Như chưa hề chia tay, nàng cất tiếng trước:
    - Bộ anh đi uống trà thật sao?
    - Thật chứ.
    - Đừng ngạc nhiên. Về nhà, gọi cửa mãi đức ông chồng mới mở, rồi thì cả một trận mưa đấm đá đổ xuống người, em cắn chặt răng không thèm thốt lấy một lời, không dưng chợt nhớ tới anh, bị thôi thúc bởi ý nghĩ có phải anh đang ngồi ở quán trà hay đang vui thú ở chỗ nào khác nên ra khỏi nhà. Khùng quá đi mất!
    Tiếng nói nhỏ nhẹ nhanh chóng tan trong sương mù, Luân lại còn tưởng nó còn bám dai dẳng trên da mặt mình thứ cảm giác ghê gai. Người đàn ông thầm rủa mình vô tình, mãi đến lúc này mới thấy đôi má nàng tím bầm, và bên cánh mũi trái hằn vết cào rớm máu. Anh lảng mắt lên vòm cây cố giấu tiếng thở dài:
    - Nếu không gặp tôi em sẽ đi đâu?
    Ánh lặng đoạn Xuyến nói không quả quyết lắm:
    - Ngồi ở một quán nào đó trên ga chờ sáng. Rất vui là anh đã không hề nói dối.
    Đảo mắt về phía dốc Nam Giao rồi ngoảnh lại phía bờ sông. Luân tự hỏi nên rẽ đường nào? Một mặt nệm trên phòng ngủ quán trọ hay khách sạn sẽ rất tuyệt vời, nhưng nếu nhắc đến nó lúc này e đường đột, thậm chí nhẫn tâm. Như đọc thấy nỗi băn khoăn của anh, Xuyến mỉm cười.
    - Về chỗ của em trong Đại Nội đi, dù nghỉ việc mấy tháng rồi, ông bảo vệ già vẫn chưa quên em đâu, có anh đi kèm ông sẽ cằn nhằn nhưng chỉ cần ít tiền lót tay là xong. Nào, mình qua bên kia sông nghe anh!
    Thật hay đùa? Ánh mắt nàng trong suốt đến không đọc được ý nghĩa khác thường nào vẩn lên trong ấy. Luân lập lờ:
    - Gấp gì, trời còn đẹp lắm mà, cứ thả bộ như em vẫn thích, cứ nép sát vào anh cho đỡ lạnh.
    Họ chầm chậm dưới dưới bóng râm những hàng cây. Đêm quạnh vắng, cả thế giới cơ hồ im ngủ, chỉ còn mỗi hai người thức, kéo lê những chiếc bóng qua mặt đất hoang vu. Người đàn ông lại đốt thuốc gần như liên tục, và Xuyến ngậm tăm im lặng. Đến giữa cầu Trường Tiền, nàng khẽ níu tay anh dừng lại, tháo khăn trùm cho tóc xõa bông trong gió, ngửa mặt thì thầm:
    - Hôn em đi!
    Môi vừa rời nhau, Xuyến chậm rãi buông rời từng tiếng:
    - Cảm ơn! Cái giống đàn ông các anh thật đáng yêu, nhưng đã đến lúc em không cần đến các người nữa rồi. Chiếc kẹp đồi mồi của anh vẫn ở dưới ấy, có muốn em tìm hộ không?
    Vẻ mặt bỗng tối sầm trong khi môi còn rạng nét cười huyễn hoặc, buồn rượi. Và, vào cái khoảng khắc ngắn ngủi ấy anh chưa kịp thốt nên lời thì nàng đã vụt quay người, buông mình xuống mặt sông tối đen.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  6. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bây giờ con mới hiểu - Y Ban

    Cảm nhận đầu tiên trong tôi là một con đường nhỏ ngoằn ngoèo, với hai bức thành đất rất cao. Phía trên đầu bầu trời cũng bị cắt thành những đường nhỏ. Trên tay tôi có một búp bê và một cái giỏ trong đó có những quả phi lao khô. Tôi cứ đi theo con đường trước mặt. Lâu lắm, thời gian như vô tận, tôi đi đến hết con đường. Ở đó có những bậc thang bằng đất. Tôi cố sức leo lên những bậc thang đó nhưng nó cao quá. Tôi suýt òa khóc thì nhìn thấy một rễ cây thò lò ở trên đầu tôi. Tôi đu vào rễ cây rồi leo lên các bậc thang. Trên mặt đất là một vườn cây to, tỏa bóng rợp mặt đất. Dưới nền đất những lá rụng được quét gọn thành một đống, sạch sẽ. Nắng chiều qua vòm lá thành những quả bóng to, nhỏ khác nhau trên mặt đất. Tôi đi quanh những gốc cây và cảm thấy muốn hát. Rồi một cơn buồn ngủ kéo đến. Tôi nằm trên đống lá và ngủ ngon lành. Trong giấc ngủ tôi mơ thấy những điều đẹp đẽ.

    Khi tôi đang chìm trong giấc ngủ thiên thần thì tôi đâu biết rằng mẹ tôi đang khốn khổ vì tưởng đã đánh mất tôi rồi. Máy bay Mỹ ập đến, người ta bế lũ trẻ bỏ xuống hầm, rồi phải đi sơ tán đồ đạc. Bọn trẻ ngồi túm tụm lại một chỗ. Còn tôi đi lang thang. Máy bay Mỹ cút đi, những bà mẹ đi tìm con, mẹ tôi không tìm thấy tôi đâu cả.

    Tôi mở choàng tỉnh vì thấy có ai đó bế tôi lên. Tôi mở mắt và nhìn thấy một người đàn ông mặc áo thụng đen. Ông cười với tôi. Tôi bảo ông rằng, trong đống lá kia còn con búp bê và lẵng quả phi lao nữa. Ông bế tôi quay trở lại lấy hai thứ đó rồi đi vào nhà thờ. Một lúc lâu sau, có người chạy đi báo mẹ tôi đến nhà thờ đón tôi. Nhìn thấy tôi, mẹ Òa khóc, rồi chạy đến túm tóc tôi lôi xềnh xệch:

    - Con ranh con khốn nạn này, mày đi đâu mà để tao tìm đứt cả hơi. Sao mày không bị bom nó vùi đi cho rồi.

    Lúc đó cha không có mặt ở đấy.

    Khi đó tôi lên bốn nhưng sau tôi còn có hai đứa em trai nữa, một đứa lên hai và một đứa mới mấy tháng. Nơi chúng tôi đang sống không phải là quê của cha mẹ tôi mà là nơi họ làm việc. Nhưng đối với tôi đó lại là nơi chôn rau, cắt rốn. Ngày tôi ra đời là thời kỳ đất nước đang thịnh vượng, thế nhưng tôi lại được cắt rốn bằng lưỡi liềm cắt lúa. Chuyện thế này, lúc mẹ tôi lên cơn đau đẻ, được cha tôi đưa đến trạm xá. Bà trạm xá trưởng kiêm đỡ đẻ, kiêm y sĩ kê đơn, kiêm y tá tiêm chích thuốc khóa cửa đi ăn cỗ mãi bên xã khác. Cha tôi để mẹ tôi ngồi ở chiếc ghế chờ rồi mượn xe đi tìm bà y sĩ. Mẹ tôi quằn quại trên ghế, cơn đau mỗi lúc một tăng. Một bà đi kiếm rau lợn thấy mẹ tôi đau dữ quá bèn vào giúp đỡ. Sau thấy mẹ tôi đẻ đến nơi mà vẫn chưa thấy bà đỡ và cha tôi về. Bà bảo với mẹ tôi:

    - Cô chịu khó nằm đây, tôi vào tìm bà Mụ, ngày chưa có trạm xá bà ấy đỡ cho cả làng này đấy.

    Chưa đầy năm phút sau đã thấy bà quay lại cùng bà Mụ. Trên tay bà Mụ cầm một chiếc liềm đen sì. Bà Mụ khám cho mẹ tôi thấy cái đầu tôi lấp ló cửa dạ bèn giục bà đi hái rau lợn:

    - Chị kiếm cho tôi mấy cái tàu lá chuối khô, kiếm đâu được cái chậu nữa chứ, không thì bẩn tóe ra đây về bà trạm trưởng lại mắng cho.

    Thế là tôi ra đời trên cái ổ chuối khô, được bà Mụ cắt rốn bằng lưỡi liềm. Bà Mụ bảo: Trong các vật dụng của nhà nông thì chỉ có lưỡi liềm sạch nhất vì chỉ để cắt lúa và cắt rốn trẻ con. Ca đẻ mẹ tròn con vuông xong thì bà trạm trưởng và cha tôi mới về đến nơi. Bà trạm trưởng trách mắng mẹ tôi:

    - Cô lỗi thời quá, sao không chờ tôi về. Phản khoa học hết sức, ai lại cắt rốn bằng liềm. Nằm lại đây theo dõi.

    Bà Mụ nghe thế chỉ tủm tỉm cười rồi ra về. Hai ngày sau mẹ tôi bế tôi về nhà vì tôi chẳng bị làm sao cả. Câu chuyện này được cả làng biết, hễ ai nhìn thấy mặt tôi cũng kể. Tôi được nghe có dễ hàng trăm lần.

    Càng lớn lên tôi càng thấy vùng quê tôi ở sao mà đẹp thế, lắm điều kỳ lạ thế. Ngày ấy, tôi có khái niệm về mùa, một năm đối với tôi chỉ có hai dịp Tết và hè.

    Tết, ấy là khi cam trong vườn nhà bác Thạo ở bên cạnh nhà tôi đỏ rực. Cỏ ở bờ mương xanh ngắt mỡ màng. Cỏ chen mọc cả vào lối đi, cỏ che những vết chân trâu lồi lõm. Mẹ thay cho tôi một chiếc áo trắng và dặn:

    - Mày đi chơi đâu thì đi, đến chiều tối là về. Ngày mai mùng một chớ có vào nhà ai, cái thứ con gái đến nhà mùng một là dông cả năm, người ta chửi cho thì tao đánh chết.

    Tôi phải nhớ lời mẹ dặn. Sáng mùng một, mẹ tôi để cho tôi ngủ thoải mái. Bố mẹ sắp cơm cúng xong mới gọi chúng tôi dậy ăn uống. Ăn xong mẹ chia cho một ít bánh kẹo. Tôi gói vào khăn mùi xoa để dành cho cái Hoa. Nhà nó có nhiều bánh chưng hơn nhà tôi nhưng lại không có bánh kẹo, vì bố mẹ nó làm ruộng. Tôi đi ra ngõ, mẹ tôi gọi với theo:

    - Nhớ đừng vào nhà ai đấy.

    Tôi đi một mạch ra bờ mương. Nước đồng trong veo chưa cấy lúa, chỉ có cỏ ở bờ vùng, bờ thửa xanh nối lên trời. Từ cuối bờ mương, nơi giáp với làng bên xuất hiện một vài chấm nhỏ, rồi to dần, rồi tiếng cười, tiếng nói, rồi mầu xanh, mầu đỏ của áo xống phấp phới trong gió, những người họ hàng đi Tết nhau. Trong lòng tôi rạo rực đến kỳ lạ. Tôi muốn đi cùng những người họ hàng kia để đến những nhà họ hàng. Nhưng tôi chỉ được phép đứng dựa lưng vào gốc dừa để nhìn theo họ.

    Mùa hè, bắt đầu từ những cơn mưa rào. Ngồi dưới một tàu lá chuối to làm nhà, bên cạnh hàng rào mắc mấy sợi tơ chuối làm khung cửi, ngắt mấy lá mùng tơi làm mâm cơm. Một gia đình nhỏ ở trên thiên đàng. Bỗng đâu mây đen kéo đến che khuất mặt trời. Mưa rơi nặng hạt trên tàu lá chuối. Rồi cơn mưa trút xuống bất ngờ. Tôi chạy vội vào nhà trú mưa. Mưa càng to thì nỗi buồn của tôi càng lớn. Tôi không hiểu nỗi buồn của tôi đến từ khi nào. Có khi từ một buổi trưa, tôi nằm trong lòng mẹ với sự thanh bình nhất, rồi tôi ngủ thiếp đi. Cơn mưa đánh thức tôi dậy. Mẹ đã đi làm rồi. Thế là nỗi buồn ập đến. Và ngay cả khi tôi không thức dậy vào cơn mưa thì từ cơn mưa nỗi buồn ùa vào tôi. Nỗi buồn đeo nặng cả cuộc đời.

    Cơn mưa tạnh bất ngờ, nắng lại bừng lên. Sau cơn mưa tất cả bụi bẩn trên lá cây được gội rửa hết, chỉ còn lại màu xanh nguyên sơ của từng loài, lóng lánh những tia mắt cười dưới nắng. Sau cơn mưa là đến chuyện bố tôi đi bộ đội. Bố đi vào mùa hè, một buổi sáng, sau cơn mưa rào vào đêm. Ba chị em cùng mẹ đi tiễn bố. Nơi bố nhập ngũ sao mà đông vui thế. Rất nhiều cờ, có cả trống và rất đông thanh niên. Bố có lẽ là già nhất trong số họ. Mẹ cứ khóc còn chúng tôi thì cười và la hét với bố và những chú mà bố bảo là đồng đội. Bố đi buổi sáng, hết cả ngày hôm ấy đến đêm tôi không có cảm giác nhớ bố, mặc dù cho đến khi ấy tôi chưa bao giờ xa bố. Gần sáng, cảm giác lạnh, tôi quờ tìm bố để ôm lấy bố như mọi khi thì không thấy bố. Tôi nhớ bố đã đi rồi, tôi khóc khe khẽ. Mẹ tôi hỏi vì sao mà khóc, có đau hay nhức đầu gì không. Tôi chỉ khóc to hơn. Mẹ tôi dỗ:

    - Nói đi vì sao mà khóc rồi sáng ra mẹ cho đi xem đám ma.

    Tôi chưa bao giờ được đi xem đám ma nên tôi bảo với mẹ:

    - Con nhớ bố lắm!

    - Thế thì im đi, khóc gì cho bố mày sốt ruột, sốt gan, không khéo lại bị giặc nó bắn chết đấy. Nhớ chưa, bố mày chưa chết thì đừng có khóc, có nhắc gì làm bố rối ruột, không tỉnh táo mà tránh đạn được đâu. Tao cũng chẳng dám khóc đây này.

    Nghe mẹ nói tôi sợ lắm, nên mỗi lần nhớ bố tôi phải chạy đi tìm cái gì chơi để khỏi khóc.

    Mùa hè, cái ngày đầu tiên tôi đến trường trời đầy nắng. Cô giáo dạy trên lớp, về nhà mẹ dạy thêm cho tôi. Cô giáo dạy dễ thuộc, mẹ dạy dễ nhớ. Mẹ có những câu thơ thế này: "O tròn như quả trứng gà; ô thì đội mũ- Ơ thì thêm râu. O, a hai chữ khác nhau; vì a có cái móc câu bên mình". Tôi cứ đọc theo mẹ thế mà thuộc. Nhưng đến hai chữ X và S thì tôi không sao phân biệt nổi. Mẹ cho tôi hai cái tát, một cái cốc, rồi bất lực bảo:

    - Tao chịu rồi con ngu dốt ạ, để mai cô giáo mày dạy cho mày.

    Mùa hè, là những đêm đầy huyền bí. Những đêm không trăng trời tối đen như mực, lũ trẻ bắt đom đóm bỏ vào lọ cầm đi chơi. Một thằng lớn đầu têu bảo:

    - Chúng mày có đến ngôi nhà ma không?

    - Có sợ lắm không?

    - Đi rồi khắc biết.

    Thằng lớn đi trước, một lũ bé rồng rắn theo sau. Căn nhà nằm riêng ra một chỗ bên cạnh một gò đất nhỏ. Xung quanh có những luống hoa thẳng tắp. Những con đom đóm lập lòe trong cỏ xung quanh nhà. Thằng lớn bảo:

    - Đấy thấy chưa, ma trơi lượn đầy xung quanh nhà. Chạy đi kẻo ma nó đuổi đấy.

    Thế là ù té chạy. Những đứa bé vấp ngã bật khóc. Đứa không ngã cũng khóc. Nỗi sợ hãi đi cả vào giấc ngủ. Thế mà ngôi nhà ấy ban ngày ối đứa vào hái trộm hoa.

    Một đêm, cách cái ngày bố đi bộ đội khá lâu, buổi tối mẹ giục chúng tôi đi ngủ sớm. Một nỗi sợ hãi mơ hồ nào đó làm giấc ngủ của tôi chập chờn, nhưng vì có ngọn đèn dầu được mẹ vặn nhỏ bằng hạt đỗ để ở đầu giường mà tôi yên tâm ngủ thiếp. Giấc ngủ kéo dài khá lâu thì đứa em tôi đạp đổ đèn, căn nhà chìm vào bóng tối. Tôi tỉnh giấc, gọi mẹ không thấy mẹ đâu. Tôi gào khóc, không thấy mẹ đâu. Tôi liền mở cửa, cửa bị khóa từ bên ngoài. Hai đứa em tôi cũng thức giấc. Chúng tôi gào khóc cuống cuồng, và cùng hé mắt nhìn ra khe cửa. Bên ngoài cũng tối đen như mực. Một lúc lâu sau, tôi nhìn thấy cổng có một đốm lửa bằng hạt đỗ. Tôi gào to:

    - Cho cháu xin tí lửa. Cháu sợ tối lắm.

    Đốm lửa ngập ngừng định tiến lại phía cửa, rồi dừng lại. Tôi nài nỉ:

    - Cho cháu xin tí lửa đi, em cháu làm đổ đèn rồi, cháu sợ tối lắm. Mẹ cháu đi vắng.

    Đốm lửa đứng yên lặng rồi từ từ quay ra phía cổng đi mất. Tôi gào khóc thêm một lúc nữa rồi mệt quá vào giường nằm. Không gian im lặng, tiếng cầu kinh đã tắt từ lâu rồi. Tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi. Sáng ra mẹ gọi dậy dặn dò để đi làm. Tôi ngơ ngác nhìn mẹ. Không hiểu đêm qua mẹ có đi vắng thật hay chỉ là một giấc mơ hãi hùng. Tôi tự đi xác minh xem, bởi tôi vẫn nhớ có một ngọn đèn hạt đỗ trước cổng nhà tôi. Nhưng hình như mọi người có điều gì muốn giấu. Họ im lặng nhưng đánh mắt sang nhau.

    Mùa hè, những cái roi thật sự quất lên da thịt tôi. Khi tôi lên bảy mẹ giao cho tôi một việc: đun một ấm nước mưa để nguội cho cả nhà uống. Mẹ đi làm tôi kéo chúng bạn đến chơi thả đỉa ba ba, đi chợ Đồng Xuân... Vui không thể nào tả xiết. Nhưng cũng vì thế mà ấm nước sôi để nguội hết nhanh chóng. Sắp đến giờ mẹ về tôi mới bắc bếp đun nước. Tôi đút ra. vào bếp cháy đùng đùng mà mãi nước không sôi. Ở ngoài sân thì bọn chúng cười vui quá. Mẹ về ấm nước còn nóng không uống được thế là tôi bị mấy cái cốc bêu trán. Một lần tôi đổ đầy ấm nước để cạnh bếp định đun nhưng cuộc chơi đang vui, cuốn đi, nên quên mất. Mẹ về khen tôi ngoan biết nghe lời. Tôi im lặng và suy nghĩ. Để tránh đòn của mẹ thì bận sau tôi chỉ cần đổ đầy nước mưa vào ấm và chẳng cần đun gì cả.

    Tôi chỉ tránh được một việc như thế. Còn những cuộc đi chơi cùng mẹ tôi rất khao khát mà dường như chẳng bao giờ được toại nguyện. Một lần thấy tôi đang tha thẩn chơi ở đường, mẹ đạp xe đi qua, dừng lại bảo:

    " - Về lấy mũ tao cho đi chơi". Tôi sướng quá nhảy chân sáo chạy về. Bỗng nhiên vấp phải hòn gạch ngã sóng xoài ra đường. Mẹ đang vui bỗng điên tiết đạp xe đi. Tôi chạy theo mẹ gào khóc: "Mẹ Ơi, cho con đi với". Mẹ càng đạp nhanh hơn. Tôi hụt hơi ngã xuống bãi cỏ ven đường. Tôi thi gan nằm úp mặt cho đến khi mẹ quay về. Mẹ bẻ một cành roi thật to, quật và thề rằng: "Chẳng bao giờ tao cho mày đi đâu cả".

    Lâu lắm mẹ quên mất lời thề, một chiều mẹ bảo tôi dọn cơm sớm ăn rồi cho đi chơi. Tôi sướng sun người, vừa bê mâm bát vừa hát. Bỗng: choang. Chao ôi! Tôi bị vấp phải bậu cửa. Mẹ lại điên tiết lên: ở nhà, không đi đâu nữa. Tôi đã hết lời van xin mẹ mà mẹ vẫn chỉ dắt hai thằng em tôi đi. Tôi gào khóc dữ dội. Trời ập tối, tôi bỗng thấy mình thật bé nhỏ, cô đơn. Tôi nhớ đến bố. Mặc dầu vẫn nhớ lời mẹ dặn là không được khóc hờ bố vì bố chưa chết, để bố tỉnh táo mà tránh đạn nhưng tôi nghĩ, tôi chẳng còn ai thương nữa ngoài bố ra. Tôi khóc: "Bố ơi về với con đi, mẹ ghét con lắm. Mẹ chỉ yêu chúng nó thôi. Chẳng còn ai thương con cả". Giọng tôi khản đặc. Mệt mỏi quá tôi ngồi im lặng và mở to mắt để nhìn. Trước mặt tôi là một người mặc áo thụng đen đang nhìn chằm chằm vào tôi. Rồi người đó đưa tay cho tôi:

    - Tâm hồn con bị lạc lối mất rồi, theo cha về để cha rửa tội lỗi cho con.

    Tôi ngoan ngoãn đứng lên và lầm lụi bước theo người đó với cái đầu rỗng tuếch. Ông dẫn tôi vào một căn phòng rộng, thắp đèn măng-sông sáng trắng. Ông mở tủ rót cho tôi một chén nước và lấy cho tôi mấy chiếc kẹo, thứ kẹo này dù có dịp Tết tôi cũng chưa được ăn bao giờ. Ông chìa cho tôi nhưng tôi rụt tay lại thành hai nắm đấm giấu chặt vào đùi. Tôi bậm chặt môi và nhìn trừng vào mặt ông. Thì ra ông không già như tôi tưởng, chỉ già hơn bố một ít thôi. Ông cũng nhìn thẳng vào mặt tôi rồi để kẹo và nước xuống bàn. Ông nhìn vào mặt tôi một hồi lâu và tôi cũng cứ giương mắt nhìn vào ông như thế. Ông rời mắt khỏi tôi, rồi kéo ghế ngồi xuống bên cạnh.

    - Nào con của ta, con hãy kể cho ta nghe vì sao con lại gào khóc như thế?

    Tôi im lặng.

    - Ta biết bố con đi vắng rồi nhưng bố con vẫn thường xuyên nghe thấy những lời con nói đấy.

    - Có thật không hở cha? Nhưng bố con vẫn tỉnh táo để tránh đạn của quân thù chứ cha?

    - Con nói sao?

    - Mẹ con dặn, không được nhắc đến bố, nhớ bố cũng không được khóc, vì bố chưa chết, để bố tỉnh táo mà tránh hòn đạn mũi tên. Nhắc nhiều đến bố, bố rối ruột lên.

    - Mẹ con dặn thế à?

    - Đúng không cha?

    - Thế con kể đi, vì sao mà con gào khóc dữ thế?

    - Vì con rất yêu mẹ con mà mẹ con lại không yêu con. Mẹ con đánh con, không cho con đi chơi cùng mẹ.

    - Không đúng thế đâu, mẹ rất yêu con, mẹ không ghét bỏ con đâu. Chắc mẹ có lý do nào đó. Con ơi, cha muốn nói với con điều này. Con được sinh ra ở trên đời này là một kết quả đẹp đẽ nhất trong sự sinh sản của muôn loài. Bởi vậy con mang trong mình con một vũ trụ riêng. Con đã có những niềm vui, sự sung sướng phải không? Vậy sự khổ đau và nỗi buồn cũng sẽ tự mình con mang lấy. Con có thể chia sẻ với người này, người khác nhưng con hãy mang một chữ "nhẫn" bên mình. Có chữ nhẫn bên mình con sẽ thấy cuộc sống dễ dàng hơn. Con đừng oán trách cha mẹ làm gì. Dẫu sau này cuộc sống của con có khốn khổ đến nhường nào. Với bố con, con hãy ngày đêm cầu nguyện cho ông ấy, mong Chúa ở bên ông, che chở cho ông ấy.

    - Nhưng mà nhà con không có Chúa.

    - Cha biết, nhà con theo đời nhưng Chúa ở trong tim con ấy. Con hãy tin ông ấy sẽ che chở cho con.

    Tôi và cha nói chuyện với nhau rất lâu. Tôi vui lên rất nhiều. Tôi quên hết cả mọi buồn phiền. Tôi uống hết cốc nước, ăn hết kẹo. Cha xoa đầu tôi:

    - Khuya rồi đấy, con về đi kẻo mẹ chờ. Con có sợ bóng tối không, cha sẽ đưa con về.

    - Con không sợ đâu, con sẽ chạy một mạch. Ồ, cha ơi, trăng kìa!

    Trăng cuối tháng tỏa xuống đất trời vào lúc đêm đã khuya, vạn vật đã im lìm trong giấc ngủ. Cỏ cây cũng đã ngủ say, ánh trăng cù vào lá, lá càu nhàu rung nhẹ. Rồi chẳng đừng được mở mắt ra cười lóng lánh với trăng. Tôi chạy một mạch về nhà với tâm trạng như vừa được tắm rửa sạch sẽ. Mẹ đã đóng chặt cửa. Tôi gọi:

    - Mẹ Ơi mở cửa cho con với.

    Im lặng.

    - Mẹ Ơi, mở cửa cho con vào ngủ với. - Tôi gọi to hơn.

    Im lặng.

    - Mẹ Ơi! - Tôi gào lên.

    - Mày sang chuồng lợn nhà bác Thạo mà ngủ.

    - Mẹ Ơi, con muốn vào nhà.

    - Mày mà gào lên lần nữa tao sẽ đánh cho mày nhừ đòn đấy!

    Tôi lặng lẽ ngồi xuống bậc thềm. Ô kìa! Trăng cũng có bóng. Mái ra. nhà tôi đổ bóng xuống đến giữa sân, bóng cây na góc thềm cũng có những đốm trắng chui qua kẽ lá. Ô, mặt trời đêm, đúng rồi. Mặt trời đêm mọc rồi. Tôi chạy ra ngõ. Con đường lát đá sáng bóng loáng. Bụi tre, vại nước, cây cau bên nhà bác Thạo cũng đổ bóng xuống thềm. Trăng sáng rõ từng ngọn cỏ cũng đang vươn dậy, động đậy khẽ ngả sang nhau. Ô, thì ra mọi vật đều thức cả, chỉ có mẹ và con người nằm trong bóng tối của ngôi nhà mới đang ngủ. Tôi cảm thấy đầu óc rất tỉnh táo nhưng mí mắt thì nặng trĩu. Tôi rất muốn thức cùng vạn vật nhưng tôi cũng buồn ngủ như những con người ở trong các ngôi nhà kia. Theo bản năng tôi đi về phía cửa nhà mình. Cánh cửa đã để ngỏ chờ tôi chứ không còn cài chặt nữa. Một ý nghĩ loáng qua đầu, thì ra mẹ cũng chẳng ghét mình đâu, rồi tôi ngủ thiếp đi mê mệt.

    Mùa hè, những câu chuyện cổ tích. Sau cái đêm được cha rửa tội, tôi có thêm một người bạn mới - đó là cha. Những lúc rỗi rãi, tôi không còn chơi thả đỉa ba ba, chơi ô ăn quan hay trèo lên cây nhãn rồi nhảy xuống ao bơi sang bờ bên kia nữa, mà tôi ra nhà thờ. Tôi được phép vào gặp cha bất cứ lúc nào. Nếu là lúc cha rỗi rãi tôi với cha sẽ ngồi trò chuyện. Cha hay kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích. Cha kể chuyện rất có duyên. Truyện ngàn lẻ một đêm làm tôi đứng cả tim. Nếu là lúc cha bận việc, tôi có thể vào tủ sách của cha để mượn một quyển nào đó tôi muốn đọc. Có điều phải ngồi đó đọc không được mang về nhà. Mùa hè năm tôi lên tám tuổi tôi đã đọc trọn bộ cổ tích Andecxen. Mặc dù rất mải mê đọc truyện nhưng tôi vẫn phải nhớ về trước khi mẹ về. Có một bản nhạc vào lúc 11 giờ trưa đánh thức nỗi sợ hãi của tôi... Cái bản nhạc đó nổi lên, tôi đang ở đâu cũng nhanh chân chạy về nhà, rửa sạch chân tay và ngồi lên giường chờ mẹ.

    Một hôm tôi đến chỗ cha, cha đang chuẩn bị đi đâu đó.

    Cha rủ tôi đi cùng:

    - Cha sang xứ làng bên đây, con có đi với cha không?

    Lâu lắm tôi chẳng được đi chơi ở đâu cả nên tôi thích lắm. Tôi đồng ý đi cùng cha. Cha dắt tay tôi đi trên những bờ mương, rồi đi qua những bờ vùng, bờ thửa. Chỗ nào lội cha bế bổng tôi qua. Tôi cảm thấy rất yêu quý cha và không còn nhớ đến bố nữa. Thế là bố đã đi bộ đội được ba năm rồi. Bố không gửi thư về nhà nhưng tôi tin là bố chưa chết, vì mẹ không khóc. Tôi hỏi cha:

    - Cha ơi, cha có con không?

    - Không có con ạ.

    - Vì sao thế?

    - Vì cha không được phép có con.

    - Ai cấm cha?

    - Khi nào lớn con sẽ hiểu.

    Đường đi khá xa, tôi mỏi nhừ chân nhưng vì những câu chuyện cha kể nên tôi không thấy mệt. Buổi trưa ấy tôi được ăn một bữa cỗ rất thịnh soạn. Sau đó cha nhờ một người đèo tôi về nhà. Mẹ tôi rất giận dữ, bỏ buổi làm chiều để chờ tôi về. Mẹ chuẩn bị sẵn một cái roi. Mẹ đánh cho tôi một trận rất đau. Vừa đánh mẹ vừa khóc.

    - Mày bêu riếu tao rồi con ơi, mày nghe làng xóm họ nói gì không? Từ nay tao cấm mày không được ra nhà thờ chơi với cha nữa nghe chưa? Bố mày ở đâu không về mà dạy mày để mày mất dạy thế này.

    Mẹ vừa khóc vừa nhắc đến bố làm tôi bỗng nhiên thót cả tim. Bố làm sao phải không? Vì mẹ vẫn bảo rằng không được khóc vì bố chưa chết đâu. Vậy mà mẹ lại khóc. Tôi sợ lắm không dám đến chơi với cha nữa. Vài tuần sau cha nhờ người mang đến cho tôi quyển chuyện cổ tích Grim. Cha đề tặng tôi hẳn hoi.

    Mùa hè, bố chiến thắng trở về. Bố về nhà vào buổi tối, khi cả nhà vừa ăn cơm xong. Bé út, khi bố đi bộ đội mới chưa đầy một tuổi thốt lên. "Có chú bộ đội vào nhà mình" Mẹ Òa khóc. "Anh đã về đấy à? Anh có bị sao không?" Bố cười hàm răng trắng trên khuôn mặt sạm đen. Mẹ đứng nép vào một bên ngực bố, tôi đứng bên kia, còn hai đứa em thì nhìn bố ngơ ngác. Tôi cầm vào tay bố nhưng đó chỉ là một tay áo rỗng. Tôi thốt lên: "Tay bố đâu rồi? "Bố bỏ vai mẹ ra xoa tay lên đầu tôi: "Mất rồi con ạ". Mẹ thảng thốt nắn từ vai bố trở xuống xem còn đến đâu. Bố bảo: "May mà còn tay phải, còn làm được nhiều việc". Tối đến cả nhà vui không thể tả được.

    Ngày hôm sau mẹ trong trạng thái cực kỳ sung sướng. Mẹ dậy sớm đi chợ. Tôi được theo mẹ đi. Đi qua một chiếc cầu nhỏ bằng tre, chợ được họp ở một khu đất rộng, dưới gốc những cây chay già. Đêm hôm trước trời mưa rào, để ngày hôm sau, trời mang xuống một thứ nắng thủy tinh. Nắng trong veo không một gợn bụi. Chợ mà không ồn ào. Người mua, người bán nói khẽ khàng như sợ nắng thủy tinh vỡ òa ra. Mẹ mua gà, mua thịt, mua rau... rất nhiều thứ. Về đến nhà có mấy bác cùng cơ quan bố mẹ đã chờ sẵn, mỗi người xúm vào một tay thế là tôi không phải làm gì cả. Tôi nhớ đến cha. Tôi muốn báo cho cha biết bố tôi đã về. Cha đón tôi mừng rỡ lắm:

    - Lâu lắm rồi con chẳng đến thăm ta. Con cao quá rồi, chắc lớn lên con sẽ thành cô bé xinh đẹp đây.

    - Cha ơi, bố con đã về rồi. Bố con bị mất một cánh tay.

    - Ơn Chúa, nhờ Chúa che chở cho ông ấy.

    - Có phải là nhờ Chúa hay do con đã không khóc và nhắc đến bố như lời mẹ dặn hở cha?

    - Nhờ cả hai điều đó con ạ.

    - Thôi chào cha con về đây, mẹ không muốn con chơi với cha đâu.

    - Cha biết, tạm biệt con.

    Sau mùa hè đó, nhà tôi có một sự chuyển dời. Nhà tôi không ở miền quê đó nữa mà chuyển lên thành phố. Mẹ tôi thuyết phục bố:

    - Vì tương lai của chúng nó anh ạ. Lên thành phố chúng nó được học hành tử tế hơn. Vả lại con Hoa, sao mà nó lại giống em đến thế. Dường như nó đang lặp lại chính em.

    Mẹ nghẹn ngào như khóc.

    Tôi chuyển lên thành phố với một bí mật mang theo. Tôi không đến từ biệt cha được, nhưng quyển sách cha tặng tôi đã giấu mang theo.

    Lên thành phố tôi thay đổi hẳn. Dù không muốn thay đổi cũng sẽ phải thay đổi. Mỗi lần tôi phát biểu, bạn cùng lớp cười khúc khích; chúng bảo: "Nghe con nhà quê nó nói buồn cười quá". Về nhà tôi đóng chặt cửa để tập nói. Tôi ngâm chân vào nước nóng cho đến bợt cả ra để kỳ sạch những móng chân vàng. Ngoài những thứ đó tôi học rất giỏi.

    Lên thành phố mẹ cũng như khác hơn, mẹ sống có vẻ thoải mái hơn. Nhưng với tôi mẹ vẫn một mực khắt khe. Mẹ theo dõi từng đường đi, nết ăn ngủ của tôi rồi riết gióng, mắng mỏ. Tôi cố thu mình lại trong chữ nhẫn. Mặc dù thế trong tim tôi vẫn vang lên những câu nói của mẹ: "Con Hoa - sao mà nó giống em thế!". Nếu tôi giống mẹ thì tại sao mẹ lại không yêu tôi? Đối với hai đứa em tôi lại khác, mẹ chiều chuộng chúng hơn tôi nhiều. Mẹ hay đi chơi với chúng, điều đó thật xa lạ với tôi. Điều bí mật tôi không thể nào lý giải được. Sau tôi cho rằng hay mẹ không thích tôi vì tôi là con gái. Nhưng nhà tôi chỉ có một mình tôi là con gái thôi mà. Với bố, bố lại hay chăm sóc đến tôi. Bố hay trò chuyện hỏi han tôi nhưng tình cảm với bố, có một cái gì đó như è dè, ngăn cách. Có lẽ bố không biết những câu chuyện cổ tích hay lý giải về vũ trụ như cha, tôi cảm thấy thiếu thốn một thứ tình cảm nào đó. Càng lên lớp cao hơn tôi càng thu mình lại. Tận đáy lòng tôi vẫn ước ao rằng đến một lúc nào đó bố mẹ sẽ hiểu tôi hơn.

    Tôi tốt nghiệp đại học, tôi bỗng hiểu được tấm lòng bố hơn. Tôi hay tâm sự cùng bố. Một lần tôi đem thắc mắc của tôi ra với bố:

    - Con không hiểu sao mẹ và con không hiểu được nhau, mà con thấy con rất giống mẹ, từ nét mặt, dáng đi đến lời ăn tiếng nói.

    - Chỉ có điều mẹ không có được chữ nhẫn như con mà thôi.

    - Sao bố biết?

    - Bố chỉ không nói ra thôi con ạ.

    - Nhưng con cảm thấy chữ nhẫn của con cũng có giới hạn. Con thề rằng con không bao giờ sinh con gái để rồi nó lại khổ như con.

    - Giêsu ma! Sao con độc mồm thế.

    - Sao hở bố? Bố đã từng theo đạo Thiên Chúa à?

    - à không, bố bắt chước đấy.

    Bố có vẻ rất bối rối.

    Nó về chữ "Nhẫn", lúc lên tám tuổi cha dạy cho tôi về chữ nhẫn, tôi đã học được nó. Nhưng kèm với chữ nhẫn đó thì tôi học được tính bướng bỉnh, tôi chỉ làm theo ý mình. Khi tôi nói với bố rằng, tôi không muốn sinh con gái, tôi không muốn nó phải giống số phận của tôi thì tôi đã nung nấu điều đó. Mặt khác, do học hành mà tôi biết rằng chưa có cách gì để sinh con theo ý muốn cả. Vậy chỉ có một cách là tôi không bao giờ có con dù là trai hay gái. Còn việc lấy chồng - đương nhiên là tôi sẽ lấy chứ.

    Về già, mẹ tôi trở nên đỡ nghiệt ngã với tôi hơn, tuy nhiên để mẹ con tâm sự được với nhau thì có lẽ là không bao giờ. Nhiều lần mẹ chỉ nói bóng gió - Con gái có thì, lấy chồng đi kẻo ế. Mỗi lần mẹ chỉ nói bóng gió thế thì tôi càng sắt đá hơn trong ý nghĩ - Không bao giờ tôi sinh con gái. Bởi ý nghĩ quyết liệt đó mà ngay cơ thể tôi ngày càng như khô đét lại. Về việc lấy chồng, có khá nhiều người theo đuổi tôi nhưng khi tôi nói ra điều kiện thì họ lần lượt bỏ tôi mà đi. Tôi chẳng lấy đó làm đau khổ hay mục đích để đạt tới. Hai đứa em tôi đã đàng hoàng gia thất, chúng đẻ ra những đứa con gái, con trai rất xinh đẹp. Bố mẹ tôi tự hào về chúng lắm.

    Bất chợt vào một đêm tôi làm việc khuya đã nghe thấy câu chuyện của bố mẹ tôi. Giọng mẹ tôi run run:

    - Ông ơi, hay tôi nói thật với con đi. Tôi ân hận quá, cầu Chúa lòng lành tha tội cho tôi. Bây giờ thì tôi vừa mang tội với ông, tôi vừa mang tội với nó. Tôi nào có ghét gì nó đâu kia chứ. Đáng lẽ tôi phải thương nó gấp hai lần. Tôi mang ơn ông vì ông đã thương yêu nó vậy. Ông ơi, tôi cảm thấy sức mình đang yếu dần, ông hãy giúp tôi nói với con.

    - Bà chớ có âu sầu thế. Bằng ấy năm, Chúa đã rửa tội lỗi cho bà rồi. Nhưng này, bây giờ tôi mới hỏi bà, cái hồi tôi đi bộ đội, đêm bà khóa trái cửa con cái trong nhà, bà đi đâu vậy?

    - Ông cũng biết chuyện đó ư? Tôi đi cầu chúc. Tôi không dám vào nhà thờ, tôi quỳ ở ngoài vườn chay để cầu nguyện cho ông. Về điều này, tôi dám ngửng mặt lên mà nói với ông.

    - Tôi tính với bà thế này, ngày mai tôi với con về quê. Bao nhiêu năm chúng mình không về quê.

    Tôi nghe trọn câu chuyện của bố mẹ, một nỗi giận hờn con trẻ bừng lên trong tim làm đau đớn. Tôi tự nhủ dứt khoát tôi không về quê với bố. Tôi không muốn biết cái sự thật mà bấy lâu bố, mẹ đã giấu giếm tôi nữa.

    Hôm sau, để bố không có cơ hội nói với tôi chuyến về thăm quê, tôi nói với bố mẹ tôi phải đi công tác một tháng. Tôi đến để xin cơ quan đi công tác xa. Hóa ra chuyến đi của tôi không phải một tháng mà kéo dài đến ba tháng. Sắp kết thúc chuyến công tác thì tôi nhận được tin mẹ Ốm nặng. Tim tôi đau nhói vì một linh cảm xấu. Tôi không oán giận bố mẹ nữa. Tôi chỉ mong bố mẹ khỏe mạnh. Tôi nhanh chóng trở về nhà. Mẹ tôi ốm rất nặng. Tôi nhào đến bên mẹ. Mẹ tôi thiêm thiếp. Bao nhiêu năm rồi bây giờ tôi mới động vào người mẹ. Từ cái thuở biết nhớ, tôi chỉ nhớ đến những cái tát, cái cốc của mẹ, tôi không nhớ một sự vuốt ve âu yếm nào của mẹ cả. Cũng vì thế mà tôi cũng không bao giờ tỏ tình cảm với mẹ. Thậm chí có lúc hai mẹ con cùng bước vào cửa nhà, tôi tránh vào một bên để không đụng vào mẹ.

    Khi động vào người mẹ, tôi bỗng cảm nhận thấy một luồng điện giao cảm của mẹ và tôi hòa vào nhau rất mạnh. Tôi biết, tôi đã và đang yêu mẹ biết chừng nào. Mẹ dường như cũng cảm nhận được điều đó, mẹ từ từ mở mắt ra. Mẹ ứa nước mắt và lẩy bẩy rút ra từ dưới gối một tấm ảnh đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và thốt lên.

    - Cha!

    Mẹ lắc đầu:

    - Không phải cha của con đâu mà cha của mẹ đấy.

    Tôi lật phía sau tấm ảnh ghi G.L 1958. Cha Luận. Cha của tôi là Nghi. Cha Nghi. Mẹ thều thào:

    - Cha con đấy, à không, bố đẻ của con đấy!

    Mắt mẹ thật thanh thản khi nói ra điều ấy. Còn tôi, tôi muốn ngất xỉu. Bố đứng bên cạnh đỡ tôi đứng lên ra bàn uống nước.

    - Con lại đây cho mẹ nghỉ.

    Tôi theo bố như một cái máy. Bố ngồi xuống bên cạnh cầm lấy tay tôi:

    - Con có muốn nghe không? Bố kể cho con nghe câu chuyện này.

    ... Điều con vẫn biết là mẹ con mồ côi từ bé được bà cô chết chồng, chết con nuôi nấng dạy dỗ. Nhà bà cô rất giàu ở một vùng theo đạo Thiên Chúa nhưng bà cô lại không theo đạo nào cả. Có lẽ vì là người chết chồng, chết con nên bà cô rất độc ác. Bà đánh mẹ con những trận đòn rất đau. Khi lên tám tuổi mẹ con chạy trốn vào nhà thờ những khi đòn đau. Cha xứ che chở linh hồn cho mẹ. Mẹ con lớn lên xinh đẹp, còn bố là con một người dân cày ở đó. Bố mẹ đã trốn làng quê đó, rồi xin đi làm công nhân ở một nhà máy đóng trên cái nơi con đã sinh ra... Con hiểu không, mẹ rất yêu con nhưng những mặc cảm tội lỗi cứ bám theo bà. Bây giờ con có quyền phán xử bố mẹ đây. Bố mẹ có lỗi với con.

    Tôi lau khô những giọt nước mắt và nắm chặt tay bố.

    - Trên đời này con chỉ có một bố thôi, đó là bố. Chính bố đã sinh ra con. Con mãi mãi biết ơn bố.

    Tôi đi đến bên mẹ. Mẹ đang ngủ ngon lành lắm. Tôi ngồi xuống bên cạnh, cầm lấy bàn tay mẹ. Tôi thì thầm:

    - Mẹ Ơi, mẹ không có lỗi nào hết. Điều bí mật mẹ mang hộ con đến bây giờ con đã thành một người phụ nữ trưởng thành. Nếu con biết điều này sớm hơn, không biết rằng đời con sẽ ra sao. Mẹ Ơi, con muốn nói với mẹ điều này, ngày mai con sẽ đồng ý để anh ấy cưới con. Dẫu bốn mươi tuổi con vẫn có thể đẻ cho chồng con một đứa con gái cơ mà. Chồng con rất thích một đứa con gái.

    Mẹ hãy tỉnh dậy đi để con nói với mẹ điều này.
     
  7. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Mùa đông ấm áp - Nguyễn Thị Thu Huệ


    Thành phố trên sông huyền ảo và lung linh lạ thường. Đèn sáng lóe trên các con tàu ra khơi đánh cá, trên những chiếc tàu lớn ghé vào cảng ăn than. Đèn từ các ngôi nhà cao thấp lô nhô trên lưng chừng núi, kéo cao đến đỉnh núi cũng còn lấp lóe. Mặt sông loang loáng nước. Sóng ầm oạp và gió từ sông đưa lên làm tôi ớn lạnh. Tôi bỗng thấy mình bé tí teo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt mùng sóng. Mọi thứ chợt ùa về trong tôi, dù nó là những kỷ niệm xa tít tắp. Tôi không có ý định ngày nào cũng phải nhớ về nó, khi cuộc sống của tôi bây giờ đã khác lắm rồi. Nhưng cũng không bao giờ quên. Nó là một phần đời của tôi, là ngưỡng cửa đầu tiên tôi đập mặt mình vào khi tôi hơn hai mươi tuổi.

    Năm tôi hai mươi hai tuổi. Một buổi sáng tỉnh dậy. Tôi nhận được phong thư. Nét chữ của anh. Người đàn ông hơn tôi mười hai tuổi "Đến với bọn anh đi. Rừng núi và sông nước sẽ đón em. Bé tí ơi, đi một ngày ra khỏi nhà là bé có bao nhiêu thứ để sống có ích. Bọn anh ở đây có hôm quên cả ngủ vì cuộc sống tuyệt vời quá, ngủ thấy tiếc lắm. Em đừng mang nhiều thứ lỉnh kỉnh, nhảy xe hàng và xuống nhé.

    Hôn cô bé tí ti và yêu em nhiều. Anh".

    Tôi đọc đến thuộc lòng từng chữ, chỗ xuống dòng hay ngắt đoạn. Mối tình đầu tiên. Thoáng va chạm, run rẩy đầu tiên. Tất cả tôi gửi gắm nơi anh. Dù anh đã một lần sang sông. Anh bảo: số anh phải thế. Ai cũng có số cả, việc anh lấy vợ và bỏ vợ là hợp cách. Nếu cứ cố chống, nó sẽ hại đường khác, tốt nhất là kệ. Tôi tin anh bởi anh có cái gì vừa gặp tôi đã tin ngay. Mắt anh thăm thẳm buồn. Đôi môi cũng buồn, và cả dáng người cũng buồn rười rượi như thể lần đắm đò thứ nhất đã đè nặng sự cay đắng lên người anh.

    Hai ngày sau. Buổi chiều. Tôi đã đến bến phà và chuẩn bị sang sông. Phà đông nghẹt người, xe cộ và hàng hóa. Nắng đã tắt. Trên sông tràn lan một mầu đỏ ối của hoàng hôn. Mầu đỏ lịm hắt từ đâu đó loang dài trên mặt sông, ánh trên khuôn mặt những người cùng chuyến với tôi. Chắc mặt tôi cũng có cái màu đỏ. Tôi yêu cuộc sống, yêu tất cả những gì xung quanh tôi, những người đàn bà lầm lụi, những người đàn ông đen sạm vì gió biển. Tôi là người đang sung sướng. Thế mới biết, bà bao giờ cũng đúng tuy có lúc bà nói hơi nhiều. Nước mắt chảy xuôi. Bố mẹ có thể chết thay con, còn con thì phần lớn chết vì người khác, ví dụ như người yêu chẳng hạn. Tôi bỏ nhà để đến với anh thế này chỉ được bà đồng ý. Còn bố mẹ thì cấm triệt để. Ngày ấy, con gái mới lớn lại đi xa một mình, đến chỗ người đàn ông mới bỏ vợ, liệu có ai dám to gan mà cho đi chưa? Nhưng tôi thì quyết tâm, đi bằng được. Tôi đã thắng.

    Phà chậm chạp trôi qua sông. Tất cả thấm đẫm một sắc màu huyền ảo bởi tôi nhìn chúng bằng ánh mắt kẻ đang yêu. Một người đàn ông ngồi bên một cái lồng chim. Ông ta hình như ngồi sẵn trên phà từ lâu dù phà bao lần cập bến và lại sang bờ bên kia. Ông đang chăm chú vào việc của mình là vặt lông chim. Những cái lông chim bé bé, mềm mại bay quẩn trong không gian và rắc đầy trên mặt sông, chỗ con phà đi qua. Trong ráng chiều, trong tiếng xịch xịch của động cơ, những tiếng lít chít của những con chim trong lồng, những con chim non tròn xoe đỏ bầm máu như những quả sim to đang trơn trụi quẫy đạp dưới đất. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Tôi hoa mắt. Phần vì đi đường xa. Phần vì những cái mắt chim bé tí, đen nhánh như hai giọt mực nhìn tôi. Tôi thấy thương chúng quá. Người ta ăn những con này, may ra mỗi con được một phần tư miếng. Tôi đến bên ông, ngồi thụp xuống và giữ lấy tay ông:

    - Cháu xin ông. Ông đừng thịt chúng. Có ai mua đâu mà ông thì cứ vặt lông chúng mãi thế?

    Ông già ngẩng nhìn tôi. Đôi môi khô nứt nhệch ra đầy vẻ quái ác. Hai mắt đục lờ như mắt cá ươn. Một khuôn mặt dị dạng. Tôi bỗng chùn lại. Ông ta cúi xuống, tiếp tục túm lấy những con chim bé bỏng và miết lông chúng nhanh như máy.

    Tôi thò tay vào túi, chỗ tiền ít ỏi bà dúi cho tôi chắc đủ trả cho ông ta chỗ chim còn sống trong lồng.

    - Cháu muốn mua chỗ chim còn sống.

    Ông ngẩng nhìn tôi, hơi nhệch nhệch một bên mép, giọng khản đặc:

    - Năm trăm.

    Chỗ tiền tôi có, có thể mua được gấp bốn lần chỗ chim đó.

    Tôi mở nắp lồng. Lũ chim chao đảo sấp ngửa đè lên nhau. Tôi nhẹ nhàng lôi từng con ra và thả chúng. Tuổi trẻ thật ngu xuẩn và hiếu thắng. Gần hết bọn chim tôi thả không bay lên được vì chúng đều bị thương không nặng thì nhẹ. Tôi, lúc ấy, trước mắt mọi người chắc là một con bé thừa tiền và ngu ngốc. Một vài con chim đập đập cánh lập bập bay lên. Thật tiếc cho số chúng. Con nào yếu thì rơi ngay xuống phà. Vài con khỏe mạnh thì bay vù lên, trên nó là bầu trời, dưới nó là mặt nước mênh mông. Tôi nhìn theo, xót xa vì biết thế nào nó cũng bị rơi. Sóng và gió ầm ào, sức chúng làm sao sống nổi. Tôi cúi xuống và tìm kiếm những con bị rơi, nhặt chúng bỏ vào lồng. Thương nó, tốt nhất là để nó yên thân trong lồng còn hơn thả tự do cho chúng. Chúng không thể bay bởi sức tàn lực kiệt.

    Phà cập bến.

    Tôi bắt đầu phải nghĩ đến tình cảnh của mình.

    Không ai đón tôi cả. Anh không đến. Hàng quán lưa thưa. Mọi người ai vào đó, chẳng ai còn sức mà nhìn tôi cùng chiếc lồng chim nữa, ngoài mấy đứa trẻ con. Làm gì bây giờ. Tôi tẩn ngẩn đứng lại. Việc đầu tiên phải giải quyết là chiếc lồng chim và những con chim không có khả năng bay. Chúng đáng để thịt. Thật mua dây buộc mình. Tôi đưa chiếc lồng chim vào tay một ông già bán nước "Cụ mang lũ chim này về thịt đi, chúng cũng sắp chết rồi". Tôi đặt chiếc lồng chim xuống chân và chào cụ rồi quay đi ngay. Cụ già ngây ra nhìn tôi, rồi nhìn những con chim bé bé đen đen đang loạch xoạch quẫy đạp.

    Anh không đón tôi.

    Mắt tôi bắt đầu cay xè. Đây là nơi nhiều người qua lại tôi cố nhịn chứ phải chỗ vắng vẻ, có lẽ tôi khóc từ lâu rồi. Tôi là người kém bản lĩnh. Sai cũng khóc, tranh luận để đúng về mình xong cũng khóc. Tức bực cũng khóc. Tôi không hề biết mình phải đi đâu vì tôi không còn nhớ lắm cái địa chỉ anh viết thư cho tôi. Một bà cụ già nghe tôi trình bày, cụ cũng trình bày lại một cách rất rắc rối. Tôi không hiểu gì cả ngoài việc là đường sá ở đây lòng vòng lắm. Lần đầu tiên đi xa không cùng bố mẹ. Xung quanh tôi toàn là người xa lạ và bận bịu. Bây giờ đang là giờ cơm nước. Sau lưng tôi, phà đã đầy khách và chuẩn bị sang sông. Tiếng máy nổ xịch xịch. Những người cùng chuyến phà với tôi biến đi đâu như thể họ tan vào đất tự lúc nào. Tôi chỉ nhìn thấy ông lão bán chim. Ông ta đang ngồi xuống uống rượu với quả khế xanh, và hút thuốc lào.

    Tám năm trôi qua nhanh như chớp mắt nhưng cũng chậm như sên. Khi hạnh phúc, thời gian qua mau. Khi đau khổ, thời gian dừng lại. Tôi bây giờ là một thiếu phụ, dù mới bằng tuổi anh ngày ấy. Có khi chưa bằng. Đẫy đà và uy nghi, tôi béo và mỡ màng chứ không nhí nhảnh như năm nào đến đây. Và bây giờ đi đâu đã có kẻ đưa người rước. Tốt nghiệp đại học ngoại giao, nhưng tôi không làm cố định ở đâu cả. Có cơ quan ở đó vài năm, có nơi hai tháng. Tôi chuyển đi phiên dịch hay làm ở văn phòng đại diện cho các cơ quan nước ngoài ở Việt Nam. Chồng tôi cũng là một nhà doanh nghiệp. Con gái tôi lên bốn tuổi. Nó xinh hơn bố và mẹ. Người ta bảo tôi có phúc, nhất là bố mẹ tôi. Mẹ bảo: "Lắm khi đang ngủ, tao lại giật mình đánh đùng không hiểu mày có lấy được chồng hay không? Nằm ngẩn ngơ một lúc, nhớ ra là mày có chồng mà có con rồi, tao mừng không thể tả được. May thế không biết".

    ... Ngày ấy. Lúc cho xong cái lồng chim, và sau khi ngơ ngơ nhìn ngó một lúc tôi bắt đầu đi bộ. Đường bụi lầm và đen đúa vì đất và than. Những chiếc xe Ben bò ì ạch trên đường với những tấn than như con bọ hung. Nhà cửa, cây cối, tất cả nhuốm một màu xám xịt. Nước mắt tràn ra khỏi mi, tôi không giữ nó trong người được nữa rồi. Tôi dừng lại. Hà Nội của tôi bây giờ xa lắc. Bố mẹ đang ngồi bàn về tôi trong sự đau khổ bởi tôi là đứa con không vâng lời. Tôi thèm được về, trong căn nhà với ba con người đó. Tôi bắt đầu ân hận.

    - Trúc, Trúc, có phải Trúc không?

    Tim tôi khua loạn xạ trong lồng ngực vì đã có ai đó gọi tên tôi. Nhưng không phải tiếng của anh. Một người thanh niên đang lao xe tới chỗ tôi đứng.

    - Em là Trúc?

    - Vâng ạ. - Tôi ngây người nhìn anh. Anh đen hay bẩn? Mũi anh ta hin hin.

    - Anh Hoạt nhờ anh đón em.

    - Thế anh ấy đâu ạ?

    - Anh ấy phải ở nhà thu xếp để em đến. Hậu phương bao giờ cũng phải vững chắc thì mới thắng lợi được! - Anh ta cười, nụ cười hồn hậu.

    Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe anh đèo tôi giống y chiếc xe thồ, chỉ khác là không có hai cái sọt thôi. Anh ấy và tôi ngả nghiêng trên con đường lầm bụi. Tôi thấy mình vui lên vì đã bắt được tín hiệu của anh, người đàn ông tôi có đầu tiên trong đời. Anh đưa tôi đến trước một dãy nhà ngói chênh vênh bên sườn núi, có mấy cái cây con con đen đúa vì bụi. Cửa sổ mở ra núi, nhìn hút lên cao là cây cỏ hoang dại. Mọi vật khô khốc. Những chiếc giường cá nhân, những chiếc chiếu đen đen, sơ sài và tạm bợ. Tôi nhìn quanh. Trong góc phòng, chỗ tối nhất đang phát ra tiếng khầng khậc. Anh đưa đường mủm mỉm cười:

    - Anh Hoạt đấy. Thôi coi như anh xong nhiệm vụ với anh Hoạt. Anh phải đi về đội đây. Bọn anh còn phải tiếp tục khảo sát thực địa. Lúc nào rỗi, em và anh Hoạt sang bọn anh chơi.

    Tôi nhìn chăm chăm vào phía góc phòng nơi đang nhịp nhàng phát ra những âm thanh quái đản. Anh đấy ư? Một khuôn mặt phì phì, ung ủng với một cái mồm há ra thở nặng nhọc như kéo cưa. Hai tay thả thõng thượt như người hết sinh lực. Hai bàn chân đen nhẻm thò ra ngoài chiếc chăn rách. Trông anh, từ cổ xuống giống như một xác chết.

    - Anh Hoạt, anh Hoạt ơi! - Tôi lay người anh khe khẽ.

    - Hừm... - Anh hù tôi một cái rồi trở mình, xoay lưng vào mặt tôi. Ngủ tiếp.

    Căn phòng thoáng yên tĩnh.

    Nước mắt tôi lại thánh thót rơi. Bố mẹ có yêu thương tôi và các cụ ngày ngày có dạy dỗ tôi trăm nghìn sự thì chắc cũng chưa bao giờ nghĩ sẽ dạy tôi phải xử lý với tình huống này như thế nào.

    Bóng tối ập xuống. Trong không khí có mùi ngai ngái của khói củi. Tôi tựa cửa ngóng vu vơ ai đó mà tôi chẳng biết. Thế còn sướng hơn là ngắm một người đang ngủ li bì, quanh người nồng nàn mùi chua chua của rượu, một thứ rượu rẻ tiền và chóng say.

    Bây giờ, sau nhiều năm, tôi mới hiểu ra những gì xảy ra với anh và tôi ngày ấy là hợp quy luật. Nhưng ngày ấy, tôi và mọi người thì nghĩ rằng anh là một lão đàn ông đàng điếm, trai lơ và ích kỷ. Một con người không có tình yêu. Bố mẹ tôi thì cho anh là kẻ lọc lừa.

    ... Lúc ấy, khoảng bảy giờ tối thì anh dậy. Khuôn mặt anh mờ mịt như người vừa ở trong hàng thế kỷ chui ra. Sau hơn hai trăm cây số và mấy lần phà, tôi được nghe anh đón tôi bằng câu đầu tiên "Anh khát quá. Anh thèm ăn một bát canh rau gì đó man mát. Hoặc là uống một gáo nước lã cũng được. Nước mưa ngọt lắm". Những người cùng phòng ái ngại nhìn tôi và lặng lẽ tản đi hết. Tôi lại khóc rấm rứt. Anh thì trố mắt ra nhìn tôi, vẻ không hiểu gì cả. "Sao thế em? Chúng mình gặp nhau thế này vui quá còn gì. Hay em đang gặp chuyện gì buồn. Thế em đến lúc nào đấy, ăn gì chưa?". Tôi khóc vì anh nhưng anh thì nghĩ là tôi khóc vì một cái gì đó. Nói ra chẳng giải quyết được cái gì cả. Và anh ôm lấy tôi. Thế là mọi nỗi uất hờn tan đi hết. Tôi yêu anh. Một tình yêu đầu tiên, thánh thiện và trong sáng vô cùng. Tôi yêu tất cả những gì có ở nơi anh. Và anh là người đẹp nhất trong tất cả những chàng trai xung quanh tôi. Người con gái đến tuổi dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông, thường bị xúc động ghê gớm và không bao giờ quên.

    Đêm đến. Hai chúng tôi đi bộ ra rừng. Tôi vui vẻ trở lại và không thấy mệt mỏi. Đêm ở rừng âm u, huyền bí. Xa xa, tiếng sóng biển ầm ĩ. Tôi và anh ôm lấy nhau. Rồi anh bỏ tôi ra, thao thao kể về những công việc của anh dưới này. Đi khảo sát địa hình của những mỏ than. Lập đề án khai thác than và đưa chúng vào sử dụng. Có bao nhiêu cách khai thác. Và đủ mọi chuyện đã xảy ra trong những ngày anh ở đây. Anh kể cho tôi nghe về những chuyến đi săn đêm. Rồi biển động thì con sóng to ra sao, tiếng nó va vào kè đá thế nào. Anh hào hứng kể với tôi mọi chuyện, cả chuyện anh trêu các cô gái mỏ thế nào, như thể tôi là một thằng bạn lâu ngày anh gặp lại. Đến một thảm cỏ khô khô, tôi và anh cùng ngồi xuống. Anh hôn tôi. Một nụ hôn loang loáng chạy qua môi tôi, môi anh mềm, mát lạnh. Môi tôi nóng run rẩy. Anh chạm vào tôi như gió thoảng rồi buông ra ngay, khi tôi chưa kịp trấn tĩnh. Tôi ngây người nhìn anh và tự hỏi: anh chán tôi rồi hay sao?

    Anh vẫn tiếp tục kể mọi chuyện. Còn tôi thì bắt đầu nghi ngờ anh. Rồi anh thì thào "Về ngủ đi. Em đi xa chắc mệt lắm". Tôi trả lời "Em có thể ngồi đây với anh đến sáng. Em lặn lội xuống đây với anh không phải để ngủ". Anh cười "Vớ vẩn. Sương xuống sẽ làm em quay lơ ra. Mà anh thì ngày mai cũng phải đi làm. Hôm nay đã say cả ngày rồi. Vì em đấy. Chúng nó bảo anh là người hạnh phúc nhất nên phải khao rượu. Mà tính anh đã uống phải say xỉn thì thôi. Uống lởm khởm súc miệng khó chịu lắm".

    Tôi im lặng. Trên trời, những chùm sao nhay nháy một cách yếu ớt. Hóa ra tôi chẳng quan trọng gì với cuộc sống của anh cả. Anh chồm người lên tôi. Tôi im lặng và chờ đợi. Người tôi run lên vì anh gần gũi tôi quá. Anh hỏi: "Yêu anh không, bé con?". Tôi gật, người nóng bừng. "Trước anh, bé đã yêu ai chưa?". Tôi lắc. "Sao bé có vẻ từng trải và bạo dạn lắm. Anh nghĩ là em đã có một ai?". Tôi tiếp tục lắc. "Em yêu anh và tin anh nên em không sợ anh". Anh ngồi thẳng dậy, cười: "Con gái chết vì cái sự tin đó. Hết đời như chơi đấy bé ạ, nếu không biết giữ mình. Bạ ai cũng tin thì nguy. Nhỡ anh hại đời con gái của em và bỏ em thì sao?". Tôi thấy ngần ngại: "Sao lại hại em. Chúng mình yêu nhau và sẽ lấy nhau". Tôi nói và ngồi lên, vòng hai tay ôm lấy người anh. Anh im lìm như pho tượng. "Mọi chuyện xa xôi lắm bé con ạ. Anh vừa thoát cuộc sống gia đình. Thỉnh thoảng đón thằng cu, chăm sóc nó là anh thấy sung sướng. Anh chưa tưởng tượng ra mình sẽ lấy vợ và lại đẻ con. Đó là cả một sự mạo hiểm". Tôi nóng mặt: "Thế tại sao anh nói là anh yêu em?". "Anh yêu em ngay từ khi nhìn thấy lần đầu. Nhưng em còn chíp hôi lắm. Vả lại, chắc gì em sẽ yêu anh mãi? Anh tin là em sẽ chán anh trước. Nhất là anh già rồi, chỉ kém bố mẹ em có vài tuổi thôi". "Vậy anh gọi em xuống đây để làm gì?". Tôi cáu "Ơ hay nhỉ. Đi thế này em không thích sao. Em được đến một vùng đất mới mẻ và đáng yêu. Anh thì được đi đây đi đó. Được sống như ý muốn của mình chứ không sống theo ý thích của người khác. Hồi bé thì sống theo ý bố mẹ. Lớn lên một tí, chưa hiểu đời là cái gì và nên xử lý với nó ra sao thì a lê hấp, lấy vợ. Một cô vợ ngày ngày dạo quanh anh như một ông công an mặc váy trong nhà. Trong túi áo của nàng sẵn một cái còi, cần đến là thổi toét toét, ngay cả khi đi ngủ". Anh cười và ôm lấy tôi. Môi anh lại lướt nhanh trên môi tôi. Mát mẻ dịu dàng như miếng lê. "Cài khuy áo ngực lại, cô bé. Ngực em lộ ra hết trước mặt anh rồi". Tôi nóng bừng người. Trong bóng tối, có một chút loe loé sáng của một ánh đèn hắt xa xa, ngực tôi lộ ra, trắng như mầu sứ. Anh nhẹ nhàng, chăm chú cài áo cho tôi như tôi là con của anh. Anh phủi nhẹ nhẹ đất ở quần tôi và kéo tôi đứng dậy. "Về đi. Đừng bao giờ ra chỗ lạ mặc cái áo dễ bật cúc như thế này. Nó sẽ kích thích đàn ông, lúc ấy em sẽ bị vạ lây đấy". "Anh không yêu em sao?" Tôi thảng thốt hỏi. "Yêu em và thương em lắm chứ, bé con của anh. Nhưng đừng bắt anh phải sống khác mình. Hiểu cho anh nhé". Tôi cay đắng, im lặng đi theo anh. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ là lúc ấy, tôi không còn hiểu anh là kiểu người gì nữa. Theo như tôi được biết, trai gái yêu nhau thì phải hôn nhau và ham muốn được sống với nhau. ít nhất là anh phải có những hành động gì đó với tôi, khi chỉ có hai đứa với nhau, giữa núi non và biển cả. Chúng tôi là hai kẻ tự do hoàn toàn cơ mà. Mẹ cũng dạy tôi nhiều. Tôi cũng được nghe nhiều, và cả đọc truyện nữa, hình như chưa có trường hợp nào tương tự thế này. Tôi và anh không nói gì cả và về nhà. Anh nhường phòng cho tôi và sang nhờ một người bạn. Biết tôi sợ ma, anh rủ chị cấp dưỡng bếp ăn tập thể về cùng ở với tôi cho vui. Đêm đó, với tôi là đêm trắng. Trong khuya. Không gian lành lạnh của một ngày đầu đông. Tôi nghe tiếng gió khua lá cây rừng xào xạc. Thỉnh thoảng có tiếng tu huýt của một giống chim rừng gì đó bay vèo qua. Rồi tĩnh lặng. Loáng thoáng, tiếng ngáy của anh bên kia tấm liếp được gió đưa qua bên tôi. Tôi nghĩ đến bố mẹ, giờ này chắc bố mẹ cũng không ngủ được vì còn phải cùng nhau tưởng tượng ra những cạm bẫy nào mà tôi sẽ mắc phải.

    Sáng hôm sau, anh chạy sang phòng tôi. Khuôn mặt anh tràn trề sinh lực chứ không như lúc anh mới tỉnh cơn say rượu. Tôi tin là hôm qua anh ngủ rất ngon. "Chào. Bé ngủ ngon không? Hôm nay bé ở nhà với các chị nhé, anh phải đi làm đây. Bảo các chị ấy dẫn ra chợ nhé. Tham quan chợ một lúc rồi về ghi nhật ký, vài chục năm nữa giở ra đọc, thích lắm bé ạ". Anh vô tư trèo lên cái xe đạp mà không cần thấy tôi đang trân trối nhìn anh. Anh nháy mắt với tôi, và phóng vụt đi. Tôi không bao giờ nghĩ hiểu rằng trên đời lại có một cái loại tình yêu quái quỷ như thế này. Chị cấp dưỡng tay bóp chặt nắm tiền, cười: "Đi chợ mua cua bể và mực. Làm món chả mực và cua rang muối. Em sẽ thích lắm". Tôi bèn cáo từ chị và ở nhà một mình.

    Tôi ngồi im lìm giữa một căn nhà tồi tàn sơ sài như trong khoang thuyền của người ngư dân sống cuộc đời chài lưới. Nằm ra giường và nhìn ra sân. Ngoài trời, nắng đầu đông loang vàng. Gió se se lạnh. Tôi thấy trống trải và hụt hẫng. Như người đứng trước một cuộc chạy thi, trước mặt là vòng hào quang rực rỡ. Chạy mãi, chạy hết hơi đuối sức, trước mặt còn lại một bãi đất hoang, lởm chởm đá.

    Một ngày nữa trôi qua. Một sự lập lại như ngày trước. Anh rất quan tâm chăm sóc đến sức khỏe của tôi. Làm mọi món ăn bằng đồ biển cho tôi thưởng thức. Nhưng anh không hề hôn thêm tôi lần nào nữa. Tối đến, anh để tôi ở nhà và đi câu tôm cùng bạn bè. Anh không cho tôi đi vì sợ tôi bị lạnh sẽ ốm. Và anh không muốn tôi mất ngủ, da sẽ xấu lắm.

    Ngày thứ ba. Anh đưa tôi ra bến phà để sang Bãi Cháy. Tôi về. Trước mặt tôi, đó là cả một chặng đường dài tít tắp với ba lần sang sông. Không còn cái đích là tình yêu trước mặt để vẫy gọi nữa. Tôi về với căn nhà be bé như cái tổ chim che chở cho tôi. Lúc ấy, tôi mới hiểu gia đình quan trọng như thế nào.

    Tôi vừa đi. Hai mắt cay xè, mòng mọng nước và cố gắng kìm nén để đừng khóc trước anh. Phà rùng rùng sang ngang. Anh đứng trên bờ vẫy tôi rối rít. Anh hét lên trong gió là bao giờ xong việc sẽ về thăm tôi. Anh chuyển hẳn công tác về vùng mỏ, nó hợp với nghề và sở thích của anh. Tôi quay đi, hạ cái túi lỉnh kỉnh những tôm, cua, sò, huyết và mực khô anh mua biếu bố mẹ tôi xuống. Bắt đầu khóc. Khóc như mưa giăng qua mắt. Khóc như bị hun khói ngày rằm tháng bảy vào lễ chùa Hà cùng mẹ. Tất cả, tan nát và mịt mờ đau khổ.

    Rồi tôi cũng về tới nhà.

    Đến bây giờ sau nhiều năm, tôi vẫn còn nhớ nét mặt của bố mẹ khi nhìn thấy tôi hiện ra ở cửa như một kẻ bại trận, với một ít chiến lợi phẩm lục đục trong túi. Bố mẹ già xọp đi. Cả khuôn mặt toát lên màu xám xịt, như thể hai người vừa chạy thoát được một trận bom. Tôi vào nhà, quăng đám đồ đạc ra đất, ngồi phịch xuống giường. Người khô khốc và nặng trĩu. Bố mẹ nhìn tôi đầy vẻ kinh hãi và không ai bảo ai, chạy thẳng ra đường. Hai người ngó mỗi người một ngả, rồi quay nhìn nhau, và lại ngó nghiêng như tìm ai đó. Rồi, cả hai cùng vào. Mẹ hỏi: "Nó đâu?" Tôi ngơ ngác: "Ai cơ ạ?". "Thằng khốn ấy chứ ai?". Tôi thấy nhẹ bỗng: "Anh ấy chuyển hẳn về đó công tác. Bao giờ có điều kiện sẽ về Hà Nội chơi thôi ạ". "Ai đưa mày về đến đây?". Mặt mẹ đỏ dần lên. "Con tự về mẹ ạ". Mẹ hét lên: "Làm sao đến nông nỗi này con ơi. Thôi thế là xong đời rồi. Nó xơi mày xong nó đi đằng nó rồi mày lại tự bò về chứ gì? Thằng khốn nạn. Nó bỏ vợ con bơ vơ. Nó lại lừa con tôi. Tôi phải giết nó. Thân tàn ma dại rồi con ơi. Sao tôi khổ thế này. Tôi có ác độc gì đâu mà giời phạt tôi". Mẹ đau khổ thật sự, lồng lộn lên như con thú bị thương. Trông mẹ già xọp và quằn quại. Ai không biết tưởng như một tai họa gì đó như cơn lốc ào vào nhà tôi. Tôi ra sức thanh minh rằng anh tốt lắm, anh chăm chút tôi bằng tình cảm của một người anh với em gái, rằng tôi chưa hề bị anh xơi một tý nào, rằng anh còn dạy tôi cách sống ra sao giữa những người đàn ông xa lạ. Tôi càng bênh vực anh thì bố mẹ càng gầm rít. Tôi khóc vì nhớ anh và vì cuộc tình của tôi và anh hình như tan vỡ. Còn bố mẹ thì tưởng tôi là kẻ lầm đường lạc lối, bị một thằng Sở Khanh mang cuộc đời con gái đi mất. Và tôi là kẻ thất tình. Bố mẹ đi theo con đường suy nghĩ của bố mẹ trong sự tưởng tượng. Tôi thì lại sống bằng cái dĩ vãng của ba ngày chua chát vừa qua, khi hiểu rằng anh không yêu tôi như tôi tưởng. Tôi là kẻ bỏ đi - trước mắt bố mẹ.

    Sau đó, bố mẹ đã bằng khả năng của mình xử lý anh. Nhưng hình như anh cũng không vì thế mà bị làm sao cả. Anh là người có chuyên môn, lại dám xông xáo, hình như anh lên lãnh đạo.

    Tôi và anh chia tay nhau. Phần vì tôi tự ái. Phần vì bố mẹ. Phần vì tôi cũng xinh đẹp và có nhiều người mê. Và ba năm sau, tôi lấy chồng. Một người chồng tuyệt vời trước mắt mọi người. Ngày cưới tôi, mẹ tôi khóc hu hu. Tôi hỏi tại sao, mẹ bảo "Giời thương tao, tao chết cũng nhắm mắt, nó biết mày mất trinh mà vẫn làm đám cưới to thế. Thời mẹ, con gái như con chỉ đáng gọt gáy bôi vôi thôi. Cố sống cho tử tế với nó, lúc nào nó cáu quá, có đánh con thì con cũng cố mà chịu nhé". Tôi im lặng nhìn mẹ. Không hiểu mẹ có bị lẩm cẩm không. Hay là tôi phải gào lên với mẹ và mọi người rằng, tôi không bị mất gì cả, chẳng ai trộm cắp gì của tôi cả.

    ... Những lon bia. Những đĩa thức ăn đặc sản của vùng biển đầy ự trên bàn chờ đón đoàn của tôi về công tác. Họ về đây ký hợp đồng mua than của ta. Tôi có nhiệm vụ giao dịch và là mối dây giữa hai cơ quan. Những lời chúc tụng và những ánh mắt đàn ông nhìn ngắm tôi. Tôi quen với những thứ đó rồi. Chỉ có điều, chưa một người đàn ông nào nhìn tôi như Hoạt ngày ấy. Bây giờ, quay trở lại Hòn Gai, tôi đã thành người khác. Tôi có nhìn thấy một cậu thanh niên xách một túm chim rừng, con mỏ dài, con mỏ ngắn. Màu lông rất đẹp. Anh ta hỏi tôi có mua không, hai ba nghìn một con. Tôi cười lắc đầu chợt nghĩ, ở Hà Nội chim quay mười bảy nghìn một con, đắt thật. Tôi nhớ anh cồn cào, dù tôi rất yêu chồng và con tôi. Hai chuyện đó, theo tôi, hoàn toàn chẳng can dự gì với nhau cả.

    Đêm đến. Tôi đi ra biển. Khoảng rừng ngày xưa chúng tôi ngồi với nhau giờ người ta san phẳng và xây nhà rồi. Nhà mọc san sát. Trang trí nội thất đẹp như những khách sạn mini. Trên đầu tôi, vẫn những vì sao lưa thưa, có vì sáng rực, có vì nhạt nhòa, trên biển ánh sáng nhiều và chi chít hơn ngày xưa rất nhiều. Cuộc sống ngày một đi lên, sung túc hơn. Càng sống, càng thấy anh đúng. Những cái gì ngày xưa tôi oán giận anh, ngày nay tôi làm đúng như vậy. Hóa ra, con người, từ lúc sinh ra đến lúc chết đi ai cũng đi chung một con đường. Vừa giống nhau, lại vừa khác nhau. Người may mắn thì ít sa vào ổ gà. Người đen đủi thì hay rơi xuống hố. Những cái sự bắt đầu và kết thúc thì như nhau cả. Tôi im lìm nhìn biển đen thẫm trước mặt. Mùa đông năm nay đi về hướng nào chẳng biết. Tháng mười một nhưng nắng vẫn hoe vàng. Tôi chỉ mặc một chiếc váy thun mà không bị lạnh. Ai đó bảo rằng biển ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè. Biển muôn đời đáng yêu và dễ gần. Hồi chiều, tôi tìm đến nơi ngày xưa anh công tác. Người ta bảo anh đi khỏi đó lâu rồi. Anh ưa sự khám phá. Hình như anh vào khu mỏ mới nghiên cứu và khai thác than mỏ nhỏ. Những mỏ vô danh và chưa ai đặt chân tới. Có người thì bảo hình như anh và bốn người nữa trong một lần đi thăm dò mỏ mới, hít phải chất titan gì đó trong khe sâu và chết rồi. Có người lại bảo anh chuyển sang Hải quan, chuyên đi tàu trên biển bắt bọn buôn lậu quốc tế. Nói chung, tôi chẳng nhận được những thông tin gì cụ thể về anh, ngoài việc anh là người ưa làm việc, ưa khám phá. Anh vẫn độc thân. Cuộc sống và niềm vui của anh là công việc. Còn nhớ, ngày ấy, khi chia tay tôi, anh có viết vài dòng cho tôi, đại ý là anh đã trải qua mọi sự rồi. Ngay trong tình yêu cũng vậy, anh yêu tôi nhưng anh không vì tôi mà sống khác. Anh hôn tôi bằng đôi môi của người đàn ông từng trải chứ không thèm khát nhục dục của kẻ mới lớn. Anh, lúc ở rừng với tôi, anh có thể nhịp nhàng mà chiếm đoạt tôi, và biến tôi thành nô lệ của anh vì tôi rất ngây thơ và tin anh. Nhưng anh không muốn bởi vì tôi còn cuộc đời của tôi. Với anh, điều đó không quan trọng, miễn là khi tôi đi lấy chồng, tôi còn nguyên vẹn với chồng.

    Tôi không còn nước mắt để khóc nữa. Người đàn ông đã có vợ thường tìm trong tình yêu mới vẻ đẹp tinh thần chứ không phải sự cuồng si của thể xác. Anh không muốn lấy tôi bởi anh không muốn tôi đau khổ. Anh bảo: "Lấy nhau sẽ phải đẻ con, anh cũng yêu thương con của chúng ta thôi nhưng cái tình yêu đó không thể bằng tình yêu của một chàng trai chưa bao giờ có vợ và con. Anh vẫn phải dành anh cho con của anh với người vợ cũ. Như thế, chúng mình và các con đều đau khổ vì không ai được trọn vẹn cả".

    Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này. Bao nhiêu năm, tôi sống và tôi hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi gặp được người đàn ông nào thay thế được anh trong tâm tính của tôi.

    Sương nhè nhẹ buông. Trong gió có mùi tanh nồng nồng của biển. Có mùi mặn mặn của muối. Tôi thấy nóng bừng người vì nhớ anh.

    Tôi đang sống trong một năm không có mùa đông.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  8. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bến Phà Đen lặng gió - Triệu bôn

    Bà Đà thường đi làm từ sáng sớm, chiều chạng vạng mới về. Chiếc khăn thâm trùm cách nào đó mà bịt kín cả gáy cả cổ, ngoài cái khe rất nhỏ dành cho hai con mắt lấp loáng nhìn ra.

    Dẫu là một người đẹp lộng lẫy mà trùm bịt như thế cũng thành khó hiểu, huống chi bà Đà là con người có thân hình cứng cỏi, vai ngang dáng đàn ông, mà tính nết cứ mưa, nắng, nắng mưa luân chuyển nhau không ngừng.

    Chiều nào không thấy đồ nghề của ông Đà - chiếc gánh toòng teng một bên đựng bốn, năm hòn đá mài các loại, và một bên là cái chậu đồng sứt vành dùng đựng nước - để ngoài hè, bà Đà liền rít lên:

    - Mất thây mất xác ở đâu giờ này chưa chịu vác mặt về!

    Còn như, nếu thấy ông Đà ngồi hút thuốc lào trên cái giường do mấy tấm ván thùng kê sát nhau, việc đầu tiên của bà Đà là lấy từ chiếc túi xách ra chai rượu, thuồi xuống trước mặt ông, kèm theo một lời đay đả:

    - Này mồ hồi của tôi đấy. Nước mắt của tôi đấy. Nốc đi!

    Không mấy khi bà để cho ông uống rượu suông, mà thường có thêm vài thứ nhắm đạm bạc; miếng đậu phụ bôi nghệ nướng, một miếng vó bò, năm thì mười họa còn có quả trứng vịt lộn hoặc bộ lòng gà.

    Mỗi tội thức nhắm càng ngon, ông Đà càng phải nghe nhiều lời nhiếc móc của vợ.

    - Đội thúng than từ xà lan lên bãi được mấy, ông biết không? Ba hào! Thế mà một quả trứng vịt lộn những năm đồng. Không nhờ cái đận phát tiền năng suất thì có khối ra đấy mà hốc. - Bà Đà vừa nói chồng sa sả vừa móc túi lên vách, cởi khăn trùm, nhen bếp, bắc nồi, lấy gạo đi vo... Công việc thoăn thoắt trôi chẩy qua đôi bàn tay ngấm bụi than đen kịt của bà.

    Chai rượu trước mặt ông Đà cạn, vừa lúc bà Đà bưng mâm cơm lên, hai vợ chồng cùng ăn. Bấy giờ bà Đà dù có nói trời nói đất, ông Đà cũng không lấy làm điều, thậm chí ông còn thấy khoái nữa. Nhịn đói suốt ngày, mỏi rạc cẳng đi diễu qua các phố xá, được nhấm chút rượu là chất men chạy rần rật như kiến bò mười đầu ngón tay ngón chân và làm tê dại mang tai ông, khiến người ông lâng lâng.

    Tuy vậy đã vài bận ông Đà xô cả mâm cơm xuống đất rồi xông vào bà vợ khốn khổ mà đấm đá túi bụi. Đó là những lần bà Đà nhiếc ông là giết chết con để ăn một mình cho sướng mồm.

    Cánh đàn ông hàng xóm tuy không phải là lũ ác bụng nhưng đều đồng thanh ủng hộ ông Đà thẳng tay trừng trị bà vợ tai quái.

    - Thế! Giã nữa!

    - Vợ tôi mà thế tôi tẩn nhừ xương!

    - Đem mà trôi sông cái của nợ ấy đi!

    Trước sự "chi viện" nhiệt tình ấy, ông Đà quắc mắt đáp lại:

    - Việc nhà tôi, ai mượn các ông chõ vào? Người ta khổ quá rồi phải để người ta nói cho hả bớt cái khổ đi chứ!

    Nói vậy nhưng sau mỗi lần xô xát, ông Đà sợ, không dám nhìn vào mặt vợ mấy ngày liền.

    "... Cái năm Nhật kéo sang ta, ông Đà đương làm anh chân sào trên một chiếc thuyền đinh bề thế chẳng kém ngôi nhà ngói năm gian. Cứ bẩy ngày một lần ông chủ lại chất đầy gạo, muối, dầu tây, vải, lụa lên thuyền, cho nhổ sào ở bến Lục Dầu để ngược lên mạn Đồng Trâu, Hố Sếu, qua Ngàn Trâu Danh, lên tận Bãi Thải. Đến Bãi Thải, nhiều khi dỡ hàng xong không kịp nghỉ, đã nhận khách vội vàng để bắt con nước trở xuôi luôn.

    Cánh chân sào thuyền gồm mười tay trai lực lưỡng, năm người chạy be tả, năm người chạy be hữu. Công việc bao giờ cũng bắt đầu từ phía mũi thuyền, hai hàng người nhất tề lao phập những cây sào trẩy dài đầu bịt sắt xuống lòng sông, đuôi sào tỳ vào hõm vai, một người cất giọng: "Bớ dô hò..." chín người kia "dô huậy", mặt nước trước mũi thuyền rẽ thành hai làn sóng trắng hình mũi tên, mấy người chân sào cúi gầm mặt, gò lưng bước xuôi để con thuyền nặng nề lao ngược dòng. Tới đuôi thuyền, tất cả lại nhất tề rút sào, trở về đằng mũi, và lại bắt đầu đúng y như thế.

    Một buổi sáng thuyền về đến bến Lục Dầu, hành khách chen nhau qua mảnh ván cầu để lên chợ, có một cô gái cứ quẩn quanh dưới khoang. Đà bước lại gần cô, cất tiếng hỏi:

    - Nhà chị này có hàng nặng, không ai đỡ, hử?

    - Không không - Cô gái giật mình hoảng hốt - Tôi có hàng gì đâu!

    - Sao còn loanh quanh mãi?

    Cô gái bỗng òa khóc:

    - Tôi sợ...

    - Sợ gì?

    - Sợ người ta đón bắt tôi trên ấy...

    Đà hiểu ngay ra tình thế của cô gái:

    - à. Lại trốn chúa lộn chồng chứ gì? Phải thế cứ nói thật thì tôi giúp...

    Việc nên vợ nên chồng giữa hai người đã bắt đầu một cách rất đơn sơ. Tới năm giáp khởi nghĩa, gặp nạn đói khủng khiếp, khắp nơi người chết xếp chồng đống thì đứa con trai đầu lòng của vợ chồng ông Đà đã biết chạy lon ton theo bố mẹ đi xin ăn.

    Vợ chồng ông Đà dẫn cu Thấn - tên đứa con - phiêu dạt từ Phả Lại lên Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi quay xuống Hà Nội. Họ uống nước lã cầm hơi nằm ở sân ga một đêm, một ngày.

    Tối hôm sau bà Đà nói với chồng:

    - Cái chết là cầm chắc rồi. Nhà xem còn cách nào cứu lấy con?

    Ông Đà lẳng lặng đứng dậy bỏ đi. Ông vào một cửa hàng ăn trước cửa ga đèn điện sáng trưng, đứng xòe hai bàn tay đợi hồi lâu không thấy ai cho mình chút gì. Ông đành liều thò tay vào thúng bún của chị chủ hàng, chộp một nắm. Nhưng ông vừa quay ra được vài bước, chưa xuống khỏi vỉa hè, đã ngã sấp mặt vì một cái ghế ném theo đúng giữa lưng. Vốc bún trên tay ông, không hiểu bị những người ăn mày chung quanh xô lại cướp hay bị chủ hàng giật lại lúc nào ông không hay.

    Lê lết về được chỗ vợ con nằm, ông Đà nghĩ ra được một kế để họa may cứu sống được bé Thấn. Ông bế nó đến giữa chỗ đông hàng quán nhất, cắn con một miếng chảy máu ở má rồi bỏ nó lại, vùng chạy.

    Suốt mấy chục năm, từ thời Nhật rồi Việt Minh, rồi Pháp tạm chiếm, tới ngày thủ đô được giải phóng và mãi tận bây giờ bà Đà trở thành công nhân ở cảng than, còn ông Đà vẫn chỉ làm độc một cái nghề đi mài dao thuê.

    Chẳng ai nghĩ chuyện làm giầu bằng cái nghề nhỏ mọn này. Nhưng với ông Đà thì lại không thể bỏ mà tìm công việc khác. Ngoài cơm gạo ra, vợ chồng ông còn phải nuôi sống lẫn nhau bằng một nguồn hy vọng. Sáng sáng, ông quẩy chiếc gánh nhẹ tênh, một bên đá mài một bên chậu nước, thả bước đến khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, gặp bất kỳ người đàn ông trai tráng nào vào trạc tuổi bé Thấn năm xưa ông cũng nhìm chằm chằm vào bên má phải của họ.

    Bé Thấn "khi xưa" giống mẹ nhiều nên nó cao lớn, vai hơi ngang, mắt lá răm, khi cười có một lúm đồng tiền ở bên má bị bố cắn, chắc là thành sẹo.

    Hai mẹ con giống nhau ở cái dáng đi lúc nào cũng vội vàng "chân không bén đất".

    Ông Đà tin vào câu tục ngữ "trai giống mẹ thì khó ba đời". Nếu trời để bé Thấn qua cái nạn đói kinh sợ ấy mà còn tới ngày nay, may mắn nó chỉ đủ tay vo miệng lốm như bố mẹ nó là cùng. Vì vậy, hễ thấy có người đàn ông nào ăn mặc sang trọng lại có chút gì hao hao giống vợ mình là ông run lẩy bẩy vì hồi hộp. Ông như bị thôi miên, chân chạy theo, mắt nhìn, miệng lắp bắp: "Lạy trời! Biết đâu!..." Dĩ nhiên lát sau ông Đà lại ỉu xìu và tự nhủ: mình mơ tưởng thế làm gì, nên để mắt vào đám làm thuê làm mướn, chữa xe đạp, đánh xe trâu, quạt bễ lò rèn, gác cổng, thợ nề, thợ mộc... thì hơn.

    Chẳng bao lâu kể từ khi ông Đà cất tiếng rao "Mài dao, mài kéo đây", ông đã có cả một đội ngũ bạn "áo ngắn" rải rác từ Gia Lâm xuống tới Ngã Tư Vọng, từ dốc Vĩnh Tuy lên tới làng Láng, làng Cót. Ông lân la nhờ các "chiến hữu" tìm thằng cu Thấn hộ mình. Những đứa trẻ bị cha mẹ bán, hoặc bị cha mẹ bỏ đường bỏ chợ trong nạn đói ất Dậu tới nay còn nhiều lắm, họ đều đã phương trưởng và đã có bố mẹ anh em gặp lại nhau. Duy có thằng cu Thấn màu da trắng, vai hơi ngang, và có nốt răng của bố để lại trên má, chưa ai gặp.

    Ông Đà vẫn rong ruổi qua các phố xá nội thành, cả những làng ngoại ô. Buổi sáng, vợ chồng ông mỗi người mỗi ngả ra khỏi nhà với chút hy vọng cầu may, để rồi buổi chiều về thấy căn nhà lợp giấy dầu vẫn trống lạnh như xưa, làm bà Đà lại nổi tam bành, nhè ông chồng mà trút hết những lời cay độc.

    Lâu dần hàng xóm đâm quen. Đám đàn ông thôi làm hậu thuẫn cho ông Đà "thi hành những biện pháp cứng rắn" đối với bà. Vài người phụ nữ vô công rồi nghề cũng thưa dần câu chuyện về bà trong những cuộc ngồi lê đôi mách. Mặc dù, khi tuổi mỗi ngày một nhiều thì sự căng thẳng giữa vợ chồng ông Đà lại càng ngày càng khó gỡ hơn.

    Một ngày chủ nhật, bà Đà ở nhà một mình, ông vẫn quẩy gánh đi như mọi khi. Thoạt tiên bà lẩm bẩm nhiếc móc cho riêng mình nghe, sau đó ngọn lửa ma quái xông lên ngực bà, thế là bà bỏ hết mọi việc ngồi ghé mép giường mặc sức réo tên ông ra mà nguyền rủa.

    "Cứ vác mặt về đây. Chuyến này thì bà xé xác!" - Bà tuyên án vắng mặt ông như thế, và nhăm nhăm đợi mặt trời chóng lặn để ông "vác mặt" về.

    Bà Đà chẳng phải đợi lâu. Xế chiều hôm ấy ông Đà đã lử khử quẩy cái gánh thợ mài dao về. Ném cho bà một nắm tiền lẻ toàn loại năm xu, một hào, rồi ông đi nằm. Bà Đà thấy chồng khang khác, không những đã quên những lời đay nghiến được mài dũa suốt từ sáng, bà còn sờ tay lên trán ông. Người ông Đà nóng chín, làm bà Đà cuống cuồng. Mấy chục năm nay, đây là lần đầu bà Đà nói ra những lời dịu dàng với chồng:

    - Nhà ơi. Tôi nấu cho nhà bát cháo đậu xanh ăn cho nó giã sốt, nhé?

    Ông lắc đầu, mắt vẫn nhắm nghiền. Bà lại vuốt ve bộ râu lởm chởm bạc gần hết trên cằm ông.

    - Dậy tôi bảo này! Chịu khó uống chén rượu. Nhé? Nhà bị cảm nắng đấy!

    Ông Đà thương vợ, ứa hai hàng nước mắt. Ông muốn ngồi dậy nhích nhắc tay chân cho bà vui, nhưng sức ông đuối quá rồi.

    Sáng hôm sau thì ông "đi". Bà Đà bật ngọn điện tù mù ở giữa nhà, ôm lấy thi hài ông mà lay, lắc, nhày nhã như đang đánh vật. Lúc đã kiệt sức mà vẫn không sao làm cho chồng sống lại được, bà Đà rú lên:

    - Ông ơi là ông! Chai rượu tôi mua còn kia. Từ nay mua cho ai uống nữa hở trời!

    Tiếng khóc xé ruột gan của bà Đà cất lên từ lúc còn tối đất. Nghe giọng bà, hàng xóm ngỡ ông bà lại xảy ra chuyện gì, nhiều người lẩm bẩm rủa bà vài tiếng rồi lại ngủ. Mãi lúc nghe kỹ, biết ông Đà đã chết, mọi người mới choàng dậy chạy túa sang.

    Xưa nay cái cảnh góa bụa vẫn thường xảy ra cho loài người. Nỗi đau dội lên, uất lên một thời gian rồi dịu dần. Sự quên lãng là một trong những bản năng tự vệ giúp cho con người tồn tại được.

    Nhưng hình như ở bà không có cái "bản năng tự vệ" ấy. Liền mấy tháng, đêm nào bà cũng kêu thét gọi ông suốt từ đầu hôm đến sáng. Trời thì đã sang đông, gió lạnh từ mặt sông Hồng thổi thốc vào căn nhà giấy dầu thủng tan hoang do chính tay chủ nhân của nó xô, đập, cào, xé.

    Sang tới mùa xuân, giữa lúc cỏ cây đến con người đều xanh tươi trở lại thì bà Đà chỉ còn da bọc xương. Một đêm không nghe tiếng bà kêu thét, sáng hôm sau hàng xóm chạy sang đã thấy bà nằm bất tỉnh giữa những mảnh chăn rách, trên mình chỉ một tấm áo dệt kim đã mốc meo và chiếc quần bảo hộ lao động bạc phếch.

    ở bệnh viện người ta hết lòng cứu chữa cho bà Đà. Vài ngày sau, bà tỉnh lại biết thều thào cảm ơn những người hàng xóm đã mang cam, mang đường và luân phiên vào chăm sóc bà.

    "Khổ đến thế. Con người cay cực suốt đời. Khi cái sung sướng nằm trong tay thì lại lăn ra chết" - Cả khu phố bờ sông tới nay mỗi khi nhớ đến bà Đà, bà con lại chép miệng nói thế.

    Số là, ở nơi bệnh viện bà Đà nằm cấp cứu, có một bác sĩ trưởng khoa tên là Dũng, tuổi xấp xỉ bốn mươi, vai hơi ngang, nước da trắng và đôi mắt dài rất linh lợi. Một lần, khi bà Đà đã qua khỏi cơn nguy kịch, bác sĩ Dũng đến khám bệnh cho bà theo thường lệ trong ngày. Bác sĩ bảo bà tháo áo để đặt ống nghe vào ngực bà. Anh đang chăm chú nghe tiếng tim dội thì thụp tự dưng bà già cứ nhổm người vừa nhìn sát mặt anh vừa sờ lên vết sẹo trên má anh. Bảo bà nằm yên mấy lần không được, bác sĩ Dũng phát bực gắt:

    - Cụ làm sao thế!

    Bà già không trả lời bác sĩ Dũng mà thét lên một tiếng: "Con!" làm cho cả phòng bệnh giật mình. Rồi bà tắt thở. Mọi cách cứu chữa của bệnh viện đều vô hiệu.

    Khi phải tự thú nhận mình hoàn toàn bất lực, bác sĩ Dũng ngồi cạnh bà Đà, ôm mặt khóc rưng rức.

    Dũng là con nuôi của một cán bộ trong quân đội. Ông có tới sáu người con, thêm Dũng là bảy. Những khi gia đình tụ hội, con cháu chật nhà, ông vẫn kín đáo dành riêng cho Dũng chút chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên, càng lớn lên Dũng càng thấy mình đang âm thầm ngóng đợi một con người, dù sớm muộn thế nào sẽ có một ngày con người ấy tìm ra anh...

    Nhiều năm về sau, vào những ngày giỗ ông bà Đà, bác sĩ Dũng thường đưa vợ con về thăm những gia đình hàng xóm của ông bà, và thế nào anh cũng có quà đến thăm hỏi những người là bạn "hạt gạo cắn đôi" của bà Đà hiện đang nghỉ hưu trong khu tập thể của cảng.

    Những người bạn của bà Đà đều gọi Dũng bằng con, và đối xử với anh đúng như cách xưng hô. Mặc dù bà Đà không còn, nhưng tình thương bầu bạn bà để lại vẫn còn khắp nơi nơi. Ngày nay hễ nhắc đến bà là những người bạn già của bà lại nghẹn ngào.

    Họ kể rằng: vào tiết đông và tiết xuân, lòng sông Hồng cạn rặc, những cồn cát nổi vờ vờ bên dưới mặt nước lắng trong dần dần, ấy là những ngày trời đất gió thổi vô hồi. Cứ sáng ra, những người công nhân phát khổ lên vì những ngọn gió lạnh như dao cắt vào da thịt. "ấy nhưng mà cháu ạ - Các bà già nói với bác sĩ Dũng - cái buổi sáng mẹ cháu "đi", trên mặt sông cũng như trên bến cảng, trời bỗng dưng lặng phắc, không một hồi gió.

    Như thế là hồn thiêng lắm!"

    Hà Nội, 8-1985
     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/15
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  9. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Mùa hoa cải ven sông - Nguyễn Quang Thiều

    Khác sự cam chịu của hai người anh, lòng dũng cảm của cô gái nhỏ với những khát khao cháy bỏng về một cuộc sống bình yên hòa thuận giữa cộng đồng là niềm tin mãnh liệt mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc về tình yêu, lòng vị tha vẫn tỏa sáng trong sự tối tăm và giam kìm của những định kiến trái ngang vô lý.

    Đêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông. Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. Người trong xóm trại trên bến Chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. Hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu tấm ván gối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. Hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê v.v...

    Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi tuổi, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chòm râu bạc xòa che gần kín vồng ngực gồ lên như tảng đá. Đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì.

    Ông Lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. Bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ông cất lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen bóng như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. Chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền.

    - Anh cả đâu ? Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm.

    - Dạ bố bảo gì con ? Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra.

    - Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi thứ cho đủ.

    Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa.

    Ngày mai cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy giữa khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời. Vào mùa hè cách đây mười hai năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những xóm dân cư hai bên bờ sông để xin được chôn cất vợ. Nhưng không một nơi nào chấp nhận. Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị lây bệnh dịch. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con trai dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. Ông đổ hết cả một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống hết cuộc đời trên sông. Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. Hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến Bãi Yên. Ông xõa tóc và mặc áo, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày mùa đông rét mướt. Sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một dải sông dài mời bạn thuyền. Đám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn.

    Đêm hôm sau, khi vầng trăng cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa.

    - Bố ! Ông nghe tiếng cô con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh tay ông- Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa.

    Đã bao nhiêu lần cô nói như van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất.

    - Không đứa nào trong nhà này được nói đến điều đó - Ông rít lên -Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền của ta.

    Nhưng ngay sau đó chính lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh, đứa con gái duy nhất của ông, đã sinh ra trong chiếc thuyền trên dòng sông này. Ngày Chinh ra đời, ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khỏe mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Cô thừa hưởng sắc đẹp dịu dàng của mẹ, lòng dũng cảm của cha và sự bí ẩn của dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng cô xông xáo táo bạo hơn các anh cô. Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống dòng sông. Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Đâu đây có những đàn cá lạ lấp lánh ánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như một giọt thủy ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mũi thuyền nhìn về phía cô gọi, đôi mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông ngay cả mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân chạm vào đất đôi bờ.

    * * *

    Nhưng cô thèm khát đôi bờ. Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ cô đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ với con thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát vào bờ và khi nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và mùi cỏ đêm hăng hăng, người cô lại cảm thấy nôn nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng sau đó cô phải trườn mình quay lại con thuyền ngay khi đã nghe tiếng mõ gọi của bố. Có một lần cô nhìn thấy một xác người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị chém nhiều nhát, vết thương đã rữa tỏa mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên: "Trời ơi, ai làm sao vậy bố ? Bố vớt người ta lên bờ đi". "Người trên mặt đất họ giết nhau đấy". Ông Lư trả lời lạnh băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày hôm đó ông không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: "Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai".

    Một lần khác cô hỏi Sỏi - người anh trai cả của cô: "Anh không thích lên bờ à ?"- "Trên bờ có cái quái gì mà lên"- Sỏi nói - "Cứ ở đây, chẳng phải đụng chạm đến đứa nào. Làm gì thì làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau. "- "Lúc nào anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát ?", cô quay sang hỏi người anh trai thứ hai. Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: "Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù" - "Mày tưởng trên bờ là thiên đường chắc ? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù nữa đấy !". Sỏi nhìn Cát càu nhàu. "Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi hơn cái nhà tù thuyền này !" -"Ai, ai tù mày ? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh tù mày ?"- Sỏi thốt lên giọng the thé, Cát thủng thẳng: "Chẳng ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả". Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. "Trời ơi, - anh kêu lên nức nở - Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống !"- "Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết mày". "Mất dạy hả ? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất"!

    Buổi tối ông Lư trở về. Cô con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau giữa hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông nhìn Cát rồi nói: "Mày muốn lên bờ hả ? Được. Tao sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không ?"- Nói rồi ông cầm lấy lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập vào mạn thuyền: "Hãy nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy trả lời xem mày có thích lên bờ không?"

    Rồi Cát cũng không lên bờ. Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến. Chinh đã sang tuổi mười bảy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô bỗng thấy trên bãi sông Bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao, ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. "Đẹp quá"- Chinh khe khẽ thốt lên. Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi cô. Cô đã sang tuổi mười bảy. Thỉnh thoảng có đêm thức giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô đang chải tóc chợt dừng tay. Nó làm cho ngực áo cô bỗng đầy lên đến nghẹn thở. Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt.

    Một hôm, sau bữa cơm chiều, cô nói với bố là cô đi thả lưỡi câu. Ông Lư chiều con và dặn: "Đi về sớm, trời lạnh đấy". Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cải. Đêm lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Đôi tay nâng khẽ những chùm hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua những bông hoa đung đưa cọ vào má cô. Người cô run lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện trước cô. Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe tiếng mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống quít, cô quơ tay dứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói. Cô biết bố đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. "Mày đi đâu mà không trả lời". "Con tưởng bố gọi anh cả". Ông im lặng, nghi ngờ nhìn cô.

    Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải mang về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng rất gắt của chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ, cô ngước mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm được sự sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi vì trước cô trong đêm trăng lạnh là một người lạ.

    - Cô là ai? Cô làm gì ở đây ?

    Chàng trai hỏi và bước lại gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. ánh trăng trong veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. "Đẹp quá !". Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm trăng tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế ? Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Đôi môi cô khẽ mím lại còn đôi mắt thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh cơ thể cô và nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở.

    - Em ở đâu đến ?- Chàng trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã làm cho cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó tỏa một quầng sáng đèn dầu. "à", anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ, anh vẫn thấy chiếc thuyền lấy cát ấy neo ở bến sông làng anh. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại:

    - Em ở dưới thuyền à ?

    Cô gật đầu.

    - Em thèm ăn rau cải à ?

    Chinh bật cười. Nụ cười ngợp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc.

    - Thế em muốn gì ? Anh lúng túng hỏi.

    Chinh không trả lời mà giơ một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh.

    - Hoa cải ? Em thích hoa cải?- Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu.

    - Em về đây. Bố em gọi !

    Anh bỗng hoảng hốt sợ cô biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến.

    - Này em ! - Chàng trai chạy theo - Tên em là gì?

    - Chinh.

    - Anh là Thao. Nhà anh ở kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy.

    Chinh mỉm cười gật đầu và đi xuống bến. Anh nhìn theo. Đến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống.

    Sáng sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca thán dưới bếp: "Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua". Thao mỉm cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bến sông. ở giữa sông, chiếc thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh tỏa ra từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải thật sự đêm qua anh đã gặp một người con gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng.

    Rồi vào một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khuất. Họ chưa biết gì về nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang đan quấn vào họ như tơ nhện.

    - Bố em đi rồi - Chinh thì thào.

    - Đi đâu?

    - Bố đi có việc mấy ngày tận cuối sông.

    - Đêm nay em ở lại trên bờ với anh nhé. Em đừng về.

    - Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. Nếu anh nhìn thấy em anh gọi thì bố em giết chết em.

    - Sao lại giết? Thao hỏi và bật cười.

    - Thật đấy. Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng.

    - Anh yêu em! Anh nói như phải cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên.

    - Anh yêu em.

    Chinh vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Đôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy hơi ấm của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang tỏa vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên nhìn anh và hỏi:

    - Anh là người mặt đất à?

    - Trước đây, anh là một người lính - Anh nói.

    * * *

    Trời mỗi ngày một ấm lên. Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm anh giật mình nhận thấy hoa cải đã rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất.



    - Em phải ở lại đây với anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không đuợc đi đâu cả.

    Cô nhìn anh lắc đầu. Anh rút trong túi ra một tờ giấy đưa cho cô.

    - Anh chép thơ tặng em đấy. Thơ Tago em biết không?

    - Em không biết chữ.

    - Sao, có thật thế không?

    Anh ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa, anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng.

    - Anh sẽ dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào, em nói đi!

    Chinh xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô. Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói:

    - Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ.

    - Lên bờ ! Đúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở bãi sông này. Anh sẽ trồng thật nhiều hoa cải bên mộ mẹ.

    Cô gật đầu cười hạnh phúc.

    Thế là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Đôi khi họ cũng vắng bến dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Đêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh cân đối. Năm năm rèn luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một lần khi đang bơi bên anh, Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng sông chợt dừng chảy, im phắc lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thủy tộc biết điều hạnh phúc thiêng liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con lấp lóa.

    Như thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên. Cũng chính ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm trên mộ của bà mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ở ngay trong vườn nhà anh. ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặn xuống đáy sông để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên sùng sục và Sỏi nhao lên khỏi mặt nước kêu thảng thốt: "Mộ bị phá ! Mộ bị phá rồi". Một ngọn lửa bỏng rát táp vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá xanh đã bị vứt ngổn ngang. Ông Lư biết không phải nước mà có một người nào đó đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó ? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không ai biết ngôi mộ này ngoài những người trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra lệnh: "Thả gầu xúc cát xuống". Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước đến cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô đựng rượu, ngửa cổ lên uống.

    - Đứa nào ?- Ông gầm lên- Đứa... ưa... ưa... na...ào... ào?

    Tiếng ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ, vọng lại rền rền trên mặt sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng.

    Đến gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai anh con trai im lặng chèo thuyền.

    Buổi sáng hôm sau mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy. Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra.

    - Bố! - Cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu.

    - Cái gì thế này? ông hỏi và giơ những tờ giấy ra... Ông không biết chữ nhưng ông linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy.

    - Cả đâu !- Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra. - Mày đọc xem cái gì đây.

    Sỏi cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học ở một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang.

    - Thưa bố. Đây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện yêu đương. Nhưng con Chinh có biết chữ đâu nhỉ.

    - Con Chinh đâu? Ra đây.

    Ông Lư gầm lên. Từ trong nhà thuyền, Chinh vừa khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy câu chuyện vừa rồi.

    - Đứa nào? Của đứa nào? - Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc lên.

    - Của... của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố!

    Ông Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy ông.

    - Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau.

    - Trời ơi ! Ông Lư kêu lên - Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi!

    Ông túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt mái tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một ngọn gió ở đâu ào đến. Gió cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rối bời, quằn quại.

    - Đánh tuốt xương nó ra - Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách tan chỉ còn lại hai đoạn tay áo.

    - Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ...

    Ông nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn. Những người trong gia đình cô cũng chững người lại nhìn cô. Trước mắt họ cô đang ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc dứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu. Đôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở.

    - Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi!

    Sỏi thảng thốt kêu lên. Đôi mắt ông Lư đờ đẫn. Chân tay ông run lên như bị bệnh thần kinh.

    - Thảo nào... - Cô con dâu chặc lưỡi - Đúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến lạnh cả người.

    Đúng lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên. Anh chạy lại ôm lấy Chinh.

    - Anh ơi !- Cô nấc lên.

    - Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy đau đớn và uất hận. ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của Chinh. Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đang đánh Chinh trên thuyền. Anh không kịp cởi quần áo dài, cứ thế lao xuống sông bơi đến nơi con thuyền đậu.

    - Mày, chính là mày - Ông Lư bước lại trước Thao - Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết mày. Tao phải giết mày.

    - Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ta. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời con cái ông trên chiếc thuyền này.

    - Trời! Ngôi mộ... ngôi mộ. ở đâu? Mày, mày... ngôi mộ.

    - Đúng. Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ta đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia đình này phải cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đày ải những người khác sống một cuộc đời tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ.

    Anh cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng nhìn mọi người nói:

    - áo đâu ? Đưa áo cho cô ấy mặc.

    Cát lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói:

    - Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ.

    - Mày là một con quỷ. Mày đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ.

    - Nếu ông chấp nhận cho cô ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông.

    Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy.

    * * *

    Khi Thao đi mua được thuốc cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho con thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền chạy ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái. Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa mùa hạ ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Đất trời mù mịt. Trên dòng sông lác đác có những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh. Anh rét run lên rồi ở trong ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ anh lên mũi, lên mồm. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh gió cho anh. Đến tối anh mê sảng, người nóng ran. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại hỏi:

    - Thuyền về chưa?

    Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh đang bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi, ôm chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đầm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên khỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh nhẹ bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào:

    - Thuyền đã về chưa?

    Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh đã quyết định đi tìm Chinh. Anh nói với bà mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số sách tư liệu cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không có được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. ở trên mui thuyền có một cô gái hai tay bị trói vào cọc. Có người lại kể rằng họ thấy một thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo làn nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi lại có người nói rằng họ nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn như mắt cá. Đứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng... Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người dân chài cho đến khi ra đến biển. Biển tít tắp không bờ không bến và rền rĩ tiếng sóng.

    Cho đến một buổi sáng Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  10. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bia đá rìa làng - Văn Linh

    Danh lợi ư? Quyền lộc ư? Tôi chán ngấy tất cả và đã đi đến quyết định trở về làng. ở đó tôi có mẹ, có người thầy đầu tiên từng dạy tôi những bài học vỡ lòng về đạo làm người. Tam tự kinh "Nhân chi sơ, tính bổn thiện..." ở làng còn có nấm mồ mối tình đầu của tôi... Nghĩa là về với làng, tôi sẽ có tất cả. Mỗi khi lòng mình lấn bấn, trí mình tù túng, bức bối, tôi lại trở về làng. Quê hương bao giờ cũng dành cho tôi lời mách bảo đúng đắn nhất để mình vững bước trên đường đời.

    Về tới làng, việc trước tiên, tôi tới thăm thầy học. Thầy sống thọ, tuổi đã ngoài tám mươi mà da dẻ vẫn hồng hào, râu tóc dù đã bạc nhưng đầu óc còn minh mẫn.

    Chỉ tội, đôi mắt thầy, vì bom đạn chiến tranh, giờ chẳng còn nom thấy gì.

    Thầy tôi đang ngồi ở tràng kỷ với cái điếu bát đặt trên bàn. Tôi bước vào và lễ phép chào thầỵ

    Một nét mừng rỡ thấy rõ trên gương mặt thầy:

    - Ai như anh Siêu? Lâu ngày anh mới về làng.

    - Thưa thầy, thầy nhận ra con sao?

    - Trời phú cho kẻ kém mắt. Tôi vẫn nhớ tiếng nói của anh.

    Thầy đưa tay ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên, rồi sờ sờ lên mái tóc tôi, vuốt xuống má, xuống cằm, xuống cổ, xuống hai vai tôi... bao âu yếm cứ như với một cháu nhỏ.

    Đoạn thầy hỏi:

    - Tóc anh bạc chưa?

    - Thưa thầy, đã hết nửa mái đầu.

    - Nghe ra tiếng nói của anh còn khỏe.

    Thầy ngoái vào nhà trong, gọi cháu nhỏ đem nước chè xanh lên, và thầy trò chúng tôi bắt đầu câu chuyện hàn huyên... Hết chuyện nhà cửa họ hàng, sang chuyện xóm làng. Qua trò chuyện, tôi thấy lòng thầy toát lên một nỗi buồn: dân làng quá ít học hành, đã bao đời nay vẫn mang tiếng "làng dốt", "làng mít"...

    Nhưng rồi, thầy trở lại an ủi:

    - May còn có anh đi ra học được chữ nghĩa, làm nên nhà văn, cũng mở mày mở mặt cho xóm làng chút ít.

    Qua lời thầy, tôi cảm thấy có gì xót xa trong lòng.

    - Thưa thầy, con có đáng gì, chỉ là một nhà văn loại năm, loại sáu.

    - Nhà văn cũng được xếp loại ư anh?

    - Thưa thầy, đó là con tự biết và tự xếp lấỵ

    Thầy khẽ gật đầu:

    - Khiêm tốn, tự biết mình đó là đức tính đáng quý.

    Nhưng con nghĩ, thầy cũng đừng nên quá buồn, chẳng qua xóm làng mình chưa tới vận hội. Song chả đến nỗi nào, làng ta cũng đã có người làm nên chức nên quyền rồi đấy, thưa thầỵ

    - Anh muốn nói tới ông Gừng phải không?

    - Dạ, thưa thầy, đó cũng là một ví dụ.

    Thầy như chợt nhớ, đưa tay sờ lên trán và hỏi:

    - Anh vẫn còn nhìn thấy vết sẹo ở đây chứ?

    - Dạ, còn mờ mờ.

    - Hồi nhỏ học với tôi, nhà ông Gừng ấy, đã lấy son tự khuyên vào bài mình. Thấy vậy, tôi mắng: "Đừng hỗn thế". Vậy là ông ta cầm cả đĩa son ném thẳng vào trán tôi, chữ thầy trả thầy luôn. - Thầy chép miệng, lắc đầu và thở dài - Nhà ông ấy, đã không có chữ lại không có nghĩa.

    Đang lúc bên ngoài bỗng có tiếng ồn ào, rồi một đoàn người kéo thẳng vào sân nhà thầy. Trong đó có người lên tiếng hỏi:

    - Cụ Mộc có nhà không?

    - Có tôi đây. Ai như ông Riềng? Thầy tôi trả lờị

    Người lên tiếng lúc nãy bước vàọ

    - Đúng rồi, Riềng đây. Tôi có việc phải phiền đến cụ.

    - Ông chủ tịch cần gì cứ nói!

    Giờ tôi mới biết đây là ông Riềng chủ tịch xã. Đoàn người đi theo ông vẫn đứng lố nhố ngoài sân, nam có, nữ có...

    - Chả là... - Tiếng nói ông Riềng rõ to - mảnh đất xã vừa nhượng lại cho tôi, chẳng rõ từ đâu, có mấy đứa cháu đang đào hố để tôi vôi, bỗng thấy lồi lên một tảng đá xanh, cao khoảng sải tay, rộng chừng bốn gang, một mặt có chữ, toàn chữ Hán. Thấy vậy chúng nó sợ quá liền mua hương thắp, rồi khấn vái. Thế là cả làng chẳng hiểu gì cũng đua nhau đem hương hoa khấn vái tùm lum... Ai lại làm thế! Bởi vậy, tôi mới phải vào, mời cụ ra đọc hộ xem những chữ khắc ở hòn đá đó.

    Thầy tôi sốt sắng:

    - Được, tôi ra ngay. Nhưng ông chủ tịch ra trước đi, cho người rửa sạch mặt chữ tôi mới đọc được.

    Thầy liền đi rửa mặt mũi chân tay, mặc áo dài tươm tất, như người dọn mình để đến trước bàn thờ. Đoạn, thầy rủ tôi:

    - Anh Siêu cùng ra chứ?

    - Dạ, con đi với thầỵ

    Quả tình, dân làng đang tụ tập ở thửa đất ấy khá đông, khói hương vẫn đang nghi ngút, cùng với những lời bàn tán to nhỏ:

    - Vận làng đã đến, chữ nghĩa mới nổi lên.

    - Sông có khúc, người có lúc. Lẽ nào dân làng ta chịu dốt mãi.

    - Nghe đâu, ngày xưa, đây còn có cả miếu thờ thiêng lắm.

    Ông Riềng, chủ tịch xã lên tiếng:

    - Cụ Mộc ra đây rồi. Mời cụ đọc cho, xem đây là hòn đá gì? Kẻo nữa... bà con chưa gì đã hương khói, vái lạy tùm lum như vái bia bà...

    Thầy tôi với vẻ trang nghiêm, như thuở trước thầy vẫn dạy học trò "phải biết kính trọng chữ thánh hiền". Đôi bàn tay gầy guộc, già nua của thầy run run sờ lên mặt đá, lần đọc theo dòng chữ từ phải sang trái... Tay thầy đi qua mỗi dòng chữ, gương mặt thầy một sáng lên. Tôi có cảm giác hai mắt thầy đang dần tỏ, có thể nhìn thấy sau những dòng chữ, trên mặt đá, có một điều gì khác, thiêng liêng lắm.

    Thầy đọc xong, đứng lên, bắt thân áo dài lau mồ hôi trán.

    Hàng trăm cặp mắt nhìn dồn vào thầy chờ đợị

    Thầy tôi chậm rãi báo:

    - Ông chủ tịch ạ, đây là tấm bia kỷ niệm ngày mất của ông Đặng Đình Lân, người làng ta. Ông thi đỗ tiến sĩ, khoa Đinh Mùi dưới triều Tự Đức.

    Số dân làng vây quanh bỗng "ồ!" lên cùng lúc, tỏ vẻ mừng rỡ trước một chuyện lạ chưa bao giờ được biết. Và tiếp đó là những lời đàm đạo, bàn tán đầy phấn chấn nổi lên:

    - Vậy mà ai dám bảo dân làng mình nghìn đời vô học.

    - Đứa nào còn gọi làng mình là "làng dốt" "làng mít" đánh bỏ mẹ nó đi!

    - Đúng, vận làng đã đến, liệu mà cho con cháu học hành, theo chữ nghĩa... mai sau...

    Các cụ về hưu còn tỏ ra hăng hái hơn:

    - Đề nghị đảng ủy, ủy ban làm đơn ngay lên Bộ Văn hóa xin công nhận di tích lịch sử.

    - Phải rồi, nghe nói xưa còn có đền thờ hẳn hoi.

    - Khó gì, ta xây lại đền.

    - Đâu đâu người ta cũng có di tích lịch sử, chỉ tiếc mỗi làng mình, trách chi con cháu cứ dốt đặc cán mai.

    Riêng ông Riềng chủ tịch xã vẫn đứng đỏ mặt, đầy hồ nghi:

    - Cụ đọc chính xác không đấy, cụ Mộc? Bao đời nay, tôi chưa hề nghe ai nói dân làng mình lại có người học cao, đỗ đến tiến sĩ. Việc này phải xem lại, khéo không "mồ cha chẳng khóc, lại khóc tổ mối". Được, ủy ban, cấp ủy sẽ làm sáng tỏ chuyện nàỵ

    Thế rồi, ngay ngày hôm sau, ông Riềng đã đáp xe lên tận Hà Nội, gặp ông Gừng là anh ruột, nghe đâu làm cán bộ gì ngoài đó, để thỉnh thị, xin ý kiến...

    - ... Em lạ chi, ngoài bọn mê tín dị đoan, lại còn có đứa ghen ăn tức ở, chả là... dằm đất đó đẹp, mai đây đường mở sát vào đấy thì cứ gọi đất đó hót ra vàng. Ngán nhất mấy lão về hưu làm đơn trương kiến nghị đi khắp nơi, gửi cả lên đài, báo, để xin công nhận di tích lịch sử.

    Thử hỏi, di tích lịch sử cái quái gì, làng ta đã có đền thờ tiến sĩ... Chẳng biết chữ trên đó, cụ Mộc đọc có đúng không. Em chưa tin!

    Ông Gừng lim dim mắt, như xem thấu xa xưa, rồi khẽ nói:

    - Hồi nhỏ tôi loáng thoáng nhớ, hình như đó còn cái nền miếu thờ, thờ ai thì không rõ. Nhưng làng mình từ buổi chiêu dân lập ấp đến nay, nặn đâu ra được ông tiến sĩ nào... Nếu điều đó không có, thì thứ miếu thờ thần linh ma quái vớ vẩn, bộ nào lại công nhận là di tích lịch sử. Chú sợ gì? Được, tôi sẽ giúp địa phương lo việc này...

    - Anh tính, ngay cạnh trường cấp một, chả lẽ để các cháu ngày ngày cứ nhìn thấy cảnh người lớn chổng mông lên cúng bái, hương khói mê tín dị đoan. Lại ở ngay trước cửa trụ sở đảng ủy mới chướng làm sao!

    - Chú về lo khâu chuẩn bị vật chất để đón các nhà khoa học đến làm việc.

    Ông Riềng cười:

    - Chữ nghĩa làng mình mới thiếu, vật chất anh chẳng phải lo. Nhưng, đến khi công bố kết quả nghiên cứu anh nhớ về. Có anh, nhiều tay phải nể mặt. Mấy tướng hưu về làng, công thần bỏ mẹ.

    Họ nói và họ đã làm, một thời gian không lâu, có ngay một đoàn cán bộ gồm các nhà sử học, văn học, Hán nôm, văn hóa về làng tôi. Dịp này tôi vẫn còn tại làng. Làng bỗng trở nên vui hơn, mấy bà hàng phở, cô hàng quà ngoài phố bưng hàng vào tận làng bán cho đoàn cán bộ, họ cứ ăn, tiêu, tiền nong đã có xã chịu, bia hộp mở xìn xịt...

    Đáng nhớ nhất là ngày ủy ban xã đứng ra tập trung dân làng tại thửa đất có bia đá nọ để nghe đoàn cán bộ khoa học công bố kết quả nghiên cứu về "di tích lịch sử" của làng.

    Hôm đó ông Gừng đánh xe con về dự. Xe đỗ ngay trước cửa đảng ủỵ Ông Gừng bước xuống và đi ra trước mọi gương mặt hân hoan kính nể của dân làng. Không thể bắt tay hết từng người, ông Gừng chỉ đến với lớp người có tuổi, quen biết ít nhiều... và, ông ta đã đến trước thầy Mộc:

    - Thầy còn nhớ tôi nữa không? - Ông chào thầỵ

    - Ông Gừng thì phải - thầy đáp lại.

    - Giỏi! Thầy giỏi!

    Thấy thầy Mộc sờ tay lên trán, chừng như ông Gừng chột dạ, nhớ đến chuyện cũ, đành cười và nói:

    - Ngày xưa, tôi còn đi học chữ Hán với thầy, đến là nghịch như quỷ sứ. May có cách mạng giờ mới thành người.

    Thầy Mộc cười:

    - Nghe giọng, thấy ông vẫn còn trẻ như xưa.

    Hình như ông Gừng nghe lọt ý đằng sau câu nói nên nụ cười trên mặt ông bỗng nhạt hẳn.

    Giờ phút mọi người mong đợi đã đến. Một số người ra đây còn đem theo cả hương hoa, chờ kết quả nghiên cứu để thắp hương tưởng niệm luôn.

    Một nhà khoa học, nom còn trẻ tuổi, nhưng đầu đã hói, làm cho đám con gái làng cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười, ung dung bước ra công bố kết quả nghiên cứu của đoàn. Đoàn công nhận mặt chữ trên bia đúng như cụ Mộc đã đọc cho làng nghe...

    Nghe vậy, dân làng vội hý hửng... Song về kết quả nghiên cứu, đoàn cho biết, bia này không đúng. Qua các khoa tiến sĩ, suốt các triều đại, không có vị nào đỗ tiến sĩ tên là Đặng Đình Lân. Cũng như không có một ông tiến sĩ nào quê ở làng này...

    Sau khi nghe công bố rành rọt kết quả của đoàn cán bộ nghiên cứu, dân làng bỗng lặng cả lại, hương hoa vẫn trên tay. Thảy như đang chờ một điều gì khác.

    Nhận thấy không khí trầm lặng, nặng nề quá, ông Gừng liền bước ra:

    - Mời cụ Mộc, bậc lão thành có chữ có nghĩa của làng cho ý kiến, xem có gì khác không?

    Theo lời mời, thầy tôi run run chống gậy bước ra, rồi nói:

    - Đúng như các cán bộ nghiên cứu vừa công bố, làng ta, chưa có ai đỗ tiến sĩ. Nhưng tôi nhớ ra rồi, ông tôi có kể, làng ta có một người tên là Đặng Đình Lân thật. Ông này là người có chí học hành. Nhưng "học tài thi phận" bao năm nhà nghèo, vợ phải bắt ốc hái rau nuôi chồng ăn học, ông ta đi thi cử nhân, không đỗ. Dân làng vốn yêu thương, quý trọng người hiếu học, nên đã góp cơm, góp gạo nuôi ông ăn học, chờ khoa thi sau. Thi lần thứ hai ông lại hỏng. Sự bất quá tam, dân làng lại nuôi ông thêm mấy năm nữa để dùi mài kinh sử. Ông thi khóa thứ ba, không đỗ nốt! Phẫn chí, vừa nghĩ tới công ơn và lòng mong mỏi của dân làng, ông thấy mình đã phụ lòng, không báo đáp được công ơn và lòng mong mỏi của nhân dân đành uống thuốc tự vẫn. Dân làng lấy làm thương xót, tiếc một con người hiếu thảo tiết nghĩa nên đã phong ông là tiến sĩ, tạc bia và lập đền thờ ông...

    Không khí cuộc họp lúc này thật khó tả, là cả một sự im lặng kỳ lạ hẳn không phải ỉu xìu buồn bã, như thể một tâm tư, tình cảm mọi người đang nén lại đến căng thẳng.

    Giữa lúc đó thì ông Gừng lên tiếng cười, nửa sảng khoái, nửa như có phần giễu cợt. Đoạn, như cốt phá vỡ không khí im lặng đến khó chịu, ông nói:

    - Bà con thấy chưa? Cứ gì thời buổi kinh tế thị trường này, thuở trước cha ông mình cũng từng tỏ ra chịu chơi đồ rởm - Ông cười ha hả - Theo như cụ Mộc vừa kể thì đây là một thứ tiến sĩ rởm - lại cười ha hả.

    Ông Riềng và mấy người nữa cũng ha hả cười theo, văng cả nước bọt.

    Tôi vốn là người không bao giờ thích, thậm chí còn hay tránh xa các cuộc tranh luận. Nhưng tại giờ phút này, không hiểu sao, lòng tôi bỗng sôi lên một cơn giận! Bản thân bị xúc phạm chăng? Cá nhân tôi chẳng đáng gì. Nhưng đây là quê hương! Quê hương bị xúc phạm, quả là điều không chấp nhận được. Tôi liền bước ra, xin phép dân làng, xin phép thầy, cho tôi với một tư cách con của dân làng được nói đôi lời.

    Tôi như một kẻ nhập đồng:

    - Thưa bà con dân làng! ở bên Tàu có "Viên ngọc họ Hòa". Người dân nọ đem dâng lên vua Sở một viên ngọc nói là quý. Thợ kim hoàn cho biết đó không phải là ngọc, nên người dân nọ đã bị chặt đôi tay. Qua mấy đời vua, mỗi lần dâng ngọc là một lần chịu tội, đến khi người dân họ Hòa nọ bị chặt cụt cả tay chân, vua mới biết đó là viên ngọc quý nằm trong đá. Ngay nước ta, xứ Nghệ có một người thi chín khóa cử nhân đều không đỗ. Đến khóa thứ mười vua mới hiểu, chín khóa trước, hội đồng thi đã không chấm nổi bài của ông nên đã đánh hỏng. Do đó, nếu chúng ta cứ lấy xét nghiệm thi cử làm khuôn vàng thước ngọc để đánh giá vạn vật, khó mà chính xác; hơn nữa đây lại là trí tuệ, phẩm giá một con người - tôi phải ngừng một lát để giữ xúc động - Thưa với bà con, trong câu chuyện này, tấm lòng của ông Đặng Đình Lân đối với dân làng là hoàn toàn "thứ thiệt" - Không làm tròn trách nhiệm học hành, thi cử, đỗ đạt, trước công lao và mong mỏi của nhân dân thì ông tự vẫn. Còn tình thương yêu với sự trọng vọng của nhân dân đối với người con hiếu thảo, tiết nghĩa như ông hoàn toàn là thứ thiệt.

    Đến đây vì quá xúc động, tôi chưa nói thêm được gì, chỉ biết thụp xuống trước tấm bia, ứa nước mắt, tôi lạy tạ một linh hồn đẹp đẽ.

    + + +

    Ngay lúc đó một em bé gái, rón rén đến bên tôi:

    - Hương đây chú này!

    Em bé trao cho tôi một nắm hương cháy nghi ngút. Tôi đến lấy hương từ tay em bé và dắt tay em cùng quỳ xuống trước bia.

    Trong dân làng vọng lên một lời nói:

    - Tiến sĩ hay không, công nhận di tích lịch sử hay không, đó là công việc của cơ quan văn hóa. Còn dân làng ta, đối với một con người như ông Đặng Đình Lân là đáng thờ phụng.

    Hầu hết dân làng có mặt, trừ mấy ông trong đoàn cán bộ và mấy người lẻ tẻ, tất cả đều quỳ rạp trước tấm bia, cúi đầu xúc động tưởng niệm...

    Trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác vô cùng tuyệt diệu, như thể mình đang được hóa thân giữa bốn bề khói hương nghi ngút. "Khi những gì đã thuộc về nhân dân đều trở nên bất tử thiêng liêng". Trong câu chuyện vừa xảy ra đó, phải chăng tôi đã nhận lời mách bảo trên của quê hương...
     
    Ban Tang Du Tử thích bài này.
  11. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Mùa lạc - Nguyễn Khải

    Sáng, mây bốc mù chân núi vây quanh lấy cánh đồng Điện Biên, nhưng trên đỉnh chóp lại hết sức trong trẻo đến nỗi trông thấy rõ những thân cây đứng trơ trụi, và thấp thoáng một vật trắng của mái nhà người Mèo.

    Bãi trồng lạc ở cánh đồng phía Tây Hồng Cúm trải ra từ chân khu nhà ở của đội sản xuất số 2 mênh mông cho mãi tới giáp rừng. Giữa cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, và rút đồng, nổi lên một miếng vàng sẫm của mấy mảng cỏ gianh và lá cót đan lẫn lên nhau. Đấy là điểm sinh động nhất của toàn bãi: tiếng chân đạp lên bàn gỗ rình rịch, tiếng vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc, tiếng bào cào rê lạo xạo trên mình vỏ lạc thu gọn lại ở khoanh giữa; mùi hăng của thân lạc tươi mới nhổ xếp lớp lớp trên các cáng và mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc đã tuốt đánh đống phơi mưa suốt đêm qua. Bụi bốc mờ mờ từ cả mấy phía, và những chấm cánh nâu của con sâu ban miêu bay sè sè vụt qua vụt lại. Mồ hôi đã thấm hết lần áo ngoài những người đạp máy, khuôn lấy hình người hằn rõ những mảng thịt ở ngực, ở bả vai và vế đùi. Chiếc máy giữa và chiếc máy phía tay trái do sáu người đạp, còn chiếc máy bên phải chỉ có Huân tổ viên tổ 1 và Đào tổ viên tổ 4 đứng. Đào thuộc loại người gặp một lần có thể nhớ mãi, rất dễ phân biệt với những chị em khác. Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng trên đen nhờ nhờ hơi nhô ra ngoài môi. Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông một vệt dài phía sau khiến những nét thiếu hoà hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh. Đứng cạnh người đàn bà ít duyên dáng ấy là Huân, một đoàn viên thanh niên chưa tròn hăm nhăm tuổi, rất khoẻ và đẹp trai. Anh đưa cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày đen và mịn như nét vẽ sang phía Đào. Mồ hôi đã thấm ướt vành khăn, chảy từng giọt dài xuống kẽ mắt, sống mũi. Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn hển, cặp chân ngắn khoẻ đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn tay có những ngón rất to vẫn thoăn thoắt quờ ra phía sau lượm những bó lạc, và bằng một cử chỉ rất nhanh chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục. Huân vứt những thân cây đã tuốt hết củ sang một bên, nói khẽ:
    - Xem ra mệt lắm rồi nhỉ?
    Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc sang Huân, phần dưới mắt hếch hẳn lên:
    - Hỏi mình ấy. ý chừng muốn nghỉ chứ gì!
    Huân cười rất to, hai hàm răng đều trắng loá.
    - Trông đây này!
    Anh dún mạnh chân trái xuống lập tức nhịp đạp nhanh hẳn lên, vòng trục xiết vào rễ cây xin xít, củ lạc bắn rào rào xuống đống lạc ở khoảnh giữa. Cả người Đào cùng nẩy bật lên theo, thớ thịt trên bả vai khẽ rung rung, hai bàn tay xoay đi xoay lại càng vội vã. Chị đã quá mệt nhưng đôi gò má đầy tàn hương vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh và hai con mắt nhỏ tí vẫn ánh lên thách thức. Vừa lúc đến giờ nghỉ mười lăm phút, Huân đã bước ra. Đào vẫn còn dún thêm mấy đạp, rồi hai tay chống vào cạnh sườn chị nhìn mọi người lơ láo:
    - Nghỉ hử, tại sao hôm nay lại rức đầu đến thế, chân tay cứ bủn nhủn ra!
    Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ của Huân cười mỉm:
    - Chịu thua thanh niên thôi!
    Lâm tổ trưởng tổ một nháy con mắt, nói ướm:
    - Chị... à quên, cô cũng còn đang lứa tuổi thanh niên chứ đã già gì... Tương lai chán!
    Đấy là câu nói đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào, nhưng lần nào nghe thấy câu ấy chị cũng buồn tủi như được biết lần đầu về mình, người mất hết đà, quay cuồng, và chỉ trong chốc lát nét mặt chị thay đổi khác hẳn. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, rồi ngồi tựa lưng vào đống thân lạc, giọng cay chua:
    - Trâu qua xá, mạ qua thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa, hử các anh?
    Lâm liếc nhìn Huân cười tinh quái:
    - Thế mà vẫn cón nhiều người yêu say đắm đấy!
    Huân vuốt tóc ra phía sau, cặp mắt hơi nâu rất đẹp của anh lim dim nhìn Đào trìu mến. Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mím lại nhưng không chặt, vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một:
    - Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có nhà cháu dưới xuôi rồi, nay mai nhà cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy.
    Rồi như chợt nhận ra cái trò chơi độc ác của mọi người bằng cách đem ghép chị là người xấu nhất của đội sản xuất với Huân, người đẹp trai nhất, chị thấy tiếc sự thành thật của mình, việc gì phải tủi, phải nhún mình, người nào mà chả có cái phần tốt đẹp. Chị nhổm dậy, đi vài bước tới trước mặt Huân, ngâm nga:
    - Huê thơm bán một đồng mười
    Huê vàng úa giữa giá đôi lạng vàng.
    Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ...
    Chị còn định nói thêm vài câu nữa, nhưng khi Huân ngẩng lên, nhe hàm răng trắng bóng ra cười thì chị lại muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác.
    Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết chừng nửa tháng, với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ, đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể còn gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào tránh được. Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu phụ, thời địch tạm chiếm lại xoay sang úp men, nấu rượu. Lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam, đến đầu năm 1950 mới trở về quê. ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngắn đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ người nhà quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi, như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều - Muốn về sống lại ở quê, nhưng quê hương nào còn có ai. Thôi đành cứ đi mãi, ngày khoẻ đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao, muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, và hờn giận cho thân mình. Chị về đội sản xuất số 3 chưa đầy một tháng đã quen khắp mặt, duy chỉ thân có mỗi Huân, vì tuy anh chưa từng trải bằng chị, nhưng lại tỏ ra rất thông cảm với cuộc đời của chị. Lần đầu tiên hai người quen nhau vào một buổi sáng chị đi qua nhà ban chỉ huy đội, thấy Huân đang hý hoáy pha màu vẽ cho tờ báo tường. Chị đứng khuỳnh tay, ngắm nghía khen: "Anh vẽ khéo tay nhỉ!". Huân nhìn chị cười: "Chị có bài thơ nào đưa lên báo không?". Câu hỏi ấy vừa nói cho vui, vừa hơi châm biếm. Chị gật đầu nhận lời ngay: "Được thôi, thế bao giờ đưa nộp". Huân thầm nghĩ: "Cô này biết đùa đây", nhưng cứ dặn thêm: "Phải là thơ hay đấy!". Chị trả lời ngang ngược: "à, chắc không đến nỗi dở". Chị vốn được học chữ từ ngày nhỏ, lại thuộc lòng nhiều truyện thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị cũng hay vận thành vần, ví von, nên chỉ có một buổi trưa chị đã làm xong bài thơ "Đường lên nông trường Điện Biên". Ai ngờ bài thơ lại hay, đưa lên báo có vài buổi đã nhiều người ngâm nga đọc thuộc. Anh em thấy một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết liền đem họ ra gán ghép. Song chẳng qua là câu chuyện đặt cho vui để trêu chọc chị thôi. Vì kể về tuổi thì năm nay chị đã hai mươi tám, còn nhìn ngoài mà so sánh thì tưởng chị phải hơn Huân ít ra gần chục tuổi. Hơn nữa Huân đã có người yêu và cặp ấy rất xứng đôi, còn chị là gái goá chồng không hy vọng gì được yêu một người con trai chưa từng có vợ. Những mỗi buổi đi làm cùng nhổ lạc ở một khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy ngắm nhìn hai cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng của Huân chị lại bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp lánh ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?
    Mặt trời đã lặn từ lâu. Trời trong xanh như ngọc thạch, những vệt mây màu khói, màu hồng nhạt, màu tím nhạt cứ ưng ửng lên ở bốn phía, đan vào nhau, tô điểm cho nhau rồi lại nhạt dần đi, trong mãi, thành một màu xanh mờ mờ cao tít. Những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng kéo thành một dãy dọc các khung cửa của khu nhà bộ đội thấp thoáng như một dãy phố nhỏ nào đó ở vùng quê. Khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, cả tiếng la hét. Đào không đi chơi đâu. Một lá thư mới nhận làm chị bàng hoàng. Ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch của nông trường mới gặp chị có vài bận mà đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị giận dữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế kia ư. Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng nhưng trong mí mắt lại như đã mọng đầy nước mắt chỉ định trào ra. Từ ngày goá bụa đến nay chưa ai nói được với chị một câu nào yêu thương, một lần gắn bó, chưa ai khao khát đến chị, coi chị là nguồn hạnh phúc của họ, là niềm an ủi cho họ. Những dòng, những chữ trong bức thư xa lạ ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến tận những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm nay. Cho đến lúc này chị vẫn chưa có ý định gì rõ ràng với ông trung đội trưởng mới quen biết, nhưng trong cái dòng nghĩ miên man thế nào chị lại hình dung ra cách đối đãi với đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng. Nó sẽ yêu quý chị hay thù ghét chị? Chị sẽ để nó ở dưới xuôi hay đem lên trên này? Và khi những hình ảnh ấy rõ nét quá chị vội nhỏm dậy, thầm chê trách mình: "Rõ hay chưa, đã ra thế nào mà cứ nghĩ vớ vẩn".
    Giường nằm của Đào kê sát giường của Duệ, cách nhau có một cái bàn đóng bằng tre. Duệ, một cô gái ở ngoại thành Hà Nội cũng mới lên nông trường Điện Biên vào dịp ngoài tết, đang ghé mặt vào sát giường vuốt ve một bên mái tóc, rồi quay lại nhìn Đào cười ngượng nghịu:
    - Chị không đi chơi à?
    Đào nhìn đôi mắt tròn to của Duệ có những sợi lông mi rất thưa và hai cái bím tóc thưa nhỏ có buộc chỉ đỏ ở đầu, khẽ nói:
    - Anh ấy sắp xuống chơi đấy.
    Duệ đưa mắt nhìn xuống hai bàn tay nhỏ nhắn nhưng các ngón đá vàng sẹm lặng im một lát:
    - Mặc người ta chị ạ, em không thích nói chuyện ấy đâu.
    Hai bên mép Duệ khẽ nhếch lên, đầu lắc lư rồi Duệ quay đi nhìn phía khác. Từ cánh cửa bên Huân đã bước vào, tay cầm ống tiêu dài, chào mọi người rồi ngồi xuống giường của Đào, nhìn Duệ hỏi gượng gạo:
    - Duệ tập nốt bài "Tình ca Tây Bắc" hôm này còn hát chứ!
    Hai cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn đưa đi đưa lại trên ngực. Huân nhắc lại:
    - Thế nào?
    Duệ đáp lí nhí:
    - Em không tập đâu.
    - Chịu khó một chút.
    - Em không biết hát.
    - Thì cứ hát như hôm nọ là được, chỉ cần luyện thêm một chút nữa thôi.
    Duệ thở dài:
    - Nhưng em không thích hát nữa.
    Huân đưa tay lên vuốt mái tóc óng mượt, anh định cười thật tự nhiên, nhưng môi đã đờ ra và hàm răng lạnh buốt.
    - Cô giận tôi đấy ư?
    - Anh có gì mà em giận.
    Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào, đùa gượng một câu:
    - Chị không đi chơi đâu một lúc cho đỡ buồn.
    Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như muốn mím chặt lại, gò má càng dồ lên đanh đá:
    - à, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.
    Lúc chị nhìn Huân định hỏi một thì anh đã chạy ra đến ngoài rồi.
    Huân không về thẳng nhà, anh rẽ sang nhà kho, trèo lên cái bệ cao giát nứa, hai chân buông thõng xuống, chống tiêu lên đùi, nhìn ra cánh đồng lạc mờ mờ xanh nhạt ánh sao ở phía trước. Tình yêu giữa anh và Duệ mới nhóm lên đã nguội tắt rồi sao? Ngay buổi nói chuyện đầu với cô gái mảnh khảnh, rụt rè, Huân đã có cảm giác rằng cô ta sống không thể thiếu anh được. Cách sống ào ạt, sôi nổi của anh sẽ bù đắp cho cách sống rút rát lo âu và cô độc của Duệ. Cái khoẻ mạnh về tinh thần và về thể chất của anh sẽ là chỗ dựa tin cậy cho cái vóc mảnh dẻ của một người mới bước vào đời. Anh muốn đem lại nhiều hạnh phúc cho người yêu mà không hề đòi hỏi được trả lại. Nhưng chính cái trách nhiệm với người mình yêu đã đem lại cho anh sự say sưa làm việc chưa từng có, sự sung sướng được đưa tay ra nâng một người khác lên ngang tầm với mình, và lòng tự hào về cái tình yêu rất trong sáng đó.
    Trăng đã bồng bềnh nổi lên qua dãy núi Pú Hồng. ánh trăng lọc qua lớp sương mỏng uyển chuyển như khói khiến khung cảnh cứ mờ nhạt một cách huyền ảo. Huân lại thổi bài tiêu ưa thích nhất của mình "Tình ca Tây Bắc". Anh không thích hát, vì những bài mà anh thuộc đều nhạt nhẽo, vô vị, nhưng khi những chấm nhạc không có linh hồn được âm thanh của tiếng tiêu điêu luyện chắp cánh cho bay lên thì cả một thế giới tâm hồn hiển hiện, những kỷ niệm xa xưa tưởng đã quên lãng từ lâu phút chốc lung linh kéo đến, những khao khát, những ước mơ đốt cháy trái tim, hình ảnh này chưa kịp mờ đi, hình ảnh khác đã hiện lên rõ nét, hình ảnh nào cũng kích thích, khêu gợi khiến người anh như tan đi, bay theo tiếng tiêu nhập vào những ngày đã qua đầy luyến tiếc và tới những ngày sắp tới rạo rực say mê... Qua dãy núi này, qua mấy cánh rừng nữa là sang đất Thượng Lào rồi. Đất Lào những ngày kháng chiến, hành quân trong rừng hàng trăm cây số, đêm ngủ lại trên những sườn đồi chon von, phải đào huyệt để giữ người khỏi lăn xuống vực thẳm. Những ngày rét buốt xương, há mồm không nói được, vê điếu thuốc cũng không chặt, cầm que diêm rơi mà không biết, có người đặt lưng nằm xuống là cứ nằm như thế mãi... Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số 2. Mới mùa xuân năm ngoái đất này còn ngợp lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào. Rải rác còn có những đoạn xương người, những mảnh vải nhựa, vài lưỡi xẻng hoen rỉ, một gói tiền bọc vải đã mục nát, những khẩu súng ngắn và tiểu liên, dấu vết còn lại của những người anh hùng Điện Biên ngày trước. Mấy tháng trời liền lưỡi xẻng đi trước, vết chân người theo sau san rừng, đào cây, gỡ mìn. Có người đã hy sinh, có người mang thương tật, dây thép gai chọc nát bàn tay, mồ hôi thấm rách từng loạt quần áo, da thịt héo quắt vì nắng, vì gió Lào, mồm lở, chân phù vì thiếu rau xanh, mùa xuân còn đầy thương tích chiến tranh, cuối hạ, đầu thu nước lũ tràn ngập, mùa đông buốt giá. Một năm đã đi qua. Mùa xuân thứ hai đã đến. Màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang... Một mảnh vải trắng làm rèm che cửa, một giàn liễu leo có những chấm hoa đỏ thắm như nhung ở mé hiên phía trước, bóng lá loáng mướt của dặng chuối, màu vàng ửng của khóm đu đủ, mấy con ngỗng bì bạch ở mé nhà, tiếng guốc đi lẹp kẹp, bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình, những ngọn đèn le lói, mảng thuốc bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh. Tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc. Người ta làm việc, người ta thân thiết nhau, yêu nhau, và làm cho nhau đau khổ. Những nỗi niềm, những tâm sự, những mong ước. Cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi. Nhìn công việc làm mỗi ngày tưởng như con người bất lực, nhìn lại cả một năm không ngờ sức vóc mình lại có thể thay đổi cuộc sống nhiều đến thế. Mỗi chiều đi làm về ngâm mình xuống dòng sông Nậm Rốm, ngắm bộ ngực dồ cao, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu, Huân không thể ngờ thân hình mình vẫn giữ mãi được vẻ đẹp ngày trước. Những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những tế bào mới, những dòng máu mới xoá mờ đi, thay thế, soi mặt mình trong gương anh không thấy đổi khác mấy, có lẽ chỉ thêm vài vết nhăn ở mi dưới mắt, ở cạnh sống mũi, còn thì vẫn mái tóc dày mượt ấy, đôi mắt hơi nâu ấy, và hàm răng đều trắng. Nhưng ngồi nói chuyện với Duệ thì anh cảm thấy ngay rằng anh đã thay đổi nhiều, chiến tranh, gian khổ năm tháng đã luyện cho tâm hồn anh một cái gì rất trong sáng đến nỗi anh soi vào mình mà thấy được cả tâm tư của người khác. Một nghị lực mà chỉ những lúc gặp khó khăn mới thấy được hết sức mạnh của nó, và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những người khác cùng đi với mình trên một con đường...
    Chợt có tiếng chân giẫm sào sạc lên đống vỏ lạc ở phía sau, Huân giật mình ngừng thổi quay lại. Từ mé trái của đầu nhà kho nhô ra một bóng người thấp lùn, cái áo cánh trắng hớt vạt ra phía trước. Ai nhỉ? Bóng người tiền lại phía anh: Đào. Anh định nhảy xuống, nhưng rồi bối rối tự hỏi: "Chị này ra đây làm gì nhỉ? Định gặp mình hay sao?". Đào đã đứng trước mặt anh, hỏi nhỏ:
    - Anh thổi tiêu đấy ư, em thích nghe lắm đấy nhé!
    - Chắc vì tiếng tiêu chị mới biết ra đến đây, hỏi gì ỡm ờ thế, lại xưng em, cô này bắt đầu thiếu đứng đắn rồi. Đào đứng tựa người vào cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối, tiếng nói dịu đi như một hơi thở:
    - Anh Huân ạ, em muốn tâm sự với anh một câu chuyện.
    Huân hầu như không nghe thấy gì, anh luống cuống vì nỗi lo: "Có người ta bắt gặp thì chết, tình ngay lý gian. Liệu mà về thôi". Nhưng anh vẫn ngồi im. Giọng của Đào thật mềm, thật nhỏ:
    - Anh biết anh Dịu chứ?
    - Ông thiếu uý lò gạch ấy à? Có biết! Sao?
    - Anh ấy viết thư cho em, định xây dựng gia đình với em, em khó nghĩ quá... Anh thấy anh Dịu là người thế nào?
    à, ra là một chuyện khác. Anh là người đầu tiên được Đào thổ lộ cái tin vui ấy. Anh phải có trách nhiệm với sự tin cẩn của người bạn gái mà anh vốn mến. Nhưng biết trả lời thế nào?
    Đào đứng nhích thêm về phía Huân, chị vắt một tay lên sạp nứa, hơi thở dồn dập dưới cái áo cánh trắng còn thoảng mùi khét của xà phòng.
    - Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật còn thằng con của anh ấy mình quý nó tất nó phải quý mình... Chẳng ai ở vậy được suốt một đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Anh nghĩ xem có được không?
    Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quê hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm. Hạnh phúc đã mất đi, ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi chiến tranh đã xảy ra ác liệt. ở đây trong các buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả đạn cối tiện đầu, quét lượt sơn trắng làm bình hoa, một ống thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng. Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy...
    Đầu thu với những hơi gió mát dịu bay lướt lên những khóm lá xanh thẫm của cây cỏ nghệ, những cụm ké đồng tiền, những nụ hoa trắng của cây rau tàu bay, và những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. Những vệt đường mờ ngổn ngang những bụi cỏ bị nhổ đã héo rễ kéo về khu máy tuốt. Đào và Huân phụ trách một cáng. Cái đầu bịt chiếc khăn kẻ ô vuông nhọn hoắt của chị thấp thoáng sau những đống lạc chất cao. Hai bàn tay to và đen choàng lấy từng ôm chuyển lên cáng. Mồ hôi chảy từng giọt dài lên gò má nham nhở vết đất, những thớ thịt như căng ra xé rách mảng áo nâu mỏng mặc ngoài. Lúc nào chị cũng có cái dáng vừa thoăn thoắt vừa lững thững. Huân chạy ra trước cáng, anh quàng đoạn dây máy bằng vải bạt qua vai, cúi rạp xuống, chiếc quần ướt đẫm mồ hôi căng theo thớ thịt, khuôn lấy cặp đùi rất tròn của anh, hai bàn tay đỏ tía bám chắc lấy đầu cáng và anh nhấc bổng người lên, chiếc cáng nhẹ bẫng lao về phía trước, Đào chạy lắc lư ở phía sau, chị kêu to lên:
    - Ông mãnh ơi, đi ngắn bước chứ!
    Gió vẫn thổi rào rạt khắp cánh bãi. Huân vừa bước những bước dài, vừa nói to:
    - Gió mát quá nhỉ. Thế là năm nay ở đất Điện Biên không có gió Lào!
    Cái đầu nhọn hoắt của Đào vẫn đưa sang phải, sang trái, chị đắng hắng rồi hát véo von ở phía sau:
    ... Tháng giêng phay phảy gió may
    Tháng hai gió bấc, tháng ba gió nồm
    Tháng tư là gió dâng lên
    Gió đóng cửa đền, gió động năm cung
    Tháng năm cát gió đùng đùng
    Bước sang tháng sáu gió rồng phun mưa
    Tháng bảy thì gió vừa vừa
    Bước sang tháng tám gió đưa đòng đòng...
    Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả mấy tổ cùng kéo lại ăn chung, trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấm nháy!
    - Thế nào cô em, bao giờ cô em về dưới xuôi đấy.
    Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:
    - Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê.
    Lâm nói đầy ngụ ý:
    - Thay đổi thái độ rồi phải không, cũng mau nhỉ! Huân ơi làm một tiết mục văn nghệ mừng bà chị, mày...
    Huân bước ra, lật cái mũ bịt đầu khâu bằng vải trắng như của thầy thuốc, cúi xuống rất thấp chào mọi người.
    Đào liếc nhìn Huân tủm tỉm:
    - Lại sắp, lại sắp...
    Nét mặt Huân nghiêm trang hẳn lên, anh bước lên một bước, một tay chống nạnh, hệt như lối đứng của Đào, một tay uốn éo đưa ra phía trước, một đoạn kịch vui sắp bắt đầu. Duệ cùng với hai cô nữa cắp giành đi mót lạc cũng vừa đến. Chị đặt chiếc giành trắng xoá những mầm lạc tươi vào một góc, khẽ lách người đứng cạnh chiếc máy tuốt. Hai con mắt có những sợi lông mi thưa cứ chớp lia lịa. Lúc bình thường Huân hay có tính thẹn, nhất là trước mặt người mình yêu, nhưng khi đã bước ra một khoảng trống, hàng trăm con mắt dồn vào, anh trở nên bạo dạn, hoạt bát. Tất cả những người đứng trước mặt chỉ là những khán giả ham chuộng tài nghệ của anh. Thấy Duệ nhìn mình Huân khẽ nhún đầu gối xuống, một mảng tóc đen nhánh xoà xuống trước trán. Tất cả vỗ tay coi đó là tiết mục mở màn.
    ... Tôi lạy ông Cầu, bà Quán
    Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi
    Nó ăn nó chơi
    Nó tươi nó cười
    Như con ngựa ngáp
    Làm ăn chậm chạp
    Có tính nỏ mồm
    Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa
    Vớt bèo thì ngứa
    Xay thóc rức đầu...
    Duệ yêu Huân cũng bắt đầu từ những cuộc biểu diễn văn nghệ trong giờ nghỉ. Cô mê say anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. Đôi khi cô cũng thích âm sự với anh vì anh rất hiểu tâm tình của người khác, biết an ủi và khuyến khích đúng lúc. Nhưng ngoài những nét đáng yêu của Huân mà bất cứ ai mới gặp anh lần đầu đều nhận thấy ngay, Duệ còn nhìn thấy những gì khác? Cô chẳng hiểu thêm được chút nào nữa, vì một người mới bước vào đời như cô chưa thể hiểu được, và cũng chưa thể đánh giá được cái phần cao quý trong tâm hồn một chiến sĩ cách mạng. Tình yêu của Duệ đối với Huân bồng bột và bề ngoài, dễ thay đổi. Có lúc cô thấy yêu Huân tha thiết, có lúc lại lưỡng lự vì câu hỏi: anh ấy có thể đảm bảo cho đời mình được sung sướng không? Mình còn có thể gặp được một người nào hơn thế nữa? Duệ thèm khát hạnh phúc vì từ bé đến lớn sống với chú dượng cô chỉ thấy tủi nhục, vất vả, lo âu, cô sợ cho tương lai, nhưng lại muốn phó thác tương lai của mình cho người khác. Cùng trung đội Huân, Duệ còn có cảm tình với Hào, trẻ hơn Huân vài tuổi, là giáo viên văn hoá của đội, lại sắp được về Hà Nội thi vào đại học Nông lâm.
    Hiện nay anh ấy chỉ là một chiến sĩ bình thường nhưng ba năm nữa anh ấy đã trở thành một cán bộ kỹ thuật, một kỹ sư biết đâu. Hai người cùng đi nhổ lạc với nhau nhiều buổi, đã trò chuyện với nhau mấy tối ở mé nhà kho. Nhưng Duệ vẫn lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt trong cả câu nói ngay những lúc tình cảm sôi nổi nhất. Anh khuyên Duệ đừng vội đưa vấn đề này ra công khai, chỉ nên coi anh như người bạn trai thôi, sau này anh tốt nghiệp rồi, có công tác rõ ràng lúc ấy hai người sẽ bàn đến chuyện xây dựng cùng nhau cũng vẫn vừa. Nhưng đến cái ngày xa xôi và mỏng manh ấy liệu anh có còn nhớ đến lời hứa năm trước không? Ba năm nữa anh ấy sẽ quen thêm bao nhiêu cô bạn mới, xinh đẹp hơn Duệ nhiều, học cao hơn Duệ nhiều.
    Huân vừa đi quanh theo một đường tròn vừa nói lối hai tay uốn éo, nhưng nét mặt vẫn nghiêm nghị, thật là một tay hề đại tài. Các cô cứ ôm lấy nhau cười rũ ra, nước mắt giàn giụa, còn các người khác thì vỗ tay làm nhịp cho câu nói:
    ... Nay lần mai lữa
    Cô giống tính ai...
    Lâm hất đầu về phía Đào gào to: "Giống tính cô Đào". Phải như mọi khi Đào đã bật dậy, tìm một câu thật cay chua để đón lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đấy là anh em, là người làng, là họ nhà gái cả. Vui vẻ nữa đi rồi lại bắt tay vào công việc. Cái mảnh đất này, cái khoảng trời này đối với chị quen thuộc và thân yêu biết bao. Hai người sẽ có con, những đứa con ấy sẽ lớn lên ở nông trường. Chúng có thể đi học ở Hà Nội, ở những nơi xa xôi khác, nhưng những ngày nghỉ chúng lại trở về đây với bố mẹ già, với quê hương, với các chú các thím, và biết bao nhiêu anh chị em cùng tuổi với nó mà hiện nay chưa có mặt. Chúng nó sẽ làm việc ở đây, dựng vợ gả chồng ở đây, sinh con đẻ cái, cứ thế mà tiếp nối mãi đời này qua đời khác. Duệ ngồi ghé lên trên nắp máy tuốt, hai chân đu đưa, cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn ngọ nguậy trước ngực. Chị chẳng chú ý gì đến lời hát, cứ mỗi lần Huân bước chéo sang phía khác, chị lại đưa mắt nhìn anh, nhưng khi Huân quay mặt về phía chị thì chị lại cúi xuống lúng túng và có cảm giác hai tai mình đỏ chín. Cái giọng cố làm ra ẽo ợt của Huân cứ loang loáng bên tai.
    ... Nhà thì có giỗ
    Luộc gà hai mề
    Thổi cơm thì khê
    Rang vừng thì cháy
    Con mắt nhấp nháy...
    Tối thứ bảy. Gian nhà của vợ chồng Lâm ở khu gia đình chật ních người. Một ngọn đèn dầu khêu to ngọn hắt sáng lên mấy đĩa kẹo lạc, kẹo vừng, bánh khảo. Nước chè mạn nóng. Người ngồi vây quanh cái bàn nhỏ và trên chiếc giường tre. Huân ngồi ở một góc trịnh trọng uống từng hớp rượu nhỏ. Mỗi một hớp môi anh lại mím lại, đôi lông mày mịn và đen nhánh khẽ nhướn lên. Ngồi cạnh anh là Lộ, tay lái máy cày của nông trường, vừa đến đội sản xuất số 2 sáng nay để cày bãi lạc, chuẩn bị cho vụ gieo trồng. Nét mặt mọi người mờ đi sau màn khói thuốc lá. Có người đề nghị chị chủ nhà hát tặng anh em một khẩu chèo, vì chị ấy trước đã ở trong đội chèo của xã. Vợ Lâm ngồi ở mé sau giường, tóc vấn trần, với rất nhiều cặp tóc lớn nhỏ sáng nhoáng vội vàng kéo cánh màn che lấy mặt mình. Cô em chồng lôi tay chị dâu năn nỉ:
    - Kìa, chị Lựu hát đi một bài cho chúng em nghe nào!
    Hai con mắt Lựu sáng rực lên lóng lánh, chị co rúm người lại, cười ngặt nghẽo:
    - Các anh ơi, em không biết hát đâu!
    Cái giọng miền trong ỏn ẻn, lên bổng xuống trầm, mới nói thường đã rất dễ nghe. Lộ nói không cười:
    - Cứ hát như câu vừa rồi là được, cũng còn hay hơn giọng chúng tôi nhiều.
    Lựu đằng hắng, mím chặt môi để khỏi cười, nhưng các bắp thịt trên mặt chị vẫn động đậy.
    - Vậy thì em xin hát hiến dâng các anh một bài.
    Chị vừa hát được hai câu cải lương cô em chồng đã chạy vào một góc nhà bưng miệng cười rúc rích. Lựu không hát nữa, gục đầu vào vai người ngồi cạnh, rồi nằm lăn ra giường, hai tay bưng lấy mặt rên rỉ. Cô em chạy lại phát vào mông chị:
    - Chị Lựu, chị làm trò hề đấy ư!
    Lựu vẫn nức nở trong cơn cười bị nén lại.
    - ối giời ôi, em ơi, sao em lại nỡ bảo chị thế!
    Vừa lúc ấy Đào và Duệ đứng lấp ló ở ngoài nhìn vào. Lâm đang pha nước vội đặt ấm xuống chạy ra, mồm mời liến thoắng, hai tay kéo hai người. Lựu ngồi phắt dậy, vấn lại tóc.
    - Chị Đào ơi, chị vào nhà em chơi, nay mai vợ chồng em lại đến nhà chị.
    Đào mặc chiếc áo cán bộ màu xanh nhạt, tóc búi trễ. Duệ mặc chiếc áo màu hồng nhạt, cổ bẻ vạt, hai bím tóc vừa mỏng, vừa ngắn ve vẩy ở phía sau. Đào ghé ngồi xuống cái ghế kê sát vách, mắt nhìn thấy Huân liền bước vội vào ngồi một mé giường quay lại phía bàn nói chuyện với Lựu. Nhưng hai người nói với nhau những gì Duệ chỉ còn nhớ mấy câu đầu. Mọi giác quan của cô hầu như bị tê liệt ở mặt trước, nhưng lại rất thính nhạy ở mặt sau. Cô cảm thấy rất rõ một ánh mắt đang ve vuốt hai cái bím tóc của mình, mơn trớn những sợi tóc tơ ở gáy và chạy lướt trên những thớ thịt ở lưng. Bên tai Duệ chỉ còn lại một tiếng thì thào rất quen thuộc: "Em ơi, em phải tin vào em, em phải tin vào anh, hạnh phúc ở trong tay chúng ta kia mà. Em hãy vui lên đi". Và trong lòng Duệ cũng muốn thủ thỉ: "Em không thể xa anh được, anh đừng để em sống một mình. Đời em bị đầy ải nhiều rồi. Em sợ phải khổ lắm anh ơi!...". Lựu nhìn nét mặt Duệ biến đổi rất lạ lùng, chị mỉm cười tinh quái:
    - Cô Duệ người khó chịu phải không?
    Tự nhiên nước mắt Duệ chảy giàn giụa cô gục đầu vào cánh tay mình:
    - Em về đây, người em làm sao thế này.
    Lâm dúi vào tay Duệ mấy cái kẹo:
    - Cô lại sợ chúng tôi bắt cô hát chứ gì?
    Huân cũng ngước đôi mắt ánh nâu nhìn Duệ, nói dịu dàng:
    - Hãy còn sớm Duệ ạ, ngồi chơi một lát đã.
    Chỉ một cái nhìn trìu mến ấy, một lời nói thương yêu ấy Duệ đã thấy chân tay mình rời rã. Huân vẫn yêu cô, và cô càng thấy đời mình từ nay gắn bó với anh, cô muốn kêu lên: "Em đến chơi với anh từ lúc nãy sao anh không nói với em một câu nào? Anh giận em hay sao?". Nhưng cô không thể làm theo được ý mình, chỉ đưa mắt nhìn xuống rồi trả lời lúng túng:
    - Xin phép các anh, em phải về.
    Tuy không ai nói nhưng mọi người đều rõ câu chuyện của hai người. Trông đẹp đôi thế ai ngờ cũng có những trắc trở. Gian nhà đang ồn ào bỗng lắng hẳn đi. Lộ nhìn Đào cất tiếng hỏi trước:
    - Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày trước đấy chứ?
    Đào nghiêm mặt nhìn phía người hỏi, mắt chị lóng lánh:
    - Thề gì nào?
    Tất cả cười phá lên, Lộ vẫn nói thủng thỉnh:
    - Thề ở vậy suốt đời ấy mà?
    Lựu hễ có dịp trêu chọc ai lại trở nên hoạt bát hẳn:
    - Anh Lộ mà hỏi lần nữa thì chị ấy đã có cháu rồi.
    Đào cũng múm mím cười, gò má đỏ ửng. Lộ uống một hớp nước nói tiếp:
    - Chuyện ấy bọn tôi đã rõ cả rồi. Thế mới phải. Anh ấy bàn với tôi là định sau mùa lạc đấy. Chị nghĩ thế nào?
    Kể ra ở cái cảnh hàn nối cũng chẳng ai muốn kéo dài thời kỳ thư đi mối lại làm gì. Nhưng sau mùa lạc thì vội vã quá. Dạo đi trảy đỗ chị mới gặp đồng chí thiếu uý lò gạch lần đầu hai bên nói chuyện với nhau cũng dửng dưng. Hôm nay bắt tay vào vụ gieo ngô, số phận hai người đã gắn bó làm một. Đoạn đời từ hôm qua trở về trước đã lùi về quá khứ, cái tia hy vọng mỏng manh như không thể có thực sẽ là những ngày sống hiện nay. Chị nhìn mọi người với ánh mắt biết ơn, vì mặc dù họ đùa bỡn họ chế giễu nhưng tất cả đều hoan hỉ vun đắp hạnh phúc cho hai người. Chị nhìn Huân đang ngồi hút thúc lá ở một góc, thầm nghĩ: "Anh Huân ơi, Duệ nó có hạnh phúc hơn tôi nhiều vì nó có được một người chồng như anh. Tôi hiểu lòng anh hơn nó, nhưng tôi không ghen với nó đâu. Nó có quyền được hưởng cái hạnh phúc tốt đẹp ấy. Nó yêu anh lắm, anh hãy bạo dạn lên đi..."./.
     
  12. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bộ Quần Áo Mới - Ngô Ngọc Bội

    Một phụ nữ nông thôn chất phác, chịu thương chịu khó, tần tảo sớm hôm mà quá nửa đời người mới có một bộ quần áo mới. Thời thiếu nữ, trong cuộc sống của một người dân mất nước và trong chiến tranh, bà phải chịu cảnh đói rách, tủi nhục. Miền bắc được giải phóng, khi cuộc sống khấm khá hơn thì bà lại chăm chút, nhường nhịn chồng con. Bộ quần áo mới là niềm hạnh phúc, là mơ ước suốt cuộc đời làm lụng vất vả của một người nông dân Việt Nam vào những năm 60 thế kỷ này.

    Ông Vạn vác bừa về tới cổng, thì bóng nắng đã lẳn vào chân. Bãi hoa mười giờ đỏ rực, trông lùm lùm như mâm xôi gấc. Màu đỏ nhuộm lên buồng chuối, gốc chanh... Và cả mái nhà mới lợp. Thứ hoa này ông lấy giống từ hồi đi họp huyện, bây giờ nó đã lan ra một bãi khá to ở trước sân.

    Ông Vạn có tính hay háu đói, đi làm hết buổi thì cuốc thẳng một mạch về nhà. Bà Vạn lại hay la cà, có hôm quá trưa cũng chẳng chịu về, hôm nhặt mớ củi, hôm nắm rau đồng, và con cua, ốc... chẳng có lại rẽ vào gò Thông bẻ nắm lá xanh về ủ phân. Lắm hôm ông chờ vợ về ăn cơm, cứ rít chán thuốc lào, lại ra cổng ngóng. Từ ngày có bãi hoa này ông đã đỡ bực, không phải ngồi chực niêu cơm như trước nữa.

    Hôm nay ông Vạn lại về trước. Vào nhà vớ cái điếu cày, rít hơi thuốc dài, rót chén nước chè tợp một ngụm hãm khói. Rồi tranh thủ ngả lưng xuống giường, xương xẩu trong người giãn ra nổ cục cục thoải mái.

    Nằm một lúc ông vùng dậy nhìn quan nhà. Mấy đứa trẻ đi chơi vắng cả. Chỉ có đàn gà phá phách trong bếp. Nhà cửa có vẻ tanh bành rác rưởi. Ông đứng dậy quét dọn, rồi đặt niêu cơm lên bếp.

    Niêu cơm đã chín từ lâu. Ông Vạn sốt ruột lại chạy ra ngắm bãi hoa, nhổ vài khóm cỏ, tưới thêm mấy gáo nước. Quay sang nhìn mấy con lợn con béo mụp, đang cầy đầu nhặt thóc ở cây rơm. Mõm nó nhai nham nháp. Ông Vạn gật đầu, mồm lẩm bẩm: "Đã đến trật bán rồi đây". Lúc ấy bà Vạn cũng vừa vác bừa về tới cổng. Bà lẳng lặng bước vào nhà, cái đầu hơi cúi xuống, chân đi rất nhanh. Manh áo nâu bạc phếch đeo trên người khẽ bay bay về phía sau. Ông Vạn nhìn theo chợt thấy trên vai áo vợ toạc ra dài gần một gang tay. Miếng giẻ lập lều theo nhịp chân đi hở một miếng da lưng nâu rám. Ông Vạn nhăn mặt: "Hừ! Gai góc đâu lại vừa cào toạc ra kia rồi, rách thế mà bảo may vẫn còn gan".

    Bà Vạn đã bưng niêu cơm lên nhà, hai đứa trẻ đi chơi cũng kéo về, nhảy tót lên giường ngồi xếp bằng tròn vây quanh mâm cơm. Tay chúng vớ lấy đũa, hai mắt hau háu nhìn vào những món ăn. Trong nhà vui nhộn hẳn lên.

    Bữa cơm hôm nay thêm món cua rang của bà Vạn mới bắt. Ông Vạn nhá giòn rau ráu. Mỗi bát cơm đầy, và ba miếng đã hết. Lũ trẻ tíu tít tranh nhau tìm càng cua to, làm nghiêng cả bát canh rau xuống mâm, nước chảy lênh láng.

    - Mẹ chúng bay, ăn uống gì mà nhộn thế, ông thì cho cái cốc bây giờ.

    Bữa cơm ngon lành chuyện trò cũng giòn tan. Bà Vạn nói hết chuyện bừa, sang chuyện cấy. Lúc vui mồm lại cất tiếng khen bà Lược:

    - Gớm bà Lược mới may bộ quần áo bằng vải gì mà đẹp đẹp là, chẳng biết bao nhiêu tiền mà sang thế.

    Ông Vạn bắt chuyện luôn:

    - Thì bảo may lại chẳng may, người ta mặc thì khen. Giỏi lắm chục bạc chứ mấy.

    - Chục bạc kia! Gần hết năm mươi cân thóc à? Chết chết! Bộ quần áo mất nửa tháng ăn.

    Ông Vạn khó chịu, ngoảnh sang lườm vợ:

    - Người đâu mà cứ nói đến tiền là co rúm lại. Ăn thì cũng phải mặc chứ. Ai người ta lại như bà ấy. Cũng liệu mà may lấy một bộ thỉnh thoảng có đi họp hành chăng. Còn sáu chú lợn con đấy.

    - Họp hành đâu lại đến cái con mẹ này.

    Bà Vạn thấy chồng nói sợ lại khêu ra chuyện quần áo, liền lảng sang chuyện khác. Ông Vạn nín lặng, hai mắt nheo nheo đăm đăm nhìn ra ngoài sân nghĩ ngợi. Một cơn gió rít lên. Lũy tre trước ngõ trút xuống những chiếc lá khô rào rào. Ông Vạn khẽ rùng mình lẩm bẩm: "Sang đầu mùa rét rồi đây..."

    Ông liền đặt đũa bát xuống mâm, đứng dậy rót chén nước súc miệng, rút chiếc tăm cặp vào mồm rồi đi thẳng vào buồng. Ông đi tìm dao. Gian buồng tối mờ ẩm ướt, bề bộn thúng mủng, bồ, cót và những đùm quần áo ẩm sì, muỗi réo vo ve. Lục hết xó này đến xó nọ, ông khẽ reo lên một tiến nhỏ "à đây rồi". Con dao bỏ mãi trong xó tối, bên cạnh mấy cái que đẽo nham nhở. Chắc là thằng Trí mang nghịch bỏ đây. Ông cúi xuống nhặt. Khi ngẩng lên đầu đội luôn cái bị rách của bà Vạn rơi xuống đất. Mùi hôi hám bốc lên. Mấy cái mạng nhện chằng vào mặt nhặm nhụa. "Cái của nợ này". Ông tiện chân đá luôn một chiếc, cái bị lăn lông lốc, ộc ra nào giẻ rách, nào lọ thủy tinh... Mấy cái cúc lăn lọc cọc trong hộp bơ gỉ cũng ộc ra xếp thành hàng đến tận chân vách.

    Ông cau mặt nhìn cái bị, vừa ghét lại vừa thương. Nó chẳng còn ra hình thù cái bị cói nữa. Cái quai ken hàng trăm lượt dây bẹ chuối sù ra bằng cái nùn rơm. Thân bị đụp vào đến chục miếng giẻ. Cái miệng đã bai ra toang hoác rách lướp tướp đầy những cói nát. Cái bị này bà Vạn xách về từ hồi vợ chồng mới lấy nhau, tính ra vừa hai mươi nhăm năm. Ngày ấy nó cũng rách thế này rồi. Thế mà đã đeo đi hết Lào Cai, Yên Bái rồi đấy.

    Ông bần thần một chốc, toan quay ra. Nhưng nghĩ thế nào, ông lại quay vào nhặt nhạnh cẩn thận, rồi treo cái bị lên chỗ cũ. Ông chép miệng thở dài: "Hừ! Bảo vứt đi thì không vứt, cứ đeo đẳng mãi".

    Ông Vạn cầm dao ra bụi tre đứng ngắm nghía từng cây một, rồi lách vào tận giữa bụi chọn đẵn một cây bánh tẻ, để đan rọ lợn. Gai tre cào vào người cũng chẳng thấy đau. Hình ảnh cái bị cứ bám riết lấy óc. Cuộc đời của hai vợ chồng từ thuở lấy nhau đến nay hiện lên rõ mồn một.

    Ông nhớ lại từ năm đã lâu lắm, giữa trận đói tháng ba, có hai mẹ con người đàn bà quê ở dưới xuôi dắt díu nhau đến ở nhờ cái điếm ngoài cổng làng. Tên gọi là mẹ con bà Lành. Mẹ thì quanh năm mò cua bắt ốc. Cái Lành đi dắt trâu thuê cho nhà lý Cựu. Quần áo can vá hàng trăm mảnh. Bà Lành chỉ đi nhặt mụn giẻ của thợ may để can thành váy áo. Bộ váy đụp của bà Lành, không biết có tự bao giờ. Đến khi chết, để lại cho cái Lành, ông Vạn đã thấy nó dày tới bốn lượt. Nặng chình chịch như khố tải đẫm nước mưa.

    Cuộc đời hai mẹ con như vậy, lại có cái tên là Lành. Dân làng gọi thế như thấy chua chắt quá, mới gọi chệch sang là "Can", vì bà mặc rách rưới can vá như tổ đỉa. Tên cái Lành cũng tự nhiên được gọi là cái "Can". Đĩ Can đi dắt thuê con trâu đực cày của nhà lý Cựu, nó phá đi ngóng cái suốt ngày. Đĩ Can cứ lẽo đẽo chạy theo trâu kêu khóc. Cu Vạn lớn hơn, cũng chạy lừa bắt trâu hộ. Bọn trẻ trông thấy thế liền gán ghép: "Cu Vạn lấy con đĩ Can". Bọn trẻ con nói: "Váy của đĩ Can thằng cu Vạn khiêng không nổi đâu". Thế rồi duyên giời xe, hai người lấy nhau thật.

    Vợ chồng lấy nhau cũng đủ sự cay đắng. Ông chẳng muốn nghĩ đến làm gì. Nhưng còn một điều đến chết cũng không quên được. Cái ngày sắp cưới nhau đĩ Can dành dụm được bốn hào bạc định may một chiếc áo mới. Những chỉ đủ mua bốn vuông vải thô, may được tầng trên, còn tầng dưới không biết làm sao, đành liều ăn cắp cái vạt áo cũ của vợ lý Cựu. Nó tra soát mãi không ra. Đến hôm đĩ Can mặc áo đi gặt thuê, vợ lý Cựu trông thấy nó nheo nhéo chửi từ đằng xa, rồi chạy xộc đến, túm tóc đĩ Can dúi xuống đất. Nó tát nó đấm túi bụi. Váy, áo đĩ Can nó xé rách tơi tả, người tô hô. Lúc ấy nó mới nhả ra. Đĩ Can vội cầm chiếc nón úp vào bụng chạy về nhà. Đành lấy bộ váy áo đụp của mẹ mặc vào, len lén về nhà chồng.

    Cuộc đời cứ thế xô đẩy mãi. Đĩ Can đeo đẳng bộ quần áo can vá của mẹ cho đến ngày cải cách ruộng đất. Đội cải cách đến xin mang đi triển lãm nỗi khổ của nông dân, đĩ Can mới dứt được bộ quần áo nặng nề tội nghiệp ấy.

    Từ Cải cách đến nay, ông Vạn đã định may quần áo cho vợ nhiều lần. Những

    cứ lo chữa nhà xong, lại đến tậu trâu. Năm ngoái năm nay bảo bà ấy may mà mặc, thì nhất định không may, cứ vá chằng vá đụp. Cái ăn cái uống ở trong xó bếp với nhau, có miếng đầy miếng vơi ai biết được. Còn cái mặc thì nó phơi ra đấy. Người ta cười vào mũi ấy chứ! Cái bà này! Cái bà này! Thật không hiểu bụng chồng tí nào!

    Ông Vạn vằm mạnh lưỡi dao vào gốc tre, bật ra những miếng dăm trắng mọng. Chỉ ba nhát dao, cây tre nổ ôm ốp rồi gục xuống.

    Ông vác tre lại gốc cây ngồi chẻ nan. ánh nắng buổi trưa xiên vào giữa gáy bỏng rát ông vẫn không đổi chỗ ngồi. Hai đứa trẻ xúm lại lột lụa bụng tre làm cờ, chạy tung tăng trước sân. Ông âu yếm nhìn theo: đứa nào cũng hao hao nửa giống bố, nửa giống mẹ.

    Một lúc, bà Vạn vác cuốc từ trong nhà đi ra, tưởng bà đi làm đồng. Nhưng bà lại ra đánh đống phân ngay gần chỗ ông ngồi. Ông để ý nhìn: miếng rách lập lều trên vai áo, bà Vạn đã vá rồi. Ông lắc đầu, da trán cau cau: "Không đi may cho bà ấy, rồi đến cùn đời vẫn cứ ăn mặc thế thôi". Người đâu lại có người suốt đời chịu cực khổ. Đến lúc có ăn có mặc vẫn cứ phải bóp chắt để nhường nhịn chồng con. Chẳng nghĩ đến ăn ngon mặc lành. Làm thì hì hục như trâu lăn suốt ngày. Từ khi vào hợp tác xã bà lại là người làm ăn khỏe mạnh đảm đang nhất. Mấy lần được bầu là gương mẫu rồi, vụ mùa vừa qua tính điểm bà ấy cao nhất trong hợp tác xã. Chính bản thân ông cũng còn kém vợ gần hai trăm điểm. Hơn tháng nay vừa được bầu vào tổ trưởng lao động. Lại cứ ăn mặc rách rưới thế kia thì còn ra làm sao?

    Ông Vạn cứ ngồi thần ra nhìn vợ, quên bẵng cả việc đan rọ lợn. Hôm nay ông mới để ý những miếng vá trên quần áo bà Vạn. Miếng nọ chèn lên miếng kia, nhưng cái mụn nào cũng phẳng phiu ngay ngắn. Mũi kim nhỏ lí nhí thẳng tắp. Tưởng như những đường cấy của bà Vạn ở ngoài đồng.

    Cái Lý nhìn thấy bố ngồi cứ mân mê chiếc rọ lợn, chẳng đan xong. Nó chạy lại giục:

    - Bố! Bố đan đi!

    Ông Vạn chợt nhớ ra, nhìn xuống: "Thế là lỗi rồi". Ông kỳ cục dỡ ra đan lại. Cái Lý chạy đi chơi với em. Ông Vạn lại ngồi thẫn thờ, nhìn vợ. Một lúc nó lại chạy đến. Nó đang sốt ruột chờ lấy một cái rọ lợn, mang đút đá vào để khiêng với thằng Trí. Nhưng lần này nó không giục ngay cứ ngồi chầu hẫu nhìn lên mặt bố, rồi lại nhìn sang chỗ mẹ. Thấy hay hay nó cũng nhe răng cười:

    - Bố! Bố đan đi. Bố cứ nhìn mẹ mãi.

    Ông Vạn giật mình, lườm con một cái:

    - Con này chỉ nói càn.

    - Thật ị! Bố nhìn mẹ thật ị! Có cái rọ đan mãi chẳng xong.

    Ông Vạn nhay nháy mắt nhìn con, như có ý bảo: "Đừng nói nữa mẹ mày nghe thấy". Bà Vạn ngẩng đầu lên, mặt mũi cũng đỏ bừng.

    - Bố con nhà mày y như bố con phường chèo ấy. Bố mày thèm vào nhìn mẹ, cái con mẹ khai dinh dích này ấy.

    Cái Lý càng cãi khỏe:

    - Bố nhìn thật ị. Khéo bố nhìn để đan rọ đút mẹ vào đấy!

    Ông Vạn nhe răng cười, nói gióng giả:

    - Bố đem rọ bán lợn để may quần áo cho mẹ mày đấy!

    Bà Vạn nghe tiếng, chống cuốc xuống đất, quay ngoắt cổ lại giãy nảy lên như đỉa phải vôi:

    - Này, đừng có may với vá mà chẳng xong với tôi đâu!

    - Chả xong cũng may.

    Ông lắc lắc cái đầu cười khà khà: bà này cứ phải đi may cho rồi mới xong. Cũng như cái giường năm ngoái, sắm đoạn bảo nằm nhất định không nằm, cứ bám lấy cái chõng tre nát. Đến nước phải phá đi quăng vào đống củi, bà ấy mới chịu nằm. Lại đến cái màn, căng được mấy hôm, rồi đem cất luôn đi, kêu là nằm màn bí hơi, không chịu được. Nhưng có phải đâu, chỉ sợ nó cũ mất. Nói mãi nào có để vào tai. Đến khi thằng Trí bị sốt, anh y tá bảo: Vì bị "muỗi đốt". Lúc ấy ông mới la cho một chặp. Bà này nói ngọt không được, cứ là phải bắt ép. Ông Vạn sung sướng đã tìm được "biện pháp" hay, liền giơ dao lên ngang mặt chặt vào thanh tre kê trên đòn, bốp! bốp! bốp!

    *

    * *

    Phiên chợ hôm ấy bán lợn xong, ông Vạn mua vải may cho vợ bộ quần áo thật. Ông còn tạt vào hàng mậu dịch mua cho con mỗi đứa một chiếc áo bông hoa. Trên đường từ chợ về làng, người đi đông nghịt. Rủi cho những người đi ngược chiều phải tránh bà con về, chào hỏi mỏi miệng. Dọc đường về đủ các thứ chuyện: chuyện cửa chuyện nhà, chuyện chồng chuyện con, chuyện hợp tác xã... Ăn mặc cũng đủ màu sắc: áo hồng, áo trắng, áo xanh... Nhiều nhất là áo gụ quần thâm của các bà trung nữ. Người gánh, người mang đủ thứ. Chăn chiếu, vải hoa... Có người còn thiếu bồ cót đựng thóc, đi mua về gánh nghênh ngang chật cả lối đi.

    Ông Vạn hôm nay cũng đi trong đám người này. Ông mặc bộ quần áo "phăng". Cái túi dết đầy lặc lè đeo bên cạnh sườn. Tay phải xách nửa cân thịt lợn. Tay trái vắt hai chiếc áo bông hoa. Ông cứ lùi lũi chen đi trước mọi người. Vừa chen ông vừa ngắm nghía hai chiếc áo bông làm cho những người cùng đi cũng phải chú ý:

    - Bao nhiêu tiền đấy hả ông?

    Ông giơ áo lên ngang mặt, ngoái cổ lại tươi tỉnh trả lời:

    - Chỉ mất có ba cái chân con lợn con thôi đấy! Của đứa lớn sáu đồng, đứa bé bốn đồng, thế là vừa chục bạc.

    - Thế còn bà ấy không có cái gì à?

    - Bà cháu đã có cái khác ở trong túi này.

    Tay ông vỗ bèn bẹt vào túi dết, chân bước càng nhanh. Nghĩ đến bộ quần áo của bà Vạn, ông lại muốn giở ra xem. Nhưng trót xếp xuống đáy túi dết, không làm sao mà moi ra được, ông đành kéo cái túi dết ra đằng trước, rồi lại vất ra đằng sau. Cái quai túi nhùng nhằng trên cổ. Bây giờ lại thấy thắc mắc, chính lúc vào lấy ở hàng may, ông cũng chưa nhìn kỹ cái quần, chẳng biết ngắn dài ra sao, may vá có cẩn thận không? Bà ấy là khó tính lắm đấy. Lúc ở hàng may, chết chết bao nhiêu là người đứng chờ đông nghịt cả. Ông lách mãi mới vào tới nơi. Ông định giở ra xem, cái cậu ở thôn trên chạy ngay lại:

    - Quần của bà ấy đây à? Mùa màng năm nay khá mà... Già như ông cũng thích chơi trống bỏi. Ha! Ha!

    Ông Vạn mặt đỏ gay, nói tuể tỏa:

    - Gần chót đời, tao mới may cho vợ được cái quần đây, trống bỏi với trống cơm gì.

    Thế là bao nhiêu người đổ xô lại. Mẹ kiếp, ngượng chết được. Ông lúng túng vội xếp bộ quần áo vào túi dết rồi lủi ra. Bây giờ lại không yên tâm.

    Về tới đầu làng còn phải qua một quãng đường hẻm, hai bên ria đường bát ngát rừng cọ, đồi chè. ở đây có nhiều chỗ khuất, ông Vạn nhìn trước nhìn sau, liền giở bộ quần áo của vợ ra xem:

    - Chà! Thằng cha này may kỹ đáo để!

    Ông vạch xem từng đường chỉ máy. Tay run run như bị cóng, sờ vào cái quần cứ mát lịm đi. Ông chợt nghĩ tới cái váy của bà Vạn hồi mới lấy nhau: "Cái váy vứt bảy khúc sông chẳng chìm". Nước mắt ứa ra, ông từ từ gấp quần lại, bước về nhà.

    Mấy đứa trẻ con nhà ông Vạn, mọi ngày bố đi làm thì chúng bỏ nhà đi chơi thật biệt. Hôm nay biết bố đi chợ, chúng chỉ chơi quanh quẩn trước sân. Chốc chốc cái Lý chạy xuống cổng ngóng bố. Chưa thấy về, nó lại lừa em:

    - Bố về rồi, bố về rồi! Hoan hô! Thằng Trí chệch choạng chạy theo. Cái Lý reo lên:

    - Thế là phải lừa rồi.

    Thằng Trí mếu máo, đuổi đánh chị. Đến lần nghe ông Vạn bô bô từ ngoài ngõ:

    - Chúng mày ơi! Có ở nhà không?

    Hai đứa con reo hò chạy xô ra. Cái Lý nhanh chân hơn nhảy tót ra tận bờ ao, giằng luôn chiếc áo hoa trên tay bố, mặc vào nhảy nhót như hát chèo. Rồi chạy biến sang hàng xóm. Ông Vạn nhìn theo tủm tỉm cười:

    - Cái con nhà... dáng lại đi khoe.

    Bà Vạn đang nấu cơm trong bếp thấy trẻ con ầm ĩ, cũng đi ra, cầm cái áo hoa trên tay chồng đem mặc cho thắng Trí. Nó sung sướng cũng chạy theo chị. Trong nhà còn lại hai vợ chồng.

    Bà Vạn chợt nhìn thấy nửa cân thịt lợn chồng mới mua treo trên vách, vội kêu lên:

    - Ghê chưa! Lại mua cả thịt nữa. Ăn hoang thế!

    - Hoang! Làm được thì ăn chứ hoang nỗi gì.

    Thấy vợ kêu "hoang", ông chột dạ. Còn cái ở trong túi kia bà lão ấy cũng kêu hoang thì rầy rà. Ông chưa đưa ra vội. Cứ ngồi rít thuốc lào, nói chuyện tràn cung mây, dò ý vợ.

    - Lợn con đắt đáo để, mười sáu đồng một chú đấy. Thế mà bà bảo chỉ đáng mười bốn đồng.

    - ừ, đắt thật! Gặt hái xong chắc ai cũng muốn nuôi.

    Ông Vạn khua chân múa tay cười hể hả, hai cái má hơi nhăn cứ luôn động đậy:

    -... Chết chết, hàng hóa bây giờ sao mà lắm thế! Nhất là hàng mậu dịch, toàn quần áo, vải vóc... Bà con nông dân mình khuân cũng đến khỏe. Những đống vải to bằng con trâu nằm, quay ra quay vào đã hết veo. Đấy, bà có thấy không, chục bạc hai cái áo hoa.

    Hai mắt bà Vạn mở to, môi nhếch nhếch cười, đầu gật gù theo nhịp nói của chồng.

    - Bây giờ cái gì cũng hạ rồi, tôi cứ tưởng phải mười hai đồng.

    Qua mấy câu chuyện, thấy vợ đã bằng lòng những việc mình làm, ông giả vờ như bây giờ mới nhớ ra:

    - à, của mẹ mày có cái này! Mặc thử xem.

    Ông móc túi dết đưa quần áo cho vợ. Mặt mũi tươi tỉnh, hai mắt lim dim như cố lấy lòng. Bà Vạn không cầm, nét mặt đang tươi, tự nhiên xịu dần xuống.

    - Này, chỉ mất có chín đồng rưỡi thôi đấy!

    - Chín đồng rưỡi kia à? Tiền đâu mà lắm thế? Mất nửa tháng ăn rồi còn gì nữa!

    - Chao ồi! Ăn thì cũng phải mặc chứ. Cùng thứ vải của bà Lược mặc đấy mà.

    Mặt bà cau có lại khó chịu:

    - Kệ thây bà Lược, ai khiến ông may? Khéo lắm! Làm chảy máu mắt ra mới được đồng bạc, một giây một giờ tiêu mấy chục liền. Bảo rằng dành dụm để chữa cái bể nước mà ăn, rồi bó cái thềm lại, cứ để cho nó lở mãi đi.

    Bà vùng vằng chạy xuống bếp cứ ngồi đay đi đay lại.

    Ông Vạn bực mình hét lên dằn từng tiếng:

    - Gớm thật! Nói mãi, lẫn mãi! Đâu có cái người khốn khổ thế!

    - Khốn khổ cả đấy, may về thì để đấy mà mặc. Tôi không có mặc đâu mà.

    Cổ ông Vạn nghẹn ắng lại: đã biết trước là bà ấy sẽ cằn nhằn, nhưng có ngờ đâu lại đến nỗi này. Bao nhiêu năm giời, bây giờ mới có mà may, không chịu mặc lại còn gằn hắt. Ông ngồi bó gối trên giường. Bà Vạn lại rít lên:

    - Đã bảo từ hôm đan rọ lợn kia rồi. Ai khiến ông, ai cầu ông?

    Ông Vạn đứng phắt dậy:

    - Chả mặc thì bán cổ nó đi, thế đếch nào mà phải cằn nhằn.

    - Bán! Bán! Mua vải bán áo lỗ trật mắt ra.

    - Lỗ cũng bán cổ mẹ nó đi! Người đâu lại có thứ người không nói được.

    Ông Vạn cầm chén nước uống ừng ực, buông cái chén ra liền nằm vật xuống giường. Tiếng bà Vạn vẫn chì chiết dưới bếp.

    *

    * *

    Chiều hôm nay bà Vạn lại xách cái bị ra, ngồi vá quần áo. Vẫn cái bị rúm ró mọi ngày. Vẫn những giẻ rách, lọ kim, ống chỉ... Đem ra bày biện trên giường như bà lang dạo bán thuốc trẻ con. Bà ngồi loay hoay bới đám giẻ rách, để tìm mụn vá, nhưng còn lại toàn gấu, cạp với gân đường chỉ. Có vài miếng gọn mắt lại chẳng vừa lỗ thủng. Bà đành phải phá cái quần rách nhất để lấy mụn. Gượng nhẹ mãi mới kiếm được vài mụn tạm gọi là dai sợi. Bà cầm miếng giẻ cứ xoay giở mãi trên chiếc quần, chẳng biết đặt thế nào cho đẹp mắt.

    Kỳ cục từ chiều đến gần tối cũng vá xong cái quần. Bà khoan khoái ngửa cổ vươn vai. Cắm chiếc kim lên độn khăn, tiện tay vuốt lại đường ngôi, vén mấy sợi tóc mai vào kẽ tai. Bà giơ chiếc quần lên ngắm nghía. Cái quần chẳng được vừa lòng, chỗ thì nhăn nheo, chỗ lại phùng phùng. Đôi chân quần bên hếch lên, bên quặp xuống. Bà Vạn đứng dậy ướm thử vào người. Cái quần đã vá nhiều lần, nó co lên chỉ bằng ngang bắp chân. Bà lắc đầu chép miệng vứt xuống giường:

    - Thế này có chết người không, mất toi cả buổi chiều.

    Bà ngồi xịu xuống nghĩ ngợi: ở nhà chỉ cần mặc kín thịt thì thôi. Đi họp huyện mà mặc thế này ư? Người ta cười chết. Mình là đại biểu của hợp tác xã, mặc rách rưới quá họ lại bảo: "Chắc cái hợp tác xã bà này mới bị thất thu". Thế thì hợp tác còn ra gì nữa? Dại thật! Biết thế này cứ mặc cho xong. Ông ấy lại biết lo xa... mà có ngờ đâu là mình được đi họp.

    Bà tiếc ngẩn ngơ. Thấy mình lại phụ cả lòng chồng. Ông lão hí hửng đi mua về, vợ chẳng mặc lại còn bị "dồn" một mẻ nên thân. Lấy nhau nửa đời người, có bao giờ vợ chồng xô xát, nay chỉ vì bộ quần áo mà nên chuyện. Cũng chỉ tại mình cả.

    ... Đêm hôm ấy bà Vạn không sao ngủ được. Thằng Trí hôm nay ngủ ngày nhiều nó cứ róc rách mãi không chịu nhắm mắt, bóp nặn hai cái vú mẹ đã teo hết sữa. Bà Vạn lấy tay kéo vú ra ấn đầu nó xuống.

    - Ngủ đi, gớm thật!

    Muốn đi một tí mà chẳng tài nào lừa nổi con. Cứ khẽ nhích người ra nó liền níu lại, rồi chộp đầu vú nhai nhằng nhằng. Ông Vạn nằm bên kia đã ngáy khò khò.

    Mấy lần bà định gọi chồng mà không mở miệng được. Đến lúc sốt ruột không thể nén được nữa, bà đánh bạo hắng dồn mấy cái rồi cất tiếng gọi:

    - Ông Vạn! Ông Vạn ơi! Sang nằm với con, tôi đi đằng này một lúc.

    Ông Vạn không thưa, cứ lặng lẽ lần sang giường vợ. Bà Vạn đứng ngần ngừ định hỏi, nhưng lại mở cửa ra ngoài. Gió lạnh thốc vào nhà, ông thấy buốt tê cả cổ. Ông động lòng thương vợ: "Rét thế này mà cứ chạy mãi ngoài trời. Khổ! Người đâu lại có người... Cho thế mới chừa. Lại không thèm hỏi cả...".

    Khoảng mười giờ đêm thì bà Vạn quay về. Chân bước lặng lẽ trong đêm vắng, chỉ có sương mù với ánh trăng vằng vặc. Bà nghĩ ngợi lan man: Thế là hết ngày rồi, chỉ còn đêm nay nữa, sáng mai đi sớm. Mọi việc chuẩn bị chẳng đâu vào đâu cả. Quần áo vẫn chưa có. Hỏi mượn mấy bộ thì chật căng không mặc được. Vợ chồng cũng chưa bàn bạc với nhau câu gì, chả nhẽ sáng mai cứ thế này lùi lũi mà đi. Từ chiều đến giờ mấy lần định hỏi quần áo hôm nọ, mà cứ nhìn thấy "lão ấy" là gờm gờm.

    Bà Vạn, bỗng thấy tức dồn lên cổ, làm gì mà lão ấy không biết mình đi họp, vậy mà không hé răng ra hỏi được một câu.

    Bà Vạn lách cửa bước vào nhà, quờ quạng sờ bao diêm đốt đèn. Ba bố con ông Vạn vẫn ngáy phì phò trong màn. Bà lấy tay rũ những hạt sương đọng trên quần áo, đảo mắt nhìn quanh nhà. Chợt thấy chiếc áo nâu của ông Vạn treo trên mắc phồng cộm lên. Bà Vạn ngờ ngợ, vội vặn nhỏ đèn rón rén bước lại: "à, lão ấy mang về đây rồi, cất đâu mà kín thế, gớm thật, cứ để tìm mãi...". Bà nắm chặt lấy quai túi, người lặng đi, tim đập thình thình. Bà khẽ bước lại giường thấy chồng vẫn ngủ say. Thằng Trí xoay ra ngoài chăn, nằm tênh hếch, chắc là nó rét lắm. Nhưng bà chưa dám đắp lại, sợ chồng thức giấc. Thấy đã yên trí, bà khẽ lấy cái túi dết xuống, lẻn vào buồng giở ra xem. "Đầy đủ cả rồi, ông ấy chuẩn bị cho chăn, màn, quần áo, lại cả tiền nữa". Bà cảm động tần ngần, tay đặt lên trên túi dết.

    Bà đứng dậy mặc thử quần áo. Cứ lúng túng chân xỏ mãi không vào ống quần, người run bần bật. ánh sáng đèn hoa kỳ chiếu lại, cái quần láng nhẫy nhấp nhánh lên. Bà ngắm nghía thấy quần áo thật là vừa vặn. Tay bà vân vê trên mặt vải. Tự nhiên nước mắt ứa ra, nỗi nghẹn ngào cứ hừng hực đưa lên cổ. Bà cắn chặt môi cố kìm lại, để khỏi bật ra tiếng khóc. Hai vai bà rung lên, cảnh vợ lý Cựu xé quần áo giữa hôm vợ chồng mới cưới nhau. Cái váy đụp của mẹ để lại, mặc mãi đến ngày Cải cách... những cảnh đó đều sống lại trong giây phút.

    Bà đứng ngẩn ra rất lâu, rồi định vào giường ngủ, nhưng lại quay ra. Cái quần cứ cọ vào người sột soạt. Bà thấy bâng khuâng như hồi Cải cách mới được chia nhà. Đang định cởi ra, đến sáng mai đi họp hãy mặc, nằm ngủ thế này sợ nó vò nát.

    Chợt thằng Trí bị hở chăn rét quá, giật mình thức giấc, nó khóc tru tréo, gọi mẹ. Ông Vạn vẫn ngủ say, bà vội chạy lại:

    - à! Mẹ đây, ngủ đi con!

    Bà khẽ ghé lưng nằm xuống, những chiếc thang giường chuyển răng rắc. Bà nhấc thằng Trí ra ngoài, vạch áo cho con bú. Chỗ nằm của hai mẹ con có vẻ hơi chật, bà lấy lưng ấn chồng dịch vào trong. Ông Vạn chợt thức giấc.

    - Về rồi à?

    Ông vội nhỏm dậy định sang bên kia nằm với cái Lý, nhưng thấy lạnh ngắt, ông lại đặt mình xuống giường. Tay quờ phải vợ, vội vàng rụt lại, người lặng đi. Ông nằm ngẫm nghĩ một lúc, khi tỉnh ngủ hẳn mới nhận ra: "à! Mặc rồi! Chả chê mãi đi!". Đầu óc ông Vạn bỗng mông lung quay cuồng. Cả cuộc đời tủi nhục đắng cay hiện lên... Bây giờ ông có nhà, có trâu... Vợ con có quần áo mới... Bà Vạn nằm bên cạnh cũng đang thổn thức. Ông ngập ngừng hỏi vợ:

    - Mặc rồi à?

    - ...

    - Có vừa không?

    - Vừa!

    Không khí lặng đi, chỉ có nhịp thở với tiếng chụt chụt mút bú của thằng Trí. Mùi hồ vải thơm phảng phất, man mát.

    - Ngày mai đi sớm à?

    - ừ, đi sớm!

    - Đến đấy mạnh bạo mà phát biểu, đừng có im ỉm như miệng hến thì chán chết.

    Một lúc lâu, bà Vạn lại dặn chồng:

    - Mai ông nhớ nhắc tổ cày lại chân ruộng đồng Na lượt nữa. Năm nay phải làm kỹ hơn năm ngoái đấy.

    - Biết rồi!

    ánh trăng luồn qua khe hở chiếu vào chiếc màn, gió lay động rung rinh. ánh sáng quệt đi quệt lại, nghịch ngợm như hai đứa trẻ nhà ông Vạn.

    2-1960
     
  13. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Mùa xuân - tiếng chim - Vũ Tú Nam

    Thu quá nể mẹ nuôi, nên sau khi bà nói rõ ý định ra, thì Thu không hề nẩy ý làm ngược lại, hay ngay cả cố gắng thuyết phục bà đổi ý.

    Thu đau đớn phát ốm, nhưng chỉ mất có một ngày để hồi phục. Thế là phù hợp với con người Thu như “tôi” kể.

    Tôi không kể gì về con người mình, nhưng cái việc vẫn chưa lấy vợ sau bao nhiêu năm nó mách ta nhiều về tâm hồn tôi...

    (Thu Tứ)


    Anh phải nghỉ lại đây với tôi một đêm, anh Năm ạ. Chẳng mấy khi bạn bộ đội cũ gặp nhau. Vả lại mưa phùn lầy lội thế này, anh đi làm gì vội.

    Ðây là nhà mẹ Thái, nơi gia đình chúng tôi ở nhờ những năm tản cư trong kháng chiến chống Pháp. Bắt đầu từ năm 1948, phải, khi ấy tôi mới 14 tuổi. Bao nhiêu kỷ niệm đã dồn dập diễn ra trên mảnh đất này, thấm thoát đã trên 30 năm rồi. Chính vì để nhớ lại chuyện xưa, tôi đã lặn lội về đây. Tình cờ lại được gặp anh, may thế!

    Cảm ơn anh đã hỏi về việc vợ con tôi. Tôi vẫn nằm giường cá nhân, nghĩa là "vô sản" như hồi xưa, như hồi sống chung với anh cùng đơn vị. Tâm sự của tôi thì dài lắm, nếu anh chịu khó nghe, tôi xin kể...

    Cha mẹ tôi được mỗi mình tôi. Tản cư từ Hà Nội cuối năm 1946, đến 1947 cha tôi nhập ngũ. Ông mất rất đột ngột vì sốt rét ác tính ở vùng Nho Quan - Chi Nê. Mẹ tôi phải gắng gượng để sống mà nuôi tôi. Bà bán dần mòn từ đồ nữ trang đến quần áo, rồi cuối cùng cơ quan phụ nữ tỉnh nhận bà vào biên chế. Mẹ con tôi đến ở nhà mẹ Thái đây.

    Trong chuyến đi công tác ở thị trấn Thanh Xuân mẹ tôi tình cờ gặp một bà bạn học Hà Nội tản cư tại đó. Cô Mai - tôi thường gọi thân mật tên bà như vậy - đang sống trong tình cảnh rất gieo neo. Mẹ tôi kể rằng chồng cô đã bỏ cô, "dinh tê" vào thành, để lại cho cô một bức thư đoạn tuyệt và đứa con gái lên mười. Không nơi bám víu, cô Mai nhận lời chung sống với một lão chủ hiệu chữa đồng hồ. Nào ngờ lão ta đã có vợ. Vợ lão ta đánh ghen, đập phá, mắng chửi, đuổi mẹ con cô Mai ra khỏi nhà. Trong những ngày ấy, mẹ tôi luôn luôn nhắc đến cô Mai và tìm mọi cách giúp đỡ cô.

    Thế rồi một buổi chiều, cũng mưa phùn ẩm ướt như thế này, mẹ tôi bước vào nhà - chính chỗ anh và tôi đang ngồi đây - hai mắt mẹ tôi đỏ hoe, một tay xách cái tay nải, tay kia dắt một đứa con gái gầy quắt khóc sướt mướt. Không chịu nổi những khổ đau dồn dập, cô Mai đã nhảy xuống sông tự vẫn! Và mẹ tôi đã nhận con gái bạn - tên là Thu - về nuôi.

    *

    Khi đó Thu lên mười kém tôi bốn tuổi.

    Mấy ngày đầu, Thu không chịu ăn, chỉ khóc. Mẹ tôi giở cái tay nải - tài sản duy nhất còn lại của cô Mai - lấy áo quần ra khâu vá lại cho Thu. Mẹ dạy tôi phải coi Thu như em. Mẹ lập bàn thờ cô Mai ở góc nhà, không xa bàn thờ cha tôi là mấy.

    Thế rồi tôi kèm cho Thu học thêm. Mẹ tôi âu yếm một điều "mẹ mẹ con con" với Thu, trong khi Thu cứ một mực xưng "cháu" và gọi mẹ tôi là "bác". Thu ăn uống rất giữ ý, và thường tranh lấy việc để làm: quét nhà, rửa bát, nấu cơm... Có lẽ những ngày ở nhà ông bố dượng chủ hiệu chữa đồng hồ, em đã phải sống gần như đứa ở. Mẹ tôi xót xa về điều đó lắm, và thường thu xếp để em ít phải làm việc nhà chừng nào hay chừng ấy.

    Tôi là con trai, khỏe sức, mẹ tôi sai tôi gánh nước ở giếng về đổ vào bể xây nhà mẹ Thái đây, để mọi người dùng chung. Tôi bổ củi. Tôi xay lúa. Tôi giã gạo. Mùa rét, tôi đun nước, múc nước cho mẹ tôi và Thu tắm, gội đầu. Còn mẹ tôi thì ngoài công tác ra phải lo chợ búa, bếp núc, khâu vá, trồng rau, nuôi gà. Bà chi tiêu rất dè sẻn, vì dù sao cũng đã có thêm một miệng ăn.

    Có lần mẹ tôi đi công tác dài ngày, ở nhà Thu bị ốm. Em sốt run bần bật. Tôi đun nước xông theo lời chỉ dẫn của mẹ Thái và nấu cháo cho Thu ăn. Gà đã đẻ được 13 quả trứng, tôi mang ra chợ Song bán đi một chục, còn ba quả tôi luộc dần để Thu bồi dưỡng. Có bữa hai anh em ngồi vào mâm cơm, quay đi quay lại, khi tôi và đến lưng chừng bát cơm thì thòi ra một nửa quả trứng - Thu bí mật giúi trứng vào để buộc tôi phải ăn.

    Dần dà, Thu bớt xanh và gầy đi. Em linh lợi và hoạt bát hẳn. Mẹ tôi xin cho em đi học trường làng. Chẳng mấy chốc Thu hòa ngay với các bạn gái trong xóm. Bấy giờ tôi mới phát hiện ra rằng Thu nghịch như con trai. Em đá cầu vào loại giỏi nhất trường và leo trèo như vượn. Có lần mẹ Thái muốn bẻ buồng cau, hỏi tôi có biết trèo không. Tôi lắc. Thế là Thu thoăn thoắt leo lên tận ngọn, không những cắt được buồng cau thả xuống, mà còn bắt gọn hai con sẻ ra ràng làm quà cho tôi nữa. "Chiến công" này của Thu, tôi và mẹ Thái giấu biệt không cho mẹ tôi biết.

    Hồi ấy, mẹ con tôi được ở cả gian nhà ngoài này. Mẹ tôi và Thu ngủ giường bên trái, một mình tôi nằm giường bên phải. Hễ mẹ tôi đi công tác thì mẹ Thái ở trong buồng phải ra ngủ với Thu, vì không hiểu sao em sợ ma lắm. Một buổi sớm em kể với tôi rằng em ngủ mơ thấy mẹ Mai nằm nổi lên giữa lòng sông; nước đẩy mẹ quay tròn... Rồi ôm lấy cổ tôi gục đầu vào vai tôi, em khóc. Tôi chỉ biết im lặng vuốt tóc em để an ủi em.

    Ðầu năm 1952, tôi tròn 18 tuổi. Theo sự giới thiệu của mẹ Thái, lần đầu tiên tôi thoát ly gia đình, xuống tận huyện Ðông Sơn dạy học tư. Nhà chủ là một gia đình trung nông cứng, muốn nuôi thầy để kèm cho cậu con trai độc nhất - lười và dốt đang học lớp hai. Ngoài ra, thầy còn dạy chữ thêm cho bà vợ và cô em ông chủ, cùng bốn năm chú bé hàng xóm nữa. Thầy được nuôi ăn ngày ba bữa, không bữa nào thiếu thịt và cá biển. Cơm bưng nước rót. Mình thầy một mâm. Ðôi khi ngủ trưa dậy, lại có xôi chè!

    Những ngày được ăn uống đầy đủ như vậy, tôi rất thương mẹ tôi và Thu kham khổ. Do đó, cứ cuối mỗi tháng, sau khi ông chủ trả tiền công, là tôi cuốc bộ bốn mươi ki-lô-mét về thăm nhà và đưa tiền cho mẹ tôi. Không bao giờ tôi quên rẽ vào hàng xén mua quà cho Thu, khi thì cái cặp tóc, quyển vở, khi thì cái gương, cái lược.

    Cuối tháng bảy năm ấy, tôi bị ốm đột ngột, không về đưa tiền cho mẹ tôi được. Pháp lại ném bom mấy trận quanh vùng. Thế là mẹ tôi sốt ruột, phái Thu lặn lội đến thăm tôi.

    Buổi trưa, tôi vừa dứt cơn sốt, thấy một cô gái tóc tết thành hai đuôi sam, mặc áo nâu non, mặt đỏ hồng vì nắng, cắp nón có gài lá ngụy trang, bước vào sân bẽn lẽn: "Chào bác ạ! Cháu hỏi thăm..." Bước thêm hai bước nữa, Thu mới nhận ra tôi, và cả tôi, tôi cũng không nhận ra Thu lúc em thoạt vào. Bởi vì tôi đang ngồi co ro khoác cái áo ca-pốt lính tẩy bằng dạ mầu cứt ngựa của ông chủ, còn Thu thì nom lạ quá với hai cái đuôi sam mới. Hai anh em mừng rỡ cười chế nhau mãi.

    Thu ở lại săn sóc tôi hai hôm. Em đánh gió cho tôi (cách đánh gió do mẹ tôi dạy), nấu canh cua rau đay, và cháo hến là hai món ăn tôi thường thích. Chiều mát, Thu theo tôi ra ngồi bờ ao, bên gốc cây sung xem con rùa thảnh thơi bơi ra lội vào (con rùa của chú bé con ông chủ nhà nuôi thả). Thỉnh thoảng một trái sung chín rụng, con cá trắm to bằng bắp đùi lừ đừ nổi lên, nhẹ nhàng đớp lấy quả sung, ngon lành như nuốt một viên kẹo.

    Tối đến, cả nhà ngồi quây quanh ngọn đèn ba dây trò chuyện. Ông chủ bà chủ luôn miệng biểu dương "cậu giáo": - "Cậu giáo thật chăm, chẳng hút thuốc chẳng ăn quà". - "Sau này ai lấy được cậu giáo thì sướng cả đời đấy!".

    Cô em ông chủ có vẻ ngượng ngùng, không dám vào ngồi góp chuyện, cứ lượn ra lượn vào ở dưới nhà ngang.

    Sớm sau, tôi tiễn Thu ra tận đầu làng, dặn dò em phải cẩn thận khi đi đường, qua đò, phải chú ý nghe tiếng máy bay. Thu ngước thật to đôi mắt đen thẳm - đôi mắt đã ánh lên vẻ đẹp dậy thì, - cười và hỏi tôi một câu thật lạ: "Anh... anh có thân với cô em ông chủ nhà không đấy?"

    *

    Sau đại thắng Ðiện Biên Phủ, tôi náo nức xin nhập ngũ. Mẹ tôi rất muốn tôi ở gần mẹ, nhưng thông cảm với ước mơ 20 tuổi của tôi, bà khuyến khích tôi đi bộ đội để phục vụ, biết đó biết đây, và thoát khỏi cảnh tù túng của "cậu" giáo dạy tư luẩn quẩn trong làng. Thu cũng không ngăn cản tôi. Em nói: "Ðiều gì anh thích thì em cũng thích".

    Buổi tối trước hôm tôi lên đường, mẹ tôi nấu xôi. Thu thịt con gà của em đang đẻ để chiêu đãi "anh bộ đội". Mẹ tôi thắp hương trên bàn thờ cha tôi, và cả bàn thờ cô Mai nữa.

    Tối hôm ấy, nhà mẹ Thái đầy khách. Trong số bạn trai đến chào tiễn tôi, có cậu Quyền trắng trẻo và hiền lành củ mỉ cứ nấn ná ngồi lại mãi. Quyền đã là giáo viên cấp I. Tôi để ý thấy cậu ấy rất mến Thu. Có lần tôi đùa: "Cậu có muốn làm em rể tớ không? Cái gì chứ nết hiền lành chăm chỉ của cậu là tớ ưng rồi đấy!". Quyền đã đỏ bừng mặt, bẽn lẽn cười...

    Thu lộ vẻ sốt ruột khi thấy Quyền ngồi lì mãi. Em nói: "Anh Quyền không phải chấm bài ư?". Thế là Quyền lúng túng đứng dậy, lí nhí xin phép mẹ tôi và bắt tay tôi để ra về. Tôi và Thu tiễn Quyền ra tận cổng. Ðứng bên giậu ruối, dưới trăng, Thu bỗng nắm lấy tay tôi, nói nhanh và nhỏ: "Anh đi vui thế, chắc chả nhớ em một tí nào đâu nhỉ? "Tôi cười, vỗ nhẹ vào vai Thu: "Sao lại chả một tí nào?... Anh nhớ Thu to bằng cái nhà này này!..." Thế là hai đứa cười giòn tan. Chúng tôi cứ đứng đó hóng gió mát, nhìn lên trời đêm trong vắt và đầy sao, mãi cho đến khi mẹ tôi ra gọi về đi ngủ.

    Hôm sau, Thu lẽo đẽo theo tôi đến nơi tập trung cách nhà trên 15 cây số. Cứ đi được một chặng dài Thu lại nói: "Thôi, em đếm đúng tám mươi bước nữa, rồi em về!". Chúng tôi cùng đếm. Hết tám mươi bước, Thu bảo: "Anh đã mỏi chân chưa? Em chẳng mỏi tí nào. Em còn đi được nữa!". Thế là hai đứa cùng cười và cùng bước tiếp. Qua con ngòi nhỏ, Thu vén quần lội. Em có đôi chân đẹp, trắng ngần, khiến tôi bỗng dưng thấy ngượng, bước cách xa ra một chút. Thu dừng lại, chìa tay ra trách yêu: "Anh không dắt em, để em chết trôi ở đây sao?". Tim tôi bỗng như ngừng đập. Câu Thu nói vô tình làm tôi chợt nghĩ đến cái chết oan trái của cô Mai... Tôi lùi lại, nắm lấy bàn tay Thu, bước những bước chập chờn, lòng bồi hồi những vui buồn lẫn lộn.

    Không biết từ bao giờ Thu đã gọi mẹ tôi là mẹ và xưng là con một cách tự nhiên, không "bác bác cháu cháu" như những ngày đầu nữa... Và có lần mẹ tôi đã nhẹ nhàng căn dặn tôi: "Thu nó đã lớn, mười sáu tuổi rồi. Anh em thân nhau nhưng đừng suồng sã, kẻo người ta dị nghị. Ðời cô Mai đã khổ thế, mẹ muốn tránh cho nó những tiếng chẳng lành..." Tôi rất thương và quý trọng mẹ tôi. Vì bà đã dành tất cả tình cảm cho tôi và Thu. Bà nhất định không đi bước nữa, mặc dầu khi cha tôi mất, bà mới ba mươi tuổi, và sau đó có đến bốn năm đám ngỏ ý muốn xin được chung sống cùng bà.

    Cái hôm tiễn tôi đi bộ đội ấy, Thu đã vượt quá ranh giới những điều căn dặn của mẹ tôi. Hai anh em bịn rịn trò chuyện mãi - có lúc chỉ nhìn nhau chả nói câu nào -, đến xế chiều thì trời nổi cơn giông gió ầm ầm, Thu đành phải ở lại nơi tập trung lính mới. Ðêm ấy tôi báo cáo với ban chỉ huy, thu xếp cho Thu ngủ ở cái quán ven sông của một bà cụ bán hàng nước. Anh em trong đơn vị đều tưởng Thu là em ruột tôi, và nhiều cậu đã giả vờ "nịnh" tôi trước mặt Thu để "đợi thời cơ làm em rể". Tôi ngồi bên bờ sông với Thu khá khuya. Mấy đứa trẻ nghịch ngợm đi qua ném đất về phía chúng tôi và hô lên trêu chọc: "Lêu lêu vợ chồng! Lêu lêu vợ chồng" khiến tôi ngượng chín cả người; còn Thu thì đứng phắt dậy ném trả bọn trẻ, miệng lầu bầu tức giận.

    Mờ sáng hôm sau tôi cùng đơn vị xuống thuyền để đến một địa điểm mới. Nhìn về quán bà hàng nước, tôi thấy Thu đang hớt hải vừa chạy vừa giơ tay vẫy, gọi to: "Anh Dương! Anh Dương! Ðợi em với! Ðợi em với!". Tôi chỉ kịp nhoài người ra khỏi khoang thuyền, cố giữ vẻ mặt tươi cười hét vọng lên bờ: "Em về nhé! Về nhé!"

    Con thuyền xuôi nhanh theo dòng nước xiết. Các bạn tôi reo cười, nhất loạt đứng lên chào Thu. Tôi lặng nhìn em đứng im trên bãi cát như một bức tượng, quanh cổ vẫn buộc chiếc khăn thêu đêm qua tôi đã tự tay quàng cho em khi thấy em húng hắng ho sau cơn mưa gió lạnh. Tôi bồn chồn thương em, nhớ em, và lo cho em về nhà mẹ mắng...

    *

    Ở đơn vị, tôi nhận được thư mẹ tới khá đều, bao giờ cuối thư cũng có vài dòng thêm của Thu. Em không có thói quen viết dài, chỉ luôn đặt những câu hỏi: "Anh có khỏe không?" - "Anh có nhớ em không?" - "Anh có đủ ấm không? - "Bao giờ anh có thể ghé qua nhà?" - "Anh ăn có no không?"

    Qua thư nhà, tôi được biết Thu đã tốt nghiệp lớp 7, và ý mẹ tôi muốn hướng Thu vào nghề dạy học. Mẹ còn hỏi tôi khá kỹ về Quyền, cái cậu giáo viên hiền lành bạn tôi ấy. Mẹ cho biết Quyền có vẻ quyến luyến Thu lắm, và mẹ cũng thấy mến chàng trai này. Mẹ muốn biết ý kiến của tôi ra sao. Ðọc thư mẹ, tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi không tự phân tích được tình cảm của mình nữa. Ðiều thật rõ là tôi thương Thu, rất thương Thu. Tôi không muốn đời Thu lại gặp những éo le, trắc trở. Quyền yêu Thu, đó là điều tôi biết chắc. Còn từ ngày tôi ra đi tới nay, Thu đối với Quyền ra sao, trong thư mẹ tôi không nói; và Thu cũng không viết một chữ nào nhắc đến Quyền. Tôi trả lời mẹ chung chung là Quyền chân thật, hiền lành, có thể tin cậy được.

    Mùa xuân năm 1956, sau gần hai năm đi xa, tôi có dịp ghé về thăm nhà. Tôi đeo ba-lô, bồi hồi bước trên con đường uốn lượn quanh những ngọn đồi đất đỏ. Những bụi hoa mua hoa sim tím lại, những chùm hoa xoan mọng nước lẫn trong mầu mây, những cánh hoa trẩu trắng trên cây và rải trắng mặt đồi, tất cả đều khơi dậy trong tôi những kỷ niệm xốn xang về những năm tháng đã cùng lớn lên, cũng sống với Thu khi em mười tuổi...

    Thu đã đón tôi một cách thật là bồng bột. Em đang vo gạo. Thấy tôi bước vào cổng, em quăng cả rá gạo, reo lên, chạy ù ra nắm chặt lấy hai tay tôi mà lắc: "Anh Dương! Anh Dương! Mẹ ơi, anh Dương về!...". Rồi trước mặt cả mẹ tôi, mẹ Thái, Thu đỡ ba-lô từ vai tôi xuống, quạt cho tôi, múc nước cho tôi rửa mặt. Em nắm tay tôi, nhìn chăm chắm vào mắt tôi, cười: "Anh đen đi bao nhiêu! Anh có nhận được thư em mới viết không?". Tôi trả lời chưa nhận được vì đơn vị chuyển địa điểm trú quân, chắc là thư đến trễ.

    Bữa cơm tối đó, Thu hầu như không ăn mà chỉ ngồi nói chuyện líu lo và gắp cho tôi. Dưới ánh đèn, nom Thu càng đẹp. Người em dỏng cao, chắc lẳn; hai con mắt to, đen nhánh. Thu nhìn tôi, lộ rõ niềm vui rạng rỡ và sự cảm mến không che giấu. Có lúc không chịu nổi cái nhìn ấy, tôi bối rối cúi đầu xuống mâm cơm hoặc quay sang hỏi chuyện mẹ tôi. Thu có đôi môi mỏng, hồng, hơi "đanh đá", nhưng khi em cười thì quả thực tôi chưa hề thấy cô gái nào có sự hồn nhiên trong sáng đến như vậy. Bao giờ tôi cũng chịu thua trước cái cười ấy, và chẳng khi nào giận được Thu lâu.

    Sau bữa cơm, Thu dẫn tôi đi chào thăm các bạn bè và gia đình trong xóm. Hai đứa đi trong bóng tối dìu dịu mùi hoa xoan, hoa bưởi. Chốc chốc Thu dừng lại, hỏi tôi có nghe tiếng chim gọi vịt kêu không. Tôi bảo có. Thu nói, giọng rầu rầu: "Như tiếng ai gọi ấy, anh nhỉ...". Thế là từ đấy, tiếng chim gọi vịt vời vợi khi xa khi gần mùa xuân nào cũng gợi cho tôi nhớ đến Thu, một nỗi nhớ giằng xé gần như là một nỗi đau không bao giờ dứt...

    Tôi đã đi xa câu chuyện mất rồi! Anh uống nước đi, để tôi xin kể tiếp anh nghe.

    Tối hôm ấy, tôi và Thu đi quanh xóm xong, trở về nhà, thì vừa gặp mẹ tôi tiễn mẹ cậu Quyền ra cửa. Thu lảng ngay xuống bếp.

    Mẹ tôi ra hiệu cho tôi ngồi vào bàn để mẹ tôi nói chuyện. Mẹ cho biết cha mẹ Quyền muốn xin Thu về làm dâu. Theo ý mẹ, Quyền là một thanh niên đứng đắn, sáng sủa, đã có nghề nghiệp, lại là con trai độc nhất của gia đình tử tế, đủ ăn; nếu lấy Quyền thì Thu sẽ sung sướng.

    Tôi ngồi im lặng, cúi đầu nghe mẹ tôi nói. Tôi không thể cất tiếng hỏi mẹ, cũng không thể trả lời, chỉ nghe rõ tiếng trái tim mình đập vội. Cuối cùng, mẹ tôi nắm lấy vai tôi, nhìn vào mắt tôi: "Con đã chẳng nhận xét Quyền là một người chân thật, hiền lành, có thể tin cậy được trong thư con viết cho mẹ là gì?... Và chính con đã nói với Quyền rằng con ưng nhận nó làm em rể, có đúng thế không?...

    Tôi giật thót mình. Với một phản ứng tự nhiên, tôi cãi: "Mẹ ạ, đó là con nói đùa!... Với lại, cái chính là phải tùy em Thu chứ!".

    Mẹ tôi hạ thấp giọng, nói run run: "Mẹ biết hai anh em con rất... quý nhau. Chính vì mẹ muốn giữ cho tình anh em thương nhau, quý nhau lâu dài, mà mẹ thấy cần để cho Thu đi lấy chồng, con ạ...".

    Mẹ tôi vừa nói tới đây thì cánh cửa buồng bật mở tung. Thu từ trong buồng ôm mặt chạy vụt ra, vừa chạy vừa khóc tấm tức. Thì ra em đã từ bếp lẻn vào buồng nghe rõ hết đầu đuôi câu chuyện.

    Hai mẹ con tôi đuổi theo Thu, đến gần bờ nông giang mới giữ được Thu lại và dắt Thu về.

    Hôm sau, Thu đùng đùng lên cơn sốt. Em vật vã, nói mê lảm nhảm. Mẹ tôi cuống quýt đun nước xông, đánh gió cho em.

    Xế chiều em đã tỉnh. Tôi bưng bát cháo đến cho em ăn. Em nằm thẳng ngay ngắn, đầu hơi ngả về một bên. Mẹ tôi đắp cho em một tấm vải đỏ lâu nay vẫn dùng để dán khẩu hiệu trong các cuộc họp - mẹ chẳng có cái chăn đơn nào!

    Thu nằm im, lim dim mắt. Má em đã hồng trở lại. Tôi đứng lặng ngắm em, nhìn mầu đỏ của tấm vải khuôn lấy thân hình thon thả của em... Và bỗng nhiên nhói lên trong tôi một sự thật bấy lâu ủ kín: tôi yêu Thu, tôi tha thiết yêu Thu! Tôi muốn kêu to lên điều ấy, ngay lúc này đây, để cho Thu và mẹ tôi cùng biết.

    Như đón được ý nghĩ của tôi, Thu từ từ mở mắt. Em đưa bàn tay ra cho tôi nắm, và nước mắt em trào ra theo câu nói: "Thôi, anh... Thôi, anh đừng nói nữa... Em hiểu hết cả rồi... Ðiều gì anh và mẹ muốn, thì em sẽ làm theo... Em đã làm phiền mẹ và và anh nhiều lắm rồi mà!...".

    Thu rút phắt bàn tay lại. Và tôi đứng sững sờ, chết lặng khi Thu òa lên khóc.

    *

    Hết phép, tôi trở lại đơn vị như một kẻ mất hồn, Thu bắt tôi mang theo hai quả dừa và một gói xôi lạc thật to, nhưng em chỉ tiễn tôi ra đến đầu ngõ.

    Tới nơi đóng quân, tôi nhận được lá thư đến chậm của Thu. Lá thư gần như công khai bày tỏ tình yêu của Thu đối với tôi, và cười cợt ý định cầu hôn của Quyền.

    Sự việc éo le như vậy đấy, anh ạ. Lá thư như ánh sáng một ngôi sao đến chậm, nhưng mãi mãi chiếu nhói vào tim tôi, không khi nào tắt.

    Cuối năm 1957, mẹ tôi viết thư báo tin và gọi tôi về dự đám cưới Thu vào ngày 27 tháng 12. Quyền cũng viết thư cho tôi một bức thư tràn đầy hạnh phúc, và không quên ngỏ lời cảm ơn tôi đã giúp đỡ anh trong việc xây dựng gia đình! Riêng Thu không viết cho tôi, dù chỉ là một chữ.

    Tất nhiên tôi không thể về dự đám cưới. Tôi gửi một số tiền dành dụm được cho mẹ tôi, và một tấm vải dù mừng Thu. Ngày 27 tháng 12 đối với tôi trở thành ngày kỷ niệm đau buồn. Tôi biết giận ai trong chuyện này được? Giận Thu ư? Giận mẹ tôi ư? Hay là giận chính tôi?

    Sau đó, tôi nhận được thư của Thu đề ngày 1 tháng 1 năm 1958. Thu chúc mừng tôi năm mới, và viết: "Anh Dương ạ, từ nay em sẽ vĩnh viễn là em gái của anh. Ðược mẹ cho phép, em đã đổi từ họ Nguyễn - họ khai sinh cũ - sang họ Ðỗ, họ của cha chúng ta. Em thích như thế, anh bằng lòng chứ?".

    Thế là hết đầu đuôi câu chuyện... Bây giờ thì anh đã rõ tôi đến đây cốt để sống lại những kỷ niệm xa xưa. Và chắc anh vừa nghe vừa thầm "khen" tôi là khéo giữ kín câu chuyện tâm tình đến thế. Ðúng như vậy, suốt những năm dài cùng anh lặn lội ở chiến trường B, không mấy khi tôi không nhớ đến Thu, nhưng chưa bao giờ tôi kể cho anh nghe về Thu cả. Lần này tình cờ gặp anh ở đây, thật là dịp may để tôi "trả nợ" anh.

    Anh uống đi, cà-phê tôi mang theo đấy. Ðêm xuân như thế này ta có thao thức ít ngủ đi một chút cũng là phải lẽ thôi.

    Tôi chuyển ngành từ sau 75, anh ạ. Trong một chuyến công tác ở Sài Gòn, tôi có lần theo dấu vết của cha Thu - người cha đã bỏ con bỏ vợ, "dinh tê" vào Hà Nội bị tạm chiếm năm 1948 ấy. Tôi đã gặp được ông ta. Ông ta là chủ một tiệm bán vải, hay nói cho đúng hơn, là chồng của bà chủ tiệm bán vải. Ông ta to béo nhẵn nhụi, ăn mặc chải chuốt, suốt ngày im lặng đứng bán hàng cho vợ như một kẻ làm công. Ông ta chẳng có nét gì giống Thu cả. Chính vì thế, hoặc do một mối ác cảm ngấm ngầm đối với ông, nên tôi chỉ trò chuyện qua loa như một người khách mua hàng, mà không nhắc gì đến cô Mai và Thu hết.

    Anh Năm, anh đừng nóng ruột! Tôi sẽ nói nốt những điều anh cần biết: Thu và Quyền hiện đang sống ở Lâm Ðồng, hai vợ chồng đều dạy học và đã có hai con, một trai một gái. Thu đã đón mẹ tôi vào trong đó, nhà Thu có vườn rộng lắm. Mẹ tôi đã trên sáu mươi rồi, yếu rồi. Năm nào bà cũng giục tôi lấy vợ, nhưng tôi đành chịu, chưa làm theo được ý muốn của bà!... Có những cô mến mình, nhưng mình không ưng, lôi thôi thế!...

    Anh Năm, anh có nghe thấy không?... Đấy, tiếng chim gọi vịt đấy!... Thôi, anh đi nghỉ đi. Ðể mặc tôi ngồi một mình. Tôi không ốm đâu, anh đừng lo.

    4-1982
     
  14. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bố vợ - Lê Ngọc Minh

    Khi tôi quyết định ở rể, những người thân đều rất mừng. Thằng em nói thẳng ra rằng, cái tuổi Tý của tôi đúng là số “chuột sa chĩnh gạo”, mà là chĩnh gạo tám thơm, chứ không phải là gạo thường, gạo tấm. Chả là nhà ông nhạc tôi chỉ có hai người con gái. Bà chị lấy chồng xa. Chồng chị là giám đốc sở tài chính ở một tỉnh phía Nam. Ông nhạc tôi là người Hà Nội gốc, có nhà riêng. Mẹ vợ tôi mất khi ông còn ở quân đội. Ðến tuổi 58, ông được nghỉ hưu với quân hàm thượng tá.
    Về hưu rồi, ông ham đọc, ham viết. Lúc nào ông cũng có hai loại sổ: loại thứ nhất, ghi lại những điều hay trong sách vở, trong giao tiếp với người đời; loại thứ hai chép những suy nghĩ của mình trước thế sự hoặc những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp. Cứ chép đầy cuốn, ông cụ lại đánh số rồi chép tiếp cuốn khác. Lâu ngày hình thành hai bộ, mỗi bộ đã có trên mười cuốn. Tính ông nhạc tôi điềm đạm, nói năng chậm rãi, giọng ấm, vui buồn ít lộ ra sắc mặt. Tôi còn nhớ, sau ngày cưới một hôm, cụ gọi vợ chồng tôi ra, bảo tôi cùng ngồi, dặn riêng con gái: “Cúc con, cái quý nhất của người phụ nữ là phẩm hạnh. Chồng có yêu, đời có trọng cũng từ đấy mà ra. Anh Tôn (tức là tôi) bây giờ vừa là chồng, vừa là anh của con. Con hãy ghi nhớ lấy điều đó”. Nghe ông cụ nói xong, tôi liền chắp tay thưa: “Chúng con cảm ơn bố”, còn vợ tôi vội tiếp lời: “Con xin vâng lời bố”.
    Ðúng như lời thằng em trai tôi nhận xét, cưới vợ xong, tôi không phải lo một thứ gì, vì tất cả nhu cầu cho một cặp vợ chồng trẻ vợ tôi đã lo chu tất. Lương và thu nhập của ba thành viên trong gia đình dư hai triệu rưỡi mỗi tháng. Thỉnh thoảng anh chị vợ lại gửi cho vài triệu. Vợ tôi là người đảm theo lối cổ. Nàng không cho tôi đụng vào bất cứ một công việc nội trợ nào, kể cả việc đi đổ rác. Chiều chiều, khi ở cơ quan về, tôi chỉ có việc tắm táp, đọc báo và chờ cơm. Một tuần vài lần ngồi tiếp chuyện ông nhạc, khi thì nói về tình hình thời sự thế giới, khi thì trao đổi về một bài phóng sự mang tính cấp bách trên báo, hoặc một bộ phim nào đó được chiếu trên đài truyền hình. Thường thì quan điểm của hai người ít gặp nhau. Tôi luôn giữ chủ kiến của mình nhất là những vấn đề có quan hệ đến giới trẻ. Những lúc như thế ông nhạc tôi hay có câu vừa như dặn dò, vừa như thể hiện cái lý đuối của mình: “Anh cân nhắc xem có phải như thế không!” hoặc “Tôi thiếu thông tin nhưng chả lẽ vấn đề nó lại đơn giản như thế...”. Tôi hăng hái khẳng định luôn ý nghĩ của mình chẳng cần suy nghĩ cân nhắc như ông cụ yêu cầu. Thú thật, có lúc tôi mù mờ biết mình sai, mình hấp tấp nhưng thấy ông cụ có vẻ như thỏa hiệp, như nhường nhịn nên tôi có lấn tới với vẻ hiếu thắng.
    Vợ tôi nhận ra điều đó nên có lần nàng nhỏ nhẹ bảo tôi:
    - Anh ạ, hình như... em cảm thấy... anh hay quá lời với bố.
    Tôi vỗ vỗ vào lưng nàng:
    - Ðã tranh luận thì phải bình đẳng, phải nói cho đến cùng lý lẽ. Với lại bố mình hiền ấy mà.
    - Cụ không hiền đâu. Cụ biết hết đấy. Cụ nhường anh thì có.
    - Biết, sao bố lại không tranh luận cho tới cùng đi?
    - Nhưng để làm gì?
    Sau câu hỏi của vợ, tôi lựa lời khuyên nàng đừng quá bận tâm với các cuộc trò chuyện của giới đàn ông chúng tôi. Ðó là thứ chuyện vừa quan trọng,vừa tầm phào, vui là chính, chứ có phương hại gì đến ai. Tôi vẫn khẳng định với nàng rằng ông nhạc là người hiền lành, là típ người cũ, bảo thủ và hoài cổ. Sau mỗi lần nghe tôi nói thế, Cúc, vợ tôi thường im lặng, có vẻ như tin lời tôi. Ðược thể, tôi càng cho thái độ sống của mình là đúng.
    Cho đến một ngày tôi gặp tai ương, nói thế cũng là quá, vì chuyện đó do tôi gây ra mà sự vỡ lở lại bắt nguồn từ cái budi, bộ phận đánh lửa của động cơ xe máy. Buổi tối hôm đó, tôi tháo cái budi, lau chùi cẩn thận, thử “lửa” cẩn thận, lắp vào ổ máy đề, trăm lần máy nổ cả trăm. Cúc mang trà Lipton cho tôi, hỏi: “Sao hôm nay anh chăm thế?”. “Ờ, mai anh đi quay cái lễ hội, xe máy phải tốt”. Vợ tôi không nói gì. Tôi đảo mắt nhìn về phía bố vợ, nhận ra ở môi cụ có một nụ cười. Tuy nhiên, lúc đó tôi chỉ cho là một nụ cười ngẫu nhiên. Ít phút sau, thằng bạn nối khố của tôi đến. Nó dặn ngày mai, tôi sẽ đón nó vào lúc 7 giờ. Nó còn bảo camera và băng nó đã chuẩn bị xong rồi. Nó mua được băng ngoại chính gốc loại siêu. Nó hỏi thăm sức khỏe ông nhạc tôi rồi dặn lại tôi một lần nữa, lời dặn rất to muốn là vợ tôi cũng nghe được những nội dung ấy.
    Ðúng là tôi đang có chuyện. Chả là lúc trưa trên đường đi làm về, tôi chợt nghe tiếng phụ nữ gọi: “Anh Tôn! Anh Tôn đấy phải không?”, tôi ngoái lại, dừng xe gấp. ở chỗ ngã rẽ, một cô gái cao lớn, ăn vận rất bít-dít, váy ngắn, áo hồng, tóc nhuộm vàng, cắt theo mốt Thượng Hải. Tôi ngớ ra không biết người gọi là ai. Cô gái bảo: “Quên nhau rồi à? Noan – lương thực ngày xưa đây”. “Ô, Loan à, khác quá, lộng lẫy quá! Cứ tưởng là một bà Tây nào đấy!” “Ðã từng là bà đầm nhưng chia tay rồi. Anh có rỗi không?”. “Ðể làm gì?”. “Anh chán bỏ xừ, phụ nữ hỏi mà trả lời kiểu đó thì nghỉ khoẻ nhé”. Biết sự khiếm nhã của mình, tôi vội xun xoe: “Ngày trước, em hay đùa thì anh cũng lên gân, lên cốt tý thôi”. “Chống chế như thế là loại xoàng, nhưng đang buồn, em tha. Có rỗi thì đi uống cà phê với em?”. “Xong!” – tôi đáp một cách hứng thú tỏ vẻ ga-lăng.
    Tôi và Loan vào quán cà phê, loại quán có ngăn, chia từng ô kín đáo. Loan hất mái tóc nhìn tôi, hỏi cộc lốc: “Hạnh phúc lắm hả?” “Nói hạnh phúc thì e tự phụ nhưng cuộc sống êm ấm, không có bão táp mưa sa”. “Giỏi”. “Còn em?” “Lấy chồng bỏ chồng, lấy chồng khác, chồng bỏ!”. Loan nói tỉnh khô rồi lại hất mái tóc. Cử chỉ mà có lần đọc báo tôi biết đó là một dấu hiệu gợi tình của phái yếu. Tôi cúi đầu lúng túng không biết nên chọn một câu đáp lại thế nào cho hợp. Ngày trước, Loan là người yêu của tôi. Cô làm ở cửa hàng lương thực phường. Những năm còn sử dụng tem phiếu trong mua bán các mặt hàng thiết yếu thì tôi phải nói rằng, các ông, các bà, các chị, các cô ở bách hóa, lương thực, thực phẩm là những ông bà giời. Có lần, tôi đi xếp hàng từ bốn giờ sáng đến ba giờ rưỡi chiều mới mua được 10 cân gạo. Về đến nhà trông thấy tôi, ông chú họ bảo: “Ðộ này mày ốm hay sao mà gầy thế, cháu?” Tôi bảo không ốm đau gì nhưng khi soi gương thấy mặt mày hốc hác, hai gò má nhô hẳn lên phờ phạc. Sẵn có cái bàn cân thu mua sắt vụn của nhà bên cạnh, tôi xem lại trọng lượng của mình, thấy tụt đi ba ki lô. Mua được 10 cân gạo sút mất ba cân thịt, khiến tôi phải trằn trọc nghĩ cách. Tôi cố lượng xem mình có thế mạnh nào không? Tôi là thằng đàn ông có mẽ, có bằng cấp nhưng là con nhà nghèo. Bốn anh em trai lộc ngộc và một chị gái quá lứa chưa có ai “cẩu” đi cho. ở cơ quan tôi cũng có một chức vụ nhưng là chức vụ đoàn thể mà lại là cấp phó, phó tổ trưởng công đoàn của một tiểu ban có sáu người. Một lần thức giấc vào lúc nửa đêm, bởi một cơn mơ kinh hoàng do buổi chiều hôm đó tôi được xem bộ phim “Kinh Kông” của Mỹ (xin lưu ý rằng, đầu những năm 80 phim nước ngoài được xếp vào loại phim tư liệu, xem trong nội bộ hoặc khách mời diện hẹp là có giá lắm), tôi chợt nhận ra mình cũng có một thế mạnh. Ðó là tôi có thể kiếm được những cặp vé xem phim tư liệu. Ngay ngày hôm sau, tôi mạo hiểm xông thẳng vào phòng làm việc của ông viện trưởng, trình bày lưu loát và xin được cặp vé xem bộ phim “Cuốn theo chiều gió”. Có được “thế mạnh” rồi tôi phóng thẳng ra cửa hàng lương thực, đứng ở gốc cây nhìn vào chọn một cô có gương mặt dễ coi nhất, đôi mắt có nét mơ màng nhất, vì tôi đoán là chỉ những cô như thế mới ham thích nghệ thuật, mới thấy cái giá của “phim tư liệu xem diện hẹp”. Chọn xong, tôi đứng chờ cho đến 5 giờ chiều, khi cửa hàng đóng cửa vì hết gạo, chứ không phải vì hết người mua. Tôi tiến đến chỗ người con gái đó, chào như đã quen biết:
    - Chào em, bận lắm phải không, em?
    Cô gái ngước nhìn tôi, cái nhìn thăm dò. Khi thấy tôi không mang túi, tải gì và ăn mặc cũng không đến nỗi, cô ngờ ngợ hỏi:
    - Chào anh. Anh là...?
    - Anh là “dân” nghệ thuật. Cũng đã vài lần mua gạo ở đây. Thấy em bận bịu suốt ngày, nay mang đôi vé để em mời bạn trai đi xem phim tư liệu giải trí vào chủ nhật – Tôi nói và đưa hai tấm vé cho cô.
    Cô sững sờ cảm động trước cử chỉ của tôi. Ðôi môi tươi tắn của cô run run một lúc mà chỉ nói được có hai từ:
    - Em xin.
    - Ðơn giản có thế thôi. Chào em. Nhớ chủ nhật đi xem em nhé.
    - Ở đâu ạ?
    - Trong vé ghi rất nghiêm chỉnh rồi. Ðây là loại vé đặc biệt, hàng ghế ưu tiên.
    - Em cảm ơn anh quá! Em xin! – Cô nhắc lại hai từ lúc nãy.
    - Không có gì! - Tôi nói rồi bỏ đi ngay và thầm đoán rằng thế nào cô cũng sững sờ nhìn theo tôi.
    Chủ nhật, ngày cô gái đi xem phim, tôi có đến nơi chiếu nhưng muộn hơn và xin người canh cửa cho đứng ghé ở một góc, vì tôi không có vé. Khi buổi chiếu sắp kết thúc, tôi ra trước tìm một chỗ quan sát. Dòng người từ cửa buồng chiếu chen nhau ra, ai nấy đều thì thầm với nhau, nét mặt rạng rỡ, chắc là họ đang nói về cái hay của bộ phim. Cô gái cũng đi xem phim. Ði có một mình. Ra khỏi cửa, cô có ý tìm ai đó. Tôi tiến lại chỗ cô. Cô rất mừng khi nhận ra tôi. Chào cô rồi tôi hỏi:
    - Bạn trai em đâu?
    - Em không có bạn trai. Em đã rủ cô cửa hàng trưởng đi nhưng cô ấy bận việc đột xuất, thành ra thừa vé, phí quá. Phim hay anh nhỉ. Các anh thích thật đấy.
    - Ðây mới là phim hay vừa vừa thôi, có nhiều bộ còn mê ly. Nếu em thích, anh sẽ đưa vé cho em đi xem thường xuyên.
    - Tên em là gì?
    - Dạ Noan ạ - Cô gái tỏ vẻ ngượng, vì tôi biết cô nói ngọng tên của chính mình. Tôi hỏi chuyện cho cô khỏi lúng túng:
    - Nếu Loan đồng ý, anh mời Loan đi ăn kem. ở chỗ kia có kem “Bắc Cực” ăn được lắm!
    - Em phải về thổi cơm cho mẹ.
    - Ăn kem cũng nhanh thôi mà. Nhà Loan có xa lắm không?
    - Cũng gần thôi, ở Hàng Bồ anh ạ.
    - Bây giờ là 9 giờ 30 phút, mười giờ Loan về vẫn kịp.
    Loan không đáp, theo tôi vào quán kem “Bắc Cực”. Từ bữa đó, tôi và Loan quen nhau, rồi yêu nhau. Tất tật tem phiếu về lương thực của nhà tôi, của các bạn thân tôi có hộ khẩu trong phường đều gửi cả ở chỗ Loan, cứ cần lúc nào ra mua lúc ấy mà bao giờ cũng được ưu tiên bán cho loại ngon nhất. Tôi cũng đã chấn chỉnh thường xuyên để Loan không nói ngọng tên cô và những tên người có chữ “L” đứng trước. Mẹ tôi, bà chị quá lứa của tôi mừng cho tôi lắm. Mỗi khi Loan đến nhà tôi chơi, mẹ tôi nhìn cô bằng sự ngưỡng mộ. Cụ khen cô vừa có tướng phúc hậu, vừa có sự dịu dàng. Các em trai tôi thì bảo, giá chị Toàn (chị gái của tôi) mà được như chị Loan thì nhà tôi sẽ đổi đời. Mẹ tôi bảo: “Có voi đòi tiên, chỉ cần một cái Loan là đủ. Phúc lộc vào nhiều một lúc thường có họa”. Chúng tôi yêu nhau được hai năm. Rồi vào một ngày giáp Tết, sau chuyến đi công tác ở Lạng Sơn về, tôi hớn hở mang đến nhà Loan cành đào phai thứ đặc sản của tỉnh biên giới, cành đào mà người láng giềng của tôi, làm ở ngoại giao đoàn, gạ tôi một tờ (100 USD) để anh đặt vào phòng khách ngôi nhà mới xây, tôi cũng từ chối. Loan đi vắng. Bốn cô em gái của Loan ngày thường hồ hởi với tôi bao nhiêu thì bữa nay vừa lạnh nhạt, vừa lúng túng bấy nhiêu. Cô thứ nhì, tuổi Dần tên cũng là Dần, cái cô rất có cá tính, trán dô, có duyên nhất nhà thẳng thắn bảo tôi: “Anh Tôn ơi, năm nay nhà em “chơi” quất, anh mang đào về cho cụ bên nhà. Nghe nói “chơi” cả đào, cả quất năm mới không hên”. Tôi biết có chuyện rồi hỏi thẳng cô Dần: “Chị Loan đâu, Dần?”. “Tối nay anh đến đi, chị Loan sẽ nói chuyện hoàn cảnh với anh”. Dần bảo thế và nhắc tôi mang cành đào về.
    Vừa bực, vừa tức, vừa tẽn, tôi vác cành đào đi ra. ở ngoài phố, tôi vứt cành đào đáng giá một tờ vào cái thùng rác. Chả ai hoài của quý, một bác qua đường nhặt lấy ngay. Bác ta cẩn thận gỡ những mụn rác bám vào cành đào khen đào đẹp và mang đi.
    Ðúng như Dần nói, Loan không tránh tôi vào buổi tối. Cô mời tôi ra vườn hoa Hàng Ðậu. Cô đưa ra lý do. Tôi và cô yêu nhau hai năm rồi mà chưa một lần tôi nói đến chuyện cưới cô. Loan cũng nói thẳng ra rằng, nhìn bà chị tôi, nhìn ba thằng em trai tôi cô hãi lắm. Nếu tôi có cưới cô về thì vợ chồng sẽ ở đâu? Chả lẽ lại làm giường cưới trên gác xép? Mà cô thì cần phải lấy chồng để em gái bốn đứa của cô mới có cơ hội đi lấy chồng được. Loan nói xong thở dài não ruột. Tôi hét lên:
    - Rõ rồi.
    Và đứng phắt dậy về thẳng, mặc dù Loan có gọi với theo tôi. Trong thâm tâm dù đã thề độc rằng, sẽ không bao giờ nhìn mặt Loan nữa nhưng ngày cưới Loan tôi vẫn đến, mừng một đôi vé đi xem phim. Tôi ngạo nghễ nhìn chú rể. Anh này trông hiền lành nghe nói là học ở Tiệp về. Loan xem tôi như nhiều người quen biết khác, hơn hớn cùng chú rể tiếp khách.
    Một thời gian sau, chuyện tem phiếu được dẹp bỏ. Gạo ngon có người mang đến bán tận nhà, thậm chí mua chịu cũng được, vì thế, tôi chẳng phải đi đong gạo nên cũng không biết cuộc sống của Loan thế nào. Rồi tôi cưới vợ, ở rể.
    Ít lâu sau, chị Toàn tôi được một anh 46 tuổi yêu chết mê chết mệt, cứ đòi cưới tắp lự. Chị tôi có ngủng nghỉnh làm bộ vài lần rồi thuận tình lấy anh. Hai em trai tôi cũng theo gương tôi đi ở rể. Chúng nó không may bằng tôi, bởi rơi vào chỗ đông người, đất cát nhà cửa chia bôi thế nào chẳng rõ, cứ thấy ít bữa lại kéo nhau ra toà. Cuối cùng rồi họ phải bán nhà, chia mỗi người một ít, tản ra các phía rồi mới yên ổn được. Mẹ tôi ở với thằng út, nó thừa hưởng chỗ 20m2 nhà cấp bốn. Vợ nó đi làm “liên doanh” nên nhanh chóng xây được nhà ba tầng. Nó vẫn hay so bì với tôi. Nó bảo, nếu có chỗ đất như tôi, nó làm biệt thự năm tầng có khuôn viên, có gara ôtô, tầng chót thì làm bể bơi. Nghe nó nói thế, tôi chỉ cười.
    Ngồi uống cà phê với Loan tôi được biết thêm, cô đã có căn hộ bốn phòng, sống độc thân, đã nghỉ “chế độ” nhưng mới nhận làm cố vấn tiếp thị cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Cô bảo cô rất buồn, rất cô đơn. Cô còn thổ lộ chỉ có tôi mới mang đến cho cô tình yêu đích thực, rằng hai năm yêu tôi, cô “được” nhiều lắm. Cô thừa nhận sự nông nổi, vô duyên của mình. Cô đề nghị tôi hãy đưa cô đi chơi xa một lần. Ðưa ra đề nghị ấy, cô nhìn xoáy vào mắt tôi đam mê chờ đợi. Tôi cảm động nắm lấy đôi bàn tay có những móng dài đỏ chót của cô, đưa lên môi hôn. Tôi thấy cô run lên, giọng lạc đi: “Hoàng tử của em”. Tôi nuốt khan khối rạo rực, thảng thốt hỏi: “Em đã đi Ao Vua chưa?” “Ði đâu cũng được càng xa Hà Nội càng tốt”. “Hay đi Suối Tiên”. “Tuỳ anh”. Chúng tôi chấp thuận cùng nhau đi Thiên Thai. Bảy giờ sáng hôm sau tôi sẽ đón Loan. Chia tay Loan, tôi rẽ vào nhà thằng bạn, cái thằng hay bảo tôi là “Chó chui gầm chạn”, dặn nó như thế, như thế... Buổi chiều hôm đó, tôi lòng dạ bồn chồn như lửa đốt. Buổi tối không biết ma quỷ mê hoặc thế nào, tôi tháo budi ra lau. Thật ra thì tôi lo xa thôi. Ði chơi với người tình cũ, người tình đang cô đơn, đang xem tôi như một cứu cánh mà xe lại tậm tịt thì hoài thời gian lắm. Khi thằng bạn đến, cụ thể cái sự “như thế, như thế...” của tôi bằng thông báo đi quay lễ hội vào ngày mai. Về rồi, tôi buồn tay thế nào lại ấn đề cho xe nổ không tải một cách ngu ngốc. Tắt máy xong, tôi đi vào, đi ra, huýt sáo vang nhà.
    Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, lau sàn nhà, đun nước, đi mua đồ điểm tâm, mời ông nhạc ăn sáng. Thời gian trôi thật là chậm. Mãi kim đồng hồ mới nhích đến 6 giờ 45 phút. Tôi chào bố vợ và vợ đi trước. Ra khỏi nhà, tôi phóng như bay về phía Hàng Bồ. Loan đã chờ tôi ở đầu phố. Tôi dừng xe nhanh. Loan lên xe cũng nhanh. Cả hai lặng lẽ rời “toạ độ chết” đi về phía Yên Phụ, dọc theo đê Nhật Tân phóng với 60, 70km giờ hướng về đường cao tốc. Chỉ hết 55 phút chúng tôi đã đến Thiên Thai. Dừng lại trước một quán ăn, tôi định mua mấy thứ nhưng Loan bảo không cần, cô đã chuẩn bị đầy đủ cho hai đứa... cả ngày. Thuê phòng, nhận chìa khóa xong, Loan nhắc tôi là mang cả xe vào phòng. Khi cái thế giới riêng được chốt cài cẩn thận, chúng tôi vồ lấy nhau mà hôn. Loan trẻ trung cù vào ngực tôi: “Có ma kia! ma đấy!”. “Không sợ”, tôi đáp và siết cô vào ngực mình. Bỗng có tiếng gõ cửa rất gấp rồi giọng cô lễ tân: “Anh gì, chị gì ơi, em gửi phích nước”. “Ðể đấy”. “Anh ơi, có việc đấy!” “Gì cơ?” “Mở cửa em nói cái này”. Chúng tôi vội rời nhau. Tôi thầm bực bõ với cách phục vụ của mấy cô nhà khách tỉnh lẻ.
    - Gì đấy cô? - Vừa mở cửa, tôi cau có hỏi.
    Cô phục vụ mặt tái mét, nói nhỏ với tôi:
    - Hình như là vợ anh đi tìm anh. Chị ấy người cao cao, có một chú đầu húi cua, da đen đen đèo chị ấy. Họ vừa vào lễ tân đấy. Anh có để lại giấy tờ gì không?
    - Thuê trọn gói trả tiền trước, không để lại gì?
    - Vậy anh chị “thoát” nhanh lên. Ðây có lối vòng ra nhà 4C đi ven hồ ra đường lớn, chị ấy không phát hiện được đâu.
    - Cứ đóng cửa ở trong này đã sao?
    - Chị ấy biết anh đến đây rồi. Tuần trước có một trường hợp đánh ghen phải đưa đi bệnh viện đấy anh ạ. Lúc đầu, nói anh đừng giận, lễ tân cũng nghi anh nhưng... nể, thành ra...
    Nghe xong, tôi bủn rủn cả người. Loan đến sau tôi, bảo: “Anh sợ thì đi về”. Tôi trả lời liều: “Sợ thì không nhưng phiền phức lắm. Chả gì mình cũng phương diện...”.
    - Thôi về cho khỏi rách việc, chú thỏ, về!
    Tôi dúi vào tay cô gái phục vụ tờ 20 ngàn rồi lập cập dắt xe ra. Cô gái hướng dẫn chúng tôi lối thoát như cô đã nói. Ra đường, mặt Loan nặng như chì, tôi phải động viên: “Mình về một khách sạn ven Hồ Tây có được không? Ở đó, họa là trời có mắt mới tìm thấy”.
    - Xin lỗi. Anh đưa em về ngay đi! - Loan nói xong, quẳng cái gói đồ ăn, thức uống xuống hồ, môi mím lại chỉ còn một vệt như sợi chỉ.
    Biết nói gì lúc này cũng chỉ là đổ thêm dầu vào lửa nên tôi chờ Loan ngồi lên xe là vù đi ngay. Tôi phóng hết cỡ vì như thông báo của cô phục vụ thì người thanh niên kia chính là cháu họ vợ tôi, thằng này có biệt tài đi xe máy. Nó đã rủ tôi lên đỉnh cầu Thăng Long, chờ lúc vắng người, phóng xe với tốc độ 160km một giờ để tìm cảm giác mạnh, tôi hy vọng trong trường hợp này, hắn vì “quyền lợi danh dự” của nam giới mà tìm kế hoãn binh hộ tôi, chứ với sức hắn, với cái Suzuki 350cm3 của hắn thì họa tôi có bay mới thoát. Ði được mười phút, thấy đã ra đến gần ga xe lửa tôi ngoái lại thấy không có cái đuôi nào bám đã mừng. Tôi nảy ra ý định đi ngược lên mạn trên. Thì chắc chắn là thoát. Nhưng cái ý nghĩ ấy chưa kịp thực hiện thì xe tôi ì ra, giống như là hết xăng. Tôi nhìn đồng hồ nhiên liệu, thấy kim vẫn chỉ ở con số 3 nghĩa là xăng trong bình vẫn còn đầy. Chiếc xe dừng lại, tôi mở cửa gió, đề. Máy ặc lên rồi tắt. Kiểu này là trục trặc ở budi rồi. Tôi đẩy xe vào sau cái bảng tin. Mắt nhìn về phía Thiên Thai. Chỉ thấy có vài bóng xe nhỏ xíu đang phóng tới. Loan cắm cẳn dẫm chân, không muốn lại chỗ bảng tin. Tôi hét lên: “Muốn chết à! Có nép vào đây không thì bảo” – Hét xong, không đợi Loan có nghe hay không, tôi đẩy chiếc xe tậm tịt vào phía sau cái bảng tin. Khốn nỗi vì vội nên bánh trước sa xuống ruộng ngập đến tận moay-ơ. Loan đến, giúp tôi kéo nó lên, giúp tôi đẩy. Khi đã tìm được chỗ khuất, tôi ló đầu, kiễng chân nhìn về hướng cũ, thấy có người đi xe tới, nhưng không phải thằng cháu vợ tôi.
    Tôi tháo budi, lóng ngóng lau, mồ hôi túa ra. Loan thì tựa lưng vào bảng tin, khoanh tay cười. Tôi cáu, hỏi: “Cười gì?” Loan khủng khỉnh: “Cười đời”. Tôi nhẫn nại gõ gõ cái budi vào máy, thử xem nó có đánh lửa hay không. Những tia lửa xanh tí tách nổ. Mừng quá, tôi lắp nó vào, đang chuẩn bị đề cho nổi thì chiếc xe Suzuki 350cm3 tựa như từ trên trời rơi xuống, quành một đường rất khéo đến sát tôi, chỉ còn cách độ 60 phân. Thắng cháu họ trời đánh ngoan ngoãn: “Cháu chào chú Tôn ạ, cháu chào cô gì ạ”. Tôi đứng như bị găm chân xuống đất. Vợ tôi nhẹ nhàng hỏi: “Anh Tôn, sao lại thế này? Xe đã sửa xong chưa, anh?” “Xong rồi”, tôi đáp như một cái máy và đáo mắt nhìn Loan. Loan nhìn trừng trừng vào tôi. Tôi vội tránh cặp mắt ấy.
    - Anh Tôn, sửa xong xe thì mời anh về.
    - Về – Tôi đáp vu vơ rồi đẩy cái xe ra đường. Chả biết sức mạnh nào khiến tôi đẩy nó băng băng trên bờ mương gồ ghề. Ra đến đường cái, tôi mới sực nhớ là còn Loan nữa. Làm sao bây giờ? Tôi chưa nghĩ ra giải pháp thì vợ tôi lại giục.
    Lời cô nàng lúc này kiên quyết hơn:
    - Anh ngồi lên xe đi về.
    - Thì về – Tôi “đề” và phóng xe đi.
    Thằng cháu họ đèo vợ tôi “áp tải” phía sau. Khi tôi phóng nhanh thì thằng cháu lướt tới dặn:
    - Chú Tôn ơi, cô bảo đừng phóng nhanh nguy hiểm.
    Tôi không đáp cứ giữ tốc độ một cách ngang bướng, vì tâm trạng tôi vô cùng bực bội. Trời ơi, Loan sẽ về nhà bằng cách gì? Cô sẽ nghĩ về tôi như thế nào? Sao lúc vợ tôi giục tôi về, tôi không can đảm nói với Cúc rằng, dù gì thì gì cũng phải đưa Loan về? Sao tôi không chào Loan một câu? Cố nhiên là Loan sẽ không ngồi chung xe với tôi, bởi làm thế thì có khác nào trêu ngươi vợ tôi nhưng ít ra tôi cũng phải gọi cho Loan một “cuốc” xe ôm chứ?
    - Anh Tôn, anh không cần phải phóng nhanh như thế – Khi thằng cháu chở vợ tôi vượt lên, Cúc nói như quát với tôi, điều mà mấy năm chung sống, cô chưa một lần dám thế.
    - Chết thì thôi, cần quái gì! – Tôi trả lời liều. Vợ tôi không đáp, nói gì với thằng cháu rồi thấy nó cho xe lên chắn lấy xe tôi. Vợ tôi xuống, ngồi sang xe của tôi. Thằng cháu rồ ga đi chầm chậm phía trước cản đường không cho tôi phóng nhanh nữa.
    Chúng tôi về đến thành phố, thằng cháu họ vụt biến mất vào dòng người đông đúc. Tôi gợi chuyện:
    - Em với cháu đi từ lúc nào?
    Cúc không đáp. Tôi lẳng lặng đi tiếp. Một lúc sau, tôi buồn mồm, lên tiếng thanh minh:
    - Ðừng bực anh nữa. Chưa có chuyện gì đâu.
    Vợ tôi vẫn im lặng.
    Khi tôi định rẽ vào lối để về nhà, Cúc mới mở miệng:
    - Ði thẳng đi anh Tôn
    - Ði thẳng là thế nào?
    - Ði thẳng là đi thẳng chứ còn thế nào nữa.
    - Thế, em không muốn về nhà à?
    - Về nhà! Anh không phải hỏi nữa!
    Thì ra nàng bảo tôi đi thẳng, tức là “dong” tôi về nhà mẹ đẻ của tôi. Chà, mới cao tay làm sao! Khi về đến gần nhà mình, tôi lo cuống cả lên, nói như xin với vợ:
    - Làm khổ anh thì em được cái gì? Cúc ơi, thương anh đi!
    - Anh cứ về, không ai làm khổ anh đâu.
    - Em muốn giao thằng con hư cho mẹ anh chứ gì? “Xấu chàng hổ ai” em ơi!
    Vợ tôi không trả lời nhưng nghe tiếng chép miệng, tôi biết cô nàng cười khẩy, củng cố quyết tâm “riềng” tôi. Tôi phải nghĩ cách khác để tự bào chữa cho mình trước mặt mẹ đẻ. Cũng may cho tôi, vợ chồng thắng út đi vắng, chứ chường cái mặt của thằng đàn ông ngoại tình ra với em trai, em dâu thì còn ra thể thống gì nữa. Thấy mẹ tôi, vợ tôi nhào lại chỗ cụ, khóc nức nở như sắp chết đến nơi. Không cần hỏi, mẹ tôi đã hiểu có sự. Bà hỏi tôi:
    - Thằng Tôn vụng trộm gì phải không?
    - Mẹ ơi chưa có gì đâu ạ, cô ấy nông nổi.
    Câu nói của tôi như ngọn gió bùng lên nỗi ức trong vợ tôi. Cúc khóc òa lên, rồi nói trong tiếng nghẹn:
    - Mẹ ơi, anh ấy đưa người yêu cũ đi khách sạn, con bắt được quả tang mà anh ấy còn bảo con là nông nổi. Mẹ ơi, khổ con quá!
    Mẹ tôi ôm lấy Cúc, vuốt tóc cho nàng và bà nhìn tôi nghiêm khắc, mắng:
    - Thằng khốn, sao mày còn đứng đực mặt ra đấy? Mày còn không về đi à? Về!
    - Mẹ...!
    - Tôi bảo anh về đi cho mẹ con tôi yên.
    - Mẹ ...!
    Tôi cố giãi bày thì mẹ tôi đứng dậy, bà tát cho tôi một cái và tiếp tục đuổi tôi đi. Tôi lầu bầu, cắm cẳn, dắt xe ra khỏi nhà mẹ đẻ. Dọc đường, tôi mới nhận ra sự khéo xử của mẹ mình. ừ, liệu tôi ở đó thì giải quyết được gì, chỉ thêm ngứa mắt vợ tôi. Lúc này, nàng đang hết sức đau khổ, cần phải có nơi để dốc cho hết nỗi niềm. Tôi tin với bản tính hiền lành, khéo khuyên nhủ, mẹ tôi sẽ giúp nàng vợi đi. Yên được một phần, tôi lại phải lo đến phần tiếp. Về nhà sẽ nói với ông nhạc tôi thế nào đây? Ông đã quý tôi như thế. Tôi đã có lúc lấn lướt ông như thế. Nhà đã cháy, chuột đã lộ mặt. Ôi cái mặt chuột của tôi giờ đây lò dò về nhà! Tôi quyết định sẽ nói hết sự thật với ông cụ. May ra cụ sẽ thông cảm, cụ “ân xá” cái sự đam mê ma xui, quỷ mướn ngu muội của tôi.
    Tôi về nhà, ông nhạc đang ngồi ghi chép. Tôi chào cụ, pha ấm trà, mời cụ uống nước. Khi cụ đã ngồi, đã uống trà và hỏi thăm công việc quay “lễ hội” của tôi, tôi ấp úng thưa lại với cụ câu chuyện vừa xảy ra và luôn nhấn mạnh câu :”Chưa có chuyện gì đâu ạ”. Nghe tôi trình bày xong, ông cụ chưa phán xét ngay. Tôi lấm lét nhìn bố vợ. Nét mặt luôn điềm tĩnh của cụ buồn hẳn đi. Tôi hiểu rằng, cụ ít nhiều bị sốc, cụ đang thất vọng về tôi. Thấy cụ nhìn tôi, tôi vội cúi mặt xuống ấp úng:
    - Con mong bố thương, vả lại cũng chưa có chuyện gì.
    - Tối qua – ông nhạc tôi chậm rãi nói – nhìn anh loay hoay với xe pháo, nói anh thông cảm, tôi đã thấy sự bất thường. Cũng thật tiếc, anh lại để cho cái Cúc nó biết. Mà con bé cũng xốc nổi quá, tại sao lại phải đưa anh về bên cụ? Như thế là nó hỗn với cụ quá. Thôi thì đằng nào chuyện cũng xảy ra rồi, anh cứ “hoạt động” bình thường. Mọi việc anh để tôi lo. Mai kia rỗi tôi phải đến xin lỗi cụ bên nhà.
    - Thưa bố, trăm sự là tại con. Cúc không có lỗi ạ.
    - Anh không phải nói nhiều. Có phải đi việc gì thì cứ đi đi.
    - Dạ, cũng không có việc gì ạ. Con mời bố xơi nước.
    Ông cụ nhấp môi chén trà tôi vừa rót thêm rồi đứng dậy, đi lại cái bàn, tiếp tục viết lách. Tôi cũng ngượng ngùng đứng dậy. Nhìn quanh chả có việc gì làm, tôi lại lau nhà, việc mà lúc sáng tôi đã làm. Lau xong tầng dưới, tôi lên tầng trên lau cửa kính, cửa sổ, đầu óc suy nghĩ mông lung, làm mà chả biết làm việc gì. Tôi đã nhầm thảm với nền nhà nên “lau” thảm một lúc mới sực nhớ ra, lại phải dùng quạt để quạt cho khô cái thảm ướt. Quạt không được, lấy bàn là ra là làm cho thảm cháy khét lẹt.
    Vợ tôi về. Tôi rụng rời chân tay. Tôi lẻn ra chỗ cầu thang xem, nàng sẽ “tố” với ông nhạc những gì. Tôi thấy Cúc không khóc như lúc gặp mẹ tôi nên cũng có phần mừng. Chờ cho Cúc cất xong mấy thứ, tôi nghe tiếng ông nhạc gọi con gái:
    - Cúc, con ra đây bố nói cái này.
    Rồi tôi nghe tiếng ông nhạc vừa nghiêm khắc, vừa nhỏ nhẹ:
    - Anh Tôn có lỗi với con nhưng con xử sự như vừa rồi là không phải. Còn có biết con làm thế là xúc phạm đến cụ bên nhà không?
    - Bố lại nghe anh Tôn mách gì rồi! - Vợ tôi nói thế rồi khóc òa lên.
    Ông nhạc tôi nói tiếp:
    - Bình tĩnh con gái.
    - Con bình tĩnh lắm, con mới xử sự như thế. Nếu là người khác…
    - Con chưa bình tĩnh đâu. Nghe bố đã. Vậy con so con với người đàn bà kia ai hơn?
    - Con kém cỏi nên anh Tôn mới làm khổ con thế.
    - Khiêm tốn, nhún mình là quý nhưng con nói chưa thật lòng. Anh Tôn đã nghe con, đã phải theo con về nhà mẹ đẻ của anh ấy, thế là con đã hơn đứt người phụ nữ kia, đúng không?
    - Chả qua là anh ấy bị con phát hiện.
    - Dù sao thì anh Tôn đã nghe con. Nói cho phân minh ra, trong trường hợp này con thắng cả hai. Người thắng trận nên bao dung, đại lượng. Ngay ngày mai, con phải sang xin lỗi bà cụ, còn vợ chồng, lúc thấy được, con phải có lời với anh Tôn.
    Nghe bố vợ nói thế, không đừng được, tôi vội chạy xuống chắp tay:
    - Thưa bố, tại con, tại con tất cả. Con phải là người xin em Cúc tha thứ.
    - Anh cứ đi lên nhà lo công việc. Trong chuyện này bố là người bình tĩnh nhất để phân xử đúng sai.
    Tôi đành phải cun cút đi lên. Tôi không dám theo dõi cuộc trò chuyện của bố vợ và vợ tôi nữa. Ðến tối, tôi chủ động xin Cúc tha thứ nhưng nàng lặng im. Tiếp những ngày sau, trong bữa cơm hay lúc có ông nhạc, bao giờ Cúc cũng mời chào đúng phép, còn khi chỉ có hai vợ chồng, tôi có hỏi gì nàng cũng im lặng. Tôi rơi vào hoàn cảnh “chó chui gậm chạn” thật. Thôi thì đành lấy công chuộc tội, ngoan ngoãn, nhẫn nại “thi hành” đến cùng các tình tiết của kế khổ nhục. Mất đúng ba tháng mười tám ngày, tôi lăn đùng ra ốm, một trận cảm cấp. Lúc đó, vợ tôi mới mở miệng với tôi, mới chăm sóc tôi như xưa. Lựa lúc nàng dịu dàng nhất, tôi ngỏ lời xin tha thứ, nàng gí tay vào trán tôi bảo :”Chuyện cũ cho qua. Anh mà để xảy ra chuyện gì nữa thì em không chịu đâu”. “Biết tội đáng chết rồi!”. Tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi thầm cảm ơn trận ốm. “Chiến tranh lạnh” đã qua, đám mây u ám nặng nề trong nhà tôi đã được sự khoan dung của Cúc xua đuổi. Ba tháng mười tám ngày chịu trận, tôi đã có thói quen rửa bát, quét nhà, chiều chiều cứ quanh quẩn bên vợ chờ sai vặt. Nhiều hôm, vợ tôi phải giục tôi ra hầu chuyện ông nhạc.
    Cho đến một ngày, chỉ có tôi và bố vợ ở nhà, ông cụ bảo tôi:
    - Thế, anh Tôn đã đến xin lỗi bạn gái dạo nào chưa?
    - Bố lại trêu con! – Thấy ông nhạc nói vui nên tôi cũng đáp lại một cách thoải mái.
    - Có dịp nào thì đến xin lỗi người ta đi. Bỏ rơi đàn bà, con gái giữa đường như thế là không phải.
    Tôi không dám bày tỏ tình cảm của mình trước câu nói của bố vợ. Song sau đó, tôi lại nghĩ đến Loan, nghĩ dến chuyện hồi ba tháng trước. Loan về nhà bằng cách gì? Loan có thông cảm cho hoàn cảnh của tôi không?... Và vài ngày sau, tôi có bí mật đến nhà Loan để xin lỗi cô. Tôi vào nhà. Loan đang làm bếp. Tôi chào cô. Cô im lặng. Khi tôi hỏi Loan: “Hôm trước Loan về nhà bằng cách gì?” thì cô quắc mắt nhìn tôi. Tôi cười trừ tỏ vẻ làm thân, tiến đến chỗ Loan. Bất ngờ, cô cầm cái chảo, trong đó có hai quả trứng đang sôi lên trong mỡ, hắt về phía tôi. Tôi tránh kịp. Hai quả trứng cùng với mỡ nóng lao thẳng vào tường, bám chặt và tỏa nhiệt nghi ngút.
    - Loan! – Tôi bàng hoàng kêu lên.
    - Cút! - Loan nói và tìm cái gì đó như muốn ném vào tôi nữa.
    Tôi vội ra khỏi nhà Loan. Hành động của Loan làm tôi buồn và nghĩ ngợi lắm. Bên tai tôi vang lên lời của vợ: “Bố không hiền đâu. Bố biết hết đấy!”. Có phải ông nhạc tôi bảo tôi đến xin lỗi Loan hay là cụ muốn Loan dạy cho tôi một bài học? Nghĩ đi, nghĩ lại, tôi vẫn cho rằng, ông nhạc tôi sai tôi đi với dụng ý tốt, ông cụ chẳng thể đoán trước được cái kết cục mà Loan đã đối xử với tôi vừa rồi. Có điều từ bữa đó, mỗi lúc được hầu chuyện ông cụ, tôi đắn đo cân nhắc trước khi đưa ra chính kiến của mình. Vợ tôi khen tôi là ngoan, tôi đáp lời nàng như người từng trải: “Mỗi tuổi, mỗi khôn, em ạ”.
     
    Chỉnh sửa cuối: 30/12/15
  15. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    MÙI CỌP - Quý Thể

    - Anh ơi!

    Tôi giả vờ ngủ.

    Chúng tôi còn giận nhau. Thực ra tôi biết nàng trở về nhà vào lúc 12 giờ khuya. Nàng cởi bộ áo lấp lánh kim tuyến treo lên móc. Nàng vào phòng tắm. Tôi nghe tiếng chiếc gương xen nước chảy rào rào. Tôi nghe cả tiếng cửa phòng tắm mở. Nàng nhẹ nhàng lên giường nằm cạnh. Tôi nghe tất cả, nhưng tôi thấy lúc chưa phải để giải hòa. Chúng tôi đã giận nhau hơn một tuần nay.

    - Anh đi ngủ gì sớm thế? – Nàng khẽ chạm vào vai tôi rồi nói nghe như một lời mời mọc.

    - Mình ơi em vừa tắm xong – Nói xong nàng đột ngột lôi hẳn tôi quay lại. Nàng nói:

    - Hôm nay em sẽ dành cho anh một sự ngạc nhiên!

    Nàng ôm lấy tôi, mùi hương rất lạ thôi thúc tôi. Đó là mùi hoa hồng tôi chưa thấy nàng dùng đến bao giờ. Tôi tỉnh ngủ hẳn. Trong lòng tôi hiện tại là một cô gái mềm mại, dịu dàng và đặc biệt khác mọi lần là một mùi hương vô cùng quyến rũ. Mùi thơm đánh thức mọi giác quan. Nàng biến thành một phụ nữ hoàn toàn mới đối với tôi, và có lẽ đối với cả nàng. Tôi thấy trong cử chỉ của nàng một niềm vui thầm kín. Mấy ngày hờn trách nhau trước đây như tan biến đi cả.

    Cuộc làm lành diễn ra như thế. Luôn luôn nàng tỏ ra là kẻ biết điều, còn tôi bao giờ cũng vẫn là một người cố chấp. Một tuần nay chúng tôi giận hờn nhau. Sự việc khá đơn giản.

    Tôi bảo nàng bỏ nghề. Nàng không chịu. Tôi là giáo sư dạy toán tại một trường đại học danh tiếng. Còn nàng là một diễn viên và là người dạy thú. Nàng chuyên huấn luyện và biểu diễn với cọp. Kể về tiếng tăm nàng lừng lẫy hơn tôi rất nhiều. Thu nhập của nàng cũng gấp bội tôi. Nhưng tôi không chịu nổi cái nghề kỳ dị của nàng. Nàng nói: “Em yêu lũ cọp. Chúng nó yêu em và em yêu nghề. Bỏ nghề này ra em biết làm gì? Thư ký hay bán hàng ư? Tìm một chỗ làm khó lắm. Nhưng còn tìm một thư ký thì dễ, còn tìm một người dạy thú như em thì rất khó. Em yêu cái không khí của gánh xiếc. Em sống quen trong cái khung cảnh này rồi”. Nàng nói gì thì nói, tôi vẫn thấy cái nghề này nó kỳ quái thế nào.

    Kể cũng lạ cho cuộc hôn nhân này. Chúng tôi có nghề nghiệp và tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Trước khi thành hôn, đã có người bảo chúng tôi không làm sao được hạnh phúc bên nhau lâu dài được đâu. Lúc đó cả tôi và nàng bất chấp mọi lời khuyên. Nàng có một ý tưởng ngộ nghĩnh mà khi đó tôi cũng cho rằng vô cùng thú vị. Nàng nói con chúng ta sẽ dũng mãnh như hổ và thông tuệ như anh!

    Tôi xin kể lại buổi đầu gặp nhau. Lúc đó tôi chếnh choáng men say vì mấy cốc rượu của sinh viên trong buổi lễ phát thưởng cuối năm học. Có một sinh viên đưa ý kiến và được các bạn tán thành ngay: hay là chúng ta kéo nhau đi xem xiếc. Lần cuối cùng trong đời tôi đến rạp xiếc là lúc tôi lên chín. Từ đó đến nay tôi không để ý gì về loại hoạt động này.

    Chúng tôi bước vào rạp xiếc vừa đúng lúc một tràng pháo to hào hứng nổi lên. Nhiều người đứng lên tặng hoa cho một cô gái đang rực sáng trong bộ áo xiếc đầy kim tuyến. Một ngọn đèn rất sáng từ trên cao chiếu thẳng vào nụ cười rạng rỡ của nàng. Cạnh nàng là ba con cọp to lớn nằm phủ phục. Thú thật cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng hùng tráng đến thế. Một cô gái nhỏ nhắn khuất phục được ba chúa sơn lâm! Bỗng một sinh viên ấn vào tay tôi bó hoa cẩm chướng màu huyết dụ nó đẩy tôi: lên tặng hoa người đẹp đi thầy. Lúc đó thực tình tôi như một cái máy. Lần đầu tiên trong đời tôi lên sân khấu tặng hoa cho một diễn viên, mà lại là diễn viên dạy thú.

    Có lẽ nàng thấy bộ mặt ngờ nghệch và cặp mắt kính cận thị quá dày của tôi hoàn toàn lạc lõng giữa một khung cảnh ồn ào đầy sự kích động nên nàng tặng cho tôi một nụ cười: “ Chắc đây là lần đầu tiên ông đến xem chúng tôi biểu diễn?” Lại gần, tôi thấy nàng rất đẹp. Một khuôn mặt thanh tú, mái tóc mềm óng ả như tơ. Có một điều mà tôi cho là khác thường là khuôn mặt nàng rất tươi nhưng hoàn toàn không một chút phấn son. Có lẽ nàng còn ánh lên trong ánh hào quang rực rỡ của sự thành công. Phải thú nhận rằng nghề nghiệp của tôi dù thành công đến mấy tôi cũng không bao giờ hy vọng có những giây phút được nhiều người ngưỡng mộ như thế này. Định mệnh đã xui khiến tôi nói với nàng một câu mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thốt ra với một người phụ nữ nào. “Tôi vô cùng hâm mộ tài nghệ của cô. Sau buổi diễn, nếu cô vui lòng, - chúng ta sẽ gặp nhau tại…”. Nàng nói rất khẽ: “Xin hân hạnh”.

    Sau đó chúng tôi còn gặp nhiều lần. Chúng tôi thích nhau vì cảm thấy trong việc này có cái gì là lạ. Theo cách nói của nàng thì đấy là một cuộc kết hợp vô tiền khoáng hậu giữa sức mạnh và trí tuệ. Cuối cùng chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân. Lễ kết hôn của chúng tôi thật đáng nên kể lại. Bạn phía tôi gồm toàn thượng lưu trí thức. Mấy ông bà này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa. Trái lại phía nàng là cả một rừng náo nhiệt. Họ uống rượu, nói cười và phá phách như điên. Tôi bắt đầu yêu mến cái thế giới xiếc từ buổi gặp gỡ này. Anh chàng làm hề tung hứng lấy bốn chiếc đũa biểu diễn ngay trên bàn tiệc. Anh chàng ảo thuật lấy chiếc khăn ăn đậy lên tô xúp rồi hô: biến. Chẳng có cái gì biến ra cả. Chỉ có biến ra một trận cười hào hứng. Mấy chàng hề tha hồ chọc cười. Quý vị giáo sư lần hồi cũng trút bỏ bộ áo đạo mạo tham gia vào cuộc vui. Rượu chảy như suối. Một ông giáo sư cao hứng đứng lên hát tặng cô dâu và chú rể một bài. Bài hát Người đẹp và quái vật. Ông này muốn ám chỉ quái vật là tôi? Tôi thật xấu trai và có thể bảo quê mùa. Một phụ nữ chuyên diễn màn nhào lộn hát thực to: “Đêm động phòng ông giáo coi chừng bị hổ vồ!” Anh chàng biểu diễn trên lưng ngựa cũng gào to: “Cô dâu nhớ mang roi dạy hổ và phòng. Nếu “nó” làm ăn bôi bác thì quất cho mấy roi!”.

    Đêm tân hôn cũng không bị hổ vồ cũng không bị quất roi nào. Nàng cao lớn và hùng dũng trên sàn diễn bao nhiêu, lại nhỏ nhắn và mềm mại trong lòng tôi bấy nhiêu. Tôi cũng không ngờ rằng tính tình nàng lại dịu dàng đến thế. Nàng bảo: “Người dạy thú cần nhất là phải yêu thương và dịu ngọt với chúng”. Có lẽ tôi hiện là một con thú được nàng yêu thương chiều chuộng đây.

    Có một điều mãi mãi còn lại trong tôi sau đêm tân hôn là từ thân thể nàng và rõ nhất là trong mái tóc nàng có một mùi nồng hăng hắc. Sau này tôi mới biết đó là mùi cọp. Một mùi không thể nào quên được.

    Thời kỳ trăng mật và những năm tháng qua đi. Chúng tôi sống với nhau khá hạnh phúc. Chúng tôi có rất ít thời gian gần nhau. Mùa đông nàng lưu diễn. Tôi thường đi đây đó dự hội nghị, hội thảo, có khi ở nước ngoài. Vì thế giây phút gặp nhau trong ngày đối với chúng tôi hết sức quý giá. Còn nghề của nàng không bao giờ hết những chuyện lý thú. Có hôm nàng kể chuyện con gấu Tô Tô không chịu ra diễn. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì. Sau mới biết hôm đó đúng là ngày loài gấu ngủ đông. Chuyện con Đác Lắc, một con cọp cái dài hơn hai mét và nặng hơn một tạ rưỡi mà theo nàng là một con vật duyên dáng nhất là vừa sinh lứa con đầu lòng. Có hôm nàng kể một chuyện cảm động. Một con ngỗng trong khi trình diễn rủi ro bị con ngựa dẫm phải. Trước lúc chết nó dang đôi cánh rộng ôm lấy chủ nó. Chủ nó khóc sướt mướt thề rằng suốt đời không bao giờ huấn luyện một con ngỗng nào nữa. Có hôm nàng trao cho tôi xem một bức thư tỏ tình của một anh chàng nào đó giấu trong bó hoa trao tặng nàng…

    Không biết các bạn đồng diễn có ai chế nhạo nàng về việc chọn một ông giáo làm chồng hay không. Còn tôi thì bị không ít lời chế diễu. Cô thư ký trẻ đẹp và chưa chồng ở trường tôi hỏi rằng có bị vợ bắt nhảy qua vòng lửa hay không? Có cô càng sỗ sàng thách thức hỏi tôi con cọp cái đó mỗi khi lên giường ngủ nó có cào xé và kêu gào hay không. Đôi khi chúng tôi ra phố, thiên hạ nhìn vợ chồng chúng tôi với cặp mắt tò mò. Tôi rất khó chịu. Về sau tôi không đi đâu với nàng nữa.

    Chỉ có một lần tôi thấy nàng tỏ ra khổ sở, lúng túng về cái nghề đặc biệt của mình. Đó là lần chúng tôi đi dự sinh nhật một người bạn. Con chó của nhà chủ tỏ ra thân thiện với mọi người chỉ trừ có nàng. Nó sủa vang và còn muốn cắn xé. Quý bà nhìn nhau như thầm bảo: kìa xé mãnh hổ đang địch quân hổ! Lần đó tôi thấy nàng rất khó chịu và giục tôi về sớm.

    Đến nhà nàng nói: “Chắc anh khổ vì cái mùi cọp của em lắm phải không?” Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến đúng tên cái mùi hăng hắc này. Tôi trả lời để an ủi nhưng chắc không thực với lòng mình. “Không, hoàn toàn không, anh yêu em và yêu luôn cái mùi cọp này”. Nàng cười bảo: “Anh nói dối. Em biết anh không thích. Tháng trước anh viện cớ giường chật đòi ngủ riêng. Mọi người đàn bà được phép thơm tho còn em thì không”. Tôi hỏi tại sao, nàng nói “Con vật, nhất là cọp, nó không nhận biết bằng mắt mà bằng mũi. Một mùi lạ có nghĩa là một kẻ thù!”. Nàng nói với một giọng ân hận và buồn buồn: “Em biết anh rất khó chịu vì em đem cái mùi của ác thú vào tận phòng ngủ…”

    Đêm hôm sau cái đêm nàng làm lành với tôi, nàng gặp nạn. Tôi đến nơi thì nàng đã qua đời. Tôi đau đớn cùng cực ôm lấy nàng. Trong làn tóc nhung mượt và đen thẫm, tôi còn nghe thoang thoảng một mùi hương hoa hồng mà nàng đã tắm hôm qua! Dưới ánh đèn thật sáng và trong bộ áo xiếc thấm đầy máu, khuôn mặt nàng yên tĩnh như đang trong một giấc mơ. Tôi khóc. Cả đời tôi không bao giờ khóc như hôm nay. Tôi thét lên thật to: “Tại sao em biết rõ hơn ai hết mà em vẫn làm thế? Vì sự ích kỷ của tôi đấy ư?”. Tôi muốn gieo mình xuống chín tầng địa ngục để ăn năn.

    Ngày hôm sau ông chủ gánh xiếc cho tôi biết tất cả sự việc diễn ra trong cái đêm hãi hùng ấy: “Con cọp Đác Lắc mấy ngày qua nó bệnh hoạn và trở tính hung dữ. Hình như nó thấy chồng nó bị đem nhốt qua chuồng một con cọp cái khác. Tôi có một linh cảm về một chuyện gì đó nên dặn cô ấy: hay là tối nay bỏ tiết mục xiếc cọp. Nhưng cô ấy cương quyết và rất tự tin nói với tôi: “Không, nhất định không. Người dạy thú không cho phép mình nhút nhát!” Rồi nàng kiêu hãnh tiến ra sàn diễn trong một tràng pháo tay cỗ vũ nồng nhiệt. Ba con thú tỏ ra phục tùng tuyệt đối dưới làn roi điều khiển của nàng. Theo đúng kịch bản. Con Đác Lắc chuẩn bị nhảy qua vòng lửa. Nàng đứng trước mặt nó và quất một roi vào không khí, con thú nhảy lên chiếc ghế cao. Nàng bước tới giơ cao vòng lửa. Bỗng nhiên tôi thấy con thú thu mình lại. Nó nhìn nàng bằng cặp mắt kỳ lạ. Tôi cho tay vào cây súng dưới áo mở nắp bao da. Thật là nhạy bén và bình tĩnh đến rợn người. Cô ấy nhận ra tất cả. Cô ấy biết con thú sắp sửa tấn công mình. Cô ấy cũng đã nhận ra việc tôi định dùng súng giết con thú. Cô thét lên: “Đừng bắn!…” Cũng là lúc con Đác Lắc lao vào người cô như một khối đá. Trễ rồi, cô ấy đỗ xuống sàn diễn. Con ác thú say máu quay lại. Tôi nổ súng. Tôi nhào đến. Chiếc áo trắng lấp lánh kim tuyến loang máu. Cả rạp như đông cứng lại trong sự hãi hùng, tôi chỉ kịp nghe cô ta thì thào rất yếu: “Con Đác Lắc chết rồi sao? Tội nghiệp nó, nó còn bốn con dại. Không phải lỗi tại nó. Lỗi tại tôi…”

    Qua giây phút hãi hùng đó, ban nhạc sực tỉnh, chơi một khúc quân hành rời rạc. Theo truyền thống nghề xiếc, bất cứ lâm vào tình trạng nào vẫn tiếp tục trình diễn. Nhưng không còn ai muốn xem, không còn ai muốn diễn. Cuối cùng ban nhạc cũng ngừng. Rồi thì cả rạp yên lặng như một nhà mồ. Mọi người đều trông tin từ bệnh viện. Một giờ sau nàng qua đời. Tôi lê ra sàn diễn nghẹn ngào báo tin. Khán giả không ai chịu ra về. Bao nhiêu là hoa đặt vào nơi nàng đã ngã xuống. Mấy anh hề hai mắt đỏ hoe thất thểu ra sân…
     
  16. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    BÓNG NGƯỜI TRÊN SƯƠNG MÙ - NHẤT LINH

    Viết theo chuyện một người bạn kể lại.

    Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.

    Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không bằng lòng, nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:

    – Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này?

    – Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài, nhưng đối với tôi...

    Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:

    – Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay...

    Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:

    – Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?

    – Vâng, nhưng sự tích buồn... chuyện đã ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Saigon thì tôi còn là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.

    – Cũng như tình cảnh tôi...

    – Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong tình cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.

    Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào kêu với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:

    – Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!

    Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.

    Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng:

    – Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.

    Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.

    Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người “ét” của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:

    – Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?

    Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.

    Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa.

    Bỗng tôi thấy... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người “ét” lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:

    – Bác có thấy gì không?

    Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác “ét” thò đầu ra và bảo tôi:

    – Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.

    – Không rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.

    Người “ét” cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Được một lát, hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.

    Tôi gọi người “ét” nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật, mà ai cũng phải thấy. Tôi đến cầm lấy tay bác “ét” kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:

    – Nhìn xem!

    Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói:

    – Lạ thật!... ma ông ạ!

    Xe tiến đến đâu, cái hình người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rõ, lơ lửng giữa lưng trời. Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.

    Tôi bảo bác “ét”:

    – Bác này, có sự gì lạ sắp xảy ra.

    – Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.

    Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫn thật nhanh như người tỏ ý thất vọng, vì bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.

    – Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!

    – Không được, tự nhiên vô cớ.

    Còn tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:

    – Đỗ lại! Đỗ lại!

    Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái “phanh” như định hãm rồi lại không hãm. Một lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:

    – Hãm lại! Hãm ngay lại!

    Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người “xếp tanh” cầm đèn lên hỏi:

    – Việc gì thế?

    Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ:

    – Chắc có sự gì lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đã.

    Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..

    Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi.

    Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả.

    Người “xếp tanh” mừng cuống quít, hỏi tôi:

    – Sao ông biết mà hãm?

    – Tôi cũng không hiểu.

    Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra, quan Toàn Quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.

    Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái gì bám ở cái đèn để đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đen, đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.

    Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.

    Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...

    Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.

    Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giầu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.

    Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn thờ nói:

    – Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn!

    [Rút từ tập truyện ngắn ANH PHẢI SỐNG, Nxb Đời nay, Hà Nội, 1934.]
     
  17. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nằm vạ - Bùi Hiển

    Chị Ðỏ chợt rùng mình nhẹ, vì thấy buồn buồn ở bụng chân. Và, trong cử động nửa ý thức của giấc ngủ bị quấy phá, chị rụt chân lại. Cái buồn buồn chị cảm thấy rõ rệt nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến đi.

    Chị cựa mình. Thân thể đau dần khắp cả. Cùi tay mỏi mệt rơi đánh phịch. Mắt vẫn nhắm, chị cố nghĩ, cố nhớ xem mình đang ở đâu. Và chị chợt hiểu ra mình vẫn đang nằm trên giường đất, trong gian buồng hẹp mà mùi ẩm mốc tanh nhạt đọng thành lớp nhạt xông lên mũi.

    Từ ngoài đưa vào, tiếng xôn xao đã hơi rời rạc đượm buồn của làng mạc về chiều. Sự hoạt động của cuộc sống ngoài kia khiến chị tức bực, và chị muốn chửi lên một câu để nguyền rủa bất kỳ ai. Ðã hai ngày đêm, chị nằm dài trên đất ẩm của căn buồng hẹp tối. Chị đã tự đày đoạ như vậy, vì một câu chuyện không đâu.

    Sáng hôm kia anh Ðỏ mắng chị về tội đi ngủ không đóng cửa chuồng gà. Chị lầm bầm cãi lại:

    - Quên một bữa cũng chẳng sao! Chao ôi! Chăm sóc đến gà gớm. Ðể hắn đẻ trứng nào là nuốt lống đi trứng ấy mà!

    Anh Ðỏ giận tím mặt dưới làn da đen, lẳng lặng đi ra. Nhưng chị Ðỏ với cái nư dai dẳng của đàn bà, vừa quét sân vừa kiếm câu châm chọc. Chị bảo con em chồng:

    - Xin ơi! Rầy tao giao cho mi việc đóng cửa chuồng gà đó! Ðược trừng nào thì đem anh mi ăn rồi anh mi cho cái vỏ.

    Anh Ðỏ chẳng nói chẳng rằng, vứt mảng lứi anh đang vá, xông tới túm lấy vợ trong hai bàn tay sắt, lôi xềnh xệch vào buồng; đoạn anh ném vợ xuống đất, như một đống giẻ. Chị Ðỏ đổ nhoài ra, nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Anh đạp vào mông vợ mấy cái, đoan bỏ ra.

    Con Xin phải nấu cơm sáng thay chị. Dọn mâm rồi, nó vào buồng gọi, nhưng chị Ðỏ nằm lì. Anh Ðỏ vào lôi chị ra, chị bíu chặt lấy chân giường, miệng ngoặp vào chân chồng. Anh đau quá kêu lên: "ái! Ðồ chó cắn! Ðược, nếu muốn nằm vạ tao cho nằm".

    Bà mẹ chồng đang ở chợ bán mẻ cá mà con trai đánh được hồi đêm, nghe con Xin mách, vội chạy về. Với tất cả hùng hổ của những mẹ chông, mụ xăm xăm vào buồng, chống nạch, bàn tay ngoặt ra sau, và hếch mặt nạt:

    - Này con kia, muốn tốt thì ngồi dậy mà lo ăn làm. Chẳng ai hơi đâu nuôi đứa nằm ăn vạ.

    Chị Ðỏ nằm im. Mụ cúi định lôi dậy, lại bị ngoặp vào tay; mụ vừa chạy ra, vừa kêu như sắp bị chết chém: "Ua làng nước ôi! á làng nước ôi! Hắn cắn đứt tay tôi rồi!".

    Thế là câu chuyện thành to và không thể vãn hồi. Chiều đó vài bà con

    trong họ đến hỏi thăm; có đôi đứa bé tò mò ghé mắt nhìn vào buồng. Anh Ðỏ gắt đuổi ra, đem buộc ở cửa buồng một mảng buồm rách làm rèm che.

    Trong bóng tối, chị Ðỏ thấy dễ chịu hơn, và thầm cảm ơn chồng, chị đã có ý muốn thôi nằm vạ.

    Nhưng đến đêm, anh Ðỏ vào buồng ngủ, anh chỉ nói một câu cụt lủn:

    - Muốn tốt lành thì dậy!

    Tự mình ngồi dậy thì sượng mặt, chị Ðỏ nằm chờ. Nhưng anh gắt:

    - Muốn đạp thêm cho mấy cái nữa lắm.

    Rồi trèo lên giương ngủ. Chị Ðỏ nằm một đêm dưới đất lạnh buốt xương

    không sao nhắm mặt được. Sáng hôm sau, chồng ra rồi, chị lồm cồm tới

    giường, lấy hai mảnh chiếu, một rải ra đất, một đắp lên mình, đánh một giấc dài khoan khoái. Ðó là lần đầu chị được ngủ ngày một cách say sưa, không bị quấy rối; lần đầu chị nếm cái thú nhàn hạ của các bà tỉnh thành. Nhưng đến đêm, anh Ðỏ tàn nhẫn đẩy chị lăn ra, giật lấy chiếu và chị lại nằm một đêm trên đất cứng lạnh.

    ***

    Tiếng xôn xao ngoài kia nhỏ dần, nhỏ dần... Thực ra, ngày chưa tắt; nhưng thính quan chị đã yếu đi trong sự mệt nhọc toàn thân, một sự mệt nhọc rời rã, khiến cho xương mềm, thịt nhão và ngón tay co quắp, sự mệt nhọc gây bởi cơn đói. Chị nhịn ăn đã hai ngày! Ðó không phải cái đói giầy vò, quằn quại, náo động của những miệng ăn hùm hổ. Vốn tính ăn ít, làm nhiều, chị chỉ thấy một cái đói nhẫn nại nó thỉnh thoảng cào xót trong dạ dày. Hình như mồ hôi toát trên trán lạnh, nhưng chị không còn đủ sức đưa tay lên sờ. Chị cựa mình quay nghiêng vì nãy giờ nằm ngửa, da bụng căng ép lên dạ dày trống rỗng, như một hòn đá nặng.

    Chị nằm co như con chuột chết, bụng thóp lại. Mắt mở trân trân dán vào một vuông sáng mà có lẽ chị cũng không nhận ra là lỗ thông để đùn rác rưởi quét ở buồng ra.

    Chợt mảnh buồm che cửa lay động. Chị không nghe động nhưng thấy một vệt ánh sáng lấp loáng và mảnh vải nâng để lộ da trời. Rồi một cái đầu ló trong mảnh sáng tam giác ấy, cái đầu tóc bơ phờ khăn quấn cẩu thả của mẹ chồng chị. Chị Ðỏ liếc nhìn lên, nhưng không thấy rõ mặt mụ, sấp bóng tối. Tuy vậy, chị tưởng tượng mụ ta đương dạo đôi mặt lấc láo lo ngại trong vòng sâu hoắm và chị nghĩ thầm: "mình mà chết thì cũng rầy với mình! Quán khám, lệ hạch, rồi họ cũng đến lo mà chết luôn thôi! ừ, mình cứ nằm đây, không vào bồng dậy mà chờ". Cái đầu biến đi và khung cảnh sụp tối.

    Cái cảm giác buồn buồn lại ám tới chị, lần này ở đầu ngón chân cái; chị cũng không buồn rụt chân. Nó chạy lần lên, dừng ở mắt cá, tiến tới đầu gối, chui một chút xíu dưới váy chị, rồi chạy trở ra. Ðến bụng chân, nó biến đi. Bỗng một bóng đen nhỏ chạy qua chỗ hổng; chị nhận ra một con chuột nhắt.

    Một lát sau, con chuột lại hiện ra trong khung trắng. Nó quay đầu bên này, bên kia, chạy từng chập ngắn trên chân nhỏ thoăn thoắt, dừng lại, chạy ít bước vội vàng, dừng lượt nữa, rồi chạy trở lại như để dử ai. Nó đứng yên, quay nhìn vào buồng, mắt tròn ngời ánh đỏ hoe như hạt ngọc. Con vật xinh nhỏ có một dáng điệu nửa nghi ngờ, nửa tinh nghịch. Sau cùng, nó chạy vào buồng, xáp tới bàn tay chị Ðỏ lê trên đất. Nó vểnh tai nhìn rất lâu những ngón tay rung rung, đoạn khôn ngoan chạy về phía vách, lẩn trong bóng tối. Tiếng bát đĩa lách cách dưới bếp làm nao lên trong lòng chị một niềm giận dữ. Hừ! Họ vẫn ăn đủ bữa và no bụng. Ðã không muốn lo, để rồi chị cho mẻ lọ. Khi quan về khám án mạng thì những kẻ kia hãy liệu bán thuyền bán lưới đi thôi!

    Con chuột nhắt núp trong bóng tối lâu lắm, rồi lại chạy ra. Lòng vẫn sôi tức bực, chị Ðỏ choài tay định bắt. Nó kêu một tiếng nhọn hoắt, vút ra chỗ sáng rồi thoắt biến, để lại trên đất một vật trắng nhỏ bằng hạt đỗ. Chị Ðỏ cầm lấy, nhận ra một mẩu khoai xát khô, bèn bỏ tọt vào miệng. Nước miếng nhoèn nhoẹt đẩy trên lưỡi, tẩm vị ngọt của khoai.

    Một ý nghĩ lờ ra trong trí yếu chị Ðỏ. Thu góp sức tàn, chị lê xoay mình về phía vách, giơ tay quờ trong bóng tối. Một cái choé (1) bị vật ra đất, với một tiếng nặng nề khô khan. tay chị đưa dần lên miệng choé, nắm lấy cái nút lớn làm bằng một núi rơm bọc lá chuối, có sức rút. Nút bật tung, và những lát khoai rào rạt tuôn ra trắng đất. Chị Ðỏ vội vàng bốc lấy một nắm trong tay run run, vụng về đưa vào miệng. Khoai rơi lả tả xuống. Chị Ðỏ nằm ngửa ra, nhai. Chị nhai ngồm ngoàm, hộc tốc, trợn mặt nuốt. Chị cảm thấy rõ sự cọ xát trên da thực quản của những mẩu khoai chưa nghiền kỹ. Khi bụng đã thôi bị sức căng ép, chị quay nằm ngửa, nhai chậm hơn. mặt nhìn một lỗ hổng trắng trên mái tranh, tay đưa dần từng miếng khoai lên miệng, chị nhai một cách từ tốn quý phái, để nước miếng tiết ra nhiều ngào miếng ăn thành làn bột mềm, ngọt và thơm mát.

    Nhưng một lát sau, một sự khó chịu bỗng chiếm lấy chị. Chị Ðỏ thấy tức ách trong bụng quá đấy, tưởng có một hòn đá nặng trong đó, khiến chị không trăn trở mình được. Trên đầu máu tụ, và chị Ðỏ nằm thiếp đi trong cơn bội thực, bàn tay mở vẫn đặt trên những lát khoai còn lại ở mặt đất.

    ***

    (1) Chum con

    Chỉ Ðỏ ren rén ngồi dậy, lê đến cạnh vách, ghé mặt vào một lỗ hổng nhỏ nhìn ra sân. Chị thở phào một tiếng. Ông lý sắp đến thực. Mẹ chồng chị đường têm trầu, anh Ðỏ xanh xít nhắc chiếc phản ra sân để "lang" ngồi. Con Xin ngồi xổm trong một góc, lo đánh bộ chén cọc cạch thẹn thùng nằm trong cái đĩa tàu cổ rất đẹp mà anh Ðỏ đã lấy được trên một chiếc tàu ô trôi lênh đênh vô chủ ngoài bể cả sau một trận cuồng phong nào.

    Chị trở lại chỗ cũ, nằm duỗi cẳng, khoan khoái đợi. Cái trò đùa thực đã kéo dài quá thể. Chị nằm vạ bảy ngày trời rồi! Hôm nhờ con chuột nhắt, chị khám phá ra cái kho lương thực bất ngờ ấy, ý nghĩ thứ nhất đến với chị là một ý nghĩ phục thù: chị sẽ nằm dài ra đó, ít ra cho đến lúc trơ lại cái choé không . Cho đáng kiếp!

    Nhưng chị chẳng phải dùng nhiều bữa khoai sống mới nhận thấy rằng thức ăn kia cào xót ruột và ứ hơi trong bụng đầy trình trịch. Một đôi khi nước ợ lên đến cổ, vị chua gắt, suýt trào ra ngoài miệng lúc chị nằm nghiêng chị nhắm mắt nuốt đánh ực, và vị chua khiến chị rùng mình.

    Cơ sự đã thành nghiêm trọng, chỉ còn chờ "làng" đến mới phân xử được. Mỗi khi thấy cái đầu mẹ chồng ghé vào, chị thở lên những hồi ghê rợn như

    người sắp chết, để mẹ lo lắng thêm. Vậy mà những ngày dài chờ đợi vẫn

    trôi đi, ông lý vẫn biệt tăm dạng. Ðã có lúc chị nghĩ: "Hay là họ cứ để mình nằm thế này cho đến chết đói?", và giận dữ sôi lên trong lòng, chị lại nghĩ đến truyện cắn lưỡi.

    Thực ra, mẹ chồng chị không vô lo như chị tưởng. Trong bốn tối luôn mụ ra chầu chực nhà ông lý. Nhưng ông lý và ông phó mắc việc quan trên phủ. Tối hôm thứ năm, mụ cuống cuồng lên, đến tận đến đó đợi. Mụ vừa chạy vừa theo ông lý về, vừa kể lể sự tình. Ông lý hẹn:

    - Mai đến.

    Mụ mừng cuống cuồng, đem đĩa trầu khô vẫn bưng cò kè vào trút lên cơi bà lý, rồi chạy về báo tin cho con.

    ***

    Ông lý bước vào, xúng xính trong áo lương rộng và lẹp kẹp đôi giày da. Khuôn mặt phì nộn tươi nở như một cái hoa, mà nhuỵ là cái mũi đỏ choé, to lạ lùng và đâm lỗ chỗ như da trái bưởi. Ông đặt đít ngồi; Theo thói quen, ông đập hai bàn chân vào nhau phủi đất, rồi mới đưa lên xếp bằng trên phản.

    - Con mẹ Ðỏ đâu rồi?

    Một người em họ anh Ðỏ đã đứng trực sẵn, vào buồng nhắc chị ra chân chị lê xềnh xệch trên đất. Chị giả cách cố gượng mới ngồi lên được ngưỡng cửa. Tóc chị rối bù, khăn xổ xuống che một mắt chị đã tự soạn một bộ mặt chết đói bảy ngày.

    Hàng xóm đến xem, đứng vây thành hình bán nguyệt. Những đứa con nít

    nghiêng đầu hấp háy nhìn bằng đôi mắt nhèm, hai tay chắp lại trên cu lồng ngồng. Vài cô gái kháo nhau:

    - Ả �Ỏ NHỊN TÀI GỚM, BAY Ạ. BẢY tám ngày, mà chẳng gầy đi tí nào.

    Chị Ðỏ sẽ dệch mép cười lặng lẽ.

    Ông lý nhấp trà rồi cất tiếng:

    - Sao đó, đã ưng dậy chưa? Chà, vợ chồng người ta ở với nhau, năm năm, mười năm, cãi lộn nhau cho hắn đáng; đằng này, đôi vợ chồng son, anh như mâm ngọc, em còn như đôi đũa vàng, ha ha ha... chưa chi đã giận hờn, rồi lăn ình ra nằm vạ.

    Sự khoái hoạt ầm ỹ của ông lý khiến mọi người cười theo và, đâm nhờn, một cô gái trong bọn đứng xem liền đùa một câu:

    - Ông lý hát phường giỏi lắm đó.

    Ông lý liếc nhìn cô một thoáng mau, rồi lập nghiêm ông hỏi:

    - Sao? Bây giờ muốn hoà thuận với nhau lại không? Hay là muốn ly dị, thì ta cho đồng tiền chiếc đũa về cùng bố mẹ?

    Mẹ anh Ðỏ đứng chắp tay thưa:

    - Thưa ông, chứ con ấy tệ lắm. Mắng hắn một tiếng hắn cãi lại hai tiếng, rồi hắn lăng loàn, hắn gieo mình nằm vạ, hắn cắn đứt tay tôi. Xin làng cứ phép xử thì đội ơn lắm.

    - Thế mụ muốn hai bên ly dị à?

    - Bẩm không! Bẩm không! Là tôi trình để làng biết cho như thế thôi.

    Mụ vội nói thế. Mụ dại gì mà cho dâu về, đứa con dâu mụ vẫn tự hào mát tay mới chọn được. Chị Ðỏ tuy xấu tính thực, nhưng hay làm, đảm đang tất cả mọi việc trong nhà. Vả cưới chị có phải tốn ít đâu tiền anh Ðỏ dành dụm trong hai năm đi chài, từ khi còn là một chú trai nấu cơm xách nước cho đến khi là anh bạn lành nghề đều dốc vào đó hết.

    Ông lý gắt:

    - Muốn đường nào thì nói rõ ra một đường!

    Anh Ðỏ vẫn đứng chắp tay trong góc nhà, nói ra:

    - Thưa ông, ông xử cho tôi phận nào,tôi được nhờ phận nấy.

    - �n nói hàm hồ thế thì ai biết đường nào mà xử! Mẹ Ðỏ! Muốn ở hay muốn về?

    - Dạ trăm sự nhờ ông cả, ông cho sao thì được vậy... Trăm sự cũng là nhờ ông.

    Chị Ðỏ đáp vậy, giọng kéo dài như mệt mỏi. Ông lý đét vào đùi, bộ thất vọng.

    - Thế thì cha ai xử đươc. Anh nói "nhờ ông", ả nói "nhờ ông", sao mà hai anh ả khéo bảo nhau thế. Ðã đồng ý với nhau thế thì, thôi! Cho đoàn tụ! Mọi người vẫn yên lặng. Thấy lời tuyên án không hiệu quả và câu khôi hài kín đáo không ai thưởng thức, ông lý ngồi lặng thinh uông nước.

    Anh Ðỏ bước ra rót nước. Bấy giờ chị Ðỏ mới nhận thấy chồng mình mặc áo dài. Cái áo lương tưởng như sắp bật tung trên thân hình vạm vỡ của anh dân chài. ống áo chịt vào cổ tay đen, và tà ngắn đập cũn cỡn trên đầu gối. Chị Ðỏ vờ cúi mặt, liếc nhìn qua mớ tóc rối trên trán, và mỉm cười ngắm những cử chỉ ngây ngô của chồng. Chị nhớ lại hôm cưới, anh Ðỏ ngượng nghịu trong cái áo lương độ ấy còn mới nguyên, và cái quần cứng đét hồ, thì thụp lạy trước bàn thờ. Chị bất giác cười lên tiếng. Anh Ðỏ quay nhìn, càng ngượng nghịu thêm, thủ hai bàn tay dưới áo, rồi chắp lại, rồi gãi đầu, rồi mâm mê khuy áo. Sau cùng anh mỉnh cười cho đỡ thẹn. Ông lý kêu lên:

    - ờ, anh ả cười với nhau rồi đó kìa! Cần gì ai phân xử nữa!

    ***

    Con Hoét mách:

    - Mẹ ơi, ả Ðỏ vào buồng.

    Mụ Bình chạy vào, thấy chị Ðỏ đứng chải đầu. Mụ hỏi:

    - Mi lấy gì đó?

    - Lấy gì đâu?

    Khi mụ Bình ra rồi, con Hoét, còn nhỏ mà đã ranh mãnh, đứng rình. Từ ngày chị nó về nhà chồng, nó vẫn quen coi chị như người xa lạ, theo gương mẹ nó. Con gái là con nhà người... Mỗi khi thấy chị về chơi nhà lấy vật gì, nó kêu lên như bị mất cướp.

    Chị Ðỏ chải đầu xong, thản nhiên đi ra. Con Hoét yên tâm, không ngờ chị nó đang mang một bọc khoai ngô trong tà áo nâu dài buộc túm, bọc khoai đã ăn trộm được trong chum mẹ chị.

    Về đến nhà chồng, chị len lén nhìn, rồi thẳng tuột vào buồng. Chị mở nút ta áo ra, tuồn khoai vào choé, vừa vặn đầy như trước.

    Một hôm trời hửng nắng hanh vàng, mẹ chồng chị đem khoai ra sân phơi. Chị Ðỏ ngồi đan lưới trong nhà, hồi hộp nhìn ra. Mụ đưa bàn tay nổi gân rải xoà đống khoai. Chợt mụ lặng yên như đang suy tính gì lung lắm. Mụ cầm một lát khoai, nhìn mãi trong một ngạc nhiên câm lặng. Mụ di di móng dài ngón tay cái lên trên, cố cạo lớp vỏ xám. Sau cùng, mụ ngoảnh vào, nói với con dâu điều phát kiến mới mẻ của mụ:

    - Mẹ Ðỏ này, cái choé khoai nhà mình nút không chặt để gió vào, thành thử cả lớp khoai trên hắn xạm đen mặt lại

    1940
     
  18. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Bức thư gửi mẹ Âu Cơ - Y Ban

    Mẹ kính yêu của con!
    Ngày hôm nay con được chứng kiến nỗi đau những người mẹ. Nỗi đau của con lại bùng lên và biết bao nhiêu bà mẹ cũng có nỗi đau như con.
    Bà mẹ thứ nhất: cô gái nhỏ 16 tuổi, cô vừa bước chân vào tuổi dậy thì đã vội làm mẹ. Cô là một bệnh nhân, bệnh nhân cô-vắc. Cô không hề hay cô đang mang một mầm sống trong cơ thể. Ngay ngày hôm trước khi bị mang ra xét xử, cô còn ngồi đánh chuyền với các bạn, ngồi ở tư thế gò bó, thỉnh thoảng vươn dậy cho đỡ mỏi, và bây giờ cô đang nằm đó, hồi sức lại sau cơn đau. Sau khi qua khỏi cơn kinh hoàng, cô bỗng hiểu vừa xảy ra chuyện gì. Cô đưa mắt tìm kiếm. Nó đó - hài nhi còn đang há mồm đớp khí. Nó chưa biết khóc, hai mắt mở thao láo, cái miệng như hai cái mỏ chim non mà mới hôm qua thôi cô còn chụm môi để mớm cho chút nước bọt. Còn nó thì nằm đó. Điều phán xử là nó phải chết! Bỗng nhiên cô quặn đau. Đau thắt vùng tim. Đau như ai bóp chặt. Đau nhợt nhạt. Đau ràn rụa nước mắt. Qua cơn đau cô bỗng trở thành một người đàn bà từng trải. Ai đã xét xử điều đó? Mẹ cô? Bỗng cô thương hại con người ruột thịt của mình đến cháy lòng. Bà đang đứng kia âm thầm đau đớn. Và nó - nó đang đau đáu muốn sống.
    Bà mẹ thứ hai: mẹ cô gái nhỏ kia, bà đau nỗi đau nhục nhã với thiên hạ. Bà mong muốn, thoát khỏi tội lỗi cho nhanh. Cái giống sao mà nó sống dai dẳng đến thế. Không tã lót gì cả để cho nó chết đi! Bà đặt nó vào một tấm xăng rồi bê ra một gốc cây. Bà ngồi dưới một gốc cây khác rồi chờ. Nó dai dẳng, chân tay ngọ nguậy, mồm ngáp đòi ăn, đòi thở. Màn đêm buông xuống lạnh lẽo bao quanh. Bà cứ chờ. Nó cứ sống dai dẳng, bà khóc than thân phận và nguyền rủa đứa con tội lỗi của bà. Bà đau cái đau riêng của mình...
    Mẹ kính yêu của con! Ngày ấy con cũng thế. Con như cô gái nhỏ tội nghiệp kia. Con đau nỗi đau của con. Mẹ đau nỗi đau của mẹ - hai người mẹ - Từ bấy đến nay, năm tháng trôi qua, con vẫn âm thầm đau nỗi đau của con. Nỗi đau nó trôi đi theo năm tháng nhưng nó lại bừng dậy bởi hàng ngày chứng kiến lại âm thầm đau. Những người mẹ là những người sinh ra nhân loại, sinh ra những đứa con. Là những người có trước hãy hiểu nỗi lòng của những đứa con gái, để nỗi đau hòa chung, đồng cảm và biến mất đi.
    *
    * *
    Ngày ấy...
    - Bệnh nhân cô-vắc sang phòng làm thuốc, - Tiếng cô bác sĩ gọi chỉ cho người còn thức nghe thấy.
    Cả phòng phụ khoa nhổm dậy hoảng hốt nhìn quanh. Tiếng cô-vắc là tiếng giết người. Từ giường cuối của căn phòng, con nhổm dậy chuẩn bị đi. Mọi con mắt đổ dồn về phía con, kinh ngạc, khinh bỉ:
    - ái à, thế mà mình lại cứ tưởng...
    - Vậy mà sáng nay mình còn bắt chuyện với nó kia đấy.
    - Trông người chả ai biết được nhỉ, rõ hiền lành tử tế mà khốn nạn, đĩ bợm.
    Con lao đi ra phía cửa. Những tiếng nói nghiệt ngã đuổi theo. Con câm lặng chịu đựng. Con biết nói gì nữa!
    Con bước vào phòng làm thuốc. Trong phòng lố nhố vài ba bóng áo choàng. Cô bác sĩ ra lệnh:
    - Cởi váy, nằm lên bàn!
    Con kinh hãi nắm chặt cạp váy vốn đã không có cúc. Con quay sang nhìn người nọ, người kia cầu cứu. Chẳng có ánh mắt nào thương hại con. Con tuyệt vọng biết không thể nào cứu vãn được tình thế. Con buông tay, chiếc váy sản phụ tụt xuống chân con.
    Không đợi nhắc đến lần thứ hai, con nằm ngay lên trên bàn.
    - Tắt kinh từ bao giờ?
    - Từ tháng sáu.
    - Thở bình thường, mềm bụng ra.
    Tiếng một người phụ việc hỏi xen vào:
    - Cô hãy khai cho thật nhé. Cô phải nói thật, không được giấu giếm gì, như người bệnh ấy. Cô phải kể rõ ngọn nguồn căn bệnh, có thế chúng tôi mới chữa cho cô hiểu không nào?
    - Dạ, hiểu.
    - Được rồi, cô thụ thai trong trường hợp nào? ở đâu? Trong công viên? Trên nền cỏ hay cạnh bờ ao? Hay trên giường nhà anh ta?
    Con mở mắt ngơ ngác. Con chú ý đến cơn đau tức ở bụng dưới hơn những câu hỏi của người y tá. Khi cơn đau qua đi, con mới chú ý.
    - Cô hãy khai thật đi nào! Anh ta là người yêu cô chứ?
    - Vâng, anh ấy là người yêu của cháu ạ.
    - Yêu nhau được mấy ngày?
    - Chúng cháu yêu nhau được hai năm ạ...
    - Anh ta có vợ rồi phải không?
    - Chưa ạ, cháu và anh ấy sẽ cưới nhau.
    - Thế ở đâu, cô và anh ấy... Cô nói đi, phải khai cho đúng vào.
    - ...
    Tiếng cô bác sĩ bảo y tá:
    - Chị đi lấy cho tôi chai huyết thanh:
    - Vâng.
    Người y tá định đi nhưng bỗng dừng lại nói với con:
    - Nào, cô khai thật đi. Mấy lần? Cô và anh ta ngủ với nhau mấy lần? Cô nghe rõ này, một lần thì chúng tôi có huyết thanh một lần, hai lần có huyết thanh hai lần... Sáu, bảy tám có huyết thanh sáu, bảy, tám lần. Nào khai đi. Cô không thành thật nó không ra đâu. Thuốc của chúng tôi công hiệu lắm... Cô nói nhanh lên cho tôi còn đi lấy thuốc.
    Con trân trối nhìn cô ta, vẻ mặt cô ta cố tỏ ra nghiêm trang, nhưng đôi mắt phản bội cô ta, nó cười cợt:
    - Nào, cô có khai không? Nói đi tôi còn đi lấy thuốc.
    Con chợt hiểu. à thì ra sự thể là thế này đây.
    Thời học sinh ngồi tán chuyện trên trời dưới biển con đã được nghe những chuyện như thế này. Bây giờ thì nó đang vận vào con đây. Uất ức trào lên nghẹn cổ, con bật dậy hét lên:
    - Bằng số lần để cô có được đứa con ấy!
    Sau khi hét lên như thế con đã nhảy phắt ra khỏi bàn. Trong con chỉ còn tồn tại một con thú bị săn đuổi đến đường cùng. Con chạy ra phía cửa, không nghĩ đến việc phải mặc váy nữa. Một vệt máu chảy theo chân con. Cô bác sĩ vội vàng chạy theo giữ con lại:
    - Dừng lại! Muốn chết hay sao?
    - Vâng, tôi đang muốn chết đây.
    - Cô hãy bình tĩnh lại, chết lúc nào cũng được. Nhưng không phải lúc này. Chị y tá đi lấy huyết thanh cho tôi. Chị hộ lý, chưa cần đến chị đâu.
    Cô y tá tiu nghỉu đi ra, mắt cô ta còn cố lườm con một cái dài.
    - Đồ gái...
    - Chị đi nhanh lên cho - Tiếng cô bác sĩ gắt.
    Mọi người ra hết rồi, cô bác sĩ bảo con:
    - Chúng tôi xin lỗi cô. Lâu nay ở đây những trò đùa như thế vẫn hay xảy ra. Quả thật đó là một trò dớ dẩn, vô ý hết sức. Cô hãy bình tâm... Mà cô còn phải chịu đựng nữa kia.
    Cách cư xử của cô bác sĩ làm con dịu lại. Nhưng con vẫn nhìn cô bác sĩ với ánh mắt của con thú dữ bị xích. Cô bác sĩ để con ngoan ngoãn nằm lên bàn. Người y tá mang huyết thanh vào rồi hấm hứ đi ra ngoài.
    Một cơn đau tức dữ dội lại nhói lên ở bụng dưới, rồi như người nhịn giải lâu ngày, bụng căng lên anh ách. Một cảm giác choáng váng và buồn nôn.
    Con nhợt nhạt bước vào phòng vô sinh. Thật trớ trêu thay, người khi làm cô-vắc bị xếp cùng phòng với người vô sinh. Buổi sáng hôm trước vào viện, phòng cô-vắc đã đóng, hết chỗ. Mẹ đã phải nhờ người quen, con mới được vào viện ngay, không phải chờ đợi. Y tá hành chính xếp tạm con vào phòng vô sinh. Phòng vô sinh cũng khá đông người. Họ khỏe mạnh và mau mồm miệng, thoạt đầu khi con bước vào phòng mọi người tiếp đón con niềm nở. Người ta kể chuyện về mình, người lấy chồng mười năm mà chưa có con. Người lấy chồng mười lăm năm... người nhiều tuổi, người ít tuổi, đều mong muốn một mụn con và cũng có người như con, bây giờ không thể sinh nở được nữa. Lúc con sang phòng làm thuốc, mẹ đã kịp bịa ra một nguyên cớ nhằm giảm nhẹ tội cho con:
    - Cháu nó lấy chồng từ đầu năm, nhưng cháu bị bệnh tim, ốm yếu quá thành ra sợ thai phát triển không đầy đủ, đành phải phá đi.
    Nhưng thể chất của con không thể là bệnh tim, ngay cả lúc bấy giờ con nhợt nhạt vô hồn bước từ phòng làm thuốc về. Sự nói dối của mẹ càng làm cho người ta dè bỉu thêm.
    - Ôi dào, bệnh tim, bệnh dài tim ấy thì có.
    - Trời ơi, sao trời không có mắt? Người chính chuyên hẳn hoi thì trời không ban cho lấy một mụn, kẻ lả lơi thì lại mau mắn.
    Người ta nói, người ta nguýt. Con câm lặng. Nước mắt con đã cạn khô. Giá như nó chảy ra được, thì sẽ vợi đi nhiều. Tủi hổ, bẽ bàng đến cùng cực, con trở ra, con mắt ráo hoảnh nhìn mọi người. Con có cảm giác họ đang dồn con vào chân tường. Bây giờ con mới hiểu mẹ là người đau nhất. Mẹ âm thầm khóc. Mọi người đổ dồn vào con mà không chú ý đến mẹ, chỉ có một bà mẹ đi thăm con mình vô sinh đã nhìn thấy. Bà ấy bảo mọi người:
    - Nếu các bà bảo ông trời không có mắt là sai. Ông trời có mắt. Ông ấy phạt bọn chúng ta đấy, phạt cả cô ta lẫn các người. Thôi, các bà đừng nói nữa mà nẫu cả lòng...
    Quả sau đó người ta không nói nữa thật. Nói người rồi ngẫm đến ta. Họ đang nghĩ về cuộc đời họ. Đau đớn và buồn rầu, con cảm thấy được hả hê. Con có cảm giác đau đầu và buồn nôn. Con nói với mẹ:
    - Con buồn nôn quá, mẹ lấy cho con cái bô.
    Mẹ sực tỉnh đi lấy cái bô cho con. Nhưng đó chỉ là cảm giác. Con chỉ ậm oẹ không nôn ra được, mẹ cằn nhằn:
    - Sướng chưa? Ai đã dạy mày như thế cơ chứ?
    Mẹ của con! Khi con biết cảm nhận và nhớ những gì xung quanh mình thì nơi con sống là một vùng quê êm ả, trù phú. Đồ đạc chuyển đến từ bao giờ con không nhớ. Con chỉ nhớ rằng khi mẹ cõng con đến nơi thì đông vui lắm rồi. Bao nhiêu người ở trong nhà mình. Lúc ấy trời đang tối dần. Còn vòi vĩnh "Mẹ ơi, con đói lắm". Mẹ bảo: "Chờ tí nữa mẹ thổi cơm cho ăn". Con đã không phải chờ. Một bác trong đám đông vui ở nhà ta ấy cõng con về ngay nhà bác. Bác đặt con xuống giường và lấy cơm cho ăn. Con ăn ngon lành. Bác nhìn con ấu yếm:
    - Con nhà, ăn ngon lành quá!
    Khi con làm quen với nơi ở mới xong thì bao nhiêu điều thú vị xung quanh con. Làng xóm vào vụ gặt, con theo các bạn ra sân đình. Vui ơi là vui. Có đêm trăng sáng, còn đêm không trăng thì thắp đèn to. Sân đình ngổn ngang những đống thóc to. Từng tốp người đứng xung quanh chiếc cối đá úp sấp. Họ giơ lên đập những bó lúa. Thóc bắn ra như hằng hà sa số sao trên trời...
    Mẹ ơi, cám ơn cha mẹ biết chừng nào khi tuổi ấu thơ của con được sống ở nông thôn. Để những câu chuyện cổ tích cha kể cho con nghe, con đã gặp những hình ảnh ở xung quanh mình. Để bài học o, a đầu tiên sao hấp dẫn đến như vậy!
    Con đi học sớm, năm tuổi cha mẹ đã cho con đi học vì: "Con gái phát triển sinh lý sớm, cho nó đi học muộn đến tuổi 16,17 yêu đương, không đi học được". Lớp học của con ở trong cái đình to. Lớp con đông vui lắm, toàn các bạn quen. Cô giáo đầu tiên của con là cô Tiên gù. Không, không bao giờ cô xấu cả. Cô vẫn tròn như quả trứng gà...
    Mẹ ơi, ai đã dạy con ư? Mẹ dạy. Ngày hè con nằm quay đầu ra bờ ao, gió từ ba cây nhãn thổi vào, mẹ ngồi bắt chấy cho con, con thiếp đi ngon lành. Lúc tỉnh ngủ không thấy mẹ đâu. Mẹ đã đi làm rồi. Con bâng khuâng, buồn thiếu mẹ. Con cứ muốn nằm mãi trong lòng mẹ.
    Mẹ ơi, ai đã dạy cho con ư? Đất đấy, thiên nhiên đấy, mầu vàng của lúa, mầu xanh của cây, miền quê con sông ấy đã kiến tạo nên tâm hồn con, để con biết khóc trong tiếng mưa, biết cười trong nắng, biết múa hát trong tiếng cây cỏ trỗi dậy sau trận mưa rào.
    *
    * *
    "Ai đã dạy mày như thế cơ chứ?"
    Cha mẹ làm y tá bệnh viện huyện. Mẹ hay dắt con đến nơi làm việc khi con đang ở cái tuổi biết nhận thức và hay tò mò. Mẹ làm việc ở khoa sản. Khi đến nơi, mẹ dắt con vào phòng hành chính, đặt con lên cái ghế và dặn: "Ngồi yên đấy chơi, không được đi lang thang". Mẹ yên trí vì đã dặn dò con cẩn thận. Con chỉ ngồi yên được năm phút là chạy đi chơi khắp nơi. Ngõ ngách nào con cũng ngó vào. Những phòng đóng kín cửa là những phòng con thích ngó nhất. Con đã đứng sau mẹ khi mẹ đỡ em bé. Thế là con biết em bé đã ở đâu ra, một cái ngách rất nhỏ, kín đáo, bí mật chứ không phải ở nách chui ra, chứ không phải ở bãi rác, khi mẹ đi qua con đã bíu chặt lấy, mẹ đem về nuôi.
    Và khi chơi đồ hàng, búp bê, mẹ con, con biết vén áo lên. Trên ngực con có hai cái núm bé xíu. Con bẹo thịt ở ngực ra để ấn cái núm bé xíu ấy vào miệng búp bê thủ thỉ dịu dàng: "Con ngoan của mẹ, bú tí đi nào".
    Đấy, sau bài học o, a đầu tiên, con đã biết cái điều mà không cô giáo nào dạy con cả.
    "Ai dạy mày như thế cơ chứ?"
    Nhà mình không ở làng quê ấy nữa. Chiến tranh bom đạn, sơ tán. Lần chuyển nhà thứ hai con biết trong đời, nhà mình chuyển đến một căn nhà chật hẹp. Cả nhà mình, con đã có thêm em thứ hai nằm trên một chiếc giường. Mẹ và ba chúng con nằm một chiều. Cha nằm dưới chân. Giấc ngủ trẻ thơ say sưa mê mệt. Ban ngày con nô đùa, chạy nhảy nên đặt mình xuống là ngủ như chết. Thường là những đêm như thế. Nhưng những ngày chiến tranh kéo dài quá, ngày ngày bom rơi đạn nổ, ngày ngày vì cái sống cái chết, ngày ngày từng lớp người ra đi. Ngày ngày vì những điều trọng đại ấy nên mẹ của con đã không chú ý đến một đêm con bỗng mở mắt ra đúng lúc ấy, tò mò, con băn khoăn và con không hiểu... Sáng hôm sau thức giấc, con đã không trong trẻo như những ngày thường. Con cứ mang một câu hỏi trong đầu. Con không dám hỏi những người lớn. Con chỉ hỏi những đứa bạn cùng tuổi với con:
    - Ban đêm cha mẹ mày có cởi truồng không? Có đứa nhìn con kinh ngạc, Có đứa thì gật đầu...
    *
    * *
    "Ai dạy mày như thế cơ chứ?"
    Ngay từ hồi học lớp một, lớp hai bọn con đã biết chế nhau rồi. Thế là lớp học phân biệt thành hai phe lớn: phe nam, phe nữ. Đứa con gái nào mà chơi thân với con trai thì bị ê ê cho đến khi biết xấu hổ thì thôi.
    Ngày con học lớp ba thì mẹ đã từng mắng con như vậy.
    - Ai dạy mày đi chơi như thế?
    Giờ thì con biết đi chơi ấy là do trời đất dạy con.
    Đất bao la và Trời rộng lớn dạy con. Cuộc đi chơi ấy...
    Buổi sáng trước khi đi làm, mẹ dặn con: "ở nhà trông nhà đừng đi chơi nhé". Con ngồi ở ngoài cổng chơi đồ hàng thì thằng Ba đánh trâu đi qua. Nó học cùng lớp với con, nhưng con không dám chơi với nó vì sợ chúng bạn chế. Thằng Ba rủ con: "Mày có đi chăn trâu với tao không".
    Con chưa bao giờ được chăn trâu nên con đồng ý luôn. Thằng Ba đỡ con lên lưng trâu ngồi sau nó: "Mày ôm chặt lấy tao kẻo ngã đấy". Con trâu đủng đỉnh đưa hai đứa đi. Thằng Ba cho trâu đi dọc mương, chỉ cho con xem:
    - Mày xem kìa, bóng chúng mình in xuống nước đẹp không?
    Con nhìn theo tay thằng Ba chỉ quả là đẹp thật, nước trong suốt, phẳng lì in bóng chúng con và con trâu. ở dưới nước, chúng con xinh hơn và áo quần không đầy mụn vá. Con trâu cũng đẹp, da nó căng bóng lên.
    Thằng Ba cho trâu lội qua mương. Mương sâu. Nó bảo con cởi quần áo đội lên đầu kẻo ướt. Thằng Ba cũng cởi quần áo, một tay cầm thừng trâu, một tay nó đội quần áo lên đầu. Thằng Ba dặn con: "Mày phải ôm chặt lấy tao, ngã xuống nước là chết đấy nghe chưa?".
    Con ôm chặt lấy thằng Ba. Con trâu dầm mình xuống nước, chỉ để cái mũi thở. Nước dâng lên đến ngực con. Con hơi sợ một chút, nhưng khoái quá. Nước mơn man trên da thịt. Con trâu rẽ nước, nước rẽ bên sườn con. Thằng Ba thúc trâu đi nhanh. Nước tát nhẹ vào ngực con như ai mơn man cù nhẹ. Con khoái chí cười vang. Thằng Ba cũng cười. Đến khi hai đứa thấy rét mới cho trâu lên bờ.
    Thằng Ba cho trâu đi dọc bờ ruộng. Ruộng lúa đang chín, mầu vàng rực lên dưới nắng. Thằng Ba để cho trâu gặm cỏ, rủ con bắt muồm muỗm. Con chạy dọc bờ ruộng, như ngày nào lần đầu tiên ra đồng, con bị cái mầu vàng làm mê đi, ngồi xuống bờ cỏ nghiêng nghiêng đầu đón gió. Bỗng con phát hiện ra điều mới mẻ, ruộng lúa lăn tăn như sóng, từng đợt sóng nhỏ rồi lan ra xa to hơn, cồn lên những sóng vàng, gió rì rào như lời hát. Con gọi thằng Ba bảo nó điều đó. Nó nhìn con ngạc nhiên:
    - Sao đến bây giờ mày mới biết điều đó?
    Hai đứa thi nhau nghiêng đầu nhìn đồng lúa. Chúng con thấy càng ra xa sónglúa càng to hơn, cái mầu vàng óng ả như tấm thảm vàng ai đang rũ. Một lúc thằng Ba chỉ:
    - Mày xem lắm cò chưa?
    - ừ nhỉ.
    Cánh cò trắng bay tung nổi bật trên nền lúa vàng, cánh cò bay lan xa chấp chới đổ xuống. Rồi lại ở xa hơn, một đám khác tung lên như những mảnh giấy trắng rắc trên trời vàng. Tuyệt quá! Con mê đi không còn nhớ gì nữa.
    Khi chúng con đã chán đồng lúa chín, thằng Ba đánh trâu đến gốc đa. Cây đa to tán lá dầy xanh gắt tỏa ra khoảng đất rộng mát rượi. Một nửa tán cây tỏa xuống lòng mương. Thằng Ba trèo lên bứt những búp đa vứt xuống cho con. Cái búp đa trông như cái ngòi bút. Thằng Ba lại bứt xuống bao nhiêu là lá. Nó dạy con gấp con trâu lá đa, bù đài... gấp chán con nằm dài xuống gốc cây. Thằng Ba trèo lên cây chọn một cành là ra mặt nước ngồi vắt vẻo. Bóng thằng Ba in xuống nước. Con bỗng nhỏm dậy bắt gặp một hình dáng quen quá con bỗng nhớ ra. A, câu chuyện tìm mẹ mà cha kể. Hai đứa - thằng Nhà, con Gạo ngồi trên cây gạo in hình xuống nước để tìm khuôn mặt giống chúng nó... thằng Ba nghe há hốc mồm.
    Con kể xong, thằng Ba ngồi băn khoăn. Hết rồi à? Hay thế! Ai kể cho mày nghe vậy?
    Đồng quê và câu chuyện tìm mẹ ấy làm cho con về muộn. Mẹ đã đánh con một trận cho chừa đi. Vâng, con đã chừa, chừa cho đến khi xảy ra chuyện này, con đã không chơi với một người bạn trai nào. Nhưng cuộc đi chơi ấy bằng cả tuổi thơ của con.
    *
    * *
    "Ai đã dạy mày như thế cơ chứ?"
    Ngày con lên mười nhà mình có sự thay đổi lớn. Cha bảo: "Vì tương lai củachúng nó, chúng mình phải chuyển lên phố em ạ".
    Thế là cả nhà mình chuyển lên thành phố. Con được sống trong nền văn minh mới. Con bắt đầu mở mang bằng những quyển sách dễ kiếm. Những ngày đất nước chưa giải phóng, mẹ vẫn bận trăm công nghìn việc, bởi thế, mẹ không có thời gian chăm chút đến con. Con đã được tự do kiến tạo nên tâm hồn mình bằng tất cả những loại sách rơi vào tay con.
    Có những cuốn sách tuyệt vời: "Jên Erơ". "Đitê con của người đời","Anna Karênian","Tấm lòng vàng", "Thép đã tôi thế đấy", "Dấu chân người lính"...
    Nhưng cũng có những cuốn sách "Đồi thông hai mộ", "Vụ án thành Pari"... cũng được truyền bí mật từ cặp đứa nọ sang cặp sách đứa kia.
    Nhưng tất cả những cuốn sách ấy đều không dạy con cái lần đầu tiên ấy. Không, con hoàn toàn không ấu trĩ. ở lớp con là đứa bé nhất. Con thắc mắc - mùa hè nóng thế mà chúng nó cứ mặc hai áo và tại sao môn thể dục lăn bánh xe, các bạn ấy, mặc dù bị thầy mắng cũng không chịu làm. Con xung phong làm nhiều lần, có gì khó kia chứ. Chống hai tay xuống đất, động đầu xuống, dạng hai chân lên trời, rồi chống chân xuống. Khi con làm, các bạn nữ quay mặt đi, các bạn nam bụm miệng cười. Con không hiểu sao các bạn ấy lại cười. ừ thì áo nó tụt xuống tận cổ, quần nó tụt đến tận gối thì có gì đáng cười. Có lẽ tại ở cái ngực nó mọc hai cái mụn. Đi học về nó tức tối hỏi cha. Mẹ thì chẳng để ý đến con nên con không dám hỏi:
    - Cha ơi, chết rồi, con bị mọc hai cái mụn ở vú đây này, đau ơi là đau.
    - ừ, cứ để nguyên rồi là nó khỏi thôi.
    Con còn để ý các bạn gái của con hay có quyển lịch tay, cứ mỗi tháng đánh dấu ba ngày. Điều bí mật ấy cứ thập thò và con hiểu rằng sẽ có ngày với con cũng xảy ra điều ấy. Con chờ trong nỗi thấp thỏm mong đợi, vui vui. Cái ngày ấy con không hoảng hốt, con mừng vui nhưng con xấu hổ. Con bí mật xé vải màn của mẹ thành từng miếng nhỏ, đến tối con mới dám thay. Con phơi ở chỗ kín đáo nhất, cha phát hiện ra trước, cha bảo con:
    - Con gái bẩn thỉu, mày giặt giũ thế à? Đem ra chỗ nắng mà phơi cho nó sạch chứ.
    Con xấu hổ trào nước mắt. Con gào lên:
    - Cha biết gì, kệ con!
    Giá mà là mẹ, mẹ bảo con và hướng dẫn cho con con đã không gào lên như thế.
    *
    * *
    Chiều, anh ấy đem cơm vào cho con. Mặt anh ấy tái đi vì sợ hãi.Anh ấy chỉ định dừng lại một phút để trao làn thức ăn cho con. Mắt anh ấy không dám nhìn con. Anh ấy bước vội ra cửa. Con nhìn anh ấy, cái nhìn níu anh lại. Ngập ngừng, anh quay gót ngồi xuống cạnh con. Con lấy trứng bóc vỏ, tỏ ra chăm chú làm và không ngước nhìn lên. Con ăn ngon lành. Cố ăn thật ngon lành. Con bầy ra giường đủ thứ, trứng vịt lộn, phở, thịt nạc rán, chuối, cam... Con cố tình phơi bầy sự sung túc để tỏ ra được chiều chuộng quan tâm. Con tươi cười mời những người buổi trưa đã nguyền rủa con. Người này quả chuối, người kia múi cam... con âu yếm với anh ấy. Anh ấy không hiểu. Anh ấy trân trân nhìn con, quả cam đang bóc ở tay anh ấy rơi xuống. Anh ấy sợ hãi nhìn con. Chắc anh ấy sợ vẻ mặt của con. Đôi mắt long lanh như điên dại, một mắt ráo hoảnh, một mắt ngấn nước. Miệng méo lệch một bên cười, một bên mếu. Gương mặt méo mó thật dễ sợ, thế mà con vẫn cố bật thành tiếng cười khúc khích.
    - Sao anh mang cho em nhiều thế?
    - Anh về đây.
    - Cứ ngồi đây đã - Con ghìm giọng.
    Mẹ đi giặt cho con về, con đon đả:
    - Anh ấy đem cơm vào cho con mẹ đây này. Mẹ để đấy ăn đi cho nóng.
    Đón bắt được ý con, mẹ cũng đon đả:
    - Anh để đấy rồi về đi kẻo tối.
    Anh về. Con đi nằm. Bây giờ có dễ chịu hơn, cơ thể đang dần dần thích nghi với túi nước trong bụng, xung quanh mọi người nhìn con ít khinh rẻ hơn. Thì ít ra cô ta cũng không bị bỏ rơi. "ít ra cô ta không bị bỏ rơi như những con chó hoang". Chỉ bao biện được có đến thế mà con đầy can đảm để đóng màn kịch lố lăng nhất trên đời. Con cảm thấy xấu hổ quá, ân hận và tự trách móc mình đến nỗi, con không sao ngủ được, muốn ngủ cho quên đi, vơi đi. Mẹ bảo con:
    - Cố ngủ mà lấy sức.
    Con cũng tự răn mình như thế, quên hết sự đời, quên đi! Mẹ chuẩn bị đi đâu.
    - Cứ nằm ngủ đi, tao chạy lại đằng kia tí.
    Mệt nhọc quá, nỗi mệt nhọc thể xác đã thắng, chẳng bao lâu con ngủ thiếp đi. Chắc giấc ngủ đã khá dài. Con chợt tỉnh giấc vì cảm giác rét kinh khủng. Con quờ tay tìm chăn. Tiết trời tháng chín se lạnh. Con đụng phải mẹ ngồi cạnh.
    - Mẹ ơi, con rét lắm.
    - Sao, đau rồi à?
    - Không, con rét lắm.
    Mẹ đắp cho con cái áo nilông. Con vẫn run. Vừa nóng, vừa rét, con rên khe khẽ:
    - Đỡ đau chưa? Hễ đau gọi tao nhé.
    Lúc mẹ tôi đã đi gặp cô bác sĩ quen. Mẹ chỉ muốn tội lỗi thoát cho nhanh ra khỏi cơ thể con. Cô bác sĩ đã cho mẹ hai ống oxytoxin.
    - Chỉ hơi ê ẩm thôi mẹ ạ.
    - Thế thì ngủ đi mà lấy sức.
    - Nhưng con rét lắm.
    - Làm sao được. Phải chịu đựng lấy, đừng có kêu tao, tao có dạy mày thế này đâu?
    Con cố gắng nằm, thỉnh thoảng bụng hơi vần lệch một chút, lẩm nhẩm rồi lại thôi. Chỉ có rét. Rét kinh khủng. Chiếc áo nilông lạnh lẽo như càng rét hơn, mồ hôi bốc lên đọng vào cổ áo. Chỗ chân tay để hở chạm vào như động phải nước đá, khó chịu quá con lại rên lên khe khẽ. Mẹ lại hỏi.
    - Đau rồi à?
    - Không. Mẹ nằm xuống ngủ đi.
    - Mặc kệ tao.
    Gần sáng mẹ thấy con vẫn không đau gì. Mẹ lấy xi lanh đã khử trùng sẵn, chẳng cần đèn đóm, mẹ bảo con giơ đùi ra ánh sáng nhờ nhờ của ngọn đèn đường hắt vào. Mẹ tiêm cho con hai ống thuốc. Mẹ chờ đợi nhưng con vẫn không đau. Con không đau tức là tội lỗi của con nó còn bám chắc vào lòng con. Mẹ cáu gắt luôn.
    Sáng ra, cô bác sĩ đi tua cặp nhiệt độ cho con. Sốt 390C, con buộc phải tháo "sông ra". Nếu cứ để sẽ rất nguy hiểm cho tính mạng con.
    Con chuyển sang phòng cô-vắc. Phòng đã có năm bệnh nhân, thêm con là sáu. Con quan sát những bệnh nhân cô-vắc. Toàn những cô gái trẻ nhưng nhợt nhạt vô hồn. Họ ngước mắt nhìn con, cái nhìn thoáng vẻ đánh giá, như những con thú nhìn đồng loại. Đặc biệt trong phòng cô một cô bé trẻ nhưng xanh lướt, yếu đến nỗi chẳng thể tự đi được. Một bà mẹ già lưng còng gập, ngày ngày đến chăm sóc cô.
    Con được xếp cùng giường với một cô bé to lớn. Cô ta mau mắn hay khóc, hay cười. Con phải nằm tiêm truyền cả ngày. Cô ta giúp đỡ con trong những việc vặt, cô ta đã kịp thông báo về tình hình những người cùng phòng.
    - Con bé yếu nhất kia nó bị băng huyết gần chết đấy. Chẳng hiểu ai xui nó chị ạ. Nó đặt rễ cau vào bụng, chị xem, mẹ nó già nhỉ. Mẹ nó khóc suốt.
    - Còn cái chị nằm cùng giường với nó là đi Tiệp về đấy. Người yêu chị ấy về sau. Anh ấy bảo chị về nước là cưới nhau. Mẹ chị ấy không cho, cứ bắt đi phá. Em mà như chị ấy em chẳng phá. Đi tây về thì sợ gì.
    - Thế còn chị thì sao?
    - Chẳng sao cả.
    - Chị bị ốm à?
    - ừ
    Cô ta đang nói rôm rả bỗng ôm lấy mặt khóc. Con nằm im nhìn những giọt nước rơi đều đều vào máu như những giọt yêu đương đã rơi vào cuộc đời con.
    - ối, ối đau quá, chết mất!
    Cô bé to lớn đang khóc bỗng kêu lên dữ dội. Cô ta nhảy phắt xuống đất lăn lên trên sàn. Mấy người bệnh nhân ở các phòng khác chạy đến xem:
    - Cho chết đi!
    - Sướng đời, ừ thế mới sướng!
    - ối đau quá. Chị gì ơi. Chị đi gọi bác sĩ hộ em.
    - Đừng kêu nữa, chị đi đây.
    - Chết mất thôi. ối trời ơi!
    Chị gì trở lại:
    - Đừng kêu nữa, họ bảo không chết ngay được đâu. Cố chịu vậy thôi.
    Cô ta bíu chặt lấy chị "gì".
    - Chị cứu em với!
    Chị "gì" chắc cũng thương hại cô ta. Chị để yên cho cô ta bíu lấy tay mình nhưng ngoảnh mặt đi. Cô ta lăn lộn đầu tóc rũ rượi. Con nhìn vào khiếp đảm cái hình ảnh như điên như dại kia. Con sợ nhưng tự an ủi, chắc chỉ đau như đau ruột thừa là cùng.
    Đột nhiên ngừng hẳn tiếng kêu rên.
    - Chị ơi hình như nó ra rồi!
    - Để chị đi gọi bác sĩ.
    Cô y tá chạy sang:
    - Đứng dậy. Sang phòng làm thuốc.
    Cô y tá cau có, không chút thương tâm.
    Chị "gì" đỡ cô ta dậy. Cô khúm núm bê một bọc to dưới váy. Những giọt nước hồng hồng chảy theo chân cô ta.
    - Chị ơi rơi mất!
    - Giữ chặt lấy.
    - Đi nhanh lên kẻo bẩn hết sàn. Đến khổ cho các bà trẻ. Các bà sướng lắm để làm khổ người ta thế này. Đi nhanh lên! Không chết được đâu mà phải rón rén.
    Truyền gần hết chai huyết thanh mà con vẫn không đau. Tội lỗi cứ bám vào lòng con muốn sống.
    "Cái giống lạc loài", con và hài nhi của con là cái giống lạc loài. Con và các con của con là thế nào hả mẹ? Con là đứa con lạc loài. Các em con không lạc loài. Ngày ấy khi mẹ mắng con như thế, anh ấy vẫn bên con như cha vẫn bên mẹ kia mà. Vậy khác nhau như thế nào? Cái gì làm thước. Tình yêu hay hôn nhân? Con sẽ không lạc loài nếu như không bao giờ xảy ra chuyện này. Hài nhi của con sẽ không lạc loài, nếu như con và anh ấy đã cưới nhau. Phải thế không mẹ? Có khác nhau nhiều không hả mẹ? Tình yêu và hôn nhân? Con chưa có hôn nhân nên con không biết điều đó.
    Đêm hôn nhân mẹ đã sinh ra con trong niềm hạnh phúc toại nguyện và trong sự cho phép. Đêm tình yêu của con... đó là đêm thứ năm con bị ốm ở xa cha mẹ. Anh ấy ở bên con chăm sóc cho con. Nhà con ở chỉ có một chiếc giường. Anh ấy nằm dưới đất. Thỉnh thoảng anh ấy lại sờ con có ngon giấc hay không? Đêm thứ năm ấy, con khỏe mạnh hoàn toàn. Con bảo anh ấy:
    - Anh nằm bên cạnh em cũng được, tiết trời hãy còn lạnh, anh nằm dưới đất khéo ốm mất đấy.
    - Em cho phép anh nằm bên cạnh em ư?
    - Vâng, anh nằm cạnh đây nhé. Em để cái chăn này giữa hai chúng mình. Anh có nhớ những chuyện mình cùng đọc không? Câu chuyện thời chống Mỹ ấy? Những đêm hành quân, những người yêu nhau ấy, họ chỉ nằm cách nhau bằng một chiếc bạt mỏng thôi. Bây giờ giữa anh và em cách nhau bằng một chiếc chăn dày kia mà. Đấy như thế đấy. Anh ngủ đi.
    - Chúc em ngủ ngon.
    - Vâng.
    Anh ấy quàng tay qua chiếc chăn đặt lên con. Ôi khi bàn tay mạnh mẽ của anh ấy ôm lấy con thì vũ trụ ngừng quay. Khi môi anh ấy chạm vào môi con thì vũ trụ ngừng thở. Tất cả đều chìm đi, không còn gì tồn tại cả. Cả trinh tiết, cả những lời mẹ dạy, cả những bài luân lý. Chỉ có anh ấy và con ở trên đời này. Chúng con cuồng nhiệt trao nhau những điều đã học ở cuộc đời. Đến lúc tỉnh ra đứa nọ nhìn đứa kia bối rối. Con sợ hãi:
    - Nhỡ chúng mình có con thì sao?
    Anh ấy lảng tránh ánh mắt con. Đó là điều trung thực. Anh ấy cũng chẳng biết "thì sao". Quả thật sau đó chúng con không biết sẽ ra sao.
    Vậy về vật chất, cái đêm sinh ra giống lạc loài có giống cái đêm sinh ra giống không lạc loài không hả mẹ? Mẹ, con yêu mẹ. Con tin mẹ. Nhưng con cũng yêu sách vở và tin sách vở. Vậy mà con không hiểu được rằng, tình yêu thì được hết lời ca ngợi như thế. Mà tình yêu lại hay sinh ra những giống lạc loài! Và những đứa con lạc loài thì hay bị ruồng bỏ.
    *
    * *
    Mẹ gần như tuyệt vọng đi tìm cô bác sĩ quen. Cô bác sĩ đi nói với bác sĩ trưởng khoa. Bác sĩ trưởng khoa đồng ý khám cho con. Xong, bà ra lệnh cho y tá cầm đến một ống thuốc nhỏ. Bà tiêm cho con:
    - Chỉ nửa tiếng nữa là sổ. Cô là nhất đấy. Hằng trăm ca, chỉ có ca cô là được dùng đến thứ này đấy nhé.
    Mẹ mừng rỡ chạy đi mua quà cho ca trực. Mọi người ra khỏi phòng. Quả thật chưa được mười phút sau cơn đau thúc lên tim, tim như ai bóp chặt. Cái đau thúc sang trái, sang phải, mới đầu con còn nằm im trên giường. Đau quá con nhảy xuống đất, vết kim truyền ở tay lại chảy máu. Máu chảy ròng ròng xuống đất.
    Trong số những người đứng xem con đau ở cửa có một người thương tình chạy đi tìm cho con ít bông. Con không kịp rịt máu, đã lăn ra nhà. Cái đau ngày càng dữ dội. Ngồi thì cái đau thúc phải đứng lên. Đứng lên thì nó thúc cho khuỵ xuống. Quay sang trái nó thúc cho quay sang phải. Quay sang phải rồi quay sang trái. Rồi đứng lên. Rồi ngồi xuống, bật người ra sau gập về phía trước, bò bằng bốn chân, giá như được đóng thêm cái đinh để quay như chiếc cù chắc dễ chịu hơn. Con kêu la ầm ĩ. Con gọi mẹ chẳng thấy mẹ đâu. Con đập đầu vào tường, cái đau nó giảm đi chút ít. Đập thêm cái nữa thì cô bác sĩ quen chạy vào:
    - Đừng làm thế cháu, há mồm ra, thở đi, đừng kêu nữa họ cười cho.
    - Kệ họ, cháu cần gì đâu. Mẹ cháu đâu? Cháu chết đi còn hơn.
    Nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng. Cái váy không có cúc cứ tụt xuống. Mẹ về đúng lúc con đau nhất. Mẹ xoa cho con:
    - Chịu đựng tý, con ạ, sắp xong rồi.
    - Chết mất thôi mẹ ơi.
    - Đừng kêu nữa, chịu khó tý.
    Đột nhiên ngừng hẳn mọi đau đớn, như từ độ cao rơi xuống, con tỉnh táo hẳn. Con định xem mình đang làm sao. Váy con ướt sũng. Mẹ dìu con sang phòng thủ thuật. Cô bác sĩ khám cho con:
    - Chưa, mới vỡ ối thôi.
    Con nằm im trên bàn chờ. Con buồn ngủ quá, lơ mơ ngủ không được vì vẫn bị những cơn đau thúc. Con nghe tiếng mẹ ngoài cửa:
    - Về đi, tôi bảo anh về đi.
    - Cháu...
    Con nhìn ra. Anh ấy đang áp mặt vào cửa kính nhìn vào. Bỗng con cảm thấy căm thù anh ấy, vì cái con đang trải qua là do anh ấy. Con muốn nhảy xổ ra mà đánh. Mẹ kéo anh ấy đi.
    Cô bác sĩ bảo con:
    - Há mồm ra thở đều nhé, không phải rặn nữa đâu.
    - Được rồi, mềm bụng ra.
    - Y tá lấy cho tôi chút iôt!
    - Mềm bụng ra, không được nâng mông dậy. Thở cho đều, há mồm ra và thở đều!
    Như con dao nào đó đưa vào bụng con mà ngoáy. Con bật dậy thét lên:
    - Để cháu chết đi cũng được các cô ơi!
    Cô y tá vội vàng ấn con nằm xuống. Mẹ chạy vào. Lưỡi dao lại ngoáy tiếp vào bụng con lần nữa. Con lại co người lên hét. Ba, bốn người lại giữ chặt lấy con.
    - Há mồm ra thở đều đi!
    Con há mồm ra ngớp không khí vừa chuẩn bị kêu, tay cô bác sĩ thò vào đến đâu con kêu đến đó.
    Lần thứ ba cô bác sĩ rút tay ra tuyên bố: Xong rồi!
    Mẹ mặc quần áo cho con. Con đã hết đau. Con bỗng nhớ đến nó. Con tìm kiếm nó. Dưới chân con có cái khay phủ khăn trắng. Con bỗng khiếp đảm. Không dám thò chân xuống lối đó nữa. Con co chân nhảy qua đầu bàn, cô y tá vội vàng đỡ lấy con:
    - Mày muốn băng huyết chết hay sao?
    Con hẩy tay mẹ và cô y tá, đi như chạy về giường. Con nằm xuống và thở hổn hển, mồ hôi tứa ra. Lúc ngồi nhỏm dậy con đã nhìn qua chân, thấy cái nhau to hơn bàn tay, và cái cuống nhau dài dài nối với nó - hài nhi, đứa con đầu tiên của tôi. Tội lỗi của con. Tình yêu của con! Chiếc khăn trắng phủ kín nó.
    Nó đã chết.
    *
    * *
    Đêm thứ ba ở lại bệnh viện chỉ có một mình, mẹ đã về từ buổi tối. Mẹ đau đớn và mệt mỏi nên mẹ không thể ở lại với con đêm ấy. Vả lại, đêm ấy con đã thoát khỏi tội lỗi rồi: Phòng cô-vắc có vẻ bình thản hơn. Có bé to lớn nằm cùng giường con, vừa khóc ồn ào một chập xong, cô ta lại cười nói ngay. Cô ta kể với con, cô ta đã kéo chiếc khăn trắng phủ khay. Cô ta đã nhìn thấy rõ một thằng bé hẳn hoi, to gần bằng con búp bê.
    - Chị ơi, hơn sáu tháng rồi còn gì nữa, kể cũng tiếc chị nhỉ. Chỉ hai tháng nữa là nó biết khóc rồi còn gì. Chị này, kể ra nó sống cũng dai thật. Khi em bị chửa, em uống năm chục viên thuốc ký-ninh mà nó chẳng sao cả.
    - Sao em lại phá nó đi!
    - Mẹ em bắt, vả lại nó chuồn rồi.
    - Ai?
    - Thằng người yêu em ấy. Thằng đểu ấy đi yêu đứa khác rồi.
    - Thế sao em không bắt đền?
    - Em không cần. Nhưng phen này em sẽ cho nó biết tay!
    - Em định làm gì?
    - Em sẽ tạt cho nó lọ a-xít vào mặt để nó mất tương lai. Đời em thì chẳng cần nữa. Thế chị ơi, đứa của chị, chị có xem không?
    - Chị không dám.
    - Thế nó là con trai hay con gái?
    - Chị không biết, thôi chị buồn ngủ lắm rồi.
    Cô ta im lặng. Cô úp mặt xuống gối. Tất cả đã qua rồi, con không thấy đau đớn và mệt mỏi nữa. Hừ, thế là xong. Lúc đau đớn con mong muốn nó như một chiếc nhọt bọc vỡ ra là hết đau. Nhưng bây giờ là cái đau khác. Cô gái to lớn hỏi con: Chị ơi, nó là trai hay gái? Con không biết. Nó chết rồi. Trái tim người của nó đập được bao nhiêu nhịp? Nó đã kịp sung sướng gì chưa? Nó đã biết đến đau đớn chưa? Tội lỗi của con, người đàn bà tuổi ấy có quyền có đứa con chứ. Vậy sao con không bảo vệ nổi nó. Con lặng lẽ khóc. Nước mắt tràn đầy trên gối. Cái gối bệnh viện đã bão hòa nước mắt. Nó không thể ngấm thêm. Những giọt nước mắt chảy dài xuống chiếu rồi rơi xuống đất. Đất mẹ có thấm nỗi đau của con hay không, con không biết.
    *
    * *
    Sáng hôm sau, mẹ đến với con. Mẹ quan sát con. Mẹ sờ vào ngực con - Đã xuống sữa rồi đấy! Ôi, giá như bây giờ con chơi trò đồ hàng, búp bê, mẹ con, con không phải bẹo thịt ra nữa. Hai bầu vú con căng sữa, sữa chảy ra áo. Mẹ lo lắng: "Sữa mày nhiều đấy, về nhà nhớ ý tứ kẻo người ta biết!". Mẹ bảo con phải uống thêm kháng sinh để chóng tiêu sữa đi. Đến chiều, mẹ xin cho con về. Lần đầu tiên mẹ giục con đánh son phấn:
    - Đánh vào một tý cho nó hồng hào lên:
    Con thay áo quần trả bệnh viện. Mấy bà bệnh nhân nhìn con:
    - Gớm, trông cô lại như thiếu nữ dậy thì.
    Mẹ ơi, từ bấy đến nay hai mẹ con ta cùng mang nỗi đau. Mẹ mang nỗi đau của người mẹ, nỗi đau có đứa con hư hỏng. Con đau nỗi đau của con, và cũng là nỗi đau của người mẹ. Tháng thứ nhất con mơ hồ, tháng thứ hai lo sợ, tháng thứ ba có cái gì đó thắng nỗi lo sợ... cái gì đó ấm áp dịu dàng... Giờ thì không còn nữa. Nỗi đau đớn của người mẹ đã không bảo vệ nổi con mình, những nỗi đau như thế của con chắc mẹ đã hiểu.
    Còn một nỗi đau này nữa mẹ ơi, là nỗi cô đơn con không thể chia sẻ cùng ai. Sau ngày ấy tình yêu của con chết đi theo nó. Sau ngày ấy con đã là một người đàn bà từng trải, nhưng bên ngoài con vẫn là một thiếu nữ trong sáng, e ấp con chờ một tình yêu mới đến với con, tình yêu mới đến - đâu có thể dễ dàng như lời nói ấy. Con đã từng trải, mẹ thì khắt khe hơn.
    Cuộc sống ngày ngày cứ diễn ra sôi động. Ngày ngày con vẫn cứ nhập cuộc: con đi xem, đi vũ hội, đi du lịch... nhưng sau tất cả những cuộc vui, con càng cô đơn hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi. Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá như ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành người phụ nữ bình thường chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu nữ kén chồng thế này.
    Chuyện truyền rằng, những người đàn bà góa bụa đêm đến phải đổ thóc vào xay, xay cho mệt lử đi để ngủ, ngủ mê mệt để quên đi. Con không có thóc mà đổ vào xay. Tối con đi xem về, con tiếp xúc nhưng không buông thả. Đêm đến, màn đêm bao phủ sự bí mật của con. Con thao thức, con hồi tưởng và con khát khao. Lý trí đôi lúc chẳng được việc gì, con bèn hồi tưởng lại và với bàn tay mình, con tự vuốt ve thân hình thiếu nữ để thỏa mãn cơn đàn bà!
    Mẹ, mẹ có hiểu được con chăng?
    Từ ấy đến nay mẹ đau nỗi đau của mẹ, con đau nỗi đau của con. Nhưng có đêm nào mẹ tỉnh dậy vì nỗi đau của mẹ không? Đêm đêm cha mẹ vẫn bên nhau và con thức tỉnh với nỗi đau của mình. Mẹ, mẹ có hiểu con không.
    Mẹ Âu Cơ sinh được 50 người con trai, 50 người con gái. Con trai của mẹ thì thành anh hùng, thi sĩ, con gái của mẹ thì trở thành những bà mẹ. Đất nước anh hùng, ngoại xâm, thiên tai liên miên, nên mẹ quan tâm đến những anh hùng, thi sĩ. Mẹ đã không chú ý đến những cô gái vốn dịu dàng, nhu mì, không mấy đòi hỏi. Mẹ ơi, mẹ hãy quan tâm đến chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ.
    Mẹ kính yêu ơi! Xin mẹ hãy tha thứ cho con.
    Xuân 1989
     
  19. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Nắng chiều

    Nguyễn Khải


    1. Chị Bơ đã đe tôi:
    -Nếu cậu lại đem chuyện của chị với anh ra viết văn viết báo thì đừng có vác mặt đến đây chị chị, em em nữa nhá! Khốn nỗi, cái thằng viết văn lại vốn có tật thích lôi công việc của nhà ra viết. Chuyện hay thì giấu đi, chuyện dở thì phóng đại lên, nên anh em họ hàng phải từ bỏ, vợ con phải giận hờn, bè bạn cũng gớm mặt. Nói tốt về mình là người viết hồi ký. Là người bình thường với cái tâm lý thông thường mượn bút mực để tự khoe. Còn kể xấu mình, tự bới móc mọi thói tật của mình thì đích thực là anh nhà văn rồi. Tại sao thế? Tôi cũng không biết nữa. Có thể là cái nghiệp dĩ của những người cầm bút chăng ? Nhưng lần này tôi viết về bà chị tôi với ông anh rể muộn mằn có khác với những chuyện trước. Lần này tôi chỉ có khoe thôi. Tôi khoe cái hay cái đẹp, cái phúc đức của dòng họ nhà tôi, nếu như đây đó thấp thoáng một nụ cười thì cũng là cái mỉm cười hiền lành, vui một chút, nghịch một chút cho câu chuyện được đậm đà.
    2. Tức là chị Bơ tôi bằng lòng đi lấy chồng. Lấy chồng lần thứ nhất và chỉ vừa mới năm nọ. Tôi năm nay đã xấp xỉ sáu mươi tức thì chị tôi không còn trẻ nữa. Năm chị tôi vừa nhận lời xuất giá là vừa tròn bảy chục tuổi. Chị Đại, cũng là một bà chị khác của tôi, là em dâu của ông Nguyễn Thế Truyền, đứng ra mai mối. Trong họ nhà tôi, đàn ông thì hiền lành, nhút nhát, làm gì cũng sợ, chỉ cầu được yên thân, còn phần lớn các bà lại hết sức ghê gớm, ăn nói ghê gớm, hành động táo bạo, còn các trò chơi của mấy bà thì vô cùng quái đản. Chị Đại bảo tôi với cái giọng thản nhiên nhất:
    -Chúng tao định gả chồng cho bà Bơ, mày thấy thế nào? Tôi hét lên:
    -Sắp xuống lỗ còn đi lấy chồng, các bà tính toán rõ hay!
    Chị Đại vẫn nói dửng dưng:
    -Chúng mày đều là quân ích kỷ. Chỉ nghĩ tới mình mà không nghĩ đến người. Mày sợ xấu hổ à?
    -Chứ lại không, thiên hạ họ biết chuyện phải cười đến vỡ bụng.
    -Ai cười mặc kệ họ. Là chuyện hay chuyện tốt chứ có phải là chuyện xấu đâu mà sợ họ cười. Tôi vẫn vùng vằng:
    -Chị tính lại đi, không phải chuyện đùa đâu. Vỡ lở ra là tai tiếng lắm. Chị Đại đã hơi cười cười:
    -Để tao tính lại nhá. Mấy chục năm nay chị Bơ chỉ ở với gia đình cô Hoàng. Nay gia đình cô ấy đi Pháp rồi thì chị Bơ ở với ai? Hay là xuống ở với vợ chồng mày. Tôi lắc đầu:
    -Nhà tôi như trại lính, bà Bơ không chịu xuống đâu. ở nhà chị có được không? Chị Đại vẫn cười:
    -Ở thế nào được. Một bà già đã đủ để con cháu nó cằn nhằn rồi, hầu thế nào được cả hai. Tôi bắt đầu phân vân:
    -Cũng khó nhỉ, tuổi già ở chòm chõm một mình là nguá lắm, lúc đêm hôm... Chị Đại thủng thẳng tính:
    -ở một mình cũng vẫn được, nhưng đêm phải có người đến cùng ngủ. Mày hoặc vợ mày, hoặc con mày phải thay nhau mà đến, lúc khỏe không đến cũng được, nhưng lúc ốm đau là phải đến. Sự phản đối của tôi đã bớt hăng hái đến già nửa vì cái viễn cảnh phải cắt phiên nhau xuống ở với bà Bơ. Là mẹ thì buộc phải đến rồi, không thích không vui cũng phải đến. Nhưng là chị, lại là chị họ cũng phiền nhỉ...à, thế mà khó giải quyết đây. Nói gì thì nói, cách tính toán của chị Đại là hết sức thiết thực. Nhân nghĩa hão, sĩ diện dởm, người khổ càng khổ hơn vì có ai chịu đưa tay cho kẻ bất hạnh víu lấy đâu. Trong họ nhà tôi có nhiều bà đẹp đẽ hẳn hoi, làm phu nhân cũng còn được huống hồ làm vợ, làm mẹ như mọi người mà đành chịu cảnh phòng không chỉ vì những tính toán chẳng đâu vào đâu của các bậc cha mẹ. Thời Mỹ lại chỉ đòi gả con cho những gia đình quan lại, môn đăng hộ đối, là dở hơi hết sức. Đi làm dâu những gia đình đã tàn lụi, với những bà mẹ chồng hút thuốc sâu kèn, nói năng đài các nhưng không một xu dính túi, những ông chồng quen thói ăn chơi nhưng chẳng có nghề ngỗng gì, ra thở vào than vì thời thế đã đổi thay, thì còn khổ cực nhục nhã hơn con ở.
    Thà ở vậy mà hoá hay. Chị Bơ tôi sở dĩ muộn chồng vì cả một thời son trẻ chả ai để ý đến chị cả. Là con ông bác họ lên ở với chú thím với các em, tiếng là người trong gia đình nhà quan, nhưng cô cháu nghèo làm sao dám so bì với các bà em phú quý. Đã nghèo lại không được đẹp, lại ăn mặc xuềnh xoàng, nói năng rất ít, luôn luôn xuất hiện ở phía sau, là người rất cần thiết cho mọi người nhưng vẫn bị mọi người quên bỏ. Chị bị bỏ quên cũng vì chị không bao giờ đòi, chị cam phận, lại tự khép mình vào cái khuôn khổ lễ giáo đã không còn mấy ai theo nữa. Các bà chị con ông bác tôi vẫn chê chị Bơ là người cổ mà, trời đất ơi, đã nghèo lại còn cổ thì coi như số phận đã được an bài rồi.
    3. Cái chuyện vui nhất lúc tuổi đã xế chiều của bà chị tôi được bắt đầu như sau: Cách đây khoảng bảy tám năm, một bà chị khác lập nghiệp ở xứ Bờ Biển Ngà có làm giấy bảo lãnh cho chị Bơ sang ở bên đó. Hai bà vốn hợp tính nhau từ thời con gái, đều là những tín đồ rất nết na của đạo Phật, có ăn ở với nhau ít năm cuối chắc là cũng êm ấm. Đã nghĩ mọi việc xong xuôi chỉ còn đợi ngày đi thì bà bên kia lại viết thư về báo hoãn, vì nghe đâu chính phủ bên ấy sẽ thay đổi, sẽ đỏ hẳn nên vợ chồng phải di chuyển cơ nghiệp sang Pháp. Nói vậy thì biết vậy, chứ cái gì sau đó thì ai mà chả biết. Chị Đại phàn nàn với tôi: "Bà Bơ tuổi Sửu, cái số ấy là vất vả lắm, một đời hầu hạ các ông em bà em, rút lại tay trắng". Xưa nay chị Bơ chỉ biết sống cho các em, dựa dẫm vào các em vui buồn hộ mọi người, nay các em kéo nhau đi tuốt tuột, còn trơ lại có một mình, ăn không ra bữa, ngủ không ra giấc, chẳng có cái gì riêng để mà lo mà buồn, đi lại như cái bóng, va vào góc này, đụng vào góc kia của hai căn buồng vừa ẩm vừa tối nghĩ thật tội. Ai cũng là than thở là thật tội mà không một ai mở miệng mời bà chị nhất họ tới ở nhà mình để tiện bề chăm sóc, vợ chồng tôi cũng thế. Lúc khoẻ đã vậy, lúc ốm thì sao, ốm một trận rồi chết cũng đã vất vả, lại ốm đến vài năm mới thật rầy rà. Cũng may trong họ còn có chị Đại. Chị có quyền la mắng tất cả mà không ai dám giận vì chị ăn ở rất thật lòng, lại rất thạo việc. Việc người sống và người chết của cả một họ mà không có chị dúng tay vào là y như bê bết. Nói cho đúng, chị cũng không dúng tay vào, một ngón tay cũng không đụng đậy, mà chỉ dùng miệng thôi. Tính giùm thôi. Cái việc này thì thủ tục phải như này, sự chi tiêu phải như thế này, và chị cắt đặt luôn, một lũ con cháu và kẻ ăn người làm cứ thế mà chạy.
    Và chị đã lặng lẽ đảo ngược cái vận số của chị Bơ bằng một bài toán đến thần tình. Số là, cách đây nửa thế kỷ, có một anh thanh niên con nhà nghèo nhưng rất đẹp trai và học cũng giỏi, vừa đỗ bằng thành chung xong, tới gia đình ông bác tôi làm người kèm học cho mấy ông anh còn nhỏ tuổi. Người ra mở cửa đóng cửa cho thầy giáo trẻ là chị Bơ, năm đó cũng khoảng mười tám đôi mươi. Đi lại được vài năm thì anh giáo trẻ ngỏ lời xin được cưới chị Bơ, vì anh đã tìm được việc làm ở một nhà thương nào đó. Vậy là cả nhà cười, cười lăn cười lộn. Là cười cái táo tợn của một thằng con trai chẳng biết trời cao đất dầy gì, mới dám mở mồm đòi làm rể cụ Thượng. Cháu cũng như con, phải tìm cửa tương xứng để gạ bán chứ. Người con trai vì xấu hổ, vì giận thân không đến nữa. Vậy là thôi.
    Theo chị Đại, hình như chỉ có một lần ấy, cái lần duá nhất ấy, có một người đàn ông để ý đến chị Bơ, quý mến cái dịu dàng, cái lặng lẽ, cái đảm đang của chị và mong mỏi được mời chị về sống với nhà mình. Rồi anh ta lấy vợ, đẻ một bầy con, rồi góa vợ và lấy một đời vợ nữa, lại thêm mấy đứa con và góa vợ lần thứ hai. Người đàn ông có cái số phận vất vả ấy là Phúc, cái năm bắt đầu câu chuyện cảm động này đã bảy mươi mốt tuổi, hơn bà chị tôi một tuổi. Tôi cũng chưa rõ, do một tình cờ nào mà chị Đại được biết ông Phúc sắp đi Pháp theo giấy bảo lãnh của con. Cái kế hoạch đầy tính nhân đạo và thực tế của chị lập tức hình thành và lập tức chuyển động. Chị nhờ một cô cháu có quan hệ họ hàng với ông Phúc đến bàn với ông, bằng cách nào đó có thể đưa chị Bơ đi, sang tới Pháp các bà em sẽ đón chị về nhà họ, vì anh em không có quyền đứng ra bảo lãnh nhập cảnh. ông Phúc bằng lòng ngay và nói thêm: "Nhưng tôi phải làm giấy giá thú mới hợp lệ!" Chị Đại trả lời liền, giá thú thì giá thú, sang tới Pháp thì hết giá trị, mà cũng chẳng cần làm giấy lá hôn, còn lấy được ai nữa mà làm giấy lá hôn. Tôi hỏi chị Đại:
    -Lần đầu chị bàn với chị Bơ cái chuyện này, chị Bơ bảo sao? Chị Đại cười:
    -Giẫy nẩy lên như đỉa phải vôi. Mặt mũi đỏ nhừ đỏ tử. Gái chưa chồng nói chuyện hôn nhân ai chả thế. Tôi cũng phì cười:
    -Cái bà này có những sáng kiến đến quái đản! Chị Đại lườm nhẹ tôi, nói đay:
    -Nếu mày không thích thì mày mời bà ấy về ở nhà mày. Cho tao được rảnh nợ. Tôi nín lặng. Chị Đại nói tiếp:
    -Bà ấy chửi tao một lúc rồi ngồi im. Tao chỉ hỏi lại có một câu: tùy bà, nếu bà không bằng lòng thì bảo tôi để tôi còn có lời nói lại.
    -Chị Bơ bảo sao?
    -Còn bảo sao nữa? Bảo là tùy cô, cô muốn làm gì thì làm chứ tôi không biết.
    -Vậy là xong à?
    -Xong chứ, người ta vẫn còn vương vất cái tình cũ mới đưa vai ra gánh lấy, chứ vui vẻ quái gì.
    4. Vậy là chị tôi đi lấy chồng, nói cho đúng là giả đò lấy chồng, về danh nghĩa vẫn có giấy giá thú, nhưng ông ở nhà ông, bà ở nhà bà, cơm ai nấy ăn, giường ai nấy nằm, không có gì khác trước. Chị Đại với chị Hoàng là hai bà hay nói tục nhất họ, nói những chuyện đến các em và con cháu ngồi nghe cũng phải đỏ mặt, nên chị Đại cũng có lời bình luận về sự ở riêng này, chị nói tục lắm, tôi không tiện viết ra đây. Tôi có nghe nói bữa hai ông bà dắt tay nhau ra phường đăng ký hôn thú, cô uỷ viên thư ký phường hỏi bà cụ theo đúng thủ tục: "Thưa bác, bác kết hôn lần này là lần thứ mấy?" Bà cụ cúi gằm mặt không dám trả lời, ông cụ phải nói thay: "Lần thứ nhất". Lấy chồng lần thứ nhất mà không có chạm ngõ, không ăn hỏi, không cưới xin gì cả, đến bữa cơm thân mật trong gia đình cũng phải hai tháng sau mới dám làm, nghĩ cũng tội. Mà là con cháu nhà quan hẳn hoi. Tháng đầu chị tôi đi lấy chồng, tôi không dám lại thăm. Sợ chị tôi ngượng. Nhưng tôi vẫn thấp thỏm đợi cái bữa ăn mà bà chị tôi và ông anh sẽ mời. Nói cho thật, không phải vì miếng ăn mà muốn đến "quan sát" một chút. Chắc là bà chị tôi cũng biết thế nên nhất định bà không mời cái thằng em mất nết, chuyện bố mẹ nó nó còn chẳng tha huống hồ chuyện của các bà chị.
    Chị Đại gọi bữa cơm đó là bữa cơm đoàn kết, cái từ cách mạng dùng vào trường hợp này thì thật là khéo quá. Chứ còn biết gọi gì khác. Sau bữa cơm hai họ chừng vài ngày, bà Bơ cũng làm một bữa cơm thân mật chỉ mời riêng có ông Phúc và mấy người con của ông lại ăn thôi. Bà lão nấu ngon quá, nghề riêng mà, nên chỉ mấy ngày sau ông lão lại mò đến xin ăn một bữa nữa. Rồi ngày nào cũng đến đòi ăn, ăn bữa trưa. Rồi ăn cả bữa tối. Rồi đòi ngủ lại, vì say quá, vì trời tối quá, thiếu gì lý do xin được ngủ lại của một ông già đang ngất ngây trước hạnh phúc mới. Tôi toét miệng cười. Chị Đại trợn mắt nhìn tôi, quát to: "Thằng mất dạy! Mày nghĩ gì mà lại cười, hả!"
    5. Phải hơn hai tháng sau tôi mới được gặp cả hai vợ chồng bà Bơ. Là nhân ngày giỗ của ông nội tôi, tức ông ngoại bà Đại, ông chú bà Bơ, tại nhà ông anh trưởng họ. Bà đến trước đã cả giờ rồi mới thấy ông đến. Chả ai chào ai, cứ như người dưng. Tuy ông Phúc đã ngoài bảy chục tuổi nhưng còn đẹp lão lắm, vóc dáng cân đối, đi lại nhanh nhẹn, cái miệng và con mắt của ông già khi cười nói còn rất là lẳng. Đàn ông như thế nếu muốn lấy một bà trong ngoài bốn mươi chả có gì là khó. Lại có tiền nữa. Quả tình ông ấy đối với bà chị tôi vẫn còn vướng vất phần nào cái hương vị của mối tình đầu. Là vẫn không ngớt nghĩ về nhau, nghĩ về một cô gái nhút nhát, lặng lẽ, có thể làm người vợ hiền, người mẹ đảm không ngờ số phận lại hẩm hưu đến thế. Khi ấy ông chưa đến, chị Đại có hỏi bà Bơ: "Bà đã dặn kỹ địa chỉ chưa? Nhà trong hẻm, lối đi lắt léo khó tìm lắm". Bà Bơ trả lời ngắn gọn: "Đã bảo rồi".
    Chị Đại lại nói: “ông ấy vẫn đi xe đạp à? Đừng có ỷ y vào sức khỏe, ngã chết có ngày". Vẫn trả lời rất ngắn gọn: "Nói mãi nhưng không nghe". Tôi nghiêm mặt cười mủm mỉm, vì chợt nghĩ cách xưng hô của những cặp vợ chồng trẻ mới cưới cái thời còn đánh Pháp. Vào bữa ăn tôi được xếp ngồi cạnh bà Bơ và ông chồng. Bà Đại ngồi đối diện với ông trưởng họ. ông trưởng họ là người hết sức thật thà, có nghề xem tử vi và tướng mặt, nghe ông ấy nói về vận số ai cũng vừa lòng, vì mọi cái xui xẻo đã thuộc về năm qua tháng qua, còn tháng tới và năm tới chỉ gặp toàn những may mắn. ông trưởng họ ngắm nhìn bà Bơ rồi tán: "Khí sắc chị Bơ rất vượng, năm tới là nhiều chuyện vui lắm". Bà Đại buông một câu, nghe muốn nổi da gà: "Năm tới bà Bơ có tin vui hả?" Cả mọi người đều cúi mặt, không ai dám nhếch môi.
    Mặt bà Bơ tái đi, còn ông chồng quay lại nhòm vợ rồi cười hề hề. Cái giống đàn ông thật tệ quá! ông trưởng họ vẫn tiếp tục tán tụng bà chị hết sức hồn nhiên: "Chị dạo này trông đẹp hẳn ra!". Rõ nỡm! Khen một bà lão đẹp ra, vậy mà cũng đòi làm thầy tướng số! Lại bà Đại bình luận: "Cái đó hẳn rồi khỏi cần cậu phải nói". Tất nhiên tôi phải tế nhị hơn ông trưởng họ, nên tôi không nói gì cả, cũng không nhìn chăm chú vào một ai, chỉ lắng nghe và thoáng nhìn thôi. Tôi để ý thấy chị Bơ vẹo cổ tay cầm đôi đũa của ông chồng lấy giấy bản lau qua một lượt, rồi lại lau qua cái bát ăn. Chị không nói một lời và mắt vẫn nhìn thẳng. Lúc ăn cơm, chị gắp một miếng thịt gà, dùng tay lọc xương ra, lại xé thịt cho nhỏ, rồi gắp vào bát của chồng. Cái ông chồng đến là nhõng nhẽo, chỉ đợi vợ gắp thức ăn, cho gì ăn nấy, không tự đụng đũa vào bất cứ món nào khác. Chị Đại nhận thấy ngay, chị quát lên: "Cái ông này đại lãn nhỉ, mắt bà ấy đã lòa dở, không hầu vợ thì thôi lại bắt vợ phải hầu mình". ông chồng lại há mồm ra cười, hàm răng giả thật đều và thật trắng. Cuối bữa ăn, chủ nhà đưa cho mỗi người một cái khăn tay dấp nước nóng. ông Phúc mở khăn lau mặt rồi đưa cho vợ. Bà vợ cầm lấy khăn lau dở của chồng lau luôn mặt mình. Tôi cúi mặt xuống, sống mũi cay sè, chỉ muốn nhỏ ra mấy giọt nước mắt của yêu thương.
    6. Lấy chồng được nửa năm thì chị Bơ phải đi mổ mắt. Một mắt bên phải mờ hẳn đi như có màng kéo, bác sĩ bảo phải mổ. Chị đến nằm ở nhà thương Điện Biên Phủ, cô gái út của ông chồng xách hai túi to vừa quần áo vừa đồ dùng vặt vãnh theo mẹ kế cùng vào bệnh viện. Mẹ nằm trên giường, cô con chồng trải mảnh ni lông nằm dưới chân giường, mà là con gái nhà giàu, là tiểu thư. Anh trai và chị dâu thì phóng xe máy đưa cơm ngày hai buổi, rồi bón cơm cho mẹ, ép mẹ ăn từng thìa, tiền tiêu như nước. Bữa tối tới thăm chị Bơ, chị đã được tháo băng mắt, nhưng phải mang kính, nhìn mọi thứ vẫn còn mờ mịt. Chị em trò chuyện được một lúc thì ông Phúc tới. Bà đi bệnh viện được vài ngày thì ông ở nhà bị vấp ngã. Ngã nhẹ thôi nhưng đi lại đã phải dựa vào cây gậy. ông chống gậy lò dò bước vào, cô con gái vội kéo ghế mời bố ngồi cạnh giường mẹ. ông kẹp cây gậy trong đùi, đưa tay nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà vợ, hỏi nhỏ nhẹ: "Đêm qua bà có ngủ được không? Con mắt mổ còn nhức không?" Bà Bơ trả lời "Thưa, đỡ nhiều ạ, đêm qua chỉ thức có một lần thôi". Con gái nói thêm: "Đêm qua mẹ ngủ say lắm, trưa nay mẹ dùng cơm cũng đã trên lưng bát". Bà Bơ vẫn để ông lão nắm lấy tay mình, than thở: "Thưa, con mắt tuy đã lành, nhưng cái nhìn còn kém lắm, chỉ sợ nó kém mãi thì không làm gì được, ông lại vất vả". Một bà nằm giường bên, cũng ngồi gần đó, bắt chuyện: "Cụ bà cứ sợ con mắt bị hỏng, con cháu phải hầu, thêm bận họ ra". ông Phúc nói rất to: "Bà nhà tôi cứ hay nghĩ quẩn, mình phải hầu hạ chúng nó cả một đời, nay chúng nó phải hầu mình cũng chỉ vài năm chứ mấy. Chả là cái tuổi của chúng tôi cũng sắp được hầu hạ các cụ tôi rồi". Tôi nghe ông anh rể nói chỉ muốn bật kêu lên: "Anh ơi, anh là người đàn ông chung tình nhất. ước gì bọn em được tốt như các anh".
    7. Bà Bơ ở bệnh viện về được vài tháng, con mắt bị mổ sáng lại dần, bà lại đi chợ, lại nấu cơm ngày ba bữa hầu ông, thì ông chồng lại ngã lần thứ hai. Là do ông vẫn đi xe đạp, cái chân đau vừa khỏi lại nhảy lên xe liền, rồi vấp té, tuổi già té xe đâu phải là chuyện nhỏ, nhưng ông lão khoẻ chỉ nằm bệnh viện có mấy ngày, các khớp xương đã hết sưng nhưng phải nằm, như người liệt. Tôi đến thăm thấy ông nằm đọc sách, chăn nệm trắng tinh, vẻ mặt thoả mãn như rất bằng lòng với số phận. Chỗ ông nằm cực kỳ sạch sẽ nhưng cái chỗ của bà nằm bừa bộn như cái bếp. Đúng là cái bếp thật với đủ thứ dụng cụ phức tạp để phục vụ cho cái ăn của người nằm ở phòng trong. Mà hầu hạ một cách tươi vui, như được dịp báo đáp một ân nghĩa rất khó trả. Lần nào tôi đến thăm, chị cũng bảo: "Anh vừa nhắc đến cậu, cứ thấp thỏm đã lâu không thấy cậu đến", rồi bắt ở lại dùng cơm với anh, "Anh ăn một mình buồn lắm". Bữa cơm hàng ngày do chị tôi nấu vẫn rất ngon, nấu ngon hơn nhiều bà vợ. Miếng bít tết thật mềm, bát canh cá dưa thật ngọt, đến đĩa dưa đĩa cà muối cũng thơm ngon lạ thường. Lần nào ngồi vào ăn tôi cũng hỏi: "Thế chúng nó đâu cả?". "Chúng nó" không phải là người của gia đình nhà gái. Không có người nào bên họ nhà gái tới hầu hai ông bà những lần ốm đau, đến thăm thì có, mồm mép đỡ tay chân thì có. "Chúng nó" đây là chỉ mấy người con và cháu của ông anh rể tôi thôi, nhưng gọi thế cho nó thân, vừa thân lại vừa khéo, là không phân biệt con ông hay con bà, là con của cả ông và bà. ông anh rể như có biết cái ý tứ ấy nên ông trả lời: "Cậu tính, bây giờ chỉ có hai vợ chồng già hầu nhau chứ trông cậy thế nào được bọn nó. Tôi đau thì bà hầu tôi, bà đau thì tôi hầu bà. Nói dại, bây giờ bà nhà tôi cũng đau nốt, thì tôi phải tự bò ra bếp nấu cháo nấu cơm chứ còn biết gọi ai". Chắc không chỉ là một câu nói nịnh mà còn là cái tình thực.
    Bao giờ ông anh tôi nói tôi đều muốn ứa nước mắt cả.
    8. Ông anh rể tôi hóa ra phải nằm thật, nằm ở nhà bà vợ vì ông đã quyết định về ở hẳn với bà. Có một lần tôi than thở với chị Đại về cái nghiệp báo nặng nề của chị Bơ một đời người vất vả, đã nghĩ về già được thảnh thơi chút ít lại lẩm cẩm đi rước một người đàn ông xa lạ về hầu, cái số kiếp gì lại đen đủi đến thế. Chị Đại quắc mắt nạt nộ ngay, theo chị hai năm qua là quãng đời đẹp nhất của bà Bơ, được hai năm ấy rồi chết cũng thỏa. Tôi vẫn nhăn răng ra cười, hơn bẩy chục tuổi đầu vẫn phải đi chợ, phải nấu ăn ngày ba bốn bữa, thi thoảng có tạt qua các em, ngồi chưa nóng chỗ đã láo liên đòi về "vì anh ở nhà có một mình", ngày không được nghỉ mà đêm cũng chẳng đẫy giấc, sống như thế lại bảo là rất thoả, có mà điên. Chị Đại nhìn tôi một cách rất khinh bỉ rồi giảng giải:
    -Một đời bà Bơ có cái gì là riêng mình đâu, đến một thằng đàn ông của riêng mình cũng không có. Bây giờ bà ấy đã có một ông chồng, là của riêng bà ấy, là mon homme,là ông nhà tôi, ông xã nhà tôi, nó vui lắm, hãnh diện lắm, không nói ra nhưng cứ nhìn mặt là tao biết. Hầu hạ một ông già nửa liệt nửa què mà mặt tươi hơn hớn như người vừa bắt được của, mắt mày mù hay sao mà không nhận ra? Còn tao ấy à, tao lại khác, tao lấy chồng từ năm mới mười bẩy tuổi, ăn ở với nhau trên năm chục năm mới dứt được cái nợ đời. ở với nhau lâu quá tức là nợ, hầu một thằng đàn ông trên nửa thế kỷ lắm lúc muốn phát điên lên, nó chán quá, nhàm quá, ngày nào cũng làm từng ấy việc, nói từng ấy câu, giận hờn nhau cũng là trong bài bản đã quen thuộc. Chán muốn chết! Nên đã có lần tao đi mẹ nó sang Mỹ, ở cả năm với con gái và con rể, trông con cho chúng nó, để cho đời nó khỏi nhàm. ồ, lại ra là thế! Hình như là thế thật vì có thấy chị Bơ tôi phàn nàn gì về những vất vả của chị đâu, mà lại còn vui lắm, lại chẳng ốm đau gì, cứ khoẻ re, mắt như sáng dần, đi lại phăm phăm, nói năng cũng nhiều hơn và hoạt bát tinh tường hẳn. Cái sức mạnh thầm kín nào đã khiến một bà lão trẻ hẳn lại, vui hẳn lại có vẻ ham sống hơn trước, còn dám tính toán cả những chuyện của tương lai? Là tình yêu chăng? Này, các bạn trẻ, các bạn chớ vội cười, các bạn chớ có nghĩ một cách tự phụ rằng chỉ ở lứa tuổi của các bạn mới biết mãnh lực của tình yêu. Không nên chủ quan như thế! Các bà nội cũng vẫn có, nếu như cái ma lực ấy các cụ không tiêu xài quá phung phí lúc thiếu thời.
    9. Trong số các bà chị và các ông anh đang sống ở thành phố, tôi rất thích đến thăm và tán chuyện với chị Bơ và ông chồng rất tốt bụng của chị. Cũng như trước đây tôi đã nghiền đến chơi với chị Hoàng, dầu rằng mỗi lần gặp, chị đều trêu trọc tôi, chửi thẳng chửi xéo tôi vì tôi là thằng cộng sản rắn mặt như lời đồn đại trong họ. Chị chửi tôi nhưng chị chửi có duyên quá nên tôi vẫn năng đến. Đến với chị Bơ tôi lại có một nhu cầu khác. Tôi lặng lẽ ngắm nghía ông anh rể ngồi lom khom trên ghế, cây gậy kẹp trong đùi, vừa nhìn vợ làm cơm, vừa kể chuyện Đông Tây kim cổ, chuyện vui mà cả chuyện buồn, giọng kể ngọt ngào, âu yếm, còn bà vợ chạy lui chạy tới, quay trước quay sau, hai bàn tay không lúc nào ngưng nghỉ, chốc chốc lại quay trở lại phía chồng, hỏi một cách ngây thơ, một cách nũng nịu: "Lại ra thế hả ông?", "Con người đẹp thế, tốt thế lại phận bạc ông nhỉ? " ăn cơm xong, ông ngồi hút thuốc lá, bà ngồi sát cạnh, đặt bàn tay gầy guộc nhăn nheo lên đùi chồng, ông chồng nắm chặt lấy bàn tay ấy, nắm bóp các ngón và trò chuyện với tôi, thỉnh thoảng lại hỏi vợ: "Ngón tay bà sao lạnh thế, lòng bàn tay cũng lạnh, bà đưa hộp dầu tôi xoa cho". Lạy trời cho anh chị tôi được sống thêm mươi năm nữa, cho đời thêm ấm áp, thêm đẹp. Và tôi thầm cảm ơn chị Đại, một bà chị hễ mở miệng nói là ai cũng ngán nhưng ai cũng thương vì khẩu xà mà tâm Phật. Chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nẩy nở được những cái mầm yêu thương đang bị thui héo ở đâu đó.

    Ngày 27/11/89
     
  20. 4DHN

    4DHN Tiêu Dao

    Truyện Bức tranh thiếu nữ áo lục – Quế Hương


    Cuộc đời, sự nghiệp của người họa sĩ tài hoa thăng trầm như những gam mầu ẩn hiện trên bức tranh. Đã có thời ông đạt đến đỉnh cao danh vọng và giàu có nhờ những bức tranh đẹp được ưa chuộng khắp nơi nhưng vô hồn và xa lạvới ông. Chính xu hướng thương mại hóa đã cướp đi niềm say mê sáng tạo và hạnh phúc của người họa sĩ. Những ngày cuối đời, mặc dù sức lực đã cạn kiệt, nhưng thiên nhiên thoáng đãng, tươi tắn với con người trong sáng vô tư, đã trả lại cho ông khả năng và lòng ham muốn tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật và ông đã vẽ nên một kiệt tác – Bức tranh thiếu nữ áo lục.

    Đó là một du khách đặc biệt, ông ta thường có mặt ở lăng rất sớm, không qua cửa chính, bởi người bán vé vào thăm lăng gần tám giờ mới làm việc, còn ông, bằng cách nào đó đã đi dạo trên những con đường rợp bóng thông, tùng, sứ, nhãn từ sớm tinh mơ, khi cái hoàng cung u trầm, diễm lệ của vị vua đã khuất còn chìm trong màn sương. Có khi ông còn làm việc trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt của đêm chưa hẳn qua, ngày chưa hẳn tới. Mắt mở căng, ông cố nắm bắt một chút lạnh lẽo, ẩm ướt, run rẩy, tái xám của thứ ánh sáng ma quái bằng những nhát cọ khắc khoải, bướng bỉnh cho đến lúc tóm bắt được nó trên lụa trước khi nó vuột vào rạng đông.

    Khi hoàng cung của cõi chết bắt đầu hiện ra rỡ ràng, diễm lệ dưới ánh dương quang, họa sĩ ngừng taỵ Ông ngồi dựa vào thân cây, trang nghiêm, tĩnh mặc như một kẻ thiền tọa, lắng nghe như uống từng giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ của lũ chim sớm. “Ta trồng nơi đây nhiều cây để gọi chim về… “, vị vua chủ nhân lăng từng ước muốn như vậy ở văn bia. Đối với họa sĩ, khoảnh khắc ấy thật kỳ diệu. Nỗi đời tan biến và ông đắm chìm trong bản hợp xướng tuyệt vời của các chú chim bé bỏng. Chính giữa lúc ấy ông bỗng nghe một tiếng thở dài, ông giật mình nhìn quanh. Chẳng có ai ngoài ông và lũ chim.

    Càng ngày họa sĩ càng cảm thấy ông không chỉ một mình trong sớm tinh mợ Có ai đó luẩn quẩn quanh ông. Một tiếng chân, một tà áo mơ hồ như ảo giác đã làm ông mất thanh thản. Đôi khi ông tưởng như nhìn thấy một đôi mắt trong lùm cây trước mặt, một đôi mắt đen hơm mầu đêm, nhìn ông chăm chắm. Bấy giờ ông không làm việc được nữa. Cây cọ vẫn mơn man trên nền lụa nhưng trái tim ông thì đang rình rập. Ông chơi trò cút bắt với một cái bóng. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện, đằng trước, đằng sau… và bao giờ cũng đè nặng lên ông cái nhìn trĩu nặng và nóng bỏng. Thế mà chủ nhân cái nhìn là cô bé mười lăm mười sáu tuổi, một cô bé như bước ra từ một bức tranh cổ với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời, tay đầy hoa sứ, người sực nức mùi thơm ngọt đậm. Ông đang túm vạt áo mầu lục của cô, còn cô thì run rẩy như một cọng cỏ. Họa sĩ bật cười ha hả. Kẻ rình ông và ông rình lại chỉ là một cô bé đứng thấu ngực ông! Buông áo cô ra, ông ngắm cô từ đâu đến chân, lập tức cô bỏ chạy. Vệt cỏ sáng lung linh rồi khuất trong mầu cây. Ông mơ hồ nghe vọng tiếng lục lạc.

    Họa sĩ ra đi thật sớm từ ngày gặp cộ Ông ước ao thực hiện một bức chân dung về cô bé lạ lùng kia, cô bé như một mảnh cổ kính vỡ ra từ đâu đó quanh đây. Thức dậy cùng tiếng chuông chùa, ông có mặt ở lăng khi nó chưa tỉnh ngủ. Ông biết ông không chỉ một mình nhưng nếu ông quay lại lập tức ông chỉ thấy một ảo ảnh, một mảng lục non mơ hồ thấp thoáng trong sương. Càng ngày ông càng thiết tha được vẽ ảo ảnh đó. Có lần ông thử vẽ phác cô căn cứ vào khoảnh khắc đối diện lần đầu nhưng ông không thể nhớ nổi. Gương mặt cô nhạt nhòa và ông chỉ phác họa một cái bóng cũng nhạt nhòa như thế dưới câyđại nở đầy hoa, giữa chòm lâu đài, miếu tạ nên thợ Khi ra về, ông để phác họa lại. Sáng hôm sau, nó vẫn ở đấy nhưng được buộc bằng một dải lụa. Mở ra, ông thấy cô bé đã nhốt mình lại bằng một dãy tường thành lởm chởm gươm nhọn. Thỉnh thoảng, từ những viên gạch rêu phong ló ra một đầu người, khuôn mặt dữ dằn khắc nghiệt. Còn những công trình kiến trúc xinh xắn quanh cô thì bị bôi đen ngòm trông như những nấm mồ, ông sững sờ, cô bé chỉ đứng thấu ngực ông có phải là một cô bé không nhỉ? Tiếng thở dài, rồi bức tranh này nữa! Những gì ông thể hiện hoàn toàn đối nghịch với ông. Chốn lăng tẩm nên thơ dưới mắt ông trở thành một mộ địa thực sự dưới mắt cô – lạnh lẽo, âm u, tàn nhẫn. Ông lại nhìn bức tranh gần hoàn thành trên giá. Lềnh bềnh trong sương, nom nó như được vớt lên từ cõi chết, nhợt nhạt trong ánh sáng yếu ớt rồi dần ửng hồng, rõ nét, rõ ràng khoe với ngày yên bình. Ông đã ra đi bao ngày trong sương sớm giá buốt, trong tờ mờ tranh tối tranh sáng để cố bắt kịp khoảnh khắc giao thoa giữa ngày – đêm, sống – chết, vui – buồn… Nhưng bây giờ nom nó chỉ là một tác phẩm cùng – kiểu – với – mọi người, tái hiện một vẻ đẹp được thừa nhận. Còn cô, tại sao cô lại phủ nhận.

    Mấy tuần nay, cô đã dám thơ thẩn nhặt hoa sứ gần ông. Thường khi ông vẽ thì cô ngồi chơi với đống hoa rụng. Cô sắp chúng thành một con chim xoạc cánh, một dãy núi, một cây thông…

    ông nói với cô:

    – Em sẽ vẽ được đấy.

    – Nhưng em không vẽ như ông. Chán chết!

    – Em muốn vẽ gì?

    – Cỏ.

    Họa sĩ lấy quyển sổ phác họa, vẽ cho cô một con đường mờ mịt, khuất lấp sau ngọn cỏ. Cô lắc đầu:

    – Cỏ đám cưới kia.

    Rồi cô chạy đi và trở về bên ông với đôi tay đầy hoa dại. Cô tung chúng lên cỏ.

    Thế là ông vẽ cỏ – đám – cưới. Hoa tóc tiên rực rỡ mầu nhưng thắm, hoa ngũ sắc đỏm đáng. Hoa bâng khuâng mơ màng. Hoa lồng đèn ngộ nghĩnh… Chúng cưới nhau trên cỏ, khiêu vũ, đùa chơi, gối đầu trên cỏ. Hai mươi năm cầm cọ, họa sĩ chưa bao giờ vẽ một cái gì tươi tắn giản dị, rạo rực sức sống dường kia. Mầu sắc cứ tuồn tuột khỏi tay ông, chạy ào vào bức tranh, chúng tự tìm chỗ, hối hả reo vui trên nền cỏ rạo rực. Họa sĩ như lành bệnh hẳn sau đợt tranh vẽ cỏ. Ông theo cô vào thế giới cỏ bất tận, đầy bí ẩn giàu tưởng tượng của cộ Sau này khi ông mất, người ta tìm thấy rất nhiều tranh cỡ nhỏ vẽ cỏ. Chúng chẳng bao giờ giống nhau và cũng chẳng chỉ mầu xanh. Họ đặt chúng sang một bên, chép miệng: “vớ vẩn”.

    Đã đầu đông, trời có những ngày se lạnh, ông vẫn lên lăng, ông lên chơi với cô bé. Giữa họ không tuổi tác, khoảng cách, thời gian. Sáng nay, đứng cách nhau nửa sải tay, ông bàng hoàng nhận ra cô bé lớn nhanh quá. Cô thiếu nữ mười lăm mười bảy hai mươi và bây giờ, trước mặt ông, nom cô như một thiếu phụ héo hon, bất hạnh. Phải vẽ nhanh kẻo không kịp nữa, ông nhủ thầm.

    – Này em, tôi muốn vẽ em trên cỏ và sau đó em đặt một cái tên gì đó tùy em. Nhưng phải mau lên, kẻo tôi vẽ bà già mất!

    – Thì em “già rồi”! – Cô cười, hé những chiếc răng tựa ngọc.

    Thiếu phụ biến mất. Trước mặt ông lại là cô bé, nom như cọng cỏ, một cô bé thơ ngây và xa lạ, cô đơn và lạc lõng, như đi ra từ một câu chuyện xa xưa. Ông bối rối ngơ ngác.

    – Khi vui em trẻ, khi buồn em già. Ông đừng để ý.

    – Bé như em có chi mà buồn?

    – Em chẳng làm được chi theo ý em. Cô xịu mặt.

    – Thế em muốn chi?

    Cô nói lảng:

    – Sáng nay cỏ rét đấy!

    – Sao em biết?

    – Chúng xanh ra.

    – Em có rét không? Em mặc phong phanh quá!

    ông cởi áo khoác choàng lên vai cộ Cô rùng mình. Bàn tay cô như muốn hất ra, nửa như bấu chặt. Cô lắp bắp:

    – ấm quá… ấm quá… Em chưa khi mô ấm như thế ni.

    – Cho em luôn đó.

    – Em không được nhận. Em phải đi đây. Mai ông đến không?

    – Nếu em chịu ngồi cho tôi vẽ?

    – Nhưng phải sớm nữa kia.

    – Sớm quá làm sao thấy em. Ngày mai em có muốn tôi đem gì cho em
    không? Kẹo, búp bể Cho em đừng mau lớn quá.

    – Không! Em chỉ muốn ra ngoài kia. Cô chỉ tay về phía núi xanh xanh – và…
    đi với ông. – Em chưa hề đi với người đàn ông nào cả.

    – Mai ta đi.

    – Em không được phép.

    – Trốn!

    – Không trốn được.

    – Tường thấp lắm. Tôi sẽ đỡ em trèo.

    Nhưng cô sợ hãi thật sự. Mặt cô tái mét. Mắt nhìn ngược xuôi. Ông chợt nhớ những đầu người dữ dằn ló ra từ những viên gạch cô vẽ và sự khiếp sợ của cô như luồng gió tạt qua làm ông rùng mình. Đó là buổi cuối cùng ông gặp cô trên lăng.

    Khi cô đi rồi, ông trở về nhà, từ lăng đến chỗ ông ngụ Ở làng Dương Xuân Thượng không xa lắm. Người bác già càu nhàu: “Mi là thằng điên. Đi chơi sớm rứa có đi chơi với mạ Đi về sớm rứa có vẽ người chết. Trời đất thì độc địa. Mấy chỗ đó thì đầy âm khí. Vua mô mất cũng hàng chục tá đàn bà con gái theo hầu, suốt đời hương khói… “. Người bác bỏ lửng câu nói, vấn điếu thuốc Cẩm Lệ rồi bặt luôn, đứng dậy đi ra vườn.

    ông vào phòng mở tung mọi cánh cửa. Sớm mai phảng phất mùi mít chín cây. Chiếc bàn nhỏ bừa bãi thuốc lá, sơn cọ. Góc phòng có một bức tranh đậy sùm sụp mảnh vải. Ông đến giật tấm vải phủ. Người đàn bà trong tranh trần truồng tắm nắng mai, mắt nhắm nghiền, gương mặt nhăn nhúm. Thoạt đầu ông chỉ muốn tái hiện gương mặt người vợ khi bắt gặp nàng trong tay “vị – cứu – tinh”. Mắt trừng trừng, những nhát cọ sắc như dao, ông rạch trên mặt vải những đường nét biến dạng của một gương mặt no nê khoái cảm để nó không còn trú ẩn trong tâm thức ông nữa. Mỗi ngày, ông đứng bảy đến tám giờ bên giá vẽ. Nhưng càng vẽ, nỗi căm thù, khinh bỉ càng biến mất. Chỉ còn ông và hội họa của ông. Người đàn bà trong tranh không còn là hình ảnh của vợ Ông nữa, đó chỉ là một người nữ đang sống những phút mê đắm trần thế phù du, gương mặt nhăn lại như đau đớn. Một đợt sóng buồn âm u thương cảm trào dâng làm dịu dần những nhát cọ của ông, làm khinh phiêu những sợi tóc rối của người đàn bà, khiến nàng bơi trong làn ánh sáng dữ dội và mê hoặc.

    Ngày cuối, khi đường cọ sau cùng, kiệt sức và trống rỗng, ông bàng hoàng nhận ra đó là một tác phẩm đẹp nhất của ông, ông đã trút cạn ở đó nỗi đắng cay và nguồn sinh lực, sự thống khổ và niềm đam mệ Từ lâu ông không làm việc như thế. Từ lâu ông đã vẽ – như ngủ. Đôi tay tài hoa của ông điều khiển lấy mọi việc. Chúng làm đủ trò ảo thuật trên vải. Kỹ thuật càng tinh tế, tranh ông càng toát ra cái vị vô hồn. Chúng không có những ngóc ngách bí ẩn. Không có nguồn sinh lực tiếp máu cho hình khối, mầu sắc, đường nét. Những điều đó, dường như chỉ mỗi mình ông nhận thấy bởi chúng vẫn thường được ca ngợi, ham chuộng và biến thành những chồng tiền rất dày. Chúng nhìn ông với vẻ ngạo nghễ, xa lạ. Tranh ông ngày càng có mặt ở nhiều gallery trong nước và nước ngoài. Cha đẻ của chúng thì không hề thấy. Chỉ người vợ gương mặt trang điểm kỹ lưỡng như đeo mặt nạ, nụ cười đông cứng chuẩn mực trên môi và một người đàn ông lịch sự, nói tiếng Anh như gió, luôn tràn trề vẻ xót thương và lòng tận tụy trong việc bồi đắp tiền bạc, danh vọng cho ông. Vợ Ông gọi hắn là “vị cứu tinh”. Càng giàu có, người ta càng thấy họa sĩ lang thang trên đường phố, như một kẻ vô gia cư, áo quần lôi thôi, tóc tai bù xù. Có khi ông biến đi đâu cả hai ba ngày, đám bạn bè thừa thãi lời khen và bia bọt không thể nào thấy được. Chỉ có lũ chim sẻ biết. Ông cho chúng ăn, thì thầm trò chuyện với chúng. Sau hai, ba ngày, ông ló đầu ra, tóc tai đầy mạng nhện, quẳng xuống từ căn gác xép sát mái mấy bức tranh vẽ những mảng trời không yên tĩnh bé bằng manh chiếu, những bức tranh vợ Ông cằn nhằn vì bán không chạy. Có lần bà bắt gặp ông ở họa phòng vào hai giờ sáng, ngọn nến trước mặt, lầm thầm trước một khung tranh trắng toát, còn những hình nhân trong bức tranh quanh ông thì như lũ âm binh, vàng vọt, dài thượt, leo lét nhảy múa dưới ánh nến. Họa sĩ cầm nến dí vào chúng với vẻ ghê tởm. Vợ Ông hét lên. Từ đó ông trở thành bệnh nhân của bệnh viện tâm thần. Giới hội họa xôn xao bàn tán. Họ gọi đó là số phận thiên tài. Còn “vị cứu tinh” thì được dịp chứng tỏ lòng tận tụy.

    Quả từ khi có hắn, tiền bạc vào nhà ông như nước và ngược lại, nước cuốn theo sự đói nghèo, yên bình, đam mê sáng tạo và cả hạnh phúc.

    Vâng! Nếu không có “vị cứu tinh” xuất hiện vào một chiều mưa tám năm về trước, ở gallery tẻ lạnh của ông thì bây giờ ông không ở đây mà bên cạnh vợ con hoặc trong cái chòi nhỏ sau vườn, nơi ông đắm chìm trong đơn độc sáng tạo. Anh ta đến chỉ tình cờ núp mưa và chợt rùng mình trước những bức tranh ế ẩm của người họa sĩ vô danh có vẻ mặt đăm chiêu, khắc khổ. Vốn sống bằng nghề môi giới tranh, anh ta đánh hơi mình sẽ được gì từ cái gallery thưa thớt mấy người này. Anh ta trở lại với một trùm buôn tranh tầm cỡ quốc tế, đặc biệt sính tranh á Đông. Ngày hôm đó, họa sĩ đem họ về nhà. Ông lôi ra từ dưới gầm giường, trên mái, trên vách những bức tranh chưa hề được triển lãm. Chúng nóng hôi hổi như những viên hồng ngọc thô mới lôi lên từ lòng đất. Hai vị khách ngồi chồm hổm, có khi gần như bò để xem tranh. Chúng nằm la liệt trên sàn nhà, chẳng khung, chẳng tên nhưng cõi người nặng trĩu, ngọn gió hư vô xào xạc trong vô thanh cứ làm họ bàng hoàng. Tất cả ngồn ngộn một sức sống mãnh liệt ứ trào khỏi mầu sắc và hữu hạn.

    Từ đó cuộc sống ông không còn là của ông nữa. Tiền bạc, danh vọng ùa vào trong nhà ông như một lũ xâm lăng. Chúng làm mất quân bình mọi cái, khuân đi mọi cái, thay đổi mọi cái. Ngay cả ông cũng không còn nhận ra vợ con, bạn bè mình. Họ đẹp ra, sang ra, thân tình hết mực nhưng… hoàn toàn xa lạ!

    Bây giờ ông ở đây sau khi li dị. Ra tòa vợ Ông là kẻ thắng thế vì nghiễm nhiên ông là kẻ suy nhược thần kinh nặng trước mọi người và cả y học.

    Thoạt đầu ông định nghỉ ngơi ở Huế vài tuần nhưng ông đã ở nửa năm và không muốn đi nữa. Ông không ngừng ngạc nhiên trước những tặng vật nho nhỏ của thành phố này. Một bông hoa dại hồn nhiên nở trong búi cỏ trên vỉa hè lát đá của một đại lộ. Ngôi nhà hoang phế liêu xiêu, cánh cửa rục rã, mái trĩu thời gian vẫn tự tại có mặt bên cạnh những ngôi nhà kiến trúc kiểu mới như một đại diện của quá khứ. Ông lãng đãng mơ màng trong không khí trầm lắng, êm ả, trong nhịp điệu từ tốn, chậm rãi của thành phố đứng bên lề sự chuyển động chóng mặt của thời đại. Ông lang thang khắp chốn Huế từ tốn, lặng lẽ hồi sinh cho ông.

    *

    ông bắt tay vào việc thực hiện chân dung thiếu nữ áo lục lúc Huế thật sự bước vào mùa đông. Không gian trắng xóa mưa buồn, lê thê giọt vắn, giọt dài sướt mướt. Trời lạnh như cắt. Người bác già co ro xuýt xoa bên cái lồng ấp nhỏ bằng tre ủ những cục than hồng. Còn ông, ông đóng cửa và bắt đầu vẽ.

    Chưa bao giờ ông làm việc khó khăn đến thế. Mấy lần thay lụa, cô vẫn như cái bóng không nắm bắt được. Khái niệm về thời gian và tuổi tác không tồn tại nơi cộ Ông hình dung cô lúc mới gặp, cô thiếu nữ trẻ măng, bối rối thì cô lại hiện trên vải như một thiếu phụ, khóe miệng cay đắng, đuôi mắt li ti vết chân chim. Có lúc người thiếu phụ ấy lại như cọng cỏ mùa xuân xao xuyến, áo mầu lục non, ánh mắt cháy bỏng… Cô hiện ra lung linh và bất định, lúc già, lúc trẻ, lúc buồn, lúc vui, lúc rõ như sờ nắn được, lúc nhạt nhòa mơ hồ như một ảo ảnh đến nỗi ông có cảm tưởng ông bệnh và cô chỉ là một ảo giác của người bệnh. Bức chân dung về cô mấy tuần rồi vẫn dừng lại ở cái nền và y trang. Buông cọ vì bất lực, ông mặc áo ấm và đi lên lăng. Từ sau buổi sáng ấy, ông không còn được gặp cô nữa. Lúc đó đã bốn giờ chiều. Trời thật rét. Chẳng có du khách, cũng chẳng có cô, chỉ có những tượng đá trầm mặc và ngàn thông rũ tóc khóc than. Sự quạnh vắng của cõi chết thật khủng khiếp. Ngồi một lúc ông đứng dậy ra về, và đúng lúc đó, ông trông thấy cộ Cô đứng trầm ngâm bên hồ bán nguyệt, lặng lẽ nhìn về phía núi. Trời lạnh mà cô vẫn phong phanh tấm áo mỏng. Mừng rỡ ông kêu lên. Ông vừa chạy vừa gọi. Tiếng chân ông dội vào hoang vắng. Tiếng gọi của ông loãng trong tiếng thông xào xạc. Ông chạy và cảm thấy khoảng cách giữa ông và cô không ngắn lại. Lật đật ông vấp té. Khi đứng dậy, cô không còn ở đó nữa. Tuyệt vọng, ông tựa vào bờ thành thở hổn hển. Hơi thở phả ra lập tức biến thành khói trắng tan trong lạnh giá.

    Tối hôm đó ông bị Ốm. Người bác già vừa nấu cháo hành giải cảm vừa lầm bầm gọi ông là thằng điên. Vùi trong chăn, ông mơ hồ nghe tiếng gõ vào cửa kính. Mưa đấy. Ông thầm nhủ. Nhưng không phải mưa. Một que diêm, hai que diêm lóe lên và ông thấy một gương mặt nhòe nhoẹt nước áp vào cửa kính. Ông nhận ra đó là gương mặt ông đã hoài công tái hiện trong tranh. Run rẩy, ông ngồi dậy. Không kịp bật đèn, đi chân trần, ông đến mở cửa. Một tấm thân mảnh mai, sũng nước đổ ập vào ông. Ông dìu cô đến giường và bật ngọn đèn ngủ. Cô tơi tả như một cành hoa trong mưa gió. áo quần ướt đẫm, tóc bết dính, cái lồng ấp nhỏ trong tay cô cũng tắt ngúm và đầy nước; chỉ có đôi mắt cô là như hai hòn than rực cháy sự liều lĩnh, thách thức. Ông lấy áo quần mình tự thay cho cộ Tay ông chạm vào làn da mịn bóng như sa tanh phảng phất hương trầm. Cô nhắm nghiền mắt, lả đi trên gối, phập phồng thổn thức dưới tay ông. Thay áo cho cô xong, ông kéo chăn lên tận cằm, bước xuống tìm nến. Ông tắt đèn thắp hết nến lên và quỳ xuống bên cô, nâng gương mặt cô trong taỵ Bây giờ ông có thể chạm nó như một thực thể, thấy rõ từng nét mày, khóe môi, cả nốt ruồi son bên cánh mũi. Dưới ánh nến, được rửa bằng nước mưa và nước mắt, gương mặt đó sáng rỡ vì hạnh phúc, nồng nàn, trẻ măng. Ông kéo giá vẽ lại gần. Trong bức tranh gần hoàn thành ông vẽ gương mặt thiếu nữ áo lục. Ông làm việc mê man. Khi ông rời nó, cô đã ngủ. Trong giấc mơ, cô lắp bắp những lời vô nghĩa đối với ông:
    – Tử Cấm thành… xin lửa… đêm đông chí…
    Tắt những ngọn nến, ông nằm xuống bên cô.

    *

    Sáng hôm sau, họa sĩ dậy trễ. Người bác bưng ly sữa đến tận phòng. Ông càu nhàu khi thấy cửa không cài. Cái thằng đãng trí đã để gió lùa suốt đêm. Ông đến lay đứa cháu còn nằm trong chăn ấm. Lập tức ly sữa lai láng trên nền. Ông già mếu máo kêu lên. Nhưng căn phòng rộng trong khu vườn mít chỉ có hai người. Một nằm đó, bình yên như ngủ, thân thể lạnh giá. Một đứng đó, mếu máo cô độc. Bên cạnh họ là bức tranh chưa ráo sơn trên giá. Người thiếu nữ trong y trang mầu lục, cổ đeo kiềng vàng, tươi tắn như chiếc lá mùa xuân. Quanh cô, dờn dợn một biển cỏ. Trước mặt, một rặng núi xanh. Gió lạnh tạt vào phòng, gờn gợn bức tranh lụa. Người đàn ông già kinh hoàng dụi mắt. Ông thấy một cái bóng nữa bên cô, nhạt nhòa, cao lớn. Cả hai sóng đôi chạy về phía núi.

    Nhận được tin ông mất, người vợ cũ và “vị cứu tinh” ra Huế ngay lập tức. Họ không để ý người chết. Họ để mắt tới những bức tranh nhất là bức tranh thiếu nữ áo lục. Họ gói ghém chúng cẩn thận. Chúng sẽ theo họ về bằng máy bay.

    Khi hai người thận trọng tháo gỡ giấy bọc để trình bày với giới mua tranh kiệt tác cuối cùng của họa sĩ tài ba, họ kinh hoàng nhận thấy thiếu nữ áo lục đã mất mặt. Gương mặt diễm lệ, tươi tắn dường kia chỉ còn là một khoảng trống không đường nét, không mầu sắc, một khoảng trống thật tệ hại trong bức tranh đáng lẽ thật toàn bích.
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này